tÂm lÝ hỌc nhÂn cÁch - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/26.tamlyhocnhancach.docx · web...
TRANSCRIPT
TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCHMỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
Tác giả: NGUYỄN NGỌC BÍCH
LỜI NÓI ĐẦU
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta, Đảng và Nhà nước rất quan
tâm vấn đề con người, đặc biệt nhân cách con người. Muốn công nghiệp hóa
và hiện đại hóa đất nước ta thành công thì phải có con người đạo đức và con
người trí tuệ. Đó chính là nhân cách.
Nhân cách có nhiều khoa học nghiên cứu: Triết học, xã hội học, văn
học, nghệ thuật, kinh tế học, tâm lý học, y học... Ở đây trên quan điểm tâm lý
học, chúng tôi đề cập tới những vấn đề lý luận nhân cách.
Do nhu cầu đào tạo học viên cao học tâm lý học và sinh viên học tâm lý
học, chúng tôi mạnh dạn biên soạn cuốn sách mang tính giáo trình này nhằm
phục vụ các đối tượng trên. Sách còn có ý đồ phục vụ cho những ai yêu mến
tâm lý học và có nhu cầu sử dụng nó vào công tác thực tiễn của mình.
Nội dung cuốn sách này có 6 chương.
Chương I đề cập tới những tư tưởng phương Đông cổ đại về nhân
cách. Những tư tưởng ở đây chủ yếu là tư tưởng Trung Hoa cổ đại trong các
học thuyết kinh dịch, học thuyết Khổng Mạnh v.v... về đạo đức nhân cách.
Chương II đề cập đến tâm lí học phương Tây về nhân cách. Ở đây,
chúng tôi không có điều kiện đề cập đến tất cả các trường phái hiện nay có
quan hệ về nhân cách. Chúng tôi chỉ đề cập tới các trường phái chính và một
ít những quan điểm nhân cách nổi bật hiện nay. Ví dụ như sự thống hợp nhân
cách của Vitkin; nhân cách hướng nội, hướng ngoại của Eysench; các kiểu
nhân cách của Rorschach; Thuyết hiện sinh, thuyết tương tác nhận thức của
Piaget; quan niệm nhân cách theo xu hướng Mác xít của Lucien Seve.
Chương III, đề cập tới xu hướng nghiên cứu nhân cách ở Liên Xô (cũ).
Chúng tôi không nêu lên tất cả các xu hướng nghiên cứu nhân cách ở Liên
Xô, mà chỉ nêu lên các xu hướng lớn mang tính cách đặc trưng của các tác
giả có tên tuổi ở Liên Xô (cũ).
Chương IV, đề cập tới một số vấn đề về tư tưởng của Mác, Lênin, Hồ
Chí Minh về nhân cách - đây cũng là cơ sở phương pháp luận để xây dựng
khoa học này.
Chương V, khái niệm và cấu trúc nhân cách và một số thuộc tính nhân
cách.
Chương này phân loại một số quan niệm về nhân cách, cũng như các
loại cấu trúc nhân cách, trên cơ sở đó xây dựng mô hình nhân cách phù hợp.
Đặc biệt trong chương này có đề cập tới một số thuộc tính nhân cách như giá
trị và năng lực trong nhân cách. Chúng tôi không có ý định nêu tất cả các
thuộc tính nhân cách, chỉ đề cập tới vấn đề Tài (năng lực). Đây cũng là vấn
đề còn ít được bàn đến. Đất nước ta đang cần những người có đức có tài để
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, vấn đề
Tài (năng lực) cần phải được quan tâm thích đáng trong tâm lý học nhân
cách.
Chương VI, bàn về nhân cách trong tâm lý học xã hội.
Cá nhân trở thành nhân cách khi cá nhân đó hoạt động trong mối quan
hệ xã hội, trong nhóm xã hội nhất định. Vì vậy, nhân cách cũng được tâm lý
học xã hội coi là đối tượng nghiên cứu của mình. Theo đó, tâm lý học xã hội
nên quan tâm đến vị trí và vai trò của cá nhân trong xã hội. Đó chính là những
vấn đề nhân cách trong tâm lý học xã hội.
Cuối cùng là những lời tâm đắc của cổ nhân đối với người đời - Âu đó
cũng là thay lời kết luận của cuốn sách này.
Tập sách này cũng còn nhiều vấn đề để bàn luận, xin được những ý
kiến đóng góp chân thành để có thể hoàn thiện hơn trong những năm đến.
Nguyễn Ngọc Bích
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NHÂN CÁCH THEO QUAN NIỆM PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
I - CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA NHÂN CÁCH PHƯƠNG ĐÔNG
1. Sự khác biệt giữa triết học phương Đông và phương Tây
Do hai nguồn văn hóa khác nhau nên triết học phương Đông khác biệt
triết học phương Tây.
- Xét về thế giới quan:
Phương Tây cho rằng người và trời khác biệt lẫn nhau.
Phương Đông cho rằng có sự hợp nhất giữa trời và người.
+ Lão Tử cho rằng: "Người phỏng theo đất, đất phỏng theo trời, trời
phỏng theo đạo, đạo phỏng theo tự nhiên".
Như vậy trời - đất - người thông nhau bằng một đạo.
+ Khổng Tử cho rằng người và trời thống nhất với nhau.
+ Triết học Trung Quốc lấy nhân sinh làm hạt nhân, triết học phương
Tây dựa vào siêu hình học và nhận thức luận.
Khổng Tử nói: "Chưa biết sự sống làm sao biết được cái chết".
Triết học Trung Quốc coi trọng "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
Xây dựng giá trị đạt được "Thành đức, thành nhân, thành phật, thành
thánh".
- Về tinh thần của triết học:
Trung Quốc lấy đạo đức làm tinh thần, lấy chân thực bên trong làm mục
đích, lấy nghệ thuật làm tinh thần, lấy việc theo đuổi trạng thái làm cảm hứng.
Trung Quốc coi trọng chủ thể đạo đức chứ không coi trọng chủ thể lí
tính. Từ đó xem xét nghệ thuật mang màu sắc lãng mạn, chuyển tính và tâm
vào vật - giữa người và vật không còn khác biết nhiều nữa mà vật đã thấm
đượm tâm người.
Nếu như phương Đông người là động vật đạo đức thì phương Tây
người là động vật duy lí.
- Phương pháp triết học:
+ Triết học Trung Quốc lấy trực giác trực quan, thể nghiệm làm phương
pháp luận.
+ Triết học phương Tây lấy phân tích logic trừu tượng và diễn dịch suy
lý làm phương pháp luận.
2. Những tư tưởng triết học phương Đông
2.1. Tư tưởng nhất nguyên lưỡng cực động
Quan niệm cơ bản của nguyên lý nhất nguyên lưỡng cực động là "đạo
học": Hai mà một, một mà hai.
Đó là "tư tưởng động" luôn luôn biến đổi từ cực này sang cực khác
(không thể nói ra được, không thể dùng một từ nào để định được).
Người phương Tây trắng ra trắng, đen ra đen.
Người phương Đông không xác định rõ ràng cái nào tốt cái nào là xấu
hẳn: không chịu sự phân tích, không hệ thống hóa, không duy tâm, không duy
vật, duy linh duy thực.
a) Thể hiện cách hành văn và lập luận của phương Đông
Cách diễn đạt của người phương Đông mập mờ, hư hư, thực thực
thiếu sự rõ ràng dứt khoát.
Khổng Tử trong khi giảng giải đạo lý cho học trò cũng tùy theo từng học
trò từng lúc mà có cách giải thích khác nhau, uyển chuyển vô cùng. Đó là
những tư tưởng siêu hình của Phật và Lão. Chính Khổng Tử cũng nhận xét
Lão Tử như con rồng. Có nghĩa là uyển chuyển vô cùng. Tư tưởng của Lão
Tử không thể định nghĩa một chiều.
- Người phương Đông: "Ý tại ngôn ngoại" (ý ngoài lời), "thư bất tận
ngôn" (sách không nói hết lời).
- Hay dùng phương pháp tượng trưng, ngụ ngôn; Thể hiện các nét vẽ
trong dịch học vào thi, nhạc, họa.
b) Đồng thanh tương ứng
Theo người phương Đông sự hiểu biết do người khác đưa đến là sự
hiểu biết không thật - Đọc một cuốn sách, một bài thơ không phải dễ hiểu
cuốn sách hoặc bài thơ đó, nó gợi lên những ý tưởng đã ấp ủ từ lâu trong
lòng. Tức là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Một câu nói có
người không hiểu gì cả, có người hiểu nhiều vấn đề, có sự rung chuyển lạ
thường.
- Người đệ tử đến tìm thầy để học thì phải biết chờ đợi, nhẫn nại. Mình
đợi thầy và thầy cũng đợi mình. Thầy đợi trò đến lúc trò rất cần và đủ độ nhẫn
nại mới dạy. Sách phương Đông không giải thích rõ ràng. Họ chỉ khêu gợi
chứ không truyền bá tư tưởng.
c) Ba giai đoạn trong lịch trình diễn biến của tâm thức theo triết học phương
Đông
- Giai đoạn 1: chưa có ta. Giai đoạn nhất nguyên.
Sống theo thiên tính, ngoại cảnh, lẫn lộn giữa lý và tình, giữa nội tâm và
ngoại giới. Sống vô tâm, bắt chước người xung quanh. Đây là thời kỳ của dân
tộc bán khai, thần thoại ấu trĩ, giai đoạn trẻ thơ.
- Giai đoạn 2: Sự trưởng thành của cái ta. Giai đoạn nhị nguyên.
Cá tính con người dần dần xuất hiện. Tính bắt chước giảm đần. Phân
biệt rạch ròi thiện ác, trắng đen, vinh nhục. Có tâm hồn độc đáo, sáng kiến và
phê bình sâu sắc. Óc khoa học đóng vai trò quan trọng như phương Tây ngày
nay.
- Giai đoạn 3: Siêu thoát nhị nguyên.
Giai đoạn này không cần đến lý trí nữa, cảm thấy mình không còn cách
biệt với vũ trụ, hợp nhất các mâu thuẫn. Đó là giai đoạn thoát cái tiểu ngã để
nhập vào cái toàn thể.
Câu chuyện vườn Eden cho ta biết về diễn biến của tâm thức
Lúc ban đầu loài người sống chung với loài vật và thiên nhiên. ADAM
và EVA sống trần truồng không phân biệt giới tính. Hai người tượng trưng
cho âm - dương.
Nhưng EVA ném trái thiện ác rồi đem cho AĐAM ăn. Từ khi ăn trái
thiện ác hai người biết xấu hổ và lấy lá che, Chúa trời quở mắng. Những
muốn trở về trời thì phải trở về tâm vô sai biệt của ban đầu.
2.2. Tư tưởng tam nguyên
Tư tưởng này thể hiện rõ trong thái cực đồ.
a) Thái cực đồ
- Phần âm màu đen
- Phần dương màu trắng. Bao trong một cái vòng tròn. Cái đó gọi là
đạo. Đây là nguyên lý chỉ huy và điều hòa hai lực lượng mâu thuẫn kia.
+ Phần dương không hoàn toàn là dương, phần âm không hoàn toàn là
âm. Có điểm nhỏ dương trong âm và điểm âm trong dương. Nó là mầm mống
mạnh mẽ. Nó là hạt giống, có tiềm lực phi thường. Nó là nguyên nhân mâu
thuẫn nội tại. Không có một vật nào trên đời mà thuần tốt hoặc thuần xấu,
thuần hại hoặc thuần lợi. Đó là do mâu thuẫn nội tại.
+ Được gọi là âm khi âm lấn phần dương, gọi là dương khi nào dương
lấn âm. Nếu sự lấn át lên cực độ thì liền biến tức khắc. Đó là luật "phản
phục".
+ Âm dương vừa mâu thuẫn vừa tương đồng; không cái nào phụ thuộc
cái nào.
+ Nguyên lý tối cao hợp nhất gọi là đạo điều hòa và chi phối hai lực
lượng kia, làm cho âm dương không rời nhau.
Con người là một "tiểu kiền khôn" (tức là từng đốt nhỏ). Thực thể con
người là sản vật của nguyên lý âm dương. Nhờ cáo đạo mà thấy rõ nguyên lý
tích cực và tiêu cực vừa mâu thuẫn vừa đồng đẳng về giá trị; luôn luôn có luật
quân bình trong mọi vật; luật quân bình ấy là đạo hay gọi là thường đạo, trung
đạo hay trung dung.
b) Các cặp mâu thuẫn
- Mâu thuẫn nhưng nương tựa nhau: Mâu thuẫn nhưng nương tựa
nhau để tồn tại. Sáng nương tối mà có, thiện nương ác mà có.
- Mâu thuẫn nào cũng chứa đựng lẫn nhau. Trong âm có dương, trong
dương có âm.
- Chuyển hóa lẫn nhau: Cái này biến thành cái kia, âm biến thành
dương và dương biến thành âm.
- Quan hệ ngang nhau: Không cái nào hơn cái nào, không cái nào trọng
hơn cái nào.
- Các cặp mâu thuẫn bị cái thứ ba khống chế làm cho nó không tách rời
nhau mà thống nhất với nhau (tam nguyên).
- Sự tác động hai chiều là nguyên nhân của mọi sinh hóa.
Hai yếu tố mâu thuẫn đùn đẩy nhau tác động lẫn nhau tạo nên sự biến hóa.
+ Tối cũng cần mà sáng cũng cần.
+ Nắng cũng cần mà mưa cũng cần.
+ Mạnh cũng cần mà yếu cũng cần.
+ Tội ác, cái xấu cũng cần để cho người ta thấy cái tốt.
- Chân lý không thể chứng minh, chỉ có thể khêu gợi mà thôi. "Nói là
không biết, biết thì không nói".
Điều này đã ăn sâu vào lối sống của người phương Đông.
Họ sống kín đáo, tế nhị, khêu gợi, thi vị.
Uống trà thành "trà đạo", chơi hoa biến thành "hoa đạo".
Những cơ sở triết học này đã chi phối tâm lý người phương Đông. Vì
vậy, việc nghiên cứu tâm lý người phương Đông phải chú ý đến những quan
niệm triết học cổ xưa của người phương Đông đã ảnh hưởng đến ngày nay
như thế nào để chúng ta có quan điểm đúng đắn trong việc nghiên cứu tâm lý
người phương Đông ngày nay, đặc biệt là tâm lý người Việt Nam.
II – CÁC TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG VỀ NHÂN CÁCH
1. Thiên địa nhân hợp nhất
“Thiên - địa - nhân” hợp nhất là trời, đất, người hợp thành một. Về cơ
bản con người mang những thuộc tính của vũ trụ.
Về một sinh học, năng lượng vũ trụ của trời đi xuyên qua luân xa 7
(bách hội) rồi xuống tủy sống, còn năng lượng của đất qua luân xa 1 lên phía
trên, theo đường tủy sống.
Theo triết học phương Đông trời được xem là dương và đất là âm. Nhờ
có năng lượng âm dương của trời đất mà con người có năng lượng để tồn tại
duy trì cuộc sống. Như vậy, có sự giao hòa giữa năng lượng của Trời - Người
và Đất, thể hiện nguyên lý thiên địa nhân hợp nhất.
Trong đời sống xã hội người ta luôn nói: thiên thời, địa lợi nhân hòa để
nói lên sự hợp nhất của ba yếu tố trời đất và con người.
Về trời ảnh hưởng đến con người và xã hội loài người được thấy một
cách rõ ràng. Trời có các hành tinh, mặt trời, mặt trăng, nhiều ngôi sao, đặc
biệt 5 ngôi sao: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ có ảnh hưởng rất lớn đối với tâm lý
con người. Chính mặt trời, mặt trăng, các hành tinh đã có ảnh hưởng đến thời
tiết, nhiệt độ, tâm lý con người.
Về đất, người ta hay nói đến địa linh. Đó là những vùng đất ảnh hưởng
một phần đến bệnh tật, sức khỏe, trí tuệ, tình cảm, tính cách, năng lực của
con người và cộng đồng người. Ở Việt Nam một số người cho rằng những
vùng như chùa Hương, Tam Đảo; Núi Tản Viên, Côn Sơn, Ngũ Hành Sơn,
núi Yên Tử, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây... là những địa linh.
Tồn tại trong không gian và thời gian có lưỡng nghi gọi là âm và dương.
Âm đương giao hoà nhau, biến hóa không cùng trong vũ trụ. Từ đó sinh ra
vạn vật.
Âm dương đóng vai trò xoay chuyển không bao giờ ngừng.
Chúng cùng tồn tại, nhưng độc lập với nhau, tương phản nhưng hòa
đồng, hòa nhập vào nhau, mâu thuẫn nhưng không triệt tiêu nhau để sinh hóa
vô cùng.
Âm - dương dùng để biểu hiện trong thế giới hữu hình lẫn thế giới vô
hình (tư duy, tâm linh, tâm hồn), chúng có trong vạn vật dù có nhìn thấy hay
không nhìn thấy.
Triết học phương Đông cho trời là dương và đất là âm, đàn ông là
dương, đàn bà là âm. Đối với đàn ông mặt trước là âm mặt sau là dương và
đàn bà thì ngược lại. Trong cơ thể con người nơi nào cao là dương, nơi nào
thấp là âm. Trên dương dưới âm, thịt âm, xương dương.
Âm dương còn thể hiện trong môi trường. Cái gì nhẹ, lỏng, mềm, nhiều
nước là âm và trái lại là dương. Những lực hướng tâm đi xuống là dương,
những lực nhẹ bốc lên, thoát ra, mở rộng là âm.
Tất cả mọi vật đều có âm có dương. Không có vật nào tuyệt đối dương
hoặc tuyệt đối âm. Quả đất so với mặt trời là âm, nhưng so với trăng lại là
dương.
Những vật có hình thể theo phương thẳng đứng, lực li tâm chiếm ưu
thế đều là âm, các hình có phương nằm ngang, lực hướng tâm có ưu thế là
dương.
Màu nào cho ta cảm giác nóng, ấm áp hơn là dương, mát lạnh là âm.
Mùi vị cũng có âm dương. Ví dụ: vị chua là cực âm, vị cay là cực dương.
Âm dương không những là hai mặt đối lập nhưng dựa vào nhau và
phân loại theo một quy luật nhất định. Vạn vật và con người không có cái gì là
không có âm dương. Âm dương vừa dựa vào nhau vừa lợi dụng lẫn nhau.
Không có âm thì không có dương. Âm dương ở thế cân bằng động, cái này
giảm thì cái kia tăng; hết ngày lại đêm, hết nóng lại lạnh, âm dương chuyển
hóa cho nhau. Âm tiến đến cùng cực sinh dương, dương tiến đến cùng cực
sinh âm.
Con người không chỉ bị chi phối của quy luật âm dương mà còn bị chi
phối của quy luật ngũ hành.
Học thuyết cổ đại phương Đông cho rằng thế giới là do năm loại vật
chất cơ bản nhất tạo thành: mộc, thổ, hỏa kim, thủy. Sự phát triển về biến hóa
của các sự vật và hiện tượng (trong đó có con người) trong tự nhiên đều là
kết quả 5 loại vật chất khác nhau vận động và tác động lẫn nhau. Học thuyết
ngũ hành được dùng rộng rãi trong các lĩnh vực của khoa học và đời sống.
Đặc tính của ngũ hành:
Mộc có đặc tính mọc lên và phát triển.
Hỏa có đặc tính nóng, hướng lên trên.
Thổ có đặc tính nuôi lớn, phát dục.
Kim có đặc tính thanh tĩnh, thu sát.
Thủy có đặc tính lạnh lẽo, lắng xuống dưới.
Sự phối hợp giữa âm dương và ngũ hành tạo ra đặc tính riêng:
- Dương mộc là cây của đại ngàn, cứng rắn làm trụ cột.
- Âm mộc là cây cỏ; có vẻ đẹp kiều diễm, tính yếu mềm.
- Dương hỏa là hỏa của mặt trời, chiếu sáng muôn nơi, vạn vật, tính
mãnh liệt.
- Âm hỏa là lửa của nến, chiếu sáng trong nhà, tính mềm yếu, có đức
hy sinh vì người.
- Dương thổ là đất trên thành, cứng, hướng dương, dưỡng dục cho vạn
vật có đặc tính là cao thượng.
- Âm thổ là đất của ruộng vườn, có chức năng nuôi dưỡng cây cối và
ngăn nước, mềm mại và ẩm ướt, ở thấp, hướng về âm, đưa lại hạnh phúc
cho mọi người.
- Dương kim là kim loại của mũi kiếm, tính cứng khỏe, sát phạt, có đặc
tính cương trực.
- Âm kim là ngọc quý dùng để trang trí, sáng trong, ấm, có đặc tính là
nhu nhược.
- Dương thủy là nước của sông, hồ, biển chảy khắp nơi không ngừng,
tính mạnh mẽ, thông suốt.
- Âm thủy là nước mưa có khả năng biến thành khí, yên tĩnh, mềm yếu
có khả năng nuôi nấng vạn vật.
Con người là tiểu vũ trụ, là một sinh vật - vô cùng phức tạp vừa đối lập
vừa thống nhất. Con người chứa trong nó nhiều thông tin tự có và thu nhận từ
bên ngoài. Và đồng thời có khả năng thu nhận thông tin và phát thông tin.
Chức năng này chịu ảnh hưởng của âm dương ngũ hành. Giữa người và vũ
trụ có sự cảm ứng qua lại. Đó là quan hệ giữa khí âm dương ngũ hành của
trời đất tương sinh tương khắc, tương chế, tương hóa với con người.
Âm dương ngũ hành là loại vật chất vô cùng tinh vi chúng ta chưa thể
biết về nó. Người xưa muốn biết tác dụng của âm dương ngũ hành đã dùng
cách sắp xếp thiên can địa chí của giờ, ngày, tháng, năm sinh của con người
- Nó là thứ giao biến của đời người, chứa chất nhiều kịch tính phong phú,
mang tính chất dự báo cho tương lai con người và cộng đồng.
Âm dương cũng thể hiện trong tâm lý con người.
Người ta chia ra 3 loại người: loại người âm, loại người dương và trung
tính. Người âm tạng thì các đặc điểm về âm trội hơn, người dương tạng thì
các đặc điểm về dương trội hơn. Có thể dựa vào vẻ mặt, hình dáng, giọng
nói, dáng điệu, cử chỉ và tính tình để chia ra các loại người đó.
Người ta nhận thấy người dương tạng dễ bị kích thích nhiệt tình sôi nổi.
Người âm tạng khí chất lãnh đạm, trầm tĩnh. Ngoài ra có loại người bình tạng,
loại người này cân bằng về mặt tâm lý. Đó là loại người tối ưu về thể tạng
cũng như tâm lý. Để nhận biết người dương và người âm thì căn cứ vào thể
tạng.
Người dương tạng thân hình to khỏe, da nóng, sắc mặt tươi tắn, giọng
nói to.
Người âm tạng thì ướt, mát, sắc mặt xanh, giọng nói nhỏ, tròng đen
mắt hướng lên cao.
Sở dĩ có người dương tạng hay âm tạng là do chịu ảnh hưởng của di
truyền bố mẹ và sự ăn uống hoàn cảnh sinh hoạt hàng ngày, khí hậu và cách
sống của từng người. Tính cách của con người cũng chịu ảnh hưởng của ngũ
hành. Mỗi hành có đặc điểm về tính cách khác nhau. Người ta dựa vào 4 tiêu
chí: giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh để biết ngũ hành của một
người.
Người mệnh kim ăn nói nghĩa khí, nếu kim vượng thì tính cách cương
trực.
Người mệnh hỏa thì lễ nghĩa, đối với mọi người nhã nhặn, lễ độ, hay
thích nói lý luận. Nhưng nếu hỏa nhiều, hỏa vượng thì nóng nảy, vội vã, dễ
hỏng việc.
Người mệnh thổ là người trọng chữ tín, nói là làm.
Nhưng thổ vượng thì hay trầm tĩnh, không năng động, để bỏ mất thời
cơ.
Người mệnh mộc hiền từ, lương thiện, độ lượng bao dung nhưng mộc
vượng thì tính cách bất khuất. Loại người này thích hợp với nghề nghiệp
quân sự và công an.
Người mệnh thủy thì khúc khuỷu, quanh co, nhưng thông suốt, như
nước chảy. Người mệnh thủy là người trí tuệ, thông minh ham học. Nếu thủy
vượng thì tính tình hung bạo, dễ gây ra tai họa.
Đặc tính của ngũ hành là tương sinh, tương khắc. Trong con người
cùng có năm chất khí đó nên cũng có tương sinh, tương khắc.
Tương sinh:
Kim sinh thủy
Thủy sinh mộc
Mộc sinh hỏa
Hỏa sinh thổ
Thổ sinh kim.
Tương khắc:
Kim khắc mộc
Thủy khắc hỏa
Mộc khắc thổ
Hỏa khắc kim
Thổ khắc thủy.
Nếu trong đời một người ngũ hành tương sinh nhiều sẽ tốt tương khắc
nhiều sẽ xấu. Đồng thời dựa vào số lượng hành trong 4 tiêu chí để biết được
tính tình và con đường đời của người đó.
Như vậy, để dự đoán được tâm lý con người và hoạt động của con
người sẽ diễn ra như thế nào cần phải xác định cho được thành phần các
hành trong mỗi người.
Ví dụ: Người sinh giờ mão, ngày 7 tháng 3 năm 1964 có thể đối ra can
chi: quí mão, đinh dậu, mậu thìn, giáp dần.
Từ đó đối ra âm dương ngũ hành:
Giờ - Quý Mão: âm thuỷ + mộc
Ngày - Đinh Dậu: âm hỏa + kim
Tháng - Mậu Thìn: dương thổ + thổ
Năm - Giáp Thìn: dương mộc + thổ.
Dựa vào tính chất tương sinh tương khắc của ngũ hành xem xét mà
biết sự tương hợp hay không tương hợp tâm lý của vợ chồng, những người
trong gia đình hay một nhóm xã hội hay không.
Cách biết một phần nhân cách con người của người phương Đông xưa
dựa vào âm dương ngũ hành là một tiêu chí cần được nghiên cứu nghiêm túc
để có thể vận dụng trong tâm lý học nhân cách.
2/ Người phương Đông không có triết học theo nghĩa thông thường mà chỉ có đạo học
Người phương Đông theo nhất nguyên luận - từ trước đến nay ta quen
cách nghĩ nhị nguyên. Nhị nguyên là phân chia các vật trong đời ra làm hai
phần biệt lập nhau, mâu thuẫn nhau để tiêu diệt lẫn nhau: Thiện – ác, tâm –
vật, tĩnh - động.
Theo tư tưởng phương Đông nhất nguyên luận quan niệm sự vật nào
cũng có 2 bề: bề mặt và bề trái. Hơn nữa cả hai là một không thể tách rời
nhau. Nho hay Lão đều quan niệm như vậy.
Tư tưởng phương Đông thiên về đạo học hơn triết học.
3/ Người phương Đông trọng phẩm hơn là lượng.
Văn minh lượng lấy tiến bộ làm lý tưởng. Đó là văn minh phương Tây
hiện đại.
- Người phương Đông lấy "Tận Thiện" làm lý tưởng.
Phương Tây tôn sùng tiến bộ, tôn sùng văn minh vật chất, không quan
tâm nhiều đến "phẩm". Do đó nhiều người đã than phiền rằng đạo lý ngày nay
suy đồi, nhân cách con người thoái hóa, không bằng ngày xưa.
Những công trình văn hóa, mỹ nghệ, thơ văn, mỗi ngày bị mai một đi
cùng với văn minh lượng, tôn sùng tiến bộ vật chất. Tại sao trong thời đại văn
minh mà thấy cái gì cũng sa sút.
Người xưa do khoa học kỹ thuật lạc hậu nên sống nghèo nhưng các giá
trị văn hóa, tinh thần, mỹ thuật, văn chương, lý luận, tôn giáo, đã đến tận
thiện, tận mỹ.
Ngày nay về mặt lượng thì thấy có tăng, nhưng phẩm thì sa sút.
4/ Nhân cách người phương Đông thích sự im lặng hơn là nói ra
Chân lý là vô cùng và vô cùng uyển chuyển nên nói ra không hết ý.
"Ý tại ngôn ngoại" ý ở ngoài lời nói.
Người phương Đông dùng tượng trưng qua chữ hình tượng trong kinh
dịch, trong nhạc, họa, ngụ ngôn...
5/ Các quy luật vũ trụ chi phối cá nhân và cộng đồng
a. Tử vi và Độn giáp có những quy luật sâu xa chi phối con đường phát triển
của cá nhân.
- Tử vi cho ta biết con đường phát triển bên trong của từng con người.
- Độn giáp cho biết con đường phát triển bên ngoài của các cá nhân.
Đây là loại quy luật mang tính khả năng, trong quan hệ bổ sung, ngẫu
nhiêu và tất yếu; mang tính chủ quan và khách quan. Ý chí chủ quan của con
người góp phần quyết định.
b. Vũ trụ còn có những quy luật chi phối cộng đồng.
Nhưng những quy luật này còn mang tính khả năng, tính khách quan
kết hợp với chủ quan.
Hiểu được mệnh của cá nhân và cộng đồng - còn phải hiểu đến thân -
cái tạo nên ý chí.
6/ Con người là tiểu vũ trụ
Con người về cơ bản mang những đặc tính của vũ trụ.
Những đặc tính này chi phối sự phát triển con người.
Giữa con người và vũ trụ có quan hệ nhau:
Con người - Vũ trụ
Tâm linh - Tâm linh
Vật lý - Vật lý
Trong con người có đại ngã và tiểu ngã.
- Đại ngã: là cái một - đạo thấm vào người. Đó là cái không tôi hay gọi
là cái nó - cái vô thức.
- Tiểu ngã là cái tôi: cái tiểu ngã là phụ, đại ngã có vai trò chính.
+ Con người thường hay quên cái đại ngã của mình, mà ra quá mức
vào tiểu ngã. Đó là nguyên nhân làm suy đồi đạo lý làm người.
Con người sống lành mạnh phải biết dung hòa giữa đại ngã và tiểu
ngã.
Con người nhận biết được tiểu ngã qua cảm giác và tư duy.
Nhưng đại ngã khó nhận biết được. Có những phương pháp tiếp cận
của cận sinh học, cận tâm lý học, cận vật lý để tìm hiểu đại ngã.
Các cấu trúc của tiểu ngã và đại ngã của nhân thế theo Raymond
Reaut (Pháp) (xem hình 1, 2, 3, 4, 5)
Con người cũng là một hệ thống mở, con người liên hệ với vũ trụ bao
la, nên con ngừời cần biết được các thông tin của vũ trụ.
Nhịp sinh học của con người và Trái Đất; ảnh hưởng của mặt trăng và
vũ trụ. Trong con người có 365 kinh lạc và 365 khớp, phù hợp 365 ngày trong
1 năm.
- Quy luật con số: chi phối con số 2 và 5 (2 mắt, 2 chân, 2 tai, 5 ngón
tay).
7/ Đời sống tâm lý con người phải cân bằng, không thái quá
- Trong cuộc sống xác thịt và tâm linh phải hài hòa. Có nghĩa là âm
dương phải điều hòa.
Tâm linh là dương
Xác thịt là âm.
- Âm dương biến đổi theo quy luật: Âm phát triển cực đại sang dương.
Dương phát triển cực đại sang âm. Như vậy mọi sự thái quá sẽ chuyển từ
cực này sang cực kia, không tạo nên sự cân bằng.
- Mọi sự thái quá sẽ gây cực đoan. Ăn uống không điều độ sẽ tạo con
người có khuôn mặt khác đi.
- Sự tiến hóa là một quá trình vận động của âm - dương biến đổi nhau:
Âm sinh - Âm tướng
Dương sinh - Dương tướng
Âm cực - sinh dương.
Dương cực - sinh âm.
Ông cha ta nói: "Không ai giàu (quá) 3 họ, không ai khó (quá) 3 đời.
Thịnh rồi suy, suy rồi thịnh. Đó là quy luật của sự tiến hóa.
Theo cổ nhân:
+ Thời kỳ dương thịnh từ năm 2196 (trước công nguyên) đến năm 504
khoảng 2700 năm.
+ Thời kỳ âm thịnh từ năm 504 đến năm 3204 (2700 năm).
Sự sống chết là quá trình âm tụ và dương tán.
Ra đi (cuộc sống) là âm tụ
Trở về (cái chết) là dương tán.
Bước ra đi là đại ngã tụ thêm tiểu ngã.
Bước trở về là tiểu ngã tan ra để trở lại đại ngã.
- Con đường tiến hóa của con người là từ đại ngã đến tiểu ngã rồi từ
Tiểu ngã đến đại ngã. Tức là con đường đi từ tiên thiên đến hậu thiên (cõi
trần) rồi sau đó đi từ hậu thiên đến tiên thiên (cõi trời).
8/ Sự sáng tạo của nhân cách (con người) là tạo nên ý thức thuần khiết hay còn gọi là minh triết.
Sự minh triết nhờ siêu thiền định.
Ý thức thuần khiết là cội nguồn của mọi sáng tạo hài hòa cũng như
trong bông hoa chất nhựa làm cho cây phát triển là không màu - thuần khiết.
Bằng sự thuần khiết của ý thức con người sẽ được sự hỗ trợ của tự nhiên để
hành động. Sự thanh thản trong tâm hồn con người sẽ có những tư tưởng
hoạt động có hiệu lực và làm việc sẽ có kết quả hơn.
Trong trạng thái đó con người sẽ phát ra những sóng sinh động và hài
hòa với môi trường xung quanh.
9) Sự ổn định trong một thời điểm và sự biến đổi theo thời gian của nhân cách
- Xét về một thời điểm của ngũ hành:
Các yếu tố tương sinh
+ Thổ sinh kim
+ Kim sinh thủy
+ Thủy sinh mộc
+ Mộc sinh hỏa
+ Hỏa sinh thổ.
Các yếu tố tương khắc:
+ Kim khắc Mộc
+ Mộc khắc Thổ
+ Thổ khắc Thủy
+ Thủy khắc Hỏa
+ Hỏa khắc Kim.
Xét về các thời điểm khác nhau:
- Mộc: Sinh thành
- Hỏa : Trưởng thịnh
- Thổ: (Hoá)
- Kim: Thân Suy
- Thủy: Tàng Huỷ
10/ Đặc điểm nhân cách của con người theo ngũ hành
a) Người mộc.
- Mộc vượng: Người có mộc vượng thì năng động, liều lĩnh, can đảm,
hay nổi giận, hay nói. Trong chiêm bao (giấc mơ) thường thấy cảnh đánh
nhau, thấy cây xanh tươi, thấy rừng và các vật màu sáng.
- Mộc suy: Thụ động, nhu nhược, không dám hành động, bi quan, chủ
bại. Trong mơ thường thấy bị rượt bắt, bị đánh đập không chống lại nổi, thấy
cây lá úa.
b) Người Hỏa:
- Hỏa vượng: sôi nổi, nóng nảy, cuồng nhiệt, hay cười vô cớ. Trong
giấc mơ thấy màu sắc đỏ tươi như máu, thấy lửa, các vật màu đỏ rực.
- Hỏa suy: Tinh thần bất ổn, hay lo lắng, thiếu sáng suốt. Trong giấc mơ
thấy vật tái xanh, trắng bệch hay đỏ bầm.
c) Người Thổ:
- Thổ vượng: vô tư, hay hát, trong giấc mơ thấy cảnh vật màu vàng
tươi.
- Thổ suy: ưu tư, hay nghĩ ngợi, hay thương nhớ. Trong giấc mơ thấy
cảnh vàng tía.
d) Người Kim:
- Kim vượng: hay trầm tĩnh, biết chịu đựng, kiên nhẫn, ôn hòa. Trong
giấc mơ thấy vật trắng bóng.
- Kim suy: Loại người hay buồn rầu, hay khóc. Trong giấc mơ thường
thấy màu trắng bệch hay thấy bay bổng lên.
c) Người Thuỷ:
- Thủy vượng: có ý chí mạnh.
- Thủy suy: Hay sợ hãi, hay rên rỉ. Trong giấc mơ thường thấy lạnh lẽo,
thấy nước hay cảnh vật màu đen.
III – NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NHÂN CÁCH DƯỚI DẠNG TRƯỜNG SINH HỌC – VẬT LÝ
1. Khái quát về những biểu hiện của nhân cách
Thể hiện qua hình dạng và độ sáng của năng lượng tỏa ra của con
người. Năng lượng này tỏa ra một màu vàng trên đầu và trên vải lan ra khỏi
cơ thể một khoảng từ 3 đến 8 inso.
- Tư tưởng càng thanh cao thì càng sáng.
- Tính cách ích kỷ giống như những cái mộc
- Tư tưởng hiếu kỳ cao độ có dạng xoắn, màu vàng
- Sự tức giận, kéo dài có hình mũi tên nhọn, màu đỏ.
- Tiếng cười hồn nhiên của trẻ em là đường cong màu hồng
- Sự ghen tuông có hình con rắn và màu nâu sạm.
- Tiếng cười thân ái có làn sóng tròn đẹp, màu vàng hoặc xanh.
- Tiếng cười bỉ ổi giống như tiếng nổ, không biên giới rõ ràng và có màu
xám bẩn.
- Thái độ nhăn mặt có hình mũi tên đỏ bầm hẳn lên trên.
- Tiếng cười ích kỷ có dạng những vũng bùn sôi sùng sục.
- Tư tưởng sùng ái có dạng đóa hoa màu xanh lá cây hay hình tháp có đỉnh
hướng lên trên.
Các năng lượng tỏa sáng có thể giao thoa nhau: khi gặp 2 người yêu
nhau thì vòng tỏa sáng sẽ thành vòng cung nối hai quả tim với nhau.
Các hình tư tưởng khác nhau sẽ có thời gian sống khác nhau.
Khoa học về tư tưởng là một khoa học lớn về nhân cách.
Tương lai thế kỷ sau khoa học này sẽ được phát triển.
- Cơ thể có khả năng tự phát sáng như tinh tú.
2. Trường sinh học và nhân cách
Người ta nhận thức mỗi con người có những dạng trường sinh học
khác nhau. Điều dễ phụ thuộc vào sự phòng vệ của nhân cách chống lại bên
ngoài.
- Dạng con nhím: Trường sinh học có nhiều gai nhọn, sắc. Một người
ngoại cảm có cảm giác các đầu gai đâm vào ngón tay mình.
- Dạng rút lui: Một phần trường sinh học rời bỏ trong thân thể giây lát
dưới dạng một đám mây (màu xanh nhạt) trong lúc đó thì mặt không đờ đẫn,
bề ngoài làm ra vẻ lắng nghe.
- Dạng vía lệch ra bên cạnh: Trường sinh học lệch một phần ra ngoài
cơ thể vật lý trong một thời gian khá lâu có khi đến mấy năm. Trong thực tiễn
hiện tượng này gọi là mất linh hay mất vía.
- Dạng khước từ miệng: Xuất hiện nhiều năng lượng màu vàng ở đầu
và tắc nghẽn trầm trọng ở cổ. Trường sinh học suy yếu hẳn ở phía dưới cơ
thể và xuất hiện hiện tượng nhọc nhằn bất động.
- Dạng hút vào chủ thể để phòng vệ, hút năng lượng trường sinh học
của người xung quanh.
- Dạng dao quắm: Chủ thể đang đối đầu với một người hay một nhóm
người khác, hình thành một con dao quắm nơi đỉnh đầu của chủ thể, có thể
phóng đến đối thủ và tóm lấy đầu đối thủ.
- Dạng vòi: Các vòi của chủ thể vươn tới luân xa 3 của đối thủ để đoạt
lấy nguyên khí và lôi nó ra ngoài.
- Dạng ác khẩu “những mũi tên mềm”: Trường sinh học của chủ thể
làm bắn nhiều mũi tên trong không gian gây đau đớn cho đối phương qua ác
khẩu, làm nhiễu trường sinh học của đối phương. Các mũi tên này chọc tức
đối phương, đồng thời giải tỏa cơn giận của chủ thể.
- Dạng phối hợp: Chủ thể bắn các mũi tên mềm ở phía trên thân thể để
làm bẽ mặt đối phương, đồng thời né tránh cảm giác của bản thân mình dồn
về phía dưới.
- Dạng cuồng loạn (hysteris): Chủ thể phản ứng lại các mũi tên của đối
phương bằng cách làm cho nó bùng lên sự thịnh nộ của mình để nhiễu
trường sinh học của đối phương. Qua sự thịnh nộ này nhiều tia chớp đủ màu
hỗn loạn tỏa ra.
- Dạng ngăn biên giới: Chủ thể tự rút lui ra khỏi tình huống bị đối
phương tấn công bằng cách củng cố biên giới của mình.
Dạng phô trương quyền lực, ý chí, chủ thể tuyên bố quyền tối thượng
của mình làm cho đối phương sợ.
3. Nhân cách và vấn đề khai mở luân xa
- Luân xa là nơi tập trung tiếp xúc nguồn năng lượng con người và vũ
trụ.
- Trong con người có:
+ 21 sóng năng lượng tạo ra đại huyệt.
+ Giao thoa 14 sóng tạo ra trung huyệt.
+ Giao thoa 7 hoặc nhỏ hơn 7 huyệt tạo thành châm cứu.
Có 6 luân xa được khai thác hiện nay là:
+ Luân xa 6 nằm giữa trán liên quan tới vỏ não, làm tăng cường năng
lượng hệ thần kinh và hoạt động chân tay.
+ Luân xa 5: ở cột sống ngang vai liên quan đến cơ bắp.
+ Luân xa 4: ở cột sống ngay tim. Nó giúp con người thanh thản bình
tĩnh, dễ dàng thông cảm với người khác.
+ Luân xa 3: ngang thân, liên quan tới gan thận, dạ dày.
+ Luân xa 2: đốt sống cuối cùng liên quan tới bài tiết sinh lý.
4. Hào quang và nhân cách
a) Các vầng hào quang là năng lượng mang tích tổng hào quang thể của vật
chất.
Năm 1939 Kirlian đã chụp được hào quang của cỏ cây và con người.
Người ta thấy có 7 vầng hào quang bao bọc cơ thể sống.
Hào quang có thể cao 2,5m, dày 1m bao quanh thân người.
Nếu quan sát kỹ sẽ thấy rõ hào quang 1, 3, 5, 7.
Các hào quang có cấu trúc vật chất và mật độ khác nhau, nhưng chúng
luôn luôn chuyển động và tạo nên sóng đứng và vật chất mịn.
Mỗi vầng hào quang thể hiện hình thái cơ thể sống và tâm lý con
người.
* Vầng hào quang 1 (cảm giác thể chất).
- Bao sát thân thể khoảng 2,5 cm có màu xanh nhạt hoặc xanh xám.
- Tạo nên cảm giác thể chất và hoạt động thể chất.
* Vầng hào quang 2 (cảm xúc).
- Cách da 2,5 - 7,5 cm, màu từ sáng chói đến xám xỉn nhưng chứa tất
cả các màu cầu vồng.
- Đặc trưng tạo nên cảm xúc, cảm nghĩ.
* Vầng thứ 3 (tâm thần)
- Cách da 7,5 - 20,5 cm.
- Màu vàng chói
- Thể hiện đời sống tư duy
* Vầng thứ 4 (tinh tú).
- Cách da 15 - 25 cm
- Màu hồng
- Thể hiện tình cảm yêu đương.
* Vầng thứ 5 (hình thái bổ sung).
- Cách da 15 - 60 cm
- Màu trong suốt trên nền xanh: vầng hình trái xoan.
- Thể hiện thái độ, lời nói trách nhiệm.
* Vầng thứ 6 (thượng giới).
- Cách da 60 - 82 cm
- Màu phấn là chủ yếu
- Thể hiện trí tưởng tượng, suy đoán, vượt giới hạn hữu hình.
* Vầng thứ 7 (nhân quả).
- Kích thước tùy bản thể.
- Gồm những sợi tơ vàng - bạc lấp lánh; có vỏ dày 0,6-12 cm giao tiếp
và phòng vệ năng lượng với môi trường, có tần số rung động lớn.
- Chứa đựng sơ đồ cuộc sống trải nghiệm trong quá khứ, hiện tại và
tương lai.
- Đặc trưng thể hiện bản thể vật chất và tâm linh.
Như vậy, trường hào quang của con người có 7 vầng, luôn biểu hiện
cảm giác, cảm xúc, tư duy, trí nhớ, tính cách, trạng thái sức khỏe con người.
b) Mối tương tác của hào quang:
Đặc trưng của tương tác hào quang là không phụ thuộc vào không gian
ba chiều và thời gian tuyến tính.
+ Tương tác vật lý trường điện tử
- Lực tương tác tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách.
- Tương tác lên vật có từ tính, vật dẫn điện.
- Khác dấu thì hút, cùng dấu thì đẩy.
- Nguồn phát có thể cùng chiều thông tin
- Truyền dẫn bị tiêu hao
+ Tương tác hào quang
- Không phụ thuộc vào không gian và thời gian.
- Tương tác lên bất kỳ vật gì đặc biệt là cơ thể sống.
- Như nhau thì cộng hưởng, khác nhau thì chinh phục
- Mọi nguồn phát đều thiếu thông tin.
- Ít bị tiêu hao.
c) Tác dụng của hào quang.
- Tạo khuôn mẫu cho cơ thể sống.
Một lá cây xuất hiện sau khi khuôn mẫu hào quang của nó xuất hiện,
định hình cho chiếc lá.
Những tư duy của con người phát ra định hình cho hình thái hành động
cho chủ nhân đó.
- Hình thành tư tưởng tình cảm.
Những rung động của trường năng lượng sinh học hình thành nên
những tình cảm, tư tưởng con người.
Những tác động của môi trường giao tiếp, học hỏi, nghiên cứu tác động
lâu ngày tạo nên tư tưởng tình cảm.
- Đồng hóa, cộng hưởng hào quang như:
Những tư tưởng lớn, cùng chí hướng, cùng lý tưởng dễ gặp nhau. Vì
từng năng lượng rung động cùng tần số và hiện tượng cộng hưởng dễ xuất
hiện.
Muốn cảm hóa người khác, trước hết phải có trường sinh học mạnh,
lấn át được hào quang người khác, hoặc chinh phục trường năng lượng đối
phương.
Những tư tưởng tốt đẹp sẽ tạo được những giao cảm, rung động hào
quang người khác.
- Phản ứng và phòng vệ năng lượng.
Tương tác trường năng lượng sinh học sẽ tạo ra phản ứng và phòng vệ
khi các trường hào quang không trùng hợp.
Bản thân chủ nhân của trường năng lượng sinh học phát những thông
tin không tốt lành sẽ tạo ra màu sắc hào quang u tối xám xịt, tạo những rung
động bất ngờ, gây tổn hại hào quang của chính mình và ảnh hưởng đến hào
quang của người khác.
d) Ảnh hưởng của thông tin lên hào quang:
Ảnh hưởng của thông tin lên hào quang rất lớn, có khi nó định hình và
thay đổi hào quang.
- Ảnh hưởng của thông tin tốt:
Những thông tin tốt như tình yêu thương sinh ra màu hồng sáng, tính
cần mẫn sinh ra màu sáng bạc và ý tưởng về sức khỏe tốt sẽ có màu hoàng
kim.
Những thông tin tốt sẽ giúp mở rộng hào quang thân thể, kết quả là con
người sẽ sống tốt hơn, thánh thiện hơn và có sức mạnh về tinh thần và vật
chất.
Những thông tin tốt sẽ có tương tác tích cực lên cơ thể sống xung
quanh.
Những thông tin tốt sẽ giúp ích cho cộng đồng, cho xã hội.
- Ảnh hưởng của thông tin xấu:
Những tư tưởng hận thù, thành kiến sẽ có tác hại ghê gớm lên hào
quang của chính chủ nhân và có ảnh hưởng xấu lên cộng đồng.
Những ý nghĩ xấu lâu ngày tạo thành thành trì tác động lên thân thể
bên trong, gây nên bệnh tật.
Như vậy, giữa hào quang và nhân cách con người có mối tác động làm
cho hào quang con người sáng rõ. Hào quang là sự biểu hiện một khía cạnh
nào đó nhân cách con người.
IV – MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH PHƯƠNG ĐÔNG
1. Tính thiện trong nhân cách người phương Đông.
Người phương Đông đề cao tính thiện. Mọi tu thân, xử thế, chính trị
đều hướng tới thiện.
- 423 lời Phật dạy được ghi trong Pháp cú kinh đều nói về tính thiện.
- 550 bài nói của Khổng Tử trong Luận ngữ đều đề cập tới tính thiện.
- 81 chương của Đạo đức kinh của Lão Tử phần lớn đều nói đến thiện.
Tính thiện trong việc tu thân:
Lão Tử nói: "Ta có 3 vật báu thường ôm giữ: Một là từ, hai là kiệm, ba
là không dám đứng trước thiên hạ."
Từ là từ bi hiền lành, rộng lòng thương kẻ khác là người mạnh. Mạnh là
thắng được mình. Như vậy, thì không có kẻ thù. Sức mạnh của người quân
tử là tự thắng vậy.
Kiệm: Biết chi tiêu hợp lý, không phung phí là người có tấm lòng rộng
mới làm nổi. Họ không thái quá, vì thái quá sẽ gây ra tội ác.
Không dám đứng trước thiên hạ: Có nghĩa là không tranh giành địa vị
để được ngồi cao. Còn việc có được vị trí trong xã hội hay không là phải
được sự công nhận của tự nhiên, chứ không do mình tranh dành mà có.
Biết đủ (ĐĐK):
"Không hoạ nào lớn bằng không biết đủ. Không hại nào to bằng muốn
được. Bởi vậy, biết đủ trong cái đủ thì luôn luôn đủ".
Đa số con người muốn được, muốn cái không phải của mình, muốn cái
quá sức của mình. Lòng tham đó làm cho người thiếu nhân cách. Vì vậy, phải
dứt bỏ lòng tham lam, phải biết đủ, biết dừng đúng lúc.
Sống giản dị, chất phác (ĐĐK): "Ăn ở giản dị và chất phác, ít riêng tây,
ít tham dục".
Giản dị ở vật chất, giản dị trong nội tâm ngôn từ, trong quan hệ với mọi
người.
Thân và Danh (ĐĐK): "Thân và danh cái nào quý hơn? Ở đời những
người biết tự trọng thân mình thì danh lợi đối với họ không đáng giá. Cái giá
trị nhất của họ là đạo đức."
Biết người là trí, biết mình là sáng.
"Biết người là trí, biết mình là sáng". Thắng người là có sức, thắng
mình là mạnh. Biết đủ là giàu.
"Biết người là trí" - Đó là sự nhận biết, nhận thức thế giới, nhận biết
người khác. Nhận biết người khác chỉ cần lý trí là đủ
Còn biết mình là sáng, bởi vì biết mình phải tự cảm, tự thấu hiểu, tự xét
mình thường sai lầm. Biết mình là sáng vì phải có năng lực gạt bỏ cái tôi. Vì
thế biết mình phải cao hơn biết người.
Thắng người là sức, thắng mình là mạnh, thắng mình mới khó vì phải
đấu tranh với cái tôi của mình.
Biết đủ là giàu. Mức độ giàu nghèo tùy theo sự ham muốn. Muốn nhiều
đã có rồi muốn có nữa. Sự ham muốn đó vô vàn. Cho nên không biết thế nào
là đủ. Chỉ khi nào biết đủ mới giàu.
Mềm yếu - cứng mạnh.
"Người mới sinh ra mềm yếu. Khi chết thì cứng mạnh- Vạn vật cỏ cây
mới sinh ra thì mềm dịu, khi chết thì khô héo - nên cứng và mạnh là đường
chết, mềm và yếu là đường sống".
Trong quan hệ con người phải biết lúc cương lúc nhu.
Nhưng nhu thường là thành công. Ngay cả lúc đấu tranh cũng phải lựa
lời lần nói cho dịu mềm. Lấy mềm thắng cứng, lấy nhu thắng cương mới là lẽ
biết đời.
Thích Ca:
+ Phải sống hợp đạo đức.
"Đời ta yên lặng, không oán, không phiền. Người đều thù oán, ta vẫn
thản nhiên". Mỗi con người được sống yên vui là nhờ tâm thiện, không thù,
không oán. Thù oán sẽ nối thù oán. Lòng nhân nhân lên lòng nhân.
+ Hãy tự thấy mình.
Tự thấy là quý, nên gọi vua người. Giữ ý rèn mình, tự bớt không thôi.
Tự thấy mình là điều kiện tiên quyết dẫn đến thiện. Thắng mình rất khó thực
hiện. Phải tự rèn mình, bỏ bớt dục vọng.
+ Phải sống thanh thản.
"Đời ta yên lặng, không nghĩ quanh co. Người đều lo sợ, ta vẫn không
lo". Chính là tâm chính thì không gì phải lo sợ.
+ Phải giữ tâm thiện. "Thương giữ tâm luôn, giữ đừng giận nóng. Tâm
ác phải trừ, nghĩ theo đạo đúng". Tâm có thiện thì mới sáng nhân lễ trí tín.
+ Biết nhận sự cuồng dại của mình là trí. "Người ngu chịu nhận ngu,
đáng vào bậc khôn giỏi. Kẻ ngu mà khoe khôn, ấy là ngu quá đỗi". Nếu người
không hiểu biết không nhận thức sai lầm của mình, còn người khôn thì nhận
biết được sai lầm của mình để sửa chữa. Đó là người có trí.
+ Hãy từ bỏ tham vọng thấp hèn: "Chớ gần thói đê hèn, chớ theo
phương càn rỡ, chớ gây giống gian tà; chớ theo đòi làm dở"
+ Dứt bỏ tật xấu: không giận, không kiêu, tham yêu, tránh bỏ. Danh sắc
đều không; vô vi hết khổ.
Những thói xấu như tham lam, oán giận, kiêu căng, hám danh lợi, dục
vọng làm hại con người tạo nên thói hư tật xấu.
+ Chính ta là vị cứu tinh của ta: Tự ta sẽ làm tất cả.
Tự ta sẽ vươn lên, tự ta sẽ tìm con đường để đạt đến sự thành đạt. Tự
cứu lấy mình, tự hướng vào đạo thiện. Việc thành đạt là tại ta.
2. Tính nhân.
Đức nhân (luận ngữ) của Khổng Tử.
Phàn Trì hỏi về đức nhân.
Khổng Tử đáp: "Ăn ở đối đãi phải khiêm cùng, làm việc phải nghiêm
cẩn, giao thiệp với người phải trung thực. Dẫu nước di dịch, cũng không thể
bỏ điều ấy".
Cư xử với người phải cung tức là phải nhún nhường, kính trọng.
Khi làm việc phải nghiêm chỉnh, cẩn thận.
Quan hệ với mọi người phải lấy trung làm đầu.
Người nhân (luận ngữ).
Tử Cống hỏi: "Nếu ngươi thi ân cho nhân dân và cứu giúp đại chúng,
thì người ấy thế nào? Có thể gọi là người nhân được không?"
Khổng Tử đáp: "Sao chỉ gọi là người nhân thôi? Phải gọi là bậc thánh
chứ - Vua Nghiêu, vua Thuấn cũng chưa làm được vậy".
Khổng Tử phân biệt thánh với nhân. Thánh cao hơn nhân. Được gọi
thánh phải trí sáng, tâm thiện, thi ân, cứu giúp đại chúng.
Người có đức:
Tử Trương hỏi: Làm thế nào để đi đâu cũng được dễ dàng?
Khổng Tử đáp: Lời nói trung thực, hành vi phải thân kính - như vậy dầu
đi đến nước Man; Mạnh cũng dễ dàng.
Khổng Tử nói: "Người có đức tất có lời nói hay, người có lời nói hay
chưa hẳn đã có đức".
Người có đức nói hay vì có lời đức độ của họ.
Khổng Tử quan niệm trong con người cần có 5 đức tính: Nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín. Nhưng nhân là cái gốc, đứng đầu các điều thiện của con người.
Nhân, Khổng Tử quan niệm phù hợp với từng trường hợp, từng người.
Nhân là gì? Khổng Tử trả lời cho từng người:
Đối với Nhan Tử: Tự mình trở lại theo lễ là nhân.
Đối với Phàn Trì: Yêu người là nhân.
Đối với Trọng Cung: Ra cửa phải như tiếp khách lớn, trị dân phải như
làm lễ tế lớn, điều gì mình không muốn ai làm cho mình thì không nên làm
cho ai.
Đối với Tử Trương: Có thể làm được năm điều trong thiên hạ là nhân
vậy: là cung, khoan, tín, mẫu, huệ. Cung thì không khinh nhờn, khoan thì
được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫu thì có công, huệ thì đủ
khiến được người.
Nhân còn có nghĩa rộng hơn là nhân ái - yêu người, yêu vật, đó là lòng
tự nhiên, bình thản.
Người có nhân thì sáng suốt, bình tĩnh.
Nhân là gốc lớn của sự sinh hóa trong trời đất. Khổng Tử lấy nhân để
làm chỗ dựa cho chính trị, học thuật, lễ nghi trong xã hội. Đối với từng người
nhân là cái gốc để giữ vững nhân cách. Nhân cũng có thể thấp cho ai cũng
làm được, nhưng cũng là cao vô cùng. Nhân là cái đích tu dưỡng của con
người. Ai đã tu dưỡng đến bậc nhân thì làm việc gì cũng thích hợp với trời
đất.
Nhân còn có nghĩa là trung, đó cũng là đạo đối với người, với nước và
đối với mình.
Nhân còn có nghĩa là hiếu đễ. Đó là lòng kính yêu cha mẹ, người lớn.
Tể Dư bị Khổng Tử mắng là bất nhân vì bất hiếu, không nhớ công ba mẹ
bồng bế ba năm mà muốn rút thời gian để tang cha mẹ từ ba năm xuống còn
một năm.
Nhân cũng gồm có nghĩa. Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì làm, không
hề mưu tính lợi cho mình, cũng không cần biết hậu quả ra sao.
Lễ cũng là một bộ phận của nhân. Lễ là ngọn, nhân là gốc. "Người
không có đức nhân thì lễ mà làm gì?"
Khi Nhan Uyên hỏi về đức nhân, Khổng Tử đáp: "Khắc kỉ (chế thắng tư
dục) mà trở về với lễ thì là nhân... Cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, không
hợp lễ thì đừng nghe, không hợp lễ thì đừng nói, không hợp lễ thì đừng làm".
Muốn làm điều nghĩa phải dũng.
Khổng Tử nói: "Nhân giả tất hữu dũng" (Người có nhân tất phải có
dũng).
Nhân phải có trí vì nó sáng suốt thì mới lợi cho đức nhân mới biết cách
giúp người mà không làm hại cho người, cho mình.
Khổng Tử nói: Ham đức nhân mà không ham học thì bị sự che lấp làm
ngu muội... Phải sáng suốt mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng
ghét, đề bạt người chính trực, bỏ người cong queo.
Nhân còn liên quan với trực, tính thận trọng. Nhân gồm nhiều đức tính
như không một đức nào đủ là nhân được. Ví dụ trung thực chưa phải là nhân.
Như Tử Văn nước Sở ba lần làm Lệnh doãn mà không mừng, ba lần bị bãi
chức mà không hận, lại đem việc cũ bàn giao cho người thay mình, chỉ là
trung thực, chứ không chắc có gì để gọi được là nhân.
Nhân của Khổng Tử khác với thuyết kiêm ái của Mặc Tử. Nhân của
Khổng Tử mang tính đẳng cấp, kiêm ái thì ai cũng như ai, không phân biệt
thân sơ, riêng chung. Người nhân thì yêu người tốt ghét người xấu - Còn
người kiêm ái thì không phân biệt tốt xấu.
Nhân của Khổng Tử khác xa với từ bi của đạo Phật.
Phật thương người và cứu giúp chúng sinh. Còn nhân của Khổng Tử
yêu người giúp cho người tu thân hăng hái sống trong cõi đời chứ không phải
trên Niết Bàn.
Học thuyết của Khổng Tử có ảnh hưởng rất lớn trong phạm vi thế giới.
Nhiều quốc gia đã coi học thuyết của ông là quốc giáo; ảnh hưởng của học
thuyết của ông rất sâu sắc nhiều lĩnh vực. Chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo
dục, tâm lý, xã hội và ảnh hưởng tới nhiều tầng lớp khác nhau, từ người dân
đến quan lại, vua tôi. Đặc biệt học thuyết của Khổng Tử còn ảnh hưởng to lớn
đến nhiều thế hệ con người từ mấy nghìn năm cho đến nay.
Nhiều tư tưởng của ông đã ăn sâu vào tâm thức của nhân dân và làm
nền tảng cho một nền luân lý dân tộc.
Nhưng học thuyết của ông quá cao, nên không ai dung nạp được ông,
vua các nước đều xa lánh, không nghe lời khuyên của ông. Ngay cả mục đích
giáo dục của ông cũng thất bại. Ông muốn đào tạo một lớp người có đức có
tài ra làm quan giúp dân, nhưng chỉ tạm được mươi người chưa hoàn hảo về
đức và tài. Trong 40 năm đào tạo mà chỉ được từng ấy học trò có ích thì quả
là thất bại.
Nhưng học thuyết của ông về nhân ái, vẫn mãi mãi là bài học đạo đức
soi sáng nhân cách cho đời sau.
3. Tính hòa nhập trong nhân cách của người Việt Nam.
Nếu ta coi nhân cách là hệ thống phẩm chất giá trị xã hội của cá nhân
về mặt tinh thần thì dễ dàng ta thấy tự hòa nhập là một đặc điểm trong nhân
cách của người Việt Nam xưa.
Điều thấy rõ nhất con người hòa nhập với thiên nhiên, trời đất, với con
người trong cộng đồng và người cộng đồng.
Sự hòa nhập đó thể hiện trong mối quan hệ với xóm làng, sự giao lưu
trong các 54 dân tộc Việt Nam, với các nước lân bang.
Người Việt Nam rất coi trọng quan hệ láng giềng. Chính trong mối quan
hệ này người ta giúp đỡ nhau khi tắt lửa tối đèn. Thậm chí người Việt Nam
còn coi láng giềng hơn cả anh em xa. "Bán anh em xa, mua láng giềng gần".
Những người nào có những hành động xấu xa không dám về với làng xóm
láng giềng.
Các hội làng, lễ làng là có dịp cho người Việt Nam hòa nhập. Trong các
cuộc hội làng người ta hay tổ chức các cuộc thi: thi nấu cơm, đua thuyền, thi
chọi gà... Đó là những dịp để cho mọi người được hòa nhập trong văn hóa
của cộng đồng.
Điều đặc biệt trong nhân cách người Việt Nam là sự hòa nhập vào với
thiên nhiên, sự hài hòa. Mái đình, cây đa, bến nước còn ghi đậm trong tâm trí
của người Việt Nam một thời đã sống ở quê hương. Cảnh quang chùa
thường cũng có một hồ nước với hoa sen tỏa thơm ngát, núi non bộ, cây bồ
đề, cây đại, hoặc tùng, bách... Kiến trúc chùa, đình thường thể hiện được
nguyên lý âm dương, ngũ hành.
Chùa Một Cột ở Hà Nội thể hiện nguyên lý đó. Chùa có một cột tròn ở
dưới hình vuông ở trên thể hiện âm trên dương dưới. Mỗi ngôi chùa đều có
gác chuông - Chuông càng ngân vang xa bao nhiêu thì từ bi của đức Phật
càng thấm sâu vào chúng sinh bấy nhiêu. Chùa có 4 mái và một nóc là ngũ
hành, có 3 cửa gọi là tam quan. Cửa định (kiên định theo con đường của
Phật), cửa giới (giữ nghiêm giới luật), cửa tuệ (trí tuệ sảng suốt). Tam quan
cũng có nghĩa là khổ, vô thưởng, vô ngã. Đã bước vào cửa tam quan là đi
vào cõi Phật, thoát khỏi trần tục, con người thanh thản.
Đàn tế trời ở Huế gọi là đàn Nam Giao. Đàn tế lộ thiên gồm 3 tầng bệ
chồng lên nhau. Tầng dưới hình vuông màu đỏ, thể hiện yếu tố nhân (Người,
con đẻ xích tử), tầng giữa hình vuông, màu vàng (thể hiện đất), tầng bệ trên
cùng hình tròn màu xanh tượng trưng cho trời - Ba tầng đó thể hiện thiên địa
nhân hợp nhất.
Đồ đặt trên bàn thờ Phật hoặc tổ tiên cũng thể hiện âm dương ngũ
hành. Bát hương thể hiện hành thổ, cây đèn nến biểu hiện hành hỏa, lọ hoa
biểu hiện mộc (phương Đông mặt trời mọc là hành mộc, ý nghĩa khai hoa),
mâm ngũ quả thuộc hành kim (phương Tây - kết quả): rượu nước hành thủy.
Trong mâm ngũ quả cũng thể hiện rõ ngũ hành. Cam, quýt đỏ thuộc
hỏa, chuối vỏ xanh thuộc mộc, bưởi vàng thuộc thổ, na ruột trắng thuộc kim,
hồng tía (đen) thuộc thủy.
Như vậy, trong nhân cách người Việt Nam bao giờ cũng muốn mình
hòa nhập với thiên nhiên, với cộng đồng, với trời đất, với tổ tiên. Sự hoà nhập
đó làm cho con người thanh thản, trong sáng. Nếu thiếu sự hòa nhập đó con
người cảm thấy mình thiếu hụt trong nhân cách, trống vắng trong nhân tâm
của mình đối với cộng đồng.
Tất nhiên về đặc điểm nhân cách người Việt Nam đã được giáo sư
Trần Văn Giàu đúc kết gồm có 7 phẩm chất: Yêu nước, cần cù, anh hùng,
sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Tôi nghĩ rằng đặc điểm nhân
cách người Việt Nam có những nét đặc trưng nữa, nhất là trong thời kỳ đất
nước ta đổi mới hiện nay. Phải chăng đó là sự thích ứng hòa nhập với cộng
đồng trong nước và thế giới với thiên nhiên, đất trời.
Trong chương II chúng tôi đã trình bày tóm lược những tư tưởng
phương Đông cổ đại có liên quan đến nhân cách. Chúng ta rất trân trọng
những giá trị văn hóa của những tư tưởng này. Nhiệm vụ của chúng ta là tiếp
thu có chọn lọc và với thái độ cầu thị: "đãi cát lấy vàng". Việc ứng dụng những
tư tưởng phương Đông cổ đại này phải thận trọng, nghiêm túc trên tinh thần
nghiên cứu một cách khoa học thì sẽ đem lại những kết quả nhất định cho
việc nghiên cứu nhân cách hiện nay.
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC PHƯƠNG TÂY
Hiện nay, ở phương Tây có nhiều học thuyết khác nhau về nhân cách.
Để xây dựng một khoa học về nhân cách, trong tâm lý học không thể không
nghiên cứu về các học thuyết này. Song chúng ta cũng không thể nghiên cứu
được tất cả các học thuyết ấy. Ở đây xin giới thiệu một số trường phái lớn
trong tâm lý học phương Tây về nhân cách: Phân tâm học, Ghestalt, chủ
nghĩa nhân văn và tâm lý học nhận thức của Piaget.
I. PHÂN TÂM HỌC CŨ VÀ MỚI VỀ NHÂN CÁCH
1. S. Freud về nhân cách
Học thuyết có ảnh hưởng to lớn trong các lĩnh vực đời sống xã hội ở
phương Tây là học thuyết phân tâm của Freud. Sigmund Freud là người Do
Thái (1856 - 1939) sinh ở miền trung Tiệp Khắc, học ở Viên (Áo), làm việc ở
Áo và sau đó sang Mỹ.
a) Các giai đoạn phát triển tư tưởng Freud
Quá trình hình thành tư tưởng của Freud có thể chia làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Freud hợp tác với các nhà khoa học, đặc biệt là Brener từ
năm 1893 - 1895. Ông đã cùng với Brener viết cuốn "Nghiên cứu chứng loạn
thần kinh". Sau đó ông tạo ra phương pháp điều trị mới gọi là phân tâm học.
Phân tâm học là phương pháp chữa bệnh tâm thần, trong đó ông nhấn
mạnh đến tình dục là nguyên nhân chủ yếu của nhiều bệnh thần kinh và tinh
thần. Đồng thời tình dục cũng tham dự vào việc sáng tạo nền văn hóa nghệ
thuật của nhân loại.
Tóm lại, trong giai đoạn này ông hợp tác với những thầy thuốc chữa
bệnh tâm thần bằng các phương pháp tâm lý học.
- Giai đoạn 2 (1895 - 1905): ông nghiên cứu liên tưởng tự do thôi miên
và đặc biệt là giấc mơ.
+ Về thôi miên ông đã học phương pháp thôi miên của Charcot thày
thuốc chữa bệnh ở Pari và dùng nó để chữa bệnh tâm thần.
+ Về phương pháp liên tưởng tự do. Đây là phương pháp chính mà
Freud dùng để chữa bệnh. Những hiện tượng tâm lý như trí nhớ, tư duy,
tưởng tượng đều do liên tưởng ở các mức độ khác nhau. Trong quá trình liên
tưởng tự do ông khám phá ra rằng có một cái gì chống lại sự liên tưởng, đó là
cơ chế tự vệ.
+ Lý giải giấc mơ. Giấc mơ là sự thỏa mãn ước vọng.
Theo ông ước vọng là yếu tố chính tạo nên giấc mơ. Giấc mơ là sự
thỏa mãn việc dồn nén.
Ví dụ một người đàn bà mơ giết một con chó. Lý do là chồng đi ngoại
tình, bà ta nén giận. Bây giờ được thỏa mãn trong giấc mơ. Qua giấc mơ thỏa
mãn được sự đè nén, chèn ép. Nhưng ông cũng không lý giải được tất cả các
giấc mơ.
- Giai đoạn 3 (1905 - 1920): Trong giai đoạn này ông đã cho xuất bản
một số sách "Năm bài học về phân tâm học" (1909) "Nhập môn phân tâm
học" (1917).
Đây là giai đoạn trưởng thành của S.Freud. Ông đã phân biệt được ám
thị do thôi miên và ám thị do phân tâm. Phương pháp ám thị do thôi miên chỉ
tác động bên ngoài, còn phương pháp ám thị phân tâm lại tìm cách trở về cội
nguồn của hiện tượng. Người bệnh thần kinh không thể thôi miên để chữa
bệnh được. Trong khi đó nếu dùng phân tâm có thể chữa được. Dục vọng
con người theo Freud có thể thăng hoa vào các lĩnh vực khác.
- Giai đoạn 4 (1920 - 1939): Giai đoạn này ông đề cập đến vấn đề nhân
cách. Ông đã nêu lên cấu trúc nhân cách gồm có 3 phần: Nó, tôi và siêu tôi.
Sự phát triển tư tưởng của Sigmund Freud có ảnh hưởng to lớn đến
các lĩnh vực khoa học: tâm lý học, xã hội học, giáo dục học, triết học, đạo đức
học, nghệ thuật và y học.
Đây cũng là vấn đề quan hệ đến sự tương phản lập trường hiện nay về
một tư tưởng về vô thức và ý thức.
Vì vậy việc nghiên cứu học thuyết Freud có vai trò rất quan trọng trong
tâm lý học.
b) Sigmund Freud về mặt y học.
Phân tâm học ra đời như là phương thuốc chữa bệnh tâm thần. Freud
đề ra 4 phương pháp để chữa bệnh tinh thần: ám thị, liên tưởng tự do, giải
thích giấc mơ, rửa tội. Tất cả các phương pháp đó đều nhằm làm cho cái vô
thức con người được bộc lộ ra dưới dạng vô thức.
Các phương pháp chữa bệnh tâm thần của ông có những thành tựu
nhất định. Song ông quá nhấn mạnh về nguồn gốc tình dục sinh ra bệnh tâm
thần. Do đó không thể giải thích được tất cả những bệnh nhân có nguồn gốc
xã hội khác nhau.
c) Về mặt tâm lý học.
S. Freud xây dựng lý thuyết tâm lý học để giải thích những hiện tượng
trong cuộc sống xã hội và làm căn cứ cho chữa bệnh tâm thần. Đó là các giả
thuyết về năng lượng tâm thần, vô thức và cơ cấu đời sống tinh thần.
* Về vô thức:
+ Khái niệm vô thức là khái niệm cơ bản trong học thuyết phân tâm của
S. Freud. Trên cơ sở phân tích những yếu tố thực nghiệm hành vi trong thôi
miên, trong giấc ngủ, giấc mơ, các liên tưởng.
Theo Freud tất cả những hiện tượng tâm hồn được chia ra 2 nhóm: ý
thức và vô thức. Vì vậy, cấu trúc tâm lý phải phân ra hai hệ thống ý thức và vô
thức. Trong vô thức còn phân chia ra tiền ý thức.
Vô thức là những ham muốn hay những biểu tượng bị dồn nén, kiểm
duyệt. Đó là những bản năng hoạt động theo nguyên tắc khoái cảm. Vô thức
ngấm ngầm chi phối, điều khiển hành vi con người. Những hành vi mà con
người không thể dùng ý thức can thiệp được, gọi là hành vi sai lạc như nói lỡ
lời, sự quên hay những biểu hiện trong giấc mơ. Nhưng hiện tượng mà ban
ngày con người không thỏa mãn thì được thể hiện trong giấc ngủ dưới những
hình thức khác nhau do sự can thiệp của vô thức.
Để chứng minh cho sự có mặt của vô thức Freud đã đưa ra hiện tượng
sau: Một người trong thôi miên đang ngủ được lệnh nửa giờ sau khi tỉnh dậy
phải bò một vòng trong phòng. Khi trở dậy anh ta không nhớ gì, không biết gì
về lệnh bò trong phòng trong giấc ngủ thôi miên. Nhưng đến giờ theo lệnh đã
quy định, người đó bứt rứt không yên giả vờ đi tìm một cái gì đó trong phòng
và sau đó đã bò một vòng trong phòng như lệnh đã ra, mặc dù anh ta tưởng
là mình tự làm việc này. Thí nghiệm này chứng tỏ:
1- Có sự hiện diện của vô thức và chủ thể đã hiểu và ghi nhận một
mệnh lệnh nhất định. Điều mà bộ máy sinh lý không làm được.
2 - Có sự can thiệp của vô thức vào ý thức dưới hình thức phản ứng có
kỳ hạn.
3 - Ý thức của chúng ta có thể tạo ra nhiều lý lẽ hợp lý nhưng giả tạo và
bịa đặt. Những lý lẽ này không phải là căn nguyên thực của hành động (mà
thực sự là vô thức ngấm ngầm chi phối).
+ Nguồn gốc của vô thức: Nguồn gốc của vô thức là những bản năng
nguyên thủy mang tính sinh vật. Bản năng này có trong quá trình phát triển
chủng loại. Ngoài ra những ước mơ, thèm khát, những dục vọng không được
thỏa mãn, bị đè nén tích tụ sẽ trở thành vô thức.
+ Năng lượng của đời sống tinh thần bắt nguồn từ hai xu hướng có
nguồn gốc sinh vật trong cơ thể con người. Đó là xu hướng Eros (thần ái tình
trong thần thoại Hy Lạp) và xu hướng Thatanos (theo từ Hy Lạp có nghĩa là
chết).
Eros là xu hướng sống, năng lượng libido. Libido là những khát vọng,
khoái cảm, là những bản năng đam mê tình dục. Những đam mê tình dục tạo
nên nhu cầu tình dục ở mỗi người. Nhưng nhu cầu này luôn luôn bị xã hội
ràng buộc theo những chuẩn mực nhất định: ông cho rằng bệnh tâm thần
chẳng qua là sự tan rã của nhân cách do sự chèn ép các đam mê tình dục
gây ra. Trong đời sống con người đam mê tình dục trở thành nguồn năng
lượng quan trọng. Năng lượng này bị chèn ép đòi hỏi phải được giải thoát.
Nếu không được giải thoát ra ngoài xã hội thì nguồn năng lượng libido sẽ
thoát ngay trong chính bản thân mình. Nguồn đam mê tình dục là nguồn năng
lượng vô tận. Nó cung cấp năng lượng cho hoạt động con người.
Thatanos là xu hướng tự nhiên của cơ thể trở về trạng thái vô cơ. Xu
hướng này được hòa trong hệ cơ và được hiện ra ngoài như là bản năng xâm
hại, biểu hiện hành động phá phách, tàn sát, chém giết trong chiến tranh.
Cả hai bản năng tình dục và bản năng xâm hại có nguồn gốc sinh vật là
hoạt động lực chính cho đời sống tinh thần của con người. Song bản năng
tình dục đóng vai trò quyết định trong việc cung cấp năng lượng hoạt động
của con người.
Mặc cảm là khái niệm trung tâm trong bản năng tình dục. Nó là hệ
thống biểu tượng phát minh trong vô thức chứa chất xúc cảm ngấm ngầm chi
phối ý thức. Có nhiều loại mặc cảm: mặc cảm tự ti, mặc cảm hẫng hụt, mặc
cảm bị thiếu, mặc cảm ơdip. Mặc cảm ơdip được hình thành từ tuổi thơ, gắn
liền với tình dục tuổi thơ.
Mặc cảm ơdip biểu hiện ở đứa trẻ khoảng 5 tuổi những tình cảm phức
hợp vừa khâm phục cha (đối với cháu trai) song lại rất ghét cha và yêu mẹ,
muốn dành riêng mẹ cho mình. Đối với em gái thì ngược lại, Freud viết rằng:
"Vua Odip giận bố mình là vua Lai rồi lấy mẹ mình là Rocatxơ chẳng qua là
thực hiện ham muốn tình dục tuổi thơ của chúng".
Hẫng hụt. Khi chủ thể gặp phải trở ngại bên ngoài hoặc bên trong làm
cho chủ thể không thỏa mãn được sẽ gây ra mặc cảm hẫng hụt.
Hẫng hụt có thể gây ra những phản ứng khác nhau như xâm kích.
Phản ứng xâm kích chống lại sự trở ngại. Nhưng nếu như sự xâm kích không
thực hiện được thì nó quay lại chống đối tượng khác hoặc chống lại ngay bản
thân mình (tự xâm kích). Do cơ thể có xu hướng muốn làm giảm tuyệt đối sự
căng thẳng nên tự đảo lộn lại tổ chức, trở lại trạng thái vô cơ.
* Về nhân cách:
a - Cấu trúc nhân cách:
Hiểu được vô thức, năng lượng libido của Freud là cơ sở để hiểu cấu
trúc nhân cách của ông.
Theo ông tâm lý con người được tạo bởi ba khối: Vô thức, ý thức và
siêu thức. Ứng với 3 khối đó là cái ấy, tôi, siêu tôi.
- Khối vô thức là khối bản năng, trong có bản năng tình dục giữ vị trí
trung tâm.
Bản năng có tính chất cơ bản sau đây:
1. Đặc điểm chung của bản năng là bị kìm nén, nó là nguồn động lực, là
sức mạnh cho những hoạt động.
2. Mục đích của bản năng là hướng đến sự thỏa mãn bằng cách trực
tiếp hay gián tiếp.
3. Bản năng hướng đến khách thể. Thế giới bên ngoài là đối tượng để
bản năng thỏa mãn. Bản năng đòi hỏi khách thể phải thỏa mãn ngay lập tức
và trực tiếp.
4. Chi phối toàn bộ đời sống hoạt động tâm thần của con người.
Khối vô thức (cái ấy) là thùng năng lượng tâm thần chứa chất những
khát vọng bản năng sục sôi.
Hoạt động của "cái ấy" theo nguyên tắc khoái cảm đòi hỏi sự thỏa mãn
ngay lập tức những khát vọng bản năng.
- Khối ý thức tương đương với cái "tôi". Cái tôi được hình thành do áp
lực thực tại bên ngoài, đến toàn bộ khối bản năng. Nó bảo đảm các chức
năng tâm lý như chú ý, trí nhớ v.v... Hoạt động của cái tôi theo nguyên tắc
thực tại. Con người phải dùng một năng lượng đáng kể để kiềm chế và kiểm
soát những bản năng phi lí của cái ấy. Nhiệm vụ của cái tôi là làm cho cái ấy
thỏa mãn mà không làm tổn hại đến cơ thể, làm giảm sự căng thẳng một cách
tốt nhất. Cái tôi có tính chất tự chủ. Nó tự chủ về nguồn năng lượng từ trong
cấu trúc riêng của nó hoặc trong thùng năng lượng của bản năng tình dục
được trung hòa. Nó còn tự chủ với môi trường, chọn lọc những kích thích của
môi trường.
- Siêu tôi (Superego): Siêu tôi là tổ chức bên trong bao gồm tất cả
phạm trù xã hội, đạo đức, nghệ thuật, giáo dục.
Siêu tôi hoạt động theo nguyên tắc kiểm duyệt.
Cả 3 khối này theo nguyên tắc chung là ở trạng thái thăng bằng tương
đối. Con người lúc ấy ở trạng thái bình thường. Nhưng cả 3 khối này luôn
luôn xung đột với nhau, sự xung đột này là cơ chế của hoạt động tâm thần.
Từ đó Freud nêu ra cơ chế hoạt động tâm lý của con người. Đó là cơ
chế kiểm duyệt, chèn ép, cơ chế biến dạng, cơ chế siêu thăng, cơ chế suy
thoái.
Con người sống gồm các bản năng. Xu hướng của các bản năng này là
luôn luôn vươn lên chiếm đoạt những cái khác (cái tôi và siêu tôi). Nhưng cái
tôi không bao giờ cho cái bản năng xâm nhập vào để lấn chiếm nó. Cái bản
năng không thể xâm lấn được cái tôi vì có cái hàng rào ngăn cách giữa cái
siêu tôi và cái "cái ấy". Cơ chế ngăn cách đó gọi là cơ chế chèn ép. Những
cái bản năng không thể bị chèn ép mãi, nó tìm cách thoát ra. Do đó nó phải
biến dạng bằng một hình thức nào đó, gọi là cơ thể biến dạng. Bệnh tâm
thần, bệnh nói lắp, nói nhịu là hình thức biến dạng của cái tôi bị chèn ép.
Trong trường hợp nó không thoát lên được thì nó siêu thăng. Chẳng hạn như
trường hợp của danh họa Leonadơ Vanh xi - ông là nhà hội họa kiệt xuất đã
biến cái say mê tình dục thành say mê nghệ thuật.
Cái siêu tôi xuất hiện từ mối quan hệ đứa trẻ ngay từ những ngày đầu
với gia đình. Sự dạy dỗ, những quy định của bố mẹ và những người nuôi dạy
trẻ. Cái siêu tôi không chỉ thể hiện trong sự cấm đoán của cha mẹ mà còn thể
hiện trong truyền thống của thế hệ trước truyền lại trong giống loại trong dân
tộc.
Cơ chế tâm lý của việc hình thành siêu tôi là sự đồng nhất hóa. Cá
nhân đồng nhất hóa với bên ngoài (cha mẹ và những người giáo dục). Những
phẩm chất đạo đức - văn hóa của cha mẹ, người lớn được trẻ em đồng nhất
hóa và tạo ra những phẩm chất riêng của chúng.
Theo tâm lý học phân tích hành động của con người diễn ra phù hợp
với các lớp nhân cách được mô tả ở trên. Đó cũng là bản chất của cấu trúc
nhân cách.
b- Các giai đoạn phát triển nhân cách.
Freud chia ra 4 thời kỳ phát triển nhân cách. Nhân cách trẻ phát triển từ
lúc sơ sinh đến lúc trưởng thành. Các giai đoạn này trùm lấn lên nhau không
có ranh giới rõ rệt.
Ba giai đoạn đầu gọi là tiền sinh dục, gồm có:
- Giai đoạn lỗ miệng (Oral) có từ lúc trẻ mới sinh trong giai đoạn này trẻ
tìm thấy khoái lạc với việc mút vú mẹ và các động tác quanh vú cũng như các
hoạt động quanh lỗ miệng. Trẻ có thể dùng ngón tay sờ mó hoặc cho vào
mồm để thỏa mãn lạc thú. Tất cả những đồ vật quanh nó đều là đối tượng để
chúng thỏa mãn lạc thú lỗ mồm. Nếu trong giai đoạn này bố mẹ ngăn cản trẻ
mút thì sau này sẽ gây ra hội chứng nhân cách: nói nhiều, tham ăn, ỷ lại, thụ
động.
- Giai đoạn hậu môn Anales. Giai đoạn này thể hiện ở trẻ năm thứ hai
và năm thứ ba. Đứa trẻ chú ý tập cho đại tiện đúng phép. Bố mẹ chú ý đến
đại tiện của trẻ và bài trừ những tật xấu của trẻ trong khi đại tiện. Do đó trẻ
chú ý tới hoạt động hậu môn.
Freud cho rằng trong giai đoạn này trẻ đó bắt đầu hình thành nhân
cách. Có mối quan hệ giữa giai đoạn này với một số đặc điểm nhân cách trẻ.
Đó là kiểu người hậu môn tính chất kiểu người này là tự yêu, tự mâu thuẫn,
khuôn phép, phục tùng, bị ép buộc, kiềm chế quá đáng.
- Giai đoạn âm vật và dương vật. Giai đoạn này trẻ chú ý đến bộ phận
sinh dục, nảy sinh ra tình cảm lãng mạn đối với cha hoặc mẹ khác giới. S.
Freud gọi hiện tượng này là mặc cảm ơdíp.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong việc phát triển nhân cách.
Những biểu hiện quyến luyến tình dục này có rất sớm ở trẻ. Trẻ có thể chú ý
đến hình thức của đối tượng khác giới như tóc, quần áo, đặc biệt đối với trẻ
nhi đồng thiếu niên đã có hiện tượng này.Trẻ tìm lấy lạc thú trong việc tự kích
thích bộ phận sinh dục của mình. Trẻ có thái độ tiêu cực đối với đối tượng
tình dục. Vì vậy cha nhẹ đứa trẻ luôn luôn chú ý đến con cái. Điều đó đã gây
cho trẻ lo lắng, sợ hãi và có phản ứng tự vệ. Trong trường hợp bình thường
trẻ tự vệ bằng cách đồng nhất hóa với cha hay mẹ. Trẻ trai bắt chước các
hành động và tính cách của người cha. Trẻ gái lại bắt chước mẹ. Quá trình
đồng nhất hóa với cha hoặc mẹ sẽ dẫn tới tập nhiễm văn hóa. Đó chính là
quá trình xã hội hóa đứa trẻ.
Đặc điểm của giai đoạn này trẻ biểu hiện bằng hành động ác dâm và tự
hành hạ mình - Sadisme (ác dâm) và Masochistie (tự hành hạ). Ác dâm
thường thể hiện trong lời nói mồm và tay. Tự hành hạ mình là làm cho mình
đầu đón về tâm lý cũng như về vật lý để thỏa mãn tình dục. Theo ông tất cả
con người bình thường đều có giai đoạn tự hành hạ mình để có cảm giác lạc
thú hoặc cảm thấy có nguồn gốc gây ra lạc thú, ác dâm thể hiện trong vòng
sinh dục của mình, và ở loài vật và gây đau đớn cho con người. Khuynh
hướng ác dâm thể hiện nhiều mức độ khác nhau đối với cảm giác lạc thú ở
từng người. Đối với đối tượng khác giới người có tính ác dâm lại đem lại sự
đau đớn cho họ, ví dụ như cắn xé, đánh đập, xỉ vả hành hạ họ thì mình mới
thỏa mãn.
Trong giai đoạn tiền sinh dục cá nhân hướng đến bản thân mình. Đến
giai đoạn thứ 4 cá nhân hướng ra đối tượng bên ngoài. Giai đoạn này đứa trẻ
bắt dầu hướng ra ngoài để thỏa mãn tình dục bắt đầu từ tuổi dậy thì. Thời kỳ
này bản năng tình dục ở trạng thái tiềm tàng. Các năng lượng của con người
được sử dụng ở mục đích khác nhau như đi học, vui chơi, bắt chước. Hoặc
có thể có trẻ hướng ra đối tượng khác giới để làm tình.
Đánh giá học thuyết phân tâm của S. Freud.
Đánh giá học thuyết Freud là một vấn đề phức tạp, có nhiều ý kiến khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có xu hướng thì quá đề cao học thuyết
Freud: cho đây là một phát kiến vĩ đại của loài người về mặt vô thức. Xu
hướng thứ hai lại phủ định học thuyết này vì cho rằng học thuyết này chỉ dựa
vào bản năng tình dục để cải quyết hiện tượng tâm lý con người. Điều đó là
phi lý. Xu hướng thứ ba trung hòa giữa hai xu hướng thứ nhất và thứ hai.
- Về mặt triết học, Freud chịu ảnh hưởng triết học Lepnich. Lý thuyết
bản thể luận của Freud là lấy từ triết học của Lepnich. Theo Lepnich thế giới
được tạo ra từ đơn tử đơn giản đến đơn tử phức tạp. Đơn tử đơn giản tạo
nên thế giới vô sinh, đơn tử phức tạp tạo nên thế giới hữu sinh. Trong con
người mỗi đơn tử có thể có nhiều trạng thái, trạng thái ý thức và trạng thái vô
thức. Vì vậy, con người có lúc nhận thức được, có lúc không nhận thức được.
Lúc không nhận thức được thì gọi là vô thức. Khái niệm vô thức được Freud
quan tâm đặc biệt và đã trở thành khái niệm trung tâm trong học thuyết của
Freud.
S Freud còn chịu ảnh hưởng của triết học Sophehanơ (1788 - 1860).
Đây là nhà triết học duy tâm đề ra thuyết phi lý và lực phi lý. Ông cho rằng
bản chất thế giới là ý chí toàn cầu. Đó là loại ý chí mù quáng vô nghĩa. Sau
này trong học thuyết của mình Freud cho rằng bản năng phải thắng ý thức,
phi lý phải thắng lý trí. Cái phi lý chính là cái vô thức mà Freud quan niệm
trong học thuyết của mình.
Về mặt triết học S. Freud không có đóng góp gì, thậm chí là trái với
luận đề của chủ nghĩa Mác. Không thể chỉ lấy vô thức làm cơ sở để xây dựng
khoa học tâm lý và lấy vô thức để giải thích mọi hiện tượng xã hội là điều
không thể chấp nhận được.
- Về mặt y học. Học thuyết phân tâm học có giá trị nhất định về mặt y
học. Trước hết Freud đưa ra phương pháp chữa bệnh tâm thần mới, khám
phá ra những mặc cảm vô thức và từ đó đưa ra phương pháp chữa bệnh tâm
thần. Ông đã chỉ ra một số hiện tượng vô thức như viết nhầm, nói nhảm, nói
nhịu và các triệu chứng khác của bệnh. Ông còn vạch ra nguyên nhân của
bệnh. Đó là những xung đột giữa sự mong muốn và hiện thực. Ông đã đề ra
phương pháp chữa bệnh tâm thần có chú ý đến quy luật tâm lý lâm sàng, đặc
biệt chú ý đến quá trình hình thành cái vô thức và vai trò của nó đối với hành
vi con người.
Song lý luận y học của ông là không vững chắc chỉ mới là giả thuyết
trong lĩnh vực y học mà thôi. Luận điểm xuất phát chính của ông là tình dục
tuổi trẻ. Ông cho đó là nguyên nhân của nhiều bệnh. Luận điểm này không
xác đáng và mang tính chủ quan. Ông cho rằng những rối loạn tình dục trẻ
thơ là nguyên nhân dẫn đến rối loạn thần kinh ở tuổi trưởng thành. Mặc dù
chưa có ai bác bỏ được quan điểm này của Freud một cách thành công,
nhưng chúng ta cũng thấy không phải bất kỳ bệnh thần kinh nào cũng xuất
phát từ rối loạn tình dục tuổi thơ. Nhiều bệnh tâm thần gắn liền với điều kiện
gia đình và xã hội mà cá nhân sống.
Ông cho rằng tình dục là lĩnh vực không ý thức được. Do đó khi chưa
bệnh ông thường gợi cho bệnh nhân nói về quá khứ của mình. Khi bệnh nhân
dừng lại là dấu hiệu sự từng trải của họ. Thầy thuốc cần tập trung khai thác.
Như vậy những luận điểm trong y học của.Freud đều chưa có cơ sở khoa học
xác đáng, cần có sự nghiên cứu làm sáng tỏ hơn.
- Về mặt tâm lý học: Đóng góp to lớn của S. Freud là đưa ra giả thuyết
về vô thức, tiềm thức là những mặt quan trọng trong đời sống tâm lý của con
người. Ngày nay người ta đã thừa nhận vô thức là có thật trong đời sống tâm
lý con người. Trong hội nghị về vấn đề vô thức ở Tbilixi năm 1979 người ta đã
kết luận vô thức có tồn tại trong làm thần con người. Nhà tâm lý học Pasin
cho rằng hoạt động vô thức là một vấn đề to lớn mà các khoa học về con
người cần đi sâu. Vấn đề vô thức là vấn đề lớn trong hành vi con người cũng
như vấn đề của nhân cách. Hiện nay khoa học ngày càng làm sáng tỏ vấn đề
vô thức. Nhưng tâm lý học cũng chưa có khả năng hiểu hết được vấn đề này.
Những học thuyết phân tâm học về vô thức là viên gạch đặt nền móng cho
việc nghiên cứu tâm lý học trong tương lai. Mặt khác đóng góp của Freud còn
ở chỗ đưa ra một số cơ chế tâm lý như cơ chế tự vệ, dồn nén, các mặc cảm,
đồng nhất hóa, các giai đoạn phát triển nhân cách. Những khái niệm này hiện
nay được làm phong phú thêm trong tâm lý học.
Tuy nhiên học thuyết phân tâm học cũng có những sai lầm. Nó đối lập
hoàn toàn với nguyên nhân của tâm lý học Mác xít. Nó tách rời điều kiện xã
hội với việc hình thành nhân cách, và cho rằng cái sinh vật và vô thức là yếu
tố quyết định việc hình thành nhân cách. Đối tượng của tâm lý học không phải
là ý thức mà là vô thức. S. Freud đã tuyệt đối hóa bản năng tình dục của con
người. Coi sự thỏa mãn tình dục là động lực của hoạt động. Ông giải thích
mọi hiện tượng của đời sống xã hội thông qua tình dục. Mọi hiện tượng xã
hội, tệ nạn, chiến tranh đều do bản năng tình dục gây nên. Điều đó không thể
chấp nhận được.
Chủ nghĩa sinh vật trong học thuyết phân tâm biểu hiện quá lộ liễu,
dung tục, nên một số người cộng tác với Freud cũng như học trò của ông
phải rời bỏ học thuyết Freud và hình thành học thuyết phân tâm học mới phát
triển theo nhiều trường khác nhau. Tiêu biểu của các hướng đó có Karl Jung,
Alped Adler và Erich Fromm.
2. Phân tâm học mới về nhân cách
a) Karl Jung về nhân cách.
Karl Jung (1879 - 1961) là bạn và người cộng tác với Freud, là người
phát triển học thuyết Freud theo một hướng mới.
Karl Jung bắt đầu sự nghiệp là bác sĩ trong bệnh viện thần kinh ở Thụy
Sĩ.
- Về vô thức: ông phê phán lập trường của Freud về vô thức. Ông cho
rằng hành vi con người được điều chỉnh bằng vô thức cả ý thức. Đó là quá
trình điều chỉnh tổng hợp, là một hệ thống tự điều chỉnh.
Ý thức được hiểu là mối quan hệ của nội dung cái tôi. Ý thức không
đồng nhất với tâm lý mà còn có vô thức nữa. Vô thức là hiện tượng được thể
hiện ở sự quên, những kinh nghiệm đã được xác định trước đây bị ức chế,
che lấp chưa trở về được với ý thức.
Ông cho rằng con người có vô thức đạo đức bẩm sinh. Các hoạt động
của con người có tính chất bản năng và tạo thành vô thức tập thể. Điều đó
được thể hiện trong nền văn hóa dân tộc cũng như trong nghệ thuật. Chúng
có những biểu tượng tượng trưng cho mọi thời đại và mọi nơi. Mỗi dân tộc có
những truyền thuyết, thần thoại riêng đặc trưng cho biểu tượng của dân tộc
đó. Ví dụ hình ảnh con rồng đặc trưng cho nền văn hóa Việt Nam, hình ảnh
chú bé Thánh Gióng trong thần thoại Việt Nam là biểu tượng có tính chất tập
thể. Ông cho rằng có vô thức tập thể, bởi vì mỗi người đều tiềm tàng trong
mình một di sản tinh thần được truyền từ nhiều thế hệ trong nền văn hóa dân
tộc và nền văn minh nhân loại.
Bản năng con người có tính chất tập thể, mỗi hiện tượng của xã hội
đều giống nhau cho mỗi cá nhân. Vì vậy, hình thức phản ứng của mỗi cá
nhân cũng giống nhau. Vô thức tập thể được hình thành từ tổng số các bản
năng và hình mẫu cổ sơ...
Jung không thừa nhận bản năng tình dục của Freud là quyết định tâm
lý con người. Nhưng ông lại thừa nhận trong con người có vô thức như Freud
đã quan niệm. Vì vậy, về bản chất học thuyết của Jung vẫn là học thuyết phân
tâm được cải biên thành học thuyết phân tâm học mới.
- Cấu trúc nhân cách theo Jung
Thế giới bên ngoài
Nhân cách (Person)
Ý thức
Tôi
Cá nhân Cái bản thân Vô thức
Phần cá nhân
Nó
Trong tập thể
Vô thức
Nhân cách nguyên thuỷ Vô thức
Vô thức tập thể
Qua cấu trúc này, cái tôi là trung tâm của ý thức. Nhân cách là người
mẹ của ý thức và vô thức là mẹ của tâm lý tập thể và tâm lý cá nhân.
Cái bản thân (Selbst) nằm giữa ý thức và vô thức. Cái bản thân là sự
tổng hợp cái bên trong và cái bên ngoài.
Đối với người đàn ông trong vô thức tập thể của họ có người đàn bà.
Người đàn bà là hình ảnh nguyên thủy trong vô thức tập thể của đàn ông. Đó
là người mẹ.
Kiểu nhân cách. Jung chia nhân cách làm 2 loại: Loại nhân cách hướng
nội và loại nhân cách hướng ngoại. Cả 2 kiểu đều thể hiện mối quan hệ đối
với thế giới bên ngoài.
Kiểu hướng ngoại và hướng nội đều có chức năng tư duy, chú ý, tình
cảm, ý chí. Về bản chất các kiểu này đều sử dụng năng lượng tâm lý để thực
hiện chức năng của mình.
Nhưng kiểu hướng ngoại về bản chất là hướng ra thế giới bên ngoài,
sử dụng năng lượng vào mục đích khách thể. Còn nhân cách hướng nội năng
lượng sử dụng vào các quá trình bên trong là chủ yếu.
Về nhân cách Jung cho rằng con người có 3 lớp vô thức.
Những vô thức này chi phối số phận con người trong việc chọn lựa tình
yêu, bạn bè, nghề nghiệp, trong ốm đau, chết chóc.
+ Lớp thứ nhất là vô thức cá nhân thể hiện trong cuộc sống hàng ngày.
+ Lớp thứ hai là vô thức gia đình thể hiện trong động lực gây ra đồng
tính luyến ái vô thức và sự trỗi dậy của bản năng.
+ Lớp thứ ba là vô thức tập thể xuất phát từ hình tượng cổ sơ có nguồn
gốc văn hóa chủng tộc.
Quan điểm của Jung về nhân cách còn gọi là lý luận nhân cách tầng
sâu.
Lý luận nhân cách tầng sâu xuất phát từ quan niệm vô thức. Vô thức
được xác định bằng những sự kiện của hành vi.
Những nét nhân cách và sự hư hỏng nhân cách là do xung đột có tính
chất bản năng của hành vi. Đó là những bản năng trực tiếp và bản năng tức
thời.
Lý luận nhân cách tầng sâu là một khám phá mới về vô thức. Song điều
này chưa đủ để nói lên bộ mặt nhân cách con người. Nhân cách con người
còn thể hiện ở những phẩm chất khác như năng lực, khí chất cũng như bộ
mặt đạo đức trong nhân cách con người. Những cái này Jung chưa đi sâu
nghiên cứu.
b) Alfred Adler (1870 - 1937).
Nhà tâm lý học người Áo. Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu được
công bố ở châu Âu và Mỹ. Là nhà nghiên cứu tâm lý học cá nhân, Adler đã
dùng phương pháp của tâm lý học phân tích trong nghiên cứu của mình.
Song về nội dung ông xuất phát từ quan niệm năng lực tâm hồn và nhấn
mạnh đến hành vi xã hội.
Ông cho rằng tất cả hành vi của con người đều chịu ảnh hưởng của xã
hội. Nhân cách thống nhất với hoàn cảnh và môi trường xã hội.
Trong tư tưởng cơ bản của ông vẫn là vô thức bản năng hay là năng
lượng tâm hồn là những cơ chế của tính tích cực, của xung đột và là cơ chế
bảo vệ.
- Về quan niệm nhân cách, ông cho rằng "Đời sống tâm hồn của con
người là mục đích đã vạch sẵn".
Tính mục đích có các hình thức sau đây:
+ Tính sinh vật có chức năng bẩm sinh.
+ Tính xã hội là hiện tượng đời sống có ảnh hưởng đến cộng đồng,
mang tình cảm xã hội.
+ Tính hợp lý đối với ý thức đối với hành động có kế hoạch của con
người.
Những mục đích này định hướng hành vi hoạt động của con người.
Trong đó chức năng tâm hồn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển
nhân cách. Nó là cơ quan bảo đảm sự thích ứng của con người trong xã hội.
Ông đề ra nhân cách kém cỏi và sự cố gắng bù trừ.
Theo ông con người bao giờ cũng cảm thấy mình kém cỏi có những
thiếu sót và phải cố gắng bù đắp những thiếu sót đó.
Trong cuộc sống con người luôn luôn muốn mình hơn người khác: cố
gắng vươn lên. Sự cố gắng vươn lên đó có người vượt quá mức tạo thành
siêu việt hơn người. Con người còn có sự bù trừ siêu đẳng. Khi có nhược
điểm trong lĩnh vực này lại thành siêu đẳng trong lĩnh vực khác..
Ví dụ một cô gái kém cỏi về nhan sắc thì lại bù trừ trong lĩnh vực học
hành. Cơ chế bù trừ của Adler khác với cơ chế bù trừ ở Freud là ở chỗ sự bù
trù trong quan niệm của Freud xuất phát từ động cơ tình dục, còn bù trừ của
Adler xuất phát từ động cơ xã hội.
Sự bù trừ là có thật trong đời sống con người. Nhưng sự bù trừ này
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố xã hội có tính chất quyết định. Ở
đây Adler quá thổi phồng tính chất bù trừ trong đời sống con người, mà không
thấy vai trò hoạt động con người trong xã hội.
c) Erich Fromm.
Một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng hiện nay theo xu hướng
Freud mới là Erich Fromm (1901). E.Fromm sinh ở Phrăngphuốc (đầu thế kỷ
20) sau sang Mỹ, trở thành nhà phân tâm học Mỹ. Ông có ý đồ pha trộn phân
tâm học của Freud và học thuyết xã hội học của Mác vào nhau là xây dựng
nên lý thuyết "chủ nghĩa nhân đạo mới". Ông cho rằng Mác và Freud đều vẽ
nên một mẫu người trong xã hội tư bản. Trong xã hội này con người làm ra
máy móc, và đồng thời con người cũng hoạt động như một cái máy. Chính vì
vậy trong xã hội đó con người không có nguồn vui thật sự, con người không
có tình cảm, không có lý trí và không có tình yêu. Ông tìm thấy con người tự
do trong nhân cách của Freud và con người tự do trong xã hội của Mác. Về
tâm lý học, Froom cho rằng cơ chế tự nhiên và xã hội trong con người là vô
thức, đó là cái phi lý, hạt nhân của nhân cách. Nó biểu hiện sự mong muốn
vươn tới cái hài hòa toàn diện của con người. Ông cho rằng nhu cầu tạo ra
cái tự nhiên trong con người. Những nhu cầu đó là: 1) Nhu cầu quan hệ giữa
người và người; 2) Nhu cầu tồn tại "cái tâm" con người; 3) Nhu cầu về sự bền
vững và hài hòa; 4) Nhu cầu đồng nhất bản thân và xã hội với dân tộc, với
giai cấp, với tôn giáo; 5) Nhu cầu nhận thức, nghiên cứu. Những nhu cầu này
là thành phần tạo nên nhân cách. Bên cạnh thừa nhận cái tự nhiên trong con
người, ông còn nói đến yếu tố xã hội. Song trong xã hội có các nhóm, các
thành phần song song với nhau. Ví dụ, gia đình song song với xã hội, nhân
cách song song với tiến bộ xã hội. Chính vì vậy ông cho rằng tiến bộ xã hội là
do tâm lý con người.
Ông không chỉ nghiên cứu về con người mà còn nghiên cứu môi
trường xã hội. Ông cho xuất bản cuốn "Lí luận xã hội" (1970) nhằm trình bày
"những cơ sở linh hồn của xã hội mới". Trong tác phẩm "Hữu thời hay chính
thời" ông cho rằng động lực kích thích hành vi con người gồm có hữu thời và
chính thời. Hữu thời được hiểu là cái tôi sở hữu, đi liền với nguyên tắc vô
nhân đạo, theo xu hướng cầu lợi, sự tham lam. Theo Freud hữu thời đó là
dấu hiệu xã hội vô nhân đạo - tức là xã hội tư sản. Hữu thời vận động không
ngừng vì ở trong điều kiện của nền kinh tế tư bản. Để cho con người tốt hãy
rời bỏ hữu thời đến với chính thời. Con người chính thời không thèm muốn gì
cả, con người ở chốn cực lạc, đầy vui sướng, mọi khả năng của con người
đều được tận dụng.
Ông mưu toan lấy vấn đề sinh học để thay thế cho quy luật xã hội, từ
đó điều chỉnh xã hội. Trong xã hội tư bản vấn đề xâm lược làm cho ông lo
lắng và tìm cách giải thích. Theo ông xâm lược với nghĩa tốt sẽ dẫn tới hành
vi yêu đương. Còn xâm lược xấu là nguy cơ đe dọa cuộc sống riêng của con
người. Sự xâm lược là bản năng của con người. Sự ham mê của con người
cũng là bản năng tự nhiên nhờ đó mà cuộc sống luôn luôn vươn lên.
Lý luận xã hội của ông đã trở thành lý luận không tưởng. Ông vẽ ra mô
hình con người mới giữa các đặc điểm sau:
- Con người mới phải từ bỏ vật chất để sống thanh thản.
- Con người phải làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
- Phải có lòng yêu thương và trân trọng cuộc sống
- Phải trau dồi tình yêu thương vốn có.
- Phải khắc phục được tính tự yêu mình và chấp nhận tính chất hạn chế
trong cuộc sống con người.
Tất cả những đặc điểm này thật đáng quý nhưng đó chỉ là con người
trừu tượng chung chung không thể thực hiện trong xã hội tư bản.
Cái sai của Fromm là dung hòa giữa chủ nghĩa Freud và chủ nghĩa
Mác. Sự thật không thể có cơ sở tự nhiên nào do Freud tạo ra làm cơ sở cho
chủ nghĩa Mác. Đồng thời sự tiến bộ xã hội do động lực kinh tế quyết định
chứ không do yếu tố tâm lý nào như Fromm đã giải thích.
II. TRƯỜNG PHÁI GESTALT VỀ NHÂN CÁCH
Trong phần này chúng ta không có điều kiện nghiên cứu toàn bộ
trường phái Gestalt về nhân cách. Trong trường phái này có một số nhà
nghiên cứu nổi tiếng như Wutheme, Kohler, Kolfka. Đặc biệt nhà nghiên cứu
nổi tiếng nhất trong trường phái này là Kurt Lewin. Nếu như hầu hết các nhà
tâm lý học Gestalt quan tâm đến vấn đề tri giác, lục tập tư duy, thì K. Lewin lại
quan tâm đến vấn đề động cơ, nhân cách và tâm lý học xã hội. Ông không chỉ
là nhà tâm lý học nổi tiếng mà còn là nhà sinh vật học, nhà vật lý, nhà toán
học, nhà nghệ thuật và là nhà văn.
Về mặt tâm lý ông đưa ra thuyết "trường tâm lý". Vấn đề trường tâm lý
không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong nhân cách mà còn có ý nghĩa to lớn
trong tâm lý học xã hội. Theo ông thế giới xung quanh ta là thế giới của các
sự vật và có những tiến tự nhất định. Vì vậy, con người luôn luôn tồn tại trong
một hoàn cảnh, một trường tâm lý nào đó. Giữa chủ thể và môi trường có sự
tác động qua lại thường xuyên. Bằng thực nghiệm ông đã chứng minh sự có
mặt của trường tâm lý và tiến trị của sự việc. K. Lewin nêu một ví dụ về tiên trị
dương và tiên trị âm. Có một đứa trẻ đi chơi thấy một phiến đá. Nó đi vòng
quanh phiến đá, vỗ tay vào phiến đá, nhưng không ngồi lên phiến đá. Ông
cho rằng phiến đá có tiên trị dương, có nghĩa là phiến đá này đã lôi kéo đứa
trẻ làm cho nó muốn ngồi lên đó. Trẻ có hành động muốn ngồi trên phiến đá,
tức là trẻ hướng tới tiên trị dương. Hòn đá mang tiên trị dương:
Hòn đá
P↑ Đứa trẻ
K. Lewin còn đưa ra một ví dụ nữa để chứng minh cho sự xuất hiện của
trường nhân cách.
Ông mời tất cả các khách thể thực nghiệm vào trong một phòng. Trong
phòng này có để các đồ vật khác nhau: bút chì, cái chuông, quyển vở, tạp chí
v.v.. Ông cho khách thể thực nghiệm biết mình được nghiên cứu trí thông
minh hoặc từ nhỏ.
Sau đó ông đề nghị khách thể thực nghiệm chờ một chút "tôi quên mất
rằng tôi phải đi gọi điện thoại đã" - Người thực nghiệm nói và đi ra khỏi phòng
- Nhưng sau đó ông bí mật quan sát những người được làm thực nghiệm sẽ
làm gì khi còn một mình trong phòng. Ông thấy rằng khi thực nghiệm trên sinh
viên, giáo sư, hoặc bất kỳ một người nào đó với đồ vật - một số thì lật sách,
số khác thì bấm chuông, cầm bút chì hoặc cầm một vật nào đó. Từ đó ông đặt
câu hỏi, người lớn đứng đắn như vậy lại làm những động tác đó và ông tự trả
lời rằng trong hoàn cảnh mà chủ thể không hình thành một ý định rõ rệt, tức là
chủ thể không thực hiện một hành động có ý nghĩa thì hành vi lúc này trở
thành hành vi "tức cảnh" do trường quy định – Hành vi tức cảnh hay hành vi
trường đó là hành vi thoáng qua. Ông cho rằng môi trường xung quanh có
khả năng gây ra hành động hướng về sự vật có tiên trị dương và tránh xa sự
vật có tiên trị âm. Như vậy, sự vật nào cũng có một tiên trị nhất định. Tiên trị
này tồn tại nhờ khả năng nhu cầu của con người. Sự vật nào cũng nhằm thỏa
mãn một nhu cầu nào đó.
Phân tích các thực nghiệm, K. Lewin cũng thấy rằng có những bộ phận
người thực nghiệm đứng ngoài "trường" và thực hiện hành động theo ý định
của mình. Còn khách thể thực nghiệm nào cảm nhận quyền lực của trường
thì phụ thuộc vào nó, thực hiện các hành động đối với trường. Thường những
người có hành động ý chí nào đó không chịu ảnh hưởng của trường. Hành vi
con người thực hiện theo 2 kiểu: kiểu thứ nhất hành vi được thực hiện phụ
thuộc vào nhu cầu của chủ thể với môi trường. Kiểu thứ hai không phụ thuộc
vào nhu cầu mà phụ thuộc vào môi trường. Trong trường hợp người bệnh
tâm thần thường phụ thuộc vào môi trường để hành động. Những người bình
thường cũng có hành vi tức cảnh phụ thuộc vào trường - Những phân biệt
giữa người có hành vi tức cảnh bình thường và người bệnh là ở người bình
thường hành vi tức cảnh ít hơn hành vi ý chí, còn ở người bệnh hành vi tức
cảnh nhiều hơn hành vi ý chí.
Về sau ông đưa ra khái niệm "không gian sống" để giải thích hành vi
của nhân cách - không gian sống bao gồm cả trường tâm lý.
Không gian sống - đó là nhân cách và hoàn cảnh trong mối tác động
qua lại lẫn nhau tạo nên hành vi trong một thời điểm nào đó - Không gian
sống được biểu hiện bằng không gian hai chiều trong đó có con người vận
động - Không gian sống chứa đựng con người, các mục đích con người tìm
đến, các mục tiêu mà con người lẩn tránh, các giới hạn của sự vận động và
con người để đạt mục đích đó.
Không gian sống của K. Lewin là tất cả những cái gì có ảnh hưởng tới
con người. Vì vậy, những vật nào không có ảnh hưởng tới nhân cách thì
không hiện ra trong không gian sống dù cho sự vật đó nằm bên cạnh. Ngược
lại một sự việc nào mà con người có nghĩ về nó và nó có quan hệ tới con
người thì sự vật ấy tồn tại trong không gian sống cho dù về vật chất nó không
tồn tại trước mắt của người đó. Một người nghĩ rằng một tai họa sẽ đến với
họ, họ sợ, mặc dù tai họa đó không có trước mặt họ, chỉ là tưởng tượng.
Song sự tưởng tượng tai họa đó vẫn có trong không gian sống của người đó.
Theo quan niệm của Lewin không gian sống không phải trong mọi
trường hợp con người đều có ý thức được nó. Một cá nhân có thể bị ảnh
hưởng các yếu tố của môi trường mà mình không ý thức được. Điều quan
trọng trong không gian sống là mục đích con người tìm đến hoặc xa lánh nó.
Vì vậy, ông cho rằng vị trí, sự vật hay hoàn cảnh mà cá nhân muốn tiếp cận
thì gọi là tiên trị dương (+). Bất kỳ cái gì mà cá nhân muốn tránh thì được xem
là tiên trị âm (-).
Lêwin biểu diễn hành vi của cá nhân trong môi trường như sau:
B = F (P,E)
B: Hành vi
P: Nhân cách
E: Môi trường xung quanh.
Hành vi B là hàm số của nhân cách P và môi trường xung quanh E.
Trong đó E là trường bên ngoài của cái lực và tác động cụ thể, còn nhân cách
P là trường bên trong của hệ thống sức căng (trường tâm lý bên trong). Con
người và môi trường là hai cực (mômen) của cùng một chính thể hành vi
(không gian sống).
Quan niệm của Lewin và không gian sống không phải là không gian
hình học hai chiều. Không gian hai chiều không thể biểu diễn được không
gian sống của ông. Do đó ông tạo ra không gian "địa thế học" (Topologia),
không gian này có thể đãn ra mọi phí mà không có sự khác biệt nào. Địa thế
học quan tâm đến biên giới các vùng, chứ không quan tâm đến hình thái và
kích thước các vùng. Lewin quan tâm đến tiên trị dương và tiên trị âm trong
vùng không gian sống. Tiên trị dương là nhằm thỏa mãn những nhu cầu nào
đó của cá nhân. Nhu cầu này có thể là nhu cầu cụ thể như kẹo đối với đứa
trẻ, thức ăn đối với con người, hoặc có thể là nhu cầu trừu tượng như nhu
cầu có một địa vị nhất định trong xã hội. Tiên tri âm có thể dùng cho những
hoàn cảnh đặc biệt như hình phạt đối với trẻ phạm khuyết điểm; cảm giác tội
lỗi khi có hành động giết người.
Các rào cản ngăn chặn hành động cá nhân tiến đến mục đích có thể là
cụ thể như cửa bị đóng mà không có chìa khóa để mở đối với người có nhu
cầu vào nhà, hoặc đề thi khó đối với học sinh, hoặc trừu tượng như một vị trí
xã hội nào đó mà cá nhân có nhu cầu hướng đến.
Nhưng con người cùng một lúc có nhiều tiên trị, cần phải chọn một tiên
trị nào đó để hướng đến. Để biểu diễn vấn đề này ông thêm vào không gian
sống một vectơ chỉ lực, chiều dài của vectơ là lực biểu diễn cường độ của
lực. Tâm lý địa thế sẽ cho ta biết hành vi có thể xảy ra. Nếu ta biết rõ về
không gian sống của con người, có những thông tin về người ấy thì có thể dự
đoán về hành vi của người ấy.
Lý luận và các công trình thực nghiệm của K. Lewin về không gian sống
đã đưa ông chiếm một vị trí cao trong tâm lý học nhân cách.
Các khái niệm "trường tâm lý", "không gian sống" thể hiện một phương
pháp mới miêu tả hành vi hiện thực của nhân cách. Ông đã khám phá ra động
lực của mối quan hệ cá nhân và hoàn cảnh, nhu cầu, nguyện vọng. Ông đã
sơ đồ hóa các khái niệm tâm lý bằng trường không gian, địa thế, véc tơ.
Song lý luận về trường không gian sống cũng có những khó khăn mà
không thể giải quyết được. Ví dụ ta không thể biết được cấu trúc của không
gian sống của một con người. Hoàn cảnh con người sống luôn luôn thay đổi
do đó không gian sống cũng thay đổi. Vì vậy, nếu dựa vào không gian sống
thì khó đánh giá được nhân cách con người.
Quan điểm của K. Lewin là quan điểm của trường phái Gestalt mang
cấu trúc trọn vẹn. Nhân cách được xét trong hoàn cảnh, trong nhóm, nhưng
những quy định về chính trị, kinh tế đối với hành vi nhân cách không được
ông để ý đến một cách thỏa đáng. Vì vậy, lý luận nhân cách của ông không
tách khỏi sự sơ lược trong quan niệm của Gestalt.
III. TÂM LÝ HỌC NHÂN VĂN VỀ NHÂN CÁCH
Tâm lý học nhân bản ra đời như là một khuynh hướng đối lập với tâm lý
học hành vi và phân tâm học. Nếu tâm lý học hành vi lấy điều kiện bên ngoài
quyết định cho tân lý con người thì phân tâm học lấy điều kiện bên trong làm
nguyên tắc quyết định. Tâm lý học nhân văn khác với hai khuynh hướng trên
là ở chỗ nó không tạo nên một bộ mặt lý luận thống nhất về nhân cách.
Trường phái tâm lý học nhân văn là sự tổng hợp nhiều khuynh hướng mới và
nhiều trường phái tư tưởng khác nhau. Nhưng những nhà tâm lý nhân văn
đều có chung những tư tưởng là tôn trọng con người, tôn trọng giá trị sáng
tạo, và trách nhiệm con người, tôn trọng các phẩm giá cá nhân con người.
Tâm lý học nhân văn nhấn mạnh đến cơ sở triết học về con người.
Trường phái nhân văn đã hình thành ở Mỹ gồm các nhà tâm lý học nổi
tiếng như C. Rogels, R. May, A. Mascou, G.Allport, Ch. Buhle, A. Sutich, J.
Bugental, K. Golds Tein, C Moustakas.
Những nhà tâm lý học nhân văn đã nêu lên các nguyên tắc hoạt động
của mình:
1 - Hướng đến việc nghiên cứu nhân cách và những kinh nghiệm của
con người là phương hướng nghiên cứu chính. Còn việc nghiên cứu hành vi
là phương hướng phụ trong việc nghiên cứu tâm lý con người.
2 - Dựa vào sự tự đánh giá, tự thực hiện, tự lựa chọn để đánh giá chất
lượng phát triển con người.
3 - Quan tâm đến giá trị tiềm năng bẩm sinh của mỗi con người, cũng
như những đặc điểm riêng của mỗi người.
Những nguyên tắc trên đã chỉ đạo trong việc nghiên cứu nhân cách con
người. Đặc điểm của tâm lý học nhân văn về nhân cách được thể hiện các
điểm sau:
- Nghiên cứu cá nhân trong mối quan hệ bên trong và bên ngoài.
- Quan tâm một cách tích cực vấn đề con người trong đó tính tự chủ đối
với hoàn cảnh khoa học, chính trị, tôn giáo cũng như các mục đích khác.
- Nhấn mạnh đến mặt chủ thể trong con người - tức là con người tự
nhìn thấy, cảm thấy, hiểu được bản thân mình và thế giới.
- Nghiên cứu những khái niệm và giá trị của con người ít quan tâm đến
nhưng sự kiện và những công trình thực nghiệm.
- Nhấn mạnh đến vị trí dương của nhân cách. Nghiên cứu nhân cách
phải đặc biệt quan tâm đến tính sáng tạo của con người, không quan tâm đến
việc nghiên cứu nhân cách bệnh.
- Không quan tâm nghiên cứu nhân cách trong quá khứ, mà chỉ tăng
cường nghiên cứu nhân cách trong hiện tại và tương lai. (Theo Bugental, J. F.
T, 1967).
Nếu như chủ nghĩa hành vi dựa vào phương pháp tư duy toán học và
thực nghiệm để nghiên cứu hành vi con người thì tâm lý học nhân văn đã dựa
vào những kinh nghiệm chủ quan để phân tích nhân cách con người. Họ từ
chối việc tiếp thu nhưng yếu tố tiến bộ của nhiều trào lưu tâm lý học tiến bộ,
mà lại quay về với truyền thống tôn giáo nên rơi vào quan niệm duy tâm, phản
khoa học. Sự ra đời của tâm lý học nhân văn là thể hiện sự khủng hoảng về
hệ thống phương pháp nghiên cứu về tâm lý học trong các nước tư bản chủ
nghĩa.
Để thấy rõ khuynh hướng này chúng tôi nêu ra một vài tác giả tiêu biểu.
Trước hết hãy kể đến nhà tâm lý học nổi tiếng Mỹ là Abruham H.
Maslow (1908 - 1970), đã từng là chủ tịch hội tâm lý nhân văn đầu tiên ở Mỹ.
Về nhân cách ông đưa ra hệ thống nhu cầu, quá trình nhận thức, triệu
chứng nhân cách và năng lực. Tất cả những yếu tố này tạo nên động lực thúc
đẩy hành vi con người. Động cơ thúc đẩy mạnh mẽ nhất là nhu cầu.
Theo ông có thể chia ra năm loại nhu cầu:
- Nhu cầu sinh lý: như nhu cầu thỏa mãn đói, khát, sinh dục, những nhu
cầu này có tính chất bản năng, có cả ở động vật.
- Nhu cầu an toàn: nhu cầu về sự yên ổn, trật tự và an ninh.
- Nhu cầu yêu thương, nhu cầu lệ thuộc.
- Nhu cầu được thừa nhận; nhu cầu thành đạt, kết quả, nhu cầu về
niềm tin.
- Nhu cầu tự thực hiện như nhu cầu sáng tạo, nhu cầu hiểu biết, nhu
cầu tri thức, nhu cầu nghệ thuật.
Các loại nhu cầu này được chia làm nhu cầu cấp thấp và nhu cầu cấp
cao.
+ Nhu cầu cấp cao
Nhu cầu tự thực hiện
Nhu cầu được thừa nhận
Nhu cầu yêu thương, lệ thuộc.
+ Nhu cầu cấp thấp
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu sinh lý.
Ông cho rằng nhu cầu sinh lý là mạnh nhất, còn nhu cầu tự thực hiện là
nhu cầu yếu nhất. Nhu cầu yêu thương - lệ thuộc là nhu cầu vừa cấp thấp
vừa cấp cao.
Thứ tự các nhu cầu được ông nêu ra là rất quan trọng.
Những nhu cầu này xuất hiện theo thứ tự trong quá trình phát triển
chủng loài, cũng như phát triển của cá nhân. Đồng thời đây cũng là thứ tự
thỏa mãn các nhu cầu đó. Nếu nhu cầu cấp thấp không thỏa mãn thì nhu cầu
cấp cao cũng không thể thực hiện được. Con người sống trong điều kiện
nghèo nàn thì chỉ chú ý đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu sinh lý và an toàn.
Sống trong điều kiện giàu có khi nhu cầu cấp thấp không còn đáng lo lắng
nữa thì người ta chú ý đến nhu cầu cấp cao. Nhu cầu tự thực hiện là nhu cầu
cao nhất nhằm phát triển tiềm năng của cá nhân. Nhu cầu này khác nhau ở
mỗi người bởi vì mỗi người đều có tiềm năng riêng khác nhau. Có người có
nhu cầu tự thực hiện trên lĩnh vực văn chương, người khác thì có nhu cầu
lãnh đạo, v.v... Những nhu cầu này không bị sự kiểm soát của xã hội. Nhưng
không phải ai cũng thực hiện được nhu cầu này, bởi vì còn những nhu cầu
khác chưa thực hiện được.
Maslow cho rằng tính xã hội nằm trong bản năng của con người.
Những nhu cầu như giao tiếp, tình yêu, lòng kính trọng đều có tính chất bản
năng đặc trưng cho giống người. Như vậy, theo Maslow "tính người" của nhu
cầu và các xung động của con người được hình thành và phát triển trong quá
trình phát sinh chủng loài. Các nhu cầu đều dựa trên cơ sở di truyền nhất
định. Chính vì vậy, học thuyết nhu cầu của Maslow có điểm giống học thuyết
S. Freud.
IV – CÁC XU HƯỚNG KHÁC VỀ NHÂN CÁCH Ở PHƯƠNG TÂY
A. Tâm lý học nhận biết về nhân cách (thấu cảm)
Để hiểu được tâm lí học hiện sinh ta hãy nghiên cứu những tác giả tiêu
biểu của "tâm lý học nhận biết".
Tâm lí học nhận biết cho rằng cái bản chất trong con người chính là sự
định hướng tinh thần của nó: sự định hướng này là mà bộ phận của nguồn
gốc tinh thần chung của nhân loại. Cải tạo nhân loại bằng phương pháp tinh
thần đó.
Tư tưởng đó ảnh hưởng nhiều đến các nhà tâm lí học hiện sinh, các
nhà triết học, nhà văn.
Đại biểu nổi tiếng của Tâm lí học nhận thức (thấu cảm) là E. Sprauger
(1882 - 1963).
Các luận điểm cơ bản của ông:
1) Cái tâm lí phát triển từ cái tâm lí.
2) Cái tâm tí dẫn tới sự hiểu biết trực giác các mẫu hoạt động của sự
sống.
3) Không nên tìm những nguyên nhân khách quan trong việc phát triển
nhân cách con người, mà tìm ở sự pha trộn giữa nhân cách và giá trị văn hóa
tinh thần của xã hội. Đó cũng là một thuộc tính của tinh thần.
Ông cho rằng cái chủ yếu trong nhân cách con người là sự định hướng
quý giá, nhờ đó mà con người có thể nhận biết thế giới. Sự định hướng quí
giá này là sản phẩm của trạng thái văn minh của nhân loại.
Ông phân biệt được xúc cảm và sự nhận biết. Sự nhận biết nằm ngoài
thời gian và vĩnh cửu. Còn xúc cảm chỉ là nhất thời. Vì vậy chỉ cần nói đến
nhận biết chứ không nói đến xúc cảm.
Theo ông nhân cách được thể hiện ở 6 mẫu người trong đời sống.
1) Mẫu người lý thuyết:
Là người hướng đến sự hiểu biết, nhận biết các quy luật, nhận biết bản
chất thế giới, nhận biết các mối quan hệ giữa con người với nhau. Mẫu người
lí thuyết này có thể là người bất kỳ: tiểu thương, thầy thuốc, kế toán viên. Đây
là loại người định hướng chủ yếu của cuộc sống là tư duy trên bình diện lý
luận về cái gì đang diễn ra, là thiết lập những quy luật nào đó. Bản thân ông
cũng thuộc loại người này.
Ông nói: "Con người lí luận ở dạng thuần túy chỉ biết có sự ham mê,
ham mê tính toán, ham mê học hỏi, ham mê lí giải xác lập mối quan hệ, lí luận
hóa. Những lo lắng quan tâm tách rời khỏi cuộc sống thực tiễn. Nó có thể bất
lực và tuyệt vọng trong tìm hiểu, phấn khởi vì phát hiện lí thuyết. Thế giới đối
với họ là phát triển vô tận các bản thể và các quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Nó
nhìn vào tương lai xa thẳm bao gồm nhiều thời đại. Nó liên kết trong mình
tính cụ thể, tính quy luật chung và luân lí học. Ở dạng tự nhiên và thuần túy
mẫu sống ấy được thể hiện ở các nhà bác học chuyên nghiệp. Những người
này chìm đắm trong thế giới khái niệm của mình và không thể tìm ra mối liên
hệ trực tiếp với bất cứ một hiện tượng nào. " Ông cho rằng Platon, Kant là
những đại biểu điển hình của mẫu người này.
2/ Mẫu người kinh tế:
Đặc trưng kiểu người này là tìm thấy sự lợi lộc trong nhận thức. Ông
không cho loại người này là ích kỷ chỉ nghĩ đến lợi ích riêng của mình. Loại
người này trong nhận thức của họ phải dẫn tới lợi ích, cho bản thân, cho gia
đình, cho cộng đồng, cho nhân loại. Ông cho rằng "nếu Kant là cái đầu thì
Lametri là cái tay". Kỹ thuật và kiến thức tự nhiên là mẫu người kinh tế.
Những người loại này có giá trị ở chỗ là vừa nhận thức vừa sáng tạo. Họ
hướng đến thực nghiệm để nhận thức thế giới.
Ông nói: Trong bình diện chung nhất của mẫu người kinh tế là mẫu
người đạt lợi ích trên hàng đầu trong mối quan hệ sinh hoạt đối với nó. Đối
với nó tất cả đều trở thành phương tiện để duy trì cuộc sống, duy trì cuộc đấu
tranh để tồn tại và cải thiện cuộc sống một cách tốt nhất.
Nó tiết kiệm vật liệu, sức lực, thời gian để đạt lợi ích tối đa. Có hai mẫu
người kinh tế: Mẫu người trong sản xuất và mẫu người trong tiêu dùng. Nếu
trong điều kiện dồi dào vật chất thì mẫu người tiêu dùng sẽ hướng đến những
nét thẩm mỹ. Nếu trong điều kiện thiếu thốn vật chất anh ta sẽ trở thành
người keo kiệt, ích kỷ, buồn bã.
Các nghề nghiệp tạo thành con người kinh tế như người làm ruộng,
người chăn nuôi, người công nhân, nhà buôn có những nét khác nhau. Sự
phát triển của nền kinh tế làm phát triển kiểu người này.
3/ Mẫu người thẩm mỹ:
Những người này nhận thức thế giới thông qua ấn tượng và diễn đạt
nó bằng hình tượng. Họ nhận thức bằng sự hài hòa hay không hài hòa. Nếu
họ thấy thiên nhiên hài hòa thì thấy dễ chịu, nếu không hài hòa thì thấy khó
chịu.
Mẫu người này thể hiện rõ ở các họa sĩ, nhạc sĩ, nhà điêu khắc, nghệ sĩ
v.v... Cũng có thể có ở người bình thường. Họ khao khát tự thể hiện những
thẩm mỹ mà thôi.
Mẫu người thẩm mỹ thực sự như Rafaen.
Mẫu thẩm mỹ và mẫu kinh tế muốn giao lưu với con người, còn mẫu lí
thuyết ít muốn giao lưu với con người. Định hướng của người nghệ thuật dựa
vào màu sắc, hình đáng, nhịp điệu của đời sống, thiên nhiên, thông qua sự
hài hòa của cuộc sống.
Theo ông ái tình là một hình thức thẩm mỹ của sự giao lưu. Ái tình (tình
dục) là biểu tượng của giao lưu tinh thần. Điều này ông nói đến thanh niên,
ông yêu mến thanh niên vì thanh niên lãng mạn, hiểu biết thẩm mỹ.
4/ Mẫu người vị tha
Mẫu người tập đoàn là mẫu người muốn tìm mình trong người khác,
song vì người khác, ham muốn tình yêu nhân loại. Người tập đoàn hành động
vì người khác. Đó là tình yêu cao thượng. Theo ông, Peslalôxia sống theo
kiểu người này, L. N. Tôntôi cũng là kiểu người này.
Kiểu người này không chịu sống theo nguyên tắc theo tiêu chuẩn nên
thường vô chính phủ. Mặt khác kiểu người này sống theo gia trưởng. Kiểu
người này hướng đến hành vi XHCN.
Ông phân biệt tình yêu của kiểu người này. Tình yêu với những người
cùng huyết thống và tình yêu dựa trên tinh thần thuần túy. Tình yêu của người
mẹ dựa vào huyết thống (bản năng). Tình bạn là tình yêu thuần túy tinh thần.
Tình yêu là cái tôi cao cả, thấy bản thân mình trong người khác.
5/ Mẫu người chính trị.
Người chính trị không phải là kiểu người ham muốn quyền hành chính
trị, ham muốn quyền lực. Quyền lực thật là quyền lực xây dựng trên giá trị tinh
thần chân chính. Đó là các nhà chính trị. Họ ham muốn quyết định hành động
của người khác. Đây cũng không nhất thiết là những người giám đốc, những
nhà chính trị, mà có ở tất cả ở những con người có sự xác định quyền lực
bằng tinh thần. Họ muốn có quyền lực phải nhân danh nhiều người. Người
lãnh tụ có quyền lực vì sự ủng hộ của một nhóm người. Đó là những người
có cá tính mạnh mẽ.
6) Mẫu người tôn giáo:
Đó là người mà định hướng nhân cách của họ là ý nghĩa cuộc sống. Họ
hướng dẫn đến việc tìm ra quy luật của ý nghĩa cuộc sống. Họ chứng minh
rằng có một sức mạnh siêu tinh thần nào đó. Họ cho rằng cái vĩnh hằng đang
quyết định đời sống con người. Đây có thể không phải là người theo một tôn
giáo nào mà là người đi tìm ý nghĩa cao siêu nhất, chân lí nhất như Brunô -
Những người này đã chết do lỗi của nhà thờ.
Con người tôn giáo hướng mọi giá trị tinh thần vào cảm xúc.
Nhận xét:
Sự phân loại này của ông nhằm chứng minh rằng ở con người không
phải có sự khác nhau về cơ thể, về hành vi, mà là do giá trị định hướng tinh
thần của con người. Các định hướng tinh thần không xuất phát từ xã hội, từ
điều kiện sống, mà từ bản ngã tinh thần. Quan niệm tâm lí đẻ ra tâm lí là thể
hiện duy tâm cực đoan. Tâm lí học nhận biết không tìm hướng đi đúng đắn
cho tâm lí học. Đó là xu hướng duy tâm trong tâm lí học.
B - Thuyết hiện sinh về nhân cách
Thuyết hiện sinh (Existentialisme, Phénoménologie) là học thuyết về
triết học và tâm lý học. Thuyết này cho rằng con người có khả năng cảm nhận
những cái mình đang sống, những cái đã trôi qua, về sự tự do của bản thân
và mối quan hệ với người khác. Họ tìm cách mô tả một cách khách quan tất
cả những cảm nhận cá nhân và phân tích cơ cấu và cơ chế của nhưng cảm
nhận đó.
Những người đại diện nổi tiếng của trường phái này là nhà triết học
Husserl và Sartre...
Người nổi tiếng trong tâm lý hiện sinh là Kale Ixperx.
Năm 1935 ông viết cuốn sách: "Ý nghĩa của cảm xúc". Sách này được
tái bản nhiều lần ở Mỹ trong những năm sáu mươi. Chủ nghĩa hiện sinh trong
tâm lý phủ nhận chức năng của não trong việc phản ánh hiện thực khách
quan.
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh:
1 - Tâm lý, ý thức không có cơ sở từ cơ chế sinh lý.
2 - Hành động của con người bao giờ cũng có tính chất tự nhiên trong
sự phản ánh mối quan hệ con người với xung quanh.
3 - Ý thức phản ứng là nét đặc trưng của con người, nhờ đó mà con
người thoát khỏi hoàn cảnh và chống lại hoàn cảnh.
4 - Con người luôn luôn hướng vào thế giới nội tâm, hoàn cảnh bị tách
rời khỏi con người.
Như vậy, học thuyết hiện sinh đã chống lại học thuyết Freud về vô thức,
học thuyết hành vi và học thuyết môi trường quyết định.
Chủ nghĩa hiện sinh đã lập luận như sau:
Về quan điểm thứ nhất tâm lý, ý thức không có cơ chế sinh lý, vì bộ não
chỉ giúp cho sự lan truyền các kích thích nó hoạt động một cách cơ giới chứ
không có tính chất tâm lý. Do đó tâm lý, ý thức phụ thuộc vào nhân cách con
nguời. Về quan điểm thứ hai cho rằng hành động con người mang tính chất
tự nhiên; có nghĩa là tính chủ quan thể hiện đặc điểm nhân cách con người.
Về quan điểm thứ ba cho rằng ý thức phản ứng là nét đặc thù của con
người chứ không phải phản ánh hiện thực khách quan. Điều này có thể thể
hiện trong tri giác. Ông chia ra hai loại trị giác: tri giác ngoại giới và tri giác tư
duy. Tri giác ngoại giới phản ảnh thế giới xung quanh. Tri giác tư duy phản
ánh sự nhận thức con người về thế giới do. Khi con người tri giác thế giới và
thấy thế giới hoàn toàn khác, nghĩa là lúc đó con người đã tiến hành tri giác
tư duy - con người lúc ấy sẽ mất nhân tính. Ví dụ, khi tôi giơ cánh tay lên, tôi
nhận biết việc làm của mình nhằm mục đích gì. Đó chính là lúc tư duy ngoại
giới. Nhưng khi làm việc đó một cách vô thức thì đó là tri giác tư duy. Rõ ràng
họ lẫn lộn việc tư duy và tri giác, vô thức và ý thức, hành động giữa người
bình thường và người bệnh.
Về quan điểm thứ tư. Nếu con người hướng vào nội tâm thì dễ dàng
lảng tránh thế giới bên ngoài. Thế giới bên ngoài bị loại trừ khỏi mối quan hệ
cái tôi. Điều đó nói lên rằng con người có khuynh hướng độc lập với thế giới
bên ngoài và cũng từ đó tạo nên cá tính riêng của mình khác với người khác.
Nhân cách được quan niệm là một bản thể đặc biệt không phụ thuộc vào điều
kiện khách quan. Sự khác nhau không phải số lượng, tốc độ của các hiện
tượng tâm lý mà là sự sai biệt tính chất toàn vẹn của hệ thống cá nhân.
Đóng góp của hiện sinh là họ đã mạnh dạn phê phán tất cả các trường
phái tâm lý như Phân tâm học, hành vi chủ nghĩa.
Họ thừa nhận giá trị, cá tính của con người. Nhưng họ sai lầm là ở chỗ
"đánh mất" yếu tố khách quan trong quyết định nhân cách, cái tâm lý phát
triển cái tâm lý. Họ coi nhẹ nghiên cứu nhận thức của con người.
Học thuyết hiện sinh thường đề cập tới cái tôi. Đó là cái tôi hiện thực và
cái tôi lý tưởng.
Ruth Wylie (1968) cho rằng cái tôi có thể coi là một cấu trúc phức hợp
của những yếu tố tương hỗ tạo nên con người. Theo quan niệm của Wylie đó
là quan niệm khái quát phù hợp với các mặt sau:
1. Con người đã kinh qua cuộc sống như là một thực thể khác nhau,
thực thể khác nhau ấy có thể phân biệt với thực thể khác.
2. Cảm xúc của con người được duy trì qua thời gian.
3. Tính chất vật lý của cá nhân với tư cách như là kinh nghiệm của cá
nhân.
4. Những hành vi cá nhân trong quá khứ như là kinh nghiệm và ghi
nhớ, đặc biệt được tiến hành một cách tự do hoặc có kiểm soát của cá nhân.
5. Kinh nghiệm của tổ chức hoặc một thể thống nhất nào đó là ở giữa
các mặt, theo quan niệm của cái tôi nói chung.
6. Các mặt đánh giá, tư duy và ghi nhớ.
7. Mức độ ý thức hoặc không ý thức.
Ngoài khái niệm cái tôi chung người ta còn chia cái tôi hiện thực và cái
tôi lý tưởng.
MÔ HÌNH QUAN NIỆM CÁI TÔI CỦA WYLIE
C. J. H. E. Tsenck về nhân cách
Cai toi li tuong nguoi khac
Cai toi li tuong chinh minh
Cai toi ca nhan
Cai toi xa hoi
Cai toi li tuongCai toi hien thuc
Cai toi chung
Đáng chú ý trong việc nghiên cứu nhân cách theo xu hướng phân loại
hướng nội và hướng ngoại có nhà tâm lý học nổi tiếng J.H. Eysenck. Trên cơ
sở nghiên cứu bốn loại khí chất cơ bản và những đặc điểm nhân cách ông đã
đưa ra sơ đồ cấu trúc nhân cách, dựa trên 4 tiêu chí ổn định và không ổn
định, hướng nội và hướng ngoại để xác định nhân cách con người. Ông đã
sáng tạo ra hệ thống Test bao gồm 60 câu hỏi để nghiên cứu nhân cách trẻ
em.
Những trẻ hướng ngoại thường có những đặc điểm nhân cách sau: dễ
kích động, tích cực, lạc quan, ít sâu sắc. Những trẻ hướng nội thường có
những đặc điểm nhân cách: quan hệ xã hội ít, bị động, bình tĩnh, sâu sắc, bi
quan.
Điều đó được ông biểu diễn theo sơ đồ vòng tròn đồng tâm có 2 trục
thể hiện các cực của nhân cách (1975).
HƯỚNG NỘI – KHÔNG ỔN ĐỊNH:
Yên lặng
Âm thầm
Dè dặt
Bi quan
Điềm tĩnh
Nghiêm khắc
Lo lắng
Tâm trạng
HƯỚNG NỘI - ỔN ĐỊNH:
Thụ động
Cảm nhận
Nghĩ ngợi
Thanh bình
Kiểm tra
Tin cậy
Bình tĩnh
Êm ả
HƯỚNG NGOẠI – KHÔNG ỔN ĐỊNH:
Tích cực
Lạc quan
Kích động
Dễ thay đổi
Dễ kích thích
Xâm lược
Bứt rứt
Đa cảm
HƯỚNG NGOẠI - ỔN ĐỊNH:
Giao thiệp
Thân thiện
Nói nhiều
Dễ xúc cảm
Dễ đãi
Sống động
Thanh thản
Tính lãnh đạo
D - Hermann Rorschach (1884 - 1922) và phương pháp nghiên cứu nhân cách
Đây là phương pháp trắc nghiệm phổ biến ở nhiều nước có nền khoa
học tâm lý phát triển.
I. Nội dung Test Rorschach
1. Bản chất lý thuyết Rorschach.
a. Thuyết tâm cử.
b. Thuyết tâm linh.
c. Hiện tượng học
d. Phân tích cơ cấu
e. Phân tâm học
g. Tâm lý xã hội.
2. Mô tả thực nghiệm và cách sử dụng.
3. Xác định vị trí của câu trả lời.
a. Cách thức xác định vị trí.
b. Những ký hiệu về vị trí.
c. Ý hướng của các loại vị trí.
4. Xác định phẩm tính của các câu trả lời:
a. Các loại phẩm tính: P
b. Loại hình thể: H
c. Loại cử động: C
d. Loại màu sắc: M
e. Loại tối sáng: ST
g. Loại trả lời viễn ảnh, chiều sâu: V.S
5. Xác định nội dung của câu trả lời
a. Những ký hiệu
b. Nội dung người
c. Nội dung vật
d. Nội dung bộ phận nội thân.
6. Xác định một vài yếu tố bệnh lý tâm căn:
a. Tính cách bình thường hay lạ thường.
b. Phản ứng sửng sốt SS
c. Phản ứng chối từ
d. Phân chia và nối kết
e. Lập lại.
7. Lề lối và thứ tự nhận thức.
a. Lề lối nhận thức.
b. Thứ tự nhận thức.
8. Những cơ cấu phản ứng
9. Thời lượng phản ứng và thời lượng trả lời.
10. Đồ biểu tâm lý:
a. Những nguyên tắc cần thiết.
b. Phương thức bình giải Rorschach.
c. Kế hoạch nhận thức của tri năng
d. Hoàn cảnh và sắc thái riêng biệt của mỗi tấm Rorschach.
e. Rorschach và bệnh tâm căn.
11. Tổng kết về Rorschach, vấn đề thích nghi của con người
II. Mô tả trắc nghiệm và cách sử dụng Test Rorschach
Test Rorschach gồm 10 vết mực có sác thái riêng biệt. Ba tấm cuối
cùng 8, 9, 10 có màu sắc khác nhau.
Tấm 2, 3 những vết đỏ kích thích sự trả lời về màu sắc giống như 3 tấm
cuối cùng, nêu lên mức độ khó khăn trong thực nghiệm, phát hiện những
người nhạy cảm, tinh thần suy yếu. Trong một số trường hợp trước vết mực
này bệnh nhân có thái độ sửng sốt, tê liệt, câm nín, giống như một cái gì đánh
mạnh vào tâm tưởng.
Sự tránh né, từ chối thường ở những người nghi lạng, sợ sệt
Kỹ thuật:
* Tư thế ngồi của người thực nghiệm.
Người chuyên viên tâm lý ngồi bên phải người làm thực nghiệm. Test
được xếp theo chồng lật sấp từ 1 đến 10.
Những tấm được trả lời xong đặt xa tầm mắt. Khi đương sự thấy phấn
khởi mới tiến hành trắc nghiệm.
* Các giai đoạn thực nghiệm:
- Giai đoạn 1:
Giải thích những điều cần thiết cho đương sự.
Hỏi: - Anh thấy những gì trên tấm ảnh?
- Anh (chị) có thể xem ở trường nào cũng được.
- Ghi thời gian bắt đầu.
Người thực nghiệm nói: Bây giờ tôi sẽ lần lượt đưa cho anh một số vết
mực - Anh sẽ cố gắng nhìn và nói ra anh đã thấy những gì trên đó - Anh thấy
nhiều chừng nào cũng được và phía nào cũng được. Chừng nào xong anh
giao lại các vết mực đó cho tôi.
Nếu đương sự hỏi thêm ta chỉ trả lời tùy ý anh:
- Giai đoạn 2:
Người làm thực nghiệm cần làm các việc sau:
+ Tính thời gian từ khi nhận test đến khi nói câu trả lời đầu tiên.
Đó là thời gian phản ứng Tp
+ Tính thời gian nhận test đến khi trả lại test của mỗi tấm. Tt
+ Ghi lại những điều đương sự nói.
+ Ghi lại phía nhìn của đương sự:
Phía thuận: ^
Phía ngược: v
Phía mặt: >
Phía trái: <
+ Nếu đương sự đòi xem lại thì ta bảo sau khi làm hết mới làm lại.
- Giai đoạn 3:
+ Hỏi đương sự đã thấy ở đâu của từng tấm ảnh.
+ Hỏi họ tâm trạng khi trước vết mực - Vì sao họ thấy như vậy.
+ Bảo họ chọn một tấm nào mà họ thích nhất, tấm nào họ muốn loại.
Và yêu cầu họ cho biết lý do.
- Giai đoạn 4:
Giám định câu trả lời, gồm các nội dung sau:
1) Đương sự thấy ở đâu, thấy đại khái hay chi tiết?
2) Hình thể tốt hay xấu, có cử động không, có thấy màu sắc không?
3) Thấy gì? Người, vật, sự việc.
4) Làm trong bao lâu? Tổng cộng thời gian trả lời.
Trung bình thời gian phản ứng Tp.
5) Những câu trả lời một cách bình thường, độc đáo, hay quái lạ.
6) Đương sự thuộc cơ cấu phản ứng nào.
7) Đương sự thấy sự vật theo thứ tự nào.
III. Đặc điểm mỗi tấm ảnh:
Hoàn cảnh và sắc thái riêng biệt của mỗi tấm.
Tấm I. Có đặc điểm sau đây
+ Tấm đầu tiên tạo cho dương sự sự hoang mang, ngỡ ngàng. Nếu ai
thiếu tự tin, nhân cách chưa vững vàng, thì sẽ tìm cách làm cho nhà tâm lý
này rõ và tán đồng.
+ Công việc đòi hỏi đương sự phải sáng tạo.
Điều đó đòi hỏi:
- Khả năng thích ứng của đương sự đối với hoàn cảnh mới lạ: đây là
vấn đề tình cảm.
- Sự thích nghi môi trường giáo dục và xã hội của đương sự
- Cấp độ trí năng của đương sự.
Để đánh giá được 3 điều đó cần khảo sát:
+ Thời gian phản ứng.
+ Phẩm chất hình thể.
+ Tính cách bình thường của câu trả lời.
Tấm II:
- Nếu đương sự trưởng thành thì sẽ chấp nhận màu máu và hội nhập
khoảng trắng ở giữa.
- Nếu ngược lại thì nhiễu loạn của tri năng, như H.
Tấm III:
- Nếu đương sự nói được ở (cử động) thì đã khôi phục được sự bình
tĩnh tối thiểu, thể hiện sự vững vàng của nội tâm.
Tấm IV, V và VI, VII:
Đương sự ở trong hoàn cảnh khó khăn và phiền toái như trước. Đối
phó một mình với hoàn cảnh sống.
Nó thể hiện thái độ của con người:
- Thái độ đối với người cha
- Thái độ đối với mẹ.
- Thái độ với chính mình.
- Thái độ đối với tình dục.
Nếu ai không có tình cảm bình thường thì có thái độ SS hay từ chối.
Tấm VIII:
Mầu sắc là tiêu chuẩn phân biệt 2 loại người: hướng ngoại hay hướng
nội.
- Mầu sắc ở đây vui tươi nhẹ nhàng.
- Việc thực hiện dễ dàng hơn.
- Màu sắc này tạo cho đương sự tỏ thái độ đối với hoàn cảnh xã hội.
Cần khảo sát các yếu tố sau:
+ Số lượng câu trả lời màu sắc.
+ Nội dung loài vật
+ Nhịp điệu làm việc và năng suất làm việc so với các tấm trước.
Tấm IX:
- Tấm này thể hiện khó khăn đòi hỏi đương sự phản ứng tiến lên hay
đầu hàng.
Tấm II cho ta biết trí năng.
Tám VI: Cơ cấu của đời sống tình cảm
Tấm IX: Đương sự có thái độ đối với hoàn cảnh xã hội.
Tấm X: Những yếu tố rời rạc của tấm 10 cho chúng ta cái nhìn về đời
sống xã hội.
Trước bao nhiêu vấn đề chồng chất của xã hội, con người có thái độ
thế nào: biết chọn lựa chính phụ, hay hoảng hốt, sợ hãi mất bình tĩnh.
Những tấm Rorschach là cơ hội để con người sống lại những vấn đề
tình cảm và xã hội mà họ đã né tránh hay là dồn nén.
Phương pháp Test Rorschach rất khó thực hiện vì nó thể hiện một kỹ
thuật khá cao. Do đó hiện nay chúng ta chưa có khả năng sử dụng rộng rãi
được.
E - H. A Witkin về nhân cách
Theo H. A. Witkin việc thống hợp của tri giác có liên quan đến việc
thống hợp của nhân cách.. Như vậy, giữa tri giác và nhân cách có quan hệ
đặc biệt.
1/ Lý luận về tri giác
Tri giác là một cơ thể điều chỉnh hoạt động thích nghi.
Trong tri giác ta thường gặp cái sai lầm khi đánh giá chiều thẳng đứng
trong một phòng nghiêng. Ví dụ ta có thể sai lầm khi tri giác một cái gậy để
thẳng đứng trong một phòng vuông nghiêng. Điều này thể hiện tri giác của cá
thể phụ thuộc vào "tường".
Nếu.tách riêng hình đó ra khỏi tường tức là cây gậy không để trong
phòng hình vuông thì việc tri giác cây gậy sẽ khác đi.
Nếu xem môi trường tri giác là gia đình và xã hội thi việc tri giác có thay
đổi không?
Nếu theo Rorschach (1970) trong kst vết mực loang thì nhân cách của
một người có khuynh hướng hướng nội hay hướng ngoại.
Người có nhân cách hướng nội: kín đáo, vụng về, ức chế các vận động
thực sự, trí năng được cá biệt hóa, có khả năng tưởng tượng sáng tạo, có đời
sống nội tâm mạnh, phản ứng tình cảm ổn định, quan hệ với mọi người sâu
sắc, có ý thức về bản thân mình. Người có nhân cách hướng ngoại, nhạy
cảm với màu sắc, có trí năng tái hiện, dễ thích nghi, khéo léo hơn, phản ứng
tình cảm dễ thay đổi, quan hệ với người khác hơn trội.
Như vậy, theo quan niệm này nhân cách ít phụ thuộc vào môi trường
mà vào bản chất bên trong, tính ổn định của nhân cách hướng nội hay hướng
ngoại.
2/ Thí nghiệm của H.A.Witkin
Về nhìn đường thẳng trong phòng nghiêng. Phương của đường thẳng
đứng được nhìn là một thông tin sinh ra do thống hợp ở trong não những
thông tin nhìn. Thông tin nhìn được tách ra 2 loại: thông tin nhìn và thông tin
tự cảm. Đối với từng cá thể có sự khác biệt rất lớn trong việc tách 2 loại thông
tin. Như vậy, có sự độc tập tương đối với tường ở mỗi cá nhân. Điều đó cũng
có nghĩa tách cái tôi và cái không phải tôi, thể hiện mức độ tự chủ của nhân
cách đối với môi trường. Điều đó cũng có thể hiểu biểu hiện trong ứng xử của
chủ thể đối với người khác.
Như vậy, có sự chuyển từ tri giác sang trường xã hội.
Việc tách cái tôi và cái không tôi như là sự phân hóa.
Có thể nêu lên sơ đồ thí nghiệm lý thuyết của H.A.Witkin.
Ông làm thí nghiệm để chứng minh sự độc lập đối với tường trường
giữa người và người.
Yêu cầu thực nghiệm nhận biết một hình đơn giản bên trong một hình
phức tạp (FFT).
Chọn 38 em học sinh lớp 4 - các em có nhiệm vụ xóa đi một số chữ
trong một bảng chữ làm 2 lần. Trong 38 em này chọn ra 2 nhóm. Một nhóm
độc lập hơn với tường, nhóm khác phụ thuộc với tường.
Người hướng dẫn thực nghiệm tỏ thái độ tán thành hoặc không tán
thành cách xóa chữ của học sinh.
Kết quả cho thấy tần số xuất hiện ở lần 1 không tán thành, lần thứ 2 là
tán thành như sau:
Không tán thành Tán thành
Chuyen hoa chuc nang cac ban cau nao
Cau truc hoa cac tu ve
Cau truc hoa cac kiem soat
Kha nang cau truc lai nhan thuc
Đoc lap voi tuong giua nguoi va nguoi
Tach rieng cac chuc nang tam ly than kinh
Tach rieng cai toi va khong phai cai toi (hoat đong tu chu đoc lap voi tuong)
Tach rieng cac chuc nang tam ly
Phan hoa
- Chủ thể độc lập với trường 10,39 11,83
- Chủ thể phụ thuộc với trường 8,74 11,55
Phần lớn các chủ thể đều có kết quả không tốt khi người hướng dẫn
thực nghiệm tỏ thái độ không tán thành. Nhưng những chủ thể phụ thuộc vào
tường khi không tán thành thì kết quả thấp hơn. Còn trường hợp tán thành thì
cả 2 chủ thể độc lập với trường và không độc lập với trường đều có kết quả
tương tự nhau.
Những thí nghiệm khác của M. Huteau đã chứng minh rằng những chủ
thể độc lập với trường có kết quả tốt hơn so với chủ thể phụ thuộc. Người ta
còn nhận thấy rằng trẻ em hiếu động việc ứng xử phụ thuộc vào trường nhiều
hơn.
Thí nghiệm về cơ chế tự vệ của D. Ihilevich và G. C.
Gleset (1971). Hai ông đã khám cho 110 bệnh nhân tâm trí người lớn.
Yêu cầu các người bệnh trả lời các câu hỏi thể hiện sự cảm nghĩ, và cách làm
của mình trong trường hợp bị tấn công.
Người ta nhận thấy rằng những chủ thể phụ thuộc thường ưa dùng
cách tự vệ toàn bộ, hoặc hướng trung tính vào bản thân và không có phản
ứng. Những chủ thể độc lập ưa dùng cách tự vệ biện hóa, tấn công đối tượng
bên ngoài, quy cho một đối tượng ngoài nhưng ý đồ hoặc những tính chất âm
tính
3) Cái tôi và không phải cái tôi
Phân biệt cái tôi và không phải cái tôi là khái niệm trung tâm trong hệ
thống lý thuyết của Vik kin.
Tác giả quan niệm rằng, chính cái tôi đã phần hóa và phát triển những
cơ chế thống hợp các kích thích bên ngoài; liên kết với nhau. Các cơ chế
thống hợp sử dụng đồng thời các thông tin cơ thể (thông điệp tự cảm, thông
tin lưu trữ trong trí nhớ) và những thông tin bên ngoài. Khi thống hợp lại
chúng sẽ hướng về hai thông tin bên trong hay bên ngoài theo tỉ lệ nhiều ít
khác nhau.
Những chủ thể nhạy cảm với các tác động của thị giác, tiếp sau thì tỏ ra
lo lắng hơn mức trung bình.
Những chủ thể ít nhạy cảm thì phụ thuộc vào trường xã hội nhiều hơn.
Điều này còn phụ thuộc vào kinh nghiệm của tri giác.
Sự chịu đựng mập mờ cùng phụ thuộc vào cái tôi.
Cho người xem một loại hình người gồm 8 hình, phần lớn trong các
hình đó là có sự mập mờ giữa nam giới và nữ giới.
Chiếu cho chủ thể xem một hình đầu tiên, thì chủ thể dễ dàng nhận ra
đây là một nam giới. Chủ thể gắn một ý nghĩa cho hình vẽ. Từ đó ý nghĩa này
là một thông tin bên trong dần dần trở nên xung đột với những thông tin ngoài
khi tiếp tục chiếu những hình vẽ tiếp theo. Điều muốn biết là chủ thể chấp
nhận gương mặt nam giới được bao lâu, bao nhiêu hình trong 8 hình đó là
nam giới.
Điều này phụ thuộc vào nét nhân cách hướng nội hay hướng ngoại,
thông tin bên trong và bên ngoài.
Người ta cũng dùng cách này để nói lên nét nhân cách "cởi mở" hay
"kín đáo" (M. Rokeach). Người cởi mở chấp nhận dễ hơn người kín đáo
những thông tin có thể làm thay đổi niềm tin của mình.
MỘT SỰ MẬP MỜ TĂNG DẦN
8 hình vẽ dưới đây (trong bài viết của F. Attneave 1971) rút ra từ 1 loạt
15 hình vẽ tinh vi hơn của G. H. Fisher: chuẩn bị tài liệu kích thích mập mờ
(1967). Hình cuối cùng ở hàng trên có xác suất ngang nhau giải thích như là
"mặt nam giới" hoặc giữ giới. Vậy là có mức mập mờ tối đa, mức mập mờ
tăng dần từ cực này đến cực kia trong đãy.
G - Jean Piaget về vấn đề nhân cách
Khi nghiên cứu đến vấn đề nhân cách, không thể không đề cập tới nhà
tâm lý học lỗi lạc của thế kỷ 20 là J. Piaget. Ông sinh ngày 9 - 8 - 1896 tại
Thụy Sĩ. Mặc dù những công trình nghiên cứu về tâm lý học của Jean Piaget
chủ yếu về tâm lý học trẻ em, sự hình thành và phát triển trí tuệ, nhưng qua
đó chúng ta có thể khai thác những hạt nhân hợp lý trong việc xây dựng lý
luận nhân cách. Đó là:
1. Trước hết ông đề cập tới đối tượng nghiên cứu của tâm lý học. Tâm
lý học phải nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa chủ thể và khách thể. Đó là
chìa khóa để mở ra toàn bộ bí mật của tâm hồn. Ông cho rằng phải nghiên
cứu cá nhân con người, đó là chủ thể của mối quan hệ xã hội. Con người
sống trong xã hội chịu áp lực của xã hội, thực hiện trong một tương quan một
trật tự phát triển theo những thời điểm, hoàn cảnh và lứa tuổi khác nhau. Vì
vậy nhiệm vụ của tâm lý học là nghiên cứu mối tương tác giữa các mối quan
hệ xã hội và những quy luật hoạt động của chúng.
2. Khái niệm "cân bằng" là trung tâm trong học thuyết của J. Piaget.
Theo Phạm Minh Hạc: "Cân bằng được coi là yếu tố quan trọng nhất,
tổng quát nhất tạo ra phát triển tâm lý".
Piaget viết: đối với lý thuyết phát triển nói chung bản thân chúng tôi
thường xuyên trông cậy vào khái niệm cân bằng để giải thích nguồn gốc của
các cấu trúc của thao tác và sự chuyển hóa từ chỗ dự báo trước thao tác
sang điều chỉnh thao tác.
Theo ông để có sự cân bằng tâm lý cần có hoạt động bù trừ. Con
người khi bị tác động của các lực từ bên ngoài vào tạo ra sự mất cân bằng
trong chỗ khác, có cảm giác này không có cảm giác kia, có hoạt động này
không có hoạt động kia. Con người phải hoạt động để ứng xử dạt được mục
đích nào đó. Con người phải dùng lực để điều chỉnh từ chỗ này sang chỗ
khác. Và như vậy, có sự hoạt động bù trừ. Nhờ hoạt động này đã đưa lại sự
cân bằng trong tâm lý con người. Đó cũng là sự cân bằng trong nhân cách.
Bởi vì cân bằng nhằm tạo dựng cuộc sống và sáng tạo ra giá trị.
Ông nêu ra ba mô hình cân bằng tâm lý:
- Cân bằng chính xác của các lực trong một trường. Ví dụ trong tri giác,
ngay từ đầu chưa có sự cân bằng chính xác mà phải trải qua quá trình điều
chỉnh, bù trừ. Trong tri giác độ dài của trẻ em chưa đạt được mức ổn định,
mãi đến 1 - 10 tuổi trẻ mới đạt được sự ổn định bền vững.
- Cân bằng trong các hoạt động da dạng, tạo ra khả năng thích nghi
mới đối với kích thích ngày càng phức tạp hơn, thể hiện trong hoạt động thần
kinh.
- Cân bằng thứ ba là tạo ra được sự bù trừ giữa tác động bên ngoài và
hoạt động của chủ thể. Đây thực chất là loại cân bằng tâm lý.
Học thuyết cân bằng này cũng có thể áp dụng trong nhân cách là giữ
cho sự cân bằng giữa cá nhân và cá nhân, cá nhân và xã hội. Muốn vậy, phải
có sự cân bằng trong các lực của môi trường, cân bằng trong thần kinh, cũng
như cân bằng trong tâm lý. Từ sự cân bằng này tạo nên những nhu cầu đam
mê, hứng thú, khát vọng của cá nhân. Đó cũng chính là con đường phát triển
của nhân cách.
3. Tính tự kỷ trung tâm sơ khai
Tính tự kỷ trung tâm sơ khai được thể hiện rõ nhất ở trẻ.
- Trong lúc chơi trẻ có thể làm việc cá nhân hay làm việc với bạn bè,
nhận thấy cách ứng xử của trẻ lại rất đặc trưng. Chúng chơi cạnh nhau và
luôn luôn tìm nhóm nhỏ để chơi, nhưng chúng không thích phối hợp chơi
chung mà mỗi trẻ chơi riêng, tự làm cho mình. Chẳng hạn nhóm trẻ chơi bị
đòi hỏi áp dụng nguyên tắc nhóm, tập thể. Nhưng kết quả mỗi em đều có
cách chơi của mình và cuối cùng em nào cũng thắng.
- Trong ngôn ngữ cũng thể hiện tự kỷ. Trẻ có thể có cuộc độc thoại tập
thể. Trong quá trình đó mỗi đứa nói riêng cho mình mà không nghe những
dứa khác nói.
Điều này không riêng gì trong lĩnh vực trí tuệ và ngôn ngữ trẻ thể hiện
tính tự kỷ mà còn trong các lĩnh vực của nhân cách. Về mặt đạo đức ta còn
thấy trẻ dễ dàng biểu hiện tính tự kỷ hơn vì trẻ chưa thích nghi với đời sống
xã hội.
4. Sự phát triển nhân cách.
Theo Jean Piaget giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển
nhân cách trọn vẹn. Nhưng đó không phải là nền giáo dục cũ, con người
không chỉ biết thụ động tiếp thu nền giáo dục mà còn phải là nền giáo dục
mới, con người chủ động tiếp thu nền giáo dục đó. Để làm được điều đó
quyền con người cần được tôn trọng đúng mức.
Theo ông nhiệm vụ của giáo dục không phải ép buộc biểu tượng của
cộng đồng trong sự phát triển trọn vẹn của nhân cách mà phải đào tạo con
người thâm nhập vào khuôn khổ của đời sống cộng đồng với tư cách là giá trị
xã hội.
Ông phân biệt khái niệm cá thể, cá nhân và nhân cách:
- Cá thể là "cái tôi" lấy mình làm trung tâm, cản trở mối quan hệ đạo
đức hay trí tuệ trong đời sống xã hội.
- Cá nhân là một cá thể chấp nhận một cách tự nguyện tuân thủ một hệ
thống chuẩn mực làm cho tự do cá nhân phụ thuộc vào sự tôn trọng như
người.
- Nhân cách là một dạng nào đó của ý thức trí tuệ và ý thức đạo đức
thực hiện sự tự chủ trong bối cảnh tương tác.
Vì vậy giáo dục là yếu tố quan trọng nhất nhằm phát triển nhân cách,
phải đi đôi với sự tôn trọng con người và quyền tự do cơ bản thì mới có thể
đào tạo con người có năng lực tự chủ về trí tuệ và đạo đức trên cơ sở những
quy luật tác động tương hỗ.
Sự phát triển trọn vẹn của nhân cách dưới góc độ trí tuệ không thể tách
rời với các quan hệ tình cảm, đạo đức, xã hội. Không đào tạo những nhân
cách tự chủ trong lĩnh vực đạo đức nếu như con người phải chịu sự áp đặt về
mặt trí tuệ, trẻ con phải học theo sự dạy bảo của người lớn chứ không tự
mình phát hiện ra chân lý. Nếu trẻ thụ động về mặt trí tuệ thì không thể tự do
về đạo đức được.
Mặc dù J. Pieget không trực tiếp đề ra lý luận về nhân cách, nhưng qua
những công trình nghiên cứu về trí tuệ trẻ em của ông chúng ta cũng rút ra
được những bài học quí về nhân cách. Đó là sự cân bằng tâm lý, tính tự kỷ
trung tâm sơ khai và con đường phát triển nhân cách. Muốn phát triển nhân
cách phải tạo cho con người tích cực chủ động, con người tự chủ phát hiện ra
cái gì mình cần học, chứ không phải con người thụ động, học cái mà thầy
giáo nhồi nhét. Vì vậy giáo dục đúng đắn là yếu tố quan trọng nhất trong việc
phát triển nhân cách, cùng với nó là tôn trọng quyền con người.
H - Lucien Seve về nhân cách
Ở các nước phương Tây có một số nhà nghiên cứu triết học và tâm lý
học theo xu hướng mácxít.
Về tâm lý học và triết học người tiêu biểu cho xu hướng này là Lucien
Seve. Ông là người Pháp, đã dành nhiều thời gian nghiên cứu chủ nghĩa
Mác, đặc biệt là nghiên cứu cuốn Tư bản, để từ đó rút ra những khái niệm cơ
bản làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu tâm lý học. Đặc biệt ông đã
để công nghiên cứu trong nhiều năm để viết cuốn "Chủ nghĩa Mác và lý luận
nhân cách". Cuốn sách này đã gây một tiếng vang lớn trong giới tâm lý học và
triết học. Đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học chung quanh những vấn đề của
cuốn sách này đặt ra.
Sau đây là các luận điểm đặt ra trong cuốn "chủ nghĩa Mác và vấn đề lý
luận nhân cách" của Lucien Seve.
1. Phân biệt khái niệm cá nhân và nhân cách:
Cá nhân được tạo thành từ các tác nhân di truyền là sản phẩm của sự
tiến hóa sinh vật.
Còn nhân cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội.
Luận điểm này phù hợp với luận điểm của các nhà tâm lý học mác xít.
2. Nhân cách không phải là thượng tầng kiến trúc xây dựng trên cá
nhân. Muốn tìm bản chất nhân cách phải tìm ở các cá nhân, có nghĩa là tìm ở
sự tổng hòa các quan hệ xã hội như Mác đã nói. Sự phát triển của đứa trẻ là
một quá trình hình thành từ cái sinh vật sang cái xã hội. Sự hình thành này
bên ngoài cá nhân rồi sau đó mới thâm nhập vào cá nhân.
3. Con dường phát triển tâm lý học không phải đi từ cái phân tích đến
cái tổng quát mà là đi từ cái tổng quát đến cái phân tích.
4. Khi xem xét hoạt động với tư cách là cơ sở của nhân cách, cần phải
xem xét thời gian của hoạt động nữa. Chính thời gian là phát triển nhân cách.
Do đó việc sử dụng thời gian là vô cùng quan trọng trong việc phát triển
nhân cách. Vì vậy khi đánh giá nhân cách cần chú ý đến thời gian nữa: (ngày,
tháng, năm). Điều đó có nghĩa là khi đánh giá nhân cách cần nghiên cứu tiểu
sử của cá nhân. Con người đã sử dụng quy thời gian của mình như thế nào
và đặc biệt sử dụng thời gian rỗi chúng ta có thể biết được nhân cách của họ.
5. Quan hệ xã hội, tập đoàn, giai cấp đã tạo ra nhân cách.
6. Về đối tượng của tâm lý học nhân cách.
Ông cho rằng nhân cách là hệ thống sinh động của các quan hệ xã hội
giữa các cư xử.
Lucien Seve đã điểm qua các quan niệm về đối tượng của nhân cách
như: Piere, Jane Hang ri Valong, Paul Fraissl, A.N. Leonchiev, Nicolai Lange,
Bresson, P. Piachet, J.Nuttin.
Ông kết luận rằng đối tượng của tâm lý học nhân cách hiện nay còn rất
lờ mờ. P.Bresson cho rằng: "Cái đập vào mắt người ta trước hết là tính phức
tạp giữa sự phân tích mang tính chất nhân tố về các đặc điểm với phân tâm
học, giữa những thuyết tâm lý bệnh học với những phân tích của K.Lewin,
người ta không thấy có những nét chung nào hết. Nếu như chúng ta có
những báo cáo về loại hình học thuyết của Sheldon, Của Hull, Tollman, thì
chắc chắn là chúng ta sẽ thấy tính phức tạp này còn rõ hơn nhiều.
Ông phê phán học thuyết Pavlôv - Pavlôv cho rằng tâm lý học và sinh lý
học cơ thể là một khoa học, vì bất cứ hiện tượng tâm lý nào cũng có cơ sở
sinh lý. Tâm lý học nhân cách cũng lấy sinh lý làm cơ sở.
Lucien Seve cho rằng Pavlôv quan niệm như vậy là không đúng. Nhân
cách khác với sinh lý học. Nó cần phải tách riêng khỏi sinh lý học. Đó là khoa
học về các mối quan hệ xã hội giữa các cư xử.
Lucien Seve viết: "Tất cả các bí quyết của một tâm lý học về nhân cách
thực sự tách khỏi những khoa học tâm sinh vật và có khả năng đạt tới trưởng
thành, nghĩa là trước khi hết có khả năng, có ý thức đúng về bản chất đối
tượng của nó. Khoa học nhân cách không có nhiệm vụ là một khoa học của
một vật riêng mà là khoa học về các quan hệ". Đồng thời ông giải thích tâm lý
học nhân cách không lấy cư xử tâm thần làm đối tượng. Đó là việc của sinh lý
học thần kinh. Tâm lý học mà chính quan niệm nằm trên dưới sự cư xử đó
trong đời sống cụ thể của nhân cách.
Theo các nhà tâm lý học "môn tâm lý học nhân cách ngày nay đang còn
đứng trước những vấn đề chưa được giải quyết về câu hỏi hàng đầu đặt ra
về sự phân định ranh giới lĩnh vực của nó".
Điểm qua một vài nét về quan niệm về nhân cách của Lu-cine Seve
thông qua việc nghiên cứu các tác phẩm của Mác chúng ta thấy ông đã đứng
trên lập trường của chủ nghĩa Mác để giải quyết vấn đề nhân cách. Căn cứ
của ông là dựa vào luận điểm của Mác về bản chất con người là tổng hòa các
quan hệ xã hội để nghiên cứu nhân cách. Cách đặt vấn đề như vậy là tâm lý
học gắn liền với triết học. Theo Lucien Seve tâm lý học nhân cách là khoa học
về các quan hệ ứng xử. Vậy, việc nghiên cứu thực nghiệm về cư xử như thế
nào cũng chưa được ông nêu ra. Còn việc tâm lý học nhân cách tách rời khỏi
sinh lý học có đúng không? Liệu có khoa học tâm lý nào không lấy sinh lý làm
cơ sở hoặc tách rời hẳn sinh lý.
Mặc dù một số luận điểm của Lucien Seve đưa ra còn phải tranh luận
nhiều. Song đó cũng là tiếng chuông khuấy động cho việc nghiên cứu một
lĩnh vực lờ mờ tâm lý học nhân cách. Đó là một đóng góp đáng trân trọng.
Chương 3. CÁC XU HƯỚNG NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH Ở LIÊN XÔ (Cũ)
Mặc dù Liên Xô đã tan rã, nhưng những thành tựu về các lĩnh vực khoa
học, trong đó có tâm lý học không thể nào xóa đi trong nền vãn minh nhân
loại. Tâm lý học Xô Viết đã cống hiến cho nhân loại những thành tựu to lớn,
phong phú, đa dạng không ai có thể phủ nhận được. Nền tâm lý học Việt Nam
chịu ảnh hưởng rất lớn của nền tâm lý học Xô Viết. Những luận điểm cơ bản
của những nhà tâm lý học mác xít Liên Xô, sự vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng của họ mãi mãi là bài học cho những nhà tâm lý học Việt
Nam. Về tâm lý học nhân cách các nhà tâm lý học Liên Xô cũng có những
đóng góp xuất sắc. Chúng ta có thể tiếp thu những kinh nghiệm đó để soi
sáng cho việc nghiên cứu nhân cách.
I. KHÁI QUÁT VỀ CÁC XU HƯỚNG NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH Ở LIÊN XÔ
1. Các nguyên tắc nghiên cứu nhân cách
Trước hết tâm lý học nhân cách Liên Xô đều dựa trên ba nguyên tắc để
hình thành cho mình một khoa học thực sự. Đó là nguồn gốc triết học Mác -
Lê nin, tâm lý học và giáo dục học. Nó đã vận dụng đúng đắn các nguyên tắc
và phương pháp luận tâm lý học mác xít. Những nguyên tắc đó là:
1) Nguyên tắc phản ánh. Tâm lý con người là phản ánh hiện thực
khách quan thông qua não. Nó là hình ảnh phản chiếu của hiện thực khách
quan thông qua chủ thể mỗi người. Hình ảnh hiện thực khách quan đó thông
qua mỗi người được thể hiện khác nhau do chủ quan của người ấy.
2) Nguyên tắc quyết định luận. Đó là tồn tại quyết định ý thức. Tồn tại
có trước ý thức có sau. Vật chất quyết định ý thức. Vì vậy, muốn nghiên cứu
tâm lý con người phải nghiên cứu tồn tại con người tức là hoàn cảnh con
người sống và hoạt động.
3) Nguyên tắc phát triển. Hiện thực khách quan luôn luôn biến đổi, tâm
lý con người cũng luôn luôn biến đổi và phát triển. Vì vậy, nghiên cứu hiện
tượng tâm lý nào cũng phải nhìn thấy sự phát triển không ngừng của nó.
Trong tâm lý học nhân cách nguyên tắc phát triển lại càng quan trọng. Nhờ
nguyên tắc này mà chúng ta đánh giá nhân cách con người không ở thể tĩnh
mà luôn luôn động, nghĩa là trong sự phát triển và biến đổi của nó.
4) Nguyên tắc thống nhất ý thức với hoạt động, hoạt động và nhân
cách, chủ quan và khách quan, giữa xã hội và cá nhân, giữa các sinh vật và
các xã hội.
Hoạt động là phương thức của tồn tại ý thức, nhân cách, cá nhân và xã
hội. Nhờ có hoạt động mà ý thức, nhân cách cá nhân, xã hội mới tồn tại và
phát triển. Vì vậy, giữa chúng có sự thống nhất với nhau trên một phương
diện nào đó.
5) Nguyên tắc tiếp cận góc độ nhân cách đối với các hiện tượng tâm lý.
Nguyên tắc này yêu cầu khi nghiên cứu một hiện tượng tâm lý nào phải
gắn liền với nhân cách của người ấy với tư cách là một cá nhân cụ thể. Chỉ
có thể dựa trên nguyên tắc này chúng ta mới hiểu đúng được bản chất hiện
tượng tâm lý mà chúng ta nghiên cứu được.
6) Nguyên tắc tiếp cận cấu trúc hệ thống trong tâm lý học nhân cách.
Nguyên tắc này đòi hỏi nghiên cứu nhân cách phải đặt nó trong một hệ
thống cấu trúc nhất định. Có như vậy chúng ta mới giải quyết được những
vấn đề bản chất nhân cách. Ví dụ:
K. X. Platonov đề nghị nghiên cứu nhân cách trong hệ thống cấu trúc
chức năng cơ động. Ngược lại A. N. Leonchiev lại nghiên cứu nhân cách theo
cấu trúc hệ thống thứ bậc.
2. Các trường phái lớn, các trung tâm nghiên cứu nhân cách ở Liên Xô.
Ở Liên Xô có nhiều trung tâm nghiên cứu nhân cách. Ở những trung
tâm đó đã hình thành những trường phái có tiếng tăm, đặt những mốc quan
trọng trong nghiên cứu nhân cách:
- X L. Rubinstein thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô
- L. X. Vưgôtxki, A. N. Leonchiev (thuộc Đại học Tổng hợp Moskva). -
B. G. Ananiev thuộc Đại học Tổng hợp Leningrát nay là thành phố Petecbua.
- V N. Mjasisev thuộc Viện tâm thần thần kinh mang tên V. M. Berterev.
- D. N. Uznatze thuộc Viện tâm lý nước Cộng hòa Gruzia.
- B. M. Tevlov thuộc Viện tâm lý đại cương và sư phạm.
- B. S. Merlin thuộc đại học Sư phạm Perm.
- L. X. Bozovich thuộc Viện tâm lý học đại cương và sư phạm.
- K.K. Platonov thuộc viện tâm lý học
Ngoài ra còn có những tác giả tiếng tăm khác như K.G. Kovalev,
Kuznim, Z. Y. Kon...
3. Các xu hướng nghiên cứu nhân cách.
* Xu hướng thứ nhất xây dựng nhân cách trên cơ sở thâm nhập một
cách hữu cơ các khoa học nghiên cứu về con người.
Nhà triết học Liên Xô B. M. Kedrov đã nêu lên vị trí của tâm lý học trong
các khoa học.
I. Đối tượng II. Các khoa học
Các quy luật chung của sự phát triển
Tự nhiên
Vô cơ
Hữu cơ
Nghĩa là:
Người
Xã hội và
Tư duy của loài người
Phép biện chứng
Kỹ thuật
Lý, hóa, toán học
Sinh vật
Tâm lý
Xã hội (của loài người)
Triết học
Qua mô hình của B. M. Kedrov ta thấy tâm lý học là khoa học trung tâm
trong các khoa học, tâm lý học là bông hoa tươi thắm nở giữa khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội.
Tại Đại hội tâm lý học thế giới lần thứ 18 ở Moskva nhà tâm lý học nổi
tiếng Thụy Sỹ J. Piaget đã nói: "Tâm lý học như một cái trục mà toàn bộ các
thiên tài khoa học phải xoay quanh nó". Câu nói đó của Piaget có thể áp dụng
cho tâm lý học nhân cách trong các lĩnh vực của khoa học xã hội.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này trong nghiên cứu nhân cách ở Liên
Xô là B.G. Ananiev. Ông cho rằng muốn xây dựng khoa học nhân cách phải
dựa trên các khoa học nghiên cứu về con người. Đó là:
1. Nghiên cứu con người với tư cách là một sinh vật.
2. Nghiên cứu con người với tư cách chủng loại.
3. Nghiên cứu sự tiến hóa của các thể.
4. Nghiên cứu con người như là một nhân cách.
Theo phương hướng này muốn nghiên cứu nhân cách phải kết hợp
nhiều khoa học nghiên cứu về con người. Đó là sinh vật học. Con người
trước tiên là một động vật. Những quy luật hoạt động của động vật có vai trò
quan trọng trong việc nghiên cứu con người. Vì vậy, việc nghiên cứu những
bản năng của con người có tính người cũng rất quan trọng trong vấn đề
nghiên cứu nhân cách.
Sự phát triển của con người theo hai tính chất: tính chất chủng loài và
tính chất cá thể. Sự phát triển của đứa trẻ trong bào thai diễn ra lịch sử của
phát triển tổ tiên trước đó của loài người. Còn nghiên cứu cá thể con người
phải nghiên cứu đứa trẻ từ khi ra đời đến tuổi già. Đồng thời phải nghiên cứu
con đường sống của từng cá nhân với tư cách là chủ thể của hoạt động. Chỉ
có thể nghiên cứu đầy đủ các mặt đó mới có thể vẽ lên bức tranh toàn diện về
nhân cách con người.
* Xu hướng thứ hai trong nghiên cứu nhân cách là cách tiếp cận hệ
thống trong nghiên cứu cụ thể. Những người chủ trương xu hướng này cho
rằng nhân cách không phải là thành phần riêng rẽ mà là một cấu tạo chỉnh thể
bao gồm các thành phần gắn bó với nhau theo một quan hệ nhất định. K. K.
Platonov cho rằng người ta không thể hiểu được các thành phần, đặc điểm,
trạng thái một hiện tượng tâm lý hay một thuộc tính tâm lý nếu như không tính
đến sự quy định của nhân cách. Vì vậy, khi nghiên cứu một hiện tượng tâm lý
nào đó phải có một biểu tượng về cấu trúc toàn bộ của nhân cách.
Đối với con người khi xét nó theo hệ thống phải bao gồm các mặt sinh
vật và xã hội. Cấu trúc nhân cách được coi là sự thống nhất giữa mặt tự
nhiên và mặt xã hội trong đó mặt xã hội được coi là bản chất của nhân cách.
Trong nhân cách có những thành phần cấu trúc cơ động. Đó là vị thế của
nhân cách như vị thế kinh tế, vị thế xã hội, vị thế chính trị, pháp lý tư tưởng
của một con người. Muốn xác định vị thế của một người nào phải tìm hiểu
cộng đồng của cá nhân đo sống và hoạt động. Ở đó cá nhân thể hiện vai trò
chức năng xã hội và định hướng giá trị của cá nhân trong cộng đồng người.
Từ đó xác định những thuộc tính nhân cách thống nhất với nhau theo một cấu
trúc nhất định. Các đặc điểm này quy định động cơ và hành vi hoạt động của
con người.
Một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách tiếp cận cấu trúc hệ thống
là nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của con người với tư cách là chủ thể
của hoạt động. Vì vậy, vấn đề năng lực được các nhà tâm lý quan tâm nghiên
cứu. Xét về mặt hệ thống cần nghiên cứu nhân cách với tư cách đóng và
mở. Ở hệ thống mở, những thuộc tính nhân cách do điều kiện bên ngoài quy
định. Ở hệ thống đóng, mối liên hệ bên trong giữa các thuộc tính và phẩm
chất vừa như là cá thể vừa như là nhân cách. Nhân cách trong hệ thống đóng
vừa như là ý thức vừa là tự ý thức.
Tiêu biểu cho xu thế này là K. K. Platonov. Ông đưa ra cấu trúc hệ
thống của nhân cách gồm 4 cấu trúc nhỏ. Đó là cấu trúc xã hội, cấu trúc kinh
nghiệm, cấu trúc các đặc điểm của các hình thức phản ánh các quá trình tâm
lý, cấu trúc đặc điểm sinh học: giới tính, khí chất (về quan điểm cấu trúc nhân
cách của K. K. Platonov tôi sẽ trình bày thành mục riêng sau này). Cùng theo
xu hướng này có A. G. Kovalet, ông cho rằng cấu trúc nhân cách gồm 4 thành
phần cơ bản: xu hướng, tính cách, năng lực, khí chất. V. N. Mjasisev lại cho
rằng cấu trúc nhân cách bao gồm quá trình tâm lý, trạng thái tâm lý, thuộc tính
tâm lý và hệ thống thái độ của cá nhân.
* Xu hướng thứ ba thể hiện sự vận dụng nguyên tắc về sự thống nhất ý
thức và hoạt động. Từ đó điều chỉnh và bổ sung trong nghiên cứu tâm lý học
nhân cách.
Những người theo xu hướng này cho rằng khi nghiên cứu nhân cách
phải gắn liền với chủ thể của hoạt động. Hoạt động của con người là hoạt
động có ý thức. Hoạt động con người diễn ra trong xã hội. Vì vậy, trong hoạt
động diễn ra mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, chủ thể và chủ thể. Giao
tiếp đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa chủ thể và chủ thể.
Sự thống nhất giữa hoạt động và ý thức thể hiện qua tính tích cực của
nhân cách. Nhà tâm lý học lỗi lạc Liên Xô (cũ) Rubinstein cho rằng mỗi hiện
tượng tâm lý, các mối quan hệ giữa chúng đều thông qua một chủ thể nhất
định. Vì vậy mọi tác động bên ngoài đều khúc xạ qua điều kiện bên trong, qua
trạng thái nhân cách mà quy định hoạt động đáp ứng, có tính chất nhân cách.
Nhưng ngược lại, A. N. Leonchev cho rằng điều kiện hoạt động bên ngoài
quyết định những phẩm chất bên trong của nhân cách. Ông đã dựa vào tư
tưởng của nhà tâm lý học Vưgôtski cho rằng nhân cách là một cấu tạo tâm lý
mới được hình thành trong cuộc sống.
Trong quá trình hoạt động các cấp bậc hoạt động được hình thành.
Quan hệ giữa các cấp bậc hoạt động là hạt nhân của nhân cách. Trong hoạt
động các động cơ được hình thành. Động cơ có chức năng thúc đẩy hoạt
động đồng thời làm cho nhân cách có một ý nghĩa. Có hai loại động cơ trong
hoạt động. Đó là động cơ tạo ý và động cơ kích thích.
Như vậy, cả Rubinstein và Leonchev mặc dù có khác nhau về quan
niệm cái bên trong và cái bên ngoài nhưng cả hai đều có một điểm chung và ý
thức là hoạt động của nhân cách đều thống nhất với nhau. Mọi hoạt động của
con người mang ý thức thì lúc đó con người mới có nhân cách.
* Xu hướng thứ tư của tâm lý học nhân cách là cách tiếp cận cá thể
hóa.
Các nhà tâm lý học Xô Viết coi cá nhân không chỉ thể hiện dưới hình
thức tổng quát mà còn biểu hiện dưới hình thức cá thể hóa. Vì vậy, phải
nghiên cứu nhân cách trong sự quy định của điều kiện xã hội cụ thể của con
người. Đồng thời phải nghiên cứu một cách cụ thể của các yếu tố sinh lý tâm
lý của từng cá nhân riêng rẽ, điều kiện tự nhiên và xã hội có ảnh hưởng đến
nhân cách con người. Nhiệm vụ đặt ra cho xu thế này là phải tìm mối quan hệ
giữa nhân cách và các yếu tố tâm lý khác.
* Xu hướng thứ năm nghiên cứu nhân cách trên cơ sở phân tích hành
vi phản xạ có điều kiện của con người được thể hiện ở N. Ph. Dobrưnhin.
Ông xuất phát từ quan điểm cho rằng tâm lý là phản ảnh hiện thực khách
quan thông qua não, là chức năng của não. Hành vi của con người là sự thực
hiện phản xạ có điều kiện - Loài vật thực hiện chủ yếu là phản xạ không điều
kiện. Những phản xạ này không tạo ra những hành vi mang tính người. Còn
con vật dù có thực hiện các phản xạ có điều kiện nhưng đều dựa trên kích
thích mang tính sinh vật: Ngược lại hoạt động phản xạ có điều kiện ở con
người dựa trên kích thích mang tính xã hội. Những tác động này mang ý
nghĩa nhân cách. Vì vậy, muốn nghiên cứu nhân cách phải nghiên cứu các
phản xạ có điều kiện.
Sự thật, nhân cách con người rất phong phú và rất phức tạp, không thể
chỉ dựa vào nguyên tắc nghiên cứu phản xạ có điều kiện mà nghiên cứu nhân
cách. Nhiều đặc điểm nhân cách không mang một phản xạ có điều kiện, do
đó không thể nghiên cứu nhân cách có hiệu quả khi chỉ dựa vào phương
pháp này.
* Xu hướng thứ sáu là định hướng có tính chất tâm lý học xã hội trong
nghiên cứu nhân cách:
Nhưng người theo xu hướng này cho rằng việc nghiên cứu nhân cách
phải nghiên cứu nó thành một lĩnh vực tri thức đặc thù. Đó là gần lĩnh vực tâm
lý học xã hội trong nghiên cứu nhân cách. Ở đây người ta nghiên cứu tâm lý
học xã hội về nhân cách như là một ngành tâm lý học, bao gồm việc nghiên
cứu sự quy định của xã hội đối với bộ mặt nhân cách; động cơ thúc đẩy hành
vi và hoạt động của nhân cách trong điều kiện lịch sử xã hội: giai cấp, dân tộc,
nghề nghiệp, nhóm xã hội, gia đình...
Theo M. I. Bobneva và E.V. Sorokhova đứng về góc độ tâm lý học xã
hội để nghiên cứu nhân cách thì phải coi giao tiếp là yếu tố trung tâm của việc
nghiên cứu này. Chỉ có thể thông qua giao tiếp mới thực hiện được nguyên
tắc "người với người là bạn, là đồng chí, anh em" là một chỉ tiêu trong phát
triển nhân cách. Người ta coi việc phát triển tính xã hội của nhân cách là đối
tượng nghiên cứu của khoa học này. Vì vậy, người ta thường đề cập tới vấn
đề xã hội hóa của nhân cách. Xã hội hóa của nhân cách được hiểu như các
yếu tố tự nhiên, sinh vật của con người chịu ảnh hưởng của điều kiện xã hội
tạo thành những đặc điểm của nhân cách.
Theo quan điểm này người ta cho rằng đạo đức là thước đo của nhân
cách. Để đánh giá đạo đức của cá nhân cần có một hệ thống kiểm tra xã hội.
Kiểm tra xã hội là sự điều chỉnh của các tổ chức xã hội đối với cá nhân. Các
thành phần tham gia vào kiểm tra xã hội bao gồm: cá nhân, các tổ chức giáo
dục xã hội, hành động cá nhân, hành động xã hội. Nhân cách được xem xét
theo tiêu chuẩn. Nhân cách được xem xét theo bậc thang giá trị xã hội của cá
nhân. Những bậc thang này được coi như thành phần cấu trúc của hệ thống
giá trị của nhân cách.
Sơ đồ hệ thống kiểm tra xã hội (theo M.I. Bobneva và E. V. Sorokhova).
Bậc thang xã hội của giá trị được hiểu theo mức độ khái quát trong xã
hội có giai cấp là giá trị xã hội Nhà nước và pháp quyền và mức độ cụ thể là
giá trị xã hội của nhóm nhỏ. Bậc thang giá trị này phụ thuộc vào sự phát triển
các mặt chính trị, kinh tế, vần hóa, thẩm mỹ, đạo đức và pháp luật của xã hội.
Bậc thang xã hội của giá trị được thực hiện thông qua bậc thang cá nhân của
giá trị. Trong khi thực hiện bậc thang xã hội của giá trị con người đã thực hiện
việc phạm trù hóa cá nhân, có nghĩa là quá trình đồng nhất, hòa nhập của cá
nhân vào người khác và xã hội. Thông qua tự nhận thức cá nhân con người
có ý thức về mình, về xã hội, tự đánh giá mình cho phù hợp với hoàn cảnh
xung quanh và các chuẩn mực của xã hội.
Như vậy, kiểm tra xã hội, sự đánh giá là cơ sở của việc phát triển nhân
cách.
* Xu hướng thứ bảy nghiên cứu tâm lý học nhân cách là nghiên cứu
điều kiện hình thành nhân cách, hành vi, ý thức đạo đức, mối quan hệ xung
quanh nhân cách. Những công trình nghiên cứu nhân cách đều đặt ra nhiệm
vụ phải nghiên cứu mối quan hệ giữa nhân cách và giáo dục một cách có quy
luật. Tâm lý học Liên Xô không chỉ nghiên cứu những đặc điểm nhân cách mà
còn nghiên cứu sự hình thành nhân cách thông qua các điều kiện phát triển
và giáo dục. Những công trình tiêu biểu theo hướng này phải kể đến A. G.
7 6
21
Hanh đong xa hoi
Bac thang ca nhan cua gia tri
Tu y thuc xa hoi
Pham tru hoa ca nhan
Tu nhan thuc ca nhan
Pham tru hoa xa hoi
Bac thang xa hoi cua gia tri
Hanh đong ca nhan
4
58
3
Kovalev. Ông đã nghiên cứu học sinh, những đặc điểm hành vi của chúng
trong điều kiện nhà trường và gia đình. Theo xu hướng của Makarenko, A. L.
Snhirman đã nghiên cứu tập thể và ảnh hưởng của nó đến việc hình thành
nhân cách. Nghiên cứu nhân cách trong điều kiện tập thể có N.I.Xudakov, Ph.
I. Ivasenko, A. A. Bodalev.
* Xu hướng thứ tám Nghiên cứu nhân cách trên lập trường xác định mối
quan hệ xã hội mà K. Marx đã nêu ra: "Bản chất con người là tổng hòa mối
quan hệ xã hội". Xu hướng này thể hiện rõ nhất ở V. N. Miaxisev.
Theo V. N. Miasisev nhân cách là chủ thể của mối quan hệ xã hội.
Quan hệ xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ nhận thức đến tình cảm, ý chí của
con người, từ nhóm nhỏ đến toàn bộ xã hội. Nhân cách và nhóm, nhân cách
và xã hội tuy có điểm khác nhau nhưng có quan hệ lẫn nhau. Vì vậy, cần phải
hiểu nhân cách là cái mà người ta hướng đến trong mối quan hệ xã hội một
cách có ý thức và thể hiện trong hành vi của mình. Nhân cách chịu ảnh
hưởng của giai cấp, của nhóm xã hội, thông qua những lợi ích, những tiêu
chuẩn, những giá trị của xã hội đó. V. M. Miasisev đã khám phá ra bản chất
tâm lý của mối quan hệ và quá trình hình thành ra mối quan hệ đó.
Đồng thời ông cũng nghiên cứu vai trò điều khiển mối quan hệ của con
người và ảnh hưởng của mối quan hệ đến quá trình chủ thể như nhận thức,
xúc cảm, ý chí.
* Xu hướng thứ chín là nghiên cứu tâm thế với cấp độ nhân cách. Xu
thế này thể hiện rõ nhất ở trường phái tâm lý học D. N. Uznatze ở nước Cộng
hòa Gruzia.
Từ việc nghiên cứu ảo ảnh của tri giác khối lượng sự vật, Uznatze đã
đưa ra kết luận: Cái gì gây ra cảm giác ảo giác thì có khả năng gây ra các ảo
giác khác.
Người kế thừa Uznatze là A. X. Prangisvili. Ông coi tâm thế là khái
niệm cơ bản của nhân cách. Khái niệm nhân cách cần phải mở rộng bao gồm
khái niệm tâm thế. Tâm thế là trạng thái tâm lý sẵn sàng đáp ứng một hoạt
động nhất định. Nhờ có tâm thế mà con người chuẩn bị trước thái độ đối với
những tình huống xuất hiện. Bằng cách đó con người tự hình thành cho mình
một nhân cách. Thực hiện hành động theo một phương thức nhất định, một
hệ thống thái độ thể hiện sự phản ứng đặc trưng cho phong cách của mình.
Người ta dựa vào quy luật chung của tâm thế định hình để tạo nên bản chất
của nhân cách.
Nhìn chung, 9 xu hướng nghiên cứu nhân cách ở Liên Xô thể hiện sự
phong phú, đa dạng trong việc nghiên cứu nhân cách. Điều đó thể hiện sự
cống hiến to lớn của tâm lý học Liên Xô trong việc nghiên cứu nhân cách.
II. NHỮNG QUAN NIỆM NHÂN CÁCH CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU CHO CÁC TRƯỜNG PHÁI LỚN Ở LIÊN XÔ (Cũ)
A. Bom Geraximovic Ananiev về nhân cách
B. G. Ananiev là nhà tâm lý học xuất sắc của Liên Xô đã có nhiều đóng
góp cho sự phát triển tâm lý học.
B. G. Ananiev đã xuất phát từ những khái niệm cá thể, chủ thể, khách
thể, hoạt động, cá nhân để giải quyết vấn đề nhân cách. Ông cho rằng nhân
cách là cá thể có tính chất xã hội, là khách thể và chủ thể của bước tiến lịch
sử. Nhân cách không tồn tại ngoài xã hội, không tồn tại ngoài lịch sử, vì thế
việc nghiên cứu nhân cách phải nghiên cứu lịch sử cá nhân. Con đường cơ
bản của việc nghiên cứu nhân cách là nghiên cứu tính chất lịch sử, tính chất
xã hội, tính chất tâm lý - xã hội của nhân cách.
Nhưng đồng thời với tư cách là người tham gia vào trào lưu xã hội, là
khách thể và chủ thể của sự tham gia đó (thế hệ, giai cấp, dân tộc, nghề
nghiệp) nên nhân cách phải gắn liền với hoàn cảnh xã hội.
Ví dụ thành phần lứa tuổi trong cấu trúc dân sốbcủa xã hội cũng có ảnh
hưởng tới sự phát triển nhân cách. Ở các nước chậm phát triển, sự sinh đẻ
vô kế hoạch đã tạo ra thành phần trẻ em đông hơn người già và trung niên.
Còn những nước phát triển tỉ lệ người già chiếm ưu thế trong xã hội đã làm
cho sự khác biệt về phát triển nhân cách.
Hoàn cảnh xã hội là nơi xác lập vị trí của cá nhân trong cấu trúc xã hội.
Chính trong xã hội nhân cách thể hiện vai trò và chức năng của mình. Giữa
nhân cách và chủ thể không đồng nhất. Chủ thể thể hiện thái độ tích cực của
hoạt động, là sản phẩm của hoạt động. Còn nhân cách là tổng hòa các quan
hệ xã hội, xác định vị thế của con người trong xã hội.
Sự phong phú của mối quan hệ xã hội của cá nhân đã tạo nên những
đặc điểm của nhân cách. Cấu trúc nhân cách được dần dần hình thành trong
quá trình cá nhân hoạt động trong mối quan hệ xã hội. Vì vậy, những yếu tố
sinh học không tác động trực tiếp trong mối quan hệ trong cấu trúc nhân cách
mà nó tác động gián tiếp với tư cách là yếu tố đã được xã hội hóa, mang tính
chất xã hội của nhân cách.
Cấu trúc nhân cách theo hai nguyên tắc: nguyên tắc thứ bậc và nguyên
tắc phối hợp.
Nguyên tắc thứ bậc là sự sắp xếp đặc điểm xã hội chung nhất quy định
những đặc điểm tâm sinh lý.
Nguyên tắc phối hợp là sự tác động qua lại giữa các thành phần độc
lập tương đối và thành phần phụ thuộc. Theo ông muốn nghiên cứu nhân
cách phải nghiên cứu con người với tư cách là chủng loài.
Các nhà nhân học, khảo cổ học đã chia quá trình hình thành con người
gồm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn vượn người
- Giai đoạn người vượn, Pitêcantrốp
- Giai đoạn người cổ đại, Nêanđectan
- Người hiện đại, Homosapiens.
Khoa học về con người Iiomosapiens.
Để nghiên cứu về vấn đề này cần nghiên cứu tâm lý học so sánh, sinh
lý học so sánh hoạt động thần kinh cấp cao, sinh hóa của sự tiến hóa, sinh lý
học so sánh, giải phẫu học so sánh. Điều này cần phải có sự phối hợp với
các khoa học khác nhau về con người để nghiên cứu.
Cấu trúc toàn bộ con người và mối quan hệ qua lại của sự phát triển
các đặc điểm của con người theo B.G.Ananiev
Quan he qua lai cua ca nhan
va con đuong song
Con đuong song
Su phat trien ca the Ca nhan
hoat đong
Chu the
Chinh phuc vu tru
Moi truong moiLoai vat
Nhan cachCon nguoi voi tu cach ca
nhan
Con nguoi voi tu cach lich su
xa hoi
Con nguoi voi tu cach la chung loai
Vấn đề loài người cũng cần có hệ thống các khoa học nghiên cứu. Đó
là các khoa học tự nhiên, xã hội, kỹ thuật, triết học, nghệ thuật, giáo dục, sức
khỏe,... Điều rất thú vị là Ananiev đã coi việc nghiên cứu nhân cách gắn liền
với tự nhiên và môi trường vũ trụ. Vì vậy, ông đưa ra các ngành khoa học
nghiên cứu về loài người như sinh vật học môi trường sinh hóa, sinh-vật lý,
sinh-địa-hóa, địa-hóa, địa-vật lý địa lý học vũ trụ. Từ đó tìm ra những yếu tố
ảnh hưởng của lý-hóa đến hoạt động sống của con người. Chúng ta cũng
phải nghiên cứu nhân cách con người trong môi trường mới vũ trụ diễn ra
như thế nào. Điều đó cần phải có những khoa học nghiên cứu như xã hội học
vũ trụ, tâm lý học vũ trụ, y học vũ trụ, sinh vật học vũ trụ.
Về nhân cách, theo Ananiev cần nghiên cứu con người với tư cách là
cá nhân và sự phát triển cá thể của nó. Để nghiên cứu vấn đề này cần có
nhiều khoa học tham gia để giải quyết vấn đề khí chất, năng khiếu con người.
Vấn đề khí chất cần phải nghiên cứu những nhu cầu cơ thể động lực
nhân tính, đặc điểm cơ thể, tính chất của động lực thần kinh lứa tuổi trong các
giai đoạn của đời sống. Ở đây cần có tham gia nhiều khoa học như di truyền,
y học, tâm lý học lứa tuổi, sinh lý học lứa tuổi, giáo dục học.
Về vấn đề năng khiếu cần đặc biệt quan tâm đến di truyền học, các cơ
quan cảm giác, động lực thần kinh.
Về nghiên cứu con người với tư cách là chủ thể theo Ananiev nhân
cách là chủ thể và khách thể của quá trình lịch sử là khách thể và chủ thể của
mối quan hệ xã hội. Đặc điểm quan trọng nhất của nhân cách là chủ thể của
hành vi xã hội, đó là người mang ý thức đạo đức xã hội. Để nghiên cứu con
người với tư cách là chủ thể cần nghiên cứu năng lực, tài năng và sáng tạo
của con người. Các khoa học tâm lý, điều khiển, lịch sử, đạo đức gia đình,
logic và toán học, triết học, các khoa học tâm lý học kỹ sư, tâm lý học lao
động, sinh lý học lao động, tâm lý học di truyền, đặc điểm hoạt động thần kinh
cấp cao, xã hội học phối hợp nghiên cứu vấn đề này. Con người với tư cách
là chủ thể được thể hiện ra trong giao tiếp, trong ý thức và trong hoạt động
thực tiễn. Vì vậy, các khoa học vừa kể trên cần tham gia nghiên cứu các lĩnh
vực đó với tư cách là chủ thể. Trong lĩnh vực nghiên cứu con người như chủ
thể hoạt động cần nghiên cứu lý luận sáng tạo và tư duy sáng tạo. Tâm lý học
ngày nay cần coi sự sáng tạo không chỉ trong tư duy mà còn coi sáng tạo là
hình thức tích cực và là sản phẩm của hoạt động con người trong lao động,
nhận thức và quan hệ.
Cuối cùng nghiên cứu con người với tư cách là nhân cách và con
đường sống của nó.
Nhân cách con người được hình thành trong quá trình tác động và xã
hội, là sự tổng hòa các quan hệ xã hội. Nghiên cứu con người với tư cách là
nhân cách phải nghiên cứu vị thế của nhân cách tức là vị trí của con người
trong xã hội (về kinh tế, chính trị, pháp luật...) và chức năng xã hội gắn liền
với vị trí đó. Động cơ cũng là yếu tố quan trọng trong việc hình thành nhân
cách. Động cơ hành vi và hoạt động phụ thuộc vào mục đích, giá trị và tất cả
các quan hệ của nhân cách đối với thế giới bên trong (tự nhiên, xã hội, lao
động, người khác và chính bản thân). Tính cách và khuynh hướng là hai mặt
quan trọng trong nghiên cứu nhân cách. Nghiên cứu nhân cách phải diễn ra
trong sự phát triển trong con đường sống của cá nhân đó.
Như vậy, để nghiên cứu con người với tư cách là nhân cách phải
nghiên cứu xu hướng, tính cách, hành vi xã hội, động cơ hành vi, cấu trúc
nhân cách, vị thế nhân cách, con đường sống của nhân cách trong xã hội -
Điều này đòi hỏi các khoa học tâm lý học, xã hội học, tâm lý học xã hội, giáo
dục học, đạo đức học phải quan tâm nghiên cứu.
B. G. Ananiev coi con người là tiểu vũ trụ. Điều này rất tương đồng với
quan niệm phương Đông về con người. Con người là tinh hoa của vũ trụ,
phản ánh cái gì của vũ trụ vào con người. Trong con người có đại diện của
quy luật vũ trụ. Con người tuy bé nhỏ nhưng toàn bộ những hoạt động của vũ
trụ có đại diện trong con người. Con người không dừng lại tìm cư trú của
mình ở quả đất mà đi vào trong vũ trụ bao la. Đó là một hệ thống mở - con
người - trái đất - vũ trụ.
Luận điểm nghiên cứu nhân cách là tổng hợp các khoa học nghiên cứu
về con người là một đóng góp quan trọng trong việc chỉ hướng nghiên cứu
nhân cách. Nghiên cứu nhân cách không tách rời việc nghiên cứu con người
và các khoa học khác nghiên cứu về con người.
B. A.N. Leonchiev về nhân cách
A.N. Leonchiev (1903 - 1979) nhà tâm lý học Nga kiệt xuất được giải
thưởng Lê nin 1963, đã từng giữ chức Phó chủ tịch hội Tâm lý thế giới. Ông
đã đưa ra lý thuyết hoạt động để giải quyết vấn đề tâm lý học, được giới tâm
lý học đánh giá cao. Về mặt nhân cách ông cũng có những quan điểm mới
mẻ.
1. Ông khẳng định rằng nhân cách là đối tượng nghiên cứu của tâm lý
học.
Theo ông nhân cách chẳng những là đối tượng của tâm lý học mà còn
là đối tượng của triết học, của sử học, xã hội học, của nhân chủng học, thể
chất học, di truyền học và người.
Ông phê phán các quan điểm sai lầm về nhân cách. W. James coi nhân
cách là người đóng vai trò điều chỉnh các quá trình tâm lý. Nhân cách là ông
chủ của các chức năng tâm lý. Đó là những quan niệm thần bí hóa các vấn đề
nhân cách.
Xu hướng khác trong nghiên cứu nhân cách là đi tìm tất cả các đặc
điểm của nhân cách (tự quan điểm chính trị cho tới sự tiêu hóa thức ăn) khi
nghiên cứu nhân cách. Ví dụ như một người rơi từ cửa sổ nhà cao tầng
xuống đất thì con người cũng biểu hiện những thuộc tính vốn có là một vật
thể vật lý khối lượng, trọng lượng, khi rơi xuống đất có sự biến đổi về hình
thái. Tuy nhiên không thể đưa những thuộc tính đó vào nhân cách.
Thuyết 2 nhân tố hình thành nhân cách là di truyền và hoàn cảnh cũng
được ông phê phán. Mọi trường phái do di truyền hoặc hoàn cảnh quyết định
việc hình thành nhân cách đều là không đúng.
Các quan điểm sinh vật hóa nhân cách đều không đúng.
S. Freud đề cao cái bản năng sinh vật của con người, đặc biệt là bản
năng tình dục quyết định đời sống tâm lý con người đều không có cơ sở.
Ông cũng phê phán quan điểm văn hóa nhân loại học. Quan điểm văn
hóa nhân loại học cho rằng đặc trưng tâm lý cơ bản của con người là do sự
khác biệt văn hóa của họ. Nhân cách là hệ thống văn hóa đã được cá tính
hóa trong quá trình con người tham gia vào hệ thống văn hóa đó. Dù rằng
nền văn hóa có tồn tại dưới hình thức nhân cách hóa cũng chỉ là đối tượng
của sử học, xã hội học chứ không phải của tâm lý học. Nhân cách không phải
là bản sao của một nền văn hóa.
Lý luận về nhân cách là người đóng vai trò trong xã hội đều được ông
cho rằng không hợp lý. Trong xã hội con người đóng vai trò thế nào thì nhân
cách thế ấy. Vai trò nhà giáo, vai trò thầy thuốc, vai trò ông giám đốc, vai trò
người cha. Một vai trò chỉ ứng với khái niệm nhân vật chứ không tương ứng
với khái niệm nhân cách.
Từ các phê phán trên ông đưa ra khái niệm nhân cách.
Đối tượng của tâm lý học nhân cách hiểu một cách đúng đắn là coi
nhân cách như một cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong các quan hệ
sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của người đó.
Đứa trẻ bước vào cuộc sống chỉ là cá nhân, được phú sẵn một số
thuộc tính tự nhiên và năng lực nhất định. Đứa trẻ thở thành nhân cách khi nó
là chủ thể của mối quan hệ xã bội. Khác với cá nhân, nhân cách không hình
thành trước khi nó biết hoạt động. Nhân cách chỉ hình thành và phát triển
trong điều kiện cụ thể của hoạt động của cá nhân trong xã hội.
2. Phân biệt khái niệm cá nhân và nhân cách
Khái niệm cá thể dùng cho loài vật, để nói lên một chủ thể riêng lẻ khác
với chủ thể khác của loài.
Khái niệm cá thể đó không dùng cho người. Đối với người dùng khái
niệm cá nhân (cá thể người).
Nói đến khái niệm cá thể (cá nhân) thể hiện tính chất chính thể, không
thể chia nhỏ về những đặc điểm của chủ thể. Nó là sản phẩm của sự phát
triển tiến hóa chủng loài và tiến hóa cá thể. Trong y học người, ta mổ sự phân
đôi nhân cách. Còn cá nhân thì không thể mổ như thế được. Như vậy nhân
cách và cá nhân đã có sự khác biệt.
Khái niệm nhân cách thể hiện tính chỉnh thể của chủ thể cuộc sống.
Nhân cách là một cấu tạo đặc biệt có tính trọn vẹn. Nhân cách là sản phẩm
tương đối muộn của sự phát triển xã hội lịch sử và của sự tiến hoá cá thể của
con người. Nó là kết quả của quá trình chín muồi của những nét bẩm sinh
dưới tác động của môi trường xã hội. Sự hình thành nhân cách là một quá
trình riêng không trùng khớp với quá trình biến đổi các thuộc tính tự nhiên của
cá thể. Những quá trình thần kinh của cá nhân sẽ không biến thành những
thuộc tính nhân cách, mặc dù quá trình thần kinh sẽ không thiếu được trong
việc hình thành nhân cách. Mặt khác ta cũng xét một em bị tật bẩm sinh sẽ
ảnh hưởng lớn đến nhân cách của nó. Nhưng khi xét nhân cách ta không đưa
yếu tố tật nguyền vào nhân cách.
Vì vậy, việc phân biệt khái niệm cá nhân và nhân cách là rất quan trọng
giúp ta phương hướng để giải quyết vấn đề nhân cách.
3. Hoạt động là cơ sở của nhân cách
Ông cho rằng muốn hiểu nhân cách phải dựa vào hoạt động của chủ
thể để phân tích. Đó là con đường để hiểu được nhân cách một cách cụ thể
về mặt tâm lý học.
Bằng cách này sẽ không phải xác định xem những quá trình và đặc
điểm nào của con người là thuộc về những đặc điểm đặc trưng của nhân
cách. Việc nghiên cứu nhân cách phải xuất phát từ sự phát triển của hoạt
động, những loại hình cụ thể của hoạt động và mối liên hệ của nhân cách đó
với những người khác.
G.N. Leonchiev cho rằng việc tháo gỡ các quan hệ thứ bậc của hoạt
động khỏi trạng thái cơ thể là tìm thấy hạt nhân của nhân cách. Người ta thực
nghiệm - cho trẻ mẫu giáo lấy đồ vật ở xa nó và yêu cầu nó không được rời
chỗ quy định. Kết quả đứa trẻ không lấy được mà phải phá vỡ những quy
định để lấy được vật đó. Sau đó người hướng dẫn thực nghiệm thưởng cho
đứa bé đã lấy được đồ vật. Đứa trẻ từ chối nhận và òa lên khóc khi người
hướng dẫn thực nghiệm ép nó nhận.
Phân tích hiện tượng này ta thấy diễn ra 3 khâu:
- Đứa trẻ giao tiếp với người hướng dẫn thực nghiệm.
- Đứa trẻ giải quyết nhiệm vụ.
- Giao tiếp với người hướng dẫn thực nghiệm sau khi hoàn thành
nhiệm vụ.
Như vậy, hoạt động của đứa trẻ có 2 hoạt động: Hoạt động thứ nhất
nằm trong quan hệ với người thực nghiệm; hoạt động thứ hai nằm trong quan
hệ với đồ vật. Đó là hoạt động kép. Muốn tìm hoạt động theo cấp bậc nào
phải tìm hiểu động cơ. Bởi vì nền tảng của nhân cách là phối thuộc giữa các
hoạt động của con người. Mà trong hoạt động nhất thiết phải có động cơ thúc
đẩy và điều khiển.
4. Động cơ, xúc cảm và nhân cách
Trước hết ông đề cập tới quan hệ giữa động cơ và nhu cầu
- Về nhu cầu. Lần đầu tiên có thể chủ thể chưa nhận rõ chính đối tượng
của nhu cầu. Để biết được đối tượng của nhu cầu cần có các chức năng thúc
đẩy. Đó chính là động cơ.
Với tính chất là một cá nhân chủ thể sinh ra đã có nhu cầu nhưng với
tính chất là sức mạng nội tại thì nhu cầu được thực hiện trong hoạt động. Nói
cách khác lúc đầu nhu cầu chỉ xuất hiện như là một điều kiện một tiền đề cho
hoạt động, thì lập tức xảy ra sự biến hóa của nhu cầu, không còn là nhu cầu
trước nữa. Sự biến đổi nội dung cụ thể của đối tượng nhu cầu cũng kéo theo
sự biến đổi các phương thức để thỏa mãn các nhu cầu.
Như vậy, có hai quan niệm thể hiện theo 2 sơ đồ sau đây:
Sơ đồ thứ nhất: Nhu cầu - hoạt động - Nhu cầu. (Đó là quan niệm của
những người theo chủ nghĩa duy vật về nhu cầu trước khi xuất hiện chủ nghĩa
Mác).
Sơ đồ thứ hai: Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động. Luận điểm này đáp
ứng được quan niệm mác xít về nhu cầu. Luận điểm này cho rằng nhu cầu
con người cũng được sản xuất ra. Đó là luận điểm có ý nghĩa đối với tâm lý
học.
Nhu cầu con người mang tính xã hội - Nhu cầu con vật chỉ mang tính
chất sinh vật. Khi đói con người không xông vào ăn như con vật. Điều đó nói
lên bản chất xã hội của nhu cầu con người.
Như vậy, nhu cầu được phân tích về mặt tâm lý sẽ dẫn tới sự phân tích
động cơ.
- Về động cơ.
Ông phê phán các trường phái tâm lý về động cơ. Chu nghĩa khoái lạc
cho rằng xúc cảm thúc đẩy hoạt dõng. Ví dụ khoái lạc thúc đẩy hoạt động.
Con vật nếu kích thích dòng điện sẽ gây ra khoái lạc. Đối với con người cũng
thế, có thể dùng thuốc kích thích gây sự khoái cảm nhục dục của con người.
Chủ nghĩa khoái lạc đã quá đề cao vai trò của xúc cảm trong điều chỉnh hoạt
động. Xúc cảm không làm cho hoạt động tùy thuộc vào nó mà là cơ chế của
hoạt động. Xúc cảm giữ chức năng tín hiệu bên trong, không phản ánh bản
thân đối tượng mà phản ánh mối quan hệ giữa các động cơ - Động cơ
thường không được con người ý thức ngay từ đầu lúc hành động, có nghĩa là
người ta không biết cái gì thúc đẩy hành động của mình. Nhưng những
trường hợp như thế vẫn có sự phản ánh tâm lý dưới dạng xúc cảm.
A. N. Leonchiev chia ra 2 loại động cơ: Động cơ tạo ý và động cơ kích
thích - Động cơ tạo ý gắn liền với nhân cách. Ví dụ như lao động có hai động
cơ: động cơ xã hội và động cơ vật chất. Chính động cơ xã hội mới là động cơ
tạo ý, còn động cơ vật chất là động cơ kích thích. Động cơ tạo ý ở cấp bậc
cao hơn, song có khi nó không tham gia vào kích thích, thúc đẩy hành động,
mà khuất đằng sau động cơ kích thích.
Ý thức được động cơ là một hiện tượng có sau; chỉ được sinh ra ở cấp
độ nhân cách và được tạo lại trong tiến trình phát triển nhân cách.
5. Sự hình thành nhân cách.
Sự hình thành nhân cách của đứa trẻ diễn ra theo quá trình phát triển
của con người.
Sự hình thành nhân cách của đứa trẻ trước hết ở sự hình thành mối
quan hệ. Đứa trẻ trong giai đoạn đầu của cuộc đời thực hiện mối quan hệ với
thế giới xung quanh có tính chất gián tiếp - Người mẹ cầm thìa cho con uống
nước, mặc quán áo cho chúng, cầm nắm đồ chơi cho trẻ. Như vậy, liên hệ
giữa đứa trẻ với sự vật thông qua con người, hoặc chúng liên hệ với con
người thông qua sự vật.
Đối với trẻ thông qua mối quan hệ này mà đồ vật có một chức năng.
Chén là cái dùng để uống nước và con người có vai trò cực kỳ quan trọng đối
với chúng thông qua sự giao tiếp bằng lời hoặc không bằng lời.
+ Đứa trẻ dần dần lớn lên, mối quan hệ giữa chúng với vật và người
trước đây quyện vào nhau thì bây giờ đã phân đôi. Đứa trẻ đã có sự phát
triển hoạt động với sự vật và hoạt động với người. Vì vậy, đã diễn ra các
động cơ thứ bậc trong hoạt động.
Trong hoàn cảnh có nhiều những động cơ khác nhau thì ban đầu phụ
thuộc vào nhu cầu của con người, sau đó phụ thuộc mối liên hệ khách quan
giữa các sự vật.
Ý chí là yếu tố quan trọng việc phát triển nhân cách.
Một người có ý chí là biểu hiện một người có nhân cách.
Những hành động bột phát không có ý chí là hành động không mang
sắc thái nhân cách. Tuy nhiên ý chí không phải là nguồn gốc hoặc là cốt lõi
của nhân cách.
Tiền đề của sự hình thành nhân cách là sự phát triển của quá trình hình
thành mục đích và phát triển những hành động của chủ thể tương ứng với
mục đích.
Sự hình thành nhân cách là một quá trình liên tục, gồm các giai đoạn
tuần tự thay thế nhau, làm thay đổi tiến trình sự phát triển tâm lý sau này.
Tính cá biệt trong sự phát triển nhân cách bao giờ cũng được thể hiện
rõ ở người: có khi nhân cách lại bị suy thoái ở từng cá nhân riêng biệt. Điều
này còn phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của con người. Sự biến hóa
của nhân cách còn có thể phụ thuộc vào đặc điểm giai cấp, dân tộc và xã hội
của nhân cách. Chủ thể thuộc giai cấp nào đã chế ước sự phát triển mối quan
hệ chủ thể với xung quanh, quy định phạm vi hoạt động của chủ thể, phạm vi
giao tiếp của nó rộng hay hẹp, tiêu chuẩn hành vi mà nó tiếp thu được. Như
vậy, đứa trẻ từ khách thể của giai cấp dần dần trong quá trình phát triển nhân
cách đã thành chủ thể của giai cấp, nhóm xã hội. Ở đây, kinh nghiệm quá khứ
có một ý nghĩa hạn chế nào đó khi con người trở thành nhân cách. Quan
niệm cho rằng nhân cách là sản phẩm của tiểu sử con người là chưa thỏa
đáng. Vì nó biến con người thành định mệnh của quá khứ (trẻ lấy cắp vặt lớn
lên thành kẻ lấy cắp). Đó là quan điểm định kiến về quá khứ mà không nhìn
nhận sự phát triển của con người.
Nền tảng của nhân cách là sự phong phú của mối quan hệ giữa cá
nhân với thế giới. Trong mối quan hệ này con người phải hoạt động bao gồm
hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn.
Cấu trúc của nhân cách là một hình dạng tương đối ổn định của những
đường hướng động cơ chủ đạo được sắp xếp thành những thứ bậc giữa
chúng với nhau.
Có 3 thông số của nhân cách: chiều rộng của mối quan hệ giữa con
người đối với thế giới, mức độ thứ bậc hóa các hoạt động và các động cơ
hoạt động của chúng và cơ cấu tổng quát của nhân cách.
Các tiểu cấu trúc của nhân cách bao gồm: tính khí (khí chất), nhu cầu, ý
hướng, rung cảm và hứng thú, tâm thể, kỹ xảo, thói quen, phẩm chất đạo
đức.
Nhân cách không thể nào phát triển được trong phạm vi tiêu dùng. Sự
phát triển của nhân cách đòi hỏi nhất thiết phải có tiền đề là chuyển các nhu
cầu thành sự sáng tạo không có giới hạn.
Điều cuối cùng mà A.N. Leonchiev bàn đến là vấn đề con người tự ý
thức mình là một nhân cách. Đó là quá trình phát triển ý thức bản ngã. Trong
quá trình tiến hóa của cá thể con người đã hình thành các biểu tượng về bản
thân. Sự ý thức về bản chất bắt đầu từ việc tách bạch các thuộc tính bề
ngoài và là kết quả của sự so sánh phân tích, khái quát hóa thành cái bản
chất, ý thức cá nhân không chỉ là kiến thức, hệ thống ý nghĩa, hoặc các khái
niệm thu nhận được mà còn là sự vận động bên trong, phân biệt sự hiểu biết
về bản thân và tự ý thức về mình.
Ngay từ bé người ta đã có những hiểu biết, những biểu tượng về bản
thân. Còn ý thức về "cái tôi" là kết quả, là sản phẩm sinh thành của một con
người với tư cách là một nhân cách. Cái tôi của con người như đang quyện
vào hệ thống tổng quát của những mối liên hệ giữa con người và xã hội.
Trên đây, tôi đã trình bày tóm tắt về các quan niệm nhân cách của A.N.
Leonchiev. Trung tâm trong quan niệm này cho rằng hoạt động là cơ sở của
nhân cách. Vì vậy, phải lấy hoạt động để phân tích, kiến giải hiện tượng nhân
cách. Khi phân tích nhân cách phải kể đến động cơ, nhu cầu, mục đích và
hành động của cá nhân trong hoạt động. Có như vậy mới có thể tách bạch
được những cấp độ khác nhau: cấp độ sinh vật, cấp độ tâm lý với tư cách là
chủ thể và cấp độ xã hội, ở đó con người thực hiện những quan hệ xã hội
trong nghiên cứu của mình.
Quan điểm này của Leonchiev là một đóng góp lớn cho sự nghiên cứu
nhân cách. Nhưng người ta vẫn băn khoăn ở chỗ nếu nghiên cứu nhân cách
là nghiên cứu các hoạt động của cá nhân thì cái giá trị xã hội của nhân cách
lại không chỉ phụ thuộc vào hoạt động của cá nhân mà còn phụ thuộc vào
khách thể đánh giá cá nhân đó. Trong nhiều trường hợp bản thân hoạt động
của nhân cách là tốt nhưng sự bình giá xã hội là một nhân cách không tốt.
Như vậy, chỉ dựa vào hoạt động làm sao nói hết được bản chất nhân cách
của con người trong xã hội không thuần nhất.
C. Luận điểm của K.K. Platonov về nhân cách
K.K. Platonov là nhà tâm lý học nổi tiếng ở Liên Xô (cũ). Về tâm lý học
ông có những đóng góp xuất sác. Trong nhân cách ông đã đưa ra hệ thống
cấu trúc chức năng cơ động làm nền tảng để giải quyết những vấn đề nhân
cách.
- Trước hết K.K. Platonov bàn về bản chất nhân cách. Ở đây ông phê
phán các loại định nghĩa về nhân cách, trên cơ sở do ông nêu ra một định
nghĩa nhân cách thích hợp.
Ông khẳng định nhân cách có nhiều khoa học nghiên cứu nhưng chỉ có
tâm lý học mới nghiên cứu một cách toàn diện về nhân cách.
Ông cho rằng đại đa số định nghĩa nhân cách đều nói đến con người
chứ không nói đến nhân cách. Ví dụ: "Nhân cách là con người với toàn bộ
những phẩm chất xã hội của nó được hình thành trong những hoạt động và
quan hệ xã hội khác nhau" (L.P. Bueva), "Nhân cách - đó là con người với tư
cách là một thực thể xã hội, một chủ thể nhận thức và tích cực cải tạo thế
giới" (Bách khoa toàn thư Xô Viết).
Hiểu nhân cách như là "tổng hòa mối quan hệ xã hội" (N.C.
Gontcharov).
Ông không đồng ý với định nghĩa đó vì cho rằng không chính xác bởi vì
không thể cho bản chất con người trùng với khái niệm nhân cách. Những định
nghĩa về nhân cách khác như nhân cách là chủ thể của hoạt động, nhân cách
là chủ thể nhận thức cũng không được K.K. Platonov tán thành.
Trên cơ sở nhận xét và phê phán các định nghĩa về nhân cách ông đưa
ra định nghĩa nhân cách như sau: "Nhân cách đó là một con người cụ thể như
là một chủ thể cải tạo thế giới trên cơ sở nhận thức thể nghiệm thế giới, trên
cơ sở quan hệ với thế giới đó", ta có thể diễn dạt tư tưởng đó ngắn gọn hơn,
"Nhân cách đó là con người mang ý thức".
Ý thức không phải là một thực thể thụ động mà là một hình thức phản
ánh bậc cao chỉ có ở người. Đứa trẻ mới ra đời chưa có ý thức. Nhân cách sẽ
hình thành trong giao tiếp với người khác. Có nhân cách tiến bộ và nhân cách
phản động, nhân cách lành mạnh và nhân cách ốm yếu. Platonov cho rằng
không thể xác định lúc nào thì con người hình thành nhân cách. "Việc xác
định thời hạn hình thành nhân cách đứa trẻ là không biện chứng như là việc
giải quyết vấn đề cần phải có bao nhiêu hạt cát để có một đống cát - Nhưng
khi đứa trẻ nói "chúng tôi" thì đó là một nhân cách rồi".
- Về cấu trúc chức năng cơ động của nhân cách.
Việc xác định cấu trúc nhân cách là hợp lý và cần thiết.
Song ông cũng không đồng ý với kiểu cấu trúc theo tâm lý học cấu trúc
hoặc tâm lý học chức năng.
Theo K.K. Platonov cấp trúc tâm lý chức năng cơ động của nhân cách
gồm 4 cấu trúc nhỏ được xác định bằng 4 phạm trù sau đây:
1) Tính cần và đủ để đưa toàn bộ các yếu tố các nét của nhân cách vào
4 cấu trúc ấy.
2) Sự thừa nhận cách phân loại các thuộc tính cá nhân và các khái
niệm tâm lý về phương diện thực tế.
3) Tỷ lệ nghịch của độ chênh lệch tính chế ước xã hội và tính chế ước
sinh vật của các thuộc tính cá nhân riêng biệt và những cấu trúc nhỏ thống
nhất những thuộc tính ấy.
4) Tính chất chuyên biệt của các loại quan hệ trong sự hình thành mỗi
cấu trúc nhỏ.
Liên quan đến 4 phạm trù trên có 4 cấu trúc nhỏ:
- Cấu trúc nhỏ thứ nhất là xu hướng cấu trúc này gắn liền với các nét
đặc trưng đạo đức của nhân cách - Xu hướng bao gồm: ý hướng với tư cách
là hình thức của xu hướng; ý nguyện là nhu cầu đã được nhận thức, hứng thú
là sự nhận thức đối tượng của xu hướng. Lý tưởng, thế giới quan, niềm tin
đều là biểu hiện của xu hướng.
Cấu trúc này không có tư cách tự nhiên trực tiếp, chúng phản ánh ý
thức xã hội, được hình thành bằng con đường giáo dục, do xã hội chế ước.
Cấu trúc nhỏ thứ hai là kinh nghiệm bao gồm các tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo và thói quen. Sự hình thành những kinh nghiệm này là do dạy học. Chịu
ảnh hưởng nhất định các thuộc tính cá nhân bị chế ước bằng phương diện
sinh vật.
- Cấu trúc nhỏ thứ ba là các quá trình tâm lý. Cấu trúc này gồm những
quá trình tâm lý riêng lẻ và các chức năng tâm lý với hình thức phản ánh; cấu
trúc này do luyện tập mà thành.
- Cấu trúc nhỏ thứ tư là các thuộc tính sinh học quy định nhân cách. Đó
là thuộc tính của khí chất giới tính, lứa tuổi, bệnh lý của cá nhân.
Nhiều nét tính cách của nhân cách được xếp vào 4 cấu trúc nhỏ đó.
Nhưng các cấu trúc này thang tính chất chức năng cơ động. Bốn cấu trúc nhỏ
này có phần giao thoa. Ví dụ như niềm tin thuộc về cấu trúc xu hướng nhưng
mặt nào đó cũng chịu ảnh hưởng của cấu trúc kinh nghiệm và quá trình tâm
lý.
Ngoài 4 cấu trúc nhỏ trên còn có 2 cấu trúc nằm trên 4 cấu trúc đó là
cách và năng lực. Nó nằm trong giao thoa giữa các cấu trúc nhỏ. Cấu trúc
này có tính chất chung cho bất kỳ một nhân cách nào. Cấu trúc này có tính cơ
động vì nó không cố định ở một nhân cách cụ thể, nó thay đổi từ lúc đứa trẻ
có nhân cách đến chết. Tính cách cũng như năng lực là tổng hòa các thuộc
tính cá nhân, có trong bốn cấu trúc nhỏ cơ bản của nhân cách. Năng lực chỉ
được phát huy dưới một dạng hoạt động nhất định, một loại hoạt động cụ thể.
Do đó cũng có thể coi tính cách và năng lực là phẩm chất chung của cá nhân.
Những năng lực chỉ là thuộc tính có trong sự tương ứng với hoạt động.
Mỗi nét tính cách là một nét nhân cách, nhưng không phải một nét nhân
cách nào cũng là nét tính cách. Cũng như vậy mỗi một năng lực riêng đối với
một hoạt động cụ thể là một nét nhân cách, nhưng cũng không phải một nét
nhân cách nào cũng là một yếu tố của năng lực.
Tính cách và năng lực cá nhân tương hỗ với nhau. Trong một mức độ
nào đó năng lực biểu hiện ra và trở thành tính cách.
Quan điểm của K.K. Platonov là một đóng góp mới cho việc giải quyết
vấn đề nhân cách. Hệ thống chức năng cơ động, bốn tiểu cấu trúc của nhân
cách, tính cách và năng lực là các thuộc tính của nhân cách đã làm sáng tỏ
thêm vấn đề nhân cách.Việc định nghĩa "nhân cách là con người có ý thức"
có làm cho ta thỏa mãn chưa? Chúng ta vẫn thấy có nhiều trường hợp vô
thức điều chỉnh hành vi của con người, thậm chí điều khiển nhiều hoạt động
nữa. Vậy vô thức đóng vai trò gì trong nhân cách. Lại nữa, xã hội đóng vai trò
quyết định như thế nào đối với nhân cách, chúng ta cũng chưa thấy rõ. Chúng
ta biết đối với nhân cách một người sự bình giá, đánh giá của xã hội là rất
quan trọng để hình thành bậc thang giá trị của nhân cách.
D. Luận điểm của trường phái Uznatze ở Tbilixi (Gruzia) về nhân cách
Để hiểu con người với tư cách là nhân cách, D. Uznatze đã phân chia
tính tích cực tâm lý của con người ra 3 cấp độ. Con người với tư cách là cá
nhân đó là cấp độ đầu tiên thấp nhất. Cấp độ thứ hai con người với tư cách là
chủ thể. Cấp độ thứ ba phức tạp và cao nhất con người với tư cách là nhân
cách.
1. Trước hết ông đề cập tới con người với tư cách là cá nhân. Đó là
con người với tư cách cá nhân, là phần hiện thực của tính tích cực tâm lý mà
người ta có thể quan sát được dưới dạng cơ thể. Cơ thể là một phần của hiện
thực, nhưng phần này tách rời khỏi hiện thực và có nội dung thành một chỉnh
thể trọn vẹn nhất định. Tính chuyên biệt của cơ thể được thể hiện ở chỗ cơ
thể nhận tác động từ hiện thực với tư cách là một đơn vị trọn vẹn và có đặc
điểm là giữ gìn khuynh hướng trọn vẹn này.
Cá nhân với tư cách là cơ thế có quan hệ với hiện thực bên ngoài bằng
nhu cầu sinh vật và một trong những đặc điểm của cơ thể là thực hiện tính
tích cực cần thiết cho việc thỏa mãn nhu cầu với tư cách là một hệ thống trọn
vẹn. Theo lý luận tâm thế của Uznatze hành động cơ bản của cơ thể với tư
cách là một hệ thống trọn vẹn là trạng thái tâm sinh lý của cơ thể - Đó là tâm
thế.
"Tâm thế là trạng thái cơ thể xuất hiện ở cá nhân do sự tác động đồng
thời của nhu cầu nhất định và hoàn cảnh phù hợp với chúng".
Cơ thể là một hệ thống chức năng nhất định, cơ thể này cũng như bất
kỳ hệ thống vật lý nào dưới tác động của hoàn cảnh đều có thể bị phá hoại.
Tính chuyên biệt của cá nhân với tư cách là một cơ thể sống, cá nhân
rung cảm, sự phá hoại thăng bằng của cơ thể với tính cách là nhu cầu sinh
vật nhất định. Nhu cầu sinh lý thức ăn, đó là nhu cầu đầu tiên trước nhất xảy
ra khi thiếu một cái gì cần cho sự phát triển cơ thể. Nếu không có sự thỏa
mãn nhu cầu này con người sẽ chết.
Đối tượng và hiện tượng cần thiết đối với việc thỏa mãn nhu cầu sống
để khôi phục sự thăng bằng nằm trong hiện thực bên ngoài bởi vì cơ thể đã
hình thành mối quan hệ nhất định với hoàn cảnh. Tính tích cực hướng đến
tìm kiếm đối tượng phù hợp và thỏa mãn nhu cầu có thể xét như là hành vi
hợp lý, bằng cách này cơ thể phục hồi sự phá hoại thăng bằng của cơ thể,
tạo ra sự thăng bằng của hệ thống cơ thể.
Theo lý luận tâm thế, hành vi của cá nhân xuất hiện và diễn ra trên cơ
sở tâm thế của nó. Theo ý kiến của Uzơnatze tâm thế là trạng thái tâm lý nào
nó xuất hiện trong chỗ nối của nhu cầu cá nhân và tác động của đối tượng
phù hợp.
Sau khi trao đổi chất một cách trực tiếp với môi trường, cá nhân còn
giữ lại mối quan hệ phản ánh đối với hiện thực. Tâm thế với tư cách là một
trạng thái tâm lý cụ thể của cá nhân thể hiện mối quan hệ phản ánh của mình
đối với hiện thực. Uzơnatze đã giải thích tâm thế trên cơ sở luận đề, "chuyên
biệt hóa tính trọn vẹn". Theo luận đề này cơ thể và môi trường là một hệ
thống thống nhất và trọn vẹn, quan hệ giữa chúng không phải là điều kiện
ngẫu nhiên bên ngoài mà là có tổ chức bên trong. Mối quan hệ này là cơ sở
xuất hiện của quá trình sống và bất kỳ tính tích cực tâm lý cá nhân. Theo
quan điểm này tính tích cực tâm lý cá nhân được sinh ra và bắt đầu phát triển
bằng các điều kiện và chuyên biệt hóa những quá trình sống.
Trong mức độ thấp của sự phát triển quá trình sống của cơ thể là tổ
chức việc trao đổi chất với môi trường - Trong quá trình phát triển giữa cá
nhân và hoàn cảnh đã xuất hiện hàng loạt khoảng cách. Bên cạnh việc trao
đổi chất giữa chúng đã sinh ra một quan hệ mới có chất lượng phân biệt theo
mức độ. Nhưng trong khi xem xét khoảng cách không gian và thời gian con
người đã chiếm lấy những hình thức đặc biệt gắn liền với hoàn cảnh. Có thể
cho rằng những hình thức trực tiếp của mối quan hệ giữa cá nhân và hoàn
cảnh trong khoảng cách không gian và trong thời gian giữa chúng được tạo
nên trong hình thức cơ bản của mối quan hệ qua lại.
Cũng cần vạch ra rằng Uzơnatze đã nêu lên đặc điểm của tâm thế với
tính cách như trạng thái tâm lý cá nhân, mặt khác lại xem xét tâm thế như là
trạng thái của cá nhân trong đó phản ánh hoàn cảnh nhất định. Tâm thế là
hình thức phản ánh mối quan hệ cá nhân với hoàn cảnh. Điều đó được thể
hiện trong sơ đồ hành vi cá nhân (S - R). Kích thích - phản ứng thành kích
thích - tâm thế (cá nhân) - phản ứng (S - ở - R). Tính hiện thực được phản
ánh trong tâm thế ở vị trí của nhu cầu cá nhân.
Theo quan điểm lý luận tâm thế, mối quan hệ phản ánh tâm thế đối với
hiện thực là tính tích cực tâm lý của cá nhân. Đặc điểm của tính tích cực tâm
lý cá nhân là những quy luật của tâm thế.
Theo Sôta Nađirasvili (trường phái Uzơnatze) tính tích cực tâm lý của
cá nhân có thể biểu diễn theo sơ đồ sau:
Hình 1:
Tam the Hanh vi
Hoan canh
Nhu cau
Hình 1 phản ánh nội dung cơ bản của lý luận tâm thế. Theo lý luận này
tâm thế xuất hiện ở cá nhân bằng cách thống nhất nhu cầu với hoàn cảnh
phù hợp với cá nhân. Hoàn cảnh của hành vi cá nhân là thành phần của hiện
thực có tác động qua lại với hệ thống nhu cầu của cá nhân.
Sơ đồ khái quát tính tích cực tâm lý của cá nhân.
Cơ thể sống được thay đổi thành cá nhân khi cơ thể sống tách ra khỏi
môi trường vật chất với tính cách là hệ thống chức năng xác định và khi đó
giữa chúng có sự trao đổi chất thì bắt đầu có sự trao đổi chức năng. Giữa cá
nhân và hiện thực ngoài sự trao đổi chất còn hình thành mối quan hệ tác
động qua lại đặc biệt sự phản ánh mối quan hệ xác định mức độ ý nghĩa của
tính tích cực.
Hiện thực tác động đến cá nhân với tư cách như là hệ thống trọn vẹn
và cá nhân đáp ứng lại tác động với tư cách là hệ thống ấy. Cá nhân chọn lấy
những tác động đối tượng hoặc hướng đến đối tượng nếu như ở cá nhân có
nhu cầu nhất định đến đối tượng. Tâm thế là sự biến đổi toàn bộ lực lượng
tâm sinh lý của con người, là kết quả của khuynh hướng hành động nhất định
của cá nhân.
Trong lý luận tâm thế Uzơnatze đã phản ánh đúng tình hình thực tiễn
của tính tích cực tâm lý của cá nhân. Hành vi tâm lý của cá nhân được quy
định không chỉ ở tác động của hoàn cảnh, ở sự tác động của những kích
thích nhu cầu, mà còn ở trạng thái có mục đích của cá nhân - tức là tâm thế
xuất hiện do kết quả của tác động đồng thời của hoàn cảnh và kích thích của
nhu cầu.
Sau khi hình thành một tâm thế nào đó ở cá nhân thì xuất hiện khuynh
hướng hành động trong xu hướng nhất định và hành vi của cá nhân được
thực hiện trên cơ sở tâm thế. Khuynh hướng tác động đến một hướng nhất
định sẽ giảm ở cá nhân cho đến khi nào không còn thực hiện việc hình thành
tâm thế nữa. Nội dung tâm lý của mức độ đầu tiên của tính tích cực tâm lý là
như thế.
Như vậy cá nhân hành động trên cơ sở làm thế được phản ánh với tư
cách vừa như nhu cầu cá nhân vừa như hoàn cảnh của những nhu cầu này.
Vì vậy hành vi xuất hiện trên cơ sở này có tính chất thống nhất.
Hành vi này phục vụ cho việc thỏa mãn những nhu cầu, đồng thời tính
toán khả năng hoàn cảnh mà hành vi có thể thực hiện được. Nhưng trong quá
trình tác động qua lại với hiện thực diễn ra sự khác biệt cá nhân trong hiện
thực - Vì vậy tính tích cực tâm lý của con người có tính chất chuyên biệt hơn.
Ở mức độ cao của tính tích cực tâm lý, một tác động qua lại của con
người với hiện thực được tìm thấy dưới hình thức quan hệ chủ thể, khách
thể, trong đó hiện thực đã biến thành khách thể đối với cá nhân và cá nhân đã
trở thành chủ thể.
2. Con người với tính chất chủ thể theo quan điểm tâm lý có tính chất
phân biệt hơn với hiện thực.
Một trong những đặc điểm cơ bản của tính tích cực tâm lý của con
người như Uzơnatze đã chỉ rõ là cơ thể ngừng hoạt động thực tiễn của mình,
tách rời khỏi hiện thực, đối lập với hiện thực và hình thành mối quan hệ nhận
thức lý luận với hiện thực. Ông đã gọi tính tích cực chuyên biệt này của cá
nhân là hành động khách thể hóa. Chủ thể bắt đầu xem xét, nhận thức hiện
thực với tư cách là chủ thể. Những hình thức chuyên biệt của mối quan hệ
được xây dựng trên mối quan hệ này.
Để cho cá nhân hướng đến hành vi khách quan con người cần có
những khả năng tâm lý nhất định. Khả năng khách thể hóa và gắn liền với khả
năng này tính tích cực tâm lý được hình thành ở con người trong quá trình tác
động qua lại xã hội. Trong quá trình xã hội hóa con người nắm vững phương
tiện thông tin, ngôn ngữ là một trong những phương tiện cơ bản của khách
thể hóa.
Vì vậy, có thể cho rằng trong quá trình xã hội hóa ở người đã phát triển
năng lực khách thể hóa. Trên cơ sở này con người nắm vững lý luận và quan
hệ nhận thức với thực tế. Bằng hành vi khách thể hóa con người với tư cách
là cá nhân đã tách ra khỏi hành vi, ra khỏi thực tế và hướng vào chủ thể.
Khi gặp khó khăn, con người thay đổi mối quan hệ đối với hiện thực.
Trước mắt xuất hiện những vấn đề có tính lý luận: "Đó là gì?". "Làm như thế
nào". Trong khi xuất hiện hàng loạt những vấn đề con người lại quay lại với
chủ thể và xem xét hiện thực như là đối tượng phán đoán.
Trong hoàn cảnh này chủ thể trước hết thực hiện khách quan hóa hành
vi khó khăn của đối tượng và khắc phục những nguyên nhân xung đột trong
hành vi. Điều này đòi hỏi phải nhận thức và suy nghĩ trong mỗi hoàn cảnh cụ
thể. Vì vậy mối quan hệ của chủ thế đối với hiện thực quy định hứng thú nhận
thức của con người.
Trong nhũng công trình của Piagiet, Brunepơ đã nghiên cứu tính
chuyên biệt của năng lực, tích cực của nhận thức do cá nhân thực hiện trong
quá trình tác dụng qua lại với hiện thực.
Theo quan điểm này chúng ta đã nghiên cứu cấu trúc năng lực tính tích
cực khái quát hóa một trong những thao tác cơ bản của tư duy và những quy
luật của việc vận dụng quy luật này trong việc giải quyết những bài tập tư duy.
Người ta đã chứng minh rằng quá trình phát triển tính tích cực khái quát hóa
tâm lý diễn ra theo hai mức độ khác nhau.
Ở mức độ đầu của sự phát triển khái quát hóa (mức độ A) chủ thể khái
quát hóa những dấu hiệu chung của những đối tượng, ở mức độ hai (mức độ
B) có thể gọi là mức độ "khái quát hóa hệ thống" là khái quát hóa những dấu
hiệu hiện có của đối tượng. Tính khái quát ở mức độ A và B khác nhau.
Chúng có thể mang tính chất của cấu trúc tâm thế lôgic toán học. Tính tích
cực khái quát ở mức độ A có thể có tính chất là cấu trúc khái niệm "lớp của
các lớp". Ở mức độ B của khái quát hóa đặc điểm của tính tích cực chủ thể là
cấu trúc "hình thức tính toán bình thường hiện nay".
Có thể cho rằng mức độ chủ thể - khách thể này là khi con người tiếp
thu đối tượng cảm giác về hiện thực và sử dụng phối hợp sơ đồ đầu tiên (sơ
đồ 1). Cấu trúc tính tích cực thay đổi trong mức độ B của sự khái quát hóa,
tạo cho chủ thể khả năng nhận biết việc thực hiện và mức độ cần thiết của
hiện thực. Cấu trúc của tính tích cực tâm lý đã giúp cho chủ thể trong việc
phản ánh khái quát hiện thực, cùng như phản ánh nhưng quy luật chung tác
động giữa các đối tượng với nhau, kể cả tác động lẫn nhau của chủ thể và
hiện thực đối tượng.
Trong quá trình tác động qua lại với hiện thực chủ thể không chỉ phản
ánh hiện thực đối tượng mà còn thay đổi nhận thức của mình cho phù hợp
đối với việc phản ánh hiện thực. Nhận thức khái quát hiện thực đã giúp cho
con người khả năng vạch ra nhiều cách khác nhau để hợp nhất chúng lại.
Bằng cách này sẽ giúp cho con người quy nạp hiện thực trong phạm trù
chung, mặt khác sẽ phản ánh được sâu sắc hiện thực, nhận biết được nhiều
mặt của hiện thực. Vì vậy tính tích cực tâm lý của cá nhân có thể coi như là
phương tiện giữ gìn và bảo vệ sự thăng bằng giữa con người và hoàn cảnh.
Yếu tố thăng bằng có thể hiểu như trong hoạt động vật lý cũng như
trong tâm lý. Trong hoàn cảnh vật lý thăng bằng bị phá hoại có thể được khôi
phục nếu như sự thay đổi khả năng giữa các thành phần có hành động đối
lập đền bù lại.Trong vật lý thăng bằng là thể hiện sự đứng im không vận động.
Trong hệ thống tâm lý trạng thái thăng bằng có thể là con đường tính tích cực
tâm lý căng thẳng. Đối với hệ thống vật lý không có sự đền bù thì không thể
có sự thăng bằng được. Đối với hệ thống tâm lý thì khác. Chúng ta hãy xét
đến đặc điểm nhận thức con người như là một hệ thống của lực thăng bằng
hiện thực.
Ý thức được khả năng đối với chủ thể với tư cách là hệ thống tâm lý là
yếu tố thăng bằng hiện thực vì như là bản thân hiện thực.
Con người với tư cách là hệ thống tâm lý ở trong từng thái thăng bằng
khi con người ý thức được khả năng tính tích cực đền bù cần thiết đối với
việc khôi phục thăng bằng. Ví dụ nhiệm vụ tư duy xuất hiện khi hoàn cảnh có
vấn đề xuất hiện đối với chủ thể và nếu trong hoàn cảnh này có sự xung đột ý
kiến này phù hợp với lý thuyết thông tin của Simônôp đề ra khi nghiên cứu về
xúc cảm. Và cũng phù hợp với lý thuyết thông tin của Obukhovski (Ba Lan).
Như vậy khả năng đóng vai trò tích cực trong việc hướng sự thăng
bằng trong hệ thống tâm lý và trong việc thực hiện hành vi hợp lý. Việc tính
toán khả năng và áp dụng hợp lý khả năng diễn ra trên cơ sở hành vi cấu trúc
của tính tích cực tâm lý.
Cấu trúc bất kỳ tính tích cực tâm lý nào, mặc dù có ý thức hoặc không ý
thức đều được chủ thể sử dụng một cách hợp lý. Điều này chứng minh rằng
quan hệ giữa chủ thể đối với hiện thực không hạn chế ở quan hệ có ý thức.
Hành động có ý thức của chủ thể cần phải diễn ra trong cái nền của tính tích
cực tâm lý của cấu trúc rộng hơn.
Vì vậy có thể cho rằng tính tích cực tâm lý có ý thức của chủ thể có tính
chất là một quy luật cấu trúc phức tạp hơn so với vô thức, thuần túy tính tích
cực của tâm thế cá nhân. Nhưng nghiên cứu một cách chi tiết hơn về nội
dung tâm lý thì tính tích cực tâm lý có ý thức của chủ thể được hình thành
bằng con đường chuyên biệt hóa và phát triển tính tích cực của cá nhân. Vì
vậy đặc điểm cấu trúc của tính tích cực tâm lý thực hiện trên cơ sở mỗi tác
động qua lại của chủ thể và khách thể cần phải được hiểu dưới cái nền của
quy luật tâm thế.
Mặc dù thực hiện trên cơ sở khách quan hóa, tính tích cực nhận thức
đã phục vụ cho việc tìm kiếm con đường cần thiết đối với việc hoàn thiện
hành vi đầu tiên chưa thực hiện được: Nhưng về bản chất có khác xa với
hành vi thực tiễn. Trên cơ sở xuất hiện khách thể hóa, hành vi lý luận khác
với hành vi thực tiễn về cấu trúc và sử dụng phương tiện khác và phục vụ cho
mục đích cũng khác với hành vi thực tiễn.
Trong khi giải quyết nhiệm vụ nhận thức bằng tính tích cực lý luận, con
người đã sử dụng kết quả của hành vi này cho việc hoàn thiện có kết quả của
những hoạt động thực tiễn của mình.
Trong khi chú ý đến hoàn cảnh trong sơ đồ trên chúng ta lưu ý đến vấn
đề khác về cơ sở của hành vi lý luận, về nguyên nhân của sự hợp lý hành
động nhận thức của con người. Chúng ta biết rằng tính tích cực hợp lý của
con người luôn luôn được quy định bởi một tâm thế nào đó. Vậy tâm thế nào
quy định tính tích cực của cá nhân và tâm thế xuất hiện trong hoàn cảnh nào.
Điều này đã được Uzơtnatze giải thích rõ ràng. Cụ thể về vấn đề này
được thể hiện qua ví dụ sau: Một người đi đâu đó anh ta mặc áo bành tô, rồi
bắt đầu ra khỏi nhà. Anh ta đóng cửa lại và cảm thấy dường như đóng cửa
bằng chìa khóa của mình, nhưng cửa không đóng. Sau khi một vài lần đóng
cửa không thành công, anh ta ngừng hoạt động của mình và cố gắng suy
nghĩ vì sao mà cửa không đóng lại được. Có thể là anh ta đóng cửa không
bằng chìa khóa của mình và anh ta tìm chìa khóa đóng cửa của mình để đóng
cửa. Ví dụ này cho ta thấy rằng con người bắt đầu thực hiện hành vi của
mình trên cơ sơ tâm thế hành vi thực tiễn, nhưng do sự phản ánh không đầy
đủ của hoàn cảnh anh ta không thể chọn lấy chìa khóa thích hợp.
Sau hành vi khách thể hóa cá nhân trên cơ sở của hoàn cảnh phản ánh
chi tiết và những nhu cầu phù hợp có thể thực hiện tâm thế phân biệt và thích
hợp. Bằng cách này đã hình thành khả năng tiếp tục hành vi thích hợp. Hành
vi diễn ra trên cơ sở hình thức mới có chất lượng của những quá trình tâm lý,
trên cơ sở của tính tích cực nhận thức.
Vì vậy có thể cho rằng những quy luật của tính tích cực tâm lý của tư
duy và nhận thức không thể hiểu và giải thích ở tâm thế đầu tiên trong mối tác
động qua lại giữa cá nhân và hoàn cảnh mà còn được hình thành ở mức độ
thứ 2 của tính tích cực tâm lý. Tâm thế dựa trên quá trình tư duy của chủ thể.
Uzơnatze gọi là tâm thế lý luận.
Tư duy con người xuất hiện và thực hiện trên cơ sở tâm thế lý luận.
Tâm thế lý luận là tâm thế tích cực tư duy không trên cơ sở xuất hiện
nhu cầu thực tiễn trực tiếp mà xuất hiện trên cơ sở lý luận.
Nhu cầu lý luận xuất hiện ở chủ thể khi chủ thể có quan hệ với hoàn
cảnh không rõ ràng. Nếu như nhu cầu lý luận là những yếu tố khách thể của
tâm thế lý luận thì hoàn cảnh có vấn đề là yếu tố khách thể của tâm thế này.
Ngoài nhu cầu ly luận và hoàn cảnh có vấn đề, Uzơnatze chỉ ra những
quy luật Akeumaturakua của tính tích cực tư duy thực hiện trong quá trình tư
duy dưới dạng quy luật lôgích mà cá nhân không có ý thức.
Tính tích cực tâm lý của nhận thức, thực hiện trong mức độ mối quan
hệ tác động chủ thể và khách thể diễn ra trên cơ sở của tâm thế lý luận. Hiểu
được quy luật tâm thế này có thể hiểu được và giải thích được những đặc
điểm của tính tích cực tâm lý nhận thức của chủ thể.
Mặc dù tính tích cực tâm lý của chủ thể, hoạt động lý luận của nó diễn
ra trên cơ sở tâm thế nhất định, nhưng sơ đồ chung của hành động tâm thế
thực hiện khác với sơ đồ tính tích cực cá nhân. Sơ đồ này nêu được tính tích
cực tâm lý nhận thức của con người rõ ràng hơn.
Hoạt động của chủ thể được thực hiện trong mức độ thứ 2 của tính tích
cực tâm lý.
Khi hành vi tâm thế không phù hợp với hoàn cảnh, tự thỏa mãn nhu
cầu cá nhân không thực hiện được, chủ thể lập tức chấm dứt hành vi của
mình mà hướng tới khách thể và bắt đầu suy nghĩ tới hoàn cảnh. Trong thời
gian này con người tính toán đến khả năng của hoàn cảnh khách quan mà
trước đây trong hành vi anh ta không tính đến.
Trên cơ sở của việc gặp gỡ hai yếu tố: nhu cầu lý luận và sự phù hợp
đối với việc thỏa mãn hoàn cảnh xung đột của cá nhân, tâm thế được thể hiện
ở chủ thể. Bằng phương tiện của tâm thế nhận thức này chủ thể bắt đầu thực
hiện hành vi lí luận. Trong quá trình này đặt ra ở chủ thể những vấn đề. Tâm
thế lý luận này đã tạo nên tính tích cực trí tuệ của chủ thể với tư cách là sự
kích thích vừa như là xu hướng. Việc tiến triển hợp lý của hành vi thực tiễn ở
mức độ thứ 2 của tính tích cực tâm lý tạo điều kiện cho việc hình thành cho
tâm thế thực tiễn sớm hơn, và tính hợp lý của tính tích cực nhận thức lý luận
của mức độ thứ 2 cũng tạo điều kiện cho tâm thế lý luận xuất hiện sớn hơn.
Bức tranh tổng hợp của tính tích cực tâm lý của mức độ thứ nhất và
thứ hai được thể hiện ở sơ đồ 2.
SƠ ĐỒ 2
Sơ đồ này phản ánh ý nghĩa của tính tích cực tâm lý của mức độ thứ
hai trong cấu trúc của hành vi phù hợp của con người. Nếu sự phản ánh
không phù hợp hiện thực thì tâm thế không phù hợp hiện thực. Trên cơ sở
này thì không thực hiện được hành vi mô phỏng theo mối quan hệ đối với
Thoa man nhu cau
Hanh vi thuc tien
Tam the hanh vi thuc tien
Hoan canh nhan biet
Hanh vi thuc tien
Tam the hanh vi thuc tien
Hoan canh vat li
Nhan thuc hoan canh
Qua trinh tu
duy
Tam the hanh vi li
luan
Hoan canh co van đe
Nhu cau nhan thuc
He thong thao tac tri
tue
Y thuc đuoc hanh vi hop ly
Nhu cauNhu cau
hiện thực. Tính tích cực tâm lý của mức độ thứ hai đã bắt đầu tác động đến
tâm thế không được thực hiện. Sau khi phản ánh thích hợp hiện thực và giải
quyết tốt nhiệm vụ tư duy thì có khả năng thực hiện hành vi mô phỏng thích
hợp.
Nhưng rõ ràng rằng đặc điểm của tính tích cực tâm lý không chỉ sử
dụng hai mức độ của tính tích cực. Như chúng ta đã biết con người ngoài cá
nhân và chủ thể được nhận thức, con người còn là một nhân cách sống trong
hoàn cảnh xã hội. Con người với tư cách là chủ thể tồn tại nhưng hệ thống
thế giới quan đạo đức và hệ thống mong đợi xã hội. Con người nằm trong
những mối tác động qua lại giữa xã hội với người khác và trong quá trình tích
cực tâm lý của mình không phải chỉ tính đến nhu cầu riêng mà còn tính đến
nhu cầu xã hội.
So sánh với tính tích cực tâm lý của chủ thể thì tính tích cực tâm lý của
nhân cách xã hội có cấu trúc phức tạp hơn. Hành vi xã hội của nhân cách
thực hiện trong sự tham gia của mức độ phức tạp, mức độ thứ ba của tính
tích cực tâm lý.
3. Con người với tư cách là nhân cách
Như chúng ta đã biết, con người không chỉ là một thực thể chịu sự kích
thích. Con người không bị động, trước sự kích thích của những nhu cầu trực
tiếp, mà có thể lẩn tránh những nhu cầu tác động trực tiếp của những kích
thích không có lợi. Sự đánh giá của con người nói chung xuất phát từ hoàn
cảnh nào đó. Con người có thể điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với
hoàn cảnh. Trong trường hợp ấy nhân cách thực hiện tính tích cực đặc biệt
bằng cách tổ chức và thực hiện hành vi của mình. Có thể con người cũng tính
đến việc thỏa mãn nhu cầu của người khác ngoài nhu cầu của mình. Để hiểu
đặc điểm của hành vi này cần phải tính đến hệ thống định hướng giá tri và
đặc điểm ý chí con người.
Một trong những dấu hiệu cơ bản của nhân cách là ý chí. Tính chất của
ý chí được thể hiện trong việc thực hiện hành vi ý chí của con người. Ví dụ
con người có nhu cầu hút thuốc lá nhưng thấy thuốc lá không có lợi nên đã
bỏ thuốc lá. Uzơnatze cho rằng đối với bất kỳ hành vi nào cần phân biệt tính
chất chủ thể và hành vi. Con người trong hành vi của mình diễn ra sự phân
biệt hành vi vừa có tính chất khách thể hóa cái "tôi" của mình vừa có tính chất
tự bản thân hành vi của mình. Việc khách thể hóa "cái tôi" và hành vi có tính
chất đối với tất cả các trường hợp thể hiện ý chí. Tính chất thứ hai của hành
vi ý chỉ là ở chỗ ý chí thực biện được tính tích cực của nhân cách có quan hệ
với thời gian hiện nay và hành vi diễn ra trong tương lai. Đặc điểm của hành
vi ý chí là ở chỗ trong trường hợp nào đó tổ chức sức lực và điều kiện trên cơ
sở đó thực hiện được hành vi trong tương lai.
Đặc điểm thứ ba của hành vi ý chí là có sự rung cảm của cái "tôi" - Nếu
trong hành động kích thích con người bị lôi cuốn vào nguồn gốc kích thích
của tính tích cực là nhu cầu thì trong thời gian hành động ý chí con người
tách ra khỏi hành vi của mình và cái "tôi" của mình diễn ra dưới dạng là
nguồn gốc của tính tích cực, những cơ sở của hành vi.
Như chúng ta đã biết, ngay trong khi xuất hiện những nhiệm vụ nhận
thức trong quá trình tư duy và đồng thời trong thời gian thực hiện hành vi có ý
chí diễn ra sự phá hoại và sự phân biệt tính mục đích của cá nhân và hoàn
cảnh. Hình vi ý chí được thực hiện một cách thực tiễn khi nhân cách tổ chức
và cấu tạo hóa các lực lượng tâm lý, khi nhân cách hành động theo một
khuynh hướng nào đó trên cơ sở khả năng sinh lý của hành vi.
Quá trình ý chí có thể chia 4 giai đoạn như sau:
1) Xuất hiện thái độ phủ định đối với kích thích, đối với hành vi thói
quen và xuất hiện sự rung cảm khác cần thiết: rung cảm ý chí và hành vi.
2) Quá trình suy nghĩ, tìm kiếm những hành vi cần thiết, những động cơ
phù hợp, người ta thường gọi thời kỳ này là thời kỳ đấu tranh mâu thuẫn của
các động cơ.
3) Tiếp nhận quyết định, khi nhân cách trên cơ sở của tính tích cực tâm
sinh lý chấp nhận một hành vi nào đó cần phải thực hiện.
4) Thực hiện quyết định – Bởi vì ý chí phải được thể hiện ở hành động.
Đó là tính chất thực tiễn của ý chí.
Tính tích cực của ý chí bắt đầu từ việc ngăn cản những hành vi có tính
kích thích. Hành vi kích thích không chỉ bị kìm hãm mà còn bị ngăn cản sự
thực hiện. Chính sự ngăn cản này đã tạo nên nhân cách. Hành vi kích thích
thường xảy ra xung đột với xã hội, với thế giới quan đạo đức và nguyện vọng
trên cơ sở hành vi xã hội của cá nhân. Khi xuất hiện xung đột giữa hành vi
kích thích và quan điểm đạo đức thì con người thường rời bỏ hành vi kích
thích mà hướng đến hành động khách quan.
Trong trường hợp này tính tích cực của con người hướng vào "trong" -
Trong khi tính đến sức mạnh nhân cách của mình, định hướng giá trị xã hội,
nhân cách tìm kiếm những hành vi nào cần phải thực hiện đồng thời với
những hành vi kích thích không được chấp nhận.
Trong hoàn cảnh nhất định con người xóa bỏ hành vi rung động và con
người cũng không hành động theo tâm thế xuất phát trên cơ sở của hành vi
rung động. Trong hoàn cảnh xung đột con người hình thành tâm thế mới, tâm
thế lý luận. Trước mắt hình thành các câu hỏi sau: "Làm như thế nào?". "Vì
sao hành vi kích thích không cần thực hiện", "Hành vi nào con người cần thực
hiện". Do nhu cầu nhận thức và tính toán tới trạng thái bên trong, con người
cần phải tìm kiếm hành vi thích hợp, nhu cầu đặc biệt này có thể thoả mãn
nhờ xuất hiện ở con người hoàn cảnh xung đột bên trong.
Tất cả quá trình trí tuệ trong hoàn cảnh này diễn ra một cách có ý thức,
hợp lý nhờ tâm thế đã được hình thành ở con người. Tâm thế này, một mặt
xuất hiện trên cơ sở của nhu cầu có tính chất lý luận, khi con người cảm thấy
có nguyện vọng làm việc trong trạng thái xung đột bên trong, về mặt khác là
hậu quả của việc phản ứng xung đột hoàn cảnh. Tính tích cực trí tuệ bao gồm
trong quá trình ý chí thực hiện trên cơ sơ của tâm thế lý luận. Tâm thế tạo
điều kiện cho sự hợp lý của tính tích cực trí tuệ. Sau khi giải quyết một cách
đúng đắn nhiệm vụ trí tuệ của quá trình ý chí có thể tính đến việc thực hiện.
Chủ thể đã nhận biết bằng cách tìm tòi loại hành vi nào có thể thực hiện tâm
thế lý luận; nhờ đó tâm thế lý luận hoàn thiện chức năng của mình.
Chúng ta hiểu rằng tâm thế cung cấp cho nhân cách tiếp nhận cách giải
quyết một hành vi nào đó. Bản thân nhân cách lại tạo điều kiện cho việc xuất
hiện hành vi tâm thế phù hợp, trên cơ sở đó tạo khả năng thực hiện hành vi
tiếp nhận đối với nhân cách.
Theo ý của Uzơnatze hành vi tiếp nhận đối với nhân cách được coi là
hành vi mâu thuẫn với nhu cầu cấp cao của con người. Vì con người với tư
cách là cơ thể sinh vật không chỉ có nhu cầu thức ăn mà còn có nhu cầu cao
cấp. Uzơnatze gọi là nhu cầu cái tôi. Nhu cầu thức ăn của hoàn cảnh cụ thể
được thay đổi thỏa mãn việc giải quyết nhiệm vụ của đời sống cá nhân. Còn
nhu cầu của cái "tôi" đó là nhu cầu được hình thành trên cơ sở khách thể hóa,
đồng nhất hóa. Vị trí đặc biệt của nhu cầu cái "tôi" là ở trong những nhu cầu
trí tuệ, đạo đức và nhu cầu thẩm mỹ. Con người đã thoả mãn nhu cầu thức
ăn rồi thì có thể hướng dẫn thành phần kích thích của mình vào nhu cầu
chung của "cái tôi" của mình.
Hành vi kích thích thường được thỏa mãn bằng nhu cầu thức ăn có thể
dẫn tới mâu thuẫn với nhu cầu "cái tôi" - loại hành vi kích thích không được
tiếp nhận đối với nhân cách. Ở con người trên cơ sở của những kinh nghiệm
quá khứ xuất hiện hàng loạt những nhu cầu "cái tôi". Những nhu cầu này ở
người dưới dạng tâm thế cố định. Nhân cách con người được tạo nên dưới
đặc điểm của tâm thế này. Trong thời kỳ chuẩn bị của quá trình ý chí, con
người trong khi chấm dứt hành vi kích thích sẽ tìm cái gì phù hợp với tâm thế
củng cố cơ sở đời sống của nhân cách. Trong khi tìm kiếm hành vi nào đó
con người dự định việc chuẩn bị thực hiện hành vi lựa chọn. Trong trường
hợp này ở con người xuất hiện việc chuẩn bị và có nguyện vọng thực hiện
hành vi này, dẫn tới việc tiếp nhận cách giải quyết và khi thực hiện thì hình
dung ra khó khăn. Yếu tố chủ thể của loại tâm thế này là nhu cầu "cái tôi", yếu
tố khách thể là hoàn cảnh tưởng tượng trong đó cần phải thực hiện hành vi ý
chí.
Như vậy theo ý kiến của Uzơnatze, con người hình thành nhân cách là
việc xuất hiện tâm thế được thực hiện bằng phương tiện ý chí, ý nghĩa của
hành vi này là ỏ chỗ nó phục vụ cho nhu cầu "cái tôi" khác về chất so với nhu
cầu thức ăn của con người. Nhu cầu "cái tôi" được hình thành trong quá trình
tác động qua lại trong xã hội. Nhu cầu này là bản thân khuynh hướng "cái tôi",
có mục đích, nguyện vọng của con người, tạo nên giá trị xã hội để thỏa mãn
nhu cầu và nguyện vọng của mình. Hành động xuất hiện để thỏa mãn nhu
cầu "cái tô" là hành vi xã hội. Hành vi này phù hợp với hoàn cảnh xã hội với
lợi ích của con người khác, của những yêu cầu xã hội và là kết quả của tính
tích cực của con người với tư cách là một thực thể xã hội.
Vì vậy có thể cho rằng nhân cách với tư cách là một tồn tại xã hội
thường sử dụng lực lượng tâm lý đặc biệt hình thành trong quá trình tác động
lẫn nhau trong xã hội, tạo nên điều kiện để xuất hiện tâm thế của hành vi trực
tiếp. Việc hình thành tâm thế như vậy không chịu ảnh hưởng kích thích của
nhu cầu thức ăn và không chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh trực tiếp. Ngược lại
trong khi hình thành tâm thế của cách nói trên nhân cách cảm thấy giải phóng
khỏi tác động của kích thích trực tiếp.
Như Uzơnatze đã chỉ rõ, con người nhờ ý thức được tâm thế cần thiết
với hành vi xã hội đã thực hiện nhu cầu nhân cách, nhu cầu xã hội, năng lực
tư duy, bằng biểu tượng và phương tiện tâm thế con người tưởng tượng ra
hoàn cảnh, nơi có thể thực hiện được hành vi xã hội cần thiết. Con người
trong khi sử dụng nguồn dự trữ tâm lý của mình, quá trình ý chí và trí tuệ của
mình đã tạo nên điều kiện cho việc xuất hiện tâm thế xã hội. Trên cơ sở của
tâm thế này con người thực hiện hành vi xã hội.
Hành vi xã hội có thể thực hiện chỉ khi nhân cách có lực lượng tâm lý
phù hợp với hoàn cảnh trong những trường hợp cần thiết có thể tạo nên, gây
ra tâm thế xã hội và thực hiện hành vi xã hội của mình.
Trong quá trình hình thành nhân cách và hành vi ý chí của con người
thường hướng đến hành vi nào, yếu tố nào được coi như là hình thức trung
gian của tính tích cực kích thích và ý chí. Hình thức trung gian của hành vi
Uzơnatze gọi là hành động gây ra bằng mệnh lệnh bên trong.
Hành vi được thực hiện do bên trong hoặc do yêu cầu của người khác
là hình thức chuyển tiếp từ hành vi kích thích đến tính tích cực ý chí. Chỉ sau
khi ở con người hình thành định hướng giá trị xã hội, thế giới quan đạo đức
và những cái khác cần thiết đối với hành động ý chí của những quá trình tâm
lý, con người có thể tạo nên tâm thế định hướng xã hội trên cơ sở của tính
tích cực và có thể thực hiện hành vi có giá trị xã hội. Sau đó con người trở
thành một nhân cách bao gồm mối quan hệ xã hội tác động qua lại ngoài việc
thỏa mãn nhu cầu riêng còn thỏa mãn nhu cầu xã hội - Vì vậy, việc hình thành
nhân cách con người cần phải được xem xét với tư cách là quá trình xã hội
hóa chủ thể.
Như chúng ta đã thấy ở trên con người ngừng hành vi kích thích của
mình khi hành vi đó không hợp lý và xung đột với hiện thực có đối tượng, với
lập trường và hướng giá trị, có nghĩa là xung đột với thực tiễn nhân cách.
Con người sống trong hệ thống tác động xã hội, gồm các thành phần,
giai cấp, nhóm và các tổ chức xã hội khác của con người. Trong hệ thống của
mỗi tác động xã hội này con người nhận biết bản thân mình và thực hiện vai
trò xã hội nhất định. Vì vậy ở con người trong hệ thống tác động qua lại với
hiện thực thể hiện sự chờ đợi xã hội nhất định và cũng từ đó đòi hỏi có hệ
thống hành động nhất định. Như chúng ta đã biết sự chờ đợi được thực hiện
khi sử dụng vai trò như vai trò người mẹ, người cha, người công nhân, người
hiệu trưởng, người lính v.v... con người trong quá trình tích cực xã hội đã tính
đến vai trò thực hiện sự chờ đợi của mình. Sự chờ đợi xã hội nhất định ở con
người trong mối quan hệ với người khác, có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi
xã hội của con người.
Nhũng xung động của tâm thế phục vụ cho việc thỏa mãn nhu cầu sinh
vật không chỉ có ảnh hưởng tới hành vi của nhân cách với tính cách là một
thực thể xã hội mà còn ảnh hưởng đến tâm thì có nguồn gốc xã hội. Trong
quá trình tác động xã hội con người bắt đầu thực hiện hành vi tiếp nhận xã
hội. Nhân cách xã hội hóa thực hiện hàng loạt hành vi có mục đích. Trong quá
trình này các hệ thống giá trị xã hội, đạo đức, thẩm mỹ đã được thể hiện ở
con người. Hành vi thực hiện nhân cách xã hội có bản chất cấu trúc phức tạp
so với hành vi lý luận và hành vi thực tiễn. Việc hình thành tâm thế xã hội cần
thiết đối với thực hiện hành vi xã hội, ngoài tính tích cực tâm lý ở mức độ thứ
2 còn yêu cầu có các yếu tố bổ sung xuất hiện chỉ trong mức độ điều kiện xã
hội. Tâm thế xã hội dựa trên cơ sở hành vi xã hội của con người chỉ được
hình thành ở nhân cách hướng tới giá trị xã hội.
Cấu trúc của hành vi xã hội của nhân cách ở mức độ thứ 3 của tính tích
cực tâm lý được thể hiện ở sơ đồ 3. Trong sơ đồ này trước hết phản ánh về ý
nghĩa hệ thống giá trị xã hội. Như Uzơnatze chỉ ra rằng nhân cách trước hết
là hướng đến hệ thống giá trị xã hội.
Giá trị nhân cách của hành vi của bản thân là những đặc điểm tâm lý
chuyên biệt. Sau đây chúng ta xét đến hệ thống giá trị xã hội của con người.
Trong trường hợp hành vi xung động tâm thế mâu thuẫn với định
hướng xã hội đạo đức của nhân cách thì con người rơi vào trạng thái xung
đột bên trong.
Nhân cách có niềm tin đạo đức vững chắc, tích cực chống lại nguyện
vọng thấp hèn của mình: chống lại những nhu cầu trực tiếp kích thích hành vi
vô đạo đức. Trong hoàn cảnh xung đột nhân cách có thể biến đổi đối tượng
khách thể của hành vi kích thích có tính chất hoàn cảnh thành định hướng
đạo đức của mình. Nhân cách thực hiện thống nhất một trường tâm lý chỉnh
thể kích thích hành vi có tính cách hoàn cảnh tức thời và hành vi với định
hướng đạo đức của mình.
Nếu con người hướng đến việc khách quan hóa hành vi của mình vì
hành vi xung động xung đột với định hướng phân cách, thì trong trường hợp
này con người bắt đầu nhận thức và tổ chức lại trạng thái xung đột bên trong,
trên cơ sở đó hình thành khả năng lựa chọn và thực hiện hành vi của mình
cho phù hợp với cấu trúc nhân cách. Nhân cách thực hiện việc tổ chức các
yếu tố bên trong và bên ngoài tạo điều kiện cho việc xuất hiện tâm thế hành vi
hướng đến giá trị xã hội. Nhiệm vụ của ý chí là tiếp nhận cách giải quyết theo
quan điểm nhân cách hành vi.
Trong trường hợp ở con người không có định hướng giá trị đầy đủ,
không ai ngăn cản hành vi phi đạo đức của anh ta thì anh ta không có sự
xung đột bên trong nào cả. Nếu trong con người định hướng giá trị đạo đức
chiếm rất ít thì thường sau khi xuất hiện trạng thái xung đột bên trong thì hành
vi xung động xảy ra và làm cho nhân cách phải tổ chức lại hành vi của mình.
Nhũng giá trị mà con người hướng đến và thực hiện hành vi có ý chí
của mình như hoàn cảnh xã hội, nhóm người trong đó con người sống. Vị trí
trong nhóm trong đó con người là thành viên. Vị trí của con người trong nhân
dân và đất nước, gia đình, của cải, kiến thức, nghệ thuật cũng thuộc về giá trị
mà con người rung cảm.
Trong khi hướng dẫn đến những giá trị này, con người thực hiện
nguyện vọng của mình và tìm kiếm ảnh hưởng trong đời sống xã hội, tình yêu
đối với Tổ quốc, nguyện vọng phong phú.
Trong xã hội khác nhau hay trong chế độ xã hội khác nhau giá trị này
có sự khác nhau rõ rệt.
Những yếu tố bên ngoài hình thành hệ thống giá trị xã hội là hoàn cảnh
xã hội, nhóm xã hội trong đó con người sống.
Việc xây dựng giá trị mà con người có nguyện vọng về mức độ nào đó
gắn liền với nhóm nơi mà nhân cách hình thành. Những nhóm đầu tiên như
vậy thường trở thành hình mẫu mà con người trong khi hướng đến đã thực
hiện quan điểm của mình và đánh giá hành động của mình. Nhóm hình mẫu
đầu tiên đối với con người là gia đình. Thế giới quan và lý tưởng được mọi
người trong gia đình quán triệt là định hướng cho trẻ trong việc hoàn thành
những nguyện vọng và giá trị trong tương lai. Ngoài gia đình các nhóm bạn
bè trong trường học đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành giá trị của
trẻ. Gia đình và trường học còn là hình mẫu giá trị ngay cả những thanh niên
lớn tuổi. Những viên ảnh hưởng này, đối với việc hình thành giá trị của trẻ
không trực tiếp và một chiều.
Tâm thế được quy định hành vi xã hội biểu hiện cơ sở tâm lý của nó, là
tâm thế xã hội bởi vì những yếu tố xã hội và hàng loạt những yếu tố khác
tham gia vào việc hình thành tâm thế. Tâm thế xã hội được tạo nên trên 3
mức độ của tính tích cực tâm lý và trên cơ sở của hành vi thực hiện tạo cho
nhân cách khả năng tác động đến hoàn cảnh xã hội với tính cách là thành
viên tác động qua lại lẫn nhau có tính chất xã hội.
Nếu như con người không thể ý thức và suy nghĩ những kết quả của
hành vi của mình và không có khả năng đánh giá hành vi của mình theo quan
điểm xã hội thì anh ta không bao giờ có những hành vi tốt đẹp. Điều này thể
hiện ở hệ thống giá trị xã hội của con người.
Con người tạo nên bộ mặt tâm lý của mình trên cơ sở hàng loạt những
hành vi khách quan. Con người hành động với tính cách là một nhân cách thể
hiện trong hiện thực và sự sáng tạo. Trong trường hợp này con người có
những biểu tượng về hiện thực và về bản thân mình.
Trong khi mâu thuẫn với hiện thực, con người tạm ngừng tính tích cực
kích thích của mình, tạo nên thành phần tổng hợp bao gồm trong hành vi của
đối tượng và trong hành vi của mình, "cái tôi" của mình và những người khác.
Trong việc hình thành bộ mặt tâm lý cùng với giá trị trực tiếp của bản thân,
những phản ứng của người khác trong mối quan hệ của nhân cách "cái tôi"
có vai trò to lớn. Bộ mặt tâm lý được xây dựng trên cơ sở của việc thống nhất
các yếu tố này. Bức chân dung tâm lý thể hiện tính xác định nhân cách một
mặt trong sự thay đổi và phân bổ, mặt khác trong quá trình tác động qua lại
của tính xã hội. Vì vậy biểu tượng về nhân cách của mình, cũng như con
người ấy chiếm vị trí như thế nào trong mối quan hệ tác động qua lại và phản
ứng của anh ta tới hoàn cảnh xã hội thể hiện ảnh hưởng tìm đến việc hình
thành bức chân dung tâm lý này.
Có nhũng người đã đồng nhất bản thân mình với các bậc tiền bối của
mình. Họ tự hào chính đáng về các thành tựu của các bậc tiền bối, với lịch sử
và nền văn hóa dân tộc. Mọi thái độ coi thường bậc tiền bối được coi như
điều sỉ nhục nhân cách.
Con người truyền bá nhân cách của mình đến thế hệ tương lai. Những
thành tích và thất bại của trẻ em cũng như của thế hệ sau cũng làm cho con
người rung cảm với tư cách như một vị trí của nhân cách riêng. Hiện tượng
đồng nhất ở đây đóng một vai trò to lớn. Sự phục vụ cho thế hệ tương lai đó
cũng là phục vụ cho lợi ích phát triển của mình. Bộ mặt tâm lý không chỉ là
biểu tượng về cơ thể và tâm hồn. Bộ mặt này, đầu tiên là hệ thống những
quan điểm chung trong mối quan hệ và hành vi có giá trị nhân cách.
Bộ mặt tâm lý được hình thành không chỉ trên cơ sở những rung cảm
và quan sát trực tiếp. Một trong những nguồn gốc hình thành bộ mặt tâm lý
còn là phản ứng của người khác trong mối quan hệ nhân cách với người đó.
Thái độ xã hội của người khác thực tế đã qui định ở một mức độ nào
đó ý kiến về bản thân mình.
Vì vậy có thể cho rằng trong khi hình thành bộ mặt tâm lý, bên cạnh giá
tư trực tiếp của bản thân mình và hành vi của mình, điều có ý nghĩa to lớn là
những phản ứng nào mà con người tiếp nhận từ hoàn cảnh xã hội của mình
và hướng tới giá trị của mình. Bộ mặt tâm lý là sản phẩm của giá trị và của
mối quan hệ tâm lý qua lại, các kết quả của cái gì mang đến về mặt số lượng
của hiện tượng tâm lý xã hội. Điều đó có nghĩa là bộ mặt tâm lý tham gia vào
việc hình thành tâm thế cần thiết đối với việc thực hiện hành vi xã hội. Bộ mặt
tâm lý là một trong những xác định có ý nghĩa của hành vi con người, là một
trong những trạng thái tâm lý tổ chức hành vi con người.
Bộ mặt tâm lý tham gia vào việc hình thành tâm thế quy định hành vi xã
hội của con người. Nó là một trong những yếu tố bên trong làm xuất hiện tâm
thế xã hội. Với sự giúp đỡ của nó chúng ta cần hiểu ý nghĩa của việc đào tạo
con người, xây dựng nhân cách trong quá trình hoạt động.
Mức độ cao nhất của tính tích cực tâm lý được thể hiện ở nhân cách.
Điều này được Sota Nađirasvili biểu diễn theo sơ đồ 3.
Hanh vi Tam the Hoan canh
Lua chon hanh vi
tiep nhan
Su thao luan cua nhan thuc
va gia tri
Tam the nhan thuc
gia tri
Khach quan hoa hanh vi hop li xa hoi
Hoan canh co van đe
He thong lp luan đao đuc
He thong thao tac li luan
Nhu cau nhan thuc
Thoa man nhu cau xa hoi
Hanh vi xa hoi
Tam the hanh vi xa hoi
Tiep nhan giai quyet
Hanh vi tiep nhan tuong tuong
Nhung qua trinh đong co
Nhung nhu cau xa hoi; tinh tich cuc xa hoi va bo mat tam ly chan dung
tu hoa tam ly
Con người trong quá trình sống trong nhóm xã hội theo khuynh hướng
xã hội ngoài thỏa mãn nhu cầu vật chất còn có nhu cầu về nhóm xã hội và
cũng từ đó con người bắt đầu hình thành giá trị.
Khi nhân cách và tư cách là một thực thể xã hội đã hình thành hệ thống
mục đích của mình, thì việc định hướng giá trị xã hội trong nhóm sẽ có ý
nghĩa quan trọng.
Trong quá trình tích cực, con người không chỉ nhận biết hiện thực và
hoàn cảnh xã hội mà còn nhận thức được bản thân mình. Trong quá trình tác
động xã hội, con người thể hiện năng lực của mình. Con người xác định năng
lực của mình cho phù hợp với mọi người. Mặc dù khi đánh giá mình, con
người thường thiếu khách quan, song luôn luôn tạo cho mình những biểu
tượng gần với khả năng của mình. Nếu con người đánh giá năng lực của
mình không thực tế thì thường xảy ra xung đột với hiện thực. Việc xác định
đúng đắn năng lực của mình sẽ giúp con người vạch ra con đường sống của
mình. Vì vậy, việc hình thành quan điểm nhất định đến năng lực riêng sẽ có
ảnh hưởng đến giá trị xã hội của con người. Việc đánh giá con người còn
được thể hiện ở kết quả tốt hay xấu của hành vi.
Hanh vi Tam the Hoan canh
Có thành tích hoặc không thành ích của hành vi tâm thế xung động của
cá nhân gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu cấp bách. Lúc ấy cá nhân thể hiện
sự xúc cảm trực tiếp của mình. Nhưng trong khi hình thành và đạt được
những giá trị xã hội, con người không thể đánh giá một cách trực tiếp mức độ
thành tích của hành vi mình. Để làm việc này trước hết con người cần phải so
sánh những kết quả của hành vi mình với thành tính của các thành viên khác
trong nhóm.
Giá trị hành vi xã hội của con người có thể được xác định trong mối
quan hệ với giá trị của hành vi người khác.
Việc hình thành hệ thống giá trị có nghĩa là thực hiện những yêu cầu xã
hội.
Trong việc chuẩn bị và thực hiện hành vi xã hội của con người ngoài
khuynh hướng vô thức và máy móc, những quá trình phản ánh xúc cảm có ý
thức của con người có vai trò to lớn. Những quá trình này tạo ra khả năng giá
trị khách quan và bản ngã của mình. Với sự giúp đỡ của giá trị, hiện thực và
bản ngã đã trở thành phẩm chất đối với chúng ta. Ở những người có phẩm
chất về cái tôi của mình thì thường xuyên thay đổi quan điểm cái tôi của mình
cho phù hợp với mọi người.
Như chúng ta đã thấy trên sơ đồ, việc tưởng tượng hành vi tiếp nhận
xã hội ở mức độ thứ 3 của tính tích cực tâm lý hoàn toàn chưa đủ đối với việc
thực hiện tâm thế xã hội mà việc thực hiện hành vi xã hội cần phải có nguyện
vọng đôi với giá trị xã hội, thiếu nó không thể hình thành tâm thế xã hội.
Vì vậy tính tích cực tâm lý ở mức độ thứ 2 được thực hiện gắn liền với
những đối tượng cảm giác cụ thể. Tính tích cực tâm lý ở mức độ thứ 2 gắn
liền với khách thể khái quát của hiện thực. Như chúng ta đã biết quá trình tâm
lý của tư duy hướng đến nhận thức cái chung phù hợp với các thành phần
của hiện thực - và tính tích cực xã hội của ý chí của mức độ thứ ba hướng
đến việc xây dựng những giá trị đạo đức, xã hội, thẩm mỹ, gắn liền với đối
tượng giá trị lý tưởng, thực hiện được hình thức mối quan hệ phát triển cá thể
- chủ thể - khách thể.
Các mức độ của tính tích cực tâm lý có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Gắn liền với nhiệm vụ phức tạp của xã hội con người thể hiện sức mạnh của
tính tích cực tâm lý, thể hiện nhân cách của mình.
Trên đây là tư tưởng của D. Uzơnatze về tâm thế, được nhà tâm lý học
Nađirasvili thuộc trường phái Tbilixi (Gruzia) trình bày lại trong cuốn khái niệm
tâm thế.
Theo quan niệm này, cá nhân, chủ thể nhân cách là sự thể hiện ở ba
mức độ khác nhau của tâm thế con người. Ở mức độ thứ nhất, tâm thế quan
hệ nhiều đến nhu cầu sinh vật; ở mức độ thứ hai tâm thế có quan hệ đến quá
trình tư duy để nhận thức hoàn cảnh ở mức độ thứ ba tâm thế quan hệ đến ý
chí và định hướng giá trị.
Đây là những đóng góp rất quí cho nền tâm lý học, đặc biệt là đóng góp
cho vấn đề nhân cách. Nó mở ra một hướng mới trong nghiên cứu tâm lý con
người.
Song rõ ràng việc giải quyết những vấn đề về tâm lý và nhân cách chỉ
dựa vào tâm thế là chưa đủ. Tâm lý và nhân cách con người vô cùng phong
phú và phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, muốn
nghiên cứu nhân cách con người chúng ta không thể dựa trên nguyên tắc
tổng hợp toàn diện, nguyên tắc thống nhất giữa hoạt động - giao tiếp - giá trị -
nhân cách.
Nhìn lại các xu hướng nghiên cứu nhân cách ở Liên Xô (cũ) chúng ta
có một số nhận xét sau:
- Các luận điểm để giải quyết vấn đề nhân cách đều dựa vào lập
trường duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Có rất nhiều trường phái, có những luận điểm khác nhau, bổ sung cho
nhau, làm phong phú và đa dạng cho lý luận nhân cách.
- Thái độ của các nhà khoa học Việt Nam là tiếp thu có chọn lọc các lý
luận đó để áp dụng trong thực tiễn công tác của mình.
Chân lý là cụ thể. Thực tiễn là thước đo chân lý. Vì vậy, mọi lý thuyết có
hay cho mấy cũng phải qua thực tiễn kiểm nghiệm.
Đó là câu trả lời cho việc vận dụng các thuyết của Liên Xô (cũ) vào
thực tiễn Việt Nam.
Chương 4. MÁC, LÊNIN, HỒ CHÍ MINH VÀ VẤN ĐỀ NHÂN CÁCH
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
- Thái độ trước học thuyết Mác - Lênin:
- Muốn xây dựng nền tâm lý học một cách khoa học, đặc biệt là tâm lý
học nhân cách điều trước tiên là phải dựa vào phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác không để lại cho chúng ta
một tài sản riêng về tâm lý học nhân cách, nhưng qua các di sản các ông để
lại về triết học, xã hội học, kinh tế chính trị học là một kho tàng quý giá cho
các nhà tâm lý học tìm ra phương hướng nghiên cứu của mình.
Điều hạnh phúc cho thế hệ ta là được tiếp thu những kho tàng quý báu
do Hồ Chí Minh để lại. Những bài nói và bài viết của Người là bài học vô cùng
quý giá về đạo lý làm người và về nhân cách.
Khai thác những tư tưởng của Mác, Lê nin và Hồ Chí kinh là việc làm
có ích để xây dựng một nền tâm lý học Việt Nam, đặc biệt là vấn đề nhân
cách. Chúng ta có thể tin rằng những tư tưởng của Mác, Lê nin và Hồ Chí
Minh là cơ sở phương pháp luận đảm bảo xây dựng nên nhiều khoa học,
trong đó có tâm lý học nhân cách.
II. NHỮNG TƯ TƯỞNG CỦA C. MÁC VỀ NHÂN CÁCH
1. Các Mác về bản chất xã hội con người.
Học thuyết của Mác là học thuyết xã hội nên còn người được coi là vấn
đề trung tâm trong nghiên cứu của Mác. Mác nói: "Không một cái gì thuộc về
con người lại xa lạ đối với tôi".
Sự quan tâm hiểu biết con người là gì, bản chất của nó ra sao. Từ xa
xưa đã có nhiều nhà triết học thời Socrate đã thắc mắc về điều bí ẩn này.
Heraclite, người đề ra thuyết nhân loại học triết học đầu tiên ông cho rằng con
người là nơi gửi gắm của cảm giác và nó có khả năng hiểu được đạo. Tiếp
sau Heraclite có những triết gia cho rằng thuộc tính bản chất của con người là
khổ đau, mệt mỏi, già nua và chết chóc.
Kant cũng đặt câu hỏi con người là cái gì? M.Scheler cũng có một băn
khoăn như thế: Hiểu theo một nghĩa nào đó, tất cả những vấn đề cơ bản của
triết hóc có thể thu tóm vào câu hỏi về con người là gì, về địa vị của con
người trong tổng thể của tồn tại, thế gian và thượng đế.
Bản chất của con người theo Scheler ngoài giới hạn của tồn tại sinh vật
và xã hội, bản chất con người còn ở trọng tính chất tâm hồn, trong khả năng
của con người trở thành nhân cách. Như vậy con người xuất phát từ một
phần hiện thực và phần hiện thực lý tưởng xuất phát từ Chúa trời. Đó là cách
hiểu phi lý, thẩn bí của triết học nhân văn tư sản về con người. Quan điểm
của Scheler có ảnh hưởng quyết định đến triết học nhân văn tư sản về vị trí
con người trong tồn tại tâm hồn và việc giải thích siêu nhiên nhân cách con
người.
Trong những tác phẩm của các nhà triết học: người ta đã sử dụng
những thành tựu của sinh vật học, khoa học hành vi. A. Ghelen cho rằng con
người là một tồn tại sinh vật hành vi xã hội, hoạt động, năng lực, nhận thức và
tất cả các mặt cấu trúc khác ông ta đều coi là mặt sinh vật của con người.
Cho đến nay các học giả tư sản đã đối lập và tách yếu tố sinh vật ra
khỏi yếu tố xã hội, yếu tố sinh vật được xem xét với tính cách là loài vật hoặc
người vượn, hoặc là những yếu tố bên trong cơ thể.
Có hai quan điểm về vấn đề sinh vật xã hội của con người. Quan điểm
thứ nhất "tự nhiên" (sinh vật) cho rằng yếu tố tự nhiên quyết định trong sự
phát triển con người. Quan điểm này dựa trên những thành tựu của sinh vật
học hiện nay cũng như những thành tựu về dân tộc học của nhà dân tộc học
nổi tiếng K. Lorenx. Theo ý kiến của K. Lorenx hành vi xã hội của con người
là một quy luật mà chúng ta có thể biết rõ từ hành vi động vật.
Quan điểm xã hội về con người dựa trên học thuyết về con người của
trường phái xã hội học Pháp E. Durkgay. Đại diện của trường phái này giải
thích hành vi con người bằng những nguyên nhân tư tưởng, bằng ý thức xã
hội, bằng mối quan hệ tiêu cực với điều kiện sản xuất vật chất và tái sản xuất
con người bằng mối quan hệ khách quan đối với tự nhiên. Họ xây dựng mối
quan hệ xà hội hiểu biết nhau nhằm đối lập với quan điểm sinh vật của con
người.
Ngày nay có nhiều khoa học nghiên cứu về con người, song hiểu con
người là gì, hẳn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Heidegger viết: "Không thời
đại nào có được những hiểu biết vừa nhiều vừa đa dạng về con người như
thời đại chúng ta - không thời đại nào người ta lại trình bày những hiểu biết về
con người dưới hình thức say mê hấp dẫn như thời đại này... Nhưng cũng
chưa lúc nào người ta lại ít hiểu về con người và con người được đặt ra làm
vấn đề như hiện nay".
Ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, cuộc sống của con
người đang trở thành cơ giới, máy móc đang thay thế con người thì liệu bản
chất con người là gì, có thay đổi không? Quan hệ giữa tự nhiên, sinh vật và
một xã hội của con người như thế nào - Điều đó đặt ra cho chúng ta phải lý
giải nhưng luận đề rất sâu sắc của C. Mác về con người.
Mác viết: "Phơbách quy bản chất tôn giáo về bản chất con người -
Song bản chất con người không phải là cái trừu tượng vốn có của một cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
các quan hệ xã hội".
Trong khi phê phán triết học pháp luật của Hê ghen. Mác viết: "Bản chất
của cá nhân không phải là râu, không phải là tóc, không phải tính chất vật lý
trừu tượng của cá nhân đó, mà là chất xã hội của cá nhân đó".
Đế hiểu ý kiến trên của Mác trước hết hãy phân tích mối quan hệ giữa
cái tự nhiên sinh vật và cái xã hội trong con người cũng không phải là việc
đơn giản.
Trong thời kỳ hiện nay tất cả những nhà nghiên cứu đều cho rằng sinh
vật là cơ chế bẩm sinh và di truyền có vai trò nhất định trong sự phát triển tâm
lý con người đặc biệt là trong sự phát triển năng lực.
Chúng ta biết rằng di truyền quyết định những đặc điểm chung của loài
người về cấu tạo hệ thần kinh, cơ sở vật chất của sự phát triển tâm lý, nó tạo
nên những giai đoạn của tạo hình, cấu tạo não. Nhưng cấu tạo này điều chỉnh
những phản xạ không điều kiện hoặc những phản xạ bản năng, điều khiển
kiểu hành vi. Mọi đứa trẻ mới sinh đều có những phản ứng giống nhau đối với
những kích thích về mùi vị đau đớn, nhiệt độ và những kích thích khác biểu
hiện bằng những xúc cảm giống nhau (sợ hãi, hài lòng, không hài lòng, tức
giận).
Những đặc điểm bẩm sinh của hệ thần kinh và các hệ khác của cơ thể
là cơ sở sinh lý giải phẫu của cái gọi là tư chất và năng lực. Những tư chất
không phải là những thuộc tính tâm lý có sẵn mà là những thế năng tự nhiên
của sự phát sinh và phát triển của những thuộc tính đó. Tư chất là kết quả
của những giai đoạn phát triển đầu tiên mà mỗi cá nhân phải trải qua trong
những điều kiện bên trong và bên ngoài nhất định. Tư chất tạo nên những
điều kiện thuận lợi cho việc học tập tiếp thu kinh nghiệm xã hội, ảnh hưởng
đến động thái phát sinh ra những cơ cấu hành vi mới và những thuộc tính tâm
lý thể hiện trong hành vi đó. Nhưng tư chất lại không quyết định nội dung của
những cơ cấu thuộc tính đó. Những công trình nghiên cứu đã khẳng định
rằng những thuộc tính về sinh lý của hệ thần kinh không định trước được
những kiểu hành vi sau này, nhưng dựa vào đó mà một số kiểu hành vi này
được hình thành dễ hơn, kiểu khác khó hơn.
Yếu tố tự nhiên, tư chất cũng thay đổi dưới sự tác động của yếu tố xã
hội. Ví dụ điều kiện tự nhiên về phát triển thính giác, về âm thanh của đứa trẻ
còn phụ thuộc vào ngôn ngữ mà đứa trẻ nắm được. Một đứa trẻ có khiếu âm
nhạc nhưng thiếu những điều kiện xã hội cần thiết thì không thể phát triển tốt
được năng lực âm nhạc.
Ngay đến yếu tố bẩm sinh cũng không phải được di truyền cả. Những
điều kiện sống bên ngoài, những điều kiện xã hội có tác động đến sự di
truyền đó. Khoa học đã xác định được rằng tần số xuất hiện những bệnh cấp
tính do đi truyền gây ra tăng lên do những cặp vợ chồng có họ hàng gần
nhau, hoặc cha mẹ lấy nhau quá muộn.
Trong những năm gần đây phương pháp "trẻ sinh đôi" nghiên cứu sự
giống nhau và khác nhau, trong khi phát triển của trẻ sinh đôi từ một trứng
trong những điều kiện giáo dục giống nhau và khác nhau được áp dụng một
cách rộng rãi để giải thoát mối quan hệ giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Những
kết quả cho thấy rằng mức độ giống nhau của những đứa trẻ sinh đôi từ một
trong được thụ tinh tăng lên nếu được giáo dục như nhau (Nhiumen,
Phorimen...) và sự giống nhau đó giảm đi nếu như giáo dục bằng những
phương pháp khác nhau (A. P. Luria).
Những tài liệu nghiên cứu của các nhà tâm lý học Liên Xô (L.X.
Vưgốtxki, A. N. Lêonchiép, A. R. Luria) đã chỉ ra rằng những chức năng tâm
lý bậc cao là những cấu trúc có hệ thống. Chúng không trực tiếp liên quan với
những cơ cấu bẩm sinh của não mà liên quan với những cơ cấu đó bằng
những hệ thống đường liên hệ thần kinh tạm thời rất phức tạp được hình
thành trong cuộc sống.
Như vậy, những phẩm chất tâm lý người, cái tự nhiên sinh vật con
người đều có tính chất xã hội mang lịch sử nhất định, trong một xã hội nhất
định trong một nhà nước nhất định. C. Mác biết người không phải là một sinh
vật trừu tượng ẩn núp đâu đó ngoài thế giới, Người chính là thế giới người, là
nhà nước, là xã hội". Chính vì vậy hiển nhiên là cái tự nhiên của con người
đều mang tính xã hội, là sản phẩm của lịch sử. Chính trong quá trình hoạt
động trước hết là lao động tất cả những phẩm chất tự nhiên của con người đã
được phát triển và thay đổi. C. Mác: "Trong khi thay đổi tự nhiên bên ngoài,
con người đồng thời thay đổi cả bản thân mình". Trong quá trình lao động,
con người sử dụng và phát triển tất cả các cơ quan tự nhiên của cơ thể mình.
Điều này chỉ có con người người mới có được trong một điều kiện lịch sử
nhất định.
Đồng thời bản thân sự phát triển của đứa trẻ đã thực hiện một quá trình
lâu dài của lịch sử phát triển giống loại, của lịch sử phát triển con người: vì
vậy đứa trẻ mới sinh không phải hoàn toàn là một động vật, hoặc nửa động
vật nửa người mà là thành quả của con người trưởng thành mặc dù đứa trẻ
chỉ là mới bắt đầu đời sống của mình.
Những công trình nghiên cứu đã chứng tỏ rằng sự phát triển của đứa
trẻ đã lập lại một phần phát triển của tổ tiên của chúng. Điều này không chỉ
diễn ra trong sự phát triển thể lực mà cả trong sự phát triển tâm lý - tri giác, trí
nhớ, tư duy, ngôn ngữ, cảm xúc...
Quan niệm cho rằng lịch sử loài người được lập lại trong sự phát sinh
cá thể đã bị D. Prớt hiểu sai lệch trong giai đoạn phát triển của con người
(giai đoạn dã man, ác dâm)... Thuyết thần học thần bí giải thích một cách
thiếu khoa học về các giai đoạn phát triển con người.
Thật ra, mối quan hệ hữu cơ của sinh vật và xã hội được thực hiện bởi
hoạt động bên trong của con người trước hết là trong quá trình hoạt động lao
động. Rõ ràng ở đây cơ thể, con người, nhân cách, lao động có sự pha trộn.
Cũng cần nêu lên sai lầm của những người theo chủ nghĩa nhị nguyên
cho rằng cái sinh vật là cái không phải xã hội và cái xã hội là cái không phải
sinh vật. Chính vì vậy xem trẻ mới sinh như là thuần túy sinh vật hoặc như là
nửa động vật. Họ xem xét cái sinh vật là cái bên trong và cái gì bên ngoài là
cái xã hội. Khuynh hướng sai lầm này được thể hiện ở trường phái xã hội học
ở Pháp. Họ cho rằng trong con người, trong nhân cách phần sinh vật (thường
thấy ở động vật và phần xã hội thường có ở loài người) tách bạch nhau.
Trước hết không thể đồng nhất mặt sinh vật con người với tư cách là
một động vật. Cá nhân được xem xét bên ngoài mối quan hệ trực tiếp và gián
tiếp với tập thể. Yếu tố xã hội không chỉ là tập thể là nhóm xã hội này hoặc
nhóm xã hội khác mà là bất kỳ cá nhân nào đều gắn liền với sự tác động qua
lại với người khác với nhóm khác. Trong mối tác động qua lại này của xã hội,
của tập thể, cá nhân, nhân cách cuối cùng đều ở trong hình thức xã hội. Với ý
nghĩa này bản thân hành vi đối lập với xã hội, của cá nhân cũng mang tính
chất xã hội.
Nhị nguyên luận đã tách yếu tố sinh vật ra khỏi yếu tố xã hội và cho
rằng yếu tố xã hội chỉ là cái bên ngoài, hay tập thể. Họ biểu diễn quan niệm
này theo công thức sau:
a) Sinh vật = động vật = bên trong = cá thể.
b) Xã hội = loài người = bên ngoài = tập thể.
Để phê phán luận điểm sai lầm này của quan niệm nhị nguyên luận,
chúng ta hãy phân tích câu nói của C. Mác: Tự nhiên con người là sản phẩm
của lịch sử. C. Mác viết: "Sự hình thành năm giác quan là công việc của toàn
bộ lịch sử toàn thế giới diễn ra từ trước tới nay". Trong quá trình biến đổi của
lịch sử bản thân cái tự nhiên này cũng được tiến hóa nhất định. Sự tiến hóa
của phần sinh vật trong con người được quy định bởi sự tiến hóa của xã hội.
Điều này được thấy rõ ở cơ chế sinh lý ngôn ngữ của con người. Hệ thống tín
hiệu thứ hai đã chứng minh một cách cụ thể yếu tố xã hội quy định hoạt động
phản xạ tự nhiên của não người. Lời nói không chỉ là kích thích cho hoạt động
tư duy mà cho toàn bộ đời sống cơ thể. Lời nói đôi khi là kích thích mạnh mẽ
tín hiệu thứ nhất. Ví dụ thực nghiệm nổi tiếng của K. M. Bưkov và A. I. Psonik
đã chỉ ra rằng nếu đặt một vật nóng lên tay nhưng nói đây là vật lạnh thì trong
những điều kiện nhất định (trong mối quan hệ phù hợp, người ta có phản ứng
mạnh là do kích thích lời nói chứ không phải do kích thích của tín hiệu thứ
nhất (tức là vật nóng). Điều đó không có nghĩa là yếu tố thứ ha; có thể thay
thế cho yếu tố thứ nhất trong sự phát triển cá nhân. Điều này chỉ có nghĩa là
hệ thống tín hiệu thứ hai lấn át trong tất cả động cơ tự nhiên của hành vi trong
cơ thể của cá thể.
Ý thức tâm lý con người hình thành và phát triển trong hoạt động có tổ
chức xã hội và không tách rời điều kiện tự nhiên bên ngoài cũng như điều
kiện tự nhiên trong bản thân con người.
Đến đây chúng ta có thể nói rằng cái tự nhiên, cái sinh vật trong con
người không thuần túy là cái sinh vật, cái tự nhiên mà nó bị cái xã hội quy
định một cách trực tiếp. C.Mác viết: "Con người không phải chỉ là thực thể tự
nhiên.
Nó là thực thể tự nhiên có tính chất người". Nếu nói rằng có cái sinh vật
trong con người thì cái đó khác xa với cái sinh vật của loài vật.
Chỉ có thể hiểu như thế mới khắc phục được hai quan điểm sai lầm,
quan điểm thứ nhất cho rằng trẻ mới sinh ra là một động vật, hoặc nửa động
vật nửa người và quan điểm thứ hai chỉ thấy tính xã hội mà không thấy tính
sinh vật trong con người.
Trong con người, trong nhân cách không bao giờ mất đi cái sinh vật,
cái tự nhiên. Trong bất kỳ giai đoạn nào của sự phát triển con người, nhân
cách có tồn tại cái tự nhiên, vì vậy cần phải tính đến những quy luật sinh vật
chi phối một phần nhân cách. Nhưng phải cần nhớ rằng cái sinh vật của con
người mang tính người khác với cái sinh vật của con vật, bởi vì cái sinh vật
của con người được quy định bởi cái xã hội. Một ví dụ nữa để làm sáng tỏ
thêm vấn đề này.
Ngay trong thời kỳ phát dục của tuổi dậy thì, quy luật sinh vật cũng
không phải là chi phối hoàn toàn mà còn bị chi phối một cách mạnh mẽ ở quy
luật xã hội đối với nhân cách đứa trẻ.
Sự lệ thuộc của tính tự nhiên vào tính xã hội, ảnh hưởng của
những điều kiện xã hội đến cấu trúc và tới các quá trình của con người không
hề làm biến mất mặt tự nhiên trong con người. Hai mặt này đều nằm trong
quan hệ thống nhất và tác động qua lại với nhau một cách biện chứng. Ngay
cả đến lao động với tư cách là một hiện tượng xã hội phân biệt con người với
con vật trong thực tế cũng biểu hiện một lực lượng tự nhiên, đó là nhân lực.
Mặt sinh vật, râu, tóc, dòng máu, những yếu tố vật lý trừu tượng trong con
người không hề tạo nên bản chất con người, để phân biệt với động vật. Bởi vì
mặt sinh vật đó không phải là cái đặc trưng của con người mà là đặc điểm
của loài vật.
Mặt sinh vật trong con người không tồn tại song song với một xã hội.
Nó tồn tại trong phạm vi của chính mặt xã hội. Do ảnh hưởng của hoạt động
con người mặt sinh vật thay đổi trong một mức độ quan trọng nào đó trong
quá trình lịch sử hình thành giống loài. Ngay cả mặt sinh vật này cũng được
nhân tính hóa. Lao động của con người là khâu đan chéo mài xã hội và mặt
tự nhiên với nhau, biến những nhu cầu sinh vật thành nhu cầu xã hội. Hoạt
động xã hội đã nâng con người cao hơn con vật rất nhiều. Con người với tư
cách là một con vật xã hội, là sự thống nhất của tính xã hội và tính tự nhiên,
của thể xác và tinh thần. Nói tóm lại con người hình thành một cấu trúc sinh
vật - tâm lý - xã hội phức tạp bao gồm một phạm vi rộng lớn của hoạt động
con người. Tuy nhiên vấn đề đặc trưng chủ yếu của con người là vấn đề bản
chất con người. Bản chất con người không phải là bản chất sinh vật - xã hội
bản chất con người chỉ có thể hiểu là bản chất xã hội mà thôi.
Những người theo chủ nghĩa hiện sinh coi con người như "một sinh
tồn" có trước bản chất và con người không hề có bản chất khách quan nào
hết. Họ hiểu con người xuất phát từ chính cá nhân, từ sự sống bên trong con
người, từ tự do của họ chứ không do yếu tố xã hội bên ngoài nào.
Ngoài những quan niệm sai lầm tách con người ra khỏi tự nhiên, biểu
hiện con người như một tồn tại siêu tự nhiên, nhưng một tồn tại nội tâm, còn
có khuynh hướng hiểu con người có bản chất bản năng sinh vật. Tiêu biểu
cho khuynh hướng này là S. Freud, nhà tâm thần học người Áo. Freud cho
rằng hành vi con người được quy định không phải yếu tố xã hội mà là do bản
năng vô thức, trong đó bản năng tình dục đóng vai trò quyết định.
Muốn giải thích bản chất con người, trước hết hãy tìm những nét đặc
trưng bao quát nhất đã trở thành nét bền vững quyết định tính chất con
người. Lao động là điều kiện tự nhiên và lâu dài trong việc hình thành những
nét đặc trưng ấy của con người. Chính trong hoạt động, trong lao động, và
bằng lao động bản chất con người bộc lộ ra. Đúng như C. Mác đã nói: "Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
Câu nói của C. Mác được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có người hiểu
rằng C. Mác đã đồng nhất bản chất con người với tất cả các quan hệ sản
xuất. Có ý kiến khác nữa cho rằng C. Mác không vạch ra bản chất tích cực
của con người. Thật ra C. Mác nêu ra luận đề như vậy trong hoàn cảnh cụ thể
để nhằm chống lại những quan niệm cho con người là một bộ phận của tự
nhiên, hoặc cho bản chất con người là một cái gì cố hữu, có sẵn trong mỗi cá
nhân riêng biệt.
Cách hiểu bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội không có
nghĩa là C. Mác đã đồng nhất cá nhân, với xã hội, cá nhân bị hòa tan trong xã
hội, mà chỉ nhằm nêu lên mặt thống nhất cá nhân với xã hội, bằng lao động,
bằng cách biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội và làm thay đổi ngay bản thân
mình.
C.Mác biết: "Cho nên nếu con người là một cá nhân đặc thù nào đó là
chính tính đặc thù của nó làm cho nó thành ra một cá nhân và một thực thể xã
hội, cá thể hiện thực, thì trong mức độ như thế nào cũng là một tổng thể trong
quan niệm, một tồn tại (một tồn tại cho mình), chủ quan của xã hội đang được
tư duy và đang được cảm giác, cũng giống như trong hiện thực nó tồn tại một
mặt như là một trực quan tồn tại xã hội và hưởng thụ tồn tại ấy một cách hiện
thực, và mặt khác tổng thể của biểu hiện sinh hoạt của con người".
Trong xã hội loài người, con người tích cực tác động và thiên nhiên,
vào xã hội để cải tạo xã hội đồng thời cải tạo bản thân mình. Do đó bản chất
con người không thể là cái gì khác là bản chất xã hội tích cực của cá nhân
con người trong mối quan hệ xã hội.
Tóm lại C. Mác hiểu con người theo những dấu hiệu sau:
a) Con người tồn tại có tính chất thể chất đã được phú cho một sức
mạnh tự nhiên, một tồn tại sống hiện thực và có tư duy, có đối tượng.
b) Con người như là một tồn tại có quan hệ đối với sự vật, quan hệ đối
với thế giới bằng biểu hiện sống. Con người là một hệ thống mở có quan hệ
với thiên nhiên cũng như đối với các tổ chức khác: thực vật và động vật.
c) Con người là một tồn tại giống loài, là hoạt động sống có ý thức, là
mức độ cao nhất của giống loài.
d) Con người là một tồn tại lịch sử và sáng tạo ra lịch sử
e) Đặc biệt con người là một tồn tại tích cực, tác động vào thế giới và
cải tạo thế giới.
Song tất cả những đặc điểm của con người không phải đều là bản chất
con người. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các
quan hệ xã hội như C. Mác đã từng khẳng định.
Hiểu được đúng đắn quan niệm của Mác về bản chất con người sẽ
giúp ta hiểu được bản chất nhân cách. Nhân cách là sự phát triển cao tính
chất xã hội của con người. Vì vậy tiêu chuẩn chung của việc đánh giá nhân
cách con người phải được thể hiện trong mức độ phong phú và đa dạng của
những mối quan hệ xã hội hiện thực của nó.
2. Tư tưởng của Mác về nhân cách
Tư tưởng của Mác về con người với tư cách là một nhân cách là con
người có ý thức. Muốn xem xét ý thức con người, Mác viết: "Phải xuất phát từ
những cá nhân sống thực mà xem xét ý thức như là ý thức của cá nhân ấy"
+ Con người với tư cách là nhân cách là một chỉnh thể. Mác xem xét
con người không phải là một chức năng riêng rẽ mà phải xét nó trong một
chỉnh thể với tư cách là một nhân cách. Các khí quan của con người đều
mang tính người, đều biểu hiện là một nhân cách. Mác viết: "Mối quan hệ có
tính chất người của con người đối với thế giới. Thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ mó,
tư duy, trực quan cảm giác mong muốn, hoạt động, yêu. Nói tóm lại, tất cả
những khí quan của cá tính của nó...".
+ Tư tưởng coi bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
* Về bản chất con người từ xưa đã có nhiều người bàn đến.
- Quan điểm sinh vật coi bản thân con người là bản chất sinh vật.
K. Lorenx cho rằng hành vi xã hội của con người là một quy luật mà
chúng ta có thể biết rõ từ hành vi động vật.
- Quan điểm xã hội hóa bản chất con người thể hiện ở nhà xã hội học
Pháp E. Durkgây. Họ giải thích hành vi con người bằng những nguyên nhân
tư tưởng, bằng ý thức xã hội, bằng mối quan hệ tiêu cực với điều kiện sản
xuất vật chất và tái sản xuất con người và bằng mối quan hệ khách quan đối
với tự nhiên. Họ xây dựng mối quan hệ hiểu biết nhau nhằm đối lập với quan
điểm sinh vật của con người.
Mác. đã phê phán Phơbách: "Phơ bách quy bản chất tôn giáo về bản
chất con người. Song bản chất con người không phải cái trừu tượng vốn có
của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hòa các quan hệ xã hội".
Trong khi phê phán triết học pháp luật của Hêgen, Mác viết: "Bản chất
của cá nhân không phải là râu, không phải là tóc, không phải tính chất vật lý
trừu tượng của cá nhân đó, mà là chất xã hội của cá nhân đó".
* Nhân cách con người được hình thành qua mối quan hệ giữa người
này và người khác trong xã hội.
Mác cho rằng: Chỉ trong chừng mực mà những quan hệ có tính chất
người đối với những người khác đã được xác lập đối với tôi thì tôi mới tự hình
thành như con người.
Mác viết: "Chỉ có khi nào coi con người Pôn giống như mình thì con
người Pie mới bắt đầu coi bản thân mình là một con người. Đồng thời đối với
Pie thì Pôn bằng xương bằng thịt trong cái thân thể của Pôn của anh ta lại là
hình thái biểu hiện của giống người".
Tư tưởng của Mác về nhân cách.
* Nhân cách phát triển hài hòa, toàn điện.
- Nhân cách phát triển hài hòa, toàn diện không phải từ đạo đức trừu
tượng, từ các phẩm chất tốt đẹp và cao quí của con người mà từ các nhu cầu
của mỗi con người tham gia sáng tạo ra mối quan hệ xã hội.
- Muốn nhân cách phát triển hài hòa và toàn diện thì mỗi cá nhân riêng
rẽ tham gia vào các hoạt động xã hội.
- Nhân cách con người được hình thành thông qua hoạt động tích cực
của bấn thân con người trong quá trình sáng tạo xã hội. Và cũng chính vì vậy
bản chất xã hội của con người mới được hình thành.
* Điều kiện để nhân cách phát triển hài hòa toàn diện.
- Xã hội không còn bóc lột. Hoạt động xã hội không còn đối lập với hoạt
động cá nhân. Sự đối lập này đã làm mất bản chất xã hội của con người, làm
cho con người xa lạ chính với bản chất của mình.
- Sự phong phú của cải về mặt tinh thần hoàn toàn phụ thuộc vào sự
phong phú của những quan hệ thực sự của họ.
- Phải xây dựng mối quan hệ người - người mà trong đó các cá nhân
sáng tạo ra nhau cả về mặt thể chất và tinh thần.
Theo Mác chính chủ nghĩa cộng sản là sự sản xuất chính cái hình thái
giao tiếp của con người một cách có kế hoạch và tự giác.
- Muốn phát triển nhân cách toàn diện phải lĩnh hội được "cái hiện thực
người".
"Cái hiện thực người" là toàn bộ những kinh nghiệm của cuộc sống xã
hội - những kinh nghiệm đó được ghi lại trong các công cụ sản xuất trong nền
văn hóa và chính trong các quan hệ xã hội.
- Như vậy sự tham gia của cá nhân vào hoạt động toàn diện là điều
kiện cho tự phát triển toàn diện của con người với tư cách là một nhân cách.
Đến đây chúng ta có thể nói rằng luận điểm cơ bản để giải quyết vấn
đề nhân cách mà Mác đã nêu ra là các quan hệ xã hội trong đó cá nhân tham
gia một cách tích cực nhằm lĩnh hội và cải tạo mối quan hệ hiện thực đó.
Đó là cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu nhân cách.
* Nghiên cứu nhân cách phải nghiên cứu phạm trù hoạt động của nhân
cách.
- Hoạt động có thể nghiên cứu theo nhiều phương diện khác nhau: sinh
lý, sản xuất, xã hội, tâm lý...
- Đối với Mác, nghiên cứu phạm trù hoạt động là cơ sở triết học của
tâm lý học.
- Khái niệm hoạt động:
+ Chủ nghĩa duy vật cũ tách rời nhận thức khỏi hoạt động cảm tính,
khỏi các quan hệ thực tiễn của con người với thế giới xung quanh.
+ C. Mác: hoạt động của con người trong dạng khởi đầu và cơ bản là
hoạt động thực tiễn cảm tính.
+ Hoạt động của con người khác với loài vật. Hoạt động của loài vật
đồng nhất hóa với sinh hoạt của nó. Hoạt động của con người là quá trình lao
động xã hội có ý thức. Hoạt động con vật gắn với nhu cầu trực tiếp. Còn hoạt
động của con người nhiều khi tách khỏi nhu cầu vật chất trực tiếp mà con
người hoạt động.
+ Hoạt động con người mang tính xã hội. Chính trong hoạt động này
mà bản chất con người được bộc lộ ra. Ngay trong hoạt động khoa học cũng
là hoạt động xã hội.
+ Đặc trưng cơ bản của hoạt động là quan hệ giữa chủ thể và khách
thể. Mác cho rằng: "Hoạt động sống của cá nhân như thế nào thì tình hình
bản thân họ cũng như vậy". Trong hoạt động con người bộc lộ tất cả sự
phong phú của tâm hồn, chiều sâu của trí tuệ và cảm xúc, sức mạnh của óc
tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hành động và những đặc điểm tâm lý
khác.
- Về một chủ thể hoạt động của con người là quá trình khách thể hóa
lực lượng bản chất của con người.
- Về mặt khách thể: Nhờ có hoạt động mà khách thể phụ thuộc vào nhu
cầu của con người.
Như vậy, hoạt động không chỉ bộc lộ cái bản chất vốn có của con người
mà là quá trình chủ thể thực sự hoạt động tương ứng với hoạt động đã
chuyển vào trong sản phẩm của hoạt động đó.
Vì lẽ đó hoạt động đã thực sự sáng tạo ra nhân cách.
- Mác cũng nói đến năng lực của con người trong hoạt động. "Đến chủ
nghĩa cộng sản con người làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu". Đó chính
là lúc con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do.
Tóm lại, Mác đã đặt cơ sở triết học cho việc giải quyết vấn đề nhân
cách. Đó cũng chính là mặt phương pháp luận của nhân cách. Muốn nghiên
cứu nhân cách phải đặt nó trong mối quan hệ xã hội, sự hoạt động của con
người trong xã hội đó.
III – TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN VỀ NHÂN CÁCH
Lê nin đã kế thừa, phát huy và sáng tạo học thuyết của Mác về con
người.
Nếu học thuyết của Mác nói về bản chất con người là tổng hòa các
quan hệ xã hội, thì Lê nin đã phát triển một cách sáng tạo học thuyết của Mác
trong hoàn cảnh cụ thể. Đó là vấn đề quan hệ xã hội, hoạt động con người
trong mối quan hệ đó, vấn đề bản chất xã hội của nhân cách.
Tiêu chuẩn để xét đoán nhân cách.
1. Hoạt động: Lê nin cho rằng: "Chúng ta căn cứ vào cái gì để xét đoán
những tư tưởng và tình cảm thực của các cá nhân có thực. Tất nhiên căn cứ
đó chỉ có thể là những hoạt động của các cá nhân ấy"
Và Người còn nói "Chỉ có thể thừa nhận tính quyết định của hoạt động
và hành vi của con người mới tạo ra được cơ sở để đánh giá một cách đúng
đắn và nghiêm túc những hoạt động và hành vi đó.
Như vậy, hoạt động của cá nhân là tiêu chuẩn để đánh giá nhân cách.
2. Quan hệ xã hội: Những hoạt động của cá nhân không riêng rẽ, biệt
lập mà tồn tại trong mối quan hệ lẫn nhau, trong sự tồn tại xã hội.
+ Theo Lê nin để cắt nghĩa hoạt động cá nhân phải dựa vào mối quan
hệ xã hội khác nhau, từ trình độ phát triển xã hội. Chỉ có dựa vào quan hệ xã
hội mới cắt nghĩa được hoạt động của họ. Người cho rằng con người là
những cá nhân sinh động, là những lớp người đang vận động đi lên bởi
những nhu cầu, hứng thú, mục đích, lý tưởng, tư tưởng và tình cảm của mình
sáng tạo ra lịch sử.
+ Muốn cắt nghĩa mối quan hệ xã hội phải nghiên cứu hoạt động.
Lê nin viết: "Trong khi nghiên cứu mối quan hệ xã hội thực sự và phát
triển thực sự của những mối quan hệ đó, tôi đã nghiên cứu chính ngay vấn đề
xem xét cá nhân đang sống đã làm ra lịch sử của mình và tiếp tục làm ra lịch
sử đó như thế nào". Lê nin khuyên các nhà khoa học xã hội về con người là
nghiên cứu những mối quan hệ xã hội và hoạt động của các cá nhân đó.
3. Phải nghiên cứu ý thức xã hội để hiểu nhân cách
Quan hệ xã hội quy định hoạt động xã hội nhưng không phải trực tiếp
mà chi phối một cánh gián tiếp thông qua ý thức xã hội.
Chính ý thức xã hội đã quy định các kiểu hành vi của nhân cách. Đó là
các kiểu địa chủ, kiểu tư sản, kiểu nhà hoạt động chính trị tự do, tri thức, kiểu
công chức, kiểu tiểu chủ, kiểu nhà cách mạng.
+ Mỗi cá nhân có ý thức xác định vị trí của mình trong hệ thống mối
quan hệ xã hội.
Lênin viết: "Một người nô lệ ý thức về hoàn cảnh nô lệ của mình và đấu
tranh chống lại hoàn cảnh nô lệ đó là một người cách mạng, một nô lệ không
có ý thức về hoàn cảnh nô lệ của mình và sống lay lắt, thầm lặng, sống vô
thức và chịu đựng chỉ là một nô lệ mà thôi".
+ Ý thức là tiền đề chủ quan để điều chỉnh hành vi của con người. Ý
thức cá nhân không chỉ biểu hiện trong tri thức và tư tưởng mà còn trong mối
quan hệ của cá nhân trong thực tiễn. Nhờ đó mà điều chỉnh hành vi đạo đức
và hướng đến cải tạo thế giới.
+ Cái chung và cái riêng trong nhân cách. Phép biện chứng cho ta biết:
"Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, bất kỳ cái riêng nào cũng có cái chung,
cái cá biệt, cái điển hình".
Từ đó giúp các nhà tâm lý học khám phá ra những đặc điểm tâm lý của
các cá nhân trong các nhóm, tầng lớp xã hội khác nhau. Mỗi cá nhân có
những phẩm chất trí tuệ kỹ năng sáng tạo, tính độc lập, những xu hướng đạo
đức khác nhau, có tình cảm, ý chí tượng trưng khác nhau. Những đồng thời
mỗi cá nhân đều mang đặc điểm chung của giai cấp mình, của nhóm xã hội
nhất định.
4. Đời sống xã hội quy định nhân cách:
Sự phát triển nhân cách phụ thuộc vào việc cá nhân tham gia vào đời
sống xã hội, có vị trí và chức năng gì trong xã hội. Cá nhân có những quan
điểm như thế nào, nắm được những giá trị gì, rèn luyện được những phẩm
chất gì đều là biểu hiện của nhân cách.
Theo Lê nin "cuộc sống xã hội là người thầy tốt nhất để giáo dục và dạy
dỗ cho từng cá nhân và cho các tầng lớp xã hội khác nhau". Song để thực
hiện được điều đó còn phải tùy thuộc vào trình độ phát triển xã hội, tùy thuộc
vào chỗ cá nhân tham gia những mối quan hệ xã hội.
5. Sự thống nhất giữa lao động chân tay và lao động trí óc là tiêu chuẩn
đánh giá nhân cách.
Lê nin đã vận dụng quan điểm của Mác: "Hoàn cảnh sáng tạo ra con
người trong chừng mực mà con người sáng tạo ra hoàn cảnh". Chính lao
động đã cải tạo hoàn cảnh đồng thời cải tạo cá nhân mình. Nhưng lao động
phải có sự thống nhất giữa lao động từ óc và lao động chân tay. Trong xã hội
tư bản lao động trí óc và lao động chân tay bị tách lời. Lao động dùng chân
tay bị tách rời với lạo động trí óc nên người lao động bị nghèo nàn đi về tinh
thần và biến thành công cụ áp bức của giai cấp bóc lột. Vì vậy, lao động bị
cướp đi nguồn vui và nguồn sáng tạo, làm mất đi khả năng bộc lộ những
năng lực năng khiếu của con người.
Muốn phát triển nhân cách phải xóa bỏ ngăn cách giữa lao động trí óc
và lao động chân tay. Đây là con đường hiện thực để giải phóng nhân cách,
làm cho nhân cách phát triển hài hòa và toàn diện.
6. Tính tích cực của nhân cách:
Lê nin đã chỉ ra tính tích cực của nhân cách:
- Tính tích cực được thể hiện trong nhu cầu và động cơ hành vi và
phương thức hoạt động đặc trưng của người đó cũng như hoạt động cải tạo
thực tiễn.
- Tính tích cực được thể hiện trong vị thế mà con người chiếm lĩnh
trong cuộc sống xã hội.
- Nguồn gốc của tính tích cực xuất phát trong quá trình tác động với thế
giới xung quanh và cải tạo nó biến nó phục vụ cho sự thỏa mãn nhu cầu.
Kết luận: Mác - Lê nin không phải là nhà tâm lý học, nhưng những luận
điểm của hai ông để lại là vô cùng quí báu cho việc xây dựng tâm lý học, đặc
biệt là tâm lý học nhân cách thành một khoa học. Những lý luận của hai ông
là cơ sở phương pháp luận của tâm lý học và đó cũng là cơ sở vạch ra con
đường phát triển nhân cách.
IV – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN CÁCH
Hồ Chí Minh là một con người khổng lồ về nhiều lĩnh vực, người anh
hùng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà giáo dục, nhà văn hóa, nhà thơ và là lãnh tụ
thiên tài của dân tộc Việt Nam. Di sản văn hóa của Người để lại rất nhiều.
Chúng ta có thể nghiên cứu những di sản đó và vận dụng nó vào việc nghiên
cứu nhân cách.
Nếu như chúng ta đã từng lấy ý kiến của Mác và Lênin làm cơ sở cho
tìm hiểu khái niệm nhân cách thì những ý kiến của Hồ Chí Minh cũng không
kém phần quan trọng để tìm hiểu nhân cách người Việt Nam.
Hồ Chí Minh hòa quyện nhiều phẩm chất nhân cách: anh hùng và nhà
văn hóa, nhà quân sự với nhà thơ, nhà nghệ sĩ. Những phẩm chất nhân cách
ở con người Hồ Chí Minh được nhà thơ Trung Quốc khái quát là đại trí, đại
nhân, đại dũng.
Tâm lý học nghiên cứu nhân cách không chỉ nghiên cứu những tư
tưởng nhân cách Hồ Chí Minh đã để lại mà còn nghiên cứu một nhân cách
hoàn hảo Hồ Chí Minh.
Qua nghiên cứu Hồ Chí Minh chúng ta thấy những tư tưởng của Hồ
Chí Minh về nhân cách được thể hiện:
1. Đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách
Trong nhiều bài huấn thị của Hồ Chí Minh đều thể hiện đạo đức là cái
gốc, nếu không có đạo đức thì tài cũng vô dụng.
Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân".
Đạo đức Hồ Chí Minh khác với đạo đức cũ. Nó không phải là đạo đức
thủ cựu, mà là đạo đức mới được lanh thành và phát triển cùng với sự nghiệp
cách mạng và phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Nó khác với đạo đức cũ bởi
tính cách mạng của nó. Tính chất của đạo đức mới là mình vì mọi người và
mang tính truyền thống dân tộc.
Nội dung của dạo đức chích mạng là:
+ Yêu nước, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu chủ nghĩa xã hội.
+ Quyết tâm thực hiện nhũng nhiệm vụ có ích cho cách mạng, cho xã
hội.
Người nói: "Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào đánh thắng".
Vì sự nghiệp đất nước, vì lợi ích chung, lợi ích mọi người mà thực hiện
nhiệm vụ. Muốn vậy phải gạt bỏ lợi ích cá nhân, ích kỷ, phục vụ cho lợi ích
chung.
- Đạo đức không tách rời tài năng.
Người nói con người có đức mà không có tài khác nào như ông bụt
ngồi trong chùa không giúp ích được ai.
Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi
nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã
hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt
không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người".
2. Nhân cách là tư cách làm người.
- Tư cách được Hồ Chí Minh đề cập tới từ năm 1925 trong cuốn
"Đường Kách mệnh". Sau này Hồ Chí Minh còn đề cập tới tư cách người
đảng viên, tư cách người công an vũ trang.
- Nội dung tư cách cùng là thành phần cấu trúc nhân cách bao gồm:
+ Thành phần thứ nhất là những thuộc tính tâm lý ổn định như cách nói
của Hồ Chí Minh "Đối với tự mình".
+ Thành phần thứ hai hao gồm mối quan hệ cá nhân với xã hội với
người khác như cách nói của Hồ Chí Minh "đối với người".
+ Thành phần thứ ba là quan hệ cá nhân với công việc.
Cá hai thành phần sau có liên quan với bên ngoài. Đó là nhân cách xã
hội. Thành phần đầu là phẩm chất tâm lý của nhân cách bên trong. Có ba
thành phần tạo nên bức tranh tổng thể của nhân cách.
Về thành phần "đối với tự mình":
- Phải có tri thức, luôn luôn phải xem xét, nghiên cứu, học hỏi, có tình
cảm cách mạng, có ý chí cách mạng, cả quyết nhẫn nại, phải có nhu cầu phù
hợp, ít lòng ham muốn vật chất, phải có lập trường, giữ chủ nghĩa cho vững,
phải có lý tưởng.
- Phải có nét tính cách tốt: cẩn thận, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Về thành phần thứ hai "đối với người", tức là quan hệ đối với mọi người
là phải đem lòng chí công vô tư, đối với người thì khoan thứ, giúp đỡ, trung
thực, đối với Đảng và Chính phủ thì trung thành, đối với nhân dân phải kính
trọng.
Về thành phần thứ ba thể hiện mối quan hệ cá nhân với công việc.
Người yêu cầu ham làm những công việc ích quốc lợi dân, phải có năng lực
xem xét cụ thể, phải có ý chí, khó mấy cũng phải làm: phải có những nét tính
cách cần thiết: Tận tụy siêng năng. Đặc biệt trong công việc phải thể hiện
động cơ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Người viết:
"Tự mình phải:
Cần kiệm.
Hòa mà không tư
Cả quyết sửa lỗi mình
Cẩn thận mà không nhút nhát
Hay hỏi
Nhẫn nại
Hay nghiên cứu, xem xét.
..................
Đối với người phải:
Với từng người thì phải khoan thứ...
Với đoàn thể thì phải nghiêm.
.................
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng
Quyết đoán
Dũng cảm..."
Đánh giá tư cách, đạo đức của một người phải dựa vào hệ thống mối
quan hệ bên trong cá nhân, quan hệ cá nhân với cá nhân khác với xã hội, cá
nhân với công việc. Nổi lên hàng đầu của động cơ ấy là động cơ xã hội của
cá nhân và hành động để thực hiện động cơ đó. Đó cũng là bậc thang giá trị
đánh giá nhân cách con người.
Chúng ta hiểu phẩm giá cá nhân gồm những phẩm cơ mà cá nhân thu
được trong quá trình hoạt động, giao tiếp và những giá trị xã hội của những
phẩm chất đó. Điều đó có nghĩa là những phẩm chất cá nhân đều có ý nghĩa
xã hội, thông qua sự đánh giá của xã hội thì những phẩm chất đó mới mang ý
nghĩa nhân cách. Vì vậy, giữa phẩm chất và giá trị có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, thống nhất thành một hệ thống trọn vẹn trong cấu trúc nhân cách.
Cách hiểu nhân cách như vậy sẽ giúp chúng ta xác định được đối
tượng nghiên cứu nhân cách. Đó chính là nghiên cứu hệ thống những phẩm
giá xã hội của cá nhân. Trước hết, đó là nghiên cứu hệ thống bên trong cá
nhân, những yếu tố tâm – sinh lý của nhân cách. Hệ thống bên ngoài cá
nhân: các quan hệ cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm, cá nhân với xã
hội, trong đó có sự đánh giá xã hội đối với cá nhân và cuối cùng là quan hệ
của cá nhân với công việc.
3. Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm là những phẩm chất nhân cách cố lõi.
- Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đùm chí đồng bào... sẵn
lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà
không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền. Nhưng người đã
không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải họ đều làm được.
- Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có
việc gì phải giấu đoàn thể, Ngoài lợi ích của đoàn thể, không có lợi ích riêng
phải lo toan.
- Trí là không có việc gì tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong
sạch sáng suốt; dễ hiểu lý; dễ tìm phương hướng; biết xem người, biết xét
việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi tránh việc có hại cho đoàn thể.
- Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc gì phải có gan làm, thấy khuyết
điểm phải có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan
chống lại những sự vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan
hy sinh cả tính mệnh cho đoàn thể: cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút
nhát.
- Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy, mà quang minh chính đại,
không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một cái ham là ham học, ham làm và ham tiến
bộ.
Có thể so sánh quan niệm của Hồ Chí Minh và Khổng Tử về đạo đức.
Khi nói đến đạo đức của con người Khổng Tử cũng nêu lên 5 đức tính: Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Mặc dù quan niệm của Khổng Tử về năm đức tính đó là tiến bộ trong
thời đại của ông. Nhưng thực chất cũng chỉ nhằm phục vụ cho giai cấp thống
trị. Ông đề cao đại nhân. Còn tiểu nhân vẫn bị ông coi thường. Điều khác nội
dung đạo đức của Khổng Tử là lễ và tín, so với Hồ Chí Minh là dũng, liêm.
Điều này thể hiện tính chất cách mạng trong quan niệm đạo đức của Hồ Chí
Minh. Con người có phẩm chất dũng cảm, có ý chí mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng và xã hội giao cho. Người cán bộ tiêu chuẩn quan trọng
phải là liêm khiết không tham ô, tham nhũng mới có thể gọi là con người có
đạo đức.
Mặt khác nội dung nhân nghĩa từ tư tưởng của Hồ Chí Minh mang tính
nhân dân và thực tiễn sâu sắc so với Khổng Tử.
4. Cái "tâm" là cơ sở của nhân cách
Cái tâm được hiểu như toàn bộ những phẩm chất tâm lý từ nhận thức,
tình cảm đến ý chí của nhân cách. Nó bao trùm toàn bộ các hiện tượng tâm lý
con người.
- Tâm thức, tâm tư (nhận thức)
- Tâm cảm, tâm tư, tâm tình, tâm trạng (tình cảm)
- Tâm chí (ý chí)
- Tâm tính (tính cách)
- Tâm linh (siêu thức)
Ở đây, chúng ta thấy rõ tư tưởng Hồ Chí Minh ở cái "tâm" được thể
hiện trong mối quan hệ của chính bản than cá nhân (bản than mình) phải cần
kiệm liêm chính, thể hiện trong mối quan hệ cá nhân với người khác, với xã
hội như với từng người thì khoan thứ, đối với toàn thể thì nghiêm, trung với
nước, hiếu với dân. Cái tâm đối với công việc là dù khó mấy cũng phải làm.
Tóm lại, chúng ta có thể dựa vào các tư tưởng của Hồ Chí Minh về
nhân cách để xây dựng nền khoa học nhân cách mang bản sắc Việt Nam.
5. Quan điểm “đạo đức cách mạng” của Hồ Chí Minh
Trong những năm gần đây, vấn đề nhân cách được nhiều người, nhiều
ngành khoa học quan tâm. Từ các góc độ của mình, các nhà khoa học đã làm
sáng tỏ mặt triết học, mặt tâm lý học, mặt xã hội học của nhân cách. Nhưng
diều đó hoàn toàn chưa đủ. Hiện vẫn còn những điều bất đồng nghiêm trọng
những các ý kiến khác nhau của các nhà khoa học về vấn đề nhân cách. Nhà
tâm lý học Liên Xô xuất sắc B. V. Soroshova cho rằng ngàv nay còn chưa có
một định nghĩa về nhân cách, mà ít nhiều mọi người chấp nhận, và trong tâm
lý học cũng có một lý luận thống nhất về hiện tượng này. Vì vậy việc nghiên
cứu những ý kiến của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng có ý nghĩa quan
trọng trong việc làm sáng rõ lý luận nhân cách trong tâm lý học. Nếu như
chúng ta đã từng lấy ý kiến của Mác và Lê nin làm cơ sở cho việc tìm hiểu
khái niệm nhân cách thì những ý kiến của Hồ Chí Minh cũng không kém phần
quan trọng trong cách nhìn nhận nhân cách người Việt Nam.
Chúng ta đều biết rằng, Hồ Chí Minh không trực tiếp đề cập tới khái
niệm nhân cách. Song trong những bài viết và bài nói của Người đều toát lên
tinh thần và nội dung của khái niệm này. Để giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ và nhân dân, Hồ Chí Minh đã đề cập tới nhân cách. Người nói: “ý
muốn giữ vững nhân cách tránh khỏi hủ hóa thì luôn luôn thực hành bốn chữ
"Cần, kiệm, liêm, chính". Trong cách hiểu truyền thống của người Việt Nam
về giá trị con người, nhân dân ta cũng thiên về mặt đạo đức. Đó cũng chính là
cách đánh giá về nhân cách con người. Tư tưởng đó cũng được thể hiện
trong những bài nói và bài viết của Hồ Chí Minh. Người dạy cán bộ: quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Người không quan
niệm đạo đức là một cái gì tách rời năng lực. Chính nhờ đạo đức cách mạng
mà mỗi người tự phấn đấu để hoàn thiện mình, hình thành năng lực của mình
nhằm hoàn thành nhiệm vụ của sự nghiệp vẻ vang. Vì vậy Hồ Chí Minh cho
rằng người cán bộ phải lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng. Người cho
rằng: "cán bộ phải lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng, đó là cái gốc quan
trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì tài năng vô dụng". Tư tưởng đạo
đức cách mạng của người đã nhất quán từ những ngày đầu hoạt động cách
mạng cho đến khi vĩnh biệt nhân dân ta. Năm 1947 trong cuốn "Sửa đổi lề lối
làm việc" Người đã đề cập tới vấn đề đạo đức và cuối cùng tư tưởng coi trọng
đạo đức cũng được thể hiện trong Di chúc của Người. Khi nói về thanh niên,
Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ,
đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng
vừa chuyên".
Nhưng đạo đức của Hồ Chí Minh khác xa với đạo đức cũ. Người nói,
đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức của sự nghiệp
vĩ đại. Nó không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của
dân tộc, của loài người. Người giải thích: đạo đức cũ như người đầu ngược
xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
được dưới đất, đầu ngẩng lên trời. Cái khác về cơ bản trong đạo đức Hồ Chí
Minh với đạo đức cũ là tính chất cách mạng của đạo đức. Đạo đức mới được
hình thành và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng và phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đạo đức mới thể hiện nguyên tắc mình vì
mọi người, và được kế thừa những tinh hoa của truyền thống đạo đức dân
tộc. "Thương người như thể thương thân", "Đói cho sạch, rách cho thơm".
"Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ". "Chết trong còn hơn sống đục". Đạo đức Hồ
Chí Minh nêu ra chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn cái tinh hoa của truyền
thống đạo đức dân tộc và đạo đức cách mạng. Thuyết "Tư Thân" của Khổng
Tử thực tế khuyên con người trốn tránh trước thực tế ngang trái, bất công,
không hành động để cải tạo hiện thực và chui vào cái vỏ ốc của đạo đức. Nội
dung đạo đức Hồ Chí Minh nêu ra hoàn toàn khác xa với đạo đức cũ. Nó
được hình thành và thử thách trong cuộc sống đấu tranh cách mạng, trong
việc hoàn thành những nhiệm vụ mà cách mạng giao phó. Đạo đức cách
mạng là hiện thân những phẩm chất tốt đẹp của giai cấp công nhân và dân
tộc Việt Nam.
Đạo đức của Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, bởi vì nó nhằm phục
vụ cho cuộc cách mạng của nhân dân ta, chống thực dân, phong kiến, giành
độc lập, tự do dân chủ. Đạo đức cách mạng do Người chủ xướng được cán
bộ và nhân dân ta thấm nhuần và thực hiện. Đạo đức cách mạng gần gũi với
nhân dân ta, không có gì cao xa, rất thiết thực, ai cũng thực hiện được. Hồ
Chí Minh dùng tư tưởng đạo đức cách mạng của mình đã đào tạo hàng vạn
chiến sĩ cách mạng có đức, có tài, tiêu biểu trong số đó là Phạm Văn Đồng,
Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp.... Biết bao nhiêu thế hệ đã noi gương đạo
đức cách mạng của Người mà trở thành những người có đức có tài, phục vụ
cho nước, cho dân. Những chiến sĩ hy sinh vì nghĩa nước như Phan Đình
Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, các chiến sĩ gái ở ngã ba
Đồng Lộc... há chẳng phải từ đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh sinh ra.
Nội dung đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh nêu ra sâu rộng và toàn
diện. Chúng ta có thể vận dụng quan điểm đạo đức cách mạng của Người
vào việc tìm hiểu khái niệm nhân cách trong tâm lý học. Hồ Chí Minh lấy đạo
đức cách mạng làm nền tảng. Song cái cốt lõi của đạo đức cách mạng là
động cơ cách mạng và ý chí cách mạng, là quyết tâm hành động để thực hiện
động cơ và ý chí cách mạng. Hồ Chí Minh nói: "Đạo đức cách mạng là tuyệt
đối trung thành với cách mạng, với nhân dân, quyết tâm suốt đời đấu tranh
cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất". Theo Người động cơ vì
nước vì dân và ý chí quyết tâm thực hiện động cơ đó là hai phẩm chất cốt lõi
của đạo đức cách mạng. Trong tâm lý học hai thành phần ấy cũng được coi
như phẩm chất quan trọng nhất của nhân cách. Động cơ là tất cả những thứ
gì thúc đẩy con người hành động. Sự sắp xếp những động cơ chủ đạo theo
những thứ bậc thành một đường hướng nhất định quyết định xu hướng phát
triển nhân cách con người. Động cơ đó có thể là lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế vô sản, chủ nghĩa tập thể, lòng yêu lao động,
tinh thần lạc quan cách mạng... Tình cảm yêu nước giá trị hàng đầu trong bậc
thang đạo đức của người Việt Nam, nó tạo thành động cơ "kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ to lớn". Lòng yêu nước đã gắn bó mọi người Việt
Nam thành một khối vô địch chiến thắng mọi kẻ thù. Truyền thống yêu nước
đã được hun đúc từ thế hệ này sang thế hệ khác của người Việt Nam. Mọi
người Việt Nam thương yêu và đùm bọc lẫn nhau. "Nhiễu điều phủ lấy giá
gương, người trong một nước phải thương nhau cùng". Nếu xuất phát từ
động cơ yêu nước, thương dân thì mọi nhiệm vụ dù khó khăn đến đâu cũng
hoàn thành. Điều đó đã được Hồ Chí Minh khái quát thành một câu nổi tiếng
như một châm ngôn, như một khẩu hiệu: "Trung với nước, hiếu với dân,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng". Ngày nay yêu nước phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội.
Động cơ có thể xuất phát từ tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối
với đất nước. "Nhiệm vụ của thanh niên không phải đòi hỏi nước nhà đã cho
mình những gì mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà". Đó cũng là
động cơ lao động đúng đắn của người thanh niên có đạo đức, có nhân cách.
Những động cơ yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần lao động chủ
nghĩa quốc tế vô sản là những bộ phận quan trọng cấu thành nhân cách con
người mới xã hội chủ nghĩa. Song cũng cần thấy rằng khi đánh giá một con
người không thể chỉ đánh giá ở động cơ. Giá trị con người là ở chỗ đạo đức
đó phải gắn liền với hành động ý chí cách mạng, nhằm thực hiện động cơ đạo
đức ấy. Lênin đã chỉ ra rằng: "Chúng ta nên căn cứ vào cái gì để xét đoán
những tư tưởng và tình cảm thực của cá nhân ấy". Tư tưởng ấy cũng thể hiện
rất rõ ở Hồ Chí Minh. "Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho
sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình".
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở thanh niên ta rèn luyện ý chí. Bởi vì ý
chí cách mạng có tầm quan trọng đặc biệt: có động cơ đúng, song không có ý
chí để thực hiện động cơ đó thì động cơ có tốt đẹp đến đâu cũng chỉ là thứ
hàng trang sức không có ích lợi gì. Người có ý chí sẽ không hành động theo
nhu cầu trực tiếp của bản thân, khi nhu cầu đó không phù hợp với giá trị xã
hội. Như vậy trong quá trình thực hiện một hành động ý chí, con người đã
khách thể hóa cái tôi của mình nhằm đạt mục đích lợi ích cá nhân hòa hợp
với lợi ích của xã hội. Trong hành động ý chí cách mạng, con người xóa bỏ
những cám dỗ vật chất không phù hợp với điều kiện xã hội và sức lao động
tương xứng của mình và xóa bỏ những tính toán ích kỷ cá nhân. Nhiều người
không có ý chí cách mạng, mặc dù lúc đầu họ tham gia cách mạng với động
cơ đúng đắn nhưng sau đó bị cám dỗ của vật chất không đấu tranh với bản
thân được họ trở nên thoái hóa, biến chất. Nhờ quá trình ý chí, trong nhân
cách mỗi người diễn ra sự xung đột, xung đột giữa lợi ích cá nhân và tập thể;
giữa nhu cầu cá nhân và lợi ích xã hội; xung đột giữa hành vi đạo đức và
hành vi không đạo đức. Khi có sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân với quyền
lợi xã hội thì phải đặt lợi ích của xã hội lên trên hết: "Nếu lợi ích của Đảng và
lợi ích cá nhân mâu thuẫn với nhau thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục
tùng lợi ích của Đảng". Nhân cách được Hồ Chí Minh quan niệm được thể
hiện rõ ở điểm này. Động cơ gắn liền định hướng giá trị chân chính của xã hội
ở nhân cách và sự tìm kiếm những hành động, hành vi cần thiết thực hiện
động cơ xã hội này là dấu hiệu cơ bản của nhân cách con người mới. Hồ Chí
Minh khuyên thanh niên: "Cần phải có lòng gan dạ, sáng tạo, cần phải có chí
khí hăng say, tinh thần tiến lên, vượt khó khăn gian khổ để tiến mãi không
ngừng". Người dùng nhiều từ thuộc về những phẩm chất ý chí để giáo dục
thanh niên cũng như những người cách mạng như: Cả quyết, quyết đoán,
nhẫn nại, hy sinh, dũng cảm, quyết chí, quyết tâm... ý chí lớn lao của Người
thể hiện qua câu nói nổi tiếng: "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải kiên quyết giành cho được độc lập", "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Bằng cuộc đời hoạt
động cách mạng đầy khó khăn gian khổ và biết bao hy sinh, từ những ý
tưởng của Người đã nêu thành những câu châm ngôn nổi tiếng dạy thanh
niên:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Đánh giá nhân cách một người là đánh giá đạo đức của họ. Nhưng đạo
đức theo Hồ Chí Minh phải được thể hiện qua hành động ý chí, đặc biệt là giá
trị xã hội của hành động đó. Hành động đó phải nhằm đem lại lợi ích cho cách
mạng cho nhân dân. Điều quan trọng để hình thành những phẩm chất tốt đẹp
như Hồ Chí Minh dạy, là phải xóa bỏ những định hướng giá trị cá nhân ích kỷ.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức không đối lập với tài năng.
Người có năng lực để hoàn thành tốt một nhiệm vụ có ý nghĩa xã hội, năng
lực đó thể hiện đạo đức như Hồ Chủ tịch đã nêu. Nếu không quan niệm như
thế thì đạo đức không có giá trị hiện thực, sẽ rơi vào thứ đạo đức trừu tượng,
đạo đức ý tưởng, quay lưng lại cuộc đời, trốn tránh những đòi hỏi của cuộc
sống. Năng lực chính là hiệu quả của động cơ, là tính hiện thực của động cơ.
Muốn hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng thì tự mình phải hoàn
thiện những khả năng của mình mới đáp ứng được yêu cầu cách mạng. Mỗi
người ở vị trí của mình phải rèn luyện tư cách. Tư cách được hiểu như là
những điều kiện về những phẩm chất trong đó có năng lực của con người với
cương vị xã hội của mình nhằm hoàn thành một nhiệm vụ nào đó. Trong cuốn
"Đường cách mệnh" Hồ Chí Minh viết từ năm 1925 đã đề cập tới tư cách
người cách mạng. Sau này Hồ Chí Minh còn nêu ra tư cách người đảng viên,
tư cách người công an nhân dân vũ trang. Có thể nói nội dung tư cách mà Hồ
Chí Minh yêu cầu ở mỗi người trong vị trí của mình chính là thành phần của
cấu trúc lớn của nhân cách. Cấu trúc nhân cách bao gồm ba thành phần:
Thành phần thứ nhất - những thuộc tính tâm lý ổn định, bao gồm không
gian bên trong của cá nhân, như cách nói của Người "đối với tự mình". Thành
phần thứ hai - bao gồm mối quan hệ của cá nhân với xã hội, với người khác
thông qua hoạt động và giao tiếp của người ấy, như cách nói của người "Đối
với người". Thành phần thứ ba là mối quan hệ giữa cá nhân và công việc.
Thành phần này thể hiện hiệu quả tác động của nhân cách đối với thế giới
bên ngoài. Cả thành phần thứ hai và thứ ba đều tồn tại bên ngoài không gian
của cơ thể cá nhân, đó chính là nhân cách xã hội của cá nhân. Cả ba thành
phần này có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành tổng thể cấu trúc toàn vẹn
của nhân cách.
Tư tưởng này thể hiện rất rõ ràng trong cuốn "Đường Cách mệnh", về
những lời huấn thị của Hồ Chí Minh đối với cán bộ, đảng viên và công an.
Người yêu cầu tư cách người cách mạng, đối với tự mình (thành phần tâm lý
bên trong) phải có tri thức, nghĩa là phải luôn luôn xem xét, nghiên cứu, học
hỏi, có tình cảm cách mạng, vì tập thể, có ý chí cách mạng: cả quyết, nhẫn
nại, phải có nhu cầu phù hợp, ít lòng ham muốn vật chất, phải có lập trường:
giữ chủ nghĩa cho vững; phải có lý tưởng: vì lý tưởng mà hi sinh, phải có
những nét tính cách tốt: cẩn thận, cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Yêu cầu thứ hai trong tư cách, đối với Người, thành phần tâm lý cá
nhân thể hiện trong mối quan hệ ra bên ngoài, quan hệ đối với người khác, là
người đem lòng chí công vô tư đối với người, các sự hy sinh khó nhọc thì
mình làm trước người ta, còn sung sướng an nhàn thì mình nhường người ta
hưởng trước. Đặc biệt đối với từng người cần phải khoan thứ, giúp đỡ trung
thực. Đối với đoàn thể (quan hệ trong nhóm nhỏ) thì phải nghiêm (chấp hành
nghiêm chỉnh những nghị quyết của tập thể). Đối với Đảng và Chính phủ phải
tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân (quan hệ trong nhóm lớn) phải kính
trọng, lễ phép. Đối với kẻ thù phải dũng cảm khôn khéo.
Thành phần tâm lý thứ ba thể hiện trong suốt mối quan hệ của cá nhân
đối với công việc - Người yêu cầu phải hứng thú với công việc: Ham làm
những công việc ích quốc lợi dân; phải có năng lực; xem xét hoàn cảnh cụ
thể; phải có ý chí: khó mấy cũng phải làm; phải có những nét tính cách cần
thiết, tận tụy, siêng năng. Đặc biệt trong công việc phải thể hiện động cơ
nhằm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đánh giá tư cách, đạo đức của một người phải dựa vào hệ thống mối
quan hệ bên trong cá nhân, quan hệ cá nhân với cá nhân khác, với xã hội,
quan hệ cá nhân với công việc. Nổi lên hàng đầu trong các mối quan hệ ấy là
động cơ xã hội của cá nhân và ý chí hành động để thực hiện động cơ đó. Đó
cũng là bậc thang giá trị để đánh giá nhân cách con người. Chúng ta có thể
vận dụng quan điểm tư cách đạo đức của Hồ Chí Minh vào việc xác định khái
niệm nhân cách trong tâm lý học. Dựa vào quan điểm trên chúng ta có thể
định nghĩa nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể
hiện trong cá nhân, bên ngoài cá nhân, thông qua hoạt động và giao tiếp của
cá nhân ấy.
Chúng ta hiểu phẩm giá cá nhân gồm những phẩm chất mà cá nhân
thu nhận được trong quá trình hoạt động giao tiếp và những giá trị xã hội của
những phẩm chất đó. Điều đó nghĩa là những phẩm chất của cá nhân đều có
ý nghĩa xã hội, thông qua sự đánh giá của xã hội thì hành động đó và việc làm
đó mới mang ý nghĩa nhân cách. Vì vậy giữa phẩm chất và giá trị có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, thống nhất thành một hệ thống trọn vẹn trong các cấu
trúc nhân cách.
Cách hiểu nhân cách như vậy sẽ giúp ta xác định được đối tượng
nghiên cứu nhân cách - đó chính là nghiên cứu hệ thống những phẩm giá xã
hội của cá nhân. Trước hết, đó là nghiên cứu hệ thống bên trong cá nhân:
những yếu tố tâm - sinh lý của nhân cách. Hệ thống bên ngoài cá nhân; các
quan hệ cá nhân - cá nhân, cá nhân với nhóm, cá nhân với xã hội, trong đó
có sự đánh giá của xã hội đối với cá nhân, và cuối cùng là quan hệ cá nhân
đối với công việc. Đây không phải là công việc của riêng một ngành khoa học
nào mà đòi hỏi có sự kết hợp của nhiều ngành khoa học có liên quan: tâm lý
học, triết học, xã hội học, sinh lý học... cùng nhau nghiên cứu.
Những ý kiến của Hồ Chí Minh về tư cách đạo đức là vô cùng quan
trọng trong việc đặt nền tảng xây dựng lý luận nhân cách ở Việt Nam. Không
phải ngẫu nhiên, một con người ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam, một lãnh tụ
vĩ đại của giai cấp vô sản lại luôn luôn giáo dục cán bộ và nhân dân mình
nhiều về đạo đức cách mạng. Chính vì đạo đức là gốc vững chắc, trên cơ sở
đó mới xây dựng lâu dài nhân cách vững chắc. Bởi vì "có đạo đức cách mạng
thì gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước". "Có
đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công cũng giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác khiêm tốn, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, lo hoàn
thành nhiệm vụ cho tốt, chớ không kèn cựa về mặt hưởng thụ công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Khi nói tác dụng to lớn của
Lênin đối với Châu Á, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh về đạo đức: - Không
phải chỉ có thiên tài của Người (Lênin) mà chính là tính khinh sự xa hoa, tinh
thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị.
Đạo đức chính là đạo lý làm người của người Việt Nam. Nhờ đó mà tạo
cho dân tộc Việt Nam có một sức sống mãnh liệt và cũng nhờ thế mà ngày
nay chúng ta mới có được những trang lịch sử vô cùng oanh liệt vẻ vang.
Quan điểm tư cách và đạo đức của Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị về
mặt đạo đức học mà còn đặt nền tảng để xây dựng một khoa học nhân cách
mang sắc thái Việt Nam.
Tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh cũng là tư tưởng về đổi
mới nhân cách con người Việt Nam ngày nay.
6. Về ý chí trong nhân cách
Khi đánh giá thời kỳ phục hưng, Ăng-ghen đã ca ngợi những người
khổng lồ "Thời đại cần có và đã sản sinh những người khổng lồ về tư tưởng,
về nhiệt tình và ý chí, khổng lồ về tài năng bao la và tri thức".
Sự đánh giá của Ăng-ghen đối với những con người khổng lồ thời đại
phục hưng cũng có thể dùng cho Hồ Chí Minh, một anh hùng dân tộc lỗi lạc,
một nhà văn hóa lớn, một con người khổng lồ về tư tưởng, tài năng lẫn ý chí
của thời đại chúng ta.
Dân tộc Việt Nam đầy tài năng và ý chí đã sản sinh ra con người khổng
lồ Hồ Chí Minh về ý chí và tài năng. Một dân tộc đã viết nên những trang sử
oanh liệt trong những điều kiện vô cùng khó khăn, phải đương đầu với kẻ thù
to lớn gấp nhiều lần mình; dân tộc đó phải có ý chí sắt thép mới làm nên
được những kỳ tích như vậy. Thời đại anh hùng đã sản sinh ra con người
khổng lồ Hồ Chí Minh là con đẻ của thời đại đó. Người đã thu góp những tinh
hoa, ý chí của dân tộc, tạo nên ý chí của mình.
Vì vậy việc tìm hiểu ý chí của Hồ Chí Minh qua bài nói, bài viết và qua
cuộc đời của Người giúp chúng ta soi sáng những bài học về ý chí trong tâm
lí học.
Hồ Chí Minh con người khổng lồ về ý chí.
Trong bối cảnh của đất nước lầm than, rên xiết dưới ách nô lệ của thực
dân Pháp, người thanh niên Nguyễn Tất Thành cũng như bao nhiêu người
tiến bộ khác đã tìm đường cứu nước. Nhưng biết đi về đâu? Con đường của
cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, theo nhận thức của Nguyễn Tất Thành
không thể đem lại độc lập cho dân tộc. Việc thấy con đường sai lầm của hai
cụ Phan không chỉ là sự nhận thức của một đầu óc sáng suốt mà còn là một
bản lĩnh dám không chấp nhận đường đi của hai nhà chí sĩ, nổi danh lúc bấy
giờ. Nhưng tìm con đường nào thì Nguyễn Tất Thành chưa biết. Muốn biết thì
phải ra nước ngoài. Với hai bàn tay trắng, không người thân thuộc ở nước
ngoài, Nguyễn Tất Thành vẫn quyết tâm ra đi. Ý chí đã mách bảo cho Người
con đường đi và thành đạt sau này. Tự tay kiếm miếng ăn, manh áo ở nước
người đã khó. Làm chính trị lại khó hơn. Trong sào huyệt của chủ nghĩa thực
dân mà Người đã dám công khai lên án chúng đối xử tàn bạo với người bản
xứ. Lời phát biểu tại Đại hội Tua và tham luận về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa tại Đại hội V Quốc tế cộng sản là những văn kiện nổi tiếng trong
những hoạt động đầu tiên của Người.
Người đã dũng cảm và thẳng thắn vạch tội bọn thực dân. Người nói:
Tôi đến đây với tư cách là đảng viên đảng xã hội để phản đối bọn đế quốc đã
gây ra tội lỗi tày trời trên quê hương của tôi. Người đã lớn tiếng quát bọn đối
lập "Im đi! Phái nghị viện". Thật là con người dũng cảm chính trị. Hồ Chí Minh
là con người của ý chí chính trị khổng lồ của thời đại chúng ta.
Trong những năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, ở Thái Lan,
cũng như ở Trung Quốc, ý chí chính trị đó vẫn chiếm lĩnh tâm hồn Người.
Ngay những ngày ở trong nhà tù của Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, Hồ
Chí Minh vẫn thể hiện ý chí kiên cường, vẫn ung dung thanh thản như một
ông tiên trong tù - Người vẫn đánh cờ, vẫn làm thơ. Nhà tù đế quốc không
giam hãm được tinh thần bất khuất của Người: "Thân thể ở trong lao, tinh
thần ở ngoài lao, muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao".
Mục đích lớn, tạo nên ý chí lớn. Thoát khỏi nhà tù của Tưởng Giới
Thạch, Người về Việt Nam chuẩn bị khởi nghĩa. Ý chí của Người được thể
hiện rõ rệt trong việc thực hiện mục đích ấy. Trong những ngày đầu Cách
mạng tháng Tám, chính quyền ta còn trong trứng nước, thù trong, giặc ngoài,
như có thiên tài và ý chí của lãnh tụ tối cao mà cách mạng Việt Nan đã vượt
qua được những khó khăn, thử thách. Dù hoàn cảnh nào Người cũng bình
tĩnh sáng suốt để thực hiện mục đích cuối cùng.
“Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lùi một phân
Vật chất dù đau khổ
Không nao núng tinh thần”
Đó là ý chí: Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành
cho được độc lập", "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", "Quyết đem cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập".
Ý chí của Người không chỉ là ý chí sắt đá, mà nó còn biểu hiện sức mạnh của
lòng dũng cảm và ý chí kiên cường: "Trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ". Dù phải
chiến đấu năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa" chúng ta
cũng kiên quyết chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn.
Hồ Chí Minh là sự kết tinh ý chí quật cường của dân tộc ta và cũng là
người đem lại sinh khí cho ý chí đó. Bằng tấm gương rèn luyện ý chí của
mình, Người đã giáo dục cho nhân dân ta những bài học vô cùng quý giá.
Lịch sử Việt Nam có hai thời kỳ rực rỡ nhất là cuộc kháng chiến của
nhân dân ta chống Nguyên Mông và cuộc chiến tranh chống thực dân, đế
quốc, giải phóng dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Những chiến công hiển
hách của nhân dân ta làm cho thế giới phải kinh ngạc, vượt ra ngoài sức
tưởng tượng của loài người. Thời nào cũng vậy, những lãnh tụ lỗi lạc biết
thống nhất ý chí của dân tộc thì không sức mạnh nào có thể đè bẹp được. Ý
chí ấy là tinh hoa, là bản sắc, là truyền thống của nền văn hóa Việt Nam. Đó
là ý chí "Không có gì quý hơn độc lập tự do", "Thà hy sinh tất cả, chứ không
chịu làm nô lệ". Điều đó cắt nghĩa tại sao dân tộc ta trường tồn, dù gặp bao
thế lực ngoại xâm hùng mạnh.
Nhân cách Hồ Chí Minh là một ý chí khổng lồ. Đó là ý chí của tính độc
lập, tự chủ, tự cường, của lòng can đảm và chí kiên trì cho mục đích cao cả vì
sự nghiệp độc lập và tự do của Tổ quốc ta. Những di sản văn hóa của Người
để lại cho chúng ta cũng là bài học về ý chí không nhỏ. Chúng ta có thể vận
dụng những tư tưởng về ý chí của Hồ Chí Minh và tâm lý học.
Tư tưởng về ý chí của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh cho rằng ý chí bao giờ cũng gắn liền với một tinh thần, một
ý thức nhất định. "Muốn quyết tâm thì phải có tinh thần, phải có sáu cái yêu:
yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học
và kỹ thuật".
Con người ta có những khi hành động bột phát, không có ý thức tham
gia vào quá trình hành động của mình, phản ứng ngay lập tức trước những
tác động bên ngoài mà không có sự suy nghĩ đối chiếu với đạo đức và hoàn
cảnh. Khi gặp trạng thái căng thẳng, khi xúc động quá mạnh, khi say mê quá
độ, khi có tình huống khẩn cấp, người ta hành động thiếu suy nghĩ, thiếu ý
thức - hành động bột phát diễn ra theo nguyên tắc kích thích - phản ứng. Ai
cũng có lúc hành động bột phát, nhất là những người có khí chất nóng nảy, ít
có khả năng kiềm chế, ít đối chiếu với tiêu chuẩn đạo đức (sáu cái yêu như
Hồ Chí Minh đã dạy). Những người thiếu ý thức, thiếu tinh thần có nghĩa là
thiếu ý chí, cũng thường hành động bột phát. Vì vậy muốn cho hành động có
kết quả phải thực hiện hành động có ý chí. Có nghĩa là các hành động đó phải
có mục đích, động cơ, có biện pháp thực hiện-hành động đó phải gắn liền với
cái tinh thần, tức là ý thức mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Nhờ tinh thần đó mà con
người có ý thức với hành động của mình, dám chịu trách nhiệm đối với các
quyết định của mình. Con người phải tính toán, suy nghĩ, cân nhắc, yêu ghét
cái gì, vì cái gì mà hành động phù hợp với quy luật khách quan. Vì vậy ý chí
được sinh ra từ cái tinh thần ý thức ấy.
Ý chí là hình thức đặc biệt của tính tích cực của con người.
Người dạy: "Có chí làm thì quyết tìm được việc làm và quyết làm được
việc". Nhờ có ý chí mà con người tích cực trong hoạt động của mình, điều
khiển hành vi của mình cho phù hợp với mục đích. Có ý chí làm cho con
người chủ động, sáng tạo, không ỷ lại, ngồi chờ. Nếu có ý chí, khi tìm được
việc làm rồi thì nhất định sẽ đạt được thành công trong công việc. Ý chí mách
bảo cho mình tìm các phương pháp để thực hiện quyết định của mình.
Trong quá trình thực hiện hành động, ý chí con người gặp nhiều khó
khăn: bên trong và bên ngoài- khó khăn bên trong thuộc về khó khăn chủ
quan, như những trở ngại về mặt tâm lí, thiếu năng lực, thiếu phẩm chất đạo
đức, thiếu nhiệt tình, có những nhu cầu và hứng thú không phù hợp-khó khăn
bên ngoài là khó khăn khách quan như hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh thiên
nhiên, v.v... Trong những trường hợp khó khăn đó, Người dạy:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Trong cuộc sống có vô vàn khó khăn: chỉ có nỗ lực ý chí mới xem
thường được những khó khăn đó. Nhưng muốn nỗ lực ý chí phải tiến hành
một quá trình đấu tranh động cơ. Trong một lúc con người có nhiều nguyện
vọng, có nhiều nhu cầu khác nhau, thậm chí có thể trái ngược nhau, nhưng
chỉ có thể hành động theo một mục đích nào đó. Vì vậy, phải chọn một
nguyện vọng nhất định, một nhu cầu phù hợp. Cuộc đấu tranh động cơ diễn
ra gay gắt. Trong quá trình đấu tranh động cơ, con người phải gạt bỏ những
nhu cầu không cần thiết, hoặc không phù hợp với đạo đức xã hội, chỉ chọn
những nhu cầu nào phù hợp giữa mục đích cá nhân và xã hội. Cuộc đấu
tranh động cơ có khi đơn giản, khi quyền lợi cá nhân ít mâu thuẫn với quyền
lợi của xã hội. Nhưng cũng có cuộc đấu tranh động cơ diễn ra rất phức tạp.
Đó là cuộc đấu tranh về tư tưởng, tình cảm, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội, giữa cái đúng và cái sai, giữa cái tiên tiến và cái lạc hậu, giữa cái thiện và
cái ác, giữa cái xấu và cái đẹp, giữa cái cũ và cái mới. Nhưng cuối cùng động
cơ nào cấp thiết nhất được giữ lại, chi phối hành động con người.
Để đấu tranh động cơ thắng lợi, Người khuyên: ở thành thị tình hình
phức tạp, có nhiều sự quyến rũ làm cho con người mê muội, hủ hóa, trụy lạc.
Để tránh những cạm bẫy nguy hiểm ấy; để làm tròn nhiệm vụ cao quý của
quân đội nhân dân, toàn thể cán bộ và chiến sĩ ta phải ghi nhớ và làm đúng
những lời Bác dặn như sau: Chớ rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút thuốc phiện,
chớ xa xỉ, tham ô lãng phí... Cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta
kiên quyết chống, việc gì hay người nào phạm đến lợi ích của nhân dân,
chúng ta kiên quyết chống lại… Xóa bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư
tưởng và hành động.
Tốc độ đấu tranh động cơ phụ thuộc vào nhu cầu, tình cảm, tư duy, đạo
đức, vào các điều kiện chủ quan và khách quan. Trong cuộc đấu tranh động
cơ thường xảy ra xung đột. Xung đột giữa cái tôi thấp hèn và cái tôi cao cả.
Xung đột giữa những nhu cầu bản năng, những dục vọng, những cái mà con
người không ý thức được đầy đủ và những nguyên tắc đạo đức, những luật
lệ, những giá trị xã hội. Nếu cái tôi thấp hèn thắng thì con người hành động
không theo ý chí, hành động theo bản năng. Nếu như có sự hòa hợp giữa cái
tôi thấp hèn và cái tôi cao cả, có nghĩa là cái tôi cao cả lấn át được cái tôi
thấp hèn thì nhân cách con người trở lại bình thường, con người thực hiện
được hành động có ý chí. Nhờ có ý chí mà con người biết kìm hãm những
nhu cầu, khát vọng không chính đáng, ích kỷ, để về cái tôi chân chính. Hồ Chí
Minh dạy thanh niên muốn trở thành người thanh niên tốt phải chống tâm lý
tự tư tự lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình, chống tâm lý ham
sung sướng và tránh khó nhọc... chống lười biếng, xa xỉ, chống sinh hoạt ủy
mị, chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang".
Có chống được tâm lý ích kỷ này con người mới trở về với đạo đức
chân chính. Cuộc đấu tranh động cơ đối với người này dễ đàng, nhưng đối
với người khác thật khó khăn. Nhu cầu cá nhân mâu thuẫn với nhu cầu xã hội
càng lớn thì sự xung đột trong nội tâm càng lớn. Điều đó đúng với những
người có một nhân cách, một ý chí nhất định - những người này qua cuộc
đấu tranh động cơ sẽ chọn cho mình một hướng hành động. Nếu như một
người nhân cách kém, thiếu đạo đức thì họ sẽ không có cuộc đấu tranh động
cơ. Họ sẽ không có cuộc xung đột nội tâm, nhắm mắt chọn bừa con đường đi
theo nhu cầu của cá nhân mình mà không tính đến lợi ích của người khác.
Đối với những người này, ý chí không xuất hiện.
Tóm lại, tư tưởng ý chí của Hồ Chí Minh là tinh thần ý thức của con
người, là hình thức của tính tích cực cá nhân, trong đó con người nỗ lực khắc
phục những khó khăn trở ngại trong quá trình đấu tranh động cơ, thực hiện
mục đích đã đặt ra. Ý chí Hồ Chí Minh là ý chí chính trị, phục vụ cho mục đích
chính trị - giải phóng dân tộc khỏi sự áp bức của thực dân đế quốc, đem lại
ấm no và hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng một xã hội công bằng văn minh.
Con đường rèn luyện ý chí.
Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh là một di sản vô tận về những
bài học ý chí.
Bài học lớn đầu tiên là bài học về tự rèn luyện ý chí. Con đường phát
triển của Hồ Chí Minh không dễ dàng, thuận lợi mà trải qua bao gian nan thử
thách, lên thác, xuống ghềnh. Nhờ tự mình rèn luyện, tự giáo dục mà vượt
qua tất cả. Từ trong cuộc đời thực, Người rút ra bài học:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng như bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công”
Tự rèn luyện là sự cố gắng, quyết tâm một cách tự giác và độc lập theo
nhận thức của mình để tự mình hình thành và hoàn thiện nhân cách của
mình. Con người phải tự mình tìm con đường đi của chính mình, tự tìm lấy
phương pháp hay nhất, tối ưu để thực hiện mục đích của mình. Quá trình này
đòi hỏi con người phải có nghị lực khắc phục những thói hư, tật xấu, những
phẩm chất tâm lý không phù hợp với nhiệm vụ của xã hội. Tự rèn luyện, tự
giáo dục là quá trình tự hoàn thiện bản thân mình một cách tốt nhất. Việc tự
rèn luyện ý chí không phải là dễ. Bản thân phải hiểu mình và thường xuyên
kiểm tra những hành động của mình và những kết quả thực hiện hành động
đó, hài hòa giữa mục đích cá nhân và mục đích xã hội.
Nhờ tự rèn luyện ý chí mà Hồ Chí Minh đã vượt lên trên tầm nhìn của
nhiều người làm cách mạng lúc bấy giờ và cuối cùng đã thực hiện được lý
tưởng của mình. Không có ý chí hòa nhập vào phong trào chính trị ở Châu
Âu, ở Liên Xô, ở Trung Hoa, cũng như các phong trào chính trị trong nước thì
cũng không có tầm nhìn cao của Hồ Chí Minh. Ý chí tạo cho Người một nhãn
quan chính trị sáng suốt. Vì vậy trong quá trình hoạt động cách mạng, nhiều
vấn đề tưởng như rất phức tạp, tưởng chừng không gỡ nổi, nhưng nhờ ý chí
chính trị sáng suốt. Người tìm ra hướng đi và cách giải quyết có hiệu quả.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, các vĩ nhân đều là tấm gương
tự rèn luyện ý chí: Mác, Lênin, Hồ Chí Minh, Nguyễn Trãi, Khổng Tử... Chính
L. Tônstôi, đại văn hào Nga, đã từng nói: Thiên tài chỉ một phần trăm, chín
mươi chín phần trăm là do rèn luyện.
Trong quá trình tự rèn luyện ý chí, Hồ Chí Minh đã tự khẳng định vị trí
của mình và đã giành được đỉnh cao vinh quang của vị trí ấy.
Bài học thứ hai về rèn luyện ý chí là phải gắn liền giữa mục đích, biện
pháp và hành động thiết thực.
Người dạy: "Phương hướng một, quyết tâm mười, biện pháp thực hiện
ba mươi". Ý chí của Hồ Chí Minh nêu ra không phải là ý chí luận. Ý chí đó
gắn liền với thực tiễn. Phải căn cứ vào kết quả việc làm của con người để
đánh giá ý chí của họ. Người dạy: Nếu đảng viên tư tưởng và hành động
không nhất trí thì khác nào một mớ cát rời "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược".
Việc rèn luyện ý chí phải tiến hành thường xuyên hàng ngày, phải bền bỉ và
kiên trì, phải thể hiện từ việc nhỏ đến việc lớn, phải cụ thể và thiết thực.
Người nêu ra biện pháp: "Cán bộ lãnh đạo cần phải chống bệnh quan liêu,
chống cách lãnh đạo chung chung. Cần phải đi sâu, đi sát điều tra nghiên
cứu, cần phải khuyến khích, thu góp, bổ sung và phổ biến rộng rãi những
sáng kiến hay, những kinh nghiệm tốt của quần chúng. Cần phải lãnh đạo
toàn diện và cụ thể. Rèn luyện ý chí cũng là cuộc cách mạng trong mỗi con
người, vì nó đặt mục đích ý chí là mục đích của toàn xã hội, và việc thực hiện
ý chí bằng hành động cụ thể là góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội. Muốn
làm cách mạng trong ý chí - kiên quyết xóa bỏ cái cũ lạc hậu, thật sự đổi mới
thì trước hết phải "cách mạng trong từng người, trong từng gia đình" như Hồ
Chí Minh đã dạy.
Bài học thứ ba, việc rèn luyện ý chí phải gắn liền với rèn luyện những
phẩm chất đạo đức cách mạng: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Quá trình rèn
luyện đạo đức cách mạng đòi hỏi con người phải có ý chí, phải rèn luyện các
phẩm chất ý chí: tính độc lập, tính tự chủ, tính mục đích, tính kiên trì, tính
dũng cảm.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ, bộ đội, thanh niên, phụ nữ,
các cháu thiếu niên, nhi đồng rèn luyện những phẩm chất này. Có thể nói, Hồ
Chí Minh dung rất nhiều từ chỉ phẩm chất ý chí như: dũng cảm, kiên trì, độc
lập, tự chủ từ những bài viết đầu tiên của Người trong những năm 1921 -
1926 đến bản Di chúc cuối cùng của cuộc đời Người để lại cho muôn thế hệ
sau.
Người có đạo đức cách mạng là người có phẩm chất độc lập ý chí. Họ
không làm theo người khác một cách mù quáng.
Mọi hành động của mình phải được sự soi sáng của ý thức và niềm tin
vào lẽ phải, vào chính nghĩa. Nhưng khi đã thực hiện sự phân tích đúng sai,
để có thể tự chủ theo quyết định của mình thì phải kiên trì thực hiện đến cùng.
Với nục đích cao cả, vì sự nghiệp của Tổ quốc và nhân dân thì cá nhân cũng
có thể hy sinh bản thân mình cho sự nghiệp chung. Đạo đức cách mạng tạo
môi trường cho việc rèn luyện ý chí; nó là động cơ mạnh mẽ tạo nên ý chí lớn
lao. Ngược lại ý chí tạo sức mạnh, tạo tính thực tiễn cho bộ mặt đạo đức cách
mạng của con người. Vì vậy muốn rèn luyện đạo đức cách mạng phải rèn
luyện ý chí cách mạng.
Ngày nay chúng ta ôn lại những bài học về ý chí của Hồ Chí Minh là
nhắc nhở chúng ta kế thừa một di sản văn hóa của nhân loại - Hồ Chí Minh -
con người khổng lồ về tư tưởng - đạo đức - ý chí - tài năng của thời đại chúng
ta.
Chương 5. KHÁI NIỆM NHÂN CÁCH, CẤU TRÚC NHÂN CÁCH VÀ MỘT SỐ THUỘC TÍNH NHÂN CÁCH
I. KHÁI NIỆM NHÂN CÁCH
Ngày nay vấn đề nhân cách được nhiều khoa học quan tâm nghiên
cứu. Trong quá trình phát triển của các khoa học, đặc biệt là các khoa học xã
hội đòi hỏi phải nghiên cứu nhân cách.Trong xã hội mọi người có quan hệ lẫn
nhau, con người là trung tâm của các mối quan hệ. Vì vậy, con người phải
được thể hiện như là một nhân cách. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa
Việt Nam phải gắn liền với việc xây dựng nhân cách phát triển hài hòa. Đó là
đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp xây dựng con người đạo đức - trí tuệ trong
điều kiện đổi mới hiện nay. "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa".
Nghiên cứu nhân cách sẽ tạo điều kiện ảnh hưởng tới các khoa học có
liên quan đến con người: Triết học, xã hội học, đạo đức học, kinh tế chính trị
học, luật học, y học, giáo dục học, tâm lí học... Vì vậy nhân cách cũng là đối
tượng nghiên cứu của các khoa học đó. Ví dụ trong quản lí kinh tế người ta
chú ý đến nhân cách con người trong điều khiển kỹ thuật, điều khiển lao
động, tập thể và người lãnh đạo tập thể lao động, không khí tâm lý trong tập
thể. Sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ có kết quả chỉ khi nào hiểu qui luật phát
triển của nhân cách của nó.
Chính do tầm quan trọng về mặt lí luận và thực tiễn của vấn đề nhân
cách đòi hỏi chúng ta phải góp phần xây dựng khái niệm nhân cách và đặc
biệt là nhân cách con người mới Việt Nam phát triển hài hòa.
Trước hết đề cập tới vấn đề thuật ngữ nhân cách. Cuối thế kỷ 19 ở
phương Tây đã xuất hiện khuynh hướng nghiên cứu đời sống tâm lí con
người một cách trọn vẹn. W. Stern đã viết tác phẩm "Bàn về tâm lý học khác
biệt cá nhân" trong đó ông đưa ra khái niệm "person" để chỉ bất kỳ một thực
thể nào có khả năng tự xác định và tự phát triển trong thế giới vô cơ lẫn thế
giới hữu cơ. Theo ông toàn bộ thế giới là một cơ chế có thứ bậc của các
person có thuộc tính "nhân cách".
Trong từ điển Nga - Việt từ Litrnoxt có nghĩa là:
1 - Nhân cách, nhân phẩm, cá tính, con người, nhân vật.
2 - Cá nhân.
Trong từ điển tiếng Việt, từ nhân cách được hiểu là những phẩm chất
của con người. Như vậy, về nội dung của thuật ngữ được sử dụng với tư
cách là nhân cách không có sự thống nhất với nhau. Làm rõ khái niệm này sẽ
góp phần xây dụng mô hình nhân cách con người mới phát triển hài hòa.
Hiện nay về mặt tâm lí học người ta chú ý đến việc giải quyết hệ thống
các vấn đề sau đây về nhân cách: bản chất nhân cách, cấu trúc nhân cách,
các yếu tố hình thành nhân cách, các cơ chế hình thành nhân cách, các
phương pháp nghiên cứu nhân cách, vị trí của tâm lý học nhân cách trong hệ
thống các khoa học khác.
Ở đây tôi chỉ đề cập tới vấn đề khái niệm nhân cách hay bản chất nhân
cách. Trước hết điểm qua một số quan điểm về nhân cách.
1) Quan điểm cho bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật hay nói
cách khác là sinh vật hóa bản chất nhân cách. Nhân cách được coi là bản
năng tình dục (S. Freud), là đặc điểm của hình thể (Krestchmer), siêu đẳng,
bù trừ (A.Adler), vô thức tập thể (Kaal Jung), là các kiểu hoạt động thần kinh
cấp cao của người (một số nhà tâm lí học quá sùng bái học thuyết Pavlov).
Thực chất của các quan điểm trên dù hình thức biểu hiện ở mỗi người có
khác nhau nhưng đều sinh vật hóa bản chất nhân cách, đều mang quan điểm
duy tâm siêu hình.
2) Bản chất nhân cách là nhân tính con người (trường phái nhân văn và
đại diện là: C.Rogers, R.May, A.Maslow, G. Allport, Cư. Buhlerova, J.
Bugental, A. Sutich, C Moustakas...). Những người ở trường phái này đều
quan tâm đến giá trị tiềm năng bẩm sinh của con người, đến những đặc tính
riêng của mỗi người, những kinh nghiệm của con người. A. Masloerv cho
rằng tính xã hội nằm trong bản năng con người. Những nhu cầu như giao
tiếp, tình yêu, lòng kính trọng đều có tính chất bản năng, đặc trưng cho giống
người. Nhân cách là động cơ tự động điều hành (G. Allport), là nhu cầu (A.
Murray), là tương tác xã hội (G.H Merd), là lo lắng (K. Horrej). Những quan
điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh vật của con người, phủ nhận bản
chất xã hội của nhân cách, do đó cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
3) Nhân cách được hiểu như là toàn bộ mối quan hệ xã hội của cá
nhân (Lucien Seve, Zeigarnite, Ogorodnikov). Trong thực tế của đời sống một
số người lấy quan hệ xã hội của cá nhân (gia đình, nhà trường, cơ quan công
tác, nghề nghiệp, bạn bè) làm chuẩn để đánh giá nhân cách. Về thực chất
của quan điểm này là xã hội hóa nhân cách một cách giản đơn.
4) Nhân cách được hiểu đồng nghĩa với khái niệm con người
K.K.Platonov cho rằng nhân cách là con người có ý thức, nhân cách là con
người có lý trí, có ngôn ngữ, lao động (Từ điển giáo dục, Đại bách khoa toàn
thư Liên Xô). Loại quan điểm này nói về cái chung, cái đặc trưng nhất của con
người mà không chú ý đến cái đặc thù cái riêng của nhân cách.
5) Nhân cách được hiểu như cá nhân con người với tư cách là chủ thể
của mối quan hệ và hoạt động có ý thức. (A. G. Kovalev, I. X. Kon, Từ điển
tâm lí học Liên Xô). Hiện nay quan điểm này được đa số các nhà tâm lí học
xã hội chấp nhận coi nhân cách là cá nhân, là cá thể so với tập thể, nhân xã
hội.
6) Nhân cách được hiểu như là các thuộc tính nào đó tạo nên bản chất
nhân cách như các thuộc tính ổn định, các thuộc tính sinh vật hoặc thuộc tính
xã hội. P. Bueva cho rằng nhân cách là con người với toàn bộ những phẩm
chất xã hội của nó. Nhân cách là toàn bộ những đặc tính và những qui luật cá
nhân (H. Hipso và M. Phorvec), là tổng số những đặc điểm cá nhân con
người mà không người nào có (E. P. Hollander).
Là tâm thế (D.N.Uznadze), là thái độ (V.N. Miaxisev), là phương thức
tồn tại của con người trong xã hội, trong điều kiện lịch sử cụ thể (L.I.
Anxưpherova). Những quan điểm này chỉ chú ý đến các điểm chung nhất của
nhân cách, hoặc chỉ chú ý đến các đơn nhất trong nhân cách. Đó cũng chưa
thể hiện tính chất toàn diện trong định nghĩa nhân cách.
7) Nhân cách được hiểu như cấu trúc hệ thống tâm lí của cá nhân.
Trong hàng chục năm lại đây nhiều nhà tâm lí học đều có xu hướng hiểu
nhân cách như là cấu trúc, hệ thống tâm lí. (A.N.Leonchiev, K. Obuchowxki).
Nhân cách là cấu tạo tâm lí mới được hình thành trong mối quan hệ sống của
cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó (A.N.Leonchiev), với
quan niệm bản chất nhân cách là một hệ thống tổ chức. K. Obuchowxki định
nghĩa nhân cách như sau: "Nhân cách là sự tổ chức những thuộc tính tâm lí
của con người có tính chất điều kiện lịch sử xã hội, ý nghĩa của nó cho phép
giải thích và dự đoán hành độ cơ bản của con người". Mặc dù có những điểm
khác nhau về cấu trúc nhân cách (thành phần cấu trúc, sự phối hợp, các
thành phần đó, thứ bậc của thành phần, v.v…) nhưng nói chung có nhược
điểm là quy nhân cách về tâm lý học, là biểu hiện "thứ chủ nghĩa duy vật y
học" trong quan niệm nhân cách mà Lucien Seve đã phê phán.
Từ bảy quan niệm nhân cách trên chúng ta thấy rằng cho đến nay vẫn
chưa có một trường phái nào giải quyết một cách thỏa đáng toàn diện vấn đề
bản chất nhân cách ngay cả Liên Xô. Tình hình đó cũng thể hiện rất rõ ở Việt
Nam.
Ở Việt Nam tuy rằng chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách
chính thống, song cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo
các mặt sau đây:
1. Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và
năng lực, hoặc là con người có các phẩm chất: đức, trí, thể, mỹ, lao (lao
động).
2. Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con
người.
3. Nhân cách được hiểu như các phẩm chất của con người mới: làm
chủ, yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
4. Nhân cách được hiểu như một đạo đức, giá trị làm người của con
người.
Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con người
(ít nói đến cá nhân). Những phẩm chất nhân cách đó là những phẩm chất đòi
hỏi ở mỗi người phải có. Như vậy, để có một khái niệm nhân cách toàn diện
cần phải xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác về bản chất xã hội
của con người "Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, hay "bản
chất nhân cách là "tính xã hội của nó", và những ý kiến của Lênin "nghiên cứu
những nhân cách có thực" tạo ra trong mối quan hệ giữa những con người
với nhau trong hoạt động của mình".
Ở Việt Nam ngoài việc căn cứ vào những quan điểm rất cơ bản của
Mac và Lênin cần căn cứ vào những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
"Đạo đức cách mạng", về "tư cách" con người và những văn kiện của Đảng ta
về con người mới "làm chủ", "lao động", "tình thương", "lẽ phải" và quan niệm
truyền thống của Việt Nam: "Chết trong còn hơn sống đục", (lẽ sống của con
người), "Hổ chết để da, người ta chết để tiếng", "Trăm năm bia đá thì mòn,
nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ" (Nhân cách được cách thể hóa trong ý
nghĩ và tình cảm của người khác và của cộng đồng); "Con dại cái mang"
(quan hệ của thế hệ hiện tại với tương lai), "ăn quả nhớ người trồng cây"
(quan hệ nhân cách hiện tại đối với quá khứ, thế hệ trước).
Muốn tìm hiểu khái niệm nhân cách, trước hết về mặt logic cần làm rõ
khái niệm con người. Bởi vì không thể đồng nhất khái niệm con người với
khái niệm nhân cách.
Về con người K. Marx viết "Con người là tồn tại tự nhiên trực tiếp. Với
tư cách của tồn tại tự nhiên, sau đó là tồn tại tự nhiên sống, về mặt nào con
người được phú cho sức mạnh tự nhiên, sức mạnh sống là tồn tại tự nhiên
hoạt động, những sức mạnh này tồn tại dưới dạng năng khiếu và năng lực,
dưới dạng mong muốn".
Phát triển tư tưởng này của K.Marx. V.I.Lênin viết: "… Khái niệm (= con
người) là nguyện vọng thực hiện mình, thông qua bản thân làm cho mình tự
khách thể hóa trong thế giới khách thể và thực hiện cho mình".
Như vậy, cả K.Marx và V.I Lênin đều coi con người là một tồn tại tự
nhiên, có tính chất thể chất, một tồn tại sống hiện thực, có tư duy và có ngôn
ngữ. Con người là một tồn tại giống loài, nhưng ở mức độ cao nhất của sự
phát triển giống loài. Con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã
hội - Tính chất xã hội là cơ bản của con người. Cuộc sống xã hội và lao động
làm xuất hiện ý thức con người. Như vậy điều kiện bản chất của loài người là
lao động, tư duy, ngôn ngữ. Điều này chỉ có được trong quá trình phát triển
của lịch sử xã hội loài người. Trên cơ sở chung của các đặc điểm năng lực
giống loài, nhu cầu những động cơ, hứng thú được hình thành phụ thuộc vào
điều kiện xã hội cụ thể của cuộc sống cá nhân. Như vậy, tồn tại con người với
tư cách là năng lực tự nhiên là tiềm năng cho việc phát triển cá nhân và nhân
cách. Điều kiện của việc chuyển tiềm năng bản chất giống loài người thành
thuộc tính hiện tại của nhân cách là một quá trình (nắm vững). Trước mắt thế
hệ mới đã được bày ra sẵn sàng của một nền khoa học, văn hóa, kinh
nghiệm sản xuất và những quan hệ xã hội. Nói như K. Marx đó là "tính hiện
thực con người". Mỗi nhân cách xuất phát từ mức độ của "tính hiện thực con
người" này mà xác định mức độ nhu cầu, nguyện vọng, thể hiện sự phát triển
của mình. Mỗi cá nhân biến tiềm năng giống loài, tiềm năng của mối quan hệ
xã hội thành nhân cách thông qua hoạt động, học tập, giáo dục trong điều
kiện lịch sử cụ thể của đời sống cá nhân. Vì vậy, khái niệm nhân cách khác
với khái niệm con người. Song cũng không nên quá cường điệu về sự khác
nhau giữa chúng. Khái niệm con người và khái niệm nhân cách đều mang
tính chất xã hội, song chỉ khác nhau về mức độ xã hội mà thôi.
Để hiểu khái niệm nhân cách cần tìm hiểu những tư tưởng của Hồ Chí
Minh về "Đạo đức cách mạng" và những văn kiện của Đảng ta về con người
mới. Nhân cách của người Việt Nam được phát triển ở một mức độ cao của
một giai đoạn lịch sử không thể tách rời sự rèn luyện và giáo dục của Hồ Chí
Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là những gợi ý rất cần thiết để thiết lập
một quan niệm về nhân cách phù hợp với người Việt Nam.
Trong quá trình giáo dục và rèn luyện cán bộ cách mạng và giáo dục
nhân dân Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói đến "đạo đức cách mạng" và đạo
đức đó được áp dụng vào từng cá nhân cụ thể, từng cương vị cụ thể được
coi là tư cách. Trong cuốn "Đường Kách mệnh", viết từ năm 1925 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề cập tới tư cách người cách mạng. Sau này Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn nêu ra tư cách người đảng viên, tư cách người công an vũ trang.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có đạo đức cách mạng, phải
có tư cách, có nghĩa là nhân cách. Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có
nhân cách, trong đó bao gồm thành phần các thuộc tính bên trong cá nhân
như cách nói của Người "Đối với tự mình". Thành phần thứ hai bao gồm mối
quan hệ của cá nhân đối với người khác, đối với tập thể, đối với xã hội, như
cách nói của Bác Hồ "Đối với người". Thành phần thứ ba là mối quan hệ của
cá nhân với công việc. Thành phần này thể hiện hiệu quả tác động của nhân
cách đối với thế giới bên ngoài. Cả thành phần thứ hai và thứ ba tồn tại bên
ngoài cá nhân. Đó là mặt quan hệ xã hội của cá nhân. Tư tưởng này thể hiện
rất rõ trong cuốn "Đường Kách mệnh" và những lời huấn thị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đối với cán bộ, đảng viên, công an. Hồ Chí Minh yêu cầu "đối với tự
mình" tức là những phẩm chất bên trong cá nhân là phải có tri thức: luôn luôn
nhận xét, nghiên cứu, học hỏi, có tình cảm cách mạng, vì tập thể, có ý chí
cách mạng: cả quyết, nhẫn nại, phải có nhu cầu phù hợp; ít lòng ham muốn
vật chất, phải có lập trường: giữ chủ nghĩa cho vững, phải có lí tưởng vì lí
tưởng mà hi sinh; phải có những nét tính cách tốt đẹp: cẩn thận, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, không hiếu danh, kiêu ngạo. Về mặt tâm lí học,
những phẩm chất mà Bác Hồ nêu ra có thể ở thành phần đầu tiên có thể coi
như những quá trình tâm lí: nhận thức, tình cảm, ý chí và những thuộc tính
của nhân cách như: tính cách, xu hướng... Thành phần hệ thống thứ hai trong
đạo đức và tư cách, với tư cách nhân cách là "đối với người" (cá nhân quan
hệ với cá nhân khác, với tập thể bên ngoài là phải đem lòng chí công vô tư
đối với người, các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sung
sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước. Đặc biệt đối với
từng người cần phải khoan thứ, giúp đỡ, trung thực; đối với đoàn thể thì phải
nghiêm (chấp hành nghiêm chỉnh những nghị quyết của đoàn thể); đối với
Đảng và Chính phủ phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân phải kính
trọng lễ phép.
Thành phần hệ thống thứ ba thể hiện trong mối quan hệ của cá nhân
đối với công việc; ham làm những công việc ích quốc lợi dân (động cơ hoạt
động vì xã hội), phải có năng lực để thực hiện nhiệm vụ đó; phải có ý chí
quyết tâm để thực hiện: khó mấy cũng phải làm; phải có những nét tính cách
cần thiết; tận tụy, siêng năng. Ba thành phần của cấu trúc hệ thống nhân cách
trên có quan hệ chặt chẽ tạo thành một chỉnh thể nhân cách trọn vẹn. Đó
chính là phẩm chất con người trong cải cách giáo dục của Bộ chính trị Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu là con người làm chủ, mà trước đây
Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến. Nhân cách được hiểu tới tư cách chủ thể
của mối quan hệ xã hội và hoạt động và là người làm chủ tự nhiên, xã hội và
làm chủ bản thân. Quan niệm này thể hiện được cơ chế của việc hình thành
nhân cách. Con người muốn trở thành nhân cách phải biến những năng lực
tiềm năng thành những năng lực hiện thực thông qua cơ chế làm chủ. Đó
chính là quá trình tổ chức những điều kiện lịch sử xã hội của các thuộc tính
tâm lý của con người để giải thích và cải tạo hiện thực, để có thể làm chủ
được các mối quan hệ hiện thực. Nhờ có hoạt động sáng tạo, nắm vững
những kinh nghiệm của xã hội loài người, tham gia vào các hoạt động sống
của xã hội, mà những phẩm chất làm chủ của con người được hình thành. Đó
cũng chính là quá trình hình thành nhân cách. Nhân cách được phát triển đó
là kết quả của quá trình bản thân vươn tới làm chủ.
Trước hết là quá trình tự chủ bản thân. Muốn tự chủ bản thân trước hết
phải coi bản thân là đối tượng của nhận thức của mình, ngay cả của tình cảm
và hành động của mình. Tự bản thân khám phá ra mình, điều chỉnh nhận
thức, tình cảm, hành động của mình. Đồng thời bản thân phải tự kiểm tra
mình cho phù hợp với tiêu chuẩn xã hội. Muốn làm chủ bản thân phải có năng
lực làm chủ: năng lực về thể chất và năng lực về tinh thần. Có thể chất tốt là
tiền đề tự nhiên cho làm chủ bản thân. Năng lực chung và trí tuệ, năng lực
chuyên môn là kết quả vừa là quá trình làm chủ. Người làm chủ là người phải
kết hợp hài hòa giữa những phẩm chất của con người mới "lao động, tình
thương, lẽ phải". Đó cũng là quá trình tự giáo dục của bản thân.
Thứ đến là tự chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Muốn tự chủ xã hội, tự
nhiên con người phải có ý thức xã hội, có động cơ và mục đích xã hội mà
phấn đấu. Có thái độ sẵn sàng tham gia vào các hoạt động xã hội, nhằm cải
tạo xã hội, cải tạo tự nhiên. Muốn tự chủ xã hội, thiên nhiên phải có những
phẩm chất và năng lực để tự chủ. Phải có tri thức khoa học, sang tạo, có
năng lực điều khiển quản lí xã hội, phải có khả năng hành động để thực hiện
quyền tự chủ đó. Trong mối quan hệ xã hội còn phải tính đến mối quan hệ
của môi trường vi mô cũng như vĩ mô "gia đình, bạn bè, hàng xóm, láng
giềng, nhóm bạn, tập thể, nhà trường, cơ quan, đến mối quan hệ Tổ quốc và
quốc tế. Trong các mối quan hệ đó không chỉ có hiện tại mà có cả với quá
khứ và tương lai. Tục ngữ "uống nước nhớ nguồn" là nhằm nói lên mối quan
hệ hiện tại và quá khứ, "Con dại cái mang" là nói lên mối quan hệ trách nhiệm
của hiện tại với tương lai. Hồ Chí Minh nói " vì hạnh phúc trăm năm phải trồng
người" là nói lên việc giáo dục hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ ngày nay
là vô cùng quan trọng trong việc xây dựng xã hội tốt đẹp mai sau.
Như vậy tuy nhân cách con người có tính chất xã hội-lịch sử cụ thể
song nhân cách con người không chỉ được con người ở giai đoạn lịch sử hiện
tại đánh giá mà còn được thế hệ sau nhận xét đánh giá. Những nhân vật đã
có công thúc đẩy lịch sử phát triển được thế hệ sau truyền mãi và đi vào lịch
sử như bài ca bất hủ. Như vậy, để phát triển nhân cách ngoài nhiệm vụ nhận
thức tiếp thu kinh nghiệm quá khứ thực hiện đặt ra của hiện tại, còn thực hiện
những nhiệm vụ của tương lai. Điều đó cũng gợi cho ta thấy rằng nhân cách
không chỉ có ở không gian trong bản thân con người cụ thể, hay trong mối
quan hệ của cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể xã hội, với tư cách là
chủ thể của mối quan hệ và hoạt động, mà còn ở sự đánh giá của cá nhân
khác, của xã hội, với tư cách là khách thể của mối quan hệ. Nhân cách về
mặt nào đó là giá trị xã hội chung không chỉ tồn tại trong cá nhân mà tồn tại
ngoài cá nhân, trong ý nghĩ và tình cảm của người khác, của xã hội. Vì vậy,
nhân cách con người không chỉ tồn tại ở hiện tại, mà khi họ chết đi nhân cách
vẫn còn. "Trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ".
Từ những luận điểm của Marx, Lênin, tư tưởng "đạo đức cách mạng",
"tư cách con người" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm "làm chủ" của
Đảng ta về con người mới và những quan niệm truyền thống của người Việt
Nam chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng một quan niệm nhân cách phù hợp
hiện nay.
Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện
những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân
với cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ
của cá nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Định nghĩa này vạch ra được những nét bản chất mà Marx và Lênin đã
nêu: bản chất xã hội của nhân cách, mối quan hệ của cá nhân và xã hội, đồng
thời nêu được tính chất cấu trúc hệ thống của nhân cách và cơ chế của phát
triển nhân cách với tư cách là tự chủ trong tự nhiên, tự chủ trong xã hội và tự
chủ trong bản thân mình.
Nhân cách không chỉ là hệ thống những phẩm chất xã hội của cá nhân
mà còn bao hàm những giá trị đạo đức của cá nhân có được sự đánh giá của
xã hội, của cá nhân khác của thế hệ hiện tại và thế hệ mai sau. Điều này thể
hiện quan điểm "đạo đức cách mạng", "tư cách của mỗi người" khi đánh giá
một con người mà Hồ Chí Minh đã nêu.
Định nghĩa này cho ta hình đung được hệ thống cấu trúc của việc phát
triển nhân cách hài hòa và toàn diện của cá nhân con người. Muốn phát triển
nhân cách cá nhân phải phát triển những phẩm chất thể chất và tâm lí - xã hội
của cá nhân, những mối quan hệ của cá nhân với thế giới xung quanh, với xã
hội, với nhiệm vụ của cá nhân. Năng lực chung và năng lực chuyên môn của
cá nhân được hình thành trên cơ sở những nhiệm vụ này. Nhân cách với tư
cách là cái chuẩn đánh giá của xã hội đối với con người song nó gắn chặt với
con người cụ thể như là những phẩm chất xã hội của cá nhân. Vì vậy, có sự
phân biệt khái niệm nhân cách, cá nhân, con người qua định nghĩa này, tránh
được sinh vật hóa, tâm lí hóa, xã hội hóa nhân cách như nhiều định nghĩa đã
thấy ở trên. Vì vậy, định nghĩa trên có thể sử dụng chung cho các khoa học
xã hội trong đó có tâm lí học.
II. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH
Trong tâm lý học, khi nói đến nhân cách người ta thường đề cập tới cấu
trúc nhân cách. Đặc biệt trong nhân cách người ta hay nói nhiều đến quan
điểm cấu trúc và quan điểm hệ thống.
Hiểu được cấu trúc nhân cách, hệ thống nhân cách, sẽ tạo điều kiện
hiểu được bản chất của nhân cách. Đó cũng là quá trình phát triển những
quan niệm nhân cách từ cấu trúc nhân cách, cấu trúc hệ thống đến hệ thống
nhân cách.
Trước hết nói về cấu trúc nhân cách. Cấu trúc nhân cách là sự sắp xếp
các tính chất, thành phần của nhân cách thành một chỉnh thể trọn vẹn tương
đối ổn định trong mối liên hệ và quan hệ nhất định. Những người nghiên cứu
nhân cách theo hướng này cho rằng người ta sẽ không hiểu đúng một hiện
tượng tâm lý, như quá trình, trạng thái, thuộc tính tâm lí của nhân cách biểu
hiện trong hoạt động và hành vi của họ, nếu như không tính đến sự quy định
của nhân cách, xét trong toàn bộ đối với những hiện tượng ấy. Vì vậy nghiên
cứu những khía cạnh những tính chất riêng lẻ nào đó của nhân cách phải có
một biểu tượng về cấu trúc nhân cách.
Đề cập vấn đề cấu trúc nhân cách không thể quên được học thuyết
phân tâm học của S.Freud về nhân cách. Theo ông con người được tạo bởi
ba khối: vô thức, tiền ý thức, ý thức. Khối vô thức là khối bản năng, trong đó
bản năng tình dục giữ vị trung tâm. Nguồn năng lượng libido chi phối toàn bộ
hoạt động đời sống tâm thần. Khối thứ hai giữ vai trò quá độ từ khối thứ nhất
tới khối thứ ba. Khối thứ ba là ý thức bao gồm những cái mà con người biết
được một cách công khai, rõ ràng. Nó gồm những thể chế chuẩn mực xã hội,
đòi hỏi con người phải tuân theo, phải thực hiện. Tương ứng với ba khối này
cấu trúc nhân cách có ba phần:
- Nó (trung tính): Freud gọi là Id
- Tôi: Freud gọi là Ego
- Siêu tôi: Freud gọi là SuperEgo.
Id là cái thùng chứa năng lượng tâm thần, là cái chảo sục sôi những
khát vọng, bản năng, hoạt động theo nguyên tắc khoái cảm, nghĩa là yêu cầu
được thỏa mãn ngay tức khắc những khát vọng, bản năng. Ego được hình
thành do áp lực của thực tại bên ngoài tới toàn bộ khối bản năng và ham mê.
Ego tuân theo nguyên tắc của nhu cầu thực tại. Con người phải dùng một
năng lượng đáng kể để kiềm chế và kiểm soát những phi lí của Id.
SuperEgo được hình thành do kết quả nhập tâm của những lời dạy bảo
của gia đình, những ảnh hưởng của nền giáo dục, của nền văn hóa. Siêu tôi
hoạt động theo nguyên tắc phê phán và nguyên tắc kiểm duyệt. Cả ba khối
này nếu được chuẩn mực phải ở trạng thái thăng bằng tương đối. Lúc ấy
nhân cách phát triển bình thường. Nhưng cả ba khối này luôn luôn xung đột
và mâu thuẫn với nhau. Sự xung đột này chính là cơ chế hoạt động tinh thần
con người. Từ đó, ông nêu ra cơ chế hoạt động tâm lý con người. Các cơ chế
đó là:
1- Cơ chế kiểm duyệt chèn ép;
2- Cơ chế biến dạng;
3- Cơ chế bốc hơi (siêu thăng);
4- Cơ chế suy thoái (siêu giáng).
Về tâm lí học. Freud đã nêu ra các thành phần vô thức, tiền ý thức, ý
thức và những mặt của đời sống tâm hồn của con người. Tâm lý học mác xít
không coi nhẹ vô thức, nó chiếm một vị trí nhất định trong đời sống tâm thần
con người, trong cấu trúc nhân cách. Tuy nhiên, phân tâm học đã đối lập
hoàn toàn với các nguyên tắc của tâm lý học mác xít. Nó tách rời điều kiện xã
hội với việc hình thành nhân cách. S.Freud đã tuyệt đối hóa bản năng tình
dục của con người, coi sự thỏa mãn tình dục là động lực của hoạt động, động
lực của nhân cách. Cách sắp xếp các thành phần của nhân cách như vậy và
đặc biệt coi trọng thành phần vô thức, coi thành phần này là quyết định trong
đời sống tâm hồn con người là không phù hợp thực tế những hiểu thông
thường của chúng ta.
Cấu trúc nhân cách còn được thể hiện trong lý luận hai thành phần
trong sự phát triển tâm lý. Trong cấu trúc nhân cách hai thành phần này bao
gồm hai cấu trúc nhỏ; nội tâm lý và ngoại tâm lý. Những yếu tố sinh vật là cơ
chế nội tâm lý. Cơ chế bên trong của các thành phần tâm lý bao gồm: các quá
trình, các chức năng và trạng thái. Đây là cái khung bên trong của cấu trúc
nhân cách. Tất cả các quan hệ bên ngoài của nhân cách, tất cả các hình thức
của mối quan hệ này tác động với thế giới bên ngoài, với hoàn cảnh xã hội
thuộc ngoài tâm lý. Tiểu cấu trúc này có tất cả nội dung xã hội của nhân cách,
nếu như nội dung tâm lí mang những đặc điểm của các quá trình tâm lí như tri
giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng thì trong thành phần của ngoại tâm lí bao
gồm tình cảm, lý tưởng, năng lực, hứng thú, khuynh hướng. Đây là quan
điểm siêu hình về nhân cách. Sự thật, việc phân chia hai thành phần sinh vật
và xã hội trong cấu trúc nhân cách song song tồn tại là không hợp lý, bởi vì
ngay cả yếu tố sinh vật của con người cũng mang tính chất xã hội.
Khắc phục những khuynh hướng sai lầm trong cấu trúc nhân cách, các
nhà tâm lý học Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã xác lập cấu
trúc nhân cách trên cơ sở cuộc sống thực và hoạt động thực của con người.
Cấu trúc nhân cách không phải là tổng hợp những quá trình, trạng thái, thuộc
tính tâm lí mà là sự hình thành trọn vẹn những thành phần tâm lí trong mối
quan hệ lẫn nhau.
Có thể nêu ra một số cấu trúc tâm lí cụ thể.
Trước hết phải kể đến cấu trúc nhân cách của A. G.Kovalev gồm bốn
thuộc tính: xu hướng, khí chất, tính cách, năng lực.
Theo ý kiến của V.N.Miasisep "vấn đề cấu trúc, đó là vấn đề phù hợp
của những khuynh hướng nội dung, được thực hiện trong những dạng hoạt
động khác nhau gắn liền với điều kiện sống trong thời gian lịch sử phù hợp
xuất phát từ những thái độ cơ bản như nguyện vọng, những yêu cầu, những
nguyên tắc, nhu cầu... Cấu trúc được thể hiện chính xác hơn trong những vai
trò nhất định của các nhu cầu khác nhau".
B.X.Merlin cho rằng "trong tâm lí học Xô Viết thường chia ra ba nhóm
thuộc tính nhân cách: khí chất, tính cách, năng lực. Đôi khi người ta thêm
thuộc tính thứ tư, đó là xu hướng". Ông cho rằng khí chất không phải là thuộc
tính của nhân cách. Các thuộc tính còn lại của nhân cách là những bộ phận
hợp thành không thể tách rời. Mỗi một thuộc tính của nhân cách đồng thời là
biểu hiện của xu hướng, vừa là biểu hiện của tính cách và năng lực. Nó được
hình thành trong hoạt động và ở một mức độ nào đó tùy thuộc vào tư chất di
truyền. Vì thế khi nói đến cấu trúc nhân cách thì phải hiểu đó là mối liên hệ
qua lại và việc tổ chức các thuộc tính nhân cách.
B.G.Ananiev xây dựng cấu trúc nhân cách theo hai nguyên tắc: nguyên
tắc thứ bậc và nguyên tắc phối hợp. Nguyên tắc thứ bậc có nghĩa là những
thuộc tính tâm sinh lý, những thành phần xã hội phục tùng thuộc tính xã hội
chung nhất, phức tạp nhất. Nguyên tắc phối hợp có nghĩa là nhiều mức độ
của các thuộc tính tác động qua lại lẫn nhau, phối hợp nhau. Theo ông cấu
trúc nhân cách ngoài ba thành phần cơ bản của hiện tượng tâm lí, cụ thể là
các chức năng tâm sinh lí (cảm giác, trí nhớ...) và quá trình chung của sự
hình thành động cơ hành động. Trong nhóm cuối cùng này có nhu cầu và tâm
thế.
Theo J. Stêfanôvic (Tiệp Khắc) cấu trúc nhân cách phải được hiểu như
là sự sắp xếp những đặc điểm của nhân cách vào cái toàn bộ trong mối tác
động qua lại giữa chúng. Vì vậy ông nêu các đặc điểm của cấu trúc nhân
cách như sau:
1- Đặc điểm tính tích cực - động cơ của nhân cách. Đặc điểm này thể
hiện tính chất xu hướng của nhân cách bao gồm hứng thú, khuynh hướng,
nguyện vọng, kế hoạch sống.
2- Đặc điểm lập trường - quan hệ của nhân cách. Đặc điểm này thể
hiện giá trị của nhân cách, bao gồm lập trường, lý tưởng và quan hệ sống.
3- Đặc điểm về mặt hành động của nhân cách. Đặc điểm này thể hiện
khả năng hoạt động có thành tích của nhân cách, bao gồm tri thức, kỹ xảo,
thói quen.
4- Đặc điểm về tự điều chỉnh của nhân cách. Đặc điểm này thể hiện sự
điều chỉnh và kiểm tra những rung cảm và hành vi của mình, bao gồm tự ý
thức, tự đánh giá, tự phê bình của nhân cách.
5. Đặc điểm về động thái của nhân cách. Đặc điểm này thể hiện ở khí
chất của nhân cách.
Ở Việt Nam khi nói đến nhân cách người ta thường nghĩ đến hai thành
phần cơ bản: đức và tài hay phẩm chất và năng lực.
Có thể kể ra các phẩm chất sau đây:
- Phẩm chất chính trị, tư tưởng: lí tưởng lập trường niềm tin, các quan
điểm tự nhiên, xã hội, con người.
- Phẩm chất, đạo đức, tác phong: các thái độ đối với xã hội, đối với
người khác và thái độ đối với bản thân, tính nết, tính khí, lối sống, thói quen
đạo đức.
- Các năng lực và sở trường, năng khiếu.
Người có nhân cách phải là người thống nhất được hai mặt phẩm chất
và năng lực, tức là thống nhất giữa mặt đức và tài. Về thực chất việc đánh giá
nhân cách con người là nói về mặt phẩm chất, phẩm giá trong đó đã bao hàm
mặt năng lực của con người.
Trong cách nói, cách hiểu cấu trúc nhân cách người ta thấy chưa thỏa
đáng. Vì vậy, một số nhà tâm lí học hiểu và nghiên cứu nhân cách theo cách
tiếp cận cấu trúc - hệ thống. Một nguyên tắc cơ bản của cấu trúc - hệ thống là
quan niệm nhân cách như là con người với hệ thống mở và đóng. Khi gọi
nhân cách là hệ thống mở có nghĩa là các thuộc tính phẩm chất của nhân
cách được qui định bởi tác động bên ngoài. Nói đến hệ thống đóng của con
người, là nói đến kết quả của các mối liên hệ bên trong giữa các thuộc tính,
phẩm chất của con người vừa như nhân cách, vừa như là cá thể và chủ thể.
Nhờ có ý thức và tự ý thức mà con người mang tính chất hệ thống đóng này.
Do đó, nhiệm vụ cơ bản của cách tiếp cận cấu trúc - hệ thống là nghiên cứu
những đặc điểm cơ bản của con người với tư cách là chủ thể của hoạt động.
Điển hình theo kiểu cấu trúc - hệ thống là K.K.Platonov. Cấu trúc - hệ
thống của nhân cách bao gồm bốn cấu trúc nhỏ:
1- Xu hướng, có quan hệ với các đặc trưng đạo đức của nhân cách.
Cấu trúc nhỏ này không có tư chất tự nhiên trực tiếp, phản ánh ý thức xã hội,
do xã hội chế ước.
2- Kinh nghiệm, bao gồm những kỹ xảo, kỹ năng, là những phương
thức khách thể hóa nhân cách trong hoạt động.
3- Những đặc điểm cá nhân của các quá trình tâm lý khác nhau. Cấu
trúc này bao gồm các quá trình tâm lí riêng rẽ và các chức năng tâm lí với
hình thức phản ánh.
4- Thuộc tính sinh vật qui định nhân cách. Đó là thuộc tính của khí chất,
giới tính, lứa tuổi bệnh lí.
Trong cấu trúc - hệ thống chức năng về nhân cách của Platonov, chúng
ta không thấy thành phần tính cách và năng lực. Tính cách và năng lực có thể
nằm trong cấu trúc nhỏ, hoặc trong phần giao thoa của các cấu trúc nhỏ. Tính
cách dường như cái khung của nhân cách. Xu hướng ở một mức độ nào đó
xác định nhân cách lẫn tính cách. Năng lực là tổng hòa những thuộc tính của
cá nhân có trong bốn cấu trúc nhỏ của nhân cách. Ta có thể hiểu năng lực thể
chất, năng lực tinh thần, năng lực tiềm tàng, năng lực hiện thực.
Theo A. I. Serbakov, cấu trúc nhân cách là tổng hòa những thuộc tính
tâm lí có ý nghĩa xã hội, thái độ và hành động của cá nhân thể hiện trong quá
trình phát triển cá thể và quy định hành vi và hoạt động của cá thể. Vì vậy cấu
trúc động lực chức năng của nhân cách gồm bốn hệ thống: Hệ thống thứ nhất
là hệ thống điều hòa, hệ thống thứ hai là hệ thống kích thích; hệ thống thứ ba
là hệ thống ổn định; hệ thống thứ tư là hệ thống mệnh lệnh. Hệ thống thứ
nhất bao gồm cơ quan thụ cảm như nghe, nhìn, sờ mó, v.v.. Hệ thống thứ hai
bao gồm khí chất, trí tuệ, nhận thức, thái độ. Đó là những cơ cấu tâm lí bền
vững, là sản phẩm của hoạt động với tư cách là chủ thể của nhận thức. Hệ
thống thứ ba là hệ thống ổn định của nhân cách bao gồm xu hướng: năng
lực, tính cách, tính tự chủ. Hệ thống thứ tư bao gồm những phẩm chất có ý
nghĩa xã hội của nhân cách quy định hành vi và hành động của con người và
ý thức cao về sự phát triển xã hội. Hệ thống này bao gồm chủ nghĩa nhân
đạo, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa lạc quan và tình yêu lao động.
Cuối những năm bảy mươi xu hướng tiếp cận cấu trúc nhân cách đã
dần thay thế bằng xu hướng tiếp cận hệ thống. Có thể nói đây là bước tiến
trong lí luận tâm lí học, đặc biệt trong tâm lí học nhân cách. Thực tế ở Liên Xô
người ta đã vận dụng quan điểm hệ thống trong các tác phẩm lí luận nhân
cách của V.N. Kuzmin, E. G. Iudin, I.V. Blauberg, B.N. Xadovxki và nhiều tác
giả khác. Điều này chứng tỏ sự cần thiết của việc nắm vững những nguyên
tắc chung của phân tích hệ thống để chuyển nó vào tâm lí học nhân cách.
Trong những năm gần đây, trong các quan niệm nhân cách khác nhau người
ta đã vạch ra những dấu hiệu của tính chất hệ thống. Những công trình của
Đ. N. Uznadze, V. E. Iadov, N. I. Népomniasaia, L.I. Bogiovie đã thể hiện điều
đó. Đặc biệt trong 7 công trình viết tay chưa công bố khi A.N. Leonchiev còn
sống, ông đã chỉ ra rằng "nhân cách là phẩm chất hệ thống và vì vậy nó là
phẩm chất cực nhạy".
A. V. Pêtrovxki cho rằng với quan điểm hoạt động, nhân cách có thể
hiểu chỉ trong hệ thống của mối liên hệ nhân cách bền vững. Những mối liên
hệ này tạo thành phẩm chất, của bản thân nhóm hoạt động. Những hoạt động
nhóm quy định những biểu hiện nhân cách, vị trí riêng của mỗi người trong hệ
thống mối liên hệ liên cá nhân và nói rộng trong hệ thống mối quan hệ xã hội.
Trong điều kiện của nhóm xã hội cụ thể, phẩm chất nhân cách thể hiện dưới
hình thức của những mối liên hệ qua lại liên nhân cách.
Hành vi của nhân cách hình thành trong điều kiện của hoạt động có đối
tượng và giao tiếp theo tính chất của mức độ phát triển của nhóm. Hành vi
điển hình của cá nhân diễn ra với tư cách là hành vi xã hội - tâm lí. Những
mối liên hệ liên nhân cách diễn ra vừa như mối quan hệ chủ thể - chủ thể
(giao tiếp) hoặc như mối quan hệ chủ thể - khách thể (hoạt động có đối
tượng), và nhân cách là chủ thể của những mối quan hệ này. Hoạt động và
giao tiếp với tư cách là hệ thống trọn vẹn của mối liên hệ cá nhân và hoàn
cảnh xã hội của cá nhân đó thể hiện trong mối liên hệ nhân cách. Trên cơ sở
phân tích hệ thống mối liên hệ liên nhân cách, A.V. Petrovxki hiểu nhân cách
là chủ thể của hệ thống bền vững tương đối của mối quan hệ chủ thể- khách
thể - chủ thể và chủ thể - chủ thể - khách thể thể hiện trong hoạt động và giao
tiếp và có ảnh hưởng đến những người khác.
Các quan niệm nhân cách như vậy sẽ tháo gỡ được sự đối lập nhân
cách với hoàn cảnh xã hội, với nhóm xã hội, và cho phép xem xét một cách
hiện thực nhân cách với bước tiếp cận hệ thống. Điều đó có nghĩa là, trong
sự thống nhất với điều kiện của hoàn cảnh xã hội, nhân cách được phát triển
và tự khám phá ra mình với tư cách là chủ thể của mối quan hệ qua lại với nội
dung đối tượng của hoạt động và với những người khác.
Với quan niệm nhân cách như trên, A. V. Petrovxki đã chia ra ba loại
tính chất của tồn tại cá nhân do thành phần khái quát xã hội, bản thân cá
nhân và mối liên hệ giữa chúng.
Mặt đầu tiên là thuộc tính nhân cách bên trong. Nhân cách được xem
xét với tư cách là tồn tại do bản thân của chủ thể, trong không gian bên trong
của tồn tại cá nhân.
Mặt thứ hai là thuộc tính nhân cách ngoài cá nhân. Hình thức tồn tại
của nhân cách và quy định nhân cách là không gian của mối liên hệ liên nhân
cách. Nhân cách diễn ra trong nhóm và phẩm chất nhóm diễn ra thông qua
từng cá nhân. Mặt này bao gồm những hoạt động và giao tiếp của cá nhân
đối với sự vật và đối với người khác.
Mặt thứ ba là thuộc tính hệ thống cá nhân của nhân cách. Hình thức
tồn tại của nhân cách cũng ở ngoài cá nhân, thể hiện sự đánh giá của xã hội,
của người khác đối với nhân cách. Ở mặt này, cá nhân dù chết đi nhân cách
vẫn còn.
Nếu quan niệm ba mặt trong hệ thống nhân cách như trên thì sẽ xuất
hiện vấn đề giữa nhân cách và cá nhân không có sự đồng nhất. Nhân cách
tồn tại không cần sự có mặt của cá nhân. Liệu điều này có thể chấp nhận
được không? Có thể chấp nhận luận điểm này nếu tính đến ý nghĩa to lớn
của nó trong việc vận dụng quan điểm của C. Mác về bản chất con người:
trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
Đồng thời luận điểm này giải quyết được cơ bản một số vấn đề lí luận nhân
cách cũng như vận dụng nó vào thực tiễn công tác giáo dục.
Việc nghiên cứu nhân cách phải nghiên cứu hệ thống mối quan hệ bên
trong, bên ngoài cá nhân và mối quan hệ giữa các cá nhân, trong nhóm, trong
tập thể, trong xã hội, trong giai cấp, dân tộc, trong giới xã hội mà cá nhân
sống hoạt động và giao tiếp.
Trên cơ sở khái niệm nhân cách đã nói trên, chúng tôi phác thảo mô
hình nhân cách.
Phác thảo mô hình cấu trúc nhân cách.
Đạo đức:
1) Thế giới quan, lý tưởng bao gồm quan điểm chính trị, lập trường, vai
trò xã hội của cá nhân.
2) Thái độ và hành vi ứng xử xã hội của cá nhân.
- Thái độ và hành vi đối với người khác, đối với gia đình, đối với xã hội:
đoàn thể, nhân dân, Tổ quốc.
- Thái độ đối với lao động.
3) Tình cảm và ý chí.
a) Mặt tình cảm:
- Tình cảm đạo đức
- Tình cảm trí tuệ
- Tình cảm thẩm mỹ.
Nang luc
chuyen mon
Tai nang
- Nang luc tri tue, nang khieu- Nang luc the chat – Tam ly
Tinh cam va y chi
Thai đo va ung xu xa
hoi cua ca nhan
The gioi quan, ly tuong ca nhan
Nang lucĐao đuc
MyThienLoiNang lucĐao đuc
Gia tri xa hoiPham chat xa hoi
He thong pham gia xa hoi cua ca nhan
b) Mặt ý chí: Tính tự chủ, tính cân bằng, tính mục đích, tính dũng cảm,
tính hòa nhập.
Năng lực
- Năng lực trí tuệ - năng khiếu, năng lực chuyên môn tài năng.
- Năng lực thể chất - tâm lý.
III. MỘT SỐ THUỘC TÍNH NHÂN CÁCH
A. Mặt tài (năng lực) của nhân cách
(I). Khái niệm về tài
“Người không có đức là người vô dụng. Người không có tài thì làm việc gì
cũng khó”
Hồ Chí Minh
1. Quan hệ đức và tài (năng lực)
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước hơn bao giờ hết rất
cần con người có đức và tài, tức là người có phẩm chất và năng lực. Những
vấn đề đức tài lâu nay vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau. Có người cho
đạo đức là cái gốc quan trọng, nó quyết định toàn bộ nhân cách con người.
Nhưng không ít người cho rằng trong cơ chế thị trường hiện nay không thể
lấy đức mà làm giàu cho bản thân và đất nước được, chỉ có tài mới thành đạt
được.
Vậy chúng ta hiểu đức và tài như thế nào và mối quan hệ giữa chúng.
Trong phạm vi tâm lý học, tôi muốn đề cập đến vấn đề tài (năng lực)
của nhân cách.
Đức và tài một thời ta hay gọi là hồng và chuyên, rồi đến phẩm chất và
năng lực, đạo đức và tài năng.
Khi nói đến "đức" người ta hay đề cập tới mặt tư tưởng chính trị, mặt
đạo đức.
Còn khi nói đến năng lực là nói đến trình độ văn hóa, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, năng lực thể chất và tâm lý năng lực ứng xử.
Đức với tài phân biệt ở đây chỉ là tương đối. Tùy từng cương vị công
tác, tùy từng loại hình lao động mà đức và tài có sự xem xét khác nhau theo
đặc thù nhất định.
Đối với cán bộ lãnh đạo thì mặt tư tưởng chính trị phải thật vững vàng,
lập trường vững chắc, có ý thức đấu tranh bảo vệ đường lối của Đảng,
gương mẫu về đạo đức, tác phong phù hợp cho việc tập hợp và giáo dục
quần chúng. Đối với cán bộ khoa học phải có ý thức phục vụ đất nước, có tư
duy sáng tạo, tự chủ, độc lập.
Đức là gốc của nhân cách nhưng không có nghĩa là coi nhẹ tài. Đức và
tài ở một mức độ nào đó thống nhất nhau, không thể tách rời nhau. Không thể
nói một con người có tài mà không có đức. Có tài mà không có đức nhiều khi
làm hại nhiều cho đất nước. Có tài mà chỉ nhằm phục vụ cho cá nhân, tham
nhũng, vô kỷ luật thì sẽ làm hại cho nhân dân, nhất là khi làm sai lệch đường
lối của Đảng thì tai hại biết chừng nào. Như vậy, không thể gọi là tài được.
Không thể nói con người tài phá hoại đất nước được theo quan điểm nhân
cách.
Vấn đề đức không chỉ tâm lý học nghiên cứu mà nhiều khoa học như
đạo đức học, mỹ học, giáo dục học, xã hội học… Chúng ta đã có dịp đề cập
rải rác ở các chương trên. Ở đây chúng tôi không có ý định nêu ra tất cả các
thuộc tính của đức về mặt tâm lý học như nhu cầu, lý tưởng thế giới quan,
tính cách, khí chất, động cơ, tình cảm, giá trị...
Chúng tôi đề cập tới mặt tài (năng lực) trong nhân cách. Phát huy toàn
diện năng lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước không thể không quan tâm thích đáng vấn đề năng lực.
2. Vấn đề định nghĩa năng lực
Hiện nay trong tâm lý học có nhiều định nghĩa về năng lực khác nhau.
Sau đây, là một vài ví dụ về các định nghĩa đó.
P.A.Ruđích: "Năng lực và tính chất tâm - sinh lý của con người chi phối
quá trình tiếp thu các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cũng như hiệu quả thực hiện
một hoạt động nhất định.
Định nghĩa này đã mở rộng khái niệm năng lực bao gồm các điều kiện
tâm - sinh lý chi phối các loại hoạt động con người.
A. G. Côvaliôp định nghĩa "Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp
những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu lao động
và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao".
N. X. Lâytex cho rằng năng lực là những thuộc tính tâm lý nào của cá
nhân mà là điều kiện để hoàn thành tốt đẹp những loại hoạt động nhất định.
Cả hai định nghĩa của A.G.Côvaliốp và N. X. Lâytex đều nêu lên những
thuộc tính của cá nhân bảo đảm điều kiện cho hoạt động đó. Song đối với A.
G. Côvaliôp cho những thuộc tính đó bao gồm tất cả các thuộc tính của cá
nhân chứ không riêng gì là những thuộc tính tâm lý như N. X. Lâytex quan
niệm. Rõ ràng định nghĩa của Côvaliôp thỏa đáng hơn ở chỗ con người
không chỉ có năng lực tâm thần, tâm lý mà còn có những năng lực về thể chất
nữa.
Giáo sư, tiến sĩ Phạm Minh Hạc trong bài viết của mình đã định nghĩa
năng lực như sau: "Năng lực là những đặc điểm tâm lý cá biệt, tạo thành điều
kiện quy định tốc độ, chiều sâu, cường độ của việc tác động vào đối tượng
lao động". Định nghĩa này đã coi năng lực là một yếu tố thành trong một hoạt
động cụ thể, tạo thành điều kiện quy định tốc độ, chiều sâu, cường độ tác
động vào đối tượng lao động.
Để có một định nghĩa về năng lực thích hợp trước hết hãy xác định
những dấu hiệu của năng lực phân biệt người này và người khác, bởi vì khi
nói đến năng lực là nói đến sự sai biệt giữa các cá nhân. Các dấu hiệu khác
biệt đó là:
a) Khác biệt trong khuynh hướng hoạt động.
b) Khác biệt trong nhịp độ hoạt động và sự tiến bộ của hoạt động và sự
dễ dàng trong hoạt động đó.
c) Số lượng và chất lượng của kết quả hoạt động.
d) Tính chất độc lập và sáng tạo trong hoạt động.
Khuynh hướng là dấu hiệu đầu tiên và sớm nhất của những năng lực
đang hình thành. Khuynh hướng biểu hiện ở nguyện vọng, ý muốn của trẻ đối
với hoạt động nhất định (Học vẽ, học âm nhạc, học toán). Nhiều khi nguyện
vọng này xuất hiện rất sớm, có tính chất tự phát, say mê ngay trong những
điều kiện không thuận lợi. Rõ ràng khuynh hướng cho ta biết những tiền đề
bẩm sinh nhất định đối với việc phát triển năng lực. Khi có khuynh hướng thật
sự, không những con người bị thu hút mãnh hệt vào hoạt động, đạt tiến bộ
nhanh hơn người khác và kết quả hơn người khác có trình độ như nhau -
Khuynh hướng thật sự thể hiện ở mặt tình cảm và ý chí đối với hoạt động -
Khuynh hướng đầu tiên tạo điều kiện thúc đẩy con người hoạt động, bảo đảm
cho năng lực nảy sinh và phát triển. Người có năng lực về một hoạt động nào
đó thường khi bắt tay thực hiện một hành động nào đó dễ dàng hơn người
không có năng lực, sự tiến bộ trong hoạt động đó rất nhanh, nhịp độ về tốc
độ, về cường độ và độ sâu của hoạt động đó cũng được tiến hành có chất
lượng hơn người không có năng lực. Kết quả của hoạt động đứng về số
lượng và chất lượng cũng được bảo đảm cao. Người có năng lực ở mức độ
cao bao giờ cũng được thể hiện ở tính chất độc lập và sáng tạo trong hoạt
động. Như vậy, một hoạt động đòi hỏi nhiều phẩm chất tâm lý cá nhân phù
hợp. Những phẩm chất cá nhân này là điều kiện cho hoạt động có kết quả.
Từ việc phân tích các định nghĩa trên và phân tích các dấu hiệu của
năng lực ta có thể định nghĩa: Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lý phù
hợp với yêu cầu một loại hoạt động nhằm làm cho hoạt động đó đạt được kết
quả.
Khi nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả trong hoạt
động nào đó. Muốn có kết quả thì cá nhân phải có những phẩm chất tâm lý
nhất định phù hợp với yêu cầu của hoạt động đó. Nếu những thuộc tính tâm
lý không phù hợp với yêu cầu của một hoạt động thì không có năng lực. Một
người không có lỗ tai âm nhạc, không có năng khiếu phân biệt các âm sắc thì
không thể có khả năng âm nhạc được.
Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẻ mà là một tổ
hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng được yêu cầu cao của hoạt động. Tổ
hợp không có nghĩa là các thuộc tính đó tồn tại song song mà chúng có quan
hệ và tác động lẫn nhau và thống nhất với nhau theo yêu cầu nhất định.
Trong đó có những thuộc tính làm nền, thuộc tính chủ đạo và thuộc tính khác
làm phù trợ.
Ví dụ phân tích năng lực hội họa của một họa sĩ bao gồm các thuộc
tính sau: Thuộc tính cơ sở, thuộc tính chủ đạo, thuộc tính bổ trợ.
- Thuộc tính làm cơ sở: tính nhạy cảm cao của cơ quan phân tích thị
giác được phát triển trong quá trình hoạt động. Điều đó được thể hiện ở cảm
giác về đường nét, tỉ lệ, hình dáng, sáng tối, màu sắc, nhịp độ, cảm giác vận
động của bàn tay, trí nhớ hình tượng phát triển cao.
- Thuộc tính chủ đạo: trí tưởng tượng, sáng tạo nghệ thuật bảo đảm
cho người ta nắm được cái bản chất và cái đặc trưng trong hiện tượng của
đời sống, sự khái quát hay điển hình hóa, xây dựng bố cục độc đáo.
- Thuộc tính phù trợ, bổ sung thể hiện trong tâm trạng cảm xúc và thái
độ cảm xúc trước hiện tượng được trông thấy.
Nói đến năng lực là nói đến hiệu quả của hoạt động. Thực tế những
người phát triển tâm lý bình thường nào cũng có khả năng tiếp thu một số
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tối thiểu.
Song trong những điều kiện bên ngoài như nhau thì những người khác
nhau có thể tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó với nhịp độ khác nhau.
Một người tiếp thu một cách nhanh chóng, người khác phải mất thì giờ và sức
lực, một người nào đó có thể có trình độ điêu luyện, còn người kia mặc dù có
nhiều cố gắng vẫn chỉ ở mức độ trung bình. Có một số loại hoạt động đặc thù
như hoạt động văn học, nghệ thuật, thể thao chỉ có một số người có năng lực
nhất định mới có thể đạt được kết quả. Ai cũng có thể hát, nhưng hát hay thì
không chỉ có luyện tập mà phải có tai âm nhạc và giọng tốt.
Vì vậy, khi xét bản chất của năng lực cần chú ý đến:
- Sự khác nhau giữa người này và người kia về hiệu quả của hoạt
động.
- Năng lực tạo điều kiện cho việc tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo dễ dàng chứ không phải bản thân tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Vì vậy một học sinh không có năng lực học tập ở một mức độ nào đó
cũng có khả năng tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Đồng thời sự độc
lập sáng tạo của từng cá nhân trong hoạt động cũng thể hiện mức độ năng
lực cao.
3. Các mức độ của năng lực
Trong từng lĩnh vực hoạt động, năng lực của từng người thể hiện khác
nhau. Xét về mức độ phát triển năng lực có thể chia làm 2 loại: năng lực tái
tạo và năng lực sáng tạo. Với mức độ tái tạo của năng lực cá nhân thể hiện rõ
khả năng của mình trong việc đạt kết quả đối với lĩnh vực kiến thức, nắm
vững và tiến hành hoạt động theo mẫu (do người khác hướng dẫn, hoặc đọc
sách báo, tài liệu). Ở mức độ sáng tạo của năng lực cá nhân có khả năng
sáng tạo ra cái mới, cái độc đáo với kết quả cao. Đương nhiên trong tái tạo có
ít nhiều sáng tạo và ngược lại trong sáng tạo cũng có ít nhiều tái tạo. Trong
quá trình hoạt động của con người có thể chuyển từ mức độ này sang mức
độ kia.
Nếu xét về mức độ cao năng lực của cá nhân có tài năng và thiên tài.
Tài năng là mức độ năng lực cao, thể hiện sự hoàn thành có hiệu quả
cao, xuất sắc có tính chất sáng tạo một hoạt động nào đó. Ví dụ tài năng thơ
của Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, tài năng âm nhạc của Đặng Thái Sơn, tài
năng hội họa của Diệp Minh Châu, Phan Chánh. Tài năng có quan hệ chặt
chẽ với tính cách cá nhân. Mỗi tài năng có thể có tính cách khác nhau. Theo
B. G. Ananiel: "Muốn hiểu hiện tượng bản chất của tài năng cần phải tập hợp
hai lý luận tâm lí - lí luận về năng lực và lí luận về tính cách, có nghĩa là học
thuyết về thuộc tính tâm lí của nhân cách.
Thiên tài là mức độ năng lực cao nhất, mức độ hoàn chỉnh nhất, đạt
được những thành tựu tuyệt vời trong một hay nhiều hoạt động phức tạp có ý
nghĩa lớn đối với đời sống xã hội. Thiên tài là những sáng tạo thúc đẩy nhân
loại tiến lên. Con người có tài năng có thể có sáng tạo xuất sắc trong lĩnh vực
hoạt động của mình, nhưng chỉ có thiên tài mới vạch ra con đường mới trong
lĩnh vực hoạt động của nhân loại, mở ra một tương lai mới cho nhân loại. Đó
là những con người có khả năng tiên đoán, tìm ra những quy luật có tác dụng
to lớn cho sự phát triển của loài người.
Chúng ta có thể kể ra hàng trăm thiên tài của nhân loại đã làm thay đổi
thế giới như C. Mác, F. Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, Anh stanh,.. Những
thiên tài là hiện tượng hiếm có trong lịch sử. Vì vậy, cần có cách giải thích
đúng đắn về các hiện tượng này.
Đã có nhiều học giả tư sản giải thích sai lầm về hiện tượng này. Họ giải
thích thiên tài được sinh ra bằng các nguồn gốc sau đây:
a) Thiên tài là vị khách tình cờ của đất nước mình, và các vị khách này
không có nguồn gốc trong quá khứ và trong hiện tại. Hêghen cho rằng "các
bậc vĩ đại" khao khát vươn tới mục đích của mình, không phải do thế giới
xung quanh họ mà do tinh thần bên trong, cái tinh thần "Hãy còn nằm dưới
lòng đất và đang gõ vào thế giới bên ngoài như gõ vào cái vỏ bọc vậy...".
Những công trình nghiên cứu đã bác bỏ luận điểm này. Những tài liệu
của nhà thực nghiệm tự nhiên Đơ Căngellơ (A. de. Cangelle) cho thấy rằng
các cá nhân thiên tài không xuất hiện một cách bỗng dưng đâu đó trên trái
đất, vào bất kỳ lúc nào cũng được, mà chỉ xuất hiện ở đất nước và xã hội mà
dân cư ở đó trong suốt nhiều thế kỷ đã biểu thị sự quan tâm có ý thức đến giá
trị tinh thần và chúng ta cũng có thể nói thêm rằng ở những nơi nào mà môi
trường quần chúng trong sự phát triển xã hội của nó đang đòi hỏi gay gắt phải
có các cá nhân tài năng, thiên tài, có tầm nhìn rộng lớn và giải quyết những
vấn đề lớn lao do thời đại đặt ra.
b) Thiên tài xuất hiện do sự kế truyền của một nhóm dòng họ nhất định.
Nhà triết học thần bí Duypren đã giải thích thiên tài như là kết quả của
sự chuẩn bị thầm kín nào đó qua suốt nhiều thế hệ, suốt cả một thời gian lâu
dài đã được nuôi dưỡng trong một số dòng họ được số phận đặc ân phù trợ.
Người ta nêu ra các thiên tài xuất thân từ một dòng họ có truyền thống như
nhạc sĩ Xêbaxchian Bác, họa sĩ Tixian, Bớt, Lamactin...
Sự thật, lịch sử đã chứng minh rằng không phải tất cả các thiên tài đều
xuất thân từ những dòng họ quý tộc, hoặc được kế truyền từ dòng họ. Những
thiên tài như Căng, Lômônôxốp đều xuất thân từ những gia đình bình thường.
Vả lại ngay trong những người thiên tài, tài năng xuất thân từ dòng dõi truyền
thống thì chúng ta cũng không biết được bao nhiêu phần trăm do kế truyền
thật sự, bao nhiêu phần trăm do giáo dục và hoàn cảnh quyết định.
c) Thiên tài xuất hiện có liên quan đến suy nhược thần kinh và sự suy
đồi của họ.
Nhà tâm thần học Morơdơ Tur giữa thế kỷ XIX đã xây dựng học thuyết
về tâm trạng bệnh hoạn của những con người tài năng, thiên tài. Ông cho
rằng: "Cũng giống như bất kỳ một kiểu động lực trí tuệ nào, thiên tài nhất thiết
phải có cái vật chất của mình; ở đây cái thế nền này là trạng thái nửa bệnh
hoạn của não, là sự kích động thần kinh thật sự mà ngọn nguồn gây nên mọi
người đều biết".
Sau này nhà nhân loại học Italia Lombrôdô đã khẳng định rằng thiên tài
đồng nhất với bệnh thần kinh. Ông chú ý đến những dấu hiệu suy đồi của các
cá nhân tài năng bắt đầu từ vóc người bé nhỏ, sự không cân đối của bộ sọ,
những điều không bình thường của não, tệ đam mê nhục dục, hay hạn chế
tình dục và sự không có con, sự không giống bố mẹ, sự phát triển trí tuệ quá
sớm, tính cuồng loạn, sự xúc động cao độ một cách bệnh hoạn, tính đãng trí
khác thường... nhiều thiên tài đã có những cơn co giật kỳ lạ do các bệnh thần
kinh gây nên và bệnh động kinh (như Môlie, Phlobe, Đôtoiepxki), bị bệnh
buồn phiền có thể dẫn tới tự tử như (Ruxxô, Satobriăng, Gioóc Săn), bị chứng
cuồng dại như (Đantơ, Bandắc), bị cơn nghi hoặc (Manxôni, Tônxtôi), mộng
ảo (Bairon), và ích kỷ đến bệnh hoạn hay các tật xấu khác thuộc tính tình và ý
chí. Lombrôdô cho rằng "tính khí loạn thần kinh và các hiện tượng động kinh
ở thiên tài không hề là hậu quả của sự kiệt quệ và mệt mỏi, chúng trước hết
là một bộ phận cấu thành của sự sáng tạo ở thiên tài và thường là điều quan
trọng nhất trong cá tính thiên tài".
Ông đã dẫn lời của Arixtôt "không có bộ óc vĩ đại nào mà lại không pha
trộn sự điên dại".
Sự thật về quan điểm của Lombrôdô là như thế nào. Chẳng phải nghi
ngờ gì có một số những thiên tài có dấu hiệu bệnh hoạn, hoảng loạn, cuồng
dại, có triệu chứng ám ảnh và các triệu chứng khác của sự mất cân bằng và
thậm chí thường dẫn tới những rối loạn thần kinh, ít hay nhiều, tạm thời hay
lâu dài. Nhưng vấn đề là ở chỗ những cá nhân ấy không phải là tiêu biểu cho
những cá nhân thiên tài, và không nhất thiết là thiên tài nào cũng gắn liền với
bệnh thần kinh. Đại bộ phận tất cả những thiên tài, các nhà phát minh, các
nhà tư tưởng, các vị lãnh đạo nhà nước, các nhà nghệ sĩ đều không có bệnh
thần kinh. Ngay cả trường hợp bị bệnh thần kinh như Đôxtoiepxki chúng ta
vẫn thấy thiên tài đã xuất hiện không phụ thuộc vào các cơn khủng hoảng
đáng sợ và vào các trạng thái, dẫn tới cơn khủng hoảng ấy. Các cơn khủng
hoảng ấy chỉ làm cản trở sự sáng tạo của ông mà thôi.
4. Phân loại năng lực
Có nhiều cách phân loại năng lực theo tiêu chuẩn khác nhau. Song
cách phân loại nào có ý nghĩa thực tiễn đối với công tác sư phạm sẽ giúp
chúng ta có phương hướng phát hiện và bồi dưỡng năng lực học sinh. Có thể
có các loại năng lực sau:
Năng lực chung và năng lực chuyên môn
- Năng lực chung là hệ thống những thuộc tính trí tuệ của cá nhân bảo
đảm cho cá nhân nắm tri thức và hoạt động một cách dễ dàng có hiệu quả.
Có thể gọi năng lực chung là năng lực trí tuệ (intelligence). Năng lực này
được thể hiện ở các chức năng tâm lý như tư duy, trí nhớ, chú ý, tưởng
tượng. Ví dụ như năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, ghi nhớ v.v...
- Năng lực chuyên môn là hệ thống các thuộc tính cá nhân bảo đảm đạt
được những kết quả cao trong nhận thức và trong sáng tạo của các lĩnh vực
chuyên môn. Ví dụ trong lĩnh vực âm nhạc, văn học, khoa học. Năng lực
chuyên môn được hình thành trên cơ sở những hoạt động khác nhau. Trong
quá trình hoạt động đòi hỏi con người phải hình thành những phẩm chất để
đáp ứng được những lĩnh vực của hoạt động chuyên môn. Năng lực chuyên
môn có quan hệ chặt chẽ với năng lực chung. Năng lực chung càng phát triển
cao càng tạo điều kiện thuận lợi cho năng lực chuyên môn. Ngược lại sự phát
triển của năng lực chuyên môn có ảnh hưởng đến năng lực chung. Vì vậy,
mỗi cá nhân bên cạnh việc phát triển năng lực chung cần phát triển năng lực
chuyên môn. Hơn nữa con người ngoài năng lực chuyên môn của một nghề
nhất định cần có những năng lực chuyên môn khác nữa. Sự phát triển toàn
diện của con người bảo đảm sự phát triển hài hòa năng lực chung và năng
lực chuyên môn. Một người có thể có một số năng lực chuyên môn khác
nhau, có khi phát triển rất cao. Sự phân loại này có tính chất tương đối nhằm
chỉ ra khả năng trong các lĩnh vực phân công của xã hội. Khi phân tích mỗi
loại năng lực đòi hỏi phải tính đến yếu tố chung và yếu tố chuyên môn trong
cấu trúc năng lực.
(II). Vấn đề tư chất và năng lực
Con người sinh ra không phải có ngay một số năng lực nào đó và cũng
không phải "thông minh vốn sẵn tính trời"' như nhiều người đã nghĩ. Những
cái gọi là "tính trời" kia chỉ có thể là một số đặc điểm sinh lý - giải phẫu nào đó
của cơ thể mà yếu tố có ý nghĩa nhất là hệ thần kinh và não.
Những cái bẩm sinh hay tư chất bao gồm những thành phần gì?
Theo P. A. Rudích tư chất là những đặc điểm giải phẫu sinh lý bẩm sinh
của cơ thể, những đặc điểm này làm cho năng lực diễn ra dễ dàng hơn. Song
nếu xem tư chất là đặc điểm giải phẫu sinh lý bẩm sinh thì khi chuyển hóa
thành năng lực chúng có trở thành hiện tượng tâm lý không? Hay chỉ là hiện
tượng tâm lý được thêm vào hiện tượng sinh lý - giải phẫu.
Theo A.G.Côvaliốp, G.X. Coxchive, V.N. Miaxisev cho rằng nên xem tư
chất "Không chỉ là đặc điểm sinh lý - giải phẫu mà chủ yếu là đặc điểm sinh lý
- tâm lý". Đặc điểm tâm lý này biểu lộ ra trong giai đoạn hoạt động đầu tiên và
đôi khi ở người lớn khi chưa từng trải qua một hoạt động nhất định có hệ
thống. Ví dụ như khả năng phân biệt màu sắc tinh tế, trí nhớ thị giác, tai âm
nhạc tốt. Nói cách khác hiểu tư chất là cơ sở tự nhiên đầu tiên của năng lực,
chúng còn chưa phát triển, nhưng sẽ bộc lộ ra trong những thử thách đầu tiên
của hoạt động. Những đặc điểm này thể hiện ở một số người rất sớm như:
Môza tự mình ghi được nhạc lúc 3 tuổi, 5 tuổi bắt đầu sáng tác và 7 tuổi bắt
đầu biểu diễn khắp Châu Âu. Pêpitô Ariola mới 3 tuổi 7 tháng đã trở thành
nhạc sĩ dương cầm. Nghiên cứu 92 nhà toán học xuất sắc thấy tài năng của
họ thể hiện trong thời kỳ: 35 người trước 10 tuổi, 43 người khoảng 11 - 15
tuổi; 11 người khoảng 16 - 18 tuổi, 3 người 19 - 20 tuổi. Ở Việt Nam, từ nhỏ
Lê Quý Đôn đã nổi tiếng là người hay thơ.
Những đặc điểm bẩm sinh của não được thể hiện trực tiếp trong những
đặc điểm về kiểu hình thần kinh của người. Đặc điểm kiểu hình thần kinh
được biểu hiện rất sớm ở trẻ em, chính là thuộc tính tự nhiên đầu tiên.
B.M.Tevlov cho rằng những đặc điểm về kiểu hình thần kinh có ý nghĩa nhiều
mặt, chúng tạo nên cơ sở tự nhiên của cả tính cách lẫn năng lực. Kiểu hoạt
động có ý nghĩa đặc biệt cho việc hình thành những năng lực hoạt động xã
hội, kiểu thần kinh yếu có thể thuận lợi cho việc phát triển những năng lực
hoạt động nghệ thuật.
Những học giả tư sản cho rằng tư chất hoàn toàn quyết định năng lực.
Họ cho rằng năng lực và tư chất là một. Năng lực là thuộc tính tự nhiên được
di truyền. Nhà học giả người Anh Phêrênxi Gautơn viết cuốn "Tính di truyền
tài năng, các quy luật và hậu quả của nó" (1869) đã khẳng định tài năng là
phẩm chất thuần túy di truyền. Các chủng tộc khác hẳn nhau về tài năng. Ông
tính ra rằng xứ A-phi-na có 90 nghìn dân trong thời gian 100 năm (từ 530 đến
430 trước công nguyên) đã sinh ra 14 vĩ nhân: Phemistocon, Mintiat, Aristot,
Kimon, Pericon, Phukidet, Xocrat, Xenophong, Platon, Exokhin, Xophốc,
Evripit, Aristophan, Phidi. Từ đó, ông cho rằng mức độ trung bình về tài năng
của người Aphina cao gấp 2 lần mức độ tài năng của người nước Anh. Sự
thật, dẫn chứng của Gauton về di truyền chủng tộc cũng diễn ra trong giai
đoạn lịch sử rất ngắn so với sự phát triển của loài người thì không thể là luận
cứ bảo đảm cho sự di truyền chủng tộc. Hơn nữa chúng ta cũng không thể đo
được chính xác năng lực trí tuệ của trẻ mới sinh cũng như của người lớn. Từ
quan điểm đó các học giả tư sản cho rằng năng lực còn phụ thuộc vào huyết
thống, vào người giàu có và trung lưu như bà X. Cốc - xơ (Mỹ) đã khẳng định:
52,5% trẻ thần đồng thuộc gia đình quý tộc và 28,7% thuộc gia đình trung lưu.
Luận điểm này cũng không có cơ sở khoa học, bởi vì làm sao biết được bao
nhiêu đứa trẻ thần đồng là do di truyền, hay do hoàn cảnh giáo dục tạo nên.
Chắc chúng ta còn nhớ các nhà bác học sau đây là không phải do di truyền
dòng dõi: Lômônôxốp (1711 - 1765) là con của một người đánh cá; Pharađây
(1791 - 1867) là con một người thợ rèn, nhạc sĩ Ba Lan Sôpanh (1810 - 1849)
là con một người kế toán.
Trong cuộc sống, trong hoạt động tư chất luôn luôn biến đổi. Lỗ tai con
chó có thể tinh hơn con người, nghe xa hơn con người, song lỗ tai con người
lại nghe được nhiều âm thanh mà con vật không thể nghe được. Một em bé
do tiếp xúc nhiều với môi trường âm nhạc, từ đôi tai bình thường đã trở thành
đôi tai tinh tế, phân biệt được âm thanh chính xác hơn và lỗ tai đã trở thành
"lỗ tai âm nhạc". Rõ ràng không phải mọi đặc điểm bẩm sinh đều di truyền.
Đặc điểm di truyền có được bảo tồn và phát triển ở thế hệ sau hay không thể
hiện ở mức độ nào đều do hoàn cảnh quyết định trong đó có cá nhân hoạt
động.
Song việc phủ nhận vai trò tư chất cũng không đúng. C Mác nói: không
phải mọi người đều có dịp trở thành Raphaen. Điều đó có nghĩa là muốn trở
thành thiên tài phải có những tư chất thích hợp. Rõ ràng chúng ta không đối
lập tư chất với năng lực. Trong thực tế nhiều loại năng lực đòi hỏi những đặc
điểm nhất định của cơ thể. Tư chất là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho việc phát
triển năng lực. Mọi hiện tượng coi thường tư chất đều không đúng. X. L.
Rubinxtein cho rằng "Coi thường cái gì thiên nhiên phú cho chúng ta, tức là
coi thường chính con người. Con người không thể tách rời thiên nhiên và đối
lập hoàn toàn bản thân mình với nó. Anh ta không được quên rằng chính anh
ta là một sinh vật trong thiên nhiên, chính anh ta là sản phẩm phát triển của
thiên nhiên."
Vai trò của tư chất được thể hiện ở chỗ không phải một năng lực nào
cũng đòi hỏi một tư chất tương ứng mà có khi một tư chất làm tiền đề cho
nhiều năng lực. Tư chất có ảnh hưởng đến tốc độ và chiều hướng của sự
hình thành và phát triển năng lực. Hệ thần kinh con người có ảnh hưởng đến
sự phát triển năng lực được thể hiện ở các mặt sau đây;
- Tốc độ hình thành các phản xạ có điều kiện nhanh hay chậm, bền
vững hay không bền vững có ảnh hưởng đến sự hình hành kỹ năng và kỹ xảo
của con người.
- Tốc độ hình thành các phản xạ ức chế phân biệt có ảnh hưởng đến
hoạt động phân tích so sánh.
- Tốc độ thành lập và biến đổi nhanh chậm các động hình thần kinh
giúp con người hoạt động và thay đổi hoạt động một cách thích hợp mau lẹ
hay chậm chạp với ngoại cảnh.
- Phẩm chất của các giác quan có ảnh hưởng tốt hay xấu đến một số
lĩnh vực hoạt động. Người có tai thính dễ hoạt động có kết quả trong lĩnh vực
âm nhạc, người có mắt tinh dễ thành công trong lĩnh vực hội họa.
- Kiểu thần kinh cũng góp phần tạo nên năng lực trong những hoạt
động nhất định nào đó. Kiểu thần kinh cân bằng sẽ tạo điều kiện tốt trong lĩnh
vực dạy học cũng như công tác lãnh dạo.
Những nhà tâm lý học Liên Xô đã phân biệt các thuộc tính và kiểu thần
kinh chung và những thuộc tính và kiểu thần kinh riêng (kiểu thần kinh trong
từng mặt hoạt động cụ thể). Những thuộc tính về kiểu thần kinh chung là
những thuộc tính của toàn bộ hệ thống thần kinh có ảnh hưởng tới sự phát
triển đặc điểm tâm lý chung của cá nhân biểu hiện ở những đặc điểm khí
chất. Còn những thuộc tính về kiểu thần kinh riêng là tiền đề tự nhiên của
năng lực chuyên môn.
Ngoài ra, những đặc điểm giải phẫu sinh lý khác cũng ảnh hưởng đến
một loại năng lực nào đó, ngay cả những đặc điểm bình thường, ta khó thấy
có liên quan đến năng lực gì cả. Ví dụ cơ quan cung cấp máu cho não chẳng
hạn. Nếu não được cung cấp máu đầy đủ thì sẽ ảnh hưởng tốt đến sự chú ý
ghi nhớ tốt, tăng năng lực hoạt động trí óc.
Tóm lại, tư chất là điều kiện tự nhiên cần thiết để hình thành và phát
triển năng lực. Trong quá trình hoạt động những tiền đề bẩm sinh được phát
triển và hoàn thiện hơn, những cơ chế bù trừ được hình thành để bù trừ cho
những khuyết nhược điểm của cơ thể. Song tư chất không quyết định sự phát
triển của năng lực. Điều kiện quyết định năng lực của cá nhân phụ thuộc vào
hoạt động của cá nhân trong điều kiện giáo dục, xã hội nhất định.
(III). Điều kiện xã hội của phát triển năng lực
Ngoài vai trò của tư chất là yếu tố làm tiền đề tự nhiên cho việc phát
triển năng lực, tâm lý học Mác - xít coi yếu tố xã hội có vai trò rất quan trọng
trong việc hình thành năng lực con người. Ở đây cần xét xem điều kiện xã hội
như thế nào có ảnh hưởng đến sự phát triển năng lực và việc thể hiện ảnh
hưởng đó như thế nào.
Một số ý kiến của các nhà triết học và tâm lý học Liên Xô cho rằng năng
lực được hình thành trong quá trình phân chia lao động trong lịch sử xã hội
loài người. Giáo sư P. A. Rudich (Liên Xô) cho rằng: "Không phải là tiền đề
sinh vật mà do sự phân chia lao động, làm xuất hiện những giai đoạn nhất
định của sự phát triển xã hội là nguyên nhân làm phát triển năng lực của con
người".
Điều đó có nghĩa là sự phát triển năng lực gắn liền với sự phân chia lao
động. Điều này đúng nếu xét sự phát triển năng lực trong toàn bộ loài người.
Nhưng sẽ không chính xác nếu cho rằng năng lực của cá nhân hoàn toàn phụ
thuộc vào sự phân công lao động và đặc điểm lịch sử của hoạt động của con
người. Năng lực cá nhân không chỉ phụ thuộc vào sự phân công lao động mà
còn phụ thuộc vào tư chất, khuynh hướng, năng khiếu và chủ yếu là sự tự
giác hoạt động của cá nhân. Hơn nữa vấn đề tính chất lịch sử xã hội của việc
phát triển năng lực của con người là đối tượng nghiên cứu của triết học và xã
hội học, còn vấn đề phát triển năng lực của cá nhân trong quá trình sống của
anh ta là thuộc về lĩnh vực nghiên cứu của tâm lý học. Vị trí trung tâm của vấn
đề phát triển lịch sử xã hội của năng lực là vai trò của lao động trong việc xuất
hiện có tính chất lịch sử của năng lực. Trong quá trình phát triển của lịch sử,
lao động luôn luôn là phương tiện và điều kiện cần thiết cho việc tồn tại con
người, là cơ sở chung của nền văn hóa vật chất và tinh thần của con người.
Lao động không chỉ thực hiện vai trò phương tiện của tồn tại con người và xã
hội mà còn là phương thức của việc phát triển bản thân con người. Trong khi
thay đổi tự nhiên và xã hội, nhờ quá trình lao động, con người thay đổi bản
thân mình, thế giới tâm hồn của mình. Vì vậy, điều kiện cơ bản của việc phát
triển năng lực trong quá trình lịch sử loài người là lao động. Nội dung và tính
chất của lao động gắn liền trực tiếp với mối quan hệ kinh tế xã hội trong một
giai đoạn phát triển xã hội nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của sự
phát triển xã hội, sự phát triển năng lực có tính chất mâu thuẫn trong các hình
thức phát triển của lịch sử xã hội. Điều này phụ thuộc vào mối quan hệ xã hội,
trước hết là quan hệ kinh tế.
Trong tâm lý học người ta xác định năng lực thông qua những loại hoạt
động cụ thể. Xem xét năng lực theo hai loại sau đây: Năng lực tiềm tàng và
năng lực tức thời. Năng lực tiềm tàng cần cho sự phát triển tương lai của cá
nhân, như là phương thức có hiệu quả của hành động để hoàn thành tốt
những hoạt động mới. Năng lực tức thời cần thiết đối với một loại hoạt động
cụ thể nào đó có tính chất chuyên biệt mà không phải cho tất cả các hoạt
động của con người. Nhưng mỗi cá nhân thực hiện hoạt động bằng những
cách khác nhau. Vì vậy, khái niệm năng lực được hiểu với tư cách là năng lực
cá nhân. Năng lực không chỉ hình thành trong lao động mà còn hình thành
ngay trong thời gian rỗi. Chính nhờ thời gian rỗi mà năng lực tiềm tàng của
con người được hình thành và phát triển. Xã hội ngày càng phát triển con
người càng có điều kiện dùng thời gian rỗi của mình để phát triển những năng
lực tiềm tàng. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản con người mới có những điều kiện
phát triển những năng lực tiềm tàng của mình, cũng như toàn bộ năng lực.
Quá trình phát triển lịch sử xã hội của năng lực là cùng với biểu hiện
những hoạt động mới, cùng với việc xuất hiện những phương thức mới của
đời sống vật chất và tinh thần của xã hội những nhu cầu về việc phát triển
năng lực con người cũng xuất hiện. Điều kiện sản xuất phát triển, sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật đòi hỏi cần có những năng lực phù hợp với sản xuất.
Có thể nói rằng trình độ sản xuất càng cao, trình độ kỹ thuật càng cao thì
càng làm cho năng lực con người càng phong phú. Song cũng cần lưu ý rằng
trong xã hội mà quan hệ xã hội lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển năng lực của
con người. Mức độ phát triển năng lực không chỉ bị quy định bởi tính chất
hoạt động mà còn phụ thuộc vào mối quan hệ của cá nhân với xã hội, với
hình thái giao tiếp của người đó. Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin trong khi phân tích sự phân công lao động ở chủ nghĩa tư bản đã chỉ ra
rằng, chính trong điều kiện đó đã ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của con
người và sự phát triển toàn diện của nhân cách. Mác đã từng viết: Trong điều
kiện sản xuất tư bản người công nhân không làm gì để thay đổi điều kiện lao
động mà ngược lại điều kiện lao động làm biến đổi người công nhân. Như
vậy, điều kiện lao động tư bản đã làm thui chột năng lực người công nhân.
Lênin viết: Chủ nghĩa tư bản đã bóp nghẹt, vùi dập và làm thui chột biết bao
nhiêu thiên tài trong công nhân và nông dân lao động. Những thiên tài này đã
mai một đi dưới ách áp bức của những cảnh nghèo túng, cùng quẫn, chà đạp
nhân cách con người.
Năng lực cá nhân còn chịu ảnh hưởng của nền văn hóa xã hội. Mức độ
phát triển của nền văn hóa xã hội có ảnh hưởng đến sự phát triển năng lực cá
nhân, song không quy định một cách trực tiếp sự phát triển năng lực con
người. Mỗi người có thể tiếp thu nền văn hóa đó một cách khác nhau để hình
thành năng lực của mình. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu của cá
nhân. Năng lực con người được hình thành và phát triển trong hoạt động giao
tiếp nhằm thỏa mãn nhu cầu. Thực tế cuộc sống đòi hỏi con người phải hoàn
thiện một số năng lực để thỏa mãn nhu cầu. Năng lực tri giác của con người
phát triển cùng với nhu cầu phân biệt sự vật khách quan, năng lực tư duy
phát triển do nhu cầu của con người phải đi sâu tìm hiểu bản chất của hiện
tượng khách quan. Mác và Ăngghen viết: "Một cá nhân như Raphaen có thể
phát triển được thiên tài của mình hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc
vào nhu cầu, mà nhu cầu này lại phụ thuộc vào sự phân công lao động, vào
điều kiện giáo dục con người nảy sinh do sự phân công lao động".
Trong chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản có những điều kiện cho
việc phát triển năng lực - Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản là làm cho năng lực mọi người đều được phát triển. Năng lực được hình
thành không chỉ là hoạt động riêng của cá nhân. Trong cuộc sống của mỗi cá
nhân, "năng lực xã hội" với tư cách là thành tựu của cá nhân, diễn ra như là
tiềm lực, là điều kiện cho hoạt động cá nhân. Năng lực không chỉ hiểu là
thành tích của bản thân cá nhân mà là tổng hợp các hoạt động xã hội. Nói
một cách khác năng lực của loài người đã chuyển một cách gián tiếp vào
năng lực cá nhân thông qua nền văn hóa mà cá nhân đang sống. Sự ảnh
hưởng của nền văn hóa này đến cá nhân một cách gián tiếp.
Mức độ phát triển nền văn hóa nói chung và mức độ phát triển năng lực
con người không phải là hòa nhập làm một. Mức độ phát triển văn hóa xã hội
được thể hiện trong việc phát triển năng lực cá nhân có khác nhau. Điều đó
phụ thuộc vào mỗi cá nhân tiếp thu nền văn hóa đó và có nhu cầu nền văn
hóa đó như thế nào. Như vậy, việc phát triển năng lực của cá nhân là phụ
thuộc vào mối tác động qua lại giữa cá nhân và xã hội, trong đó điều kiện xã
hội có vai trò to lớn đối với việc phát triển này.
(IV). Vấn đề phát triển và bồi dưỡng năng lực.
Năng lực và tài năng của con người phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh
giáo dục trong đó mỗi người tự giác hoạt động để hình thành năng lực của
mình. Vì vậy, muốn bồi dưỡng và phát triển năng lực phải chú ý các điều kiện
cơ bản sau đây:
1/ Cần phải chú ý đến sự khác biệt cá nhân về năng lực
Trong cuộc sống và lao động thành tích mỗi người không giống nhau.
Trong lớp học trình độ và năng lực học tập của học sinh không đồng đều
nhau. Để biết được sự khác biệt năng lực học sinh cần phải dựa vào mức độ
dễ dàng nắm môn học, chất lượng thành tích môn học, ở một số học sinh, thể
hiện sự nhanh trí trong việc tiếp thu bài, số khác có óc sáng tạo, có kỹ năng
thực hành giỏi, hoặc có khả năng cảm thụ tác phẩm văn học. Có thể một học
sinh có một số biểu hiện những thuộc tính trên. Nhưng em phát triển bình
thường thì không có một em nào lại không có những phẩm chất có giá trị để
hình thành năng lực. Có thể có những kết quả như nhau ở một số em học
sinh trong cùng một hoạt động, song cách tiến hành để đến kết quả lại khác.
Người giáo viên cũng cần chú ý về các kiểu hoạt động thần kinh cấp cao ở
từng em học sinh. Năng lực con người được phát triển rất rộng trong nhiều
lĩnh vực nên mỗi người đều có thể phát triển thuận lợi ở nhiều mặt, có thể
thoả mãn trong nhiều hoạt động khác nhau, trong lao động trí óc cũng như lao
động chân tay. Việc chú ý đến việc khác biệt năng lực của cá nhân sẽ tạo
điều kiện phát triển phong phú và toàn diện các năng lực của con người trong
chừng mực nhất định.
2/ Tạo điều kiện cho trẻ em tham gia vào các hoạt động là cách tốt nhất
để hình thành năng lực ở chúng
Không có năng lực nào được hình thành từ tư chất bẩm sinh mà không
thông qua học tập, rèn luyện, có nghĩa là không thông qua hoạt động. Ngay
những trẻ em có năng khiếu học tập dễ dàng một số môn nào đó như nhạc,
họa, song bản thân em đó phải học tập, hoạt động thì năng lực mới hình
thành.
Việc cho các em tham gia lao động đúng mức có tác dụng quan trọng
trong việc hình thành năng lực của chúng. Vì vậy việc gắn liền giảng dạy với
lao động sản xuất tạo điều kiện tốt cho năng lực học sinh phát triển toàn diện:
Năng lực chuyên môn được thể hiện một cách tốt đẹp trên nền phát triển cao
của nhiều lĩnh vực cá nhân. Năng lực được hình thành và phát triển trong
hoạt động nào ở đó năng lực được sử dụng nhiều nhất. Hoạt động càng
nhiều mặt, có nội dung phong phú bao nhiêu thì năng lực càng có thể phát
triển đầy đủ và rõ rệt bấy nhiêu. Nhiệm vụ của nhà giáo dục là phải tích cực,
kịp thời phát triển năng lực trẻ em, tạo điều kiện cho năng lực trẻ em được
bộc lộ và phát triển đồng thời hướng trẻ em vào những hoạt động thích hợp
với hứng thú. Nếu một em nào đó có năng lực yếu về một lĩnh vực nào đó thì
tìm cách hình thành cho em những năng lực khác thích hợp hơn. Có thể ở trẻ
em có sự thay thế, bù đắp năng lực này bằng năng lực khác. Thực tiễn giáo
dục đã chỉ ra rằng mỗi học sinh bình thường đều có khả năng nắm vững các
nguyên lý khoa học và trình độ nghiệp vụ thì đều có khả năng tiếp thu khoa
học hiện đại, văn hóa và kỹ thuật, khi đã trưởng thành đều có khả năng tham
gia một cách rộng rãi vào đời sống xã hội.
Một trong những dấu hiệu tốt của năng lực là có thành tích sớm như
Trần Đăng Khoa đã nổi tiếng về thơ từ tuổi thiếu niên. Song chưa có thành
tích sớm cũng không phải là dấu hiệu không phát triển năng lực. Có những
người bộc lộ tài năng muộn - Tề Bạch Thạch đến tuổi 60 mới nổi tiếng về
tranh "Tôm cua". Bà E. I. Guxêva sinh trưởng ở vùng hẻo lánh Xibêri, ngoài
50 tuổi mới bắt đầu học văn hóa; chẳng bao lâu bà đạt được học vị phó tiến sĩ
và năm 73 tuổi bà bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.
Lòng yêu công việc, hứng thú với công việc là điều kiện rất quan trọng
để hình thành năng lực và tài năng – Những người có tài năng đều là người
hứng thú say mê với công việc.
M. Goócki cho rằng thiên tài về thực chất chỉ là lòng yêu đối với công
việc, đối với quá trình làm việc. Chỉ có lao động với sự nhiệt tình say mê thì
mới có những sáng tạo và phát minh. Năng lực cũng chỉ hình thành trên cơ
sở hứng thú với công việc. Tất nhiên đối với những người thiên tài không chỉ
có hứng thú đối với công việc mà còn những yếu tố khác quan trọng. Nhưng
rõ ràng hứng thú đối với công việc là yếu tố có tính chất vô cùng quan trọng
để hình thành năng lực và thiên tài.
3/ Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh không tách rời việc
giáo dục đạo đức cho chúng
Năng lực có liên quan đến thái độ của con người đối với mình đối với
người khác và đối với lao động, công việc. Thái độ lao động, làm việc say
sưa, nhiệt tình chính là điều kiện cần thiết để phát triển năng lực. Thái độ đối
với người khác, sự quan tâm lo lắng đối với tập thể, cho đất nước, cho nhân
dân là động cơ thúc đẩy để cá nhân có thể hoàn thiện năng lực của mình. Chỉ
có trong tập thể con người mới bộc lộ đầy đủ năng lực của mình. Vì vậy, cần
tạo cho học sinh gắn bó với tập thể, với mọi người, tham gia sản xuất, vào
các tập thể lao động thì năng lực các em mới phát triển được.
Thái độ đối với bản thân mình cũng là điều quan trọng đối với hình
thành năng lực. Lòng tự tin, đức khiêm tốn, tính kiên trì, sự quyết tâm cao độ,
tự đánh giá đúng bản thân mình là điều kiện thuận lợi cho việc hình thành
năng lực tài năng. Người giáo viên cần bồi dưỡng cho học sinh những đức
tính trên, biết đánh giá đúng học sinh, động viên và khích lệ chúng trong học
tập, cũng như trong các hoạt động khác thì năng lực học sinh mới có thể phát
triển nhanh chóng. Mặt khác cần tạo điều kiện cho các em tham gia vào các
hoạt động ngoại khóa, ngoài trường như hoạt động câu lạc bộ thiếu niên, các
tổ đội sản xuất, thì mới có thể làm cho năng lực phát triển toàn diện.
4/ Cần quan tâm đúng mức đến trẻ em có năng khiếu và vấn đề bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước.
Việc phát hiện năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài cần có sự quan tâm hơn
nữa của gia đình, nhà trường và xã hội. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm
Văn Đồng đã từng nhắc nhở những người làm công tác giáo dục: "Phải có ý
thức phát hiện và bồi dưỡng các em có năng khiếu về toán và các môn
khác... đừng bỏ sót em nào, bỏ sót rất uổng".
Năng khiếu là những tiền đề bẩm sinh, những khuynh hướng đầu tiên
tạo điều kiện cho năng lực và tài năng phát triển thuận lợi. Nó bao gồm những
đặc điểm sinh lý giải phẫu của hệ thống thần kinh và khuynh hướng tâm lý
đầu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển một năng lực nào đó. Nhiều
nhà khoa học đã tìm hiểu những yếu tố quyết định sự tồn tại của năng khiếu.
Nhà tâm lý học Liên Xô B.M. Teplov đã cho rằng năng khiếu âm nhạc gồm
các thành phần sau đây:
- Nhạy cảm điệu thức: biết nhận ra giai điệu, xúc cảm với giai điệu và
nhạy cảm với từng nhạc tố. Người có nhạy cảm điệu thức thấy chối tai trước
nốt nhạc sai, biết nhận ra cái hay của bản nhạc ngay từ đầu.
- Khả năng tái hiện thính giác: thể hiện năng lực tái hiện giai điệu bằng
tai, bằng "tai trong" - có những nhạc sĩ không có khả năng tái hiện giai điệu
nào đó nhanh chóng song nghe nhạc rất sành bằng "tai trong" thì không thể
nói là họ không có khiếu âm nhạc.
- Nhạy cảm nhịp nhạc: khả năng cảm thụ nhạc theo kiểu vận động,
nhận biết tính biểu cảm cao độ của nhịp nhạc và tái hiện nó.
Khi nghiên cứu về năng khiếu hội họa V. I. Kirienco đã cho rằng năng
lực thị giác không liên quan gì tới năng khiếu hội họa, nhưng về óc cân đối, ví
dụ khả năng chia một bức chân đung ra nhiều phần bằng nhau thực chính
xác và nhanh chóng thì các họa sĩ tí hon giỏi hơn các trẻ em bình thường.
Những đứa trẻ có năng khiếu hội họa mới bốn tuổi rưỡi đã biết phân biệt rõ
độ sáng giữa hai mặt phẳng bên nào sáng hơn, bên nào tối hơn. Trên cơ sở
những công trình nghiên cứu người ta cho rằng có những cơ cấu của năng
khiếu chuyên biệt. Từ đó giúp chúng ta hiểu yếu tố nào tạo ra năng khiếu và
chẩn đoán một đứa trẻ có năng khiếu về mặt gì, không phải đứa trẻ nào cũng
có năng khiếu. Trong điều kiện nhất định nào đó thì năng khiếu mới bộc lộ ra.
Năng khiếu tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành năng lực và tài năng.
Song không phải năng khiếu nào cũng hình thành nên tài năng. Điều đó còn
phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nữa. Năng khiếu thường thể hiện đi đôi
với những thành tích sớm trong hoạt động của đứa trẻ. Raphaen 8 tuổi đã vẽ
giỏi những bức tranh sơn dầu. Môda 5 tuổi đã sáng tác được nhạc, 8 tuổi viết
được những bản Xônát đầu tiên. Ở Việt Nam những tài năng xuất hiện sớm ở
Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát, Lương Thế Vinh đều có cơ sở từ những năng
khiếu nhất định. Trong những lĩnh vực như nhạc, họa, toán, thơ, các tài năng
thường xuất hiện sớm. Công trình nghiên cứu của V. Hekơ và I. Xiêhen (Đức)
đã cho biết rằng 401 người có năng khiếu âm nhạc xuất hiện trước 10 tuổi
trong số 441 nhạc sĩ. Vì vậy, cần phải phát hiện kịp thời những năng khiếu ở
trẻ và thời kỳ tối ưu của sự phát triển năng lực và tài năng. Nhưng nếu giáo
dục không đúng, năng khiếu sẽ bị thui chột, thậm chí mất đi. Nếu giáo dục
đúng đắn thì năng khiếu sẽ thành tài năng. Nhà giáo dục phải nắm vững cấu
trúc từng loại năng khiếu, trên cơ sở đó lựa chọn, phát hiện những em có
năng khiếu phù hợp với những hoạt động đầu tiên của trẻ em trên cơ sở đó
kịp thời phát hiện sớm những trẻ có năng khiếu.
Khuynh hướng hoạt động của đứa trẻ thường là dấu hiệu hay triệu
chứng đầu tiên để nhận biết trẻ có năng khiếu. Có trẻ vài ba tuổi đã nghe
nhạc một cách say mê. Có em 4 tuổi đã nói những câu thành vần. Các em
thường biểu hiện khuynh hướng khác nhau trong hoạt động. Phần lớn ở trẻ
có khuynh hướng nào đó rất sớm đối với hoạt động, có thể chứng tỏ trẻ có
tiền đề bẩm sinh nào đó thuận lợi cho sự phát triển năng lực và tài năng.
Song, cũng có trường hợp có những em tỏ ra có khuynh hướng sớm đối với
hoạt động nào đó nhưng không phải do tiền đề bẩm sinh thuận lợi mà do ảnh
hưởng của môi trường bên ngoài như gia đình và những người xung quanh
thì đòi hỏi trẻ phải cố gắng và nỗ lực nhiều mới trở thành tài năng. Việc theo
dõi khuynh hướng hoạt động đầu tiên của đứa trẻ là dấu hiệu quan trọng để
phát triển năng khiếu của trẻ. Song trong thực tế có khi xuất hiện khuynh
hướng và sự hình thành tài năng không đi đôi với nhau. Có những khuynh
hướng giả tạo. Có những đứa trẻ say mê một hoạt động nào đó nhất thời rồi
sau đó lại say mê những hoạt động khác. Sự thay đổi khuynh hướng một
cách nhanh chóng như vậy sẽ khó phát triển năng lực và tài năng. Chỉ có
khuynh hướng thực sự mới là dấu hiệu của sự hình thành tài năng. Muốn
nhận ra khuynh hướng thực sự của trẻ em phải dựa vào ý chí và tình cảm với
hoạt động - Thái độ đó sẽ bảo đảm cho trẻ khắc phục những khó khăn say
mê hoạt động. Trẻ sẽ bị thu hút mãnh liệt sức lực vào hoạt động và đạt kết
quả cao hơn những trẻ không có khuynh hướng.
Tóm lại, khi phát hiện các em có năng khiếu phải kịp thời bồi dưỡng,
đưa các em vào lớp năng khiếu toán, văn, nhạc, họa, hay các lớp nghệ thuật
khác... Gia đình, nhà trường và xã hội cần có chế độ thích đáng để bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước.
5/ Cần có phương pháp dạy dỗ đúng đắn để hình thành năng lực và tài
năng cho học sinh
Những đứa trẻ có điều kiện bẩm sinh gần giống nhau, trong những môi
trường gần như nhau, song do những điều kiện và cách dạy dỗ khác nhau mà
trở thành người có tài năng hoặc vô dụng. Các nhà tâm lý học Xô viết đã tìm
những phương pháp dạy dỗ tinh vi thích hợp với từng đối tượng để hình
thành năng lực. L. X. Xlavina đã tìm hiểu một nhóm học sinh lớp 1 mà người
ta liệt vào loại "dốt", áp dụng những phương pháp dạy dỗ thích hợp ông đã
làm cho các em này làm được những bài toán trong 3 - 4 phút mới làm được.
L. X. Vưgốtxki cho rằng mỗi đứa trẻ có một "vùng phát triển gần nhất"
trong đó đứa trẻ chưa thể tự mình hoạt động được nhưng nếu người lớn giúp
sức, hoặc bắt chước người lớn thì các em có khả năng làm được. Nếu việc
giảng dạy chỉ dựa vào trình độ phát triển đã có thì không tạo điều kiện cho
việc phát triển trí tuệ. Nếu dạy dỗ vượt quá khả năng của đứa trẻ thì cũng khó
phát triển được năng lực của đứa trẻ. Muốn phát triển được năng lực cho học
sinh phải dạy dỗ đi trước sự phát triển một chút.
Song không phải dạy dỗ như thế nào đứa trẻ phát triển năng lực như
thế ấy. Điều có tính chất quyết định trực tiếp để hình thành năng lực ở trẻ là
bản thân chúng phải tích cực tiếp thu và hoạt động để chiếm lĩnh những cái
mà người lớn dạy cho chúng. Người lớn tìm cách kích thích các em hành
động, còn bản thân các em phải tự hành động lấy. Điều đó phụ thuộc vào
động cơ, nhu cầu của đứa trẻ.
Vì vậy, để hình thành và phát triển năng lực cho trẻ em cần phải chú ý
đến việc phát triển toàn bộ nhân cách của chúng phù hợp với yêu cầu của
việc phát triển xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
B. Giá trị và việc hình thành nhân cách
Giá trị có vai trò rất lớn đối với việc hình thành nhân cách. Có thể nói
giá trị là một phạm trù cũng như hoạt động và giao tiếp không thể thiếu được
khi đề cập đến vấn đề nhân cách: hoạt động - giao tiếp - giá trị - nhân cách.
Muốn hình thành được nhân cách trước hết con người phải ý thức
được giá trị của mình. Socrates nói: Con người hãy ý thức được cái tôi của
riêng mình để nhìn thấy cái thánh thiện trong chúng ta.
1) Khái niệm về giá trị
Giá trị đã được dùng nhiều trong các lĩnh vực kinh tế, nghệ thuật, khoa
học, đạo đức, giáo dục, và ngày nay cần đề cập tới trong lĩnh vực tâm lý học,
đặc biệt trong tâm lý học nhân cách.
Tiếng Anh có 2 từ Value và Worth có nghĩa là giá trị.
Giá trị thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể giá trị và đối tượng của việc
đánh giá.
Những vật tưởng chừng không giá trị gì, ví dụ một gốc cây, một nén
hương, nhưng khi con người đặt đức tin vào nó thì trở thành một vật có giá
trị. Một lá cờ là một mảnh vải, nhưng những chiến sĩ lại dám hy sinh để bảo
vệ nó bởi vì lá cờ là hồn nước, là biểu hiện giá trị tinh thần cao quý của cả
một dân tộc.
Như vậy giá trị là cái được chủ thể đánh giá thừa nhận trên cơ sở mối
quan hệ với sự vật đó.
Chủ thể có thể là một cá nhân, một nhóm người hay một xã hội. Tùy
theo mối quan hệ của chủ thể với sự vật mà sự vật đó có giá trị. Hòn đá khi
không có quan hệ với con người nó chưa có giá trị, khi con người dùng để
ngồi hoặc vật để làm vật chặn giấy thì hòn đá đó trở nên có giá trị.
2) Các loại giá trị
Thông thường trước đây ta đã thừa nhận có 3 loại giá trị chân, thiện,
mỹ. Hiện nay, người ta lại hướng đến Thiện - Lợi - Mỹ.
Lợi là giá trị có ý nghĩa thiết thân trực tiếp cuộc sống của cá nhân. Lợi
là một cái gì mang tính riêng tư có liên quan đến nhân cách con người.
Thẩm mỹ chỉ liên quan trực tiếp đến cảm xúc cái đẹp đối với cuộc sống
con người trong từng mặt nào đó. Một đối tượng đẹp gợi lên cho chủ thể một
kích thích khoái cảm, yêu thích, một trạng thái tình cảm dễ chịu, hứng khởi.
Thiện thể hiện ở đạo đức. Con người có đạo đức hướng giá trị về xã
hội, về người khác, cuộc sống của cá nhân vì cộng đồng.
Như vậy, thiện thể hiện giá trị xã hội của cá nhân có ảnh hưởng đến
cộng đồng.
Lợi là giá trị cá nhân có ảnh hưởng đến sự tồn tại của cá nhân, hướng
vào cái tôi.
Mỹ giá trị cảm quan ảnh hưởng tới những bộ phận riêng biệt đến sự tồn
tại cá nhân.
Khi đánh giá một đối tượng nào điều quan trọng không phải bản chất
của đối tượng đó mà điều căn bản nhất của đối tượng đó mà điều căn bản là
tiêu chuẩn mà chủ thể căn cứ vào đó để đánh giá đối tượng.
Cantơ nói: "Cái đẹp không phải là đôi má hồng của cô thiếu nữ mà ở
đôi mắt của kẻ si tình."
Một người khi đánh giá về một đối tượng nào có thể căn cứ về mối
quan hệ nào đó để phán xét, khen chê, xấu, tốt. Căn cứ vào thiện - ác ta có
giá trị đạo đức, vào lợi - hại ta có giá trị kinh tế, vào đẹp - xấu ta có giá trị
thẩm mỹ.
Tuỳ thuộc vào nhân cách của chủ thể mà có thái độ đối với giá trị khác
nhau. Giá trị cùng thay đổi theo thời gian của cuộc sống con người. Trong
một giai đoạn của cuộc đời có thể một đối tượng nào đó có giá trị với anh ta,
nhưng trong một giai đoạn khác cái ấy trở thành vô ích. Trong mỗi giai đoạn
lịch sử, trong mỗi thời đại, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc cũng có những giá trị
khác nhau. Tất nhiên trong một mức độ nhất định giá trị không chỉ phụ thuộc
vào chủ quan mà còn phụ thuộc vào khách quan bản thân của đối tượng đó.
Cô gái xấu số chỉ đẹp đối với anh chàng si tình, còn không thể là đẹp
đối với các chàng trai tỉnh táo khác.
Cái thiện ở đây được hiểu một cá nhân nào hòa nhập được cái chung
của mọi người, sống vì người khác được coi là người có nhân cách tốt. Còn
lợi ích của cá nhân xâm hại lợi ích của tập thể được coi là xấu.
Theo tiêu chuẩn đó một người gọi là thiện, có đạo đức là người thực
hiện theo nguyên tắc mà người phương Tây đề ra: "Hãy làm cho người khác
những gì mình muốn họ làm cho mình". Ngược lại ở phương Đông Khổng Tử
nêu: "Cái mà mình không muốn kẻ khác làm cho mình thì mình đừng làm cho
kẻ khác".
Thật ra cái mà mình muốn chưa chắc người khác đã muốn. Do đó
không thể làm cho người khác cái mà mình muốn được. Chỉ có thể không làm
cho người khác cái mà mình không muốn thôi. Câu nói của triết gia Khổng Tử
có lí là ở chỗ đó.
3) Con đường hình thành nhân cách
Theo Tsunesaburo Makiguchi nhà giáo dục học Nhật Bản. Giá trị là sự
thể hiện có tính định hướng của mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và đối
tượng của việc đánh giá.
Theo Phạm Minh Hạc, muốn hình thành nhân cách phải giáo dục giá trị.
Bởi vì: "Nhân cách chính là mối quan hệ - mức độ phù hợp giữa hệ thống giá
trị, thước đo giá trị của chủ thể với hệ thống giá trị và thước đo giá trị của
nhóm, cộng đồng, xã hội, nhân loại. Mức độ là phạm vi phù hợp càng cao -
nhân cách càng lớn".
Trên cơ sở đó ông đề ra con đường hình thành nhân cách bằng cách
tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách.
Trong lời giới thiệu của Vũ Khiêu trong tác phẩm "Giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam" cho rằng giá trị xuất hiện từ mối quan hệ
xã hội giữa chủ thể và đối tượng. Các loại giá trị: giá trị vật chất và giá trị tinh
thần, giá trị xã hội và giá trị cá nhân, giá trị thiết yếu và giá trị cao đẹp.
"Tổng hợp những giá trị ấy ở mỗi cá nhân sẽ đem lại cho cá nhân ấy
một bản lĩnh độc đáo khiến cho cá nhân ấy trở thành một nhân cách độc đáo
và tồn tại như một giá trị".
Nếu như giá trị theo quan niệm của Khổng Tử: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín
(Trung Hoa) thì ở Việt Nam theo Trần Văn Giàu có bảy giá trị đạo đức truyền
thống tạo nên bản sắc nhân cách người Việt Nam. Đó là:
- Yêu nước
- Cần cù
- Anh hùng
- Sáng tạo
- Lạc quan
- Thương người
- Vì nghĩa.
Để hình thành nhân cách, mục tiêu của chiến lược con người Việt Nam
sang thế kỷ 21, giáo dục được coi là quốc sách phát triển hàng đầu, là bệ
phóng đưa đất nước vươn lên tầm cao của các dân tộc văn minh trên thế
giới. Để làm được nhiệm vụ này giáo dục trong chiến lược của mình phải định
hướng giá trị nhân cách đạo đức và giá trị nhân cách trí tuệ. Đó là giá trị đạo
đức và tài năng trong nhân cách.
Chức năng của giáo dục là dẫn dắt con người định hướng có ý thức về
giá trị Thiện - Lợi - Mỹ; thực hiện một nhân cách đức tài trong xã hội phát triển
năng động.
Hiện nay sau 10 năm đổi mới bậc thang giá trị trong tâm lý người Việt
Nam đã có xu thế biến đổi.
Mặt tích cực trong tâm lý con người Việt Nam là từ con người trong cơ
chế bao cấp chuyển sang năng động, tính đến hiệu quả kinh tế, chấp nhận
cạnh tranh, lao động và học tập sôi nổi thiết thực.
Mặt khác, việc định hướng về giá trị kinh tế năng lực giá trị tinh thần,
văn hóa, chính trị: lợi ích cá nhân và gia đình, coi trọng hơn lợi ích xã hội, tập
thể - giá trị hiện đại lấn át giá trị truyền thống, giá trị trước mắt hơn giá trị lâu
dài.
Nhiệm vụ giáo dục của ta hiện nay phải hình thành con người từ một
nhân cách mang tính cá nhân trở thành một nhân cách mang tính xã hội. Giáo
dục là phương tiện hữu hiệu để xã hội hóa từng cá nhân, mỗi cá nhân bên
cạnh coi trọng lợi ích cá nhân mình còn phải coi trọng hơn lợi ích của cộng
đồng và lợi ích của xã hội. Con người từ khi ra đời được sự giáo dục gia đình
đến khi đến trường được sự giáo dục của nhà trường, rồi đến khi làm việc
trong xã hội cần thấm nhuần các tư tưởng đó. Đó chính là giá trị nhân cách xã
hội của người Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Chương 6. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI CỦA NHÂN CÁCH
I – NHÂN CÁCH LÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học, tâm lý học, y
học, luật học, xã hội học, v.v... Trong tâm lý học không chỉ có tâm lý học đại
cương nghiên cứu nhân cách mà tâm lý học xã hội cũng nghiên cứu nhân
cách. Sự phân biệt rạch ròi mặt tâm lý xã hội của hoạt động con người là rất
khó, bởi vì ở một mức độ nào đó tâm lý học xã hội xem xét nhân cách có liên
quan với xã hội học và tâm lý học đại cương.
Đứng về mặt tâm lý xã hội chúng ta hiểu nhân cách là gì. Chúng ta đều
biết người ta hay sử dụng các thuật ngữ khác nhau: con người, cá nhân,
nhân cách, chủ thể, cá tính để chỉ những cái gì có quan hệ đến con người.
Con người là khái niệm duy nhất, chỉ sự tồn tại về mặt thể chất, mặt
sinh vật, có sức mạnh tự nhiên, là một sự tồn tại giống loài, nhưng ở mức độ
cao nhất của sự phát triển giống loài. Nó vừa là thực thể tự nhiên, vừa thực
thể xã hội, nhưng có bản chất là xã hội.
Cá nhân là con người cụ thể, là một chỉnh thể không thể phân chia
được. Khi xem xét một con người cụ thể, người ta có ý phân biệt với nhóm
người, với tập thể và xã hội.
- Nhân cách là những phẩm giá cá nhân thể hiện mức độ phát triển cao
về mặt xã hội. Vì một yêu cầu nào đó chúng ta phải phân biệt ba khái niệm
này. Song chúng ta không nên quá cường điệu về sự khác nhau giữa chúng.
Cả ba khái niệm đều có tính chất xã hội. Song chỉ có sự khác nhau về mức độ
xã hội mà thôi.
Trong quá trình xã hội hóa cá nhân con người trở thành nhân cách,
những phẩm chất nhân cách gắn liền với hoàn cảnh xã hội, với chế độ kinh tế
xã hội, với nhiều đặc điểm xã hội khác.
Nhân cách được hình thành trong quá trình phát triển cá thể của xã hội.
Vì vậy có khái niệm kép "nhân cách - xã hội", nghiên cứu nhân cách con
người là nghiên cứu bản chất xã hội của con người.
Bên cạnh khái niệm "con người", "cá nhân", "nhân cách" còn có khái
niệm "chủ thể". Theo B. G. Ananiev con người là chủ thể của nhận thức, lao
động và giao tiếp. Để trở thành chủ thể của hoạt động cá nhân cần phải xã
hội hóa.
Xã hội học nghiên cứu nhân cách với những thuộc tính cá nhân, với tư
cách là kiểu xã hội, những nét cơ bản của nó phụ thuộc vào vị trí xã hội, hoàn
cảnh xã hội.
Trong xã hội học nhân cách trước hết đó là chủ thể của các quá trình
lịch sử, kinh tế xã hội, là sản phẩm của các quá trình đó, đồng thời là kết quả
của các quá trình xã hội hóa cá nhân. Với tư cách là chủ thể của các quá trình
lịch sử xã hội, nhân cách không chỉ thể hiện ở cá nhân, mà thể hiện ở nhóm
xã hội, ở giai cấp, dân tộc, có nghĩa là ở cộng đồng xã hội.
Xã hội học quan tâm đến kiểu xã hội của nhân cách, gắn liền nhân cách
với nhóm xã hội, với các cá nhân khác. Với ý nghĩa nào đó phương pháp xã
hội học đối với nhân cách khác tâm lý học đại cương.
Nghiên cứu tâm lý đại cương về nhân cách là sự nghiên cứu con người
với tư cách là người mang tổng hòa các đặc điểm tâm lý quy định hình thức
hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội. Tâm lý học đại cương nghiên cứu
những quan hệ chủ thể bên trong, những phẩm chất của con người thực hiện
như một nhân cách, động cơ của hoạt động và hành vi.
Khác với xã hội học, tâm lý học đại cương nghiên cứu nhân cách chủ
yếu là khâu đầu tiên của chủ thể bản chất bên trong của chủ thể và cuối cùng
là điều kiện xã hội của chủ thể. Nhà tâm lý học quan tâm đến các thuộc tính
tâm lý bên trong, những quá trình tiếp nhận ảnh hưởng bên ngoài, nghiên cứu
các chức năng điều chỉnh hành vi của nhân cách như tính cách, khí chất,
năng khiếu, năng lực, động cơ.
Với tư cách là bộ môn giữa tâm lý học và xã hội học; tâm lý học xã hội
nghiên cứu có tính chất lịch sử cụ thể những thuộc tính tâm lý, cấu trúc bên
trong của nhân cách như là chủ thể của mối quan hệ xã hội.
Tâm lý học xã hội thực hiện sự tổng hợp bước tiếp cận xã hội học và
tâm lý học đại cương trong nghiên cứu nhân cách, nghiên cứu cấu trúc nhân
cách như là chủ thể và khách thể của các quá trình lịch sử, của mối quan hệ
xã hội cụ thể. Đối tượng của tâm lý học xã hội nhân cách nghiên cứu kiểu chủ
thể, sự điển hình hóa chủ thể xã hội, với tính cách là cá nhân, nghiên cứu các
kiểu hoạt động xã hội, gắn liền với mức độ cấu trúc tâm lý bên trong: động cơ,
định hướng giá trị, tâm thế xã hội, và các cơ cấu vị thế khác của nhân cách.
1- Khái niệm nhân cách trong tâm lý học xã hội:
Muốn hiểu được khái niệm nhân cách trước hết hãy đề cập tới vấn đề
thuật ngữ "nhân cách". Cuối thế kỷ 19 ở phương Tây đã xuất hiện những
khuynh hướng nghiên cứu đời sống tâm lý con người một cách trọn vẹn. W.
Stean đã viết tác phẩm "Bàn về tâm lý học khác biệt cá nhân", trong đó ông
đưa ra khái niệm "Person" để chỉ bất kỳ một thực thể nào, có khả năng tự xác
định và tự phát triển trong thế giới vô cơ bên trong thế giới hữu cơ. Theo ông
toàn bộ thế giới là một cơ chế có thứ bậc của Person có thuộc tính "nhân
cách".
Thuật ngữ dùng để chỉ khái niệm mà tiếng Pháp gọi là "Personnalité" có
các nghĩa như sau:
1- Nhân cách, nhân phẩm, 2- Cá tính, nhân vật 3- Pháp nhân - Trong từ
điển Nga Việt, có nghĩa là 1) nhân cách, nhân phẩm, cá tính, con người, nhân
vật; 2) Cá nhân. Trong từ điển học sinh từ nhân cách được giải thích là tư
cách và đạo đức của con người. Những tài liệu chính thức ở Việt Nam đã có
ý cho nhân cách là phẩm chất và năng lực, hay đức và tài của con người.
Trước hết hãy nói đến khái niệm nhân cách mà các nhà khoa học đã thống
nhất ở một số thuộc tính cơ bản. Đó là những thuộc tính ổn định của con
người thống nhất thành một chỉnh thể, là chủ thể và khách thể của các mối
quan hệ là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái cá biệt. So sánh với
nội dung trên ta thấy các thuật ngữ: nhân vật, nhân phẩm, nhân tính, nhân
tâm, tư cách, cá tính, bản tính, tính cách đều chưa có sự thỏa mãn. Vậy, ở
Việt Nam thuật ngữ nhân cách có bao hàm được nội dung trên chưa. Tạm
tách chữ "nhân" và chữ "cách" ra khỏi chữ "nhân cách " để phân tích hai từ
đó trong mối quan hệ của từ này. Chữ "nhân" vừa có nghĩa chỉ con người với
tư cách đại diện cho lời người đối lập với loài vật, vừa có nghĩa chỉ con người
cụ thể (cá nhân) – chữ "cách" có nghĩa là phẩm cách, chỉ phẩm chất và giá trị
xã hội của con người. Tuy nhiên ở ta thuật ngữ "nhân cách" thiên về mặt đức
hơn ra mặt tài của con người. Điều đó có thể chấp nhận được. Một con người
được gọi là có tài phải dùng cái tài đó phục vụ cho xã hội, giai cấp, một tập
đoàn người, một cộng đồng người thì mới gọi là người có nhân cách.
Để làm rõ khái niệm nhân cách hãy điểm qua một số loại định nghĩa
nhân cách.
1. Định nghĩa nhân cách với tư cách là con người cụ thể với toàn bộ
những đặc điểm của nó. (A. G. Kovaliev, K. K. Platonov, Bách khoa toàn thư
về triết học của Liên Xô...). Ví dụ K. K. Platonov nêu định nghĩa nhân cách
như sau: nhân cách là con người cụ thể, như là một chủ thể cải tạo thế giới,
trên cơ sở nhận thức và thể nghiệm thế giới, trên cơ sở quan hệ với thế giới
đó". A. G. Kovaliev "nhân cách là con người sinh động cụ thể, một thành viên
xã hội, một chủ thể hoạt động của sự phát triển xã hội".
2. Định nghĩa nhân cách với tư cách là một cấu trúc tâm lý (Cattek A. N.
Leonchiev, A. L. Secbacov).
Ví dụ.: A. L. Secbakov định nghĩa nhân cách như sau: "Nhân cách là sự
hình thành một cách trọn vẹn những cấu trúc tâm lý phản ánh bản chất xã hội
của con người hiện thực với tư cách là chủ thể có ý thức của nhận thức và
tích cực cải tạo thế giới". A. N. Leonchiev "nhân cách là một cấu tạo tâm lý
mới được hình thành trong mối quan hệ sống của cá nhân do kết quả cải tạo
của con người đó".
3. Định nghĩa nhân cách là sự thống nhất các thuộc tính sinh vật, tâm
lý, xã hội của con người. (V. Tardy, J. Maset, L. M. Arkhangelxki. W.)
Ví dụ: V. Tardy (Tiệp Khắc) định nghĩa nhân cách như sau: "nhân cách
là sự thống nhất cá nhân con người, là sự thống nhất các thuộc tính tâm hồn
và cơ thể trong mối quan hệ xã hội". L. M. Arkhangelxki "nhân cách là mức độ
xã hội trong sự phát triển cá nhân con người".
4. Nhân cách được hiểu như là một hệ thống, một tổ chức, một cấu trúc
điều khiển hoạt động con người. (K. Ohakhowxki, J. Reykowxki, J. Koriclxki.
W).
Ví dụ: J. Reykowxki "nhân cách là hệ thống trung tâm điều khiển và sự
liên kết các hoạt động". K. Obakhowxki "Nhân cách vừa như là tổ chức thông
tin vừa như là tổ chức những đặc điểm chức năng của nó được tạo thành
dưới ảnh hưởng của hoạt động riêng của con người".
Điểm qua một số định nghĩa nhân cách chưa tiêu biểu hết những loại
định nghĩa nhân cách chúng ta có thể nhận xét sơ bộ sau:
1.Giới hạn khái niệm nhân cách và khái niệm con người chưa rõ ràng,
nhiều đặc điểm nhân cách lặp lại trong đặc điểm con người.
2. Những tiêu chuẩn hình thành nhân cách chưa có sự thống nhất, tiêu
chuẩn nào là đặc trưng nhất cho nhân cách.
3. Chưa có sự thống nhất trong cách biểu đạt khái niệm, nhân cách là
con người... (K. K. Platonov, nhân cách là chủ thể (A.V. Petrovxki), nhân cách
là cấu trúc tâm lý mới (A. N. Leonchiev), nhân cách là cá thể có tính chất xã
hội (B. G. Ananiev) nhân cách là hệ thống, là cấu trúc, nhân cách là cá nhân...
Đó là chưa kể những định nghĩa nhân cách không đưa vào đây mang
tính chất liệt kê, miêu tả các mặt khác nhau của nhân cách, nhấn mạnh đến
mặt đạo đức, trí tuệ, mặt hành vi của nhân cách, mặt sinh vật, xã hội của
nhân cách.
Để có một định nghĩa hợp lý về nhân cách định nghĩa đó phải nêu được
mối quan hệ cá nhân và xã hội, và bản chất tích cực xã hội của nhân cách.
Quá trình phát triển cá nhân và hình thành cá nhân với tư cách là quá
trình xã hội hóa, không thể tiến hành ngoài xã hội, xã hội cũng không nằm
ngoài nhân cách mà là bản chất của nhân cách. Các Mác viết "Bản chất của
cá nhân không phải là râu, không phải là tóc, không phải là tính chất vật lý
trừu tượng của cá nhân đó, mà là chất xã hội của cá nhân đó".
Quan niệm của Các Mác về bản chất xã hội của cá nhân là tiền đề
phương pháp luận của việc hiểu khái niệm nhân cách. Thừa nhận tính xã hội
của nhân cách không có nghĩa thu về tất cả các tính chất xã hội một cách thụ
động. Nhân cách trong ý nghĩa đầy đủ của nó phải được hiểu là chủ thể của
hoạt động, của sự phát triển xã hội. Tiêu chuẩn tiến bộ xã hội của cá nhân
được thể hiện ở mức độ phát triển xã hội của cá nhân đó.
Nhân cách là những phẩm giá của cá nhân phải đạt trong hệ thống mối
quan hệ xã hội. Chúng ta giải thích nhân cách cá nhân là những phẩm giá mà
cá nhân đó có được, cá nhân đó tự tạo ra, tự đánh giá về những phẩm chất
đó. Nhân cách hiện ra ngay cả những cái gì sâu kín. Tùy không gian tồn tại
của cá nhân, nó thể hiện như người mang phẩm giá đầy đủ của cá nhân
mình.
Trong xã hội cá nhân không đứng riêng rẽ, cá nhân được gắn liền với
cá nhân khác. Nhân cách được xác định trong không gian tồn tại của các cá
nhân khác, với tư cách là người mang nhân cách của mỗi một trong số họ. Ở
đây nhân cách được thể hiện trong những đồ vật mà cá nhân có quan hệ,
thông qua hoạt động và giao tiếp của họ. Trong trường hợp này nhân cách
thể hiện bên ngoài, không gian cơ thể của cá nhân. Nhân cách còn thể hiện
trong tập thể, nhóm mà cá nhân đó sống. Nhân cách của mỗi người được
đánh giá bằng những phẩm chất chung của nhóm, của tập thể. Vì vậy tập thể
có trách nhiệm một phần đối với nhân cách cá nhân sinh hoạt trong tập thể,
trong nhóm của mình. Cá nhân cũng có trách nhiệm phẩm giá chung của tập
thể.
Như vậy nhân cách thể hiện bởi những phẩm chất, phẩm giá cá nhân
có trong mối quan hệ nhóm và tập thể mà cá nhân đó có quan hệ. Nhân cách
cá nhân còn trong những quan niệm và đánh giá của người khác, cá nhân
khác. Mỗi cá nhân ý thức được phẩm giá của mình trong hệ thống mối quan
hệ xã hội.
Trên cơ sở phân tích như vậy chúng ta có thể định nghĩa nhân cách là
hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân, thể hiện mối quan hệ xã hội (cá
nhân - cá nhân, cá nhân nhóm - tập thể - cá nhân - cộng đồng xã hội), trong
quá trình hoạt động và giao tiếp của cá nhân đó.
Bằng hoạt động và giao tiếp con người ý thức được phẩm chất và giá
trị của mình trong hệ thống mối quan hệ xã hội. Điều đó có nghĩa là con người
đã trở thành chủ thể của mối quan hệ xã hội. Nhân cách chỉ được hình thành
khi nào con người ý thức được mình, ý thức được mối quan hệ của mình đối
với người khác, đối với xã hội.
Như vậy nhân cách không bao gồm toàn bộ những phẩm chất tâm lý xã
hội mà những phẩm chất và tâm lý này được đánh giá về mặt xã hội với tư
cách là hệ thống những phẩm giá xã hội nhất định.
Cách hiểu nhân cách như vậy không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà
còn góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn trong việc hình thành và phát
triển con người mới xã hội chủ nghĩa và trong đó giá trị xã hội, tính tích cực
xã hội là thước đo nhân cách.
2. Đặc điểm tâm lý của nhân cách và điều kiện tiền đề xã hội của nó
Để hiểu đặc điểm tâm lý của nhân cách và điều kiện xã hội của nó cần
phải hướng đến tâm lý học đại cương, những quy luật và cơ chế chung của
tâm lý học. Song cũng cần lưu ý rằng không nên mô tả nhân cách như là sự
liệt kê đơn giản những thuộc tính tâm lý và mối quan hệ được thực hiện giữa
chúng. Nhân cách không đồng nghĩa với tất cả đời sống tâm lý con người mà
chỉ ở cấp bậc cao của đời sống tâm lý của con người.
Vì vậy đặc điểm đầu tiên của nhân cách là biểu hiện mặt bên trong của
quan hệ bên trong chủ thể tức là những cấu trúc tâm lý bên trong của con
người.
Ví dụ như thành phần tổng hợp tâm lý bậc cao, tính chất trọn vẹn bậc
cao, sự thống nhất mặt cơ bản và phẩm chất tâm lý (nhận thức và xúc cảm).
Nhóm nét thứ hai có tính chất đặc thù với nhân cách là mối quan hệ
chủ thể - khách thể. Điều này thể hiện tính độc lập và tính bền vững của nhân
cách trước tác động của môi trường. Chủ thể phải điều khiển bản thân mình,
hành động và hành vi của mình cho phù hợp với khách thể.
Mặt thứ ba của tính đặc thù của nhân cách là mối quan hệ chủ thể và
chủ thể, mối quan hệ giữa các cá nhân. Ở mặt này chúng ta nghiên cứu ảnh
hưởng của người này đối với người khác. Vì vậy, nhân cách không chỉ ở bản
thân cá nhân mà còn ở sự đánh giá của người khác có quan hệ với cá nhân.
Điều này thể hiện tiềm năng xã hội của con người được đánh giá qua mức độ
phát triển của người khác.
Theo A.Maslow (Abram Maslow) những dấu hiệu tốt của con người có
thể gọi là nhân cách gồm chức năng lạc quan và nhân cách bản thân cấp
thời. Nó bao gồm các tính chất tâm lý sau:
1 - Nhận thức hiện thực khách quan, phân biệt cái biết và cái không
biết, cái cụ thể và cái trừu tượng.
2 - Nhận thức bản thân, người khác và thế giới.
3 – Hướng đến việc giải quyết những vấn đề bên ngoài, tập trung
hướng đến khách thể.
4 - Khả năng chuyển nhu cầu từ bên ngoài vào bản thân.
5 - Khả năng sáng tạo.
6 - Tính chất tự nhiên của hành vi.
7 - Quan hệ hữu nghị đối với mọi người tốt, ngoài các quan hệ có tính
chất giáo dục hoặc tính chất khác.
8 - Khả năng có quan hệ sâu sắc đối với một số ít người.
9 - Quy định mặt đạo đức, phân biệt những mặt xấu và tốt.
10 - Độc lập tương đối với hoàn cảnh vật lý cũng như hoàn cảnh xã hội.
11 - Có ý thức phân biệt giữa mục đích và phương tiện.
12 - Tính chất quy mô lớn của nội dung tâm lý và hoạt động, (những
người này có tiền đồ lớn, lãnh dạo rộng, có giá trị vạn năng).
Ba tính chất sau cùng (10, 11, 12) thể hiện mức độ cao của nhân cách,
tính chất tự nhiên của hành vi, tính chất chân thành của con người có thể dẫn
tới phạm trù dấu hiệu bên trong của nhân cách. Một người mang dấu hiệu
nhân cách tự thân cấp thời là phải góp phần phát triển nhân cách người khác,
tuy việc phát triển nhóm xã hội và trong xã hội nói chung, thể hiện tính chất
tiềm năng xã hội cao. Nhưng để đạt được mức độ cao của nhân cách cần
phụ thuộc vào các điều kiện khác nhau.
Cơ chế tâm lý để xem xét những thuộc tính nhân cách bao gồm niềm
tin và mục đích. Niềm tin sẽ điều chỉnh các yếu tố tâm lý, hình thành những
chức năng tâm lý. Mặt nhu cầu trong nhận thức và cải tạo thế giới có vai trò
quan trọng của tính chất chủ thể - khách thể của nhân cách. Nhu cầu là một
động lực mạnh mẽ phát triển nhân cách.
Vấn đề những cơ sở tâm lý của tiềm năng xã hội của nhân cách được
xem xét như là giới hạn giữa tâm lý học đại cương và xã hội học. Dựa vào
mối quan hệ tính chất đặc thù của nhân cách xã hội được thể hiện mối quan
hệ bên trong chủ thể, chủ thể, khách thể, giữa các chủ thể. Người ta dựa vào
tính chất tâm lý xã hội để hình thành nên cấu trúc nhân cách, và ý nghĩa xã
hội để hình thành chức năng nhân cách. Trong một tính chất chủ thể - khách
thể nhân cách được biểu hiện ở hiện tượng độc lập, với hiện thực, phản ánh
nhiều mức độ của tính khách quan, cải tạo khách thể cụ thể, góp phần vào
việc phát triển nhân cách.
Trong mối quan hệ bên trong chủ thể, nhân cách thể hiện ở hiện tượng
tự khẳng định, tính mục đích diễn ra theo ba hình thức: nội dung (sự thống
nhất mục đích), hình thức công cụ (phong cách sống), về mức độ (năng lực
chung). Sự thật tính chất của nhân cách diễn ra trong các hình thức phong
phú và muôn hình muôn vẻ.
3. Tính quy luật của sự phát triển ý thức đạo đức của nhân cách
Trong các tài liệu triết học và tâm lý học người ta phân chia 3 mức độ
chính của việc phát triển ý thức đạo đức của nhân cách. Mức độ đầu tiên là
mức độ trước khi có đạo đức tức là khi đứa trẻ còn chịu sự thúc đẩy vị kỷ
riêng của mình. Mức độ thứ hai là mức độ đạo đức được quy ước, hướng
đến một tiêu chuẩn hay một yêu cầu nhất định. Mức độ thứ ba là mức độ đạo
đức tự trị (avtonomnai moral), có nghĩa là hướng đến hệ thống những nguyên
tắc bên trong có tính chất phổ biến.
Để hiểu rõ một cách chi tiết hơn vấn đề phát triển đạo đức của nhân
cách chúng ta hãy tìm hiểu quan điểm của nhà tâm lý học Mỹ L.Kohlberg.
Trong khi phát triển những chỉ dẫn của J. Piagiet và L.X.Vưgotxki về sự phát
triển ý thức đạo đức của trẻ song song với sự phát triển trí tuệ, L.Kohlberg đã
phân chia mức độ phát triển ý thức đạo đức ra các giai đoạn sau: a) giai đoạn
tiền đạo đức. 1) Trẻ lắng nghe để tránh hình phạt. 2) Trẻ chịu sự chỉ đạo của
ý nghĩa vị kỷ của lợi ích riêng. b) Giai đoạn đạo đức quy ước phù hợp với các
mức độ sau: 3) Nếu trẻ tốt, có nguyện vọng về cái tốt và biết xấu hổ trước lời
khiển trách. 4) Tâm thế giữ vững những quy ước đã được hình thành, cái gì
tốt phù hợp với luật lệ. c) Giai đoạn đạo đức tự trẻ gắn liền với việc chuyển
biến những vấn đề bên trong của nhân cách. Trong giai đoạn này có 2 giai
đoạn nhỏ: 5a) Khi nhận biết tính chất tương đối và tính chất điều kiện của quy
tắc, đạo đức và đòi hỏi có cơ sở lôgic. Sau giai đoạn 5a là giai đoạn 5b: "sự
tương đối" thay đổi những dấu hiệu của những quy luật cấp cao, phù hợp với
lợi ích đa số. Giai đoạn thứ 6 hình thành những nguyên tắc đạo đức bền
vững. Giai đoạn thứ 7 là giai đoạn cao nhất khi giá trị đạo đức xuất phát từ
tiền đề triết học chung. Nhưng giai đoạn này ít người đạt được.
Để thấy rõ mối quan hệ giữa các giai đoạn phát triển trí tuệ theo Piagiet
và các giai đoạn phát triển đạo đức của Kohlberg chúng ta so sánh theo bảng
sau:
Cái giai đoạn lôgic Các giai đoạn đạo đức
+ Tư duy tượng trưng,
trực giác
+ Các thao tác cụ thể
Giai đoạn 1
Giai đoạn 0 – cái gì tốt tôi muốn tôi thích
nó.
Giai đoạn 1 – Vâng lời, xuất phát từ việc sợ
lời khiển trách.
Giai đoạn 2
+ Thao tác hình thức:
- Giai đoạn 1
- Giai đoạn 2
- Giai đoạn 3
- Giai đoạn 4
Giai đoạn 2: trao đổi sự giúp đỡ.
Giai đoạn 3: định hướng tới ý kiến có ý
nghĩa của người khác.
Định hướng đến việc giữ vững những
nguyên tắc đã được hình thành.
Giai đoạn 5a:
Tính thực dụng và biểu tượng về đạo đức
với tính cách là sản phẩm của quy tắc xã
hội.
Giai đoạn 5b: Hướng tới lời khuyên cá
nhân và luật lệ cao cấp
Giai đoạn 6: định hướng tới những nguyên
tắc đạo đức tổng hợp.
Sự kiểm tra bằng thực nghiệm lý thuyết của Kohlberg được tiến hành ở
Mỹ, Anh, Canada, Mêhicô và một số nước khác. Những công trình này đều
khẳng định tính quy luật bền vững của mối quan hệ có quy luật giữa mức độ ý
thức đạo đức cá nhân với sự phát triển trí tuệ. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng
tính chất khó khăn của việc trưởng thành ý thức đạo đức. Lần đầu tiên người
thanh niên nhận biết tính tương đối của tiêu chuẩn đạo đức, nhưng có khi anh
ta lại không biết điều đó, anh ta lén đi tìm sự tương đối đạo đức, ý thức về giá
trị tương đối của đạo đức là một tiến bộ về chức năng so sánh với giai đoạn
trẻ em trước nó.
Vậy, sự phát triển ý thức đạo đức của nhân cách có quan hệ với hành
vi như thế nào.
Ở mức độ trí tuệ, sự phát triển đạo đức là ý thức được và khái quát
được những phán đoán, trong mức độ hành vi là hành động hiện thực, tính
nhất quán của hành vi, khả năng chống lại những cám dỗ, những ảnh hưởng
của hoàn cảnh. Sự đánh giá con người theo hành vi hơn là sự phán đoán về
đạo đức. Những điều này là rất khó. Bởi vì không phải hành vi nào của con
người có thể phản ánh trung thực về nhân cách con người. Có những đứa trẻ
trong một hoàn cảnh nào đó tỏ ra dũng cảm, song cũng không kết luận là nó
dũng cảm được, vì có những lúc nó rất sợ.
Một trong những khuynh hướng chính hiện nay là nghiên cứu sự phát
triển đạo đức với tư cách là nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của ý thức đạo
đức của cá nhân đến hành vi của họ. Ví dụ mức độ phát triển sự phán đoán
đạo đức của trẻ đã điều chỉnh hành vi của nó trong những hoàn cảnh xung
đột mà nó cần phải giải quyết, hoặc là lừa dối chịu sự dằn vặt lương tâm,
hoặc là nói thật. Người có ý thức đạo đức cao thường ít có sự thay đổi
khuynh hướng đối với hành vi đã được ổn định.
Đặc điểm lý thuyết của Kohlherg là ở chỗ ông ta xem xét sự phát triển
cấu trúc của ý thức đạo đức không liên quan tới sự thay đổi nội dung và chức
năng của nó. Điều đó chỉ có thể đúng trong một số trường hợp cụ thể. Nhưng
những trường hợp khác không thể đúng được. Ví dụ việc nắm vững một vài
hệ thống thao tác lôgic nào đó, không có nghĩa là trẻ có khả năng áp dụng hệ
thống này trong thực tiễn. Để áp dụng đúng không chỉ nắm vững các thao tác
trí tuệ phù hợp mà còn đánh giá đúng đắn cách giải quyết nhiệm vụ phù hợp.
Hơn nữa cần phải tính đến yếu tố xã hội nhân cách trong việc giải quyết
những nhiệm vụ đạo đức, nhiệm vụ này luôn luôn có quan hệ đến hệ thống
giá trị nhân cách. Phương pháp của Kohlberg rất hạn chế trong việc giải quyết
những vấn đề nhân cách. Mức độ khác nhau của ý thức đạo đức thể hiện
không chỉ trong giai đoạn phát triển mà còn thể hiện các kiểu nhân cách khác
nhau, không phụ thuộc vào điều kiện phát triển trí tuệ. Ví dụ một người nào
đó phải xử 3 người ăn cắp, người thứ nhất là một người lạ, người thứ hai là
một người bạn, người thứ ba là mẹ của mình, thì rõ ràng đối với người thân
người đó sẽ dùng lời khuyên bảo để giảm tội, còn người lạ thì sẽ áp dụng
đúng luật để xử phạt. Rõ ràng, sự phát triển các giai đoạn đạo đức như nhau,
nhưng tùy hoàn cảnh mà cách áp dụng có khác nhau. Mặc dù Kohlberg thừa
nhận ý nghĩa của mặt hành vi, xúc cảm của phát triển đạo đức, nhưng chủ
yếu ông vẫn quan tâm nhiều đến việc hình thành phán đoán đạo đức. Theo ý
kiến của ông phán đoán đạo đức của trẻ và của thanh niên trước hết có hình
thức khái quát tượng trưng của tư duy. Vì vậy bước chuyển từ giai đoạn thấp
đến giai đoan cao không đòi hỏi kinh nghiệm đạo đức, và mối quan hệ giữa
phán đoán đạo đức và kinh nghiệm nhân cách xuất hiện chỉ ở người lớn, mức
độ đạt được "đạo đức tự lập". Nhân cách được đánh giá không chỉ qua sự
hiểu biết đạo đức mà phải thông qua thực tiễn hoạt động của họ, qua sự sẵn
sàng tâm lý đối với hoạt động nào đó.
4- Tâm thế của nhân cách
Nhưng việc hiểu tâm thế như Uznadze không thể áp dụng trong tâm lý
học xã hội. Tâm thế được ông coi như là sự thực hiện những nhu cầu tâm
sinh lý giản đơn ở con người và ngay cả những hiện tượng vô thức.
Hiện nay ở Liên Xô hiểu vấn đề tâm thế theo các khái niệm khác nhau.
Vấn đề tâm thế nhân cách được V.N.Miaxisev như là thái độ của con người.
Thái độ được hiểu như là hệ thống mối liên hệ con người với tư cách là nhân
cách - chủ thể hoặc là xu hướng của hành vi tương lai của nhân cách. Vì vậy,
thái độ khác với tâm thế là ở chỗ hình thức hành động của nhân cách trên cơ
sở thái độ mà thiếu sự tổ chức thực tế.
L. I. Bogiovich coi tâm thế như là xu hướng của nhân cách. Trong khi
nghiên cứu sự hình thành nhân cách ở trẻ em. Bogiovich cho rằng xu hướng
như là vị thế bên trong của nhân cách đối với xã hội, đối với khách thể của
hoàn cảnh xã hội. Nhờ có biết được vị thế này mà có khả năng chẩn đoán
được hành vi của con người trong hoàn cảnh nhất định. Xu hướng của nhân
cách có thể xem là mục đích đặt ra cho nhân cách tác động bằng cách nào đó
trong quá trình hoạt động sống, là kết quả trước tác động của khách thể xã
hội phức tạp và hoàn cảnh. Vì vậy, việc giải thích xu hướng nhân cách như
trên có thể cho phép hiểu khái niệm xu hướng như là khái niệm tâm thế xã
hội.
A. N. Leonchiev hiểu tâm thế theo một dạng khác như là ý nghĩa nhân
cách. Trong lý luận về nhân cách ông ta nhấn mạnh đến tính chất nhận biết
nhân cách đối với hoàn cảnh hoạt động khách quan bên ngoài có ý nghĩa. Vì
vậy, khi có sự phù hợp ý nghĩa nhân cách với hoàn cảnh khách quan từ tạo
thành xu hướng hành vi chờ đợi (sự hoạt động của nhân cách).
II - TÂM THẾ XÃ HỘI VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CỦA NHÂN CÁCH
1. Vấn đề tâm thế trong tâm lý học Liên Xô
Khi nghiên cứu nhân cách trong tâm lý học xã hội, vấn đề tâm thế xã
hội có một vị trí quan trọng. Kinh nghiệm cá nhân thể hiện qua trong hành
động và hành vi của cá nhân như thế nào có liên quan đến tâm thế xã hội, chỉ
có nghiên cứu cơ chế hình thành tâm thế mới có thể hiểu cái gì điều chỉnh
hành vi và hoạt động của con người. Trước hết cần phải phân tích nhu cầu và
động cơ nào thúc đẩy nhân cách hoạt động cơ chế bên trong của hành vi con
người chính là sự phù hợp giữa nhu cầu và động cơ của họ. Vấn đề đặt ra là
vì sao con người trong những hoàn cảnh nhất định lại hành động theo cách
này hoặc cách khác. Vì sao con người lại hướng đến chọn động cơ này, giải
thích nguyên nhân này ở một mức độ nhất định. Chúng ta phải xuất phát từ
khái niệm tâm thế xã hội để giải thích. Khái niệm tâm thế được hiểu trong sinh
hoạt bình thường như là thái độ. Nhưng trong tâm lý học tâm thế có một ý
nghĩa khác.
Ở Liên Xô trường phái D. N. Uznadze đã có những đóng góp trong việc
nghiên cứu tâm thế. Ngoài thuật ngữ tâm thế, người ta còn dùng thuật ngữ
tâm thế xã hội. Nói chung hai khái niệm này được dùng đồng nghĩa. Người ta
dùng chúng với các khái niệm khuynh hướng, xu hướng, tính sẵn sàng. Theo
D. N. Uznadze tâm thế là trạng thái tâm lý của chủ thể, là trạng thái sẵn sàng
đối với tính tích cực nhất định. Trạng thái này được hình thành bằng hai điều
kiện nhu cầu của chủ thể phù hợp với hoàn cảnh khách thể. Khi hoàn cảnh
phù hợp với nhu cầu được lặp lại nhiều lần thì xuất hiện tâm thế cá nhân. Khi
hoàn cảnh không còn giống như trước nữa nhưng tâm thế vẫn xuất hiện.
Điều đó có thể giải thích xu hướng hành động của nhân cách trong những
điều nhất định.
Như vậy, vấn đề tâm thế trong lý luận hoạt động được giải thích như
tâm thế xã hội có liên quan đến ý nghĩa nhân cách, hình thành mối quan hệ
giữa động cơ và mục đích. Như vậy, vấn đề tâm thế được hiểu với nội dung
khái niệm khác nhau: tâm thế xã hội, xu hướng nhân cách. Thái độ, cần phải
làm rõ khái niệm này không phải ở tâm lý học đại cương mà chính trong tâm
lý học xã hội.
2. Tâm thế trong tâm lý học xã hội phương Tây
Vấn đề tâm thế ở phương Tây được nghiên cứu có tính chất truyền
thống trong tâm lý học xã hội. Các nhà nghiên cứu tâm lý học phương Tây
dùng thuật ngữ "attitude", để chỉ tâm thế xã hội. Thuật ngữ tiếng Nga
"Yetahobka".
P. N. Sikhirev trong khi phân tích lịch sử nghiên cứu "attitude" trong tâm
lý học xã hội phương Tây đã phân chia ra ba thời kỳ: Thời kỳ mở đầu từ năm
1918 đến trước chiến tranh thế giới lần thứ hai - Đặc điểm của thời kỳ này là
công bố những tài liệu nghiên cứu và số lượng người nghiên cứu vấn đề này.
Thời kỳ thứ hai trong những năm 40 - 50. Trong thời kỳ này việc nghiên cứu
gắn liền với tính chất chiến tranh. Giai đoạn thứ ba cuối những năm 50 đến
nay xuất hiện hàng loạt những vấn đề nghiên cứu mới và đồng thời có sự
khủng hoảng trong nghiên cứu. Sau đây là một vài ví dụ cụ thể.
Trong năm 1918, nhà nghiên cứu Mỹ U. Tomax và Ph.Znahecki trong
khi nghiên cứu sự thích ứng của người nông dân Ba Lan từ Châu âu sống ở
Mỹ đã chứng minh sự thích ứng phụ thuộc vào hai yếu tố: sự phụ thuộc của
cá nhân với tổ chức xã hội và sự phụ thuộc của tổ chức xã hội đối với cá
nhân. Sự phụ thuộc này thể hiện mối tác động qua lại giữa nhân cách và xã
hội. Tomax và Znanecki đã đặt tính chất hai mặt của mối quan hệ trên là khái
niệm "giá trị xã hội" (đối với tính chất tổ chức xã hội) và "tâm thế xã hội" -
"attitiud" "attitiud" (đối với tính cách cá nhân). Vì vậy, trong tài liệu đầu tiên
tâm lý học xã hội khái niệm attitiud có nghĩa như là những rung cảm tâm lý
của cá nhân về giá trị ý nghĩa, ý nghĩa của khách thể xã hội hoặc như trạng
thái nhận thức của cá nhân đối với một vài giá trị xã hội.
Sau khi khám phá ra hiện tượng attitiud nhiều vấn đề trong tâm lý học
xã hội đang chờ đợi làm sáng tỏ. Về khái niệm attitiud cũng được thể hiện
quan điểm mâu thuẫn nhau. Năm 1935 G. Allpart đã viết một bài báo đề cập
vấn đề này. Attitiud được hiểu theo các nghĩa sau.
a- Là trạng thái của ý thức và của hệ thống thần kinh
b- Là sự sẵn sàng trả lời đối với kích thích
c- Là sự tổ chức
d- Tầm cơ sở của kinh nghiệm trước đây
e- Ảnh hưởng của khuynh hướng và động lực đến hành vi.
Vì vậy đã có sự phụ thuộc attitiud đối với kinh nghiệm quá khứ và có
vai trò quan trọng đối với hành vi.
Attitiud có bốn chức năng:
1. Chức năng thích ứng. Attitiud hướng chủ thể đến khách thể nhằm
đạt được mục đích của mình.
2. Chức năng nhận thức. Attitiud chỉ ra phương thức hành vi có quan
hệ đối với khách thể cụ thể.
3. Chức năng biểu hiện (đôi khi có chức năng đánh giá, tự điều chỉnh).
4. Chức năng bảo vệ attitiud có khả năng giải quyết những xung đột
bên trong của nhân cách.
Cấu trúc của attitiud theo M. Xmit (1942) gồm có 3 thành phần: thành
phần nhận thức (nhận thức khách quan của tâm thế xã hội), thành phần xúc
cảm (giá trị xúc cảm của khách thể, thể hiện có cảm tính hoặc không cảm tính
đối với chúng), thành phần hành vi (hành vi đối với khách thể). Hiện nay tâm
thế xã hội được coi như là ý thức, giá trị, tính chất sẵn sàng hành động trong
tâm lý học xã hội phương Tây.
3. Cấu trúc tâm thế xã hội
Hiện nay vấn đề cần thiết là phải xây dựng lý luận và phương pháp
trong việc nghiên cứu tâm thế nhằm khắc phục những khó khăn trên con
đường gặp phải của các nhà tâm lý học xã hội Mỹ. Tâm thế được hiểu như là
trạng thái ý thức của chủ thể, và của hệ thống thần kinh của chủ thể, đặt
trước hành động của nó và điều khiển hành động theo một cách nào đó.
Thực nghiệm giải quyết nội dung vấn đề này được thể hiện trong tác
phẩm của V.A. Iadov với quan niệm xếp đặt điều chỉnh hành vi xã hội của
nhân cách. Tư tưởng cơ bản của quan niệm này là ở chỗ con người có hệ
thống phức tạp hình thành sự sắp xếp khác nhau điều chỉnh hành vi và hoạt
động của mình. Sự sắp xếp này tổ chức theo các thứ bậc thấp và cao. Trên
cơ sở này tâm thế xuất hiện khi có mặt của nhu cầu với hoàn cảnh thỏa mãn
nhu cầu V. A. Iadov cho rằng sự hình thành sắp xếp tác động trong những
mức độ khác nhau của nhu cầu và hoàn cảnh, có nghĩa là sự sắp xếp xuất
hiện khi có sự gặp gỡ mức độ nhất định của nhu cầu và mức độ hoàn cảnh
thỏa mãn nhu cầu. Sơ đồ chung của sự xếp đặt được mô tả vừa như các thứ
bậc của nhu cầu và vừa như thứ bậc của hoàn cảnh tác động đến con người.
Thứ bậc của nhu cầu được thể hiện theo thứ bậc của hoạt động này. Dựa
theo ý kiến của Mác cho rằng quá trình thỏa mãn nhu cầu về thực chất là quá
trình con người nắm vững hình thức hành động nào đó. Hình thức đầu tiên
thực hiện nhu cầu con người là hoàn cảnh gia đình, hình thức thứ hai là nhóm
nhỏ trong đó cá nhân hành động một cách trực tiếp. Hoàn cảnh rộng hơn của
hoạt động gắn liền với hình thức nhất định của lao động, của công việc và
cuộc sống. Hình thức cuối cùng của hoàn cảnh hoạt động được hiểu như là
cấu trúc giai cấp xã hội, trong đó cá nhân nắm vững những giá trị tư tưởng
văn hóa của xã hội. Do đó các mức độ nhu cầu phải phù hợp với các hoàn
cảnh hoạt động thì mới tạo nên tâm thế.
Vấn đề hiện nay cần phải xây dựng sơ đồ thứ bậc của hoàn cảnh thứ
bậc trong đó cá nhân tác động trong hoàn cảnh này và có sự gặp gỡ nhu cầu
nhất định. Hoàn cảnh này được coi như điều kiện của hoạt động và có độ dài
thời gian nhất định. Mức độ thấp của hoàn cảnh là hoàn cảnh có đối tượng
nhanh chóng được biến đổi trong thời gian ngắn, mức độ cao hơn của hoàn
cảnh là hoàn cảnh giao tiếp nhóm có tính chất hoạt động của cá nhân trong
nhóm nhỏ. Mức độ cao của hoàn cảnh đó là điều kiện bền vững của hoạt
động có quan hệ đến nghề nghiệp, ngành nghề, mức độ cao nhất thể hiện
điều kiện bền vững của hoạt động trong một thời gian lâu dài, bao gồm hình
thức rộng lớn của hoạt động sống của nhân cách: cấu trúc kinh tế, chính trị,
tư tưởng của những chức năng của nó. Như vậy, cấu trúc hoàn cảnh trong đó
nhân cách tác động có bốn mức độ như trên. V. A. Iadov đã chia ra bốn mức
độ của sự sắp xếp. Mức độ đầu tiên là thành phần tâm thế giản đơn bởi vì nó
dựa trên những nhu cầu giản đơn, như nhu cầu thức ăn. Theo sơ đồ đó là
điều kiện xung quanh gia đình, hoàn cảnh có đối tượng ở mức thấp. Mức độ
này của sự sắp xếp coi như là tâm thế hay là "sét" trong nghiên cứu của
phương Tây. Mức độ thứ hai, đó là sự sắp xếp phức tạp được hình thành trên
cơ sở của nhu cầu con người trong giao tiếp của nhóm nhỏ và phù hợp với
hoàn cảnh, mà nhiệm vụ đặt ra hoạt động của nhóm này. Ở đây vai trò điều
chỉnh của sự sắp xếp là ở chỗ nhân cách thực hiện mối quan hệ nhất định đối
với khách thể xã hội. Sự sắp xếp này phù hợp với tâm thế xã hội đơn giản
hoặc là attitiud. Attitiud so sánh với thành phần tâm thế giản đơn có cấu trúc
ba thành phần phức tạp và có nội dung ba thành phần: nhận thức, xúc cảm
và hành vi. Mức độ thứ ba của sự sắp xếp là khuynh hướng chung của hứng
thú nhân cách trong hoàn cảnh của tính tích cực xã hội. Sự sắp xếp loại này
được hình thành dưới hình thức hoạt động trong đó nhân cách thỏa mãn
những nhu cầu của mình một cách tích cực. Nói cách khác trong mức độ này
sự sắp xếp là khuynh hướng chung của hứng thú nhân cách (hoặc tâm thế xã
hội cơ sở). Vì vậy, attitiud có cấu trúc ba thành phần. Điều này cũng chỉ thể
hiện thái độ đối với khách thể xã hội mà còn đối với các lĩnh vực xã hội có ý
nghĩa. Mức độ thứ 4 là mức độ cao nhất của sự sắp xếp thể hiện ở hệ thống
định hướng giá trị của nhân cách. Định hướng giá trị là sự thể hiện mức độ
khác nhau của việc hình thành sự sắp xếp, nó điều chỉnh hành vi và hoạt
động của nhân cách trong hoàn cảnh của tính tích cực xã hội. Thái độ của
con người đối với mục đích của hoạt động sống đối với hoàn cảnh thỏa mãn
mục đích này thể hiện trong hệ thống định hướng giá trị.
Các lớp hình thành sự xếp đặt diễn ra như là hệ thống điều chỉnh thái
độ của hành vi nhân cách. Mỗi một mức độ từ các kiểu điều chỉnh cụ thể thể
hiện tính chất hoạt động, mức độ đầu tiên thể hiện sự điều chỉnh phản ứng
trực tiếp của chủ thể đến hoàn cảnh đối tượng tức thời, mức độ thứ hai thể
hiện sự điều chỉnh hành vi của nhân cách thực hiện trong hoàn cảnh quen
thuộc, mức độ thứ ba điều chỉnh hệ thống của hành vi, tạo ra hành vi, mức độ
thứ tư điều chỉnh tính chất trọn vẹn của hành vi hoạt động của nhân cách.
Các mức độ này gắn liền với hình thức hoạt động chính của xã hội con người
trong lĩnh vực lao động, nhận thức, và trong lĩnh vực đời sống gia đình và xã
hội.
Trong quan niệm mới về attitiud có một ý nghĩa quan trọng trong việc
tìm hiểu tất cả hệ thống hoạt động của nhân cách. Trong các hình thức cụ thể
của giao tiếp, trong những hoàn cảnh giản đơn của hành vi hàng ngày, nhờ
có hiểu được attitiud có thể biết được nhân cách hoặc sự sẵn sàng tác động
của nhân cách theo cách nào đó. Nhưng trong những hoàn cảnh phức tạp
hơn và trong những vấn đề quan trọng của cuộc sống attitiud không thể giải
thích được các động cơ của hoạt động. Nguyên tắc phương pháp luận mác
xít giải thích tính tích cực của nhân cách là ở chỗ nhân cách được xem xét
không chỉ trong hoạt động gần mà là sự thống nhất hệ thống mối quan hệ
rộng lớn trong xã hội. Vì vậy, hoạt động của nhân cách được điều chỉnh trong
toàn bộ hệ thống mối quan hệ xã hội.
Trong một mức độ cao những thành phần sắp xếp tri thức, xúc cảm và
hành vi thể hiện dưới hình thức đặc biệt, có sự khác nhau. Trong hoàn cảnh
giản đơn khi cần thiết tác động với những đối tượng xã hội cụ thể, thì thành
phần xúc cảm đóng vai trò quan trọng. Trong mức độ cao hơn của việc điều
chỉnh hành vi và hoạt động của nhân cách thì bản thân hoạt động này đặt cơ
sở cho hệ thống khái niệm phức tạp. Thành phần tri thức của sự xếp đặt thể
hiện trong việc hình thành sự xếp đặt. Với quan niệm như trên attitiud và hành
vi thực không có mâu thuẫn nhau, và được phân bố theo sự sắp xếp mức độ
của hoàn cảnh.
Quan niệm về sự sắp xếp điều chỉnh hành vi của nhân cách đã góp vào
lý luận cũng như trong thực nghiệm. Trong tâm lý học xã hội những kinh
nghiệm đáng quí.
Dựa trên quan niệm xã hội người ta có thể thay đổi tâm thế xã hội. Sự
sắp xếp có tính chất chủ thể nên có thể thay đổi được nó. Mức độ thay đổi
tâm thế gắn liền với mức độ thay đổi sự sắp xếp. Theo K. Hoblaud yếu tố làm
thay đổi attitiud là sử dụng nguyên tắc học tập. Attitiud của con người có thể
thay đổi phụ thuộc vào cách tổ chức tâm thế xã hội sự thay đổi hệ thống khen
thưởng và hình phạt có thể ảnh hưởng tới tính chất của tâm thế xã hội. Nếu
như attitiud được hình thành trên cơ sở của kinh nghiệm sống trước đây, thì
việc thay đổi chỉ có thể diễn ra trong điều kiện của những yếu tố xã hội.
Theo truyền thống của tâm lý học tri thức giải thích sự thay đổi tâm thế
xã hội bằng "lý luận phù hợp" (Ph. Heider, T. Nhik, L. Phextinger, Tr. Oxryd,
P. Tanneubaum). Điều đó có nghĩa là sự thay đổi tâm thế khi cấu trúc tri thức
của cá nhân xuất hiện sự không phù hợp. Sự không phù hợp có thể do những
nguyên nhân khác nhau. Điều quan trọng là kích thích làm thay đổi attitiud là
nhu cầu của cá nhân phù hợp với nhận thức. Việc giải thích này còn quá giản
đơn. Muốn giải quyết vấn đề thay đổi tâm thế xã hội cần phải đặt nó vào trong
nội dung tâm lý học xã hội của khái niệm này. Sự thay đổi tâm thế xã hội
trong tâm lý học xã hội cần phải phân tích theo quan điểm nội dung của sự
thay đổi khách thể xã hội, theo quan điểm của sự thay đổi vị trí tích cực của
nhân cách. Không chỉ giản đơn là trả lời lại hoàn cảnh mà do sự tiếp tục phát
triển nhân cách.
Vấn đề tâm thế xã hội có thể giải quyết đúng đắn trên cơ sở xem xét
mối quan hệ đối với hoạt động. Trong một thời gian trước đây khái niệm tâm
thế xã hội không được dùng để giải thích nhân cách theo nguyên tắc hoạt
động. Nếu tâm thế xuất hiện trên cơ sở hoạt động của con người thì việc thay
đổi tâm thế trên cơ sở thay đổi hoạt động của nó. Đó chính là sự thay đổi
động cơ cho phù hợp với mục đích hoạt động. Chỉ có sự thay đổi sự phù hợp
này đối với chủ thể thì ý nghĩa nhân cách của hoạt động mới thay đổi. Còn
nhiều vấn đề về tâm thế xã hội cần được làm sáng tỏ, ví dụ như vai trò của
tâm thế xã hội đối với động cơ của hành vi, giải quyết được vấn đề này không
chỉ có tác dụng thay đổi tâm thế xã hội của nhân cách mà còn bảo đảm sự
thay đổi hướng đích của nhân cách. Điều này có vai trò to lớn trong vận dụng
thực tiễn.
4 - Định hướng xã hội của nhân cách
Một trong những vấn đề quan trọng của lĩnh vực nhân cách là hiểu
được mỗi tác động qua lại giữa con người và hoàn cảnh và việc hình thành
định hướng xã hội của nhân cách.
Đặc trưng của mối tác động qua lại giữa con người và hoàn cảnh.
Hoạt động có tính chất nhân cách và tính chất xã hội không thể hiểu ở
vị trí vật lý học, sinh vật học, xã hội học. Muốn hiểu hoặc nghiên cứu hoạt
động con người cần trong các đặc thù của những quy luật sinh vật và xã hội
học. Con người với tư cách vừa là một động vật vừa là một tồn tại xã hội nó
thực hiện hoạt động giống loài nhất định. Tâm lý học xã hội cần phải nghiên
cứu tính tích cực xã hội của con người không phải là tính tự phát mà là yêu
cầu tất yếu có ở bản thân con người trong hoàn cảnh xã hội. Tính tích cực
của con người phải được xem xét trong quá trình phát triển xã hội.
Hình thức chung của mối tác động qua lại vật lý được phản ánh trong
phạm trù của mối liên hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả. Trong nội dung
mối tác động vật lý người ta sử dụng những khái niệm như không gian, thời
gian, kích thích, vận động, sự tác động tới những vật khác nhau tạo nên mối
quan hệ tác động vật lý giữa các sự vật, lực tác động lẫn nhau, diễn ra trong
trường không gian - thời gian. Nhưng không thể mang những hiện tượng như
thế trong thế giới bên trong của con người và hoàn cảnh xã hội như nguyện
vọng, mong muốn, trách nhiệm vào trong hệ thống này.
Mối quan hệ qua lại có tính chất đặc thù được quy định ở con người
như là một cơ thể sống với hoàn cảnh. Con người là một cơ chế đặc biệt, là
sự thống nhất trọn vẹn về mặt cấu trúc sinh vật. Trong quá trình tác động qua
lại với hoàn cảnh, sự phá hoại và phục hồi sự thăng bằng của cơ thể sống
được diễn ra thường xuyên. Ở đây có sự trao đổi chất giữa cơ thể và môi
trường. Cơ thể đã đồng hóa những đối tượng và sự vật để phục hồi sự thăng
bằng. Ngoài ra do trạng thái cơ thể những tác động của hoàn cảnh bên ngoài
có thể gây ra những phản ứng khác nhau. Nếu phá hoại sự cân bằng lớn sẽ
gây ra cơ thể chết.
Sinh vật học nghiên cứu những quy luật của mỗi tác động qua lại trực
tiếp của hoàn cảnh và cơ thể. Nhưng con người hình thành mối quan hệ với
hoàn cảnh với sự vật không phải như có thể có quan hệ trực tiếp với sự vật.
Tính tích cực là hình thái đặc biệt của mối quan hệ qua lại này. Ai cũng biết
dưới tác động của sự vật biểu tượng nhìn và nghe được tiếp nhận không
đóng vai trò quan trọng đối với cơ thể, nhưng rất quan trọng đối với con
người. Ví dụ biểu tượng nhìn và nghe có thể giúp cho con người định hướng
đối với sự vật cần thiết. Bằng con đường này, cảm giác đã trở thành đối
tượng của phản ánh, tìm kiếm những chức năng tín hiệu tiếp nhận ý nghĩa
của đối tượng. Đ.N. Uznadze là một trong những người đầu tiên đã chú ý đến
hình thức, đặc biệt của mối tác động cá nhân với hiện thực. Ông đã nghiên
cứu hệ thống mối quan hệ phản ánh vô thức của cá nhân đối với hoàn cảnh.
Trên cơ sở phân tích những thực nghiệm ông đã chỉ ra rằng: khi có nhu cầu
và hoàn cảnh thích hợp ở mỗi cá nhân sẽ xuất hiện tính chất sẵn sàng, hay là
tâm thế đối với tính tích cực thực hiện hành vi nhất định. Hành vi sẽ được
thực hiện để thỏa mãn nhu cầu trong môi trường thích hợp. Con đường
nghiên cứu cơ chế tâm thế phải nghiên cứu những quy luật tiếp nhận những
thông tin và cơ cấu trên cơ sở hành vi phù hợp không có sự tham gia của ý
thức.
Bên cạnh những quan hệ tâm lý vô thức đối với hiện thực con người
còn có quan hệ vô thức đối với chúng. Hiện thực đời sống xã hội con người
đòi hỏi có mối quan hệ có ý thức này. Hoạt động tập thể đặt ra cho con người
nhận thức hiện thực và trao đổi ý kiến với những người khác. Trong trường
hợp riêng cá nhân cần phải hướng tính tích cực tâm lý của mình đến khách
thể của hoạt động tập thể. Quá trình phân biệt hóa tính tích cực tâm lý gắn
liền với sự hình thành ý thức và khả năng khách thể hóa. Trong trường hợp
con người chưa đạt được phản ánh tâm thế đòi hỏi khách thể hóa đối tượng
gây trở ngại cho hành vi hiện thực. Con người đặt câu hỏi đây là cái gì. Để trả
lời vấn đề này đòi hỏi phải đạt được hoạt động xây dựng lý luận và vì vậy
quan hệ nhận thức hiện thực đã hình thành con người này, sự tác động của
họ đối với thế giới xung quanh đã có ý thức. Và do đó đã hình thành hình
thức mới của mối tác động qua lại giữa chúng. Nói tóm lại quan hệ có ý thức
của con người đối với hiện thực cho phép con người xem xét hoàn cảnh
không chỉ như là hoàn cảnh trực tiếp mà như là hệ thống trọn vẹn có khả
năng xảy ra sự thống nhất với chúng.
Phân tích hệ thống tính tích cực tâm lý - xã hội của con người đã chỉ ra
rằng bên cạnh sự phản ánh hiện thực cần thiết có mối quan hệ nhất định của
con người đối với sự phản ánh đó. Tâm thế, theo lý luận của Uznadze là hiện
tượng tâm lý trọn vẹn trong đời sống hiện thực được phản ánh phù hợp với
nhu cầu cá nhân. Hoạt động nhận thức và hoạt động xã hội được thực hiện
trên cơ sở tâm thế. Hành vi xã hội không chỉ đóng kín trong cá nhân mà nó
phục vụ cho nhiệm vụ xã hội. Hành vi xã hội hướng đến nhu cầu xã hội, giá trị
xã hội và tạo nên ý nghĩa xã hội.
Hành vi xã hội cũng như tất cả tính tích cực khác đã bắt đầu từ sự sẵn
sàng, từ tâm thế, trong đó tâm thế đã phản ánh nguyện vọng xã hội, mục
đích, nhu cầu, sự chờ đợi. Khi phân tích tính tích cực xã hội cần chú ý đến
khuynh hướng xã hội của nhân cách. Mối quan hệ tốt hay xấu đối với khách
thể gắn liền với tính tích cực của nhân cách. Đối với nhân cách không phải
chỉ là hiểu biết những kiến thức về văn hóa, truyền thống, hệ tư tưởng, quan
hệ xã hội mà còn là còn có định hướng và có tâm thế về những hiện tượng
đó. Nếu như trong nhận thức phản ánh đối tượng và hiện tượng của sự vật
thì trong định hướng phản ánh thái độ con người đối với chúng.
Đối với đánh giá kiến thức ta thường sử dụng thang điểm 5 bậc - (từ 0 -
đến 5). Song trong định hướng xã hội người ta có thể đánh giá theo thang
điểm 10 có nghĩa là từ (-5 đến +5). Định hướng có 2 loại: định hướng cá nhân
và định hướng xã hội.
Định hướng cá nhân được xây dựng trên cơ sở những ảnh hưởng của
nhu cầu cá nhân - còn định hướng xã hội trên cơ sở hướng tới nhu cầu của
người khác. Nói chung ở đây chúng ta sẽ xem xét những quy luật hình thành
và tác động của định hướng xã hội.
Như chúng ta đã biết, dưới tác động của các yếu tố bên trong và bên
ngoài, tâm thế của con người đã hình thành đối với hành vi nhất định. Khuynh
hướng và tính chất phù hợp của hành vi tạo điều kiện cho hành động. Dưới
tác động của tâm thế vị thế của hiện thực tương quan "tính vị thế" được hình
thành trong ý thức và trong hành vi của nhân cách. Tính vị thế là đặc điểm
hiện thực của tính tích cực tâm lý của con người. Hoạt động tâm lý tức thời
của con người có tính chất vị thế. Do mối quan hệ với đối tượng khác nhau
mà ở cá nhân có thể có tâm thế dương hoặc tâm thế âm. Nhiệm vụ của việc
hình thành nhân cách là tạo nên tính tích cực nhân cách.
Trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm tâm thế nhân cách đối với hiện
tượng quy định, đối với giá trị, đối với quan niệm, lý luận, hệ tư tưởng có thể
biểu hiện bằng bậc thang điểm từ -5 đến dương 5.
Trong hoàn cảnh xã hội nhất định đều cùng có quan hệ với nghề
nghiệp song người giáo viên, người thợ điện, thợ máy kéo… có định hướng
khác nhau. Trong những nhóm xã hội khác nhau định hướng xã hội đối với
hiện tượng và giá trị khác nhau. Ví dụ: định hướng của từng người hay nhóm
xã hội đối với những vấn đề: chính trị, xã hội, nghệ thuật, văn học, âm nhạc
v.v... có khác nhau. Tính tích cực xã hội được quy định ở định hướng xã hội,
tâm thế xã hội. Vì vậy việc hình thành những quy luật và thay đổi tâm thế xã
hội có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Những quy luật hình thành và thay đổi tâm thế xã hội.
a) Hiệu quả của định hướng xã hội
Những nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng phù hợp với tâm thế con
người đối với hiện tượng và giá trị nhất định thể hiện sự đánh giá chúng có
khác nhau. Ví dụ nhân cách N1 có vùng tâm thế dương đối với âm nhạc (+5),
và có tâm thế âm (-3) đối với bài báo nghiên cứu âm nhạc nào đó. Trong
trường hợp này nhận được cách đánh giá trong vị thế khác, ở bài báo nhân
cách N2 có quan hệ âm tính đối với âm nhạc.
Về mặt tương phản con người đánh giá mình còn có khoảng cách lớn
so với hiện thực mà anh ta có. Trong một thời gian gần với sự kiện anh ta
đánh giá tương đồng hơn và xảy ra sự đồng hóa hiện thực sự kiện của giá trị
tương phản và đồng hóa cường độ thuộc tính cảm giác của sự vật trên cơ sở
tâm thế nhất định đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu những thuộc tính của
tâm thế. Những quy luật này thể hiện rõ trong hành động tâm thế xã hội.
Tương phản và đồng hoá đó là hiệu quả xuất hiện trong ý thức của
nhân cách dưới tác động của định hướng xã hội. Tương phản và đồng hóa là
quy luật chức năng hóa ý thức. Tâm thế tạo nên khả năng phản ánh thích hợp
hiện tượng trong ý thức, nhưng có thể dẫn đến sự sai lệch đối với tương
phản và đồng hóa.
Quy luật này được vận dụng vào công tác tuyên truyền.
b) Quy luật, sự thay đổi định hướng xã hội
Hiệu ứng "tương phản và đồng hoá" có quan hệ đối với sai lệch của ý
thức dưới ảnh hưởng của định hướng xã hội cần phải phân biệt với những
quy luật thay đổi định hướng xã hội. Trên cơ sở của nghiên cứu thực nghiệm
ta thấy giá trị tương phản không thường xuyên gây ra sự thay đổi định hướng
xã hội của nhân cách trong khuynh hướng đối lập.
Khi định hướng xã hội thay đổi và đi tới gần vị thế tác động, chúng ta
gọi là "tâm thế thích nghi", khi tâm thế thay đổi, trong sự tác động đối lập
khuynh hướng xảy ra tâm thế. Trong trường hợp thứ 3 đôi khi sáu giá trị
tương phản của khách thể tâm thế của nhân cách về mặt giá trị không thay
đổi.
c) Tính bền vững vùng định hướng xã hội
Qua nghiên cứu thực nghiệm người ta thấy rằng tâm thế xã hội chiếm
một vùng càng lớn trong bậc thang giá trị thì càng khó thay đổi chúng. Tâm
thế của con người khác biệt một vùng tâm thế càng lớn thì vùng đồng hóa
hẹp và vùng tương phản càng rộng. Vì vậy nhân cách nào đó rất khó thay đổi
vị thế của mình. Về phương diện nào đó ở con người có vùng tâm thế có ý
nghĩa riêng do những hiện tượng và giá trị đưa lại. Định hướng xã hội phù
hợp đã chuyển vào "cái tôi" và sự thay đổi định hướng này rất khó. Nếu định
hướng xã hội chiếm một bậc thang vị trí trung bình thì dễ dàng thay đổi tâm
thế.
Sơ đồ sau đây chỉ mối quan hệ nhân cách bạn bè và mối quan hệ đối
với giá trị
NC: nhân cách
B: Bạn
GT: Giá trị
Để thấy rõ mối quan hệ này ta hãy xét quy luật sau đây:
d) Quy luật hình thành và tác động của định hướng xã hội trong quá
trình tác động lẫn nhau giữa con người
Sự thật khi một tâm thế nào thực hiện thì có nhu cầu hiện thực của con
người và xác định đối tượng phù hợp. Nhưng điều đó chỉ chiếm một vị trí nhỏ
trong định hướng xã hội của con người. Sự thật nhu cầu của con người đã
được biến đổi trong quá trình tác động qua lại của xã hội. Những nhu cầu sinh
vật của con người ăn, sinh lý, tự vệ khác xa với nhu cầu của động vật, bởi vì
nhu cầu của con người có tính chất xã hội. Cái gì có liên quan tới mục đích và
nguyện vọng của con người thì cái đó có nguồn gốc xã hội và trở thành hiện
tượng xã hội.
Trong tâm lý học, chúng ta biết rằng tâm thế của con người trong mối
tác động qua lại quy định tâm thế xã hội của người đó mang những giá trị
tương đối nhất định.
Những công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng hoàn cảnh xã hội có
ảnh hưởng đến định hướng nhân cách không chỉ trong trường hợp con người
GTNC
B
thực hiện một tâm thế tương ứng mà trong trường hợp có định hướng đối lập.
Điều này được thể hiện trong nghiên cứu các hiện tượng thăng bằng.
Dựa trên thực nghiệm người ta cho rằng, con người chịu ảnh hưởng
của nhóm chỉ trong trường hợp khi ở họ hình thành tâm thế dương đối với
nhóm. Nếu ở họ xuất hiện tâm thế âm có khuynh hướng mất thăng bằng.
Quy luật hình thành giá trị dương và âm.
Nếu một người nào đó có quan hệ bình thường trung bình với nhóm
bạn bè thì anh ta dửng dưng với nhóm đó.
NC: Nhân cách
B: Nhóm bạn
GT: Giá trị
Nhân cách (NC) có tâm thế dương đối với bạn bè (B), và bạn bè qua
quá trình tác động qua lại với nhân cách (NC) có quan hệ dương đối với giá
trị (GT). Trong trường hợp này định hướng dương đối với giá trị được hình
thành tâm thế một cách vô thức ở nhân cách. Tương tự như vậy ở trường
hợp 2, 3, 4.
THAY LỜI KẾT LUẬN NHÂN CÁCH PHƯƠNG NGÔN XỬ THẾ
1. Người ta bỏ những cái khôn vặt thì mới khôn lớn được.
2. Đừng có thấy lợi nhỏ mà bỏ lớn.
3. Đừng coi thường việc nhỏ, lỗ thủng nhỏ cũng làm đắm thuyền.
4. Đừng làm cho ai mất mặt.
5. Những điều ta không muốn thì đừng làm cho người khác.
6. Dưới cái mồi thơm tất phải có con cá chết.
7. Không có đức mà nhiều của dễ bị tai vạ.
8. Vật gì thịnh lắm thì suy.
9. Kẻ biết người là người khôn. Kẻ biết mình là người sang.
10. Người mẹ hiền quá hay có con hư.
11. Không nên mưu việc lớn với kẻ nói nhiều.
12. Phàm việc gì nên giữ lòng nhân để ngày sau dễ thấy mặt nhau.
13. Dở nhất trong đạo xử thế là không biết cái lỗi của mình.
14. Đang khi vui mừng chớ nên nói nhiều.
15. Loạn sinh ra bởi lời nói.
16. Lời nói ngọt ngào trong tất cay đắng.
17. Ngoài miệng nói khôn khéo quá là người hay tin.
18. Kẻ nào hứa liều, nói liều ít khi giữ được lời hứa.
19. Mình là cái cửa của họa phúc.
20. Không hứa bậy, nên mình không phụ ai, không tin bậy nên không ai
phụ mình.
21. Câu khen quá đáng của bạn còn hại hơn câu chê quá đáng của kẻ
thù.
22. Có mặt người hay nịnh thì khi sau đó hay chê.
23. Ai có phúc lạ thường thì cũng có họa bất thường.
24. Lời nhiều, nói ngọt là mồi nhử ta.
25. Yêu ai, cũng biết điều dở của người ấy, Ghét ai cũng biết điều hay
của người ấy.
26. Cùng sống chung nhau trong lúc hoạn nạn thì dễ. Cùng ở chung
nhau lúc có quyền lợi thì khó.
27. Xưa nay những bậc anh hùng chỉ vì không biết chịu thiệt mà làm hại
không biết bao nhiêu công việc to tát của mình.
28. - Xử những việc khó xử, càng nên khoan dung. - Xử với người khó
xử, càng nên trung hậu. - Xử thói buồn khó khăn, ngờ việc càng nên tự nhiên
vô tâm.
29. Kẻ có tính hồ nghi, chớ cùng toan việc lớn.
30. Những người cùng thích một việc thường hay ghen ghét nhau.
Những người cùng lo một việc thường hay thân thiết với nhau.
31. Khéo mà dối trá không bằng vụng mà thật thà.
32. Người mà tính khí bất thường thì suốt đời không làm nên việc gì.
33. Khí, kiêng nhất là hung hãn. Tâm, kiêng nhất là hẹp hòi. Tài, kiêng
nhất là bộc lộ.
34. Người ta chưa biết bụng mình, chẳng nên cầu cho người ta biết.
Người ta chưa hợp ý mình, chẳng nên vội cầu cho người ta hợp.
35. Kẻ mà ta nói chọc mà không giận nếu chẳng phải là người đại
lượng tất là người sâu hiểm.
36. Làm những việc to lớn, thì dừng chấp nê những oán nhỏ.
37. Tự khiêm thì người ta càng phục. Tự khoe, thì người ta càng khinh.
38. Quen biết sơ sài mà câu nói thân thiết, thế là ngu.
39. Lấy oán báo oán, thì oán chập chùng. Lấy đức báo oán thì oán tiêu
tan.
40. Tôi chưa thấy một người nào mà tôi không tìm thấy ở họ một cái gì
đáng cho tôi học hỏi.
41. Thường sự bất hòa hay xảy ra giữa những người thân yêu trong gia
đình vì nơi đây người ta hay nói trắng sự thật.
42. Trong mọi kẻ thù của ta không ai nguy hiểm bằng kẻ mà trước đây
là bạn thân của ta.
43. Yêu thương một ai là không nên so sánh người ấy với một người
khác nữa.
44. Nói dối với ai là một cách gián tiếp đề cao người ấy là người mà ta
nể sợ.
45. Từ chối sự khen ngợi là muốn người ta khen mình một lần nữa.
46. Sự dối trá làm chết tình yêu. Nhưng sự thật trắng trợn cũng đâu có
làm cho nó sống được.
47. Cái hy vọng cuối cùng của ta là ta không còn có cái hy vọng gì cả.
48. Đối với người ích kỷ thì chẳng có gì là thiêng liêng cả.
49. Trong đạo bạn bè, nếu không dung thứ nhau những khuyết điểm
nhỏ thì khó mà lâu bền được.
50. Hãy nói cho ta biết những ai là bạn ngươi; ta sẽ nói cho ngươi rõ
ngươi là hạng người nào.
51. Căn bệnh nặng nhất của tâm hồn là sự lãnh đạm.
52. Ở thế mới hay người bạc ác, Giàu thì tìm đến, khó thì lui.
53. Lời thẳng trái tai thường được việc; thuốc hay đắng miệng khỏi cơn
đau.
54. Chúng ta có hai cái tai mà chỉ có một cái lưỡi để chúng ta nghe
nhiều hơn và nói ít thôi.
55. Biết nhau khắp thiên hạ mà biết lòng được mấy người.
56. Đối với kẻ biết nhận xét thì mỗi một con người mang sẵn trên mặt
họ những nét tự thuật của thân thể và tâm hồn họ.
57. Người ta thích cương thì ta lấy nhu mà thắng, người ta dùng thuật,
ta lấy lòng thành mà cảm, gặp người hách, ta lấy lý mà khuất phục. Việc đời
mà đối phó như thế thì không có gì là khó.
(Nhận hiểu cương, ngã dĩ nhu thắng chi;
Nhân dụng thuật, ngã dĩ thành cảm chi;
Nhân sử khí, ngã dĩ lý khuất chi;
Thiên hạ vô nan xử chi sự hỉ).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
II. Tài liệu tiếng Việt:
1) Nguyễn Như Diệm (chủ biên). Triết học Đông Tây - Thông tin Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1996.
2) Nguyễn Đăng Duy - Văn hóa tâm linh. Nxb Hà Nội, 1996.
3) Trần Văn Giàu - Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam -
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.
4) Phạm Minh Hạc - Mười năm đổi mới giáo dục. NXB Giáo dục, 1996.
5). Trần Trọng Kim - Nho giáo. Nxb Tân Việt - Sài Gòn.
6) B. Kedrov - Phân loại khoa các khoa học - Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1960.
7) Nguyễn Hiến Lê - Khổng Tử - Nxb Văn Hóa, 1978.
8) Đỗ Long - Hồ Chí Minh. Những vấn đề tâm lý học. Viện tâm lý học,
Hà Nội, 1995.
9) V.I. Lênin. Toàn tập, tập I, II. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1962.
10) V.I Lênin - Bút ký triết học, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1963.
11) A.N. Leonchiev - Hoạt động, ý thức, nhân cách. Nxb Giáo dục.
1989.
12) Các Mác - Luận cương về Phơbách 1845. Tuyển tập, tập II. Nxb Sự
Thật Hà Nội, 1971.
13) Các Mác. Bản thảo kinh tế - triết học 1844 - Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1962.
14) C. Mác. Tư bản. NXB Sự Thật, Hà Nội 1973.
15) Hồ Chí Minh. Về đạo đức cách mạng. Nxb Sự Thật 1976.
16) Hồ Chí Minh. Về vấn đề cán bộ. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1974.
17) Hồ Chí Minh. Bàn về công tác giáo dục. Nxb Sự Thật, Hà Nội 1972.
18) Hồ Chí Minh. Về giáo dục thanh niên. Nxb Thanh Niên, 1977.
19) M.A.R.Nau Đôp. Tâm lý học sáng tạo văn học. Nxb Văn Học, Hà
Nội, 1978.
20) Nguyễn Thu Phong (Hoàng Vũ) - Tính thiện trong tư tưởng phương
Đông. Nxb Văn Học, 1997.
21) Nguyễn Hoàng Phương - Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một
chiến lược giáo dục tương lai. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
22) J. Piaget - Tuyển tập tâm lý học. Nxb Giáo dục, 1996.
23) Mauric Reuchlin - Tâm lý học đại cương. NXb Thế Giới, Hà Nội,
1995.
24) P.A. Rudich. tâm lý học. Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, 1980.
25) Lucien Seve - Chủ nghĩa Mác và lý luận nhân cách. Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, 1994.
26) Tsunesaburo makiguchi. Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo. Nxb Trẻ,
TP. Hồ Chí Minh, 1980.
27).Y.Z. Sửa đổi lề lối làm việc. Nxb Sự Thật, Hà Nội (Xuất bản lần thứ
7) 1959.
II. Tài liệu tiếng nước ngoài:
1) B.G. Ananiev. Tuyển chọn tác phẩm Mockba, 1980.
2) L.M. Arkhangelxki. Chủ nghĩa xã hội và nhân cách. Mockba, 1971.
3) L.I. Bogiovich. Nhân cách và sự hình thành nhân cách ở tuổi trẻ em.
M. 1969.
4) Morgan và King. Introduction to Psychology. McGraw – Hill Book
Company, 1975.
5) V.M. Merlin - Những vấn đề của tâm lý học thực nghiệm của nhân
cách. Plrm, 1970.
6) Sota Nadiratvili. Khái niệm tâm thế trong tâm lý học đại cương và
tâm lý học xã hội. Tbilixi, 1974.
7) K. Obuchowxki. Lý luận tâm lý của việc xây dựng và phát triển nhân
cách. Trong cuốn: Psychologyja. Pormirovanija pazvitija lichnosti. M. 1981.
8) K.K. Platonov- Bàn về hệ thống tâm lý học. M. 1972.
9) Tomás. Pardal. Problémy Psycholoanalytichkého. Hnutia. Bratislava,
1972.
10) A.V. Petrovxki. Nhân cách, hoạt động, tập thể. M. 1982.
11) Psuhep. Maptehc - Tâm lý học xã hội và thể thao. Mockba, 1979.
12) Robert M. Liebert, Micheal. D. Spiegler Personality. Strategies and
Issues. NXB in the United States of America, 1978.
13) A.I. Serbakov. Thực hành tâm lý học đại cương. M. 1979.
14) J. Stêjanovic. Psychologia. Bratislava, 1977.
15) Jozes s vancara – Diaynostika Psychického vývoje. Avicenum –
zdravotnické nakladotetstvi – Praha 1980.
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương I. Những vấn đề về nhân cách theo quan niệm phương đông cổ đại
I. Cơ sở triết học của phương Đông.
II. Các tư tưởng phương Đông về nhân cách.
III. Những biểu hiện của nhân cách dưới dạng trường sinh học - vật lí
IV. Một vài đặc điểm nhân cách phương Đông
Chương II. Những vấn đề lý luận nhân cách trong tâm lý học phương Tây
I. Phân tâm học cũ và mới về nhân cách.
1) S. Freud về nhân cách
2) Phân tâm học mới về nhân cách
II. Trường phái gestalt về nhân cách.
III. Tâm lý học nhân văn về nhân cách.
IV. Các xu hướng khác về nhân cách ở phương Tây.
Chương III. Các xu hướng nghiên cứu nhân cách ở Liên Xô (cũ)
I. Khái quát về các xu hướng nghiên cứu nhân cách ở Liên Xô
II. Những quan niệm nhân cách của một số tác giả tiêu biểu cho các
trường phái lớn ở Liên Xô (cũ)
A) B.G. Ananiev về nhân cách
B) A.N. Leonchiev về nhân cách
C) Luận điểm K.K. Platonov về nhân cách
D) Luận điểm của trường phái Uznatze ở Tbilixi (Gruzia) về nhân cách.
Chương IV. Mác, Lênin, Hồ Chí Minh và vấn đề nhân cách
I. Đặt vấn đề
II. Những tư tưởng của K.Mác về nhân cách
III. Tư tưởng của Lênin về nhân cách
IV. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách
Chương V. Khái niệm nhân cách, cấu trúc nhân cách và một số thuộc tính nhân cách
I. Khái niệm nhân cách.
II. Cấu trúc nhân cách.
III. Một số thuộc tính nhân cách.
Chương VI. Tâm lý học xã hội của nhân cách
I. Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.
II. Tâm thế xã hội và định hướng xã hội của nhân cách
Thay lời kết luận
Tài liệu tham khảo
---//---
TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
Tác giả: NGUYỄN NGỌC BÍCH
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC - 1998
Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc PHẠM VĂN AN
Tổng biên tập NGUYỄN NHƯ Ý
Biên tập: ĐINH VĂN VANG - CẤN HỮU HẢI
Bìa và minh họa: LÊ KHÁNH HẢI