tinh giẢn 2% biÊn chẾ hÀnh chÍnh nĂm 2019cchccantho.gov.vn/sonoivu_files/files/2018/ban tin...
TRANSCRIPT
Từ thực tế xuất hiện sức ì ngày càng lớn, cản trở mục tiêu cải thiện môi trường kinh doanh,
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nêu rõ quan điểm “Không thể để tình trạng không
làm cũng không sao, làm việc không tốt cũng không sao; chúng ta không thể dung túng cho sự
thờ ơ, thiếu trách nhiệm, thiếu sự nỗ lực của cán bộ, công chức”, đồng thời người đứng đầu
Chính phủ cũng nhấn mạnh các yêu cầu đặt ra về cải cách thể chế, xây dựng cơ chế chính sách;
nêu rõ những gì đang cản trở người dân, doanh nghiệp, cản trở sức sản xuất cần phải loại bỏ; nền
kinh tế phải lấy mục tiêu hiệu quả làm đầu.
Đồng thời yêu cầu các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, triển khai quyết liệt chủ trương, chỉ
đạo về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả gắn với tinh giản biên chế; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chấn chỉnh kỷ luật kỷ
cương hành chính; nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ,
công chức trong hệ thống cơ quan công quyền;…
Trong thực hiện nhiệm vụ công tác, Thủ tướng đề nghị các thành viên Chính phủ, lãnh đạo
địa phương phải đánh giá đúng tình hình, thực trạng triển khai nhiệm vụ của bộ, ngành, địa
phương mình để phát huy hơn nữa những kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế,
tiếp tục tổ chức, chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao./.
Nguồn: baochinhphu.vn
Cùng viết về sự kiện Hội nghị trực tuyến toàn quốc của Chính
phủ đánh giá tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, triển
khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2018, Bản tin điện tử Cải cách
hành chính của Chính phủ xin tổng hợp một số bài viết nổi bật
của một số báo:
TINH GIẢN 2% BIÊN CHẾ HÀNH CHÍNH NĂM 2019
Chiều ngày 02/7, tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương, Bộ trưởng Bộ Nội
vụ Lê Vĩnh Tân đề nghị năm 2019, Thủ tướng Chính phủ giao chỉ tiêu tinh giản biên chế cho các
cơ quan hành chính khối công chức là 2%.
Bởi trong 4 năm chỉ giảm có 4,6% nên trong 3 năm còn lại đòi hỏi phải giảm mỗi năm 1,8%
thì mới đạt mục tiêu giảm ít nhất 10% theo Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị. Đối với
khối sự nghiệp, giữ nguyên tỷ lệ tinh giản 2,5% biên chế trong năm 2019.
1
Bộ Nội vụ sẽ trình Thủ tướng Chính phủ để giao biên chế cho các bộ, ngành, địa phương
ngay trong ngày 20/7, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân thông tin.
Để thực hiện tinh giản biên chế, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân đề nghị Thủ tướng Chính
phủ sớm ban hành nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 108/2014/NĐ-CP của Chính phủ về
chính sách tinh giản biên chế mà Bộ đã lấy ý kiến theo hướng đẩy mạnh phân cấp cho địa
phương để giải quyết vấn đề tinh giản biên chế. Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân đề nghị các bộ, ngành,
địa phương báo cáo kịp thời để Bộ Nội vụ tham mưu với Chính phủ có giải pháp kịp thời xử lý
các trường hợp bổ nhiệm, tuyển dụng, luân chuyển cán bộ không đúng quy định.
“Chúng tôi nhận được báo cáo số vi phạm rất ít nhưng ngược lại, khi kiểm tra các bộ, ngành,
địa phương thì số vi phạm rất nhiều”, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân lưu ý và đề nghị các bộ, ngành, địa
phương chỉ đạo, rà soát và xử lý thực hiện đúng Thông báo số 43 của Trung ương về xử lý các
trường hợp bổ nhiệm, tuyển dụng, luân chuyển cán bộ không đúng quy định. Đến nay, Bộ mới
nhận được báo cáo của 15 bộ, 34 tỉnh về vấn đề này.
Về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, cấp huyện, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân cho biết, cả
nước có 16 huyện phải sắp xếp lại với tổng cộng 637 xã. Bộ trưởng đề nghị các địa phương có kế
hoạch thực hiện ngay việc này để báo cáo Chính phủ, xin ý kiến Bộ Chính trị về chủ trương
chung để thực hiện.
Về đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập, theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, nhìn
chung các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương chậm triển khai các nhiệm vụ được
giao theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp
công lập và Quyết định 695/QĐ-TTg về kế hoạch triển khai Nghị định 16.
Sau hơn 3 năm, từ tháng 2/2015 đến nay, các Bộ mới trình Chính phủ ban hành 2 Nghị định
về cơ chế tự chủ trong lĩnh vực về khoa học công nghệ, sự nghiệp kinh tế và một số lĩnh vực
khác. Hiện còn 6/8 Nghị định trong các lĩnh vực về y tế, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học,
giáo dục nghề nghiệp, thông tin truyền thông và văn hóa chưa được ban hành. Bộ trưởng Đinh
Tiến Dũng đánh giá như vậy là "quá chậm".
Cũng theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, hiện mới có lĩnh vực y tế mới ban hành
khung giá dịch vụ ở cơ sở khám bệnh, các lĩnh vực khác chưa được triển khai. Nếu tiến độ thực
hiện như thời gian vừa qua, khó có thể thực hiện đúng mục tiêu theo tinh thần Nghị quyết 20-
NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6. Từ đó rất khó tạo cơ sở để thực hiện các mục tiêu cải cách
tiền lương và bảo hiểm xã hội.
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ khẩn trương xây
dựng các Nghị định theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 6, Trung ương 7; các địa phương
tập trung xây dựng, hoàn thiện đề án quản lý, sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập,
tăng cường phân cấp, giao quyền tự chủ.
2
Thông tin về việc sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế trong ngành mình, Bộ trưởng Bộ Tài
chính cho biết, Bộ Tài chính quyết định giải thể 43 phòng giao dịch tương đương với các chi cục
thuộc Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh từ ngày 01/6/2018 và tiếp tục sắp xếp, rà soát lại các chi cục
thuế, hải quan, tổng cục dự trữ... theo khu vực để giảm đầu mối, nâng cao hiệu quả lao động.
"Chúng tôi cam kết từ nay đến năm 2020 sẽ giảm 50% chi cục thuế trên tổng số 548 chi cục
thuế hiện có trong toàn ngành. Trong quá trình này, đề nghị các địa phương ủng hộ, phối hợp với
Bộ Tài chính triển khai thực hiện việc sắp xếp lại các cơ quan tài chính trên địa bàn, đảm bảo
đúng lộ trình, đảm bảo hoạt động, không ảnh hưởng thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo tài chính,
ngân sách", Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đề nghị.
Về vấn đề này, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam cho rằng phải hiểu đúng Nghị quyết
của Trung ương, là sắp xếp, giảm biên chế của bộ phận gián tiếp dư thừa. Theo Phó Thủ tướng
Chính phủ, cần đặc biệt lưu ý tình trạng thừa giáo viên nhưng thiếu cục bộ ở các nơi vì giáo viên
bậc phổ thông phải tùy từng ngành, từng môn và từng địa bàn. Không thể điều giáo viên từ
huyện này sang huyện khác, nên chỗ thừa cần loại ra dần hoặc chuyển đổi theo thời gian, nhưng
chỗ thiếu vẫn phải bổ sung, nguyên tắc là phải đủ giáo viên cho học sinh.
Nguồn: baotintuc.vn
ĐÃ TINH GIẢN BIÊN CHẾ ĐƯỢC 34.700 NGƯỜI
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết như vậy tại phiên họp
trực tuyến của Chính phủ với các địa phương ngày 02/7.
Theo đó, các cơ quan hành chính tinh giản biên chế hơn 4.200 người, đơn vị sự nghiệp công
lập là hơn 24.700 người, công chức cấp xã là hơn 5.700 người.
Ngoài ra, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cũng cho hay, đã sắp xếp lại giảm 15 vụ thuộc Bộ, 189
phòng thuộc vụ, cục.
Riêng Bộ Công an đang sắp xếp theo hướng không còn 6 tổng cục, giảm từ 125 đơn vị cấp
cục xuống còn 60, giảm 20 sở cảnh sát PCCC, giảm hơn 1.000 cấp phòng thuộc các cơ quan cục,
vụ và công an các tỉnh.
Tới thời điểm này mới có 30 trung tâm hành chính công (trực thuộc UBND tỉnh và Văn
phòng UBND tỉnh).
Quảng Ninh là địa phương được đánh giá cao về cải cách hành chính khi thực hiện mô hình 4
tại chỗ: tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt và trả kết quả. Tỷ lệ trả trước hạn theo nguyên tắc này
đạt 94,1%, cắt giảm 47% thời gian giải quyết so với quy định. Tỷ lệ hồ sơ trả qua dịch vụ bưu
chính đạt 82,4%, giải quyết qua mạng đạt 99,9%,...
3
Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho hay, Quảng Ninh đã tiết kiệm được 70 tỷ đồng cho ngân sách
Nhà nước và 25 tỷ đồng cho người dân mỗi năm.
“Việc thực hiện kỷ cương hành chính có nơi chưa nghiêm, công tác phối hợp bộ và các cơ
quan vẫn chưa chặt chẽ, có nhiều ý kiến khác nhau vẫn còn tình trạng né tránh, ngại đề xuất
những vấn đề mới có tính đột phá chưa mạnh dạn trong đề xuất nâng cấp phân cấp giám sát và
trách nhiệm của người đứng đầu…”- Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nêu.
Về cải cách hành chính, Bộ trưởng cho hay, vẫn còn các thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà
chồng chéo, gây khó khăn trong quản lý điều hành, gây khó cho doanh nghiệp…/.
Nguồn: toquoc.vn
CHÍNH PHỦ CHO Ý KIẾN
VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG THỂ CHẾ PHÁP LUẬT
Ngày 3/7, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì phiên họp Chính
phủ thường kỳ tháng 6/2018. Diễn ra ngay sau hội nghị trực tuyến toàn quốc của Chính phủ đánh
giá tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2018, phiên
họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 tập trung vào công tác xây dựng thể chế pháp luật.
Tại phiên họp, Chính phủ đã nghe và thảo luận về: Tình hình thực hiện Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh và ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh 6 tháng đầu
năm và nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2018; dự án Luật Kiến trúc; một số dự thảo Nghị định của
Chính phủ. Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2018, Chính phủ đã cho ý kiến đối với 12 dự án luật;
tính đến ngày 30/6, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành
93/151 văn bản cần ban hành. Về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 6 tháng cuối năm 2018,
các bộ, ngành có nhiệm vụ xây dựng và trình Chính phủ 5 dự án luật; tiếp tục phối hợp chỉnh lý,
hoàn thiện 16 dự án luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ sáu.
Đồng ý với báo cáo tình hình thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và ban hành
văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ 6 tháng cuối năm
2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu các bộ, ngành, cơ quan chức năng tập
trung hơn nữa cho công tác xây dựng pháp luật trên tinh thần bảo đảm chất lượng, tiến độ, yêu
cầu. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ chủ động, thường xuyên
kiểm tra, đôn đốc công tác xây dựng pháp luật.
Nguồn: hanoimoi.com.vn
4
KIỂM TRA HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ
TẠI TỈNH NAM ĐỊNH VÀ TỈNH NINH BÌNH
Sáng ngày 26/6 và chiều ngày 28/6, Tổ công tác về kiểm tra công vụ của Thủ tướng Chính
phủ do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân, Tổ trưởng Tổ công tác làm Trưởng đoàn đã có buổi
làm việc và kiểm tra hoạt động công vụ tại tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Định.
Trên cơ sở Báo cáo của 2 tỉnh, sau khi làm việc, trao đổi với địa phương, phát biểu kết luận
buổi kiểm tra, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân đánh giá cao công tác chuẩn bị của UBND tỉnh Ninh Bình
và tỉnh Nam Định phục vụ buổi kiểm tra và các giải trình, làm rõ những vấn đề thành viên Tổ
công tác đưa ra.
Tại tỉnh Ninh Bình, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân đề nghị UBND tỉnh có kế hoạch đẩy mạnh việc
tinh giản biên chế theo lộ trình, hiện nay, việc tinh giản biên chế của tỉnh còn chậm, phấn đấu
đến 2021 giảm tối thiểu 10% đối với công chức và viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà
nước. Khẩn trương xây dựng đề án xác định vị trí việc làm đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập. Tập trung chỉ đạo xây dựng và triển khai sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính và đơn vị sự
nghiệp công lập; rà soát, xử lý các quy định về tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm chưa đúng quy
định hiện hành. Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân đề nghị UBND tỉnh tiếp thu đầy đủ ý kiến thành viên Tổ
công tác để tổng hợp báo cáo, trình Chính phủ trong phiên họp thường kỳ tháng 6. Đồng thời, Tổ
công tác cũng ghi nhận các ý kiến đề xuất của tỉnh để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét,
nghiên cứu, hoàn thiện việc xây dựng ban hành văn bản.
Đối với tỉnh Nam Định, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo đẩy mạnh thực
hiện tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị và Nghị định số 108 của Chính
phủ, giảm tối thiểu 10% biên chế đến năm 2021. Khẩn trương ban hành kế hoạch triển khai thực
hiện Nghị quyết số 18 và 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Tăng cường chỉ
đạo chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật hành chính theo Chỉ thị số 26 của Thủ tướng Chính phủ đảm
bảo đi vào nền nếp, xây dựng được môi trường làm việc văn minh, hiện đại. Rà soát đối tượng
xét tuyển không qua thi: trình tự thủ tục, văn bằng chứng chỉ, thời gian công tác... Bộ trưởng Lê
Vĩnh Tân cũng đề nghị UBND tỉnh tiếp thu ý kiến, hoàn thiện báo cáo để trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ. Một số kiến nghị đề xuất của tỉnh, Tổ công tác tiếp thu và báo cáo cấp có thẩm
quyền nghiên cứu, xử lý theo quy định.
Nguồn: moha.gov.vn
5
TĂNG LƯƠNG, CẦN TĂNG HIỆU QUẢ CÔNG VIỆC
Từ ngày 01/7/2018, mức lương cơ sở đã chính thức được điều chỉnh từ 1,3 triệu đồng/tháng
lên 1,39 triệu đồng/tháng. Đồng thời, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp
hàng tháng theo quy định đối với người có công tăng bằng mức tăng lương cơ sở.
Đây là một tin vui lớn đối với cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là đối tượng những
người có thu nhập thấp và đời sống khó khăn, người về hưu và đối tượng người có công.
Có thể nói trong bối cảnh điều kiện ngân sách quốc gia khó khăn, nợ công còn lớn thì đây là
sự cố gắng lớn của Chính phủ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của công chức, viên
chức và người lao động.
Chính vì thế không chỉ Nhà nước mà Nhân dân cũng đều mong muốn việc tăng lương cũng
cần phải được tăng tương xứng với năng suất, chất lượng công việc. Bởi thực tế vẫn còn không ít
nơi cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước không chỉ làm việc thiếu tích cực,
mà vẫn còn giữ nguyên tư tưởng bảo thủ trong cách nghĩ, thiếu sự năng động trong cách làm;
thậm chí có nhiều cán bộ, công chức, viên chức làm việc quan liêu, tác phong chậm chạp, rườm
rà, thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm... dẫn đến sự trì trệ về phương thức hoạt động trong các cơ
quan hành chính, làm tổn hại đến lợi ích của người dân.
Chúng ta đều biết, tiền lương là tổng sản phẩm xã hội được phân phối để đảm bảo quá trình
tái sản xuất sức lao động cho người lao động, vậy nên tiền lương phải gắn với năng suất lao
động. Năng suất lao động thấp mà tiền lương lại tăng nhanh hơn tốc độ tăng năng suất lao động
là trái quy luật.
Vì thế, việc tăng tiền lương cũng đòi hỏi chính ở mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người
lao động vào việc phải tăng hiệu suất, chất lượng công việc tương xứng. Hay nói cách khác tiền
lương phụ thuộc vào chính sự tương xứng với năng lực, kết quả hoạt động, năng suất lao động
của cá nhân, đơn vị và xã hội.
Điều đó cũng đồng nghĩa là mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động phải tích cực
lao động, thể hiện sự năng động của mình, chủ động trong lao động, sự sáng tạo, có trách nhiệm
trong giải quyết công việc và trong các mối quan hệ với đồng nghiệp và với người dân.
Đặc biệt đối với mỗi cơ quan, đơn vị cần gắn với sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên
chế; tiếp tục tiết giảm các khoản chi hành chính cho tổ chức hội thảo, hội nghị, đi công tác nước
ngoài, tiếp khách, các lễ khởi công, khánh thành, lễ hội tốn kém và mua sắm trang thiết bị đắt
tiền... Từ đó, có thể linh hoạt mức tăng lương, thời gian điều chỉnh và đối tượng được tăng
lương, ưu tiên nhóm đối tượng làm việc có năng suất, chất lượng cao, tạo hiệu ứng tác động lan
tỏa tốt và bảo đảm quyết định vai trò, năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
Nhất là phải làm cho công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, đơn vị mình thấy
rõ việc tăng tiền lương một mặt để nâng cao đời sống, nhưng cũng chính là một trong những
6
nhân tố để tăng năng suất lao động, hiệu quả công việc. Đó chính là cái gốc của vấn đề, là điều
kiện tiên quyết để nâng cao tính tích cực lao động của cán bộ, công chức và người lao động.
Nguồn: giaoducthoidai.net
7
TIN ĐỊA PHƯƠNG
CHI 200 TRIỆU ĐỒNG
CHO CÁN BỘ TỰ NGUYỆN NGHỈ VIỆC:
CÓ PHẢI Ý TƯỞNG TỐT?
Việc hỗ trợ 200 triệu đồng để khuyến khích cán bộ nghỉ hưu sớm của Đà Nẵng có phải là cú
hích trong vấn đề tinh giản biên chế?
Theo chủ trương, đến năm 2021, cả nước sẽ giảm hàng trăm ngàn biên chế. Đây là một chủ trương
hoàn toàn đúng đắn bởi bộ máy công chức hiện nay rất lớn, vượt quá sự chịu đựng của ngân sách.
Góp phần thực hiện chủ trương đó, mới đây, Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng cho biết đã dự
thảo nghị quyết về chính sách hỗ trợ, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản
lý tự nguyện nghỉ công tác để bố trí cán bộ trẻ, có vị trí lên đến 200 triệu đồng. Dự kiến nghị
quyết này sẽ trình tại kỳ họp HĐND thành phố Đà Nẵng ngày 9/7. Dự thảo nghị quyết này đã
nhận được sự quan tâm đặc biệt từ dư luận.
Thật ra, chuyện Đà Nẵng ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích cán bộ, lãnh đạo tự
nguyện nghỉ hưu không phải là chuyện mới hay mang tính đột phá. Bởi, thời gian qua, một số
thành phố lớn cũng đã có các chính sách đặc thù nhằm khuyến khích cán bộ nghỉ việc như thành
phố Hồ Chí Minh có cơ chế để cán bộ nghỉ hưu trước tuổi, Hà Nội có cơ chế đặc thù để cán bộ
tự nguyện nghỉ. Hoặc Quảng Ninh khá hiệu quả với mô hình sát nhập nhiều phòng ban.v.v..
Đáng chú ý, chính sách của Đà Nẵng khá tương đồng với thành phố Hồ Chí Minh như:
Chính quyền hai thành phố đều đề xuất chính sách trợ cấp thêm cho 2 nhóm đối tượng.
Nhóm 1 là cán bộ, công chức, viên chức cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội thành phố và quận, huyện đủ điều kiện thôi việc ngay, nghỉ hưu trước tuổi
thì ngân sách thành phố sẽ trợ cấp thêm căn cứ vào số năm nghỉ hưu trước tuổi, vào số năm công
tác có đóng BHXH.
Nhóm 2 là cán bộ thuộc Ban Thường vụ Thành ủy quản lý, tự nguyện xin nghỉ hưu trước tuổi
hoặc thôi việc không thuộc diện tinh giản biên chế, thì căn cứ vào độ tuổi và thời gian tham gia
công tác tại cơ quan nhà nước có đóng BHXH để ngân sách thành phố trợ cấp thêm.
Có thể thấy, con số 2.8 triệu công chức hiện nay đúng là “bộ máy lớn thế, dân nuôi sao nổi”
như lời của Đại biểu Quốc hội Trần Du Lịch từng thảng thốt kêu lên giữa nghị trường Quốc hội.
Nên, chủ trương bổ sung cơ chế đặc thù khuyến khích cán bộ nghỉ hưu sớm của các thành phố
8
lớn, trong đó có Đà Nẵng đã nhận được sự đồng tình rất cao của dư luận, nhất là cán bộ, công
chức có ý định nghỉ hưu sớm.
“Chính sách hỗ trợ nhằm tạo điều kiện để sớm bổ nhiệm cán bộ trẻ có năng lực vào các vị trí chủ
chốt. Chính sách hỗ trợ được áp dụng rất chặt chẽ, có định hướng rõ ràng chứ không phải ai muốn xin
nghỉ để hưởng chính sách cũng được ”- Ông Võ Ngọc Đồng (Giám đốc Sở Nội vụ Đà Nẵng) nói.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là đối với các địa phương ngân sách khó khăn không thể ban hành
cơ chế đặc thù thì sao? Rất nhiều tỉnh/thành do không có kinh phí nên không thể đưa ra các cơ
chế đặc thù đủ sức thuyết phục cán bộ, công chức nghỉ việc. Vì thế việc tinh giản biên chế ở các
địa phương này sẽ gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả thu được rất thấp.
Liên quan đến việc này, một lãnh đạo Viện Khoa học lao động và Xã hội (Bộ Lao đông,
Thương binh và Xã hội) băn khoăn: “Khuyến khích cán bộ nghỉ, rồi hỗ trợ họ 100 - 200 triệu
đồng, tiền đấy lấy ở đâu ra? Trong khi công chức, viên chức lương và thu nhập còn thấp, những
cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý lại hưởng lương cao, thu nhập hơn hẳn. Giờ
khuyến khích họ nghỉ, lại phải hỗ trợ họ đến 200 triệu đồng là vô lý”.
Suy xét kỹ chúng ta thấy một nghịch lý là, đội ngũ cán bộ, viên chức của chúng ta không
phải thừa mà thiếu, rất thiếu. Thừa những kẻ lười biếng, thiếu năng lực, ỷ lại nhưng lại rất thiếu
những cán bộ, công chức có năng lực, có tâm, có niềm say mê, tận tụy với công việc. Số làm
được việc chủ yếu thuộc diện “con dân, cháu dân”, không có “ô, dù”, không có chỗ “dựa lưng”.
Theo đó, chính sách khuyến khích này vẫn phải tính toán cho kỹ cái được, cái mất, phải có
tiêu chí hẳn hoi, nếu không e rằng có nhiều người giỏi thực sự nhân chính sách này xin ra ngoài
để làm cho tư nhân, vừa có thu nhập cao, lại vừa được nhận hỗ trợ một khoản tiền không nhỏ.
Chính vì vậy, việc hỗ trợ 200 triệu đồng để khuyến khích cán bộ nghỉ hưu sớm của Đà Nẵng
có khi là ý tưởng tốt vì sẽ khuyến khích được cán bộ lớn tuổi, còn thời gian công tác có ít nhất 5
năm nữa là nghỉ hưu để chuẩn bị cho đội ngũ cán bộ thay thế. Nhưng, có phải là cú hích trong
vấn đề tinh giản biên chế hay không, chúng ta vẫn phải chờ đợi.
Nguồn: enternews.vn
SÁP NHẬP ĐỂ CÓ BỘ MÁY GỌN MÀ TINH
Thực hiện chủ trương sắp xếp tinh gọn lại bộ máy, hiện nhiều địa phương đã bắt đầu có
phương án sáp nhập một số cơ quan, đơn vị trên địa bàn. Việc sắp xếp lại bộ máy không chỉ thu
gọn đầu mối, giảm biên chế mà còn giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Lào Cai, Yên Bái sáp nhập, hợp nhất một số cơ quan
9
Sau Quảng Ninh, những ngày cuối tháng 6 này, một số địa phương như Lào Cai, Yên Bái đã
công bố phương án sáp nhập một số cơ quan, đơn vị trên địa bàn.
Tại Lào Cai, trong hai ngày 20 - 21/6, HĐND tỉnh Lào Cai khóa XV tổ chức Kỳ họp thứ 7
xem xét các tờ trình của Thường trực HĐND, UBND tỉnh và thông qua 18 nghị quyết về các lĩnh
vực; trong đó, có nghị quyết về việc hợp nhất Sở Giao thông Vận tải và Sở Xây dựng tỉnh Lào
Cai thành Sở Giao thông Vận tải và Xây dựng.
Ông Đặng Xuân Phong, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai cho biết, với quan điểm đổi mới sắp
xếp bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh
thần Nghị quyết số 18-NQTW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, UBND
tỉnh Lào Cai đã tiến hành nghiên cứu chức năng nhiệm vụ quyền hạn cơ cấu tổ chức của Sở Xây
dựng và Sở Giao thông vận tải thấy rằng, việc tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối cấp Sở
sẽ hạn chế việc chồng chéo chức năng nhiệm vụ, tiết kiệm biên chế kinh phí thường xuyên, thuận
lợi cho việc lãnh chỉ đạo điều hành nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước.
Bên cạnh đó, thực tế công tác quy hoạch xây dựng đô thị với quy hoạch hạ tầng giao thông
luôn đòi hỏi có sự gắn kết chặt chẽ... Vì vậy, việc tổ chức quản lý thống nhất hai lĩnh vực này
trong một cơ quan nhà nước sẽ nâng cao hiệu quả, khắc phục những bất cập chồng chéo thiếu
đồng bộ và đảm bảo tinh gọn đầu mối cho tổ chức bộ máy.
Tại Yên Bái, chủ trương tinh gọn, sáp nhập bộ máy cũng được tỉnh này bắt đầu thực hiện. Cụ
thể, ngày 18/6 vừa qua, thị ủy Nghĩa Lộ đã tổ chức hội nghị công bố quyết định của Ban Thường
vụ tỉnh ủy Yên Bái về hợp nhất các cơ quan là cơ quan Tổ chức- Nội vụ; cơ quan Kiểm tra - thanh
tra; cơ quan Văn phòng cấp ủy chính quyền và quyết định thành lập cơ quan tham mưu giúp việc
chung khối Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức chính trị - xã hội thị xã Nghĩa Lộ.
Như vậy, theo quyết định của Ban Thường vụ tỉnh ủy Yên Bái, kể từ ngày 1/7/2018, cơ quan
Tổ chức - Nội vụ được hợp nhất từ Ban Tổ chức Thị ủy và Phòng Nội vụ thị xã được Ban
Thường vụ thị ủy bổ nhiệm 1 thủ trưởng, 5 phó thủ trưởng.
Còn cơ quan Kiểm tra, thanh tra thị xã cũng được hợp nhất từ Ủy ban kiểm tra Thị ủy và Phòng
Thanh tra thị xã được Ban Thường vụ thị ủy bổ nhiệm 1 thủ trưởng 3 phó thủ trưởng. Với cơ quan
Văn phòng cấp ủy - chính quyền được hợp nhất từ Văn phòng thị ủy và Văn phòng HĐND, UBND
thị xã được Ban Thường vụ Thị ủy bổ nhiệm 1 chánh văn phòng, 5 phó chánh văn phòng.
Một cơ quan mới được thành lập là Cơ quan tham mưu giúp việc chung khối MTTQ và các
tổ chức chính trị-xã hội thị xã Nghĩa Lộ được thành lập từ Ủy ban MTTQ, Liên đoàn lao động,
Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Thị đoàn Nghĩa Lộ, cũng đã được
Ban Thường vụ thị ủy bổ nhiệm 1 thủ trưởng và 6 phó thủ trưởng.
Đụng chạm nhưng vẫn quyết tâm làm
Nói về chủ trương sáp nhập các sở, ngành mà các tỉnh, thành đang làm, Thứ trưởng Bộ Nội
vụ Triệu Văn Cường cho biết, sáp nhập sở ngành là việc khó, đây là vấn đề khá “đụng chạm”
10
nên trong thực tế triển khai chắc sẽ gặp vướng mắc, nhất là về con người vì khi sắp xếp sẽ tinh
gọn bộ máy, giảm biên chế.
“Vấn đề đặt ra thế nào thì phải cương quyết thôi. Bộ Nội vụ cũng phải sắp xếp và cũng phải
dựa trên chức năng, nhiệm vụ tương đồng để hợp nhất, sáp nhập chứ không phải cộng cơ học”.
Theo Thứ trưởng Triệu Văn Cường, Bộ Nội vụ đưa ra nhiều phương án khác nhau, dựa vào tình
hình thực tế của các tỉnh, bộ, ngành khác nhau để triển khai sao cho phù hợp và việc này được thực
hiện theo lộ trình. Các địa phương cũng có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tựu chung là ủng hộ việc
sắp xếp các sở. Nếu được triển khai, sẽ tác động rất tốt đến bộ máy hành chính hiện nay. Những thay
đổi mà Bộ Nội vụ đưa ra đều đóng góp nhiều lợi ích cho sự phát triển của đất nước.
Vấn đề hợp nhất một số sở ngành đem lại rất nhiều lợi ích, trong đó sẽ giảm sự trùng lắp,
chồng chéo, tinh giảm biên chế, nhưng không thể làm tùy tiện, ghép một cách cơ học. Theo
nhiều chuyên gia, muốn chủ trương này đi vào thực tiễn, phát huy hiệu quả phải rà soát chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan này, để có phương án tổng thể.
Gọn bộ máy rất tốt, nhưng quan trọng không ảnh hưởng quá nhiều đến quá trình vận hành
của bộ máy. Quan trọng nhân cơ hội này để thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, để chúng ta
có bộ máy gọn mà tinh. Đích cuối cùng của mọi quyết sách cũng là để phục vụ nhân dân. Nếu bộ
máy gọn nhẹ lại giải quyết được việc dân nhanh chóng thì dẫu có khó cũng phải quyết tâm thực
hiện cho được.
Nguồn: daidoanket.vn
BÀ RỊA – VŨNG TÀU: THU NHẬP GIẢM,
HÀNG LOẠT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XIN NGHỈ VIỆC
Theo UBND thành phố Vũng Tàu, từ năm 2017 đến nay, có hơn 60 cán bộ, công chức và
những người hoạt động không chuyên trách tại các phường, xã của thành phố xin nghỉ việc. 17
phường, xã của thành phố được giao tổng cộng 425 cán bộ, công chức nhưng hiện nay chỉ có 351
người làm việc. Những người không chuyên trách được giao 374 người nhưng đến nay chỉ có
279 người đang làm việc tại các phường, xã.
Một lãnh đạo Phòng Nội vụ thành phố Vũng Tàu cho biết cán bộ, công chức và những người
làm việc không chuyên trách tại các phường, xã mặc dù đang thiếu trầm trọng nhưng phòng vẫn
đang phải làm thủ tục cho nhiều người xin nghỉ việc theo nguyện vọng. Phần lớn đơn xin nghỉ
việc đều có lý do chung là khó khăn về kinh tế.
Còn một chuyên viên Phòng Nội vụ thành phố Vũng Tàu, cho biết từ khi UBND tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu bãi bỏ thực hiện chế độ thực hiện trợ cấp khuyến khích người có trình độ cao đẳng,
11
đại học công tác tại các xã, phường thì thu nhập của cán bộ, công chức, những người hoạt động
không chuyên trách bị giảm khoảng 40% lương.
Trước thực trạng nhiều người xin nghỉ việc tại các phường, xã, UBND thành phố Tàu đã kiến
nghị UBND tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu hỗ trợ tăng thu nhập cho những người hoạt động không
chuyên trách và rút ngắn thủ tục tuyển dụng. Ngoài ra, UBND thành phố Vũng Tàu đã chỉ đạo
Phòng Nội vụ, Tài chính nghiên cứu hướng dẫn cơ chế thực hiện quỹ tiết kiệm khoán đúng, đủ,
thoáng hơn để các phường, xã chủ động trích từ quỹ này hỗ trợ, tăng thêm cho những người hoạt
động không chuyên trách, một lãnh đạo UBND thành phố Vũng Tàu cho biết.
Nguồn: thanhnien.vn
THANH HÓA TIẾP TỤC CHI 29 TỶ ĐỒNG
CHO 214 NGƯỜI NGHỈ LÀM VIỆC
UBND tỉnh Thanh Hóa đã duyệt chi 29 tỉ đồng cho 214 công chức, viên chức nghỉ việc để
thực hiện tinh giản biên chế. Theo kế hoạch của tỉnh này, đến năm 2021 sẽ cho khoảng 7.000
người nghỉ việc.
Bà Lê Thị Thìn, Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa, ngày 28/6 đã ký quyết định về việc
phê duyệt số lượng và dự toán kinh phí thực hiện dự toán tinh giản biên chế theo Nghị định số
108/2014/NĐ-CP của chính phủ đợt 2 năm 2018.
Theo đó, trong đợt này, UBND tỉnh Thanh Hóa sẽ tinh giản biên chế cho 214 người với số tiền
29 tỉ đồng, trong đó 51 người thuộc khối hành chính (cấp tỉnh 3 người, cấp huyện 8 người, cấp
phường, xã 40 người); khối sự nghiệp công lập trong biên chế được ngân sách nhà nước đảm bảo
kinh phí là 159 người (cấp tỉnh 13 người, cấp huyện 146 người); khối đảng, đoàn thể 4 người.
Cũng theo quyết định này, dự toán kinh phí thực hiện tinh giản biên chế cho 198 người nghỉ
hưu trước tuổi là hơn 26,6 tỉ đồng; kinh phí cho thôi việc ngay đối với 16 người là gần 2,3 tỉ
đồng. Tiền dùng để thực hiện tinh giản trích từ nguồn cải cách tiền lương trong dự toán ngân
sách cấp tỉnh năm 2018 và một phần của năm 2017 chuyển sang.
Trước đó, tỉnh Thanh Hóa liên tiếp thực hiện các đợt tinh giản biên chế với số tiền lên tới
hàng trăm tỉ đồng. Cụ thể, đợt 1 năm 2018, Thanh Hóa cũng đã duyệt chi cho 186 người nghỉ
việc với số tiền gần 21 tỉ đồng; trong năm 2017, Thanh Hóa đã có 2 đợt tinh giản biên chế đối
với 457 trường hợp ở các khối hành chính, sự nghiệp, khối Đảng và đoàn thể. Để cho 457 người
nghỉ việc, tỉnh này đã chi hơn 55,2 tỉ đồng.
Nguồn: nld.com.vn
12
MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃNH ĐẠO TẬP THỂ
VÀ TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU
TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng, do đó, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo
nguyên tắc tập trung dân chủ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu
các tổ chức trong hệ thống chính trị(1). Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi công tác cán bộ
phải thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trong chế độ này, mối quan hệ giữa
lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến
chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ.
Mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong công tác cán
bộ là mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò của cá nhân người đứng đầu; giữa
tập trung và dân chủ; giữa tập trung và phân cấp, phân quyền; giữa lãnh đạo và quản lý; giữa tập
thể và cá nhân. Nhận thức đầy đủ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ này sẽ bảo đảm công tác cán
bộ được thực hiện đúng đắn, hiệu quả; ngược lại giải quyết không đúng sẽ làm công tác cán bộ
lệch lạc với nhiều hệ quả tiêu cực.
Vừa qua, Đảng và Nhà nước đã xây dựng, điều chỉnh nhiều quy định về mối quan hệ giữa
lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ. Tuy nhiên, việc
giải quyết mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong công
tác cán bộ trên thực tế vẫn bộc lộ không ít hạn chế, bất cập. Do mỗi cấp, mỗi loại hình cơ quan,
đơn vị có đặc thù riêng nên mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người
đứng đầu trong quan hệ công tác nói chung và trong công tác cán bộ nói riêng có sự khác nhau
với nhiều mức độ, thậm chí khác nhau rất lớn. Nếu như trong đơn vị hành chính từ tỉnh đến cơ
sở, cơ quan lãnh đạo của Đảng (cấp ủy đảng) có thẩm quyền quyết định trong tất cả các khâu của
công tác cán bộ theo phân cấp thì trong đơn vị cơ quan, cấp ủy đảng chỉ có vai trò tham gia lãnh
đạo, còn trong đơn vị sự nghiệp, kinh tế ngoài khu vực nhà nước thì cấp ủy đảng chỉ còn có vai
trò “tham gia ý kiến”.
Tuy nhiên, vấn đề nổi lên trước hết hiện nay là mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách
nhiệm cá nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ ở các tổ chức trong hệ thống chính trị các
cấp; các cơ quan, đơn vị sự nghiệp, kinh tế công. Trong khu vực này có thể chia ra các nhóm sau:
1- Mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể (cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp
ủy) và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu (bí thư) trong công tác cán bộ ở trong Đảng
13
Theo quy định và thực tế hiện nay, cấp ủy đảng (chủ yếu là ban thường vụ cấp ủy) quyết định
các vấn đề cán bộ thông qua cơ chế thảo luận tập thể, quyết định theo đa số; người đứng đầu có
trách nhiệm (và thẩm quyền) đề xuất, chủ trì và có một số quyền ưu tiên như khi xảy ra trường
hợp tập thể lãnh đạo giới thiệu 2 người có số phiếu ngang nhau thì chọn nhân sự do người đứng
đầu giới thiệu để quyết định bổ nhiệm hoặc trình cấp có thẩm quyền bổ nhiệm. Do quy định về
trách nhiệm, chế tài cụ thể khi giới thiệu cán bộ không đúng còn khá chung chung nên trừ khi
người đứng đầu cấp ủy có sai phạm nghiêm trọng, còn không, họ chỉ chịu trách nhiệm cùng tập
thể cấp ủy nếu có sai phạm về công tác cán bộ. Sơ hở này làm cho một số người đứng đầu lợi
dụng quyền lực “mềm” có được do vị thế là người đề xuất, chủ trì các vấn đề về công tác cán bộ
để điều khiển việc bố trí nhân sự theo ý đồ vụ lợi nhưng rất đúng quy trình và không sợ bị xử lý
trách nhiệm, dẫn đến hiện tượng trớ trêu là “cá nhân lãnh đạo, tập thể chịu trách nhiệm”.
2- Mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong
công tác cán bộ ở đơn vị hành chính các cấp
Trong khu vực này, ở cấp Trung ương, chủ yếu là mối quan hệ giữa Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Ban cán sự đảng Chính phủ với người đứng đầu cơ quan hành pháp (Thủ tướng); ở địa
phương, chủ yếu là mối quan hệ giữa ban thường vụ cấp ủy, ban cán sự đảng ủy ban nhân dân
(UBND) tỉnh (thành phố) với người đứng đầu chính quyền (chủ tịch UBND). Mối quan hệ giữa
lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ ở đây được quy
định theo tinh thần tập thể lãnh đạo quyết định các vấn đề cán bộ thông qua cơ chế thảo luận tập
thể, quyết định theo đa số; người đứng đầu chính quyền luôn là một thành viên trong tập thể lãnh
đạo nhưng có trách nhiệm lãnh đạo ban cán sự đảng (Chính phủ hay UBND) thực hiện kết luận
của tập thể lãnh đạo về công tác cán bộ. Tuy có quyền đề xuất nhân sự nhưng người đứng đầu
không có quyền lựa chọn và thay đổi cấp phó và các cấp dưới trực tiếp của mình. Điều này dẫn
đến tình trạng, một mặt, khó quy trách nhiệm cho người đứng đầu khi chính quyền yếu kém; mặt
khác, người đứng đầu chính quyền không đủ thẩm quyền, công cụ để thực hiện chức trách,
nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý của mình, họ không thể lựa chọn, thay thế cấp dưới của mình khi cấp
dưới yếu kém, không đáp ứng yêu cầu.
Mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong công tác
cán bộ ở cơ quan bộ
Ở các cơ quan bộ, tập thể lãnh đạo có hai chủ thể là ban cán sự đảng của bộ và đảng ủy cơ
quan bộ. Trong công tác cán bộ, ban cán sự đảng của bộ có thẩm quyền, trách nhiệm quyết định
các vấn đề cán bộ theo phân cấp; đảng ủy cơ quan bộ chỉ tham gia lãnh đạo, tức chỉ là thành
phần tham gia góp ý về công tác cán bộ. Người đứng đầu ban cán sự đảng (bí thư ban cán sự
đảng) và người đứng đầu cơ quan bộ (bộ trưởng) là một, do đó quyền của người đứng đầu ở đây
rất lớn. Tuy nhiên, do chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm và chế tài đủ mạnh nên khi có sai
phạm cũng khó quy trách nhiệm người đứng đầu vì họ cho rằng đây là quyết định của tập thể ban
14
cán sự đảng, bản thân chỉ là một thành viên (cho đến nay mới chỉ có một bộ trưởng tự nhận trách
nhiệm và từ chức khi xảy ra sai phạm trong công tác cán bộ ở bộ mình quản lý).
Mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong công tác
cán bộ ở đơn vị sự nghiệp công (trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu...)
Ở các đơn vị này, việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ thuộc thẩm quyền của cấp ủy.
Người đứng đầu có trách nhiệm (và thẩm quyền) giới thiệu nhân sự để tập thể lãnh đạo xem xét,
quyết định, đồng thời có quy định người đứng đầu chịu trách nhiệm về nhân sự do mình đề xuất. Ở
mô hình này có các vấn đề: một là, người đứng đầu không có đủ thẩm quyền để thực hiện nhiệm
vụ quản lý đơn vị vì họ không thể tự chọn và thay đổi cán bộ cấp dưới của mình khi thấy cần thiết
(thậm chí còn có chuyện là người đứng đầu chưa thay được cấp dưới thì cấp dưới đã vận động thay
được người đứng đầu), đồng thời cũng không thể quy trách nhiệm cao nhất cho người đứng đầu về
chất lượng hoạt động của đơn vị; hai là, khi có sai phạm trong công tác cán bộ của đơn vị rất khó
quy trách nhiệm cho người đứng đầu vì họ không phải là người quyết định; ba là, với cương vị là
thủ trưởng đơn vị, đồng thời do thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng trong
các đơn vị sự nghiệp, nên trong thực tế vai trò của người đứng đầu ở các đơn vị sự nghiệp công lập
khá lớn, có thể “lái” tập thể lãnh đạo theo ý mình trong công tác cán bộ.
Từ thực tế mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong
công tác cán bộ ở một số loại tổ chức trong hệ thống chính trị nêu trên cho thấy một số vấn đề
bất cập lớn sau:
Thứ nhất, vẫn có xu hướng đề cao vai trò của lãnh đạo tập thể, xem nhẹ vai trò, trách nhiệm
cá nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ. Xu hướng này dẫn đến tình trạng vừa thiếu dân
chủ, vừa thiếu tập trung, không xác định được trách nhiệm khi có sai phạm xảy ra.
Thứ hai, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ không được xác định rõ, chế
tài trách nhiệm không đủ mạnh dẫn đến người đứng đầu có thể lợi dụng vai trò của mình và sơ
hở trong quy định về trách nhiệm để “lái” các quyết định của tập thể về công tác cán bộ theo ý
đồ vụ lợi của mình, khi có sai phạm thì đổ lỗi cho tập thể lãnh đạo. Những sai phạm về công tác
cán bộ trong các vụ, việc lớn vừa qua đều cho thấy có tình trạng này.
Thứ ba, quy định trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ không tương xứng
với chức trách, nhiệm vụ được giao, do đó người đứng đầu không đủ thẩm quyền, quyền uy để
thực hiện chức trách, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý của mình. Điều đó dẫn đến việc khó quy trách
nhiệm cho người đứng đầu.
Thứ tư, tuy đã có khá nhiều quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và thẩm
quyền, trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu và mối quan hệ cụ thể giữa tập thể lãnh đạo và
người đứng đầu trong công tác cán bộ nhưng nhìn chung chưa cụ thể, chế tài còn chung chung, chưa
15
đủ mạnh, do đó hiệu lực, hiệu quả thực tế chưa cao, chưa tạo được bước đổi mới mạnh mẽ trong
công tác cán bộ và chưa đủ sức ngăn chặn tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ.
Những bất cập nêu trên là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng nguyên tắc “tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế
trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách
nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không
khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm
việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân(2).
Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu
trong công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới trong giai
đoạn hiện nay, bảo đảm vừa giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, nhận thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá
nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Lãnh đạo tập thể là yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ, là cách để phát huy dân chủ,
bảo đảm các quyết định về công tác cán bộ được xem xét toàn diện, chính xác; là nguyên tắc để
bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ. Xa rời chế độ lãnh đạo tập thể là xa rời
nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất định sẽ dẫn đến sai lầm, mất đoàn kết và từ bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng, do đó phải kiên trì lãnh đạo tập thể trong công tác cán bộ. Trách nhiệm cá nhân
người đứng đầu cũng là một yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng trong công tác cán
bộ nó không chỉ là trách nhiệm thực hiện các quyết định của lãnh đạo tập thể mà còn là trách
nhiệm, thẩm quyền của người đứng đầu ngay trong quá trình thảo luận ra quyết định về công tác
cán bộ của lãnh đạo tập thể, tức là nó không chỉ biểu hiện tính tập trung mà còn là biểu hiện của
dân chủ trong công tác cán bộ. Nếu chỉ nhấn mạnh lãnh đạo tập thể, xem nhẹ trách nhiệm cá
nhân người đứng đầu thì tác hại lớn nhất là không rõ trách nhiệm đối với công tác cán bộ, nhất là
khi có sai phạm xảy ra, hệ quả là công tác cán bộ bị trì trệ, rối ren; nhưng nếu đề cao quá mức
vai trò, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu thì dễ dẫn đến độc đoán, chủ quan. Nhận thức phù
hợp nhất là vừa bảo đảm lãnh đạo tập thể đối với những vấn đề quan trọng, then chốt của công
tác cán bộ, vừa mạnh dạn đổi mới, tăng cường phân quyền và nâng cao trách nhiệm của người
đứng đầu trong công tác cán bộ.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ phân cấp quản lý cán bộ, giao trách nhiệm quản lý cán bộ cấp dưới
cho người đứng đầu.
Mạnh dạn phân cấp, phân thẩm quyền quản lý cán bộ theo hướng cấp ủy có thẩm quyền chỉ
quản lý đối với người đứng đầu các cấp, các ngành, các đơn vị. Ở Trung ương, Bộ Chính trị chỉ
quản lý đối với cấp trưởng các ban, bộ, ngành trung ương và bí thư, chủ tịch tỉnh, thành phố và
bí thư đảng ủy trực thuộc; từ cấp phó trở xuống giao cho người đứng đầu và cấp ủy các ban, bộ,
ngành, đơn vị quản lý. Ở cấp tỉnh, ban thường vụ tỉnh, thành ủy chỉ quản lý đối với cấp trưởng
16
các ban, sở, ngành, bí thư cấp ủy cấp huyện, chủ tịch huyện, thị xã, thành phố trực thuộc và bí
thư đảng ủy trực thuộc. Ở cấp huyện cũng tương tự. Áp dụng nguyên tắc cấp trên chỉ quản lý cán
bộ cấp dưới một cấp để bảo đảm cấp quản lý phải nắm chắc được cán bộ do mình quản lý, loại
trừ tính hình thức trong quản lý cán bộ của nhiều cấp ủy hiện nay.
Phân cấp như vậy, một mặt, vẫn bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể cấp ủy, tức là giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng; mặt khác, tạo bước đột phá nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu
trong công tác cán bộ, chấm dứt tình trạng không rõ trách nhiệm, không đủ thẩm quyền, và ngăn
chặn các tiêu cực trong công tác cán bộ hiện nay. Người đứng đầu muốn là người thực sự “đứng
mũi chịu sào”, có và nhận trách nhiệm cao nhất về việc thực hiện thẩm quyền, phải chịu trách
nhiệm cao nhất về những gì xảy ra trong tổ chức, ở cơ quan, đơn vị, địa phương do mình phụ
trách thì họ phải được phân công trách nhiệm (cũng là thẩm quyền) lựa chọn và thay thế cấp
dưới của mình. Đây là cách quản lý cán bộ được áp dụng phổ biến trên thế giới hiện nay.
Ba là, xây dựng thể chế quy định rõ trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và trách nhiệm cá nhân
người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc của cấp ủy là việc làm quan trọng, có ý nghĩa
quyết định đối với việc giải quyết đúng mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá
nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ, vừa bảo đảm vai trò lãnh đạo tập thể của cấp ủy, vừa
phát huy tốt trách nhiệm cá nhân người đứng đầu.
Điều chỉnh các quy định, quy chế về công tác cán bộ, trong đó xác định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm người đứng đầu trong đánh giá, lựa chọn, giới thiệu, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ theo
hướng coi trọng đánh giá, lựa chọn của cấp trưởng đối với cấp phó; coi trọng đánh giá của người
đứng đầu đối với thủ trưởng các đơn vị trực thuộc, vì người đứng đầu là người giao việc và cũng
là người nghiệm thu kết quả công việc, do vậy hơn ai hết, là người hiểu rõ về năng lực công tác
của cấp phó và cấp dưới quyền trực tiếp. Nghiên cứu, quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm
của người đứng đầu trong tất cả các khâu khác của công tác cán bộ: trong quy hoạch, luân
chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ,...
Bốn là, xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền của người
đứng đầu trong công tác cán bộ.
Để phân cấp, phân quyền, trao thẩm quyền và trách nhiệm lớn cho người đứng đầu trong
công tác cán bộ thì phải xây dựng được cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ, hiệu lực đối với
người đứng đầu, bảo đảm quản lý, giám sát, đánh giá và ngăn chặn kịp thời người đứng đầu làm
sai trong công tác cán bộ.
Thiết lập đồng bộ cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong và bên ngoài. Bên trong cần bảo đảm
hiệu lực kiểm soát của tập thể lãnh đạo cùng cấp thông qua chế độ chất vấn và bỏ phiếu bất tín
nhiệm đối với người đứng đầu; cấp trên có quyền đình chỉ tư cách của người đứng đầu cấp dưới
khi phát hiện sai phạm nghiêm trọng trong công tác cán bộ. Cơ quan, tổ chức cấp trên có cơ chế
17
giám sát, kiểm tra thường xuyên công tác cán bộ thuộc trách nhiệm người đứng đầu. Bên ngoài
cần thiết lập cơ chế để nhân dân và báo chí giám sát người đứng đầu thuận tiện, hiệu lực, kịp thời.
Năm là, xây dựng văn hóa, phong cách lãnh đạo theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tự
phê bình và phê bình của tập thể lãnh đạo, người đứng đầu.
Đây là cơ sở nền tảng để xử lý đúng mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá
nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ. Chỉ khi xây dựng được một lề lối làm việc có văn
hóa, phong cách lãnh đạo theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình của
tập thể lãnh đạo, người đứng đầu thì mới giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và
trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ. Người đứng đầu phải gương mẫu,
nghiêm chỉnh chấp hành các nguyên tắc công tác đảng và chỉ đạo của cấp trên; tự mình phải chịu
trách nhiệm chính trong việc thực hiện chức trách của mình. Muốn vậy, trước hết tự bản thân
người đứng đầu phải xác định rõ vai trò, vị trí của mình trước tập thể; rèn luyện năng lực nhìn
nhận và đánh giá một cách khách quan, chính xác những đảng viên, cán bộ, nhân viên thuộc
quyền trong cơ quan, đơn vị, địa phương./.
(1) Kết luận số 37-KL/TW, ngày 2-2-2009, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X Về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020
(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2012, tr. 23
PGS. TS Nguyễn Văn Giang - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
Nguồn: qdnd.vn
18
KHUYẾN KHÍCH CÁN BỘ LỚN TUỔI NGHỈ HƯU SỚM:
LÀM KHÔNG KHÉO SẼ MẤT NGƯỜI TÀI
“Chính sách hỗ trợ cán bộ hấp dẫn có thể khuyến khích những người có năng lực sẵn sàng ra
khỏi Nhà nước sớm hơn tuổi nghỉ hưu, như thế họ vừa có cơ hội nhận chế độ, vừa có cơ hội ra
khu vực ngoài Nhà nước để làm” - TS Nguyễn Tiến Dĩnh - nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ nêu
quan điểm khi trao đổi với NTNN.
Chủ trương phù hợp
Thưa ông, việc Đà Nẵng xây dựng chính sách hỗ trợ, khuyến khích cán bộ, công chức,
viên chức lãnh đạo, quản lý tự nguyện nghỉ công tác để bố trí cán bộ trẻ đang thu hút sự
quan tâm của dư luận, ông nghĩ gì về chủ trương này?
- Thực ra dự thảo nghị quyết của Đà Nẵng về chính sách hỗ trợ, khuyến khích cán bộ, công
chức, viên chức lãnh đạo, quản lý tự nguyện nghỉ công tác để bố trí cán bộ trẻ cũng là sự tiếp nối
Nghị định 108/2014 của Chính phủ về tinh giản biên chế. Nghị định này đưa ra quy định khuyến
khích sự tự giác của cán bộ công chức về nghỉ trước tuổi.
Đà Nẵng đưa ra chủ trương như vậy, tôi thấy đối tượng được mở rộng hơn so với Nghị định
108, kể cả đối tượng là Ủy viên Thường vụ Thành ủy. Điểm khác nữa là kinh phí để hỗ cho đối
tượng nghỉ sớm cao so với đối tượng của Nghị định 108, kinh phí cao nhất là 200 triệu
đồng/trường hợp.
Tôi nghĩ chủ trương của Đà Nẵng là phù hợp, ý nghĩa ở đây là để đào tạo, bồi dưỡng những
cán bộ trẻ thay thế vào vị trí những trường hợp xin nghỉ.
Ông có nói chủ trương này cũng là tiếp nối Nghị định 108, vậy kết quả thực hiện của
Nghị định này trong thời gian qua thế nào, thưa ông?
- Kết quả thực hiện Nghị định 108 rất hạn chế. Trong nghị định này đã quy định các thủ trưởng ở
những cơ quan, đơn vị phải rà soát những đối tượng theo Nghị định 108, rồi chủ động lên kế hoạch
và thực hiện. Tuy nhiên nhiều thủ trưởng của các đơn vị vẫn không thực hiện quyết liệt mà chỉ dựa
vào sự tự giác của cán bộ công chức cho nên đối tượng thực hiện theo Nghị định 108 cơ bản là
những người về hưu về trước tuổi một chút. Chính vì thế chúng ta không đạt được mục tiêu.
Trong khi đối tượng tinh giản biên chế theo Nghị định 108 khá rộng: Dôi dư do cơ cấu lại
cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, nhưng không thể bố trí, sắp xếp được việc làm
khác; chưa đạt trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ quy định đối với vị trí
việc làm đang đảm nhiệm, nhưng không có vị trí việc làm khác phù hợp để bố trí và không thể
bố trí đào tạo lại để chuẩn hóa về chuyên môn; có chuyên ngành đào tạo không phù hợp với vị trí
19
việc làm hiện đang đảm nhiệm nên bị hạn chế về năng lực hoàn thành công việc được giao
nhưng không thể bố trí việc làm khác…
Trông đợi ở người đứng đầu
Như vậy việc Đà Nẵng đưa ra chính sách hỗ trợ, khuyến khích cán bộ, công chức, viên
chức lãnh đạo, quản lý tự nguyện nghỉ công tác để bố trí cán bộ trẻ sẽ khó đem lại hiệu quả?
- Đúng là cũng có khó khăn, bởi chủ trương này vẫn dựa trên sự tự nguyện, tự giác. Việc này
nếu không cẩn thận sẽ nảy sinh chuyện lợi dụng. Đối với Đà Nẵng vừa qua có chuyện thực hiện
Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” (gọi tắt là Đề án 922), có 93 người đã xin ra,
trong đó có 40 người đã có việc làm, còn 32 phải đền bù.
Câu chuyện nhân tài ra khỏi cơ quan Nhà nước không chỉ ở Đà Nẵng mà xảy ra ở nhiều địa
phương. Chẳng hạn như ở Hà Nội, năm nào cũng tôn vinh các thủ khoa, có chính sách tuyển
dụng các thủ khoa vào các cơ quan Nhà nước làm việc. Tuy nhiên theo đánh giá chỉ có khoảng
10% ở lại làm việc, số còn lại ra đi.
Nói lại câu chuyện này để thấy đối với người có năng lực việc bám trụ lại cơ quan Nhà nước
đến tuổi nghỉ hưu không phải là quan trọng với họ. Với chính sách khuyến khích hấp dẫn có thể
những người có năng lực sẵn sàng ra khỏi Nhà nước sớm hơn tuổi nghỉ hưu, như thế họ vừa có
cơ hội nhận chế độ, thứ hai họ có cơ hội ra khu vực ngoài Nhà nước để làm. Nếu như thế thì
chính sách đưa ra sẽ không đạt được yêu cầu. Chủ trương của chúng ta chỉ đưa những người
không đáp ứng được vị trí việc làm ra khỏi bộ máy và đưa những người có năng lực hơn vào bộ
máy. Bài học từ việc thực hiện Nghị định 132, Nghị định 16 và nay là Nghị định 108, chúng ta
không đạt được mục tiêu là tinh giản những người không làm được việc, làm việc yếu kém, năng
lực hạn chế ra khỏi bộ máy Nhà nước.
Việc dựa trên sự tự nguyện, tự giác có lẽ nằm ở góc độ văn hóa, chủ trương nêu trên
muốn thực hiện thành công cần có thêm những thiết chế khác thưa ông?
- Tôi nghĩ để thực hiện được rất cần trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Trở lại
với quy định trong Nghị định 108, có nói thủ trưởng các cơ quan, đơn vị là hàng năm rà soát lại để
lên kế hoạch và cấp trên phê duyệt và thực hiện chứ không phải hoàn toàn trông vào sự tự nguyện,
tự giác của cán bộ công chức. Nếu người có năng lực hạn chế, chuyên môn yếu kém thì họ càng
muốn “bám trụ” lại cơ quan Nhà nước, bởi năng lực yếu ra ngoài thì sẽ không “bơi” được.
Không chỉ ở chủ trương này mà ở nhiều vấn đề khác muốn thực hiện thành công thì vai trò
người đứng đầu rất quan trọng. Chính phủ có cả nghị định về người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Nhưng người đứng đầu đó có phát huy được không, hay nể nang, né tránh. Nghị định 58 quy
định, người nào phân công nhiệm vụ thì người đó đánh giá công chức , mặc dù quy trình có lấy ý
kiến của các công chức trong tập thể đó, nhưng quyết định cuối cùng vẫn là người giao nhiệm vụ
(người đứng đầu).
20
Tuy nhiên hiện nay nhiều khi đánh giá cán bộ công chức dựa theo số đông, số đông có thể có
nhiều ý kiến phản ánh đóng góp tốt, nhưng có nhiều ý kiến ở dạng nể nang, né tránh nhau, bởi tôi
đánh giá anh không tốt, anh cũng sẽ đánh giá tôi không tốt nên tất cả cùng đưa ra đánh giá tốt về
nhau. Với những trường hợp như vậy người đứng đầu có dám cho rằng đánh giá trên của tập thể
là chưa đúng và đưa ra đánh giá khác với tư cách là thủ trưởng, là người giao nhiệm vụ và chịu
trách nhiệm về đánh giá đó không? Trên thực tế ít khi như vậy, chính vì thế nên mới có con số
hơn 90% cán bộ, công chức hoàn tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nếu người đứng đầu sự
toàn diện, có tâm trong công tác cán bộ, quyết tâm thực hiện vì cái chung thì chắc chắn tập thể sẽ
hiểu và ủng hộ.
Xin cảm ơn ông (!)
Ông Phạm Minh Huân – nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội:
Lấy nguồn tiền ở đâu để trả?
Đối với việc Đà Nẵng trình dự thảo, chính sách hỗ trợ, khuyến khích cán bộ, công chức, viên
chức lãnh đạo, quản lý tự nguyện nghỉ công tác để "nhường chỗ" cho cán bộ trẻ được hỗ trợ 100
- 200 triệu. Việc này bên doanh nghiệp đã thực hiện từ rất lâu rồi, doanh nghiệp người ta quan
niệm rằng trong khi số lượng bị giảm thì những người ở lại chia sẻ với người về, nhiều nơi áp
dụng quy định chung để cho người về có được một khoản vốn kiếm được việc làm mới hoặc
kinh doanh.
Doanh nghiệp họ đã làm rất phổ biến nhưng còn công chức theo tôi vấn đề lớn đặt ra là lấy
nguồn tiền ở đâu để trả cho công chức khi thực hiện chính sách này, nếu lại lấy từ ngân sách ra
thì không ổn. Đây là cái khó!
Doanh nghiệp thì người ta chia sẻ bằng cách lấy tiền của những người ở lại để đóng góp,
hoặc trích từ phúc lợi, thậm chí có doanh nghiệp họ lấy từ các nguồn tiết kiệm khác để đưa vào.
Còn trong lĩnh vực hành chính không biết nguồn tiền này sẽ lấy ở đâu? Mức tiền 100 hay 200
triệu thì cũng là mức chia sẻ về việc tinh giản biên chế của đội ngũ cán bộ, một số người không
còn phù hợp, không còn đáp ứng được nhu cầu công việc thì nhường chỗ cho người có điều kiện,
đáp ứng được nhu cầu thì đây cũng là việc tốt, coi như hỗ trợ.
Nguồn: danviet.vn
21
CON “ÔNG NÀY, BÀ KIA”
Ở ĐÀI PHÁT THANH – TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI:
THỰC TRẠNG QUÁ ĐỖI BÌNH THƯỜNG!?
Không chỉ riêng Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội mà rất nhiều cơ quan Nhà nước hiện
nay, số người không làm được việc chiếm tỷ lệ lớn mà không biết xử lý thế nào.
Hai câu chuyện của ngày hôm qua khiến chúng ta thực sự phải suy ngẫm.
Chuyện thứ nhất, Tổng Giám đốc Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội đã phải nói lên thực
trạng của đơn vị mình quản lý: có đến 40% nhân sự của Đài thuộc diện con ông cháu cha, con
ông nọ cháu bà kia. Họ không làm được việc nhưng không có lý do gì để sa thải chỉ vì họ chẳng
bao giờ đụng chạm đến ai.
Câu chuyện thứ 2 xảy ra ở một tỉnh miền núi Sơn La, khi một nam thanh niên vi phạm an
toàn giao thông bị lực lượng cảnh sát giao thông dừng xe thì chửi bới, xưng là có chú làm to ở
thành phố Sơn La.
Hai sự việc này không có gì liên quan đến nhau nhưng lại đang là những thực trạng nhức
nhối khá phổ biến trong xã hội. Lâu nay chúng ta loay hoay tìm cách giải quyết nhưng thực trạng
không hề giảm mà lại có xu hướng gia tăng. Thực tế này đã khiến mọi giá trị trong xã hội bị đảo
lộn: người làm được việc thì không được đánh giá, trả lương đúng năng lực; người sống tuân thủ
pháp luật thì thiệt thòi so với những kẻ biết “lách luật".
Vậy vì sao những thứ “trái tai, gai mắt" đó vẫn có đất “sống khỏe"? Đơn giản vì họ có "cái ô"
ở đâu đó rất to che đỡ. Những người có trách nhiệm xử lý thì chẳng dám làm đến nơi đến chốn,
bởi họ chẳng dại gì mà tự bưng bát cơm của mình hất đi.
Một người làm cán bộ trong cơ quan Nhà nước chia sẻ, cơ quan phải tiến tới tự chủ nên có lần
anh đề xuất với lãnh đạo là nên sa thải những người không làm được việc ra khỏi cơ quan, vị lãnh
đạo này trầm ngâm một lúc rồi lắc đầu trả lời “Không được đâu, có khi mình bị sa thải trước họ ấy".
Các cụ ta dạy “Đánh chó phải ngó mặt chủ", có lẽ càng trở nên đúng khi mà hệ thống các lợi ích
nhóm, các mối quan hệ thân hữu cứ đan xen, chằng chéo nhau và được tận dụng một cách tối đa.
Công cuộc tinh giản biên chế đã và đang rất trông chờ vào Đề án vị trí việc làm. Khi mô tả vị
trí việc làm một cách chính xác, sát nhu cầu thực tế công việc thì khi đó mới có cơ sở để khẳng
định thừa, thiếu ở đâu và tinh giản như thế nào. Thế nhưng, nhiều cơ quan đơn vị xây dựng đề án
này với một nguồn nhân lực còn phình to hơn khiến câu chuyện nhân sự càng trở nên xa vời.
Nếu chúng ta chỉ căn cứ vào việc “mắc lỗi" để làm cơ sở cho việc sa thải những cán bộ yếu
kém thì chưa đủ. Chúng ta phải tạo ra một guồng máy hoạt động thực sự, có tiêu chí đánh giá
22
hiệu quả công việc rõ ràng thì mới không còn chỗ cho những kẻ “không làm, không mắc lỗi" lại
được an toàn trong hệ thống. Có nghĩa, đánh giá cán bộ không phải dựa vào việc họ mắc lỗi gì
mà phải là họ làm được gì.
Với một hệ thống nhân lực “con ông cháu cha" trong bộ máy Nhà nước và cả ngoài xã hội,
họ ỷ thế quen biết, lợi dụng ô dù... mà coi thường kỷ cương phép nước, sống trên pháp luật, tự
tạo cho mình những ưu ái riêng ở nhiều lúc, nhiều nơi, thì đó chính là cái nôi để nuôi dưỡng
những "cậu trời, bà chúa" gây bất ổn cho xã hội./.
Nguồn: vov.vn
MỘT LOẠT BẤT THƯỜNG
TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ, TÀI CHÍNH
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TRUNG ƯƠNG
Luân chuyển, bố trí, bổ nhiệm cán bộ trái với chuyên ngành được đào tạo; sắp xếp vị trí việc
làm, thực hiện chế độ chính sách không đúng chức danh nghề nghiệp; chuyển ngạch viên chức
không qua hội đồng xét tuyển; không tổ chức hội thảo nhưng vẫn quyết toán kinh phí từ ngân sách…
Ðó là những chuyện bất thường xảy ra tại Trường cao đẳng Sư phạm Trung ương
(CĐSPTƯ), đang gây bức xúc trong dư luận – báo Nhân Dân đưa tin.
Theo bài báo, bà Nguyễn Thị Ðông có trình độ thạc sĩ quản lý giáo dục với thâm niên 26
năm công tác giáo dục mầm non tại Trường Mầm non Thực hành (MNTH) Hoa Sen, thuộc
Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương (CÐSPTƯ). Từ tháng 5/2010, bà Ðông được bổ nhiệm
làm Hiệu trưởng Trường MNTH Hoa Sen, đến tháng 8/2013, bà tiếp tục được bổ nhiệm lại chức
vụ Hiệu trưởng trường này, nhiệm kỳ 2013 - 2018.
Tháng 10/2015, Hiệu trưởng Trường CÐSPTƯ Ðặng Lộc Thọ ký Quyết định số 1373 điều
động, luân chuyển bà Ðông từ vị trí Hiệu trưởng Trường MNTH Hoa Sen sang vị trí Giám đốc
Trung tâm Thông tin - Thư viện, Trường CÐSPTƯ.
Trước đó, Trường CÐSPTƯ đã thành lập đoàn kiểm tra trách nhiệm quản lý của Hiệu trưởng
Trường MNTH Hoa Sen, nhưng chưa có văn bản kết luận về những thiếu sót, sai phạm của bà
Nguyễn Thị Ðông.
Cho rằng việc Hiệu trưởng Trường CÐSPTƯ ra quyết định điều chuyển vị trí công tác đối
với mình là bất thường và thiếu dân chủ, vi phạm các quy định của pháp luật và quy chế của nhà
trường, điều chuyển vị trí công tác mới không đúng với chuyên môn, bà Ðông có đơn tố cáo ông
Ðặng Lộc Thọ, gửi Bộ Giáo dục và Ðào tạo.
23
Vụ Tổ chức - Cán bộ (Bộ Giáo dục và Ðào tạo) vào cuộc xác minh và có Kết luận số 284,
(ngày 11/5/2016), trong đó nêu: Thu hồi Quyết định số 1373 của Hiệu trưởng Trường CÐSPTƯ
và yêu cầu nghiêm túc kiểm điểm về việc ban hành quyết định này do không phù hợp với các
quy định của pháp luật hiện hành; tổ chức xử lý các nội dung theo Kết luận kiểm tra đối với Hiệu
trưởng Trường MNTH Hoa Sen theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật và quy chế của Trường
CÐSPTƯ; trong công tác sử dụng viên chức, quản lý viên chức và người lao động, cần tăng
cường trao đổi, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, làm công tác tư tưởng, xử lý triệt để các sai phạm,
thiếu sót trước khi ban hành quyết định liên quan đến thay đổi vị trí công tác.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, ông Ðặng Lộc Thọ vẫn chưa thực hiện đầy đủ và nghiêm
túc các nội dung trong Kết luận số 284 của Bộ Giáo dục và Ðào tạo.
Báo Nhân Dân cho biết thêm, không chỉ trường hợp bà Ðông bị điều chuyển sang làm công
việc không đúng chuyên môn mà việc phân công công việc trong Ban Giám hiệu nhà trường
cũng có nhiều bất cập.
Phó Hiệu trưởng có chuyên môn về công nghệ thông tin, có bề dày hoạt động trong lĩnh vực
toán học, công nghệ thông tin, đồng thời có kinh nghiệm trong công tác quản lý các đơn vị đào
tạo về công nghệ, kỹ thuật nhưng lại được phân công phụ trách các khoa khối ngành văn hóa,
nghệ thuật như Khoa Âm nhạc, Khoa Mỹ thuật.
Phó Hiệu trưởng có chuyên môn về lý luận âm nhạc, văn hóa, với nhiều năm kinh nghiệm về
hoạt động âm nhạc và quản lý các ngành âm nhạc, mỹ thuật, giáo dục mầm non, lại được phân
công phụ trách các khoa khối ngành công nghệ, kỹ thuật như Khoa Công nghệ, Khoa Thông tin -
Máy tính, Khoa Quản lý Văn thư…
Ðơn cử, trường hợp bà Huỳnh Thị Vinh (sinh tháng 8/1964), là kế toán Trường THPT Cẩm
Phả (Quảng Ninh). Tháng 1/2015 bà Vinh được tiếp nhận về làm việc tại Trường CÐSPTƯ và
ngay sau đó được bổ nhiệm Phó trưởng Ban phụ trách Ban Quản lý ký túc xá, khi bà Vinh đã
hơn 50 tuổi.
Bà Nguyễn Thu Hà, không có chuyên môn về giáo dục phổ thông, chưa từng làm quản lý,
sau khi được tiếp nhận về làm việc gần một năm thì Hiệu trưởng bổ nhiệm làm Phó Giám đốc
Trung tâm Hỗ trợ và Phát triển Giáo dục đặc biệt, phụ trách khối giáo dục cho người điếc.
Bà Nguyễn Thị Thu Thảo mới là nhân viên hợp đồng nhưng lại được bố trí cùng một lúc làm
việc ở nhiều đơn vị như: Ban Quản lý ký túc xá; Phòng Kế hoạch - Tài chính, Phòng Quản lý
khoa học và Hợp tác quốc tế. Bà Thảo còn được giao phụ trách công tác tài chính của Dự án hợp
tác quốc tế CLEMA về "Nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật ở Việt Nam" do Quỹ Hỗ trợ
phát triển châu Âu tài trợ.
Theo phản ánh của bà Lê Thị Hồng, công tác tại Phòng Hành chính - Tổng hợp, từ tháng
4/2014, bà Hồng được bổ nhiệm từ ngạch chuyên viên sang ngạch giảng viên, sau khi vượt qua
kỳ thi sát hạch chuyên môn do nhà trường tổ chức.
24
Tuy nhiên, trong hai năm học 2014 - 2015 và 2015 - 2016 bà Hồng vẫn tiếp tục được giao
đảm trách công việc ở Phòng Hành chính - Tổng hợp như trước khi chuyển ngạch.
Mặc dù, bà Hồng tham gia giảng dạy hàng trăm tiết mỗi năm, hưởng lương và đóng bảo hiểm
xã hội bắt buộc theo ngạch giảng viên nhưng không được tính phụ cấp thâm niên nhà giáo và
phụ cấp đứng lớp.
Việc phân công bà Hồng làm cán bộ pháp chế không đúng với chuyên môn của bà là sư
phạm Ngữ văn, càng không đúng với quy định của Bộ GD&ÐT là cán bộ pháp chế phải có bằng
cử nhân luật trở lên hoặc đã tham gia chương trình đào tạo về pháp luật và bồi dưỡng kỹ năng,
chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp chế.
Trong khi bà Hồng phải vượt qua kỳ thi sát hạch chuyên môn mới được xét duyệt chuyển
ngạch từ chuyên viên sang giảng viên thì bà Nguyễn Cẩm Yến, Trưởng Phòng Tổ chức - Cán bộ
lại dễ dàng được chuyển từ ngạch chuyên viên chính sang ngạch giảng viên chính.
Bà Hồng cho biết, năm 2014, Hiệu trưởng Ðặng Lộc Thọ đã tự ý ra quyết định chuyển ngạch
cho bà Yến từ chuyên viên chính sang giảng viên chính mà không tổ chức thi sát hạch chuyên
môn, cũng không thành lập hội đồng xét duyệt theo quy định hiện hành.
Tại thời điểm đó, bà Yến cũng chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn của chức danh giảng viên chính
theo quy định như: Chưa từng là giảng viên, chưa đủ thời gian công tác tại trường chuyên
nghiệp. Sau khi chuyển ngạch, Hiệu trưởng Ðặng Lộc Thọ còn ra quyết định cho bà Yến được
hưởng phụ cấp thâm niên nhà giáo từ những năm bà Yến vẫn làm chuyên viên (từ năm 2011).
Thời gian qua, tại Trường CÐSPTƯ không chỉ xảy ra một số bất thường trong công tác cán
bộ mà hoạt động tài chính cũng có vấn đề.
Ðơn cử, trong kế hoạch hoạt động của Trung tâm Nghiên cứu thiết bị dạy học và Học liệu cho
Giáo dục Mầm non và Trẻ khuyết tật (Trường CÐSPTƯ) có một số hội thảo, mặc dù không được tổ
chức nhưng vẫn lập chứng từ khống để thanh quyết toán, với số tiền lên tới hàng trăm triệu đồng.
Thực hiện đề án xây dựng Trung tâm Nghiên cứu thiết bị dạy học và Học liệu cho Giáo dục
Mầm non và Trẻ khuyết tật, Trường CÐSPTƯ được Bộ Giáo dục và Ðào tạo cấp kinh phí 4,5 tỷ
đồng, hiện nay đã thanh quyết toán xong, nhưng số tiền này được sử dụng như thế nào thì ngay
cả lãnh đạo trung tâm cũng trả lời là không biết.
Những chuyện không bình thường nêu trên xảy ra ở Trường CÐSPTƯ đã được một số cán
bộ, viên chức nhà trường phản ánh nhiều lần tới các đơn vị chức năng kể từ năm 2015 đến nay./.
Nguồn: baochinhphu.vn
25
9 LUẬT SẼ CÓ HIỆU LỰC TỪ NGÀY 01/7/2018
Đó là các Luật: 1. Luật Tiếp cận thông tin; ; 2. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; 3.
Luật Quản lý nợ công; 4. Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài; 5. Luật Cảnh vệ; 6. Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; 7. Luật
Chuyển giao công nghệ; 8. Luật Thủy lợi; 9. Luật Đường sắt.
1. Luật Tiếp cận thông tin
Luật Tiếp cận thông tin gồm 5 chương, 37 điều, quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông
tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa
vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Theo đó, chủ thể quyền tiếp cận thông tin là công dân. Người mất năng lực hành vi dân sự thực
hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật. Người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người giám hộ. Người
dưới 18 tuổi yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp luật
về trẻ em và luật khác có quy định khác.
Luật cũng xác định rõ nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin. Trong đó có nguyên tắc:
mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông
tin; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải
đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông
tin.
Luật cũng quy định cụ thể thông tin người dân được tiếp cận và thông tin công dân không được
tiếp cận. Theo đó, Công dân được tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước; Thông tin công dân
không được tiếp cận gồm: a. Thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội
dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa
học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật. Khi thông tin thuộc bí mật nhà nước
được giải mật thì công dân được tiếp cận theo quy định của Luật này; b. Thông tin mà nếu để tiếp
cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia,
quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến
tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về
cuộc họp nội bộ.
26
Luật quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ cơ quan hành pháp, tư pháp đến cơ quan
lập pháp cung cấp thông tin cho công dân; đồng thời quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan
nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Điều cần lưu ý, các cơ quan
chỉ có trách nhiệm thông tin do mình tạo ra. Đối với các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng điều kiện
khó khăn, để tạo thuận lợi cho công dân trong việc yêu cầu cung cấp thông tin và căn cứ vào thực
tiễn nắm giữ thông tin của UBND cấp xã, Luật giao thêm trách nhiệm cho UBND cấp xã thực hiện
việc cung cấp các thông tin do mình nhận được từ cơ quan khác.
2. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) có 9 chương, 78 điều, trong đó, Luật bổ
sung 1 điều quy định về nguyên tắc bồi thường của Nhà nước, về cơ bản, nguyên tắc bồi thường
được kế thừa như quy định của luật hiện hành. Theo đó, việc giải quyết bồi thường được giải quyết
tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại; được kết hợp giải quyết yêu cầu
bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
Luật đã mở rộng nguyên tắc giải quyết bồi thường, cho phép người bị thiệt hại có quyền khởi
kiện ngay ra tòa án khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành
chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự; kết hợp giải
quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường
trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi
hành án dân sự. Người bị thiệt hại có quyền lựa chọn cơ chế giải quyết bồi thường phù hợp nhưng
khi cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý yêu cầu bồi thường thì người đó không được quyền yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết bồi thường. Luật không quy định kết hợp giải quyết bồi
thường trong quá trình giải quyết khiếu nại.
Luật sửa đổi, bổ sung toàn diện các quy định về thiệt hại được bồi thường nhằm khắc phục
những hạn chế, vướng mắc trong thời gian qua, đồng thời bảo đảm việc giải quyết bồi thường nhanh
chóng, hiệu quả.
3. Luật Quản lý nợ công
Luật Quản lý nợ công gồm 10 chương, 63 điều. Việc quản lý nợ công theo nguyên tắc nhà nước
thống nhất quản lý và giao một cơ quan là Bộ Tài chính chịu trách nhiệm chính.
Luật tăng cường thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ, tăng thẩm quyền của tập thể, hạn chế
quy định thẩm quyền của cá nhân; gắn trách nhiệm của tập thể, cá nhân với trách nhiệm quản lý huy
27
động, sử dụng vốn vay và trả nợ công. Một trong những điểm thay đổi quan trọng tại Luật là trước
đây nhiệm vụ chủ trì, tổ chức, thực hiện vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài… được giao cho Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, nay chuyển về Bộ Tài chính.
Nhằm bảo đảm khả năng trả nợ, quản lý rủi ro đối với nợ công, Luật đưa việc bảo đảm khả năng
trả nợ, quản lý rủi ro đối với nợ công về Quỹ tích lũy trả nợ. Quỹ tích lũy trả nợ được lập để đảm
bảo nguồn ngoại tệ trả nợ. Luật bổ sung khái niệm mới về "Ngưỡng cảnh báo nợ công" để cảnh báo
khi mức nợ công tiến gần đến mức trần và theo đó thực hiện các biện pháp để xử lý, kiểm soát. Mức
ngưỡng nợ công do Quốc hội quyết định trong từng thời kỳ.
So với Luật Quản lý nợ công năm 2009, việc cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ được quy định
theo hướng siết chặt đối với từng nhóm đối tượng, bổ sung quy định về quản lý rủi ro bảo lãnh
Chính phủ. Việc quản lý nợ chính quyền địa phương được quy định chặt chẽ, xác định rõ trách
nhiệm, điều kiện vay và trả nợ của chính quyền địa phương.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải giải trình, chịu trách nhiệm khi để xảy ra vi phạm pháp
luật về quản lý nợ công của cơ quan, tổ chức. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, người đứng đầu
cơ quan, tổ chức bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
4. Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ở nước ngoài chỉ quy định sửa đổi, bổ sung đối với 11 điều trong số 36 điều của Luật hiện
hành.
Liên quan đến các nhiệm vụ của cơ quan đại diện, Luật đã sửa đổi, bổ sung về mặt kỹ thuật của
quy định về một số nhiệm vụ lãnh sự của cơ quan đại diện để bảo đảm phù hợp với pháp luật
chuyên ngành; bổ sung quy định về nhiệm vụ của cơ quan đại diện thống nhất quản lý thông tin đối
ngoại tại quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận để phù hợp với nhiệm vụ của cơ quan đại diện về thống
nhất quản lý hoạt động đối ngoại tại quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận; sửa đổi, bổ sung quy định
về kinh phí hoạt động thường xuyên dành cho lĩnh vực thương mại của cơ quan đại diện và quy
định về quản lý các dự án đầu tư xây dựng của cơ quan đại diện nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh phí, đầu tư xây dựng của cơ quan đại diện.
Luật bổ sung quy định làm rõ nhiệm vụ bảo vệ bí mật Nhà nước, bảo đảm an ninh, an toàn đối
với thành viên và trụ sở cơ quan đại diện; bổ sung quy định về việc cơ quan đại diện tổng hợp, báo
cáo định kỳ hàng năm về hoạt động của các đoàn được cử đi công tác nước ngoài nhằm thể chế hóa
28
Quy chế về thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại do Bộ Chính trị ban hành. Luật quy định về
việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn
quyền nhằm thể chế hóa quy định của Hiến pháp 2013.
5. Luật Cảnh vệ
Luật Cảnh vệ có 6 chương, 33 điều. Về đối tượng cảnh vệ, biện pháp, chế độ cảnh vệ áp dụng
đối với người giữ chức vụ, chức danh cấp cao của Đảng, nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Ngoài ra, khách quốc tế đến thăm, làm việc tại Việt Nam được áp dụng biện pháp,
chế độ cảnh vệ. Biện pháp cảnh vệ được áp dụng đối với khu vực trọng yếu, các sự kiện đặc biệt
quan trọng. Các quy định về đối tượng cảnh vệ, biện pháp về chế độ quy định tại chương này cơ bản
kế thừa các quy định của Pháp lệnh Cảnh vệ năm 2005. Theo đó, không bổ sung đối tượng cảnh vệ.
Luật nêu rõ 4 trường hợp cán bộ, chiến sỹ đang thi hành nhiệm vụ được nổ súng. Đó là; Nổ súng
trong trường hợp cảnh báo đối tượng đang đột nhập vào khu vực, mục tiêu cảnh vệ. Nổ súng vào
đối tượng đang đột nhập vào khu vực, mục tiêu cảnh vệ, sau khi đã ra hiệu lệnh dừng lại và bắn chỉ
thiên nhưng không hiệu quả. Nổ súng để vô hiệu hóa đối tượng đang có hành vi tấn công trực tiếp
đối với cảnh vệ hoặc cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ đang thực hiện nhiệm vụ.
Ngoài ra, cán bộ, chiến sĩ Cảnh vệ được nổ súng trong các trường hợp khác theo quy định của
luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.
6. Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ
Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ gồm 8 chương, 76 điều. Luật bổ
sung đối tượng được trang bị vũ khí gồm có cảnh sát biển, cơ yếu, cơ quan điều tra của Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao; giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ vào tính chất,
yêu cầu, nhiệm vụ quy định việc trang bị vũ khí cho các đối tượng thuộc phạm vi quản lý.
Về quy định nổ súng, Luật quy định cụ thể các trường hợp nổ súng quân dụng khi thực hiện
nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự; theo đó, căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội,
Luật quy định thành nhóm các trường hợp nổ súng sau khi đã cảnh báo và nhóm các trường hợp nổ
súng không cần cảnh báo. Đồng thời, Luật quy định nguyên tắc sử dụng vũ khí quân dụng theo
hướng: khi thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, việc sử dụng vũ khí quân
dụng phải căn cứ vào tình huống, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà đối tượng thực hiện
để quyết định việc sử dụng vũ khí quân dụng và phải hạn chế thiệt hại do việc sử dụng vũ khí quân
dụng gây ra... nhằm bảo đảm tính khái quát áp dụng chung cho các loại vũ khí quân dụng trong thực
29
hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự. Với quy định này, khi thực hiện nhiệm vụ, người thi hành
công vụ cần căn cứ vào dấu hiệu tội phạm, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội hoặc quyết
định của người có thẩm quyền để quyết định việc sử dụng vũ khí quân dụng.
7. Luật Chuyển giao công nghệ
Luật Chuyển giao công nghệ gồm 60 điều, được bố cục thành 6 chương. Luật bổ sung cơ chế hỗ
trợ, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp; bổ sung, sửa đổi
quy định về thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; bổ sung
giải pháp phát triển thị trường khoa học và công nghệ; bổ sung quy định về chuyển giao công nghệ
trong nông nghiệp; sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về chuyển giao công
nghệ.
Trong đó, Luật quy định quản lý chặt chẽ hơn đối với chuyển giao công nghệ không thuộc Danh
mục hạn chế, cấm chuyển giao công nghệ. Theo đó, Luật có quy định bắt buộc đăng ký đối với
chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước
ngoài và chuyển giao công nghệ trong nước có sử dụng vốn nhà nước. Bên cạnh đó, Luật bổ sung
một loạt biện pháp nhằm tạo cơ chế phát triển nguồn cung, thúc đẩy nguồn cầu và phát triển các tổ
chức trung gian của thị trường khoa học công nghệ.
Để thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp, tạo điều kiện cho nông dân có thể tiếp
cận, thụ hưởng công nghệ, kỹ thuật canh tác tiên tiến, hiện đại, Luật đã dành một điều quy định về
hoạt động chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp, trong đó, quy định hình thức, phương thức
chuyển giao công nghệ đặc thù trong nông nghiệp.
8. Luật Thủy lợi
Luật Thủy lợi quy định rõ nguyên tắc trong đầu tư xây dựng công trình thủy lợi, trong đó, Nhà
nước chỉ tập trung đầu tư các công trình thủy lợi quan trọng đặc biệt, công trình thủy lợi lớn; công
trình thủy lợi khó huy động các nguồn lực xã hội; công trình thủy lợi kết hợp phục vụ quốc phòng,
an ninh, phòng, chống thiên tai; công trình thủy lợi ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải
đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng bị ảnh hưởng lớn của biến đổi khí
hậu
Quy định chuyển từ ''phí'' sang ''giá'' sản phẩm, dịch vụ thủy lợi nhằm thể chế hóa các chủ
trương lớn của Đảng, Nhà nước. Thực hiện cơ chế giá sẽ làm thay đổi nhận thức của xã hội, từ thủy
lợi ''phục vụ'' sang thủy lợi ''dịch vụ'', gắn trách nhiệm của bên cung cấp dịch vụ thủy lợi và bên sử
30
dụng dịch vụ thủy lợi; giúp người sử dụng dịch vụ thủy lợi hiểu rõ bản chất nước là hàng hóa, coi
dịch vụ thủy lợi là chi phí đầu vào trong sản xuất, nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi không phân biệt
nguồn vốn đầu tư; kinh phí hỗ trợ được ngân sách Nhà nước bảo đảm; Chính phủ sẽ quy định cụ thể
nhằm đảm bảo tính linh hoạt trong tổ chức thực hiện, bảo đảm ổn định trong phát triển sản xuất
nông nghiệp và đời sống người dân nông thôn. Hiện, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang
xây dựng Kế hoạch triển khai thi hành Luật thủy lợi để xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật, triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến bảo đảm tính khả thi khi Luật có hiệu lực thi hành.
Luật gồm 10 chương, 60 điều.
9. Luật Đường sắt
Luật Đường sắt gồm 10 chương, 87 điều, tăng 2 chương, giảm 27 điều so với Luật Đường sắt
năm 2005, với đầy đủ các quy định điều chỉnh mọi hoạt động trong lĩnh vực đường sắt, có vai trò
quan trọng và tác động rất lớn tới sự phát triển của ngành đường sắt nói riêng và kinh tế- xã hội của
Việt Nam nói chung.
Chính sách phát triển đường sắt đã được Luật bổ sung quy định đầy đủ, chi tiết trong các lĩnh
vực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đường sắt, kinh doanh đường sắt, công nghiệp đường sắt, phát
triển đường sắt chuyên dùng. Đặc biệt, đối với chính sách ưu tiên phân bổ ngân sách Trung ương
trong kế hoạch đầu tư công để bảo đảm phát triển hạ tầng đường sắt quốc gia. Với những chính sách
này nhằm định hướng và làm căn cứ cho Chính phủ ban hành các chính sách cụ thể trong từng giai
đoạn phù hợp với thực tế phát triển trong hoạt động đường sắt. Đường sắt tốc độ cao là điểm mới
của Luật.
Luật bổ sung quy định đối với niên hạn sử dụng phương tiện giao thông đường sắt; tuy nhiên sẽ
được thực hiện có lộ trình để bảo đảm không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp kinh
doanh vận tải đường sắt. Nội dung này giao Chính phủ quy định cụ thể để bảo đảm yêu cầu các
phương tiện giao thông đường sắt dần được thay thế nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng
và bảo đảm an toàn đường sắt.
Nguồn: moj.gov.vn
31
NHÂN SỰ MỚI CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG
* Ban Tuyên giáo Trung ương:
Ông Phạm Văn Linh, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Phó Chủ tịch kiêm nhiệm Hội
đồng Lý luận Trung ương được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận
Trung ương nhiệm kỳ 2016 - 2021.
* Ủy ban Dân tộc:
Bà Hoàng Thị Hạnh, nguyên Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Bắc được bổ nhiệm giữ chức Thứ
trưởng, Phó Chủ nhiệm UBDT và được chỉ định tham gia Ban Cán sự Đảng UBDT.
* Thành phố Hải Phòng:
Ông Trần Việt Tuấn, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở
Kế hoạch và Đầu tư từ ngày 1/7/2018.
Ông Nguyễn Đức Thọ, Bí thư Huyện ủy An Lão được điều động, bổ nhiệm giữ chức Giám đốc
Sở Giao thông vận tải Hải Phòng từ ngày 1/7/2018.
Ông Trần Văn Phương, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường giữ chức vụ Giám đốc Sở
Tài nguyên và Môi trường từ ngày 1/7/2018.
Ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó Bí thư Thường trực Quận ủy, Chủ tịch HĐND quận Lê Chân giữ
chức vụ Phó Giám đốc Sở Nội vụ, kể từ ngày 1/7/2018
* Tỉnh Quảng Ninh:
Ông Nguyễn Hồng Phương, Phó Giám đốc Sở Nội vụ, Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh được điều
động, bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao.
Ông Nguyễn Văn Đức, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được điều động,
bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Trưởng Ban xây dựng Nông thôn mới.
* Tỉnh Thái Nguyên:
Ông Lê Văn Vịnh, Phó Chánh văn phòng UBND tỉnh được bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Sở
Giao thông vận tải tỉnh Thái Nguyên.
Ông Nguyễn Thanh Bình, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư được chỉ định tham gia Ban
Chấp hành, Ban Thường vụ, giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thái Nguyên nhiệm kỳ
2015 - 2020 từ ngày 1/7.
* Tỉnh Hải Dương:
Đại tá Vũ Thanh Chương, Phó Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng được điều động, bổ
nhiệm giữ chức Giám đốc Công an tỉnh Hải Dương.
32
* Tỉnh Bắc Giang:
Thiếu tướng Tô Ân Xô, Cục trưởng của Bộ Công an được điều động và bổ nhiệm giữ chức vụ
Giám đốc Công an tỉnh Bắc Giang kể từ ngày 1/7/2018.
Nguồn: baochinhphu.vn
CÔNG BỐ QUYẾT ĐỊNH
THÀNH LẬP BỆNH VIỆN BỎNG QUỐC GIA
Bộ trưởng Quốc phòng đã ký Quyết định nâng cấp Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác thành
Bệnh viện Bỏng Quốc gia và thành lập Bộ môn - Trung tâm phẫu thuật tạo hình, thẩm mỹ và tái tạo
tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia.
Sáng 28/6, Học viện quân y đã tổ chức lễ công bố Quyết định nâng cấp Viện bỏng Lê Hữu Trác
thành Bệnh viện Bỏng Quốc gia thuộc Học viện Quân y và Quyết định thành lập Bộ môn – Trung
tâm phẫu thuật tạo hình, thẩm mỹ và tái tạo tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia.
Đây là cột mốc đánh dấu sự trưởng thành, tiến bộ vượt bậc trong khám bệnh, điều trị, nghiên
cứu khoa học, công nghệ và kỹ thuật y tế chuyên ngành bỏng của cán bộ, thầy thuốc quân đội.
Phát biểu tại buổi lễ Thiếu tướng, PGS.TS Nguyễn Gia Tiến, Giám đốc Bệnh viện Bỏng Quốc
gia cho biết, Bệnh viện Bỏng Quốc gia là đơn vị đi đầu trong việc nghiên cứu và ứng dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới thuộc chuyên ngành bỏng và phẫu thuật thẩm mỹ.
Mỗi năm, bệnh viện đã khám, thu dung, điều trị cho hàng chục nghìn lượt bệnh nhân bỏng, sẹo
di chứng sau bỏng, sau chấn thương …
Trong công tác điều trị, Bệnh viện Bỏng Quốc gia đã cứu chữa được nhiều bệnh nhân cũng như
thương binh bị bỏng rộng, độ sâu lớn và nhiều biến chứng phức tạp. Tỷ lệ tử vong những năm trước
trong bỏng thường là rất cao 9-10%, những năm gần đây tỷ lệ tử vong những bệnh nhân bỏng đã
giảm xuống 1-2%. Bệnh viện đã được Bộ Y tế giao nhiệm vụ là đơn vị đầu ngành chỉ đạo tuyến toàn
quốc về chuyên ngành bỏng.
Đáp ứng nhu cầu của người dân, phù hợp với sự phát triển chung của ngành y tế, được sự đồng ý
của Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Viện Bỏng Lê Hữu Trác phát triển thành bệnh viện chuyên khoa đặc
biệt và được đổi tên thành Bệnh viện Bỏng Quốc gia với quy mô 500 giường bệnh.
Cùng với sự phát triển chung của Bệnh viện, Bộ môn - Trung tâm phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ
và tái tạo được thành lập từ Khoa phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ, Bệnh viện Bỏng Quốc gia.
Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ là một chuyên ngành quan trọng của phẫu thuật ngoại khoa. Bên
cạnh đó, nhu cầu đào tạo chuyên ngành phẫu thuật thẩm mỹ cấp đại học và sau đại học ngày càng
33
tăng lên, Bộ môn - Trung tâm phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ và tái tạo của Bệnh viện Bỏng Quốc gia
đã ra đời đáp ứng nhu cầu của người bệnh, phù hợp với xu thế phát triển của bệnh viện.
Bộ môn - Trung tâm phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ và tái tạo sẽ là nơi gắn kết giữa đào tạo,
nghiên cứu khoa học và điều trị./.
Nguồn:baochinhphu.vn
34
UỶ BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG KỶ LUẬT,
ĐỀ NGHỊ KỶ LUẬT NHIỀU CÁN BỘ CAO CẤP
Trong hai ngày 27 và 28/6, tại Hà Nội, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 27. Đồng chí
Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.
Tại kỳ họp này, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương đã xem xét, kết luận một số nội dung sau:
I- Về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng
Phòng không - Không quân, Bộ Quốc phòng.
1- Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân đã vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ và quy chế làm việc; buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy
ra nhiều vi phạm, khuyết điểm trong quản lý, sử dụng đất quy hoạch cho mục đích quốc phòng chưa
sử dụng ngay cho nhiệm vụ quốc phòng vào mục đích kinh tế, liên doanh, liên kết và thực hiện các
dự án nhà ở cho quân nhân.
2- Đồng chí Thượng tướng Phương Minh Hòa, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, trong thời gian giữ cương vị Bí
thư Đảng ủy, Chính ủy và Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân,
chịu trách nhiệm chính về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Đảng ủy nhiệm kỳ
2010-2015; trực tiếp ký một số văn bản sử dụng đất vào mục đích kinh tế, liên doanh, liên kết không
đúng quy định.
3- Đồng chí Trung tướng Nguyễn Văn Thanh, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chính ủy
Quân chủng Phòng không - Không quân chịu trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm,
khuyết điểm của Ban Thường vụ Đảng ủy nhiệm kỳ 2010-2015; chịu trách nhiệm trong việc xét
duyệt danh sách hưởng chính sách nhà ở, đất ở của quân đội, trong đó có một số trường hợp không
đúng đối tượng theo quy định.
Những vi phạm của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân nhiệm kỳ
2010-2015, đồng chí Thượng tướng Phương Minh Hòa và đồng chí Trung tướng Nguyễn Văn
Thanh là nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng và quân đội, đến mức phải xem
xét, xử lý kỷ luật theo quy định của Đảng.
Các đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân nhiệm kỳ
2010-2015 cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Đảng ủy và
chịu trách nhiệm trực tiếp về những vi phạm, khuyết điểm của cá nhân.
UBKT Trung ương đề nghị Thường vụ Quân ủy Trung ương chỉ đạo kiểm điểm, xem xét trách
nhiệm các cá nhân có liên quan.
35
II- Xem xét, thi hành kỷ luật Ban cán sự đảng (BCSĐ) Bộ Thông tin và Truyền thông và
các cá nhân liên quan về các vi phạm, khuyết điểm đã được kết luận tại kỳ họp 26 của UBKT Trung
ương.
Xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm; căn cứ các quy định của Đảng về xử lý kỷ luật
tổ chức đảng và đảng viên vi phạm, UBKT Trung ương quyết định:
- Thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với đồng chí Lê Nam Trà, nguyên
Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối doanh nghiệp Trung ương, nguyên Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch
Hội đồng thành viên Tổng công ty Mobifone và đồng chí Phạm Đình Trọng, Đảng ủy viên, Bí thư
Chi bộ, Vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp, Bộ Thông tin và Truyền thông; cách chức tất cả các
chức vụ trong Đảng đối với đồng chí Cao Duy Hải, Phó Bí thư Đảng ủy, Thành viên Hội đồng thành
viên, Tổng Giám đốc Tổng công ty Mobifone; khiển trách đối với đồng chí Phạm Hồng Hải, Ủy
viên BCSĐ, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Đối với BCSĐ Bộ Thông tin và Truyền thông, đồng chí Nguyễn Bắc Son, nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng, nguyên Bí thư BCSĐ, nguyên Bộ trưởng và đồng chí Trương Minh Tuấn, Ủy
viên Trung ương Đảng, Bí thư BCSĐ, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, UBKT Trung ương
đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, thi hành kỷ luật.
III- Xem xét, thi hành kỷ luật Ban Thường vụ Đảng ủy Ngân hàng Thương mại cổ phần
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và các cá nhân liên quan về các vi phạm, khuyết điểm đã
được kết luận tại kỳ họp 26 của UBKT Trung ương.
Xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm; căn cứ các quy định của Đảng về xử lý kỷ luật
tổ chức đảng và đảng viên vi phạm, UBKT Trung ương quyết định:
- Thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với đồng chí Trần Bắc Hà, nguyên
Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị; cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng đối
với đồng chí Đoàn Ánh Sáng, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Tổng Giám đốc; cảnh
cáo đối với đồng chí Trần Lục Lang, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Tổng Giám đốc BIDV.
- Yêu cầu Ban Thường vụ Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương thi hành kỷ luật đối với Ban
Thường vụ Đảng ủy BIDV.
IV- Xem xét, thi hành kỷ luật đồng chí Trần Việt Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ
Khối doanh nghiệp Trung ương, Phó Bí thư Đảng ủy Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam.
Trong thời gian giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy, Tổng Giám đốc Tổng công ty Công nghiệp Xi
măng Việt Nam và Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Xi măng Hà Tiên 1,
đồng chí đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng
công ty, ký ban hành và tổ chức thực hiện một số quy định về quản lý kinh doanh không đúng thẩm
quyền; vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên.
36
Căn cứ quy định của Đảng về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, UBKT Trung ương đề nghị Ban
Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật đối với đồng chí Trần Việt Thắng theo thẩm quyền.
V- Xem xét kết quả giám sát đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các đồng chí Thường trực
Tỉnh ủy Hà Nam.
UBKT Trung ương nhận thấy, bên cạnh những ưu điểm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các đồng
chí Thường trực Tỉnh ủy Hà Nam còn có một số vi phạm, khuyết điểm trong thực hiện Quy chế làm
việc, công tác cán bộ và trong quản lý đất đai.
UBKT Trung ương yêu cầu Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy Hà Nam nghiêm túc kiểm
điểm, xem xét trách nhiệm và kịp thời khắc phục, sửa chữa các vi phạm, khuyết điểm nêu trên.
VI- Tại kỳ họp này, UBKT Trung ương đã xem xét, giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối
với 4 trường hợp; trong đó, giữ nguyên hình thức kỷ luật 3 trường hợp, thay đổi hình thức kỷ luật 1
trường hợp./.
Nguồn:baochinhphu.vn
37