tÓm tẮt nỘi dung - vienthongke.vnvienthongke.vn/attachments/article/2271/2. bai trinh...
TRANSCRIPT
TÓM TẮT NỘI DUNG
• GIỚI THIỆU HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ
• KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SO VỚI CÁC MỤC TIÊU CỦA
CHIẾN LƯỢC
• NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỊNH
HƯỚNG
GIỚI THIỆU HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ
• Mục tiêu chính của hoạt động đánh giá ban đầu này là giúp Tổng
cục Thống kê thiết kế và thực hiện đánh giá ban đầu về thực trạng
Hệ thống thống kê Việt Nam và trình độ phát triển tại thời điểm bắt
đầu triển khai thực hiện Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam
để:
• - Xây dựng cơ sở dữ liệu cơ bản của Khung TD&ĐG thực hiện
CLTPTK làm cơ sở để đánh giá tiến độ thực hiện Chiến lược.
• - Xác định những khó khăn, vướng mắc và thách thức trong việc
thực hiện CLPTTK và công tác phối hợp.
• - Đề nghị các giải pháp kịp thời để đạt được các mục tiêu dự định
và mục tiêu cụ thể trong Chiến lược và Khung TD&ĐG thực hiện
Chiến lược.
• - Thiết kế và hoàn thiện danh sách các chỉ tiêu và phương pháp
luận đánh giá trình độ phát triển thống kê của CLPTTK phục vụ cho
công tác đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ việc thực hiện CLPTTK.
GIỚI THIỆU HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ
• Phạm vi của đánh giá tập trung vào:
• 1. Nghiên cứu Khung TD&ĐG thực hiện Chiến lược phát triển
Thống kê Việt Nam đã được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban
hành chính thức ngày 10/04/2013.
• 2. Cập nhật và thu thập dữ liệu ban đầu năm 2013, phát triển danh
sách các chỉ tiêu ban đầu (các thông tin ban đầu) đã được xây dựng
trong Khung TD&ĐG trên từ đánh giá hiện trạng ban đầu các hoạt
động trong 9 chương trình hành động của Chiến lược phát triển
thống kê do Tổng cục Thống kê, các Bộ, ngành và UBND các tỉnh,
thành phố thực hiện.
• 3. Phân tích đánh giá ban đầu thực trạng hệ thống thống kê Việt
Nam đến thời điểm 2013. Đánh giá phân tích các thông tin/ dữ liệu
ban đầu thu thập được và tập trung vào một số vấn đề quan trọng
của hệ thống thống kê, bao gồm: phổ biến dữ liệu, cơ chế phối hợp,
cơ chế để thúc đẩy chất lượng dữ liệu và thông suốt trong hoạt
động phổ biến dữ liệu.
GIỚI THIỆU HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ
• Các phương pháp luận được sử dụng bởi nhóm đánh giá bao gồm:
• • Tổng quan tài liệu
• • Họp tham vấn
• • Đi khảo sát thực địa
• • Bảng câu hỏi
• • Các phương pháp tiếp cận khác để thu thập và phân tích dữ liệu.
• Việc đánh giá được căn cứ vào việc sử dụng thông tin có sẵn và
những thông tin thu thập được trong quá trình khảo sát thực tế tại
các đơn vị thực hiện các hoạt động của CLPTTK.
GIỚI THIỆU HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ
• Các câu hỏi khảo sát tại các đơn vị tập trung vào những ý chính
sau:
• 1. Các hoạt động Chiến lược của đơn vị?
• 2. Kế hoạch triển khai các hoạt động này?
• 3. Kết quả thực hiện? Kết quả đạt được so với mục tiêu đặt ra? Kết
quả có đạt tiến độ về thời gian?
• 4. Khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện?
• 5. Đánh giá hiệu suất: các hoạt động có hiệu quả về mặt chi phí
không?
• 6. Khuyến nghị, đề xuất?
GIỚI THIỆU HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ
• Sản phẩm cuối cùng của nhóm chuyên gia bao gồm:
• (1) Báo cáo đánh giá ban đầu thực trạng Hệ thống thống kê Việt
Nam năm 2013, và
• (2) Danh mục các chỉ số và chỉ tiêu thực hiện năm 2013 được cập
nhật vào Khung theo dõi và đánh giá (TD&ĐG) làm cơ sở để đánh
giá tiến độ thực hiện CLTPTK tiếp theo.
GIỚI THIỆU HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ
• Cấu trúc của báo cáo đánh giá bao gồm các phần sau:
• Giới thiêu
• I. Hoàn thiện Hệ thống tổ chức và khuôn khổ pháp lý thống kê
• II. Nâng cao chất lượng các hoạt động thống kê
• III. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
• IV. Phát triển nhân lực ngành thống kê
• V. Tăng cường cơ sở vật chất và các nguồn lực tài chính
• VI. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê
• VII. Tổ chức thực hiện Chiến lược và kết quả đạt được so với các
mục tiêu của Chiến lược
• VIII. Kết luận và khuyến nghị
• Phụ lục
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 1. Kiện toàn hệ thống thống kê tập trung
• 2. Củng cố tổ chức Thống kê Bộ, ngành
• 3. Hoàn thiện thống kê tại các đơn vị cơ sở
• 4. Mô hình Hệ thống thống kê Việt Nam
• 5. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý thống kê
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• 7. Hoàn thiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê
• 8. Chất lượng hệ thống thu thập thông tin thống kê
• 9. Cập nhật các bảng phân loại theo chuẩn quốc tế
• 10. Tăng cường sự phối hợp các hoạt động thống kê
• 11. Hoàn thiện công tác phổ biến thông tin thống kê
• 12. Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học, phân tích và dự báo thống
kê
• 13. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong lĩnh vực thống kê
• 14. Phát triển nhân lực ngành thống kê
• 15. Tăng cường cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính
• 16. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 1. Kiện toàn hệ thống thống kê tập trung
• Hệ thống tổ chức thống kê tập trung đã được kiện toàn một bước theo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức tại Quyết định số
54/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
• Cơ cấu tổ chức đã không được thay đổi một cách thích hợp để hỗ trợ biên
soạn Hệ thống tài khoản quốc gia sau khi có sự thay đổi từ Hệ thống Bảng
cân đối kinh tế quốc dân (MPS) sang Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA),
quy trình tổ chức biên soạn còn phân tán, chia cắt, thiếu sự liên kết. Sự
phối hợp giữa thống kê các Bộ, ngành với Tổng cục Thống kê chưa chặt
chẽ, đồng bộ trong việc cung cấp thông tin thống kê dẫn đến còn nhiều hạn
chế của mảng số liệu này.
• Hệ thống thống kê tập trung cần được đổi mới cơ cấu tổ chức theo hướng
chuyên môn hóa các hoạt động thống kê (thu thập, xử lý và tổng hợp, phân
tích và dự báo, truyền đưa, lưu giữ và phổ biến thông tin thống kê) dựa trên
mô hình kiến trúc tổng thể của Dự án Hiện đại hóa Tổng cục Thống kê. Hệ
thống đầu mối dữ liệu thống kê tập trung. Thống kê tài khoản quốc gia cần
được thiết lập để trở thành trung tâm của các hoạt động của TCTK trong
lĩnh vực thống kê kinh tế.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 2. Củng cố tổ chức Thống kê Bộ, ngành
• Tổ chức Thống kê các Bộ, ngành đã được củng cố, kiện toàn một bước
qua việc Chính phủ ban hành Nghị định số 03/2010/NĐ-CP ngày
13/01/2010 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức thống kê Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
• Đến nay 15/24 Bộ, ngành đã thành lập Phòng Thống kê hay Cục/Trung tâm
Thống kê, song vẫn còn 9/24 Bộ, ngành chưa thành lập được các tổ chức
thống kê độc lập, cán bộ làm công tác thống kê ở đó đa số là kiêm nhiệm
dẫn tới ảnh hưởng việc nâng cao chất lượng của công tác thống kê.
• Mô hình tổ chức thống kê của các Bộ, ngành không ổn định, thống kê tại
các Sở, ngành ở địa phương còn yếu, năng lực hạn chế. Tổ chức thống kê
của các Bộ ngành ở địa phương không hỗ trợ đầy đủ cho hoạt động thống
kê.
• Cần tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức thống kê Bộ, ngành hiện có, thành
lập tổ chức thống kê tại các Bộ, ngành chưa có tổ chức thống kê, và tiếp
tục củng cố và hoàn thiện thống kê Sở, ngành ở địa phương.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 3. Hoàn thiện thống kê tại các đơn vị cơ sở
• Công tác thống kê ở doanh nghiệp, cơ quan hành chính, sự nghiệp còn
nhiều bất cập do phụ thuộc vào sự nhận thức và quan tâm của lãnh đạo
các đơn vị và chủ doanh nghiệp, cán bộ làm công tác thống kê thường kiêm
nhiệm, không được đào tạo chính quy và có hệ thống về thống kê, và năng
lực hạn chế. Tại cấp xã, UBND thường chỉ được bố trí nửa biên chế cho
công tác thống kê với chức danh công chức Văn phòng – thống kê.
• Cách thức tổ chức chưa tối ưu và nguồn lực hạn chế đã làm hạn chế các
hoạt động thống kê ở các đơn vị cơ sở, các đơn vị không thể cung cấp đầy
đủ thông tin có chất lượng phục vụ công tác quản lý, điều hành.
• Cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện thống kê tại các đơn vị cơ sở để nâng
cao năng lực và trách nhiệm của những người làm công tác thống kê ở các
doanh nghiệp, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp cũng như thống kê ở
các xã, phường, thị trấn trong việc cung cấp thông tin một cách trung thực,
đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu của các cuộc điều tra thống kê và
chế độ báo cáo thống kê của Nhà nước. Hoàn thành việc xây dựng đội ngũ
cộng tác viên thống kê ở các địa bàn điều tra.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 4. Mô hình Hệ thống thống kê Việt Nam
• Mô hình hệ thống thống kê nhà nước của ta được lựa chọn là kết
hợp giữa tập trung và phân cấp (phi tập trung): hệ thống tổ chức
thống kê tập trung chịu trách nhiệm toàn bộ thông tin về sản xuất,
kinh doanh và thông tin liên quan đến hộ gia đình; phần thông tin
tổng hợp từ hồ sơ hành chính thường do các Bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đảm nhận; Tổng cục Thống kê tổng
hợp chung thông tin từ hai kênh thành thông tin thống kê quốc gia.
• Trên thực tế việc phân công, phân cấp và điều phối hoạt động thống
kê giữa Tổng cục Thống kê với Thống kê các Bộ, ngành, cũng như
giữa Thống kê của các Bộ, ngành với nhau theo chiều ngang, và sự
phân công nhiệm vụ, phối hợp giữa các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước từ trung ương tới địa phương theo chiều dọc không rõ
ràng đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ hệ thống.
• Cần nghiên cứu áp dụng những thực tiễn tốt của các mô hình thống
kê phi tập trung trên thế giới nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
của mô hình tổ chức thống kê Nhà nước.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 5. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý thống kê
• Khuôn khổ pháp lý về chuyên môn, nghiệp vụ thống kê đã từng
bước được tăng cường và ngày càng hoàn thiện đồng bộ. Luật
Thống kê năm 2003 đã tạo môi trường pháp lý cơ bản và quan
trọng cho hoạt động thống kê, song qua 10 năm thực hiện, Luật
cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần phải được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế ngày
càng toàn diện của Việt Nam. Hiện nay TCTK đang thực hiện Đề án
sửa đổi, bổ sung Luật Thống kê.
• Cần thực hiện sửa đổi tất cả những điều khoản của Luật, văn bản
quy phạm pháp luật mà nó làm suy yếu chứ không phải là tăng
cường chức năng của TCTK. Luật thống kê cũng cần cung cấp một
cơ sở pháp lý rõ ràng cho sự phối hợp của các thành viên trong hệ
thống thống kê, các quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
việc thực hiện sự phối hợp.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• Những đánh giá chất lượng cho từng lĩnh vực thống kê dưới đây có sử
dụng tư liệu từ các bảng dữ liệu metadata_DQAF của IMF cho Việt Nam.
• - Tài khoản quốc gia: Mặc dù đã sử dụng các kỹ thuật thích hợp để giải
quyết các vấn đề cụ thể của tính toán GDP, nhưng các kỹ thuật cụ thể để
tính GDP chưa hoàn toàn thống nhất với các thông lệ tốt cho cả phương
pháp sản xuất và chi tiêu (sử dụng cuối cùng). Một số bất cập về số liệu
trung gian để tính SNA chưa được đánh giá và khắc phục. Hiện tượng
chênh lệch số liệu giữa trung ương và địa phương đã xẩy ra khá lâu nhưng
đến nay vẫn chưa được xử lý đồng bộ.
• Lộ trình thực hiện thống kê tài khoản quốc gia (SNA) theo phiên bản 2008 :
hoàn thiện tính các chỉ tiêu GDP theo phương pháp sản xuất, khắc phục
chênh lệch số liệu GDP; hoàn thiện tính chỉ tiêu GDP quý theo phương
pháp chi tiêu; theo phương pháp thu nhập; hoàn thiện nguồn thông tin,
phương pháp lập chuỗi các tài khoản trong hệ thống tài khoản hiện hành
theo các khu vực thể chế.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê tài chính Chính phủ: Khuôn khổ bộ dữ liệu nhìn chung
phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về thống kê tài chính Chính
phủ (GFSM 1986) cho phân tích kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc phân
tổ vào khoản thu thuế và phi thuế không phù hợp hoàn toàn với
Hướng dẫn thống kê tài chính chính phủ (GFSM) của IMF. Các
khoản viện trợ không hoàn lại không phân biệt giữa tiền mặt với
hiện vật. Khoản chi không được trình bày một cách cụ thể được
phân tổ theo loại hình kinh tế và theo chức năng. Việc phân tổ theo
chức năng không phù hợp hoàn toàn với phân tổ COFOG được
Quốc tế thừa nhận.
• Cần hoàn thành việc nghiên cứu áp dụng Thống kê Tài chính theo
phiên bản mới của Liên hợp quốc, cải thiện phạm vi của dữ liệu tài
chính, các định nghĩa và phân loại ngân sách theo Hướng dẫn
Thống Kê Tài chính Chính Phủ (GFSM 2001) của IMF.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê tiền tệ: Phạm vi số liệu, các định nghĩa, và cách phân loại nhìn
chung tuân thủ theo hướng dẫn trong Hướng dẫn thống kê cán cân thanh
toán phiên bản 5 (BPM5). Tuy nhiên, các Bảng cân đối tài khoản kế toán
không chi tiết nên hiện nay NHNN lập Bảng cân đối tiền tệ toàn ngành chưa
phân tổ được theo khu vực thể chế và các công cụ tài chính như Hướng
dẫn thống kê tiền tệ và tài chính (MFSM) của IMF. Hiện nay đang có sự
nghi ngại về tính xác thực của số liệu về nợ xấu do sự thiếu thống nhất,
nhiễu số liệu.
• Ngân hàng Nhà nước cần phát triển một chế độ báo cáo đối với tín dụng
ngân hàng được phân tổ toàn diện cho nền kinh tế theo các khu vực cho
vay, và theo sở hữu của doanh nghiệp; thiết lập sự hợp tác hơn nữa từ các
nhà chức trách để giải quyết sự khác biệt dữ liệu liên quan đến dữ liệu tín
dụng đối với ngân hàng quốc doanh.
• Thực hiện phương pháp luận được khuyến nghị trong MFSM trong việc
đánh giá các tài sản có và tài sản nợ tài chính, việc hạch toán lãi gộp, dự
phòng lỗ khoản vay, và ghi chép các hạng mục ngoại bảng cân đối tài sản,
khi chúng có liên quan đến việc xây dựng thống kê tiền tệ.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê công nghiệp: Thống kê công nghiệp hiện đang sử dụng
kết hợp giữa báo cáo định kỳ với điều tra toàn bộ và coi đó như là
giải pháp cho chất lượng của thông tin đầu vào, nhưng thực tế lại có
tác dụng ngược lại, bởi sự lựa chọn thái quá của điều tra toàn bộ
dẫn tới thiếu nguồn nhân lực kiểm tra kiểm soát, kết quả là thu thập
không đủ, độ tin cậy của số liệu điều tra không cao.
• Cần tiếp tục nghiên cứu áp dụng phương pháp luận thống kê công
nghiệp theo khuyến nghị của Liên hợp quốc năm 2008, sử dụng
đơn vị điều tra là cơ sở kinh tế thay vì doanh nghiệp để nâng cao
chất lượng thu thập dữ liệu từ các cuộc điều tra doanh nghiệp.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê xây dựng: việc tổ chức thu thập chỉ tiêu thống kê về
xây dựng chỉ được thực hiện duy nhất bằng hình thức tiếp cận trực
tiếp với các đơn vị hoạt động xây dựng, cách tiếp cận này không
phù hợp với nhiều loại hình xây dựng do đó thông tin về một số loại
hình hoạt động xây dựng không thu thập được hoặc thông tin thu
thập được nhưng không đầy đủ, thiếu độ tin cậy phải huỷ bỏ. Việc
thực hiện chế độ báo cáo tổng hợp của các tỉnh, thành phố không
được đầy đủ, chất lượng số liệu báo cáo chưa cao.
• Cần đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động thu thập thông tin
thống kê xây dựng bằng cách tuỳ từng đối tượng để xác định cách
tiếp cận trực tiếp như đối với các doanh nghiệp xây dựng hoặc gián
tiếp qua chủ đầu tư đối với các hoạt động xây dựng tự làm, xây
dựng của các cơ sở cá thể; các chỉ tiêu thống kê khác cần được
tính toán gián tiếp thông qua các chỉ tiêu đã có hoặc các phương
pháp gián tiếp khác.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê vốn đầu tư: Chỉ tiêu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
được TCTK tính toán và công bố trong Niên giám thống kê hàng
năm. Ngoài việc tổng hợp chỉ tiêu vốn đầu tư phát triển, TCTK cũng
tính chỉ tiêu vốn đầu tư tích lũy phục vụ cho các yêu cầu thống kê tài
khoản quốc gia. Khái niệm vốn đầu tư phát triển không phù hợp với
khái niệm vốn đầu tư trong kinh tế vĩ mô và khái niệm tích lũy tài
sản trong thống kê tài khoản quốc gia.
• TCTK nên xác định và sử dụng chỉ tiêu “vốn đầu tư” theo thông lệ
quốc tế thay vì sử dụng chỉ tiêu “vốn đầu tư phát triển”, và hoàn
thiện nguồn thông tin để tính chỉ tiêu Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
(ICOR) ở Việt Nam theo chuẩn quốc tế.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê thương nghiệp trong nước: Mặc dù phương pháp
điều tra toàn bộ kết hợp với điều tra chọn mẫu đã được áp dụng
trong công tác thu thập số liệu định kỳ nhằm giảm chi phí thu thập
số liệu, khắc phục được khó khăn do không thể thu đủ báo cáo theo
chế độ và do các đơn vị báo cáo thường xuyên biến động. Tuy
nhiên Hệ thống chỉ tiêu thống kê thương mại chưa được hoàn thiện
với các phân tổ chi tiết, chưa phục vụ hiệu quả cho hệ thống tài
khoản quốc gia, số liệu thống kê thương mại còn ít có mặt trong các
ấn phẩm thống kê quốc tế.
• Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, các khái niệm định nghĩa,
phạm vi thống kê, hệ thống danh mục chuẩn trên cơ sở áp dụng
phương pháp luận thống kê thương nghiệp Khuyến nghị quốc tế về
thống kê bán buôn, bán lẻ (IRDTS) 2008 của Liên hợp quốc và đáp
ứng yêu cầu của hệ thống tài khoản quốc gia; cải tiến chế độ báo
cáo thống kê, điều tra trên nguyên tắc thống nhất phương pháp luận
giữa chuyên ngành và tài khoản quốc gia.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê xuất nhập khẩu: Số liệu XNK hàng hóa được thu thập
dựa trên Danh mục hàng hóa XNK Việt Nam sử dụng Hệ thống điều
hòa (HS) của Tổ chức Hải quan thế giới. TCTK phân tổ lại theo mã
Phân loại hàng hóa ngoại thương (SITC), Phân ngành kinh tế (ISIC)
và điều chỉnh số liệu để tính cả xuất khẩu điện, dầu thô tại vùng
chống lấn. Thực tế có sự chênh lệch số liệu về XNK do TCTK công
bố và do TCHQ công bố.
• Cần khắc phục tình trạng công bố số liệu thống kê ước tính, chỉ nên
công bố số liệu thống kê theo trình tự: số liệu thống kê sơ bộ, số
liệu điều chỉnh và số liệu chính thức theo như lộ trình công bố số
liệu của TCHQ.
• Trong những năm tới cần nghiên cứu biên soạn và áp dụng Tài liệu
hướng dẫn phương pháp luận thống kê xuất nhập khẩu hàng hóa
theo IMTS 2008 và thống kê xuất nhập khẩu dịch vụ theo MSITS
2010 của Cơ quan Thống kê Liên hợp quốc.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê du lịch: chủ yếu mới phản ánh 03 chỉ tiêu: (i) khách
quốc tế đến Việt Nam, (ii) khách du lịch nội địa (nguồn Tổng cục
Thống kê), và (iii) tổng thu ngành du lịch (nguồn tổng hợp của Tổng
cục Du lịch).
• Tổng cục Thống kê thực hiện điều tra chi tiêu của khách du lịch nội
địa theo cơ sở lưu trú, còn Tổng cục Du lịch thực hiện cuộc điều tra
này tại các điểm du lịch. Các số liệu thống kê du lịch hiện có còn
thiếu, chưa phản ánh toàn diện và thực chất vai trò của ngành Du
lịch.
• Cần tiếp cận chuẩn mực quốc tế về các khái niệm định nghĩa, cách
thức tổ chức thu thập số liệu theo Khuyến nghị quốc tế về thống kê
du lịch (IRTS), phối hợp cùng Tổng cục Du lịch xây dựng hệ thống
thống kê du lịch theo mô hình tài khoản vệ tinh du lịch (TSA).
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê công nghệ thông tin: Đây là lĩnh vực mới, rộng, bao
gồm bộ số liệu từ 4 lĩnh vực thống kê: sản xuất thiết bị công nghệ
thông tin; xuất nhập khẩu và phân phối thiết bị công nghệ thông tin;
sản xuất dịch vụ công nghệ thông tin; ứng dụng công nghệ thông
tin. Từ năm 2005, TCTK đã nghiên cứu, phối hợp với Bộ Thông tin
và Truyền thông, Bộ Công thương đưa vào Tổng điều tra cơ sở kinh
tế, hành chính, sự nghiệp, điều tra thường xuyên (điều tra doanh
nghiệp, điều tra cá thể), điều tra chuyên đề (thí điểm năm 2009 tại
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) và đã báo cáo một số chỉ tiêu.
• Tuy nhiên, việc chuyển nhiệm vụ thống kê này từ Vụ Thống kê
thương mại sang Vụ Thống kê xã hội và môi trường gây khó khăn
cho Vụ Thống kê xã hội và môi trường vì Vụ này chưa có kinh
nghiệm thực hiện thống kê về công nghệ thông tin theo khuyến nghị
của tổ chức viễn thông quốc tế (ITU).
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê bưu chính: Những chỉ tiêu thu thập đã thống nhất khái
niệm, phương pháp tính theo hướng dẫn chung của Hiệp hội bưu
chính quốc tế (UPU). Tuy nhiên, số lượng chỉ tiêu đã thu thập và
công bố chưa đầy đủ như bộ chỉ tiêu do Tổ chức viễn thông, bưu
chính quốc tế khuyến nghị. Thống kê bưu chính, chuyển phát sẽ
được TCTK nghiên cứu hoàn thiện từ năm 2014.
• TCTK cần phối hợp cùng Bộ TT&TT biên soạn và áp dụng Tài liệu
hướng dẫn phương pháp luận thống kê công nghệ thông tin và
truyền thông, bưu chính theo khuyến nghị của tổ chức viễn thông
quốc tế (ITU), Hiệp hội bưu chính quốc tế (UPU) (ICT).
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê vận tải: Số liệu về thống kê vận tải hàng không được
thực hiện dựa trên báo cáo của Cục hàng không Việt Nam, mà theo
chế độ báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty
hàng không Việt Nam, Công ty Cổ phẩn hàng không Jetstar Pacific
Airline. Những chỉ tiêu cơ bản đã áp dụng phương pháp luận thống
kê vận tải theo Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO). Tuy
nhiên số lượng chỉ tiêu đã thu thập và công bố chưa đầy đủ và chi
tiết theo phương pháp luận quốc tế về thống kê vận tải.
• TCTK cần nghiên cứu áp dụng phương pháp luận thống kê vận tải
hàng không theo ICAO và theo định nghĩa chuẩn quốc tế về thống
kê vận tải.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê giá: Tổng cục Thống kê tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI),
Chỉ số giá sản xuất (PPI), Chỉ số giá xuất nhập khẩu (XMPI), Chỉ số
giá dịch vụ sản xuất (SPPI), Bộ Xây dựng tính chỉ số Chỉ số giá xây
dựng (CNSTPI). Các phương pháp tính chỉ số giá là phù hợp với
tiêu chuẩn quốc tế.
• Hiện nay phương pháp phỏng vấn trực tiếp được áp dụng để thu
thập thông tin tại các đơn vị điều tra. Chất lượng số liệu phụ thuộc
vào phương pháp thu thập dữ liệu và quyền số để tính chỉ số giá.
Điều tra viên đóng vai trò rất quan trọng và quyết định chất lượng
của chỉ số giá. Do đó cần tổ chức đào tạo về phương pháp biên
soạn chỉ số giá cho các cán bộ thống kê ở địa phương và biên soạn
sổ tay hướng dẫn điều tra viên thu thập dữ liệu chính xác và đầy đủ,
và tính lại quyền số theo năm gốc mới là năm 2010 cùng với việc
hoàn thiện danh mục sản phẩm mẫu theo năm 2010.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê nông, lâm nghiệp và thủy sản: Nhìn chung, thống kê
nông, lâm nghiệp và thủy sản có độ tin cậy ngày càng cao và cơ
bản mô tả xu hướng và tình hình thực tiễn của ngành. Mặc dù vậy
dữ liệu từ các nguồn khác nhau (điều tra, tổng điều tra, hệ thống
báo cáo thống kê cơ sở) không tương thích với nhau; một số số liệu
chỉ tiêu thống kê giữa TCTK và địa phương, giữa TCTK với Bộ
NN&PTNT còn chưa thống nhất; còn hạn chế về tính kịp thời.
• Để cải thiện thống kê nông nghiệp và nông thôn, TCTK phối hợp
cùng Bộ NN&PTNN xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động cải
thiện thống kê nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam trong khuôn
khổ Chiến lược toàn cầu về hoàn thiện thống kê nông nghiệp của
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới (FAO).
• Cần khắc phục sự mâu thuẫn số liệu từ các nguồn điều tra thường
xuyên với Tổng điều tra và chế độ báo cáo thống kê do các phương
pháp thu thập thông tin về NLTS chưa phản ánh hết được thực tế.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê dân số, lao động: Các khái niệm, định nghĩa, bảng phân
ngành và phạm vi số liệu thống kê dân số và lao động tuân theo những tiêu
chuẩn quốc tế mặc dù khu vực thành thị ở Việt Nam được dựa trên các
quyết định hành chính chứ không phải là các định nghĩa quốc tế.
• Chất lượng số liệu của báo cáo hành chính cho số liệu dân số, lao động
vẫn còn bộc lộ hạn chế; số liệu về dân số, sinh, tử, di cư đều thấp hơn so
với thực tế; điều tra dân số là nguồn số liệu đáng tin cậy hơn và có chất
lượng cao. Dư luận có sự nghi ngại số liệu thống kê chính thức về tình hình
thất nghiệp, việc làm và thu nhập.
• Cần tiếp tục nghiên cứu áp dụng phương pháp luận về thống kê lao động
và việc làm, đo lường lao động phi chính thức, phân loại tình trạng và sử
dụng thời gian lao động (ICATUS) theo tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động
quốc tế.
• Nghiên cứu sự hiện diện của tổ chức thực địa cố định với cán bộ được
chuyên môn hoá trong việc thu thập dữ liệu thông qua các cuộc điều tra và
tổng điều tra.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê giới: TCTK đã biên soạn cuốn “Số liệu thống kê về giới
ở Việt Nam 2000-2010”. Các số liệu được biên soạn dựa vào “Bộ
chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia” ban hành theo Quyết
định số 56/2011/QĐ-TTg ngày 14/10/2011 của Thủ tướng Chính
phủ.
• Việc triển khai áp dụng bộ chỉ tiêu thống kê giới ở các cấp cho thấy
còn khó khăn, bất cập: cán bộ làm công tác bình đẳng giới còn
chưa có kỹ năng và kiến thức về sử dụng số liệu thống kê giới trong
công tác của mình.
• Tổng cục thống kê cần phải làm việc cụ thể với từng Bộ, ngành liên
quan, nhằm xây dựng chế độ báo cáo định kỳ cho các chỉ tiêu thống
kê giới, đồng thời xây dựng cuốn Sổ tay hướng dẫn sử dụng số liệu
thống kê giới.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê y tế: Các khái niệm và định nghĩa dùng để tính toán các
số liệu thống kê được dựa trên các chuẩn mực, hướng dẫn và cách
thực hành tốt đã được quốc tế công nhận. Song hệ thống sổ sách
và biểu mẫu báo cáo quá nhiều, đang là gánh nặng cho các cơ sở y
tế, đặc biệt là tuyến xã; Công tác tổng hợp, xử lý, lưu trữ và chuyển
tải số liệu thống kê còn hạn chế ở tất cả các tuyến.
• Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê y tế, chế độ báo
cáo thống kê để giảm nhẹ gánh nặng thống kê cho y tế các tuyến,
và thu thập số liệu từ cơ sở y tế tư nhân, các chỉ tiêu giới;
• Thiết lập hệ thống báo cáo điện tử từ các cơ sở y tế lên Bộ Y tế.
Cần tiếp tục nghiên cứu áp dụng phương pháp luận biên soạn
thống kê người tàn tật, thống kê y tế của WHO.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê giáo dục: Thống kê Giáo dục Đào tạo đã sử dụng các
bảng phân loại/phân ngành thống nhất với chuẩn mực, hướng dẫn
và cách thực hành tốt đã được quốc tế công nhận, bảng phân loại
ngành, nghề đào tạo, bảng phân loại ngành kinh tế quốc dân dùng
cho tài khoản quốc gia...
• Việc thực hiện chế độ báo cáo tổng hợp áp dụng cho các Bộ ngành
chưa đầy đủ, kịp thời, chất lượng số liệu chưa cao, có sự vênh
nhau về niên độ thống kê giữa TCTK và Bộ Giáo dục và Đào tạo:
niên độ báo cáo thống kê của giáo dục theo năm học từ 30/10 đến
30/6 năm sau, trong khi niên độ báo cáo của TCTK theo năm dương
lịch từ 01/01 đến 31/21.
• Cần tiếp tục nghiên cứu áp dụng phương pháp luận thống kê giáo
dục của UNICEF, UNESCO đối với thống kê giáo dục ở Việt Nam.
TCTK cần rà soát, sửa đổi chế độ báo cáo cho Bộ ngành chú ý đến
niên độ thống kê đặc thù của các ngành, trong đó có giáo dục.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê mức sống dân cư: Các định nghĩa, phạm vi, phân loại, định
giá và thời gian thu thập số liệu Điều tra mức sống dân cư được thực hiện
theo các chuẩn mực của Thống kê Quốc tế (VLSD; LSMS của WB)
• Mẫu chủ của cuộc điều tra khảo sát mức sống dân cư được lấy từ Tổng
điểu tra Dân số, tiến hành 10 năm 1 lần. Như vậy, những người di cư từ nơi
khác đến trong các năm lẻ sẽ không được cập nhật vào dàn mẫu chủ và
không được đưa vào danh sách chọn mẫu để khảo sát hàng năm. Ngoài ra,
những chỉ tiêu do các Bộ phụ trách phải lấy từ báo cáo các Sở tương ứng
tại các tỉnh, tổng hợp và gửi cho TCTK, vì vậy nên báo cáo số liệu chính
thức từ các Bộ thường bị chậm.
• Cần thực hiện cải tiến về mẫu, nội dung và phương pháp tập huấn nghiệp
vụ của Điều tra khảo sát mức sống dân cư cho những năm tiếp theo. Đồng
thời nghiên cứu khắc phục sự trùng lắp trong thu thập số liệu, số liệu giữa
hai kênh: kênh từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và kênh báo cáo từ
các Cục Thống kê.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 6. Chất lượng thông tin thống kê
• - Thống kê môi trường: Tổng cục Thống kê tiếp nhận số liệu về
môi trường chủ yếu từ hai nguồn: kết quả các cuộc điều tra (điều tra
doanh nghiệp và điều tra nông nghiệp), và báo cáo thống kê từ các
Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Bộ Xây dựng, Bộ Y tế và Bộ Công thương.
• Việc triển khai báo cáo số liệu thống kê môi trường còn gặp nhiều
khó khăn do các hướng dẫn chưa phù hợp với tình hình thực tế,
nhiều thông tin về môi trường đang còn thiếu về phạm vi bao quát,
chưa đầy đủ và chồng chéo giữa các bên liên quan khác nhau.
• Tiến tới thành lập một Ủy ban phối hợp giữa các cơ quan/ liên Bộ về
thống kê môi trường. Tổng cục Thống kê nên đóng vai trò điều phối,
Trung tâm Thông tin và dữ liệu về giám sát môi trường (CEMDI)
đóng vai trò hạt nhân trong hệ thống thông tin thống kê môi trường.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 7. Hoàn thiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê
• Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia được bổ sung, hoàn thiện, nhưng có
một số chỉ tiêu không có tính khả thi, thể hiện ở chỗ không rõ khái niệm,
định nghĩa, không phân định được phạm vi của chỉ tiêu, không biết nguồn
dữ liệu để tính toán; mặc khác có những phân tổ của chỉ tiêu quá chi tiết
trong khi nguồn số liệu từ điều tra không đảm bảo độ tin cậy để suy rộng.
• Tổng cục Thống kê chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp 142/350 chỉ tiêu
thống kê quốc gia, trong đó: đã thu thập 125/142 chỉ tiêu, công bố 82/142
chỉ tiêu. Bộ, ngành chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp 208/350 chỉ tiêu
thống kê quốc gia, trong đó: đã thu thập 124/208 chỉ tiêu, công bố 38/208
chỉ tiêu. Đến nay mới chỉ có 120/350 (34%) chỉ tiêu thống kê quốc gia được
công bố.
• Cần tiếp tục hoàn thiện và chuẩn hóa Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia
phù hợp với những thay đổi về kinh tế, xã hội và môi trường ở trong nước
và trên thế giới, đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin của người sử dụng và
yêu cầu so sánh quốc tế.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 7. Hoàn thiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê
• Hệ thống chỉ tiêu thống kê của các Bộ, ngành đang được xây dựng,
hoàn thiện đồng bộ với Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Đã có
15/24 Bộ, ngành ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê Bộ, ngành,
6/24 Bộ, ngành đang trong quá trình xây dựng Hệ thống chỉ tiêu
thống kê của Bộ, ngành mình. Vẫn còn một số Bộ, ngành chưa ban
hành hoặc ban hành không đầy đủ Hệ thống chỉ tiêu thống kê đồng
bộ với HTCTTKQG 2010.
• Cần tiếp tục xây dựng và chuẩn hóa Hệ thống chỉ tiêu thống kê Bộ,
ngành; mỗi chỉ tiêu cần được chuẩn hóa về khái niệm, nội dung,
phương pháp tính, nguồn số liệu theo đúng chuẩn mực của Hệ
thống chỉ tiêu TKQG. Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu thống kê được
xây dựng, hoàn thiện phương pháp và các hình thức thu thập thông
tin đầu vào đối với các chỉ tiêu gồm; chế độ báo cáo thống kê tổng
hợp, chế độ báo cáo thống kê cơ sở và chương trình điều tra thống
kê.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 7. Hoàn thiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê
• Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, huyện, xã đã được xây dựng
đồng bộ với Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Nhưng việc triển
khai hệ thống các chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, huyện còn chậm so với
lộ trình ở tất cả các cấp. Kết quả khảo sát 30 Cục Thống kê cho
thấy chỉ có 9 Cục TK (32%) đã thu thập, tính toán được trên 200 chỉ
tiêu thống kê cấp tỉnh, có 11 Cục TK (39%) đã thu thập, tính toán
được trên 60 chỉ tiêu thống kê cấp huyện, có 14 Cục TK (52%) đã
thu thập, tính toán được trên 20 chỉ tiêu thống kê cấp xã.
• Đổi mới các hệ thống chỉ tiêu thống kê phải tiến hành đồng bộ với
việc cải tiến, hoàn thiện các hình thức thu thập thông tin, kết hợp hài
hòa và có hiệu quả báo cáo thống kê, điều tra thống kê với khai thác
nguồn thông tin thống kê từ các hồ sơ đăng ký hành chính.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 8. Chất lượng hệ thống thu thập thông tin thống kê
• Hệ thống thu thập thông tin thống kê được xây dựng từ 2 nguồn:
chế độ báo cáo thống kê định kỳ và điều tra thường xuyên cấp quốc
gia, Bộ, ngành và địa phương hoặc điều tra chuyên đề. Chất lượng
hệ thống thu thập thông tin thống kê còn chưa cao:
• - Chế độ báo cáo thống kê chậm được sửa đổi cho phù hợp với Hệ
thống chỉ tiêu thống kê quốc gia gây khó khăn cho việc thu thập,
tổng hợp thông tin. Phương pháp thực hiện chế độ báo cáo hiện
hành vẫn dựa vào mô hình hành chính tập trung (được xem là phù
hợp với nền kinh tế quản lý tập trung). Các hệ thống báo cáo
thường là cồng kềnh, và chất lượng số liệu thì không tốt.
• Vì vậy, các hệ thống báo cáo thống kê cần phải được đổi mới và cải
tiến để cung cấp thông tin cần thiết theo hướng tăng cường khai
thác dữ liệu từ hồ sơ hành chính phục vụ mục đích thống kê.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 8. Chất lượng hệ thống thu thập thông tin thống kê
• - Hệ thống thu thập số liệu điều tra đã được xây dựng và khá ổn định về
chu kỳ và phương pháp luận trong các lĩnh vực quan trọng. Hầu hết kết quả
thống kê của các cuộc điều tra hàng năm được cung cấp kịp thời theo kế
hoạch, song những kết quả này chỉ cung cấp số liệu tổng hợp và mô tả số
liệu, quy trình kiểm soát chất lượng đối với các cuộc điều tra chưa được
đảm bảo. Hiện nay, khâu yếu nhất trong tổ chức điều tra là thu thập thông
tin tại địa bàn do chất lượng các điều tra viên.
• Trong một năm TCTK thực hiện 33 cuộc điều tra riêng biệt tạo sự quá tải
cho cơ quan thống kê ở địa phương. Cần rà soát, cập nhật, hoàn thiện
chương trình điều tra thống kê quốc gia; các cuộc điều tra Bộ, ngành; các
cuộc điều tra địa phương; tích hợp các điều tra có liên quan để tránh chồng
chéo nội dung, giảm thiểu gánh nặng cho người trả lời, và nâng cao chất
lượng hoạt động thu thập thông tin thống kê.
• Cần tiếp tục hoàn thành xây dựng đội ngũ Cộng tác viên thống kê, đội ngũ
này được thành lập trên cơ sở lâu dài để phụ trách các hoạt động thu thập
dữ liệu cho tất cả các cuộc điều tra tại địa bàn.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 8. Chất lượng hệ thống thu thập thông tin thống kê
• Về lâu dài, Việt Nam cần thiết lập một hệ thống bảo đảm chất lượng
tổng hợp của các sản phẩm và các quy trình thống kê. Trong khuôn
khổ của hệ thống này chú ý đến chất lượng sản phẩm và thông báo
cho người dùng về các kết quả. Chuyên gia bên ngoài nên được
yêu cầu đánh giá chất lượng trong lĩnh vực thống kê quan trọng
nhất. Sử dụng Khuôn khổ đánh giá chất lượng dữ liệu (DQAF) của
IMF để đánh giá toàn diện về chất lượng dữ liệu thống kê quốc gia,
kết hợp sử dụng Khung đảm bảo chất lượng quốc gia chung NQAF
của cơ quan Thống kê Liên hợp quốc như một tài liệu tham khảo
trong khi xây dựng và vận hành các khuôn khổ chất lượng quốc gia
của mình hoặc tiếp tục nâng cao những cái hiện có.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 9. Cập nhật các bảng phân loại theo chuẩn quốc tế
• Các bảng danh mục, phân loại đã được cập nhật, sửa đổi phù hợp hơn với
thực tế của Việt Nam và phiên bản mới của Liên hợp quốc: Danh mục dịch
vụ xuất nhập khẩu Việt Nam 2011, Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam
2010, Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam 2007, Bảng phân loại dịch vụ cán
cân thanh toán quốc tế mở rộng, Danh mục các đơn vị hành chính Việt
Nam, Danh mục dân tộc, danh mục tôn giáo, Danh mục nghề nghiệp, Bảng
phân loại giáo dục và đào tạo.
• Tuy nhiên vẫn còn nhiều bảng phân loại chưa được cập nhật, sửa đổi theo
chuẩn quốc tế như Phân loại tình trạng và sử dụng thời gian lao động
(ICATUS), Phân loại chi tiêu theo mục đích sử dụng của Chính phủ
(COFOG), theo mục đích của khu vực thể chế phi lợi nhuận phục vụ hộ gia
đình (COPNI), theo mục đích sử dụng của các nhà sản xuất (COPP)
• Cần tiếp tục nghiên cứu áp dụng các bảng danh mục, phân loại chuẩn quốc
tế; tiếp tục xây dựng kế hoạch nghiên cứu biên soạn sổ tay hướng dẫn
nghiệp vụ thống kê theo từng chuyên ngành.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 10. Tăng cường sự phối hợp các hoạt động thống kê
• Sự phối hợp công tác giữa TCTK và Thống kê các Bộ, ngành, cũng như sự
phối hợp công tác thống kê giữa các Vụ nghiệp vụ của cơ quan TCTK,
cũng như giữa các đơn vị thuộc cơ quan của các Bộ, ngành đã có tiến bộ,
tuy nhiên, sự phối hợp đó vẫn chưa hoàn thiện và vẫn tồn tại các thách
thức cần được giải quyết. Điển hình, việc thiếu sự phối hợp và chia sẻ
thông tin giữa các cơ quan thu thập dữ liệu trong việc tính toán các tài
khoản quốc gia làm cho chất lượng dữ liệu GDP chưa cao.
• Mặc dù TCTK và Bộ Công thương đã ký Thỏa thuận cơ chế phối hợp thực
hiện công tác thống kê nhằm trao đổi, chia sẻ và kết nối thông tin thống kê
giữa hai cơ quan, song giữa Tổng cục Thống kê và nhiều bộ, ngành khác
chưa có được cơ chế phối hợp một cách cụ thể, chi tiết, và chưa có cơ chế
hợp tác cần thiết trong thu thập, chia sẻ thông tin.
• Cần đẩy mạnh việc xây dựng cơ chế cung cấp, chia sẻ số liệu giữa TCTK
với các Bộ, ngành và giữa các Bộ, ngành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
việc khai thác, sử dụng thông tin thống kê, đồng thời tăng cường sự phối
hợp với Thống kê Bộ, ngành thông qua việc hỗ trợ về chuyên môn, nghiệp
vụ và thẩm định.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 11. Hoàn thiện công tác phổ biến thông tin thống kê
• Công tác phổ biến thông tin thống kê đã được cải thiện. Sau nhiều năm
chuẩn bị và nghiên cứu, đến nay Chính sách phổ biến thông tin thống kê
nhà nước đã được ban hành, trong đó điều chỉnh hoạt động phổ biến thông
tin thống kê Nhà nước, quy định trách nhiệm phổ biến thông tin thống kê,
quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng thông tin thống kê Nhà
nước.
• Hàng năm, TCTK công bố lịch phát hành và danh mục các ấn phẩm đã và
đang phát hành trên website TCTK, và đang nghiên cứu hoàn thiện hệ
thống sản phẩm thông tin thống kê Nhà nước theo hướng đa dạng hóa,
đồng bộ hóa và chuẩn hóa; phù hợp với loại thông tin thống kê và tổ chức,
cá nhân sử dụng.
• Về cơ bản hệ thống chỉ tiêu của Việt Nam đáp ứng được SDDS, song còn
có một số chỉ tiêu về ngân sách, tài chính, ngân hàng và tiền lương, thu
nhập chưa được công bố theo thời gian và phạm vi yêu cầu của SDDS.
• TCTK cần tiếp tục xây dựng Hệ thống chỉ tiêu và quy trình xử lý, tổng hợp,
phổ biến thông tin thống kê kinh tế - xã hội của Việt Nam ra nước ngoài và
các tổ chức quốc tế và thực hiện hiện đại hóa công tác phổ biến thông tin
thống kê.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 12. Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học, phân tích và dự báo
thống kê
• Hàng năm toàn ngành Thống kê được đầu tư kinh phí cho nghiên cứu khoa học
phục vụ công tác thống kê, đặc biệt là nghiên cứu hoàn thiện phương pháp luận
thống kê và nghiên cứu ứng dụng là 2, 2 tỷ đồng. Tuy nhiên năng lực nghiên
cứu khoa học, phân tích và dự báo thống kê còn yếu kém.
• Các cơ quan thống kê hiện nay tập trung nhiều vào việc sản xuất số liệu thống
kê và ước tính số liệu thống kê cho dự báo ngắn hạn. Các Viện nghiên cứu
và/hoặc Viện Chiến lược ở các Bộ, ngành thường thực hiện công việc phân tích
và dự báo thống kê. Nhưng việc thiếu những cán bộ tương xứng cộng với sự
yếu kém về kỹ năng thống kê đã làm hạn chế rất nhiều toàn bộ quá trình thu
thập dữ liệu, phân tích và sản xuất số liệu thống kê.
• TCTK và Bộ, ngành cần thực hiện các bước tích cực để cải thiện năng lực
nghiên cứu khoa học, phân tích và dự báo thống kê thông qua tuyển dụng và
đào tạo nhân viên và quan hệ đối tác với các tổ chức nghiên cứu trong và ngoài
nước, cùng với việc tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của các tổ chức
quốc tế. Cần đầu tư xây dựng các đơn vị và mạng lưới phân tích, dự báo thống
kê, tăng cường cơ sở vật chất và bố trí kinh phí cho hoạt động phân tích, dự
báo thống kê.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 13. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong lĩnh vực
thống kê
• Ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin và truyền thông đã được đẩy
mạnh, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đã được đầu tư bước đầu để đáp
ứng yêu cầu phát triển công tác thống kê của Hệ thống thống kê tập trung.
Đến nay TCTK đã lắp đặt máy móc và đang cài đặt phần mềm ứng dụng
cho mạng máy tính của Hệ thống thống kê tập trung và đang đẩy nhanh
tiến độ thực hiện các gói thầu GSO5-2 và GSO5-2A của Dự án Hiện đại
hóa Tổng cục Thống kê để nâng cấp trang thiết bị mạng và cơ sở hạ tầng
mạng của Tổng cục Thống kê.
• TCTK đã thí điểm sử dụng thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân (PDA); thử
nghiệm phương pháp điều tra điện tử (e-form) đối với một số điều tra; đang
cài đặt và chạy demo Hệ thống phần mềm hỗ trợ thu thập thông tin thống
kê tập trung (SSIC); thiết kế phần mềm CSDL thống kê đặc tả dùng chung.
• Hiện tại TCTK đã xây dựng được 04 kho dữ liệu thống kê cục bộ. Năm
2015 Kho dữ liệu thống kê trên cơ sở tích hợp các kho dữ liệu chuyên đề
đã được xây dựng và mở rộng cho tất cả các lĩnh vực thống kê.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 13. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong lĩnh vực
thống kê
• Hạ tầng CNTT của các Bộ, ngành cũng được quan tâm đầu tư, nâng cấp và
được triển khai tập trung tại Trung tâm tin học hoặc Cục CNTT của các Bộ,
ngành. Hầu hết các Bộ, ngành đã xây dựng mạng nội bộ, mạng Internet và
trang thông tin điện tử; tin học hóa quá trình thu thập, truyền đưa, xử lý,
tổng hợp thông tin thống kê trong ngành, hoặc đã xây dựng kế hoạch triển
khai ứng dụng CNTT phục vụ công tác thống kê của ngành.
• Mặc dù các Bộ, ngành đều chú trọng xây dựng CSDL quản lý chuyên
ngành, song nhìn chung, các CSDL này còn rời rạc, manh mún, chưa được
tích hợp thành một hệ thống CSDL thống nhất. Mặt khác, CSDL của các
cấp quản lý còn nghèo nàn, chưa bao gồm dữ liệu từ các nguồn khác nhau
làm hạn chế cho việc khai thác và sử dụng số liệu.
• Cần từng bước xây dựng và hoàn thiện các CSDL chuyên ngành và CSDL
tổng hợp, tiến tới kết nối mạng thông tin thống kê các Bộ, ngành với mạng
thông tin thống kê của TCTK. Xây dựng cơ chế cung cấp, chia sẻ thông tin
thống kê, nhất là CSDL giữa TCTK và các Bộ, ngành cũng như giữa các
Bộ, ngành và giữa các đơn vị trong từng Bộ, ngành với nhau.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 14. Phát triển nhân lực ngành thống kê
• Đội ngũ công chức, viên chức của Hệ thống Thống kê tập trung cơ
bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của Ngành trong giai đoạn
hiện nay. Nhưng trong nhiều năm qua nhân lực ngành Thống kê
chưa được quy hoạch, phát triển một cách có hệ thống, hậu quả
nguồn nhân lực còn hạn chế, bất cấp về cả số lượng và chất lượng.
• Tỷ lệ người có trình độ đại học có tăng lên song tỷ lệ được đào tạo
đúng chuyên ngành Thống kê chiếm tỷ lệ thấp 29,38%. Số lượng
cán bộ làm công tác thống kê ở các Bộ, ngành cũng còn hạn chế,
cán bộ chủ yếu là làm kiêm nhiệm, không được đào tạo bài bản về
chuyên môn, nghiệp vụ thống kê.
• Năm 2013 TCTK đã xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phát triển
nhân lực Thống kê Việt Nam giai đoạn 2011-2020, đề ra mục tiêu,
phương hướng, giải pháp phát triển nhân lực và cả lộ trình thực
hiện. Căn cứ vào Quy hoạch này các đơn vị trong toàn ngành
Thống kê sẽ triển khai thực hiện các nội dung có liên quan tại đơn vị
mình.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 14. Phát triển nhân lực ngành thống kê
• Đào tạo trình độ đại học, trên đại học chuyên ngành Thống kê tại Trường
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội và Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh, mỗi năm được khoảng 60 người. Các cơ sở đào tạo trực thuộc Tổng
cục Thống kê đã có những đổi mới nhất định trong công tác đào tạo, song
chất lượng học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu của Ngành.
• Một chiến lược đào tạo cán bộ thống kê cần được xây dựng nhằm đáp ứng
những nhu cầu khác nhau ở các cấp khác nhau, theo hướng: Mở rộng quy
mô đào tạo, đào tạo chuyên ngành và hợp tác đào tạo với nước ngoài bằng
cách đổi giảng viên hoặc gửi học sinh, sinh viên đi đào tạo, kết hợp với hình
thức học tập tại chỗ; Hoàn thiện bài giảng trên cơ sở các lớp ban đầu, đồng
thời tiếp tục mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Thống kê phục vụ thi nâng
ngạch thống kê, cũng như mở các lớp bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà
nước chương trình chuyên viên chính; cần có cơ chế, chính sách bồi
dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên, giảng viên.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 14. Phát triển nhân lực ngành thống kê
• Công tác tuyển dụng, quản lý và sử dụng nhân lực thống kê hiện
vẫn theo các quy định hiện hành của Nhà nước, vì vậy, sức thu hút
những người giỏi vào làm việc trong các cơ quan hành chính nói
chung và ngành Thống kê nói riêng còn chưa cao.
• Ngoài thu nhập, môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến cũng là
điều rất quan trọng đối với cán bộ, công chức.
• Cần đổi mới công tác tuyển dụng, quản lý và sử dụng nhân lực
thống kê. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức phải căn cứ vào nhu
cầu công việc, vị trí công tác, tiêu chuẩn và số lượng của chức danh
thực tế cần tuyển dụng, khắc phục tình trạng vào cơ quan nhà nước
rồi mới đưa đi đào tạo và chủ yếu là đào tạo tại chức, tạo môi
trường làm việc thích hợp, cung cấp cơ hội phát triển nghề nghiệp
cho tất cả các nhân viên với các phương thức phát triển sự nghiệp
mới; phát triển và quản lý một chương trình đào tạo chuyên môn
toàn diện, được chuyển giao bởi các chuyên gia giàu kinh nghiệm
nhất.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 15. Tăng cường cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính
• Cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính cho hoạt động thống kê đã được tăng cường
từng bước. Các điều kiện cho hoạt động của công tác thống kê bao gồm trụ sở nơi
làm việc, phương tiện đi lại phục vụ công tác thống kê, cơ sở, thiết bị công nghệ
thông tin, phương tiện ấn loát đã từng bước cải thiện trên cơ sở khả năng của ngân
sách nhà nước cấp hàng năm.
• Đối với các Bộ, ngành, ở trung ương, Sở, ngành ở địa phương có tổ chức đơn vị
thống kê ghép, thì chi phí dành cho công tác thống kê được hoà lẫn trong dự toán
kinh phí chung cho tất cả các hoạt động của cả đơn vị ghép dẫn đến tình trạng mất
tự chủ và không biết được chi phí thực tế dành cho công tác thống kê.
• Thống kê là hoạt động đòi hỏi nhiều kinh phí cho việc thiết kế, thu thập, xử lý, tổng
hợp, phân tích, công bố số liệu. Do đó, cần được bố trí những khoản kinh phí cần
thiết, phù hợp với chương trình công tác thống kê và nhất là cho các cuộc điều tra
thống kê dài hạn và hàng năm để đảm bảo hoàn thành khối lượng và chất lượng
công tác thống kê.
• Cần xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án Đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc
của Hệ thống thống kê tập trung; thống kê Bộ, ngành, địa phương đảm bảo về số
lượng và chất lượng thiết bị công nghệ thông tin, trang thiết bị làm việc, phương tiện
đi lại cho cán bộ ngành Thống kê theo đúng tiêu chuẩn, định mức hiện hành của Nhà
nước.
KẾT LUẬN ĐÁNH GIÁ
• 16. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê
• Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê đã được mở rộng. TCTK triển khai nhiều
hoạt động thực hiện hợp tác song phương với thống kê các nước Campuchia, Hà
Lan, Hàn Quốc và xúc tiến tăng cường hợp tác với Thống kê Úc, Ucraina, Mông Cổ,
Ba Lan. Quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế như với Thống kê Liên hợp quốc,
ESCAP, thống kê ASEAN, Tổ chức Lao động quốc tế, IMF … cũng ngày càng được
mở rộng và tăng cường.
• Ngoài cam kết tham gia GDDS, Thống kê Việt Nam còn thực hiện tương đối đầy đủ
những cam kết khác như cung cấp số liệu thường xuyên và cập nhật cho các ấn
phẩm của một số tổ chức quốc tế. Tuy nhiên việc biên soạn và cung cấp số liệu
thống kê Việt Nam ra quốc tế còn hạn chế, cụ thể mới đáp ứng được khoảng 70%
chỉ tiêu
• Đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ rất lớn và hiệu quả của các Tổ chức quốc
tế, các nhà tài trợ, đối tác phát triển thông qua các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật.
• Cần tiếp tục mở rộng, tăng cường hiệu quả hợp tác, cải thiện, nâng cao chất lượng
công tác thống kê nước ngoài và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về thống kê;
đẩy mạnh các hoạt động quảng bá hình ảnh và nâng cao vị thế Thống kê Việt Nam
trong cộng đồng thống kê thế giới; tăng cường vận động và nâng cao năng lực quản
lý, điều phối của các dự án, các nguồn tài trợ từ bên ngoài cho hoạt động thống kê.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SO VỚI CÁC MỤC TIÊU CỦA CHIẾN LƯỢC
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SO VỚI CÁC MỤC TIÊU CỦA CHIẾN LƯỢC
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SO VỚI CÁC MỤC TIÊU CỦA CHIẾN LƯỢC
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SO VỚI CÁC MỤC TIÊU CỦA CHIẾN LƯỢC
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SO VỚI CÁC MỤC TIÊU CỦA CHIẾN LƯỢC
• Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam xác định có 04 mục tiêu cụ thể
cho năm 2015 là:
• (1) Bảo đảm từ năm 2015 tất cả các chỉ tiêu trong Hệ thống chỉ tiêu thống
kê quốc gia, Hệ thống chỉ tiêu thống kê các Bộ, ngành và Hệ thống chỉ tiêu
thống kê cấp tỉnh, huyện, xã đều được thu thập, tổng hợp và phổ biến theo
nội dung và kỳ công bố quy định,
• (2) Nâng Chỉ số chung về năng lực thống kê theo các tiêu chí đánh giá của
Ngân hàng Thế giới đối với thống kê nước ta từ 61 điểm (thang điểm 100)
năm 2010 lên 70 điểm vào năm 2015, trong đó Chỉ số phương pháp luận
thống kê từ 30 điểm lên 55 điểm,
• (3) Nâng mức độ thực hiện Hệ thống tài khoản quốc gia của thống kê nước
ta theo Khung đánh giá của Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc từ mức 2/6
năm 2008 lên mức 3/6 năm 2015, và
• (4) Năm 2015 thực hiện đầy đủ Hệ thống phổ biến dữ liệu chung (GDDS).
• Qua kết quả đánh giá ban đầu thực trạng Hệ thống thống kê năm 2013,
thấy rằng: Mục tiêu 1 có thể không đạt được, Mục tiêu 2 và 3 đạt được,
còn Mục tiêu 4 sẽ đạt được với sự nỗ lực phối hợp hành động của các
thành viên trong Hệ thống thống kê Việt Nam.
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG
• 1. Hệ thống tổ chức: Hiện nay cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thống kê còn
khép kín trong qui trình sản xuất dữ liệu thống kê, mô hình tổ chức theo
chiều dọc nhiều cấp khá cồng kềnh, dẫn tới phân tán nguồn lực. Tổ chức
Thống kê của một số Bộ, ngành chưa đáp ứng yêu cầu nhằm củng cố và
phát triển các hoạt động thống kê trong toàn bộ hệ thống và theo ngành.
Nhiều Bộ, ngành không có tổ chức Thống kê nên hoạt động thống kê ở đó
có sự thiếu hụt. Thống kê tại địa phương của các Bộ, ngành không đủ để
hỗ trợ các hoạt động thống kê. Đây là những hạn chế và cũng là thách thức
cho Thống kê Việt Nam có thể vượt qua trở ngại này hay không để phát
triển nhanh, bền vững trên cơ sở hoàn thiện hệ thống tổ chức của mình?
• Khuyến nghị: Nên học tập kinh nghiệm của Hungary. Mô hình tổ chức
Thống kê của Hungary trước khi gia nhập EU cũng tương tự như mô hình
tổ chức của Việt Nam bây giờ. Nhưng sau khi gia nhập EU, kể từ năm
2005, Chính phủ quyết định tái tổ chức các Văn phòng thống kê khu vực
theo lãnh thổ, điều này dẫn đến còn 6 Văn phòng thống kê khu vực thay vì
19 Phòng thống kê quận, huyện. Thay vì việc phân chia địa lý của các
nhiệm vụ trên cơ sở hành chính quận, huyện, Cơ quan Thống kê tập trung
các nhiệm vụ vào các Trung tâm có năng lực và chuyên nghiệp. Phương
pháp luận, kế hoạch điều tra, phổ biến, sẽ tiếp tục là vai trò của Trung tâm,
nhưng một số lượng lớn các nhiệm vụ sẽ được giao cho các vùng, ngoài
việc thực hiện điều tra.
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG
• 2. Nguồn nhân lực: nguồn nhân lực còn hạn chế trong toàn bộ Hệ thống
thống kê trên các góc độ cả về số lượng, cơ cấu và năng lực gồm cả
nghiệp vụ thống kê, ngoại ngữ, và tin học. Cán bộ thống kê tại các Bộ,
ngành và địa phương còn thiếu và yếu kém về nghiệp vụ thống kê, lại phải kiêm nhiệm những công việc khác.
• TCTK đã phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Thống kê Việt Nam giai
đoạn 2011-2020, xác định những giải pháp phát triển nhân lực thống kê Việt
Nam 2011-2020, bao gồm: giải pháp đào tạo nhân lực và các dự án ưu tiên;
tuyển dụng, sử dụng nhân lực; dự báo nhu cầu các nguồn nhân lực; đổi
mới cơ chế, chính sách đào tạo nhân lực; và lộ trình tổ chức thực hiện.
• Khuyến nghị: Về lâu dài, Việt Nam cần phát triển một chính sách phát triển
nguồn nhân lực toàn diện, trong đó có cải cách quyết liệt chế độ tiền lương
đối với cán bộ, công chức để tránh tình trạng bỏ việc, nhất là đối với những
người có năng lực; ngoài ra, cần tạo môi trường làm việc và cơ hội thăng
tiến đối với cán bộ, công chức. Nếu mọi người có điều kiện có đủ những cơ
hội và động cơ thúc đẩy để hoàn thiện trình độ chuyên môn và được chỉ
dẫn về cơ hội thăng tiến nghề nghiệp và thăng chức dựa trên phẩm chất xứng đáng, việc tăng cường năng lực nội tại của cơ quan sẽ có kết quả.
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG
• 3. Hệ thống thông tin thống kê quốc gia: Nguồn dữ liệu được thu thập từ
các cuộc điều tra, và từ chế độ báo cáo thống kê còn hạn chế về chất
lượng, thể hiện ở chỗ:
• - Có vấn đề về mặt kỹ thuật trong sản xuất dữ liệu điều tra, bao gồm dàn
mẫu, thiết kế điều tra, thiếu kế phiếu hỏi, chất lượng điều tra viên, phân tích
kết quả và viết báo cáo. Mặc dù quy trình kiểm soát chất lượng đối với các
cuộc điều tra được gắn vào công tác kiểm tra, giám sát điều tra và được thể
hiện trong mỗi phương án điều tra và trong tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ
tương ứng, nhưng chưa thiết lập và thực hiện được một hệ thống quản lý
chất lượng dữ liệu thống kê một cách đầy đủ.
• - Phương pháp thực hiện chế độ báo cáo vẫn dựa vào mô hình hành chính
tập trung, các hệ thống báo cáo thống kê thường là cồng kềnh, việc thực
hiện chế độ báo cáo chưa đầy đủ, kịp thời, chất lượng số liệu chưa cao.
• - Dữ liệu từ các nguồn khác nhau (điều tra, tổng điều tra, hệ thống báo cáo
thống kê) không tương thích với nhau; một số chỉ tiêu thống kê giữa TCTK
và địa phương, giữa TCTK với các Bộ, ngành còn chưa thống nhất, số liệu
còn có sự chênh lệch lớn.
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG
• 3. Hệ thống thông tin thống kê quốc gia:
• Khuyến nghị: Luật thống kê sửa đổi và các văn bản pháp lý dưới luật được
bổ sung cần cung cấp một cơ sở pháp lý rõ ràng cho sự phối hợp của các
thành viên trong hệ thống thống kê, các quyền và nghĩa vụ của các thành
viên trong việc thực hiện sự phối hợp, phát huy vai trò chỉ đạo và điều
phối các hoạt động thống kê của cơ quan TCTK, thực hiện cơ chế phối hợp
với việc hình thành các ủy ban chính thức hoặc không chính thức đáp ứng
thường xuyên và hướng tới các quyết định mà các bên đại diện có thể đưa
ra để cùng thực hiện.
• Tiến tới thiết lập Hệ thống quản lý chất lượng dữ liệu và thực hiện việc
đánh giá chất lượng dữ liệu. Sử dụng Khuôn khổ đánh giá chất lượng dữ
liệu (DQAF) của IMF để đánh giá toàn diện về chất lượng dữ liệu thống kê
quốc gia, kết hợp sử dụng Khung đảm bảo chất lượng quốc gia chung
NQAF của cơ quan Thống kê Liên hợp quốc như một tài liệu tham khảo
trong khi xây dựng và vận hành các khuôn khổ chất lượng quốc gia của
mình hoặc tiếp tục nâng cao những cái hiện có. Việc thực hiện Hệ thống
quản lý chất lượng dữ liệu liên quan đến các hoạt động quản lý chất lượng
dữ liệu trong hoạt động thống kê bao gồm từ nắm bắt nhu cầu, thu thập, xử
lý, lưu trữ, và phân tích dữ liệu, sẽ đảm bảo chất lượng thông tin thống kê
ngày càng cao
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG
• 4. Vị thế của Thống kê Việt Nam: Thực tế đang có tình trạng số liệu thống
kê vênh nhau giữa các cơ quan, giữa trong nước và quốc tế, giữa số liệu
và thực tế, và không ít tổ chức quốc tế vẫn coi Thống kê Việt Nam là thiếu
tin cậy. Có một số lo ngại về tính chuyên nghiệp và độc lập liên quan đến
sự can thiệp chính trị có thể đến các số liệu thống kê, đặc biệt là ở cấp tỉnh.
Việc chuyển Tổng cục Thống kê vào Bộ KH&ĐT cũng đặt ra khả năng giảm
tính độc lập, khách quan.
• Định hướng: Thống kê Việt Nam cần phải nâng cao năng lực hiện có để
làm sao có thể sản xuất và cung cấp các sản phẩm thống kê đạt chất lượng
theo chuẩn quốc tế bằng cách: (i) Tăng cường năng lực của các tổ chức
trong Hệ thống thống kê nhà nước để sản xuất các sản phẩm thống kê chất
lượng cao bằng việc phát triển nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, cơ sở
vật chất và cải thiện hạ tầng kỹ thuật thống kê và hạ tầng công nghệ thông
tin và truyền thông; (ii) Nâng cao chất lượng dữ liệu của các cơ quan sản
xuất dữ liệu thống kê thông qua việc phát triển phương pháp luận theo
chuẩn quốc tế, với việc cải thiện sự minh bạch, duy trì sự tín nhiệm và tin
cậy của những người sử dụng; (iii) Tiếp cận nhanh chóng với các công
nghệ hiện đại, nghiệp vụ thống kê tiên tiến, các chuẩn quốc tế, trao đổi kinh
nghiệm, tranh thủ trợ giúp kỹ thuật tài chính và từng bước nâng cao vị thế
của Thống kê Việt Nam trong cộng đồng ASEAN và trên thế giới.
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG
• 4. Vị thế của Thống kê Việt Nam:
• Qua kết quả đánh giá ban đầu thực trạng Hệ thống thống kê năm 2013,
thấy rằng: Mục tiêu 1 Bảo đảm từ năm 2015 tất cả các chỉ tiêu trong Hệ
thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, Hệ thống chỉ tiêu thống kê các Bộ, ngành
và Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, huyện, xã đều được thu thập, tổng
hợp và phổ biến theo nội dung và kỳ công bố quy định có thể không đạt
được,
• Mục tiêu 2 Nâng Chỉ số chung về năng lực thống kê theo các tiêu chí đánh
giá của Ngân hàng Thế giới đối với thống kê nước ta từ 61 điểm (thang
điểm 100) năm 2010 lên 70 điểm vào năm 2015, trong đó Chỉ số phương
pháp luận thống kê từ 30 điểm lên 55 điểm và Mục tiêu 3 Nâng mức độ
thực hiện Hệ thống tài khoản quốc gia của thống kê nước ta theo Khung
đánh giá của Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc từ mức 2/6 năm 2008 lên mức 3/6 năm 2015 đạt được,
• Mục tiêu 4 Năm 2015 thực hiện đầy đủ Hệ thống phổ biến dữ liệu chung
(GDDS) sẽ đạt được với sự nỗ lực phối hợp hành động của các thành viên
trong Hệ thống thống kê Việt Nam
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG
• Những khuyến nghị và giải pháp định hướng cần được bổ sung cài
đặt trong các Chương trình hành động của Chiến lược phát triển
Thống kê Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030.
Những Chương trình hành động này chính là thể hiện cách đi (con
đường), thông qua những hành động cụ thể để Thống kê Việt Nam
thực hiện đến các mục tiêu mà Chiến lược đã đặt ra.
• Với sự nỗ lực phối hợp hành động của tất cả các thành viên trong
Hệ thống thống kê Việt Nam, Mục tiêu đến năm 2020 Thống kê Việt
Nam đạt trình độ khá và năm 2030 đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực là hiện thực.
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG