tiỂu luẬn tỔng quan vỀ tÌnh hÌnh nghiÊn cỨu · 1. tính cấp thiết của đề tài...

166
1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình tổ chức thực thi quyền lực nhà nước, là yếu tố trung tâm của nhà nước pháp quyền. Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, không thể để quyền lực tuyệt đối không giới hạn. Bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khi được giao sử dụng quyền lực nhà nước đều phải chịu sự kiểm soát để không xảy ra các tệ nạn độc quyền, cửa quyền, đặc quyền, lạm quyền, tiếm quyền,làm tha hoá bản chất và mục đích ban đầu của quyền lực nhà nước. Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đang đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức, như: tham nhũng chưa bị đẩy lùi; dân chủ có lúc, có nơi bị vi phạm; kỷ cương, kỷ luật ở một số cấp, một số lĩnh vực không nghiêm. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội đang có xu hướng đi ngược lại với tôn chỉ, mục đích mà Đảng, Nhà nước ta hướng đến là xây dựng một Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết với Nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân, có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Mặt khác, chúng ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới toàn diện, hội nhập sâu rộng, theo đó giải quyết mối quan hệ nhà nước - thị trường - xã hội trong các lĩnh vực phát triển ngày càng trở nên quan trọng. Chúng ta cũng đang xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà trong đó các quyền con người, quyền công dân phải được bảo đảm, Nhà nước phải là nhà nước “có trách nhiệm”, nhà nước “kiến tạo

Upload: others

Post on 02-Aug-2020

12 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình tổ

chức thực thi quyền lực nhà nước, là yếu tố trung tâm của nhà nước pháp

quyền. Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng quyền lực nhà nước phải được kiểm

soát, không thể để quyền lực tuyệt đối không giới hạn. Bất kỳ cơ quan, tổ

chức, cá nhân nào khi được giao sử dụng quyền lực nhà nước đều phải chịu sự

kiểm soát để không xảy ra các tệ nạn độc quyền, cửa quyền, đặc quyền, lạm

quyền, tiếm quyền,… làm tha hoá bản chất và mục đích ban đầu của quyền

lực nhà nước.

Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay đang đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức, như: tham nhũng chưa

bị đẩy lùi; dân chủ có lúc, có nơi bị vi phạm; kỷ cương, kỷ luật ở một số cấp,

một số lĩnh vực không nghiêm. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội

đang có xu hướng đi ngược lại với tôn chỉ, mục đích mà Đảng, Nhà nước ta

hướng đến là xây dựng một Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết với

Nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng

nghe ý kiến của Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân, có cơ chế và

biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,

vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.

Mặt khác, chúng ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới toàn diện, hội nhập sâu rộng, theo đó giải

quyết mối quan hệ nhà nước - thị trường - xã hội trong các lĩnh vực phát triển

ngày càng trở nên quan trọng. Chúng ta cũng đang xây dựng nền dân chủ xã

hội chủ nghĩa mà trong đó các quyền con người, quyền công dân phải được

bảo đảm, Nhà nước phải là nhà nước “có trách nhiệm”, nhà nước “kiến tạo

Page 2: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

2

phát triển”. Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn, kiểm soát quyền lực nhà nước

là đề tài cấp bách hiện nay.

Kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ có thể có hiệu lực và hiệu quả khi

hoạt động này được thể chế hoá bằng luật pháp. Kinh nghiệm cho thấy, có thể

kiểm soát quyền lực nhà nước bằng những cách khác nhau: bằng đạo đức,

bằng tập quán, thông lệ truyền thống hay bằng dư luận xã hội… Nhưng với

đặc trưng của nhà nước pháp quyền là tính thượng tôn của pháp luật, thì khi

và chỉ khi được quy định bằng pháp luật, có thể chế pháp lý bảo đảm, các biện

pháp kiểm soát quyền lực nhà nước mới có đầy đủ sức mạnh và tính khả thi.

Hoàn thiện thể chế, trong đó có thể chế pháp lý, là một trong những

khâu đột phá của nước ta đã được xác định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

XI (năm 2011), tuy nhiên sau nhiều năm thực hiện, vẫn còn nhiều hạn chế.

Quá trình tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới đất

nước (1986 – 2016), đặc biệt 10 năm đổi mới gần đây, tại Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ XII cho thấy động lực mà những cải cách trước đây tạo ra đã

không còn đủ mạnh để thúc đẩy phát triển. Đây là lúc chúng ta cần có thêm

động lực để lấy lại đà tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Ngu n động

lực đó phải đến từ đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của

Nhân dân.

Với các quy định của Hiến pháp năm 2013, cơ sở hiến định về kiểm

soát quyền lực nhà nước đã được ghi nhận nhưng thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay chưa hoàn thiện. Kiểm soát giữa các

cơ quan trong bộ máy nhà nước đã được cụ thể hoá một bước trong các luật

về tổ chức bộ máy nhà nước nhưng vẫn còn phải tiếp tục; phương thức lãnh

đạo và kiểm soát của Đảng đối với Nhà nước cần được làm rõ hơn; kiểm soát

quyền lực nhà nước từ phía nhân dân mới được quy định có tính nguyên tắc,

muốn thực hiện cần xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các luật và

văn bản dưới luật kèm theo.

Page 3: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

3

Những phân tích nêu trên cho thấy nghiên cứu “Thể chế pháp lý về

kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” hiện nay là vấn đề thực sự cấp

thiết. Qua tìm hiểu, Nghiên cứu sinh nhận thấy có nhiều nghiên cứu về quyền

lực nhà nước và những cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, song nghiên

cứu toàn diện về thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta thì

chưa thực sự được chú ý. Do đó, Nghiên cứu sinh đã đề xuất và được chọn đề

tài: “Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” để thực

hiện Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thể chế pháp lý kiểm

soát quyền lực nhà nước; khái quát sự hình thành, phát triển, đánh giá được

thực trạng và nêu ra những bất cập của thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực

nhà nước ở Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó xác định những yêu cầu và kiến

nghị giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở

Việt Nam thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích những nội dung lý luận về thể chế pháp lý kiểm soát quyền

lực nhà nước, như: khái niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung, hình thức, các bộ

phận hợp thành thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam;

trình bày một số kinh nghiệm có giá trị qua tham khảo thể chế pháp lý về

kiểm soát quyền lực nhà nước của một số nước trên thế giới.

- Khái quát quá trình hình thành, phát triển thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam trên nền tảng các bản hiến pháp đã có trong

lịch sử lập hiến nước ta; tập trung đánh giá thực trạng thể chế và việc thực

hiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước theo các quy định của

Hiến pháp năm 2013.

Page 4: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

4

- Trên cơ sở kết quả đạt được từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn,

nêu ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý về

kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta thời gian tới.

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

3.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận chính là học thuyết Mác – Lênin, tư

tưởng H Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Có tham khảo một số tư tưởng,

học thuyết về nhà nước và pháp luật trên thế giới, như: học thuyết chủ quyền

nhân dân, học thuyết phân chia quyền lực, lý luận về nhà nước pháp quyền,…

Vận dụng các quan điểm của Đảng ta trong lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn

diện đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,

đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của triết học Mác – Lê nin; đ ng thời áp dụng các phương pháp cụ thể như:

phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp chuyên gia; phương pháp hệ

thống, liên ngành; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp luật học

so sánh, … để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Bao g m các đề tài khoa học, sách

chuyên khảo, bài báo, tạp chí khoa học có chứa đựng các phân tích và kết luận

đã được các tác giả khác thực hiện; các văn kiện của Đảng, văn bản quy phạm

pháp luật của Nhà nước, số liệu thống kê chính thức đã công bố,… Phương

pháp này được áp dụng chủ yếu trong Chương 1 và Chương 3 của Luận án.

- Phương pháp chuyên gia: Được sử dụng để thu thập thông tin và ý

kiến của những chuyên gia, các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu về

những vấn đề liên quan đến đề tài. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu

trong Chương 2 và Chương 3 của Luận án.

Page 5: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

5

- Phương pháp hệ thống, liên ngành: Đặt đối tượng nghiên cứu trong

mối quan hệ có tính chỉnh thể, biện chứng, khách quan, kết hợp thành tựu

nghiên cứu của nhiều ngành (xã hội học, chính trị học, luật học,...) để luận

giải đa diện, đa chiều về đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này áp dụng chủ

yếu trong Chương 2 của Luận án.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng để tổng hợp các số

liệu, tri thức có được từ hoạt động nghiên cứu tài liệu, phỏng vấn chuyên gia

nhằm đưa ra những luận giải, nhận xét và đề xuất của tác giả luận án. Phương

pháp này được áp dụng chủ yếu trong Chương 3 và Chương 4 của Luận án.

- Phương pháp luật học so sánh được vận dụng trong nghiên cứu thể

chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước; rút ra những

kinh nghiệm có thể áp dụng phù hợp với yêu cầu, đặc điểm của Việt Nam.

Phương pháp này thể hiện tập trung ở mục 2.3, Chương 2 của Luận án.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là các vấn đề lý luận về thể chế

pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước; thực tiễn xây dựng, áp dụng thể chế

pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Đây là đề tài có phạm vi rộng, do đó, trong khuôn khổ Luận án này, tác

giả xác định phạm vi nghiên cứu chủ yếu là thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước được quy định trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959,

1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); tập trung vào thể chế pháp lý được

xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và một số luật mới ban hành trong

thời gian gần đây ở nước ta.

5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án

- Luận án đã bổ sung, xây dựng được cơ sở lý luận về thể chế pháp lý

kiểm soát quyền lực nhà nước một cách khoa học, hệ thống và toàn diện: làm

Page 6: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

6

rõ được khái niệm, đặc điểm, vai trò, các bộ phận cấu thành, nội dung, hình

thức của thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước; trình bày được một

số kinh nghiệm từ việc tham khảo thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà

nước của một số nước trên thế giới.

- Luận án đã khái quát được quá trình hình thành và phát triển thể chế

pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta qua các thời kỳ hiến pháp;

đặc biệt, tập trung phân tích thực trạng thể chế và việc áp dụng thể chế pháp

lý về kiểm soát quyền lực nhà nước hiện hành tính từ khi có Hiến pháp năm

2013 đến nay.

- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận án nêu được các yêu

cầu và đề xuất giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực

nhà nước ở Việt Nam dưới góc nhìn tổng thể, đ ng bộ.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án

- Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần xây dựng cơ sở lý luận

khoa học cho việc hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà

nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

- Luận án góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập của thể chế pháp

lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay bằng việc đề xuất

hoàn thiện thể chế đó theo tinh thần và nội dung mới của Hiến pháp năm

2013, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

- Luận án là ngu n tài liệu tham khảo tin cậy và cần thiết phục vụ hoạt

động nghiên cứu khoa học và giảng dạy trong các cơ sở giáo dục và đào tạo.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác

giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án

g m 4 chương, 11 mục và các tiểu mục.

Page 7: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nước

Tại Việt Nam, quyền lực nhà nước (QLNN) thuộc đối tượng nghiên

cứu của nhiều ngành: luật học, chính trị học, hành chính học, triết học,... Vì

vậy, QLNN được quan tâm luận giải dưới nhiều góc độ, qua đó đã góp phần

làm sáng tỏ những vấn đề, như: khái niệm, ngu n gốc, bản chất, cách thức tổ

chức, cơ chế vận hành, các bộ phận cấu thành QLNN. Các kết quả nghiên cứu

về QLNN đã được công bố trong nhiều tác phẩm, tiêu biểu như:

- Sách tham khảo Một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền lực nhà

nước (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009) của TS. Nguyễn Minh

Đoan và các tác giả, trong đó đã trình bày: khái quát về QLNN; quyền lực nhà

nước thống nhất và vấn đề phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện QLNN ở Việt Nam; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam với việc tổ chức thực hiện QLNN; nguy cơ tha hóa QLNN; vấn đề

bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động của nhà nước.

- Sách chuyên khảo Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nhà

xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2009) do GS.TSKH. Đào Trí Úc và

PGS.TS. Phạm Hữu Nghị đ ng chủ biên. Trên cơ sở nghiên cứu phân tích về

đặc trưng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã cho rằng cần

thiết xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phải bảo đảm sự giám sát

đối với việc thực thi QLNN ở Việt Nam.

Trong giai đoạn chuẩn bị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, nhiều

nghiên cứu đã tiếp tục đi sâu vào các vấn đề về QLNN và tổ chức quyền lực

Page 8: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

8

nhà nước, như: Hội thảo “Quyền hành pháp – Một số vấn đề lý luận và Thực

tiễn” và Hội thảo “Quyền tư pháp – Một số vấn đề Lý luận và thực tiễn” do

Bộ Tư pháp tổ chức tại Hà Nội năm 2013. Các bài viết về QLNN, như: “Nội

hàm và thể hiện nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của PGS.TS. Vũ Thư, Tạp chí Nghiên cứu

lập pháp, số 21, năm 2010; “Hoàn thiện mô hình tổ chức và vận hành quyền

lực nhà nước trong Hiến pháp” của TS. Đỗ Minh Khôi;… Một số nghiên cứu

khác cũng đề cập đến QLNN ở góc độ phân cấp, phân quyền giữa chính

quyền trung ương và chính quyền địa phương, như: Đề tài cấp bộ “Phân công

quyền lực gi a chính quyền trung ương và chính quyền đ a phương tại Việt

Nam - L ch s Lý luận và Thực tiễn” của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư

pháp, nghiệm thu năm 2012); bài viết Đổi mới nhận thức về phân cấp phân

quyền gi a trung ương và đ a phương gi a chính quyền đ a phương các cấp

ở nước ta hiện nay của tác giả Chu Văn Hưởng trên Tạp chí Quản lý Nhà

nước, số 192(1/2012);...

Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, nhiều nhà nghiên cứu tiếp

tục có các bài viết phân tích sâu sắc những vấn đề về QLNN và tổ chức, vận

hành QLNN theo tinh thần Hiến pháp mới và đóng góp cho việc xây dựng các

luật về tổ chức bộ máy nhà nước, như: “Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước

trong Hiến pháp năm 2013” của PGS,TS. Đinh Xuân Thảo; “Nh ng nội dung

cơ bản của Hiến pháp năm 2013 về chính quyền đ a phương và đ nh hướng

triển khai” của PGS, TS. Nguyễn Đức Minh; “Làm rõ nh ng quy đ nh của

Hiến pháp về v trí vai trò pháp lý của Chính phủ” của GS.TS. Phạm H ng

Thái [124]; “Sự phát triển nhận thức và vận dụng nguyên tắc về tổ chức

quyền lực nhà nước ở nước ta từ năm 1986 đến nay” của PGS,TS. Bùi Xuân

Đức; “Quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân thể hiện xuyên

suốt trong toàn bộ Hiến pháp năm 2013” của TS. Trần Thị Tuyết Mai [123].

Page 9: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

9

Gần đây, để góp phần xây dựng văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XII, nhiều quan điểm khoa học về QLNN được quan tâm chia sẻ, trong đó

tiêu biểu là các bài viết tại Hội thảo khoa học “Những vấn đề lý luận và thực

tiễn cấp bách về nhà nước và pháp luật trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII của Đảng” do Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Hàn lâm Khoa

học xã hội Việt Nam) tổ chức tại Hà Nội ngày 14-15/7/2015, như: “Nh ng

vấn đề cấp bách trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở

nước ta hiện nay” của GS.TS. Võ Khánh Vinh; “Tiếp tục xây dựng và hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của

GS.TSKH. Đào Trí Úc; “Bàn về nh ng mối liên hệ của quyền lực nhà nước ở

nước ta hiện nay” của PGS.TS. Nguyễn Đức Minh; “Một số vấn đề về quyền

lực nhà nước ở nước ta hiện nay” của PGS.TS. Vũ Thư; “Quan hệ gi a

Đảng và Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” của

PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương; “Tổ chức thực thi quyền lập pháp trong

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Thuận; “Tổ

chức thực thi quyền hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”

của TS. Nguyễn Văn Tuấn; “Tổ chức thực thi quyền tư pháp trong Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam” của TS. Phạm Thị Hương Lan …[122].

1.1.2. Những công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà

nước

Cho đến nay, nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước (KSQLNN)

ở nước ta đã có khá nhiều, cả dưới góc độ chung và đi vào từng cơ chế, hình

thức, chủ thể, đối tượng của hoạt động KSQLNN. Trước khi có Hiến pháp

năm 2013, các công trình nghiên cứu tập trung vào các hình thức KSQLNN

như: giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát..., gắn với một số chủ thể: Nhân

dân, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,... Trong giai đoạn

chuẩn bị dự thảo Hiến pháp sửa đổi và sau khi ban hành Hiến pháp mới vào

năm 2013, các nghiên cứu về KSQLNN được thúc đẩy mạnh mẽ hơn, toàn

Page 10: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

10

diện hơn, đi sâu vào các cơ chế KSQLNN bên ngoài, bên trong, cơ chế bảo

hiến. Có thể tóm tắt một số công trình tiêu biểu, như:

* Những nghiên cứu chung về KSQLNN:

- Sách “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước

ở nước ta hiện nay” (Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2003), do GS.TSKH.

Đào Trí Úc và GS.TS. Võ Khánh Vinh đ ng chủ biên. Cuốn sách tập hợp

nhiều bài viết của nhiều nhà khoa học về giám sát việc thực hiện QLNN. Từ

phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập trong hoạt động thực tiễn của cơ

chế giám sát QLNN ở Việt Nam, các tác giả chỉ rõ sự khác biệt giữa giám sát

bên trong hệ thống QLNN, mang tính quyền lực nhà nước và giám sát bên

ngoài, không mang tính QLNN. Tuy nhiên, công trình chỉ tập trung nghiên

cứu về giám sát và cơ chế giám sát, chưa nghiên cứu các hình thức KSQLNN

khác như thanh tra, kiểm tra, kiểm sát... và chưa đi sâu luận giải về thể chế

pháp lý cho hoạt động KSQLNN.

- Sách chuyên khảo “Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay" của TS. Trịnh Thị Xuyến (Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008). Tác giả đã làm rõ nhiều vấn đề về

KSQLNN trên phương diện lý luận và thực tiễn, như: cơ sở lý luận về

KSQLNN; tính tất yếu, khái niệm, nội dung, mục đích, những phương thức

KSQLNN; thực tiễn KSQLNN ở một số nước tiêu biểu như Mỹ, Anh,

Singapore, Malaysia, Nhật Bản...; thực tiễn KSQLNN ở Việt Nam, những

mâu thuẫn, bất cập trong KSQLNN mà Việt Nam đang và sẽ phải giải quyết;

phương hướng và những giải pháp chủ yếu cho KSQLNN ở Việt Nam. Tuy

nhiên, vì tiếp cận KSQLNN dưới góc độ rộng, thiên về chính trị học, nên

công trình nghiên cứu chưa đi sâu vào thể chế pháp lý về KSQLNN.

- Sách chuyên khảo “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước" của PGS.TS.

Nguyễn Đăng Dung (Nhà xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005). Cuốn

sách trình bày về cơ sở lý luận của sự hạn chế quyền lực nhà nước và nội

Page 11: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

11

dung của việc hạn chế quyền lực nhà nước. Theo tác giả, nhà nước là một

thiết chế rất cần thiết, nhưng khi đã cần đến nhà nước thì cần phải có giới hạn

quyền lực của nó; ban hành hiến pháp là phương thức quan trọng nhất để

KSQLNN. Tác giả đề cập đến những phương thức hạn chế quyền lực nhà

nước, như: Dùng hiến pháp quy định và bảo đảm quyền con người; bầu cử các

chức danh quan trọng trong bộ máy nhà nước đi kèm với chế độ bỏ phiếu tín

nhiệm, bãi nhiệm đại biểu dân cử; phân chia, phân công, phân nhiệm và tự

kiểm tra bên trong giữa các cơ quan nhà nước; hoạt động tự do báo chí; sự

công khai, minh bạch của chính quyền; bỏ phiếu trưng cầu ý dân; sự độc lập

của tòa án; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị

- xã hội. Tác giả trích dẫn và phân tích nhiều nội dung trong Hiến pháp Mỹ,

Anh, Pháp,... để làm phong phú thêm các luận điểm về hạn chế quyền lực nhà

nước. Tuy nhiên, trong cuốn sách này, vì tập trung luận giải về hạn chế quyền

lực nhà nước, vấn đề còn khá mới mẻ ở nước ta vào năm 2005, nên tác giả có

nhắc đến nhưng chưa đi sâu phân tích các hình thức KSQLNN ở Việt Nam.

- Sách chuyên khảo: “Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước” của

PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2011). Tác giả

viện dẫn quan điểm của Jean Jacque Rousseau về kiểm soát quyền lực nhà

nước cách đây gần 250 năm và khẳng định đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Tiếp đó, tác giả đã nghiên cứu, phân tích, lý giải cách thức tổ chức và kiểm

soát quyền lực nhà nước trong các kiểu, mô hình nhà nước phong kiến Việt

Nam, các nhà nước tư sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Trung

và Đông Âu (trước 1991); nước Nga và các nước Trung, Đông Âu ngày nay;

... Đây là công trình có giá trị tham khảo về KSQLNN tuy nhiên tác giả chưa

đi sâu vào thể chế pháp lý về KSQLNN ở nước ta.

- Đề tài khoa học cấp nhà nước: “Phân công phối hợp quyền lực và

kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam"(Mã số KX. 04-28/6-10) và Sách chuyên khảo "Một số vấn đề về

Page 12: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

12

phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2011) do GS.TS. Trần Ngọc Đường làm Chủ nhiệm và Chủ biên. Tác giả đã

nghiên cứu tổng thể về phân công, phối hợp và KSQLNN trong xây dựng nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện

và kiến nghị liên quan trực tiếp đến phân công, phối hợp và KSQLNN trong

mối liên hệ với các chủ thể cấu thành hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đây là

công trình giải quyết một cách tương đối có hệ thống cả về lý luận và thực

tiễn mối liên hệ giữa Nhân dân với nhà nước - chủ thể tối cao của quyền lực

nhà nước; giữa Đảng với Nhà nước và giữa các cơ quan nhà nước với nhau.

Tuy nhiên, đề tài chưa đi sâu nghiên cứu về thể chế pháp lý KSQLNN.

- Các bài viết: “Kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” của GS.TS. Đinh Văn Mậu, Tạp

chí Quản lý nhà nước, số 10, năm 2009; “Bàn thêm về mối quan hệ phân

công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của

GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Tạp chí Kiểm sát, năm 2012; “Vấn đề kiểm soát

quyền lực nhà nước” của TS. Phạm Thế Lực, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,

số 01 năm 2011; “Tư tưởng quan điểm kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt

Nam hiện nay” của TS. Trần Quốc Việt, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 07

năm 2012; “Kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền ở

nước ta hiện nay” của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan [122];…. Trong những

công trình trên các tác giả đã đề cập đến khái niệm kiểm soát quyền lực, sự

cần thiết phải kiểm soát quyền lực, một số vấn đề liên quan đến KSQLNN.

* Những nghiên cứu về KSQLNN bên trong bộ máy nhà nước:

- Luận án tiến sĩ luật học của Trương Thị H ng Hà (2007), Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia H Chí Minh: “Hoàn thiện cơ chế pháp lý

bảo đảm chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam”. Trên cơ sở tiếp cận, phân tích làm sáng tỏ khái niệm cơ chế pháp

Page 13: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

13

lý, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ mật thiết tạo nên hệ thống cơ chế

pháp lý, Luận án là một công trình nghiên cứu công phu có tính khoa học cao

về hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát QLNN từ phía một chủ thể đặc trưng là

Quốc hội ở Việt Nam. Đây là công trình có ý nghĩa tham khảo về mặt lý luận

cho việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại

diện ở nước ta.

- Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Chí Dũng (2009), Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia H Chí Minh: “Về cơ chế pháp lý giám sát

hoạt động tư pháp ở Việt Nam”. Đây là công trình mà tác giả chủ yếu đi sâu

phân tích về cơ chế pháp lý giám sát đối với các hoạt động tư pháp bên trong

nhà nước còn cơ chế giám sát (kiểm soát) bên ngoài nhà nước mang tính

Nhân dân tác giả chưa đề cập nghiên cứu.

- Ngoài ra còn có các bài viết: “Phân công phối hợp và kiểm soát

trong thực hiện quyền lập pháp ở Việt Nam" của TS. Lương Minh Tuân, Tạp

chí nghiên cứu lập pháp số 9 (146) năm 2009; “Cơ chế kiểm soát quyền lực

nhà nước (và cả quyền lập pháp) trong nhà nước pháp quyền" của GS.TSKH.

Lê Văn Cảm và ThS. Dương Bá Thành, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1

(162), năm 2010; “Về kiểm soát quyền lực hành pháp trong hệ thống quyền

lực nhà nước Việt Nam hiện nay” của PGS.TS. Vũ Thư, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, số 12, năm 2006; “Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng hệ thống

Viện Kiểm sát ở Việt Nam trong bối cảnh s a đổi Hiến pháp hiện nay” của

GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Tạp chí Kiểm sát, số 13, năm 2012; "Kiểm soát của

Trung ương đối với chính quyền đ a phương ở một số nước trên thế giới” của

TS. Nguyễn Thị Thu Vân, trên trang: www.caicachhanhchinh.gov.vn…

Sau khi Hiến pháp năm 2013 chính thức khẳng định yếu tố kiểm soát

trong nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đã có nhiều tác giả

phân tích sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của các cơ quan nhà nước trong cơ chế

KSQLNN, như các bài viết: “Quốc hội trong cơ chế phân công phối hợp và

Page 14: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

14

kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” của TS. Hoàng Minh Hiếu;

“Chính phủ trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước” của TS. Dương

Thanh Mai; “Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong cơ chế phân

công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của

PGS,TS. Trương Thị H ng Hà [123];…

* Những nghiên cứu về KSQLNN từ bên ngoài bộ máy nhà nước:

- Kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân:

+ Sách chuyên khảo: “Cơ chế giám sát của Nhân dân đối với hoạt động

của bộ máy đảng và nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, do

GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2010). Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu của nhiều tác giả về cơ chế

giám sát của Nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước. Các

tác giả tập trung phân tích khoa học, có hệ thống về bản chất nền dân chủ

XHCN và yêu cầu xây dựng cơ chế giám sát của Nhân dân đối với hoạt động

của bộ máy Đảng và Nhà nước trong điều kiện một Đảng cầm quyền. Xác

định vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ các chủ thể là MTTQ, các tổ chức

thành viên trong cơ chế Nhân dân giám sát Đảng và Nhà nước cũng như thực

trạng của cơ chế này ở nước ta. Công trình đã nghiên cứu kinh nghiệm một số

nước trên thế giới về hình thức giám sát của Nhân dân trong tổ chức thực hiện

quyền lực quyền lực nhà nước và đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất

lượng giám sát của Nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước.

+ Luận án Tiến sĩ luật học của Nguyễn Mạnh Bình (2009), Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia H Chí Minh, Hoàn thiện cơ chế pháp lý

giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện

nay. Đây là công trình tác giả đi sâu vào phân tích, luận chứng cơ sở lý luận

và thực tiễn cũng như yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối

với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Luận án đã nêu rõ thể chế

pháp lý là một yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc

Page 15: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

15

thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta, phân biệt thể chế với thiết chế. Tuy

nhiên, Luận án này chỉ đề cập đến cơ chế và thể chế pháp lý giám sát xã hội,

một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước.

+ Luận án Tiến sỹ luật học của Hoàng Minh Hội (2014), Học viện

Chính trị quốc gia H Chí Minh, Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước của Việt Nam. Luận án đã nghiên

cứu khá hoàn chỉnh về cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về giám

sát của nhân dân đối với hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, trên cơ sở

đó, đề ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối

với cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay. Những kiến nghị về giải

pháp này có ý nghĩa tham khảo đối với tổng thể vấn đề hoàn thiện thể chế

pháp lý về KSQLNN, trong đó có KSQLNN từ phía nhân dân.

+ Luận án Tiến sỹ luật học của Nguyễn Quang Anh (2015), Học viện

Chính trị quốc gia H Chí Minh, Hoàn thiện cơ chế pháp lý Nhân dân kiểm

soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Sau khi Hiến pháp 2013 được ban hành,

đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về cơ chế pháp lý nhân dân

KSQLNN trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt

Nam; làm rõ được khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ

giữa các yếu tố cấu thành cơ chế, vai trò, mục đích, tiêu chí hoàn thiện cơ chế

pháp lý nhân dân KSQLNN; nội dung và phương thức hoạt động của cơ chế;

khảo sát cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN một số nước và rút ra những giá

trị tham khảo cho Việt Nam; khái quát được thực trạng và chỉ ra những hạn

chế, nguyên nhân hạn chế của cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN ở Việt Nam

hiện nay; đề xuất được các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý

nhân dân KSQLNN ở Việt Nam. Tuy nhiên, luận án mới nghiên cứu một bộ

phận của thể chế pháp lý về KSQLNN là thể chế KSQLNN từ phía Nhân dân,

và chưa coi thể chế như một chỉnh thể mà chỉ dưới quan niệm là một yếu tố

cấu thành trong cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN ở Việt Nam.

Page 16: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

16

+ Ngoài ra, các bài viết: “Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam vận động Nhân dân thực hiện giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở

cơ sở" của Trần Thanh Bình, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 9 năm 2003;

“Cần tăng cường hơn n a sự kiểm tra giám sát của Nhân dân đối với việc

phòng chống quan liêu tham nhũng hiện nay" của Bùi Thành Phần, Tạp chí

Dân vận, số 01/2005; “Tăng cường hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc

đối với hoạt động của cơ quan nhà nước cán bộ công chức" của GS. Lưu

Văn Đạt, Tạp chí Mặt trận, số 31/2006; “Nâng cao vai trò giám sát của

MTTQ Việt Nam" của tác giả Huỳnh Đảm, Tạp chí Cộng sản, số 792, năm

2008;“Giám sát xã hội trong nhà nước pháp quyền" của Vũ Anh Tuấn, Tạp

chí Nghiên cứu lập pháp số 31(130), 7/2009;... đã góp phần phân tích về các

chủ thể, nội dung, hình thức KSQLNN từ phía nhân dân ở Việt Nam.

- Kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng Cộng sản Việt Nam:

+ Đề tài cấp bộ “Mối quan hệ gi a nhà nước với Đảng Cộng sản trong

Nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (Mã số: CT11-16-

03) do PGS.TS Nguyễn Thị Việt Hương, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện

Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, làm Chủ nhiệm. Đề tài đã làm rõ cơ sở

lý luận của mối quan hệ giữa nhà nước với Đảng trong Nhà nước pháp quyền

Việt Nam; đánh giá thực trạng mối quan hệ đó trong lĩnh vực thực hiện quyền

lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp; đánh giá thực trạng mối quan hệ

giữa cơ quan nhà nước và cấp uỷ Đảng tại các địa phương, cơ quan; đưa ra

mô hình mối quan hệ giữa các cơ quan lãnh đạo của Đảng với cơ quan nhà

nước ở Trung ương và địa phương và nêu yêu cầu phải thể chế hoá, có thể

bằng các quy định của pháp luật, có thể bằng các văn bản có tính quy phạm

của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hoặc có thể bằng các văn bản

liên tịch. Đề tài có ý nghĩa tham khảo rất hữu ích khi nghiên cứu về thể chế

pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước, nhất là từ chủ thể kiểm soát là Đảng

Cộng sản Việt Nam.

Page 17: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

17

+ Ngoài ra còn có các bài viết: “Tăng cường giám sát trong Đảng" của

PGS.TS. Nguyễn Thị Doan, Tạp chí Cộng sản số 22, năm 2004; “Lênin nói về

kiểm tra giám sát để xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên trong sạch" của Lê

Trọng Hanh, Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 4 năm 2005; cuốn sách "Tăng

cường công tác giám sát của Đảng", của tác giả Mai Thế Dương, Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013;... đã viết về kiểm soát của

Đảng Cộng sản Việt Nam với việc tổ chức, thực hiện QLNN, một đặc điểm

rất quan trọng trong tổ chức, vận hành của hệ thống chính trị nước ta.

* Những nghiên cứu về cơ chế bảo vệ Hiến pháp:

Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam,

nhất là dịp chuẩn bị sửa đổi Hiến pháp 1992 để ban hành Hiến pháp mới 2013,

nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung vào vấn đề bảo vệ Hiến pháp, coi đây như

là vấn đề cốt lõi của sự hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước.

Hầu như tất cả các công trình nghiên cứu chuyên khảo về nhà nước

pháp quyền ở Việt Nam khi nêu các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa đều thừa nhận nguyên tắc tính tối cao của Hiến pháp, như:

GS.TSKH. Đào Trí Úc (chủ biên, 2007), “Mô hình tổ chức và hoạt động của

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”, (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, tr.

245); GS.VS. Nguyễn Duy Quý và PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (đ ng chủ biên,

2008), “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân: Lý

luận và thực tiễn”, (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.163).

Ngoài ra, quan điểm ủng hộ việc thành lập Tòa án Hiến pháp được chia

sẻ bởi nhóm nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Như Phát và các cộng sự trong

sách “Tài phán Hiến pháp: Một số vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc

tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà

Nội, 2011); hay TS. Võ Trí Hảo trong bài “Tài phán Hiến pháp – Nh ng vấn

đề phổ biến, đặc thù quốc gia và mô hình thích hợp cho Việt Nam” (sách

Page 18: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

18

Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Những vấn đề về Hiến pháp và sửa đổi Hiến

pháp, Nhà xuất bản Dân trí, Hà Nội, 2012, tr. 97).

Về các cơ chế bảo hiến khác, GS.TS. Nguyễn Đăng Dung có bài: “Xây

dựng cơ chế bảo hiến trong hoạt động lập pháp ở Việt Nam” tại Hội thảo

khoa học do Bộ Tư pháp tổ chức năm 2008 tại Hà Nội. Nhiều ý kiến của các

đ ng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, như: Đỗ Mười (2012), “Góp ý

s a đổi, bổ sung Hiến pháp 1992: Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo hiến",

Báo Lao động điện tử ngày 17/5/2012 http://laodong.com.vn/Chinh-tri/Xay-

dung-va-hoan-thien-co-che-bao-hien/64667.bld;,…

Như vậy, nghiên cứu về cơ chế bảo hiến, từ chỗ chỉ là bước khởi đầu

tập hợp, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, đã trở thành bộ phận không thể

thiếu, có ý nghĩa quan trọng trong các nghiên cứu về KSQLNN ở nước ta.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về thể chế pháp lý kiểm soát

quyền lực nhà nước

* Những vấn đề lý luận về thể chế, thể chế pháp lý KSQLNN:

Về thể chế, một số sách báo chuyên ngành, đề tài nghiên cứu, hội thảo

khoa học đã đề cập đến khái niệm thể chế dưới những góc độ khác nhau, chủ

yếu dưới góc độ kinh tế và quản lý xã hội, tiêu biểu như: Sách “Thể chế cải

cách thể chế và phát triển: Lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam”

của TS. Đinh Văn Ân và TS. Võ Trí Thành (chủ biên), (Nxb Thống kê, Hà

Nội, 2002). Đề tài “Thể chế xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát

triển xã hội ở nước ta hiện nay” là một trong các đề tài thuộc Chương trình

khoa học-công nghệ cấp nhà nước KX02/06-10 “Quản lý phát triển xã hội

trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam” do TS. Dương Thị Thanh Mai làm Chủ

nhiệm. Hội thảo quốc tế về “Cải cách thể chế kinh tế: chuyển đổi cấu trúc

tăng trưởng toàn diện và bền v ng” do Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế

Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng Viện nghiên cứu

Kinh tế Phát triển Thế giới thuộc Đại học Liên hợp Quốc (UNU-WIDER) tổ

Page 19: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

19

chức ngày 29 - 30/6/2014, tại Hà Nội… Các nghiên cứu trên cho thấy cách

hiểu còn đa chiều về khái niệm thể chế ở nước ta và chưa tiếp cận sâu khái

niệm thể chế dưới góc độ pháp lý.

Sách “Thể chế chính tr ” của tác giả Nguyễn Đăng Dung và Bùi Ngọc

Sơn (Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004) đã tiếp cận quan niệm thể

chế khi nghiên cứu về thể chế chính trị. Theo các tác giả: “Mỗi lĩnh vực hoạt

động của con người đều có các thể chế nhất định. Vì vậy, thể chế bao g m

nhiều loại khác nhau: thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế giáo dục, thể

chế y tế, thể chế văn hoá,…”. Điểm độc đáo của công trình này là tiếp cận thể

chế chính trị dưới hai góc độ: Thể chế chính trị về hành vi và thể chế chính trị

về tổ chức. Và, dựa vào hình thức thể hiện để chia làm hai loại, thể chế chính

trị thành văn và thể chế chính trị bất thành văn. Thể chế chính trị thành văn

thể hiện tập trung trong hiến pháp của mỗi quốc gia, nhưng còn có thể được

quy định ở các văn bản dưới hiến pháp, bao g m: các đạo luật thường, thậm

chí cả văn bản dưới luật. Do đó, tuy không nêu trực tiếp vấn đề thể chế pháp

lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, song cuốn sách chứa đựng nhiều nội

dung tham khảo có giá trị cho Luận án.

Về thể chế pháp lý KSQLNN, gần đây có một số nhà khoa học đã trình

bày quan niệm về thể chế trong cơ chế KSQLNN. Tiêu biểu như: Đề tài cấp

bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền

lực nhà nước trong vệc thực hiện các quyền lập pháp hành pháp tư pháp ở

nước ta, do GS.TS. Trần Ngọc Đường làm Chủ nhiệm (Văn phòng Quốc hội

đã nghiệm thu năm 2015). Hai bài viết: “Về các yếu tố cấu thành của cơ chế

kiểm soát quyền lực nhà nước” và “Quan niệm về kiểm soát và cơ chế kiểm

soát quyền lực nhà nước” của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan, PGS.TS. Vũ Thu

Hạnh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (Viện Nhà nước và Pháp luật), số

7/2014 và số 9/2014. Mặc dù không đề cập trực tiếp, toàn diện các vấn đề lý

luận về thể chế pháp lý KSQLNN, song những công trình nêu trên đã thừa

Page 20: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

20

nhận thể chế pháp lý là một bộ phận có vị trí, vai trò quan trọng, nền tảng

trong cơ chế pháp lý KSQLNN, và gợi mở cho Nghiên cứu sinh hướng đi sâu

nghiên cứu về thể chế pháp lý KSQLNN.

* Những nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xây dựng thể chế pháp lý

KSQLNN

- Sách Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào? của tác giả Nguyễn

Cảnh Bình (Nhà xuất bản Thế giới, tái bản lần thứ 4, năm 2013). Cuốn sách

có cách tiếp cận về lịch sử lập hiến nước Mỹ khá toàn diện và lối viết dễ hiểu,

góp phần giải thích ý nghĩa của bản Hiến pháp Mỹ, và còn giúp người đọc

hiểu được quá trình xây dựng một đạo luật quan trọng nhất ở Hợp chủng quốc

Hoa Kỳ. Những lập luận, tranh luận của những người được mệnh danh là cha

đẻ của bản Hiến pháp Mỹ, những nội dung của Hiến pháp này và bản Tuyên

ngôn nhân quyền của nước Mỹ đã cho thấy nhiều kinh nghiệm về xây dựng

thể chế pháp lý KSQLNN ở một nước tư sản phát triển hàng đầu hiện nay.

- Sách “Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới”

của Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Nhà xuất bản Chính

trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2013) đã trình bày tổng quan về hiến pháp các

nước trên thế giới, trong đó đáng chú ý là: Chương I có phần trình bày về chế

độ bảo vệ hiến pháp; Chương II về chủ quyền nhân dân và các hình thức nhân

dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước; Chương III về quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chương V về tổ chức bộ máy nhà

nước ở trung ương; Chương VI về chính quyền địa phương. Đây là tài liệu có

giá trị để nghiên cứu thể chế pháp lý về KSQLNN ở các nước trên thế giới.

- Ngoài ra, còn có các công trình tham khảo hữu ích khác, như: Bài viết

“Nguyên tắc phân quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước của các nhà nước

tư bản phát triển” của GS, TS. Nguyễn Đăng Dung [123]; đề tài KX.10-10,

thuộc chương trình KX.10, Mô hình tổ chức và hoạt động tổ chức của hệ

thống chính tr ở một số nước trên thế giới, của PGS.TS. Tô Huy Rứa; Tuyển

Page 21: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

21

tập Hiến pháp một số nước trên thế giới (Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội,

2009) của Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học - Văn phòng

Quốc hội, … Kinh nghiệm quốc tế về KSQLNN cũng được trình bày như một

hợp phần không thể thiếu trong một số công trình nghiên cứu về KSQLNN ở

nước ta.

* Những nghiên cứu về thực trạng thể chế pháp lý về KSQLNN ở nước

ta và kiến nghị hoàn thiện thể chế pháp lý về KSQLNN

Thời gian gần đây, trong các nghiên cứu về cơ chế pháp lý KSQLNN

đã cơ bản thừa nhận cơ chế đó bao g m thể chế và các thiết chế, có quan điểm

bổ sung thêm các điều kiện và có quan điểm bổ sung thêm sự tương tác của

các bộ phận cấu thành cơ chế. Đa số các nghiên cứu dựa trên quan điểm thể

chế KSQLNN chính là tổng thể các quy định của pháp luật có nội dung, mục

đích và vai trò quy định về hoạt động KSQLNN. Từ đó, nhiều nghiên cứu đề

cập trực tiếp đến pháp luật về KSQLNN, nhất là trong các nghiên cứu về thực

trạng thể chế và kiến nghị giải pháp hoàn thiện thể chế.

- Sách chuyên khảo: S a đổi bổ sung Hiến pháp 1992: Nh ng vấn đề

lý luận và thực tiễn, tập 1: Những vấn đề chung về Hiến pháp và bộ máy nhà

nước, tập 2: Quyền công dân, quyền con người, chế độ kinh tế, bảo hiến và

một số vấn đề khác. Sách của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trung

tâm thông tin thư viện và Nghiên cứu Khoa học, Văn phòng Quốc hội do

Phạm H ng Thái, Nguyễn Sỹ Dũng, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao,

Hoàng Minh Hiếu, Đặng Minh Tuấn đ ng chủ biên (Nhà xuất bản H ng Đức,

Hà Nội, 2012). Cuốn sách tập hợp 76 bài nghiên cứu chọn lọc của nhiều nhà

luật học đầu ngành và nhà nghiên cứu của Việt Nam về những vấn đề cơ bản

của Hiến pháp. Trong đó, đáng lưu ý là Phần II Tổ chức và kiểm soát quyền

lực nhà nước, với các bài viết: Kiểm soát gi a các cơ quan nhà nước trong

việc thực hiện các quyền lập pháp hành pháp tư pháp của GS.TS Phạm

H ng Thái; Kiểm soát quyền lực trong Hiến pháp của Nguyễn Đức Lam;...

Page 22: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

22

- Sách “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nền

tảng chính tr pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước” do Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp – Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Uỷ ban thường vụ

Quốc hội (Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội, 2014); trong đó, có nhiều

bài viết có giá trị tham khảo rất hữu ích, tiêu biểu như: Các bài viết trong

Phần thứ nhất: Những vấn đề chung về Hiến pháp: Ý nghĩa của quy đ nh về

Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp năm 2013 của PGS, TS. Nguyễn

Minh Đoan; Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 2013

của PGS, TS. Đinh Xuân Thảo; Hiến pháp năm 2013: Cơ hội và thách thức

cải cách thể chế nhà nước của PGS,TS. Vũ Công Giao; Luật hoá việc kiểm

soát quyền lực nhà nước của nhân dân theo Hiến pháp năm 2013 của

PGS,TS. Lê Văn Hoè và Ths, LS. Lê Việt Nga; Quyền giám sát của Nhân dân

đối với bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 2013 của Ths. Hoàng Minh

Hội… và các bài phân tích, bình luận trong Phần thứ hai: Quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

- Sách: Nh ng vấn đề lý luận và thực tiễn s a đổi bổ sung Hiến pháp

năm 1992 của tập thể tác giả do TS. Uông Chu Lưu chủ biên (Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014). Trong đó, đáng lưu ý là: Chương III: Cơ

sở lý luận về bảo vệ hiến pháp và việc vận dụng vào s a đổi Hiến pháp năm

1992; Chương IV: Quy đ nh và tổ chức thực hiện Hiến pháp năm 1992 về chế

độ chính tr ; Chương IX: Quy đ nh và tổ chức thực hiện quy đ nh của Hiến

pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy nhà nước,...

- Sách chuyên khảo “Hiến pháp năm 2013 – Nh ng điểm mới mang

tính đột phá” của PGS.TS Hoàng Thế Liên chủ biên (Nhà xuất bản Tư pháp,

Hà Nội, 2015) phân tích những điểm mới mang tính đột phá của Hiến pháp

năm 2013, trong đó, đáng chú ý là việc bổ sung yếu tố kiểm soát vào nguyên

tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước và phân tích cụ thể tại các chương bám

sát theo bố cục của bản Hiến pháp năm 2013.

Page 23: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

23

- Đề tài cấp bộ: “Cơ chế pháp lý KSQLNN của các cơ quan nhà nước ở

Việt Nam hiện nay”, do PGS.TS Nguyễn Minh Đoan làm Chủ nhiệm, Viện

Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì (đã nghiệm thu năm 2015).

Báo cáo khoa học của đề tài đã trình bày các vấn đề lý luận về cơ chế pháp lý

kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước; đặc biệt rất có giá

trị ở phần nghiên cứu thực tiễn và khảo sát đối với cán bộ, công chức và nhân

dân tại Thành phố Hà Nội, tỉnh Thanh Hóa, tỉnh Điện Biên để đánh giá về thể

chế pháp lý và thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà

nước ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo trình bày khoa học và mạch lạc về các

vấn đề: quyền lập pháp và kiểm soát quyền lập pháp, quyền hành pháp và

kiểm soát quyền hành pháp, quyền tư pháp và việc kiểm soát quyền tư pháp

của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam. Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện

Kiểm sát, Chủ tịch nước, các cơ quan chính quyền địa phương trong cơ chế

pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam.

Đây là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho đề tài Luận án.

- Bên cạnh đó có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành

như: “Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước và một số kiến giải lập hiến

trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”, của GS.TSKH.

Lê Văn Cảm, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 06(2012); bài viết “Bàn thêm

về kiểm soát quyền lực nhà nước với việc s a đổi Hiến pháp năm 1992”, Tạp

chí Quản lý nhà nước, số 08, 2012, của Nguyễn Bái Chiến; bài viết “Kiểm

soát quyền lực nhà nước với việc s a đổi Hiến pháp năm 1992”, của PGS.TS.

Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Luật học, 08,2012; bài viết “Hiến pháp phải là

văn bản kiểm soát quyền lực nhà nước”, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, 04

(2012) của GS. TS Nguyễn Đăng Dung;…

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

Kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề được đề cập từ rất sớm trong

lịch sử các tư tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới. Thời kỳ cổ đại,

Page 24: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

24

Aristotle đã đưa ra phương án phải phân chia quyền lực để kiểm soát lẫn nhau

trong tác phẩm “Chính tr luận” (The politics). Thời kỳ cận đại, trong tác

phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” (Two treasures of government),

J.Locke cho rằng trong thể chế chính trị tự do, quyền lực tối cao phải được

phân chia cho các tổ chức, cá nhân nắm giữ, không được tập trung trong tay

một người hay tổ chức nào. Đến Montesquieu thì lý thuyết phân quyền cơ bản

được định hình rõ nét. Lý thuyết đó là một phát kiến quan trọng của nhân loại

trong lĩnh vực chính trị - pháp lý và là một trong các nguyên tắc căn bản trong

Hiến pháp của nhiều quốc gia cho đến ngày nay.

Trong tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật” (De L’Esprit des lois),

Montesquieu cho rằng cách tốt nhất để chống lạm quyền không phải là tập

trung quyền lực nhà nước mà phải phân chia quyền lực nhà nước thành ba

quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Khi đưa ra thuyết phân quyền,

Montesquieu muốn giải quyết sự xung đột giữa các giai cấp trong xã hội (vua

chúa, quý tộc và thường dân) bằng cách san sẻ quyền lực chính trị cho mỗi

giai cấp để các giai cấp tự kiểm soát và kiềm chế lẫn nhau. Phân quyền là cơ

sở để các nhánh quyền lực nhà nước tương tác, phụ thuộc, kiềm chế, đối

trọng, kiểm soát lẫn nhau, để nhà nước không dẫn đến chuyên quyền, độc

đoán… Ngoài ra, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn được xác định từ

bên ngoài nhà nước. Đó là những hạt nhân hợp lý đã được vận dụng phổ quát

trên thế giới có hiệu quả cần được nghiên cứu nghiêm túc và vận dụng hợp lý

ở Việt Nam.

Bên cạnh lý thuyết phân quyền, nhiều nhà tư tưởng cho rằng quyền lực

nhà nước là tập trung, thống nhất, được tạo lập từ sự ủy quyền của nhân dân,

do đó nhân dân phải làm chủ quyền lực nhà nước thông qua cơ chế dân chủ

trực tiếp và dân chủ đại diện để kiểm soát, hạn chế quyền lực nhà nước. Cuốn

“Bàn về khế ước xã hội” của Jean Jacques Rousseau: Ông cho rằng quyền lực

nhà nước bắt ngu n từ Nhân dân, chủ quyền Nhân dân có tính chất tối cao,

Page 25: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

25

không thể từ bỏ, không thể phân chia. Nhà nước được thiết lập thông qua một

khế ước (Hiến pháp) do tất cả người dân đ ng thuận, trao quyền lực chính trị

cho chính quyền - chính quyền là người đại diện cho ý chí của Nhân dân (dân

chúng) - để quản lý, điều hành đất nước theo nguyện vọng, ý chí của Nhân

dân. Chính quyền có thể bị thu h i quyền lực nếu không làm đúng chức năng,

nhiệm vụ được Nhân dân giao phó: “Những người được ủy thác nắm quyền

hành không phải là ông chủ của Nhân dân mà chỉ là những công chức. Dân

chúng có thể cất chức hay bãi miễn họ". Và mặc dù có sự ủy quyền nhưng

quyền lực nhà nước vẫn thuộc về Nhân dân. Có như vậy chính quyền đó mới

nguyên nghĩa là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Ông cũng cho rằng

việc chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ

là bề ngoài là biện pháp để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước.

John Dewey (1859-1952), trong cuốn “Nền cộng hòa và nh ng vấn đề”

(The Public and Its Problems, 1929), “Lý thuyết giá tr ” (Theory of

Valuation, 1939) đã nêu ra vấn đề nhà nước được thiết lập là để phục vụ Nhân

dân. Điều này có nhiều điểm tương tự như luận giải về ngu n gốc phát sinh

nhà nước của các học giả trước đó. Tác giả chỉ ra tính tư hữu, tư lợi của các cá

nhân trong giai cấp cầm quyền khiến quyền lực nhà nước bị lạm dụng, biến

dạng, tha hóa nếu không có sự giám sát, kiểm soát hay “trói buộc" cần thiết

của Nhân dân (cử tri). Do đó, việc nắm quyền (các chức vụ trong bộ máy nhà

nước) phải có kỳ hạn, có cạnh tranh và mỗi quy trình thực thi quyền lực đều

phải có sự kiểm soát chặt chẽ từ Nhân dân.

Cuốn “Nghiên cứu quá trình ra quyết đ nh trong tổ chức hành chính”

(A Study of Decision- Making Process in Administration Organization, 1945)

của tác giả H.A.Simon, đã nhấn mạnh đến tính phân quyền cho các cơ quan

hoạch định chính sách, phân tích các giai đoạn hình thành và quyết định chính

sách, phân biệt quyết định chính sách với quyết định hành chính... đặc biệt tác

giả nêu lên vấn đề kiểm soát các nội dung đó phải khách quan, chặt chẽ để

Page 26: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

26

ngăn ngừa việc lạm dụng, lạm quyền và bị lợi ích nhóm chi phối chính sách

chung, lợi ích chung...

Roderick Bell, David V. Edwards và R. Harison Wagner với cuốn sách

“Political power-reader in theory and research” (Quyền lực chính tr - Dành

cho nghiên cứu lý thuyết) 1969. Đây là cuốn sách cung cấp những kiến thức

quan trọng, cơ bản về quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và được coi là

sách giáo khoa về lĩnh vực này, đặc biệt là phương pháp tiếp cận quyền lực.

Mann M. (1986), Nguồn gốc quyền lực xã hội (The sources of social

power), Sargent M (1997), Quyền lực và sự duy trì của bất bình đẳng xã hội

(Power and the maintennace). Các công trình nêu trên mặc dù có những luận

điểm và mục đích nghiên cứu khác nhau, nhưng có điểm chung là quyền lực

nhà nước có cơ sở phát sinh là quyền lực của nhân dân, quyền lực nhà nước là

quyền lực công. Đảng phái chính trị (giai cấp) thực thi quyền lực chính trị của

mình thông qua quyền lực công (nhà nước) không chỉ để phục vụ lợi ích của

mình mà còn phải phục vụ lợi ích xã hội. Sự kiềm chế, giám sát lẫn nhau giữa

các chủ thể trong xã hội (bao g m cả nhà nước) trên cơ sở pháp luật là điều

kiện để đảm bảo cho nền dân chủ phát triển.

Bài viết “Xem xét sự bền v ng của quyền lực thông qua con đường nhà

nước" (Crossing state lines with durable power) của Linda S. Whitton - Giáo

sư Luật, trường luật, Đại học Valparaiso biên soạn. Bài viết bàn về sự bền

vững của quyền lực nhà nước và lý giải ngu n gốc của vấn đề đó chính là tính

chính đáng và minh bạch và là cơ sở vững chắc cho việc hợp thức hóa tiến

trình ủy nhiệm quyền lực của nhân dân cho nhà nước.

Gần đây, khảo sát vấn đề tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, nhiều

công trình đề cập đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngay bên trong bộ

máy nhà nước nhưng với quan điểm khác nhau, như: (1) Phân lập, cân bằng

và đối trọng; (2) Nền tư pháp độc lập, mạnh. Công trình tiêu biểu của vấn đề

này phải kể đến: A. McIntyre (2002), Quyền lực của các thể chế (Power of

Page 27: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

27

Institutions); Patrick Gunning (2002), Hiểu biết về nền dân chủ - Một giới

thiệu về lý thuyết lựa chọn công cộng (Understanding democracy- An

introduction to Public choice)...

Trong các nghiên cứu về KSQLNN ở các nước tư bản phát triển, có sự

đóng góp của học thuyết được gọi là Chủ nghĩa Hiến pháp hay Chủ nghĩa hợp

hiến (Constitutionalizm) mà các yếu tố của nó g m: Chính quyền phù hợp với

Hiến pháp; phân quyền; Chủ quyền thuộc về nhân dân; tư pháp độc lập và có

Toà án Hiến pháp; Luật dân quyền, quyền con người; kiểm soát cảnh sát;

quân đội nằm dưới sự điều khiển của dân sự; không một thế lực nào đình chỉ

hoạt động một phần hoặc toàn thể Hiến pháp (xem: Henkin(2000), Elements

of Consitutionalism Unpublished Manuscript, p.203 – trích theo [23]). Một số

tác giả cho rằng Chủ nghĩa Hiến pháp là một phần cơ bản của Nhà nước pháp

quyền, trong khi đó cũng có không ít tác giả lại cho rằng Chủ nghĩa Hiến

pháp là tương đương với Nhà nước pháp quyền (xem: Constitutionalism and

Emerging Democracies, trích theo [23]). Về các phương thức KSQLNN,

nhiều học giả tư sản cho rằng KSQLNN từ bên trong là quan trọng nhất, hiệu

lực và hiệu quả nhất. Về đối tượng của KSQLNN, họ cho rằng tiêu điểm của

KSQLNN là Chính phủ - cơ quan hành pháp; KSQLNN không chỉ được hiểu

là chế ước phạm vi hoạt động của chính quyền, mà còn được hiểu ở nghĩa

chính quyền phải chịu trách nhiệm về những hành vi công vụ của quan chức

nhà nước. Nhiều tác giả nêu quan điểm, phân tích, luận giải những biện pháp

để ngành tư pháp được độc lập, công bằng, bảo vệ công lý trong điều kiện phù

hợp với những mô hình chính thể và cán cân quyền lực ở mỗi nước [23].

Không giới hạn nghiên cứu kiểm soát quyền lực nhà nước trong phạm

vi quan hệ giữa các nhánh quyền lực nhà nước, một số công trình đã nghiên

cứu cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên ngoài nhà nước từ các lực

lượng xã hội, như: các đảng phái chính trị, hội, hiệp hội, nhóm lợi ích, các tổ

chức xã hội công dân, phương tiện thông tin đại chúng… Ngoài ra, nhiều

Page 28: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

28

công trình đặt vấn đề tạo môi trường cho kiểm soát quyền lực nhà nước, như:

nhân quyền, tự do lập hội, tự do báo chí, ngôn luận, trách nhiệm và đạo đức,

công khai, minh bạch và dân chủ hóa…Tiêu biểu là các công trình của

Kriegel và Blandine (1995), Nhà nước và nhà nước pháp quyền; (The state

and the rule of law); Stapenhurst Rick, Kpundeh Sahr (1999), Kiềm chế tham

nhũng - Hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia (Curbing

corruption: Toward a model for building national integrity); Micheal J.Sodaro

(2000), Chính tr so sánh - Một giới thiệu mang tính toàn cầu (Comparative

politics - A global introduction). Ngoài ra, trên nhiều Cổng thông tin điện tử

chính thức (website) về luật học và nghề luật của thế giới cũng cung cấp

những kiến thức và bài viết của các học giả quốc tế có thể tham khảo liên

quan đến các mô hình lý thuyết và thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước ở

các nước. Những bài viết đó có trên các trang internet của Hội Luật sư Hoa

Kỳ (America Bar Association-www.abanet.org), Trung tâm Luật hiến pháp

(Constitutional Law Center-www.supreme.findlaw.com) và trang Findlaw

(www.findlaw.com) ...

1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TIÊP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến

đề tài Luận án

Qua tổng thuật tình hình nghiên cứu về QLNN, KSQLNN và thể chế

pháp lý về KSQLNN, có thể đánh giá khái quát một số điểm như sau:

(1)- Quyền lực nhà nước và KSQLNN là vấn đề được quan tâm trên

nhiều phương diện, cả về lý luận và thực tiễn, cả ở trong nước và nước ngoài,

cả về chính trị học, xã hội học và luật học… vì vậy, số lượng các công trình

nghiên cứu về QLNN, KSQLNN đã có khá nhiều. Nghiên cứu về QLNN là lý

thuyết nền tảng hình thành nên các quan niệm về KSQLNN. Thể chế, thể chế

pháp lý về KSQLNN luôn được xem là công cụ, phương tiện để thực hiện

KSQLNN. Các quan niệm về quyền lực nhà nước, cơ chế tổ chức, vận hành

Page 29: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

29

quyền lực nhà nước có lúc được trình bày trong những công trình nghiên cứu

khái quát về quyền lực nhà nước, có lúc lại được viết như những cấu phần

quan trọng không thể thiếu làm nền tảng cho các công trình nghiên cứu

chuyên sâu có liên quan đến QLNN như giám sát, kiểm soát QLNN. Mỗi

bước phát triển trong lý luận và thực tiễn về QLNN đều là bước phát triển lý

luận và thực tiễn về KSQLNN, trong đó có KSQLNN bằng thể chế, thể chế

pháp lý. Mỗi khi yêu cầu KSQLNN được đề cao thì những nghiên cứu về thể

chế pháp lý KSQLNN được đẩy mạnh.

(2)- Cho đến nay, các nghiên cứu đã công bố đều cơ bản thừa nhận

quyền lực nhà nước có ngu n gốc từ Nhân dân, thuộc về Nhân dân, để phục

vụ Nhân dân; quyền lực đó là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm

soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư

pháp. KSQLNN là một nhu cầu tất yếu, cần thiết, làm tăng thêm sức mạnh và

tính chính đáng của quyền lực nhà nước. Những luận giải về ngu n gốc, lý

do, yêu cầu và mô hình kiểm soát quyền lực nhà nước gắn liền với dân chủ và

phát triển xã hội, khẳng định tính cần thiết và chính đáng của vấn đề kiểm

soát quyền lực nhà nước trong các công trình rất phong phú, đa dạng và đó là

ngu n tư liệu cần thiết để tham khảo, nghiên cứu.

(3)- Nội dung các công trình được công bố trong thời gian gần đây đã

nghiên cứu, luận bàn về vấn đề quyền lực nhà nước, KSQLNN từ các phương

diện khác nhau với cách tiếp cận mới, đậm nét thực tiễn và xu thế phát triển

xã hội. Được sự khẳng định trong Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp năm

2013, những nghiên cứu về thể chế pháp lý KSQLNN được phát triển mạnh

mẽ; có những đề cập về lý luận, về thực trạng và một số kiến nghị về hoàn

thiện thể chế pháp lý KSQLNN ở mức độ khác nhau.

(4)- Về tình hình nghiên cứu trong nước: Tuy đã có khá nhiều công

trình gián tiếp hoặc trực tiếp đề cập đến thể chế pháp lý về KSQLNN song

cũng cho thấy những nghiên cứu về thể chế còn chưa đưa ra được quan niệm

Page 30: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

30

thống nhất chung. Nghiên cứu lý luận về thể chế pháp lý, trong đó thể chế

pháp lý KSQLNN, còn chưa được quan tâm toàn diện, chưa có công trình nào

coi thể chế pháp lý về KSQLNN là một đối tượng nghiên cứu có tính chỉnh

thể mà chỉ mới dừng lại ở mức độ những vấn đề lý luận phải giải quyết khi

nghiên cứu về cơ chế pháp lý KSQLNN.

(5)- Về tình hình nghiên cứu ở nước ngoài: Có thể nhận thấy vấn đề

kiểm soát quyền lực nhà nước, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đã được

các học giả trên thế giới nghiên cứu từ rất sớm. Nhiều công trình nghiên cứu

thực sự là nền móng về lý thuyết, đem lại những tri thức mới cho nhân loại về

vấn đề KSQLNN; hình thành nên những tư tưởng, học thuyết chính trị - pháp

lý về QLNN và KSQLNN. Những công trình nghiên cứu của các học giả trên

thế giới đã phản ánh sinh động thực tiễn pháp lý đa dạng, phong phú, với

những nền tảng thể chế khác nhau có tác động đến thể chế pháp lý về

KSQLNN ở các quốc gia trên thế giới. Các công trình trên là ngu n tư liệu và

là những kinh nghiệm quý để tham khảo, nghiên cứu ở Việt Nam.

(6)- Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây đã gợi mở, cung

cấp thông tin, phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề trong nhiều nội

dung của Luận án. Tuy nhiên, tổng thuật nội dung và điểm luận những tài liệu

nghiên cứu ở các phần trên cho thấy vấn đề thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam còn những khoảng trống về lý luận chưa

được đề cập đầy đủ, toàn diện, chẳng hạn như: quan niệm về thể chế còn chưa

thống nhất; có chỗ còn quan niệm ch ng lấn giữa thể chế, thiết chế và cơ chế;

các nghiên cứu về thể chế pháp lý KSQLNN mới tiếp cận và giải quyết những

vấn đề đơn lẻ, chưa coi thể chế pháp lý KSQLNN như là một hệ thống có tính

chỉnh thể, có vị trí, vai trò tương đối độc lập, có lịch sử hình thành và phát

triển, vì vậy, chưa quan tâm các giải pháp xây dựng mô hình thể chế

KSQLNN ở nước ta một cách tổng thể, đặc biệt trong bối cảnh triển khai thi

hành Hiến pháp năm 2013.

Page 31: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

31

1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa và chọn lọc những kết quả nghiên cứu trước đây,

Luận án này tiếp tục nghiên cứu, giải quyết những vấn đề cụ thể sau:

Một là về mặt lý luận phải làm rõ:

- Thể chế là gì, thể chế pháp lý là gì? Thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước là gì, bao g m những bộ phận, những nội dung nào, thể

hiện dưới những hình thức như thế nào?

- Bản chất, đặc điểm, vai trò, thể chế pháp lý về KSQLNN trong mối

quan hệ với các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý KSQLNN ở nước ta.

- Tổng hợp kinh nghiệm xây dựng thể chế pháp lý về KSQLNN của

một số nước, rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.

Hai là, về mặt thực tiễn tập trung vào các vấn đề sau đây:

- Khái quát quá trình hình thành, phát triển thể chế pháp lý về

KSQLNN ở nước ta qua các thời kỳ xây dựng và thực hiện các bản hiến pháp

1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); tập trung vào đánh giá

thực trạng thể chế và việc thực hiện thể chế pháp lý về KSQLNN ở Việt Nam

hiện nay, trọng tâm là theo nội dung Hiến pháp năm 2013.

Ba là, nêu ra những yêu cầu và đề xuất những giải pháp hoàn thiện thể

chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong bối cảnh tình

hình mới.

Các vấn đề được phân tích trong Luận án sẽ có nhiều điểm mới về lý

luận, sát với thực tiễn hơn, bởi vì được nghiên cứu trên cơ sở Hiến pháp năm

2013 và các luật mới được ban hành gần đây; đ ng thời, trên nền tảng lý luận

đã có bước phát triển tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

Cộng sản Việt Nam (tháng 1/2016) - Đại hội ghi dấu ấn mạnh mẽ của thời kỳ

đổi mới toàn diện và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của đất nước.

Page 32: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

32

Tiểu kết Chương 1

Tổng thuật các công trình đã công bố trong và ngoài nước liên quan

đến đề tài luận án cho thấy đã có nhiều nghiên cứu về các vấn đề: quyền lực

nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà

nước. Một số công trình nghiên cứu về cơ chế pháp lý, những yếu tố cấu

thành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước, bao g m: thể chế pháp

lý, các thiết chế và các điều kiện vận hành của cơ chế trong mối quan hệ

tương tác hữu cơ với nhau, tạo thành tính chỉnh thể sống động của cơ chế.

Trong khi nghiên cứu về cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước, các

nhà nghiên cứu đã đề cập đến thể chế với quan niệm đó là những quy định

của pháp luật làm nền tảng cho sự vận hành của cơ chế. Một số tác giả đã

phân tích thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành quy định về kiểm soát

quyền lực nhà nước và kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định đó.

Tuy nhiên, điểm luận các công trình đã công bố cũng cho thấy chưa có

tác giả nào đặt thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước là đối tượng

nghiên cứu một cách trực tiếp và toàn diện, trong tính chỉnh thể, tính hệ thống

và mối quan hệ hữu cơ của nó với các bộ phận cấu thành cơ chế. Vì vậy, các

vấn đề lý luận về thể chế, thể chế pháp lý, thể chế pháp lý về kiểm soát quyền

lực nhà nước chưa được giải quyết một cách thấu đáo. Các mô tả, đánh giá về

thực trạng và đề xuất giải pháp trong các công trình đã nghiên cứu trước Luận

án hầu như chưa đi sâu vào thể chế pháp lý mà chỉ tiếp cận cơ chế pháp lý

kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung; hoặc tập trung vào một khía cạnh,

một bộ phận quy định nào đó của pháp luật về một vài hình thức cụ thể của

kiểm soát quyền lực nhà nước, của cơ chế kiểm soát bên trong hoặc bên

ngoài. Tiếp cận vấn đề thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước ở góc

nhìn tổng thể, góp phần định ra mô hình tổng quan của thể chế đó và đề xuất

hoàn thiện thể chế chính là nhiệm vụ nghiên cứu tiếp theo của Luận án.

Page 33: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

33

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ PHÁP LÝ

KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

2.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM CỦA THỂ CHẾ PHÁP LÝ VỀ

KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

2.1.1. Khái niệm thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

* Quyền lực nhà nước

Quyền lực nhà nước “là quyền lực dựa trên sức mạnh của bộ máy nhà

nước; là khả năng s dụng nhà nước để thực hiện ý chí của giai cấp thống tr

(hoặc của nhân dân) buộc xã hội phải phục tùng ý chí đó” [67, tr.295]. Khái

niệm trên cho thấy quyền lực nhà nước bao hàm cả yếu tố sức mạnh (lực) và

khả năng cho phép chủ thể đặc biệt là bộ máy nhà nước được sử dụng sức

mạnh đó một cách chính đáng (quyền) áp đặt lên các đối tượng chịu sự quản

lý của nhà nước trong xã hội.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, QLNN vừa có bản chất

giai cấp vừa có bản chất xã hội. Bản chất giai cấp do QLNN là quyền lực

chính trị của giai cấp (hoặc liên minh giai cấp) chiếm địa vị thống trị về kinh

tế trong xã hội, là công cụ bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một

giai cấp khác. Bản chất xã hội do quyền lực nhà nước là quyền lực công của

xã hội được thiết lập nên để thực thi những chức năng công cộng. Chính vì

thế, có thể coi quyền lực nhà nước là quyền lực do nhân dân uỷ quyền, được

thiết lập và duy trì bằng pháp luật, là yếu tố rất cần thiết để tổ chức đời sống

chung trong chế độ xã hội có phân chia giai cấp và nhà nước.

Trong các nhà nước hiện đại, về cơ bản, QLNN được tổ chức và thực

hiện thông qua 03 quyền năng cụ thể, g m: Quyền lập pháp, quyền hành pháp

và quyền tư pháp. Quyền lập pháp theo nghĩa rộng là chức năng xã hội -

chính trị đặc thù của Nhà nước nhằm thể chế hoá nhu cầu xã hội thành các

Page 34: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

34

quy tắc xử sự có tính quy phạm, khuôn mẫu, phù hợp với ý chí của chủ thể

cầm quyền, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội [38]; theo nghĩa hẹp,

đó là quyền ban hành, sửa đổi luật của cơ quan lập pháp (quốc hội, nghị viện).

Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực thi pháp luật, quản lý hành chính về

mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, trật tự, an ninh, quốc

phòng, đối ngoại… của đất nước. Quyền hành pháp hiện nay thường được

hiểu bao g m các hoạt động làm chính sách và các hoạt động tổ chức thực

hiện pháp luật, do chính phủ và cả hệ thống hành chính thực hiện. Quyền tư

pháp là quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động,

bảo đảm pháp luật không bị xâm phạm. Quyền này ở các quốc gia đều do hệ

thống toà án thực hiện theo những nguyên tắc và quy định riêng mang đặc thù

của hệ thống tư pháp.

* Kiểm soát quyền lực nhà nước

Theo Từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát” có nghĩa thứ nhất là: “Xem xét

để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”; còn có nghĩa thứ hai là:

“Đặt trong phạm vi quyền hành của đối tượng nào đó” [112, tr.674].

Trên thế giới, lý thuyết về KSQLNN đã được khởi xướng từ nhiều thế

kỷ trước bởi các học giả tư sản phương Tây. Về nội hàm của khái niệm này,

Montesquieu đã viết dưới những cách diễn đạt như “chức năng ngăn cản” hay

“chức năng xem xét”, theo đó: “chức năng ngăn cản là quyền làm cho quyết

định của người khác trở thành vô hiệu” [76, tr.113]. Ông viết: “nếu cơ quan

hành pháp không có quyền ngăn cản cơ quan lập pháp, thì cơ quan lập pháp

sẽ trở thành chuyên chế”, và: “nếu cơ quan lập pháp không có quyền ngăn cản

cơ quan hành pháp thì nó phải có chức năng xem xét (hay có thể hiểu là giám

sát - NCS) các đạo luật đã ban hành được thực hiện như thế nào” [76, tr.115].

Ngày nay, ở các nước tư bản phát triển, KSQLNN là vấn đề trung tâm trong

các học thuyết về nhà nước pháp quyền, chủ nghĩa hiến pháp,... gắn với

những nguyên tắc, như: đặt ra giới hạn quyền lực nhà nước để bảo vệ quyền

Page 35: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

35

con người, quyền công dân; thực hiện phân quyền để kiềm chế, đối trọng lẫn

nhau giữa các nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thiết lập sự chế ước,

cân bằng trong mối quan hệ giữa các thành tố: nhà nước pháp quyền, kinh tế

thị trường và xã hội dân sự.

Ở nước ta, vấn đề KSQLNN được giới nghiên cứu khoa học chính trị,

pháp lý rất quan tâm kể từ khi Đảng, Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (khẳng định chính thức tại Hiến pháp 1992

trong nội dung sửa đổi, bổ sung vào năm 2001). Các nghiên cứu gần đây đã

đưa ra một số quan niệm về KSQLNN, theo đó, có thể hiểu:

Theo nghĩa rộng KSQLNN là một hệ thống những cơ chế được thực

hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước

đúng mục đích, hiệu quả [129, tr.36]. Như thế, KSQLNN bao g m cả việc

thiết kế, tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước và theo dõi, xem xét, đánh giá để

quyền lực nhà nước vận hành đúng mục đích, hiệu quả nhất.

Theo nghĩa hẹp KSQLNN là toàn bộ những hoạt động theo dõi, xem

xét, đánh giá,… những biện pháp mà thông qua đó có thể ngăn ngừa, loại bỏ

những nguy cơ, những việc làm sai trái của nhà nước, cơ quan, nhân viên nhà

nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền

lực nhà nước được tổ chức và thực hiện đúng mục đích mong muốn và đạt

được hiệu quả cao [35, tr.4].

So với một số khái niệm gần nghĩa, kiểm soát có phần giống giám sát,

thanh tra, kiểm tra, kiểm sát ở chỗ cùng là hoạt động xem xét, đánh giá các

chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước để bảo đảm các chủ thể đó thực thi

quyền lực một cách nghiêm minh, chính xác, đầy đủ; nhưng khác nhau về chủ

thể thực hiện, về nội dung, hình thức, phạm vi và đối tượng chịu sự xem xét,

đánh giá. So với thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm sát thì kiểm soát có phạm

vi xem xét, đánh giá rộng hơn, hình thức phong phú hơn, bao hàm cả việc

giám sát, thanh tra, kiểm tra, theo dõi. Có thể hiểu kiểm soát là quyền chung,

Page 36: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

36

nó không t n tại độc lập mà được thể hiện cụ thể qua cái riêng, tức là qua các

quyền thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát [61, tr.150]. Nhưng cần lưu ý,

kiểm soát không chỉ thể hiện qua các quyền năng cụ thể đó, mà kiểm soát còn

thực hiện cả trong lĩnh vực tổ chức, vận hành bộ máy quyền lực nhà nước.

Kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu quan trọng và rất cần thiết,

trước hết, bởi đặc trưng cơ bản của QLNN là quyền lực do nhân dân uỷ

quyền; nhân dân có quyền đòi hỏi chính đáng xem quyền lực do mình trao

cho nhà nước được thực hiện thế nào. Mặt khác, việc thực hiện QLNN là một

quá trình áp đặt ý chí của chủ thể này lên chủ thể khác, tác động đến toàn xã

hội, mà sự áp đặt này không thể là tuỳ tiện mà phải tuân theo những quy định

của pháp luật, luôn phải bảo đảm tính chính đáng, tránh nguy cơ lạm dụng

quyền lực. Quá trình tổ chức và thực thi QLNN là quá trình phức tạp, liên

quan đến nhiều khâu, nhiều mắt xích, đòi hỏi phải có sự phản h i, kiểm soát

để kịp thời điều chỉnh việc thực hiện QLNN đi đúng mục đích, hiệu quả.

Ở một khía cạnh khác, QLNN sinh ra để giữ gìn trật tự xã hội và giải

quyết các công việc chung, nhưng trong quá trình vận hành, QLNN rất dễ bị

tha hóa và trở thành công cụ thỏa mãn lợi ích của số ít những người nắm giữ

quyền lực, đi ngược lại lợi ích của nhân dân (ở nước ta, Đảng đã chỉ ra các

nguy cơ trong đó có tham nhũng, lãng phí, suy thoái…). Kiểm soát quyền lực

nhà nước giúp cho con người thoát khỏi mâu thuẫn vừa cần nhà nước để quản

lý trật tự xã hội, giải quyết các công việc chung, vừa được tự do, không bị nhà

nước lạm quyền, lộng quyền, gây tổn hại đến lợi ích chính đáng của mình.

Vấn đề KSQLNN rất quan trọng ở nước ta hiện nay vì chủ trương xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN mà “trong một trật tự nhà nước pháp quyền,

vấn đề giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước luôn là mục tiêu, là nguyên

tắc tổ chức và vận hành hệ thống nhà nước” [127, tr.280].

Page 37: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

37

Xuất phát từ cơ chế tổ chức và vận hành QLNN, nên KSQLNN có

phạm vi đối tượng là kiểm soát đối với toàn bộ QLNN và kiểm soát đối với

từng bộ phận cấu thành nên QLNN, bao g m sự kiểm soát trong việc tổ chức,

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và sự kiểm soát giữa các cơ

quan nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương. Sự giới hạn QLNN -

bao g m giới hạn quyền lực của cả bộ máy nhà nước trong mối quan hệ với

quyền con người, quyền công dân và giới hạn thẩm quyền của từng cơ quan,

chức vụ trong bộ máy nhà nước - là cơ sở để hình thành các cơ chế KSQLNN.

Chủ thể thực hiện KSQLNN có thể là nhân dân, các đảng chính trị, các tổ

chức chính trị- xã hội, cũng có thể do chính nhà nước (các cơ quan nhà nước)

tiến hành. Theo cách tiếp cận phổ biến hiện nay có thể chia các cơ chế

KSQLNN thành kiểm soát từ bên ngoài nhà nước và kiểm soát bên trong nhà

nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bởi sự tự kiểm soát hoặc

kiểm soát bằng thể chế.

* Các quan niệm về thể chế, thể chế pháp lý

Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, thể chế là “cách thức, chế

độ”[1]. Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin xuất bản năm

1999, thể chế là “toàn bộ cơ cấu của xã hội do luật pháp tạo ra”. Trong hai cuốn

Từ điển Tiếng Việt, một của Viện Ngôn ngữ học, một của Trung tâm Từ điển

học, đều do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản vào các năm 2001 và 2013, thể chế

là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân

theo” [111], [112]. Trong sách báo tiếng Anh, tiếng Pháp đều có một từ viết

giống nhau “Institution”, được dịch sang tiếng Việt là “thể chế”; trong tiếng Nga,

từ “Institut” có nơi dịch là thể chế, có nơi dịch là định chế.

Định nghĩa có tính chất khoa học về thể chế được cho là biết đến đầu

tiên của Thorstein Veblen, một học giả người Mỹ, đưa ra vào năm 1914. Học

giả này cho rằng “Thể chế là tính quy chuẩn của hành vi hoặc các quy tắc xác

định hành vi trong những tình huống cụ thể, được các thành viên của một

Page 38: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

38

nhóm xã hội chấp nhận và tuân thủ” [4]. Học giả A. Schmid (1972) cho rằng

thể chế là tập hợp các mối quan hệ được quy định giữa mọi người; các mối

quan hệ này xác định quyền của một người trong mối tương quan với quyền

của nhiều người khác, và xác định quyền lợi và trách nhiệm của con người nói

chung. Học giả Douglass C.North (1990) thì lại cho rằng thể chế là những quy

tắc của trò chơi xã hội, hay là những giới hạn được vạch ra trong phạm vi khả

năng và hiểu biết của con người, hình thành nên mối quan hệ qua lại của con

người. Thể chế là một sự sáng tạo của con người, do con người phát triển và

làm thay đổi chúng. Học giả Lin và Nugent (1995) cho rằng “thể chế là một

hệ thống các quy tắc hành xử do con người sáng tạo ra để quản lý và định

hình các tương tác giữa con người với nhau, thông qua đó giúp họ hình thành

những kỳ vọng về những điều mà người khác sẽ làm” [5, tr.8].

Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu kinh tế học, chính trị học, xã hội học

và luật học đã dành khá nhiều công sức cho việc làm rõ cách hiểu về thể chế,

và đưa ra quan niệm về thể chế dưới những góc nhìn khác nhau. Theo đó, khái

niệm thể chế đều bao g m một, hai hoặc cả ba nội dung cơ bản sau đây: (1) -

Các bộ quy tắc hay còn gọi là “luật chơi”; (2) - Các chủ thể tham gia trò chơi hay

gọi là người chơi (cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức phi

chính phủ, doanh nghiệp, cộng đ ng, cá nhân); (3) - Cơ chế thực thi, vận hành

các bộ quy tắc ấy hay còn gọi là “cách chơi” [72, tr.8]... Thuật ngữ “thể chế” đã

được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), Đại hội X

(năm 2006), Đại hội XI (năm 2011) và Đại hội XII (năm 2016) của Đảng

Cộng sản Việt Nam sử dụng khá nhiều lần khi đề cập tới nhiệm vụ xây dựng,

hoàn thiện “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” với nội

hàm có lúc đầy đủ, có lúc chỉ để nói về một trong 3 yếu tố trên là các quy

định, luật lệ [27, tr.188], [29, tr.148,168,187], [30, tr.206].

Như vậy, trong ngôn ngữ thông thường cũng như ngôn ngữ học thuật hiện

nay vẫn có hai cách quan niệm về thể chế được thừa nhận ở các mức độ khác

Page 39: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

39

nhau, đó là: theo nghĩa hẹp, quan niệm thể chế chỉ là các quy định, luật lệ; theo

nghĩa rộng hơn, quan niệm thể chế là cái trật tự hiện hữu do các quy định, luật lệ

đó tạo ra (bao g m cả các thiết chế và cơ chế đang vận hành). Ví dụ như, trong

quan niệm về thể chế chính trị, có tác giả viết: “Thể chế chính trị được hiểu là

các quy tắc được sắp xếp một cách logic hợp thành một chỉnh thể thống nhất

điều chỉnh các hoạt động của con người liên quan đến công việc nhà nước”.

Nhưng chính tác giả đó có thêm một câu để có thể hiểu thể chế chính trị là

“cái được tạo dựng nên từ các quy tắc đó” [17, tr.11].

Trong Luận án này, theo mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

đặt ra, thể chế được quan niệm theo nghĩa hẹp, tức là chỉ bao g m các quy

định, luật lệ t n tại khách quan trong xã hội, có tính ràng buộc hành vi của

chủ thể (tổ chức hoặc cá nhân), theo đó, thể chế là một trong những yếu tố cấu

thành nên cơ chế. Thể chế pháp lý là một yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý.

“Cơ chế pháp lý trong một lĩnh vực nào đó của đời sống pháp luật được hiểu

là tổng thể của nhiều yếu tố có quan hệ tác động mật thiết với nhau từ các yếu

tố thể chế, thiết chế, các bảo đảm để thực hiện một chức năng nào đó trong

quản trị nhà nước và xã hội do Hiến pháp và pháp luật quy định” [50, tr.6].

Cần nêu rõ “thể chế pháp lý” vì các quy định trong pháp luật chỉ là một

loại thể chế trong xã hội. Cách gọi này tương đ ng với một số nghiên cứu gọi

pháp luật là thể chế chính thức, thể chế quan phương, thể chế nhà nước để

phân biệt với thể chế phi chính thức, phi quan phương, phi nhà nước [129]. Ở

nước ta hiện nay có thể thấy: Nhà nước ban hành pháp luật. Ngoài ra, Đảng

ban hành cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc, điều lệ của Đảng; tổ chức xã hội

ban hành quy tắc, điều lệ của các tổ chức xã hội; tổ chức tôn giáo có các giáo

lý, giáo luật; cộng đ ng dân cư có các luật tục, hương ước .v.v… Những cái

đó không phải là pháp luật nhưng cũng có tính chất chế định, ràng buộc. Vì

vậy, Luận án nghiên cứu về thể chế pháp lý nhằm tập trung vào những quy

định do nhà nước ban hành dưới hình thức pháp luật.

Page 40: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

40

* Khái niệm thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

Trong các nghiên cứu gần đây ở nước ta về cơ chế pháp lý KSQLNN

đã có những nội dung đề cập đến thể chế pháp lý về KSQLNN. Theo một số

nhà khoa học, các yếu tố cấu tạo nên cơ chế KSQLNN g m chủ thể, đối

tượng và thể chế KSQLNN [36, tr.3-5]. Một số nhà khoa học khác thì cho

rằng cơ chế KSQLNN là tổng thể của các yếu tố thể chế, thiết chế và các điều

kiện bảo đảm để xây dựng, hoàn thiện và vận hành cơ chế KSQLNN có hiệu

quả [50, tr.11-23]. Các quan niệm trên có điểm gặp nhau là đều coi thể chế

pháp lý về KSQLNN là một bộ phận – hơn nữa là bộ phận then chốt, cơ sở,

nền tảng, cốt lõi – để thiết lập các cơ chế KSQLNN.

Khi nghiên cứu về cơ chế pháp lý KSQLNN, có các quan niệm về thể

chế pháp lý KSQLNN đã được nêu như sau:

Thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước là các quy định của Hiến

pháp, luật và các văn bản dưới luật liên quan đến việc tổ chức, thực

hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước, bao g m các quy định của

Hiến pháp, pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước; các quy định về

thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm sát; các quy định về nguyên tắc,

thẩm quyền, nội dung, hình thức, trình tự kiểm soát quyền lực nhà

nước được ghi nhận trong Hiến pháp, các luật tổ chức bộ máy nhà

nước, trong luật bầu cử, luật giám sát, thanh tra, phản biện xã hội,

trong các điều ước và tập quán quốc tế... [36, tr.5].

Thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ các quy định, quy

tắc ràng buộc hành vi con người liên quan đến quá trình kiểm soát

quyền lực nhà nước [38]. Hay: Thể chế của cơ chế kiểm soát quyền

lực nhà nước chính là tổng thể các quy phạm pháp luật xác lập các

cơ quan, tổ chức, cá nhân, quyền và nghĩa vụ, phương thức và các

điều kiện bảo đảm để các chủ thể khác nhau KSQLNN [38].

Page 41: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

41

Kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đây về thể chế, cơ chế

KSQLNN, với mục đích và phạm vi nghiên cứu đã nêu, trong Luận án này

quan niệm thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước như sau:

Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng thể nh ng quy

đ nh trong Hiến pháp và pháp luật do nhà nước ban hành, bao gồm nh ng quy

đ nh về nguyên tắc chủ thể đối tượng nội dung hình thức quy trình thủ tục

các biện pháp hậu quả pháp lý,... được áp dụng trong quá trình tổ chức vận

hành giám sát kiểm tra thanh tra kiểm sát và thực hiện các hình thức khác

nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được

thực hiện đúng mục đích có hiệu lực và hiệu quả.

2.1.2. Vai trò của thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

Từ khái niệm cho thấy thể chế pháp lý về KSQLNN không phải là gì

khác mà là ý chí của nhân dân được đưa vào hiến pháp và pháp luật để kiểm

soát quyền lực nhà nước. Thể chế pháp lý do Nhà nước ban hành nhưng

không phải ngay từ đầu nhà nước tự mình muốn hạn chế quyền lực mà phải

do đòi hỏi của người dân và xã hội; xuất phát từ bản chất xã hội của nhà nước.

Ở đây, ý chí của người dân đã được chuyển hoá thành một phần “nhượng bộ”

trong ý chí của giai cấp thống trị khi ý chí đó “được đề lên thành luật”, thể

hiện sự thoả hiệp nhất định giữa nhà nước và xã hội. Với cách ban hành pháp

luật về kiểm soát quyền lực, nhà nước đã tự mình công khai giới hạn quyền

lực, tuyên bố và đặt ra cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đây

cũng là kết quả của quá trình con người nhận thức ra các mặt hạn chế của

quyền lực nhà nước và cố gắng kiểm soát nó bằng những công cụ hữu hiệu

nhất, đặc biệt là thể chế pháp lý.

Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng thể chế pháp lý là hết sức quan

trọng và cần thiết. Ngày nay, nhiều nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã chỉ ra

có các công cụ, biện pháp khác nhau để kiểm soát quyền lực nhà nước nhưng

không công cụ nào có hiệu lực, hiệu quả bằng thể chế pháp lý. Nếu không có

Page 42: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

42

thể chế pháp lý, thì sự kiểm soát chỉ có thể là tự kiểm soát hoặc kiểm soát một

cách tuỳ tiện, ngẫu hứng, không theo chuẩn mực.

Tự kiểm soát là sự kiểm soát của các chủ thể quyền lực dựa trên cơ sở

nhận thức của chủ thể thấy được sự cần thiết của việc kiểm soát nên tự giác

thực hiện trong từng hành vi của mình. Sự tự kiểm soát có tính chủ động,

song trên thực tế, đó không phải là đòi hỏi khách quan mà phụ thuộc vào nhận

thức chủ quan của chủ thể quyền lực. Mỗi chủ thể có mức độ “tự kìm chế”

khác nhau, thậm chí thay đổi trong từng điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Sự

tự kiểm soát mà chỉ nhờ cậy vào các yếu tố chủ quan, “đức tính tốt” của chủ

thể kiểm soát thì khó có thể ước lượng, đo đếm, và khó lên án hay xử lý.

Ngược lại, nếu để các chủ thể khác tuỳ tiện kiểm soát đối với chủ thể

mang quyền lực nhà nước thì đó không còn là quyền lực nhà nước nữa. Vì

vậy, xã hội cần tới sự KSQLNN bằng thể chế pháp lý. Đó là những những

ràng buộc có tính khách quan, được thiết kế cẩn thận, chặt chẽ, áp đặt, chi

phối từ bên ngoài đối với chủ thể nắm quyền lực nhà nước; đ ng thời cũng

tạo hành lang pháp lý để những hoạt động KSQLNN phải diễn ra đúng quy

tắc, chuẩn mực, không can thiệp một cách tiêu cực vào hoạt động bình

thường, hợp lý, hợp pháp của các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước.

Được sinh ra như một tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của

hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, vai trò rất quan trọng của thể chế

pháp lý về KSQLNN biểu hiện cụ thể ở những nội dung sau:

- Thứ nhất thể chế pháp lý về KSQLNN là yếu tố cấu thành nền tảng

của cơ chế pháp lý KSQLNN.

Phải có thể chế pháp lý thì mới tạo nên cơ chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước. Thể chế không tự sinh ra mà do các chủ thể có quyền

ban hành ra. Tuy nhiên, khi đã được ban hành thì thể chế t n tại khách quan

và tác động trở lại các thiết chế, kể cả chủ thể đã ban hành ra nó, để hợp thức

hóa, chuẩn mực hóa, tạo nên sự ổn định, duy trì hoạt động của các thiết chế

Page 43: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

43

trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Cũng có lúc thể chế có tính vượt

trước, mở đường, kích thích để lập nên thiết chế mới. Thể chế được xây dựng

trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định mà cơ chế kiểm soát quyền

lực vận hành, nhưng cũng có lúc thể chế góp phần tạo nên những điều kiện,

thúc đẩy hoặc duy trì sự tương tác giữa các bộ phận hợp thành để tạo ra cơ

chế. Trong các yếu tố của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, thể chế có

vai trò then chốt, là cơ sở, căn cứ pháp lý chi phối việc thiết lập các thiết chế

và xác lập các khả năng, điều kiện bảo đảm cho việc hoàn thiện và hoạt động

của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Không có thể chế pháp lý thì không

có cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Thứ hai thể chế pháp lý về KSQLNN là công cụ phương tiện có hiệu

lực và hiệu quả nhất trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước được quy định trong

pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện nên có tính hiệu lực

cao nhất, có giá trị phổ biến rộng nhất trong các loại thể chế; không ai có thể

viện dẫn lý do không hiểu biết pháp luật để không tuân thủ những quy định

ấy. Thể chế pháp lý về KSQLNN tạo ra sự rành mạch, công khai về thủ tục,

thời hiệu, thời hạn, không gian, thời gian; tạo ra khả năng áp dụng các chế tài

trừng phạt để ngăn ngừa những sao phạm trong tổ chức, thực hiện quyền lực

nhà nước. Thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước có tác dụng phối hợp các

hoạt động riêng rẽ của các tổ chức, cơ quan, cộng đ ng và cá nhân trong xã

hội liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước, vì vậy tạo ra sự nhịp

nhàng, gắn kết để hoạt động KSQLNN diễn ra có hiệu quả; giảm bớt tốn kém

chi phí trong việc bảo đảm tính trong sạch của quyền lực nhà nước.

- Thứ ba thể chế pháp lý về KSQLNN biểu hiện mối quan hệ hai chiều

một mặt gi a nhà nước với nhân dân và mặt khác gi a các cơ quan nhà

nước với nhau. Các nghiên cứu hiện nay đều thừa nhận cơ chế và thể chế

pháp lý về KSQLNN nói chung g m 02 bộ phận là thể chế của cơ chế kiểm

Page 44: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

44

soát bên trong và thể chế của cơ chế kiểm soát bên ngoài bộ máy nhà nước.

Nội dung các thể chế pháp lý về KSQLNN bên trong tạo ra sự ràng buộc, tác

động giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong chính việc giải quyết các

công việc nội bộ của nhà nước, như chuyện một dự án luật làm sao được

thông qua, hay việc một quyết định hành chính bị cản trở... Nội dung thể chế

KSQLNN từ bên ngoài bộ máy nhà nước phản ánh một cơ chế rất phức tạp, với

sự tham gia của nhiều chủ thể với vị trí, vai trò, tính chất, năng lực, động cơ,

mục đích,… rất khác nhau. Lĩnh vực này cũng chịu sự chi phối, điều chỉnh của

nhiều loại quan niệm, thể chế đan xen, trong đó đòi hỏi thể chế pháp lý cần phải

có vị trí, vai trò ngày càng dẫn dắt, quyết định.

- Thứ tư thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước góp phần

làm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và vận hành ổn đ nh chính đáng

mạnh mẽ và hiệu quả hơn; hạn chế nh ng "mặt trái” nh ng "cản trở một

cách vô lối” có thể diễn ra khi các chủ thể lạm dụng vai trò kiểm soát đối với

chủ thể khác trong vận hành quyền lực nhà nước.

Khi các giá trị của dân chủ, pháp quyền được thể chế hóa trong hiến

pháp và các đạo luật sẽ trở thành những giá trị công khai và vững chắc hơn.

Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ theo nghĩa tích cực, nghĩa là ngăn

chặn và giới hạn những quyền lực độc tài, bị tha hóa. Kiểm soát quyền lực

một cách hợp lý không làm cản trở hoạt động bình thường, đúng pháp luật

của các chủ thể mang quyền mà chỉ nhằm xây dựng, định hướng quyền lực

nhà nước theo những mục đích mà xã hội mong muốn; làm cho quá trình

quyết định chính sách trở nên sáng suốt, có trách nhiệm hơn. Sử dụng tốt thể

chế pháp lý kiểm soát quyền lực sẽ làm cho quyền lực nhà nước mạnh, thực

sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vận hành phù hợp với

nhiệm vụ và quyền hạn được nhân dân giao phó, tính dân chủ và pháp quyền

được giữ vững, đảm bảo công bằng, công lý và trật tự xã hội, chống lại mọi

Page 45: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

45

biểu hiện tha hóa, tiêu cực của quyền lực nhà nước, vi phạm quyền tự do của

con người.

- Thứ năm thể chế pháp lý về KSQLNN là nh ng quy đ nh góp phần

làm nên thể chế chính tr là yếu tố thể hiện bản chất và tính ưu việt của chế

độ chính tr của mỗi quốc gia.

Thể chế chính trị là tổng thể các quy tắc điều chỉnh hoạt động của con

người liên quan đến công việc của nhà nước [17]; nó bao g m các quy định

về tổ chức, thiết kế, vận hành và tạo lập cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thể chế pháp lý về KSQLNN hoàn thiện, hiệu quả đến đâu thì thể chế chính

trị của quốc gia cũng ưu việt và tiến bộ đến đó. “Sự hiện diện của những quy

định trong Hiến pháp nhằm mục đích kiểm soát hay là KSQLNN là dấu hiệu

của dân chủ, của tiến bộ xã hội” [23, tr.28]. Có thể quan niệm thể chế pháp lý

về KSQLNN là thể chế được ban hành để nhà nước quản lý chính mình, sau

đó mới nhằm quản lý xã hội. Nội dung thể chế pháp lý về KSQLNN thể hiện

nhận thức của nhà nước về bản chất, vai trò và phạm vi quyền lực của nhà

nước trước những yêu cầu, đòi hỏi của người dân. Khi đòi hỏi về các giá trị

dân chủ, quyền con người trong xã hội càng cao thì yếu tố kiểm soát càng

phải chú trọng nâng lên. Như vậy, có thể coi mức độ hoàn thiện thể chế pháp

lý về KSQLNN là những tiêu chí, chỉ số để đánh giá mức độ đạt được của

một chế độ nhà nước pháp quyền tiến bộ.

2.1.3. Đặc điểm của thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà

nước ở Việt Nam

Với những đặc trưng trong khái niệm đã nêu, thể chế pháp lý về

KSQLNN khác với các thể chế thông thường ở một số điểm cơ bản, như: Xã

hội phải phát triển đến một trình độ nhất định, trong đó nền dân chủ và pháp

quyền phải có một địa vị tương xứng, thì mới có thể chế pháp lý về

KSQLNN. Khi xây dựng bộ máy nhà nước, việc lựa chọn mô hình chính thể

Page 46: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

46

nào, khẳng định bản chất của nhà nước ra sao có ảnh hưởng rất lớn đến việc

hình thành thể chế pháp lý về KSQLNN. Việc có thừa nhận và áp dụng ở mức

độ cần thiết những yếu tố hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực là tiền đề

lý luận và thực tiễn để hình thành thể chế pháp lý về KSQLNN. Thể chế pháp

lý về KSQLNN phải thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật do

các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước ban hành; trong đó, vì liên

quan trực tiếp đến nhà nước nên đa số các nội dung quan trọng của thể chế

pháp lý về KSQLNN phải là những quy định được ghi trong Hiến pháp.

Ngoài ra, do đặc điểm của hệ thống chính trị, mô hình tổ chức quyền

lực nhà nước, quá trình xây dựng Hiến pháp và pháp luật, mà thể chế pháp lý

về KSQLNN ở nước ta có những đặc điểm nổi bật như sau:

(1)- Thể chế pháp lý về KSQLNN ở Việt Nam là thể chế kiểm soát

quyền lực của “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân do

Nhân dân vì Nhân dân”; “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà

nền tảng là liên minh gi a giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội

ngũ trí thức”.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng ở nước ta

là nhà nước trong đó có sự thống nhất biện chứng giữa cái chung là “nhà nước

pháp quyền” với cái đặc thù là định hướng “xã hội chủ nghĩa”. Thuộc về cái

chung có các yếu tố được coi là dấu hiệu cơ bản của nhà nước pháp quyền,

như: quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; các quyền con người và quyền

công dân được tôn trọng và bảo vệ; pháp luật giữ vị trí tối thượng trong đời

sống nhà nước và xã hội;… Thuộc về định hướng xã hội chủ nghĩa, phải có

các yếu tố: dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng

H Chí Minh; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; có mục

tiêu hoạt động gắn với những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng

ta đang xây dựng. Cái chung và cái đặc thù nêu trên hoà quyện, gắn bó hữu cơ

với nhau trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chi phối

Page 47: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

47

mạnh mẽ đến bản chất, nội dung thể chế pháp lý về KSQLNN ở nước ta,

trong đó nhà nước pháp quyền là cơ sở tiền đề đòi hỏi phải có hoạt động kiểm

soát và định hướng xã hội chủ nghĩa với các mục tiêu của nó là yếu tố định

hướng, dẫn dắt để hoàn thiện thể chế pháp lý về KSQLNN.

Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được nhiều nước

trên thế giới ngày nay ghi nhận. Nét đặc thù ở Việt Nam là Hiến pháp khẳng

định thêm nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và

đội ngũ trí thức. Đây là những lực lượng chính yếu của cách mạng Việt Nam;

những người đã giành chính quyền trong tay giai cấp phong kiến và giải

phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân để xây dựng nên chính quyền

công nông đầu tiên ở nước ta. Điều này làm nên bản chất giai cấp của QLNN,

suy rộng ra, giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức sẽ là những lực

lượng chủ yếu nắm giữ và kiểm soát quyền lực nhà nước.

(2)- Thể chế pháp lý về KSQLNN ở Việt Nam là thể chế KSQLNN của

một nhà nước đơn nhất nhiều yếu tố tập quyền được xây dựng trên nguyên

tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công phối hợp và kiểm

soát gi a các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp

hành pháp và tư pháp”

Đặc điểm này cho thấy, trước hết, trong cơ chế quyền lực của nhà nước

ta không như ở các nhà nước liên bang. Nếu như ở các nhà nước liên bang,

mỗi bang có thể có nghị viện riêng, chính phủ riêng, hiến pháp riêng, hệ thống

pháp luật riêng, thì ở nhà nước ta, quyền lực tập trung vào các cơ quan nhà

nước ở Trung ương, chỉ có các cơ quan ở Trung ương mới có chức năng đầy

đủ của quyền lập pháp, hành pháp, còn ngành tư pháp được tổ chức theo hệ

thống có sự quản lý thống nhất. Phần lớn chức năng của chính quyền địa

phương là tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách của nhà nước trung ương

trên địa bàn. Vì vậy, yếu tố kiểm soát từ trên xuống dưới là chủ đạo, yếu tố

cân bằng quyền lực của địa phương với trung ương hầu như rất ít đặt ra.

Page 48: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

48

Trong tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước ở nước ta theo Hiến

pháp năm 2013, cần lưu ý yếu tố tập quyền XHCN vẫn mang “tính trội”.

Trước đây, do ảnh hưởng của mô hình nhà nước Xô Viết, bộ máy nhà nước ta

được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền cao. Trong quá trình đổi mới, xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã từng bước áp dụng

những nhân tố hợp lý của học thuyết phân quyền nhưng vẫn trên nguyên tắc

quyền lực nhà nước là thống nhất. Quyền lực đó dẫu là lập pháp, hành pháp

hay tư pháp đều có chung một ngu n gốc là quyền lực của nhân dân. Nhân

dân chỉ trực tiếp bầu ra cơ quan quyền lực nhà nước và cũng là cơ quan đại

diện của nhân dân là Quốc hội và Hội đ ng nhân dân, từ đó cơ quan đại diện

quyền lực này mới bầu và thành lập ra các cơ quan khác của nhà nước. Quyền

lực nhà nước thống nhất ở mục tiêu chính trị của nhà nước, do một Đảng duy

nhất lãnh đạo. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tuy có chức năng,

nhiệm vụ, phạm vi khác nhau nhưng đều thống nhất ở mục tiêu, đường lối

chính trị của Đảng và dân tộc: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công

bằng, văn minh”. Đặc điểm này ảnh hưởng rất quan trọng đến bản chất và

việc xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý về KSQLNN ở Việt Nam, đặt ra

yêu cầu dù có kiểm soát thế nào cũng phải trên tinh thần bảo đảm mục tiêu

chính trị, không để vì kiểm soát mà triệt tiêu mục đích chính trị của Nhà nước

ta. Mặt khác, dù kiểm soát thế nào cũng phải nhằm hướng đến bảo đảm quyền

lực của nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.

(3)- Thể chế pháp lý về KSQLNN ở Việt Nam được thiết lập trong cơ

chế hoạt động của hệ thống chính tr “Đảng lãnh đạo Nhà nước quản lý

Nhân dân làm chủ”.

Ở nước ta, ngay sau khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển của mình,

Nhà nước luôn có mối quan hệ chặt chẽ và chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam. Đảng là người lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, giành chính quyền

và lập nên Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một nhu cầu tất

Page 49: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

49

yếu khách quan, có ngu n gốc và được thừa nhận bởi thực tiễn lịch sử. Điều đó

được khẳng định trang trọng tại điều 4 các bản Hiến pháp 1980, 1992 và 2013.

Ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không đảng chính trị nào khác được thừa nhận

và có vai trò tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là một đặc điểm cần

nghiên cứu sâu sắc nhằm tiếp tục thể chế hoá vai trò kiểm soát quyền lực nhà

nước của Đảng ở Việt Nam.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là những cầu

nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, vì vậy, là nơi để người dân tham gia vào

việc thực hiện quyền lực chính trị, tạo nên những vùng giao nhau của hệ thống

chính trị và xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội cùng với Đảng Cộng sản Việt

Nam và Nhà nước tạo thành hệ thống chính trị Việt Nam, trong đó Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam “là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân” (khoản 1 Điều 9 Hiến

pháp 2013). Mặt trận cùng với các tổ chức chính trị - xã hội là nơi thể hiện ý chí

nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân

dân, thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội trong quá trình dự thảo và thực

hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Hoạt động giám

sát và phản biện xã hội này vừa trên cơ sở quy định của Đảng (Quyết định số 217

QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát và phản

biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội) vừa trên cơ sở

Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước ban hành. Đây là một đặc điểm thú vị trong

thể chế về KSQLNN ở nước ta.

(4)- Thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam là một

thể chế đang trong quá trình hoàn thiện và tiếp tục phát triển

Thể chế pháp lý trong mỗi lĩnh vực là hiện tượng nảy sinh từ xã hội,

chúng không phải bất biến mà luôn vận động, phát triển cùng với đời sống xã

hội và quá trình nhận thức của con người. Do đó, thể chế pháp lý về

KSQLNN là hệ thống thể chế luôn có sự vận động và phát triển theo hướng

ngày càng hoàn thiện hơn. Chẳng hạn ở nước ta trong các giai đoạn trước đây

Page 50: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

50

chưa có nhiều quy định nhằm xác lập nguyên tắc bảo vệ quyền con người,

quyền công dân hay nguyên tắc bảo vệ Hiến pháp (những vấn đề cốt lõi đòi

hỏi sự giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước) nhưng ngày nay, bộ phận

thể chế này đã được quan tâm xây dựng nhiều hơn.

Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, nghiên

cứu khoa học chính trị pháp lý đã góp phần làm sáng tỏ hơn những nhân tố

hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực, học thuyết chủ quyền nhân dân,

học thuyết về xây dựng nhà nước pháp quyền và khả năng, mức độ, nguyên

tắc vận dụng vào thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

nước ta. Việc xây dựng thể chế pháp lý về KSQLNN là quá trình vừa làm vừa

nghiên cứu bổ sung. Với cơ sở pháp lý là nguyên tắc kiểm soát đã được hiến

định trong Hiến pháp 2013, cùng với quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội và

trình độ dân trí ngày càng nâng cao, chắc chắn, thể chế pháp lý về KSQLNN

ở nước ta sẽ được khẩn trương hoàn thiện theo hướng mạnh mẽ, đ ng bộ hơn

trong thời gian tới.

2.2. NỘI DUNG, HÌNH THỨC, CÁC BỘ PHẬN HỢP THÀNH THỂ CHẾ

PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

2.2.1. Nội dung thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

Là tổng thể những quy định pháp luật về KSQLNN, thể chế pháp lý

KSQLNN có những nội dung chính là:

- Quy đ nh các nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước

Nguyên tắc KSQLNN là những quan điểm, tư tưởng nền tảng, cốt lõi,

chi phối hoạt động KSQLNN, trong đó bao g m: Những nguyên tắc chung, là

những nguyên tắc căn bản trong tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước có

tác động đến KSQLNN nói chung (như: nguyên tắc chủ quyền nhân dân,

nguyên tắc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; nguyên tắc quyền lực

nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp);

Page 51: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

51

và những nguyên tắc cụ thể của mỗi cơ chế, hình thức KSQLNN (như: cơ chế

kiểm soát của các chủ thể ngoài nhà nước có các nguyên tắc đặc trưng của cơ

chế kiểm soát ngoài, cơ chế kiểm soát của các chủ thể bên trong bộ máy nhà

nước có các nguyên tắc đặc trưng của kiểm soát bên trong; giám sát giám sát

có các nguyên tắc của giám sát, thanh tra có các nguyên tắc của hoạt động

thanh tra, kiểm sát có các nguyên tắc của kiểm sát,…). Việc kiểm soát quyền

lực nhà nước phải tiến hành theo những nguyên tắc nhất định. Mỗi hệ thống

pháp luật của từng quốc gia có quy định các nguyên tắc khác nhau trong việc

kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Quy đ nh về chủ thể và đối tượng trong quan hệ kiểm soát quyền lực

nhà nước

Chủ thể và đối tượng, đi kèm với đó là quyền và trách nhiệm được

pháp luật quy định cho mỗi bên, là nội dung chính của những mối quan hệ

pháp lý về KSQLNN. Trong mối quan hệ này, một bên được thể chế pháp lý

về KSQLNN quy định tạo cho quyền kiểm soát (chủ thể kiểm soát); tương

ứng bên kia là bên có nghĩa vụ chịu sự kiểm soát (đối tượng kiểm soát). Chủ

thể kiểm soát là bên có quyền kiểm soát, bao g m nhiều loại: cơ quan nhà

nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc nhân dân (với tư cách

toàn thể, một bộ phận, thông qua các tổ chức đại diện, các thiết chế dân chủ ở

cơ sở như Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát cộng đ ng… hoặc trực tiếp

cá nhân công dân). Đối tượng chịu sự kiểm soát là các cơ quan, tổ chức, cá

nhân được giao nắm giữ, thực thi quyền lực nhà nước. Mỗi chủ thể kiểm soát

có thể kiểm soát một hoặc một số đối tượng khác nhau và mỗi đối tượng có

thể chịu sự kiểm soát của một hay nhiều chủ thể. Một số cơ quan trong bộ

máy nhà nước có thể vừa là chủ thể kiểm soát trong mối quan hệ này, vừa là

đối tượng kiểm soát trong mối quan hệ khác. Trong một mối quan hệ

KSQLNN cụ thể, chủ thể hay đối tượng có những quyền và nghĩa vụ đối xứng

(chủ thể bên cạnh quyền kiểm soát cũng có nghĩa vụ phải thực hiện quyền ấy

Page 52: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

52

theo những quy định đã đặt ra; đối tượng có nghĩa vụ chịu sự kiểm soát nhưng

cũng có những quyền như giải trình, bảo lưu trong một số trường hợp).

- Quy đ nh nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước

Nội dung KSQLNN bao g m kiểm soát tổ chức quyền lực nhà nước và

kiểm soát hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước. Trong đó, trước hết là

cách thức tổ chức bộ máy, thiết lập nên các cơ quan nhà nước; kiểm soát quá

trình lựa chọn những người thực hiện quyền lực nhà nước; việc bảo đảm thực

hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Kiểm soát

“yếu tố tổ chức có ý nghĩa quan trọng nhất, bởi vì đây là khởi điểm cho việc

sử dụng cũng như kiểm soát quyền lực” [23, tr.21]. Bên cạnh đó, phải kiểm

soát quá trình thực thi quyền lực nhà nước vì hoạt động thực tiễn thực hiện

quyền lực nhà nước được tiến hành theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Mặc dù Hiến pháp và pháp luật đã quy định khá chặt chẽ chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước song trên thực tế việc tổ

chức và hoạt động của một số cơ quan, hoạt động của một số nhân viên nhà

nước vẫn vi phạm, gây những hậu quả. Do vậy, kiểm soát đối với công tác tổ

chức và hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước phải được tiến hành thường

xuyên, liên tục nhằm phát hiện những hạn chế, bất cập, những hiện tượng tiêu

cực có thể xảy ra trong quá trình tổ chức và thực hiện QLNN. Nội dung kiểm

soát quyền lực nhà nước đối với mỗi loại quyền lực lập pháp, hành pháp, tư

pháp… được pháp luật quy định khác nhau và chủ thể kiểm soát chỉ có thể

kiểm soát đối với những nội dung đó và trong những phạm vi nhất định mà

pháp luật quy định.

- Quy đ nh hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước

Trong thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước thường phải xác định rõ

hình thức KSQLNN. Thông thường pháp luật quy định KSQLNN được tiến

hành thông qua các hoạt động cơ bản sau: Ban hành các văn bản pháp luật,

đặc biệt là hiến pháp và luật; bầu cử, bổ nhiệm những chức vụ quan trọng

Page 53: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

53

trong bộ máy nhà nước; xem xét báo cáo của các cơ quan, nhân viên nhà

nước; hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát; hoạt động chất vấn,

điều trần, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, trưng cầu ý dân, hoạt động

phản biện xã hội… và rất nhiều các hoạt động khác mà hiến pháp và pháp luật

quy định. Việc sử dụng hình thức nào là phụ thuộc vào mỗi chủ thể, đối với

tuỳ đối tượng và căn cứ vào điều kiện thực tế cũng như mục đích, yêu cầu của

hoạt động kiểm soát. Tất cả các hình thức kiểm soát đều nhằm mục đích bảo

đảm để quyền lực nhà nước luôn được các cơ quan, nhân viên nhà nước tổ

chức và hoạt động đúng hiến pháp, pháp luật, đúng mục đích và hiệu quả.

- Quy đ nh trình tự thủ tục kiểm soát quyền lực nhà nước

Khi tiến hành kiểm soát trên thực tế chủ thể có thẩm quyền kiểm soát

quyền lực nhà nước phải tuân theo đầy đủ và chính xác các hình thức, quy

trình, thủ tục kiểm soát và chỉ có thể áp dụng các biện pháp pháp lý cần thiết,

đúng mức tác động đến đối tượng giám sát theo quy định. Trình tự, thủ tục, áp

dụng trong quá trình kiểm soát đối với mỗi loại quyền lực, mỗi nội dung kiểm

soát, mỗi hình thức kiểm soát được pháp luật quy định khác nhau. Chẳng hạn:

trình tự, thủ tục kiểm soát lập pháp phải khác kiểm soát hành pháp; kiểm soát

bằng hình thức giám sát phải tuân theo luật về hoạt động giám sát, chất vấn

phải theo quy định về trình tự, thủ tục chất vấn; phản biện phải theo quy trình

phản biện; trưng cầu ý dân phải theo quy trình, thủ tục của trưng cầu ý dân;

quy trình một cuộc kiểm tra khác với một cuộc điều tra… Với mỗi vấn đề cần

kiểm soát và ở mỗi hệ thống pháp luật khác nhau có quy định trình tự, thủ tục

khác nhau mà các bên trong quan hệ kiểm soát phải tuân theo.

- Quy đ nh về các biện pháp hậu quả pháp lý của hoạt động kiểm soát

quyền lực nhà nước

Quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước nếu phát hiện ra những sai sót

hoặc những những biểu hiện của việc sử dụng quyền lực nhà nước không

đúng, không hiệu quả cần phải có những biện pháp xử lý. Pháp luật quy định

Page 54: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

54

những hậu quả pháp lý bất lợi có thể áp dụng đối với các đối tượng thực hiện

không đúng hoặc không hiệu quả quyền lực nhà nước được giao. Hậu quả

pháp lý của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước là các biện pháp có thể

áp dụng khi KSQLNN. Các biện pháp này được quy định rất đa dạng, thông

thường có các biện pháp cơ bản như: Thuyết phục, khuyến nghị đối tượng

thực hiện hoặc không thực hiện những hoạt động nào đó; thuyết phục đối

tượng tự xin từ chức; yêu cầu đối tượng phải đình chỉ, sửa đổi, hủy bỏ văn

bản hoặc hoạt động sai trái; khiển trách, cảnh cáo, chuyển đi làm công việc

khác, buộc từ chức; buộc phải khôi phục lại tình trạng cũ; giải tán cơ quan;

cách chức, truy tố đối tượng; kiểm soát quyền lực của nghị viện hay quốc hội

có thể dẫn đến một đạo luật bị ngăn cản ban hành, trong khi kiểm soát quyền

lực của hành pháp có thể là một nội các bị bỏ phiếu bất tín nhiệm…

2.2.2. Hình thức thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

Thể chế pháp lý về KSQLNN là những quy định của pháp luật, vì vậy,

trước hết chúng t n tại dưới hình thức những quy phạm, nhiều quy phạm có

liên kết nội tại với nhau hợp thành chế định của một ngành luật. Với quan

niệm này, có thể coi thể chế pháp lý về KSQLNN là một chế định về kiểm

soát quyền lực nhà nước trong ngành luật hiến pháp của mỗi quốc gia.

Thể chế pháp lý về KSQLNN thể hiện dưới hình thức văn bản quy

phạm pháp luật hoặc tập quán pháp, tiền lệ pháp tuỳ thuộc vào đặc điểm hình

thành hệ thống pháp luật của từng nước. Đa số các nước hiện nay trong đó có

nước ta chỉ dựa trên hiến pháp và hệ thống pháp luật thành văn nên thể chế

KSQLNN được quy định trong các hình thức văn bản. Trên thế giới, chỉ 03

nước là Anh, Niu-di-lân và It-xa-ra-en không có hiến pháp thành văn nhưng

vẫn có các văn bản pháp luật, các quy phạm pháp luật được hình thành theo

tập tục truyền thống, các án lệ của toà án tối cao có liên quan tới việc tổ chức

Page 55: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

55

quyền lực nhà nước, chỉ không được nhà nước tuyên bố hay ghi nhận trong

một đạo luật cơ bản là hiến pháp mà thôi [11, tr.38].

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta được xác định theo

Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, g m: Hiến

pháp, các luật, nghị quyết (do cơ quan lập pháp thông qua) và các văn bản

dưới luật (pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tư) do các cơ quan có thẩm

quyền trong bộ máy nhà nước ban hành liên quan đến việc tổ chức, thực hiện

và kiểm soát quyền lực nhà nước. Như vậy, hình thức thể chế pháp lý về

KSQLNN ở nước ta bao g m:

(1)- Hiến pháp: Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước trước

hết và chủ yếu bao g m những quy định nằm trong Hiến pháp. Các quy định

của Hiến pháp là thể chế gốc, thể chế căn bản, then chốt có vai trò định

khung, định hướng và tạo lập nguyên tắc cơ bản làm căn cứ cho toàn bộ hệ

thống thể chế. Vì vậy, việc KSQLNN trước hết và chủ yếu phải được quy

định trong Hiến pháp. Nói đến thể chế pháp lý về KSQLNN, trước hết và chủ

yếu phải quan niệm rằng đó là các thể chế được tạo ra bởi Hiến pháp. Hiến

pháp là ngu n chủ yếu của thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước.

“Sự hiện diện của Hiến pháp là một căn cứ căn bản cho việc kiểm soát quyền

lực nhà nước” [23, tr.28].

(2)- Các bộ luật luật ngh quyết của Quốc hội: Là các văn bản thể chế

hóa, quy định cụ thể hóa các nguyên tắc trong Hiến pháp đối với từng lĩnh

vực, từng ngành luật cụ thể. Trong số đó, các luật về tổ chức và hoạt động của

bộ máy nhà nước và các luật về quyền cơ bản của công dân có vị trí vai trò

quan trọng, chứa đựng phần lớn nội dung thể chế pháp lý về kiểm soát quyền

lực nhà nước (ví dụ: Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ

chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật trưng cầu ý

dân, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật tiếp cận thông tin...).

Page 56: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

56

(3)- Các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật:

Các quy phạm pháp luật liên quan đến những vấn đề cụ thể, chi tiết về

kiểm soát quyền lực nhà nước có thể nằm tập trung hoặc rải rác trong rất

nhiều văn bản để hướng dẫn, chi tiết hoá Hiến pháp và các luật trên, đó có thể

là các thông tư, quyết định,... của các cơ quan nhà nước có chứa quy phạm

pháp luật về KSQLNN. Điều đặc biệt là ở Việt Nam, các nghị quyết liên tịch

của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Trung ương

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định về hình thức giám sát, phản biện xã hội

cũng là một loại văn bản chứa đựng thể chế pháp lý về KSQLNN.

2.2.3. Các bộ phận hợp thành thể chế pháp lý về kiểm soát quyền

lực nhà nước

Thể chế pháp lý về KSQLNN không phải là một số những quy định rời

rạc mà phải là một hệ thống có tính chỉnh thể, có sự thống nhất nội tại, bao g m

những tiểu hệ thống hợp thành. Đương nhiên, ở những thời điểm nhất định,

trong hệ thống thể chế không phải tiểu hệ thống nào cũng đã đầy đủ, mà có bộ

phận thì tương đối hoàn thiện, có bộ phận đã được định hình, có bộ phận mới chỉ

là những nét phác thảo.

Có nhiều cách phân chia bộ phận hợp thành thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước theo những cơ sở và mục tiêu nghiên cứu khác nhau. Có

nghiên cứu cho rằng thể chế pháp lý về KSQLNN ở nước ta hiện nay bao g m

thể chế kiểm soát bên ngoài, thể chế kiểm soát bên trong và thể chế bảo vệ Hiến

pháp [50]. Có những nghiên cứu phân chia thể chế pháp lý về KSQLNN thành

những bộ phận nhỏ hơn, theo từng chủ thể, như: kiểm soát của các cơ quan trong

bộ máy nhà nước (trong đó lại có thể chia ra: Quốc hội trong cơ chế KSQLNN,

Chính phủ trong cơ chế KSQLNN, Toà án trong cơ chế KSQLNN,…) [38], [57],

[73], [54],…; kiểm soát QLNN của Đảng [63], kiểm soát QLNN của Nhân dân

[2]. Có những nghiên cứu phân chia theo các quy định của pháp luật về từng

hình thức kiểm soát QLNN, như: pháp luật về giám sát và phản biện xã hội,

Page 57: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

57

pháp luật về khiếu nại, tố cáo,… Với cách tiếp cận thể chế pháp lý về KSQLNN

ở mức độ tổng thể, khái quát nhất, Luận án này trình bày hệ thống thể chế pháp

lý về KSQLNN g m 02 bộ phận:

(1)- Thể chế pháp lý về KSQLNN bên trong bộ máy nhà nước

Theo Hiến pháp hiện hành, tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở

nước ta được thể hiện thông qua bộ máy của Nhà nước tạo nên bởi hệ thống

các cơ quan nhà nước g m: Các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội và

Hội đ ng nhân dân), các cơ quan quản lý nhà nước (Chính phủ, các Bộ, các

cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các

cấp), các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật

định), các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm

sát khác do luật định), Chủ tịch nước (nguyên thủ quốc gia), Hội đ ng bầu

cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.

Về cơ bản, thể chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước dựa

trên nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và

kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp”. Nguyên tắc này đã bao hàm sự kiểm soát theo chiều ngang

ở cấp trung ương, và những mối quan hệ có tính chất kiểm soát lẫn nhau theo

chiều dọc giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với chính quyền địa phương,

giữa các cơ quan chính quyền địa phương cấp trên với chính quyền địa phương

cấp dưới; và giữa các cơ quan trong cùng cấp chính quyền địa phương với nhau.

Sở dĩ có thể quan niệm như vậy vì trong tổ chức quyền lực nhà nước

theo Hiến pháp năm 2013 thì Quốc hội được phân công thực hiện quyền lập

hiến, quyền lập pháp; Chính phủ được phân công thực hiện quyền hành pháp

và Tòa án được phân công thực hiện quyền tư pháp. Song trên cả phương diện

lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng việc thực hiện quyền lập pháp, hành

pháp và tư pháp còn có sự tham gia của các chủ thể khác. Chẳng hạn như: có

Page 58: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

58

thể coi là Quốc hội uỷ quyền lập pháp cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban

hành các pháp lệnh hay Chính phủ ban hành các nghị định để kịp thời điều

chỉnh những lĩnh vực chưa có luật điều chỉnh (gọi là loại nghị định “không

đầu” – xem [38]); Quốc hội cũng để phạm vi cho các Hội đ ng nhân dân

được ban hành nghị quyết để quyết định cụ thể một số chính sách ở địa

phương. Chính phủ thực hiện quyền hành pháp nhưng Uỷ ban nhân dân các

cấp có quyền hạn và trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật trong địa

phương quản lý; kể cả việc ban hành một số chính sách đặc thù ở địa phương

đó. Sự tham gia dù ở tính chất, mức độ khác nhau của các cơ quan trong thực

hiện QLNN tạo ra đặc điểm của thể chế pháp lý về KSQLNN ở nước ta.

Trong các chiều cạnh của KSQLNN trong bộ máy nhà nước thì kiểm soát

theo chiều ngang ở cấp trung ương là nội dung đặc trưng cần quan tâm nhất, bởi

vì chỉ có ở cấp Trung ương, nhất là đối với mô hình nhà nước đơn nhất như Việt

Nam, thì quyền lực nhà nước mới có biểu hiện tập trung đầy đủ 3 bộ phận lập

pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, kiểm soát giữa cơ quan nhà nước cấp trên

đối với cơ quan nhà nước cấp dưới và kiểm soát giữa cơ quan quyền lực nhà

nước với cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là những yếu tố không thể

thiếu tạo nên tổng thể cơ chế KSQLNN ở nước ta.

(2)- Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài

bộ máy nhà nước

Ở nước ta, do đặc điểm tổ chức, vận hành của hệ thống chính trị đã nêu

trên và lịch sử xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đến ngày nay đã tạo ra

những đặc điểm riêng về thể chế pháp lý KSQLNN từ bên ngoài, với vai trò của

các chủ thể đặc biệt:

+ Thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía Đảng Cộng sản Việt

Nam. Về nguyên tắc, Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Với vai

trò lãnh đạo, Đảng có quyền và trách nhiệm phải KSQLNN. Trong thực tiễn,

Đảng có tổ chức bộ máy của mình là những cơ quan thiết lập gần như song song

Page 59: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

59

với cơ quan nhà nước, mỗi ban của Đảng có thể kiểm tra, giám sát một số cơ

quan của bộ máy nhà nước. Hơn nữa, Đảng đã có một phần “hoá thân vào nhà

nước” thông qua các tổ chức cơ sở đảng được thiết lập trong các cơ quan nhà

nước, qua sự lãnh đạo của các ban cán sự đảng, đảng đoàn, qua nguyên tắc báo

cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng, qua vai trò của những đảng

viên giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan nhà nước, qua sự lãnh đạo

tuyệt đối và toàn diện của Đảng đối với các lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, Đảng

thực hành quyền KSQLNN hiện nay chủ yếu dựa trên Điều lệ Đảng và các quy

định của Đảng. Việc xây dựng thể chế pháp lý cho sự KSQLNN của Đảng là vấn

đề đặt ra cần nghiên cứu về lý luận và thực tiễn.

+ Thể chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó quy định để

các cá nhân, tổ chức trong xã hội kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhân dân với

nghĩa tập hợp người gồm toàn thể công dân của nước Việt Nam, là chủ thể tối

cao của quyền lực nhà nước, có quyền kiểm soát quyền lực mà mình đã giao

quyền, ủy quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện. Kiểm soát của toàn thể

Nhân dân đối với quyền lực nhà nước thể hiện trong một số trường hợp, ví dụ:

khi Nhân dân tham gia góp ý Hiến pháp, tham gia bầu cử, hoặc tham gia cuộc

trưng cầu ý dân về một vấn đề nào đó. Nhân dân, thông qua các tổ chức chính

tr - xã hội do nhân dân lập ra để kiểm soát quyền lực nhà nước (đó là thông qua

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội). Nhân dân,

thông qua quyền tự do ngôn luận tự do báo chí để KSQLNN. Trong đó, cơ

quan báo chí vừa là chủ thể, vừa là phương tiện để nhân dân KSQLNN. Nhân

dân còn có quyền làm chủ thể kiểm soát trực tiếp quyền lực nhà nước thông

qua các thiết chế dân chủ ở cơ sở như: thanh tra nhân dân, tập thể lao động,

ban giám sát đầu tư của cộng đ ng. Nhân dân,với tư cách cá nhân công dân

cũng có thể tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước theo các quy định về quyền

tiếp cận thông tin (Điều 25 Hiến pháp năm 2013), quyền khiếu nại, tố cáo (Điều

30 Hiến pháp năm 2013), …

Page 60: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

60

2.3. THỂ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở

MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

2.3.1. Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số

nước trên thế giới

* Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước

- Kiểm soát gi a các quyền lập pháp hành pháp tư pháp

Các nước trên thế giới hiện nay, nhất là các nhà nước tư sản đa số đều

quan niệm trong tất cả các loại hình KSQLNN thì KSQLNN từ bên trong là

quan trọng nhất, và cũng là hiệu quả nhất và ít tốn kém nhất. Quyền lực nhà

nước phải phân ra và lấy quyền lực nọ kiểm soát quyền lực kia [23]. Nguyên

tắc KSQLNN trong nội bộ bộ máy nhà nước đều được quy định rõ ràng, minh

bạch ngay từ trong Hiến pháp. Sự phân quyền là một nền tảng quan trọng, được

coi là nội dung của việc KSQLNN. Tham khảo thể chế pháp lý KSQLNN ở các

nước trên thế giới hiện nay, trong đó phần lớn là các nhà nước pháp quyền tư

sản, cho thấy một số điểm như sau:

+ Các nước đều cố gắng tiến tới xác định rõ giới hạn quyền lực nhà

nước. Thực chất, đây chính là phạm vi của sự ủy quyền. Phạm vi giới hạn này

được quy định trong Hiến pháp hoặc trong các đạo luật cơ bản. Như vậy, ngay

từ đầu, quyền lực nhà nước là quyền lực hạn chế. Nhà nước chỉ được làm

những điều mà mình được ủy quyền, hơn nữa, giới hạn này cũng luôn được

thay đổi vì có nhiều việc nhà nước không cần làm nữa khi xã hội phát triển

cùng với sự thay đổi của các điều kiện.

+ Bản thân nhà nước phải thực thi những biện pháp KSQLNN, một mặt

bảo đảm tính trách nhiệm của nhà nước trước sức ép của sự kiểm soát bên

ngoài, nâng cao tính chính đáng cho quyền lực nhà nước mà thực chất là vì

tính chính đáng của đảng cầm quyền [129, tr.81-120]. Quyền lực nhà nước vì

vậy được thiết kế và thực thi theo những cách thức có thể kiểm soát lẫn nhau.

Ví dụ, cơ chế tam quyền phân lập được áp dụng triệt để ở Mỹ, bảo đảm ba

Page 61: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

61

nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp có tính độc lập, không có quyền

phế truất các nhánh khác mà chỉ có khả năng ảnh hưởng, tạo cơ chế “kiềm

chế - cân bằng” quyền lực.

+ Tiêu điểm của việc KSQLNN là kiểm soát quyền lực hành pháp. Sở

dĩ như vậy, bởi vì trong tất cả các bộ phận cấu thành nên quyền lực nhà nước

kể từ cơ quan lập pháp cho đến hành pháp và kể cả tư pháp, chỉ có cơ quan

hành pháp là thể hiện nguyên hình nhà nước nhất, nắm cả biên chế, nắm cả

ngân sách [23, tr.29]. Trong mỗi mô hình phân quyền của nhà nước tư sản thì

tính chất, mức độ chịu trách nhiệm của nhánh quyền hành pháp có biểu hiện

khác nhau. Phân quyền mềm dẻo thì Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước

Quốc hội (đây là biểu hiện của chế độ cộng hoà đại nghị, như ở Anh, Italia,

Cộng hoà Liên bang Đức,…). Phân quyền cứng rắn thì Chính phủ không chịu

trách nhiệm trước Quốc hội mà chịu trách nhiệm trước nhân dân (đây là biểu

hiện của chế độ cộng hoà tổng thống, tiêu biểu nhất là ở Mỹ). Phân quyền hỗn

hợp thì Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội, đ ng thời Tổng

thống phải chịu trách nhiệm trước cử tri (tiêu biểu như ở các nước: Pháp,

Đông Âu sau khi các nhà nước XHCN ở đây sụp đổ).

+ Ở các nước tư sản, vị trí, vai trò của toà án có tính độc lập cao. Tuy

nhiên, mức độ độc lập còn phụ thuộc vào tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của

giai cấp cầm quyền trong nhà nước [23, tr.30]. Ở Anh và Pháp, nguyên tắc

phân quyền chưa phải là rất mạnh, ưu thế của Nghị viện lấn át so với ngành tư

pháp; ngược lại, ở Mỹ, đặc trưng của bộ máy tư pháp Mỹ đã làm cho bản đ

quyền lực được phân công rõ rệt hơn, người Mỹ đã đề cao vai trò của các Toà

án trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

- Kiểm soát gi a cơ quan trung ương và chính quyền đ a phương

Nghiên cứu pháp luật các nước cho thấy có sự kiểm soát của trung

ương đối với địa phương; đ ng thời ở một mức độ nhất định, quyền lực nhà

nước ở trung ương được chế ước, đối trọng bằng việc phân quyền cho địa

Page 62: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

62

phương và việc công nhận chế độ tự trị ở một số vùng lãnh thổ. Thể chế pháp

lý về kiểm soát giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương được

quy định trong Hiến pháp (về mô hình chính quyền địa phương) và các đạo

luật chuyên ngành về phân cấp, phân quyền, tổ chức chính quyền địa phương.

Khoản 2 điều 8 của Hiến chương về tự quản địa phương châu Âu năm 1985

khẳng định "bất kỳ sự kiểm soát hành chính nào đối với hoạt động của cơ

quan tự quản địa phương cũng phải hướng tới mục đích bảo đảm tính pháp

chế và nguyên tắc tối cao của Hiến pháp".

Ở khía cạnh quan tâm hiện nay của Việt Nam là sự kiểm soát từ trên

xuống, tham khảo luật của đa số các nước cho thấy các cơ quan nhà nước ở

trung ương kiểm soát chính quyền địa phương thông qua việc ban hành các

tiêu chuẩn cho hoạt động của chính quyền địa phương và kiểm tra việc thực

hiện [120]. Việc kiểm tra hành chính chung đối với các cơ quan địa phương

do chính phủ trung ương hay chính phủ bang thực hiện (thông thường là do

một hay một vài bộ trưởng đảm nhiệm). Ở Nhật Bản, đó là bộ về các vấn đề

tự quản địa phương, ở Na -Uy là bộ về các vấn đề địa phương; ở Pháp, I-ta-

lia, Niu Di-lân và nhiều quốc gia khác do Bộ Nội vụ đảm nhiệm. Ở Nga, theo

Hiến pháp Liên bang "về các nguyên tắc chung bảo đảm tổ chức tự quản địa

phương ở Liên bang Nga", việc kiểm tra các cơ quan tự quản địa phương và

cán bộ dân cử do cơ quan nhà nước của chủ thể liên bang thực hiện.

Kiểm tra hành chính của chính quyền trung ương đối với hoạt động của

chính quyền địa phương thể hiện trước hết ở quyền phê chuẩn và đình chỉ một

số văn bản, cách chức một số chức vụ của cơ quan tự quản địa phương. Ví dụ

ở Anh, các văn bản quy phạm pháp luật địa phương về kế hoạch đầu tư, xây

dựng khu dân cư, quy hoạch đất đai, nhận công trái... phải được chính quyền

trung ương phê chuẩn. Trong trường hợp cơ quan địa phương thực hiện không

đúng chức năng của mình thì luật áp dụng các biện pháp xử lý cụ thể như

cách chức người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương, phạt tiền, chuyển

Page 63: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

63

một số thẩm quyền của cơ quan địa phương cho đại diện cơ quan chính phủ

tại địa phương... ở Ba Lan, trong trường hợp chính quyền cơ sở không đủ

năng lực thì Chủ tịch Hội đ ng Bộ trưởng có quyền ngưng hoạt động của cơ

quan này và giao cho thanh tra chính phủ điều hành trong thời hạn 2 năm.

Biện pháp cứng rắn hơn nữa là giải thể các hội đ ng địa phương được quy

định trong luật của Pháp, I-ta-lia, B Đào Nha, Ai-xlen, Ba Lan, Mê-hi-cô, ấn

Độ. Ở Pháp, Hội đ ng địa phương có thể bị giải tán bởi sắc lệnh của thống

đốc bang và được Hội đ ng Chính phủ thông qua.

Ngoài cơ chế kiểm tra hành chính còn có cơ chế giám sát đối với chính

quyền địa phương. Ở các nước theo mô hình Châu Âu lục địa, đại diện của cơ

quan hành chính nhà nước trung ương tại địa phương giám sát hoạt động của

chính quyền địa phương. Ở Nga, Viện kiểm sát Liên bang giám sát thực thi

pháp luật của cơ quan và cán bộ chính quyền địa phương. Ở Anh và các nước

khác thuộc hệ thống Ăng-lô sắc - xông, việc kiểm soát chính quyền địa

phương do toà án thực hiện. Nhưng toà án không thể tự đề xuất việc phán xét

các quyết định của chính quyền địa phương. Việc khiếu kiện ra toà phải từ cá

nhân hay tổ chức bị xâm phạm về lợi ích do một hành vi cụ thể nào đó (hay

trốn tránh trách nhiệm) của chính quyền địa phương. Các hình thức xử phạt

của toà án đối với chính quyền địa phương có thể là huỷ bỏ các quyết định

cũng như áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác.

* Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài bộ

máy nhà nước

- Kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước

+ Trước hết, hiến pháp ở hầu hết các nước đều khẳng định nhân dân là

chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và một số nước quy định rõ nhân dân

là chủ thể của quyền lập hiến. Hiến pháp là đạo luật gốc của mọi quốc gia dân

chủ, pháp quyền, là phương tiện để nhân dân giao quyền, ủy quyền cho nhà

nước, thiết lập nên bộ máy nhà nước. Nhiều nước đã phát triển học thuyết chủ

Page 64: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

64

quyền nhân dân, chủ nghĩa hiến pháp, coi đó là nguyên lý để xác lập vị trí

nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước.

+ Hệ thống bầu cử theo nhiệm kỳ là công cụ kiểm soát quan trọng nhất,

thể hiện rõ nhất quyền quyết định tối cao của nhân dân đối với Nhà nước. Để

nhân dân có thể kiểm soát bằng lá phiếu của mình, hệ thống bầu cử ở các

nước được thiết kế chuyên nghiệp, có tính trung lập và khách quan, như: Hội

đ ng bầu cử ở Úc, Ủy ban giám sát bầu cử,… hoạt động trên nền tảng các luật

về bầu cử. Trên thực tế, tính hiệu quả của cơ chế kiểm soát thông qua bầu cử

là khác nhau giữa mô hình tổng thống và mô hình nghị viện. Ở mô hình tổng

thống, các cử tri bầu trực tiếp cả lập pháp và hành pháp. Trong mô hình nghị

viện, cử tri chỉ bầu ra nhánh lập pháp, sau đó lập pháp mới hình thành hành

pháp. Vì vậy, ở hệ thống nghị viện thì nhánh hành pháp chỉ có trách nhiệm

gián tiếp với cử tri [129, tr. 81-120].

+ Các quyền con người được nhiều nước quy định như là mục tiêu cốt

lõi và phương thức KSQLNN. Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948, Công ước

quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội

và văn hoá năm 1966,… của Liên hợp quốc đều yêu cầu các quốc gia phải

“tôn trọng và bảo đảm” quyền con người. Ở nhiều nước thuộc Liên minh

Châu Âu (EU), nếu quyền con người không được quy định trong chính văn

bản hiến pháp thì được quy định trong đạo luật nhân quyền của quốc gia. Ở

Mỹ, để có thể thông qua bản Hiến pháp, những nhà lập hiến đã phải bổ sung

các Tu chính án g m 10 nội dung về bảo vệ quyền con người mà ngày nay đã

rất quen thuộc với người dân Mỹ như là Tuyên ngôn Nhân quyền [7, tr.59]. Ở

các nước Đông Nam Á, quyền con người được ghi nhận thẳng trong Hiến

pháp, như: Philippin, Singapore, Thái Lan,… Các quy định này thường chỉ rõ

phạm vi các quyền được bảo vệ, đối tượng được bảo vệ, nguyên tắc giới hạn

quyền con người và quy định các thiết chế bảo vệ quyền con người, như các

Page 65: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

65

cơ quan giám sát độc lập (cơ quan nhân quyền quốc gia), toà án nhân quyền,

các tổ chức uỷ quyền của công dân.

+ Xu hướng trên thế giới cho thấy, thể chế pháp lý về kiểm soát quyền

lực nhà nước của Nhân dân được thể hiện thông qua một tập hợp nhiều quyền,

trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến quyền tiếp cận thông tin và quyền trưng cầu

ý kiến. Ngay từ năm 1966, Quốc hội Mỹ đã ban hành Luật về tự do thông tin,

tiếp đó quy định mọi công dân đều có quyền sử dụng các tài liệu lưu trữ của

bất kỳ một cơ quan nhà nước nào. Mọi trường hợp từ chối cung cấp thông tin

đều có thể bị kiện ra trước tòa. Ở Pháp có một đạo luật riêng về các biện pháp

thúc đẩy quan hệ giữa công quyền và dân chúng (năm 1978). Theo đó, tiếp

cận các tài liệu của cơ quan quản lý là một trong những quyền tự do của công

dân. Luật quy định hẳn một danh mục rất lớn những loại tài liệu mà công dân

có quyền tiếp cận. Bên cạnh đó, phải nói đến quyền trưng cầu ý kiến. Công

dân có thể thông qua các cuộc trưng cầu ý kiến để kiểm soát, giám sát hoạt

động của nghị viện hoặc hội đ ng địa phương. Theo hiến pháp ở nhiều nước

tư bản hiện nay, trước khi nghị viện bỏ phiếu thông qua một vấn đề nhất định

hoặc đã thông qua nhưng trước khi vấn đề đó có hiệu lực, thì phải có ý kiến

biểu quyết của cử tri cả nước.

+ Pháp luật của đa số các nước cũng thừa nhận công dân được lựa chọn

các tổ chức đại diện cho mình như các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã

hội, tổ chức nghề nghiệp,... Ngoài các chức năng đại diện lợi ích của các

nhóm xã hội khác nhau trong việc thảo luận và phản biện chính sách, các

nhóm còn tạo nên hệ thống giám sát quyền lực hữu hiệu và không tốn kém

cho ngân sách nhà nước. Các nước Bắc Âu như Thuỵ Điển, Na Uy, Đan

Mạch, Aixơlen, Phần Lan đều là những nước phát triển. Ngoài tự do, dân chủ,

các đất nước trên đều đề cao tính công khai, minh bạch hoạt động quyền lực

nhà nước và coi trọng phát triển các tổ chức xã hội dân sự. Ở các nước đó,

Page 66: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

66

thúc đẩy phát triển xã hội dân sự là một trong những giải pháp để kiểm soát

quyền lực nhà nước từ bên ngoài có hiệu quả.

+ Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thực hiện bằng các

phương tiện truyền thông đại chúng. Truyền thông đại chúng là một biện pháp

để công khai, minh bạch hoạt động quyền lực nhà nước trước nhân dân.

Trong thời đại ngày nay, với khoa học công nghệ vượt trội, truyền thông đại

chúng có ưu thế rõ rệt, ngoài các chức năng phổ biến khác thì truyền thông

đại chúng: "thực hiện hai chức năng chính: thông báo cho công chúng biết các

nhà lãnh đạo của mình đang làm gì và giám sát các hành động của Chính

phủ"[62, tr.227]. Ví dụ: tại nước Mỹ, phần lớn cơ quan truyền thông đại

chúng thuộc sở hữu tư nhân, nó vừa có mục đích kinh doanh vừa có mục đích

chính trị và được coi là “quyền lực thứ tư” sau quyền lập pháp, hành pháp, tư

pháp. Mặc dù không thực hiện quyền lực theo phân công của hiến pháp nhưng

truyền thông đại chúng có thể định hướng được công chúng và điều này khiến

nó trở thành nhân tố quan trọng trong đời sống chính trị xã hội của nước Mỹ.

- Đảng chính tr kiểm soát quyền lực nhà nước

+ Hoạt động của các đảng phái chính trị đối lập với đảng cầm quyền

vừa là đặc điểm vừa là một phương thức KSQLNN ở các nước dân chủ tư sản

trên thế giới. Sự ra đời và phát triển của các đảng phái chính trị có liên quan

chặt chẽ với các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội, các nhóm lợi ích hoặc

hậu thuẫn hoặc kiểm soát, chi phối lãnh đạo và hạn chế quyền của đảng cầm

quyền tùy theo mục đích của mối quan hệ. Hiến pháp Cộng hoà Pháp năm

1958 quy định: “Các đảng phái và các nhóm chính trị giành quyền lực qua kết

quả bầu cử. Các đảng phái và các tổ chức chính trị được tự do thành lập và

hoạt động trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc về chủ quyền quốc gia và dân

chủ"[6, tr.386]. Ở Mỹ, hiến pháp, pháp luật buộc mọi đảng phái chính trị, kể

cả đảng cầm quyền, nhóm lợi ích phải tuân thủ, thực hiện pháp luật, hoạt

động cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng và sự ủng hộ của cử tri phải trong

Page 67: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

67

khuôn khổ quy định của pháp luật. Tại Nga, Điều 13 Hiến pháp năm 1993

quy định: "Ở Liên bang Nga thừa nhận sự đa dạng về tư tưởng; không một hệ

tư tưởng nào được coi là chính thức và bắt buộc" và "Ở Liên bang Nga thừa

nhận sự đa nguyên, đa đảng" [6, tr.58]... Loại trừ những điểm hạn chế, bất cập

của mỗi nước trong thực hiện thì nhân tố hợp lý của cơ chế kiểm soát quyền

lực nhà nước thông qua đảng đối lập là buộc đảng cầm quyền phải nỗ lực

nhiều hơn trong thực thi quyền lực công.

+ Đảng cầm quyền tự mình KSQLNN là một đặc điểm trong hệ thống

chính trị các nước XHCN hiện nay khi mà hệ thống tổ chức của Đảng Cộng

sản được thiết lập gần như song song, cùng hoạt động với các cơ quan nhà

nước. Lý luận và thực tiễn ở Trung Quốc những năm gần đây cho thấy nước

này đang thúc đẩy chiến lược “Bốn toàn diện” trong đó có 02 nội dung: “quản

lý nhà nước theo pháp luật một cách toàn diện” và “quản lý Đảng một cách

nghiêm minh toàn diện”. Tức là, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung

Quốc, quán triệt lý luận pháp trị XHCN đặc sắc Trung Quốc, hình thành hệ

thống pháp luật hoàn chỉnh, hệ thống thực thi pháp luật có hiệu quả cao, hệ

thống giám sát nghiêm ngặt, hình thành hệ thống quy chế hoàn thiện trong

Đảng, kiên trì thúc đẩy quản lý nhà nước theo pháp luật, cầm quyền theo pháp

luật, xây dựng Nhà nước pháp trị XHCN, thực hiện “lập pháp một cách khoa

học, hành pháp một cách nghiêm ngặt, tư pháp công chính”. Việc trọng tâm

mà Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ đạo hiện nay là quản lý cán

bộ lãnh đạo một cách nghiêm ngặt, chấn chỉnh tác phong, chống tham nhũng,

nghiêm túc kỷ cương Đảng. Đi sâu cải cách thể chế chính trị thực hiện sự

thống nhất hữu cơ “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, quản lý nhà nước theo

pháp luật”. Nhà lãnh đạo Tập Cận Bình có câu nói nổi tiếng “nhốt quyền lực

vào trong l ng chế độ” được các học giả Trung Quốc giải thích chính là “cái

l ng thể chế”, vừa chặt chẽ, vừa công khai, minh bạch để quyền lực không ra

ngoài được và người ngoài nhìn thấy được để giám sát.

Page 68: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

68

* Thể chế pháp lý về bảo vệ Hiến pháp

Ở nhiều nước, thể chế pháp lý về bảo vệ hiến pháp thường được quy

định rất rõ và là một công cụ hữu hiệu để KSQLNN. Nhìn chung, Hiến pháp

các nước thường quy định về cơ quan bảo hiến với tư cách là một thiết chế

độc lập (mức độ độc lập tùy thuộc vào từng mô hình tổ chức QLNN) để kiểm

soát, ngăn cản sự vi hiến. Thể chế bảo hiến cho phép cả các cơ quan trong bộ

máy nhà nước và tổ chức, cá nhân ngoài bộ máy nhà nước có thể tham gia

hành động bảo vệ hiến pháp. Đ ng thời, các văn bản, hành vi vi hiến có thể bị

xét xử, bất kể đó là văn bản hay hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân nào

(tài phán hiến pháp). Theo các tài liệu nghiên cứu đã công bố, trên thế giới có

3 mô hình bảo hiến cơ bản sau đây:

(1)- Mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ: Tòa Tối cao (và cả các tòa án

thường) được giao chức năng bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này có 6 đặc điểm

cơ bản: (1) tất cả các tòa án đều có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo

luật; (2) việc bảo hiến chỉ đặt ra khi gắn với một vụ việc cụ thể; (3) nội dung

bảo hiến phải liên quan trực tiếp tới đương sự trong vụ việc được xem xét; (4)

một đạo luật chỉ bị tuyên là vi hiến khi thẩm phán thấy bằng chứng của sự vi

hiến đó là rõ ràng, không thể phủ nhận được; (5) các đạo luật liên quan tới

lĩnh vực "chính trị thuần túy" như tổ chức công quyền, vấn đề ngoại giao v.v.

không thuộc vào phạm vi bảo hiến; (6) khi một đạo luật bị tuyên bố là vi hiến

thì đạo luật ấy không còn giá trị áp dụng [78, tr.255-256]. Hiện nay, mô hình

này được áp dụng ở Hoa Kỳ, một số nước châu Mỹ (Canada, Argentina,

Mexico...), Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch v.v.

(2)- Mô hình bảo hiến kiểu Áo-Đức: Theo mô hình này, một thiết chế

có tên là Tòa án Hiến pháp được xác lập, đứng tách biệt với các nhánh quyền

lực và kể cả với hệ thống tòa án thường, trong đó có cả tòa tối cao. Mô hình

này được tiếp nhận, cải biến, hoàn thiện ở nhiều quốc gia trên thế giới, mà

điển hình là Đức, Ý, Nga, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia v.v. (khoảng gần

Page 69: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

69

60 quốc gia). Số lượng thẩm phán của toà án hiến pháp thường từ 9 đến 19

người; nhân sự một phần do Nguyên thủ quốc gia, 1 phần do Nghị viện bổ

nhiệm. Thẩm quyền của Tòa hiến pháp thường tập trung xem xét tính hợp

hiến của các đạo luật do Nghị viện ban hành, văn bản của Nguyên thủ quốc

gia hoặc của Chính phủ. Điều đặc biệt khác với mô hình bảo hiến kiểu Hoa

Kỳ là vấn đề giám sát tính hợp hiến của một đạo luật mà không gắn với các

vụ việc cụ thể cũng được đặt ra. Tòa án này cũng có thẩm quyền giải quyết

tranh chấp giữa các nhánh quyền lực nhà nước, giữa chính quyền trung ương

với chính quyền địa phương; xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầu cử Tổng

thống và Nghị viện và các cuộc trưng cầu ý dân [78, tr. 258-259].

(3)- Mô hình bảo hiến kiểu Pháp: Theo mô hình này, cơ quan bảo hiến

chuyên trách có tên là Hội đ ng Hiến pháp (Conseil Constitutionnel). Thẩm

quyền của Hội đ ng Hiến pháp của Pháp thường tập trung vào việc giám sát

trước tính hợp hiến của tất cả các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước (trước

khi được Tổng thống ký ban hành dù đã được Nghị viện thông qua) hoặc

những đạo luật tuy đã được Nghị viện thông qua nhưng chưa được Tổng

thống ký ban hành (theo đề nghị giám sát hiến pháp của Tổng thống, Chủ tịch

Hạ viện, Chủ tịch thượng viện, Thủ tướng, hoặc ít nhất 60 hạ nghị sỹ hoặc 60

thượng nghị sỹ). Từ năm 2010, Hội đ ng Hiến pháp còn có thêm thẩm quyền

xem xét tính hợp hiến của các đạo luật đã ban hành theo đề nghị của các Tòa

án thường thông qua kênh Tòa Phá án hoặc Hội đ ng nhà nước (Conseil

d'État - một thứ Tòa hành chính tối cao ở Pháp). Hiện tại, mô hình Hội đ ng

Hiến pháp cũng được mô phỏng nhất định ở Campuchia.

Ngoài 3 mô hình cơ bản trên, ở những quốc gia theo chế độ cộng hoà

đại nghị, như: Anh, Phần Lan, NewZeland,... không tổ chức một thiết chế bảo

hiến độc lập với Nghị viện. Ở Trung Quốc, Đại hội đại biểu nhân dân toàn

quốc (Quốc hội Trung Quốc) được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao

nhất và Quốc hội phải tự xác định tính hợp hiến của một đạo luật [78, tr.263].

Page 70: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

70

2.3.2. Một số giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nghiên cứu thể chế pháp lý về KSQLNN ở một số nước trên thế giới có

thể rút ra một số giá trị tham khảo cho Việt Nam như sau:

Thứ nhất thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước

phải dựa trên nh ng nhân tố hợp lý của học thuyết phân quyền. Thuyết phân

quyền ra đời như là sự cứu cánh cho việc thiết lập một nhà nước dân chủ,

pháp quyền tư sản, chống lại chế độ chuyên chế trong lịch sử của nhân loại

[93]. Ngày nay thuyết phân quyền được vận dụng, áp dụng khá phổ biến ở các

quốc gia trên thế giới với những mức độ khác nhau. Nhiều quốc gia trên thế

giới đã ghi nhận nguyên tắc phân quyền là một trong những nguyên tắc tổ

chức quyền lực nhà nước. Việt Nam tuy không nhắc đến nguyên tắc này,

nhưng trong Hiến pháp Việt Nam đã tiếp thu những yếu tố hợp lý của thuyết

phân quyền, khái quát lên thành nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống

nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực

hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Thứ hai, thể chế pháp lý về kiểm soát của các chủ thể bên ngoài nhà

nước đối với quyền lực nhà nước phải được quan tâm xây dựng ngày càng

hoàn thiện. Trong số đó, coi trọng các cuộc bầu cử dân chủ theo nhiệm kỳ cần

được xem là một phương thức quan trọng KSQLNN. Ngoài nguyên tắc là phổ

thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín thì bầu cử cạnh tranh là ưu thế để

nhân dân lựa chọn được người xứng đáng thực thi QLNN. Bên cạnh đó, các

quyền dân chủ trực tiếp của công dân do hiến pháp quy định như quyền được

trưng cầu ý dân, quyền lập hội, biểu tình, tham gia quản lý nhà nước… cần

sớm được thể chế hóa thành các đạo luật và phải được thực hiện trên thực tế,

kết hợp với việc đề cao thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt

động của cơ quan nhà nước và phát huy vai trò của các phương tiện truyền

thông đại chúng, của các tổ chức xã hội... để nhân dân KSQLNN có hiệu quả.

Page 71: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

71

Thứ ba cần nghiên cứu thiết lập rõ ràng cơ chế bảo vệ Hiến pháp với

đầy đủ các bộ phận thể chế pháp lý, thiết chế có tính độc lập chuyên trách và

các điều kiện cần thiết để vận hành cơ chế bảo hiến. Trong cơ chế đó, trước

hết quyền lập hiến phải làm sao thuộc về nhân dân nhiều nhất. Bằng Hiến

pháp, nhân dân thiết lập nên nhà nước và giao quyền, ủy quyền quyền lực của

mình cho nhà nước. Vì thế, để nhà nước không lạm quyền, nhân dân không

mất quyền thì nhân dân phải là chủ thể của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà

nước. Hơn nữa, cần có một mô hình bảo vệ Hiến pháp rõ ràng, hiệu quả. Mô

hình đó nên là một cơ quan đủ mạnh nằm ngay trong bộ máy nhà nước.

Thứ tư, trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền cần nghiên cứu

áp dụng phù hợp những giải pháp xây dựng thể chế để quản lý cán bộ, đảng

viên đ ng thời là công chức nhà nước một cách nghiêm minh, chặt chẽ; có sự

thống nhất giữa các quy định của Đảng với của Nhà nước, trong đó, tính

nghiêm khắc đối với cán bộ, đảng viên phải đặt lên hàng đầu. Chú trọng thiết

lập thể chế pháp lý về sự kiểm soát của Đảng đối với các cơ quan trong bộ

máy Nhà nước, đ ng thời không ngừng xây dựng Đảng trong sạch, vững

mạnh, đủ năng lực lãnh đạo một cách có hiệu lực và hiệu quả.

Thứ năm cần xây dựng mô hình chính quyền đ a phương hiệu quả phù

hợp với tình hình Việt Nam. Cách thức kiểm soát của chính quyền trung ương

đối với chính quyền địa phương ở các nước mặc dù có khác nhau nhưng đều

theo xu thế chung là xây dựng mối quan hệ tương tác phụ thuộc lẫn nhau.

Chính phủ có thể tác động đến chính sách pháp luật và có thể điều chỉnh hay

định hướng hoạt động của cơ quan địa phương. Các cơ quan địa phương được

phân cấp, phân quyền, có vị thế độc lập tương đối, có ngu n lực tài chính

riêng và chức năng do pháp luật quy định... Đây là những điểm mà Việt Nam

có thể và cần phải tiếp tục nghiên cứu để thiết lập thể chế tổ chức và vận hành

bộ máy hành chính nhà nước cho phù hợp.

Page 72: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

72

Tiểu kết Chương 2

Các nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đã chỉ ra kiểm soát quyền lực

nhà nước, trong đó đặc biệt kiểm soát quyền lực nhà nước bằng thể chế pháp

lý, là một nhu cầu tất yếu, rất cần thiết và quan trọng đối với nhà nước và xã

hội. Luận án này quan niệm thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

là tổng thể những quy định trong Hiến pháp và pháp luật do nhà nước ban

hành, bao g m những quy định về nguyên tắc, chủ thể, đối tượng, nội dung,

hình thức, quy trình, thủ tục, các biện pháp, hậu quả pháp lý được áp dụng

trong quá trình tổ chức, vận hành, giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát và

thực hiện các hình thức khác nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm cho

quyền lực nhà nước tổ chức và vận hành đúng mục đích, có hiệu lực và hiệu

quả. Thể chế đó là yếu tố cấu thành nền tảng của cơ chế pháp lý kiểm soát

quyền lực nhà nước; là công cụ, phương tiện cơ bản để kiểm soát quyền lực

nhà nước; phản ánh mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau và với xã

hội; làm tăng thêm tính chính đáng và mạnh mẽ của quyền lực nhà nước; là chỉ

dấu về sự ưu việt của chế độ chính trị ở mỗi quốc gia. Quá trình xây dựng và

hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã

hình thành nên những đặc điểm nổi bật về thể chế kiểm soát quyền lực của một

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do một Đảng duy nhất lãnh đạo ở Việt

Nam. Thể chế đó bao g m 2 bộ phận hợp thành cơ bản là thể chế kiểm soát bên

ngoài và thể chế kiểm soát bên trong; có nội dung quy định về nguyên tắc, chủ

thể, đối tượng, nội dung, hình thức, quy trình, hậu quả pháp lý của hoạt động

kiểm soát quyền lực nhà nước; có hình thức thể hiện là các quy định của Hiến

pháp, luật, văn bản dưới luật do Nhà nước ban hành. Quá trình xây dựng, hoàn

thiện hệ thống thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước cần nghiên cứu

tham khảo hợp lý kinh nghiệm các nước trên thế giới, vận dụng phù hợp với

điều kiện ở nước ta.

Page 73: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

73

Chương 3

THỰC TRẠNG THỂ CHẾ PHÁP LÝ

VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

3.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN THỂ CHẾ

PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA TỪ SAU

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

3.1.1. Giai đoạn 1945 - 1959

Những ý tưởng và tuyên ngôn về xây dựng Nhà nước cộng hoà dân chủ

nhân dân theo chế độ mới ở Việt Nam của Chủ tịch H Chí Minh và những

người lãnh đạo đất nước ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã toát

lên tinh thần phải có kiểm soát quyền lực nhà nước. Điều đó kịp thời được thể

chế hoá một cách khá mạch lạc và tương đối độc đáo trong Hiến pháp năm

1946 mặc dù còn đơn giản và một vài khía cạnh chưa rõ. Đây là bản Hiến

pháp đầu tiên của Việt Nam, được các nhà nghiên cứu luật học ngày nay đánh

giá cao về tính dân chủ, pháp quyền và nhiều giá trị tiến bộ. Trong lĩnh vực

KSQLNN, có thể đánh giá:

(1)- Hiến pháp 1946 đã lần đầu lập nên ở nước ta một mô hình chính

thể với nh ng khẳng đ nh mạnh mẽ về dân chủ, “tất cả quyền bính trong nước

là của toàn thể nhân dân”, “kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”, đ ng

thời nêu ra ba nguyên tắc của việc xây dựng Hiến pháp, trong đó có hai

nguyên tắc là: “đảm bảo các quyền tự do dân chủ” và “thực hiện chính quyền

mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu Hiến pháp 1946).

(2)- Hiến pháp 1946 đã thiết lập cơ chế kiểm soát bên trong bộ máy

nhà nước. Theo đó, trong tổ chức quyền lực nhà nước đã hình thành khá rõ ba

hệ thống cơ quan nắm giữ ba nhánh quyền: lập pháp (Nghị viện nhân dân),

hành pháp (Chính phủ, g m: Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Nội các) và

các cơ quan tư pháp (g m các toà án) – (xem các điều thứ: 22, 23, 43, 63).

Page 74: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

74

Kiểm soát quyền lực nhà nước đã thể hiện theo chiều ngang, bao g m giữa

Nghị viện nhân dân và Chủ tịch nước ở Trung ương, giữa Hội đ ng nhân dân

với Uỷ ban hành chính ở địa phương. Ngoài ra, còn quy định kiểm soát theo

chiều dọc, cơ quan nhà nước cấp dưới phải chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà

nước cấp trên. Hội đ ng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa

phương mình song những nghị quyết ấy “không được trái với chỉ thị của các

cấp trên”, “Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối với

Hội đ ng nhân dân địa phương mình” (Điều thứ 59, 60).

Hình thức kiểm soát của Nghị viện nhân dân đối với Chính phủ thông

qua việc Nghị viện nhân dân bỏ phiếu bầu chọn Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch

nước (Điều thứ 45, 46), biểu quyết nhân sự làm Thủ tướng và thành viên Nội

các (Điều thứ 47). Nghị viện nhân dân có quyền lập một Toà án đặc biệt để

xét xử Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch và thành viên Nội các về tội phản quốc

(Điều thứ 51); có thể bỏ phiếu tín nhiệm hoặc không tín nhiệm, chất vấn Bộ

trưởng hoặc cả Nội các (Điều thứ 54, 55). Theo quy định ở Điều thứ 36: “khi

Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền: … Kiểm soát và phê bình

Chính phủ”. Ban Thường vụ còn có quyền thảo luận các sắc lệnh của Chính

phủ trước khi Chủ tịch nước ký ban hành. Tuy nhiên, Chủ tịch nước không

chịu trách nhiệm về nội dung các sắc lệnh này mà có các Bộ trưởng cùng ký

là người chịu trách nhiệm trước Nghị viện về nội dung sắc lệnh (thể thức này

theo kiểu hành chính của Pháp, gọi là “tiếp ký”).

Trong Hiến pháp 1946, có một đặc điểm là quy định quyền hạn cho

Chủ tịch nước rất lớn, kèm theo đó, sự kiểm soát của Chủ tịch nước và Chính

phủ đối với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước cả trong quy định và

trên thực tế cũng nhiều hơn, có phần “làm mờ” đi vai trò của các cơ quan

khác. Chủ tịch nước có quyền kiểm soát hoạt động lập pháp của Nghị viện

nhân dân thông qua việc yêu cầu Nghị viện thảo luận lại các luật đã được

Nghị viện thông qua theo các quy định ở Điều thứ 31. Chính phủ chứ không

Page 75: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

75

phải Nghị viện nhân dân có quyền bổ nhiệm thẩm phán của các toà án (Điều

thứ 64). Sự kiểm soát của Nghị viện nhân dân với cơ quan tư pháp hầu như

không đặt ra. Sự kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với các cơ quan khác

cũng không thể hiện rõ nét. Về sự độc lập của tư pháp, chỉ có một điều quy

định: “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ

quan khác không được can thiệp” (Điều thứ 69).

Trong nội bộ từng cơ quan các nhà nước, Hiến pháp năm 1946 cũng đã

có những quy định để Nghị viện nhân dân kiểm soát hoạt động của Ban

thường vụ Nghị viện nhân dân, Chủ tịch nước có thể chủ động kiểm soát hoạt

động của Chính phủ và Nội các. Cụ thể là: Nghị viện có quyền đặt vấn đề bất

tín nhiệm đối với Ban thường vụ vào đầu mỗi kỳ họp sau khi Ban Thường vụ

báo cáo công việc và nếu không được tín nhiệm thì toàn Ban thường vụ phải

từ chức (Điều thứ 39). Chủ tịch nước có quyền ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ

tướng, nhân viên Nội các và các nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính

phủ; có quyền chủ toạ Hội đ ng Chính phủ (Điều thứ 49).

(3)- Hiến pháp năm 1946 có quy đ nh về kiểm soát từ bên ngoài bộ máy

nhà nước thông qua vai trò của nhân dân, các cơ quan báo chí đối với hoạt

động của nhà nước trên tinh thần dân chủ đã nêu trên, với quy định “tất cả

công dân đều được tham gia chính quyền”; đ ng thời, Hiến pháp dành mục C

g m 05 điều trong Chương II “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” để quy định

về quyền bầu cử, bãi miễn và phúc quyết; ngoài ra còn có các quy định: "Nghị

viện họp công khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí được phép thuật

lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của Nghị viện";… Đặc biệt, về việc sửa

Hiến pháp, điều thứ 70 có quy định: “Những điều thay đổi khi đã được Nghị

viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”.

(4)- Hiến pháp 1946 đã quy đ nh khá trực tiếp cụ thể rõ ràng về trình

tự thủ tục thời gian và hậu quả pháp lý của nh ng hoạt động kiểm soát

quyền lực nhà nước. Chẳng hạn, về quyền của Chủ tịch nước trong việc phủ

Page 76: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

76

quyết dự luật đã thông qua, Hiến pháp quy định: “Những luật đã được Nghị

viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm

sau khi nhận được thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu cầu

Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị

viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố” (Điều thứ 31). Về việc bỏ

phiếu tín nhiệm/bất tín nhiệm Nội các, Hiến pháp quy định: “Nghị viện chỉ có

thể biểu quyết về vấn đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ban thường vụ hoặc một

phần tư tổng số Nghị viện nêu vấn đề ấy ra. Trong hạn 24 giờ sau khi Nghị

viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có

quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại. Cuộc thảo luận lần thứ

hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất là 48 giờ. Sau cuộc biểu quyết này,

Nội các mất tín nhiệm phải từ chức” (Điều thứ 54).…

Tóm lại với những tư tưởng dân chủ và pháp quyền, Hiến pháp năm

1946 đã có những quy định khá cụ thể và rõ ràng trên tinh thần kiểm soát

quyền lực nhà nước, có giá trị tích cực khẳng định phương hướng xây dựng

nền dân chủ nhân dân. Rất tiếc, Hiến pháp này mới được thông qua chưa kịp

công bố thì chiến tranh bùng nổ, đất nước trải qua 9 năm kháng chiến chống

Pháp nên nhiều quy định chưa có cơ hội thực hiện. Tìm lại trong hệ thống lưu

trữ hiện nay không có nhiều những văn bản tiếp tục thể chế hoá Hiến pháp

năm 1946. Tiếp đó, do bối cảnh chính trị ngoài và trong nước, nhiều nội dung

của Hiến pháp 1946 không được kế thừa ở các Hiến pháp 1959, 1980, trong

đó có nhiều nội dung về kiểm soát quyền lực nhà nước.

3.1.2. Giai đoạn 1959 - 1980

Trên phương diện tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 1959 đã

chuyển sang hướng mô hình tập quyền của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong

các quy định của Hiến pháp không có sự phân quyền mà các cơ quan nhà

nước khác chỉ nhận quyền phái sinh từ Quốc hội. Điều đó ảnh hưởng rất lớn

đến thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước.

Page 77: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

77

(1)- Về kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước: Sự kiểm soát chỉ được

thể hiện một chiều theo cơ chế tập trung quyền lực vào Quốc hội. Hội đ ng

Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao đều do Quốc hội bầu ra, phải chịu trách nhiệm và báo cáo

công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách

nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Cơ quan nhà

nước cấp trên được quyền giám sát cơ quan nhà nước cấp dưới. So với thời kỳ

Hiến pháp 1946, có điểm mới là sự hình thành hệ thống cơ quan Viện kiểm

sát, có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội

đ ng Chính phủ, các cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan

nhà nước và công dân.

(2)- Về kiểm soát của các chủ thể bên ngoài nhà nước Hiến pháp năm

1959 ghi nhận: "Tất cả quyền lực trong nước... đều thuộc về nhân dân”, chỉ rõ

thêm: “Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội

đ ng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân

dân". Hiến pháp quy định “Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào

nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm

soát của nhân dân" (Điều 6). So với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm

1959 bổ sung quyền khiếu nại, tố cáo của công dân (Điều 29) và quy định về

một số thiết chế, như: tổ chức công đoàn, hợp tác xã và các tổ chức khác của

nhân dân (Điều 10). Tuy nhiên, các tổ chức Đảng, Mặt trận và các đoàn thể

chính trị - xã hội thì vẫn chưa được quy định trong các điều của Hiến pháp.

(3)- Thời kỳ này có một số văn bản luật, nghị quyết, nghị định, thông tư

với vai trò là những bộ phận của thể chế được ban hành nhằm hiện thực hóa

các quyền của nhân dân, trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước trong chế độ

dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, do điều kiện thời chiến và đặc điểm tổ chức

quyền lực nhà nước theo mô hình xô viết tập quyền nên thể chế pháp lý nhân

Page 78: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

78

dân kiểm soát quyền lực nhà nước chưa thực sự được chú trọng xác lập và

bảo đảm thực hiện trên thực tế.

3.1.3. Giai đoạn 1980 - 1992

Theo Hiến pháp năm 1980, trên phương diện tổ chức quyền lực nhà

nước, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được tiếp tục thể hiện cao độ

hơn với những quy định như: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân

dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam” (Điều 82), “Hội đ ng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt

động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 98), “Hội đ ng bộ trưởng là Chính phủ của

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành

chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” (Điều

104)… Thể chế pháp lý về KSQLNN giai đoạn này có những đặc điểm sau:

(1)- Về kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước quyền kiểm soát bộ máy

nhà nước được tập trung cao độ vào Quốc hội và Hội đ ng Nhà nước. Đặc

biệt, theo quy định thì Hội đ ng nhà nước có thẩm quyền kiểm soát rất lớn, đó

là: “giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước” (Điều 89), “giám sát công tác

của Hội đ ng Bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối

cao” và các quyền hạn khác theo Điều 100 Hiến pháp 1980. Tuy nhiên, so

sánh chung trong các bản hiến pháp của nhà nước ta từ năm 1946 đến nay thì

Hiến pháp 1980 thể hiện một cách hình thức và ít thực thi nhất sự KSQLNN.

Trên thực tế, trách nhiệm cá nhân phần nhiều trở thành trách nhiệm tập thể.

Chế định tín nhiệm chuyển thành chế định bãi nhiệm. Quốc hội có quyền đặt

cho mình hoặc trao cho Hội đ ng nhà nước, Hội đ ng bộ trưởng những nhiệm

vụ, quyền hạn mới và như vậy không bị hạn chế bởi Hiến pháp.

(2)- Về kiểm soát từ bên ngoài bộ máy nhà nước Hiến pháp 1980 quy

định: "Tất cả các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước phải… chịu sự

giám sát của nhân dân" và ghi nhận "Công dân có quyền tham gia quản lý

Page 79: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

79

công việc của Nhà nước và của xã hội". Hiến pháp 1980 là bản Hiến pháp đầu

tiên chính thức ghi nhận quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với

Nhà nước và xã hội. Điều 4 của Hiến pháp khẳng định “Đảng Cộng sản Việt

Nam, ... là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội.... Các tổ

chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”. Hiến pháp năm 1980

cũng quy định về địa vị chính trị, pháp lý của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các

tổ chức chính trị- xã hội và các thành viên khác của Mặt trận (Điều 9, 10).

(3)- Thực hiện Hiến pháp năm 1980 và sau đó được bổ sung bằng

đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội VI năm 1986 đến trước năm 1992, đã

có nhiều văn bản pháp luật được xây dựng, ban hành để đáp ứng yêu cầu đổi

mới đất nước như: các luật về tổ chức HĐND và UBND, Luật tổ chức Tòa án

nhân dân, các luật về hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, các pháp lệnh, nghị

quyết, nghị định, thông tư về tổ chức và hoạt động của Thanh tra nhà nước và

Thanh tra nhân dân, về khiếu nại, tố cáo… góp phần thiết lập chặt chẽ, hợp lý

hơn cơ chế vận hành, hoạt động của các cơ quan nắm giữ quyền lực nhà

nước, qua đó, giúp cho hoạt động KSQLNN có một số hiệu quả.

3.1.4. Giai đoạn 1992 - 2013

Thể chế pháp lý về KSQLNN ở giai đoạn này có những thay đổi về

chất dựa trên những nhận thức mới của Đảng trong thời kỳ đổi mới về cải

cách bộ máy nhà nước, thay đổi cơ chế tổ chức QLNN. Việc thực thi Hiến

pháp năm 1992 có đặc điểm phân kỳ thành hai giai đoạn: từ 1992 - 2001 và từ

2001 - 2013 (do Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong giai

đoạn đầu, Hiến pháp năm 1992 đã trở lại với sự phân công quyền lực rõ ràng

hơn trong bộ máy nhà nước. Giai đoạn sau, Hiến pháp đã chính thức khẳng

định xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, khẳng định có sự

“phân công, phối hợp” trong tổ chức thực hiện QLNN. Kể từ đó, kiểm soát

quyền lực nhà nước với ý nghĩa là yếu tố không thể thiếu trong nhà nước pháp

quyền đã được đặt tiền đề quan trọng.

Page 80: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

80

(1)- Về kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước: Hiến pháp 1992 (sửa

đổi, bổ sung năm 2001) đã quy định trong bộ máy nhà nước có sự phân công

và phối hợp: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp

giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp” (Khoản 2 Điều 1). Hiến pháp bổ sung một quyền hạn quan

trọng là Quốc hội có thể “bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các

chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn" (Khoản 7 Điều 84); mở rộng quyền

kiểm soát của Chủ tịch nước đối với Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc

“đề nghị xem xét lại” đối với tất cả các “pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày, kể

từ ngày pháp lệnh được thông qua”, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2001 có

một số khoản làm tăng sự độc lập của Chính phủ); sửa đổi quy định tại Điều

137 làm giảm quyền kiểm soát đối với bộ máy nhà nước của Viện kiểm sát

nhân dân, theo đó, Viện Kiểm sát nhân dân không còn chức năng kiểm sát

chung, chỉ còn thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp...

(2)- Về kiểm soát của các chủ thể bên ngoài nhà nước: Hiến pháp 1992

bổ sung và làm rõ hơn các quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ

chức thành viên, Công đoàn Việt Nam trong đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp, chính đáng cho hội viên, giám sát và phản biện xã hội (Điều 9, 10);

quy định đầy đủ hơn về quyền công dân, trong đó có các quyền cơ bản như:

tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của

cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà

nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 53); Công dân có quyền tự do ngôn luận,

tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình

theo quy định của pháp luật (Điều 69); ...

(3-) Các quy định của Hiến pháp nêu trên chính là các thể chế pháp lý

cơ bản, quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của cơ chế pháp lý kiểm soát

quyền lực nhà nước thời kỳ đổi mới. Sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban

hành, hàng loạt các luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư và các văn bản quy

Page 81: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

81

phạm pháp luật khác ở các cấp được xây dựng để phù hợp với Hiến pháp. Sự

thống nhất, đ ng bộ của hiến pháp và hệ thống pháp luật là những bảo đảm về

thể chế để cơ chế pháp lý KSQLNN vận hành có hiệu quả.

Tuy nhiên, thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giai đoạn thực

hiện Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 có một số

hạn chế, như: Vị trí, tính chất, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà

nước được Hiến pháp năm 1992 quy định hợp lý hơn nhưng thực chất vấn đề

KSQLNN với tính chất là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động

của bộ máy nhà nước chưa được đặt ra. Hiến pháp chưa quy định thực hiện

dân chủ trực tiếp của nhân dân; chưa quy định cử tri bãi nhiệm đại biểu dân

bầu khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân như thế nào

(Điều 7). Hiến pháp năm 1992 quy định về nhân dân "biểu quyết khi Nhà

nước tổ chức trưng cầu ý dân", nhưng thực tế quy định này chưa thực hiện vì

chưa có luật về trưng cầu ý dân. Điều 9, 10 của Hiến pháp năm 1992 quy định

về chức năng "giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và

cán bộ, viên chức Nhà nước" của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -

xã hội, nhưng pháp luật quy định còn thiếu và bất cập về nhiều mặt. Hiến

pháp năm 1992 quy định: "công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí;

có quyền được thông tin; có quyền được hội họp, lập hội, biểu tình theo quy

định của pháp luật" nhưng trong suốt giai đoạn này những quyền đó chưa

được luật hóa.

3.1.5. Giai đoạn hình thành thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực

nhà nước hiện nay trên nền tảng Hiến pháp năm 2013

Cùng với sự phát triển tư duy lý luận trong thời kỳ lịch sử mới, trên cơ

sở tổng kết thực tiễn 25 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ XI đã thông qua

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ

sung, phát triển năm 2011), trong đó tiếp tục khẳng định “Nhà nước ta là pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”; tổ chức

Page 82: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

82

và hoạt động của nhà nước dựa trên một trong những nguyên tắc nền tảng:

“Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát

giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư

pháp”[30]. Như vậy, so với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ

sung một nội dung mới rất quan trọng vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động

của bộ máy nhà nước là: “Kiểm soát gi a các cơ quan trong việc thực hiện

các quyền lập pháp hành pháp tư pháp”. Đó chính là tiền đề mở ra thời kỳ

đẩy mạnh xây dựng thể chế pháp lý về KSQLNN trong Hiến pháp và pháp

luật Việt Nam.

Xét về tư tưởng pháp lý chủ yếu liên quan đến KSQLNN, chúng ta

thấy: Đến Hiến pháp năm 2013, bên cạnh việc phân công, phối hợp, thì lần

đầu tiên “kiểm soát” đã trở thành nguyên tắc trong tổ chức quyền lực nhà

nước. Điểm phát triển nữa là trong Hiến pháp 2013 chủ quyền nhân dân được

đề cao và thể hiện xuyên suốt, nhất quán. Vấn đề quyền con người, quyền

công dân được chú trọng thể hiện và đi kèm với đó là trách nhiệm của nhà

nước trong mối quan hệ với người dân được quy định rõ ràng hơn. Với nhận

thức tiếp cận gần hơn quan điểm coi nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến,

nhân dân quy định giới hạn quyền lực nhà nước và phân công quyền lực cho

các cơ quan nhà nước thông qua bản hiến pháp, đã tạo tiền đề quan trọng cho

sự hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách toàn diện. Hiến

pháp đã bổ sung đầy đủ các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước,

không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đ ng nhân dân

như các hiến pháp trước đây, mà còn bằng hình thức dân chủ trực tiếp theo

quy định tại Điều 6 Hiến pháp 2013. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ

chức thành viên được bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với tổ

chức và hoạt động của nhà nước (Điều 9). Hiến pháp năm 2013 cũng đã đặt

nền móng về một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và bổ sung một số cơ quan có tính

chất độc lập tương đối để tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước để góp phần

Page 83: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

83

làm cho hoạt động kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước có thêm cơ sở

pháp lý vững chắc.

Từ sau khi Hiến pháp 2013 được ban hành đến nay, công tác xây dựng

pháp luật, hoàn thiện thể chế pháp lý được diễn ra rất sôi động. Quốc hội khoá

XIII tập trung ưu tiên trong lịch trình làm việc để xây dựng mới và sửa đổi

các luật cho phù hợp với nội dung Hiến pháp mới, nhất là các luật về tổ chức

bộ máy nhà nước. Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2014), Quốc hội đã thông qua 18

dự án luật, trong đó có: Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật Tổ chức Tòa

án nhân dân (sửa đổi), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi)... Kỳ

họp thứ 9 (tháng 5/2015), Quốc hội đã thông qua 11 dự án luật, trong đó có:

Luật tổ chức Chính phủ, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đ ng

nhân dân, Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật kiểm toán nhà nước,

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp

luật… Kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2015), Quốc hội đã thông qua hoặc cho ý kiến

về một số dự án luật quan trọng khác, trong đó có: Luật trưng cầu ý dân, Luật

về Hội, Luật báo chí, Luật tiếp cận thông tin,… Việc ban hành các luật về tổ

chức bộ máy nhà nước và cụ thể hoá các quyền của công dân trong lĩnh vực

tham gia quản lý nhà nước đã góp phần quan trọng bổ sung, hoàn thiện cơ sở

pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013.

3.2. THỰC TRẠNG THỂ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC

NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1. Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy

nhà nước

Thể chế pháp lý về KSQLNN bên trong bộ máy nhà nước ở nước ta

hiện nay được hình thành bởi các quy định trong Hiến pháp năm 2013, nhất là

các điều trong Chương I về Chế độ chính trị và các điều về tổ chức bộ máy

nhà nước nằm trong các chương V, VI, VII, VIII; đ ng thời, được cụ thể hoá

trong các luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà

Page 84: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

84

nước, như: Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà

án nhân dân, Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật hoạt động giám sát

của Quốc hội và Hội đ ng nhân dân, Luật thanh tra, Luật kiểm toán, các luật

về hoạt động tố tụng… Nhìn chung, đó là một hệ thống văn bản có phạm vi

rất rộng liên quan đến các mặt tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà

nước, thiết lập mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa

các cơ quan đó.

Về nội dung, thể chế pháp lý về KSQLNN bên trong bộ máy nhà nước

có sự thống nhất nội tại bởi nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất,

có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3 Điều 2 của Hiến

pháp 2013). Đây là nguyên tắc then chốt và bao trùm lĩnh vực thể chế pháp lý

về KSQLNN bên trong bộ máy nhà nước. Trên cơ sở nguyên tắc này, thể chế

pháp lý đã hình thành các quy định về đối tượng của KSQLNN (chỉ rõ các

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp), chủ thể KSQLNN (quy định về địa vị

pháp lý, vai trò, chức năng, quyền và trách nhiệm của các cơ quan trong mối

quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát), các trình tự, thủ tục trong thực

hiện nhiệm vụ của mỗi cơ quan liên quan đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà

nước, hậu quả pháp lý của mỗi hoạt động KSQLNN.

Sau đây, chúng ta xem xét từng khía cạnh của nội dung thể chế pháp lý

về KSQLNN bên trong bộ máy nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành

pháp, tư pháp; đ ng thời, có xem xét đến mối quan hệ KSQLNN giữa cơ quan

nhà nước ở Trung ương với chính quyền địa phương và giữa chính quyền địa

phương cấp trên với chính quyền địa phương cấp dưới.

* Thể chế pháp lý kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện quyền lập pháp

Về đối tượng ch u kiểm soát quyền lập pháp: Theo Hiến pháp năm

2013, quyền lập pháp được giao cho Quốc hội. Điều 69 Hiến pháp quy định

Page 85: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

85

“Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”. Điều 70 Hiến pháp quy

định Quốc hội “làm luật và sửa đổi luật”. Hiến pháp và Luật ban hành văn

bản quy phạm pháp luật không quy định quyền làm luật và sửa đổi luật cho

bất kỳ cơ quan nào ngoài Quốc hội mà chỉ phân công cho các cơ quan tham

gia một số việc, một số công đoạn trong hoạt động lập pháp. Như vậy, kiểm

soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp có đối

tượng chủ yếu là kiểm soát việc Quốc hội thực hiện chức năng lập pháp.

Nhưng trên thực tế, không phải bất cứ thời điểm nào và trong lĩnh vực nào

Quốc hội cũng có thể bảo đảm có đủ luật quy định. Cho nên nhiều khi Quốc

hội phải uỷ quyền lập pháp bằng việc ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường

vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ hoặc hình thức văn bản của cơ quan

nhà nước khác được Quốc hội giao. Đó là những trường hợp đặc biệt và cũng

có những quy định riêng để kiểm soát việc thực hiện quyền lập pháp dưới

những trạng thái uỷ quyền đó.

Về chủ thể kiểm soát quyền lập pháp: các cơ quan nhà nước khác hoặc

bản thân Quốc hội có thể tự kiểm soát hoạt động lập pháp dựa trên các quy

định của thể chế. Tuy nhiên, theo Hiến pháp nước ta, Quốc hội là cơ quan

“quyền lực nhà nước cao nhất” (Điều 69) nên về nguyên tắc không cơ quan

nào trong bộ máy nhà nước có quyền trực tiếp kiểm soát việc Quốc hội quyết

định thông qua luật và sửa đổi luật.

Nội dung kiểm soát quyền lập pháp bao gồm: kiểm soát tính hợp hiến

của các đạo luật do cơ quan lập pháp thông qua; kiểm soát để có đầy đủ luật

quy định các lĩnh vực theo yêu cầu; bảo đảm chất lượng chuyên môn của các

luật và hạn chế sự “lấn sân” của quyền lập pháp sang các lĩnh vực thuộc

quyền quyết định của các cơ quan nhà nước khác. Phương thức kiểm soát

quyền lập pháp thông qua hệ thống thể chế pháp lý chủ yếu là: quy định rõ

phạm vi của quyền lập pháp và quyền ban hành văn bản, quyết định của các

cơ quan khác; quy định rõ quy trình, thủ tục thực hiện quyền lập pháp [38].

Page 86: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

86

+ Về phạm vi của quyền lập pháp: thể chế pháp lý hiện hành đã có xu

hướng tạo ra một khung khổ xác định ranh giới quyền lập pháp. Trong đó,

giới hạn trên của quyền lập pháp là quyền lập hiến, giới hạn dưới của quyền

lập pháp là những vấn đề thuộc thẩm quyền ban hành văn bản pháp quy của

các cơ quan khác (như Chính phủ, Hội đ ng nhân dân các địa phương), giới

hạn ngoài là những quyền con người, quyền tự do cơ bản của công dân mà

Hiến pháp đã bảo vệ; và bên trong chính là nội dung của quyền lập pháp được

chỉ rõ là những vấn đề, những lĩnh vực phải được điều chỉnh bằng luật. Thật

vậy, trong một số điều của Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014

và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (có hiệu lực từ ngày

01 - 7 - 2016) đã xác định cụ thể những nội dung Quốc hội cần ban hành luật

và những nội dung Quốc hội cần ban hành nghị quyết để quy định. Đó chính

là cơ sở kiểm soát để đảm bảo cơ quan lập pháp không được để thiếu luật

trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền lập pháp.

+ Đối với nh ng trường hợp uỷ quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013

đã xác lập cơ chế kiểm soát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo

uỷ quyền của cơ quan lập pháp, ví dụ như: kiểm soát thông qua việc thẩm tra

của Uỷ ban pháp luật và các uỷ ban liên quan khác của Quốc hội trước khi Uỷ

ban thường vụ Quốc hội thông qua pháp lệnh. Chủ tịch nước có quyền đề

nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười

ngày kể từ ngày được thông qua. Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chủ

tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa

án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành trái với Hiến

pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, trong đó bao g m cả văn bản do Quốc

hội ủy quyền lập pháp.

Việc kiểm soát quyền lập pháp cũng được quy đ nh bằng quy trình thủ

tục thực hiện quyền lập pháp. Hiến pháp năm 2013 không đi sâu quy định quy

trình, thủ tục lập pháp mà chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan

Page 87: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

87

có quyền sáng kiến lập pháp, quyền trình dự án luật, quyền thông qua luật,

quyền công bố luật của Chủ tịch nước. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp

luật năm 2015 đã có bước cụ thể hoá hơn thông qua việc quy định thủ tục

thẩm tra dự án luật (với sự tham gia của Hội đ ng dân tộc, các Uỷ ban liên

quan của Quốc hội), trình tự xem xét, cho ý kiến dự án luật (có thể tại một,

hai hoặc trường hợp đặc biệt là ba kỳ họp Quốc hội), trình tự thông qua dự

thảo luật, thủ tục công bố luật… Đây là những quy định về thủ tục nhằm bảo

đảm sản phẩm của quyền lập pháp làm ra là những đạo luật đã được xem xét

kỹ về tính hợp hiến và chất lượng nội dung.

Kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật do cơ quan lập pháp thông

qua là yêu cầu quan trọng, đ ng thời là mục tiêu của kiểm soát thực hiện

quyền lập pháp. Cơ chế bảo hiến đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại

Điều 119, theo đó: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước,

Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của

Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo

vệ Hiến pháp do luật định”. Tuy nhiên đến nay, chỉ xét riêng trong lĩnh vực

lập pháp, nước ta chưa có cơ chế pháp lý nào để thực hiện việc kiểm soát tính

hợp hiến của các đạo luật từ phía các cơ quan nhà nước khác ngoài cơ chế tự

kiểm soát của Quốc hội. Việc kiểm soát trước (tiền kiểm) được thực hiện

bằng hoạt động thẩm tra của Hội đ ng dân tộc, Uỷ ban pháp luật và các Ủy

ban khác của Quốc hội về tính hợp hiến của dự án luật trước khi trình Quốc

hội thảo luận, biểu quyết thông qua. Còn việc kiểm soát khi Quốc hội đã

thông qua (hậu kiểm) thì cả Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội đều không

quy định rõ cơ chế, quy trình để cơ quan nào khác hoặc bản thân Quốc hội tự

xem xét lại tính hợp hiến của các đạo luật. Lưu ý là Luật ban hành văn bản

quy phạm pháp luật năm 2015 dù quy định ở Điều 4 về hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật g m cả luật, nghị quyết của Quốc hội, nhưng theo nội dung

Page 88: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

88

quy định tại Chương XV về giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp

luật thì việc này chỉ có hiệu lực với văn bản dưới luật.

* Thể chế pháp lý về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện quyền hành pháp

Nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn kiểm soát quyền hành

pháp nước ta có thể chỉ ra đối tượng của sự kiểm soát nhìn từ các góc độ khác

nhau, đó là: (1)- Tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. (2)-

Các quyết định và hành vi pháp luật được thực hiện để thực thi quyền hành

pháp và chức năng quản lý hành chính nhà nước. Các quyết định pháp luật nói

ở đây g m hai loại: văn bản quy phạm pháp luật (bao g m trong đó hoạt động

đặc biệt quan trọng là hoạch định chính sách) và quyết định cá biệt, cụ thể.

Tổ chức hệ thống hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay g m Chính

phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (ở Trung ương) và

hệ thống uỷ ban nhân dân, các sở, ngành, phòng ban thuộc uỷ ban nhân dân ở

các địa phương. Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ … thực

hiện quyền hành pháp…”. Quy định chức năng thực hiện quyền hành pháp

cho Chính phủ là điểm mới bổ sung so với tất cả các Hiến pháp trước góp

phần làm rõ ràng, rành mạch hơn sự phân công quyền lực nhà nước, tạo cơ sở

pháp lý để xác định đối tượng chịu kiểm soát trong nhánh quyền hành pháp

trọng tâm là Chính phủ.

Nội dung kiểm soát quyền hành pháp bao g m hai phương diện chủ yếu

là tính hợp pháp và tính hợp lý trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành

pháp. Hợp pháp được hiểu là ra quyết định, thực hiện hành vi phù hợp với

quy định, tinh thần của pháp luật. Còn hợp lý là quyết định, hành vi được thực

hiện là sự lựa chọn được phương án tối ưu, đưa lại hiệu quả tốt nhất.

Chủ thể kiểm soát quyền hành pháp trước hết là các cơ quan thuộc hệ

thống cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội và Hội đ ng nhân dân). Theo

Hiến pháp và pháp luật hiện hành, Quốc hội có quyền kiểm soát đối với tổ

Page 89: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

89

chức và nhân sự của Chính phủ; Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội có

quyền kiểm soát về địa giới hành chính; có quyền kiểm soát các văn bản của

hành pháp đã ban hành. Toà án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp - có vai trò

trong kiểm soát thực hiện quyền hành pháp thông qua xét xử của Toà hành

chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan

hành chính và các cá nhân có thẩm quyền của các cơ quan đó. Hiến pháp

2013 mở rộng quyền kiểm soát của Chủ t ch nước đối với Chính phủ thông

qua một số quy định mới. Kiểm toán nhà nước là thiết chế độc lập lần đầu tiên

được hiến định có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài

chính, tài sản công của các cơ quan hành chính nhà nước và như vậy, đối

tượng của Kiểm toán nhà nước chủ yếu là các cơ quan trong hệ thống thực thi

quyền hành pháp, quản lý các ngu n lực, tài nguyên của đất nước. Viện kiểm

sát với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đã

thực sự có tác động đối với các cơ quan và cá nhân trong hệ thống hành pháp.

Chủ thể kiểm soát cũng có thể là các cơ quan trong nội bộ Chính phủ và hệ

thống hành chính nhà nước như các cơ quan thanh tra nhà nước, thanh tra

chuyên ngành.

Về các hình thức kiểm soát thường áp dụng với hệ thống hành chính

thực hiện quyền hành pháp: Trên cơ sở nguyên tắc hiến định và các quy định

cụ thể trong các văn bản luật, kiểm soát đối với quyền hành pháp ở nước ta

được thực hiện bằng các hình thức sau:

+ Giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước. Giám sát của cơ

quan QLNN nói chung đối với việc thực thi quyền lực hành pháp “là hoạt

động theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan QLNN thông qua cơ

cấu và các đại biểu của nó đối với việc tuân theo, thi hành các quy định pháp

luật nhất định của các cơ quan thực hiện quyền lực hành pháp” [38]. Cần hiểu

đầy đủ là giám sát của cơ quan QLNN đối với quyền hành pháp không chỉ về

tính hợp pháp mà còn cả về tính hợp lý, về hiệu quả thực hiện pháp luật.

Page 90: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

90

Giám sát của Quốc hội và Hội đ ng nhân dân đối với Chính phủ và Ủy ban

nhân dân các cấp được thực hiện qua các hoạt động: xem xét các báo cáo, văn

bản quy phạm pháp luật, chất vấn và việc trả lời chất vấn, thành lập Uỷ ban

lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều

tra của Uỷ ban (đối với Quốc hội) hay Đoàn giám sát (đối với Hội đ ng nhân

dân), bỏ phiếu tín nhiệm các chức vụ được bầu hoặc phê chuẩn.

+ Xem xét báo cáo yêu cầu đề ngh của Chủ t ch nước. Mặc dù không

có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể và toàn diện hình thức thực hiện

quyền kiểm soát của Chủ tịch nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp

nhưng Hiến pháp vẫn thể hiện quyền hạn kiểm soát này. Đó là quyền hạn của

Chủ tịch nước đối với quyền lực hành pháp thể hiện ở các quy định về trách

nhiệm của Chính phủ báo cáo công tác của Chính phủ với Chủ tịch nước, Chủ

tịch nước có quyền xem xét các báo cáo của Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ; có quyền hạn đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng

Chính phủ; có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn các vấn đề cần thiết …; Chủ

tịch nước còn thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch

Hội đ ng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân

hàm cấp tướng và bổ nhiệm nhiều chức vụ cao cấp trong quân đội và công an,

tức là có thể chỉ huy những lực lượng mang sức mạnh cưỡng chế của QLNN.

+ Xét x của Toà án. Xét xử của Toà án, đặc biệt là toà hành chính, là

một cơ chế để thực hiện sự kiểm tra (hậu kiểm) của toà án đối với việc thực

hiện quyền hành pháp, có khả năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá

nhân, tổ chức ở mức cao nhất. Điều đó đòi hỏi hoạt động quản lý của các cơ

quan nhà nước phải chú ý thực hiện đúng pháp luật, nếu không, sẽ có thể bị

áp dụng sự trừng phạt trong tương lai.

+ Hoạt động thanh tra kiểm tra của Chính phủ đối với nền hành chính

nhà nước nói chung, của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên đối với cấp

dưới, của cơ quan quản lý ngành đối với cơ quan hành chính nhà nước khác,

Page 91: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

91

của thủ trưởng cơ quan đối với công chức... là những hình thức đặc trưng của

kiểm soát trong nội bộ hệ thống hành pháp. Trong phạm vi thẩm quyền, cơ

quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện hoặc đề nghị cơ quan nhà nước

có thẩm quyền thực hiện việc xử lý các sai phạm trong quyết định, hành vi

hành chính, thông qua việc phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động,

cách chức các thành viên thuộc Ủy ban nhân dân...

* Thể chế pháp lý về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện quyền tư pháp

Hiến pháp năm 2013 quy định “Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (Khoản

1 Điều 102). Như vậy, chỉ Toà án nhân dân tối cao và các Toà án khác do luật

định là hệ thống cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, tức là có chức

năng xét xử các vụ án, giải quyết các việc có tranh chấp theo thẩm quyền quy

định. Ở đây, cần phân biệt khái niệm “quyền tư pháp” và “hoạt động tư pháp”

bởi theo Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước thì hoạt động tư

pháp rộng hơn quyền tư pháp. Hoạt động tư pháp bao g m cả các hoạt động

tố tụng do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện như điều tra, thi hành án...

Nhưng quyền tư pháp với nghĩa là xét xử thì Hiến pháp chỉ quy định cho Toà

án thực hiện.

+ Đối với việc kiểm soát thực hiện quyền tư pháp thực hiện bởi nội bộ

ngành tòa án. Tư pháp (toà án) bản thân nó là một hệ thống có những nguyên

tắc hoạt động rất đặc thù nhằm tránh sự lạm dụng quyền lực, tránh oan sai,

hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót trong áp dụng pháp luật, đó có thể

coi là cơ chế “tự kiểm soát quyền lực trong nội bộ” của tư pháp. Trong Hiến

pháp 2013, ngoài các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án đã

được ghi nhận trong các bản hiến pháp trước, có hai nguyên tắc được bổ sung

là: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Khoản 5 Điều 103)

và “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” (Khoản 6 Điều 103).

Page 92: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

92

Đây là các quy định được bổ sung với tinh thần cải cách tư pháp, bảo vệ

quyền con người và theo thông lệ quốc tế.

Việc kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp trong nội bộ tòa án còn

được thực hiện theo nguyên tắc giám đốc xét xử. Theo Luật tổ chức Toà án

nhân dân, trong ngành tòa án có một số tòa án có nhiệm vụ giám đốc hoạt

động xét xử của tòa án nhân dân cấp dưới, đó là Tòa án nhân dân cấp cao và

Tòa án nhân dân tối cao. Hoạt động giám đốc thực sự là một hoạt động kiểm

soát quyền tư pháp được thực hiện ở các tòa án sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Bởi

lẽ, khi phát hiện có việc áp dụng sai pháp luật hoặc xét xử sai một vụ án thì

các luật tố tụng cho phép cơ quan tòa án ở hai cấp cao nhất này thực hiện

kháng nghị đối với bản án đã có hiệu lực của tòa án nhân dân cấp dưới. Với

việc thực hiện quyền đó, các tòa án giám đốc thẩm có quyền xem xét mức độ

sai của bản án bị kháng nghị, nếu phát hiện sai sót thì có thể tuyên hủy bản án

và đưa ra định hướng xét xử đúng đắn. Tòa án nhân dân cấp dưới có nghĩa vụ

tuân thủ định hướng xét xử đưa ra trong quyết định giám đốc thẩm của tòa án

giám đốc tương ứng.

+ Đối với việc kiểm soát thực hiện quyền tư pháp thực hiện bởi các cơ

quan quyền lực nhà nước. Theo Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Toà án năm

2014, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức theo phê chuẩn của Quốc hội. Trước đây theo quy định của

Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thẩm quyền này hoàn toàn thuộc

về Chủ tịch nước. Quy định của Hiến pháp 2013 một mặt nâng cao vị thế của

Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, mặt khác là một thủ tục để Quốc hội

cùng với Chủ tịch nước có thể kiểm soát việc lựa chọn người có đủ năng lực,

phẩm chất bổ nhiệm vào chức danh Thẩm phán của cơ quan xét xử cao nhất

của Nhà nước.

Về chế độ báo cáo và chế độ trách nhiệm, Chánh án Toà án nhân dân

tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian

Page 93: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

93

Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban

thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chánh án các tòa án địa phương báo cáo

công tác trước Hội đ ng nhân dân – cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

phương. Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Quốc hội,

các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội

đ ng nhân dân, đại biểu Hội đ ng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân

theo quy định của luật” (Điều 19). Đây là cơ sở để quy định cụ thể hóa hoạt

động giám sát đối với tòa án nhân dân.

Đối với hệ thống tòa án, Quốc hội có quyền giám sát toàn bộ hệ thống

tòa án thông qua việc giám sát trực tiếp Tòa án nhân dân tối cao; Hội đ ng

nhân dân các cấp có quyền giám sát tòa án nhân dân cùng cấp. Trong Quốc

hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Uỷ ban tư pháp cũng đóng vai trò nhất định

trong việc giám sát hệ thống tòa án. Theo quy định của pháp luật, Chánh án

Tòa án nhân dân tối cao cũng có trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban

thường vụ Quốc hội. Chính qua các hoạt động xem xét báo cáo và chất vấn

đối với các cơ quan tòa án, công việc xét xử của tòa án, tức là quá trình thực

hiện quyền tư pháp của tòa án, có thể được mổ xẻ và chấn chỉnh.

Cần lưu ý là riêng Quốc hội đối với việc thực hiện quyền tư pháp và tổ

chức hoạt động của tòa án còn có một vai trò hết sức đặc biệt. Quốc hội là cơ

quan thực hiện quyền lập pháp, ban hành ra các đạo luật để toàn bộ các cơ

quan nhà nước cũng như xã hội phải tuân theo, trong đó có việc thực hiện

quyền hành pháp. Với vị thế của các cơ quan quyền lực nhà nước trong bộ

máy nhà nước, mà trước tiên là Quốc hội, việc kiểm soát quyền tư pháp của

các cơ quan lập pháp là một hình thức kiểm soát hết sức có ý nghĩa.

+ Đối với việc kiểm soát thực hiện quyền tư pháp thực hiện bởi các cơ

quan trong hệ thống hành pháp. Trước hết, vai trò kiểm soát của Chính phủ

Page 94: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

94

trong lĩnh vực quản lý hành chính tư pháp được xác lập ở một số nội dung

chính sau đây:

Kiểm soát về số lượng, cơ cấu tỷ lệ, tổng biên chế của tòa án. Điều 95

Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 quy định “Số lượng Thẩm phán Tòa

án khác, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Thẩm phán tại mỗi cấp Tòa án và tổng biên

chế của Tòa án nhân dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề

nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sau khi có ý kiến của Chính phủ”

và “Số lượng Thẩm phán, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Thẩm phán tại mỗi cấp Tòa

án quân sự và tổng biên chế của Tòa án quân sự do Ủy ban thường vụ Quốc

hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sau khi

thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng”.

Kiểm soát kinh phí cho hoạt động của các Toà án nhân dân. Điều 96

Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 quy định kinh phí hoạt động của hệ

thống tòa án nhân dân do Chính phủ trình Quốc hội quyết định sau khi thống

nhất với Tòa án nhân dân tối cao; việc quản lý, phân bổ, cấp và sử

dụng kinh phí được thực hiện theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và

các luật khác có liên quan, như vậy trong đó, việc phân bổ, giám sát của cơ

quan tài chính các cấp có vai trò quan trọng.

Về chuyên môn, Chính phủ kiểm soát việc thi tuyển, tuyển chọn các

chức danh thẩm phán thông qua việc Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ tham gia các hội

đ ng tuyển chọn chức danh nêu trên. Bộ trưởng Bộ tư pháp có trách nhiệm

tham dự phiên họp của Hội đ ng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao khi thảo

luận, thông qua nghị quyết của Hội đ ng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

để hướng dẫn các toà án áp dụng thống nhất pháp luật.

+ Đối với việc kiểm soát thực hiện quyền tư pháp thực hiện bởi viện

kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân là hệ thống cơ quan đặc biệt trong

bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam. Hệ thống này có chức năng công tố

và kiểm sát tư pháp. Với việc thực hiện hai chức năng đó, VKSND vừa phối

Page 95: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

95

hợp với TAND trong việc thực hiện quyền tư pháp vừa đóng vai trò nhất định

trong việc kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp của TAND.

Hoạt động kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp của Viện kiểm sát

nhân dân thể hiện ở chỗ Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu tòa án nhân

dân cấp trên xem xét lại bản án đã có hiệu lực của tòa án nhân dân cấp dưới

theo thủ tục giám đốc thẩm. Khi Viện kiểm sát nhân dân sử dụng quyền

kháng nghị của mình để đưa ra yêu cầu đó, tòa án nhân dân có thẩm quyền có

trách nhiệm đưa vụ án ra xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, vai

trò kiểm soát của Viện kiểm sát nhân dân lúc này không giống với vai trò của

Tòa án nhân dân có thẩm quyền giám đốc thẩm. Kháng nghị của Viện kiểm

sát nhân dân chỉ là một tố quyền khởi động thủ tục xem xét giám đốc thẩm

bởi tòa án chứ không có tác dụng khẳng định chỗ sai và chữa lỗi trong hoạt

động xét xử của tòa án nhân. Sở dĩ như vậy là vì hoạt động thực hiện quyền tư

pháp của tòa án nhân dân luôn được bảo đảm và bảo vệ bởi nguyên tắc quan

trọng nhất trong việc thực hiện quyền tư pháp, đó là nguyên tắc thẩm phán và

hội thẩm nhân dân xét xử động lập và chỉ tuân theo pháp luật.

* Kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương

Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ,

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2014 và Luật tổ chức chính

quyền địa phương mới được Quốc hội thông qua (Luật số 77/2015/QH13

ngày 19 tháng 6 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2016) đã đặt

ra nhiều quy định để cơ quan nhà nước ở Trung ương kiểm soát chính quyền

địa phương; các cơ quan thuộc chính quyền địa phương cấp trên kiểm soát đối

với chính quyền địa phương cấp dưới; và kiểm soát theo chiều ngang giữa

các cơ quan trong một cấp chính quyền địa phương, chủ yếu là giám sát của

Hội đ ng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân cùng cấp.

Trong thực tiễn, vai trò kiểm soát của Trung ương đối với chính quyền

địa phương chủ yếu thông qua Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, Thủ

Page 96: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

96

tướng Chính phủ: Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát và hướng dẫn hoạt

động của Hội đ ng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đ ng nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ

quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đ ng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương trong trường hợp Hội đ ng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm

trọng đến lợi ích của Nhân dân (Khoản 7 Điều 74 Hiến pháp 2013). Chính

phủ thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ,

công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công

tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu,

tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của Ủy ban nhân dân

các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đ ng nhân dân trong việc thực hiện văn bản

của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đ ng nhân dân thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn do luật định (Khoản 5 Điều 96 Hiến pháp 2013).

Ở những nơi có cấp chính quyền địa phương đầy đủ g m Hội đ ng

nhân dân và Uỷ ban nhân dân thì sự kiểm soát theo chiều ngang được Hiến

pháp quy định tạo cơ sở để cụ thể hoá trong Luật tổ chức chính quyền địa

phương và Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đ ng nhân dân.

Hội đ ng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho

ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, do Nhân dân

địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan

nhà nước cấp trên. Hội đ ng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương

do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và

việc thực hiện nghị quyết của Hội đ ng nhân dân (Điều 113). Uỷ ban nhân

dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đ ng nhân dân cùng cấp bầu là cơ

quan chấp hành của Hội đ ng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa

phương, chịu trách nhiệm trước Hội đ ng nhân dân và cơ quan hành chính

nhà nước cấp trên.

Nguyên tắc chung đi đến việc kiểm soát của Trung ương đối với địa

Page 97: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

97

phương là “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp được

xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung

ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương theo hình thức

phân quyền, phân cấp” (Điều 11 Luật tổ chức chính quyền địa phương). Cũng

Luật này quy định “Việc phân quyền cho mỗi cấp chính quyền địa phương

phải được quy định trong các luật” và “Cơ quan nhà nước cấp trên trong

phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra

tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được

phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương” (Điều 12).

Hiến pháp và pháp luật cũng dự liệu những hậu quả pháp lý có thể áp

dụng trong quá trình kiểm soát của cơ quan Trung ương với chính quyền địa

phương, như: bãi bỏ nghị quyết của Hội đ ng nhân dân tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước

cấp trên; giải tán Hội đ ng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

trong trường hợp Hội đ ng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích

của Nhân dân. Chính phủ có quyền đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội

đ ng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật

và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đ ng thời đề nghị Ủy ban thường

vụ Quốc hội bãi bỏ…

* Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua vai trò của Hội đồng bầu

cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước

Trước khi có Hiến pháp năm 2013, ở nước ta đã có Hội đ ng bầu cử

quốc gia là tổ chức có tính lâm thời thực hiện nhiệm vụ trong mỗi kỳ bầu cử.

Kiểm toán nhà nước là một hệ thống cơ quan hoạt động tương đối độc lập

trong lĩnh vực kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài chính, tài sản của Nhà nước.

Các thiết chế này hoạt động trên cơ sở pháp luật về bầu cử và pháp luật về

kiểm toán nhà nước. Hiến pháp năm 2013 có điểm mới là quy định rõ hơn về

2 thiết chế này trong một chương riêng (Chương X), với hai điều là Điều 117

Page 98: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

98

về Hội đ ng bầu cử quốc gia và Điều 118 về Kiểm toán nhà nước. Theo đó,

“Hội đ ng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ

chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu

Hội đ ng nhân dân các cấp. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội

đ ng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đ ng bầu cử quốc gia do

luật định”; “Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng

tài chính, tài sản công. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm toán

nhà nước do luật định”. Đây là hai thiết chế quan trọng, được hiến định với

mục đích gia tăng vai trò trong cơ chế KSQLNN. Tuy nhiên đến nay, chúng ta

mới có Luật kiểm toán nhà nước năm 2015 (để sửa đổi Luật kiểm toán nhà

nước năm 2005); còn Hội đ ng bầu cử quốc gia được quy định trong Luật bầu

cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đ ng nhân dân. Hội đ ng bầu cử quốc

gia chưa được quy định như một cơ quan chuyên trách về công tác bầu cử để

có tính khách quan và chuyên nghiệp cao phụ trách công tác bầu cử thường

xuyên, kể cả các cuộc kiểm phiếu trưng cầu ý dân, như ở một số nước khác

(như ở Úc). Vì vậy, cơ chế hoạt động của Hội đ ng bầu cử quốc gia trong giai

đoạn mới chưa được thể chế hoá chi tiết.

3.2.2. Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên

ngoài bộ máy nhà nước

Với việc ban hành Hiến pháp năm 2013, thể chế pháp lý KSQLNN từ

bên ngoài bộ máy nhà nước có bước thay đổi rất quan trọng. Theo nội dung

và tinh thần của Hiến pháp, các cách thức tiếp cận về chủ quyền nhân dân,

bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân… được đề cao. Bên cạnh

đó, Hiến pháp tiếp tục khẳng định, có phần làm rõ hơn vai trò lãnh đạo của

Đảng với Nhà nước, khẳng định nhân dân có quyền thực hiện dân chủ trực

tiếp. Hiến pháp năm 2013 là cơ sở hiến định để thời gian vừa qua, Nhà nước

ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo dựng, hoàn thiện thể chế về

Page 99: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

99

KSQLNN từ các chủ thể bên ngoài bộ máy nhà nước. Sau đây, chúng ta xem

xét thực trạng thể chế pháp lý về KSQLNN từ bên ngoài bộ máy nhà nước

thông qua một số chủ thể và nội dung, hình thức kiểm soát cơ bản như sau:

* Thể chế pháp lý Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát QLNN

Tại Điều 4 Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định và làm rõ thêm về sự

lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Nội dung diễn đạt về bản chất của Đảng

có bổ sung nhận thức mới, coi Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp

công nhân mà “đ ng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân

tộc Việt Nam”, tiếp tục khẳng định Đảng “đại biểu trung thành lợi ích của giai

cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Như vậy, Hiến pháp

2013 đã củng cố thêm tính chính đáng về vai trò lãnh đạo của Đảng; coi Đảng

cùng với Nhà nước đều là các thực thể được nhân dân giao quyền, uỷ quyền.

Với quyền lực chính trị và sự cầm quyền tất yếu của mình trong lịch sử, Đảng

lãnh đạo và kiểm soát quyền lực nhà nước, bởi vì lãnh đạo phải có một chức

năng rất quan trọng là kiểm tra, kiểm soát; không kiểm tra, kiểm soát tức là

không có sự lãnh đạo.

Theo quan điểm nhận thức và hướng xây dựng thể chế mới, mối quan

hệ giữa Đảng và Nhà nước có những chuyển biến, thể hiện tập trung ở việc

giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng có những thay đổi nhất định trong

xác định ranh giới giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý, có sự đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, giảm bớt sự kiểm soát một

chiều [63, tr.163]. Điều quan trọng nhất là: với việc ban hành Hiến pháp 2013

và các luật về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước, Đảng đã lãnh đạo việc

xây dựng thể chế pháp lý và thông qua việc lãnh đạo vận hành đúng thể chế

đó để kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước, chẳng hạn như: Đảng lãnh đạo

Quốc hội và thông qua Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội kiểm soát

quyền lực của Chính phủ; Uỷ ban kiểm tra các cấp của Đảng kiểm tra, giám

sát đảng viên có chức vụ trong chính quyền thông qua đó kiểm soát các hoạt

Page 100: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

100

động của chính quyền vì trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền thì vi

phạm pháp luật cũng được coi là vi phạm điều lệ, nguyên tắc tổ chức hoạt

động của Đảng.

Hiến pháp 2013 có bước phát triển mới trong thể hiện mối quan hệ giữa

Đảng, Nhà nước với Nhân dân bằng nội dung bổ sung ở Khoản 2 Điều 4 quy

định “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân

dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về

những quyết định của mình”. Đ ng thời, mối quan hệ có tính chế ước giữa

Đảng với Nhà nước cũng được làm rõ hơn, đó là quy định “Các tổ chức của

Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến

pháp và pháp luật”. Với các quy định này, mối quan hệ giữa Đảng – Nhà

nước – Nhân dân ngày càng dân chủ hơn [63, tr.164]. Đảng và Nhà nước đều

cùng phải “chịu trách nhiệm” và “chịu sự giám sát” của nhân dân; các tổ chức

của Đảng và đảng viên phải hoạt động “trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp

luật” do Nhà nước ban hành.

* Thể chế pháp lý Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

- Nh ng quy đ nh để toàn thể Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước:

Hiến pháp và pháp luật không định nghĩa thế nào là Nhân dân. Tuy

nhiên từ Nhân dân được viết hoa theo Tiếng Việt không chỉ là sự trân trọng

mà còn có ý nghĩa xác định một chủ thể đặc biệt, hoàn chỉnh. Các nghiên cứu

đã nêu quan niệm Nhân dân là “Tập hợp đông đảo những người dân thuộc

mọi giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng đang

sinh sống trong một khu vực địa lý nhất định"[110, tr.578]. Nhân dân, trước

hết phải được đặt trong mối quan hệ với Nhà nước, quốc gia, lãnh thổ có chủ

quyền – tức là toàn thể Nhân dân Việt Nam; sau đó, có thể hiểu phạm vi hẹp

hơn, như toàn thể những người sinh sống trong một tỉnh, một huyện, một xã;

những người tham gia trong một đoàn thể; hoặc cá nhân công dân.

Về nguyên tắc, Hiến pháp đã tiếp tục khẳng định "tất cả quyền lực nhà

Page 101: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

101

nước thuộc về Nhân dân" (Khoản 2 Điều 2) và có nhiều nội dung mới thể

hiện sâu sắc, đầy đủ hơn quan điểm chủ quyền nhân dân, coi nhân dân là chủ

thể tối cao của quyền lực nhà nước, như: Thay vì chỉ giới hạn nhân dân thực

hiện quyền lực nhà nước qua Quốc hội và Hội đ ng nhân dân như Hiến pháp

1992, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực

nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện và thông qua các cơ

quan Nhà nước khác"; hay như Lời nói đầu Hiến pháp năm 2013 tuyên bố

“Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" và bỏ từ "duy nhất"

trong quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, quyền lập

pháp như trong Hiến pháp 1992. Như vậy, quyền lập hiến đã được quan niệm

gần hơn với nghĩa là quyền của toàn thể nhân dân chứ không phải chỉ là

quyền của Quốc hội, của Nhà nước.

Về hình thức, nhân dân thực hành KSQLNN thông qua các hình thức

pháp lý chủ yếu sau đây:

Bầu c là hình thức rất quan trọng để Nhân dân thực hiện KSQLNN

đối với cơ quan đại diện, đại biểu dân cử do mình bầu ra, để đại diện cho

Nhân dân cả nước (Quốc hội, đại biểu Quốc hội), hoặc đại diện cho một vùng

nhất định (Hội đ ng nhân dân, đại biểu Hội đ ng nhân dân các cấp). Hiến

pháp và pháp luật, đặc biệt là Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội

đ ng nhân dân hiện hành (Luật số 85/2015/QH13) đã tạo ra các quy định để

Nhân dân thực hành quyền bầu cử. Đ ng thời, Hiến pháp và pháp luật cũng

quy định quyền để cử tri bãi nhiệm đại biểu dân cử, như quy định tại khoản 2

Điều 7 Hiến pháp 2013: “Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đ ng nhân dân bị

cử tri hoặc Quốc hội, Hội đ ng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng

với sự tín nhiệm của Nhân dân”.

Lấy ý kiến Nhân dân: Với các hoạt động của cơ quan nhà nước, nhất là

việc xây dựng pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thì

Page 102: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

102

việc lấy ý kiến nhân dân ngày càng trở thành một hình thức bắt buộc, có tính

pháp lý. Ví dụ như việc xây dựng và sửa đổi Hiến pháp thì với quy định tại

Khoản 3 Điều 120 Hiến pháp 2013 phải “tổ chức lấy ý kiến Nhân dân”.

Khoản 2, Điều 110 của Hiến pháp cũng quy định: “Việc thành lập, giải thể,

nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa

phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”.

Trưng cầu ý dân là hình thức cao nhất để nhân dân thể hiện ý chí, cũng

có ý nghĩa KSQLNN. Hiến pháp năm 2013 đã đặt ra các quy định về trưng

cầu ý dân: Khoản 15 Điều 70 quy định Quốc hội “quyết định trưng cầu ý

dân”; khoản 13 Điều 74 quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội “tổ chức trưng

cầu ý dân theo Quyết định của Quốc hội”. Luật tổ chức Quốc hội năm 2014

cụ thể hóa một bước điều kiện/trường hợp Quốc hội quyết định trưng cầu ý

dân, cụ thể là “Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp hoặc về

những vấn đề quan trọng khác theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội,

Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc

hội” (Điều 19). Đ ng thời Luật khẳng định giá trị của kết quả trưng cầu ý dân

“kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề được đưa ra

trưng cầu ý dân”. Luật trưng cầu ý dân được Quốc hội khoá XIII thông qua tại

kỳ họp thứ 10 tiếp tục tạo thêm hành lang pháp lý cho hoạt động trưng cầu ý

dân với ý nghĩa là hình thức KSQLNN của Nhân dân với tư cách toàn thể

người dân trên lãnh thổ.

- Nh ng quy đ nh để cá nhân công dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Hiến pháp 2013 tiếp tục quy định rõ hơn các quyền con người, quyền

cơ bản của công dân và đưa chương về Quyền con người, quyền công dân lên

thứ tự thứ hai, sau chương về Chế độ chính trị: "Quyền con người, quyền

công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá xã hội được công nhận, tôn

trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật" (Điều 14), Công dân có

quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, Hội đ ng nhân dân (Điều 27); Công

Page 103: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

103

dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến

nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương, đơn vị và cả

nước (Điều 28); quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 29);…

Như vậy, tham gia những hình thức KSQLNN của toàn thể Nhân dân trên cả

nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định cũng là quyền của mỗi cá nhân công

dân. Ngoài ra, với tư cách cá nhân, công dân còn được pháp luật tạo ra những

hình thức pháp lý khác nữa để KSQLNN, đó là: Quyền tiếp cận thông tin;

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; Quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình;

Quyền khiếu nại, tố cáo về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ

chức, cá nhân. Sau khi Hiến pháp ghi nhận những quyền này, Nhà nước ta đã

và đang xem xét ban hành những luật cụ thể để quy định trình tự, thủ tục chi

tiết để công dân thực hiện quyền trên thực tế.

- Nh ng quy đ nh để các tổ chức đại diện của nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước

Hiến pháp 2013 tiếp tục nhấn mạnh vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, các tổ chức thành viên, tổ chức Công đoàn trong "đại diện, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp phát huy sức

mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đ ng thuận xã

hội; giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước" (Điều 9).

Đặc biệt, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Luật số 75/2015/QH13

được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2015, có hiệu lực từ

ngày 01 tháng 1 năm 2016) đã bổ sung rất nhiều nội dung liên quan đến vai

trò của Mặt trận trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Luật quy định về quan

hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước tại Điều 7, theo đó: “Quan

hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước là quan hệ phối hợp để

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên theo quy định của Hiến pháp,

pháp luật và quy chế phối hợp công tác do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và cơ quan nhà nước có liên quan ở từng cấp ban hành”. Mặt trận có

Page 104: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

104

quyền “kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi

bỏ văn bản pháp luật trái Hiến pháp và pháp luật”. Luật Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam năm 2015 đã giành 2 chương với tổng số 12 điều quy định về hoạt

động giám sát và phản biện xã hội, trong đó quy định rõ về tính chất, mục

đích giám sát, đối tượng, nội dung, phạm vi giám sát, hình thức giám sát,

quyền và trách nhiệm của các bên trong hoạt động giám sát.

- Nh ng quy đ nh về trách nhiệm của Nhà nước ch u sự kiểm soát từ

phía nhân dân

Hiến pháp khẳng định “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ

của Nhân dân” (Điều 3) ; bên cạnh đó, có những quy định mạnh mẽ hơn về

trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo môi trường công khai,

minh bạch, trách nhiệm giải trình… thông qua đó, nhân dân có thể kiểm soát

quyền lực nhà nước. Điều 8 Hiến pháp quy định: "Các cơ quan nhà nước, cán

bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân,

liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân

dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan

liêu, hách dịch, cửa quyền". Hiến pháp cũng quy định: "Nhà nước tạo mọi

điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh

bạch trong việc tiếp nhận, phản h i ý kiến, kiến nghị của công dân" (Điều

28)… và "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy

định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc

gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ của cộng đ ng". Do chưa

có luật quy định, năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90 NĐ/CP

quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Tóm lại, Hiến pháp 2013 đã tạo khung khổ để tiếp tục xây dựng thể chế

pháp lý về kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Theo đó, các

đạo luật, văn bản dưới luật sẽ được ban hành nhằm cụ thể hoá các quy định về

Page 105: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

105

tổ chức, chủ thể, phạm vi, nội dung, phương thức, trình tự, thủ tục, tạo công

cụ, phương tiện để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiện nay, Luật

về trưng cầu ý dân (mới được thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá

XIII), các luật về quyền tiếp cận thông tin, luật về hội… còn đang được soạn

thảo, nhưng trong một số luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong bộ

máy nhà nước đã có những quy định để mở rộng sự kiểm soát của nhân dân.

3.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG THỂ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN

LỰC NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.3.1. Thực tiễn áp dụng thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực bên

trong bộ máy nhà nước

- Đối với hoạt động kiểm soát quyền lập pháp

Thời gian qua, nhất là từ khi ban hành và tổ chức thực hiện Hiến pháp

năm 2013, vấn đề kiểm soát quyền lập pháp được đặt ra nhiều hơn cả về lý

luận và thực tiễn. Trước hết, đó là việc thực thi cơ chế bảo vệ Hiến pháp, dù

mới được quy định có tính nguyên tắc trong điều 119 Hiến pháp năm 2013

nhưng đã tạo động lực tốt hơn đối với việc bảo đảm tính hợp hiến của các văn

bản dưới Hiến pháp. Các cơ quan thuộc Quốc hội, nhất là Uỷ ban pháp luật đã

tăng cường kiểm soát trước khi Quốc hội ban hành các luật; và kiểm soát đối

với các pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ

(được Quốc hội uỷ quyền ban hành do chưa có điều kiện ban hành luật). Trên

thực tế, so với các lĩnh vực khác của quá trình thực thi quyền lực nhà nước,

lĩnh vực lập pháp vẫn được cán bộ, công chức và người dân đánh giá là có ít

sự lạm quyền, tham nhũng xảy ra hơn. Kết quả điều tra của Đề tài “Cơ chế

pháp lý KSQLNN của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam” do Viện Khoa học

pháp lý chủ trì năm 2015 cho thấy 50,6% người dân và 44% cán bộ công chức

được hỏi cho rằng lạm quyền, tham nhũng trong lĩnh vực xây dựng pháp luật

“khó phát sinh”, chiếm tỷ lệ cao nhất trả lời “khó phát sinh” trong số những

câu hỏi liên quan đến lĩnh vực thực hiện quyền lực nhà nước [38].

Page 106: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

106

Tuy nhiên, thể chế pháp lý về kiểm soát của các cơ quan ngoài Quốc

hội đối với quyền lập pháp còn hạn chế và hiệu lực chưa rõ. Do nhận thức đã

t n tại lâu dài về tính thống nhất của quyền lực nhà nước là thống nhất ở

Quốc hội trong bộ máy nhà nước thiết kế theo nguyên tắc tập quyền xã hội

chủ nghĩa nên sự kiểm soát chỉ nặng về một chiều từ lập pháp đến các cơ

quan khác mà chưa chú trọng chiều ngược lại. Bên cạnh đó, việc trao quyền

tự giám sát hoạt động lập pháp cho các cơ quan trong nội bộ của Quốc hội

như hiện nay (việc thẩm tra luật của Hội đ ng dân tộc và các uỷ ban của Quốc

hội, việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận trước khi trình Quốc hội,…)

là chưa đủ mạnh. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội vận hành theo cơ chế

của một cơ quan dân cử, trong khi việc xem xét, phán quyết sự hợp hiến của

một văn bản quy phạm pháp luật nên mang tính chất tài phán.

- Đối với hoạt động kiểm soát quyền hành pháp

Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước với cơ quan hành

chính nhà nước thời gian gần đây được thực hiện thường xuyên hơn, đặc biệt

là hoạt động chất vấn, bước đầu thực hiện lấy phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên,

hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ chưa thật hiệu quả. Đa số

đại biểu Quốc hội rất thiếu thông tin về hoạt động của Chính phủ. Đó là chưa

kể do cách thức bầu cử, do đại biểu thiếu các chuyên gia tư vấn nên khả năng

đánh giá các việc làm của Chính phủ của bảo đảm phần lớn còn hạn chế. Đối

với Hội đ ng nhân dân các cấp thì khả năng giám sát đối với Ủy ban nhân dân

còn kém hơn Quốc hội, năng lực của đại biểu rất hạn chế.

Cơ quan chính giám sát các cơ quan hành pháp là Quốc hội. Tuy nhiên

hiện nay, các quy định về trình tự, thủ tục, công cụ giám sát quyền lực hành

pháp của Quốc hội còn đang được quy định chi tiết. Về mặt thực tiễn, năng

lực của đại biểu Quốc hội trong sử dụng các công cụ pháp lý để thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn được giao còn chưa mạnh mẽ. Đại biểu Quốc hội hoạt

động kiêm nhiệm, giữ các chức vụ trong bộ máy hành pháp còn nhiều, dẫn

Page 107: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

107

đến giảm tính độc lập trong giám sát của Quốc hội. Năng lực bộ máy giúp

việc cho Quốc hội trong việc thông tin, tổng hợp và tham mưu còn hạn chế,

hiện nay chủ yếu thông qua các vụ chuyên môn thuộc Văn phòng Quốc hội.

Thực tế cho thấy Quốc hội luôn ở vị thế yếu hơn về năng lực thông tin so với

Chính phủ. Chưa có những cơ quan giúp việc chuyên trách để hỗ trợ cho

Quốc hội trong công tác kiểm soát hành pháp, như Thanh tra Quốc hội, cơ

quan nghiên cứu về ngân sách nhà nước.

Kiểm soát của Chủ t ch nước không được thực hiện thường xuyên và

chỉ thể hiện về nguyên tắc thông qua các quyền hạn của Chủ tịch nước trong

việc đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ.

Chính vì vậy mà hình thức giám sát này cũng rất ít tính thực tiễn.

Hoạt động xét x của Tòa án đối với các tranh chấp hành chính giữa cơ

quan nhà nước và xã hội được thực hiện từ năm 1996 khi Pháp lệnh thủ tục

giải quyết các vụ án hành chính được ban hành. Tuy đã có gần 20 năm hoạt

động, một cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính theo cách thức bảo vệ cao

nhất vẫn chưa có được uy tín trong đời sống pháp luật của xã hội. Trong khi,

trong Nhà nước pháp quyền, tư pháp hành chính phải là đặc trưng nổi bật,

phản ánh việc bảo đảm pháp lý trong nhà nước đó. Khiếm khuyết lớn nhất của

tư pháp hành chính nước ta hiện nay là tư pháp không độc lập cao do nhiều lý

do về nguyên tắc tổ chức bộ máy theo nguyên tắc tập quyền, tập trung dân

chủ và có quá nhiều khả năng tác động vào hoạt động tài phán hành chính.

Hệ thống thanh tra kiểm tra thuộc hệ thống hành chính nhà nước là hệ

thống hoạt động thường xuyên. Tuy nhiên, hoạt động này cũng không có hiệu

quả cao, việc xử lý của cấp trên đối với cấp dưới để duy trì kỷ luật công vụ

cũng như hiệu quả của quản lý không nghiêm, kết quả hạn chế... Theo kết quả

Điều tra xã hội học ở 3 tỉnh là Hà Nội, Thanh Hóa, Điện Biên trong tổng số

300 người được hỏi có 70 người (23,4%) cho rằng hoạt động thanh tra của

Thanh tra Chính phủ hiệu quả rất thấp [38] .

Page 108: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

108

- Đối với hoạt động kiểm soát quyền tư pháp

Quyền tư pháp và hoạt động tư pháp là lĩnh vực đặc thù liên quan đến

quyền con người và được tiến hành theo những trình tự, thủ tục hết sức chặt

chẽ. Vấn đề quan trọng nhất trong kiểm soát quyền tư pháp là làm sao để hoạt

động xét xử của tòa án không bị lạm dụng, không vi phạm pháp luật, dẫn đến

oan sai; và ngược lại các cơ quan khác không được can thiệp vào hoạt động

xét xử của tòa án, bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của hội

đ ng xét xử. Thời gian qua, thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, củng cố

hoàn thiện hệ thống toà án 4 cấp, thực hiện các nguyên tắc của tư pháp và

phát huy vai trò, trách nhiệm của toà án trước nhân dân, trước Quốc hội, đã có

một số tiến bộ trong thực hiện thể chế pháp lý về KSQLNN đối với ngành tư

pháp. Tuy nhiên, vẫn còn có những vấn đề đặt ra, như:

+ Hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, cụ thể là

của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Hội đ ng nhân dân đối với tòa

án còn rất hình thức. Một mặt, các báo cáo của tòa án gửi lên các cơ quan này

thường chung chung và chứa đựng các số liệu không thực sự phản án chất

lượng việc thực hiện quyền tư pháp của tòa án. Mặt khác, quá trình giám sát,

xét báo cáo và chất vấn của các cơ quan nhà nước vì thế mà cũng không cụ

thể, đôi khi còn lấn quá sâu vào hoạt động xét xử, ảnh hưởng tới tính độc lập

của tòa án.

+ Để thực hiện KSQLNN bằng các cơ chế nội tại của ngành tư pháp thì

thể chế hiện nay cũng đang có những bất cập, như: Tòa án nhân dân nói

chung, cụ thể là Toà án nhân dân cấp cao và Toà án nhân dân tối cao vẫn

chưa có thẩm quyền giải thích pháp luật. Điều này làm hạn chế rất lớn khả

năng “dẫn dắt” của các tòa án giám đốc thẩm trong việc kiểm soát việc thực

hiện quyền hành pháp của các tòa án nhân dân cấp dưới. Pháp luật đang thiếu

các quy định cụ thể đối với chất lượng của một bản án và của quyết định giám

đốc thẩm của tòa án. Trong thực tiễn hoạt động của tòa án, hầu như không có

Page 109: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

109

vụ việc nào hoàn toàn giống vụ việc nào. Tuy nhiên, việc thiếu các yêu cầu

pháp lý cơ bản về nội dung của bản án làm cho các bản án của tòa án không

thể hiện rõ lập luận của tòa án trong việc giải quyết vụ việc, không thể hiện rõ

vấn đề cần giải đáp trong một vụ việc cụ thể là gì và do đó tòa án dễ có xu

hướng tùy tiện. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật cũng còn thiếu các quy định

yêu cầu tòa án phải công bố các bản án. Điều này càng làm cho việc kiểm soát

việc thực hiện quyền tư pháp càng trở nên khó khăn và tòa án càng dễ dàng

hơn trong việc tùy tiện xét xử. Yêu cầu đặt ra đối với hình thức kiểm soát

thực hiện quyền tư pháp bằng thủ tục giám đốc thẩm là quyết định giám đốc

thẩm phải lý giải thật cặn kẽ, rõ ràng và cụ thể bản án sơ thẩm hoặc phúc

thẩm. Để thực hiện được điều đó, yêu cầu không thể thiếu là tòa án, cụ thể là

tòa án giám đốc thẩm, phải có thẩm quyền giải thích pháp luật. Nếu không có

thẩm quyền này thì tòa án giám đốc thẩm sẽ không thể lý giải được tòa án cấp

dưới đã áp dụng pháp luật sai ở chỗ nào để qua đó bảo đảm việc xét xử của

tòa án cấp dưới.

Như vậy, các nguyên tắc liên quan đến hoạt động của Tòa án nhân dân

quy định trong Hiến pháp 2013 ngoài việc cụ thể hóa trong Luật tổ chức tòa

án nhân dân năm 2014 thì cần tiếp tục cụ thể hóa trong các bộ luật về tố tụng

và các luật khác. Bên cạnh đó, pháp luật về giám sát của Quốc hội, Hội đ ng

nhân dân chỉ có những quy định chung về giám sát đối với các cơ quan nhà

nước, như vậy, chưa được cụ thể hóa phù hợp với đặc thù của đối tượng, lĩnh

vực giám sát. Giám sát của cơ quan dân cử đối với cơ quan tư pháp nên chăng

có một số quy định riêng trong dự án Luật hoạt động giám sát của Quốc hội

và Hội đ ng nhân dân.

- Đối với hoạt động KSQLNN ở các cấp chính quyền địa phương và

thông qua các thiết chế: Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước

Hoạt động kiểm soát của chính quyền địa phương chủ yếu là thông qua

giám sát, kiểm tra và đã đạt được những kết quả nhất định, những năm gần

Page 110: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

110

đây đã có nhiều đổi mới, hiệu lực, hiệu quả đã được nâng lên đáng kể. Việc

phát huy các hoạt động chất vấn, hoạt động lấy phiếu tín nhiệm đã làm cho

hoạt động kiểm soát đi vào thực chất hơn, đã phát hiện và giải quyết nhiều

oan sai, bức xúc của nhân dân, các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước đã

cẩn thận hơn, giải quyết các vấn đề dân chủ hơn, bảo vệ tốt hơn quyền, tư do

của con người, của công dân và các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội. Bên

cạnh những thành tựu thì hoạt động kiểm soát của chính quyền địa phương

cũng có những khó khăn, hạn chế như: tính hình thức còn cao, hiệu lực, hiệu

quả thấp; tâm lý nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn là trở ngại trong quá

trình kiểm soát; ngu n nhân lực thực hiện kiểm soát chưa đáp ứng yêu cầu

công việc. Kết quả kiểm soát chưa rõ nét, còn thiên về khảo sát nắm tình hình

là chính, và thường không đủ thông tin để kiểm soát. Có thể nói, với cơ chế

kiểm soát như hiện nay thì chính quyền địa phương rất khó và nhiều khi

không thể KSQLNN có hiệu quả được.

Trong thời gian qua, Kiểm toán nhà nước đã có vai trò nhất định trong

các hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng tài chính, tài sản

công đối với các cơ quan trong bộ máy nhà nước và các cơ quan, tổ chức sử

dụng ngân sách, tài sản nhà nước. Tuy nhiên, kể cả sau khi đã ban hành Luật

Kiểm toán nhà nước sửa đổi năm 2015, vẫn có những vấn đề đặt ra, như: Tính

độc lập của Kiểm toán nhà nước đến đâu? Lưu ý là Kiểm toán nhà nước ở

nước ta có quá trình chuyển từ hệ thống của Chính phủ sang Quốc hội, nên

đến nay tính độc lập chưa rõ ràng; những cơ chế đặc thù riêng để nâng cao

“uy lực” của kiểm toán chưa được quy định mạnh dạn. Đối với hoạt động của

Hội đ ng bầu cử quốc gia, hiện nay chúng ta đang tổ chức cuộc bầu cử theo

Hiến pháp năm 2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đ ng

nhân dân năm 2015. Tuy nhiên, việc thành lập Hội đ ng bầu cử quốc gia vẫn

cơ bản như các kỳ bầu cử trước. Hiệu quả hoạt động của Hội đ ng bầu cử

quốc gia theo Hiến pháp và Luật mới chưa có cơ sở để đánh giá toàn diện.

Page 111: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

111

Để minh chứng thêm cho một số đánh giá về kết quả áp dụng thể chế

KSQLNN trong thực tế nêu trên, xin dẫn ra đây kết quả khảo sát của Đề tài

cấp bộ “Cơ chế pháp lý KSQLNN của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam” do

Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp chủ trì tiến hành năm 2015 [38].

Với câu hỏi: Đánh giá về thực trạng các hoạt động kiểm soát quyền

lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay?, 300

người được hỏi đã trả lời như sau:

Hoạt động của cơ quan

nhà nước

Rất hiệu

quả

Tương đối

hiệu quả

Hiệu quả

rất thấp

Hoạt động giám sát của Quốc hội 79 (26,3%) 176 (58,7%) 45 (15%)

Hoạt động kiểm tra của Chính phủ 74 (24,6%) 173 (57,6%) 53 (17,8%)

Hoạt động thanh tra của Thanh tra

Chính phủ

63 (21%) 167 (55,6%) 70 (23,4%)

Hoạt động kiểm soát quyền lực

nhà nước của Chủ tịch nước

83 (27,6%) 171 (57%) 46 (15,3%)

Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố

cáo của cơ quan nhà nước ở TW

48 (16%) 188 (62,6%) 64 (28,4%)

Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố

cáo của cơ quan nhà nước ở đp

45 (15%) 159 (53%) 96 (32%)

Hoạt động kiểm toán của Kiểm

toán nhà nước

60 (21%) 194 (64,6%) 46 (15,3%)

Hoạt động xét xử của TAND 32 (10,8%) 194 (64,6%) 74 (24,6%)

Hoạt động kiểm sát của VKSND 56 (18,6) 194 (64,6%) 50 (16,8%)

Hoạt động giám sát của HĐND 55 (18,3%) 178 (59%) 67 (22,7%)

Hoạt động kiểm tra của UBND 56 (18,6%) 187 (62%) 57 (19,4%)

Với câu hỏi: Việc kiểm soát quyền lực nhà nước kém hiệu quả dẫn

đến tình trạng lạm quyền tham nhũng là do nh ng nguyên nhân

nào?. Có 300 người được hỏi đã trả lời như sau:

Nguyên nhân Đồng ý Tỷ lệ

Pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước chưa chặt chẽ 195 65%

Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước chưa đầy đủ 175 58%

Chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phù hợp 180 60%

Page 112: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

112

Có quá nhiều cơ chế kiểm soát ch ng chéo mà không

xác định được rõ phạm vi, thẩm quyền kiểm soát (cha

chung không ai khóc)

224 74%

Không có cơ quan chuyên môn giám sát, thực thi Hiến

pháp

123 41%

Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành chưa

hiệu quả

197 65,6%

Chưa chọn được những người có tài, có đức vào các cơ

quan chuyên môn kiểm soát quyền lực nhà nước

198 66%

Có sự can thiệp quá mạnh mẽ (đôi khi bao biện làm

thay) của các tổ chức Đảng vào từng vụ việc thực thi

quyền lực nhà nước

156 52%

Có sự can thiệp vì những mục đích không trong sáng

của một số cán bộ có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy

của Đảng và bộ máy của Nhà nước vào từng vụ việc

thực thi quyền lực nhà nước

218 72,6%

Chưa có chế tài xử lý cán bộ lạm quyền 155 51,6%

Chế tài xử lý cán bộ lạm quyền chưa đủ nghiêm khắc 232 77,3%

Việc xử lý đối với cán bộ, công chức lạm quyền không

nghiêm

230 76,6%

3.3.2. Thực tiễn áp dụng thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà

nước từ bên ngoài bộ máy Nhà nước

* Đối với hoạt động KSQLNN của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trên cơ sở những quy định của pháp luật và Điều lệ Đảng về công tác

kiểm tra, giám sát của Đảng, các cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy trong nửa đầu

nhiệm kỳ khóa XI đã thực hiện công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức

đảng và cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Kết quả cụ thể:

Có 104.114 tổ chức đảng được giám sát, trong đó: Trung ương

giám sát 10 tổ chức; tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy và tương đương

giám sát 1.229 tổ chức; huyện ủy, ban thường vụ huyện ủy giám sát

17.392 tổ chức; cấp ủy cơ sở giám sát 85.483 tổ chức. Qua giám sát

phát hiện 1.100 tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm, trong đó chuyển

kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 146 tổ chức đảng [26, tr.32, 93].

Page 113: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

113

Về giám sát đối với đảng viên, theo tổng hợp thì:

Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy đã giám sát chuyên đề 110.100 đảng

viên, trong đó tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy và tương đương giám

sát 991 đảng viên; huyện ủy và ban thường vụ huyện ủy và tương

đương giám sát 24.305 đảng viên; cấp ủy cơ sở giám sát 84.804

đảng viên. Đảng viên được giám sát thuộc các lĩnh vực công tác

đảng 11.751, nhà nước 21.568, đoàn thể 5.258, lực lượng vũ trang

32.988, sản xuất, kinh doanh 19.504,... Qua giám sát phát hiện có

dấu hiệu vi phạm là 2.333 đảng viên, chuyển sang kiểm tra khi có

dấu hiệu vi phạm là 1.067 đảng viên [26, tr.93].

Tuy nhiên, cũng từ thực tiễn, vai trò thể chế pháp lý về sự kiểm soát

của Đảng đối với Nhà nước còn những hạn chế và vấn đề đặt ra, thể hiện ở

một số điểm sau:

Thứ nhất, trong thể chế chính trị, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà

nước và xã hội được khẳng định vững chắc cả về lý luận và thực tiễn. Tuy

nhiên, thể chế pháp lý về sự kiểm soát của Đảng còn chưa đầy đủ. Ngoài quy

định ở Điều 4 Hiến pháp 2013 về bản chất của Đảng và khẳng định sự lãnh

đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội thì hầu như hoạt động kiểm soát

của Đảng đối với nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước đều thông qua các

quy định của Điều lệ Đảng, các quy chế do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ

Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ ban hành mà chưa có sự thể chế hoá thành

các quy định của nhà nước, tức là ngoài cơ sở hiến định ở Điều 4 thì thể chế

pháp lý về kiểm soát của Đảng đối với quyền lực nhà nước chưa được xây

dựng thành luật hoặc văn bản dưới luật.

Thứ hai, trong thực tiễn, nhiều nơi chưa phân định được rõ ràng giữa

lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của Nhà nước; không có sự phân

định rõ ràng thẩm quyền, chức năng, phương thức hoạt động giữa Đảng với

Nhà nước nên đã phần nào làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả kiểm soát của

Page 114: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

114

Đảng đối với Nhà nước. Đó là những biểu hiện như nhà nước hoá các công

việc của Đảng hoặc hình thức hoá các công việc của Nhà nước [63, tr.168].

* Đối với hoạt động KSQLNN của Nhân dân

Trong giai đoạn 2013 - 2015, hoạt động giám sát và phản biện xã hội

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã được đẩy

mạnh thông qua các kế hoạch giám sát hằng năm, với những chủ đề giám sát

được lựa chọn cụ thể, sát với đời sống dân sinh, như: việc thực hiện chế độ,

chính sách đối với người có công; việc quản lý giá một số mặt hàng thiết

yếu;… Hiện nay, Mặt trận có gần 40 tổ chức thành viên, các tổ chức thành

viên hầu hết có mạng lưới tổ chức bộ máy từ trung ương tới cơ sở. Xu hướng

phát triển thành viên của Mặt trận và hội viên của các tổ chức thành viên ngày

càng mở rộng bao phủ toàn bộ mọi mặt của đời sống xã hội. Mặt trận và các

tổ chức thành viên là các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề

nghiệp đảm trách vai trò là các tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp

pháp, chính đáng của nhân dân và thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực

nhà nước thông qua hoạt động giám sát và phản biện của mình. Đến nay,

100% các xã, phường, thị trấn đã có Ban thanh tra nhân dân (với trên 12.400

Ban và 81.250 thành viên) là lực lượng trực tiếp tham gia thực hiện giám sát ở

địa phương [2].

Các tổ chức chính trị - xã hội, g m: Công đoàn Việt Nam là tổ chức của

giai cấp công nhân với hơn 7,9 triệu đoàn viên và 114.000 Công đoàn cơ sở,

tham gia giám sát và phản biện chính sách đối với người lao động. Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với tính chất là tổ chức đại diện, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, thanh niên, thiếu niên

và nhi đ ng với hơn 6 triệu đoàn viên và gần 7 triệu hội viên Hội liên hiệp

thanh niên, 15 triệu thiếu niên, nhi đ ng. Hội Liên hiệp Phụ n Việt Nam có

lực lượng chiếm trên 50% dân số và gần 15 triệu hội viên, Hội phụ nữ Việt

Nam. Hội Nông dân Việt Nam có trên 7,4 triệu hội viên với gần 90.000 chi

Page 115: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

115

hội; đã tham gia giám sát và phản biện xã hội, xây dựng cơ chế, chính sách

phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn... Hội Cựu chiến binh Việt Nam

với gần 1,6 triệu hội viên/2,6 triệu cựu chiến binh và trên 1,1 triệu cựu quân

nhân sinh hoạt trong 16.000 tổ chức Hội ở cơ sở [2].

Các tổ chức hội quần chúng khác, hiện nay nước ta có 400 hội có phạm

vi toàn quốc, bao g m: các hội nghề nghiệp, hội nhân đạo từ thiện, các hội

của các tổ chức kinh tế, văn học nghệ thuật… (trong đó có 28 hội có tính chất

đặc thù). Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho phép

hơn 6500 hội có phạm vi hoạt động tại địa phương, chưa kể hàng vạn hội

được thành lập, hoạt động tại các xã, phường, thị trấn, quận, huyện [2].

Vai trò của các cơ quan báo chí, nơi thể hiện tâm tư, nguyện vọng của

người dân và phản ánh dư luận xã hội đối với hoạt động của nhà nước tăng

lên rõ rệt. Hiện nay, cả nước có 812 đơn vị báo chí. Trong đó, báo in có 197

đơn vị (84 báo trung ương, ban, bộ, ngành, đoàn thể, 113 báo địa phương); có

615 tạp chí (488 tạp chí Trung ương, ngành, đoàn thể Trung ương và 127 tạp

chí địa phương). Trong lĩnh vực thông tin điện tử, có 74 báo và tạp chí điện

tử, 336 mạng xã hội, 1174 trang thông tin điện tử tổng hợp. Có 67 đài phát

thanh, truyền hình Trung ương và địa phương; 75 kênh truyền hình nước

ngoài phục vụ 4,4 triệu thuê bao trên toàn quốc. Cả nước có gần 17.000 người

làm báo chuyên nghiệp được cấp thẻ nhà báo; có hơn 21.000 hội viên Hội nhà

báo sinh hoạt trong các hội, liên chi hội và chi hội nhà báo… Đây là những

chủ thể tham gia tích cực hoạt động KSQLNN, đ ng thời là những phương

tiện quan trọng để nhân dân thực hiện quyền KSQLNN ở nước ta [2].

Bên cạnh kết quả đạt được, về mặt thể chế cũng như thực trạng vận

hành các thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

hiện nay còn có những hạn chế sau:

Một là sau khi ban hành Hiến pháp 2013, việc ban hành các luật để cụ

thể hoá các quyền của công dân có tính kiểm soát quyền lực nhà nước như: tự

Page 116: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

116

do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình,…

vẫn còn chậm. Đa số các luật đến nay vẫn đang trong quá trình chuẩn bị và

còn nhiều ý kiến khác nhau cả về nội dung và tiến độ đưa vào chương trình

làm việc của Quốc hội. Điều đó làm cho thể chế KSQLNN từ phía nhân dân

chậm cập nhật các tinh thần mới của Hiến pháp 2013.

Hai là, các quy định về trách nhiệm công khai, minh bạch và hậu quả

pháp lý của việc thiếu công khai minh bạch, không bảo đảm; quy trình, thủ

tục công khai, minh bạch của các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà

nước còn thiếu đ ng bộ, không đầy đủ, chế tài không đủ mạnh nên việc kiểm

soát của nhân dân ít khả thi. Các thể chế về quyền khiếu nại, tố cáo chưa đảm

bảo tính khách quan, dân chủ và thuận tiện cho việc thực hiện của nhân dân;

việc khởi kiện hành chính của công dân tại Toà án còn bị hạn chế, trình tự thủ

tục giải quyết chưa cụ thể, rõ ràng, thời gian kéo dài; chế tài xử lý trách nhiệm

người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa cụ thể...

Ba là, mối liên hệ giữa thể chế và thiết chế nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước còn có điểm thiếu tính đ ng bộ, thể hiện ở chỗ không phân biệt

rành mạch thế nào là đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ

chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp… Quy chế giám sát và phản biện xã

hội ban hành theo Quyết định 217QĐ/TW của Bộ Chính trị chỉ quy định Mặt

trận và 05 đoàn thể đó là: Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội

Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Đoàn Thanh niên

Cộng sản H Chí Minh có quyền giám sát và phản biện xã hội. Một số tổ

chức chính trị - xã hội khác, như: Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt

Nam, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam… thì theo quy chế

chưa được quy định thẩm quyền giám sát và phản biện một cách độc lập mà

phải thông qua tư cách thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Bốn là các yếu tố về phương thức thực hiện, cụ thể là trình tự, thủ tục,

hậu quả pháp lý của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Page 117: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

117

thể hiện còn thiếu tính đ ng bộ, một số quy định chưa cụ thể hoặc không

thuận tiện nên cơ chế vận hành hiệu lực, hiệu quả không cao. Các quy định về

sự giám sát của nhân dân nằm tản mạn nhiều trong các văn bản quy phạm

pháp luật, rườm rà, hình thức, mâu thuẫn, trùng chéo và khó thực hiện có hiệu

quả trên thực tế. Việc lấy ý kiến nhân dân trong quá trình xây dựng văn bản

quy phạm pháp luật đã được đặt ra, nhưng quy định trách nhiệm tiếp thu, giải

trình, phản h i chưa chặt chẽ, dẫn đến việc lấy ý kiến nhân dân phần lớn là

hình thức và chưa tạo được sự quan tâm, động lực, hứng thú.

Năm là các thể chế tuy đã chứa đựng nhiều tư duy mới nhưng chưa

đ ng bộ, toàn diện; các tư duy pháp lý cũ chưa được thay đổi căn bản nên cơ

chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành thiếu nhất quán.

Ví dụ như: Thể chế pháp lý về cơ chế kiểm soát của nhân dân đối với các lĩnh

vực lập pháp, hành pháp, tư pháp đã mở ra, nhưng việc thực hiện các quy định

này còn rất hạn chế. Đối với hoạt động bầu cử, thực tế cho thấy những quy

định nặng về cơ cấu và thành phần. Các cuộc bầu cử không dựa trên tranh cử,

tính cạnh tranh chưa cao, làm hạn chế sự lựa chọn của cử tri và làm cho việc

bỏ phiếu có nơi mang tính hình thức. Quyền bãi nhiệm các đại biểu không

còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân đã được ghi nhận trong Hiến

pháp và Luật tổ chức Quốc hội nhưng mức độ chi tiết hoá còn thấp. Điều 40,

Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định "Trường hợp cử tri bãi nhiệm đại

biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm được tiến hành theo trình tự do Uỷ ban

thường vụ Quốc hội quy định", tuy nhiên, cho đến nay, trình tự, thủ tục bãi

nhiệm đại biểu Quốc hội của nhân dân chưa cụ thể, rõ ràng.

3.3.3. Đánh giá chung

Sau chặng đường xây dựng và vận hành thể chế pháp lý về KSQLNN,

chúng ta đã đạt được thành tựu lớn nhất là nâng cao nhận thức về KSQLNN,

ghi nhận KSQLNN thành một nguyên tắc trong Cương lĩnh và Hiến pháp,

bước đầu được cụ thể hoá và tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những

Page 118: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

118

tác động tích cực đã có được thì hạn chế và thách thức còn rất nhiều. Báo cáo

Tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới đất nước của

Đảng ta đã nhận định: “Việc kiểm soát quyền lực trong hoạt động của các

thiết chế trong hệ thống chính trị, nhất là trong bộ máy nhà nước, chưa được

chế định rõ, còn thiếu nhất quán” [32]. Trong những hạn chế và vấn đề đặt ra

có cả bất cập thuộc về thể chế và yếu kém, khuyết điểm trong quá trình áp

dụng thể chế vào thực tiễn.

Bất cập của thể chế pháp lý KSQLNN ở tầm vĩ mô bắt ngu n từ nhận

thức lý luận về quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước còn

chưa mạch lạc. Chưa dứt khoát trao quyền lập hiến cho Nhân dân vì vậy chủ

thể của quyền lập hiến và quyền lập pháp chưa được phân định rõ ràng.

Khẳng định tính tối cao của Hiến pháp nhưng không có cơ chế đủ mạnh để

bảo vệ Hiến pháp; chưa có tài phán hiến pháp để xem xét các hành vi vi hiến

trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như trong đời sống xã

hội. Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, chúng ta “chưa nhận thức

đầy đủ về nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, về cơ chế phân công,

phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước, nhất là về kiểm soát quyền lực; về

vai trò của cơ quan tư pháp trong việc kiểm soát các cơ quan nhà nước thực

hiện quyền lập pháp và quyền hành pháp” [32]. Các thiết chế mới có ý nghĩa

KSQLNN như Hội đ ng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước được nâng tầm

thành cơ quan hiến định, nhưng cả trong Hiến pháp và các luật hiện hành đều

chưa khẳng định rõ vị trí, vai trò và cơ chế hoạt động theo hướng gia tăng

quyền kiểm soát cho các cơ quan đặc biệt này.

Bất cập của thể chế pháp lý ở tầm vi mô là nhiều nguyên tắc KSQLNN

đã được ghi nhận từ lâu trong Hiến pháp nhưng chậm được cụ thể hoá, có khi

cụ thể hoá bằng luật r i còn phải chờ hướng dẫn của nghị định, thông tư. Mỗi

dự án luật hoặc nghị định, thông tư về cùng một phạm vi tác động nhưng có

thể do các cơ quan khác nhau xây dựng và khi xây dựng thường chăm chú

Page 119: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

119

giành sự thuận lợi cho mình, do đó, nhiều khi quy định cụ thể trở nên ch ng

chéo, mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho việc thực hiện… Vì vậy, có thể đánh

giá, “hệ thống pháp luật còn nhiều tầng nấc, thiếu đ ng bộ, hiệu lực chưa cao,

tính công khai, minh bạch, tính khả thi, ổn định còn hạn chế; nhiều nội dung

chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN” [32, tr. 153].

Nh ng khuyết điểm yếu kém trong thực hiện thể chế pháp lý về kiểm

soát quyền lực nhà nước có cả về chủ quan và khách quan, bên trong và bên

ngoài bộ máy nhà nước. Điều thấy rõ nhất là pháp luật ưu tiên quy định quyền

kiểm soát của cơ quan lập pháp với cơ quan hành pháp nhưng trên thực tế sự

kiểm soát này chưa đủ mạnh. Pháp luật quy định nhiều hình thức để Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân KSQLNN nhưng trên thực tế hệ thống này

chưa thực sự có đủ năng lực để kiểm soát, còn nặng về tính bao cấp, hành

chính, chưa tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nên động lực

kiểm soát không cao. Người dân chưa có thói quen ứng xử và tâm lý bình

đẳng trước pháp luật trong quan hệ với các cơ quan nhà nước.

Việc thực hiện các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước cho thấy:

“Hoạt động kiểm toán, kiểm tra, giám sát còn trùng lặp, hiệu lực và hiệu quả

chưa cao” [32, tr.145]. Tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình còn

thấp, chưa thiết lập được cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan

hành chính nhà nước theo kết quả đầu ra. “Sự tham gia giám sát của các cơ

quan dân cử, của các tổ chức chính trị - xã hội; xã hội – nghề nghiệp và nhân

dân trong nền kinh tế thị trường và trong hoạt động quản lý nhà nước còn hạn

chế, bất cập” [32, tr.76]. Vai trò kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội; cơ chế

bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà

nước, nhận thức chưa thống nhất; triển khai thực hiện chậm, chưa đầy đủ,

chưa hiệu quả [32, tr.146].

Page 120: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

120

Tiểu kết Chương 3

Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam có quá

trình hình thành và phát triển từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân

dân ta bắt tay xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ cộng hoà, nay

là nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa. Mặc dù chưa khẳng định kiểm soát

quyền lực nhà nước là một nguyên tắc tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước,

song các bản hiến pháp của nước ta từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm

1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đến Hiến pháp 1992 sửa

đổi, bổ sung năm 2001 và những văn bản pháp luật cụ thể hoá Hiến pháp đã

có những nội dung quy định về hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước.

Hiến pháp năm 2013 chính thức ghi nhận kiểm soát giữa các cơ quan

trong bộ máy nhà nước là một nguyên tắc trong tổ chức vận hành bộ máy nhà

nước. Với việc vận dụng nguyên tắc đó, đã xuất hiện ngày càng nhiều yếu tố

kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp năm

2013 cũng đã có quy định về việc nhân dân thực hiện dân chủ trực tiếp, và mở

ra nhiều quy định về để nhân dân thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà

nước. Trên cơ sở đó, hơn 2 năm qua, Quốc hội đã tập trung xây dựng các luật

về tổ chức bộ máy nhà nước; hiện nay, các cơ quan nhà nước đang tiếp tục

nghiên cứu xây dựng các luật về các quyền của công dân tham gia quản lý

nhà nước và xã hội; theo đó hệ thống thể chế về kiểm soát quyền lực nhà

nước sẽ ngày càng hoàn thiện.

Tuy nhiên, kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề mới cả về lý luận

và thực tiễn xây dựng thể chế và vận hành thể chế, chưa có nhiều kinh

nghiệm ở Việt Nam, còn nhiều bất cập cần tháo gỡ. Vì vậy, quá trình xây

dựng thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước đang được diễn ra từng

bước, thận trọng, cần nghiên cứu thấu đáo, có tư duy rành mạch và đẩy mạnh

hơn nữa trong thực tiễn thời gian tới.

Page 121: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

121

Chương 4

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁP LÝ

VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA

4.1. NHỮNG YÊU CẦU HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT

QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

4.1.1. Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế

Bối cảnh hiện nay, đất nước ta đã trải qua 30 năm đổi mới và đạt được

nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Dân chủ XHCN và sức mạnh đại

đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Quan điểm và thể chế về Nhà

nước pháp quyền XHCN tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, hiệu lực và hiệu

quả được nâng lên. Đã thể chế hoá kịp thời Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), xây dựng và

ban hành Hiến pháp năm 2013. Những thành quả nêu trên tạo tiền đề quan

trọng để nước ta tiếp tục phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn mới.

Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đứng trước nhiều thách thức. Có

nhận định, nước ta chủ yếu mới đổi mới về kinh tế, mà cũng mới đi nửa

đường, còn văn hóa và chính trị thì cơ bản chưa đổi mới [52]. Báo cáo tổng

kết 30 năm đổi mới của Đảng khẳng định rõ: “Đổi mới chính trị phải đ ng

bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế, trọng tâm là đổi mới phương thức lãnh đạo

của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN”; và cần “chủ động và

tích cực hội nhập quốc tế một cách toàn diện” [32, tr.141,132]. Về nguyên

lý, một thể chế phù hợp với thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp không còn phù

hợp với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Khi nước ta gia nhập TPP và

các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, vấn đề không chỉ là kinh tế mà

cách thức can thiệp của nhà nước vào thị trường và xã hội cũng phải theo

những chuẩn mực của thế giới hiện đại; tính minh bạch của các cơ quan quản

Page 122: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

122

lý phải nâng lên; thủ tục hành chính so với các nước phải có sự tương thích để

thuận lợi trong giao dịch, thúc đẩy kinh tế phát triển,… Chính vì vậy, những

kinh nghiệm về kiểm soát quyền lực nhà nước ở các nước có nền kinh tế thị

trường phát triển (đã nêu tại phần 2.3 Chương II của Luận án) cần được

nghiên cứu vận dụng nghiêm túc và cầu thị.

Về mặt thể chế, Đại hội XI xác định 03 đột phá chiến lược, trong đó

hàng đầu là “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa”. Đến Đại hội XII của Đảng, vấn đề thể chế tiếp tục được nhấn mạnh,

với mục tiêu: “đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đ ng bộ hệ thống

thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn

phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm

tính đ ng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị

trường”[33]. Bước vào thời kỳ mới, “Động lực tổng quát là đổi mới và hội

nhập… cần được khơi dậy và phát huy có hiệu quả bằng thể chế, chính sách

và cơ chế cùng các điều kiện thực hiện”[32, tr.223], “tập trung tháo gỡ những

vướng mắc về tổ chức bộ máy, thể chế, cơ chế, chính sách”.

Những nhận định tình hình và yêu cầu nêu trên cho thấy việc hoàn

thiện thể chế quản lý đất nước nói chung, trong đó có thể chế pháp lý về

KSQLNN nói riêng, là nội dung quan trọng và cấp thiết của một xu thế không

thể đảo ngược là đổi mới và hội nhập quốc tế.

4.1.2. Góp phần hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu

quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Kiểm soát quyền lực nhà nước, giới hạn quyền lực nhà nước trong

phạm vi nhân dân giao phó không phải để làm quyền lực nhà nước suy yếu và

vai trò của nhà nước mờ nhạt đi, mà trái lại làm cho nhà nước mạnh và vai trò

nhà nước thể hiện rõ hơn. Nguyên tắc “Thực hiện chính quyền mạnh và sáng

suốt" được quy định ngay trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946. Ngày

nay, nhà nước mạnh theo Hiến pháp năm 2013 là nhà nước có khả năng: Bảo

Page 123: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

123

đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ

và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đối với nhà nước ta, Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân, nhà nước pháp quyền luôn đi liền với hệ thống pháp

luật đ ng bộ, đầy đủ về quyền và trách nhiệm của cả công dân lẫn nhà nước.

Các hoạt động và quyết định của cơ quan nhà nước trong thực thi quyền lực

nhà nước phải phù hợp với hiến pháp, pháp luật. Trước yêu cầu mới, chúng ta

cần “thực hiện đ ng bộ các giải pháp để đẩy mạnh quá trình xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. Tập

trung hoàn thiện và luật hoá chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và cơ chế

hoạt động của các cơ quan nhà nước theo tinh thần và các nguyên tắc của Nhà

nước pháp quyền được quy định trong Hiến pháp năm 2013;… xây dựng và

hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực” [32, tr.250-251].

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016) ghi rõ: tiếp tục xác

định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ

trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Trong tổ chức và hoạt động của Nhà

nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo

ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp

quyền phải tiến hành đ ng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp… Xác định rõ

cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm

soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác

định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đ ng thời, quy định rõ

hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp

chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ

quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa

phương [33].

Page 124: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

124

4.1.3. Bảo đảm không ngừng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,

xây dựng môi trường vận hành thể chế công khai, minh bạch, nâng cao

trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định:

"Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là

động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền

dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực hiện trên thực tế cuộc sống ở

mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực"[30, tr.84-85], được "thể chế hoá bằng pháp

luật, được pháp luật bảo đảm"[30, tr.85]. Bên cạnh đó cần phải "có cơ chế,

pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm

chủ của mình"[30, tr.240]. Không có cơ chế khoa học, thuận tiện và pháp luật

bảo đảm thì dân chủ và quyền làm chủ của người dân sẽ khó thực hiện hoặc

thực hiện hình thức. Vì vậy, muốn phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền

làm chủ của nhân dân thì phải "Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là

của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo"[30, tr.246].

Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước phải đi đôi

với việc xây dựng môi trường dân chủ, công khai, minh bạch của đất nước.

Nhà nước phải thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nguyên tắc công khai, minh bạch

trước nhân dân. Bởi không có môi trường dân chủ, công khai, minh bạch thực

sự thì cơ chế nào nhân dân cũng không thể thực hiện được quyền làm chủ của

mình. Tạo lập môi trường, nguyên tắc thực sự dân chủ, công khai, minh bạch

vừa là giải pháp, vừa là phương tiện bảo đảm để cơ chế pháp lý nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước hoàn thiện và vận hành có hiệu quả. Môi

trường đó đòi hỏi phải bảo đảm các yếu tố, điều kiện làm chủ của người dân

thông qua hệ thống thể chế, thiết chế tương ứng có khả năng thực thi trong

thực tế để nhân dân phát huy được mọi tiềm năng sáng tạo của mình trên tất

cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và trong quan hệ với nhà nước.

Page 125: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

125

Trước mắt, cần đẩy nhanh quá trình thể chế hóa việc thực hiện quyền

dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện của nhân dân, bảo đảm để nhân dân thực

hiện được quyền của mình một cách thực chất dựa trên nền tảng pháp luật. Để

đạt được yêu cầu đó, nhà nước phải tạo lập khuôn khổ thể chế thích hợp nhằm

phát huy dân chủ và quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân, tạo điều kiện để

nhân dân phát huy năng lực, sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình. Người

dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đảm bảo các cơ quan, cán bộ,

công chức, viên chức đều phải "tôn trọng Nhân dân, tận tuỵ phục vụ Nhân

dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của

Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện

quan liêu, hách dịch, cửa quyền".

4.1.4. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện

thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

Điều 4 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của

Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đó là sự lãnh đạo toàn diện, có tính tất yếu

lịch sử và là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

đất nước. Yêu cầu về bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã

hội trong quá trình xây dựng thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

có hai ý nghĩa: Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây

dựng thể chế, trong đó có thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước.

Hai là, nội dung thể chế sau khi được xây dựng nên phải góp phần để giúp

Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo, kiểm soát được Nhà nước và xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách hiến định là "lực lượng lãnh đạo

nhà nước và xã hội" phải "gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát

huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu

sự giám sát của nhân dân"[30, tr.89]. Hơn thế, Đảng còn phải “phục vụ Nhân

dân”, và “chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình".

Page 126: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

126

Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, nắm giữ quyền lực chính trị là nhằm mục

đích "phục vụ nhân dân", bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

"Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia

quản lý xã hội của nhân dân"[30, tr.239]; và tập trung "xây dựng, bổ sung các

thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân"[30, tr.247].

Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành trong nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng lãnh đạo

chính là nhằm bảo đảm các điều kiện để nhân dân thực hiện đầy đủ, trọn vẹn, có

hiệu quả nhất quyền dân chủ của mình đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy

nhà nước. Để đạt được mục đích, nội dung đó, trước hết phải bảo đảm vai trò

lãnh đạo của Đảng trong việc tổ chức xây dựng và vận hành cơ chế. Mặt khác,

với góc độ vừa là lãnh đạo, vừa là thành viên của hệ thống chính trị, cho nên

hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng chính là những bảo đảm thiết yếu để

cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước được hoàn thiện và vận hành có hiệu quả.

4.1.5. Bảo đảm hệ thống thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước có

tính đồng bộ cả về nội dung và hình thức; tạo ra sự phối kết hợp chặt chẽ

và hiệu quả giữa các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước

Một hệ thống thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước đáp ứng

tiêu chí hoàn thiện về nội dung phải có các yếu tố sau: tính dân chủ; tính pháp

quyền; bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân; bảo đảm vận

hành có hiệu lực và hiệu quả. Tính dân chủ là kiểm soát nhằm bảo đảm quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ý chí của nhân dân phải được đặt vào mục

tiêu kiểm soát quyền lực. kiểm soát quyền lực vì lợi ích của nhân dân được

đặt lên trên hết. Tính pháp quyền thể hiện ở vai trò của kiểm soát quyền lực

trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quyền lực

phải được kiểm soát. Trong cơ chế quyền lực là thống nhất thì phải phân

công, phối hợp tốt để kiểm soát và kiểm soát chính trong quá trình phân công,

Page 127: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

127

phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lực nhà nước. Thể chế đó

cũng phải hướng đến bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công

dân bởi suy cho cùng, nhà nước sinh ra và t n tại để phục vụ nhu cầu duy trì

xã hội trong vòng trật tự, để đời sống con người được bảo đảm.

Để đáp ứng tiêu chí hoàn thiện về hình thức phải xây dựng, hoàn thiện hệ

thống pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước theo hướng đ ng bộ, không để

bộ phận thể chế nào chậm được hoàn thiện. Lĩnh vực nào cần luật điều chỉnh thì

phải sớm có luật điều chỉnh. Hệ thống thể chế xây dựng được phải công khai,

minh bạch. Mặc dù g m rất nhiều quy định nằm ở các văn bản quy phạm

pháp luật khác nhau, song yêu cầu chung là thể chế pháp lý phải có tính chỉnh

thể thống nhất, không mâu thuẫn nhau. Từ văn bản hiệu lực cao nhất là Hiến

pháp đến các quy chế, quy định trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan

lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hệ thống này phải đạt đến các tiêu chuẩn của

một hệ thống pháp luật văn minh, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tuyên truyền,

phổ biến. Phải làm sao để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều tiếp cận được

một cách đơn nghĩa, dễ dàng, dễ hiểu và dễ thực hiện.

Bên cạnh đó, thể chế phải có tính hiệu lực và hiệu quả, các cơ quan, tổ

chức, cá nhân đều phải biết đến và tuân thủ. Ban hành thể chế pháp lý hoàn

thiện giúp cho việc kiểm soát quyền lực có hiệu quả về chính trị là gia tăng sự

mạnh mẽ và tính chính đáng của quyền lực và về kinh tế là kiểm soát quyền

lực sao cho tiết kiệm. Hệ thống thể chế cần tính đến có sự liên thông, tương hỗ

lẫn nhau giữa các cơ chế kiểm soát của các chủ thể khác nhau, như giữa kiểm

soát của nhân dân, với kiểm soát của Đảng, với kiểm soát của các cơ quan nhà

nước. Sự phối hợp, hỗ trợ này không thể chung chung mà phải đi sâu vào quy

trình kiểm soát, như giữa phát hiện với xử lý, giữa phòng ngừa với ngăn chặn,

giữa thông tin ở cấp dưới với biện pháp xử lý ở cấp trên… Yêu cầu này chỉ có

thể trở thành hiện thực nếu các chủ thể có mục tiêu và động lực, cùng chủ động,

tích cực và có năng lực thực tiễn trong tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước.

Page 128: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

128

4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT

QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

4.2.1. Nâng cao nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước và vai

trò của thể chế pháp lý trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước

Có thể khẳng định, không phải mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân ở nước ta

hiện nay đều đã nhận thức đúng về vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước.

Việc quy định về hoạt động kiểm soát trong pháp luật đã khó, thực hiện trên

thực tế còn khó hơn. Vì vậy, về mặt nhận thức, cần giải quyết các vấn đề sau:

(1)- Trước hết cần tìm hiểu đầy đủ về bản chất, mục đích, ý nghĩa, vai

trò của kiểm soát quyền lực nhà nước dựa trên triết lý mạch lạc về kiểm soát

quyền lực nhà nước một cách hệ thống, khoa học, với các luận điểm đã được

kiểm chứng tại nhiều quốc gia và trong thực tiễn tổ chức và thực thi quyền lực

nhà nước ở Việt Nam.

(2)- Cần xây dựng được quyết tâm chính trị cao trong việc kiểm soát

quyền lực nhà nước từ các nhà lãnh đạo, giới hoạt động chính trị và cán bộ

quản lý nhà nước, trước hết là từ lãnh đạo Đảng và Nhà nước; từ đó mới

quyết tâm xây dựng và hoàn thiện thể chế về kiểm soát quyền lực, trong đó có

thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước.

(3)- Cần tiếp tục nghiên cứu sâu, xây dựng nhận thức đúng đắn và đầy

đủ về học thuyết chủ quyền nhân dân, chỉ có nhân dân là người chủ của tất cả

quyền lực nhà nước, mọi cơ quan nhà nước đều phải chịu sự kiểm soát của

nhân dân trong khi thực hiện quyền lực do nhân dân giao phó, đ ng thời phải

chịu sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền

hành pháp và quyền tư pháp.

(4)- Cần nghiên cứu, đánh giá nghiêm túc các ưu điểm, hạn chế của học

thuyết phân chia quyền lực và những khả năng, lộ trình, những chi tiết phù

hợp có thể áp dụng vào thực tiễn xây dựng bộ máy nhà nước ta. Bên cạnh đó,

cần tiếp tục nghiên cứu sâu về nội dung, phương thức kiểm soát quyền lực

Page 129: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

129

nhà nước, nhất là thông qua các hoạt động: giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm

sát,… bởi vì không có các hoạt động đó thì coi như không có kiểm soát trên

thực tế.

(5)- Cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ nội dung và tinh thần của Hiến

pháp năm 2013 về kiểm soát quyền lực nhà nước. Về nội dung, đó là nguyên

tắc phải có kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp. Điều này đòi hỏi khi xây dựng văn bản quy định

chi tiết và cụ thể hoá các luật tổ chức các cơ quan trong bộ máy nhà nước

luôn phải thiết kế sự ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau; đ ng thời, phải bảo đảm

đầy đủ dân chủ trực tiếp và nâng cao chất lượng dân chủ đại diện của nhân

dân thông qua việc cụ thể hoá các quy định về bầu cử, trưng cầu ý dân, quyền

tiếp cận thông tin của người dân,… Về tinh thần, phải chú trọng chuyển tải tư

tưởng dân chủ, pháp quyền, chủ quyền nhân dân, tôn trọng, bảo vệ và bảo

đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong quá trình cụ thể hoá

các quy định của Hiến pháp năm 2013 về KSQLNN.

(6)- Cần tổ chức thật tốt việc tuyên truyền, học tập, quán triệt sâu sắc,

đầy đủ, kịp thời nội dung tư tưởng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII của Đảng (tháng 1/2016) về kiểm soát quyền lực nhà nước và xây

dựng thể chế pháp lý về KSQLNN. Theo đó, thời gian tới phải chú ý “lãnh

đạo việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp

luật theo các nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm

pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân

dân kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước” [33].

4.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng thể

chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

Vấn đề trước hết trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước là phân

công trách nhiệm giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý như thế nào cho rõ

ràng, minh bạch, có hiệu lực và hiệu quả. Dựa trên sự phân công trách nhiệm

Page 130: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

130

rõ ràng đó, Đảng thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước và phát huy vai

trò của Nhà nước là một nội dung quan trọng trong tổ chức và hoạt động

quyền lực của hệ thống chính trị ở nước ta. Đổi mới nội dung và phương thức

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thúc đẩy việc hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa phải chú trọng các giải pháp sau:

(1)- Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước pháp

quyền không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền: có hệ thống lý luận cầm

quyền; có Cương lĩnh, đường lối, chiến lược và chính sách cầm quyền; có

những phương thức cầm quyền thích hợp và có đội ngũ cán bộ, đảng viên để

cầm quyền theo đúng định hướng chính trị của Đảng, bằng pháp luật và hoạt

động trong khuôn khổ pháp luật; đảm bảo xây dựng và điều hành đất nước

bằng pháp luật. Tăng cường sự kiểm soát của Đảng đối với quyền lực nhà

nước trước hết và cơ bản thể hiện qua việc Đảng lãnh đạo chặt chẽ quá trình

xây dựng thể chế pháp lý nói chung, trong đó có thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước.

(2)- Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, nghiên cứu thể chế

hoá sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vào các văn bản quy phạm

pháp luật ở mức độ cần thiết, trong đó quy định rõ vị trí, vai trò lãnh đạo và

nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ trong các loại hình cơ quan,

doanh nghiệp, tổ chức, tránh các quy định chung chung r i sau đó điều chỉnh

bằng các văn bản dưới luật hoặc thậm chí là văn bản của cấp uỷ, không phải

là văn bản quy phạm pháp luật.

(3)- Chú trọng kiểm soát thông qua việc thiết lập cơ chế để cơ quan nhà

nước này kiểm soát cơ quan nhà nước khác như là những công cụ kiểm soát

trong tầm kiểm soát của Đảng. Ví dụ, với sự lãnh đạo của Đảng đoàn Quốc

hội trong hoạt động của Quốc hội, Đảng sẽ giám sát được cơ quan hành pháp;

với sự lãnh đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ, Đảng sẽ thực hiện được sự

Page 131: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

131

kiểm soát của Chính phủ với các cơ quan nhà nước khác trong phạm vi thẩm

quyền của Chính phủ .v.v.

(4)- Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền như ở nước ta,

kiểm soát của Đảng đối với Nhà nước là điều rất quan trọng. Nhưng để sự

kiểm soát đó được bảo đảm, cần luôn chú ý thực hành thực chất và mở rộng

dân chủ trong Đảng, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng

viên, gắn với xây dựng và vận hành cơ chế giám sát chặt chẽ, thường xuyên

của tổ chức Đảng và của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên có chức vụ. Tóm

lại, phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ đức, đủ tài lãnh

đạo Nhà nước và xã hội.

4.2.3. Xây dựng hệ thống thiết chế, điều kiện và không ngừng nâng

cao chất lượng các yếu tố tác động tích cực đến thể chế pháp lý kiểm soát

quyền lực nhà nước

(1)- Hoàn thiện thể chế pháp lý về KSQLNN phải đặt trong mối quan

hệ biện chứng với hoàn thiện hệ thống các chủ thể thực hiện việc kiểm soát và

các điều kiện để các chủ thể đó vận hành. Thể chế là yếu tố vô cùng quan

trọng của cơ chế pháp lý KSQLNN. Nó là cơ sở, là tiền đề quyết định tính hợp

pháp, hợp lý để các yếu tố khác trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tổ

chức và vận hành có hiệu quả nhưng nó sẽ là hệ thống lý thuyết khô cứng nếu

không do các chủ thể nhận thức và vận hành. Vì vậy, song song với hoàn thiện

thể chế cũng phải xây dựng hệ thống thiết chế đủ mạnh để vận hành theo thể

chế đó. Ở nước ta hiện nay, cần nâng cao chất lượng tổ chức, đội ngũ, hoạt

động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và các tổ chức xã hội bên ngoài

nhà nước để có đủ năng lực tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước theo thể

chế đã lập nên; tích cực cải thiện các điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường

chính trị - pháp lý để thể chế thuận lợi đi vào cuộc sống.

(2)- Xuất phát từ bản chất và đặc điểm của mình, thể chế pháp lý về

kiểm soát quyền lực nhà nước chịu sự tác động chủ yếu của các yếu tố: thể

Page 132: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

132

chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội, các yếu tố về lịch sử, dân tộc, văn

hóa, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán, trình độ dân trí,... Điều này có ý

nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực

nhà nước, cụ thể:

- Thể chế chính tr là yếu tố quyết định mô hình tổ chức bộ máy nhà

nước; thiết lập nên địa vị pháp lý, quy định vai trò, chức năng, nhiệm vụ của

các cơ quan quan trọng nhất trong bộ máy nhà nước và của cả hệ thống chính

trị. Vì vậy, phải luôn xuất phát từ bản chất thể chế chính trị để đề xuất biện

pháp KSQLNN trong pháp luật sao cho phù hợp. Ví dụ, trong thể chế chính

trị nước ta, vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố

quan trọng cần quán triệt xuyên suốt khi xây dựng thể chế pháp lý về kiểm

soát quyền lực đối với mỗi loại cơ quan nhà nước.

- Điều kiện kinh tế - xã hội có vai trò bảo đảm để xây dựng, hoàn thiện

và vận hành thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Là cơ

sở hạ tầng của kiến trúc thượng tầng tương ứng, suy cho cùng điều kiện kinh

tế - xã hội là cái quy định nội dung thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực

nhà nước. Các biện pháp KSQLNN phải phù hợp với điều kiện kinh tế, trình

độ xã hội thì mới có tính khả thi trong thực tế. Do đó, phải không ngừng phát

triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân, cán bộ, công chức,

phương tiện thực thi công vụ của cơ quan nhà nước. Đó là tiền đề kinh tế

quan trọng để xây dựng thể chế pháp lý về KSQLNN có hiệu quả.

- Các yếu tố về l ch s dân tộc văn hóa đạo đức tôn giáo phong tục

tập quán,... là những yếu tố t n tại lâu dài trong đời sống xã hội, có nhiều yếu

tố đã ăn sâu, bén rễ, hình thành nên thói quen ứng xử của người dân đối với

nhau và đối với quyền lực xã hội, quyền lực chính trị, trong đó có quyền lực

nhà nước. Vì vậy, cần nghiên cứu kỹ và phát huy những truyền thống đạo

đức, đặc điểm văn hoá chính trị, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc ta

trong quá trình xây dựng thể chế pháp lý về KSQLNN; đ ng thời hạn chế

Page 133: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

133

những tác động của những thói quen, như: tư tưởng thần dân, cam chịu, đặt

“tình” cao hơn “lý”,... dẫn đến ít quan tâm đến kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Trình độ dân trí được nâng cao là yếu tố thúc đẩy hoàn thiện và thực

thi nghiêm túc thể chế pháp lý về KSQLNN. Thực tế cho thấy nếu có quy

định về KSQLNN nhưng người dân không biết đến hoặc ít quan tâm đến

những giá trị công bằng, công khai, minh bạch thì KSQLNN cũng ít hiệu quả.

Để thể chế pháp lý về KSQLNN có động lực hoàn thiện thì một trong những

yếu tố tác động là mặt bằng dân trí cũng phải nâng lên.

4.2.4. Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát giữa các cơ quan nhà

nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

(1)- Tiếp tục xây dựng cơ chế phân công hợp lý phối hợp chính xác

giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước để việc

KSQLNN được tiến hành thuận lợi và hiệu quả. Phân công là để rõ phạm vi

công việc của từng cơ quan, từng cá nhân, tránh ch ng chéo lấn sân nhau

cũng như tránh bỏ trống công việc không có người thực hiện. Phối hợp là cơ

chế để khi một cơ quan tiến hành việc này thì có sự tham gia của cơ quan

khác, không để mọi việc trong một “hộp đen” hay quy trình khép kín. Do vậy,

phải đẩy mạnh việc rà soát, quy định chặt chẽ, chính xác chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn, các tiêu chí, thước đo hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cơ quan

nhà nước trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước làm cơ sở cho kiểm soát.

(2)- Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát gi a các cơ quan nhà

nước trong việc thực hiện quyền lập pháp:

Hiện nay, pháp luật đang còn “khoảng trống” cho việc kiểm soát từ

phía các cơ quan nhà nước đối với Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập

pháp. Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội đang phải tự phán

quyết tính hợp hiến trong các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc

hội, các văn bản mà Quốc hội ban hành (Quốc hội xem xét, quyết định đình

chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ

Page 134: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

134

văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội trái với Hiến pháp). Điều này rất khó

khăn, bởi trong trường hợp Quốc hội không bãi bỏ luật, nghị quyết của Quốc

hội trái với Hiến pháp thì không có biện pháp pháp lý nào xử lý được. Giải

pháp khắc phục phần nào điểm mắc về thể chế nêu trên có thể đặt ra là:

- Tiếp tục nghiên cứu để bổ sung về trình tự, thủ tục làm luật theo

hướng tăng cường tính chặt chẽ của quy trình này, tạo điều kiện cho các cơ

quan có năng lực trong lĩnh vực lập pháp có thể tham gia. Chẳng hạn, trước

khi Quốc hội thông qua luật, có thể nghiên cứu bổ sung thủ tục Chính phủ

hoặc cơ quan khác trình dự thảo luật có thể rút lại hoặc đề nghị chưa biểu

quyết thông qua nếu xét thấy chưa đảm bảo tính hợp hiến, tính khả thi của các

chính sách trong dự thảo luật nếu chỉnh lý theo ý kiến thẩm tra, thảo luận tại

Quốc hội. Sau khi Quốc hội thông qua luật nhưng chưa công bố, có thể

nghiên cứu quy định thủ tục để các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền đề nghị

Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về đạo luật đã được Quốc hội thông qua

nhưng chưa có hiệu lực thi hành. Cũng cần xem xét trường hợp luật đã công

bố nhưng chưa đến ngày có hiệu lực thi hành mà phát hiện có điểm bất hợp lý

thì kiến nghị sửa đổi, bổ sung ra sao (như trường hợp Điều 60 của Luật Bảo

hiểm xã hội vừa qua). Ở giai đoạn sau khi đạo luật đã có hiệu lực thi hành

cần phát huy vai trò và năng lực giải thích Hiến pháp, luật của Uỷ ban thường

vụ Quốc hội; đ ng thời, tích cực phát huy vai trò của Toà án nhân dân tối cao

trong việc xây dựng các án lệ chất lượng tốt để góp phần giải thích pháp luật

và hướng dẫn hoạt động xét xử, áp dụng pháp luật trong thực tiễn pháp lý.

- Tiếp tục hoàn thiện các quy định về phạm vi quyền lập pháp của Quốc

hội theo hướng quy định ngày càng rõ hơn những trường hợp nào phải có

luật, trường hợp nào phải có nghị quyết của Quốc hội. Hoàn thiện quy định về

ủy quyền lập pháp của Quốc hội cho Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành

pháp lệnh và Chính phủ ban hành nghị định. Mặc dù Luật ban hành văn bản

quy phạm pháp luật năm 2015 (có hiệu lực từ 01-6-2016) đã có dự liệu một số

Page 135: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

135

trường hợp này, song thực tiễn lập pháp những năm gần đây đã cho thấy xuất

hiện những vấn đề, những tình huống mà nếu vi phạm xảy ra thì mới chỉ có

cơ chế để Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước kiểm soát sau

(hậu kiểm) và xử lý (bãi bỏ, đình chỉ thi hành,…) văn bản được Quốc hội ủy

quyền ban hành trái hiến pháp, trái luật, nghị quyết của Quốc hội mà chưa có

cơ chế tiền kiểm của chính Quốc hội. Do vậy, cần nghiên cứu để hoàn thiện

các quy định về ủy quyền lập pháp và thiết lập cơ chế kiểm soát chặt chẽ của

Quốc hội đối với việc ban hành văn bản được ủy quyền.

- Xem xét thực hiện cơ chế để các sáng kiến lập pháp, quyền trình dự

án luật được mở rộng, không chỉ đa số phụ thuộc vào việc trình dự án luật từ

phía Chính phủ mà các đại biểu Quốc hội, các tổ chức khác cũng có quyền

căn cứ vào Hiến pháp để nghiên cứu trình dự án luật. Khi tập hợp được trí tuệ

nhiều người, sẵn sàng “có cạnh tranh” trong quá trình làm luật thì chất lượng

dự án mới có điều kiện nâng lên, lúc đó, Quốc hội tập trung “gác cửa” về tính

hợp hiến và “nghiệm thu” chất lượng các luật sẽ thông qua.

(3)- Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát gi a các cơ quan nhà

nước trong việc thực hiện quyền hành pháp:

Kiểm soát quyền hành pháp là trung tâm trong các lĩnh vực cần kiểm

soát quyền lực nhà nước, vì vậy, dưới góc độ thể chế pháp lý, cần chú trọng:

- Thiết lập thêm các quy định để gia tăng quyền kiểm soát của cơ quan

quyền lực nhà nước đối với các cơ quan hành pháp, như: cơ chế chịu trách

nhiệm tập thể của Chính phủ trước Quốc hội (bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính

phủ); bổ sung các quy định cụ thể nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

giám sát của Quốc hội; phát huy vai trò Kiểm toán nhà nước, tập trung giám

sát việc chi tiêu, sử dụng ngân sách nhà nước, sử dụng tài nguyên thiên nhiên,

các ngu n lực khác của quốc gia vào những vấn đề bức xúc mà nhân dân

đang quan tâm; thực hiện quyền giám sát thông qua việc lấy phiếu, bỏ phiếu

tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;...

Page 136: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

136

- Tăng cường sự kiểm soát của Chủ tịch nước: về nguyên tắc, tuy pháp

luật không quy định về quyền giám sát của Chủ tịch nước, nhưng với thẩm

quyền về nhân sự đối với chức danh Thủ tướng Chính phủ thì rõ ràng là Chủ

tịch nước phải giám sát việc thực hiện chức trách của Thủ tướng Chính phủ.

Nên chăng phải quy định cụ thể hơn việc xét báo cáo của Chủ tịch nước đối

với hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ, cùng

với đó là các chức danh trong hệ thống hành pháp do Chủ tịch nước bổ nhiệm

theo Hiến pháp và pháp luật.

- Tăng cường các quy định để tư pháp kiểm soát quyền hành pháp, nhất

là kiểm soát quyền hành pháp thông qua tư pháp hành chính bởi vì tư pháp

hành chính được xem là một trong những đặc trưng của nhà nước pháp quyền.

- Rà soát, bổ sung các quy định nhằm tăng cường hiệu quả của cơ chế

tự kiểm tra trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Kiểm soát nội bộ hệ

thống hành chính nhà nước vừa là yêu cầu của quản lý, vừa tiện lợi và nhanh

chóng. Tuy nhiên, đây lại là cơ chế có tính chất nội bộ nên phụ thuộc rất

nhiều về cách xử lý mối quan hệ này giữa cái là công vụ và cái ngoài công vụ

và có các hạn chế là bảo vệ lẫn nhau, thiếu khách quan, nể nang, trong đó

không loại trừ cả tham nhũng, lợi ích nhóm, thân hữu. Không thể không tăng

cường cơ chế kiểm soát quyền lực nội tại bộ máy hành chính nhà nước, song

điều quan trọng là phải nghiêm túc thực hiện việc đề cao trách nhiệm cá nhân,

chế tài nghiêm túc đối với người đứng đầu mỗi cơ quan hành chính nhà nước

trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.

(4)- Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát gi a các cơ quan trong

việc thực hiện quyền tư pháp:

Để phát huy những điểm tích cực, khắc phục những bất cập, bảo đảm

việc kiểm soát thực hiện quyền tư pháp của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam

cần quán triệt tầm quan trọng của kiểm soát đối với việc thực hiện quyền tư

pháp và sự cần thiết phải bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc

Page 137: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

137

thù của hệ thống tư pháp. Việc kiểm soát không được tác động tiêu cực tới

hoạt động của hệ thống tư pháp, đặc biệt là nguyên tắc độc lập của tòa án, mà

chỉ được bổ sung, làm tăng thêm trách nhiệm và qua đó là chất lượng của việc

thực hiện quyền tư pháp, trực tiếp là chất lượng xét xử của hệ thống tòa án.

Để thực hiện được điều đó cần lưu ý một số giải pháp sau:

- Cần quy định thẩm quyền giải thích pháp luật của hệ thống tòa án và

qua đó là giá trị án lệ của các quyết định giám đốc thẩm. Có thể nói, quyết

định giám đốc thẩm là hình thức còn giải thích pháp luật chính là nội dung.

Thiếu thẩm quyền giải thích pháp luật thì quyết định giám đốc thẩm sẽ trở nên

không có giá trị. Khi có thẩm quyền giải thích pháp luật, các quyết định giám

đốc thẩm sẽ có điều kiện xác định được đúng vấn đề pháp lý cần giải quyết và

đưa ra lời giải đáp cặn kẽ và có tính thuyết phục cao trên cơ sở thực hiện

quyền giải thích pháp luật.

- Cần có cơ chế buộc các tòa án cấp dưới phải tuân thủ quyết định giám

đốc thẩm của tòa án cấp trên. Vụ án lên tới cấp giám đốc thẩm thường là các

vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, với những tình huống có các câu trả lời khác

nhau. Thẩm phán tòa án nhân dân cấp dưới sẽ có đủ lý lẽ để không áp dụng

hoặc chỉ áp dụng một phần bản án của tòa án giám đốc thẩm. Cơ chế hợp lý

để tòa án cấp dưới phải tuân thủ quyết định giám đốc thẩm nên được thiết lập

trên cơ sở quy định trách nhiệm b i thường của tòa án nhân dân cấp dưới nếu

bản án của họ bị hủy bởi quyết định giám đốc thẩm. Trách nhiệm b i thường

này không chỉ được xác định đối với việc xét xử vụ án hình sự mà còn đối với

việc xét xử vụ án dân sự, lao động, kinh tế và hành chính.

- Cần có quy định về yêu cầu về nội dung đối với quyết định giám đốc

thẩm và các bản án của tòa án. Quyết định giám đốc thẩm phải giải thích cụ

thể về vấn đề pháp luật có liên quan tới vụ án và các bản án của tòa án phải

xác định đúng vấn đề giải quyết của vụ án và đưa ra lời giải đáp một cách cặn

kẽ và thuyết phục.

Page 138: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

138

- Cần có quy định về việc công khai bản án. Việc công khai bản án

cùng với yêu cầu về nội dung của bản án sẽ là cơ sở để Quốc hội, Uỷ ban

thường vụ Quốc hội, Hội đ ng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và hội đ ng

nhân dân các cấp tiến hành hoạt động giám sát xét xử một cách chính xác,

thực chất và hiệu quả.

4.2.5. Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước

đối với chính quyền địa phương

- Trong những năm gần đây, việc kiểm soát thực thi công vụ của chính

quyền địa phương từ phía chính quyền trung ương có xu hướng bị buông

lỏng. Cùng với đó, việc kiểm soát có tính phân công, phân cấp trong thực hiện

quyền lực giữa chính quyền địa phương đối với một số cơ quan trong chính

quyền trung ương hầu như chưa được đặt ra và không có cơ chế thực hiện. Có

nhiều nguyên nhân cho thực trạng nêu trên, trong đó có các nguyên nhân về

thể chế, nguyên nhân về sự chưa hợp lý của mô hình chính quyền địa phương

hiện hành, nguyên nhân về sự thiếu vắng cơ sở lý luận khoa học đầy đủ và rõ

ràng về phân cấp và các nguyên nhân thuộc về nhận thức và tổ chức thực

hiện.

- Thời gian tới, việc phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền

cần thực hiện một cách khoa học và gắn với tăng cường kiểm tra, thanh tra

công vụ, giám sát của chính quyền trung ương đối với việc thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, bảo đảm quyền lực nhà nước là

thống nhất, việc thực thi quyền lực nhà nước có tính thông suốt, liên tục. Cần

bảo đảm quản lý thống nhất của các cơ quan nhà nước trung ương về thể chế,

chính sách, chiến lược, quy hoạch, thanh tra, kiểm tra trong việc phân định

thẩm quyền. Bên cạnh đó, cần triệt để tuân thủ yêu cầu cấp nào làm tốt nhất

và hiệu quả nhất việc nào thì giao cấp đó thực hiện. Tinh thần chung, cấp trên

chỉ làm những việc mà cấp dưới không thể làm được hoặc nếu làm thì sẽ

không hiệu quả.

Page 139: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

139

- Khuyến khích người dân tham gia vào quản lý, sử dụng công nghệ

mới để xác lập một hệ thống giám sát, đánh giá độc lập của cơ quan hành

chính cấp trên đối với việc thực hiện của các cơ quan trực thuộc. Nghiên cứu

áp dụng các công cụ đánh giá độc lập mới, như: Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả

quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), chỉ số năng lực cạnh tranh cấp

tỉnh (PCI),… để tăng cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp trong

đánh giá chất lượng, hiệu quả phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước.

Về lâu dài, cần nghiên cứu áp dụng cơ chế tài phán hành chính đối với những

tranh chấp về thẩm quyền của các cơ quan hành chính ở trung ương với chính

quyền địa phương các cấp hoặc giữa các cấp chính quyền địa phương với

nhau khi nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền đã được các đạo luật

quy định chi tiết (theo các điều 11, 12, 13, 14 của Luật tổ chức Chính quyền

địa phương năm 2015).

- Cần tiếp thu một số nội dung hợp lý của của nguyên tắc tự quản địa

phương bằng việc thể chế hóa nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của

chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền để có thể

thúc đẩy quá trình phân công quyền lực giữa trung ương và địa phương đi

đúng hướng, đúng bản chất. Xét về truyền thống lịch sử, tình hình hiện tại và

xu hướng phát triển, nước ta có nhu cầu và cơ sở để tổ chức chính quyền địa

phương theo mô hình phân quyền và tự quản. Đây cũng là một điểm để thể

hiện một cách hợp lý nguyên tắc kiểm soát giữa chính quyền trung ương và

chính quyền địa phương một cách linh hoạt.

4.2.6. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý về

bảo vệ Hiến pháp; xây dựng các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước;

tăng chế tài pháp lý trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước

(1)- Về cơ chế bảo vệ Hiến pháp: Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm

2013 quy định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Tuy nhiên hiện nay,

chúng ta chưa có đạo luật chuyên biệt nào quy định về cơ chế bảo vệ Hiến

Page 140: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

140

pháp, cũng như chưa có chương trình xây dựng một văn bản luật nào như thế.

Về nguyên tắc, những vấn đề Hiến pháp chưa có điều kiện quy định chi tiết

thì giao lại cho văn bản có hiệu lực ngay dưới Hiến pháp là luật quy định chi

tiết. Nội dung cần luật quy định chi tiết đã chỉ ra ngay trong khoản 2 Điều 119

của Hiến pháp, đó là: cơ chế bảo vệ Hiến pháp; và như vậy, nên nghiên cứu

có một đạo luật do Quốc hội thông qua quy định về cơ chế bảo vệ Hiến pháp.

Mặt khác, mặc dù khoản 2 Điều 119 khi kể tên các cơ quan có trách

nhiệm bảo vệ Hiến pháp có dùng cụm từ “…các cơ quan khác của nhà nước”,

nhưng điều này sẽ là rất khó nếu muốn thiết lập cơ quan chuyên trách ấy là

một cơ quan nhà nước độc lập, vì việc thiết kế cơ quan bảo vệ Hiến pháp ở

nước ta bị ràng buộc bởi 2 nguyên tắc có nội dung không phải lúc nào cũng

phù hợp với nhau là: Hiến pháp tối thượng và Quốc hội là tối thượng. Vì

những ràng buộc đó, chúng ta không có cơ sở để thiết lập một Tòa án Hiến

pháp đứng độc lập với Quốc hội, hoặc trao cho Tòa án nhân dân tối cao thẩm

quyền phán quyết về tính hợp hiến trong các hành vi của Quốc hội. Với

những ràng buộc có tính chất nguyên lý như vậy, để giảm bớt những bất cập

của mô hình bảo hiến có quá nhiều cơ quan tham gia nhưng không rõ ai như

hiện nay, có thể nghiên cứu thiết lập Hội đồng bảo hiến với tư cách là cơ quan

không có thẩm quyền “kết luận về tính hợp hiến” và không làm mất hoàn toàn

hiệu lực của đạo luật đã được Quốc hội thông qua. Hội đ ng bảo hiến nên

được xem là một cơ quan chuyên môn đặc biệt của Quốc hội, bao g m các

thành viên có chuyên môn, hiểu biết rất cao về pháp lý, về luật hiến pháp, về

thực tiễn chính trị hoạt động thường xuyên. Với tư cách là một cơ quan

chuyên môn, giúp việc cho Quốc hội, tuy không phải là cơ quan mang tính

chất quyết sách, tức là các cơ quan góp phần hình thành nên các đạo luật, các

chính sách cụ thể của quốc gia, nhưng cơ quan này lại có ý nghĩa chính trị-

pháp lý và xã hội rất lớn. Nếu như các cơ quan có tính chất quyết sách trong

bộ máy nhà nước được ví như những cỗ máy, thì Hội đ ng bảo hiến đóng vai

Page 141: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

141

trò là những "gờ giảm tốc, biển cảnh báo nguy cơ" giới hạn đối với việc hình

thành các quyết sách và thực hiện các hành vi sử dụng quyền lực nhà nước.

(2)- Về các thiết chế có vai trò chuyên biệt trong hoạt động kiểm soát

quyền lực nhà nước: Khi chưa đạt được sự tự giác cao trong thực hiện pháp

luật của các tổ chức và cơ quan, cá nhân thì cần coi trọng sự kiểm tra, giám

sát từ các cơ quan có vai trò chuyên biệt trong hoạt động kiểm soát, ví dụ như

hoàn thiện các quy định để tăng thẩm quyền, trách nhiệm cho Kiểm toán nhà

nước, Hội đ ng bầu cử quốc gia. Ngoài ra, các chủ thể khác có thẩm quyền

trong hoạt động KSQLNN có thể nghiên cứu lập các cơ quan hay bộ phận

chuyên môn thực hiện việc kiểm soát thì chất lượng, hiệu quả mới cao. Cũng

cần tích cực xây dựng và củng cố các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ kiểm soát

đã có trong bộ máy nhà nước, như: Viện kiểm sát, thanh tra, các ủy ban của

Quốc hội, các ban của Hội đ ng nhân dân, trao cho các cơ quan, bộ phận này

nhiều quyền hơn trong kiểm soát và xử lý để bảo đảm tính hợp hiến và hợp

pháp trong quyết định và hành động của các cơ quan công quyền.

(3)- Cần bổ sung mức độ áp dụng nh ng biện pháp pháp lý có tính chế

tài trong quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước để việc kiểm soát quyền lực

nhà nước thực sự có hiệu quả. Quyền lực nhà nước luôn thể hiện trong mối

quan hệ quyền lực giữa chủ thể cầm quyền và đối tượng bị cầm quyền, một

bên có thể ra lệnh và một bên phải phục tùng. Trong mối quan hệ đó, quyền

lực chỉ thực sự t n tại khi mệnh lệnh của chủ thể cầm quyền được chủ thể bị

cầm quyền thực hiện nhanh chóng, chính xác và triệt để. Kiểm soát quyền lực

nhà nước chỉ thực sự có hiệu lực, hiệu quả khi chủ thể nắm giữ quyền kiểm

soát quyền lực được pháp luật trao cho những quyền và biện pháp khen

thưởng, trừng phạt đủ sức để răn đe đối với đối tượng bị kiểm soát quyền lực.

Việc này phải được thể hiện bằng việc trao cho cơ quan cấp trên mà đặc biệt

là người đứng đầu các cơ quan này những biện pháp chế tài đủ mạnh để xử lý

hành vi không tuân lệnh hoặc vi phạm pháp luật của cấp dưới. Có như vậy thì

Page 142: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

142

mới chấm dứt được tình trạng cấp dưới không thực hiện hoặc thực hiện không

đúng quyết định của cấp trên. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và

hoạt động của bộ máy nhà nước phải được tuân thủ bởi pháp luật và sẵn sàng

có chế tài để áp dụng trừng phạt đủ mạnh.

4.2.7. Hoàn thiện thể chế pháp lý Nhân dân kiểm soát quyền lực

nhà nước

(1)- Xây dựng thể chế để nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào

quyền lập hiến

Về lâu dài, khi các điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội, thông tin… của

đất nước, và nhất là trình độ dân trí, văn hoá chính trị của nhân dân được nâng

cao, thì nên xác lập rõ quyền lập hiến phải thuộc về Nhân dân. Những nội

dung trưng cầu ý dân (kể cả trong Luật trưng cầu ý dân do Quốc hội khoá

XIII mới thông qua) nên được mở rộng hơn. Hiến pháp là văn bản cơ bản để

kiểm soát quyền lực nhà nước và phải được Nhân dân quyết định. Nhân dân

sẽ sử dụng quyền lập hiến bằng hai cách. Một là bầu ra Quốc hội lập hiến và

hai là nhân dân phúc quyết. Với cách này, nhân dân sẽ là người biểu quyết

thông qua Hiến pháp và các nội dung sửa đổi Hiến pháp. Chính nhân dân sẽ là

người lập ra Hiến pháp chứ không phải Quốc hội. Thông thường, việc đưa ra

nhân dân biểu quyết sẽ được tiến hành sau hai trường hợp: đã được Quốc hội

thông qua hoặc trong nội bộ Quốc hội còn nhiều quan điểm trái chiều nhau.

Thực sự, quyền lập hiến nên và phải là quyền của nhân dân. Quyền phúc

quyết Hiến pháp là biểu hiện rõ nét nhất của nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân”. Với quyền này, nhân dân có quyền trực tiếp quyết

định các chính sách, chủ trương liên quan trực tiếp, góp phần tạo nên một xã

hội dân chủ ngay từ “luật gốc” này.

(2)- Hoàn thiện thể chế pháp lý về trách nhiệm giải trình cung cấp

thông tin của các cơ quan nhà nước và hoạt động báo chí xuất bản

Page 143: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

143

Cần trên cơ sở đánh giá việc thực hiện Nghị định số 90/2013/NĐ-CP

ngày 08 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy định trách nhiệm giải trình của

cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn được giao để

nâng lên thành các quy định của luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan

nhà nước.

Bên cạnh đó, để có cơ sở hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về

trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, cũng cần sớm ban hành Luật

Tiếp cận thông tin của người dân. Dự thảo này vừa qua đã được Quốc hội cho

ý kiến nhưng cần chuẩn bị tích cực và nhanh hơn theo hướng không chỉ quy

định về phạm vi, trình tự, thủ tục để công dân tiếp cận tài liệu, h sơ do các cơ

quan nhà nước lưu giữ, mà còn phải điều chỉnh toàn bộ mối quan hệ nhà nước

- công dân trong việc tìm kiếm, tiếp nhận, quản lý, cung cấp, chia sẻ thông tin

về hoạt động của bộ máy nhà nước, kể cả các cơ quan, tổ chức dịch vụ công

hoặc doanh nghiệp nhà nước độc quyền nắm giữ thông tin liên quan đến

quyền, lợi ích hợp pháp của người dân đã được Hiến pháp và pháp luật bảo

hộ. Tương tự như Luật Tiếp cận thông tin của nhiều quốc gia trên thế giới,

Luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam nếu được ban hành cần xác định hai

mục đích chính, cơ bản và quan trọng nhất, đó là: (1) bảo đảm quyền của

công dân được tiếp cận thông tin chính thức từ các cơ quan nhà nước và (2)

tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà

nước, góp phần đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Cần thiết có Luật Ban hành quyết đ nh hành chính. Luật Ban hành

quyết định hành chính ra đời nhằm góp phần khắc phục những hạn chế, bất

cập trong việc ban hành quyết định hành chính hiện nay; bảo đảm khuôn khổ

pháp lý rõ ràng cho hoạt động của cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành

quyết định hành chính; đ ng thời, tạo cơ sở pháp lý để kiểm soát việc ban

hành quyết định hành chính, bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý, khả thi, khách

quan, dân chủ, công bằng của quyết định hành chính; giải quyết những vấn đề

Page 144: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

144

sai phạm về nội dung và thủ tục khi quyết định hành chính xâm phạm quyền,

lợi ích hợp pháp của người dân.

Cần nghiên cứu đầy đủ trong quá trình sửa đổi, bổ sung các luật hiện

hành, như: Luật báo chí Luật xuất bản để vừa đáp ứng nhu cầu quản lý nhà

nước trong lĩnh vực này, vừa tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận thông tin,

bày tỏ quan điểm, chính kiến theo đúng phạm vi được pháp luật quy định và

bảo hộ.

(3)- Hoàn thiện thể chế pháp lý nhằm phát huy vai trò của các tổ chức

xã hội các hình thức dân chủ ở cơ sở trong kiểm soát quyền lực nhà nước

Trong vấn đề này, cần nhanh chóng ban hành Luật về hội – tạo cơ sở

pháp lý đầy đủ hơn cho các tổ chức xã hội. Với tư cách là yếu tố điều chỉnh

các quan hệ xã hội, pháp luật nói chung và pháp luật về hội nói riêng, có vai

trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo khuôn khổ pháp lý cho việc thành lập và

phát triển các tổ chức hội theo đúng tinh thần của Hiến pháp về quyền tự do

lập hội, tạo điều kiện cho hoạt động của hội phù hợp với đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước. Cần chú trọng hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở

cơ sở để đẩy mạnh các loại hình, như: Ban chỉ đạo quy chế dân chủ ở cơ sở,

Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư ở cộng đ ng,… trong việc nói

lên tiếng nói của quần chúng theo loại hình cơ sở phù hợp.

(4)- Tiếp tục cụ thể hóa các quy đ nh về giám sát phản biện xã hội

Hiện nay, Hiến pháp năm 2013 mới chỉ quy định giám sát và phản biện

xã hội dưới góc độ là một chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bên

cạnh nhiều chức năng khác (khoản 1, điều 9); là trách nhiệm của Đảng, các cơ

quan nhà nước, cán bộ công chức, viên chức phải lắng nghe ý kiến, chịu sự

giám sát của nhân dân (Điều 4, Điều 8) mà chưa ghi nhận giám sát và phản

biện xã hội thành một quyền cơ bản của công dân.

Có thể nhận thấy theo các Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị

thì các quyền phản biện và giám sát đều được đề cao. Hiện nay chủ trương

Page 145: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

145

của Đảng và Nhà nước cũng đang hướng đến việc tăng cường các quyền giám

sát, phản biện, đặc biệt là giám sát, phản biện của công dân. Hơn nữa, thực

chất trong thực tế quyền giám sát và phản biện thường đi đôi, gắn bó mật thiết

với nhau. Quyền phản biện xã hội cũng chính là hình thức phát triển cao nhất

xuất phát từ quyền tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào các hoạt động

của Nhà nước. Từ đó, rất cần thiết phải có một điều khoản riêng về quyền

giám sát và phản biện xã hội được ghi nhận trong Hiến pháp và có Luật về

giám sát và phản biện xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, cần khẩn trương cụ

thể hoá những quy định về giám sát và phản biện xã hội trong Luật Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, nhất là Điều 25 và Điều 34 về hình thức giám sát, phản

biện xã hội để có thể triển khai những điều luật này trong thực tiễn.

(5)- Hoàn thiện thể chế pháp lý về quyền bầu c ứng c của công dân

và bãi nhiệm đại biểu dân c của c tri

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật bầu cử đại

biểu Quốc hội và đại biểu Hội đ ng nhân dân năm 2015, có hiệu lực từ ngày

01 tháng 9 năm 2015. Vấn đề tiếp theo là để tiến tới kỳ bầu cử đầu tiên theo

luật mới vào ngày 22/5/2016, cần tiếp tục hướng dẫn cụ thể hóa các quy định

về hoạt động của Hội đ ng bầu cử; phát huy vai trò của Hội đ ng bầu cử (tiến

tới có Luật riêng về tổ chức và hoạt động của Hội đ ng bầu cử vì đây là một

thiết chế đã được hiến định. Hội đ ng bầu cử nên có tính khách quan, độc lập

cao hơn, và có thể hoạt động thường xuyên, có tính chuyên nghiệp trong việc

tổ chức các cuộc bầu cử cũng như các cuộc trưng cầu ý dân – tham khảo mô

hình cơ quan phụ trách bầu cử ở một số quốc gia, ví dụ như ở Úc). Xây dựng

điều kiện để công dân thực hiện quyền ứng cử; có quy định chi tiết về các

hình thức vận động tranh cử, công tác hiệp thương,… để kỳ bầu cử tới đây đạt

chất lượng. Đ ng thời, cần tiếp tục cụ thể hóa các quy định về quyền bãi

nhiệm của cử tri đối với các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đ ng nhân dân để

tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thực thi trong thực tế. Cần ban hành văn

Page 146: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

146

bản pháp luật riêng về chế độ bãi nhiệm (và cả miễn nhiệm). Để làm điều đó,

trước mắt thực hiện tốt chế độ công khai trách nhiệm, quyền hạn của các cơ

quan, cán bộ, công chức nhà nước. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng chế độ

báo cáo, thông tin, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà

nước, cán bộ, công chức nhà nước; thực hiện chế độ kê khai tài sản của cán

bộ, công chức nhà nước.

(6)- Hoàn thiện thể chế pháp lý về quyền khiếu nại tố cáo

Thời gian vừa qua, Quốc hội đã ban hành Luật Khiếu nại và Luật Tố

cáo năm 2011 với nhiều thay đổi tích cực hơn và tiến bộ hơn. Tuy nhiên, thời

gian tới cũng cần xem xét việc sửa đổi hai luật này để phù hợp với Hiến pháp

năm 2013 và các luật về tổ chức các cơ quan nhà nước mới ban hành. Trong

quá trình đó, nên quan tâm một số vấn đề sau nhằm nâng cao, bảo vệ quyền

khiếu nại, quyền tố cáo của người dân: Cung cấp thông tin cho công dân, tổ

chức đầy đủ, chính xác để công dân có cơ sở thực hiện đúng quyền khiếu nại,

tố cáo và giảm thiểu khiếu nại, tố cáo không có căn cứ; thực hiện nghiêm túc

các quy trình nghiệp vụ về tiếp nhận, xử lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo;

nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và quản lý nhà nước

trên các lĩnh vực như một yếu tố hạn chế khiếu nại, tố cáo.

4.2.8. Thiết lập cơ chế phối hợp hoạt động kiểm soát giữa cơ quan

đảng, cơ quan nhà nước với kiểm soát của nhân dân

Kết luận số 01-KL/TW ngày 04 tháng 4 năm 2016 của Bộ Chính trị

(khoá XII) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị

khoá IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nhấn mạnh nhiều nội dung về

hoàn thiện thể chế pháp lý KSQLNN, trong đó có lưu ý: “tăng cường sự gắn

kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức thành viên; bảo đảm quyền giám sát của nhân dân”. Để

cụ thể hoá định hướng này, khi xây dựng từng bộ phận, từng văn bản quy

Page 147: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

147

phạm pháp luật trong hệ thống thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà

nước, cần chú trọng tạo ra khả năng và điều kiện thuận lợi cho sự phối kết

hợp giữa các hoạt động kiểm soát của các cơ quan có chức năng kiểm tra,

thanh tra, giám sát thuộc bộ máy Đảng (như uỷ ban kiểm tra, ban nội chính,

các ban khác của Đảng ở các cấp), Nhà nước (như các cơ quan: Viện kiểm

sát, thanh tra, pháp chế,…) và các hoạt động giám sát của nhân dân (thông

qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội,…). Sự phối

hợp làm cho thế mạnh của hệ thống kiểm soát này sẽ là sự bổ sung hoàn thiện

cho hệ thống kiểm soát kia để bảo đảm hiệu quả tối ưu cho mục đích kiểm

soát quyền lực nhà nước.

Các hình thức phối hợp này ở nước ta đã được áp dụng trong nhiều lĩnh

vực hoạt động nhà nước. Thời gian qua, các văn bản phổ biến được ban hành

là các quy chế phối hợp công tác giữa các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà

nước với các đoàn thể chính trị - xã hội trong lĩnh vực giám sát đối với quyền

lực nhà nước. Các cơ cấu tổ chức hỗn hợp cũng đã được lập ra trong từng

hoạt động cụ thể, như: các ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đ ng

nhân dân, hội đ ng tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên,... Tuy nhiên, những

hình thức này cần được mở rộng và bảo đảm thực chất hơn nữa trong mọi

hoạt động và mọi lĩnh vực, trong các nỗ lực cải cách thể chế của nhà nước ta

hiện nay. Cụ thể, trong thực tiễn, cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa hoạt động

giám sát của nhân dân, thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

và các tổ chức thành viên cũng như của Ban thanh tra nhân dân, với hoạt động

thanh tra của Thanh tra Chính phủ, hoạt động kiểm tra của Đảng và hoạt động

giám sát của Quốc hội, Hội đ ng nhân dân các cấp.

Page 148: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

148

Tiểu kết Chương 4

Trong bối cảnh nước ta đang tiến hành đổi mới toàn diện và hội nhập

quốc tế mạnh mẽ hiện nay, kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu cấp thiết,

hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước là bước đi tất

yếu. Đ ng thời, quá trình này cũng nhằm để đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn

thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng;

hướng đến một hệ thống thể chế hoàn thiện về nội dung và hình thức, với

những yêu cầu về tính dân chủ, pháp quyền, bảo đảm quyền con người, quyền

công dân, thống nhất, đ ng bộ, minh bạch, vận hành có hiệu lực, hiệu quả.

Trên cơ sở nghiên cứu, trong chương 4 của Luận án đã đề xuất các giải

pháp tổng thể để nâng cao nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước và vai

trò của thể chế pháp lý trong kiểm soát quyền lực nhà nước; tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng thể chế pháp lý về kiểm soát quyền

lực nhà nước; xây dựng các thiết chế và hoàn thiện các yếu tố tác động tích

cực đến thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước; hoàn thiện thể chế

pháp lý về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hoàn thiện thể chế pháp lý kiểm soát

quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương; xây dựng thể chế pháp

lý về bảo vệ Hiến pháp, xây dựng các thiết chế có vai trò chuyên biệt trong

hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước; hoàn thiện thể chế pháp lý Nhân

dân kiểm soát quyền lực nhà nước; tạo ra sự phối kết hợp đ ng bộ và hiệu quả

giữa các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng, của Nhà nước và

của Nhân dân.

Page 149: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

149

KẾT LUẬN

Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong xã hội có nhà

nước, nhất là ngày nay, khi mà hầu hết các nhà nước trên thế giới đều tuyên bố

là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Trên cơ sở Cương lĩnh

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát

triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam, được sự đ ng thuận của Nhân

dân, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã tạo ra

một bước tiến lớn trong việc xác lập cơ sở hiến định về kiểm soát quyền lực nhà

nước. Trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và hệ thống chính trị nước ta hiện

nay cũng như trong thời gian tới là phải tổ chức thực hiện tốt Cương lĩnh của

Đảng và Hiến pháp năm 2013. Trong đó, những nội dung của Cương lĩnh và

Hiến pháp về kiểm soát quyền lực nhà nước phải được nghiên cứu thấu đáo,

tiếp tục thể chế hoá trong các quy định của luật và văn bản dưới luật, đ ng

thời tổ chức thực hiện tốt pháp luật trong thực tiễn.

Là một trong những nghiên cứu đầu tiên, trực tiếp và đầy đủ, coi thể

chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước là đối tượng nghiên cứu chính,

Luận án này đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn

thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta, cụ thể như sau:

1- Tổng thuật và đánh giá tổng quan những công trình nghiên cứu đã

công bố trong và ngoài nước về quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà

nước và thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước. Chỉ ra những điểm

còn để trống về mặt lý luận và thực tiễn, những điểm còn chưa thống nhất

trong quan niệm về thể chế, thể chế pháp lý, thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước và xác định những vấn đề mà Luận án phải giải quyết.

2- Trên cơ sở phân tích, so sánh, kế thừa những thành tựu nghiên cứu

trước, Luận án đã phân tích các khái niệm chính của đề tài, như: quyền lực

nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, thể chế, thể chế pháp lý; đặc biệt là

Page 150: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

150

khái niệm trung tâm “thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước”. Luận

án đã phân tích vai trò, đặc điểm, nội dung, hình thức, các bộ phận hợp thành

của thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta. Luận án cũng

đã trình bày khái quát những kinh nghiệm về thể chế pháp lý kiểm soát quyền

lực nhà nước ở một số nước trên thế giới và những giá trị có thể tham khảo,

vận dụng ở Việt Nam.

3- Khái quát sự hình thành, phát triển thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước ở nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến

nay. Đ ng thời, tập trung mô tả thực trạng thể chế pháp lý về kiểm soát quyền

lực nhà nước hiện nay trên nền tảng Hiến pháp năm 2013, các luật về tổ chức

bộ máy nhà nước và các luật về các quyền cơ bản của công dân được xây

dựng trong thời gian gần đây. Từ đó, đánh giá những kết quả đạt được và

những vấn đề đặt ra khi áp dụng thể chế đó vào thực tế.

4- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, Luận án đã nêu các giải pháp nhằm

hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó có các

giải pháp chung, các giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực

nhà nước từ bên trong, các giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý kiểm soát

quyền lực nhà nước từ bên ngoài, hoàn thiện thể chế pháp lý về bảo vệ Hiến

pháp, và nhấn mạnh phải có sự phối hợp giữa các cơ chế kiểm soát quyền lực

nhà nước trên nền tảng thể chế pháp lý để không ngừng nâng cao hiệu lực,

hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước.

Do đề tài có phạm vi rộng, khối lượng tư liệu và hệ thống văn bản pháp

luật thực định phải tiếp cận nhiều, trong thời gian và năng lực nghiên cứu còn

hạn chế, nên Luận án mới chỉ tiếp cận thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực

nhà nước ở mức độ tổng quát nhất. Mong rằng từ nghiên cứu này sẽ góp phần

nhìn nhận tổng thể mô hình kiểm soát quyền lực nhà nước, thấy sự cân đối

giữa các bộ phận của thể chế, và gợi ra các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu,

xây dựng để thể chế đó ngày càng hoàn thiện chi tiết./.

Page 151: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Long Hải (4/2016), “Xây dựng thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 882 (4-2016),

tr.65-71.

2. Nguyễn Long Hải (11/2015), "Đặc điểm thể chế pháp lý về kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nhân lực khoa học

xã hội số 11 (30), tr.29-37.

3. Nguyễn Long Hải (12/2015), "Góp phần hoàn thiện thể chế pháp lý về

kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam", Tạp chí Dân chủ và Pháp

luật số 12 (285), tr.2-7.

4. Nguyễn Long Hải (11/2015), "Vai trò của hoạt động giám sát xã hội và

phản biện xã hội đối với kiểm soát quyền lực nhà nước", Tạp chí Thanh

tra, số 11 - 2015, tr. 44-46.

5. Nguyễn Long Hải (11/2015), "Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm

2015: Bước tiến mới về thể chế pháp lý cho hoạt động giám sát và phản

biện xã hội", Tạp chí Mặt trận, số 145 (11-2015), tr.27-30.

6. Nguyễn Long Hải, Trương H ng Quang (11/2015), "Xây dựng, hoàn thiện

một số luật làm nền tảng cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước từ

phía Nhân dân", Tạp chí Pháp lý, số cuối tháng 11/2015, tr.6-10.

7. Nguyễn Long Hải, Đỗ Thị Thu Hằng (12/2015), “Đề xuất cần bổ sung

quyền tham gia giám sát, phản biện xã hội trong Luật thanh niên”, Tạp

chí Thanh niên, số 43 (T11-2015), tr.42-43.

8. Nguyễn Long Hải (10/2010), “Đoàn Thanh niên Cộng sản H Chí

Minh và các tổ chức thanh niên tham gia xây dựng, phản biện và giám

sát thực thi chính sách thanh niên”, Tạp chí Thanh niên, số 28 (T10-

2010), tr.8-9.

Page 152: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (2004), Từ điển Hán - Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Nguyễn Quang Anh (2015), Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính

trị Quốc gia H Chí Minh, Hà Nội.

3. Aristotle (2013), Chính tr luận (The Politics), Nxb Thế giới, Hà Nội.

4. Đinh Văn Ân, Võ Trí Thành (2002), Thể chế cải cách thể chế và phát triển

– lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam Nxb Thống kê, Hà Nội.

5. Đinh Văn Ân, Lê Xuân Bá (2006), Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế

kinh tế th trường đ nh hướng XHCN ở Việt Nam Nxb Khoa học kỹ thuật,

Hà Nội.

6. Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (2013), Một số vấn đề cơ

bản của hiến pháp các nước trên thế giới Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

7. Nguyễn Cảnh Bình (2013), Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào?, Nxb

Thế giới (tái bản lần thứ 4).

8. Nguyễn Hoà Bình (2014), Nh ng đ nh hướng cơ bản s a đổi Luật tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân nhằm cụ thể hoá Hiến pháp năm 2013, trong sách: Hiến

pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam - nền tảng chính trị pháp lý cho công

cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, Nxb Lao động xã hội,

Hà Nội.

9. Nguyễn Mạnh Bình (2010), Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối

với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ

Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia H Chí Minh, Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Bông (1967), Luật hiến pháp và chính tr học, Sài Gòn.

Page 153: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

153

11. Lê Văn Cảm, Dương Bá Thành (2010), Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà

nước (và cả quyền lập pháp) trong nhà nước pháp quyền: Một số vấn đề lý

luận cơ bản, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 1.

12. Lê Văn Cảm (2012), Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước và một số kiến

giải lập hiến trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 6.

13. Nguyễn Văn Cương (2014), Phân công quyền lực gi a chính quyền trung

ương và chính quyền đ a phương tại Việt Nam – L ch s Lý luận và Thực

tiễn, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

14. Nguyễn Thị Doan (2014), Mối quan hệ của thiết chế Chủ t ch nước với các

cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và cấu trúc bộ máy của thiết chế

Chủ t ch nước theo Hiến pháp, trong sách: Hiến pháp nước Cộng hoà

XHCN Việt Nam - nền tảng chính trị pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn

diện đất nước trong thời kỳ mới, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

15. Lê Đăng Doanh (2010), Thể chế hình thức thể chế phi hình thức vốn xã hội

và sự phát triển – Chuyên đề nghiên cứu của Đề tài “Thể chế xã hội trong

phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay” thuộc

Chương trình khoa học-công nghệ cấp nhà nước KX02/06-10 “Quản lý phát

triển xã hội trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam”.

16. Nguyễn Đăng Dung (2002), Hiến pháp và bộ máy nhà nước Nxb Giao

thông vận tải, Hà Nội.

17. Nguyễn Đăng Dung, Bùi Ngọc Sơn (2004), Thể chế chính tr , Nxb Lý luận

chính trị, Hà Nội.

18. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

19. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

Page 154: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

154

20. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chính phủ trong nhà nước pháp quyền Sách

chuyên khảo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

21. Nguyễn Đăng Dung (2014), Chính phủ và việc soạn thảo Luật tổ chức

Chính phủ theo tinh thần của Hiến pháp, trong sách: Hiến pháp nước Cộng

hoà XHCN Việt Nam - nền tảng chính trị pháp lý cho công cuộc đổi mới

toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

22. Nguyễn Đăng Dung (2014), Hiến pháp phải là bản văn kiểm soát quyền lực

nhà nước, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30.

23. Nguyễn Đăng Dung (2015), Nguyên tắc phân quyền và kiểm soát quyền lực nhà

nước của các nhà nước tư bản phát triển, Thông tin khoa học lập pháp số 1(19).

24. Nguyễn Chí Dũng (2009), Cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở

Việt Nam Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc

gia H Chí Minh, Hà Nội.

25. Chu Dương (2005), Thể chế nhà nước của các quốc gia trên thế giới, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

26. Mai Thế Dương (2013), Tăng cường công tác giám sát của Đảng, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của

Bộ Chính trị (khoá IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật Việt Nam đến năm 2010 đ nh hướng đến năm 2020, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12-12-

Page 155: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

155

2013 của Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính tr - xã hội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận –

thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Dự thảo Báo cáo Chính tr của Ban Chấp

hành Trung ương khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của

Đảng

http://daihoi12.dangcongsan.vn/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=28

340728&cn_id=400849.

34. Nguyễn Minh Đoan, Bùi Thị Đào, Trần Thị Hiền, Lê Vương Long, Nguyễn

Văn Năm, Bùi Xuân Phái (2009), Một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền

lực nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Nguyễn Minh Đoan, Vũ Thu Hạnh (2014), Quan niệm về kiểm soát và cơ

chế kiểm soát quyền lực nhà nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (9).

36. Nguyễn Minh Đoan, Vũ Thu Hạnh (2014), Các yếu tố cấu thành cơ chế

kiểm soát quyền lực nhà nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (7).

37. Nguyễn Minh Đoan (2015), Kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước

pháp quyền ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo: “Những vấn đề lý luận và

thực tiễn cấp bách về Nhà nước và Pháp luật trước thềm Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ XII của Đảng”, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 14-

15/7/2015.

38. Nguyễn Minh Đoan (2015), Báo cáo khoa học đề tài cấp Bộ: Cơ chế pháp

lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam

hiện nay, Bộ Tư pháp (đã nghiệm thu chính thức).

39. Cao Anh Đô (2012), Phân công phối hợp gi a các cơ quan trong thực hiện

quyền lập pháp hành pháp và tư pháp ở Việt Nam Luận án tiến sĩ Luật học,

Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia H Chí Minh, Hà Nội.

Page 156: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

156

40. Trần Văn Độ (2014), Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu s a đổi Luật tổ chức

Toà án nhân dân, trong sách: Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam -

nền tảng chính trị pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong

thời kỳ mới, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

41. Nguyễn Văn Động (2006), Các quyền Hiến đ nh về Chính tr của công dân

Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

42. Nguyễn Văn Động (2010), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo

đảm phát triển bền v ng ở Việt Nam hiện nay Sách chuyên khảo, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

43. Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn

hiện nay Nxb Tư pháp, Hà Nội.

44. Bùi Xuân Đức (2015), Sự phát triển nhận thức và vận dụng nguyên tắc về tổ

chức quyền lực nhà nước ở nước ta từ năm 1986 đến nay, Thông tin khoa học

lập pháp,Viện Nghiên cứu lập pháp - Uỷ ban thường vụ Quốc hội, số 1 (19).

45. Trần Ngọc Đường (2007), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam trong thời kỳ đổi mới Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội.

46. Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công phối hợp và kiểm soát

quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người quyền công dân trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

48. Trần Ngọc Đường (2012), Phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc

s a đổi hiến pháp năm 1992 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Trần Ngọc Đường, Bùi Ngọc Sơn (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về

việc xây dựng và ban hành hiến pháp Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

Page 157: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

157

50. Trần Ngọc Đường (2015), Báo cáo tổng thuật kết quả nghiên cứu Đề tài:

“Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước

trong việc thực hiện các quyền lập pháp hành pháp tư pháp ở nước ta”,

Văn phòng Quốc hội (đã nghiệm thu chính thức).

51. Võ Trí Hảo (2012), “Tài phán Hiến pháp – Nh ng vấn đề phổ biến đặc thù

quốc gia và mô hình thích hợp cho Việt Nam” trong sách do Nguyễn Đăng

Dung (chủ biên), Những vấn đề về Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, Nxb

Dân trí, Hà Nội.

52. Vũ Ngọc Hoàng (2016), Ba mươi năm đổi mới: Nhìn lại và suy ngẫm.

http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/281910/ong-vu-ngoc-hoang-ban-ve-

kiem-soat-quyen-luc.html, 01/01/2016 01:00 GMT+7.

53. Trương Thị H ng Hà (2007), Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức

năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia H Chí Minh, Hà Nội.

54. Trương Thị H ng Hà (2015), Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân

trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt

Nam hiện nay, Thông tin khoa học lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp

thuộc Uỷ ban thường vụ Quốc hội, số 1, tr.24–26.

55. Hà Thị Mai Hiên (2003), Cơ chế kiểm tra giám sát trong Nhà nước pháp

quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

56. Nguyễn Văn Hiển (2013), Thực tiễn thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở

xã phường th trấn năm 2007, Dự án Điều tra cơ bản thuộc Bộ Tư pháp,

Hà Nội.

57. Hoàng Minh Hiếu (2015), Quốc hội trong cơ chế phân công, phối hợp và

kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Thông tin khoa học lập

pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Uỷ ban thường vụ Quốc hội, số 1.

58. Tô Văn Hòa (2012), Nghiên cứu so sánh hiến pháp các quốc gia ASEAN

Page 158: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

158

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Lê Thị Thiều Hoa (2012), Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện quyền của

công dân trong Hiến pháp 1992 (s a đổi 2001) về tham gia quản lý Nhà

nước, Đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

60. Lê Thị Thiều Hoa (2014), Pháp luật về giám sát xã hội và phản biện xã hội

tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Đề tài NCKH cấp Bộ,

Bộ Tư pháp, Hà Nội.

61. Lê Văn Hoè và Lê Việt Nga (2014), Luật hoá việc kiểm soát quyền lực nhà

nước của nhân dân theo Hiến pháp 2013, trong sách: Hiến pháp nước Cộng

hoà XHCN Việt Nam – nền tảng chính trị, pháp lý cho công cuộc đổi mới

toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.

62. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2007), Hệ thống chính tr Anh Mỹ Pháp

(Mô hình tổ chức và hoạt động) Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

63. Nguyễn Thị Việt Hương (2012), Mối quan hệ gi a Nhà nước với Đảng

Cộng sản trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020,

Báo cáo tổng hợp Đề tài nghiên cứu CT11-16-03, Viện Nhà nước và Pháp

luật, Viện hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.

64. J. Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền Nxb Tri thức, Hà Nội.

65. J.S. Mill (2006), Bàn về tự do Nxb Tri thức, Hà Nội.

66. Đỗ Minh Khôi (2014) (Chủ biên), Chế đ nh nguyên thủ quốc gia trong các

hiến pháp Việt Nam Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

67. Nguyễn Duy Lãm (1996), Sổ tay thuật ng pháp lý thông dụng, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

68. Hoàng Thế Liên (2015), (Chủ biên), Hiến pháp năm 2013 nh ng điểm mới

mang tính đột phá Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

69. Lê Hải Long (2015), Hoàn thiện tổ chức chính quyền đ a phương Việt Nam

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, Báo cáo khoa học Đề tài

Page 159: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

159

cấp bộ, Viện Nghiên cứu lập pháp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

70. Uông Chu Lưu (chủ biên) (2014), Nh ng vấn đề lý luận và thực tiễn s a

đổi bổ sung Hiến pháp năm 1992 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Nguyễn Văn Mạnh, Tào Thị Quyên (2010), Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam -

Lý luận và thực tiễn Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

72. Dương Thị Thanh Mai (2011), Thể chế xã hội trong phát triển xã hội và quản

lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay Đề tài cấp nhà nước, KX.02-07/06-

10, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.

73. Dương Thanh Mai (2015), Chính phủ trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà

nước, Thông tin Khoa học lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Uỷ

ban thường vụ Quốc hội, số 1.

74. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

75. Nguyễn Đức Minh (2014), Nh ng nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992 về

chính quyền đ a phương và đ nh hướng triển khai trong sách: Hiến pháp

nước Cộng hoà XHCN Việt Nam - nền tảng chính trị pháp lý cho công cuộc

đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

76. Montesquieu (2005), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội

77. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò của MTTQ Việt Nam đối với việc

thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay Nxb Lý luận

chính trị, Hà Nội.

78. Nguyễn Như Phát (chủ biên) (2011), Tài phán Hiến pháp: Một số vấn đề lý

luận cơ bản kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

79. Nguyễn Thị Hoài Phương (2014), Hiến pháp năm 2013 và việc hoàn thiện

cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, Đặc san Hiến pháp nước

Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013 – Bước tiến mới trong lịch sử lập

Page 160: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

160

hiến Việt Nam, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

80. Nguyễn Thị Hoài Phương (2014), Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực

nhà nước của nhân dân trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nghề Luật, Học

viện Tư pháp, số 1.

81. Nguyễn Huy Phượng (2012), Giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ

quan tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

82. Phạm H ng Quang (2014), Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành

chính nhà nước – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài Nghiên cứu

khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

83. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm

2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Quốc hội, www.thuvienphapluat.vn

85. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Toà án nhân dân, www.thuvienphapluat.vn

86. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, www.thuvienphapluat.vn

87. Quốc hội (2015), Luật tổ chức Chính phủ, www.thuvienphapluat.vn

88. Quốc hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương, www.thuvienphapluat.vn

89. Quốc hội (2015), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật,

www.thuvienphapluat.vn

90. Quốc hội (2015), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, www.thuvienphapluat.vn

91. Tô Huy Rứa (2005), Mô hình tổ chức và hoạt động tổ chức của hệ thống

chính tr ở một số nước trên thế giới, Báo cáo tổng quát đề tài KX.10-

10,chương trình KX.10, Hà Nội.

92. Đặng Đình Tân (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân c Việt Nam

trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Phạm H ng Thái (2012), Kiểm soát gi a các cơ quan nhà nước trong thực

hiện các quyền lập pháp hành pháp và tư pháp, Tạp chí Khoa

Page 161: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

161

học ĐHQGHN: Luật học, (28).

94. Phạm H ng Thái (2014), Làm rõ những quy định của Hiến pháp về vị trí,

vai trò pháp lý của Chính phủ, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam

- nền tảng chính tr pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong

thời kỳ mới, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

95. Bùi Ngọc Thanh (2014), Chế định về Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013,

Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam - nền tảng chính tr pháp lý cho

công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, Nxb Lao động xã

hội, Hà Nội.

96. Nguyễn Hoàng Thanh (2014), Hiến pháp năm 2013 và sự kế thừa tư tưởng

H Chí Minh về tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp nước Cộng

hoà XHCN Việt Nam - nền tảng chính tr pháp lý cho công cuộc đổi mới

toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

97. Đinh Xuân Thảo (2013), “Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trong dự

thảo s a đổi Hiến pháp 1992”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 1+2.

98. Đinh Xuân Thảo (2014), Quốc hội trong Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN

Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam - nền tảng chính tr

pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, Nxb

Lao động xã hội, Hà Nội.

99. Trịnh Đức Thảo (2006), "Kiện toàn bộ máy Quốc hội" Quốc hội Việt Nam

nh ng vấn đề lý luận và thực tiễn Nxb Tư pháp, Hà Nội.

100. Thái Vĩnh Thắng (2009), "Quyền tiếp cận thông tin - Điều kiện thực hiện các

quyền con người và quyền công dân", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (154).

101. Thái Vĩnh Thắng (2010), Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại- Lý luận

và thực tiễn, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

102. Thái Vĩnh Thắng (2011), Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước Sách

chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

Page 162: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

162

103. Thái Vĩnh Thắng (2011) , Bộ Tư pháp, Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc

hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng Luật tiếp cận

thông tin, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

104. Thái Vĩnh Thắng (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ

chức và hoạt động của hội đồng nhân dân đ a phương (Góp phần s a đổi

chế đ nh hội đồng nhân dân trong hiến pháp 1992), Đề tài Nghiên cứu

khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

105. Thái Vĩnh Thắng (2014), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới chế độ bầu c ở

Việt Nam hiện nay, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

106. Thái Vĩnh Thắng (2014), Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và việc đổi mới

chế độ bầu c nhằm hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện ở Việt Nam hiện

nay, Đặc san Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (2013) – Bước tiến mới

trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật

Hà Nội.

107. H Bá Thâm, Tôn Thị Tường Vân (2010), Phản biện xã hội và phát huy dân

chủ pháp quyền Sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

108. Lê Minh Thông (Chủ biên) (2007), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động

của hệ thống chính tr trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109. Trần Đăng Tuấn (2006), Phản biện xã hội, Nxb Đà Nẵng.

110. Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006.

111. Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001.

112. Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, 2013.

113. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đ ng chủ biên) (2003), Giám sát và cơ chế

giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

114. Đào Trí Úc (2003), “Quan niệm về giám sát thực hiện quyền lực nhà nước

Page 163: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

163

và các cơ chế thực hiện giám sát”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6).

115. Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (Đ ng chủ biên) (2009), Xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn

đề lý luận và thực tiễn, Sách chuyên khảo, Nxb Sự thật, Hà Nội.

116. Đào Trí Úc (2010), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của

bộ máy Đảng và nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

117. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2007), Công tác kiểm tra giám sát và thi

hành kỷ luật trong Đảng, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

118. Văn phòng Quốc hội, Trung tâm Thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa

học (2009), Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên thế giới Nxb Thống

kê, Hà Nội.

119. Văn phòng Quốc hội, Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946 – 1960), Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

120. Nguyễn Thị Thu Vân (2008), Kiểm soát của Trung ương đối với chính

quyền địa phương ở một số nước trên thế giới, Tạp chí Tổ chức nhà nước.

121. Viện Chính sách công và pháp luật (2013) (Institute of Policy and Law),

Các thiết chế hiến đ nh độc lập - Kinh nghiệm quốc tế và triển vọng ở Việt

Nam, Sách chuyên khảo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

122. Viện Nhà nước và Pháp luật (2015), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Nh ng

vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách về Nhà nước và Pháp luật trước thềm

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Hà Nội, T7/2015.

123. Viện Nghiên cứu lập pháp (2015), Thông tin Khoa học lập pháp, số 1 (19).

124. Viện Nghiên cứu lập pháp-Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (2015), Hiến pháp

nước Cộng hoà XHCN Việt Nam – nền tảng chính tr pháp lý cho công

cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, NXB Lao động Xã hội,

Hà Nội.

Page 164: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

164

125. Viện Nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật

của một số nước về tiếp cận thông tin, Sách tham khảo, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

126. Võ Khánh Vinh (2003), “Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước”,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật (6).

127. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Quyền con người – Giáo trình giảng dạy sau

Đại học, Nxb Khoa học xã hội, H.2011.

128. W.Merkel - C.E.A. Petring - C. Henkes (2011), Các đảng dân chủ xã hội

châu âu - cải cách và thách thức Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

129. Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

* Tài liệu tiếng Anh

130. Black’ Law Dictionary (1966), West Publishing.

131. Charles Howard McWain (1947), Constitutionalism: ancient and morden,

Cornell University Press, New York.

132. David Beetham (2006), Parliament and Democracy in The twenty-first

Century A Guide To Good Practice, Inter-Parliamentary Union.

133. Dahl, Robert A (1981), Democracy and Critics, St. Martin's Press, New

York, p.8.

134. Francis D.Wormuth (1949), The origins of modern constitutionalism, by

Harper&Brothers.

135. F. Mosntein Marx (1946), The social function of public adminisstration,

University of Pennsyvania.

136. H.A. Simon (1945), A study o Dicision - Making process in administration

organization, Cornell University Press, New York.

137. Harris, Fred R (1987), Readings on the Body Politic, Scott, Foresman and

Page 165: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

165

Company, by Princeton, New Jersey

138. "How our laws are made", http://www.thomas.lov.org.

139. Jane S.ley, "Ethical criteria and honesty of American government", http://

usinfo.State.gov/Journals/itolhr/o800/ijdelley.htm.

140. John Dewey (1939), Theory of Valuation, New Jersey Libary of Congress

Catalog No 63, p.156.

141. Kriegel, Blandine (1998), The state and the rule of law, Cambridge

University Press.

142. Linda S. Whitton (2003), Crossing state lines with durable power, Vol II,

George Washington University.

143. Mann M (1985), The sources of social power, by Harper&Brothers.

144. McIntyr (2005), Power of Institutions, Journal of Law and Commerce, Vol 25.

145. Patrick Gunning (2007), Understanding democacy- An introduction to

Public choice, Volume 47 Issue 1, pp. 1-45.

146. Richard A. Myren, Law and Justive an Introduction, by Princeton,

NewJersey.

147. Robert S. Backer, "The government’s responsibility and limitations",

http:// usinfo.State.gov/Journals/itolhr/o800/ijdelley.htm.

148. Robert Schuchl, "The responsibility of the government and the outside

supervising offices", http:// usinfo.State.gov/Journals/itolhr/o800/ ijdelley.htm.

149. Roderick Bell, David V. Edwards, R. Harison Wagner (2000), Political

power-reader in theory and research, Cornell University Press, New York.

150. Robert A.Dahl (1989), A preface to Democratic Theory, Department of State,

vol 5, No 1, August, pp 21-27.

151. R B Vermeesch, K E Lindgren (2001), Business Law of Australia,

Butterworth, Australia.

152. Robert E. Ward and Roy C. Macridis (1998), Modern Political Systems

Page 166: TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU · 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình

166

Europe. Prentic, Hall, Inc Englewood Cliffs, New Jersey Libary of

Congress Catalog No 63. 11095, p.156.

153. Rod Hague, Martin Harrop and Shaun Breslin (1993), Political Science - A

comparative Introduction, St. Martin's Press, New York, p.8.

154. Rose-Ackerman Susan; Elgar Edward (2005), “Decentralization

Corruption and Government Accoutability: an Overview"for Handbook of

Economic Corruption”.

155. Sargent M (2001), Power and the maintennace, by Princeton, New Jersey.

156. Stapenhurst Rick, Kpundeh Sahr (2009), Curbing corruption: Toward a

model for building national integrity, University of Pennsyvania.

157. Stehen Vago (1981), Law and Society, Princeton University Press.

158. Sodaro, Michael J (2000), Comparative Politics - A global introduction,

Vol II, George Washington University.

159. Stewart Macaulay, “Law and the Behavioral Sciences: Is There Any There

There?” 6 Law and Policy 249 (1984).

* Tài liệu tiếng Pháp

160. Noveau code de procedure civile (1989), Dalloz.

161. Rene devid et camille Jauffret Spinosi (1992), Les grands systemes de

droit contemporains, Edition dalloz.

____________________