tÓm tẮt luẬn Án tiẾn sĨ kinh tẾ
TRANSCRIPT
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------
NGUYỄN THỊ CẨM THÚY
HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH
CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kế toán (Kế toán, Kiểm toán và Phân tích)
Mã số : 62.34.30.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2013
Công trình đƣợc hoàn thành tại: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Ngƣời hƣớng dẫn: GS.TS. Nguyễn Văn Công
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Trọng Cơ
Phản biện 2: PGS.TS.Nguyễn Năng Phúc
Phản biện 3: PGS.TS.Ngô Trí Tuệ
Luận án sẽ đƣợc bảo vệ tại: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Vào lúc 09 giờ 00 ngày 25 tháng 07 năm 2013
Có thể tham khảo luận án tại các thƣ viện: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
HÀ NỘI – 2013
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Phân tích tình hình tài chính có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc cung
cấp thông tin cho các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp.
Kể từ tháng 01/2012, CTCK, công ty quản lý quĩ 100% vốn nước ngoài, chi
nhánh của CTCK nước ngoài sẽ chính thức được phép đặt chân vào Việt Nam.
Để các CTCK trong nước có thể chủ động hội nhập thành công, CTCK Việt
Nam phải thường xuyên phân tích tình hình tài chính, bởi lẽ thông tin từ phân
tích tài chính là nền tảng của mọi quyết định, và xem đây là công việc tất yếu
trong quản trị công ty; nó phải được thực hiện với một thái độ, nhận thức nghiêm
túc và phong cách chuyên nghiệp. Việc hoàn thiện phân tích tình hình tài chính
trong các CTCK Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp đến các CTCK, đồng thời ảnh
hưởng gián tiếp đến sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường tài
chính và xa hơn nữa là ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Các mục tiêu nghiên cứu chính được xác định là:
- Làm rõ bản chất và vai trò của tài chính, hoạt động tài chính và tình hình
tài chính;
- Phân tích và đánh giá thực trạng phân tích tình hình tài chính của các
công ty chứng khoán nhằm khẳng định những thành công và hạn chế về phân
tích tình hình tài chính trong các công ty chứng khoán;
- Đề xuất các giải pháp cơ bản để hoàn thiện phân tích tình hình tài chính
nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính công bố của các công ty chứng
khoán.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt nội dung: Luận án nghiên cứu những vấn đề liên quan đến phân
tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán (cơ sở lý luận của phân tích
tình hình tài chính, thực trạng phân tích tình hình tài chính và đề xuất các giải
pháp hoàn thiện phân tích tình hình tài chính).
+ Về mặt không gian: Luận án giới hạn nghiên cứu thực trạng phân tích
tình hình tài chính tại các công ty chứng khoán Việt Nam; trong đó tập trung vào
các công ty chứng khoán trên 2 địa bàn chủ yếu là Sở Giao dịch Chứng khoán
Hà Nội và Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
2
+ Thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng phân tích tình hình
tài chính tại các công ty chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2010 đến
tháng 06/2012. 4. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án phải giải đáp được các câu hỏi cụ thể sau:
- Những đặc trưng của công ty chứng khoán ảnh hưởng đến phân tích tình
hình tài chính?
- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến tổ chức, nội dung và phương pháp
phân tích tình hình tài chính trong các công ty chứng khoán?
- Những giải pháp và đề xuất nào thích hợp để hoàn thiện phân tích tình
hình tài chính của các công ty chứng khoán Việt Nam?
5. Phƣơng pháp nghiên cứu luận án
5.1. Cơ sở phƣơng pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài luận án là phương pháp luận duy vật
biện chứng; trong đó việc áp dụng các phương pháp thu thập, xử lý và phân tích
số liệu được dựa trên nền tảng nhận thức các vấn đề nghiên cứu từ cơ sở lý luận
đến hiện thực khách quan về phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng
khoán Việt Nam.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận án sử dụng kết hợp cả phương
pháp định lượng và phương pháp định tính trong nghiên cứu.
5.3. Quá trình điều tra và thu thập dữ liệu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra và trả lời được các câu hỏi nghiên
cứu, đòi hỏi phải có đủ dữ liệu cần thiết. Nguồn dữ liệu phục vụ cho quá trình
nghiên cứu luận án gồm dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về tình hình tài
chính và phân tích tình hình tài chính trong các doanh nghiệp nói chung và trong
công ty chứng khoán nói riêng.
- Phân tích và đánh giá một cách khách quan những tồn tại của các công ty
chứng khoán Việt Nam trong phân tích tình hình tài chính và chất lượng thông
tin tài chính do công ty công bố.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và khách quan tác động
tới tổ chức, nội dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính trong các
công ty chứng khoán Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp và điều kiện thực hiện giải pháp hoàn thiện phân
tích tình hình tài chính trong các công ty chứng khoán Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 4 chương:
3
Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu về phân tích tình hình tài chính của các
công ty chứng khoán.
Chương 2: Cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính của các công ty
chứng khoán.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu về thực trạng phân tích tình hình tài chính
của các công ty chứng khoán Việt Nam.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện phân tích tình hình tài chính
của các công ty chứng khoán Việt Nam.
4
CHƢƠNG 1
GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
Các nghiên cứu về phân tích tài chính đã được nhiều nhà khoa học đề cập
thông qua các công trình khoa học như các sách chuyên khảo, các bài viết trên
các tạp chí, luận án, luận văn. Nhìn chung, có nhiều quan điểm khác nhau về tình
hình tài chính. Một số tác giả đồng nhất giữa tình hình tài chính với hoạt động tài
chính và tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, có một số tác giả lại có sự phân định
giữa tình hình tài chính doanh nghiệp với tài chính doanh nghiệp và hoạt động tài
chính.
Tác giả Trần Quý Liên cho rằng tài chính doanh nghiệp và tình hình tài
chính doanh nghiệp là cùng một nội dung, do vậy, phân tích tài chính doanh
nghiệp cũng chính là phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Điều này được
tác giả Trần Quý Liên thể hiện trong bài báo với tựa đề “Xây dựng hệ thống chỉ
tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm tăng cường công tác kiểm toán” (Tạp
chí Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán, năm 2011) cũng tập trung chủ yếu xây
dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm tăng cường chất
lượng kiểm toán, giúp tăng độ tin cậy của thông tin góp phần cho nền kinh tế
phát triển ổn định và bền vững. Bài báo cũng đề cập đến một số quan điểm để
thông tin phân tích tài chính có độ tin cậy cao.
Với quan điểm đồng nhất giữa tình hình tài chính với hoạt động tài chính
và tài chính doanh nghiệp, có một số tác giả điển hình như các tác giả Ngô Thế
Chi và Nguyễn Trọng Cơ. Các tác giả này quan niệm rằng tài chính doanh
nghiệp cũng chính là tình hình tài chính, phân tích tài chính doanh nghiệp cũng là
phân tích tình hình tài chính.
Có cùng quan điểm với các tác giả Ngô Thế Chi và Nguyễn Trọng Cơ là
tác giả Ngô Kim Phượng và cộng sự trong tác phẩm “Phân tích tài chính doanh
nghiệp” (2010).
Một số tác giả nước ngoài theo quan điểm đồng nhất giữa tình hình tài
chính với tài chính doanh nghiệp hay hoạt động tài chính doanh nghiệp như
nhóm tác giả Cheng F. Lee , Joan C. Junkus (1983) với bài báo có tựa đề
“Financial analysis and planning: an overview”.
Năm 2008, nhóm tác giả Yiming Hu, Thomas W.Lin, Siqi Li với bài báo
có tựa đề “An examination of factors affecting Chinese financial analyst’s
information comprehension, analyzing ability, and job quality” đã đề cập đến
những nhân tố ảnh hưởng đến sự hiểu biết thông tin, khả năng phân tích và chất
lượng công việc của nhà phân tích.
Tác giả Erich A. Helfert với tác phẩm “Techniques of financial analysis – a
modern approach – ninth edition” (1997) [28] đã thể hiện rõ nét phân tích tài
5
chính là phân tích tình hình tài chính.
Khác với quan điểm đồng nhất giữa tình hình tài chính với tài chính doanh
nghiệp và hoạt động tài chính, các tác giả Nguyễn Thu Hằng và Nguyễn Năng
Phúc trong bài báo với tựa đề “Đánh giá khái quát tình hình tài chính trong các
Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam (Tạp chí Kinh tế & Phát triển, năm
2011) đã trình bày một nội dung nhỏ của phân tích tình hình tài chính trong lĩnh
vực Ngân hàng thương mại cổ phần.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang thể hiện quan điểm trên trong luận án với đề
tài “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong các doanh nghiệp xây
dựng của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Quang (năm 2002).
Quan điểm trên cũng được tác giả Trần Thị Minh Hương thể hiện trong
luận án với đề tài “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại Tổng công
ty Hàng không Việt Nam” thể hiện sự khác nhau giữa tình tình tài chính với tài
chính doanh nghiệp hay hoạt động tài chính.
Bên cạnh các bài báo khoa học, các luận án tiến sĩ còn có các giáo trình đề
cập đến quan điểm phân định giữa tình hình tài chính với tài chính doanh nghiệp
và hoạt động tài chính. PGS. TS. Nguyễn Văn Công cho rằng: “Tình hình tài
chính của doanh nghiệp thể hiện tình trạng hay thực trạng tài chính của doanh
nghiệp tại một thời điểm. Tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu, khả
quan hay bi đát thể hiện rõ nét chất lượng của toàn bộ hoạt động mà doanh
nghiệp đã tiến hành” [5, tr.233], [6, tr.91]. Tác giả đã làm rõ điểm khác nhau
giữa hoạt động tài chính và tình hình tài chính, theo đó, hoạt động tài chính là
những hoạt động liên quan đến việc thay đổi quy mô và kết cấu vốn chủ sở hữu
và vốn vay, còn tình hình tài chính thể hiện tình trạng hay thực trạng tài chính
của doanh nghiệp tại một thời điểm và nó phản ánh kết quả của tất cả các hoạt
động mà doanh nghiệp tiến hành.
Tác giả Nguyễn Năng Phúc cũng cho rằng tình hình tài chính doanh
nghiệp và tài chính doanh nghiệp hay hoạt động tài chính doanh nghiệp là những
phạm trù khác nhau. Tác giả này cho rằng những thông tin tình hình tài chính của
doanh nghiệp được cung cấp trong quá trình phân tích báo cáo tài chính.
Cùng quan điểm với tác giả Nguyễn Năng Phúc, tác giả Nguyễn Ngọc
Quang cũng cho rằng thông tin tình hình tài chính của doanh nghiệp là kết quả
của quá trình phân tích báo cáo tài chính [22].
Bên cạnh những tác giả trong nước, còn có một số tác giả điển hình của
nước ngoài có cùng quan điểm về sự không đồng nhất giữa tình hình tài chính
với tài chính doanh nghiệp. Các tác giả cũng đã thể hiện qua các công trình khoa
học dưới dạng sách, các bài báo trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế.
Nhóm tác giả John J. Wild, K.R. Subramanyam, Robert F. Halsey đã xuất
bản cuốn sách “Financial statement analysis – 9th edition” (2007) [29], và nhấn
mạnh phân tích báo cáo tài chính cung cấp thông tin về tình hình tài chính của
6
một doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể dự báo những rủi ro tài chính có thể
xảy ra.
Năm 2004, tác giả Stephen H. Penman cho ra đời tác phẩm “Financial
statement analysis and security valuation – second edition” [31]. Nội dung chính
của tác phẩm cũng có những điểm tương đồng với những tác phẩm của tác giả
Bernstein A. Leopold và nhóm tác giả giả John J. Wild, K.R. Subramanyam,
Robert F. Halsey.
Vào năm 1995, một tổ chức có tên Latin America Training and
Development Center đã cho ra đời tác phẩm có tên “Financial statement
analysis” [30]. Tác phẩm trình bày những phân loại kế toán trong phân tích tài
chính như kế toán quản trị, kế toán thuế, kế toán tài chính.
Từ những phân tích trên, tác giả luận án cho rằng: Tình hình tài chính hoàn
toàn khác với hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính cùng với hoạt động kinh
doanh và hoạt động đầu tư là 3 hoạt động cơ bản của bất kỳ một doanh nghiệp
nào.
Theo quan điểm của tác giả luận án, phân tích tình hình tài chính là sử
dụng các phương pháp kỹ thuật để đánh giá trạng thái tài chính của doanh nghiệp
tại một thời điểm hoặc một thời kỳ đã qua cũng như đề ra những chỉ tiêu dự báo
tài chính trong tương lai, gắn liền với một không gian xác định, sử dụng báo cáo
tài chính làm cơ sở dữ liệu chính để phân tích.
Qua những nghiên cứu nêu trên có thể thấy rằng phân tích tình hình tài
chính là một vấn đề được rất nhiều nhà khoa học đến từ các trường đại học danh
tiếng quan tâm nghiên cứu, nó đã tạo ra một nền tảng lý luận vững chắc cho các
nghiên cứu tiếp sau cũng như là kim chỉ nam cho những ứng dụng trong thực
tiễn. Tuy nhiên, các công trình đã công bố chỉ tập trung nghiên cứu về phân tích
tình hình tài chính cho tất cả công ty nói chung, những kiến thức lý luận đó
không đề cập sâu vào một ngành nghề kinh doanh cụ thể. Tác giả sẽ nghiên cứu
sâu nội dung này; trên cở sở khung lý thuyết đã nêu ở các công trình trước, từ đó
nghiên cứu vào lĩnh vực kinh doanh đặc thù – lĩnh vực kinh doanh chứng khoán.
Đây chính là khoảng trống cần nghiên cứu của luận án.
7
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Trong Chương này, tác giả luận án đã nghiên cứu một số công trình khoa
học tiêu biểu liên quan đến phân tích tình hình tài chính cả trong nước lẫn nước
ngoài. Các công trình khoa học đó bao gồm sách chuyên khảo, giáo trình, luận án
và bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành uy tín trong nước và quốc tế.
Tác giả luận án nhận thấy có hai quan điểm chủ yếu về phân tích tình hình
tài chính doanh nghiệp là: (1) Đồng nhất giữa tình hình tài chính với hoạt động
tài chính và tài chính doanh nghiệp, (2) Phân định giữa tình hình tài chính với tài
chính doanh nghiệp và hoạt động tài chính Theo quan điểm của tác giả luận án
thì tình hình tài chính khác với tài chính doanh nghiệp và hoạt động tài chính.
Trên cơ sở nghiên cứu các công trình nghiên cứu liên quan, tác giả luận án
phát hiện ra khoảng trống nghiên cứu của đề tài, đồng thời rút ra được một số
vấn đề hữu ích nhằm vận dụng cho luận án.
8
CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH
CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
2.1. Tài chính doanh nghiệp và phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
2.1.1. Bản chất và vai trò của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái
giá trị hợp thành các quan hệ tài chính, phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh, gắn liền với việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của doanh
nghiệp. Bên trong quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các
quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị tạo thành các quan hệ tài chính của doanh
nghiệp và bao hàm một số quan hệ tài chính.
Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng với hoạt động của doanh
nghiệp, được thể hiện ở một số mặt như: Đảm bảo vốn cho doanh nghiệp, nâng
cao hiệu quả kinh doanh, kiểm soát tình hình kinh doanh.
2.1.2. Mối quan hệ giữa tài chính và tình hình tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp và tình hình tài chính doanh nghiệp có mối quan
hệ biện chứng với nhau. Tài chính doanh nghiệp liên quan đến những hoạt động
về thay đổi quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay như phát hành hay
mua lại cổ phiếu, trái phiếu; vay và trả nợ vay; chi trả cổ tức và các hoạt động
khác làm thay đổi cấu trúc tài chính của doanh nghiệp; liên quan đến việc xác
định nhu cầu; tạo lập, tìm kiếm, huy động và sử dụng số vốn đã huy động một
cách có hiệu quả. Tình hình tài chính của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của toàn
bộ các hoạt động mà doanh nghiệp tiến hành, bao gồm: hoạt động kinh doanh,
hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính, nó là bức tranh phản ánh kết quả của tất
cả các hoạt động trong doanh nghiệp. Hoạt động tài chính tốt sẽ góp phần làm
lành mạnh tình hình tài chính doanh nghiệp, ngược lại, tình hình tài chính doanh
nghiệp khả quan sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động tài chính có hiệu quả cao.
2.1.3. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một quá trình được tổ chức
khoa học, có hệ thống, sử dụng kết hợp các phương pháp kỹ thuật trong phân
tích tài chính để đánh giá thực trạng tài chính, tiềm năng và hiệu quả kinh doanh
cũng như dự báo nhu cầu tài chính và những rủi ro trong tương lai, giúp các đối
tượng sử dụng thông tin đưa ra quyết định đúng đắn.
2.2. Phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán
2.2.1. Đặc điểm hoạt động của công ty chứng khoán có ảnh hưởng đến phân
tích tình hình tài chính
CTCK là một tổ chức tài chính trung gian không thể thiếu trên thị trường
chứng khoán – một thị trường có mức độ nhạy cảm cao và có ảnh hưởng lớn đến
nền kinh tế. Do vậy, hoạt động của CTCK có những điểm khác biệt với hoạt
9
động của các loại hình doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác. CTCK có một số
đăc thu chu yêu như đặc thù về tổ chức, đặc thù về chế độ tài chính, đặc thù về
hoạt động, đặc thù về hàng hóa kinh doanh. Những đặc thù này có ảnh hưởng
đến nôi dung phân tich tình hình tai chinh cua CTCK.
2.2.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính của công ty chứng khoán
2.2.2.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính
Đánh giá khái quát tình hình tài chính với mục đích chủ yếu là đưa ra
những nhận định về bức tranh tài chính của doanh nghiệp dưới dạng chung nhất,
tổng quát nhất. Thông tin của đánh giá khái quát tình hình tài chính sẽ giúp người
sử dụng biết được thực trạng tài chính của doanh nghiệp, mức độ độc lập và tự
chủ tài chính, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời cũng như những khó khăn
tài chính mà doanh nghiệp gặp phải; từ đó, người sử dụng thông tin sẽ có đưa ra
những quyết định hợp lý
2.2.2.2. Phân tích cấu trúc tài chính
Cấu trúc tài chính phản ánh kết cấu của nguồn vốn, kết cấu của tài sản và
cả mối quan hệ giữa tài sản với nguồn vốn. Qua đó cho thấy rằng tính hợp lý
trong cơ cấu nguồn vốn, chính sách huy động vốn và chính sách sử dụng vốn của
doanh nghiệp. Những chính sách này ảnh hưởng đến an ninh tài chính, đến hiệu
quả sử dụng vốn, đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2.2.3. Phân tích cân bằng tài chính
Cân bằng tài chính thể hiện mối quan hệ cân đối giữa tài sản với nguồn
hình thành tài sản theo mức độ ổn định của nguồn tài trợ.
Trạng thái cân bằng tài chính tốt, an toàn và bền vững là khi vốn hoạt động
thuần lớn hơn 0, khi đó nguồn tài trợ thường xuyên vừa tài trợ cho cả tài sản dài
hạn vừa cho cả tài sản ngắn hạn. Khi vốn hoạt động thuần bằng 0 thì tính ổn định
chưa cao, nguy cơ cân bằng xấu vẫn tiềm tàng. Ngược lại, nếu vốn hoạt động
thuần nhỏ hơn 0 thì cán cân tài chính mất cân bằng, khó khăn trong thanh toán và
nguy cơ phá sản dễ xảy ra.
2.2.2.4. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán theo thời gian
Phân tích tình hình thanh toán theo thời gian cho biết trong từng giai đoạn
(ngắn hạn, dài hạn) CTCK bị chiếm dụng hay đi chiếm dụng trong hoạt động
thanh toán.
Phân tích khả năng thanh toán theo thời gian sẽ đối chiếu giữa khả năng
thanh toán và nhu cầu thanh toán, tiến hành trong một khoảng thời gian xác định
hoặc trong từng giai đoạn cụ thể.
2.2.2.5. Phân tích hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là sự so sánh giữa kết quả đầu ra với yếu tố đầu vào.
Đạt hiệu quả kinh doanh cao là mục tiêu cuối cùng của tất cả các tổ chức kinh
doanh nói chung và CTCK nói riêng; vì nó sẽ tạo điều kiện để hoàn thành nghĩa
10
vụ với Nhà nước, mở rộng sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu cũng như tăng
thu nhập cho người lao động.
2.2.2.6. Phân tích rủi ro
Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng gặp phải rủi ro. Đặc điểm rủi ro
trong kinh doanh chứng khoán là rủi ro mang tính hệ thống khá cao. Do vậy,
kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn tài chính các CTCK luôn là vấn đề được cơ
quan quản lý Nhà nước quy định khắt khe. Những loại rủi ro được xem là đặc
thù của CTCK như: rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường và rủi ro thanh toán.
2.2.2.7. Phân tích vốn khả dụng
Vốn khả dụng là vốn chủ sở hữu có thể chuyển đổi thành tiền trong vòng
chín mươi (90) ngày. Để phân tích vốn khả dụng, CTCK cần lập Bảng tính vốn
khả dụng. Bảng được thiết kế cần thể hiện cả vốn chủ sở hữu, các khoản tăng
thêm và các khoản giảm trừ; đồng thời, liệt kê đầy đủ những bộ phận chi tiết. Từ
đó, các CTCK có thể thấy được cụ thể những nội dung của vốn khả dụng.
2.2.2.8. Dự báo nhu cầu tài chính
Dự báo nhu cầu tài chính là một nội dung quan trọng trong khi lập kế
hoạch kinh doanh, thực chất của dự báo nhu cầu tài chính là dự báo nhu cầu về
vốn. Dự báo nhu cầu tài chính là một công cụ để đảm bảo cho CTCK có thể hoạt
động thành công, là một chức năng không thể thiếu với nhà quản lý, là công cụ
để kiểm tra và theo dõi tình hình kinh doanh.
2.2.3. Phương pháp nghiệp vụ - kỹ thuật phân tích tình hình tài chính của
công ty chứng khoán
Phân tích tình hình tài chính của CTCK thường sử dụng một số phương
pháp nghiệp vụ - kỹ thuật chủ yếu như: Phương pháp so sánh, phương pháp chi
tiết, phương pháp loại trừ, phương pháp Dupont, phương pháp liên hệ cân đối.
Ngoài ra, phân tích tình hình tài chính còn sử dụng một số phương pháp khác
như: Phương pháp hồi quy, phương pháp quy hoạch tuyến tính, phương pháp sử
dụng mô hình kinh tế lượng, phương pháp phân tích tác nghiệp, phương pháp đồ
thị, ...
2.2.4. Tổ chức phân tích tình hình tài chính của công ty chứng khoán
Tổ chức phân tích tình hình tài chính của CTCK được tiến hành với một số
công đoạn mang tính trình tự như: Công tác chuẩn bị, tiến hành phân tích và kết
thúc phân tích. Các công đoạn này nếu được thực hiện nghiêm túc, khoa học và
chuyên nghiệp thì phân tích tình hình tài chính của CTCK sẽ mang lại những
thông tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng.
2.3. Kinh nghiệm phân tích tình hình tài chính của công ty chứng khoán tại
một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.3.1. Kinh nghiệm phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán
tại một số nước trên thế giới
Một số nước có thị trường chứng khoán phát triển như Mỹ, Anh, Pháp,
11
Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông.. Trong những nước có thị trường chứng
khoán phát triển thì Mỹ là quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển số một
thế giới. Luận án nghiên cứu việc phân tích tình hình tài chính của một số CTCK
thuộc top 5 ở nước Mỹ.
Bên cạnh sự nổi tiếng của Sở giao dịch chứng khoán New York, sự nổi
tiếng của nước Mỹ; ở Châu Á có Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, thành lập
năm 1949, trụ sở chính tại Tokyo- Nhật Bản. Đây là nước có thị trường chứng
khoán phát triển nhất Châu Á. Luận án chọn một số CTCK thuộc top 3 của Nhật
Bản để nghiên cứu vấn đề phân tích tình hình tài chính, Nhật Bản và Việt Nam
cùng là nước thuộc khu vực Châu Á nên có nhiều nét tương đồng.
2.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trên cơ sở tham khảo phân tích tình hình tài chính của các CTCK ở Mỹ -
một quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển và hiện đại nhất thế giới, và
các CTCK ở Nhật Bản – một quốc gia ở cùng khu vực Châu Á với Việt Nam và
có thị trường chứng khoán đứng số một Châu Á, Việt Nam có thể học tập kinh
nghiệm ở những quốc gia này, nhất là trong bối cảnh mở cửa thị trường tài chính
của Việt Nam bắt đầu từ ngày 01/01/2012.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp luôn là vấn đề thời sự. Phân tích
tình hình tài chính của các CTCK là một vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn
thực tiễn. Chương 2 của luận án đã làm rõ những nội dung như:
- Tài chính doanh nghiệp và phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp;
- Phân tích tình hình tài chính của các CTCK;
- Phương pháp phân tích tình hình tài chính của CTCK;
- Tổ chức phân tích tình hình tài chính;
- Kinh nghiệm phân tích tình hình tài chính của các CTCK ở Mỹ và Nhật
Bản, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Kiến thức lý luận về phân tích tình hình tài chính của CTCK ở Chương 2
là cơ sở khoa học để tiếp tục nghiên cứu thực trạng phân tích tình hình tài chính
của các CTCK Việt Nam ở Chương 3 cũng như đề ra một số giải pháp hoàn
thiện cho vấn đề nghiên cứu trong Chương 4.
12
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1. Tổng quan về hệ thống công ty chứng khoán Việt Nam
3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán thực hiện phiên giao dịch đầu tiên
vào ngày 20/07/2000 với việc vận hành sàn giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí
Minh vào ngày 20/7/2000 và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội vào ngày
8/3/2005, lúc đó chỉ có 2 công ty niêm yết là Công ty Cổ phần Cáp & Vật liệu
viễn thông (SACOM) và Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE). Theo thời gian,
thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự phát triển nhất định về số lượng hàng
hóa niêm yết, về sự tham gia của nhà đầu tư cũng như sự phát triển của các
CTCK.
3.1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh và phân cấp
quản lý tài chính
Ở Việt Nam, CTCK được phép tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) theo quy định của Luật Doanh
nghiệp và được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thực hiện một,
một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Hầu hết các CTCK Việt Nam được tổ chức theo hình thức công ty cổ
phần, chỉ có rất ít CTCK tổ chức theo hình thức công ty TNHH.
Tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp quản lý tài chính của CTCK có thể
được xây dựng từ mức độ đơn giản đến phức tạp, điều này tùy thuộc vào quy mô
của thị trường, vào khách hàng, vào các nghiệp vụ được phép hoạt động, vào tính
chất sở hữu, vào phương thức kinh doanh của chủ sở hữu, vào loại hình doanh
nghiệp.
3.1.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và bộ sổ kế toán
Bộ máy kế toán của các CTCK Việt Nam là phòng tài chính kế toán.
Phòng này có nhiệm vụ tổ chức công tác kế toán trong toàn CTCK và thực hiện
các công việc về tài chính kế toán liên quan đến hoạt động kinh doanh của
CTCK. Bộ máy kế toán chủ yếu được tổ chức theo mô hình kế toán tập trung, do
đó mọi công việc kế toán đều tập trung giải quyết ở phòng này.
Hình thức sổ kế toán quy định áp dụng thống nhất đối với CTCK là hình
thức kế toán nhật ký chung và hình thức kế toán trên máy vi tính.
3.1.4. Vai trò của công ty chứng khoán
Thông qua các hoạt động trên thị trường chứng khoán, CTCK đã thể hiện
vai trò quan trọng đối với thị trường nói chung và các chủ thể tham gia trên thị
trường nói riêng. Một số vai trò chủ yếu của CTCK gồm: Huy động vốn cho
doanh nghiệp và nền kinh tế, xác định giá cả chứng khoán; tạo ra sản phẩm; thực
13
hiện tính thanh khoản của chứng khoán; thúc đẩy vòng quay của chứng khoá;
cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính; giúp cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
một cách có hiệu quả; thúc đẩy các sản phẩm đầu tư.
3.2. Thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán
Việt Nam
3.2.1. Khái quát thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty
chứng khoán Việt Nam
- Về tổ chức phân tích tình hình tài chính: Hầu hết các CTCK được khảo sát là công ty cổ phần (27/30 công ty cổ
phần, chiếm 90% trong tổng số 30 CTCK), niêm yết trên thị trường chứng khoán
và là lĩnh vực kinh doanh đặc thù nên công tác phân tích tình hình tài chính được
quan tâm rõ rệt. Tuy nhiên, phần lớn các CTCK vẫn chưa có bộ phận phân tích
tình hình tài chính chuyên trách độc lập, 90% CTCK thực hiện phân tích tình
hình tài chính tại phòng tài chính kế toán, 10% CTCK cho rằng công tác phân
tích tình hình tài chính của CTCK được tiến hành bởi phòng phân tích và đầu tư.
50% CTCK có công tác phân tích tình hình tài chính được tiến hành chủ yếu
theo kế hoạch lập từ năm trước.
- Về phương pháp phân tích tình hình tài chính:
Có nhiều phương pháp khác nhau mà nhà phân tích có thể sử dụng, sự kết
hợp đa dạng các phương pháp sẽ mang lại những kết quả đáng tin cậy và toàn
diện. Tuy nhiên, các CTCK mới chỉ áp dụng phương pháp so sánh theo thời gian,
so sánh bằng số tuyệt đối và số tương đối, các chỉ tiêu được tính toán và tiến
hành so sánh giữa kỳ này với kỳ trước.
- Về nội dung và chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính:
Qua nghiên cứu thực tế thì nội dung phân tích tình hình tài chính tại 100%
CTCK khảo sát có một số đặc điểm như: hệ thống chỉ tiêu sử dụng rất ít, nội
dung phân tích sơ sài (chỉ bao gồm: phân tích cơ cấu tài sản; phân tích cơ cấu
nguồn vốn; phân tích khả năng thanh toán qua một số chỉ tiêu như hệ số khả
năng thanh toán tổng quát, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng
thanh toán tức thời; phân tích tỷ lệ vốn khả dụng; phân tích hiệu quả kinh doanh
qua một số chỉ tiêu cơ bản như sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu, sức sinh lợi của
doanh thu thuần, sức sinh lợi của tài sản, số vòng quay), các thông tin công bố
không phản ánh được nhịp điệu tăng trưởng và xu hướng tăng trưởng của các chỉ
tiêu theo thời gian.
3.2.2. Thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán
Việt Nam
3.2.2.1. Phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn
Qua khảo sát thực tế, có 90% CTCK thực hiện phân tích cơ cấu tài sản và
cơ cấu nguồn vốn, có 03 CTCK (chiếm 10%) là CTCK ACB (ACBS), CTCK VIT
(VITS) và CTCK Tp.Hồ Chí Minh (HSC) không thực hiện phân tích cơ cấu tài
14
sản và cơ cấu nguồn vốn. Việc phân tích này được các CTCK tiến hành theo
quý, theo năm. Số liệu chủ yếu tính cho năm báo cáo và năm liền trước. Các
CTCK đều nhận thấy phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn là nội dung
phân tích quan trọng trong phân tích tình hình tài chính. Khoảng 80% CTCK
được khảo sát sử dụng chỉ tiêu tỷ trọng của từng bộ phận tài sản trong tổng số tài
sản và chỉ tiêu tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn, cơ
sở số liệu để tính chỉ tiêu được lấy từ bảng cân đối kế toán của CTCK.
Khảo sát thực tế cũng cho thấy một số đặc điểm về phân tích cơ cấu tài sản
và cơ cấu nguồn vốn của các CTCK như: (1) tên gọi của cùng một chỉ tiêu phân
tích có sự không thống nhất giữa các CTCK với nhau, (2) chỉ tiêu phân tích sử
dụng không phản ánh đúng bản chất của nội dung phân tích, (3) khác nhau về số
lượng chỉ tiêu phân tích được sử dụng trong cùng một nội dung phân tích giữa
các CTCK với nhau, (4) sử dụng đơn vị tính của chỉ tiêu phân tích không phản
ánh đúng nội dung phân tích (gọi là phân tích cơ cấu nhưng đơn vị tính của chỉ
tiêu là lần), (5) thời gian của số liệu chỉ tiêu phân tích giữa các CTCK có khác
biệt lớn (có CTCK thì chỉ tính cho năm báo cáo, có CTCK thì tính cho hai năm:
năm báo cáo và năm liền trước, có CTCK thì tính cho ba năm liền kề, có CTCK
thì tính trong chín năm liên tiếp), (6) không đồng nhất về phương pháp phân tích
sử dụng. Phần trình bày tiếp sau đây sẽ minh họa rõ nét cho những đặc điểm về
phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn của các CTCK.
3.2.2.2. Phân tích khả năng thanh toán
Qua khảo sát thực tế, luận án nhận thấy việc phân tích khả năng thanh toán
của các CTCK có một số đặc điểm chính như: (1) không thống nhất về tên gọi
chỉ tiêu phân tích giữa các CTCK với nhau (chẳng hạn, cùng là khả năng thanh
toán hiện hành nhưng có CTCK gọi là khả năng thanh toán ngắn hạn, có CTCK
gọi là khả năng thanh toán hiện thời), (2) không giống nhau về số lượng chỉ tiêu
phân tích sử dụng giữa các CTCK với nhau (có CTCK sử dụng 02 chỉ tiêu, cũng
có CTCK sử dụng 03 chỉ tiêu), (3) không thống nhất về đơn vị tính của chỉ tiêu
phân tích (có CTCK sử dụng đơn vị tính của chỉ tiêu là lần, có CTCK khác sử
dụng đơn vị tính của chỉ tiêu là %), (4) không thống nhất về cách thức trình bày
chỉ tiêu phân tích giữa các CTCK với nhau (chẳng hạn, có CTCK trình bày công
thức tính cho từng chỉ tiêu phân tích khả năng thanh toán, có CTCK thì không
thực hiện việc này), (5) khác nhau về thời gian của số liệu chỉ tiêu phân tích giữa
các CTCK (có CTCK thì chỉ tính cho năm báo cáo, có CTCK thì tính cho hai
năm: năm báo cáo và năm liền trước, có CTCK thì tính cho ba năm liền kề), (6)
không sử dụng phương pháp so sánh để phân tích.
3.2.2.3. Phân tích năng lực hoạt động và khả năng sinh lời
Khảo sát thực tế cho thấy việc phân tích hiệu năng hoạt động và khả năng
sinh lời của các CTCK có một số đặc điểm như: (1) không thống nhất về tên gọi
chỉ tiêu phân tích giữa các CTCK với nhau (chẳng hạn, có CTCK gọi là tỷ suất
15
lợi nhuận, có CTCK gọi là tỷ số doanh lợi, có CTCK gọi là hệ số lợi nhuận/tổng
tài sản), (2) không thống nhất về số liệu dùng để tính toán chỉ tiêu phân tích
(chẳng hạn, cùng là chỉ tiêu ROA nhưng có CTCK dùng lợi nhuận trước thuế để
tính, có CTCK dùng lợi nhuận sau thuế), (3) không thống nhất về cách thức trình
bày chỉ tiêu phân tích giữa các CTCK với nhau (chẳng hạn, có CTCK trình bày
công thức tính cho từng chỉ tiêu phân tích khả năng sinh lợi, có CTCK thì không
thực hiện việc này), (4) khác nhau về thời gian của số liệu chỉ tiêu phân tích giữa
các CTCK (có CTCK thì chỉ tính cho năm báo cáo, có CTCK thì tính cho hai
năm: năm báo cáo và năm liền trước, có CTCK thì tính cho ba năm liền kề), (5)
số liệu của chỉ tiêu phân tích chỉ mang tính liệt kê theo thời gian mà không có sự
so sánh, (6) không thông nhất về cách thức phân tích (có CTCK thực hiện phân
tích những thay đổi lớn và nguyên nhân dẫn đến thay đổi của khả năng sinh lời,
có CTCK chỉ nêu các chỉ tiêu mà không có bất kỳ lời nhận xét hay phân tích
nào).
3.2.2.4. Phân tích tỷ lệ vốn khả dụng
Theo kết quả khảo sát, có 100% CTCK thực hiện phân tích tỷ lệ vốn khả
dụng. Báo cáo tỷ lệ vốn khả dụng phản ánh mức an toàn tài chính của CTCK.
Ban Tổng Giám đốc chịu trách nhiệm lập Báo cáo tỷ lệ vốn khả dụng và đảm
bảo Báo cáo này đã phản ánh một cách trung thực và hợp lý về tình hình tài
chính của CTCK.
Khi phân tích vốn khả dụng, 100% CTCK đều tính và thể hiện sáu chỉ tiêu
là tổng giá trị rủi ro thị trường, tổng giá trị rủi ro thanh toán, tổng giá trị rủi ro
hoạt động, tổng giá trị rủi ro, vốn khả dụng và tỷ lệ an toàn vốn khả dụng.
3.2.2.5. Phân tích các hệ số phù hợp trong khu vực kinh doanh
Ngoài những nội dung về phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn, khả
năng thanh toán, năng lực hoạt động, khả năng sinh lời, tỷ lệ vốn khả dụng, một
số CTCK còn phân tích các hệ số phù hợp trong khu vực kinh doanh. Phân tích
các hệ số phù hợp trong khu vực kinh doanh nhằm giúp CTCK biết được một số
chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của công ty đang ở mức nào so với quy định
chung trong lĩnh vực kinh doanh của mình.
3.3. Đánh giá thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng
khoán Việt Nam
3.3.1. Về tổ chức phân tích
Các CTCK có tiến hành phân tích tình hình tài chính nhưng vẫn chưa có
nhân sự chuyên trách, do đó thiếu tính chuyên nghiệp và khoa học. Tại 90%
CTCK, bộ phận phân tích tài chính (phòng phân tích và đầu tư) được tổ chức ra
nhằm mục đích chính là cung cấp dịch vụ cho khách hàng chứ không phải cho
chính CTCK. Có 95% CTCK khảo sát có thực hiện các công việc như lập kế
hoạch phân tích, thu thập tài liệu, tiến hành phân tích. Tuy nhiên, các công việc
này của quá trình tổ chức phân tích không được chuẩn bị bài bản.
16
3.3.2. Về phương pháp phân tích
Các CTCK chủ yếu và thường xuyên dùng phương pháp so sánh khi phân
tích tình hình tài chính. Đây là phương pháp đơn giản, dễ sử dụng và cũng cho
phép đánh giá những khía cạnh cơ bản của tình hình tài chính. Tuy nhiên, một số
CTCK khảo sát mới chỉ vận dụng tối đa phương pháp so sánh tương đối và so
sánh tuyệt đối, số liệu so sánh chỉ giới hạn ở hai năm liền kề, các chỉ tiêu được
tính toán và sau đó tiến hành so sánh với năm liền trước để xem mức độ biến
động và tốc độ biến động. Do vậy đã không phản ánh được xu hướng và nhịp
điệu tăng trưởng của các chỉ tiêu tài chính trong một khoảng thời gian nhất định.
3.3.3. Về nội dung và chỉ tiêu phân tích
Có 93,33% CTCK khảo sát mới chỉ tính toán một số chỉ tiêu phân tích như
cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả
năng thanh toán bằng tiền, hệ số khả năng thanh toán hiện hành, sức sinh lợi của
tổng tài sản, sức sinh lợi của doanh thu, sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu, tỷ lệ
vốn khả dụng. Nhìn chung, hệ thống chỉ tiêu phân tích của các CTCK còn đơn
giản, chưa toàn diện, không thể hiện được toàn cảnh tình hình tài chính.
Quá trình phân tích chỉ dừng lại ở việc so sánh các chỉ tiêu ở cuối kỳ và
đầu kỳ, đưa ra những nhận xét về mức độ biến động của chỉ tiêu. Điều này mới
chỉ phản ánh biểu hiện bề ngoài và có tính qui mô, chưa xem xét các nhân tố ảnh
hưởng và nguyên nhân của sự biến động đó. Do đó, chỉ đưa ra những nhận xét
đơn giản chứ chưa có khả năng đề ra các giải pháp phát huy nhân tố tích cực, hạn
chế nguyên nhân tiêu cực.
Nguồn số liệu để phân tích chỉ tập trung vào BCTC, chủ yếu là bảng cân
đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Do đó, đôi khi những nhận
định đưa ra còn phiến diện và thiếu chính xác.
17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Chương 3 đã trình bày những nội dung sau:
- Tổng quan về hệ thống công ty chứng khoán Việt Nam: Gồm những vấn
đề cụ thể như lịch sử hình thành và phát triển, đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán
và bộ sổ kế toán, đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh và
phân cấp quản lý tài chính, vai trò của công ty chứng khoán đối với thị trường
chứng khoán Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung;
- Thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán
Việt Nam: Khảo sát thực trạng tại 30 công ty chứng khoán niêm yết trên hai Sở
Giao dịch chứng khoán, đại diện cho mô hình công ty chứng khoán chuyên
doanh và mô hình công ty chứng khoán đa năng;
- Đánh giá thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng
khoán: Căn cứ vào thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng
khoán được khảo sát để đưa ra những nhận xét, đánh giá, những ưu điểm, những
tồn tại trên các mặt như tổ chức phân tích, phương pháp phân tích và nội dung
phân tích.
Chương này này cung cấp bức tranh thực tế về phân tích tình hình tài chính
của các công ty chứng khoán Việt Nam, từ đó làm căn cứ cho việc hoàn thiện
phân tích tình hình tài chính ở Chương 4.
18
CHƢƠNG 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.1. Chiến lƣợc phát triển thị trƣờng chứng khoán và các công ty chứng
khoán Việt Nam
4.1.1. Quan điểm chủ đạo và mục tiêu chiến lược
Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán giai đoạn sắp tới sẽ hướng
tới mục tiêu: tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán,
phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt từ 70% đến 100% GDP
vào năm 2020, tăng tính hiệu quả cho thị trường trên cơ sở tái cấu trúc tổ chức thị
trường chứng khoán, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp hóa việc tổ chức
và vận hành hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cao sức cạnh tranh của các định
chế trung gian thị trường, các tổ chức phụ trợ thị trường và của thị trường chứng
khoán Việt Nam, tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý vi
phạm, củng cố lòng tin của nhà đầu tư...
- Mục tiêu tổng quát: Phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường
vốn Việt Nam, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo; từng bước
đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính,
góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền
kinh tế; đảm bảo tính công khai, minh bạch, duy trì trật tự, an toàn, hiệu quả, tăng
cường quản lý, giám sát thị trường; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường
tài chính quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển
tương đương thị trường các nước trong khu vực.
- Mục tiêu cụ thể: Phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu
huy động vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm
2020 đạt 70% GDP.
4.1.2. Định hướng phát triển đến năm 2020
Một là, phát triển thị trường chứng khoán phải dựa trên chuẩn mực chung
của thị trường và các thông lệ quốc tế tốt nhất, phù hợp với điều kiện thực tế và
định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tích cực hội nhập với thị
trường tài chính khu vực và quốc tế.
Hai là, phát triển thị trường chứng khoán đồng bộ, toàn diện, hoạt động
hiệu quả, vận hành an toàn, lành mạnh, vừa góp phần huy động vốn cho đầu tư
phát triển của xã hội vừa tạo ra những cơ hội đầu tư sinh lợi, góp phần nâng cao
mức sống và an sinh xã hội.
Ba là, phát triển thị trường chứng khoán nhiều cấp độ, bảo đảm chứng
khoán được tổ chức giao dịch theo nguyên tắc thị trường, có sự quản lý, giám sát
của Nhà nước; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích
19
các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Bốn là, đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp vụ của thị trường, đảm bảo cho
các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả dựa
trên nền tảng quản trị rủi ro và phù hợp với các chuẩn mực chung và thông lệ
quốc tế. Từng bước tái cơ cấu hệ thống các trung gian thị trường trên nguyên tắc
không gây xáo trộn lớn và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên
thị trường.
Năm là, phát triển thị trường chứng khoán trong mối tương quan với việc
phát triển thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm, nhằm tạo ra một hệ thống thị
trường tài chính thống nhất, đồng bộ có sự quản lý, giám sát của nhà nước. Hoạt
động quản lý, giám sát, điều hành và phát triển của các cơ quan quản lý nhà nước
phải thống nhất về mục tiêu, mục đích, định hướng và giải pháp thực hiện.
Sáu là, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, nâng cao khả năng
cạnh tranh, từng bước thu hẹp về khoảng cách phát triển giữa thị trường chứng
khoán Việt Nam so với các thị trường khác trong khu vực và trên thế giới.
4.2. Sự cần thiết và quan điểm hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của
các công ty chứng khoán Việt Nam
4.2.1. Sự cần thiết hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của các công ty
chứng khoán Việt Nam
Từ thực trạng phân tích tình hình tài chính của các CTCK Việt Nam cho
thấy việc hoàn thiện phân tích tình hình tài chính là thực sự cần thiết. Đây là mối
quan tâm không chỉ của bản thân CTCK mà còn là của cơ quan quản lý Nhà
nước, của nhà đầu tư, rộng hơn nữa là của toàn thị trường chứng khoán.
Hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của CTCK là cần thiết vì một số
mục đích quan trọng và thiết thực như: bảo đảm lợi ích cho chính các CTCK,
đáp ứng nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng và góp phần ổn định, củng
cố thị trường chứng khoán, phát triển nền kinh tế.
4.2.2. Quan điểm hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của các công ty
chứng khoán Việt Nam
Hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của các CTCK Việt Nam cần dựa
trên một số quan điểm chủ yếu như quan điểm toàn diện, quan điểm phù hợp,
quan điểm hội nhập và phát triển.
4.3. Giải pháp hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của các công ty
chứng khoán Việt Nam
4.3.1. Hoàn thiện tổ chức phân tích tình hình tài chính
Các CTCK cần xây dựng được đội ngũ những người phân tích tình hình tài
chính và cả những người hành nghề kế toán có chuyên môn cũng như đạo đức
nghề nghiệp. Điều này là vô cùng cần thiết vì sản phẩm mà họ cung cấp có tầm
ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của bản thân các CTCK, ảnh hưởng đến sự
phát triển của thị trường chứng khoán, đến sự phát triển của nền kinh tế và toàn
20
xã hội.
Công tác tổ chức phân tích tình hình tài chính của các CTCK thời gian tới
phải được tổ chức khoa học, hợp lý và chuyên nghiệp hơn, phù hợp với đặc điểm
kinh doanh, đặc thù hoạt động của CTCK, phù hợp với các đối tượng quan tâm
của từng đối tượng sử dung thông tin. Khi phân tích tình hình tài chính, CTCK
cần phải tiến hành theo trình tự 3 bước: lập kế hoạch phân tích, tiến hành phân
tích, kết thúc phân tích.
4.3.2. Hoàn thiện phương pháp phân tích tình hình tài chính
Phương pháp phân tích là yếu tố quan trọng để phân tích tình hình tài chính
có chất lượng. Có nhiều phương pháp phân tích tình hình tài chính khác nhau,
mỗi phương pháp có những ưu điểm, nhược điểm, nội dung và điều kiện áp dụng
khác nhau nhưng ta có thể kết hợp chúng với nhau.
Vận dụng các phương pháp phân tích khác nhau sẽ giúp các nhà phân tích
làm rõ mức độ ảnh hưởng và xu hướng tác động của các nhân tố đến sự biến
động của kết quả tài chính. Từ đó, có căn cứ tin cậy để đề ra các giải pháp cần
thiết, hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Do vậy, ngoài việc hoàn thiện
thêm các phương pháp hiện dùng như phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê, cần phải bổ sung các phương pháp mới được áp dụng rộng rãi ở các nước
phát triển như phương pháp hồi qui, phương pháp thay thế liên hoàn, phương
pháp Dupont,…Như vậy, phải đa dạng hóa phương pháp phân tích.
4.3.3. Hoàn thiện nội dung và chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính
4.3.3.1. Phân tích tình hình bảo đảm vốn điều lệ so với vốn pháp định
Để phân tích tình bảo đảm vốn điều lệ so với vốn pháp định, nhà phân tích
sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ vốn điều lệ so với vốn pháp định. Tỷ lệ vốn điều lệ so với
vốn pháp định càng cao càng tốt. Chỉ tiêu này cho biết số vốn điều lệ của CTCK
tại thời điểm xem xét lớn hơn mức vốn pháp định như thế nào, đồng thời cho biết
quá trình gia tăng vốn điều lệ của CTCK trong quá trình phát triển của hoạt động
kinh doanh. Chỉ tiêu này càng tăng chứng tỏ vốn đầu tư của chủ sở hữu tăng
trưởng không ngừng, góp phần phản ánh sự tăng trưởng và phát triển của CTCK,
tạo sự an tâm cho nhà đầu tư.
4.3.3.2. Phân tích tình hình biến động về tỷ suất đầu tư tài sản cố định
Mặc dù CTCK hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ nhưng cơ sở vật
chất kỹ thuật và công nghệ, phần mềm giao dịch giữ vai trò vô cùng quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của CTCK nói riêng và thị trường chứng khoán
nói chung, bởi lẽ CTCK hoạt động trong lĩnh vực chịu sự tác động rất lớn về
mức độ ứng dụng công nghệ thông tin, thông tin CTCK cung cấp phải nhanh
chóng, chính xác, đầy đủ, kịp thời.
Phân tích tình hình biến động về tỷ suất đầu tư tài sản cố định cũng như
biến động của tài sản cố định nói chung, tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định
vô hình nói riêng sẽ cho biết năng lực kinh doanh của CTCK cũng như mức độ
21
trang bị công nghệ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán theo thời gian. Đồng
thời, qua chỉ tiêu này sẽ đánh giá được mức độ đầu tư và đổi mới tài sản cố định
đến đâu so với hệ thống cơ sở hạ tầng và công nghệ giao dịch hiện đại của các
công ty chứng khoán quốc tế.
4.3.3.3. Phân tích khoản dự phòng bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư
Viêc hinh thanh va sư dung khoan dư phong bôi thương thiêt hai cho nha
đâu tư phản ánh tinh trang va mưc đô gây thiêt hai đên nha đâu tư cung như mưc
đô bôi thương cua CTCK cho nha đâu tư. Tư đo, các nhà đầu tư có thể đánh giá
đươc trinh đô quan ly va chât lương hoat đông cua CTCK đê co quyêt đinh đâu
tư đung đăn. Phân tích dự phòng bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư nên đươc
CTCK xem xet ca vê mưc dư phong đa lâp , mưc dư phong đa sư dung trong
tưng ky. CTCK cần sử dụng phương pháp so sánh số tương đối định gốc và so
sánh số tương đối liên hoàn để biết được xu hướng và nhịp điệu biến động của
chỉ tiêu về số dự phòng bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư được trích lập, số dự
phòng bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư đã được sử dụng và số dự phòng bồi
thường thiệt hại cho nhà đầu tư được chuyển sang năm sau sử dụng tiếp hoặc số
dự phòng trích lập bổ sung.
4.3.3.4. Phân tích các chỉ tiêu ngoài Bảng cân đối kế toán
CTCK vừa thực hiện nghiệp vụ cho chính mình như nghiệp vụ tự doanh
chứng khoán, vừa thực hiện một số nghiệp vụ khác như: môi giới chứng khoán,
quản lý danh mục đầu tư, lưu ký chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán,
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Đặc thù của những hoạt động này là giao dịch
những tài sản, hàng hóa không phải của chính CTCK. Vì vậy, tài sản ngoài Bảng
cân đối kế toán của CTCK khá nhiều. Chính vì vậy, CTCK cần phân tích chỉ tiêu
ngoài Bảng cân đối kế toán để thấy rõ hơn về toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ
mà CTCK thực hiện.
4.3.3.5. Phân tích mức độ bảo đảm an toàn trong hoạt động
Trong bối cảnh sức khỏe tài chính của CTCK chưa minh bạch và tồn tại
những hình thái kinh doanh mới nằm ngoài tầm kiểm soát, các CTCK cần phải
đảm bảo an toàn tài chính, cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần mạnh tay buộc
các CTCK đảm bảo an toàn tài chính.
Để phân tích mức độ bảo đảm an toàn trong hoạt động, các CTCK cần
phải tiến hành tính toán và phân tích chỉ tiêu tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro và chỉ
tiêu tỷ lệ lỗ lũy kế/vốn điều lệ bên cạnh các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh
toán thông thường. Việc tính toán các chỉ tiêu này phải tuân thủ theo đúng những
nội dung được quy định trong các văn bản của cơ quan quản lý Nhà nước.
4.4. Điều kiện để thực hiện giải pháp hoàn thiện phân tích tình hình tài
chính của các công ty chứng khoán Việt Nam
4.4.1. Về phía Nhà nước
Để các giải pháp hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của các CTCK
22
Việt Nam được thực hiện hiệu quả, cần đảm một số điều kiện từ phía các cơ
quan quản lý Nhà nước như: hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng mô hình tổ
chức cơ quan quản lý thị trường chứng khoán, hình thành thị trường định mức tín
nhiệm, nâng cao năng lực đội ngũ nhân sự, công khai số liệu các chỉ tiêu giám
sát tài chính.
4.4.2. Về phía các công ty chứng khoán
Trong bối cảnh hội nhập, các CTCK Việt Nam đặt mục tiêu vươn xa ra thị
trường quốc tế là điều tất yếu, hoặc ít ra cũng đứng vững trên sân nhà trước lộ
trình mở cửa dịch vụ tài chính từ năm 2012 theo cam kết của WTO. Để có thể
nhanh chóng hoàn thành mục tiêu này, các công ty luôn phải có chiến lược kinh
doanh đúng đắn, hiệu quả, kịp thời.
Để có thể thực thi được các giải pháp hoàn thiện phân tích tình hình tài
chính, các CTCK cần đáp ứng một số điều kiện như: nhận thức về phân tích tình
hình tài chính; bồi dưỡng, đào tạo nhân sự phân tích tình hình tài chính; đầu tư,
trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ phân tích tình hình tài chính.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Chương này nghiên cứu việc hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của
các CTCK Việt Nam. Nội dung của Chương trình bày những vấn đề sau:
- Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán và các CTCK Việt Nam:
Tập trung vào quan điểm chủ đạo và mục tiêu chiến lược, nhiệm vụ và định
hướng phát triển đến năm 2020;
- Sự cần thiết và quan điểm hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của các
CTCK Việt Nam: Chương này nêu một số quan đểm như quan điểm hội nhập và
phát triển, quan điểm toàn diện, quan điểm phù hợp.
- Giải pháp hoàn thiện phân tích tình hình tài chính: Chương 4 đưa ra một
số giải pháp cho những khía cạnh như giải pháp hoàn thiện tổ chức phân tích,
giải pháp hoàn thiện phương pháp phân tích, giải pháp hoàn thiện nội dung phân
tích.
Những giải pháp mà Chương 4 đề cập sẽ giúp công tác phân tích tình hình
tài chính của các CTCK Việt Nam được tốt hơn, từ đó cung cấp nhiều thông tin
hữu ích cho cơ quan quản lý Nhà nước, cho nhà quản lý và cho những đối tương
quan tâm khác. Tuy nhiên, để các giải pháp được thực hiện thành công thì cần có
những điều kiện từ phía Nhà nước và phía các CTCK. Những điều kiện để thực
hiện giải pháp hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của các CTCK Việt Nam
cũng là một trong những nội dung mà Chương 4 đề cập.
23
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường ngày nay, khi doanh nghiệp tham gia kinh doanh
trong một “thế giới phẳng”, sự cạnh tranh sẽ rất gay gắt. Các doanh nghiệp phải
vươn lên để khẳng định vị trí, thương hiệu của mình không chỉ với thị trường
trong nước mà còn với thị trường quốc tế. Đây là một bài toán không dễ có lời
giải đối với các doanh nghiệp nói chung và CTCK nói riêng, khi mà thị trường
chứng khoán Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, nhỏ bé so với thị trường chứng
khoán thế giới. Muốn góp phần giải quyết vấn đề này, các CTCK phải nhận thức
đúng đắn tầm quan trọng và vai trò to lớn của phân tích tình hình tài chính, phải
nghiêm túc xem phân tích tình hình tài chính là một khâu không thể thiếu trong
quá trình hoạt động của CTCK. Có làm được điều này CTCK mới phát triển bền
vững được.
Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phân tích tình hình tài
chính của CTCK, nghiên cứu thực trạng phân tích tình hình tài chính của các
CTCK Việt Nam để có những đánh giá thực trạng phân tích tình hình tài chính,
từ đó đưa ra những quan điểm và cũng như giải pháp để hoàn thiện phân tích tình
hình tài chính của các CTCK Việt Nam, nhằm giúp các đối tượng sử dụng thông
tin như nhà quản lý, nhà đầu tư, cơ quan quản lý Nhà nước,… có những quyết
định đúng đắn cho riêng mình.
***
24
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2012), “Trao đổi về giảng dạy một số nội dung phân
tích tài chính đặc thù của công ty chứng khoán”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Kế
toán, Kiểm toán trong quá trình cải cách và hội nhập, Trường Đại học Kinh tế
Đà Nẵng, Tháng 08/2012, Trang 322-345.
2. Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2010), “Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu tại Công
ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn từ sau khi niêm yết đến nay”, Tạp chí NCKH
Kiểm toán, Số 29, Tháng 03/2010, Trang 37-39.
3. Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2010), “Hoàn thiện cơ sở dữ liệu phân tích báo cáo
tài chính tại các công ty chứng khoán Việt Nam”, Nội san NCKH, Trường Đại
học Tài chính Kế toán, Số 58, Tháng 11/2010, Trang 80-83.
4. Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2010), “Hoàn thiện dữ liệu và nội dung phân tích
báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tại các công ty chứng khoán Việt Nam”,
Tạp chí NCKH Kiểm toán, Số 36, Tháng 10/2010, Trang 35-37.
5. Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2011), “Một số nội dung khác biệt giữa chế độ kế
toán doanh nghiệp và chế độ kế toán công ty chứng khoán”, Nội san NCKH,
Trường Đại học Tài chính Kế toán, Số 59, Tháng 01/2011, Trang 50-56.
6. Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2011) “Đặc điểm tổ chức và hoạt động của các công
ty chứng khoán có ảnh hưởng đến nội dung phân tích tình hình tài chính”, Tạp
chí Kinh tế và phát triển, Số 165 (II), Tháng 03/2011, Trang 63-65,71.
7. Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2012), “Một số trường hợp về xác định và ghi nhận
tài sản thuế thu nhập hoãn lại”, Nội san NCKH, Trường Đại học Tài chính Kế
toán, Số 63, Tháng 01/2012, Trang 48-52.
8. Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2012), “Đánh giá khái quát tình hình tài chính của
các công ty chứng khoán”, Nội san NCKH, Trường Đại học Tài chính Kế toán,
Số 64, Tháng 04/2012.
9. Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2012), “Phân tích tình hình tài chính của công ty
chứng khoán tại một số nước trên thế giới”, Nội san NCKH, Trường Đại học Tài
chính Kế toán, Số 65, Tháng 09/2012.