toÀn cẦu 2017
TRANSCRIPT
Đặc San
CHU VĂN AN TOÀN CẦU
2017
Chủ Trương
Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu Văn An Bắc California
Với sự đóng góp bài viết của:
Phạm Đỗ Chí, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Lân Đính,
Hoàng Cơ Định, Trần Thế Đức, Trần Lam Giang,
Trần Văn Giang, Ngô Tằng Giao, Hoàng Mạnh Hải,
Đoàn Thạch Hãn, Nguyễn Duy Hảo, Nguyễn Tấn Hồng,
GS Lưu Trung Khảo, Trần Mộng Lâm, Viên Linh,
Nguyễn Tá Mẫn, Đoan Nghi, Vũ Trọng Phòng,
Phan Lạc Phúc, Lê Duy San, Ngô Quốc Sĩ, Ký Thiệt,
Nguyễn Đức Thịnh, Phan Lạc Tiếp, Lê Văn Tỉnh,
GS Dương Thiệu Tống, Nguyễn Mạnh Trinh, Lữ Tuấn,
Nguyễn Lương Tuyền, Nguyễn Vũ Văn,
GS Nguyễn Xuân Vinh, Lưu Văn Vịnh.
MỤC LỤC
01 Từ Ái Hữu đến Hội Ngộ Toàn Cầu Ban Biên Tập 01
02 Về gốc tích trường Bưởi Nguyễn Lân Đính 05
03 Phu Tử Chu Văn An … Trần Lam Giang 13
04 Chu Văn An, thơ ngát hương thiền Ngô Tằng Giao 23
05 Ai đã giết GS Dương Quảng Hàm Lê Duy San 30
06 Một kỷ niệm về GS Dương Q. Hàm Nguyễn Tấn Hồng 37
07 GS Hoàng Xuân Hãn … Dương Thiệu Tống 42
08 Thiên chức nhà giáo GS Ng. Xuân Vinh 47
09 Thầy Vũ Ngô Xán GS Lưu Trung Khảo 59
10 Thầy Việt của con Lê Văn Tỉnh 67
11 Thầy Vũ Khắc Khoan Trần Lam Giang 70
12 Thi sĩ Vũ Hoàng Chương … Đoàn Thạch Hãn 80
13 Bình Ngô Đại Cáo Trần Văn Giang 88
14 Lời trăn trối của TT NĐ Diệm Ký Thiệt 112
15 Hãy xóa bỏ huyền thoại HCM Hoàng Cơ Định 121
16 Việt Nam: Một dân tộc … Ng. Lương Tuyền 128
17 Đã đến lúc VN phải tỉnh ngủ Phạm Đỗ Chí 138
18 Chu Văn An và tôi Võ Kỳ Điền 144
19 Lớp P2/B2 CVA 1964-1971 Nguyễn Tá Mẫn 151
20 Thế mà đã 60 năm! Nguyễn Duy Hảo 158
21 Vĩnh biệt Chu Toàn Chung Lê Duy San 164
22 Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn Phan Lạc Tiếp 173
23 Nhớ Phạm Đình Chương Phan Lạc Phúc 185
24 Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy Trần Thế Đức 199
25 Người Việt, chim Việt, cá Việt Lưu Văn Vịnh 212
26 Nhân ngày quốc hận, nhớ về SG Ng. Lương Tuyền 214
27 Ngày chia đôi đất nước … Ng. Mạnh Trinh 220
28 Hà Nội 80 ngày: Đi hay Ở Viên Linh 234
29 Từ Hà Nội tới Sài Gòn Lữ Tuấn 240
30 Tháng Tư, Bảo tàng (thơ) Nguyễn Vũ Văn 260
31 Người Hanội, người Sàigòn Ban Biên tập 258
32 Hà Thành thanh lịch, nay còn đâu! Đoan Nghi 265
33 Thương nhớ Saì Gòn Hoàng Mạnh Hải 277
34 Bắc và Nam Trần Mộng Lâm 291
35 Cảm tạ miền Nam Ngô Quốc Sĩ 397
36 TTQGKTPT ủy lạo chiến sĩ TS Nguyễn Đức Thịnh 301
37 Danh sách các cựu học sinh CVA Ban Biên Tập 309
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 1
Từ Hội Ái Hữu
CỰU HỌC SINH CHU VĂN AN
đến Hội Ngộ
CHU VĂN AN TOÀN CẦU
Sau năm 1945, trường Bưởi được đổi tên thành
trường Chu Văn An và tới năm 1954, trôi theo mệnh nước,
các cựu học sinh trường Bưởi phần lớn cũng di cư vào Nam
cùng với trường Chu Văn An. Tới năm 1960 (?) Hội Ái
Hữu Cựu Học Sinh Trường Bưởi đưọc ra đời. Vị Hội
Trưởng đầu tiên là cụ Lê Đình Chung, Tổng Thư Ký là cụ
Phạm Quang Khai và tờ Nội San Trường Bưởi cũng đã
được ra đời vào dịp này.
Sau năm 1975, lại một lần nữa, các cựu học sinh
trường Bưởi phải bôn ba ra hải ngoại. Vì tuổi hạc đã cao,
lại thêm số người còn lại cũng chẳng được bao nhiêu nên
cũng không ai nghĩ tới lập hội hay ra đặc san; nhưng đã có
thế hệ đàn em, thế hệ con cháu nối tiếp. Đó là thế hệ Chu
Văn An. Các hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu Văn An hoặc
Bưởi-Chu Văn An khắp nơi trên thế giới được thành lập và
Đặc san Chu Văn An hoặc Bưởi-Chu Văn An cũng được ra
đời.
Ngay từ đầu năm 1982, khi làn sóng người Việt tỵ
nạn đổ xô về California, các anh em cựu học sinh Chu Văn
An định cư tại San Jose đã tìm tới nhau và tổ chức những
buổi họp mặt bỏ túi tại gia. Người đầu tiên đứng ra tổ chức
là anh Nguyễn Văn Hiền. Kế tiếp là các anh Đinh Xuân
Thảo, Nguyễn An Cường, Vũ Ngọc Anh, Lê Duy San và
Đỗ Đình Lợi. Tới tháng 11 năm 1987, các anh Vương Tứ
Cảnh, Phạm Hữu Độ, Nguyễn Hoàng Hải, Nguyễn Văn
Trang 2 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Hiền, Nguyễn Thanh Hà, Lê Duy San, Hoàng Đức Trí…
mới quyết định tổ chức một buổi họp mặt nới rộng tại nhà
hàng Thiên Nam vào ngày 20/12/1987 để tiến tới việc
thành lập Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu Văn An tại Bắc
California. Trong buổi họp này, hầu hết các anh em tham
dự đã tín nhiệm ban tổ chức và đề cử thêm một số người
tham gia để bầu lên một ban Chấp Hành Lâm Thời. Ngày
18/01/88, ban Chấp Hành Lâm Thời của Hội Ái Hữu Cựu
Học Sinh Chu Văn An Bắc California đã ra đời với thành
phần như sau:
Hội Trưởng : Anh Nguyễn Hoàng Hải.
Phó Hội Trưởng : Anh Phạm Hữu Độ.
Tổng Thư Ký : Anh Lê Duy San.
Phó Tổng Thư Ký : Anh Nguyễn Khắc Điệp.
Thủ Quỹ : Chị Đỗ-Khắc Thị Nhuận.
Anh Lê Duy San (TTK) và anh Nguyễn Hoàng Hải (HT)
Nhiệm kỳ I (1988-1990).
Anh Lê Duy San đã được trao trọng trách soạn thảo
bản Điều lệ và Nội quy cùng lo thủ tục pháp lý thành lập
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 3
Hội và Hội đã được bà March Fong Eu, Bộ Trưởng Nội Vụ
tiểu bang California cấp giấy phép vào ngày 18 tháng 11
năm 1988.
Tiếp theo anh Nguyễn Hoàng Hải là các anh Phạm
Hữu Độ, Lại Quốc Ấn, Nguyễn Thanh Giản, Phạm Huy
Thịnh, Vũ Mạnh Phát, Phạm Nguyên Khôi, Lê Duy San,
Nguyễn Đức Lâm, Lê Văn Tỉnh đã lần lượt đảm nhận chức
vụ Hội Trưởng.
Từ trái: các anh Vương Tứ Cảnh, Phạm Phúc Hưng, Vũ Thế Bắc,
Hoàng Đức Trí, Lê Duy San, Nguyễn Văn Hiền, Chị Đỗ Khắc Thị
Nhuận, các anh Nguyễn Hữu Trương, Phạm Hữu Độ, Đào Văn Sơn,
Bùi Đức Lạc.
Sinh hoạt của các hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu
Văn An và Bưởi CVA hàng năm thường là họp mặt Tân
Niên, Picnic Hè và đôi khi có những buổi nói chuyện về
văn hoá, về hiện tình đất nước và chỉ có tính cách địa
phương.
Năm 2004, anh Nguyễn Đức Năng, lúc đó đang là
Hội trưởng Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An
Trang 4 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Nam California đã cùng một số anh em Chu Văn An tổ
chức Hội Ngộ Chu Văn An Toàn Cầu vào hai ngày 1 và 2
tháng 7 năn 2004 và cho phát hành Đặc san Chu Văn An
Toàn Cầu đầu tiên.
Hội Ngộ Chu Văn An Toàn Cầu Kỳ 2 vào ngày 3,
4, và 5 tháng 8 năm 2007 tại Bắc California do anh Lê Duy
San là Trưởng ban Tổ chức và cũng là Hội trưởng Hội Ái
Hữu Cựu Học Sinh Chu Văn An Bắc California với số
người tham dự kỷ lục lên tới gần 800 người.
Kế đó là Washington DC vào năm 2010 do anh
Nguyễn Đức Nam làm Trưởng ban Tổ chức; Houston
Texas năm 2013 do anh Nguyễn Văn Bình làm Trưởng ban
Tổ chức; Nam California năm 2015 do anh Bùi Đức Uyên
và cũng là Hội trưởng Hội Ái Hữu Bưởi-Chu Văn An Nam
California làm Trưởng ban Tổ chức.
Năm nay, 2017, Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu
Văn An miền Bắc California lại một lần nữa đảm nhận tổ
chức Hội Ngộ Chu Văn An Toàn Cầu kỳ 6. Lần này do anh
Lê Văn Tỉnh, đương kim Hội trưởng, làm Trưởng ban Tổ
chức. Ngoài các tiết mục của một ngày hội ngộ, Ban Tổ
chức xin gửi đến quý thầy và quý đồng môn cuốn Đặc san
Chu Văn An Toàn Cầu năm 2017 với chủ đề: “Nhìn lại
quá khứ” . Vì thế nội dung cuốn đặc san này gồm có, ngoài
những bài viết liên quan tới trường, thầy và bạn còn có
những bài viết gợi nhớ lại thời thơ ấu của chúng ta tại Hà
Nội cũng như lúc trưởng thành của chúng ta tại Sai Gòn,
đầy ắp kỷ niệm thân thương với những hình ảnh thơ mộng
và đáng yêu của các đồng môn và thân hữu đóng góp.
Rất mong được quý thầy và quý đồng môn đón
nhận và ủng hộ.
Thay mặt Ban Biên tập
San Jose, ngày 10 tháng 9 năm 2017
Lê Văn Tỉnh
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 5
Phỏng vấn Cụ Đào-văn-Minh
một lão hội viên về
gốc tích TRƯỜNG BƯỞI
Nguyễn Lân Đính, Bưởi
LTS. Chúng tôi nhận được bài này từ một đồng môn, thân
nhân của BS Nguyễn Lân Đính, là người đã lưu giữ được
bài phỏng vấn của “Phóng viên Vác Dù”, tác giả bài viết.
* Cụ đã 73 tuổi, cảnh già điền viên, nhưng cụ cũng
vẫn nhanh nhẹn, ưa hoạt động, và rất thiết-tha với Ái-Hữu.
Biết trước tính cụ không ưa khách sáo, nên Phóng Viên
Vác Dù vào câu chuyện ngay. Dưới đây, xin thuật lại
những câu hỏi và câu trả lời của cụ:
Hỏi.- Thưa cụ, Trường Bưởi có phải là Trường
Trung-học đầu tiên được mở tại Hà-Nội không?
Đáp.- Có thể nói là đúng, vì có mấy trường mở
trước, tuy lấy tên là “Collège”, nhưng chỉ là những trường
chuyên đào-tạo thông ngôn hoặc giáo viên cấp thời.
Trường Yên-Phụ (phía Bắc Hà-Nội) được mở vào
tháng 10 năm 1892. Ngôi nhà ấy đến sau này đã được sửa
chữa, để dùng làm trường-sở trường Tiểu-học Yên-Phụ.
Hồi bắt đầu mở trường “Collège des Interprètes” Yên-Phụ,
đất Bắc còn thờ-ơ với việc học tiếng Pháp, nên đa số thông
ngôn đều là các ông phán Sài-gòn. Đến năm 1899, Trường
được chuyển tới một tòa nhà, trụ-sở cũ của Nha Thương-
Chính (Quan Thuế) ở đường Bờ Sông (tên thời Pháp là
Quai Clémenceau và nay là đường Nguyễn-trường-Tộ) nên
người ta quen mồm gọi là Trường Thương-Chính.
Trường Collège Jules Ferry mở tại Nam-Định, năm
Trang 6 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
1904, lấy mấy lớp nhất của Trường Tiểu-học Nam-Định
(Trường mệnh danh là Trường Trong, gồm từ lớp ba trở
lên; còn Trường Ngoài gồm từ lớp tư trở xuống) làm
trường sở. Trường này cũng là trường theo một chương
trình cấp tốc, với mục đích đào tạo thông ngôn.
Trường Collège Doudart de Lagrée, mở tại đường
Hàm-Long, Hà-Nội, năm 1906, đặc biệt để đào tạo giáo
viên.
Như tôi đã nói ở trên, tuy những trường kể trên
được mở trước Trường Bưởi, nhưng chỉ có tính cách những
lớp cấp tốc đào tạo thông ngôn hoặc giáo viên cần thiết cấp
thời, nên chương trình học cũng như việc cho học trò lên
lớp, đều co dãn, tùy theo nhận xét của Ban Giáo sư và Ban
Giám đốc.
Trường Bưởi tức là Collège du Protectorat, là
Trường Trung học đầu tiên có quy-củ, có chương trình 4
năm học, mở cho người Việt-Nam, tại Bắc-Hà. Trường
được đặt nền móng năm 1907, trên một bất động sản mua
lại của nhà in Schneider, bên bờ Hồ Tây, thuộc địa phận
làng Thụy-Khuê, huyện Hoàn-Long, tỉnh Hà-Đông. Khu
đất rất rộng, nằm từ ven Hồ-Tây ra tới đường xe điện chạy
Hồ Hoàn-Kiếm - Yên-Thái. Làng Yên-Thái, tên nôm là
làng Bưởi, nên đường xe điện lên Yên-Thái được gọi nôm
là đường lên Bưởi. Hồi đó, phương-tiện giao-thông tiện lợi
nhất là xe điện, nên đa số học-sinh đi học Collège du
Protectorat đều sử-dụng xe điện lên Bưởi. Do đó, phát
nguyên danh-từ “Trường Bưởi”.
Cả khu trường được sửa sang và nhà dựng lên lần
lần, nên niên học chính-thức đầu tiên, 1908-1909, còn thiếu
thốn về mọi phương diện. Buổi đầu, chưa có phòng tắm
cũng như phòng rửa mặt, nên lưu trú học sinh đều phải
chạy xuống Hồ-Tây rửa mặt buổi sáng và tắm buổi chiều.
Đến sau, nhà trường mua (hay đi xin được) 50 vỏ thùng
rượu vang, mang mỗi thùng cắt đôi, để học sinh dùng làm
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 7
thùng tắm. Chiều chiều, lao công gánh nước Hồ-Tây, đổ
đầy các thùng, vào khoảng 4 giờ, để đến 5 giờ, học sinh lưu
trú luân phiên tắm gội. Chúng tôi có thói quen vui nhộn, hò
nhau cùng ngồi vào thùng tắm, nhúng cả mình, trước khi ra
mặc áo quần. Ông Hiệu trưởng đầu tiên của trường, là ông
Cyprien Mus, tính nết hòa nhã, nhân đi qua, nghe thấy tiếng
chúng tôi hò nhau vui vẻ, nên ghé tới xem chúng tôi tắm.
Tôi ngồi ngay ở thùng đầu tiên, tự nhiên phản ứng như lúc
ông Hiệu trưởng vào thăm lớp học, vội vàng đứng dậy
chào. Tức thì, các bạn tôi cũng làm như tôi, mọi người
cùng tồng ngồng đứng trong thùng rượu bổ đôi. Ông Hiệu
trưởng vừa cười, vừa chào trả lại.
Hỏi.- Được biết cụ đã học Collège Jules Ferry,
trước khi lên trường Bưởi. Vậy xin cụ cho biết qua về
trường ấy.
Đáp.- Tiếng gọi là Collège, nhưng chương trình học
và sự sắp xếp lớp học rất co dãn. Muốn có ngay học sinh
niên khóa đầu tiên, 1904-1905, đặc cách cho Cours
supérieur tiểu học là 1re
année, rồi cuối năm thi đậu bằng
Tiểu học, cho lên 2e année. Đến cuối niên học 1905-1906,
cho ngay 10 người đầu lớp 2e année lên Hà-Nội thi Đíp-
Lôm (Diplôme de fin d’études complémentaires franco-
annamites). Năm 1906 là năm đầu tiên có kỳ thi Đíp-Lôm;
thí sinh chỉ gồm có 10 học sinh Collège Jules Ferry và ngót
hai mươi học sinh Collège des Interprètes Hà-Nội. Người
đỗ đầu khóa thi ấy, là cụ Nguyễn-phan-Long (con cụ cố
Thông phán Nguyễn-phan-Toán, lúc đó làm việc tại tòa sứ
Nam-Định) học sinh trường Collège Jules Ferry. Đậu Đíp-
Lôm xong, cụ lại được bổ nhiệm làm giáo sư ngay ở trường
Collège Jules Ferry cụ học trước. Niên khóa 1906-1907, cụ
dậy lớp 3e année, nghĩa là dậy ngay bạn đồng học 2
e année
cũ, nhưng mọi người đều thán phục tài đức của cụ, trong
việc giảng dạy. Mấy tháng sau, có kỳ thi Tham-tá quan
thuế, cụ dự thí, lại đỗ đầu và được bổ nhiệm ngay tại Hà-
Nội. Nhưng chỉ vài năm sau, nhân cụ thân sinh về hưu-trí,
Trang 8 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
trở lại Nam-Phần, cụ xin thôi nghề công chức, để về làm
báo tại Saigon, như chúng ta đã biết. Có một hồi, lúc tuổi
già, cụ đã gánh vác nhiệm vụ Thủ-tướng Chính-phủ.
Trong số 10 cụ đậu “Đíp-Lôm” đầu tiên của trường
Collège Jules Ferry, chỉ còn có 3 cụ còn sống, là cụ Đào-
đức-Tầm, 80 tuổi, cụ Hoàng-mạnh-Ngọc, 76 tuổi, hiện nay
vẫn mạnh khỏe, ở tại Saigon, và cụ Nguyễn-văn-Bằng, 78
tuổi, ở lại Nam-Định.
Chuyện lên lớp ở Collège Jules Ferry rất co dãn,
như tôi đã nói. Tôi còn nhớ số chước tịch của cụ Nguyễn-
phan-Long và Hồ-sĩ-Nam là 922 và 921, còn số của tôi là
2.394; có sự cách biệt con số như trên, vì khi hai cụ ấy học
lớp nhất, tôi mới học lớp chín. Lẽ ra phải thua tám lớp,
nhưng trong một năm, nhờ về những bài thi chính tả chữ
Pháp liên tiếp được trội điểm hơn cả, tôi đã nhẩy tới 5, 6
lớp, thậm chí đến niên học 1905-1906, tôi chỉ còn kém hai
cụ có một lớp.
Trường Collège Jules Ferry được đóng cửa vào cuối
niên học 1907-1908, để dồn học-sinh lên Trường Bưởi.
Thực ra, nhờ về sự chuyển học-sinh này, Trường
Bưởi mới có đủ các lớp từ 1re
année đến 4e année, vào niên-
khóa 1908-1909. Với việc dồn trường ấy, tôi trở thành học-
sinh Trường Bưởi.
Hỏi.- Xin cụ cho biết qua về việc giảng dạy ở
Trường Bưởi hồi bấy giờ. Thi cử ra sao? Đời sống lưu-trú
học-sinh như thế nào?
Đáp.- Niên học 1908-1909, Trường Bưởi gồm có
Petit Collège, cho bậc tiểu học, có chừng 250 học sinh và
Grand Collège, cho bậc trung học phổ thông có chừng 120
học-sinh. Học trò phải đậu tiểu học mới được thi vào 1re
année, và hết 4e année mới được thi trung-học phổ-thông.
Vì mục đích lúc đó là đào tạo công chức, nên đến 4e année,
mỗi lớp tùy theo sự lựa chọn của học-sinh, chia làm hai
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 9
ban: ban hành chánh (section administrative) thi ra làm ông
phán (thư ký), ban sư-phạm (section normale) thi ra làm
ông giáo viên tiểu-học. Đặc biệt có niên-khóa 1909-1910,
có 11 người, vì bài Pháp văn không đủ điểm, nên thi rớt
Đíp-Lôm; nhà trường cho học lại, nhưng cho ngồi riêng
một lớp, gọi là 5e année, có ý đề cao học-sinh đàn anh về
niên học. Cuối niên-học sau (1910-1911) mười người thi
đậu “Đíp-Lôm”, một người thi rớt, nhưng chỉ một tháng
sau, đậu kỳ thi thông ngôn Tòa sứ.
Vị hiệu-trưởng đầu tiên là ông Cyprien Mus, tính
nết hòa nhã, vui vẻ, rất gần gũi học-sinh, luôn luôn bình
tĩnh ôn tồn, dầu xảy ra việc gì không vừa ý. Ông nói
chuyện thân mật với học-sinh, nói tiếng Pháp thanh thanh
rất dễ nghe. Ông cho học-sinh biết: ông là người tỉnh
Tours, vùng Touraine, đã đậu thủ khoa trường Ecole
Normale Saint-Cloud. Ông vừa làm hiệu-trưởng, vừa dạy
4e année, về môn sư-phạm. Vì tôi học ban sư-phạm, nên
cảm thấy giờ học ông là những giờ thích-thú nhất. Ông săn
sóc đến học-sinh từ chỗ học, đến nơi ăn, chốn ngủ, thường
nếm cả cơm cùng các thức ăn, và lúc nào cũng chú ý đến
lời kêu ca của học-sinh.
Trừ một giáo sư có bằng cử nhân văn khoa, toàn thể
giáo sư Pháp dạy hồi đó là giáo viên tiểu học bên Pháp
sang. Tuy vậy, chính ông giáo sư có bằng cử nhân, nhưng
không hề học qua lớp sư phạm, lại dạy học không có kết
quả nhất. Giáo sư Việt-Nam có hai vị: 1o cụ Trần-hữu-Đức,
người Hà-Nội, hồi đó chừng 50 tuổi, dạy phiên dịch Việt-
Pháp (thème et version), tài chuyển ngữ Việt Pháp có phần
trội hơn cả cụ Nguyễn-văn-Vĩnh; sau này, cụ tham dự
phong trào cách mạng và tạ thế tại Hà-Nội, nên không ai
nhắc đến tên cụ nữa, 2o cụ tú tài Ngô-tiến-Tiệp dạy chữ
Nho.
Học-sinh hồi đó là con cháu các gia-đình hấp thụ
Nho phong, nên đối với giáo sư hết sức kính cẩn. Sự kính
cẩn đối với thầy ấy đã làm cho một giáo sư người Pháp tên
Trang 10 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
là Roland đi quá trớn; trong khi rầy la học trò, đã dùng
những danh từ quá đáng. Cả Ban Trung-học (gồm chừng
120 người đã có tới 100 người là lưu trú học-sinh, vì được
hưởng học bổng) phẫn uất về cách ăn nói trên, nên một
buổi tối, sau bữa cơm chiều, thảo luận về thể thức phản ứng
lại. Mọi người đồng thanh cùng ký một lá đơn xin đổi giáo
sư Roland. Sáng hôm sau, một bạn ở lớp trung-học có giờ
giáo sư Roland đầu tiên, viết lên bảng câu: “Socrate a dit: Il
ne m’aime pas. Que pourrai-je lui apprendre?”. Lúc ông
Roland đến, học-sinh đứng dậy chào như thường lệ và yêu
cầu ông đọc câu trên bảng. Đọc xong, ông nổi cơn thịnh nộ
và đe dọa: cửa Trường Bưởi mở rộng! Một học-sinh đấu
khẩu trả lời xin để ông hiệu-trưởng giải quyết. Đồng thời,
mọi người ra khỏi lớp học, sắp hàng đôi, đi rất trật tự và
bình tĩnh, từ lớp học đến phòng giấy ông hiệu-trưởng, đệ lá
đơn xin đổi ông Roland, mà mọi người đã ký từ đêm hôm
trước. Ông hiệu-trưởng Cyprien Mus, như đã nói ở trên, rất
gần gũi học-sinh, nên sau khi đọc xong đơn, khuyên học trò
bình tĩnh trở lại lớp học, chờ cuộc điều-tra của ban giám-
đốc nhà trường, và trong khi chờ đợi, giáo sư Roland sẽ
tạm ngưng giảng dạy. Chỉ trong vòng một tuần lễ sau, giáo
sư Roland có sự-vụ-lệnh thuyên chuyển sang Lèo và toàn
thể lưu trú học-sinh Ban Trung-học phải phạt không được
ra chơi phố, hai tuần lễ (2 privations de sortie). Chúng tôi
đã vui vẻ chịu phạt.
Sách học hồi đó phát đủ cho học-sinh, không phải
mua, nói là cho mượn, nhưng cuối niên học, cũng không
lấy lại.
Việc thi hồi đó cũng giản dị lắm. Không phải lập
hồ-sơ giấy tờ phiền toái như ngày nay. Độ nửa tháng trước
ngày thi Đíp-Lôm, ông hiệu-trưởng lập danh sách thí sinh
trường mình, lấy chữ ký từng thí sinh, rồi gửi tới Nha Học
chính là đủ. Vào năm tôi đi thi (niên học 1911-1912), trước
ngày thi, chúng tôi được ông hiệu-trưởng báo cho biết đến
thi tại trường Trung-học Pháp Paul Bert (hồi đó chưa có
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 11
Lycée Albert Sarraut; chỉ có Collège Paul Bert, ở đường
Đồng-Khánh, gần nhà Gô-Đa), chúng tôi thấy vẻn vẹn có
30 thí sinh, mà Trường Bưởi đã có tới 25 thí sinh, toàn thể
lại là lưu trú học-sinh, chỉ có 5 thí sinh tự do (candidat
libre), thật là phiền phức cho chúng tôi, về sự chuyển vận
tới nơi thi. Lập tức, ông hiệu-trưởng Cyprien Mus, can
thiệp với Nha Học-chính và chúng tôi được thi tại Trường
Bưởi. Vì cận ngày quá, không kịp báo cho 5 thí sinh tự do,
nên sáng sớm ngày thi, Nha Học-chính cho người đón 5 thí
sinh tự do tại Collège Paul Bert để chuyển lên Trường
Bưởi. Kỳ thi ấy, 18 thí sinh Trường Bưởi đậu, rớt 7 người,
và 5 thí sinh tự do đều hỏng cả vì học không đủ để làm bài.
Lúc đó, thi rớt “Đíp-Lôm” cũng không buồn, vì luôn luôn
có những kỳ thi tuyển thư ký: học lực đi thi “Đíp-Lôm” dư
để thi đậu thư ký, vì phần đông thí sinh Thư ký chỉ vừa mới
thi xong bậc Tiểu-học. Câu chuyện khi đó xảy ra cũng
ngược đời: đậu “Đíp-Lôm” tháng 6, đến tháng 9 mới được
bổ nhiệm làm công chức; nhưng thi hỏng “Đíp-Lôm”, đậu
kỳ thi thư ký, vào tháng 7 chẳng hạn, đầu tháng 8 đã được
bổ nhiệm làm công chức rồi.
Hồi đó, ông Hiệu-trưởng sống thân mật với học-
sinh lắm: mỗi kỳ thi Đíp-Lôm xong là ông khao một bữa
ngay tại trường, cấp cho chừng 5, 7 con gà tây quay bơ và
mươi chai rượu vang, tùy theo số người mãn khóa.
Đời sống lưu trú học-sinh cũng dễ chịu lắm. Giám
thị đối với học-sinh 4e année, nhất là đặc biệt 5
e année, hầu
như không có ảnh hưởng; anh em 5e année và 4
e année chia
nhau, mỗi người săn sóc chừng dăm em lớp dưới, cả từ lúc
ăn lẫn lúc học, như anh cả đối với các em nhỏ. Thực đơn
hàng tuần đều do chúng tôi xếp đặt và đề nghị với nhà
trường.
Tôi xin kể một chuyện xảy ra trong niên học 1910-
1911, nhân dịp ông Giám thị tên là Tuân tạ thế. Học sinh
phải làm điếu văn, lúng túng mãi không biết gọi bằng
“ông”, hay “thầy”, hay là “anh” vì vừa năm trước, ông ấy
Trang 12 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
cũng là học-sinh trường Bưởi. Việc mang ra thảo luận gay
go, sau tôi mang ra một tờ nguyệt san giáo dục Pháp có in
một bài điếu văn của một giáo sư, tiến sĩ văn chương, khóc
một đồng nghiệp, vừa là thầy cũ bậc tiểu-học, vừa là bạn cũ
bậc đại-học, lại vừa là học trò cũ, cũng bậc đại-học. Bài
điếu văn ấy bắt đầu như sau:
“Thưa Thầy thân ái,
“Thưa Bạn thân ái.
“Thưa Học trò thân ái,”
Mọi người thỏa thuận để bài điếu văn bắt đầu bằng
“Thưa Anh”, và người đại diện đọc điếu văn là một học
sinh lớp 4e année.
Khi điếu văn vừa đọc xong, cụ Giám thị Nguyễn-
đình-Quế, tỏ vẻ tức bực, khó chịu và ứng khẩu mấy câu
chua chát như sau: “Thưa Anh! Anh Tuân ơi! Tuy anh
chẳng dạy được ai, nhưng anh cũng đã dầm sương, dãi
nắng ở sân nhà trường. Than ôi! Dã tràng xe cát biển
Đông!…”
Đến đây, Phóng Viên Vác Dù thấy đã quá kéo dài
cuộc phỏng vấn, làm cụ lão hội viên mất nhiều thời giờ và
thêm mệt mỏi, nên xin cáo lỗi đối với cụ, để xin rút lui.
Nhưng cụ lão hội viên Đào-văn-Minh, cụ già quắc thước
đáng kính mến, mặt như sáng thêm lên và niềm nở bảo tôi
rằng:
Tôi lấy làm thích thú góp phần tinh thần vào Ái hữu
Cựu học sinh trường Bưởi và kể xong cho ông nghe câu
chuyện trường xưa, thầy và bạn cũ, tôi đã quay lại cuốn
phim thiếu thời, riêng tôi cảm thấy như mới ngày hôm qua,
còn sống ở ký túc xá trường Bưởi, không mệt mỏi đâu.
Nguyễn Lân Đính, Bưởi
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 13
Phu Tử
Chu Văn An:
Bậc Lương Sư
Tiêu Biểu
Trần Lam Giang, CVA 59
Quốc học nước ta gắn liền với giòng lịch sử, tạo nên
nhân phong cao cả, văn hiến nhân bản độc lập và sáng tạo,
không vay mượn của bất cứ ngoại chủng nào. Nền văn
minh nông nghiệp định cư là nền văn minh tồn trữ đầu tiên
ở phương Đông, do trí tuệ và tấm lòng của Việt tộc khai
sáng và bồi đắp.
Lịch sử Việt Tộc ta, có khúc vinh quang rực rỡ, có
khúc đắm đuối thê lương. Nhưng, khúc nào cũng có những
vị lương sư hưng quốc, hoặc nổi danh, hoặc ẩn danh. Nhờ
Trang 14 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
vậy, giải non sông gấm vóc Việt Nam, dẫu có bị làm sao,
dẫu có bị thế nào, thì rồi trước sau cũng vẫn của người Việt
Nam, những người đồng bào cùng huyết thống Rồng Tiên
làm chủ. Anh em chúng ta thử nghĩ mà xem giải lãnh thổ từ
ải Nam Quan đến mũi Cà-Mâu có tấc đất nào là không
thấm nhuần mồ hôi nước mắt, máu xương tim óc người dân
Việt ta đâu? Vậy nên người Việt làm chủ lãnh thổ ấy, là
hợp tình, hợp lý, hợp đạo nghĩa làm người.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám tại Hà Nội, Việt Nam
Về các bậc lương sư hưng quốc, phu tử Chu Văn
An được tôn là tiêu biểu, thờ ngài trong Văn Miếu cùng
Khổng Tử. Các pho chính sử nước nhà đều cung kính ghi
chép về ngài. Văn học dân gian đến nay còn truyền tụng
thánh tích thương dân của ngài.
ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư do sử thần Ngô Sĩ Liên
biên soạn, về phu tử Chu Văn An đã viết: “Ngày 26 tháng
11 năm Canh Tuất (1370) Quốc Tử Giám tư nghiệp Chu
Văn An mất, được vua truy tặng tước công, Thụy Văn
Trinh và đưa vào thờ ở Văn Miếu (cùng Đức Khổng Tử).”
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 15
“Ngài người ở Thanh Đàm, tính cương trực, khắc
kỷ, “sống theo điều nghĩa luyện lòng trong sáng, vững bền
tiết tháo, không màng khoa danh tước lộc. Ở nhà đọc sách,
hiểu biết uyên áo, tiếng tăm vang khắp gần xa. Người đến
xin học đầy cửa”. Có những người đỗ đại khoa, giữ việc
triều đình, thành đạt hiển danh như Phạm Sự Mạnh, Lê Bá
Quát. Đã làm đến hành khiển, vẫn giữa lễ học trò. Khi đến
thăm hỏi ngài, thì quỳ lạy ở dưới giường ngài ngồi. Được
nói chuyện với thầy mấy câu rồi đi xa, đã lấy làm vui mừng
lắm vậy. Kẻ học trò nào làm điều xấu, đến thăm, ngài
nghiêm khắc răn dậy, mắng mỏ. Có kẻ ngài quát nạt, không
cho vào gặp. Ngài quả là bậc trong sạch, ngay thẳng,
nghiêm nghị lẫm liệt đáng kính sợ.”
“Vua Minh Tông mời ngài làm tư nghiệp quốc tử
giám, dậy Thái Tử ? Thái Tử lên ngôi, tức vua Trần Dụ
Tông, ham mê chơi bời, bỏ bê chính sự. Bọn gian nắm
nhiều quyền hành, làm nhiều điều trái phép. Ngài khuyên
can, vua không nghe, bèn dâng sớ xin chém 7 tên gian thần,
đều là những kẻ quyền thế được vua sủng ái. Bấy giờ gọi là
“Thất trảm sớ”, sớ dâng không được vua trả lời. Ngài trao
trả mũ áo, trở về sống với ruộng vườn. Vì yêu phong cảnh
Chí Linh, đến ẩn cư ở đấy. Chỉ những khi Triều đình có đại
hội ngài mới đến kinh sư. Vua Dụ Tông muốn ủy thác việc
triều chính cho ngài. Ngài từ chối, không nhận. Bà Hiến Từ
Hoàng Thái Hậu nói rằng: “Bậc hiền sĩ thanh cao, vua cũng
không bắt làm bầy tôi được, giao chính quyền cho bậc ấy
làm sao được.”
“Mỗi khi vua sai nội thần đem phẩm vật ban
thưởng, ngài lạy tạ mà nhận, rồi đem cho người khác hết.
Thiên hạ đều phục ngài là bậc khí tiết cao.”
“Khi Vua Dụ Tông băng hà, quốc thống suy vi.
Được tin các quan tôn lạy vua mới là Trần Nghệ Tông;
Ngài mừng lắm, chống gậy đến lạy mà từ chối không nhân
chức gì. Trở về quê, mất ở nhà. Vua sai quan đến tế tặng
tên Thụy. Ít lâu sau, có lệnh tòng tự ngài ở Văn Miếu”.
Trang 16 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Sau phần ghi chép những dữ kiện cụ thể về ngài, sử
thần Ngô Sĩ Liên đã nhận định: “Ngài là bậc thờ vua thì
thẳng thắn can ngăn. Xuất và xử đều đúng với đạo nghĩa.
Dạy học trò hun đúc thành nhân tài, công khanh hiển đạt
đều từ cửa ngài mà ra. Tiết tháo cao thượng, đến thiên tử
cũng không thể bắt làm bày tôi. Nhân cách chính đáng, đạo
làm thầy giữ đức nghiêm; lời nói lẫm liệt khiến bọn gian
thần xiểm nịnh phải sợ hãi. Ngàn năm sau, nghe phong độ
ngài, há không làm cho kẻ gian tham thành liêm chính, kẻ
yếu hèn biết tự lập tự cường hay sao?”
Pho Việt Sử Tiêu Án của Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ,
một vị đại khoa thời cuối Lê Trung Hưng, sáng lập Ngô gia
văn phái, ngòi bút viết sử của ông cứng rắn độc đáo, phê
bình các triều đại không chút kiêng dè. Các bậc minh quân
phạm gì sơ xuất, ông cũng chê trách, chỉ trích đến cùng kỳ
lý. Vậy mà khi viết về phu tử Chu Văn An, ông một mực
cung kính và tỏ lòng biết ơn vị sư biểu đã làm sáng tỏ đạo
lý.
Pho Khâm Định Việt Sử Thông giám cương mục
của Nguyễn triều, biên tập với Phan Thanh Giản làm tổng
tài cùng 14 danh nho đương thời, 3 năm hoàn tất. Lại khiến
3 danh nho duyệt và chép lại. Công việc này hoàn tất trong
một năm. Lại khiến 2 danh nho duyệt kiểm. Công việc này
được hoàn tất trong 4 năm. Lại khiến 2 danh phúc kiểm,
công việc này được hoàn tất trong 2 năm. Lại khiến 2 danh
nho duyệt và sửa chữa. Công việc này được hoàn tất trong
3 năm. Sau cùng khiến 2 danh nho kiểm duyệt trong 3 năm,
pho sử hoàn thành và được ấn hành.
Xem vậy, pho khâm Định Việt Sử của Nguyễn
Triều là công phu nghiêm túc của 45 danh nho, ròng rã 16
năm mới hoàn thành. Pho này có thêm lời bàn của Vua Tự
Đức. Vua mà bàn thì còn kiêng nể gì ai nữa? Vậy mà khi
viết về phu-tử Chu Văn An, cả 45 vị danh nho triều
Nguyễn, một mực cung kính tôn trọng và vua Tự Đức
không dám cầm bút bàn một lời. Đủ biết uy đức phu tử to
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 17
tát là nhường nào.
Pho Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu của sử gia Đặng
Xuân Bảng, vị đại khoa cuối triều Nguyễn, người làng
Hành Thiện, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. Tuy gọi là
tiết yếu, nhưng cũng giúp cho người đọc biết đủ ngọn
nguồn lịch sử nước nhà. Cũng như các pho sử kể trên, về
phu tử Chu Văn An, ông viết với lời lẽ cực kỳ kính trọng,
bày tỏ tấm lòng ngưỡng mộ tôn thờ.
VĂN HỌC DÂN GIAN
Văn học dân gian truyền tụng rằng: Phu tử Chu Văn
An quê ở Thôn Vân, làng Thanh Liệt (có người nói rằng
ngài người làng Quang Liệt?) huyện Thanh Đàm tỉnh Hà
Đông. Huyện Thanh Đàm, đến thời Lê Trung Hưng đổi
thành Thanh Trì vì kiêng húy vua Lê Thế Tông, ngài húy là
Lê Duy Đàm.
Thủa đó, nhà Trần suy vi, Vua ham mê chơi bời, bỏ
bê chính sự, sủng tín bọn gian thần xiểm nịnh. Phu tử can
ngăn, không nghe. Ngài dâng sớ xin chém bảy tên gian thần
tặc tử. Vua không trả lời. Ngài bèn cởi mũ áo, treo ấn từ
quan, ẩn cư trên núi Phượng Hoàng thuộc huyện Chí Linh.
Cũng ở đấy, ngài mở lớp dậy học.
Hoàng Tử con út của Long Vương- Vua dưới thủy
tề biết phu tử là bậc thầy đức cao học rộng, bèn lên cõi trần,
giữ kín thân thế, xin làm môn sinh. Gặp năm hạn hán, ngũ
cốc mất mùa, cuộc sống người dân đã khổ sở vì triều đình
rối nát, lại thêm khốn đốn vì tai trời. Một hôm, tan buổi
giảng, phu tử giữ Hoàng tử Thủy Tề lại và bảo:
Trong triều gian thần lộng quyền, khiến cho âm
dương rối loạn, sinh nạn hạn hán, người dân điêu đứng đói
khổ. Người có lòng nhân ai cũng đau xót. Thầy mong anh
cứu vớt đám lê dân.
Hoàng tử trầm ngâm cúi đầu, thưa:
Trang 18 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
“Chống lại vận hành của tạo hóa sẽ phải gánh chịu
tai nạn lớn. Nhưng lời thầy đã dậy, kẻ học trò nguyện đem
hết tâm sức tuân hành.”
Rồi xin nghiên mực của phu tử nói:
“Con phun nước vào nghiên này, trời ắt đổ mưa cho
đến đủ nước cấp cày. Nhưng, một điều quan trọng là hậu
duệ thày, không một ai khoa bảng vì nghiên của thầy đã hết
mực.”
Chu phu tử gật đầu:
“Tốt lắm. Nhà ta dứt khoa bảng, đổi lại lê dân được
no ấm. Như thế còn gì bằng? Anh hãy làm mưa đi.”
Người học trò múc gáo nước, ngậm mà phun vào
chiếc nghiên. Chỉ một thoáng, trời đang nắng chang chang,
mây đen bỗng vần vũ, rồi mưa như trút nước. Chàng bái
biệt thầy ba lạy:
“Từ nay con xin thôi học.”
Hôm sau, Chu phu tử đi dạo ra đầm nước trước nhà,
nước đen như mực, có xác một con giao long nổi lềnh
bềnh. Ngài sa lệ, gọi các môn sinh đến kể chuyện. Ai cũng
cảm động, vớt xác lên chôn cất cẩn thận, gọi là mộ Giao
Long. Ngôi mộ ấy linh ứng lắm, người dân lập đền thờ,
khói nhang không dứt.
Sách Lưu Dị Ký chép: con út Long Vương ham
học, nghe biết Chu Văn An mở lớp, bèn lên cõi trần xin
làm đệ tử. Chàng giữ bí mật thân thế, không ai biết. Gặp
buổi hạn hán, nhà nông mất mùa. Tiên sinh giảng bài xong,
ngồi lặng ưu tư. Hoàng tử út của Long Vương kính cẩn hỏi
vì cớ gì? Tiên sinh nói:
“Vì lũ gian thần lộng quyền, không biết điều hòa
âm dương, đến nỗi sinh nạn hạn hán. Người có lòng nhân ái
cũng xót xa. Lòng ta đau xót lắm.”
Chàng thưa:
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 19
“Đệ tử tài hèn, khó mà kéo lại máy tạo hóa. Nhưng
cũng xin thử, may ra có thể được.”
Rồi cầm gáo nước hắt vào nghiên mực của thầy,
một lát sau mưa như xối nước. Chàng bái biệt thầy:
“Từ nay con xin thôi học.”
Khi về đến bờ sông Nhuệ giang, gặp vị thiên sứ.
Thiên sứ hỏi: Cớ gì khiến người làm mưa? Chàng liền ngã
xuống đất mà chết, hóa ra một con giao long. Dân làng
chôn chàng, lập mộ gọi là mộ “Giao Long Hạt Túc”. Hơn
tháng sau thấy có linh ứng, bèn lập đền thờ, nay vẫn còn.
Qua điều truyền tụng trong dân gian cũng như ghi
chép nơi sách Lưu Dị Ký, cho thấy rõ Chu phu tử là bậc đối
với môn sinh thì đào tạo tâm hồn, mở mang trí tuệ, đối với
dân nước thì thực lòng yêu thương: dứt khoa danh hậu duệ
để dân được áo ấm cơm no. Học trò ngài, ngoài những vị
khoa bảng đạt nhân, lại có cả đến vị đổi mạng sống để làm
điều đúng do thầy sai khiến. Thật là xúc động lòng người.
Hậu duệ ngài, cho mãi đến cuối thời Lê Trung
Hưng, xét trong danh sách khoa bảng, tuyệt nhiên không có
một người.
Triều đình cử tiến sĩ Phạm Quý Thích đi tìm, mới
hay hậu duệ Chu phu tử rời về Thanh Hóa định cư, tất cả
gồm 17 xuất định. Họ đều chất phác đơn thuần, sống bằng
nông nghiệp, không quan tâm về cử nghiệp. Ông Phạm
Quý Thích có chọn được mấy người thông minh mẫn tuệ,
xin với triều đình cho về theo học trường Quốc Tử Giám.
Việc chưa thành thì lịch sử biến động. Nhà Tây Sơn đi vào
lịch sử như sấm sét chớp nhoáng. Rồi nhà Nguyễn nắm giữ
sơn hà. Việc cho hậu duệ Chu phu tử tòng học nơi Quốc Tử
Giám bị quên lãng. Không biết có phải nghiên của phu tử
hết mực hay không?
Trên đây là nói về lập công, lập đức của ngài. Về
lập ngôn, ngài viết những tác phẩm giá trị: Thất Trảm Sớ,
Trang 20 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Tiều Ẩn Thi Tập, Tiều Ẩn Quốc Ngữ Thi, Tứ Thư Thuyết
Ước. Không may cho văn học nước nhà, dưới thời giặc
Minh đô hộ, với chính sách thưc dân văn hóa ngược nhân
tình: đốt sách tịch thu sách quý đem về Tầu, nay chỉ tìm
được 12 bài thơ chép trong Toàn Việt Thi Lục. Tôi chép
dưới đây một bài, phiên âm và dịch nghĩa.
Đề Lãng Ngộ
Thượng nhân Viễn công duệ
Lãng ngộ hữu cao thức
Lũ kết Bạch xã minh
Vị ái thanh liên sắc
Phương đường trữ bích y
Hoàn dĩ phù cừ thực
Thượng cấu thủy hoa đình
Ý dữ liên tỷ đức
Hảo phong thời nhất lai
Mãn tọa văn phương phức.
Ẩn kỷ quan chúng diệu
Du nhiên tâm tự đắc
Bất tri thanh tịch thân
Dĩ tại hà hoa trắc
Minh nguyệt tương hữu bằng
Nhàn vân đồng yển tức
Khát khuynh châu lộ ẩm
Bão trích ngọc phòng thực
Hồi đầu tạ thế phân
Tiêu diêu du bát cực
Dịch nghĩa:
Đề Giác Ngộ Trong sáng[1]
Cao tăng[2]
giòng viễn công[3]
Giác ngộ trong sáng, kiến thức cao sâu,
Luôn giữ lời kết minh ở thôn Bạch.
Vì yêu sắc sen xanh,
Nên ao vuông chứa sóng biếc gợn lăn tăn,
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 21
Trồng toàn sen ở chung quanh.
Trên mặt ao dựng đình Thủy Hoa,
Ngụ ý sánh đức cùng sen.[4]
Mỗi khi gió mát thoảng qua,
Đưa hương thơm ngào ngạt khắp chỗ ngồi.
Tựa ghế quan sát mọi diệu lý.
Thỏa mái nhẹ nhàng vì tự nhận thấy được chân
tâm[5]
Không biết đến thân thanh tịnh.
Đã ở bên hoa sen.
Bạn bè với trăng sáng,
Nghỉ ngơi cùng mây nhàn.
Khát, nghiêng giọt sương ngọc mà uống.
Đói, hái hạt sen ngọc mà ăn.
Ngoái đầu lại tạ từ cõi đời phiền toái,
Thong dong dạo chơi tám cõi[6]
Chú Thích:
[1] Nguyên tác “Lãng Ngộ” lãng là sáng, ngộ: tỉnh
mà nhận ra, tức giác ngộ. Lãng Ngộ bao hàm ý nghĩa: tĩnh
ngộ bỏ bến bờ vô minh (tăm tối) do vọng động sinh ra, đi
sang bờ bên kia, trong sáng lắng đọng.
[2] Cao tăng: Nguyên tác là “Thượng Nhân” nghĩa
là bậc ở trên, bề trên; tôi định là cao tăng.
[3] Viễn công: Ông viễn, tức cao tăng Tuệ Viễn, trụ
trì ở chùa Đông Lâm, đã thỉnh được 126 vị cao tăng và túc
nho, cùng nhau minh ước giữ tinh thần “Công hồ dị đoan,
tư hại giã dĩ” nghĩa là “chống đối, đả phá những giềng mối
tư tưởng khác nhau, chỉ có hại cho chính tâm thân mình và
nhân quần”.
[4] Đức của sen:
Trong đầm gì đẹp bằng sen?
Lá xanh, hoa trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, hoa trắng, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Trang 22 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Đức của sen như đức của người quân tử. Người
quân tử không ghét kẻ tiểu nhân (vô ố tiểu nhân, thị vi quân
tử) gần gũi dễ dẫn giắt và che chở chúng, nhưng không hùa
theo chúng. Cũng như sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn.
[5] Tử nhận được chân tâm: nguyên tác là “tự đắc”
Thông thường “tự đắc” là thái độ tâm lý của kẻ tiểu nhân,
thỏa mãn một cách hợm hĩnh về chính mình hoặc về việc
làm tầm thường của mình. Nhưng, trong bài này, “tự đắc”
được hiểu là “tự tìm được chân tâm mình, nói một cách
khác, tự nhìn thấy chân diện mục.”
[6] Tám cõi: nguyên tác là “bát cực” cám ơn Phạm
Nhữ Tiếp, Thiền cư sĩ đã dùng biểu tượng của Nho làm thí
dụ để giảng cho tôi hiểu được phần nào lẽ của Sắc Không.
Âm dương giao dịch (tương thôi) mà có càn, khảm,
cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Lại biến hóa thành 64 quẻ.
Rồi lại tương thôi thành vô cùng, vô cực, không ngừng,
không dứt. Vũ trụ vật lý và vũ trụ tâm linh đều do đấy mà
có. Sự tương thôi ấy chính là điều mà nhà Phật gọi là vọng
động. Toàn thể vũ trụ vật lý và vũ trụ tâm linh là vô minh,
là “bát cực” hay dịch là “tám cõi” cũng được. Không
vướng mắc gì với tám cõi, không bận lòng gì đến tám cõi,
thong dong dạo chơi tám cõi vì đã nhận được chân diện
mục.
Trần Lam Giang, CVA59
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 23
CHU VĂN AN
thơ ngát hương Thiền
Ngô Tằng Giao, CVA 59
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã
nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu
danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Sau khi thi đậu Thái học sinh
(Tiến sĩ) cụ không ra làm quan, chỉ ở nhà mở trường dạy
học. Học trò theo học rất đông. Trong số môn đệ cụ có
nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều.
Năm Khai Thái đời vua Trần Minh Tông (1314-
1329) cụ mới nhận chức Quốc tử giám tư nghiệp, dạy cho
thái tử học. Đến đời Trần Dụ Tông (1341-1369), vì nhà vua
mải mê chơi bời, tình cảnh xã hội nhiễu nhương, chính sự
thối nát, dân tình đói khổ, cụ đã dũng cảm dâng “Thất trảm
sớ” xin chém bảy tên nịnh thần nhưng vua không nghe. Cụ
bèn treo mũ, cởi áo từ quan lui về ở ẩn. Cụ tính ưa đọc sách
nên dựng một ngôi nhà ở sườn đồi, cạnh bờ đầm tại núi
Phượng Hoàng (Chí Linh), vừa làm thư viện, vừa làm
trường và là nơi soạn sách. Cụ lấy hiệu là Tiều Ẩn (có
nghĩa là người đi hái củi ẩn dật). Cụ dạy học và viết sách
cho tới khi qua đời tại đây. Khi cụ mất, vua Trần đã dành
cho cụ một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là
được thờ ở Văn Miếu. Sự nghiệp của cụ được ghi lại trong
văn bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Cụ được tôn kính là
người Thầy vĩ đại, được coi là “Vạn thế sư biểu”. Các tác
phẩm của cụ phần lớn đã bị giặc Minh thâu góp và tiêu
hủy. Hiện chỉ còn lưu truyền lại mười hai bài thơ.
Trang 24 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Cụ Chu Văn An tìm về với cuộc sống ẩn dật để di
dưỡng tâm thần, để xa lánh cõi đời trần tục thoát khỏi trò
đua chen chốn quan quyền và nêu cao khí tiết của bậc chính
nhân quân tử. Bài thơ “Xuân Đán” (Sáng mùa Xuân) cụ
làm khi về ở ẩn:
春 旦
寂 寞 山 家 鎮 日 閒,
竹 扉 斜 擁 護 輕 寒。
碧 迷 草 色 天 如 醉,
紅 濕 花 梢 露 未 乾。
身 與 孤 雲 長 戀 岫,
心 同 古 井 不 生 瀾。
柏 薰 半 冷 茶 煙 歇,
溪 鳥 一 聲 春 夢 殘
XUÂN ĐÁN
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn.
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn
Bích mê thảo sắc thiên như túy,
Hồng thấp hoa sao lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
(Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi. Cánh cửa phên
che nghiêng ngăn cái rét nhẹ. Màu biếc át cả sắc cỏ, trời
như say. Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô.
Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi.
Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng. Mùi
khói thông sắp hết, khói trà đã tắt. Một tiếng chim bên suối
làm tỉnh mộng xuân).
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 25
SÁNG MÙA XUÂN
Nhà trên núi vắng cảnh an nhàn
Phên cửa nghiêng che tiết lạnh sang
Cỏ biếc trời cao say chất ngất,
Hoa hồng sương sớm đượm miên man.
Thân như mây lẻ vương non thẳm
Lòng tựa giếng xưa lặng sóng vàng
Hương gỗ thông tan, trà cạn khói,
Chim bên suối hót mộng xuân tàn.
(Tâm Minh dịch thơ)
Đây là ngôi nhà tranh cửa trúc nhỏ bé hoang lặng
nơi cụ Chu Văn An ở ẩn tại làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh,
một vùng sơn thủy hữu tình với núi Côn Sơn, ngọn Phượng
Hoàng, sông Thanh Lương và ao Miết Trì... Cánh cửa phên
chỉ che nghiêng ngăn cái rét nhè nhẹ, có lẽ vì cụ vẫn còn
muốn đón nhận cái khí lành lạnh của trời đất ban cho. Cụ
không tâm niệm là với một thời thế nhiễu nhương như thế,
kẻ sĩ không còn cách gì để cống hiến cho đời. Về ở ẩn
không phải là một sự thất bại, một nỗi khổ đau. Ẩn dật
chính là môi trường sống lý tưởng. Dạy học cũng là một
cách phục vụ nước nhà một cách hữu ích.
Cụ sống giản dị và thư thái an nhàn, xa lánh cõi đời
trần tục hòa đồng với cảnh thiên nhiên đơn sơ, đạm bạc
thinh lặng, vắng vẻ. Cụ thích ngắm hoa thơm cỏ lạ. Đất trời
đang vào Xuân, cụ cảm nhận thấy vạn vật phô sắc với các
loại kỳ hoa dị thảo, trong đó có làn cỏ xanh biếc tốt
tươi. Màu biếc át cả sắc cỏ. Trời trên cao như say chất ngất.
Những ánh hồng thấm vào các nhành hoa đượm miên man
trong sương sớm. Cảnh giới thanh u như gột sạch hết phiền
não, thoát vòng tục lụy chẳng còn vương vấn chút bụi trần
thời khác chi Phật giới. Và chỉ có một tâm hồn đã đạt đạo
được trọn vẹn mới có thể cảm nhận thiên nhiên được như
thế.
Thân như đám mây lẻ loi cô đơn mãi mãi lưu luyến
Trang 26 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
hốc núi, vấn vương với non thẳm. Non thẳm tượng trưng
cho đạo lý hay lẽ phải muôn đời mà sĩ phu yêu nước không
thể nào ly khai. Khi trong đời trần tục bao kẻ tiểu nhân đắc
chí lộng hành, thời người quân tử thường bị thất thế, tự ví
thân mình như cụm mây gần núi, thoái lui, ẩn khuất, tránh
đời, xa lánh tiểu nhân, cứ giữ vẻ uy nghiêm mà lui về ở ẩn,
ứng với quẻ “Thiên Sơn Độn”, còn gọi là quẻ Độn là quẻ
thứ 33 trong Kinh Dịch.
Lòng tựa giếng xưa, giống như mặt giếng cổ, chẳng
hề gợn sóng, luôn dâng hiến dòng nước tươi mát, không hề
pha lẫn với các dòng đời ô tạp rác rưởi khác, luôn làm ích
lợi cho đời, cho muôn người đang khát khao đạo lý và kiến
giải nhưng vẫn lặng sóng vàng. Tương tự như ý trong
quẻ “Thủy Phong Tỉnh” (còn gọi là quẻ Tỉnh) là quẻ thứ
48 trong Kinh Dịch. Theo đó thì làng xóm có khi thay đổi,
còn giếng nước vốn cố định, không dời chỗ. Đổi làng xóm,
đổi ấp chứ không đổi giếng. Nước giếng không kiệt mà
cũng không thêm, ở chỗ nào cứ ở yên chỗ đó. Người có tài,
muốn giúp đời, nhưng không được dùng, ví như cái giếng
nước trong mà không ai múc. Nếu được ông vua sáng suốt
dùng, thì người đó sẽ giúp cho mọi người được nhờ.
Cụ muốn bộc lộ tấm lòng mình là dù cho phải dời
chỗ ở về núi Phượng Hoàng nhưng tấm lòng son của người
quân tử vẫn chẳng hề phai. Hình ảnh này đã nói lên cái tâm
như nhất đầy ắp chính khí của kẻ sĩ hết lòng phù dân giúp
nước. Cụ nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Làm ích lợi
cho đời nhưng lòng tĩnh lặng không sinh ra sóng. Nơi đây
gợi ra hình ảnh của cái tâm được đề cập tới trong Thiền
Tông đó là “chân tâm”, “diệu tâm”.
Mùi khói thông thoạt tiên hình thành, rồi hương gỗ
tồn tại tỏa rộng ra, sau biến dần đi và cuối cùng là tan hết.
Làn khói trà tỏa ra rồi cũng tương tự theo những giai đoạn
như trên mà tan biến. Một tiếng chim bên suối hót vang lên
làm tỉnh giấc mộng trong buổi sáng mùa Xuân. Phải chăng
cụ thấy được sự vận hành của Đạo cùng với lẽ “vô
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 27
thường”, đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều
kiện, qua các giai đoạn “thành, trụ, hoại, không” hay “sinh,
trụ, dị, diệt” là bốn quy luật chi phối mọi hiện tượng giới.
Đạo Phật gọi Thế gian là vô thường nghĩa là “không chắc
chắn”, “không trường tồn.”
Từ giữa đời Trần về sau, Nho giáo thịnh dần, Phật
giáo suy yếu. Tuy thế nhiều nhà Nho trước đây đã từng lên
án chỉ trích Phật giáo gay gắt vậy mà cuối đời lại vào chùa
sống cuộc đời thanh đạm và viết những vần thơ ca ngợi
cảnh đẹp già lam như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh...
Cụ Chu Văn An cũng không trực tiếp bài bác Phật
giáo mà trái lại cụ còn sáng tácnhững vần thơ ca ngợi thiên
nhiên, bộc lộ tâm tình tiêu dao, phóng khoáng tự tại, mang
cốt cách của thiền sư, của đạo sĩ với một tâm hồn đạt đạo.
Thơ của cụ được Phan Huy Chú nhận xét là: “lời thơ trong
sáng u nhàn”. Thơ cụ chịu ảnh hưởng của đạo Phật trong
giai đoạn về ở ẩn này như nhiều nhà thơ thời ấy. Nói chung
thơ các ẩn sỹ thường có phong vị u nhàn, nhưng với cụ u
nhàn chỉ là ở cái giọng thơ.
*
Sự ngưỡng mộ Phật giới thanh u (trong sạch và tĩnh
lặng), thoát vòng tục lụy của cụ Chu Văn An cũng tỏ lộ ra
vào một lần cụ dừng chân tạm nghỉ ở núi thôn Nam. Cảm
thấy thân nhàn nhã như đám mây lẻ loi trên bầu trời, tự do
phân tán, nhẹ bay khắp Nam, Bắc. Gió mát thổi bên gối,
tâm tình để ngoài cuộc đời, xúc cảnh sinh tình Cụ làm bài
thơ “Thôn Nam Sơn Tiểu Khế” (Tạm nghỉ núi thôn nam):
村 南 山 小 憩
閑 身 南 北 片 雲 輕,
半 枕 清 風 世 外 情。
佛 界 清 幽 塵 界 遠,
Trang 28 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
庭 前 噴 血 一 鶯 鳴。
THÔN NAM SƠN TIỂU KHẾ
Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
(Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp Nam, Bắc. Gió mát
thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời. Cõi Phật thanh u,
cõi trần xa vời. Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh
kêu).
TẠM NGHỈ NÚI THÔN NAM
Thân nhàn Nam Bắc áng mây trôi,
Bên gối gió qua, nhẹ việc đời.
Cõi Phật thanh u, xa cõi tục
Trước sân hoa đỏ, tiếng oanh vui.
(Tâm Minh dịch thơ)
*
Một lần vân du cụ dừng chân bên sông đứng một mình đếm
thuyền về bến. Trước ghềnh, gió gấp, một tiếng sáo gợi
cảnh thu. Thơ đã tàn, mặt trời xế bóng, ánh hồng nhàn nhạt.
Màu biếc mênh mông. Cụ làm bài thơ “Giang Đình Tác”
(Làm thơ ở Giang Đình). Trong thơ cụ có sự cô độc nhưng
vắng bặt hẳn sự tiếc nuối thở than. Quả thật đây vẫn là Phật
giới thanh u, xa lánh cõi trần tục. Bốn câu cuối bài thơ:
功 名 已 落 荒 唐 夢,
湖 海 聊 為 汗 漫 遊。
自 去 自 來 渾 不 管,
滄 波 萬 頃 羨 飛 鷗。
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 29
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
Hồ hải liêu vi hãn mạn du.
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.
(Công danh đã rơi vào giấc mộng hoang đường. Tạm dạo
chơi miền hồ hải. Đi lại tự mình, chẳng gì trói buộc. Thèm
cảnh chim âu bay liệng trên muôn khoảnh sóng xanh).
Công danh chót lạc vùng mơ ảo
Hồ biển tạm chơi thú nẻo xa
Đây đó lang thang đời tự tại,
Ước như chim lướt sóng bao la.
(Tâm Minh dịch thơ)
*
Trong một bài thơ khác cụ lại đã ca ngợi một vị sư
đạo cao đức trọng. Cụ tán dương tư cách thanh cao của các
nhà sư như tư cách của một nhà Nho quân tử sống ẩn dật
chịu ảnh hưởng Lão–Trang trong bài “Đê Dương công
Thuỷ Hoa đình”.
*
Như vậy ta thấy ý thơ của Chu Văn An luôn ngát hương
thiền. Chính vì đã chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật mà
khi về ở ẩn tiên sinh bình tĩnh dạy học, viết sách và sống
yên vui đến cuối đời.
NGÔ TẰNG GIAO (Virginia, 12-2016)
Trang 30 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Ai đã giết Giáo Sư
DƯƠNG QUẢNG HÀM ?
Lê Duy San, CVA 59
Đã là học sinh trung học, dù là học sinh trường
công hay trường tư, không ai là không biết tới hai tác phẩm
văn học vô cùng giá trị của giáo sư Dương Quảng Hàm đó
là Việt Nam Văn Học Sử Yếu xuất bản năm 1941 và Việt
Nam Thi Văn Hợp Tuyển xuất bản năm 1942. Cả hai tác
phẩm này đều được được Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam
Cộng Hòa chính thức công nhận làm sách giáo khoa cho
chương trình trung học.
1/ Thân thế và sự nghiệp
Giáo Sư Dương Quảng Hàm, hiệu là Hải Lượng,
sinh ngày 14 tháng 7 năm 1898 tai làng Phú Thị, xã Mễ Sở,
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 31
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông là nhà nghiên cứu
văn hóa và đã đặt nền móng cho môn lịch sử văn học và
văn học so sánh ở Việt Nam. Ông là người khởi xướng
chương trình quốc học cho nền giáo dục hiện đại và cũng là
người thầy xuất sắc đã đào tạo hàng ngàn môn đệ trong một
phần tư thế kỷ.
Thân phụ ông là nhà Nho yêu nước Dương Trọng
Phổ và anh cả ông là nhà văn Dương Bá Trạc, một trong
các nhà văn đi tiên phong ở đầu thế kỷ 20. Cả hai đều tham
gia tích cực vào phong trào Đông Kinh Nghĩa thục đầu thế
kỷ XX.
Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển và Việt Nam Văn Học Sử Yếu
Năm 1920, tốt nghiệp thủ khoa trường Cao đẳng Sư
phạm Đông Dương.
Từ năm 1920 đến 1946, ông là giáo sư trường
Bưởi (tức trường Trung học Bảo hộ, tiền thân của
trường Chu Văn An sau này). Sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, ông được bổ nhiệm làm Thanh tra Trung
học, rồi làm Hiệu trưởng trường Chu Văn An. Ông mất tích
Trang 32 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
vào đúng ngày chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, ngày
19/12/1946, để lại vợ và 6 người con trong đó có nhà vật lý
Dương Trọng Bái.
Ngoài hai tác phẩm nổi danh và giá trị trên, giáo sư
Dương Quảng Hàm còn để lại nhiều tác phẩm văn học giá
trị cho hậu thế. Đó là :
- Lectures littéraires sur L’Indochine (Bài tuyển
văn học về Đông Dương, biên soạn cùng với Pujarnicle).
- Quốc văn trích diễm (1925).
- Tập bài thi bằng sơ học yếu lược (1927, soạn
chung với Dương Tự Quán),
- Những bài lịch sử Việt Nam (1927).
- Văn học Việt Nam (1939).
- Việt văn giáo khoa thư (1940).
- Lý Văn Phức - tiểu sử và văn chương (viết xong
khoảng năm 1945).
- Và rất nhiều bài báo tiếng Việt, tiếng Pháp đăng
trên các báo Nam Phong, Hữu Thanh, Tri Tân và báo của
người Pháp…
2/ Ai đã giết giáo sư Dương Quảng Hàm
Cái chết của giáo sư Dương Quảng Hàm rất bí mật
nên nhiều giả thuyết đã được đặt ra. Trong bài “ Dương
Quảng Hàm và những ngày Hà Nội nổ súng, 19/12/1946”,
nhà văn Viên Linh đã viết : “Dương Quảng Hàm chết như
thế nào? “mất,” “mất tích,” “chết trong đám cháy,”
“Pháp giết” hay “bị CS ám hại” vì ông là Việt Quốc (1)
?
Chúng ta cần làm sáng tỏ cái chết của ông.
Theo ông Phạm Xanh, cán bộ Việt Cộng, giáo sư
Đại Học Quốc Gia Hà Nội thì: “Tháng 3-1945, Nhật đảo
chính Pháp, trường mới quay lại nơi cũ. Ngày 12-6-1945,
Khâm sai Bắc Bộ Phan Kế Toại ra quyết định đổi tên
trường thành Quốc lập trung học hiệu Chu Văn An và Giáo
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 33
sư Nguyễn Gia Tường làm Hiệu trưởng. Đó là hiệu trưởng
người Việt đầu tiên của ngôi trường danh tiếng này. Rồi
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Tháng 9-1945, Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe
ký quyết định cho phép Trường trung học Chu Văn An hoạt
động trở lại. Giáo sư Dương Quảng Hàm được bổ nhiệm
làm Hiệu trưởng nhà trường dưới chế độ mới. Mới triển
khai chưa được một niên khóa thì thực dân Pháp quay trở
lại thay quân Tưởng gây hấn ở Hà Nội. Ngày kháng chiến
tới gần, dân Hà Nội lục tục sơ tán. Với cương vị là hiệu
trưởng, Giáo sư Dương Quảng Hàm ở lại bám trụ theo sát
tình hình. Rồi ngày 19-12-1946, người Hà Nội hưởng
ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh
nhất tê đứng dậy cầm súng đánh Pháp ở Thủ đô. Trong
những ngày chiến sự diễn ra ác liệt trên các đường phố Hà
Nội đó, nhiêu người Hà Nội đã ngã xuống, trong số đó có
Giáo sư Dương Quảng Hàm đã ngã xuống vì mái trường
Chu Văn An giàu truyên thống yêu nước, hưởng dương 48
tuổi, cái tuổi đang đầy năng lực sáng tạo và cống hiến dưới
chế độ mới (sau này ông được truy phong là liệt sĩ)”.
Giáo sư Dương Quảng Hàm chỉ là một nhà giáo
dục, một nhà văn hoá, vậy thì ở lại bám trụ theo sát tình
hình để làm gì? Ông đâu phải là một nhà quân sự hay
chính trị. Vậy thì lý do này không đứng vững.
Bà Lê Thi (tên thật là Dương Thị Thoa), con gái của
giáo sư Dương Quảng Hàm thì nói: “Sau ngày 2 tháng
9 năm 1945, nhà giáo Dương Quảng Hàm được Việt Minh
giao làm Hiệu trưởng Trường Bưởi (2)
. Tuy nhiên, đến 19
tháng 12 năm 1946 ông bị Pháp bắt và đem đi tử hình. Bà
buồn rầu kể: "Khi Pháp đàn áp rất ác liệt, cả nhà tôi bảo
bố trốn đi, không ở nội thành nữa, nhưng ông nhất quyết
không đi với lý do chưa nhận được chỉ thị của cấp trên. Bố
tôi bị Pháp bắt và đem đi tử hình ở đâu cũng không biết,
đến nay gia đình tôi vẫn chưa tìm thấy xác của cụ".
Trang 34 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Lời nói của bà Thoa có thể tin được không? Bà nói :
Bố tôi bị Pháp bắt, nhưng bà có thấy không hay chỉ là sự
suy đoán của bà ? Giáo sư Dương Quảng Hàm chỉ là một
nhà văn hoá, nhà giáo dục. Người Pháp đang cần sự cộng
tác của những người như giáo sư Dương quảng Hàm,
không lý gì họ lại giết ông?
Hơn nữa, Pháp cũng đã bắt nhiều nhân vật chính trị
nổi tiếng như Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Giáo Sư Hoàng
Xuân Hãn, nguyên Bộ Trưởng Giáo Dục trong chính phủ
Trần Trọng Kim, Luật Sư Phạm Khắc Hoè, Đổng Lý văn
phòng Bộ Nội Vụ trong chính phủ Liên Hiệp của Hồ Chí
Minh v.v... Tại sao Pháp không giết ai cả mà lại đi giết một
nhà văn hoá, một nhà giáo dục là Giáo Sư Dương Quảng
Hàm ?
Theo bác sĩ PMC, người Hà Nội, nhà ở gần nhà
giáo sư Dương Quảng Hàm ở phố Hàng Bông, thì Giáo sư
Dương Quảng Hàm là người mà Việt Minh không ưa.
Chúng biết ông không có ý định tản cư, sợ để ông ở lại, ông
sẽ theo người Pháp. Nên ngay đêm 19/12/1946 chúng đã
bắt ông đem đi thủ tiêu (3)
. Sau khi Pháp làm chủ tình hình,
chúng gom các xác chết vô thừa nhận và cho đem chôn
chung trong một ngôi mồ tập thể bên hông Tòa Án Hà Nội,
nằm trên đường Lý Thường Kiệt. Ngôi mộ này là mồ chôn
tập thể xác của các tù nhân của nhà giam Hỏa Lò Hà Nội
mà đa số các tù nhân này là các đảng viên của Việt Nam
Quốc Dân Đảng hoặc của các đảng phái quốc gia khác, đối
lập với Việt Minh. Họ bị chính quyền Việt Minh bắt giữ từ
trước và một số những người mới bị bắt trong đêm
19/12/1946.
Học giả Nguyễn Hiến Lê, một cựu học sinh của
trường Bưởi, niên khóa 1929-1930 đã viết: “Có nguồn tin
kể rằng cụ bị chết cháy, trong một căn nhà bốc lửa khi
tiếng súng nổ chát chúa xa gần. Ngoài cửa ngôi nhà, có vài
cán bộ (Việt Minh) nhưng không có ai can thiệp”.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 35
Như vậy, phải chăng ngay khi chiến tranh Việt Pháp
bùng nổ, Việt Minh sợ giáo sư Dương Quảng Hàm ở lại
theo Pháp nên đã bắt ông đem đi thủ tiêu? Sau khi chúng
giết ông và một số người khác, chúng đã đốt căn nhà, nơi
chúng đã bỏ xác ông ở đó để phi tang?
Tóm lại, tuy không có một bằng chứng rõ ràng nào
về nguyên nhân cái chết của giáo sư Dương Quảng Hàm.
Nhưng qua những lời nói của những người trong trong gia
đình cũng như những người quen biết hoặc có lưu tâm tới
cái chết của giáo sư Dương Quảng Hàm thì chúng ta cũng
có thể kết luận rằng ông đã bị Việt Minh giết. Nhưng tại
sao chúng lại vinh danh ông là liệt sĩ và lấy tên ông đặt cho
một con đường ở Hà Nội ? Đây chỉ là cái trò lưu manh cố
hữu của bọn Việt Cộng, muốn đánh lạc hướng của những ai
nuốn tìm hiểu về nguyên nhân cái chết của giáo sư Dương
Qủang Hàm.
Lê Duy San
Chú thích:
(1) Giáo Sư Dương Quảng Hàm không phải là Việt
Quốc tức Việt Nam Quốc Dân Đảng. Giáo Sư Nguyễn Gia
Tường, vị Hiệu Trưởng tiền nhiệm của giáo sư Dương
Quảng Hàm mới là Việt Quốc. Chính vì ông là Việt Quốc
nên Việt Minh mới tìm cách đẩy ông đi và cử giáo sư
Dương Quảng Hàm về thay thế.
(2) Sau ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp và trao
trả độc lập cho Việt Nam, chính phủ Trần Trọng Kim ra đời
và Bộ Trưởng bộ Mỹ Nghệ là giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã
ký nghị định đổi tên trường Bưởi tức Lycée du Protectorat
là trường Chu Văn An.
(3) Những xác chết trong ngôi mồ tập thể này
không thể là những xác chết của những thường dân vô tội;
bởi vì trước đêm đó, hầu hết dân chúng Hà Nội đã được
Trang 36 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Việt Minh ra lệnh di tản từ trước. Số còn ở lại, nếu có, hầu
hết là Tự Vệ Thành. Nhưng nếu là xác của Tự Vệ Thành thì
tại sao bây giờ cộng sản lại san bằng ngôi mồ này đi mà
không hề dựng một đài tưởng niệm cho họ, những người đã
hy sinh vì tổ quốc? Còn nếu là xác chết của những đồng
bào vô tội ở rải rác kháp nơi trong thành phố thì tại sao lính
Pháp không chôn ở nơi khác mà lại mất công đem về tập
trung ở đây và chôn tại nơi đây? Vậy chỉ có thể là xác chết
của các tù nhân của nhà giam Hỏa Lò Hà Nội và các xác
chết của những người mà Việt Minh đã bắt ngay trong đêm
19/12/1946 và đã ra lệnh hành quyết trước khi rút lui. Vì số
xác chết quá nhiều, nên lính Pháp đã phải đào một cái hố
lớn ngay giữa con đường nhỏ cạnh tòa án Hà Nội trên
đường Lý Thường Kiệt để chôn cho tiện và xác của giáo sư
Dương Quảng Hàm có thể đã được vùi chôn trong ngôi mộ
tập thể này.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 37
Một Kỷ Niệm
VỀ GIÁO SƯ
Dương Quảng Hàm
BS Nguyễn Tấn Hồng, Bưởi
LTS. Học giả Nguyễn Hiến Lê, cựu học sinh trường Bưởi,
niên khóa 1929-1930 đã có nhận xét về nhân dáng và tư
cách của giáo sư Dương Quảng Hàm như sau:
“Mấy năm trước, những khi thấy cụ đi qua sân
trường, tôi thường để ý: cụ đi bộ, lúc nào cũng rảo bước,
cụ thấp bé mà bước những bước dài, nhón gót (người ta
bảo là tướng yểu), như lúc nào cũng vội vàng -- cụ có bao
giờ biết thơ thẩn, mơ mộng không nhỉ? -- mà ngồi xe đạp
thì trái lại, cụ đạp rất chậm, tốc độ đêu đêu, chỉ độ mười
cây số một giờ. Tới cửa lớp, cụ thận trọng hãm lại, cho xe
nghiêng qua một bên, khoan thai bước xuống, gác xe, gỡ
cái kẹp ống quần ra, tháo chiếc cặp phồng những sách vở,
rồi ôm cặp tiến vô lớp. Gặp bạn đồng sự cụ niêm nở bắt
tay, nhưng ít khi đứng lại để trò chuyện; cụ tới lớp không
khi nào trễ, nhưng cũng không khi nào quá sớm, chỉ dăm
ba phút là cùng, như vậy thì đâu có thì giờ để trò chuyện.
Tôi có cảm tưởng cụ là một chiếc đồng hồ mà thì giờ của
cụ đã tính trước đâu vào đấy hết. Chúng tôi phục cụ ở điểm
đó.
Cụ sống rất giản dị. Từ nhà ở giữa phố Hàng Bông
lên trường, đường dài vào khoảng ba cây số, mà quanh
năm, Hè cũng như Ðông, mưa cũng như nắng, ngày nào cụ
cũng chầm chậm đạp một chiếc xe cũ; suốt hai năm học cụ,
Trang 38 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
tôi nhớ chỉ một hai lần cụ đi xe kéo vì mưa gió lớn quá
hoặc vì trong mình khó ở. Có lần chúng ‘thổi’ mất chiếc xe
của cụ và bọn chúng tôi được một dịp cười: con người cẩn
thận như vậy mà cũng để mất xe ư? Và chiếc xe ‘tàng’ như
vậy mà chúng cũng ‘thổi’ ư?
Y phục của cụ hình như chỉ có vài bộ, một cổ lỗ,
nhưng lúc nào cũng sạch và có nếp. Tóc thì chắc chắn một
tháng cụ mới húi một lần và chỉ khi nào húi cụ mới cạo
râu, vì vậy râu cụ đã thưa lại lởm chởm, trông y như
limailles de fer (mặt sắt, mài giũa) và chúng tôi dùng danh
từ Pháp đó để đặt biệt hiệu cho cụ.
Sau đây thêm một chi tiết mà cũng theo Nguyễn
Hiến Lê, là đã học được từ cụ “một bài học lặng lẽ và cao
thượng”:
“Theo lệ, cụ mở cuốn sổ tay ra chấm tên một học
sinh vào hạng trung bình. Anh này chắc cũng chỉ thuộc lõm
bõm, trả được một vài câu rồi ngừng, thú rằng không
thuộc. Cụ gọi thêm một anh khác, cũng không thuộc nữa.
Cụ ngạc nhiên, hỏi tại sao? Một anh bạo dạn đứng lên
thưa rằng, chúng tôi không ai thuộc cả vì không ưa Jules
Boissière, một tên thực dân không có cảm tình với dân tộc
mình. Rồi chúng tôi trình với cụ tất cả những điêu chúng
tôi trách hắn. Cả lớp chờ sự phản ứng của cụ.
Cụ làm thinh một vài phút rồi bỗng nhiên tôi thấy
hai giọt nước mắt lăn trên má cụ. Cụ vẫn ngồi yên nhìn
xuống phía cuối lớp, cũng không lấy chiếc khăn tay nhỏ xíu
bằng vải trắng để lau nước mắt nữa, mặc cho nó rơi xuống
mặt bàn và tự khô trên má. Hôm đó cụ không cho điểm ai
cả.”
Hình bóng ấy của Dương Quảng Hàm chỉ có học
trò của cụ ghi nhớ được. Thế hệ sau ít ai còn biết rõ. Ngay
cả cái chết của cụ cũng không sách vở nào nói đến. Chỉ là
lời đồn. Chỉ là nghe nói. Có nguồn tin kể rằng cụ bị chết
cháy, trong một căn nhà bốc lửa khi tiếng súng nổ chát
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 39
chúa xa gần. Ngoài cửa ngôi nhà, có vài cán bộ nhưng
không có ai can thiệp. Có người nói cụ bị chết trong can
qua. Những cuốn sách in ở Hà Nội vừa qua, nói cụ “mất”
ở Hà Nội. Một cuốn in ở Sài Gòn nói cụ “mất tích.”
Phải có một ngày sự thực hiện ra. Nhưng nó không
tự nhiên hiện ra. Nếu các thế hệ sau không tìm hiểu, không
tra vấn, không tìm lại những bài học lịch sử, lịch sử sẽ bị
lãng quên hay bị biết đến trong sai lạc, cố ý hay vô tình.
Dương Quảng Hàm, nghe qua cái tên, bất cứ ai
quan tâm đến nền văn học Việt nam đều biết đó là một vị
giáo sư có công lớn trong nền văn học nước nhà. Ngoài
việc dạy học cho nhiều thế hệ học sinh, thầy còn nghiên
cứu văn học và đã để lại cho hậu thế những công trình khảo
cứu nghiêm túc và có giá trị (Việt nam văn học sử yếu, Việt
nam thi văn hợp tuyển ...) Ở đây chỉ có ý nhắc đến một câu
chuyện có thật xảy ra vào những năm tháng thầy còn phụ
trách giảng dạy môn văn cho trường Bưởi ngoài Hà nội.
Khi còn là giáo sư ở trường Bưởi, thầy Hàm nổi
tiếng là một ông thầy nghiêm, cả trường đều "rét" cái oai
của thầy, hiếm khi thầy ban cho học sinh một nụ cười, phải
nói là một ông thầy luôn có..."bộ mặt hình sự". Có lần một
học sinh đã dùng com-pa vạch trên mặt bàn một vạch nhỏ
để ghi dấu khi thầy Hàm nở nụ cười, dù chỉ là cười mĩm.
Cho đến cuối năm học, anh chàng học sinh chuyên "sưu tập
nụ cười thầy Hàm" đã làm "tổng kết" và công bố cho bạn
bè đều biết là chỉ có … ba vạch mà thôi!! Học với thầy là
một ước mơ của những học sinh nào mê văn học, nhưng
phải trả giá bằng cách gồng mình chịu những hình thức kỷ
luật, suốt niên học phải chịu "rét" nhiều hơn là ấm áp.
Vậy mà một hôm, trong một lớp học của trường
Bưởi, thầy Hàm đang say sưa giảng về một thể thơ gọi là
"yết hậu" (một thứ thơ đường luật biến thể, gồm bốn câu:
Trang 40 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
ba câu đầu có bảy chữ, và câu cuối chỉ có một chữ mà
thôi). Cũng nên nói thêm là khi thầy Hàm giảng bài thì ông
hay nói say sưa như lên đồng, đến không kịp … nuốt nườc
bọt. Có khi thì đang huyên thuyên như thế, bất chợt ông
dừng lại … nuốt nước bọt đánh ực một phát, rồi mới nói
tiếp. Đó là cố tật của thầy Hàm mà học sinh cả trường đều
biết. Trở lại chuyện bài thơ yết hậu, sau khi giảng tất cả
những niêm luật của thể thơ này, thầy Hàm đưa ra một thí
dụ bằng một bài thơ do chính thầy cảm tác tại chỗ. Bài thơ
có nội dung mô tả một anh chàng bợm nhậu, khi chết
xuống âm phủ được gặp mặt Diêm vương mà trên tay vẫn
còn cắp theo be rượu. Thơ rằng:
“Sống ở dương gian đánh chén nhè,
“Chết vê âm phủ cắp kè kè
“Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?
“Be” (tức là be rượu. )
Sau khi ngâm nga dứt bài thơ ngắn đó, thầy hất hàm
ra hiệu cho cả lớp và nói: "Em nào cho tôi một thí dụ tương
tự xem nào."
Một quãng im lặng kéo dài hơn một phút, rồi đột
ngột từ hàng ghế cuối lớp có một cánh tay giơ lên, thầy ra
dấu cho phép học sinh kia đứng lên để đọc bài thơ của
mình.
Sau một lúc chần chừ, anh chàng mới bắt đầu cất
tìếng:
“Sống ở dương gian chỉ nuốt đàm,
“Chết vê âm phủ nói làm nhàm.
“Diêm vương phán hỏi rằng ai đó?
Cậu học sinh nọ chỉ vừa đọc dứt câu ba, thì không
ai bảo ai, cả lớp đều đồng thanh hét thật to:
“Hàm!!”
Nghe đến đây, chắc bà con đều nghĩ rằng cả lớp sẽ
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 41
bị “ông hung thần” nghiêm trị, còn anh chàng học sinh chủ
xướng kia chắc không tránh khỏi một trận đòn tuốt xác ra.
Vậy mà như một phép lạ. thầy Hàm lại mỉm cười, một nụ
cười thật tươi và hoàn toàn mang vẻ đôn hậu, dễ thương
đến tội nghiệp. Và thưa bà con, nếu như năm học đó có anh
chàng nào muốn “sưu tập nụ cười”, thì chắc chắn sẽ được
… bốn vạch trên mặt bàn học đấy.
Hôm nay, nhân ngày Nhà giáo Việt nam, tui muốn
nhắc lại mẫu chuyện này, để tỏ lòng nhớ đến thầy Hàm,
mong ông sẽ gặp toàn những người tử tế ở thế giới bên kia,
đang say sưa giảng bài cho học sinh, môn Văn học Việt
Nam.
Một đôi lời ngắn ngủi, coi như một nén hương cho
thầy, có gì thất thố, kính mong thầy lượng thứ.
BS Nguyễn Tấn Hồng, Bưởi
Trang 42 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
GIÁO SƯ
HOÀNG XUÂN HÃN
Người khai sinh
nền Giáo dục Việt Nam
Dương Thiệu Tống, Bưởi
Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn
LTS: Là học sinh trung học Việt Nam, không ai là không
biết tới cuốn “Danh từ khoa học” của giáo sư Hoàng Xuân
Hãn. Ông là cựu học sinh trường Bưởi. Sau sang Pháp du
học và tốt nghiệp Thạc Sĩ Toán Học tại đại học Sorbonne
năm 1936. Trở vê nước ông dậy toán tại trường Bưởi. Năm
1945, ông là Bộ Trưởng bộ Giáo Dục và Mỹ Nghệ trong
nội các của chính phủ Trần Trọng Kim. Với chức bộ
trưởng, ông đã thiết lập và ban hành chương trình giáo dục
bằng Việt ngữ ở các trường học và áp dụng việc thi Tú
Tài bằng tiếng Việt và dùng tiếng Việt trong những công
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 43
văn chính thức. Ông cũng chính là người đã đổi tên Lyceé
du Protectorat (tức trường Bưởi) thành Trung Học Chu
Văn An.
*
Có lẽ rồi đây sẽ có nhiều người viết về GS. Hoàng
Xuân Hãn như là một nhà trí thức tiêu biểu, một thầy giáo
toán học tài năng, một nhà khoa học Việt Nam lừng danh,
một nhà nghiên cứu cổ văn và nhà sử học nghiêm túc v.v…
vì ông là tất cả những mẫu người ấy. Cũng sẽ có người đầy
đủ tư cách hơn tôi để viết về tiểu sử của GS. Hoàng Xuân
Hãn vì họ là những người thân thuộc, đồng tuổi, đồng
nghiệp, những học sinh cũ hay bạn bè gần gũi, thân thiết.
Nhưng tôi không được may mắn thuộc vào các loại người
ấy, mà chỉ là một trong các thầy giáo thuộc lớp đầu tiên
thực hiện chương trình trung học Việt Nam do chính ông
khai sinh vào tháng 6-1945 và được áp dụng vào khoảng
tháng mười năm ấy tại các trường học ở miền Trung.
Hồi còn theo bậc trung học giữa thập niên 1930 và
đầu thập niên 1940, chúng tôi biết tên của hầu hết các nhà
khoa bảng Việt Nam xuất thân từ các trường đại học Pháp,
vì số người này lúc ấy có thể đếm trên đầu ngón tay, nhưng
GS. Hoàng Xuân Hãn là người mà chúng tôi vẫn hằng
ngưỡng mộ qua các bài viết của ông trên tạp chí Khoa học,
một tờ báo đầu tiên về khoa học viết bằng tiếng Việt, do
một nhóm trí thức chủ trương. Sự kiện một tờ báo Việt đề
cập đến các vấn đề khoa học bằng tiếng Việt, kèm theo bản
Danh từ khoa học của GS. Hoàng Xuân Hãn, xuất hiện chỉ
hơn một năm sau thời kỳ nước Pháp bại trận (giữa 1940),
cho thấy việc làm này không phải ngẫu nhiên mà là sự
chuẩn bị có tính cách “chiến lược” cho việc phục hồi vị trí
của tiếng Việt trong nền quốc học Việt Nam. Điều này, các
nhà giáo dục Việt Nam về sau đã nhận thấy rõ và chính GS.
Hoàng Xuân Hãn, gần đây (1993) cũng xác nhận: “Từ khi
vào Trường Vinh hay Hà Nội, tôi đã sớm nhận thấy hoàn
Trang 44 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
toàn thiếu phần quốc học, và càng thấy phần quốc học suy
đồi, anh em ít người chú tâm; đến cả thầy giáo cũng vừa
non nớt vừa uể oải.
Tôi lại nhận thấy rằng nếu mình thiếu phần tối thiểu
vê khoa học, thì dân ta không thể có lý luận chính xác
nghiêm túc và những kiến thức cách trí không thể truyên bá
vào tập quán của dân ta, chỉ quen với từ chương mơ hồ
luộm thuộm. Vì những lẽ ấy, khi tôi được vào Trường
Polytechnique, năm 1930, tôi bắt đầu nghĩ đặt danh từ
khoa học cho có nên tảng hữu lý và quốc gia… Không bao
lâu thì cuộc chiến tranh Âu châu bùng nổ… Tôi cùng một
nhóm bạn lập ra tạp chí Khoa học, và tôi tự đem in tập
Danh từ khoa học của tôi. Thực ra, bấy giờ tôi chịu những
lời phê pháp hiêm nghi của một số người pháp trong chính
quyên cao cấp” [1]
Qua lá thư trích dẫn trên đây của GS. Hoàng Xuân
Hãn, tôi lại càng ngưỡng mộ ông hơn, và hiểu được vì sao
ông vốn là một nhà khoa học, một thầy giáo toán học, được
đào luyện trong môi trường giáo dục Pháp, mà đồng thời lại
nhà một nhà nghiên cứu Hán Nôm, một nhà sử học Việt
Nam nghiêm túc, và gần đây hơn nữa ông lại có ý định
“khảo cứu dài về khoa cử và giáo dục Việt Nam” vì “mình
phải làm gương mẫu cho xứ ngoài”, như ông đã viết trong
lá thư nói trên. Có lẽ không ai có đầy đủ khả năng hơn ông
để thực hiện công trình lớn lao này.
Chỉ bốn năm sau khi ông cho xuất bản tập Danh từ
khoa học, niềm mong ước của ông nói trên đã được thực
hiện. Không đầy một tuần lễ, sau ngày binh đội Pháp đầu
hàng quân đội Nhật tại Huế (9.3.1945), các trường trung
học Huế được mở cửa trở lại và tất cả các môn học từ tiểu
học đến bậc tú tài đều được giảng dạy bằng tiếng Việt. Đó
là một thành tích không dễ gì đạt được nếu không có sự
chuẩn bị của GS. Hoàng Xuân Hãn nhiều năm trước đó với
cuốn Danh từ khoa học của ông, và cũng là một sự kiện
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 45
giáo dục chưa từng có tại bất cứ một quốc gia nguyên thuộc
địa nào đã bị thực dân đô hộ lâu dài.
Ngày 17.4.1945, ông được cử giữ chức Bộ trưởng
Giáo dục trong Chính phủ Trần Trọng Kim, rồi đến cuối
tháng 6.1945, kỳ thi tú tài đầu tiên của nền giáo dục Việt
Nam được tổ chức tại trường Quốc học Huế với tất cả các
bài thi viết bằng tiếng Việt. Năm 1993, trong lá thư kể trên,
ông còn nhớ lại về kỳ thi này: “… Những bài làm rất tốt, kể
cả bài thi triết học. Đầu tháng 7.1945, tôi phải ra Hà Nội để
thu nhận các cơ quan đại học mà Nhật trả; tôi đã mang theo
bản chương trình trung học và bản tập lục những bài thi
xuất sắc để đem in. Tiếc thay, nhà in bị cháy, tôi chỉ cứu
được một bản chương trình trung học …”.
Chương trình trung học này được thảo luận tại Bộ
Giáo dục (tức Nha Học chánh cũ, sau lưng trường Quốc
học Huế) tại một hội đồng giáo sư do GS. Hoàng Xuân Hãn
chủ tọa và sau đó được soạn thảo tại trường Quốc học Huế.
So với các chương trình trung học Việt Nam về sau đó,
chương trình Hoàng Xuân Hãn là một chương trình cải tổ
nền trung học Việt Nam sâu rộng nhất, từ việc thay đổi cấu
trúc nền trung học cho đến việc đặt ra những môn học mới,
thay đổi nội dung các môn học cũ, nhưng nó đã được thực
hiện trong thời gian ngắn nhất và với số giáo sư tham gia ít
ỏi nhất. Mỗi môn học chỉ có một hoặc hai người soạn thảo
cho tất cả các lớp của bậc trung học từ lớp đệ nhất niên cho
đến lớp đệ tam chuyên khoa. Một trong các vị giáo sư đã
tham dự vào việc soạn thảo “chương trình Hoàng Xuân
Hãn” về môn Anh văn cho nền trung học Việt Nam trong
các năm 1945, 1946, đó là thầy Hà Thúc Chính, nay đã 92
tuổi và hiện sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn không những là người đã
đặt ra đường hướng đầu tiên cho việc xây dựng chương
trình, mà song song với việc làm ấy, ông cũng còn là người
đầu tiên mạnh dạn đặt ra qui chế “giáo sư phụ khuyết” để
tuyển dụng những thanh niên có bằng tú tài làm giáo viên
Trang 46 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
giảng dạy tại các trường trung học, thay thế tất cả các giáo
viên người ngoại quốc, một điều nhà nhiều quốc gia
nguyên thuộc địa không làm được ngay sau khi giành được
độc lập. Những công trình lớn lao nói trên đã được hoạch
định chỉ trong vòng ba tháng trong khi GS. Hoàng Xuân
Hãn giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục, nhưng tất cả chỉ
được thực hiện sau khi ông rời chức vụ ấy, dưới chính thể
Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tôi ngưỡng mộ GS. Hoàng Xuân Hãn vì tài năng trí
tuệ lớn lao của công cho nền giáo dục Việt Nam, tôi mến
yêu ông vì tấm lòng yêu đất nước, yêu con người của công,
nhưng trên tất cả, tôi kính trọng ông về “khí tiết” của người
trí thức Việt Nam mà ông đã tóm tắt trong lời nói đầu của
cuốn La Sơn phu tử: “Trong cơn dông tố, gốc cây đại thụ
đứng tin; giữa dòng nước cuốn, cột đá chân cầu không
chuyển; đó là đặc tính chắc rắn của gốc cây, cột đá. Chuyện
La Sơn phu tử là chuyện một cá nhân đặc biệt, một cá tính
đặc biệt mà thôi. Đặc biệt vì khí tiết của cụ đã được thử
thách trong những trường hợp éo le, nhiều khi mâu thuẫn
cùng nhau, thế mà chung qui vẫn tròn khí tiết” [2]
Tôi nghĩ rằng, với tư cách là một miêu duệ của
Nguyễn Thiếp tiên sinh, GS. Hoàng Xuân Hãn xứng đáng
nhận lãnh những điều ông đã nhận xét như trên về nhân vật
lịch sử ấy.
Dương Thiệu Tống. Bưởi (Trích chương X (tr. 105-109) cuốn
“Suy nghĩ vê văn hóa giáo dục Việt Nam”, Nxb Trẻ)
------------------------------------
[1] Nguyễn Q Thắng, Khoa Cử và Giáo Dục Việt Nam.
NXB Văn hóa Thông tin, Tp. HCM, tr. 136. Thư của GS
Hoàng Xuân Hãn, Paris 20-3-1993.
[2] Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử. NXB Minh Tân,
Paris. Lời tựa thứ hai viết tại Hà Nội tháng chin năm Canh
Dần, 1950.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 47
Thiên ChỨc
cỦa NhÀ GiÁo
GS Nguyễn Xuân Vinh
Năm 2013 đã đi qua một cách quá nhanh đối với
tôi, vì là một năm tôi có nhiều chuyến đi, cũng như có
nhiều việc phải làm. Tôi đã sinh ra và lớn lên trong một
giai đoạn đất nước có nhiều biến chuyển nên cũng như các
bạn cùng lứa tuổi, nổi trôi theo vận nước, sự nghiệp của tôi
cũng qua nhiều lần thay đổi, từ nghiệp Văn, sang nghiệp
Giáo, đến nghỉệp Binh, rồi lại trở về nghiệp Giáo. Nhân dịp
đầu Xuân Giáp Ngọ, ngồi viết mấy dòng tản mạn cho Đặc
San Bưởi-Chu Văn An, tôi lại nghĩ đến vị Thầy đã được tôn
vinh là “Vạn Thế Sư Biểu” với khí phách của người mà
hơn bẩy trăm năm sau vẫn còn toả xuống để chúng ta noi
theo. Nghĩ đến tình hình trên đất nước hiện nay, sau hai lần
Hội chúng ta tổ chức Hội Luận, tôi lại nhớ đến bài thơ của
Lê Quát là một trong những cao đồ của vị danh sư
Thư Hoài-Ky Nhị
“Niên lai, thế sự dữ tâm vi,
Nhật vọng gia sơn phú Thức Vi.
Thuỷ quốc thiên hàn kinh tuế mộ,
Mộc lan hoa lão vũ phi phi”.
Bài thơ xin tạm dịch là:
“Cuộc đời trái với sự lòng,
Hướng vê quê cũ, ngâm dòng Thức Vi.
Nước triêu, trời lạnh năm đi,
Mộc lan tàn cánh hoa vì mưa bay”.
Trang 48 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Năm mới tới, mà thế sự trái với lòng mình mong
muốn. Hàng ngày nhìn núi xa về phía quê nhà, ngâm câu
thơ Quốc Phong ở Thi Kinh, bộc lộ tâm sự của người lưu
lạc, tuy lòng buồn nhưng vẫn tiếp tay với những người còn
muốn làm được điều gì cho quê hương. Xét những gì mình
có thể làm được, tôi thấy thực ra lúc nào tôi cũng mang
nặng nghiệp Giáo, nghĩa là dù ở đâu hay trong hoàn cảnh
nào, tôi cũng đưa những gì mình đã học hỏi được trong
những năm qua để san sẻ những hiểu biết của mình tới mọi
người.
Những năm còn ở quê nhà, vì nhu cầu của Bộ Quốc
Gia Giáo Dục, tôi được giấy phép đặc biệt của Bộ Quốc
Phòng, dậy môn Toán mỗi tuần 4 giờ, và theo thứ tự thời
gian, dậy cho Trường Trung Học Võ Tánh ở Nha Trang, và
sau đó cho những Trường Trung Học Petrus Ký, và Chu
Văn An ở Sài Gòn. Sau năm 1960, chiến sự chống cộng sản
xâm nhập từ miền Bắc gia tăng, tôi không còn nhiều thì giờ
tới trường giảng dậy nhưng vẫn để bài giảng cho Bộ Quốc
Gia Giáo Dục in ra chính thức thành hai cuốn sách Cơ Học
và Lượng Giác Học, và mỗi kỳ hè vẫn nhận lời chấm thi Tú
Tài khi có thư mời.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 49
Tôi rời nước vào tháng 8 năm 1962, chính thức như
là một sinh viên theo học chương trình tiến sĩ, nhưng sau
mấy tháng ở Đại học Colorado thì vị giáo sư dậy môn “Cơ
Học Thể Lỏng” (Fluid Mechanics) chuyển sang trường
khác, và vì môn này trước đây tôi đã học ở Trường Sĩ Quan
Không Quân Pháp ở Salon de Provence nên Đại Học nhờ
tôi dậy thế. Từ đó cho đến năm 2000 khi tôi về hưu trí, tôi
đã trở lại nghiêp Giáo và đã được mời giảng dậy hay thuyết
trình ở rất nhiều nơi trên thế giới. Một vài trường hợp khá
đặc biệt tôi ghi lại dưới đây để gửi tới qúy bạn như là
những chuyện vui để đọc những ngày còn Xuân.
Chúng ta thường nghĩ rằng người Nhật là những
người rất hãnh diện về văn hoá của dân tộc họ và vào
những thành tích họ đạt được trên phương diện kỹ thuật cao
cấp. Vì vậy tôi cũng thấy ngạc nhiên khi nhận được thư
mời của Viện Đại Học Quốc Phòng (National Defense
Academy) ở Yokosuka, Nhật Bản để sang bên đó hai tuần
lễ vào năm 1997 dậy một khoá về “Planetary Entry
Dynamics & Optimization”. Tuy là một khoá học cấp tốc
nhưng họ đã tổ chức rất chu đáo. Những tài liệu tôi gửi
sang trước ngày khai giảng đã được in thành một tập sách
dầy hơn một trăm trang và tin tức về khóa học cũng được
phổ biến rộng rãi cho các hãng kỹ nghệ lớn như Mitsubishi
Heavy Industries để cử kỹ sư tới theo học. Số học viên có
thể lên tới gần một trăm người ngồi trong một giảng đường
lớn và tôi đã phải dùng hệ thống phóng thanh để thuyết
trình. Trong suốt thời gian tôi ở xứ này, Viện Đại Học đã
đề cử ba khoá sinh là sĩ quan thuộc Lục Quân và Không
Quân làm sĩ quan tùy viên. Họ thay phiên nhau mỗi ngày
có một người đưa xe đến khách sạn đón tôi tới trường và lo
cho tôi tất cả những gì cần thiết. Trong khi tôi giảng bài thì
sĩ quan trực hôm đó cũng là người thu hình trên video và
sau khóa học tôi được tặng tất cả những tấm băng thu hình
để giữ làm tài liệu. Lễ mãn khoá cũng được cử hành tuy
đơn giản nhưng trang trọng và ông Viện trưởng đã thân
hành tới để tặng tôi tấm bảng tri ân.
Trang 50 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Hình với các sĩ quan tùy viên
Kỷ Niệm từ Viện Đại Học Quốc Phòng Nhật Bản
Một lần khác tôi nhận được thư mời của ông Viện
Trưởng của Đại Học Quốc Gia Bách Khoa ở Toulouse,
Pháp quốc (Institut National Polytechnique de Toulouse) để
làm giám khảo trong hội đồng chấm thi tiến sĩ cho cô
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 51
Sophie Geffroy là một kỹ sư làm việc ở Trung Tâm Không
Gian của Pháp. Luận án của Sophie có liên hệ tới một số
những công trình tôi đã làm trước đây, và sau khi được
chấm đậu và dự tiệc xâm banh như theo thủ tục ở Pháp, cô
còn xin tôi ký tên vào luận án để làm kỷ niệm. Một vài lần
khác, tôi cũng nhận được thư mời phê bình luận án từ
những Đại Học Princeton ở Hoa Kỳ, Đại Học McGill ở
Montreal, Canada và Viện Kỹ Thuật ở Bangalore, Ấn Độ.
Những lần này thì thường những giáo sư cố vấn họ gửi xin
ý kiến để lấy thêm uy tín cho luận án họ bảo trợ.
Cô tân khoa Sophie Geffroy với cặp mắt nhìn ngưỡng mộ của
người bạn trai dù bị đau tay cũng tới hỗ trợ
Một dạng thuyết trình khác là ở những hội nghị
khoa học và kỹ thuật, tầm vóc quốc gia hay quốc tế, đôi khi
ban tổ chức mời một giáo sư hay khoa học gia có uy tín đến
thuyết trình về một đề tài có liên quan đến chương trình
chung của hội nghị. Trong chương trình họ đề những bài
này là “invited lectures”, có nghĩa là bài thuyết trình được
mời, thường để quảng cáo cho đông người tới tham dự hội
nghị nếu diễn giả là người có tiếng tăm được nhiều ngừơi
mến mộ. Trong những năm dậy học và làm khảo cứu tôi
Trang 52 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
cũng có vài lần được mời làm diễn giả đặc biệt như vậy.
Nhưng lần được mời thuyết trình đáng ghi nhớ nhất của tôi
là lần được đại học Oklahoma ở thành phố Norman, tiểu
bang Oklahoma, mời đến thuyết trình trong chương trình
Charles E Foster.
Đại Học có một ngân khoản do sự tài trợ của nhà tỷ
phú Charles E Foster, Tổng Giám Đốc của công ty điện
thoại SBC, để mỗi năm mời một khoa học gia hàng đầu tới
thuyết trình về một đề tài về hàng không và không gian.
Chương trình diễn giảng được thiết lập từ năm 1990 và tôi
là diễn giả thứ 9 được mời. Mục đích chính của chương
trình này là để quảng bá cho sự phát triển ngành hàng
không và không gian trên thế giới nên khán thính giả được
mời rộng rãi cho cả đại học chứ không riêng cho những
sinh viên và giáo sư chuyên ngành. Ngày hôm đó trong đại
giảng đuờng rộng lớn dành cho những buổi nói chuyện
tổng quát, và có thêm sự cổ động của Hội Sinh Viên Việt
Nam tại Đại Học Oklahoma, người dự thính đã đến đông
chật. Như trong thiệp loan tin in lại ở dưới đây của School
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 53
of Aerospace and Mechanical Engineering, tôi đã chọn một
đề tài thuyết trình phổ thông cho đại chúng là “Navigating
in The Solar System”.
Theo sự trình bầy của tôi thì, mới đây trong những
lớp băng giá của Nam cực địa cầu, người ta đã tìm thấy
những thiên thạch được chứng tỏ là có nguồn gốc xuất xứ
từ Hoả Tinh. Như vậy có thể suy luận rằng qua hàng triệu
năm, những chuyển động hỗ tương giữa các hành tinh trong
Thái Dương Hệ có thể làm cho vật thể từ hành tinh này
chuyển sang hành tinh khác. Trong thế kỷ hiện tại, những
chuyên gia tính qũy đạo đã tạo dựng những lý thuyết tối ưu
để có thể dùng hai nguồn lực thiên nhiên là trọng lực hấp
dẫn của các hành tinh và sức cản của các bầu khí quyển
chung quanh các hành tinh, cùng với phản lực của các động
cơ nhân tạo để hướng dẫn các phi thuyền không gian từ trái
đất di chuyển tới tất cả các hành tinh trong Thái Dương Hệ,
trừ Diêm Vương Tinh ở quá xa, với phí tổn nhiên liệu tối
thiểu. Tôi cũng đã kết luận bài nói chuyện bằng một lời viết
tiên tri của triết gia người Pháp là Francois-Marie Arouet,
Trang 54 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
bút hiệu là Voltaire (1694-1778): “Notre voyageur
connaissait merveilleusement les lois de la gravitation et
toutes les forces attractives et repulsives. Il s’en servait si
à propos, que tantôt à l’aide d’un rayon de soleil, tantôt
par la commodite d’une comete, il allait de globe en globe,
lui et les siens, comme un oiseau voltige, de branche en
branche”. (Người du hành của chúng ta biết một cách
nhiệm mầu những luật hấp dẫn vạn vật, những sức hấp và
sức đẩy. Khách không gian đã khéo biết lợi dụng, lúc thì
nương một tia sáng mặt trời, lúc dựa theo đà một ngôi sao
chổi, cùng với quyến thuộc, khách đi từ tinh cầu nọ tới tinh
cầu kia, như một con chim bay truyên cành).
Lần đi này tôi đã phải mất nhiều thi giờ chuẩn bị
hơn là những lần tham dự những hội nghị chuyên ngành vì
phải trình bầy cho một số khán thính giả rộng lớn, nhiều
người không theo học ngành kỹ thuật. Hơn nữa tôi được
biết là sẽ có nhiều sinh viên Việt Nam đang theo học ở Đại
học Oklahoma đến nghe tôi nói nên tôi không muốn để cho
họ thất vọng khi thấy bài giảng không được cử toạ chăm
chú nghe. Cũng may là tôi có một số cựu sinh viên đang
làm việc tại các Trung Tâm của Cơ Quan Không Gian nên
tôi đã nhờ họ sưu tầm và làm giúp cho những đoạn phim
ngắn giải thích sự việc như trường hợp, muốn bay tới Hoả
Tinh, phi thuyền phải đi vòng qua Kim Tinh để nhờ sức
hấp của hành tinh này tăng thêm tốc độ trên chặng đường
đi. Cũng vì thế mà chuyến đi Oklahoma của tôi đã lưu lại
cho cộng đồng người Việt ở nơi đó những kỷ niệm tốt đẹp.
Trong suốt thời gian làm giáo sư đại học, mỗi lần
tôi được mời đi thuyết trình hay tham dự những hội nghị ở
những nơi có đông người Việt cư ngụ, tôi thường dành thì
giờ để qua những tổ chức cộng đồng mà có dịp tiếp súc với
các học sinh và sinh viên trẻ mà tôi nghĩ sẽ là những người
lãnh đạo một đất nước Việt Nam tươi sáng trong tương lai.
Riêng ở Oklahoma, tôi nhận thấy rằng người Việt ở tiểu
bang này đã gây được sự kính nể và quý mến của chính
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 55
quyền địa phương. Tuần lễ tôi đến thành phố Oklahoma
City, là thành phố lớn gần trung tâm Đại Học, cũng trùng
ngày giỗ tổ mồng Mười tháng Ba Âm lịch nên tôi được
cộng đồng người Việt mời tham dự như là diễn giả danh dự
đến từ phương xa. Tôi nghĩ là theo lời giới thiệu của người
đồng hương nên Quốc Hội Tiểu Bang, cả Thượng Viện lẫn
Hạ Viện đã cử dân biểu và thượng nghị sĩ đến dự lễ và trao
tặng tôi những bản tuyên dương và đón mừng, thật là
những vinh hạnh tôi không chờ đợi trong khi thi hành
nhiệm vụ của một nhà giáo.
Tôi thấy cần phải nói trong phần kết luận của bài
này về thành tích của những người trước tôi đã được mời
đến làm diễn giả danh dự trong chương trình Charles E
Foster, để hiểu rõ thêm về tiêu chuẩn chọn lựa của Đại học.
Nếu đọc trong giấy phổ biến của Đại học Oklahoma để mời
người đến tham dự có ghi tên của những diễn giả những
năm trước thì ta được thấy có những khoa học gia nổi tiếng
thế giới như tiến sĩ Paul B. MacCready, diễn giả thứ 2, là
Trang 56 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
người đã kiến tạo được chiếc phi cơ chỉ dùng sức ngưòi đạp
mà bay được qua eo bể Manche từ Pháp sang Anh quốc.
Ông được nổi tiếng khi chế tạo được chiếc phi cơ
“Gossamer Condor” chỉ dùng sức người đạp mà ngày 23
tháng 8 năm 1977 do tay đua xe tài tử Bryan Allen đã thực
hiện được đường bay theo hình số 8 và thành tích này đã
chiếm được giải thưởng Kremer trị giá 50 ngàn bảng Anh
được kỹ nghệ gia Henry Kremer đặt ra năm 1959. Chiếc
phi cơ nay được lưu trữ tại viện bảo tàng Smithsonian
National Air and Space Museum ở Hoa Thịnh Đốn. Sau
thành tích này, ông MacCready, cùng với hãng
AeroVironment, tiếp tục chế tạo được phi cơ dùng sức
người đạp “Gossamer Albatross”, bay qua bể Manche,
thực hiện ngày 12 tháng 6 năm 1979 và đoạt giải Kremer
lần thứ hai, lần này là 100 ngàn bảng Anh. Sau đó TS
MacCready kiến tạo phi cơ “Solar Challenger” dùng điện
lực tạo bởi ánh sáng mặt trời, cũng bay được qua bể
Manche và hiện nay ông cộng tác với cơ quan NASA trong
chương trình “Pathfinder/Helios” để chế tạo loại phi cơ
dùng năng lượng ánh sáng mặt trời bay trên thượng từng
không khí. Tìm hiểu trên trang Bách khoa Wikipedia thì có
những lời giới thiệu như sau:
“The aircraft was designed and built by a team led
by Paul B. MacCready, a noted US aeronautics engineer,
designer, and world soaring champion. Gossamer
Albatross was his second human-powered aircraft, the first
being the Gossamer Condor, which had won the first
Kremer prize on August 23, 1977 by completing a mile-
long figure-eight course. The second Kremer challenge was
then announced as a flight across the Channel recalling
Louis Blériot's crossing of 1909. The Albatross was
powered using pedals to drive a large two-bladed
propeller. On June 12, 1979, piloted by amateur cyclist
Bryan Allen, it completed the 35.8 km (22.2 mi) crossing in
2 hours and 49 minutes, achieving a top speed of 29 km/h
(18 mph) and an average altitude of 1.5 metres (5 ft”).
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 57
Gossamer Albatros
đặt tại Viện Bảo Tàng Hàng Không ở Seattle
Một diễn giả khác, người thứ 7, mà những sinh viên
tiến sĩ nào theo học ở Đại học California ở Berkeley cũng
phải biết là Giáo sư tiến sĩ khoa trưởng kỹ thuật George
Leitmann. Ông là nhà khoa học lừng danh về môn Động
Lực Học và Điều Khiển (Dynamics and Control). Năm
2005, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 80 của GS Leitmann,
một hội nghị quốc tế về môn này đã được tổ chức để vinh
danh ông tại Hội trường của Hãng Daimler/Chrysler gần
Stuttgart, Đức quốc và khoa học gia từ 15 quốc gia đã tới
trình bầy những bài khảo cứu quanh vấn đề ông lưu tâm tới
trong 55 năm qua.
Có một điều đặc biệt với khoa học gia George
Leitmann, nay cũng là Giáo Sư Danh Dự (Professor
Emeritus) của Đại học California, Berkeley, là cùng chuyến
Âu du này, ông được Bộ Quốc phòng Pháp mời đến nghỉ ở
Câu Lạc Bộ Quân Lực ở Paris để được tưởng thưởng Chiến
công Bội tinh với nhành dương liễu (Croix de Guerre avec
Palmes). Năm 2005 cũng là năm kỷ niệm 60 năm trận chiến
Colmar ở vùng Alsace Lorraine. Vào đầu tháng Hai năm
1945, Tiểu đoàn 286 Công binh Hoa Kỳ mà chàng trai trẻ
George Leitmann phục vụ, lúc đó biệt phái sang Đệ Nhất
Lộ Quân Pháp đã có công trong chiến thắng Colmar và anh
Trang 58 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
được thưởng huy chương này. Vào thời điểm đó, vì không
có săn huy chương nên anh chỉ nhận được một miếng băng
nhỏ. Sáu mươi năm sau, tại Câu Lạc Bộ Quân Lực ở Paris,
Đại tướng Louis-Alain Roche, đã đại diện cho Tổng
Trưởng Quốc Phòng Pháp để trao tặng chiến công bội tinh
với nhành dương liễu cho giáo sư George Leitmann.
Đại tướng Louis-Alain Roche với Giáo sư George Leitmann
Huntington Beach ngày 9/2/2014
GS Nguyễn Xuân Vinh
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 59
Thầy Xán
GS Lưu Trung Khảo, CVA54
Giáo Sư Vũ Ngô Xán
Năm 1951, tôi nhập học lớp đệ Tam trường trung
học Chu Văn An qua một kỳ thi tuyển. Năm đó trường có
ba lớp đệ tam: Khoa Học Toán, Khoa Học Thực Nghiệm và
Sinh Ngữ. Hai lớp Khoa Học sĩ số tương đối đầy đủ, nhưng
lớp Sinh Ngữ còn vắng hoe. Khách văn chương xưa nay
vốn vẫn hiếm. Nhà trường bèn ra thông cáo thi tuyển học
sinh các trường tư vào cho đủ số 50. Cùng với Dương Văn
Hoàn lúc đó đang học trường tư thục Hàn Thuyên, chúng
tôi hăng hái góp đơn dự thi và đi coi kết quả. Kết quả tốt:
Cả hai chúng tôi đều trúng tuyển. Thế là chúng tôi giã từ
ngôi trường hàng xóm của trường Trưng Vương để lên cửa
Bắc thành Hà Nội mà học trường Chu Văn An.
Trang 60 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Các lớp đệ nhị cấp của trường nằm trên lầu 3. Hiệu
trưởng năm đó là thày Vũ Ngô Xán, Giám học là thày Vũ
Đức Thận. Thày Thận thấp nhỏ, quanh năm suốt tháng mặc
một bộ đồ màu trắng. Trời nắng, trời mưa hay giông bão đi
nữa, thày bao giờ cũng đứng ở cầu thang lối lên xuống để
nhìn học sinh xếp hàng vào lớp hay ra về. Thày Xán
thường mặc bộ đồ màu xám và dùng xe đạp để di chuyển.
Sau này vào Nam, tôi vẫn thấy thày đạp chiếc xe cọc cạch
đó mà dẫn sinh viên trường Đại Học Sư Phạm đi thực tập.
Khác với thày Thận lúc nào cũng nghiêm trang, thày Xán
luôn luôn giữ một nụ cười hiền hòa, một giọng nói thẳng
thắn, cởi mở và chân thành. Nụ cười đó, giọng nói đó, thày
luôn luôn dùng để giao thiệp với cấp trên cũng như thuộc
cấp và sinh viên học sinh của thày. Không bao giờ thay đổi.
Năm đó, Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Văn Tâm đến
thăm trường. Dư luận đồng bào ngoài Bắc nói chung và Hà
Nội nói riêng không ưa con cọp xám Cai Lậy. Cựu hoàng
Bảo Đại trong cuốn hồi ký “Con rồng An Nam” cho rằng
cử Nguyễn Văn Tâm làm Thủ Hiến Bắc Việt là vì ông Tâm
có khả năng và vì ba kỳ đã thống nhất thật sự. Cử ông Tâm,
một người gốc miền Nam ra điều khiển cơ quan hành
chánh lớn nhất miền Bắc lúc bấy giờ, Cựu hoàng muốn tỏ
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 61
rằng chế độ Nam Kỳ tự trị đã hoàn toàn cáo chung. Cựu
hoàng có toàn quyền bổ nhiệm bất cứ người nào vào một
chức vụ nào ở bất cứ nơi nào trên lãnh thổ. Thế nhưng dư
luận vẫn không ưa ông Tâm. Người ta cho rằng ông Tâm
thân Pháp, rằng ông chỉ biết nói tiếng Pháp, rằng ông và cả
nhà ông đều có quốc tịch Pháp, rằng ông đã cai trị quá tàn
nhẫn khi ông làm chủ quận Cai Lậy, Mỹ Tho. Biết dư luận
không ưa mình, ông Tâm đi thăm viếng nhiều nơi để tiếp
xúc với dân chúng hầu gây cảm tình tốt. Ông khai mạc các
cuộc triển lãm tranh và thường mua vài bức cao giá để giúp
các họa sĩ. Họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh tức Thịnh Del, giáo
sư hội họa trường trung học Nguyễn Trãi, trong lần tổ chức
triển lãm tranh ở nhà Thủy tạ bên hồ Hoàn Kiếm đã dành
cho tranh chân dung của Nguyễn Văn Tâm một kích thước
quá lớn và trưng bày ở vị trí cao quý nhất. Bên dưới bức
tranh đó, họa sĩ còn ghi rõ bằng tiếng Việt: Ngài Thủ Hiến
Bắc Việt Nguyễn Văn Tâm và tiếng Pháp: Son Excellence
Nguyễn Văn Tâm Gouverneur du Nord Viet Nam. Một
giáo sư cùng dạy trường Nguyễn Trãi, sau khi đi xem một
vòng đã chỉ vào bức tranh chân dung Nguyễn Văn Tâm mà
nói với giáo sư Thịnh: “Trong số các bức tranh này của toa
là đạt nhất.”
Ông Tâm còn thường mời các cụ Tú, cụ Cử đến tư
dinh Thủ Hiến để nói chuyện và vịnh thơ văn. Ông làm thơ
luật ký tên là Chính Đạo để tỏ cho mọi người biết rằng ông
cũng sử dụng tiếng Việt rành rẽ chứ không phải chỉ biết
tiếng Pháp. Nhân đó mà xảy ra giai thoại bức đại tự lưu
hành trong dân gian.
Người ta kể rằng một ông Đồ một hôm đem tặng
ngài Thủ Hiến một bức hoành phi trên đó có khắc bốn chữ:
Đại điểm quần thần. Cụ Đồ giải thích: Ngài Thủ Hiến
người bầy tôi quan trọng của Đức Quốc trưởng cũng giống
như một điểm lớn trong đám quần thần của Cựu Hoàng, rất
xứng đáng để được xưng tụng như bốn chữ trong bức đại
tự. Nguyễn Văn Tâm khoái lắm, thưởng cụ Đồ một món
Trang 62 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
tiền và cho treo bức hoành phi lên. Ít lâu sau, có người mới
giải thích cho ông Tâm rõ tác giả bốn chữ kia muốn chửi xỏ
ngài Thủ hiến:
Đại điểm là chấm to, quần thần là bầy tôi. Nói lái lại
chó Tâm bồi Tây!
Giai thoại trên có nhiều phần là không thật nhưng
rất phổ biến. Người ta còn nói rằng ông bị Việt Minh chặt
cụt một ngón tay. Có người lại bảo ông tự chặt ngón tay đó
để thề sống còn với Việt Minh. Bàn tay thiếu ngón của ông
Tâm, tôi đã thấy trong dịp ông viếng trường Chu Văn An.
Trước giờ ông đến trường, bốn năm chiếc xe Jeep
chở công an võ trang cùng mình chia nhau đi trấn giữ
những địa điểm quan trọng xung quanh trường và bốn góc
sân. Học sinh chúng tôi được các thày giám thị bắt xếp
hàng cho ngay ngắn trật tự để đón rước. Vẫn bộ đồ âu phục
màu xám cố hữu, vẫn nụ cười hiền hòa và giọng nói rộn
ràng thẳng thắn, thày Xán đã bắt tay chào mừng ông Thủ
hiến Tâm. Khi bắt tay viên Thủ hiến, thày vẫn đứng thẳng
như một cây tùng, mắt nhìn thẳng vào vị thượng khách.
Dẫn vị thượng khách đi duyệt qua đám học sinh chúng tôi,
thái độ thày vẫn đĩnh đạc tự nhiên. Thày dùng tiếng Việt
trong khi vị thượng khách dùng tiếng Pháp. Lúc lên khuyên
nhủ học sinh chúng tôi thì may quá, ông Tâm nói tiếng
Việt. Bạn tôi, anh Đỗ Tiến Đạt thắc mắc:
“Lạ thật, giờ Pháp văn, thày nói tiếng Pháp và bắt
mình nói tiếng Pháp suốt giờ mà sao thày lại dùng tiếng
Việt để đàm thoại với ông Thủ hiến chỉ quen nói tiếng
Pháp?”
Mai Dũng cười:
“Thì cụ nói tiếng Việt để nhắc ông Thủ hiến rằng
mình là người Việt chứ đâu phải là người Pháp!”
Năm đệ tam đó, chúng tôi học môn Pháp văn với
thày Xán. Mọi người chúng tôi được nhà trường cho mượn
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 63
một lô sách Pháp văn khá đầy đủ. Chúng tôi chỉ phải mua
cuốn văn phạm của Crouzet bìa nâu và cuốn Littérature
expliquée của Des Granges bìa xanh. Chương trình học là
văn chương cổ và cổ điển Pháp không lấy gì làm hứng thú
lắm. Thày Xán dạy rất đúng phương pháp sư phạm và tận
tâm. Đầu mỗi giờ học, thày biên lên bảng công việc phải
làm trong giờ đó:
- Đọc bài nào, của ai, trang bao nhiêu.
- Học thuộc lòng đoạn nào của bài giảng.
- Sửa soạn bài nào cho tuần tới.
Và giao cho Trần Quang Liễn, người giữ sổ điểm
công việc gọi học sinh lên trả bài học thuộc lòng bằng tiếng
Pháp. Chúng tôi làm quen với Corneille, Racine, Ronsard
… qua thày Xán. Khác với các giáo sư khác, số điểm cho
học sinh thường rất thưa thớt, điểm Pháp văn của thày Xán
bao giờ cũng đầy đủ nhất. Một tháng chúng tôi có tới bốn,
năm điểm Pháp văn về học thuộc lòng, về giảng văn, về
chính tả, về luận văn và dịch văn. Các giáo sư dạy bậc
trung học nhất là trung học đệ nhị cấp thường rất “lười”
cho điểm vì công việc này chiếm mất khá nhiều thì giờ.
Thày Xán không như vậy, có lẽ vì thày, trước khi theo học
trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, đã tốt nghiệp Sư
phạm bậc Tiểu học và đã dạy Tiểu học ở tỉnh Thái Bình
một thời gian.
Cuối mỗi tháng, điểm bài học và bài làm được ghi
vào Thông tín bạ và được đưa về cho phụ huynh kiểm
nhận. Thày Xán với tư cách Hiệu trưởng đã phê bình và
kiểm ký từng cuốn trước khi giao cho học sinh. Thày làm
công việc này rất đều đặn và kỹ lưỡng từ tháng này qua
tháng khác, từ năm này qua năm khác và từ Bắc vào Nam.
“Khá”, “Vẫn khá”, “Trung bình”, “Cần cố gắng về
Toán”, “Còn kém, phải cố gắng hơn...” Biết bao những lời
phê như vậy đã được thày ban phát cho học sinh không
ngừng nghỉ, không biết mệt trong những năm thày làm hiệu
Trang 64 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
trưởng trường Chu Văn An ở Hà Nội và Sài Gòn.
Suốt ba năm học ở trường Chu Văn An Hà Nội, tôi
đều “bị” anh em giao cho công việc viết và đọc chúc từ
ngày cuối năm. Thày Xán không bao giờ vắng mặt trong
những dịp này ở bất cứ một lớp nào. Mà tiệc liên hoan tất
niên của học sinh thì nào có gì là cao lương mỹ vị đâu: Một
ít bánh kẹo, mứt, hạt dưa, nước ngọt, một vài câu đối, bức
tranh vẽ vội trên bảng do một họa sĩ học sinh có hoa tay,
đôi khi một vài tờ bích báo nữa. Nhưng với thế giới học
đường, đó là đại yến, đó là cái đạo không thể thiếu được
của trò đối với thầy. Thầy trò hể hả uống nước ngọt, ăn
bánh, kẹo, cắn hạt dưa. Thầy Xán ngồi chính giữa một cái
bàn dài kê đối diện với đám học sinh chúng tôi, quây quần
xung quanh bởi các vị giáo sư khả kính khác. Sau khi đọc
bài chúc từ, tôi tiến lên trao bài cho thầy. Thầy đứng lên
nhận bài chúc từ, bắt tay tôi và ứng khẩu nói về việc học
của lớp trong năm qua, khuyên nhủ chúng tôi và không bao
giờ quên chúc chúng tôi và gia đình chúng tôi được mọi sự
tốt lành trong năm tới. Những nhận xét của thày rất đúng
đắn và chính xác chứng tỏ thầy có quan tâm và theo dõi rất
kỹ.
Tốt nghiệp cao đẳng sư phạm xong, tôi may mắn
được bổ nhiệm dạy tại trường Chu Văn An. Lúc này, thày
Xán đã được bổ nhiệm làm Thanh Tra Trung Học. Thày
phụ trách soạn đề thi cho bậc Trung Học Đệ Nhất cấp, Tú
Tài I và Tú Tài II. Tôi nhớ một năm đề thi Pháp văn cho
bằng Trung Học Đệ Nhất cấp bị dư luận than phiền là quá
khó vì trích trong tập Informations et documents ra. Tôi có
dịp lên nha Trung Học và thày có hỏi tôi về việc đó. Tôi
thẳng thắn thưa là đề có khó thật vì trình độ Pháp văn của
học sinh bây giờ khác hẳn với thời trước. Thày suy nghĩ và
năm sau, tôi thấy năm sau đề thi Pháp văn có dễ hẳn đi.
Vào tháng chín năm 1959, tôi nhận được sự vụ lệnh
cử làm thư ký hội đồng giám khảo kỳ thi Tú tài ở Huế.
Thầy Xán làm Chánh chủ khảo cùng với cụ Đỗ Văn Trần,
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 65
Hiệu Trưởng trường Mạc Đĩnh Chi (Phó Chủ Khảo), giáo
sư Nguyễn Văn Kỷ Cương (Phó Chủ Khảo), Giáo sư Phan
Huy Đương (Thư ký), giáo sư Nguyễn Đình Quỹ (Thư ký),
giáo sư Đỗ Minh Tiết (Giám khảo). Ban chỉ huy hội đồng
thi và các giám khảo từ Sài Gòn ra ăn ở ngay trong trường
Quốc Học ngoại trừ anh Đỗ Minh Tiết và anh Nguyễn Văn
Kỷ Cương. Anh Đỗ Minh Tiết lúc này sắp lập gia đình với
chị Nguyễn Thị Tiết, Hiệu trưởng trường Đồng Khánh nên
ăn ở bên ngoài cho tiện, còn anh Nguyễn Văn Kỷ Cương ra
Huế chấm thi để nhân dịp thăm quê ngoại nên cũng không
ở trong trường. Suốt trong ba tuần lễ này, tôi có dịp gần gũi
thày Xán hơn. Chúng tôi từ cụ Đỗ Văn Trần trở xuống sau
giờ làm việc của Hội đồng là ra phố thăm nơi này, nơi khác
dưới sự hướng dẫn của giáo sư Đinh Quy cũng là một thành
viên của hội đồng giám khảo, là người rất bặt thiệp, có đức
độ khoan hòa, từ ái, đã để lại trong tâm tưởng tôi rất nhiều
cảm tình và sự kính trọng, nay đã ra người thiên cổ. Lăng
Tự Đức, lăng Khải Định, chùa Thiên Mụ, núi Ngự, sông
Hương, cửa biển Thuận An, bãi biển Tiên Sa Đà Năng ...
làm sao quên được. Thày Xán họa hoằn lắm mới đi chung
với anh em. Những lúc anh em đi ra ngoài, thày nằm nhà
đọc sách. Một bữa tôi tò mò để ý nhìm xem thày đọc sách
gì thì thấy đó là cuốn Tam Quốc Chí diễn nghĩa loại rẻ tiền
in ở Chợ Lớn. Tôi ngạc nhiên, tưởng thày dạy Pháp văn thì
chuyên đọc sách Pháp văn chứ có ngờ đâu là thày lại thông
thạo cả chữ Hán nữa.
Sau ngày về hưu, thày Xán chịu không nổi cuộc
sống hưu trí buồn lạnh và tẻ nhạt, thày đứng làm hiệu
trưởng cho một trường trung học tư thục: Trung học tư thục
Trí Đức ở đường Cao Thắng, Sài Gòn. Lại đứng trên bục
giảng với bảng đen, phấn trắng, học trò. Lại phê bình hàng
tháng trên Thông tín bạ của học sinh. Lại quây quần với
bạn bè đồng nghiệp, đồng sự cũ: Thầy Nguyễn Đình Phú,
ông Tổng Giám Thị Nguyễn Hữu Lãng. Tuy rất bận rộn
vào thời gian đó, tôi cũng có dành mấy tiếng đồng hồ để
phụ trách một lớp Việt văn cho trường Trí Đức hầu “có dịp
Trang 66 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
để anh em thỉnh thoảng gặp gỡ nhau,” ông Tổng Lãng nói
với tôi như vậy. Sau này, thày Xán còn hướng dẫn anh em
sinh viên trường Đại Học Sư Phạm đến các trường Trung
học ở đô thành để thực tập nữa. Các anh Nguyễn Trung
Quân, Nguyễn Thành Long, Phạm Quân Hồng mỗi khi nói
đến thày Xán đều ca ngợi đức tính giản dị, tận tâm của
thày.
Qua năm 1982, tôi được tin thày ở miền Đông Hoa
Kỳ. Lúc này thày đã già lắm rồi. Tôi tự hứa biết bao lần là
phải biên thư vấn an thày, nhưng cuộc sống như ma đuổi
nơi quê người đã làm tôi không giữ trọn lời hứa với chính
mình. Đến khi nhận được điện thoại của các anh Trần Huy
Bích, Long Ân báo tin thày không còn nữa, tôi bàng hoàng
ngơ ngẩn. Đành rằng cuộc sống của con người là có hạn,
nhưng có những việc mình dự trù sẽ xảy ra đến khi thực sự
xảy ra rồi, mình vẫn không tin là thật. Buổi lễ cầu hồn thày
Xán ở trong quận Cam trong dịp lễ Tạ Ơn 1984, đã được
rất đông người đến tham dự, chắc không phải chỉ để kỷ
công một bực thầy đáng kính. Tôi nghĩ thày Xán có nhiều
điểm vượt lên trên mức đó: Thày đã nối tiếp dòng mô phạm
của Chu Văn An triều Trần, của Nguyễn Bỉnh Khiêm đời
Mạc, của La Sơn Phu Tử đời Tây Sơn. Thày đã theo gương
của nhà mô phạm nước Lỗ “dạy người không biết mỏi” và
không bao giờ từ chối bất cứ việc làm nào trong sứ mạng
trồng người.
GS Lưu Trung Khảo, CVA54
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 67
Thầy Việt
của con
Lê Văn Tỉnh, CVA 65
(Hình trước 1954)
Hôm nay đọc được email của anh Dzũng tự nhiên
con nhớ đến Thầy mà muốn khóc. Ngày tân niên của Hội
Ái hữu cựu Học sinh Chu Văn An Bắc California tại
Milpitas, anh Dzũng có hỏi con : “Tại sao có người gọi anh
là Tịnh mà cũng có người gọi anh là Tỉnh, vậy tên thật của
anh là Tịnh hay là Tỉnh”. Con có thưa với anh : Tên thật
của con là Lê văn Tịnh, một đứa học trò nghịch ngợm,
Trang 68 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
nhưng chưa bao giờ hỗn với thầy cô, đã bị đuổi khỏi trường
từ năm đệ Ngũ. Sau đó con theo học trường Thăng Long
gần ngã tư quốc tế Sài Gòn. Tại đây tính hư hỏng vẫn còn,
con đã trở thành một tên du đãng chỉ huy trên 30 người.
Nhờ đọc được cuốn Binh pháp Tôn Tử của anh con mang
ra áp dụng và đã trấn áp được các băng du đãng tại nơi này,
có lẽ trong đó có cả Năm Cam. Tuy là du đãng nhưng con
vẫn chăm chỉ học vì khi bị đuổi khỏi trường công Bố con
đã không đánh mà chỉ thở dài. Đậu Trung học hàng bình
con xin lại và được nhận vào Chu Văn An. Bố con sợ con
không được nhận vì trước đó đã bị đuổi nên đã sửa tên
thành Lê Văn Tỉnh do vậy những người bạn cũ gọi con là
Tịnh còn những người bạn mới thì gọi con là Tỉnh.
Là một học sinh ngỗ nghịch, một hôm con đá banh
và đã làm vỡ một cái cửa kính của trường. Xui mà là hên vì
hôm đó Thầy đứng gần đó. Thầy vẫy con lại. Thầy ơi, con
điếng hồn đã bị đuổi một lần, lần này bị đuổi nữa thì không
biết con sẽ phải ăn nói thế nào với Bố con, bạn bè con và
rồi tương lai của con sẽ đi về đâu. Con sợ quá Thầy ạ.
Nhưng khi con lại gần, Thầy chỉ chỉ vào kính vỡ và nói với
con “Con ơi, con muốn chơi banh thì hãy ra xa mà chơi.
Con thấy không? kính vỡ rồi, trường lại phải bỏ tiên ra
sửa”, thế rồi Thầy bỏ đi. Nhưng Thầy ơi, hôm ấy tự nhiên
con hiểu thế nào là giáo dục, thế nào là tình yêu của Thầy
cho trò. Con đã trở nên một học sinh biết kính thầy, yêu
bạn, yêu trường và nhờ Thầy còn đã nên người.
Sau này có khoảng thời gian đi dạy học, con theo
gương Thầy, luôn luôn yêu quý, rộng lượng nâng đỡ học
trò. Có lẽ câu nói nhẹ nhàng của Thầy đã làm thay đổi đời
con, thay đổi đời các học trò của con và biết đâu đã thay
đổi đời của những người bạn đáng quý của con.
Thưa Thầy, năm ngoái nhân họp thường niên của
Hội Ái hữu cựu Học sinh Chu Văn An các bạn đề cử con ra
làm hội trưởng vì anh San đã phục vụ hội trên 20 năm, nay
đã già yếu, anh Lâm rất bận tổ chức những chương trình về
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 69
văn hóa Việt Nam trên đài truyền hình để phục vụ đại
chúng nên mọi người có đề cử con ra làm hội trưởng để tổ
chức Hội ngộ Chu Văn An Toàn cầu 2017. Con ngại quá vì
chung quanh con toàn là những người tài đức, đã để lại biết
bao công trình cho đất nước mà con thì trẻ tuổi hơn và lại
chỉ là người thợ sửa ống nước làm sao con gánh vác được.
Nhưng nghĩ tới Thầy, tới trường, tới các bạn, hơn nữa con
đã về hưu, mỗi ngày chỉ làm việc 3 hay 4 tiếng nên con đã
nhận lời. Sau khi tiếp xúc với những đồng môn mà con
tưởng con không đáng là học trò của họ thì lại chính là
những người đã truyền kinh nghiệm và khuyến khích con
làm con cảm động vô cùng, bây giờ con lại hiểu thêm thế
nào là tình đồng môn. Con sẽ rán tổ chức kỳ hội ngộ này để
xứng đáng là học trò của Thầy và lòng tin tưởng của các
bạn.
Các đồng môn niên trưởng, các bạn, các em, hãy tới
tham dự, phải tới gặp nhau để gặp lại những người bạn năm
xưa, để rồi biết đâu chẳng bao giờ gặp lại nữa, hãy tới để
mày mày tao tao, để ôn lại những kỷ niệm cũ, biết đâu
Thầy ở trên trời nhìn xuống thấy là học trò của mình thân
thiết Thầy cười và tự nhủ chúng xứng đáng là học trò của
mình. Con là dân kỹ thuật nên không biết kết luận bài này
như thế nào chỉ vì cảm xúc mà viết, xin tất cả mọi người,
mọi đồng môn thương mà châm chước cho.
Lê Văn Tỉnh, CVA65
Trang 70 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
THẦY
VŨ KHẮC KHOAN,
Cựu Học Sinh Bưởi,
Chiến Sĩ Cách Mạng Duy Dân
Trần Lam Giang, CVA59
Đảng cách mạng Đại Việt Duy Dân, trong giai đoạn
lịch sử cận đại, đã đóng góp cho dân tộc Việt một công
trinh to tát bằng máu xương và tim óc.
Trong hiện tại và tương lai, lý tưởng đảng được
thực hiện phần nào, trách nhiệm đặt trên vai những đảng
viên ý thức, tin yêu triết lý đạo đức chính trị Duy Dân.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 71
Người viết bài biên khảo này, không phải là đảng
viên Duy Dân đảng, chỉ mong đóng góp chút ít dữ kiện lịch
sử đang bị nhạt mờ dần, như đang chìm vào huyền thoại.
Một đảng cách mạng vì nước vì dân bị huyền thoại huyễn
hoặc che phủ khuất lấp, là một điều đau xót.
Nhân thân Thư Ký Trưởng, đảng Đại Việt Duy Dân.
Cho đến nay, chưa có một tài liệu in ấn, nói đầy đủ
và minh bạch về nhân thân ông. Bên những lời kể lại đơn
sơ thiếu sót, là những huyền thoại không thoả mãn óc cầu
tri, nếu không muốn nói là khiêu khích trí phán đoán!
Được biết thầy cũ tôi, giáo sư Vũ Khắc Khoan là
đảng viên nồng cốt của Duy Dân, bạn thiết của ông là lý
thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng, người có liên hệ gắn bó với
Thư Ký Trưởng Lý Đông A, tôi đã trực tiếp hỏi hai vị về
nhân thân ông.
Khi tôi hỏi :
- Vì cơ duyên nào thầy gia nhập Duy Dân, thưa
thầy ?
Thầy tôi trả lời như căn vặn :
- Cơ duyên ? Cơ duyên vong quốc !
Rồi ông cười ngậm miệng :
- Quen thói dạy sử ! Buổi ấy… À không, buổi nào
thì hồn sử cũng sống trong lòng người. Phải không ?
- Dạ.
- Trong thời vong quốc, tôi tự biết không phải là
người có thể lập một đảng cách mạng, chỉ có thể dấn thân
theo một đảng cách mạng. Do bằng hữu, tôi được biết Duy
Dân. Tên đảng mới lạ, nhưng hai tiếng Duy Dân kích thích
tôi lắm. Bằng hữu dẫn tôi đến dự một buổi nói chuyện của
ông Lý ở Hà Nam. Mọi người ngồi chờ, một lúc khá lâu thì
Trang 72 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
thấy một thiếu niên khoảng 15, 16 tuổi, mặt trái xoan, da
trắng xanh, vẻ hiền lành ngoan ngoãn, mặc áo dài trắng
thong thả đi vào. Tôi ngạc nhiên vì thấy mọi người tỏ vẻ
kính cẩn nghiêm trang. Người thiếu niên ấy đi thẳng đến
bàn chủ toạ, chào hỏi với tư cách đảng trưởng, rồi giảng
thuyết. Thực ra lúc đó ông đã ngoài 20. Tôi nghe giọng ông
nói ấm cúng như giọng thân phụ tôi, vừa gần gũi, vừa che
chở. Lời ông giảng, như vị thầy soi sáng tâm thức tôi. Ngay
từ buổi ấy tôi theo ông.
Tác giả Thành Cát Tư Hãn trầm ngâm nhả khói
thuốc, nói tiếp :
- Có lần trên thuyền vượt sông Đà, tôi đã ngâm bài
Chính Khí Việt (thơ Lý Đông A) cho ông và một số anh em
tôi nghe. Thơ ông gieo vần khúc mắc nhưng cảm động …
Anh em tôi trên con thuyền ấy, nay đã nên người thiên cổ !
Tôi châm thuốc, đợi nét buồn của vị thầy cũ qua đi,
hỏi tiếp :
- Con muốn được biết thêm chi tiết về nhân thân
ông Lý.
Thầy tôi trố mắt :
- Cái anh này ! Tôi coi ông ấy như bố, như thầy !
Tôi theo ông ấy. Nói như vậy, chưa đầy đủ về ông ấy hay
sao ?
Rồi thầy tôi cười :
- Giang muốn biết về lý lịch tiểu sử ông Lý phải
không ? Ông sư Tịnh Liên biết tõ hơn tôi. Cứ “phỏng vấn”
ông ấy. (Giáo sư Vũ Khắc Khoan thường thân mật gọi lý
thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng là “ông sư Tịnh Liên”, lý
thuyết gia gọi giáo sư là “Khoan tôi”.)
- Dạ, chắc cụ Hồng gia nhập Duy Dân cùng với
thầy ?
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 73
Lý thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng vui vẻ đỡ lời :
- Không ! Tôi không bao giờ là đảng viên Duy Dân.
Tôi với Lý Đông A tức Nguyễn Hữu Thanh là bạn thân từ
tuổi ấu thơ. Chúng tôi học cùng lớp, ngồi cùng bàn suốt 6
năm bậc tiểu học. Lớn lên, bạn tôi lập đảng, tôi đến giúp
bạn, chứ không phải đảng viên của “luý” như các ông này
(lý thuyết gia vừa nói vừa chỉ vào giáo sư Vũ.)
“Luý” cực thông minh. Đời này tôi chưa gặp được
ai thông minh như “luý”. Thuở bé học với nhau, tôi ra sức
chăm chỉ vẫn không bao giờ theo kịp, trong khi “luý” chỉ
chăm đọc sách của người lớn mà luôn luôn đứng đầu lớp.
Con người này lạ lùng ! Học giỏi như vậy mà chỉ học xong
bậc tiểu học là thôi, không cắp sách đến trường nữa. Bỏ
làng lên Hà Nội. Mới tí tuồi đầu đã giao tiếp với sinh viên
cao đẳng, nhờ mượn sách thư viện về đọc. Đọc thông cả
các tài liệu của trường Viễn Đông Bác Cổ. Có dạo còn lên
chùa Yên Tử đọc sách, tu thiền mấy năm, rồi qua Liễu
Châu bên Tàu, tuyên thệ vào Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Khi qua Liễu Châu, giấy tờ tuỳ thân của “luý” chỉ có bức
hình cụ Phan Bội Châu, sau hình có bút tự của cụ, viết 4
chữ “Cứu Quốc Tồn Chủng.” Nhận ra bút tự cụ Phan, cụ
Nguyễn Hải Thần rất tin yêu “luý”, nhận làm nghĩa tử, trao
cho tất cả những gì cụ Phan viết về triết lý đạo đức chính trị
khi còn ở bên Tàu. “Luý” thường đêm đêm lên tháp chùa ở
Liễu Châu chong đèn đọc sách cụ Phan, nên được đặt hỗn
danh là ông Ngọc Thỏ. Khi ông Trần Trung Lập tiến quân
về đánh Lạng Sơn, “luý” cũng cùng về, bí danh là Hoàng
Lương. Nhật tráo trở, ông Trần Trung Lập thất trận, bị
Pháp hành quyết. Hoàng Lương tức Nguyễn Hữu Thanh Lý
Đông A dẫn các đồng chí sống sót rút qua Tàu. Khi cụ
Nguyễn Hải Thần dẫn quân về nước, “luý” đã là Thư Ký
Trưởng, tức đảng trưởng đảng Duy Dân, vẫn gánh vác
trách nhiệm và bổn phận của một trong 20 uỷ viên trung
ương Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông Nhượng Tống là uỷ
Trang 74 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
viên bí thư. Xem thế, Việt Quốc, Việt Cách, Duy Dân, tuy
danh xưng có khác nhưng tựu trung vẫn là một.
Trong khi lý thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng nói, tôi
lắng nghe và ghi chép. Ông ngừng lại uống nước trà. Tôi
chờ đợi. Ông hiều ý, mỉm cười :
- Quên chưa nói với anh về lý lịch Lý Đông A
Nguyễn Hữu Thanh. “Luý” người xã Yên Tập, tổng Yên
Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, sinh năm 1920, ngày
tháng tôi không nhớ, con trai cụ Nguyễn Chi Phương. Cụ
có hiệu là Phượng Tường. Như vậy cũng tạm đủ rồi. Còn
về Việt Quốc, Việt Cách, Việt Minh, tài liệu chắc anh cũng
đầy đủ. Mà không đầy đủ thì tìm kiếm lấy nhé ! Thiếu gì,
phải không ?
- Dạ.
Ông nheo mắt :
- Anh định viết về các đảng phái cách mạng chắc ?
Sao ghi chép cẩn thận vậy ?
- Dạ, bây giờ thì cháu chưa có ý định ấy. Mai này
thì chưa biết.
Trên đây là tài liệu sống, có giá trị xác thực về nhân
thân lãnh tụ Lý Đông A.
Viết đến đây, tôi có liên lạc với giáo sư Đinh Khang
Hoạt qua điện thoại để bổ túc. Giáo sư Đinh Khang Hoạt,
trước 1975 dạy ban Cao Đẳng Sư Phạm Nông Lâm Súc,
sau 1975 dạy ở Đại Học Cộng Đồng Portland. Ông là nhà
biên khảo, chiến sĩ cách mạng, đảng viên trung kiên của
Đại Việt Duy Dân. Giáo sư Hoạt cho biết lãnh tụ Lý Đông
A đã cùng 5 đồng chí dựng đảng : Tư Long Nguyễn Duy
Mỹ, Thái Kim, Việt Bằng, Hoài Nam, Đỗ Khuê. Cả 5 vị đã
hoà xương máu vào đất mẹ. Khi mới lập đảng, lãnh tụ Lý
Đông A có bí danh là Thuần.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 75
Sự vắng mặt của Lý Đông A và vụ giết hụt Nghiêm
Xuân Hồng.
Hiệp Định Sơ Bộ Pháp Việt, ngày 6 tháng 3 năm
1946 được ký thuận với các thành phần sau :
- Đại diện cho chính phủ Cộng Hoà Pháp là
Sainteny.
- Đại diện cho chính phủ Việt Nam là Hồ CHí
Minh.
- Đại diện đặc biệt của hội đồng bộ trưởng Việt
Nam là Vũ Hồng Khanh.
Kèm theo là Hiệp Uớc Phụ Thuộc của Hiệp Định
Sơ Bộ Pháp Việt, được ký giữa Sainteny, Salan, Võ
Nguyên Giáp ngày 6 tháng 3 năm 1946.
Trong phạm vi bài viết tôi không phân tích kỹ càng
chi tiết nội dung của Hiệp Định và Hiệp Ước Phụ Thuộc
trên. Đại để, đó chỉ là một thứ giao kèo giữa thực dân Pháp
và cộng sản Việt Nam. Cụ Nguyễn Hải Thần tố giác cùng
quốc dân là Việt Minh phản quốc, đón thực dân Pháp trở lại
nước ta. Nhưng không ngăn chặn được thế lực liên kết giữa
bạo lực xâm lược của Pháp và Việt Minh, cụ rút quân qua
Tàu. Chưa đầy một tuần lễ sau khi ký Hiệp Định Sơ Bộ,
ông Vũ Hồng Khanh kín đáo thu chiến sĩ Việt Nam Quốc
Dân Đảng, rút lên chiến khu Việt Trì, vừa đánh vừa lui qua
Tàu. Ông đã bảo toàn được rất đông đồng chí của ông.
Sau Hiệp Định Sơ Bộ và Hiệp Ước Phụ Thuộc, Việt
Minh cấu kết với bạo lực xâm lược của thực dân, dồn các
đảng phái cách mạng Việt Nam vào thế yếu. Lợi dụng thời
cơ, cộng sản Việt Nam dưới hình thức Việt Minh đã sát hại
nhiều nhà ái quốc chân chính như Lê Ninh, Huỳnh Phú Sổ,
Phạm Tất Thắng, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Tạ Thu
Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Công Đàm,
Nguyễn Tắc Chung, Nguyễn Quỳnh v..v… Lãnh tụ Lý
Trang 76 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Đông A rút lực lượng Duy Dân vào chiến khu Nga Mi ở
Thanh Hoá.
Ngày 2 tháng 9 năm 1946, Việt Minh được thực dân
Pháp tiếp tế vũ khí, vây đánh tan vỡ chiến khu Nga Mi.
Tại nhà chị Gấm, ái nữ của thầy Khoan tôi, ở San
Jose, lý thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng có kể cho tôi nghe
như sau :
- Nga Mi tan vỡ ! Cánh các ông này (giáo sư Vũ
Khắc Khoan) biết tôi thân thiết với ông Lý từ thuở ấu thơ
lại gần gũi khi khôn lớn, nhờ tôi đến nhận xét một xác, xem
có phải là Thư Ký Trưởng của các ông không ? Tôi xem
xét kỹ, đúng là xác anh Nguyễn Hữu Thanh, bạn tôi. Tôi
lầm thế nào được ! Các ông ấy hốt hoảng thu nhặt tài liệu
đem dấu hết vào nhà ông Mai Liệu (hiện ở San Jose). Dĩ
nhiên mất mát khá nhiều. Ba tháng sau, một chiều tôi đang
ngồi xe tay ở Ngọc Hà, cánh các ông này (giáo sư Vũ Khắc
Khoan) dùng súng sáu bắn tôi. Các ông bắn tệ quá! Tôi
nhảy xuống xe chạy thoát. Sau mới vỡ lẽ : mấy ông ấy định
giết tôi vì tội Lý Đông A còn sống mà tôi xác nhận là đã
chết !
Tôi hỏi lý thuyết gia :
- Thưa ý cụ thế nào ?
Ông thành khẩn đáp :
- Còn thế nào được nữa ! Ôm xác bạn trong tay, sao
tôi lại có thể lầm ?
Tôi nhìn giáo sư Vũ. Thầy tôi gật đầu :
- Ông sư Tịnh Liên không thể lầm !
Nơi chiến khu Nga Mi ông có làm bài thơ Đồi Nga
Mi như sau :
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 77
Đồi Nga Mi
Đồi Nga Mi, mối hận chĩu bê bê.
Đồi Nga Mi, tin ngục bỗng Đông vê.
Đồi Nga Mi, vàng thau đã thử thách.
Đồi Nga Mi, làm trọn Duy Dân thê.
Hỡi tráng sĩ Duy Dân đầy khổ ải,
Hãy trau giồi thể hiện những đau thương.
Đông thê thê tuốt gươm mài khẳng khái,
Hận du du đúc ngọc trí phong sương.
Lịch sử Việt đã đến giờ quyết liệt.
Hãy kín trong trì định đáy muôn xưa :
Những năng tử thấm tàng muôn cảnh tiết,
Để đợi giờ tối hậu đột giông mưa.
Đồi Nga Mi, sẽ trút hận bê bê.
Đồi Nga Mi, tin ngục sẽ Xuân vê.
Đồi Nga Mi, vàng thau còn thử thách.
Đồi Nga Mi, làm trọn Duy Dân thế.
Đọc bài thơ trên, tôi cảm như đang nghe lời giáo sư
Vũ Khắc Khoan : “Ông sư Tịnh Liên không thể lầm!”
Tháng 2 năm 1948, đảng cách mạng Duy Dân quyết
chiến cùng bọn quốc tặc Việt Minh ở Hòa Bình. Sau trận
này Duy Dân đảng chỉ còn đóng góp với lịch sử bằng văn
hóa và triết lý chính trị nhân bản. Cũng từ sau trận này,
nhiều huyền thoại về lãnh tụ Lý Đông A được đưa ra bằng
truyền khẩu, không viết thành văn. Tại sao không viết
thành văn ? Lý do đơn giản : những huyền thoại ấy đều
hoang đường nghịch lý !!
Những pho tư tưởng Duy Dân.
Toàn pho tư tưởng Duy Dân, do một mình Thư Ký
Trưởng Lý Đông A vắt tim óc viết thành, chia làm 4 bộ :
Bộ Huấn
Trang 78 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Bộ Nhã
Bộ Thông
Bộ Mô
Sau trận Nga Mi do Thư Ký Trưởng trực tiếp chỉ
huy và hiến dâng thân thế cho tổ quốc, cả 4 bộ đều không
còn trọn vẹn.
Trước quốc nạn 1975, nhà xuất bản Gió Đáy, 252
đường Nguyễn Tiểu La, Chợ Lớn, do ông Hoàng Lãng
Tiến làm giám đốc có in các tập : Huyết Hoa, Chu Tri Lục,
Duy Nhân Cương Thường, Thiết Giáo (Duy Nhân Cương
Thường tập hạ), Đạo Trường Ngâm, Tuyên Ngôn, Kiến
Quốc Nghiệp Vụ, Chìa Khóa Thắng Nghĩa, Duy Dân Tinh
Chỉ.
Tập Cơ Năng Hiến Pháp có được ấn hành hạn chế.
Tập Tổ Đảng không in : sách này viết về cách tổ chức
đảng, đối nội, đối ngoại, phòng gian bảo mật. Do đó được
giữ bí mật, chỉ lưu hành kín đáo nơi cán bộ chỉ huy cấp cao.
Tư tưởng Lý Đông A mênh mang uyên áo, lấy
người làm nền tảng, lấy hạnh phúc đích thực của nhân sinh
làm cứu cánh, lấy tổ quốc làm căn nhà chung của dân tộc.
Để bảo vệ tổ quốc, để giữ cho nòi giống được sống còn
(cứu quốc tồn chủng – Phan Bội Châu) Lý Đông A đã viết
về mọi lãnh vực : lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị, ngoại
giao, binh bị, chiến lược, chiến thuật, đạo đức, triết học…
đồng thời, là nghệ sĩ đa tài, tâm hồn cao đẹp, ông làm thơ,
viết văn. Đọc tác phẩm của ông thấy ẩn hiện tư tưởng cụ
Phan Bội Châu, tinh thần ông Nguyễn Thái Học. Trong pho
Chu Tri Lục (thuộc bộ Huấn), ông đã viết : “Phan Sào Nam
là chốt khóa nối liền lịch sử từ 1865 tới 1940 của nước
Việt, mà địa vị danh dự làm tối cao lãnh tụ của cách mạng
Việt rất xứng đáng.”
Nơi Đạo Trường Ngâm, tập thơ thuộc về bộ Thông,
ông cảm khái, cung kính nhắc đến việc làm của ông
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 79
Nguyễn Thái Học, gắn liền với cụ Phan Bội Châu :
“Thẹn đất nước dưới gót giày uế xú
Người Lâm Thao, Bến Ngự luống tâm cơ”
và
“Phan Sào Nam khi viết pho Vong Quốc
Còn là hồn Đại Việt đến vô cương”
Khi dựng Việt Nam Quốc Dân Đảng, anh hùng
Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí quyết sát máu với kẻ
thù của dân tộc, xác định minh bạch với nhau rằng : “Cờ
độc lập phải nhuộm bằng máu, hoa tự do phải nở bằng
máu”
Anh hùng Lý Đông A khi viết tập Huyết Hoa, thuộc
bộ Nhã, cũng cùng một ý, cùng một chí. Với bài Thi Nhiệt,
ông nói minh bạch cõi lòng quyết theo đường cách mạng
sắt máu với kẻ thù của người đi trước.
Thi Nhiệt
Ta đã vê đứng bên bờ Pắc Nậm
Mặc heo may quấn quít hồn cố hương
Thấm hàng cây lấp ló mấy khung tường
Hòa làn khói mơ màng bao nhớ ước.
Cách dòng nước ta là người mất nước.
Nước non ta, ai ngăn trở ta vê ?
Thấy người quê, không được tỏ tình quê !
Rõ trước mặt, mà tìm đâu cho thấy ?
Hảy hét lớn, hai bàn tay nắm lấy.
Hãy khua tan quân địch của Rồng Tiên.
Hãy làm cho giống Việt được đoàn viên,
Quê nước ở trong đáy dòng sống máu !
Quê nước ở trong đáy dòng sống máu !
Trần Lam Giang, CVA59
Trang 80 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Thi sĩ
Vũ Hoàng Chương
Sài Gòn rong chơi ký
Đoàn Thạch Hãn
LTS: Thi sĩ Vũ Hoàng Chương là giáo sư Việt Văn trường
trung học Chu Văn An và một số trường tư tại Saigon. Sau
30/4/75 sở dĩ ông bị Việt Cộng bắt vì ông là người có khí
phách, không những không a dua theo thời cuộc, trái lại
ông còn công khai chê thơ Tố Hữu là không thực, là gian
dối khi ông đọc mấy câu thơ của Tố Hữu như:
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 81
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười“[1]
hoặc:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin “[2].
Trên phương diện học thuật, không ai có thể phủ
nhận Vũ Hoàng Chương là một trong những cây đại thụ
của thi ca Việt Nam cận đại. Theo nhận định của nhiều nhà
phê bình văn học thuộc nhiều thế hệ, so với các nhà thơ
đồng thời, thơ Vũ Hoàng Chương có những nét riêng trau
chuốt từng câu, từng chữ, giàu nhạc điệu, nhẹ nhàng, sâu
lắng, lãng mạn và sang trọng.
Ông sinh ngày 5/5/1916 tại làng Phù Ửng, huyện
Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Nam Định (nay thuộc về
Hưng Yên). Vũ Hoàng Chương đỗ tú tài Pháp năm 1937.
Sau đó, theo học Trường Luật rồi cử nhân toán tại Hà Nội,
nhưng tất cả cũng chỉ được một vài năm rồi bỏ, để theo
nghề dạy học và làm thơ cho đến cuối đời.
Năm 1954, ông di cư vào Nam, tiếp tục dạy văn ở
một số trường trung học và trường Đại học Văn khoa Sài
Gòn. Vũ Hoàng Chương mất ngày 6/9/1976, khi vừa tròn
tuổi 60. Tôi là một người may mắn, khi có một thời gian
được tiếp xúc và gặp gỡ thi sĩ Vũ Hoàng Chương dường
như mỗi ngày. Đó là vào khoảng cuối năm 1973, đầu năm
1974, khi vợ chồng ông đang tá túc tại nhà nữ sĩ Mộng
Tuyết, trong một căn phòng được ông gọi là “gác mây”,
nằm cuối đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn
Trọng Tuyển, quận Phú Nhuận). Lúc bấy giờ, tôi đang giữ
trang thơ của nhật báo Sóng Thần. Một buổi sáng, vừa
bước vào tòa soạn ở số 133 Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi),
đã thấy nhà văn Chu Tử (chủ bút) đang ngồi uống trà với
Ngọc Thứ Lang (người dịch cuốn Bố Già) và nhà thơ
Hoàng Trúc Ly. Bỗng dưng có ai đó nhắc đến thi sĩ Vũ
Hoàng Chương và nói ông đang bệnh nặng. Thế là Ngọc
Trang 82 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Thứ Lang buột miệng: “Tội nghiệp, Vũ Hoàng Chương
nghèo kiết xác, nên thiếu “thóc” (thuốc phiện) là ngã bệnh,
nếu được hút đủ đô là khỏe ngay”. Điều này có lẽ không
sai, bởi hơn ai hết, Ngọc Thứ Lang cũng là một con nghiện
rất nặng và thỉnh thoảng vẫn ghé lại “gác mây” thù tạc với
Vũ Hoàng Chương. Không hỏi thêm một câu nào, ông Chu
Tử quay sang ra lệnh cho tôi, xuống ban Trị sự, lấy tiền
mua vài lạng thuốc phiện đem biếu cho thi sĩ Vũ Hoàng
Chương. Nghe thế, tôi rất vui khi biết mình sắp được gặp
gỡ nhà thơ lớn mà mình ái mộ từ lâu, nhưng chỉ nghe danh
chứ chưa được diện kiến lần nào.
Có tiền, tôi nhờ anh Ngọc Thứ Lang đưa qua con
hẻm đối diện tòa soạn, nơi có hai động hút dường như bán
công khai, mua hai lạng thuốc phiện loại hảo hạng rồi đi
ngay. Dọc đường, tôi cứ phân vân không biết phải xưng hô
với thi sĩ Vũ Hoàng Chương như thế nào cho phải phép.
Cuối cùng, tôi quyết định sẽ gọi ông bằng thầy và xưng em
là ổn nhất.
Không có gì khó khăn để tôi tìm ra nhà nữ sĩ Mộng
Tuyết. Gọi là “gác mây”, cái tên nghe rất thơ mộng, nhưng
thật ra, đó là một căn phòng nhỏ, chỉ hơn 20 thước vuông,
không có lấy một thứ đồ đạc nào đáng giá. Trên một chiếc
đi văng bằng gỗ, được trải mấy tấm chiếu hoa, Vũ Hoàng
Chương ngồi tựa lưng vào vách, gầy gò và mệt mỏi. Trên
khuôn mặt xanh xao là một cặp kiếng trắng dày cộm. Trước
mặt ông là một tờ báo và một chiếc kính lúp, mỗi khi đọc,
ông phải soi từng dòng. Ngồi trên chiếc ghế kê sát cửa ra
vào là bà Thục Oanh, vợ của ông, một người đàn bà với vẻ
bên ngoài rất bình thường, nhưng lại có đời sống rất phi
thường. Bởi lẽ, bà còn là chị ruột của thi sĩ Đinh Hùng.
Suốt đời người đàn bà này là chỗ dựa của hai nhà thơ lớn
mà ngoài tánh khí thất thường ra, cả hai còn là những con
nghiện á phiện rất nặng từ khi còn rất trẻ, nhưng chẳng bao
giờ làm ra được nhiều tiền. Vì thế, mà bà Thục Oanh âm
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 83
thầm chịu đựng cảnh túng thiếu, cắn răng lo cho hai nhà
thơ lớn của Việt Nam mà chẳng hề ta thán.
Thấy tôi xuất hiện, bà Thục Oanh đứng dậy chào
khách và hỏi tôi muốn tìm ai? Tôi nói ngay: “Ông Chu Tử
nhờ em đem biếu cho thầy ít quà”. Tôi trở nên hụt hẫng khi
nghe Vũ Hoàng Chương nói, cho dù giọng ông chậm rãi và
nhỏ nhẹ: “Chu Tử là ai? Hình như tôi không quen người
này, nhưng tại sao lại biếu quà cho tôi, mà quà gì thế?”.
Khi nghe tôi nói tới thuốc phiện, nét mặt ông rạng
rỡ hẳn lên. Tôi ngồi xuống mép đi văng, đặt hai lạng thuốc
phiện lên tờ báo cũ mà ông đang đọc dở. Như bị ma lực của
nó thu hút, ông cầm lên, mở ra, vẻ thích thú của một tay
sành điệu: “Thuốc Thượng Lào, sản phẩm hảo hạng đây”.
Thế là câu chuyện giữa tôi và thi sĩ Vũ Hoàng Chương trở
nên thân mật hơn. Ông nói, mỗi ngày ông vẫn có thú vui
đọc báo, nhưng chỉ đọc được một tờ, bởi không có đủ báo.
Tôi hứa, mỗi ngày sẽ mang đến cho ông đủ các loại nhật
báo phát hành trong ngày. Để cho ông yên lòng, tôi nói,
mỗi ngày tôi thường đi ngang qua đây, nên rất thuận
đường. Nói thế là vì tôi mong được kết thân với ông, chứ
chẳng có viếc gì phải cần đến khu vực này cả. Ông nhận lời
một cách vui vẻ, và từ đó, chiều nào tôi cũng mang báo đến
cho ông, rồi ngồi chuyện trò với nhau đủ mọi thứ chuyện
trên đời, rồi thành thân thiết.
Vài tuần sau, một lần Vũ Hoàng Chương bất chợt
nhắc đến sức khỏe nhà văn Chu Tử. Nhân đó, tôi hỏi,
dường như ông và Chu Tử cũng quen nhau, nhưng giữa hai
người có điều gì đó lấn cấn? Ông thú thật là có quen biết.
Nhưng do mâu thuẫn gì đó với Chu Tử, nên thôi. Còn như
Chu Tử có xúc phạm Vũ Hoàng Chương hay không, cũng
chẳng ai biết hư thực ra sao, bởi đó cũng chỉ là thị phi của
người đời. Có những buổi chiều khi tôi đến thì bà Thục
Oanh vắng nhà. Tôi tự pha trà và ngồi đối ẩm với thi sĩ Vũ
Hoàng Chương. Tôi hỏi ông về chuyện tình yêu và những
bài thơ đau tình bất hủ của ông. Nét mặt ông trở nên buồn
Trang 84 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
vời vợi, nói như nói với chính mình: “Năm tôi 25 tuổi thì
Tố Uyển đi lấy chồng, tôi đã như điên, như cuồng. Người
ta biết nhiều đến chuyện tình ly cách và những bài thơ tôi
làm cho Tố Uyển giai đoạn này, đặc biệt là hai câu mà
nhiều người thuộc:
Tình ta, ta tiếc cùng ta khóc –
Tố của Hoàng, nay Tố của ai…
Ông nói tiếp: Thật ra còn có một người phụ nữ nữa,
cũng làm cho tim tôi và thơ tôi rỉ máu, nhưng ít được người
ta nhắc tới hơn:
Kiêu Thu hê! Tố em ơi
Ta đang lửa đốt tơi bời mái tây…
Tôi hỏi: “Thế còn cô Thục Oanh?”. Ông nói: “Đó là
một người bạn đời, người chia ngọt sẻ bùi, tuy không phải
là người tình nhưng còn hơn cả người tình”.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương thường nói với tôi là ông
không có bạn. Nhưng theo tôi nhìn thấy thì ông sống rất
tình nghĩa. Có lần ông hỏi tôi có thường gặp Ngọc Thứ
Lang không? Tôi nói rất thường gặp. Sáng nào cũng thấy
anh ngồi ở quá cà phê trước tòa soạn báo Sóng Thần. Dạo
này trông anh rất yếu và hay đau ốm. Thế là chẳng nói,
chẳng rằng, ông lấy trên đầu nằm ra một cục thuốc phiện,
cắt làm đôi, gói cẩn thận bằng một mảnh giấy kiếng màu
cam, rồi trao cho tôi, dặn dò: “Đưa cho Ngọc Thứ Lang và
đừng nói gì cả”.
Một buổi chiều khác, tôi gặp Lê Cung Bắc (nay là
đạo diễn - NSƯT Lê Cung Bắc) tại tòa soạn, và rủ anh ghé
Vũ Hoàng Chương chơi. Lê Cung Bắc nhận lời ngay, bởi
anh cũng là người yêu thơ và rất ái mộ thơ Vũ Hoàng
Chương. Đó là một buổi gặp gỡ hết sức thú vị.
Trước khi theo tây học, Vũ Hoàng Chương từng
học chữ Nho nhiều năm, thuộc loại uyên bác. Còn Lê Cung
Bắc lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng, mấy đời
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 85
ông cha liên tục đỗ đầu các đại khoa dưới triều Nguyễn. Do
đó, anh cũng rất tinh thông Tứ Thư, Ngũ Kinh … từ hồi
còn rất trẻ. Đặc biệt, Lê Cung Bắc thuộc làu rất nhiều bài
Đường thi, và cả những bài từ, bài phú. Thế là một già, một
trẻ, hết đọc rồi bình thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, đến Bạch Cư Dị,
Thôi Hiệu… say sưa cho đến sẩm tối.
Bút tích của thi sĩ Vũ Hoàng Chương
Vũ Hoàng Chương nói, ông tuy đã già nhưng tâm
hồn còn rất trẻ, nên rất thích chuyện trò với những người
bạn trẻ có được kiến thức như Bắc. Ông dặn tôi, thỉnh
thoảng nhớ rủ Lê Cung Bắc đến thăm ông, để chuyện trò
cho đỡ buồn. Khi chia tay, ông rời đi văng bước ra cửa tiễn
chúng tôi bằng những bước đi không vững, để bày tỏ lòng
mến khách. Ông nói: “Lâu lắm không bước ra đường,
chẳng biết phố xá dạo này ra sao?”. Lê Cung Bắc trả lời:
“Phố xá thì vẫn thế. Có điều, càng ngày các cuộc xuống
đường của những lực lựơng tranh đấu càng nhiều hơn.
Trang 86 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Ngựa sắt, hàng rào kẽm gai và khẩu hiệu, biểu ngữ xuất
hiện khắp nơi”. Ông lại hỏi: “Người ta viết gì trên đó?”.
Tôi đáp: “Thì đại loại chế độ của Tổng thống Thiệu muôn
năm, hoan hô cái này, đả đảo cái kia”. Lập tức thi sĩ Vũ
Hoàng Chương ứng khẩu, đọc liền hai câu:
Thế mà cứ chúc muôn năm mãi
Nó sống lâu thì nước chết non.
Ra đầu đường, Lê Cung Bắc nói với tôi, quả thật,
nếu cứ nhìn vào cái thân xác gầy còm, yếu ớt đó, không ai
ngờ tiềm ẩn trong tim là ngữ khí ngất trời. Điều làm tôi
cảm động nhất, là vào một buổi chiều cuối năm 1974, khi
tôi đến với ông như thường lệ đã thấy trước mặt ông là một
tập sách mỏng. Ông cầm lên đưa cho tôi và nói: “Đây là
quà của tôi biếu anh, một trong những người rất hiếm hoi
mà tôi quý mến”. Tôi lật ra, cứ tưởng như mơ. Đó là một
tập thơ của Vũ Hoàng Chương, do chính ông viết bằng đầu
tăm, chấm mực tàu viết lên giấy bổi. Tập thơ có cái tựa là
Song Kiều, ngoài bìa Vũ Hoàng Chương viết tặng đích
danh tôi, có chữ ký và triện son hẳn hoi, nhưng chỉ dày hơn
20 trang, mỗi trang có 4 câu lục bát, vì nét chữ rất to. Dĩ
nhiên là tôi vô cùng sung sướng. Cái công mỗi ngày tôi vẫn
mang báo đến tặng ông rõ ràng không bỏ.
Đầu năm 1975, khi chuyển nhà đi nơi khác, vì
không ổn định chỗ ở, tôi đã mang tập thơ quý giá, với chỉ
một ấn bản duy nhất đó, cùng một ít tư liệu riêng, gởi gắm
cho nhà thơ Huy Tưởng trên đường Huỳnh Tịnh Của. Về
sau tôi hỏi, thì Huy Tưởng nói đã nhiều lần cố lục tìm trong
đống sách vở và đồ đạc lỉnh kỉnh trong nhà anh, nhưng
chẳng biết thất lạc ở đâu. Thế là mất! Một thời gian sau, thi
sĩ Vũ Hoàng Chương rời khỏi “gác mây”, dọn về Vĩnh Hội.
Từ đó, cho đến lúc ông qua đời vào năm 1976, vì bộn bề
công việc, tôi không đến với ông được nữa. Ngay cả khi
ông nhắm mắt, tôi lại ở thật xa thành phố, nên cũng không
thể đến thắp cho ông một nén nhang như lòng tôi mong
ước. Tôi nghĩ, cho dù quá nhiều thăng trầm ở đời này, hạnh
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 87
phúc thì ít, khổ đau thì nhiều, nhưng có lẽ thi sĩ Vũ Hoàng
Chương cũng đã mỉm cười ra đi bởi ông đã thấm đẫm tinh
thần Phật giáo như lời thơ ông:
Biển khổ mênh mông sóng ngập trời
Khách trần chèo một mái thuyên chơi
Thuyên ai ngược sóng, ai xuôi sóng
Cũng chỉ trong cùng biển khổ thôi.
Đoàn Thạch Hãn
________________________________________________
Chú thích:
[1] Bài “Khóc Stalin”
[2] Bài “Đời đời nhớ ơn ông (Stalin).”
Nhà văn VN Nguyễn Tuân, nổi tiếng cao ngạo trong văn
đàn miền Bắc, sau mấy chục năm nín thở qua sông, vào đến
miền Nam, gặp lại bạn bè, đã nói một câu để đời:
“Tao còn sống đến ngày nay, là nhờ biết sợ”
Bà Thủ tướng Đức Angela Merkel nói:
“Cộng Sản đã làm cho người dân trở thành gian dối.”
Trang 88 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Tuyệt phẩm thi ca
chống ngoại xâm
Bình Ngô
Đại Cáo
của Nguyễn Trãi
Trần Văn Giang
Lời giới thiệu:
1- “Bình Ngô đại cáo” (1428) là bài cáo của Nguyễn Trãi
viết thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc
cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại
Việt. [Trích từ “Bình Ngô đại cáo” của Wikipedia (Bách
khoa Toàn thư.)]
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 89
2- Xin kính mời quý vị đọc “Bình Ngô Đại Cáo” qua hai
bản dịch nôm tiêu biểu:
- Bản dịch theo thể “văn vần” của Ngô Tất Tố
- Bản dịch theo thể “văn xuôi” của Trần Trọng Kim
(Ngoài ra còn có thêm bản dịch của Bùi Kỷ và Nhượng
Tống, nhưng tôi thấy rằng hai bản dịch tiêu biểu đê cập ở
trên đã khá đầy đủ… Nguyên bản Hán-Việt cũng được kèm
theo đây để quý vị rộng đường tham khảo)
3- Lời bàn của Ngô Quốc Sĩ, Minh Nguyệt và Hải Sơn.
Trần Văn Giang
1- “Bình Ngô đại cáo” - Bản dịch của Ngô Tất Tố
Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Trang 90 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một
phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay
cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu,
nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 91
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa
chán;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho
vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn
chốn bể khơi.
Trang 92 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết
đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp
phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu
ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng
cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm
công.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 93
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn
kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân
Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Trang 94 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía
mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên
nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn
ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu
đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu
mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu
sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về
đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kỳ diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm
phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 95
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
2- “Bình Ngô đại cáo” - Bản dịch văn xuôi của Trần
Trọng Kim
(Bản dịch ghi trong cuốn “Việt Nam sử lược" - Quyển
I/Phần III/Chương XIV).
Tượng-mảng:
Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ
vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn-hiến đã
lâu. Sơn-hà cương-vực đã chia, phong-tục bắc nam cũng
khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập; cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương. Dẫu cường
nhược có lúc khác nhau, song hào-kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật
mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt
sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng[1].
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà, để trong nước nhân-
dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược[2]
, bọn
gian-tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn
Trang 96 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
lửa hung-tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ. Chước dối
đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại
nhân-nghĩa, nát cả càn-khôn, nặng khoa-liễm[3]
vét không
sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,
nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn-hại cả côn-
trùng thảo-mộc; nheo-nhóc thay quan quả điên-liên[4].
Kẻ
há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no-nê chưa chán. Nay
xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa.
Nặng-nề về những nỗi phu-phen, bắt-bớ mất cả nghề canh-
cửi. Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ-bẩn thay !
nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo
thần-nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-sơn dấy nghĩa, chốn hoang-dã nương
mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng
quân nghịch-tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng
mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn
vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh; ngẫm trước đến
nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ. Những trằn-trọc trong
cơn mộng-mị, chỉ băn-khoăn một nỗi đồ-hồi. Vừa khi cờ
nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn-kiệt như sao buổi sớm, nhân-tài như lá mùa
thu. Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần, nơi duy-ác hiếm người
bàn-bạc. Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục
đông[5];
mấy thủa đợi-chờ, luống đằng-đăng cỗ xe hư tả[6]
.
Thế mà trông người, người càng vắng-ngắt, vẫn mịt-mờ
như kẻ vọng dương[7]
; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm
vội-vã như khi chửng-nịch[8]
. Phần thì giận hung-đồ ngang-
dọc, phần thì lo quốc-bộ khó-khăn. Khi Linh-sơn lương hết
mấy tuần; khi Khôi-huyện quân không một lữ. Có lẽ trời
muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma;
cho nên ta cố-gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.
Múa đầu gậy, ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 97
đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ
một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi;
quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn, lấy chí nhân mà
thay cường-bạo. Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy, miền Trà-
lân trúc phá tro bay. Sĩ-khí đã hăng, quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An
tìm đường trốn-tránh. Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc, lấy
Đông-đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-kiều máu chảy thành
sông; bến Tụy-động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt
mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương thông hết cấp lo
lường, Mã Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực
kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công,
chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng
đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương,
gây mầm tội-nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho
người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ-duốc. Đến
nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên-đức[9]
, nhàm võ không thôi; lại
sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
Năm đinh-mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu-ôn tiếng
sang; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo
đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc-quân; ta lại
sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương-đạo. Mười tám,
Liễu Thăng thua ở Chi-lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở
Mã-yên. Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong; hai-mươi-
tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo
giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến
rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ-tốt ra oai tì hổ, thần-thứ đủ mặt
trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước,
nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình-ngạc,
đánh hai trận tan-tác chim-muông. Cơn gió to trút sạch lá
khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin
lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng-giang, Lạng-sơn
thây chất đầy đường, Xương-giang, Bình-than máu trôi đỏ
Trang 98 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
nước. Gớm-ghê thay ! sắc phong-vân cũng đổi; thảm-đạm
thay ! sáng nhật-nguyệt phải mờ. Binh Vân-nam nghẽn ở
Lê-hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần-
trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-câu, nước sông
rền-rĩ; thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa. Hai mặt cứu
binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp
xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục
tội; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã
Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến
bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho
vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi. Nó đã sợ
chết cầu hòa, ngỏ lòng thú-phục; ta muốn toàn quân là cốt,
cả nước nghỉ-ngơi.
Thế mới là mưu-kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay
chưa có. Giang-san từ đây mở mặt, xã-tắc từ đầy vững nền.
Nhật-nguyệt hối mà lại minh, càn-khôn bĩ mà lại thái. Nền
vạn thế xây nên chăn-chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu.
Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng che-chở, giúp-đỡ
cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy-vùng một mảng nhung-y nên công đại-định,
phẳng-lặng bốn bề thái-vũ mở hội vĩnh-thanh. Bá-cáo xa
gần, ngỏ cùng cho biết.
__________________
Chú thích:
[1] Minh-trưng: chứng-cớ rõ-ràng
[2] Tứ-ngược: Hết sức tàn ngược
[3] Khoa-liễm: Thuế-má
[4] Quan: Người không vợ; quả: người góa chồng;
điên-liên: những kẻ không có nhà ở, không trông-cậy vào
đâu được.
[5] Dục đông: Ý nói muốn về Đông-đô
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 99
[6] Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi người hiền
[7] Vọng dương: Trông ra biển không thấy gì
[8] Chửng-nịch: Vớt người chết đuối
[9] Vua Tuyên-tông nhà Minh, niên-hiệu Tuyên-đức.
__________________
Phần Tham khảo
(Nguyên Bản Hán – Việt)
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Trang 100 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 101
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Trang 102 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn
nhi tiến,
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam
nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công,
kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở
bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi
táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn
thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 103
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng
nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần Trạm,
toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm
ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp
mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm
kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Trang 104 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu,
nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
3- Lời bàn của Ngô Quốc Sĩ, Minh Nguyệt và Hải Sơn.
(Dựa trên bản dịch nôm của Ngô Tất Tố)
Nhắc tới những áng văn thơ chống ngoại xâm thời
dựng nước, không ai có thể quên được “Lời Hiệu Triệu”
của Hai Bà Trưng, “Tuyên Ngôn Độc Lập” của Lý Thương
Kiệt, “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Hưng Đạo… Nhưng có thể
nói, không áng văn nào qua mặt được “Bình Ngô Đại Cáo”
của Nguyễn Trãi - Lê Lợi. Thực vậy, “Bình Ngô Đại Cáo”
được tuyên dương là áng văn thơ hay nhất, hào hùng nhất
và đánh động nhất, làm dậy lên trong lòng dân Việt một
mối hận thù ngoại tặc vô bờ và một ý chí sắt đá quyết bảo
vệ chủ quyền đất nước và xây dựng Tổ Quốc.
Nội dung "Bình Ngô Đại cáo" là một Tuyên Cáo
hùng hồn về chính nghĩa dân tộc làm căn bản cho cuộc
khởi nghĩa. Đó cũng là bản cáo trạng đầy đủ về tội ác giặc
Tàu, đồng thời công bố chiến lược và chiến thuật thắng
quân Minh, cũng như kế hoạch dựng nước cuả vị anh hùng
áo vải đất Lam Sơn.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 105
PHẨN I : CHÍNH NGHĨA DÂN TỘC
Mở đầu bản cáo trạng, Nguyễn Trãi đã thay lời Lê
Lợi, nêu cao chính nghĩa dân tộc như ngọn hải đăng chiếu
sáng và soi dẫn cuộc Bắc phạt của nguời anh hùng Lam
Sơn. Chính nghĩa đó trưóc hết là khát vọng quốc thái dân
an. Muốn cho yên nước yên dân, phải lấy dân làm gốc và từ
đó, phải ra tay diệt trừ các thế lực bạo ngược, phản dân hại
nước:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo khử bạo
Chính nghĩa đó cũng chính là khôi phục nền văn
hiến trên 4000 năm của Việt tộc, giúp cho đất nước giữ
vững kỷ cương, bảo toàn bờ cõi:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Nét đặc trưng của chính nghĩa dân tộc là ý thức độc
lập và chủ quyền đất nước. Nếu Lý Thường Kiệt đã khẳng
định “Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư” thì Lê Lợi cũng hãnh
diện với nền độc lập kéo dài qua nhiều triều đại:
Từ Triệu, Đinh Lê Lý Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên hùng cứ một phen
Điều đáng nói là dânViệt, dù mệnh nước lên xuống,
dù là một nước nhỏ bên cạnh đại cường, luôn luôn vẫn có
anh hùng hào kiệt, hiên ngang thách đố với kẻ thù phương
Bắc:
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có
Chính nghĩa sáng chói đó đã được lịch sử ghi lại với
những nét hào hùng, những chiến tích lẫy lừng làm cho con
Trang 106 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
cháu Lạc Hồng cảm thấy hãnh diện vô bờ: Ai mà chẳng
nhớ Hàm Tử Bạch Đằng?
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi
Nhắc lại những chiến tích lịch sử hào hùng đó là để
so sánh với hiện thực đáng buồn của đất nước và dân tộc,
đang làm những người còn tâm huyết phải nức lòng.
Nào là dân tình đói khổ lầm than, một đàng do
ngoại tặc cuồng Minh, một đàng do bọn Việt gian bán nước
cầu vinh:
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nuớc cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọc lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống duới hầm tại vạ
Dối trời, lừa dân đủ muôn ngàn kế…
Đáng buồn nhất là trước hiện thực đau buồn đó, dân
Việt trông mong xuất hiện những nhân tài đem tim óc cứu
dân cứu nuớc, nhưng nhân tài lại vắng bóng như lá mùa thu
như sao buổi sớm:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc
Hiện thực đáng buồn của đất nước thời Lê Lợi đang
tái diễn hôm nay tại Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Một
đàng, những người thực tâm yêu nước dám dấn thân đối
đầu vơi cộng sản độc tài chỉ đếm đầu ngón tay, nên Võ Thị
Hảo mới chỉ trích “thái độ vô cảm,” và cô giáo Lam mới
lớn tiếng kêu gọi dân Việt “Xin đừng vô can.” Đàng khác,
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 107
bọn cuồng Minh ngày xưa đã dùng bọn Việt gian tay sai
nướng dân trên lửa hung tàn, nhốt dân xuống hầm tai vạ, thì
bọn đại Hán hôm nay cũng lặp lại thủ đoạn gian ác đó, sử
dụng bọn thái thú là tập đoàn lãnh đạo Hà Nội đang dựa thế
Trung cộng để giữ đảng và giữ ghế, sống phè phỡn trên
xương máu dân lành!
Thật mỉa mai! Trong khi tổ tiên ngày xưa đã đem
chính nghĩa dân tộc với nền văn hiến cao đẹp, với ý thức tự
chủ độc lập tuyệt vời, cũng như những chiến tích lẫy lừng
gợi hứng cho sức quật cường của dân tộc, thì tập đoàn lãnh
đạo cộng sản hôm nay lại cúi mặt khiếp nhược trước manh
tâm bành trướng xâm lăng của ngoại thù!
Cha ông chúng ta đã nhắc nhở, núi sông bờ cõi đã
chia, và phong tục Tàu –Ta cũng khác, không thể sống
chung hay đồng hóa. Nhưng đau đớn thay, cộng sản Việt
Nam lại tự nguyện dâng hiến biển đảo, lãnh thổ và tài
nguyên cho kẻ thù truyền kiếp Bắc Phương! Thế là hoàn
toàn mất chính nghĩa! Tình hữu nghị “Môi hở răng lạnh”
hay “4 Tốt và 16 Chữ Vàng” chỉ là “ngụy nghĩa” và “ngụy
ngữ,” là lừa đảo, là chiêu bài che đậy ý đồ xâm lăng, tái
diễn nạn Bắc Thuộc thêm lần nữa! Và lần này, sẽ kéo dài
bao lâu? Ai mà biết được? Ai mà chẳng đau lòng đứt ruột,
và ai thấu nỗi đoạn trường..?
Phần II: CUỘC KHỞI BINH OAI HÙNG
Sau khi tuyên cáo về chính nghĩa dân tộc và hiện
thực đất nước tang thương với giặc ngoài thù trong, như lời
réo gọi của non sông, người anh hùng áo vải đất Lam Sơn
đã trịnh trọng tuyên chiến, khởi binh từ đất Lam Sơn, dõng
dạc đáp lại tiếng gọi của sông núi:
Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Trang 108 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Động lực thúc đẩy Lệ Lợi khởi binh từ Lam Sơn
chính là mối thù không đội trời chung với giặc Tàu. Mối
thù giữa Việt Nam và Trung Quốc là mối thù truyền kiếp.
Mặc dầu biết rằng, giặc Tàu đang ở thế mạnh, nhưng tin
tưởng vào ngọn cờ chính nghĩa, người anh hùng áo vải đã
phải vung kiếm để trả thù dân tộc:
Ngẫm thù lớn hà đội trời chung
Căm giặc nước hề không chung sống.
Chỉ băn khoăn một nỗi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên
Chính lúc quân thù đang mạnh
Băn khoăn về tình thế bất lợi, thời điểm chưa mấy
thuận tiện vì kẻ thù đang mạnh, nhưng đáng buồn hơn là
quân thù lại được tiếp tay bởi những đứa con hoang, cam
tâm làm Việt gian bán nước cầu vinh, lót đường cho giặc:
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh
Hiện tượng bán nuớc cầu vinh, rước voi giày mả tổ
thời Lê Lợi đang tái diễn hôm nay tại Việt Nam. Thật vậy,
ngày xưa bọn Chiêu Thống rước giặc Minh vào nhà, nay
bọn thái thú lại rước bọn Hán tặc vào lãnh thổ, đúng như
nhà thơ Bùi Minh Quốc đã mô tả:
Thăm thẳm một đời bao thứ giặc
Chưa giặc nào như giặc này
Quân ăn cướp quân phản trắc
Đã từng vào nhà ta
Như một người bạn thân một người đồng chí
Không biết những tên lãnh đạo cộng sản hôm nay
có chột dạ khi nghe bản cáo trạng của Lê Lợi này không?
Chắc chắn là không, vì con tim bọn chúng đã hóa đá, con
mắt của chúng đã bị thui chột, và đầu óc chúng bị bít kín
như miệng bình vôi, đúng như Hoàng Cầm và Phan Khôi
đã chua chát ghi nhận qua Nhân Văn Giai Phẩm.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 109
Mặc dù trước tình thế quân thù đang mạnh, lại có
bọn việt gian tiếp tay bán nước, người anh hùng áo vải vẫn
không nản lòng, nhất quyết chỗi dậy từ gian khổ với niềm
tin mãnh liệt vào tài thao lược của mình và tư duy sang suốt
về lẽ hưng phấn của trời đất. Thế chẳng là đem cái Trí hoà
hợp với cái Chí đó sao?
Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phấn đắn đo càng kỹ
Đắn đo kỹ càng, rồi nhất định tuyên chiến, quyết ra
tay đối đầu với nghịch tặc, dù biết mình cô đơn, chân
không thể bôn ba năm châu bốn biển, lại thiếu người đỡ
đần cố vấn trong cảnh khó khăn nghiệt ngã:
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc
Nhưng điểm đáng khích lệ nhất, là dù phải chiến
đấu trong cô đơn khi “nhân tài như lá múa thu, tuấn kiệt
như sao buổi sớm,” người anh hùng họ Lê đã quyết tự tin
vào khả năng của mình, tin vào tài trí của mình, can đảm
nhận lãnh sứ mệnh cao cả trời đất giao phó, nguyện xả thân
vì đại nghĩa, cứu dân đang chết đuối trong tay ngoại tặc:
Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết
đuối
Phần vì giận quân thù ngang dọc
Phần vì lo vận nước khó khăn’’
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan
Nhận sứ mệnh khởi binh diệt giặc là theo mệnh trời
cứu nước cứu dân, với niềm chắc tâm rằng, địch phải bị
tiêu diệt, mình sẽ tồn tại và đất nước sẽ trường tồn “Thuận
thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”:
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu đuợc?
Trang 110 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Trời không tha, đất không dung, người không chịu
đuợc, nên Lê Lợi phải xuất quân dẹp giặc cứu nước cứu
dân. Đó là hành xử đúng theo mệnh trời, nên Lê Lợi đã
được ơn trời phù hộ, và toàn dân, toàn quân một lòng sát
cánh với nhà vua trong sứ mệnh cao cả:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ
phấp phới.
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu
ngọt ngào.
Thế là cuộc khởi binh của người hùng Lam Sơn là
đúng theo phong thủy “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa.” Có
Trời phù hộ. Có Đất thiêng mẹ Việt Nam nâng đỡ gót chân,
và toàn dân Việt dốc quyết một lòng siết chặt tay chiến đấu.
Đó chính là lẽ tất thắng của người hùng áo vải đất Lam
Sơn, và cũng là lẽ tất thắng của toàn thể dân Việt trong
cuộc chống ngoại xâm và nội thù xưa nay.
Hẳn không ai có thể cầm lòng trước hình ảnh “cần
trúc thành ngọn cờ phấp phới” và “hoà nước sông chén
rượu ngọt ngào” trong cuộc khởi binh của Lê Lợi.. Thật
cảm động đến nghẹn lời khi nhìn thấy ngọn trúc thành ngọn
cờ và nước sông hòa vào rượu ngọt. Đó hẳn là cờ chiến
thắng Phù Đổng và rượu mừng đất nước sạch bóng quân
thù.
Với Bình Ngô Đại Cáo, đó là hiện thực, và Lê Lợi
xứng đáng là anh hùng, là đấng minh quân đúng danh thơm
Bình Định Vương. Hôm nay, nhìn vào hiện thực Việt Nam,
ngọn cờ chiến thắng và rượu mừng đất nước sạch bóng thù
vẫn còn là giấc mơ, bởi lẽ bọn Hán tặc đang thật sự xâm
lăng đất nước và bọn thái thú vẫn còn nghênh ngang cấu
kết với ngoại bang bán đứng giang sơn. Ai sẽ thay Lê Lợi
cứu vớt dân Nam đây?
Rồi sẽ có, sẽ có, sẽ có ngày toàn dân quật khởi, có
sức mạnh dân tộc vùng lên tiêu diệt ngoại tặc và nội thù,
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 111
đúng như Hà Sĩ Phu đã khẳng quyết:
“Trong cuộc vật lộn tay đôi giữa chủ nghĩa Cộng
sản ngoại lai với nhân dân Việt Nam, thì mặc dù khó khăn
đến mấy, cuối cùng nhân dân nhất định thắng, tình tự dân
tộc máu mủ ruột rà nhất định thắng.”
Ngày đó không xa, nhưng chúng ta không thể ngồi
chờ với thái độ vô cảm hay vô can, dửng dưng, như kẻ
ngoại cuộc đứng bên lề cuộc chiến. Phải nhập cuộc, phải
xắn tay áo, phải lao đầu vào cơn bão lửa cách mạng. Dân
Việt không thể “vô cảm,” bởi lẽ vô cảm là khiếp nhược và
phản bội như lời Võ Thị Hảo và Đặng Chí Hùng:
Còn nhịp thở ta xin đừng vô cảm
Đất Mẹ hiền sẽ chẳng thể nào quên.
Và cũng xin đừng “vô can,” bởi lẽ vô can là đồng
lõa, như lời cô giáo Lam:
“Sự hèn nhát, sự sợ hãi, sự dửng dửng, vô cảm đã
biến chúng ta thành những kẻ đồng loã với cái ác. Chúng ta
đã phản bội thiên nhiên, phản bội quê hương và cái giá
chúng ta phải trả là môi trường sống của chính mình bị đầu
độc, là sức khoẻ, sinh mạng, sự tồn vong của nòi giống. Để
xảy ra thảm cảnh môi trường như ngày hôm nay, tôi, bạn,
tất cả chúng ta đều không vô can.”
Lời Đặng Chí Hùng, lời Võ Thị Hảo, lời cô giáo
Lam, lời Hà Sĩ Phu, chẳng phải là những tiếng dội anh
hùng của Bình Ngô Đại Cáo đó sao?
Ngô Quốc Sĩ, Minh Nguyệt và Hải Sơn
Trần Văn Giang (St)
Trang 112 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Thành kính tưởng niệm và tri ân
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Những lời trăn trối của
Tổng thống
Ngô Đình Diệm
Sổ Tay Ký Thiệt
LTS: Đọc những lời trăn trối tâm huyết của cố Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, chúng ta cảm thấy xót thương cho Cụ có
một tấm lòng yêu nước thương dân vô bờ bến. Đọc lời của
Cụ mà căm giận bày tướng phản quốc DVM, TTK, TTĐ,
MHX, ĐM v.v… đã vì 3 triệu đồng của Hoa Ky để bán rẽ
lương tâm, đất nước, hãm hại tổng thống và nên VNCH của
mình… Đọc lời trăn trối Cụ mà cảm thấy chán ngán cái ...
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 113
thằng bất lương đồng minh Hoa Ky đã đối xử đồng minh
VNCH như tay sai của nó vậy… Nên vì vậy ngày nay ta
không thể nào trách tổng thống Phi đã khinh khi đồng minh
Hoa Ky, lại còn chửi dám TT Obama là ... "son of whore".
*
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể ngày Tổng thống Ngô
Đình Diệm bị giết chết trong cuộc đảo chính ngày
1.11.1963. Chính xác hơn, 53 năm đã qua nhưng thảm kịch
ấy vẫn còn là trang sử cần phải được soi sáng.
Học giả Nguyễn Anh Tuấn, một trí thức hải ngoại
đầy tâm huyết, đang viết một loạt bài với hy vọng khai quật
nhiều sự thật còn bị chôn vùi dưới những tầng lớp thành
kiến, phe cánh, mưu đồ chính trị ...
Được sự đồng ý của ông Nguyễn Anh Tuấn, và
nhân ngày 1.11.2016, mục này xin trích đăng một phần của
bài đầu tiên liên quan đến cuộc phỏng vấn Tổng thống Ngô
đình Diệm do nữ kỹ giả Mỹ Marguerite Higgins thực hiện
tại Dinh Gia Long ngày 7.8.1963, không đầy 3 tháng trước
khi ông bị hạ sát.
Theo Higgins cho biết, ông Diệm trong cuộc
phỏng vấn này đặc biệt chú tâm tới những vấn đề hệ
trọng của Việt Nam như chiến tranh, cơn khủng hoảng
Phật giáo, và những đường lối đầy mâu thuẫn giữa các
viên chức Hoa Kỳ, và làm thế nào để giải quyến những
cơn khủng hoảng như thế ?
Ông Diệm chấp nhận nắm quyền hành quốc gia từ
1954. Thật khó mà hình dung được hình ảnh ông Diệm như
một nhà cách mạng đã nói với dân Việt Nam khi ông chấp
nhận lèo lái con thuyền quốc gia đang trong cơn bão tố do
Hoàng Đế Bảo Đại trao cho: “If I advance, follow me. If I
retreat, kill me. If I die, avenge for me”. (Nếu tôi tiến lên,
hãy tiến theo tôi. Nếu tôi tháo lui bỏ chạy, hãy giết tôi đi.
Nếu tôi bị chết, hãy trả thù cho tôi) [1]
.
Trang 114 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Higgins đã bỏ ra hơn 5 tiếng đồng hồ để trao đổi
riêng tư với TT Diệm về mối quan hệ ngoại giao giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ. Mở đầu, Tổng thống Diệm nói:
“Nếu người dân Mỹ hiểu được những khó khăn
phức tạp của đất nước Việt Nam, và hiểu được bản chất của
chiến tranh Việt Nam, do cộng sản gây ra mà hiện nay
chúng tôi đang phải đối đầu gánh chịu. Cô Higgins đã đi
nhiều về các vùng nông thôn. Cô đã gặp những người dân
Thượng, với những giáo mác và những mê tín dị đoan của
họ. Những người dân Chàm, Cao Đài, Hòa Hảo. Những
người dân làng chất phát mộc mạc là những nơi thờ cúng tổ
tiên khắp nơi tại Việt Nam. Cô Higgins hãy nói cho tôi
nghe, thứ ngôn ngữ nào của dân chủ nghị viện có thể giải
thích cho những con người như thế, khi ý nghĩa của dân
chủ chưa tìm ra trong ngôn ngữ của họ.”
Với quá khứ của thời kỳ thực dân trên đất nước VN,
Ông Diệm nói tiếp:’
“Những người Pháp ra đi không để lại cho chúng tôi
những di sản cao quý. Trong thời kỳ trước thực dân, ngay
trong các làng người dân có thể đọc và viết. Bây giờ chúng
tôi phải xây dựng lại... Nhưng chúng tôi phải xây dựng từ
từ, bắt đầu từ các làng xã. Tại các làng xã vốn đã có săn
truyền thống dân chủ và quyền tự trị của các làng xã. Đó là
một phần văn hóa Khổng giáo...Người dân làng gắn bó với
việc thờ cúng tổ tiên... Và chúng tôi muốn loại bỏ những
gốc rễ đã ăn xuống quá sâu trong truyền thống Khổng giáo
của chúng tôi là tinh thần nho quan hủ bại trong việc xây
dựng lại xã hội Việt Nam.
Tôi biết có nhiều người Mỹ và họ cho tôi là một thứ
quan lại (mandarin)... Nhưng tôi hãnh diện với vai trò của
tôi. Đó là những kinh nghiệm mà người Mỹ chưa từng trải
qua - là giới quan lại trong hệ thống Khổng giáo, nhưng
quan lại thì phải chính trực liêm chính. Đó là linh hồn của
dân chủ. Chúng đã đi ngược lại truyền thống tốt đẹp đó để
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 115
sao chép thứ “nho quan hủ bại” của quá khứ. Và chúng tôi
cũng muốn đem những di sản của chúng tôi vào thời hiện
đại. Người Mỹ của cô đã hoàn tất những công trình xây
dựng xã hội trên các dòng tư tưởng và những giá trị hoàn
toàn khác biệt với các giá trị trong văn hóa của chúng tôi.
Sau những cơn hỗn loạn tơi bời vừa qua của lịch sử Việt
Nam và những phá hoại của CS. Ưu tiên số một của Việt
Nam là ổn định và phải kiểm soát mọi việc thật chặt chẽ,
người dân phải tôn trọng chính quyền và tôn trọng luật
pháp quốc gia và có bổn phận bảo vệ trật tự quốc gia. Cô
Higgins có nhận thấy khi tôi chấp nhận chấp chánh để điều
hành guồng máy quốc gia,chính quyền trung ương đã đánh
mất hoàn toàn khả năng kiểm soát các vùng nông thôn.
Những người Mỹ hiểu được những gì vế truyền thống quan
lại với năm đức tính phải có mà Vương Dương Minh đã
đưa ra làm tiêu chuẩn cho những người chăn dân giữ nước
là chính trực liêm chính và coi dân như ruột thịt. Những
người Mỹ đang phá bỏ tâm lý của con người Việt Nam, và
họ cũng chẳng hiểu được là họ đang làm gì vậy.
Báo chí và truyền thông ngoại quốc chế diễu kỷ luật
quốc gia và tinh thần tôn trọng chính quyền của người dân
và cổ súy vinh danh các quyền tự do dân sự (civil liberties)
và các quyền khác của người dân cũng như cần phải có đối
lập chính trị (political opposition). Nhưng quốc gia của
chúng tôi đang đứng trước một cuộc chiến đấu vô cùng
cam go và vô cùng khó khăn trước sự sống và sự chết (life
and death). Ngay cả nước Mỹ và các quốc gia Tây Phương
cũng đã từng giới hạn các quyền tự do dân sự trong hoàn
cảnh khẩn cấp của chiến tranh”.
Về phía Mỹ Higgins muốn thấy nhận định của ông
Diệm như thế nào? Và ông Diệm cho biết:
“Ông Đại Sứ của cô đến và nói với tôi là tôi cần
phải tạo ra một khuôn mặt tự do (liberal image) cho đất
nước Việt Nam bằng cách cho phép các cuộc biểu tình trên
các đường phố và cho các đảng chính trị đối lập hoạt động
Trang 116 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
công khai... Tôi không thể nào nghe lời thuyết phục của
Tòa Đại Sứ, đây là đất nước Việt Nam - đây không phải
nước Mỹ. Chúng tôi có lý do chính đáng để cấm các cuộc
biểu tình trước lò lửa của chiến tranh sôi bỏng như thế này,
và lý do khác nữa là VC có mặt khắp mọi nơi ... như thế
chuyện gì sẽ xảy ra, và tai vạ nào sẽ mang đến cho chúng
tôi, nếu VC xâm nhập len lỏi và trà trộn trong các cuộc biểu
tình tại Sài Gòn này, chúng sẽ ném bom và sẽ giết hại nhiều
dân của chúng tôi, và có cả báo chí ngoại quốc. Làm sao
thoát hay chết cả lũ hay sao? Rồi đến những người thiên tả
sẽ nói gì về tôi? Và họ có tin chính quyền của tôi khi chúng
tôi nói rằng VC phải chịu trách nhiệm về những vụ giết
người hàng loạt như thế, cuối cùng chỉ có những người CS
là hưởng được tất cả lợi lộc từ những cơn hỗn loạn như thế!
Cô nên suy nghĩ nhiều về những thảm họa đã xẩy ra cho
người dân của chúng tôi tại thành phố Huế. Những quả
bom plastic do chính VC ném ra... nhưng người Mỹ của cô
đã thống trách ai? Họ đã đổ hết lỗi lầm lên đầu tôi - chỉ vì
tôi là Tổng Thống nước Việt Nam tự do, và họ đổ tội luôn
cho quân đội miền Nam của chúng tôi. Đây không phải trò
chơi đùa của bọn con nít. This is not child’s play.
Tôi đâu phải là người nặn ra những tên Việt cộng
khủng bố. Tuy nhiên khi tôi nỗ lực để bảo vệ che chở
những người dân của đất nước này, bảo vệ cả tính mạng
của người Mỹ bằng một hệ thống an ninh chặt chẽ và hữu
hiệu của cảnh sát và bảo vệ an toàn các đường phố, và khi
làm những việc khó khăn như thế, tôi đã bị mọi người lên
án là đàn áp Phật giáo”.
Khi đề cập đến những điểm đó, ông Diệm đột ngột
hỏi lại Higgins:
“Cô Higgind ơi! Cô có biết tôi nghĩ gì về chính
quyền Mỹ không? Phải chăng đơn giản tôi chỉ là một thứ
bù nhìn của người Mỹ hay sao? Hoặc như tôi vẫn thường
kỳ vọng - chúng ta có thể là những người cộng tác mật thiết
với nhau vì chính nghĩa chung (common cause) không ?
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 117
Tại sao tôi lại đặt ra câu hỏi đó - bởi vì tôi đang cố gắng trở
thành một người đồng minh trung thành với Mỹ. Tuy
nhiên, gần như ngày nào tôi cũng nghe phát thanh của Đài
Tiếng Nói Hoa Kỳ (the Voice of America) và những nhà
báo Mỹ thảo luận với Washington là - chúng ta duy trì để
ông Diệm tiếp tục nắm quyền hay chúng ta lật đổ ông
Diệm?
Chúng tôi là một nước nhỏ và nước Mỹ là một đại
cường quốc. Tôi tôn sùng nước Mỹ về nhiều lãnh vực.
Nhưng Tổng Thống Kennedy nghĩ thế nào nếu báo chí Việt
Nam tràn ngập các bài viết toàn là những chuyện vẽ vời ra
để kêu gọi người dân Mỹ lật đổ TT Kennedy?
Chúng tôi mang ơn những viện trợ của Hoa Kỳ.
Nhưng tôi muốn tin rằng nước Mỹ không phải vì viện trợ
Mỹ mà biến thành một thứ phương tiện để Mỹ kiểm soát
chính quyền Việt Nam. Chắc chắn chỉ có thể biện minh cho
sự có mặt của Mỹ tại Việt Nam vì quyền lợi quốc gia của
Hoa Kỳ đòi hỏi phải trợ giúp Việt Nam để ngăn chặn làn
sóng CS khỏi xâm lăng Việt Nam. Nếu sự thật là như thế
thì cung cấp viện trợ cho Việt Nam như một phần trong sự
hợp tác Việt-Mỹ trong chiến tranh để đánh bại CS. Nhưng
bây giờ tôi nghe là Hoa Kỳ sẽ cắt viện trợ nếu tôi không
làm đúng những gì người Mỹ đòi hỏi. Hành xử như thế là
quá kiêu căng phách lối khi đưa ra những đòi hỏi như thế
không? Hoa Kỳ có một nền kinh tế quá lớn lao và có nhiều
điểm đáng kính trọng tôn vinh. Nhưng với sức mạnh của
Mỹ là nước Mỹ đương nhiên có tất cả quyền để bắt buộc
đồng minh của họ phải thi hành những yêu sách của Mỹ tại
Việt Nam à?
Có phải chiến tranh Việt Nam đang diễn ra vô cùng
khốc liệt và nóng bỏng, và đây là một thứ chiến tranh mà
người Mỹ chưa bao giờ trải qua những kinh nghiệm như
thế này. Nếu như Hoa Kỳ đưa ra mệnh lệnh giống như bắt
buộc tên bù nhìn phải cúi đầu tuân hành của họ, như vậy
thái độ của Hoa Kỳ có gì khác thực dân Pháp không? Tôi
Trang 118 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
biết rõ Hoa Kỳ đang giao tiếp âm thầm với những người
Việt Nam ở đất nước này là những người đang âm mưu để
lật đổ tôi. Những người này sẽ chẳng làm được gì nếu
không có sự tiếp tay và chấp thuận của những người Mỹ.
Nhóm người Việt Nam này biết rõ điều đó”.
Higgins tiếp tục dò hỏi ông Diệm: “Thưa Tổng
Thống, có phải thực sự ngài nghĩ rằng Hoa Kỳ đang âm
mưu lật đổ ngài hay sao ?”
Ông Diệm liền đáp lại: “Tôi không nghĩ là ông Đại
Sứ Nolting muốn lật đổ tôi. Tôi cũng thấy không phải CIA
Richarson đang có âm mưu lật đổ tôi. Tôi biết có một số
viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là những người
đang sửa soạn đưa ra quyết định để loại trừ tôi. Tôi thực sự
không biết tương lai đi về đâu. Tôi cũng không thể nào ngờ
và tin được là Hoa Kỳ đang quay lưng hãm hại đồng minh
trung thành của họ, khi quốc gia đồng minh ấy đang bị bom
đạn chiến tranh khói lửa ngút trời vây hãm bốn bề như thế
này, và chúng tôi đang điêu đứng dấn thân trong cuộc chiến
đấu để mong sống còn tồn tại của một dân tộc đau khổ tột
cùng. Nhưng có một số người quá điên rồ mê sảng, và cả
thế giới hình như cũng điên rồ mê sảng như thế.
Cô Higgins ơi! Thêm nữa, tôi hy vọng chính quyền
Hoa Kỳ của cô nên có cái nhìn sát thực tế vào nhóm tướng
lãnh trẻ đang âm mưu chiếm đoạt chiếc ghế quyền lực quôc
gia. Nhóm tướng lãnh này có thực sự trưởng thành chín
chắn chưa, hoặc họ hiểu biết được bao nhiêu về phương
diện chính trị quốc gia của họ. Làm sao nhóm tướng lãnh
này có được một George Washington trong hàng ngũ quân
đội của chúng tôi ? ”
Higgins nhận thấy cho đến khi những người Phật
giáo tranh đấu tại Huế biến vụ Phật giáo thành bi kịch quá
lớn lao, trong cơn khủng hoảng lớn lao này lực lượng
chống đối TT Diệm có tầng lớp trí thức, và các tướng lãnh
cùng các sĩ quan cao cấp khác trong quân đội miền Nam.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 119
Tất cả nhóm người này chỉ là thiểu số rất nhỏ bé trong dân
số của quốc gia - họ thường xuyên tranh cãi ấm ĩ với nhau
về những chuyện rất tào lao, họ không thể nào đồng ý với
nhau về sự thay đổi chế độ hay làm bất cứ điều gì cho ra
hồn. Hành động với những “âm mưu” rồi kết cục cũng chỉ
là những “âm mưu” trong các quán cà-phê hay quán nhậu,
tạo ra cảnh tranh khôn tranh dại, chẳng bao giờ giải quyết
được chuyện gì, dù rất tinh ma quỉ quái đầy mánh khóe
nhưng thường không có mục đích rõ ràng ...
Để hỏi những kẻ âm mưu này xem có chương trình
gì thảo luận cho tương lai của Việt Nam không, từ đó mới
thấy những con người này có làm được gì khác không, có
“dân chủ” hơn không, hoặc có hiệu năng hơn chế độ của
ông Diệm hay không ? Những tướng lãnh và các sĩ quan
cao cấp không có được một viễn kiến cho sự thay đổi và
tiến bộ hơn một chính quyền dân sự mà họ đang âm mưu
lật đổ, nhưng họ còn nguy hiểm hơn,vì khi nắm giữ toàn bộ
quyền hành quốc gia để phá tan nát quốc gia nếu họ hạ bệ
ông Diệm.
Ông Diệm buốn bã trả lời: “It is impossible”.
“Điều đó không thể nào có được bởi vì những người
Mỹ nên hiểu rằng về sự độc hại của những đam mê quyền
hành vô độ trên đất nước này - thứ ham mê danh lợi đó là
sản phẩm của bản chất bán khai và lạc hậu (premitive and
backward) của đất nước Việt Nam phát sinh từ hậu quả xấu
xa của gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp. Ở đó mọi
người đoàn kết với nhau trên một điểm duy nhất, đó là lòng
hận thù đối với thực dân Pháp. Tại Hoa Kỳ ngay cả những
người Cộng hòa và Dân chủ đã đoàn kết với nhau trên rất
nhiều điểm - trên nền tảng triết lý về chính quyền, một
phần là chính sách đối ngoại. Nhưng tại Việt Nam chưa hề
có một sự thỏa thuận nào về chính quyền sẽ thành lập ra
sao. Có một số thành phần tư sản không hiểu được một
cách sâu xa cái gì đã gắn bó với toàn dân về ý nghĩa về một
nền độc lập của một quốc gia.
Trang 120 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Vì tầng lớp trí thức tư sản này là những phần tử
hưởng đặc quyền đặc lợi của thực dân Pháp và vì thế họ
khước từ không hợp tác tích cực trong việc xây dựng và
củng cố nền độc lập quốc gia. Chúng tôi nghe nói có một số
người Việt Nam đề nghị mở rộng sự bảo hộ Việt Nam của
Hoa Kỳ. Có lẽ họ hy vọng làm được như thế thì họ sẽ
hưởng lợi từ những âm mưu của họ. Nếu Hoa Kỳ ủng hộ
cho những con người như thế sẽ là một sai lầm lớn lao vô
cùng. Những dự mưu bất chính đó sẽ làm tan nát hết khát
vọng tự do của người dân Việt Nam muốn thoát ách nô lệ
của ngoại bang”. (ngưng trích).
Marguerite Higgins là một trong số rất ít nhà báo
ngoại quốc lương thiện trong cuộc Chiến tranh Việt Nam
(1955-1975). Và đây cũng là một trong số rất ít cuộc phỏng
vấn mà TT Ngô Đình Diệm đã giành cho một nhà báo
ngoại quốc. Rất tiếc, ba năm sau cuộc phỏng vấn TT Ngô
Đình Diệm, Bà Higgins cũng đã qua đời, ở tuổi 45, không
còn có mặt tại Việt Nam những năm tháng sau đó như một
chứng nhân lịch sử để so chiếu “những lời trối trăng của TT
Ngô Đình Diệm” với những gì xảy ra sau đó trên mảnh đất
bất hạnh bị xâu xé bởi cả thù lẫn “bạn”.
Ký Thiệt
Chú thích.
[1] If I die không thể dịch là Nếu tôi bị giết mà phải
dịch là Nếu tôi chết. Mà chết thì có thể là chết vì bệnh, chết
vì tai nạn thì không có lý do gì cụ Diệm lại yêu cầu phải trả
thù cho cụ. Có thể nguyên văn câu này không phải là If I
die, avenge for me. Nên đã có người dịch là Nếu tôi chết,
hãy nối chí tôi.
* LDS: Đảng Cộng Sản là đảng Cướp. Những tên lãnh đạo
đảng Cộng Sản là những tên Tướng Cướp.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 121
Hãy xóa bỏ
huyền thoại
Hồ Chí Minh
Hoàng Cơ Định, CVA 59
* Đã đến lúc công khai hoá vai trò điệp viên
Trung Cộng của Hồ Chí Minh.
* Để chấm dứt lừa bịp dân tộc Việt Nam từ
nhiêu thập niên qua.
Kính gửi quý vị cao tuổi, các anh chị em
và các cháu người Việt ở trong và ngoài nước,
Hôm nay là 17/2/2017, ngày đánh dấu 38 năm trước
đây Trung Cộng đã xua quân đánh phá và tàn sát đồng bào
chúng ta trải dài suốt vùng biên giới Việt Bắc, chúng tôi xin
chọn ngày này để tố cáo cùng bà con cả nước một mưu đồ
xâm lăng bội phần hiểm độc của kẻ thù phương Bắc, đó là
biến một điệp viên của họ thành một nhân vật người dân
Việt khắp nước phải tôn thờ…
Trang 122 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Từ mấy chục năm qua, cả dân tộc chúng ta và toàn
thế giới đã bị lừa bởi một vở tuồng mang tên Hồ Chí Minh
do diễn viên Hồ Tập Chương, bí danh Hồ Quang, đóng vai
chính với sự dàn dựng của lãnh đạo Trung Cộng và sự đồng
loã của đảng CSVN. Trong vở tuồng này nhân vật Hồ Chí
Minh đã được tô vẽ để từ một điệp viên chiến lược của
Trung Cộng đã trở nên “Bác Hồ” Quốc Phụ của cả dân tộc
Việt Nam.
Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc, cũng
chẳng là Nguyễn Tất Thành mà ngay cả Hồ Tập Chương
cũng chỉ là cái hình hài được gán cho vô số huyền thoại và
thần thánh hóa thành nhân vật “Bác Hồ”.
Hồ Tập Chương là một người Tàu gốc Hẹ, nói rành
tiếng Việt có tài diễn xuất như một ông già người Việt. Vả
lại về diện mạo, giữa người Tàu và người Việt cũng dễ lẫn
lộn, trừ một số nhỏ lãnh đạo CSVN ở trong âm mưu từ giờ
phút đầu, số còn lại chẳng có lý do gì để thắc mắc rằng Hồ
Chí Minh có phải là người Việt hay không. Chưa kể là vì a
dua phét lác tâng bốc BÁC để lấy điểm nên đã tự lừa dối
mình và bị tẩy não lúc nào không hay. Với đại khối người
dân sống dưới chế độ CSVN, Hồ Chí Minh trở thành một
thứ thần linh mà mọi phê phán chê bai, ngay từ trong đầu,
cũng không dám hé lộ, đến nỗi thơ BÁC ngang phè, chữ
viết của BÁC tệ quá gà bới họ cũng không cảm thấy, nhìn
thấy.
Hồ Chí Minh được chính thức trở thành Nguyễn Ái
Quốc do cuốn sách “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt
Động Của Hồ Chủ Tịch” tác giả là Trần Dân Tiên. Lối
thuật chuyện của Trần Dân Tiên khiến ai cũng nghĩ chính
Hồ Chí Minh là tác giả cuốn sách đó, viết ra vào khoảng
năm 45-46 để tự giới thiệu với đồng bào, sau cùng thì chính
CSVN cũng thừa nhận Trần Dân Tiên là bút hiệu của Hồ
Chí Minh. Nhưng điều này sai hoàn toàn.
Sự thật là cuốn sách “Những Mẩu Chuyện Về Đời
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 123
Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” nguyên tác bằng tiếng Tàu,
có tên là “Hồ Chí Minh Truyện” xuất bản vào tháng 6/1949
tại Thượng Hải, tác giả là Trương Niệm Thức. Ngay cả cái
bút hiệu Trần Dân Tiên cũng do Trương Niệm Thức đặt ra.
Cuốn sách “Những Mẩu Chuyện …” bằng tiếng Việt chỉ
được in ra lần đầu tiên tại Hà Nội vào năm 1955.
Về phía Trung Cộng, không rõ vì không bưng bít
nổi, hay cũng vì chẳng có nhu cầu phải duy trì bí mật tuyệt
đối, con người thật của nhân vật có bí danh là Hồ Chí Minh
dần dần xuất hiện qua nhiều tài liệu, hình ảnh.
Hồ Chí Minh tên thật là Hồ Tập Chương, bí danh
Hồ Quang, là người Tàu gốc Hẹ sinh vào năm 1901.
Nguyễn Ái Quốc, tức Nguyễn Tất Thành là người
Việt sinh tại Nghệ An vào năm 1890 đã chết tại Hồng Kông
vào tháng 6/1932 như chính tài liệu của CSVN đã xác
nhận.
Vào năm 2007, trong 1 tài liệu chung, cả Trung
Cộng lẫn CSVN đều thừa nhận Hồ Chí Minh thật sự là Hồ
Quang-Hồ Tập Chương:
Tài liệu ghi rõ: vào năm 1939 Hồ Chí Minh có bí
danh là Hồ Quang và 38 tuổi.
Trang 124 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Hồ Quang cũng là bí danh của Hồ Tập Chương và
Hồ Tập Chương 38 tuổi vào năm 1939.
Nếu Hồ Chí Minh là Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái
Quốc thì ông phải là 49 tuổi vào năm 1939.
Bàn tay bí mật của Trung Cộng trong việc nguỵ tạo
nhân vật Hồ Chí Minh là người Việt chỉ mang dấu ấn của
một thợ viết có tên là Trương Niệm Thức, trong khi toàn bộ
vở tuồng gian dối là do CSVN dựng lên với hàng ngàn tác
phẩm bịa đặt về “Bác”, nhiều khi mâu thuẫn nhau, và nay
họ đang bảo dưỡng một trái bom nổ chậm vĩ đại tại Ba
Đình.
Tấn tuồng dối trá Hồ Chí Minh đã có hậu quả ra
sao?
Hậu quả đầu tiên là các cuộc chiến chống Pháp và
xâm lăng Miền Nam Việt Nam (gọi là chống Mỹ), diễn ra
trong thời kỳ Hồ Chí Minh nắm quyền trong tay, có mục
tiêu mở rộng ảnh hưởng của Trung Cộng về phía Nam hơn
là cho nền độc lập và tự do của Việt Nam. Họ Hồ thật sự đã
“đánh cho Mỹ cút, đánh cho Tầu vào”.
Hậu quả thứ nhì, quan trọng không kém, là sự gắn
bó của Hồ Chí Minh với Trung Quốc đã tạo dựng nên một
tư duy lệ thuộc Trung Quốc kéo dài cho tới ngày nay, cho
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 125
nên dầu có cuộc xâm lăng của Trung Cộng tại biên giới
Việt Bắc vào năm 1979, khi CSVN có hành động vượt quá
ý muốn của TC, cũng không xóa bỏ được đầu óc lệ thuộc
vào Trung Quốc trong giới lãnh đạo CSVN ngày nay.
Hậu quả thứ ba là tư tưởng nô lệ trong đại khối
quần chúng vào một huyền thoại mà chế độ độc tài đã tô vẽ
nên qua nhiều thập niên, đó là “Huyền Thoại Hồ Chí
Minh”, đã giúp cho chế độ độc tài CSVN ngày nay dựa
dẫm vào huyền thoại này để tiếp tục thống trị, mặc dầu
nhân vật Hồ Chí Minh đã được phần lớn giải ảo tại chính
quê hương Trung Quốc của ông ta. TQ đã nói rõ rằng Hồ
Chí Minh là người Tàu có tên là Hồ Quang Hồ Tập
Chương, không phải là Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Tất
Thành, trong khi tại Việt Nam, một số đông vẫn tự bưng
tai, bịt mắt không dám nhìn vào sự thực.
Trang 126 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Huyền thoại Hồ Chí Minh đã biến khối dân Việt to
lớn thành một loại con tin tự trói buộc vào quá khứ lầm lỡ.
Huyền thoại đó chính là vật cản ngăn chặn người Việt giải
phóng tư duy của chính mình để tiến tới một xã hội tự do
chân thực và khai phóng với những tư tưởng tiến bộ.
Cần công khai hoá vai trò điệp viên Tàu của Hồ Chí
Minh và hạ màn vở tuồng lừa bịp dân tộc Việt Nam và toàn
thế giới từ thế kỷ trước của Trung Cộng.
Đây là lúc đại khối người Việt, ở hải ngoại và quốc
nội, đều cần phải nắm vững tai họa và mối nhục của dân
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 127
tộc từ bao năm qua để cùng viết lại trang sử cho dân tộc.
Huyền thoại Hồ Chí Minh là khởi điểm và cũng là
biểu tượng của thói gian dối, lừa bịp của chế độ CSVN.
Mọi người Việt Nam cần mạnh dạn xóa bỏ những
ngộ nhận trong quá khứ và gột bỏ những lề thói nô dịch,
những dấu vết xâm lăng mà bọn bành trướng phương Bắc
và tay chân tại nước Ta, đã áp đặt lên Việt Nam trong nhiều
thập niên qua, cần nhìn vào sự thực để cùng nhau xóa bỏ
Huyền Thoại Hồ Chí Minh.
Hãy dứt khoát trả lại Hồ Chí Minh-Hồ Quang-Hồ
Tập Chương cho Trung Quốc để chấm dứt các tai họa và
mối nhục mà Trung Cộng và họ Hồ đã gây ra cho dân tộc
Việt Nam chúng ta và chấm dứt tính chất phụ thuộc của
Việt Nam đối với Trung Quốc.
(Chi tiết bổ túc cho Lời Kêu Gọi này xin coi trong link:
http://loikeugoi17thang2.blogspot.com/2016/02/tai-lieu-bo-
tuc-cho-loi-keu-goi-17.html.)
Hoàng Cơ Định, CVA 59
Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma:
Trang 128 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
VIỆT NAM: Một dân tộc
đang đứng trước
họa diệt vong
Nguyễn Lương Tuyền, CVA 63
Khoảng đầu thập niên 70-80, Thượng tướng Trung
Cộng Trì Hạo Điền - lúc đó là Bộ Trưởng Quốc Phòng của
TC đã tuyên bố Trung Hoa cần một khoảng không gian cho
người dân của họ. Họ Trì là người chủ trương phải có chiến
tranh với Mỹ và Tây Phương trong công cuộc tìm “một
khoảng không gian cho người Tàu.” Thực sự, hiện nay
người Tàu đã có mặt tại khắp mọi nơi trên thế giới, từ
những nước hẻo lánh ở Phi Châu cho đến những nước kỹ
nghệ tiền tiến tại khắp mọi nơi trên quả địa cầu. Mặc dầu
với chính sách “một gia đình, một con” dân số Trung Hoa
vẫn tăng vọt. Hiện nay chế độ này đã bị nhà cầm quyền Bắc
Kinh bãi bỏ. Người ta chờ đợi bước tăng nhảy vọt của dân
số Trung Hoa tại lục địa trong một tương lai gần. TC cố
xuất cảng người sang các nước Phi Châu nhưng không
thành công vì phản ứng của các dân tộc sở tại.
Lúc còn sinh tiền, Mao Trạch Đông tuyên bố thẳng
thừng là Tàu không sợ chiến tranh nguyên tử với Mỹ (mà
Mao gọi là con hổ giấy) và Tây Phương. Lý do là sau chiến
tranh nguyên tử, dân Tàu vẫn còn sống sót vài chục triệu
người, đủ để làm bá chủ thế giới.
Chúng ta đang sống ở thế kỷ thứ 21, nhưng hiện
tượng nước lớn chiếm đóng nước nhỏ, tận diệt dân chúng
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 129
của các nước đó bằng mọi thủ đoạn tàn bạo trong đó có
việc đem dân Tàu sang lập nghiệp thật đông đảo, khiến dân
tộc sở tại biến thành thiểu số trên chính quê hương của
mình. Ngoài ra Tàu Cộng còn hủy diệt văn hóa của dân bị
trị. Thí dụ: TC đã phá hủy ngôi đền nổi tiếng Larang Gar ở
thủ đô Lassan, Tây Tạng vào ngày 20/7/ 2016. TC bỏ ngoài
tai những lời kêu gọi: đừng phá hủy ngôi đền này của toàn
thế giới. Ngôi đền này tượng trưng cho văn hóa của Tây
Tạng.
Tại Tân Cương, dân Duy Ngô Nhĩ, gốc Hồi Giáo,
dưới sự cai trị bằng bàn tay sắt của người Tàu, nay đã giảm
thiểu rõ rệt. Trung Hoa, dưới thời nhà Thanh, đã chiếm
đóng Tần Cương vào năm 1821. Năm 1949, người Hán ở
Tân Cương chỉ chiếm 7% dân số. Hiện nay dân Hán ở Tân
Cương là 40%.
Tương tự, ở Ngoại Mông, dân số ở đây cũng giảm
thiểu nhiều dưới chủ trương ''trường kỳ diệt chủng'' của
người Hán.
Viễn tượng một cuộc diệt chủng tộc Việt bởi người
Hán sau khi Trung Hoa biến Việt Nam thành một Đặc Khu
của Trung Hoa như Tân Cương, Tây Tạng... đang làm
người Việt tại khắp mọi nơi thấp thỏm lo sợ cho tương lai
của dân tộc.
Việc giao thiệp giữa Việt Nam và Trung Hoa từ xưa tới
giờ
Xin nói ngay, từ xưa tới nay, Trung Hoa luôn luôn
có ý định chiếm nước Việt, sát nhập vào nước Đại Hán.
Điều này nằm trong bản tính của người Hán. Đó là thôn
tính các nước nhỏ chung quanh.
VN có mặt hàng vạn năm trước Công Nguyên
(CN). Còn nếu tính từ thời kỳ các cơ cấu nhà nước được
hình thành thì mới khoảng 700 năm trước CN. Đó là nhà
nước Văn Lang của các Vua Hùng, được nhiều người ghi
Trang 130 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
nhận ra là một quốc gia có tổ chức đầu tiên của người Việt
với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên.
Theo một số sách cổ sử, các tộc người Việt (cả thảy
là 100 nhóm nên được gọi là Bách Việt) lập quốc lần đầu ở
Lĩnh Nam, bao gồm một giải đất rộng lớn ở phía Nam sông
Trường Giang, tức sông Dương Tử, bên Trung Hoa, đến
vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở Miền Bắc VN.
Truyền thuyết cho biết nhà nước của các nhóm Bách Việt
được hình thành từ năm 2879 trước CN tại vùng Động
Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Hoa ngày nay). Các biến động
trong nước Tàu vào thời kỳ này, khiến các nhóm Bách Việt
bị tan rã và bị đồng hóa. Đến thế kỷ 1 trước CN, các nhà
nước Việt đều bị người Hán thôn tính. Chỉ còn duy nhất
một nhóm đến lập nghiệp ở châu thổ sông Hồng để rồi
chống trả thành công các cuộc trường chinh xuống phía
Nam của người Hán, lập nên nước Việt ngày nay.
Nước Văn Lang lúc mới thành lập, năm 500 trước Công Nguyên
Từ hồi lập quốc tới bây giờ, VN luôn luôn phải đối
đầu với người Hán. VN đã bị người Tàu đô hộ rất nhiều
lần. Lần đô hộ lâu nhất đã kéo dài hơn 1000 năm, nhưng
người Tàu đã thất bại trong việc đồng hóa dân Việt. Văn
hóa Trung Hoa đã xâm nhập vào đời sống của người Việt,
nhưng biến dân Việt thành người Tàu thì không thể được.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 131
Trong những năm bị Tàu chiếm đóng, dân Việt luôn luôn
nổi dậy đánh đuổi thành công người Tàu ra khỏi nước Việt
Nam.
Người Tàu luôn luôn nuôi ý định chinh phục các nước
nhỏ ở chung quanh
Tháng 9/1959, tại Hội nghị Quân ủy Trung ương,
Mao Trạch Đông đã tuyên bố: chúng ta phải chinh phục trái
đất. Đó là mục tiêu của chúng ta.
Năm 1954, sau khi đã chiếm được cả nước Tàu,
đánh đuổi Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch ra đảo
Đài Loan, Mao Trạch Đông đã tuyên bố: vì các triều đại
vua Tàu, điển hình là nhà Mãn Thanh quá yếu nên các
cường quốc đã xâu xé nước Trung Hoa: Sau khi dùng chiến
tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã chiếm đi
nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung
Quốc. Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần
đảo Bành Hồ và Lữ Thuận; Anh chiếm Hồng Kông, Miến
Điện, Butan và Nepal; Pháp chiếm An Nam, Bồ Đào Nha
chiếm Ma Cao. An Nam là tên gọi nước Việt Nam, mà theo
TC, là một phần của nước Tàu. TC cho vẽ lại bản đồ nước
Tàu vào năm 1954. Trong bản đồ này, đế quốc Trung Hoa
bao gồm cả Việt, Miên, Lào, Thái Lan...
Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản VN: những kẻ đã toa
rập, dâng hiến đất nước cho Tàu để thực hiện mộng "làm
đỏ" dân Việt.
Pháp thuộc là giai đoạn lịch sử kéo dài 61 năm, bắt
đầu từ năm 1884 khi Pháp ép Triều Đình Huế phải nhận sự
bảo hộ của Pháp cho mãi tới năm 1945, là năm Pháp mất
quyền cai trị ở Đông Dương khi Thế Giới Đại Chiến thứ 2
nổ ra. Pháp đại bại trước sức tiến của Đức Quốc Xã.
Nhiều tài liệu khác cho rằng thời kỳ Pháp thuộc
phải được tính từ năm 1867 là thời điểm Nam Kỳ Lục Tỉnh
bị Nhà Nguyễn cắt nhượng cho Pháp. Pháp luôn luôn nuôi
Trang 132 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
tham vọng trở lại Đông Dương. Với sự thông đồng của Hồ
Chí Minh, lúc đó đang đứng đầu Chính Phủ Liên Hiệp,
Quân Pháp trở lại VN.
Bản đồ nước Tàu in năm 1954 bởi Trung Cộng
(đường chấm là biên giới của Trung Hoa do TC vẽ)
Chiến tranh chống Pháp luôn luôn được dân Việt
phát động với mục đích dành lại độc lập. Hồ Chí Minh và
đảng Cộng Sản của ông ta, sau thời kỳ hòa hoãn với quân
Pháp lúc đầu để họ rảnh tay tiêu diệt các đảng phái Quốc
Gia, đã độc quyền lãnh đạo, độc quyền điều khiển cuộc
kháng chiến chống lại sự đô hộ của Pháp.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Hồ Chí Minh phát
động cuộc Toàn Quốc Kháng Chiến, kêu gọi toàn dân
chống lại quân Pháp. Đó là Cuộc Chiến Tranh Đông Dương
số 1 giữa quân Pháp và dân Việt. Gọi đây là một cuộc
kháng chiến của toàn dân vì rất nhiều người quốc gia không
Cộng Sản đã gia nhập hàng ngũ kháng chiến. Cuộc chiến
với quân Pháp tại thành phố Hà Nội hoàn toàn do các Tự
Vệ Thành của Hà Nội phát động, điều khiển. Các Tự Vệ
Thành là các thanh niên trí thức tiểu tư sản của Hà Thành.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 133
Họ đã cầm chân quân Pháp trong gần 2 tháng, đủ thời gian
để dân quân của Hà Nội rút ra khỏi thành phố. Các Tự Vệ
Thành, sau này tập họp lại thành Trung Đoàn Thủ Đô, rồi
biến cải thành Trung Đoàn Tây Tiến. Nhà thơ Quang Dũng
là một thành viên của Trung Đoàn này.
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
...........................................................
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh vê đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Tây Tiến, thơ Quang Dũng)
Đảng CSVN độc quyền lãnh đạo cuộc "kháng chiến
chống quân Pháp". Chiến tranh Đông Dương chấm dứt năm
1954. CSVN chiếm được 1/2 đất nước kể từ Bắc Vĩ Tuyến
17. Người quốc gia dắt díu nhau về phần 1/2 quê hương, ở
phía Nam của vĩ tuyến 17.
Sự liên hệ mật thiết của CS Trung Hoa với CSVN
và Hồ Chí Minh được bắt đầu ngay từ lúc Hồ Chí Minh và
các đồng chí của ông ta nhận được viện trợ từ tay Trung
Cộng của Mao Trạch Đông.
Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng Sản
Trung Hoa hoàn toàn chiếm lãnh nước Tàu. Quốc Dân
Đảng của Tưởng Giới Thạch phải bỏ lục địa sang cố thủ ở
Đảo Đài Loan. Biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa
được rộng mở sau chiến thắng của Mao Trạch Đông. Người
Pháp đã ý thức được sự hậu thuẫn của thế giới CS đối với
đám CSVN của Hồ Chí Minh và các đồng chí của Hồ, cũng
như những khó khăn của quân Pháp trong những ngày
tháng sau đó.
Hồ Chí Minh đã sang Tàu để cầu viện nhiều lần kể
từ năm 49-50:
- Sau khi thành lập Việt Nam Cách Mệnh Đồng
Trang 134 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Minh Hội (VNCMĐMH) gọi tắt là Việt Minh (VM) vào
năm 1941, cướp được chánh quyền vào năm 1945, Hồ Chí
Minh đã bí mật sang Quảng Tây (Tàu) ngày 16/1/1950 để
cầu viện TC. Chắc chắn Hồ đã thương lượng việc bán nước
cho TC. Vì vậy tháng 10/1953, Chánh Vụ Viện tức Quốc
Hội của TC đã chánh thức đổi tên Ải Nam Quan thành Mục
Nam Quan.
- Hồ Chí Minh đã gặp Mao Trạch Đông, Chu Ân
Lai nhiều lần, khi thì bí mật khi thì công khai, thương thảo
để nhận được viện trợ đến từ Tàu cũng như ký các hiệp
định bán nước Việt cho Tàu.
Ngay từ năm 49-50, các cố vấn Tàu đã có mặt ở
VN. Trận Biên Giới, năm 49-50 được tướng Tàu là Trần
Canh thiết kế và điều động đã gây tổn thất nặng nề cho
quân Pháp. Sau khi Trần Canh phải về Tàu làm phó cho
Bành Đức Hoài trong chiến tranh Cao Ly, đối đầu với Mỹ
và Đồng Minh, một phái đoàn cố vấn gồm Vi Quốc Thanh
(đứng đầu phía quân sự), Lã Quí Ba (đứng đầu nhóm dân
sự) để cố vấn cho CSVN về mọi phương diện hành chánh
cũng như quân sự. Do đó CSVN đã điều hành, cai trị dân
tại các "vùng giải phóng" hoàn toàn rập theo khuôn Trung
Cộng: các chiến dịch như Cải Cách Ruộng Đất, Rèn Cán
Chỉ Quân, Phong Trào Tam Phản, Đấu Tố... đều được
phỏng theo các chiến dịch cùng tên ở bên Tàu.
Trận đánh nổi tiếng Điện Biên Phủ là do các cố vấn
Tàu Cộng chỉ huy đã đánh bại quân Pháp để đưa đến Hội
Nghị Genève, chấm dứt chiến tranh Đông Dương thứ nhất.
Điều này đã đưa đến việc chia cắt đất nước ở Vĩ Tuyến 17
vào ngày 20/7/1954.
CS Bắc Việt càng ngày càng lộ rõ việc bán nước
cho Tàu. Năm 1956, Ung Văn Khiêm đã tuyên bố Hoàng
Sa, Trường Sa là thuộc về Trung Quốc. Công hàm của Thủ
Tướng VNCS Phạm Văn Đồng công nhận quyền sở hữu
của TC đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 135
Năm 1974, khi Hải Quân của TC đánh chiếm
Hoàng Sa, CS Bắc Việt đã im lặng. Hoàng Tùng, Ủy viên
Trung ương đảng, Tổng biên tập báo Nhân Dân lại tuyên
bố: "thà để Trung Quốc quản lý (Hoàng Sa) còn hơn là để
đảo này vào tay bọn Ngụy phản động. Khi nào ta muốn,
Trung Quốc sẽ trả lại ta." Thực là một ý tưởng ngây thơ
đến độ ngu đần!
Từ năm 1959, sau khi bắt đầu cuộc chiến xâm lăng
miền Nam trên mọi lãnh vực: quân sự, kinh tế, chính trị...
CS Việt Nam đã nhận được rất nhiều viện trợ đế từ TC. Có
lúc 300000 quân TC đã có mặt tại Bắc Việt, đề phòng Quân
Mỹ và quân đội VNCH đánh ra Bắc.
Sự rạn nứt giữa 2 nước CS "anh em" chỉ bắt đầu sau
khi CSVN chiếm được toàn Việt Nam. Cao điểm của việc
tranh chấp này là cuộc chiến biên giới vào năm 1979 và
những cuộc đụng độ tiếp theo ở biên giới và ở trên biển.
Kết quả là VN mất một số đất đai ở biên giới kể cả Thác
Bản Giốc, Ải Nam Quan, núi Lão Sơn - một địa điểm chiến
lược ở vùng biên giới v.v... VN cũng mất thêm một số đảo
thuộc quần đảo Trường Sa. Mất đảo Gạc Ma là một bi thảm
có một không hai: Bộ trưởng QP của CSVN là tướng Lê
Đức Anh đã ra lệnh cho các người lính trên đảo không
được chống cự. Quân Tàu đã hạ sát các người lính VN, gần
1 đại đội, Lính Tàu đã bắn các người lính VN như bắn bia.
Khi CS sụp đổ ở Nga, ở Đông Âu, các lãnh tụ
CSVN - để bảo vệ chế độ như nguyên Tổng Bí Thư
Nguyễn Văn Linh đã tuyên bố: "thà mất nước chứ không
mất Đảng" - đã quyết định hàng phục kẻ thù truyền kiếp
Trung Cộng. Hiệp ước Thành Đô ký năm 1991 giữa các
lãnh đạo của 2 nước chắc chắn là một hiệp ước bán nước.
CSVN cố dấu kín nội dung của Hiệp Ước nhưng những "rò
rỉ"' đã hé lộ nội dung bán nước của hiệp ước này.
Cuộc chiến biên giới năm 1979 đã cho TC một bài
học về sức mạnh quân sự của họ. Họ cũng hiểu rõ ở thế kỷ
Trang 136 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
này chuyện xâm lăng 1 nước láng giềng bằng các phương
tiện quân sự việc "không có thể xảy ra được". TC ra sức
canh tân quân đội song song với các phát triển về kinh tế.
TC đổi chiến lược đối với VN, thay vì dùng quân sự, TC
dùng các phương tiện khác để chinh phục Việt Nam.
Bản đồ vê sự hiện diện của người Tàu trên toàn lãnh thổ VN
TC đang tiến chiếm Việt Nam bằng các phương tiện
phi quân sự trên bốn (4) mặt:
- Phía Đông, Hải Quân của TC đã chiếm cứ hoàn
toàn biển Đông. VN chỉ còn một vùng biển hẹp ở bờ biển.
Chất độc do các công ty Tàu thải ra Biển Đông cộng với
các ngăn cấm của Hải quân TC, ngư nghiệp của VN đang
bị tiêu diệt. Hàng triệu cư dân ở vùng ven biển trở nên thất
nghiệp trong một sớm một chiều.
- Phía Tây, các đập nước ở thượng nguồn của sông
Cửu Long, nằm sâu trong đất Tàu, có thể làm thay đổi lưu
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 137
lượng nước ở hạ nguồn của sông Cửu Long khiến Miền
Nam của VN bị hạn hán triền miên. Mùa màng ở vùng châu
thổ của Miền Nam VN bị ảnh hưởng xấu, tai hại nặng nề.
Người ta đã thấy ở một vài nơi ở Miền Nam, nạn đói đang
hăm dọa người dân. Vì hạn hán ở hệ thống sông Cửu Long,
nước biển mặn đã tràn vào đồng bằng Miền Nam. Có nơi bị
hóa mặn trên một diện tích rộng hàng chục cây số, vào sâu
trong đất liền. Việc trồng trọt bị ảnh hưởng nặng nề hơn
bao giờ hết.
- Di dân Tàu, vì lý do vào VN không cần Visa, đang
tràn ngập VN. Các đặc khu Tàu mọc lên như nấm. Người
Việt cũng như công an Việt không được héo lánh đến các
đặc khu này. Vùng Cao Nguyên đầy người Tàu làm việc
trong các cơ sở Tàu khai thác Bauxít. Có người cho rằng đó
là các lính TC trá hình. Không ai kiểm soát được.
Kinh tế của VN hoàn toàn bị TC khống chế. Hàng
TC, hàng độc từ TC hoàn toàn chi phối VN (hơn 90%). Các
công trình xây cất, các hãng kỹ nghệ đều do người Tàu
trúng thầu, làm chủ. Tóm lại về kinh tế VN đang thở bằng
"buồng phổi" của Tàu.
Về chính trị, CSVN hoàn toàn bị TC chi phối, điều
hành. Các lãnh đạo CSVN hay phải sang Tàu trình diện,
xin ý kiến.
Kết luận
Không cần tới giải pháp quân sự, TC đã thành công
trong công cuộc chiếm đóng VN. Các lãnh đạo của đảng
Cộng Sản Việt Nam đã tiếp tay cho quan thầy Trung Cộng
trong việc biến đất nước thành một đặc khu của Tàu. Lịch
sử của dân tộc sẽ nghiêm khắc lên án các tên CS tại Hà Nội
là một tập đoàn bán nước có một không hai trong lịch sử
Việt Nam.
Nguyễn Lương Tuyền
27.10.2016
Trang 138 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Cuối Năm Thân:
Nhìn Về Kinh Tế Việt Nam
ĐÃ ĐẾN LÚC
VIỆT NAM
PHẢI TỈNH NGỦ
Phạm Đỗ Chí, CVA 66
Cuối năm âm lịch, đời sống chính trị bên Mỹ sôi
động với lễ tuyên thệ của TT Trump và cuộc biểu tình
chống đối khổng lồ với 3 triệu người được ước tính tham
dự do Phụ Nữ Hoa Kỳ tổ chức và có rất đông các thành
phần dân chúng tham dự.
Hàng ngày lướt Internet thấy không khí rộn rịp
không kém ở Việt Nam cho tuần lễ cuối năm, nhưng là để
chờ...ăn Tết! Tin mới duy nhất là thành phần lãnh đạo của
chính phủ sang dự Hội nghị Davos ở Thụy sĩ, tổ chức hàng
năm vào dịp mùa đông lạnh lẽo này với sự tham dự của
nhiều lãnh tụ quốc gia và doanh nhân cấp CEO cũng như
một số khoa bảng nổi tiếng. Tuy không có cơ cấu chính
thức nhưng tổ chức này được coi là dịp móc nối ở cấp cao,
bàn về các vấn đề kinh tế lớn của thế giới, cũng như là dịp
cho một số quốc gia “tự quảng cáo” về mình cho vấn đề
phát triển và tìm đầu tư quốc tế. Đây có lẽ là trường hợp
của Việt Nam tham dự lần này ở cấp Thủ Tướng và có
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 139
chương trình được chuẩn bị chu đáo, với tin tức là do sáng
kiến Bộ Ngoại giao. Theo tuyên bố chính thức, Việt Nam
đã “tìm được sự hỗ trợ cho phát triển bền vững”.
PHẢI ĐỔI MỚI LẦN 2
Đây là chi tiết lạ nhưng không đáng ngạc nhiên khi
theo dõi các tin tức từ bên nhà vào các hội nghị trong nước
cuối năm, với những nguy cơ của một thế Vỡ Trận Tài
Chính. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chính thức cảnh
cáo Hội nghị Tài chính toàn quốc về nguy cơ Nợ công đã
vượt xa mức giới hạn là 65% của GDP, từ lâu đã không
được giới hữu trách xác nhận để giữ “màu hồng” cho nền
kinh tế và tiếp tục thu hút đầu tư ngoại quốc FDI. Sự cảnh
cáo chính thức này phản ảnh trung thực mối nguy của nền
kinh tế cuối năm, và có lẽ là động cơ khiến ông không có
mặt ở nhà vào dịp tiễn ông Táo, mà thay ông Táo bay sang
Thụy sĩ gặp các “thượng hoàng” của kinh tế thế giới để
“kết thân” và chờ lúc “cầu cứu” nếu cần?
Đâu là bối cảnh của những mối lo về kinh tế cuối
năm 2016 và sự sụp đổ có thể tới năm 2017 về ngân sách
quốc gia nói riêng và nền tài chính nói chung?
Tại sao Kinh Tế Việt Nam cần Đổi Mới lần nữa
thay vì Một Chương Trình Tái Cơ Cấu Tốn Kém?
Theo tin tức từ Bộ Kế hoạch Đầu tư dịp cuối năm
2016, chương trình đầu tư được gọi là Tái Cơ Cấu (TCC)
đòi hỏi một số “vốn” khổng lồ là mười triệu tỷ VNĐ hay
480 tỷ USD cho thời gian 5 năm 2016-20. Nhưng không
nêu rõ là tiền này sẽ lấy từ đâu ra, ngân sách hay vay mượn
nước ngoài?
Một phát biểu chuyên gia, nói là sẽ có thể có tài trợ
từ Quỹ Phát Triển Hạ Tầng do Trung hoa bảo trợ, là mơ hồ
và thiếu trách nhiệm trong tinh thần muốn “thoát Trung” từ
nhiều thành phần xã hội.
Trang 140 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Tính ra sẽ cần gần 100 tỷ đô la đầu tư TCC cho mỗi
năm trong 4 năm sắp tới từ 2017 đến 2020, tức một nửa của
GDP năm 2015 (199 tỷ) và gấp đôi tiền tích lũy (tiết kiệm
của cả nước) hàng năm khoảng 50 tỷ. Đó là một con số
không tưởng. Và không rõ tái cơ cấu gồm những đề mục
hay các dự án nào mà tốn kém như thế, và hiệu quả ra sao
với chỉ số ICOR (7-8) đã rất lớn của Việt Nam do hiệu quả
đầu tư vốn rất kém trong vùng.
Thật sự, theo một số chuyên gia trong và ngoài
nước đã nói lên sự thực tại một cuộc Hội thảo tại Sài Gòn
cuối năm 2016 thì Việt Nam hiện không có tiền và không
cần tiền để đầu tư lớn và tốn kém như vậy. Thực trạng ngân
sách 2016 và dự báo 2017 là tiền thu ngân sách chỉ vừa đủ
để trả nợ trong và ngoài nước và chi thường xuyên. Đầu tư
chính phủ gần như hoàn toàn dựa vào tiền đi vay. Lấy đâu
ra để đầu tư tái cơ cấu như đề ra như trên?
Chương trình Đổi Mới của nền kinh tế Việt Nam
gần sụp đổ vào các năm 1986-1990 đã dựa vào đổi mới cơ
chế và tạo thành công kinh tế đáng kể trong hai thập niên
vừa qua, mà không cần đầu tư nhiều, là thí dụ về thay đổi
cơ chế sản xuất và cho giá gạo trong nước được ấn định tự
do theo thị trường.
Hai thí dụ quan trọng cho việc tái cơ cấu mà cần ít
vốn hơn là; (i) sự phối nhập giữa các hãng công nghệ trong
nước với các chương trình đầu tư của nước ngoài (FDI,
Foreign Direct Investment) để học hỏi và áp dụng công
nghệ cao hiệu quả từ bên ngoài như bài học từ kinh nghiệm
Đài Loan và Hàn quốc; và (ii) tái phân bổ nguồn lực từ khu
vực công nghệ sang khu vực dịch vụ và nông nghiệp để có
thể làm cho mức sản xuất nội địa GDP (Gross domestic
product ) tăng trưởng nhanh hơn và hiệu qủa hơn.
Nhưng quan trọng nhất, Đổi Mới lần nữa bây giờ,
theo ý kiến từ trong hay ngoài nước cũng phải dựa vào cải
cách thể chế cơ bản, là :
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 141
(1) Phải dành nhiều tự do hơn cho khu vực kinh tế
Tư Nhân;
(2) Phải cởi trói Doanh Nghiệp và
(3) Tiến hành giải thể hay cổ phần hóa nhanh chóng
khối lượng Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đang tiếp tục
làm ăn thua lỗ và khống chế toàn nền kinh tế.
Chính sách tái cơ cấu kinh tế mới này có ý nghĩa và
thích hợp cho vai trò một chính phủ muốn “kiến tạo” như
Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc từng tuyên bố nhiều lần.
Nhưng chủ trương này chỉ có thế thành công khi Nhà nước
từ bỏ vai trò “chủ đạo”, không nhằm điều khiển hay tạo
dựng tất cả thay đổi về chính sách và điều kiện thực hiện,
mà chỉ hướng dẫn, kích thích các sáng tạo từ thị trường.
Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân cũng phải được
tôn trọng và cổ vũ để phát triển kinh tế cả nước dựa theo thị
trường tự do thật sự. Trong điều kiện này, nền kinh tế mới
phải xóa đi chủ trương mơ hồ của đảng Cộng sản Việt Nam
được gọi là “Xây dựng và phát triển đất nước theo mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Chính nhà nước Việt Nam cũng chưa định hình
được thế nào là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”, nhưng nhiều chuyên gia kinh tế hàng đầu trong và
ngoài nước đều đã khuyến cáo nó là lực cản phát triển cần
phải được dứt khóa cắt đứt nếu Việt Nam muốn thành
công.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần có một chương
trình cải cách thể chế chính trị và chính sách kinh tế một
cách toàn diện. Ưu tiên là phải “cởi trói” cho doanh nghiệp
tư nhân để tạo cú hích cho tăng tốc phát triển nền kinh tế.
Chương trình đó có thể bắt đầu với Sàigon là thí điểm, sau
đó có thể lan rộng ra các thành phố lớn như Hà nội, Đà
năng, Hải phòng, Cần thơ như đã được bàn tại “Diễn đàn
cấp cao Việt Nam 2016 : Ra khơi thuận buồm xuôi
Trang 142 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
gió” (tiếng Anh : Vietnam Summit 2016 - Smooth sailing
ahead), tổ chức tại Sài Gòn trong hai ngày 2 và 3/11/2016.
ĐẦU TẦU SÀI GÒN
Nhưng làm sao để Sài gòn tiếp tục giữ vị trí đầu tàu
kinh tế của cả nước Việt Nam như chủ trương của đảng
CSVN ?
Thứ nhất, cần khắc phục những khó khăn đang
“trói buộc” sự phát triển của doanh nghiệp, những rào cản
phát triển của thành phố này nói riêng và cả nước nói
chung.
Thứ hai, Sài gòn cần xây dựng một chương trình
cải cách thể chế kinh tế một cách toàn diện, gồm cải cách
hệ thống quy định pháp luật, chính sách kinh tế và cơ chế
thực thi.
Thứ ba, Sài gòn có thể phát triển thành Đặc khu
Kinh tế và Thương mại dựa trên ba trụ cột kinh tế :
(1) Thành lập và phát triển Trung tâm Công nghệ
cao vào năm 2018, gồm xây dựng Quy chế đặc biệt cho
Khu Công Nghệ cao, khuyến khích phát triển doanh nghiệp
mới đi đôi với phát triển giáo dục và công nghệ cao;
(2) Chuẩn bị cho việc hình thành Trung tâm Tài
chính vào năm 2020;
(3) Phát triển hệ thống du lịch hạng cao hơn hiện tại
với môi trường sạch đáng sống.
Các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam cũng
phải quan tâm đến điều quan trọng nhất trong cải cách thể
chế kinh tế là xây dựng pháp luật công bằng, bình đẳng về
cơ hội và tiếp cận nguồn lực giữa doanh nghiệp công và
doanh nghiệp tư nhân và ngay trong nội bộ doanh nghiệp tư
nhân. Cũng phải xoá bỏ những ưu tiên chỉ dành cho một số
ít doanh nghiệp (thí dụ để một số ít nhà đầu tư “sân sau”
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 143
hưởng lợi lớn).
Trở lại với đầu đề chính về đe dọa cho nền kinh tế
Việt Nam cho năm mới, song hành với nợ công thật sự (kể
cả nợ của các xí nghiệp quốc doanh) được ước tính đã lên
tới trên 100% GDP, còn phải kể đến “cục đông” là món nợ
xấu ngân hàng vượt trên 10% theo ước tính quốc tế (chứ
không phải con số “đẹp” chính thức công bố là 3%). Đây là
hai lý do quan trọng có thể đưa đến một thế vỡ trận tài
chính cho năm 2017.
Nhưng lý do chính yếu cho kinh tế Việt Nam còn
phát triển tạm khá chung quanh mức tăng 6% của GDP nhờ
vào lượng đầu tư dồi dào FDI trên 10 tỷ USD mỗi năm
trong các năm vừa qua, và tỷ giá của Đồng VN cũng theo
đó đứng vững, phần lớn dựa vào hy vọng của hiệp định
TPP tương lai từ năm 2017.
Nhưng từ ngày 23/01/2017 vừa qua, chính phủ
Trump đã chính thức tuyên bố rút khỏi TPP. Với thực tế đó,
FDI liệu còn đóng nổi vai trò trụ cột đó cho Việt Nam
không? Và tỷ giá của ĐVN sẽ ra sao nếu đồng Nhân Dân
Tệ của Trung hoa sẽ xuống dốc không phanh với các biện
pháp chế tài thương mại mới của Hoa kỳ và tiếp đó là
khủng hoảng lòng tin của dân Tàu với đồng tiền của nước
họ?
Ở thời điểm giao mùa giữa hai năm cũ và mới, tất
nhiên điều mơ ước của người viết cho quê hương cũ của
mình là một đất nước tự do, thanh bình và phát triển.
Những nhà lãnh đạo hiện thời có vẻ bắt đầu tỉnh ngủ về
thực trạng kinh tế. Nhưng liệu họ có sớm tỉnh ngủ cả về
chính trị để thực hiện cho Việt Nam những cải tổ về chính
trị như Myanmar (Miến Điện) đã làm cho đất nước họ
trong vài năm gần đây? -/-
Phạm Đỗ Chí, CVA66
Trang 144 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
CHU VĂN AN
VÀ TÔI
Võ Kỳ Điền, CVA 60
Những ngày mới định cư ở Montréal, một thành
phố lớn của Canada, tôi được người bạn thân rủ đi chơi
Québec. Thành phố nhỏ, đẹp và xinh xắn y như một thành
phố bên Tây (vì lúc nhỏ thường coi mấy hình chụp phong
cảnh nước Pháp trong các sách vở, tạp chí.) Hai đứa đi
thang lang hết đường nầy sang ngỏ kia, cảnh đẹp như tranh
vẽ, tôi là nhà quê ra tỉnh, đâm mê man, ngó ngang ngó dọc.
Chợt thấy một nhà hàng chuyên các món ăn Pháp thuần
túy, có quảng cáo các món ăn ngon thêm câu ngộ nghĩnh -
quí khách được coi tay miễn phí. Quảng cáo nầy hấp dẫn
quá, tôi khoái chí kéo anh bạn bước vô liền. Sau khi ăn
uống no nê, tôi đến bà thầy ngồi phòng bên cạnh, rụt rè
chìa ra cái biên lai ăn uống và nhờ coi tay dùm. Gọi là bà
chớ thật ra cô đầm nầy còn trẻ, độ chừng trên dưới 30, đặc
biệt là khá đẹp. Bà nắm lấy bàn tay tôi, tôi cảm thấy tay bà
mát rượi, da đầm sao mà mượt mà, êm ái như nhung. Bà
cười nheo mắt, chắc tại tôi hơi run…
Bà nói nhiều chuyện về đời tôi, đại khái tánh tình ra
sao, ưa màu gì, tôi ưa số mấy, giao thiệp với bạn bè và hạp
với bạn gái hay bạn trai… Tôi nghe vui vui và bất chợt bà
nói câu nầy : ông là người có tài nhưng không biết xử dụng
cái tài đó. Ông làm cái gì cũng bỏ dở nửa chừng… rồi bà
cười và kết luận -cho nên kể như ông không có tài năng gì
ráo trọi, làm cái gì không ra cái gì. Lúc đó tiếng Tây tôi còn
kém, giọng Québécois lại khó nghe, đại khái tôi hiểu ý bà
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 145
là như vậy. Tôi tự ái, hỏi lại -xin bà vui lòng giải nghĩa cho
tôi hiểu rõ hơn chỗ nầy… Bà chỉ cho tôi đường chỉ tay
ngoằn ngoèo -rồi giải nghĩa, khi nhỏ, ông sanh ở một nơi
cư ngụ một nơi, không theo một trường nào lâu dài, nay
học trường nầy, mai học trường kia, làm quen bạn gái, nay
cô nầy mai cô kia, chuyện gia đình cũng vậy, nghề nghiệp
cũng vậy, nay làm nghề nầy, mai làm nghề kia, nhà cửa
cũng vậy, các trò chơi trong đời cũng vậy… Ông mê thì mê
mang, hết mê rồi ông bỏ liền không luyến tiếc, tình cảm thì
say đắm như nghệ sĩ nhưng lý trí thì của một ông thầy giáo
chừng mực, thành ra đời ông cái gì cũng được có phân nửa,
làm sao mà thành tựu lớn cho được, phải không nào, ông
thử nghiệm lại coi. Rồi bà cười, ngay cả sống ở Việt Nam
cũng có phân nửa đời thôi, bây giờ ông ở Canada nè.. mà
chưa chắc ở Montréal hoài đâu, rồi ông sẽ đi nữa…
Mùa xuân nầy, tôi đến cư ngụ tại Toronto. Buổi trưa
nhận cú phone người bạn mới rủ viết về những kỷ niệm học
ở Chu Văn An khiến tôi đâm nhớ miên man và lan man
những thầy những bạn Chu Văn An, Chu Văn An….
Những ngày tháng mới lớn. Lời của bà đầm chợt nhớ -ông
đâu có học trường nào lâu. Quả đúng y như vậy, chuyện
học hành của tôi cũng lung tung, tôi học Chu Văn An chỉ
trọn vẹn có một năm, năm Đệ Nhứt, niên khoá 1959 -1960,
tính đến nay là một đoạn thời gian quá dài đối với một đời
người, có chuyện nhớ và chuyện quên…
Nhớ lại hồi đó, tôi hoàn toàn không có ý niệm nào
về việc học, việc chọn ngành nghề. Hễ lớn lên là phải đi
học, chớ không phải đi chơi. Như vậy là làm đủ bổn phận
rồi, mà bổn phận đối với ai, đối với cái gì thì không biết, vì
có ai nói gì đâu mà biết. Đậu xong Tú Tài Nhứt, khoẻ quá
tha hồ đi chơi, đi chơi… Có anh bạn hỏi -mầy nộp đơn
trường nào chưa. Tôi trả lời tỉnh queo -chưa, còn lâu mà.
Anh ta trợn mắt, lâu gì mà lâu, còn có mấy ngày nữa là hết
hạn nộp đơn vô mấy trường công rồi, coi chừng không kịp,
Trang 146 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
nộp đơn xong còn phải chờ cứu xét chấp thuận, nếu được
thì hay quá, không được thì năm nay mầy học ở đâu?
Tôi nghe mà đâm lo -theo mầy thì bây giờ tao phải
làm sao. Anh bạn nói, mầy chỉ còn cách nộp đơn vô học
Chu Văn An thôi, vì mầy đậu Bình Thứ, đương nhiên được
nhận, chớ mầy nộp Pétrus Ký thì phải chờ cứu xét, rủi đông
quá, thì có thể không được.
Tôi bèn ba chưn bốn cẳng xách đơn vô nộp Chu
Văn An mà run trong bụng. Việc được học trường nầy là
đương nhiên rồi vì có quy định rõ ràng cho người đậu cao,
nhưng không phải run vì việc đó, mà tôi là dân Nam kỳ,
đáng lẽ phải xin học Petrus Ký. Trường Chu Văn An là của
Bắc kỳ, nghe nói học sinh Bắc kỳ khôn ngoan, lanh lợi và
ma mảnh, lại ưa đánh lộn lắm. Tụi nó đánh lộn với tụi học
sinh Kỹ Thuật Cao Thắng hà rầm.. tụi Cao Thắng là dân
thứ dữ, ưa dùng bù lon, kềm búa, mà không sợ, lại dám
đánh lộn thì chắc là phải dữ hơn, tôi đoán vậy. Tôi vốn ở
tỉnh nhỏ và chưa quen gặp gỡ bạn bè người Bắc nhiều, thuở
đó người Bắc và người Nam còn xa lạ lắm, chớ không như
bây giờ.
Trường là một dãy lầu hai từng, trong khuôn viên
trường Petrus Ký, trên đường Cộng Hoà, nó vốn là ký túc
xá cho học sinh nội trú, bây giờ được dành ra cho Chu Văn
An từ ngoài Bắc di cư vô, có hàng rào kẽm gai ngăn đôi hai
trường ra. Ở ngay cổng ra vào cạnh Petrus Ký có quán bán
bánh cuốn nóng nhưn thịt của vợ con bác tùy phái. Bánh
cuốn rất ngon và thơm lừng mùi củ hành phi, không lúc nào
vắng khách hàng. Tôi còn nhớ, có lần đương học, đói bụng
quá thèm ăn bánh cuốn, trốn học lén ra quán ngồi ăn, bị
ông Tổng (giám thị) Lãng đi ruồng, chạy trốn muốn chết,
ngày đó bỏ học, lang thang ra chợ Sài Gòn, chun vô coi hát
cho hết ngày. Ngày đầu tiên vào lớp, tự nhiên đám Nam Kỳ
tụi tôi được chừng chục đứa, sớm làm quen nhau và giành
ngồi hết mấy dãy đầu bàn. Mấy bạn còn lại ngồi chỗ nào,
tôi không nhớ. Tôi may mắn gặp lại được các bạn thân là
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 147
Huỳnh Thiếu Hoa và Chiêm Thanh Hoàng, hai bạn nầy
cùng học Văn Lang với tôi năm vừa qua. Bàn sau lưng tôi
là Triệu Quốc Mạnh, Trương Bửu Sum, Võ Văn Nho,
Huỳnh Quảng….
Như vậy trước là thầy, xung quanh tôi là bạn thân
hết, có gì mà sợ. Mà quả tình cũng không có gì đáng sợ.
Ngày qua ngày, các bạn Bắc cũng hiền lành, cũng ham học,
cũng lễ phép… y như tụi Nam chúng tôi và cũng chưa thấy
tụi nó đánh lộn lần nào. Nhưng mà chưa chắc giống y, hình
như tụi Bắc học giỏi hơn. Tôi thuộc hạng thông minh và
khá giỏi, ở mấy trường cũ, Nguyễn Trãi, Văn Lang… thầy
giảng bài là hiểu ngay liền, không thua đứa nào. Nhưng mà
bây giờ mỗi lần làm bài tập so điểm lại thua vài đứa, nhứt
là Nguyễn Hoàng Giáp, ngồi bên góc trái, tận phía sau. Tay
nầy ốm ốm đen đen, hơi xấu trai, lầm lầm lỳ lỳ mà sao học
hay quá, môn gì cũng nhứt lớp. Tôi đâm ra khó chịu, ganh
tức và tìm cách chọc phá.
Nguyễn Hoàng Giáp ngồi tuốt phía sau. Mỗi lần
thầy viết bài học trên bảng, thì Giáp đi lên trên cạnh chỗ tôi
ngồi, đóng cánh cửa sổ lại, để ánh sánh đừng phản chiếu
chói chang, cho dễ thấy. Tôi chờ khi Giáp quay lưng, đưa
tay đẩy nhẹ cánh cửa mở ra và ngồi im. Khi Giáp quay về
tới chỗ, thì vẫn không đọc được bài. Giáp tưởng là cửa
đóng không kỹ bị gió thổi tung ra.. Giáp kiên nhẫn đi trở
lên và đóng cửa lại kỹ càng, khi quay lưng đi thì Trương
Bửu Sum lẹ tay tháo chốt cửa và mở toát ra… rồi cũng ngồi
im ngoan ngoãn. Giáp trở về, nhìn lên bảng đen chói chang,
biết có đứa phá và không biết đứa nào, giận dữ và chửi
đổng -đồ khốn lạn, lạn, lạn, lạn,… giọng Bắc của Giáp
nặng sệt và kỳ cục, giọng Nghệ An-Hà Tĩnh gì đó, vang
vang giữa lớp nghe lớn lắm, chữ lạn kéo dài ngoằn. Mấy
thằng Nam tụi tôi nháy giọng của Giáp chửi lại -đồ khốn
lạng, cũng lớn không thua gì giọng Giáp. Giọng Nam của
chúng tôi cũng nghe kỳ cục lắm, khốn lạng, lạng, lạng…
Cả lớp lúc đó không còn Nam, Bắc gì hết, xúm nhau lại mà
Trang 148 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
cười rần rần. Giáo sư đang giảng bài là cha Khiết, dạy
Triết, cha mặc áo chùng thâm, hiền thiệt là hiền, giữa trưa
nóng bức, nghe cả lớp cãi lộn cũng ngừng lại hỏi, các con
làm gì mà ồn thế…
Bạn Nguyễn Hoàng Giáp nghe đâu sau nầy là Tiến
sĩ Dược Khoa và là giáo sư Đại Học Dược rồi hình như
nhập ngũ, bạn có thời là Giáo sư Trường Võ Bị Đà Lạt hay
Kinh Tế Chánh Trị, Kinh Doanh gì đó, tôi nghe như vậy
mà không chắc… Nếu bạn Giáp tình cờ mà đọc được
những dòng nầy thì cười lớn một phát nghen và cứ tha hồ
chửi tiếp, cái thằng Võ Tấn Phước nầy khốn lạn thiệt tình…
Cha Khiết, dạy môn Triết thiệt là khó hiểu. Cha
không soạn bài, mỗi buổi có giờ dạy thì cha cầm cuốn Triết
Học Khảo Luận của Cao Văn Luận, vừa đọc vừa giải nghĩa.
Giọng cha trầm trầm như đọc kinh. Giữa trưa, nóng bức,
lớp học lại đông, không ai còn ham muốn nói chuyện nữa,
thiệt là buồn ngủ hết sức. Vậy mà có buổi vui ghê, quên
luôn cả việc ngủ gục. Số là vào những ngày gần lễ Giáng
Sinh, cha không dạy bài trong chương trình. Cha nói
chuyện Chúa Hài Đồng được sanh ra ở thành Bethlem.
Chúa ra đời ở máng cỏ ở một xứ sa mạc hoang vu, chuyện
sanh nở chỉ trong vài giờ mà cha nói gần hai tuần, vẫn chưa
hết… Sau khi nghỉ lễ vô, thì cha nói tiếp những đêm vui
Giáng Sinh ở Pháp, ở Anh, ở Hoà Lan, ở Na uy… rồi cuối
cùng cha nói tới lễ Giáng Sinh Hà Nội. Có đứa vọt miệng
hỏi -thưa cha, tại sao trong đêm Giáng sinh người ta phải
ăn réveillon bằng ngỗng. Cha nói đó là tập tục ở Âu Châu,
có từ lâu đời. Sau đó cha nói tiếp, ở ngoài Bắc đâu có
ngỗng mà ăn, người ta ăn réveillon bằng thịt chó, có gì ăn
nấy chớ không bắt buộc.
Việc ăn thịt chó lúc đó còn quá xa lạ đối với học
sinh Nam chúng tôi và điều đó cũng là thứ cấm kỵ. Cả đám
đâm ra vô phép hỗn hào với cha : -Cha ăn thịt chó, cha ăn
thịt chó… Tôi cứ tưởng là cha sẽ giận dữ và rầy la, nào ngờ
cha cười hiền hoà và nói -ừ ừ, cha có ăn và thịt chó ngon
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 149
lắm. Chúa sanh ra muôn loài để cho người ăn thịt như mình
ăn thịt bò, thịt heo, thịt gà vậy… Nghe cha nói, tôi chưng
hửng và thấy mình sai lầm.
Cha Trần Trinh Khiết chắc đã mất từ lâu rồi, tôi
nghĩ như vậy nhưng dáng điệu, cử chỉ khoan hoà, từ ái của
cha, tôi còn nhớ mãi. Cha đúng là nhà tu hành và là nhà
giáo đầy đạo hạnh. Tôi đem tâm phân biệt, chấp trước nặng
nề mà phê phán cha, khó mà tha thứ được, vậy mà cha
không để ý đến, coi như là không có… Bây giờ đây tuổi
đời khá cao, chuyện đời đã trải, ngọt bùi, chua cay, đắng
chát, nếm hết, tôi kính phục thương mến cha nhiều hơn thời
còn đi học. Tôi tuy học được những bài Triết khô khan
nhưng không học được công phu hàm dưỡng của cha. Lớp
Đệ Nhứt của tôi năm ấy 47 học sinh, thấy chơi nhiều hơn
học. Vậy mà thi kỳ nhứt đậu ngay 43 đứa và 4 bạn còn lại
cũng đậu nốt kỳ nhì. Toàn là đậu hạng cao, chỉ có vài bạn
đậu Thứ. Ngộ ghê chưa. Chu Văn An thiệt là giỏi.
Năm ngoái tôi có nói chuyện với bạn Chu Văn An
cũ là Chiêm Thanh Hoàng, Thiếu Tá Lôi Hổ hay Biệt Kích
gì đó, chủ tịch Hội Ái Hữu Võ Bị Đà Lạt, hiện nay ở
Boston. Hoàng nhắc lại Chu Văn An của chúng tôi ngày
xưa và hỏi tôi còn nhớ Triệu Quốc Mạnh. Tôi nói -còn chớ
sao không, cái thằng hiền lành, mập mập. Hoàng cười -nó
mà hiền, mầy có biết bây giờ nó làm gì không. Tôi trả lời
tỉnh queo -không. Rồi hỏi -nó làm gì, khá không, có vượt
biên như anh em mình không ?
Hoàng cười chua chát và cho tôi biết, sau khi
Nguyễn Văn Thiệu từ chức thì Trang Sĩ Tấn cũng từ chức
theo, luật sư Triệu Quốc Mạnh thay thế chức vụ Tổng
Giám đốc Công An Cảnh Sát thành phố Sài Gòn trong
Chánh phủ Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Sau
ngày mất nước thì Triệu Quốc Mạnh được trọng dụng và
làm lớn hơn nữa, nó vượt biên như anh em mình để làm
chi.
Trang 150 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Bà thầy coi chỉ tay nói tôi nhiều chuyện, đúng hay
sai thì bây giờ chưa biết được. Nhưng chuyện bà nói tôi
thường hay đổi trường và học trường nào cũng chỉ có phân
nửa thì thiệt là đúng. Nếu tôi học một trường thiệt dài, thiệt
lâu như các bạn ở Chu Văn An, Pétrus Ký, Võ Trường
Toản, thì có thể hy vọng tôi sẽ giỏi hơn nhiều. Tôi chỉ học
Chu Văn An vỏn vẹn có một năm, tiếc quá…
Hình ảnh trung học Chu Văn An tọa lạc khu ngả sáu
Cộng Hoà, cạnh bên Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành với hai
dãy lầu im lìm, cũ kỹ rêu phong, thấp thoáng trong các tàn
lá còng xanh muớt, vẫn còn lưu luyến hoài trong mớ ký ức
bề bộn…(sau đó trường sở đổi thành Đại Học Sư Phạm và
tôi cũng lại tiếp tục học nơi đây). Nhớ về ngôi trường cũ
một thời chợt đến, chợt đi, tuy thời gian có ngắn, có dài
nhưng đó cũng là khoảng thời gian đẹp của tuổi hoa niên.
Tính ra ngày đó tôi còn trẻ măng, bây giờ già ngắc già ngơ,
gần nửa thế kỷ rồi còn gì. Tìm đâu cho ra thời thơ mộng
cũ?
Võ Kỳ Điền
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 151
Lớp P2/B2
Chu Văn An,
1964 -1971
Nguyễn Tá Mẫn & Vũ Trọng Phòng
Như chúng tôi đã trình bày trong quyển Kỷ Yếu
“Theo Giòng Lịch Sử” của Đại Hội Toàn Cầu Bưởi-Chu
Văn An, Kỳ 5 năm 2015, bài viết này một lần nữa giới
thiệu đến các bạn những sinh hoạt của lớp chúng tôi từ
ngày bắt đầu lớp Đệ Thất P2, niên khóa 1964-1965 cho đến
ngày nay, sau hơn 50 năm. Chúng tôi theo học lớp P2 từ Đệ
Thất đến Đệ Tứ, sinh ngữ chính là Pháp Văn và B2 từ Đệ
Tam đến Đệ Nhất. Tuy nhiên bắt đầu từ niên khóa 1969-
1970, Bộ Giáo Dục VNCH thay đổi tên gọi của các lớp
Trung Học, từ Đệ Thất đến Đệ Nhất nay là lớp 6 đến lớp
12, thay vì Đệ Nhị B2 nay được gọi là 11B2. Sau biến cố
Tết Mậu Thân 1968 và vì luật Tổng Động Viên năm đó,
gần một nửa lớp chúng tôi đã phải rời trường để nhập ngũ.
Năm Đệ Tam sĩ số lớp chỉ còn khoảng trên 30 học sinh, và
những năm sau đó nhà trường phải thu nhận thêm học sinh
từ các trường khác vào cho nên chúng tôi lại có thêm một
số bạn mới nữa.
Tuổi học trò nào mà không có những kỷ niệm
nghịch ngợm, mà kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất của lớp chúng
tôi là vào năm Đệ Ngũ P2, giờ Pháp Văn của thầy Nguyễn
Công Thương. Chúng tôi đã đặt pháo nổ chậm trong giờ ra
chơi trước khi thầy vào lớp, kết quả là thầy Thương đã đưa
6 học sinh ra Hội Đồng Kỷ Luật để trừng phạt. Biên bản
Trang 152 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Hội Đồng Kỷ Luật đã được thầy Hiệu Trưởng Dương Minh
Kính ký ngày 17 tháng 5 năm 1967, chúng tôi còn giữ lại
và đính kèm với bài viết này. Tóm tắt cuộc nghịch phá này
là Thầy Thương bắt học sinh Bùi Văn Thắng làm chủ mưu
đốt pháo, mà thật sự Thắng không có làm, sau đó Thắng
phải khai ra những bạn mình đã làm, nào Bùi Thế Đức,
mang pháo và châm ngòi lần 1, Vũ Trọng Phòng, châm
ngòi lần 1, Nguyễn Hữu Việt, đặt pháo dưới gầm và trên
cửa gần bàn giáo sư, Lê Văn Nhơn, châm ngòi pháo thứ 2,
Phạm Huy Hợp, châm ngòi pháo thứ 2 và Nguyễn Văn Tại,
chỉ cách đặt pháo lần 1. Sau đó Hội Đồng Kỷ Luật đã quyết
định như sau: Bùi Thế Đức, đuổi 15 ngày, ghi học bạ, cúp
học bổng; Vũ Trọng Phòng, đuổi 7 ngày, ghi học bạ; Phạm
Huy Hợp và Nguyễn Hữu Việt, đuổi 3 ngày, cúp học bổng;
Lê Văn Nhơn, cúp học bổng, và sau cùng Nguyễn Văn Tại,
khiển trách kỷ luật, ghi học bạ, cúp học bổng.
Trong biên bản Hội Đồng Kỷ Luật có đề cập đến
việc học sinh Phạm Huy Hợp là em trai của Giáo Sư Phạm
Xuân Lương, và hôm đó GS Lương đã đại diện cho phụ
huynh của học sinh Hợp. GS Lương đã tuyên bố tại buổi
họp xin Hội Đồng cứ thẳng thắn trừng phạt học sinh Hợp
theo tội trạng, chứ không tha thứ.
Bây giờ hơn 50 năm sau ngồi nghĩ lại tuổi học trò
thật nghịch ngợm, hồn nhiên. Quả đúng là "nhất quỉ nhì ma
thứ ba học trò Chu Văn An”.
Một kỷ niệm nghịch phá của lớp tôi vào năm Đệ
Tam B2, giờ Việt Văn của thầy Trần Đình Ý. Thầy Ý
thường đem theo cặp-táp bằng da vào lớp, thầy hay để trên
bàn và thầy luôn xuống phòng họp giáo sư để uống nước
trà trong giờ giải lao sau khi thầy dạy được một tiếng. Mỗi
lần thầy vừa rời lớp sau, lập tức những học sinh ngồi đầu
bàn chạy lên bàn giáo sư, cầm cặp của thầy và ném xuống
lớp. Các học sinh chúng tôi cứ như thế chuyền cặp của thầy
vào hết bàn này đến bàn nọ. Cặp đến tay ai thì phải chuyền
nhanh không thôi sợ rằng thầy quay lại lớp, bắt gặp cặp của
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 153
thầy vào tay ai, học sinh đó sẽ bị phạt ngay. Dĩ nhiên lúc đó
lớp rất ồn ào, náo động. Một hôm có lẽ thầy biết được trò
chơi của chúng tôi, thầy cứ tự nhiên đi xuống phòng giáo
sư và quay lại trong chốc lát, nhìn vào khe cửa sổ để xem
chúng tôi có làm gì không. Biết được như vậy, vài học sinh
trong lớp mới la lên "Ý rình !! Ý rình !!". Thế là lớp chúng
tôi yên lặng lại, và cũng may cặp của thầy vẫn còn ở trên
bàn giáo sư, chưa được ném xuống lớp.
Một kỷ niệm vui, nghịch nữa của lớp chúng tôi là
trò chơi ném dép trong khi thầy đang viết bài trên bảng.
Ngày xưa chúng ta đi học Trung Học đều mang dép, hầu
như không có học sinh nào đi giày cả. Lúc ngồi trong lớp,
các học sinh ngồi bàn đầu hay bàn thứ hai thường hay gác
chân lẫn nhau nên một hay hai chiếc dép đều không mang
vào chân... Thế là các học sinh ngồi bàn sau mới khều chân
lấy dép, rồi chuyền mấy chiếc dép này về các học sinh ngồi
bàn cuối trong lớp (xóm nhà lá). Chúng tôi còn nhớ hôm đó
vào giờ Vật Lý lớp Đệ Tam B2, lúc thầy Sâm đang viết và
giảng bài, một học sinh mất dép đứng lên nói “Thưa thầy
em bị mất dép”, thầy bèn quát lên “Đi học có đôi dép mà
không biết giữ”, thế là cả lớp chúng tôi cười ồ lên... Lập tức
có tiếng nói từ cuối lớp vang lên “quay lên có liền”... Học
sinh mất dép, ngồi xuống quay lại nhìn lên bảng thì vài
giây sau tự nhiên có vật gì ném vào đầu mình, nhìn lại hóa
ra là chiếc dép của mình, thành ra yên lặng, không nói gì
được cả.
Tóm lại có khoảng hơn 80 học sinh đã theo học lớp
P2/B2 bắt đầu từ niên khóa 1964-1965 cho đến 1970-1971.
Bảy năm trời biết bao nhiêu kỷ niệm sâu đậm với ngôi
trường thân yêu, với các thầy và các bạn. Sau khi rời mái
trường CVA vào tháng 6 năm 1971, chúng tôi mỗi người
mỗi ngã rẽ cuộc đời, có các bạn đã theo con đường binh
nghiệp, các bạn khác tiếp tục sách đèn ở các Đại Học trong
nước hoặc du học ngoại quốc. Và cứ như thế dòng đời trôi
chảy cho đến ngày hôm nay, sau hơn nửa thế kỷ lưu lạc
Trang 154 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
khắp 5 châu 4 bể, các học sinh lớp P2/B2 của CVA 64-71
luôn tìm đến với nhau qua ly bia, ly rượu hầu ôn lại những
kỷ niệm êm đềm ngày xa xưa ấy… Những cuộc hội ngộ
này thường tổ chức tại Việt Nam, Nam California, Sydney,
Houston hay Montreal, nơi có nhiều cựu học sinh lớp
P2/B2 đang sinh sống.
Nguyễn Tá Mẫn & Vũ Trọng Phòng
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 155
Trang 156 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 157
Lớp Đệ Tam B2 năm 1968-1969.
Hàng 1 (trên cao) - Thầy NgVăn Phong, DươngVăn Hiền, Ng.Trọng Hiền,
Ng.Ngọc Chương, TrầnLinh Bao, Ng.Hữu Việt, PhạmTấn Đức, Ng.Chí Thành,
LạiTừ Tâm, LêVăn Thắng, Ng.Văn Nguyễn.
Hàng 2 - MaiQuốc Phong, NgHữu Thọ, LêHữu Đức, ĐặngXuân Phú, Lê Công
Luận, Ng.Đình Hòa, Ng.Hoàng Long, ĐinhHữu Tuấn, Ng.Đông Sơ, HuỳnhVăn
Hoàng, TrịnhĐình Tá.
Hàng 3 – LêDuy Diễm, Phạm Huy Hợp, DươngNgọc Lâm, Ng.Văn Phương,
CaoXuân Mạch, LêTấn Lộc, VũTrọng Phòng, Ng.ThanhQuỳnh, Ng.Tá Mẫn,
HuỳnhAnhDũng, VũQuangLâm.
Lớp 12B2 những ngày cuối niên khóa 1970-1971.
Trang 158 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Kỷ niệm Bạn Cũ Trường Xưa
Thế mà đã 60 năm!
(1957-2017)
BaLăng
Cách đây ít lâu, Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích, cựu học
sinh CVA lớp 1A2, hiện cư ngụ tại London, Anh quốc, đã
gửi tặng tôi tấm hình kể trên. Nhìn hình với thầy cũ bạn
xưa, tôi vô cùng bồi hồi xúc động vì biết bao kỷ niệm đã
trở về trong tôi…
Làm sao tôi quên được cái hành lang của căn nhà lầu
3 tầng, phía sau của trường Petrus Ký, nơi mà từ năm di cư
vào miền Nam Tự Do (1955), chúng tôi đã nhận nơi đây là
trường sở mới của CVA. Cái số tôi không bao giờ được học
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 159
tại trường sở mới. Theo học Y khoa thì trong 7 năm đều
học ở trường cũ số 28 đường Trần Quí Cáp Saigon. Đây
cũng là căn biệt thự của tư nhân, biến cải thành phòng ốc,
giảng đường. Đến khi vừa tốt nghiệp thì trường Đại học Y
khoa dọn về trường sở mới to tát khang trang do viện trợ
Mỹ góp công xây cất gọi là Trung tâm Giáo dục Y khoa,
toạ lạc tại đường Hồng Bàng, Chợ Lớn Saigon. Còn trường
trung học Chu Văn An di cư từ Hà-Nội vào Saigon thì sau
một thời gian học nhờ tại trường Petrus Ký đã được chuyển
về căn nhà lầu phía sau của trường. Căn nhà này trước kia
là ký túc xá của học sinh Petrus ký và nay đã được biến cải
thành phòng ốc, kể cả hành lang được lợp tôn để có thêm
chỗ học cho đám học sinh di cư đông đảo. Tuy nằm ở phía
sau trường Petrus ký nhưng trường CVA có lối đi riêng.
Cổng chính của trường đi vào là ở đường Trần Bình Trọng.
Tôi học tại trường CVA di cư này cho đến khi tốt nghiệp
Tú tài 2 năm 1958 và mãi đến năm 1960, trường CVA mới
có trường sở mới, rộng rãi khang trang tọa lạc tại góc
đường Minh Mạng-Triệu Đà Chợ Lớn Saigon.
Trong trí nhớ già nua còn lại của tôi đã hiện lên
hình ảnh Xuân Tết năm nào (Đinh Dậu 1957). Thầy trò tụ
họp để chụp chung một tấm hình kỷ niệm (hình trên), tuy
không đầy đủ các bạn thuộc lớp 1A2 nhưng tôi còn nhận ra
được những khuôn mặt thân quen thuở nào: Nguyễn Ngọc
Bích, Phạm Đình Bách, Trần Văn Thông, Nguyễn Đức
Năng, Nguyễn Hạnh (đeo kính đen), Vũ Công Dương,
Nguyễn Duy Hảo,.. và các chị thì chỉ nhận ra có chị Kim
Anh, chị Hoàng Mai, và ngoài ra thì xin chịu thua. Tuy
nhiên DS Nguyễn Đức Năng ở dưới miền Nam Cali thì có
trí nhớ tốt hơn, nhớ tên được nhiều chị học cùng lớp 1A2
và anh đã nêu tên từng người cùng lớp trong bài viết “Chu
Văn An trường tôi” đăng trong Giai phẩm Bưởi-Chu văn
An năm Quí Tỵ 2013.
Niên khóa 1956-57 chỉ có một lớp Đệ nhất A. Đến
niên khóa tôi học 1957-58 thì lại có đến 2 lớp Đệ nhất (1A1
Trang 160 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
và 1A2). Lớp Đệ nhất A1 thì toàn nữ sinh (có lẽ từ các
trường công lập như Trưng Vương, Gia Long gộp lại). Lớp
Đệ nhất A2 của tôi là lớp hỗn hợp, một nửa nam sinh là dân
CVA thuần túy và một nửa là nữ sinh Gia Long còn lại,
không thể nhét vào A1 được nữa vì quá đông. Lớp 1A2 của
tôi có 42 người, 22 nam sinh và 20 nữ sinh. Nam thì toàn
Bắc kỳ di cư. Nữ là con gái miền Nam chính gốc, hiền
lành, chất phác. Nam nữ hòa đồng vui vẻ không có vấn đề
kỳ thị Nam Bắc gì cả. Chỗ ngồi trong lớp cũng được xếp
đặt hợp lý do thầy giám thị Tự chỉ định. Có 3 hàng ghế
trong lớp thì các chị chiếm hàng ghế bên trái, nam sinh bên
phải. Còn hàng ghế giữa thì 2 hàng đầu dành cho các chị,
những hàng còn lại dành cho nam sinh chúng tôi. Những
anh ngồi sau hàng ghế các chị thường hay bị chế riễu, nào
là “ngửi thấy mùi hương”, hoặc hàng tháng “có gì lạ không
anh ?” Tuy nhiên các anh ở “xóm nhà lá”, nghĩa là ở những
bàn cuối cùng thì bao giờ cũng là mục tiêu “truy bài” của
thầy Lê Văn Lâm, giáo sư Lý Hoá. Thầy Lâm có tài bắn
cục phấn từ trên bàn giáo sư vào đầu mấy anh trốn xuống
xóm nhà lá để khỏi bị lên bảng trả bài. Anh Trịnh Q. B. là
một thí dụ điển hình vì cục phấn của thầy Lâm bắn trúng
nhiều nhất. Ngày thầy Lâm còn sống, thầy có tham dự buổi
họp mặt Tân niên của hội ái hữu cựu học sinh CVA tại
miền Bắc California. Gặp lại thầy, anh B. xoa tay lên đầu,
phàn nàn với thầy là hãy còn sờ thấy mấy “cục u”. Thầy
cười vui vẻ.
Các chị nữ sinh Gia Long học hành rất chăm chỉ và
cần mẫn nên nam sinh chúng tôi cũng phải cố gắng để khỏi
mất mặt “bầu cua cá cọp”. Do đó trong lớp gần như lúc nào
cũng có cuộc ganh đua học hành. Chỉ sau ít tháng học
chung, các chị Gia Long đã quen và bạo dạn hơn trong
những lúc tiếp xúc với bọn tôi. Phải thành thật mà nói thì
không có chị nào “sắc nước hương trời” hay “chim sa cá
lặn”. Nếu công bình mà nói thì nhan sắc các chị cũng thuộc
loại trung bình mà thôi (phải chăng học cao và sắc đẹp có
tỷ lệ nghịch với nhau). Tuy nhiên chỉ có chị M. và chị K.A.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 161
là đuợc mấy anh để ý nhiều hơn cả. Chị M. có hỗn danh là
“M. quần sà-lỏn”. Về điểm này tôi cũng phải phục mấy dân
CVA là có óc quan sát hơn người bởi vì chị M. không mặc
đồ lót “sì líp” như các nữ sinh khác mà chị mặc quần lót.
Anh Th. tuy học ban B nhưng lại để ý đến chị M. Sau này
ra trường, chị M. học Đại học sư phạm, còn anh Th. là một
công chức cao cấp trong ngành tình báo. Anh chị đã kết
hôn với nhau để trọn “Tình Bắc duyên Nam”. Gần đây tôi
có đọc được bài viết về hồi ký trong tù Cộng sản đăng trên
báo của Đại tá Võ Đại Tôn, trong đó ông có nhắc đến cái
chết của anh Th. tại một nhà giam với ông ở miền Bắc
Việt-Nam. Tôi xin nghiêng mình kính phục sự hy sinh cao
cả của anh Th. cho chính nghĩa Tự Do và thành thật chia
buồn cùng chị M. và gia đình về sự mất mát to lớn này.
Trở lại với lớp 1A2 của tôi, nơi cũng có một vài “anh
hùng tứ chiếng”. Điển hình là mấy anh nghịch ngầm, ném
đá dấu tay, đứng đầu là Lê N.Q.. Tuy nhiên mấy anh này
vẫn kính nể mấy chị trong lớp và không có làm điều gì thô
lỗ hay vô lễ cả.
Miền Nam Việt-Nam vào những năm 57, 58 được coi
là thời kỳ hoà bình, thịnh vượng. Bọn Cộng sản vừa chiếm
được miền Bắc qua hiệp định Genève đang củng cố quyền
hành bằng cách đẩy mạnh phong trào giai cấp đấu tranh
qua các đợt cải cách ruộng đất, đấu tố, giết hại cả triệu
đồng bào vô tội. Lại còn phong trào “trăm hoa đua nở”, bắt
bớ bỏ tù, đầy đọa biết bao văn nghệ sĩ tài ba. Miền Nam
chưa bị bọn cộng sản “quẫy” cho nên Tết đến, phố sá tưng
bừng nhộn nhịp. Chung quanh chợ Bến Thành, bên lề
đường dọc theo các đại lộ Lê Lợi, Lê Thánh Tôn, các sạp
hàng mọc lên san sát, bán đủ mọi thứ, thật là náo nhiệt. Các
trường học thì lo tổ chức báo Xuân, báo tường, liên hoan
văn nghệ tất niên. Màn “cúp cua, bát phố” là thường xuyên.
Mặc dù đã được thầy giám thị thông báo cấm đốt pháo
trong trường và nghiêm phạt những ai không tuân lệnh, thế
mà vẫn đì đùng tiếng pháo trong sân trường, nơi cuối lớp…
Trang 162 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Bầu không khí Tết đã làm mọi người chểnh mảng mọi công
việc thường ngày, kể cả việc học hành thi cử… Buổi trưa
giờ ra chơi, các chị đã không ra khỏi lớp mà túm năm tụm
ba trò chuyện vui vẻ. Nhóm nam sinh tụi tôi cũng đang đấu
láo, cười nói oang oang. Bất ngờ, Lê N.Q. từ đâu chạy vào,
thò đầu qua cửa sổ lớp học tại lầu 2, thả một trái pháo đùng
xuống dưới đất, nơi đang có một nhóm bạn anh tụ họp. Sau
tiếng pháo nổ, Q. chạy vội ra khỏi lớp ngay. Tụi tôi cũng
theo Q. chạy ra khỏi lớp vì không muốn bị liên luỵ như
phải làm nhân chứng hoặc phải tố cáo đương sự. Quả thật,
sau ít phút, thầy giám thị Tự, mặt hầm hầm tức giận tiến
vào lớp. Ô hay sao lớp vắng tanh không có một đấng nam
sinh nào cả ! Chỉ còn có ít chị nữ sinh vô tội đang ngồi đó.
Thầy giám thị biết chắc là trò chơi tinh nghịch thả trái pháo
từ lầu 2 xuống đất là do một nam sinh rắn mắt là thủ phạm,
chứ không phải các chị nữ sinh. Mà hỏi các chị có biết ai
làm vậy không thì các chị từ chối nói là không biết… Thầy
Tự điều tra, hạch hỏi cả tuần lễ, kể cả dùng phương pháp tự
thú để được “khoan hồng” cũng không đem lại kết quả. Tụi
tôi đã chứng kiến sự việc từ đầu và biết chắc ai là thủ phạm
rồi nhưng tự nghĩ nếu tố cáp thủ phạm thì chắc chắn anh Q.
sẽ bị đuổi ra khỏi trường, tội nghiệp lắm. Thôi thì cứ giữ im
lặng coi như không biết. Và sau một tuần lễ điều tra không
ra thủ phạm vụ thả trái pháo lên đầu thầy giám thị, hội đồng
kỷ luât của trường đã quyết định đuổi cả lớp 1A2 trong một
tuần lễ, không cho phép bén mảng đến lớp, đến trường. Cả
lớp 1A2 chúng tôi “vui vẻ” chấp nhận hình phạt này và coi
như được nghỉ Tết dài hơn để có nhiều thời giờ ôn lại bài
vở ở nhà. Riêng các chị nữ sinh 1A2 cũng không phản đối
gì về hình phạt do phía nam sinh gây ra. Các chị cũng đồng
ý là có thêm thời gian sửa soạn học thi ở nhà. Sau này anh
Q. đã ngỏ lời cảm ơn toàn thể lớp 1A2 đã “bao che” cho
anh. Ngay sau khi đậu được Tú Tài 2 anh Q. đã được học
bổng đi Đức du học vì anh thuộc loại COCC (có ông anh là
tướng thời bấy giờ.) Tôi vẫn cố hỏi thăm tin tức về anh Q.
và những người bạn cùng lớp 1A2 năm nào. Nhưng đời
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 163
người đã có biết bao thay đổi : kẻ trời Đông, người trời
Tây, người còn người mất. Ngay cả đến Đại hội toàn cầu
năm 2015 tại miền Nam California, cũng chỉ còn có 4 bạn
cùng lớp 1A2 về tham dự .
Thế mà đã qua 1 chu kỳ 60 năm ! Năm xưa Đinh Dậu
1957, năm nay cũng lại là Đinh Dậu 2017. Tôi ghi lại đây
vài kỷ niêm xưa để có bạn nào cùng lớp 1A2 đọc được,
cùng nhau ôn niệm.
California, tháng 6 năm 2017
BaLăng Nguyễn Duy Hảo, CVA58
Hình dưới đây có 4 bạn cùng lớp 1A2 niên khóa 1957-58
về tham dự Đại hội B-CVA Toàn cầu kỳ 5 tại Little Saigon
miền Nam Calfornia năm 2015. Từ trái qua phải: Trịnh
Quang Bình (Castro Valley, CA), Nguyễn Đức Năng (San
José, CA), Nguyễn Duy Hảo (Alameda, CA), Hoàng Đình
Chung (Minesota).
Trang 164 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Vĩnh biệt nhà thơ tình ái
Chu Toàn Chung
Lê Duy San CVA 59
Trong số các bạn Chu Văn An ra trường cùng năm
1959 với tôi, Chu Toàn Chung là người tôi không thân lắm
nhưng lại là người tôi rất quý mến vì tính tình hiền lành, dí
dỏm và dễ mến của anh. Anh không bao giờ đem chuyện
xấu của người khác ra nói. Không ưa ai thì anh không nói
chuyện, thế thôi. Đôi khi anh cũng trêu chọc bạn bè, nhưng
bằng những câu thơ trào phúng ý nhị và vô hại. Cho nên
bạn bè của anh không những không giận anh mà còn lấy
làm thích thú chẳng hạn như bài “Nghe phôn” dưới đây mà
anh đã làm để chọc tôi mà bà xã tôi đã ghi lại được như
sau:
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 165
Cứ mỗi lần nghe thấy tiếng phôn,
Làm San sợ đến kinh hồn viá,
Chỉ e em bé từ đâu đó,
Kêu lại Bà nghe lại ốm đòn.
Tiếc rằng sợ đấy vẫn ham nghe,
Chứng tỏ San ta vẫn sính chè,
Mỗi bận đầu phôn này nũng nịu,
Nghe rồi Thầy Cãi ngẩn tò te.
Anh Chu Toàn Chung rất thích làm thơ nhất là thơ
tình. Nói tới thơ tình, người ta phải nói tới thơ của anh. Bạn
bè của anh thường gọi anh là nhà thơ chuyên trị thơ tình.
Anh có bút hiệu là Nguyên Thủy. Mặc dầu là một nhà thơ
nổi tiếng, nhưng rất ít người biết bút hiệu này của anh vì
thơ của anh không được anh gửi đăng báo hay gửi lên các
diễn đàn. Anh cũng chẳng đem in thành tập để lưu giữ. Cho
nên đi tìm thơ của anh để đọc thật là khó. Ai thích thơ anh
thì anh đọc cho nghe như bài thơ “Cô hàng cà phê” dưới
đây đã được anh Phạm Ngọc Anh ghi lại như sau:
Cà phê nhớ chỉ một phần,
Nhớ cô chủ quán trăm ngàn lần hơn.
Cà phê hay tóc cô thơm,
Ngẩn ngơ nhì nắng hoàng hôn nhớ người.
Mỗi lần tôi ghé quán cà phê,
Bịn rịn bên ai chẳng muốn vê,
Cứ vậy đứng ngồi dăm bẩy lượt,
Vê thì nhơ nhớ, ở thì quê.
Từ cô mở quán đến hôm nay,
Tính nhẩm năm năm lẻ mấy ngày,
Song chẳng hôm nào tôi vắng mặt,
Điêu này cô chủ cũng thầm hay.
Tự hỏi hay là mình đã yêu,
Không yêu sao lại vấn vương nhiêu?
Không yêu sao lại luôn thầm gọi?
Tên đẹp người ta sớm lại chiêu?
Trang 166 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Đôi lúc nhìn cô đến ngẩn ngơ,
Cà phê trước mặt tự bao giờ,
Nhưng hồn phiêu bạt đâu nào thấy,
Chỉ thấy nghiêng trời đôi mắt cô.
Phải nói rằng cô trông rất xinh,
Bờ môi nũng niụ chứa chan tình,
Hèn chi mỗi bận khi từ giã,
Chân bước mà nghe chẳng giống mình.
Thú nhận rằng tôi đã quá yêu,
Tuy tình nhận được chẳng bao nhiêu,
Song le tôi vẫn yêu thầm kín,
Yêu để cho đời bớt tịch liêu.
Nguyên Thủy-Chu Toàn Chung
Vào đầu năm 2007, tôi là Hội Trưởng hội Ái Hữu
Cựu Học Sinh Chu Văn An Bắc California và cũng là
Trưởng Ban Tổ Chức Hội Ngộ Chu Văn An Toàn Cầu kỳ II
tại San Jose, tôi có xin anh cho mấy câu thơ để quảng cáo
cho Hội Ngộ này. Anh có làm cho mấy câu như dưới đây
và mấy câu này có được đăng trong Tin Thư CVA số 30 ra
ngày 15/01/2007:
Hội Ngộ CVATC kỳ II 2007
Dù anh ở Á hay Âu,
Nhớ ngày Hội Ngộ rủ nhau cùng vê.
Ca Li thơ mộng tràn trê,
Hai ngàn lẻ bẩy (2007), nhớ vê với nhau.
Rủ thêm tà áo thiên thanh,
Cùng vê dự Hội, có anh có nàng.
Nơi đây thung lũng Hoa Vàng,
Toàn Cầu Đại Hội, xin chàng chớ quên.
Chu Toàn Chung (CVA Bắc Cali)
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 167
Anh Chu Toàn Chung sinh ngày 12 tháng 11 năm
1937 tại Hưng Yên. Anh là con thứ hai trong một gia đình
gồm 6 anh chị em. Anh là cháu nội của cụ Chu Mạnh Trinh
tức cụ Nghè Phú Thị, một nhà nho nổi tiếng phóng khoáng,
hào hoa và thành thạo cả cầm kỳ thi hoạ. Cụ Chu Mạnh
Trinh có lúc làm quan Án Sát ba tinh Hưng Yên, Bắc Ninh
và Thái Nguyên.
ĐX Thảo, CT Chung, ĐH Châu, LD San, BH Khoát, PH Độ,
NĐ Phương, ĐĐ Lợi và PĐ San
Anh Chu Toàn Chung là cựu học sinh trường Chu
Văn An Saigon. Anh tốt nghiệp Tú Tài Văn Chương vào
năm 1959. Lên đại học, anh theo học tại Đại Học Văn Khoa
Saigon. Sau khi tốt nghiệp Cử Nhân Văn Chương, anh đi
dậy học. Anh bị đông viên khoá 1/68 Thủ Đức cùng anh
Trần Lam Giang. Vì anh ham thi phú, tay anh chỉ quen cầm
bút làm thơ đâu biết cầm súng, cầm gươm để giết người,
nên bạn bè anh ra trường với cấp bậc Chuẩn Úy thì anh ra
trường với cấp bậc Trung Sĩ. Vì học ban Văn Chương nên
anh có chút vốn liếng Anh Ngữ và được cho làm Thông
Trang 168 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
dịch viên. Tuy là Trung Sĩ nhưng anh chơi với toàn cấp Tá
và được các ông này quý mến và rủ đi cà phê, cà pháo tối
ngày, trong đó có Thiếu Tá Đặng Văn Tiếp tức dân biểu
VNCH Đặng Văn Tiếp, người đã bị Bùi Đình Thi, cũng là
tù cải tạo nhưng làm antenna cho Việt Cộng, đánh chết
trong tù cải tạo sau khi ông Tiếp tìm cách vượt ngục nhưng
thất bại (theo lời tố cáo của Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ).
Ngày 30/4/1975, trong khi nhiều người chạy ra bến
Bạch Đằng Saigon tìm đường di tản thì anh Chu Toàn
Chung lang thang trên đường Phan Thanh Giản, gần trường
nữ Trung Học Gia Long, không biết có phải để tìm nàng
thơ hay bóng hồng nào không, thì anh không may bị trúng
đạn pháo kích của Việt Cộng. Anh bị mất một nửa bàn
chân trái.
Với cấp bậc Trung Sĩ, chân lại bị thương tật nên anh
không bị bọn Việt Cộng bắt đi tù cải tạo. Anh sang Mỹ theo
diện anh em bảo lãnh vào thập niên 1980. Với trình độ Anh
ngữ của anh, anh dư sức có thể kiếm được một việc làm tại
văn phòng cho City, County hay State. Nhưng với tính tình
phóng khoáng và thơ thẩn như vậy, làm sao anh có thể sáng
vác ô đi, tối vác về để làm những công việc của một người
công chức như Eligibe Worker hay City, County Clerk?
Vợ anh Chu Toàn Chung cũng là một cô giáo, con
nhà gia thế. Các con anh đều tốt nghiệp đại học và đều khá
giả. Nhưng anh chẳng thích sống chung với vợ con nên kể
từ ngày anh xin được Housing thì anh ở riêng một mình.
Anh thuê một apartment trong một chung cư nằm
trên đường Lucretia gần đường Story, San Jose. Với chiếc
áo vest đậm mầu, với cặp kính đen, hàng ngày anh khập
khiễng đi bộ tới khu Grand Century Mall ngồi trước tiệm
bánh Century Barkery hoặc ngồi bên cạnh nhà hàng Rong
Biển uống cà phê, ngắm nhìn ông đi qua, bà đi lại. Bạn bè
thấy anh thì xà vào ngồi tán gẫu. Anh không thích đông
người, nên khi thấy có đông người tới hoặc có người anh
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 169
không ưa thì anh lại đứng dậy đi chỗ khác hoặc lang thang
trung khu Grand Century Mall. Người mà anh hợp ý nhất
và hay đi lang thang với anh nhất có lẽ là anh Bùi Hùng
Khoát.
Trước kia anh hút thuốc lá liên miên. Nhưng kể từ
ngày anh bị pneumonia và phải vào bệnh viện nằm cả tháng
trời thì anh không còn dám hút thuốc nữa.
Anh Chu Toàn Chung có trí nhớ rất tốt. Anh có đọc
một bài ca dao riễu Cộng từ hồi anh còn nhỏ (khoảng 10
tuổi) ở quê anh cho anh Trần Lam Giang nghe và anh
Giang có đọc lại cho tôi nghe như sau:
Hôm qua đi chợ Cống Chiên,
Mua được cái khố bằng tiên Đông Dương.
Trở vê đến chợ Cống Chương,
Bộ đội tước mất, ở truồng tô hô.
Ngửng lên thấy mặt bác Hồ,
Bác ơi, bác rõ cơ đồ này chăng.
Ngoài tài làm thơ tình, anh Chu Toàn Chung còn
biết coi tướng. Tướng số, anh cho biết anh chỉ học qua sách
vở của ông Vũ Tài Lục và trước 1975, anh có duyên với cụ
Diễn (Ngô Hùng Diễn) nên đã học lỏm được vài điều từ cụ.
Không phải ai cũng có thể nhờ anh coi tướng. Chỉ những
người có duyên với anh mới được anh coi tướng và tất cả
đều thán phục anh. Anh coi tướng cũng như làm thơ, vì
hứng chứ không phải vì tiền. Anh không coi tướng để lấy
tiền của ai bao giờ. Đây cũng là lý do mà anh đã được
nhiều bà, nhiều cô ái mộ và bị mang tiếng oan là trăng hoa
khiến bà xã anh phải nhức đầu và khó chịu vì anh. Thực ra
anh rất nghiêm chỉnh trong tình yêu và cuộc đời tình ái của
anh không như người ta tưởng. Dưới đây là bài thơ “U
hoài” của anh đã nói lên nỗi lòng của anh về mối tình đầu:
U hoài
Cô đơn đất khách quê người,
Trang 170 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Héo hon, lạc lõng, nụ cười tri âm.
U sầu, vinh nhục, thăng trầm,
Tai nghe vẳng tiếng nguyệt cầm bi ai.
Oan khiên giọt lệ vắn dài,
Ai đau thương đó, than hoài ngàn năm.
Người bên trời ấy xa xăm,
Chờ bao giờ mới được sang thăm người
Hoa môi em thắm nụ cười,
U hoài năm tháng, tôi lười phiêu du.
Người vê đốt hết tình thư,
Giòng [1]
thời gian vẫn thiên thu vẳng sầu.
Nguyên Thủy – Chu Toàn Chung.
Nếu chú ý một chút, chúng ta còn thấy điểm đặc
biệt của bài thơ này là 8 chữ cái đầu tám câu thơ ghép lại
chính là tên của anh: Chu Toàn Chung. Bài này cũng do
anh Phạm Ngọc Anh ghi lại nhưng có vài chữ khác với bài
do anh Trần Lam Giang ghi lại. Có lẽ đã được tác giả sửa
lại vài chữ cho hoàn chỉnh hơn.
MT Hiếu, NA Cường, NT Dzũng, NT Dực, CT Chung,
LÔ Dương, PĐ San
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 171
Đầu tuần trước anh em ngày nào cũng còn thấy anh
lang thang ngoài Grand Century Mall. Nhưng đến Thứ Bẩy
20/11/2015 anh Bùi Hùng Khoát ra Grand Century Mall thì
không thấy. Anh có gọi điện thoại cho anh Chung nhưng
không thấy trả lời. Hôm sau, Chủ Nhật anh Khoát lại ra
Grand Century Maill, nhưng cũng không thấy anh Chung.
Anh gọi điện thoại cũng không được. Anh Khoát liền chạy
lại nhà anh Chung thì thấy cửa khoá. Anh tới nhà cô em
anh Chung cũng ở cùng building để hỏi thăm thì được cô
cho biết là anh Chung đã qua đời. Anh chết khi đang ngồi ở
chiếc sofa nơi phòng khách có lẽ từ hai hôm trước mà
không ai biết. Anh ra đi một cách thanh thản, yên lặng,
không đau đớn, không ồn ào, nhưng anh đã để lại không
biết bao thương nhớ cho vợ con và bạn bè.
Nghe tin anh mất, bạn bè anh, ai cũng ngạc nhiên,
bàng hoàng và xúc động, nhất là các anh em thường lui tới
Grand Century Mall để uống cà phê, đấu láo như các anh
Nguyễn An Cường, Bùi Anh Dũng, Trần Cảnh Được, Đoàn
Phương Hải, Nguyễn Văn Hội, Nguyễn Mộng Hùng, Trần
Văn Hồng, Vi Văn Hồng, Mai Văn Hiếu, Bùi Hùng Khoát,
Nguyễn Xuân Nam, Phạm Xuân Phượng, Phạm Văn Sáu,
Trần Ngọc Sơn, Nguyễn Thanh Sơn, Phạm Tài Tấn, Trịnh
Như Toàn, Đàm Quang Toán, Phạm Bằng Tường, Huỳnh
Thắng, Nguyễn Hưu Trương v.v...
Anh Trần Huy Bích ở Nam Cali ngay sau khi biết
tin anh qua đời cũng đã gửi lời chia buồn cùng gia đình anh
và:
Mong anh
.... dựng một thiên cầu
Bể xanh vĩnh viễn, nương dâu đời đời.
Tiên sinh ôn việc đổi dời
Xiết bao ngờ vực: kiếp người đó ư?[2]
Anh Chu Toàn Chung đã bỏ anh em đi trong yên
lặng để lại không biết bao kỷ niệm cho anh em. Không biết
anh có biết rằng anh bỏ đi, các bạn bè anh buồn lắm không?
Trang 172 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Anh bỏ bạn bè không nói làm gì, sao anh nỡ lòng nào bỏ cả
vợ con ? Xin vĩnh biệt anh, người bạn yêu quý của tôi.
Nguyện cầu hương linh anh sớm được tiêu diêu
miền cực lạc.
Lê Duy San
(11/2015)
Chú thích:
(1) Đúng chính tả phải viết là “Dòng thời gian ...” mới
đúng. Nhưng để đúng tên anh, nên anh đã viết là
“Giòng thời gian ...”
(2) Mấy câu thơ này là thơ của thầy Vũ Hoàng Chương, ở
bài "Duyên mùa tận thế" trong tập Rừng Phong của
thầy.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 173
Hải Quân Thiếu Tá
LÊ ANH TUẤN
và Căn Cứ Tuyên Nhơn
Phan Lạc Tiếp
LTS: Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn (1943-1975) là cựu
học sinh Chu Văn An Chức vụ sau cùng của anh là Chỉ
Huy Trưởng Giang Đoàn 43 tại Tuyên Nhơn. Ngày
30/4/75, sau khi nghe tin ĐT Dương Văn Minh đầu hang,
anh đã chở đồng bào tị nạn tới nơi an toàn rồi anh đã dung
cúng Colt bắn vào đầu tự sát. Bài viết dưới đây của nhà
văn Phan Lạc Phúc dược căn cứ vào các cuộc gặp gỡ giữa
tác giả và Hải Quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn lúc còn sinh
Trang 174 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
tiên, Trung Sĩ Vận Chuyển Nguyễn Văn Lực, cuốn Hải
Quân Việt Nam Cộng Hòa Ra Khơi của ĐiệpMỹ Linh.
Kể từ giữa năm 1974, người lính Mỹ đã là một hìh
ảnh xa mờ trên chiến trường Việt Nam. Riêng Hải Quân
Việt Nam (HQVN), như hoàn cảnh chung của quân đội, sự
thiếu hụt về tiếp liệu, cơ phận thay thế là lẽ đương nhiên,
nhưng bờ biển Việt Nam vẫn được các chiến hạm, chiến
đĩnh ngày đêm đan kín. Việc tiếp tế của Hà Nội cho cộng
sản miền Nam chỉ còn trông vào đường bộ trên hệ thống
đường mòn Hồ Chí Minh. Con đường huyết mạch của cộng
sản chạy dọc theo mé Tây của dãy Trường Sơn, nằm trên
đất Lào, vào sâu tận biên giới Miên-Việt. Từ đó, từ Mỏ
Vẹt, và dọc theo biên giới Việt Miên, nhất là xuôi theo 2
con sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây thâm nhập qua các
sông lạch chằng chịt vào đồng bằng Cửu Long.
Hai con sông Vàm Cỏ chạy xuôi theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam, ở ngay phía Tây Nam Saigon. Một giải
đất trù phú trong vòng tay 2 con sông ấy là các điểm chiến
lược có ảnh hưởng đến sự an nguy của Saigon: Quốc Lộ 4,
cầu Bến Lức, cầu Long An, nhất là các con kinh song-song
nhau theo hướng Đông-Tây, là mạch máu nối liền với sông
Tiền, sông Hậu. Một con kinh đã đi vào lịch sử của cuộc
chiến Việt Nam, ít nhất là ở giai đoạn cuối cùng của cuộc
chiến: kinh Đồng Tiến. Kinh Đồng Tiến, bít đầu từ ngã ba
chợ Tuyên Nhơn, ở hữu ngạn sông Vàm Cỏ Tây. Trước
đây, Quận Tuyên Nhơn đóng tại ngã ba này. Sau với áp lực
quá mạnh của Việt Cộng, Quận Tuyên Nhơn, Chi Khu
Tuyên Nhơn và cả đơn vị Pháo Binh 105 ly cùng di chuyển
vào nằm sát bên cạnh Căn Cứ Hải Quân Tuyên Nhơn.
Căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn, nằm ở bờ Nam kinh
Đồng Tiến, cách ngã ba chợ Tuyên Nhơn độ 3 cây số.
Trước mặt là bờ kinh, làm bãi ủi cho các chiến đĩnh. Mặt
kinh rộng độ 100 thước. Bên kia bờ là một bức tường đất
cao, trên đó một hàng rào sát, kết lại bằng các mặt lưới
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 175
chống đạn B-40. Ngoài hàng rào là la-liệt những ổ mìn do
Đội Tác Chiến Điện Tử thiết trí. Ở từ hàng rào này chạy
suốt về hướng Bắc là một rừng cây đước âm u, nơi xuất
phát của các cánh quân cộng sản từ biên giới Miên tiến về,
với chằng chịt những con lạch nhỏ. Tại bãi mìn này là nơi
mà các cán binh cộng sản lần lượt bỏ xác lại không thể nào
đếm xuể.
Ngoài các công việc nguy hiểm như hành quân, truy
lùng, và tiêu diệt quân cộng sản, những người lính Hải
Quân Việt Nam Cộng Hòa còn thực hiện nhiều công tác
dân-sự vụ để giúp đỡ và duy trì nếp sống cho những dân
lành sinh sống quanh vùng. Hình chụp một binh sĩ Hải
Quân Việt Nam Cộng Hòa thuộc lực lượng Thủy Bộ đang
cùng một người bạn cố-vấn Mỹ thăm viếng và tiếp tếp một
số dân làng sống dọc theo bờ sông Bassac (hình ảnh:
special collection).
Căn cứ Tuyên Nhơn, chạy dọc theo mé kinh, bờ
Nam, dài độ 200 thước, rộng không quá 100 thước. Phía
mặt và phía sau căn cứ cũng dầy đặc một băi mìn. Sát
ngang hàng rào, phía tay trái là sân đáp trực thăng, và sau
đó Quận Đường Tuyên Nhơn. Nơi đồn trú của Liên Đoàn
Đặc Nhiệm 214-1, gồm Giang Đoàn 43 Ngăn Chận và
Giang Đoàn 64 Tuần Thám. Đây là cái gai khó nuốt của
cộng sản, là trở ngại chết người trên con đường huyết mạch
của địch.
Vào thời gian cuối của cuộc chiến, lực lượng mạnh
mẽ của Việt Cộng tại vùng này là Đoàn 232, có nhiệm vụ
san phẳng vùng này, cắt đứt Quốc Lộ 4, để làm bàn đạp
đưa quân và đồ tiếp liệu tư biên giới Việt-Miên về Vùng 4
Chiến Thuật. Chúng đã cố sức nhiều lần muốn san phẳng
Căn Cứ Tuyên Nhơn, nhưng, dù rất nhiều lần tấn công tàn
bạo, Căn Cứ Hải Quân Tuyên Nhơn vẫn còn đó. Sau đây là
những trận đánh tiêu biểu trong thời gian ấy.
Trang 176 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
NHỮNG TRẬN THƯ HÙNG ÁC LIỆT.
Đêm 6 tháng 12 năm 1974, một trung đoàn cộng
sản Bắc Việt (CSBV) đã tràn ngập khu này, san phẳng các
đồn bót, chiếm chợ Tuyên Nhơn. Chúng dùng hỏa tiển 122
ly pháo như mưa vào Căn Cứ Hải Quân Tuyên Nhơn trước
khi cho bộ binh tấn công. Dưới cơn mưa pháo, các mái nhà
trong căn cứ đều bay hết, nhưng Căn Cứ Tuyên Nhơn vẫn
đứng vững. Mọi quân nhân và gia đình binh sĩ được ở dưới
hầm. Chi Khu Tuyên Nhơn, nằm sát căn cứ cũng vẫn còn
đó. Xác địch nằm la liệt bên hàng rào đơn vị.
Đêm hôm sau, 7 tháng 12 năm 1974, Việt Cộng lại
tấn công tàn bạo hơn. Căn cứ Hải Quân và Chi Khu Tuyên
Nhơn vẫn chống trả mãnh liệt. Địch lại phải rút, bỏ lại 12
xác chưa kịp đem đi. Để giải tỏa áp lực, Sư Đoàn 9 Bộ
Binh mở cuộc hành quân chận đường tiến quân của địch.
Ngày 11 tháng 12 năm 1974, bộ binh được trực thăng vận
đến. Một đại đội Trinh Sát, khi sắp sửa đáp xuống sân bay,
chiếc Chinook bị bắn rơi bằng hỏa tiển SA-7. Chiếc trực
thăng bốc cháy, và hầu như rất ít người sống sót. Chiếc trực
thăng rơi xuống như một khối lửa trước sự chứng kiến của
toàn thể thủy thủ đoàn trên các chiến đĩnh nằm tản mát trên
mặt kinh. Sau trận thư hùng này, mặt trận Tuyên Nhơn có
phần lắng dịu. Sự lắng dịu của đợi chờ, và đón nhận những
trận thư hùng khác ác liệt hơn.
Ngày đó cũng không xa. Đó là ngày 26 tháng 3 năm
1975, một cuộc tấn công quy mô hơn, tàn bạo hơn và cũng
liều lĩnh hơn đã được diễn ra tại vòng rào Căn Cứ Hải Quân
Tuyên Nhơn. Như một định mệnh khắc nghiệt, một thử
thách lạ lùng, trong các đụng độ trên, cũng như cuộc thư
hùng ác liệt hôm 26 tháng 3 năm 1975, Chỉ Huy Trưởng
Liên Đoàn Đặc Nhiệm 214-1, Hải Quân Thiếu Tá Đoàn
Quang Vũ hoặc đi hội, hoặc đi phép, cả căn cứ gồm 2
Giang Đoàn 43 Ngăn Chận và 64 Tuần Thám, chỉ có Hải
Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn là sĩ quan thâm niên hiện
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 177
diện. Chính Thiếu Tá Tuấn đã lần lượt phải gồng mình
chống lại các cuộc tấn công này. Cuộc thư hùng thật khốc
liệt. Trận địa, sau một đêm tốc chiến, xác địch ngổn ngang,
chồng lớp. Sau trận này, Tuấn có mặt tại Saigon, và sau đây
là cuộc đụng độ ác liệt được viết lại theo lời kể của “Người
Hùng Tuyên Nhơn,” như sau:
Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thông, Tư Lệnh Lực
Lượng Trung Ương vị chỉ huy trực tiếp của Thiếu Tá Tuấn,
sau lần thanh tra, nhắc “các cậu phải cẩn thận tối đa nghe.”
Rồi Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tư Lệnh Hạm Đội Đặc
Nhiệm 21, chỉ huy tất cả các lực lượng trong sông ở Vùng
4 cũng như các căn cứ trong vùng, cũng nhắc: “Cẩn thận
nghe Tuấn...” Tuấn chỉ “dạ” rồi nhìn lên tấm bản đồ trong
phòng hành quân. Các vị trí phản pháo đã săn. Các điểm
hỏa lực cũng được bố trí thật chu đáo. Có điều Tuấn lo là
tình trạng căng thẳng kéo dài quá lâu sợ tinh thần anh em
nản và lơ là. Vì thế, giữa cơn lo cực độ, Tuấn phải làm ra
vẻ cười đùa. Buổi chiều Tuấn hay uống bia. Đôi khi Tuấn
đem chai bia Quân Tiếp Vụ ra ụ súng uống với lính.
Hai giờ sáng, Tuấn vẫn còn thức, chăm chú trên các
trang sách của cuốn Công Pháp Quốc Tế. Tuấn gập sách
lại, đi một vòng căn cứ, luồn trong các đường hầm. Cùng
lúc ấy Tuấn gọi cho các chiến đĩnh đang tuần tiễu, phân
tán, phải săn sàng theo kế hoạch đã ấn định. Tuấn đứng trên
nóc lô cốt chính nhìn ra bốn phía. Những hàng đèn vàng èo
uột lấp loáng qua những hàng kẽm gai. Gió từ mặt kinh thổi
mát. Mặt kinh vẫn phẳng lặng. Không hiểu sao Tuấn thấy
rờn rợn. Tuấn định thần lại và sao thấy thiếu hẳn tiếng vạc
bay qua bầu trời. Tuấn cho đèn pha chiếu ra hàng rào ở mặt
trước căn cứ. Ánh sáng vừa loé lên, Tuấn thấy ở ngoài hàng
rào, lính cộng sản lô nhô, tức thì từng tràng đạn bùng lên từ
hai phía.
Ngay lúc ấy, hỏa lực của quân đội tại các ụ súng
phản pháo ngay. Các chiến đĩnh tản mác trên mặt kinh
được tức tốc chạy về. Địch đã đen kịt ở hàng rào trước mặt
Trang 178 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
căn cứ bên kia sông. Chúng như đàn chó đói, không sợ
chết, đang muốn vượt rào lội qua kinh để cướp tàu và áp
đảo căn cứ. Các khẩu đại bác trên các chiến đĩnh bình tĩnh
đan chéo những lằn đạn. Xác địch rụng xuống như sung.
Đợt xung phong của chúng tạm ngừng.
Trận địa bỗng yên lặng ghê rợn. Rồi một loạt hỏa
tiển 122 ly, có lẽ từ chợ Tuyên Nhơn, câu vô, rất chính xác,
nổ tung trên căn cứ và cả mặt trước. Các chiến đĩnh vội tản
ra để tránh pháo. Pháo ngưng. Lại một đợt xung phong
khác ở sau hàng rào bên kia bờ đất sát con kinh. Chúng lại
ào ào muốn lội qua kinh. Súng ở các ụ súng từ ven bờ kinh,
trên căn cứ bắn ra như mưa. Một số địch quân đã qua được
bên này kinh, bờ Nam, dùng bộc phá cắt đứt hàng rào. Tất
cả diễn tiến ác liệt nói trên Tuấn đều báo cáo đầy đủ. Trời
đã gần sáng. Địch đã khá đông ở ngoài hàng rào, đồng loạt
hô xung phong. Đúng lúc ấy, loạt mìn đĩa, hướng ra sông
nổ bùng. Từng xác người bay lên, rồi im bặt. Mặt trận lắng
lại như qua một cơn mê. Trời đã sáng. Mặt kinh phẳng
lặng. Các chiến đĩnh lần lượt quay về căn cứ. Tuấn cầm
máy báo cáo lên thượng cấp: “Địch đã rút. Xác địch nằm
đầy ngoài hàng rào.”
Vào khoảng 11 giờ trưa, 27 tháng 3 năm 1975,
chiếc trực thăng đáp xuống. Thượng cấp là Hải Quân Đại
Tá Nguyễn Văn Thông, và Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng.
Trận địa vẫn ngổn ngang xác địch và âm ỷ khói than. Ngoài
một số vũ khí vừa thu nhặt lại, còn rất nhiều xác địch nằm
ở hàng rào mặt tiền đơn vị, cũng như ở gần bên kia hàng
rào, phía bờ Bắc con kinh.
Kết quả của cuộc phản công này của căn cứ Hải
Quân Tuyên Nhơn, đã làm địch khiếp vía và tất nhiên tràn
ngập căm thù. Bên ta, hơn 30 chiến sĩ tử trận và bị thương.
Tuấn, Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn, được Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Vùng IV
Chiến Thuật, nhiệt liệt ngợi khen, và đề nghị thăng cấp
Trung Tá tại mặt trận. Nhưng phải chăng đó cũng là niềm
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 179
vinh quang báo trước sự bất hạnh của một người anh hùng,
đôi bên chẳng đội trời chung. Xác địch được vứt lên GMC,
đem đi chôn tập thể. Một số xác địch chìm dưới lòng kinh,
mấy hôm sau mới nổi lên trôi đi, trôi lại trên khúc sông
này. Chợ Tuyên Nhơn cách căn cứ 3 cây số. Một số dân
còn ở lại, nhìn xác địch nỗi trôi mà bàn tán, lắc đầu. Đồng
thời tên Lê Anh Tuấn khét tiếng khắp vùng.
PHÚT CUỐI CỦA MỘT ANH HÙNG.
Tại căn cứ chiến lược Tuyên Nhơn, vào các ngày
chót của cuộc chiến nơi đồn trú của Liên Đoàn Đặc Nhiệm
214-1 vẫn sinh hoạt đều hòa, bình tĩnh. Mặc dù, gần một
nửa chiến đĩnh đã bất khiển dụng, một phần là trúng đạn
pháo kích của địch, một phần là các cơ phận thay thế đã
không còn. Chiến đĩnh nằm gác mũi vào bờ như những lô
cốt tiền sát. Qua tin tình báo và qua sự phát hiện tình cờ của
dân, đại quân của địch dù không “nuốt” được căn cứ Tuyên
Nhơn, cũng đã tràn từ biên giới Việt-Miên về. Các đồn bót
phía Bắc kinh Đồng Tiến đã bị tràn ngập. Bên kia sông
Vàm Cỏ Đông, Công Trường 7 của địch ào ạt từ Mỏ Vẹt,
Đồng Tháp Mười tiến qua kinh Ngang, đang áp đảo phía
Bắc con kinh Thủ Thừa, nối liền hai nhánh sông Vàm Cỏ
Đông và Vàm Cỏ Tây. Địch im lặng như thầm nhủ: “Để đó,
rồi mày sẽ biết tay tao.”
Lúc ấy, Saigon đang ở vào giai đoạn chót của cuộc
chiến. Mặt trận Xuân Lộc, là một biểu lộ dũng mãnh của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cửa ngõ của Saigon. Chính
trị rối ren. Dân chúng thủ đô bắt đầu rối loạn. Nhưng cả
Vùng 4 vẫn còn yên. Căn cứ Tuyên Nhơn vẫn bình thản đợi
chờ một cuộc thư hùng khác. Nhưng không, tất cả vẫn thật
là êm ả dù áp lực của địch mỗi lúc mỗi khép lại dần, mỗi
lúc mỗi thấy khốc liệt. Ánh mắt của dân trên các con đường
qua lại, như có điều gì lo âu, e ngại. Các mặt trận khác mỗi
lúc mỗi ác. Tới tối ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tư Lệnh
Trang 180 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Phó Lực Lượng Trung Ương, Hải Quân Đại Tá Vũ Xuân
An gọi cho Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn: “Bằng mọi
cách phải đưa đơn vị rời Tuyên Nhơn.” Cùng lúc này, Đại
Tá An cho Tuấn hay là “quân đội mình đã rã ngũ,” Tuấn
liên lạc lại với Hải Quân Thiếu Tá Phạm Văn Tạo, Chỉ Huy
Phó Liên Đoàn Đặc Nhiệm có mặt tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn
9 Bộ Binh, để được xác nhận: “Bộ Tư Lệnh Hải Quân
Saigon và Hạm Đội đã ra đi.”
Tầu Hải Quân Việt Nam chở đồng bào chạy trốn cộng sản
Trước hoàn cảnh này, Tuấn, với tư cách sĩ quan
thâm niên hiện diện tại căn cứ chiến lược Tuyên Nhơn, đã
họp các sĩ quan và các thuyền trưởng lại, tại hầm chỉ huy,
và tuyên bố: “Nhân danh Tư Lệnh Hải Quân, tôi tuyên bố
giải nhiệm các đơn vị trong vùng trách nhiệm... mình phải
ra khỏi đây, về Bến Lức, hoặc xuôi ra biển.” Để có thời giờ
thu xếp cuộc lui quân, đơn vị vẫn sinh hoạt điều hòa, các
vọng canh vẫn cẩn mật.
Sáng hôm sau 30 tháng 4 năm 1975 căn cứ Tuyên
Nhơn vẫn như thường. Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa vẫn
phất phới trên cột cờ giữa sân đơn vị. Tất cả quân nhân các
cấp toàn căn cứ và thân nhân kể cả đàn bà và trẻ nhỏ độ
250 người, các chiến đĩnh còn hoạt động được của cả 2
Giang Đoàn 64 Tuần Thám và Giang Đoàn 43 Ngăn Chận
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 181
là 23 chiếc. Mọi sửa soạn để ra đi rất bình tĩnh, chu đáo. Vì
thế, lúc gần trưa 30 tháng 4 năm 1975, khi Đại Tướng
Dương Văn Minh, TổngThống Việt Nam Cộng Hòa tuyên
bố: “Tôi yêu cầu anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy
bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó.”, thì căn cứ Tuyên
Nhơn đã sắp sửa hoàn tất để lên đường. Tuân theo chỉ thị
nói trên, tất cả các chiến đĩnh của căn cứ đều cắm một
mảnh vải trắng trên cần ăng ten, nhưng Quốc Kỳ Việt Nam
Cộng Hòa vẫn bay phất phới ở sau lái tàu.
Tầu Hải Quân HQ 7773
Mọi người xuống tàu vào lúc 5 giờ chiều. Trên bờ
lính bộ binh, ở ngoài hàng rào đơn vị đứng đầy. Họ ngơ
ngác, cổi áo, buông súng, nhìn theo. Trong đám người ấy
cũng có các cán binh cộng sản đội nón cối.... Đoàn tàu đi
rất chậm. Chiếc HQ 7773 do trung sĩ vận chuyển Nguyễn
Văn Lực, đi sau cùng. Chỉ độ nửa giờ đoàn tàu đã ra tới ngă
ba kinh Đồng Tiến và sông Vàm Cỏ Tây, rẽ mặt, xuôi theo
con nước, đi về phía hạ giang. Theo anh Lực nói lại: “Tàu
tiến thận trọng, lệnh ra là không được khai hỏa, nhưng phải
săn sàng. Mà, lạ lùm, trước đây ở miệt này, khi đi tuần chỉ
thấy bờ sông tối om. Sao mà hôm nay ở hai bên bờ, nhất là
bên phía mặt, có nghĩa là vùng đất phía Nam căn cứ Tuyên
Nhơn, đèn đóm ở đâu mà trùng điệp như sao xa.” Vẫn theo
lời anh Lực kể: “Ông Tuấn dặn rất kỹ cố rời căn cứ, nếu
không đến Bến Lức được thì ra biển. Trên các chiến đĩnh
đồ ăn đem đủ cho 2 đến 3 tuần.”
Trang 182 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Bỗng trên hệ thống âm thoại chỉ huy, có tiếng nói
của Việt Cộng xen vào rất rành rẽ: “Các anh hãy buông
súng xuống, lần lượt từng chiếc một ủi bãi vào bờ bên trái.”
Đoàn tàu khựng lại một chút và được lệnh cứ tiến. Tiếng
nói của địch rạ hạn: “Các anh hãy nghe lệnh của Quân Đội
Giải Phóng, buông súng và ủi bãi, từng chiếc một.”
Đoàn tàu cứ đi. Rồi một trái đạn bùng lên, xanh lè ở
phía trước đoàn tàu, và tôi nghe trên máy, (lời anh Lực), số
1 của 43 đã chết.” Đoàn tàu như không còn linh hồn nữa,
chùng lại. Tiếng lệnh của địch lại vang lên. Tàu tôi, chiếc
7773, đi sau chót, sát bờ bên phải, thấy xe tăng Việt Cộng
đen ngòm lội ở phía sau tàu, đang hướng đại bác vào tàu
mình. Thế là đoàn tàu lần lượt ghé mũi vào bờ bên trái con
sông Vàm Cỏ Tây, dưới ánh đèn pin ra lệnh của địch. Lúc
ấy, lúc ông Tuấn tự tử chết bằng súng Colt, vào khoảng 12
giờ đêm ngày 30 tháng 4/1975. Ông Tuấn tự tử ý ông
không muốn đầu hàng địch, mà dù có hàng địch dễ gì
chúng tha mạng cho ông. Còn có 3 người nữa chết vì bị đạn
địch bắn ra.
Xác ông Tuấn, theo anh em kể lại, vẫn lời anh Lực,
được cuốn trong cuốn drap trắng, và tẩm liệm đêm hôm ấy,
vào khoảng 3-4 giờ sáng. Người ở gần ông Tuấn, lo lắng
cho ông là anh Uy, Trung Sĩ Vận Chuyển Uy.
Sau này, gia đình anh Tuấn đã từ Mỹ về đến bờ
sông Vàm Cỏ Tây tẩm mộ anh Tuấn, thấy ngôi mộ đã được
dân chúng tự động xây cất rất to, đẹp. Đào lên giấy tờ bọc
plastic vẫn còn nguyên. Hài cốt anh đã được hỏa thiêu và
đem qua Mỹ. Gia đình Hải Quân đã làm lễ tiếp đón và truy
điệu rất trang nghiêm. Nhiều bạn bè, đại diện các đoàn thể
đến nghiêng mình trước di hài và di ảnh của Một Kẻ Anh
Hùng Ðã Chết Không Hàng Giặc.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 183
NHỮNG NGÀY TRONG TAY GIẶC.
Anh Nguyễn Văn Lực, Trung Sĩ Vận Chuyển, cựu
“Bố Kép” của Giang Đoàn 64 Tuần Thám kể lại:
Lên bờ thì các sĩ quan mình chúng đem đi đâu riêng
biệt. Còn tụi tôi, đâu ở đó, vẫn ở dưới tàu. Súng ống, đạn
dược vẫn còn nguyên, lúc đầu cũng sợ, sau quen dần. Các
nhân viên khác thì chúng cấp giấy cho về nhà, ngoại trừ
nhân viên cơ khí và thuyền trưởng, chúng giữ lại. Nhưng
các anh em khác, nhà gần, ở Saigon, hay đâu đó ở Miền
Nam lần lượt trốn về. Nhà tôi tận Đà Năng xa quá, không
dám trốn. Tàu tôi, (vẫn lời anh Lực) chúng cho 2 người
xuống ở cùng, đem theo súng ống. Một anh là Thượng Sĩ
Điều, đặc công bờ, gốc Nghệ An. Anh Điều nói, đại đội tôi
từ Bắc vào, giờ chỉ còn trên 10 đứa.
Anh Điều còn nói: “Cách 5 hôm trước khi các anh
buông súng, tôi có theo dõi tàu anh, biết anh là “Bố Kép”
của tàu. Tôi nhắm B-40 bắn, chưa bóp cò thì các anh đã
phản pháo, cành cây trước mặt tôi gãy, chứ nếu chậm chút
xíu thì tàu anh đã tiêu!”
Anh Uẩn, Chuẩn Úy, đặc công thủy nói: “Chúng tôi
được huấn luyện vào Nam để cướp tàu Mỹ.” Vẫn lời anh
Lực kể: “Tôi phải ở lại với bọn chúng gần 3 tháng, phải lái
tàu cho tụi nó đi đây đi đó, có lúc ghé chợ Tuyên Nhơn,
ngang ngã ba vào căn cứ. Tàu ghé chợ, gặp mấy người bán
hàng quen họ nói: “Ủa, chớ anh “Bố Kép” qua bên này hồi
nào. Thì mình chỉ cười trừ cho qua chứ nói sao.”
“Bố Kép” tên gọi quen thuộc, vừa thân tình, vừa có
chút uy lực của một vị thuyền trưởng chỉ huy một chiến
đĩnh của mình trong lửa đạn. Ai được làm thuyền trưởng là
một danh dự, thường đã phải trả bằng những gian lao, cực
khổ, nhiều khi là máu của chính mình. Trước các thuyền
trưởng của Mỹ, được họ gọi là “Bố Kép” có lẽ là chữ Boat
Cap mà ra. Anh Lực cũng không biết có phải như thế
Trang 184 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
không, nhưng ai đã là “Bố Kép” là một tay súng cừ khôi, là
một chiến sĩ can trường, có thể làm mọi thứ trên chiến đĩnh,
nhất là phải biết cách chỉ huy đàn em, những người lăn lộn
trong lửa đạn, coi cái chết như một sự tình cờ. “Bố Kép,”
cái tên lan ra cả một vùng lân cận: Anh A ngon à, sắp làm
“Bố Kép.”
“Bố Kép” Lực cho hay: “Giang Đoàn 43 Ngăn
Chận và Giang Đoàn 64 Tuần Thám về tay tụi nó, do tên
Tám Quốc chỉ huy. Tám Quốc người Mỹ Tho, và đơn vị có
tên mới là C-15. Còn tất cả tàu bè của mình tụ về Bến Lức,
dưới sự chỉ huy của tên Trần Đối, cứ như tên và chức vụ
mà Trần Đối ký trên giấy di chuyển của tôi thì Trần Đối là
Tham Mưu Trưởng Công Trường 5 của quân giải phóng.”
Được dịp nói chuyện với “Bố Kép” Lực, người viết
có hỏi một câu chót: “Anh nghĩ gì về cuộc chiến cũ.” Anh
Lực nói: “Thì mình là dân phải đi lính. Bên kia cũng thế.
Lúc chưa đình chiến thì bắn nhau. Ngưng tiếng súng, gặp
lại nhau thấy sao buồn cười quá.” Hiện anh Lực ở San
Diego, các con anh đã lớn, thành đạt. Anh làm nghề xây
cất, kể như rất thành công.
Phan Lạc Tiếp, 10/1999
*
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 185
Nhớ
Phạm Đình Chương
Phan Lạc Phúc
LTS: Phan Lạc Phúc tức ký giả Lô Răng, sinh năm 1928 tại
phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây Bắc Việt. Ông theo học trường
Văn Khoa Sài Gòn, trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (khoá
2) và Trường Thông Tin Báo Chí Rochelle University Hoa
Ky. Ông là cựu Chủ Bút nhật báo (quân đội) Tiên Tuyến.
Sau năm 1975 ông bị đưa đi tù cải tạo 10 năm. Năm 1991
ông đã sang Úc định cư ở Sydney. Ông mất ngày 25/4/2016
tại Bonnyrigg NSW. Australia.
Trang 186 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương ra đời tại Hà Nội vào năm
1929, trong một gia đình nghệ sĩ, học Trường Bưởi, tản cư vào
Thanh Hóa sau Toàn Quốc Kháng Chiến chống Pháp 1945. Sáng
tác nhạc trước tuổi 20, ông là tác giả những ca khúc dân tộc
như Tiếng Dân Chài, Ly Rượu Mừng, Hội Trùng Dương, hay
những sầu khúc nhạc phổ thơ như Nửa Hồn Thương Đau, Mắt
Biếc, Mộng Dưới Hoa, Người Đi Qua Đời Tôi ...
Tới Hoa Kỳ được ít năm, Phạm Đình Chương từ trần tại Quận
Cam, California vào ngày 13 tháng 7 năm Tân Mùi, nhằm ngày
22 tháng 8 năm 1991. Bài dưới đây của nhà bỉnh bút Phan Lạc
Phúc, hay Ký giả Lô Răng, một bạn học của nhạc sĩ từ Trường
Bưởi, được viết ngay sau khi có tin buồn.
*
Chuông điện thoại réo lên trong đêm khuya. Một cú
phone từ bên kia Thái Bình Dương, từ Mỹ báo tin: “Phạm
Đình Chương đã mất rồi, Hoài Bắc không còn nữa”. Tôi
đặt phone xuống mà thấy đêm khuya thêm vắng lặng mênh
mông. Ở cái tuổi mình, trên 60, cái ranh giới tử sinh thật là
mờ ảo, ở đấy rồi đi đấy, còn đấy mà mất đấy. Thành ra ít
lâu nay, tôi cứ phải làm một con tính trừ thê thảm. Mấy
năm trước mất Thanh Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ
Phạm Đình Chương - Hoài Bắc. Già thì càng cần có bạn,
mà bạn già thì càng ngày càng thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10
năm, rồi sống nín thở trên 6 năm, vừa mới lặn ngòi ngoi
nước sang được đến đây thì bạn đã đi vào tịch mịch. Bạn ta
Phạm Đình Chương đã đi thật rồi, một người viết ca khúc
tầm cỡ của Việt Nam đã mất, ngôi sao bản mệnh của Ban
Hợp Ca Thăng Long đã tắt.
Tôi chơi với Phạm Đình Chương đã lâu, vào
khoảng năm 1942 - 1943, hồi tụi tôi vừa mới lớn lên. “Khi
mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học trò mắt sáng
với môi tươi” [1]
. Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh
Trường Bưởi, trong những buổi cắm trại ở chùa Trầm, chùa
Thày, Tây Phương Hoàng Xá [2]
Ngày ấy, chúng tôi say mê hát “Quê nhà tôi chiêu
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 187
khi nắng êm đêm” [3]
, “Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời
sông núi” [4]
và Chương đã là một tay đàn giọng hát khá
nổi của học sinh Hà Nội. Nhưng mà Chương có hai người
anh nổi tiếng: anh Phạm Đình Sĩ, một cây “kịch” và
anh Phạm Đình Viêm, một cây “tenor”. Chương còn có
một người chị trứ danh, chị Thái Hằng, hoa hậu “bất thành
văn” của suốt một miền Bạch Mai - Phố Huế. Còn người
em út của Chương, Thái Thanh thì lúc ấy Thái Thanh còn
nhỏ, đang còn học tiểu học, còn là một nụ hoa. Phải đợi đến
thập niên '50, bông hoa Thái Thanh mới bắt đầu rực rỡ và
tiếng hát Thái Thanh mới được lên ngôi.
Ban Hợp Ca Thăng Long:
Hà Nội ngày ấy tuy được mệnh danh là Hà Thành
hoa lệ hay là Hà Nội của ba mươi sáu phố phường nhưng
thực chất nó là tỉnh nhỏ - người ta biết nhau cả, trực tiếp
hay gián tiếp. Và tỉnh nhỏ nó còn có tục lệ riêng của nó.
Thế hệ tiền bối ở Hà Nội có tiêu chuẩn “phi cao đẳng bất
thành phu phụ”. Thời tụi tôi thì cái standard về một đấng
trượng phu nó nôm na và thực tiễn hơn: “Đẹp trai, học
giỏi, con nhà giàu”. Phạm Đình Chương xét ra hội đủ
Trang 188 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
những điều kiện ấy: Học trò Trường Bưởi, người cao ráo
sạch sẽ lại là cậu út trong một gia đình nổi tiếng. Lại còn
đàn ngọt, hát hay, còn là ca trưởng của học sinh trong
những dịp hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học
trò nhà quê ra tỉnh học, từ thời áo dài mũ trắng thì Phạm
Đình Chương tư cách quá.
Thời ấy, Nhật đã vào Đông Dương. Thế Chiến thứ
hai đang hồi quyết liệt, bom Mỹ dội xuống đùng đùng. Các
thành phố phải “phòng thủ thụ động”, các trường học phải
đi xa hoặc dời về miền quê. Đang học mà có còi báo động
là nghỉ; học trò kéo nhau ra các khu cây cối um tùm, hoặc
bờ đầm, bờ sông tạm lánh. Đây là dịp tốt cho một số công
tử Hà Nội, trong đó có Chương, về thăm quê cho biết sự
tình. Về quê thì tiện cho tôi quá, tôi có nhiều trò: lội sông,
câu cá, bắn chim. Hoặc là săn xe đạp, tụi tôi rủ nhau đi cắm
trại ở những thắng cảnh gần Hà Nội như chùa Thày, chùa
Tây Phương, động Hoàng Xá. Những thắng cảnh này đều
nằm trong vùng quê tôi (phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) nên
tôi thuộc nằm lòng. Đến chùa Tây Phương thăm ông Phật
nhịn ăn mà mặc, ông nhịn mặc mà ăn, ông Phật tai dài đến
gối. Đến động Hoàng Xá tôi biết nhũ đá nào kêu thanh, nhũ
đán nào kêu đục, bắn một phát súng cao su lên vòm đá là
dơi bay tán loạn một vùng. Đến chùa Thày (Sài Sơn) thăm
chùa Cả dưới chân, chợ Trời trên đỉnh núi rồi thăm hang
Cắc Cớ nơi có dấu chân ông Từ Đạo Hạnh còn in. “Hội
chùa Thày vui thay Cắc Cớ, Trai không vợ nhớ hội chùa
Thày - Gái không chồng nhớ ngày mà đi”. Chương ơi,
Chương còn nhớ ngày hội về quê mình không? Còn nhớ
con đê Hạ Hiệp không? Mới đó mà đã 50 năm rồi, đã nửa
thế kỷ qua rồi. Chương có nhớ cũng không thể nào về thăm
được nữa. Bạn ta đã thành người thiên cổ mất rồi.
Phạm Đình Chương rất yêu miền Quốc Oai - Sơn
Tây vì không những nó là một miền thắng tích mà nơi đó
còn là quê ngoại của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ
Hiệp, cách làng tôi chừng hai vạt cánh đồng. Chương tự
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 189
nhận mình là người Sơn Tây và trong những năm đó
Chương về thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội
và anh học trò nhà quê càng có dịp gần gũi nhau hơn Khi
mùa Xuân đã cạn ngày, hội hè đã vãn, những cây gạo miền
Bương Cấn đã tưng bừng nở đỏ thì cũng là lúc chim tu hú
lảnh lót gọi hè về trong rặng vải bên sông. “Sông Đáy
chậm nguồn qua Phủ Quốc” [5]
, con sông này ngoài mùa
ngâu nước lũ, còn quanh năm nước chảy lặng lờ. Học trò
tụi tôi lại đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom rơi
đạn lạc ở thành phố, vừa cắm trại vừa ôn thi.
Nhưng đến năm 1945, thanh niên như Chương và
tôi không còn đầu óc nào mà học hành thi cử nữa. Bao
nhiêu vấn đề trọng đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn,
hàng triệu người chết đói. Nhật đảo chính Pháp ngày 9
tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên ra đời. Thế chiến II
kết liễu Đức - Ý - Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo
sang Chiến Khu Việt Minh. Đổi đời. Cách Mạng Tháng 8
Quân đội Pháp trở về, thanh niên đua nhau đi dạy bình dân
học vụ, đi khất thực, đi biểu tình. Chúng tôi say mê
hát “Lên Đường”, lao đầu vào một cuộc chơi mới không
kém phần lãng mạn: đòi độc lập cho đất nước. Chúng tôi là
Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng tôi là Trung đoàn thủ đô. Như
lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đình Chương và tôi
khoác ba lô lên đường kháng chiến.
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiêu thơm.
(Quang Dũng)
Những năm đầu kháng chiến (1948, 1949, 1950) có
những thị trấn mọc lên vội vã. Khu 10 Việt Bắc có thị trấn
Cây Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần,
Chợ Đại; vào khu 4 Thanh Hóa có chợ Rừng Thông. Đây là
nơi dân tản cư tứ xứ kéo về sinh hoạt, đổi trao, mua bán tạo
Trang 190 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính cậu ngày nào bây
giờ sốt rét, xanh rớt như tàu lá, mắt trợn trừng, tóc rụng
nhưng đêm đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và được dịp là phải
về thăm các thị trấn mới này cho đỡ nhớ ...
Đầu mùa đông năm 1948, tôi khoác ba lô, đổ bộ lên
Chợ Đại tìm ít thuốc nivaquine chống sốt rét. Trời mưa
nhớp nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở
đầu đường, hiện ra một quán nước thanh bai, lịch sự mang
một cái tên khá là kiểu cách “Quán Thăng Long”. Ở trên
vách quán, có treo song song mấy cây đàn nguyệt và một
cây thập lục. Ở dưới, bên khay trà tỏa khói có hai vị trưởng
thượng đang ngồi đối ẩm. Hai vị này tôi biết: ông thân của
Phạm Đình Chương và cụ N. T. Đức, một danh cầm của
toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ
vẫn nhàn nhã phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ ở
đây Thăng Long Đông Đô, Hà Nội là vẫn cứ phải đường
hoàng, cốt cách. Cốt cách như chị Thái Hằng đang ngồi
trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn mang nguyên chiếc
kiềng chạm bằng bạc của một thời khuê các, như Thái
Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang nghiêm chỉnh
ngồi đan.
Người vui nhất khi tôi được gặp là bà thân của
Chương. Bà hỏi thăm “quê mình bây giờ Tây nó đánh đến
đâu rồi”. Bà cho biết anh Phạm Đình Sĩ có lẽ kẹt, chưa có
tin tức gì. Anh Phạm Đình Viêm (Hoài Trung) còn đang đi
ban kịch Giải Phóng, chuyên hát bài “con vỏi con
voi” và ”con mèo trèo cây cau” nhạc hài hước của Nguyễn
Xuân Khoát. Còn Phạm Đình Chương thì công tác ở liên
khu 3, chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa
mới được giải thưởng về bài hát “gì mà có con cò bay lả
bay la”.
À ra thế bạn ta anh công tử Hà Nội đang đưa ca dao
vào nhạc mới. Chương, Chương, có phải cánh cò ấy là cánh
cò bay qua rặng vải triền sông Đáy? Còn cánh đồng nào rào
rạt lúa thơm mềm [6]
có phải là cánh đồng Bương Cấn khi
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 191
chúng ta “Lên núi Sài Sơn ngóng lúa vàng” [7]
Tôi nhớ mãi lời bà thân của Chương khi đưa cho tôi
gói thuốc đựng chừng 10 viên nivaquine: “Giữ lấy mà
dùng. Dạng các cậu không được phát thuốc này
đâu”. Đúng như thế, dạng “tạch, tạch, sè” (tiểu tư sản) như
Chương và tôi thì dù sốt rét vàng người, rụng tóc cũng chỉ
được phát thuốc ký ninh pha loãng là cùng. Nivaquine
thuốc mới, công hiệu, đắt tiền chỉ đủ dùng cho “tổ chức”
mà thôi. Thực tế nó là như vậy nên ngoài một số anh em
đã “áo bào thay chiếu ...” [8]
còn đa số dân tạch tạch sè là
kẻ trước người sau “dinh tê” về Hà Nội. Những va chạm
với thực tế làm cho giấc mơ tuổi trẻ lụi tàn, cuộc chơi lãng
mạn đầu đời đã trở thành một nỗi đam mê vô ích. Tôi về
cuối năm 49 còn Chương và gia đình hồi cư năm 51.
Gia đình Chương kỳ này có thêm một nhân vật lừng
danh: Phạm Duy. Năm 1949, chiến tranh lan đến vùng chợ
Đại và quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn
nhậm của viên tướng Mạnh Thường Quân Nguyễn Sơn. Ở
đây Thái Hằng đã trở thành bà Phạm Duy, Thái Thanh vừa
lớn để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đình Chương
phục vụ trong phòng văn nghệ của một đại đoàn. Quán
Thăng Long không còn nữa nhưng tiền thân của ban Hợp
Ca Thăng Long đã được định hình. Tôi cũng không còn
nhớ rõ gia đình Phạm Đình Chương về trước hay sau cái
chết của viên tướng đầy huyền thoại Nguyễn Sơn. Chỉ biết
là ban Thăng Long vào thành nhưng không ở lại Hà Nội mà
vô thẳng miền Nam lập nghiệp.
Năm 1952 tôi cũng vào Nam, học nghề lính tại
trường Thủ Đức. Những ngày cuối tuần ra Sài Gòn chơi,
thấy đầu đường góc phố chỗ nào cũng có biểu ngữ, bích
chương, quảng cáo ban Hợp ca Thăng Long. Báo hàng
tuần, hằng ngày đều đăng hình ảnh, lịch trình diễn của Thái
Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, Phạm Duy.
Ban Hợp Ca Thăng Long đang rực sáng, những thành viên
của nó đang được mến yêu. Người Sài Gòn vốn bộc
Trang 192 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
trực “yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét” mà đã
yêu thì yêu hết mình; chương trình của Ban Thăng Long
trên đài phát thanh rất được lắng nghe - trình diễn của Ban
Thăng Long lại càng ăn khách. Ngưới ta mua “giấy” báo
xem thật đông, vỗ tay thật nhiều nhưng còn chưa “đã”.
Buổi trình diễn xong rồi, người ái mộ còn ở lại để tìm cách
đến thật gần, nhìn thật kỹ hay nếu có thể bắt cái tay, đụng
cái chân vào nghệ sĩ, tài tử thần tượng của mình. Người
miền Nam ái mộ ồn ào như thế, dễ thương như thế.
Trước sự tán thưởng nồng nhiệt ấy tôi có lúc đã tự
hỏi: “Vì sao mà trong một thời gian chưa đầy hai năm, Ban
Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?” Tôi vốn dốt về
nhạc lý, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa
ra ý kiến có tính cách kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan
dân dã của mình tôi nhận thấy thực chất của Ban Hợp Ca
Thăng Long nằm trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe
tiếng hát chen tiếng ngựa hí (Ngựa Phi Đường Xa), vui
lâng lâng khi nhìn cánh cò bay lả bay la trên đồng lúa chín
vàng (Được Mùa), vui đầm ấm khi nghe tiếng hò dô vang
trên sóng nước (Tiếng Dân Chài), vui thấm thía nghẹn ngào
khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa
mới trở về (Ly Rượu Mừng). Cái vui của nhiều cung bậc,
cái vui đã được cách điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm lòng
người.
Đồng bào miền Nam xưa nay thừa thãi điệu buồn
nên trong cái vô thức tập thể nó thiếu một niềm vui khỏe
mạnh. Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đã đáp ứng được
niềm khao khát đó. Ấy là chưa kể đến một yếu tố đầy cảm
tính rất phù hợp với miền Nam: tất cả thành viên ban hợp
ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đình tài hoa quá.
Một sự kết hợp đẹp đẽ quá. Nhất là sau đó ít lâu, ban hợp
ca Thăng Long lại có thêm một thành viên mới: Khánh
Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền Nam, Hoài Bắc -
Khánh Ngọc một lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng
Long càng thêm sung sức.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 193
Nhưng phải đợi đến đầu năm 1954, Ban Hợp Ca
Thăng Long mới lên đỉnh cao thành tựu của mình. Năm ấy
ban Hợp ca cùng với “quái kiệt” Trần Văn Trạch, thành lập
ban Gió Nam ra công diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là
thương binh nằm nhà thương Võ Tánh. Nghe báo chí Hà
Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề - Ngọn gió Nam
mát lành thay. Nghe dân chúng Hà Nội xôn xao hâm mộ
quá, tôi sốt ruột phải trốn nhà thương một buổi ra xem Gió
Nam trình diễn.
Nhưng mà ra chậm hết vé mất rồi. Nhà Hát Lớn Hà
Nội không còn chỗ. Tôi lững thững đứng ngoài nghe tiếng
vỗ tay dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt.
May quá gặp Ngọc Chả Cá một cây công tử Càn Long Hà
Nội tôi mới được vào (bây giờ bạn ở đâu hở Ngọc?).
Người Hà Nội xưa nay khụng khiệng ít khi nào
nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần này, người Hà Nội bị
ban Hợp ca Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó
tân nhạc ở Hà Nội chỉ là một bà con nghèo trước cải lương,
tuồng kịch ... chỉ đảm nhiệm được vai trò phụ diễn trước
khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi. Bây giờ Ban
Hợp ca Thăng Long với một chuỗi ngôi sao nhạc mới đã
chiếm lĩnh sân khấu suốt hai tiếng đồng hồ liên tục. Khán
giả Hà Nội được thưởng thức một chương trình nhạc mới
tân kỳ sinh động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước
trưởng thành của tân nhạc và trở nên khuôn mẫu cho những
đại nhạc hội sau này.
Buổi trình diễn vừa kết thúc, toàn ban Gió Nam ra
chào khán giả. Đèn rực sáng. Những bó hoa trao cho những
nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đình Chương giơ cao bó
hoa vẫy vẫy, nụ cười rộng mở. Chương không thể nào biết
rằng trong số khán giả vô danh ấy, có một người bạn cũ của
Chương đang vỗ tay kịch liệt.
Thập niên 50 là thời kỳ rực rỡ nhất của ban Hợp ca
Thăng Long. Thời gian này cũng là lúc Phạm Đình Chương
Trang 194 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
sáng tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp
ca Thăng Long như Tiếng Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly
Rượu Mừng ... đều xuất hiện trong giai đoạn này.
Không biết tôi có chủ quan không khi nghĩ rằng
Phạm Đình Chương trong giai đoạn này vẫn mang dáng vẻ
một anh học trò mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương,
con người, thiên nhiên đều là bè bạn. Ngựa phi đường xa
thế nào cũng tới, leo núi mệt nhọc rồi cũng đến nơi, đồng
ruộng thì đầy lúa thơm mềm, con sông thì đầy trăng và đầy
cá. Thế vẫn còn chưa hết, Chương còn rót một ly rượu
mừng, mừng khắp nhân gian. Hãy lắng nghe đi, có một nụ
cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên như
tiếng reo vui. Cũng có lúc Phạm Đình Chương nhắc đến
điệu buồn; giọt lệ rưng rưng chờ mong bóng con của người
mẹ già hay nỗi khổ của đồng bào miền đất cày lên sỏi đá:
Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi
Mùa đông thiếu áo [9]
...
Nhưng liều lượng của điệu buồn trong nhạc Phạm
Đình Chương thời kỳ này rất ít so với niềm vui ào ạt, chỉ
như một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi
lên sắc trắng mà thôi. Mà điệu buồn cũng được nhắc đến
bằng tấm lòng nhân ái, tâm hồn Chương là vậy, mở ra,
hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương không phải là
người hướng nội, đi tìm thú đau thương trong những kiểm
tra, tự vấn nơi mình. Đó là thực chất nhạc Phạm Đình
Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp ca
Thăng Long ...
Giai đoạn sáng tác thứ hai của Phạm Đình Chương
bắt đầu từ một kỷ niệm buồn: Ngày Khánh Ngọc rời xa vào
khoảng cuối thập niên '50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng
cũng tìm về hướng khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà
Huyện Thanh Quan không người ở. Hoài Bắc, Thái Thanh
và gia đình dọn về một căn nhà nhỏ đường Võ Tánh (Frères
Louis cũ). Chính tại ngôi nhà này tôi thường đến bầu bạn
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 195
với Phạm Đình Chương cùng với Thanh Nam, Mai Thảo.
Tụi tôi đến “hầu bài” bà thân của Chương để được ăn
những bữa cơm nhớ mãi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu
rán ...
Lúc này, hình như Chương muốn ra khỏi vùng hào
quang sáng chói của một ca sĩ thời danh để được sống bình
thường nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu
cách, Chương ăn vận xuề xòa, đi dép không quai lẹt xẹt,
chiếc xe hơi dài thòng Studebaker đã được bán đi. Nụ cười
kiểu jeune premier đã tắt và đặc biệt Chương để một hàm
râu mép chàm ràm, rậm rịt. Lúc này, tụi tôi có một tên mới
để gọi Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang phóng túng hình
hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có nói cũng thường hừ một tiếng
giọng mũi. Một nhát chém hư vô đã làm thay đổi Phạm
Đình Chương.
Ban Hợp ca Thăng Long, với sự phân liệt như thế
tưởng đã rã đám. Nhưng đầu những năm '60, ban Thăng
Long gượng dậy với Hoài Trung - Hoài Bắc - Thái Thanh.
Ban Thăng Long sống lại kỳ này, tuy vẫn được tán thưởng
nhưng đó chỉ là cái bóng của chính mình. Phạm Duy đã
mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân tộc đi
xa, còn tiếng reo vui chan hòa và nhân ái của Phạm Đình
Chương cũng không còn xuất hiện. Trong thời kỳ này ban
Hợp ca Thăng Long có trình làng một tác phẩm rất được
hoan nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này
không phải của Chương mà của một tài danh khác: Văn
Phụng.
Thời kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng tác rõ như
gương, tha nhân và ngoại giới đều là bè bạn của Chương đã
khép lại rồi. Tiếng cười đã tắt. Thời kỳ này là của đau
thương và tiếng khóc. Nhưng khóc than rên rỉ không phải là
nghề của chàng. Như đã nói, Chương không phải là người
hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ giải sầu. Nỗi đau
thì có săn và Chương muốn giữ một mình nhưng lời oán
hận thì không. Cho nên những khúc bi ca sau này như Nửa
Trang 196 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Hồn Thương Đau, Người Đi Qua Đời Tôi, Mưa Sài Gòn
Mưa Hà Nội, Chương đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền,
Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn ... Chương làm công việc
phổ thơ, qua lời của người để phần nào nói lên tâm sự của
mình. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó, rất được
yêu thích qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương
nó vẫn như một sự “Chẳng đặng đừng”. Về bề ngoài, hai
giai đoạn sáng tác của Chương có vẻ đối nghịch nhau
nhưng nhìn chung nó vẫn thống nhất trong tâm hồn nhân ái
của tác giả.
Nói cho ngay từ thập niên '60 trở đi, việc ca hát đối
với Chương cũng là một sự “chẳng đặng đừng”. Thì cũng
phải có công ăn việc làm như người ta, ngay cả việc trông
coi phòng trà ca nhạc “Đêm Màu Hồng” Chương cũng làm
chơi chơi, cho có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng
khoáng ấy nó lại hợp với khung cảnh Đêm Màu Hồng. Đây
là một phòng trà gợi nhớ. Nhớ về những bài hát xa xưa, về
một thuở mộng mơ đã tắt, về một khung cảnh Việt Nam đã
xa, về một ban Hợp ca Thăng Long đã tàn. Phạm Đình
Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng ly cùng người
mộ điệu hoặc lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được
yêu cầu. Cái giọng có mang hơi rượu cùng với nụ cười
nhếch mép đã tạo nên không khí Đêm Màu Hồng vì phần
lớn khách đến đây đều là thân hữu.
Chúng tôi, những buổi phùng trường tác hí là vào
khoảng 9, 10 giờ đêm lại tà tà kéo đến Đêm Màu Hồng.
Bạn bè có chỗ ngồi riêng, giá biểu riêng. Khẩu vị như thế
nào thì chủ quán biết rồi. Vũ Khắc Khoan thì phải Con
Thuyền Không Bến, lúc nào cao hứng lại còn phi lên sân
khấu mà ngâm “Hồ Trường, Hồ trường ta biết rót vê
đâu”. Thanh Tâm Tuyền thì phải Mộng Dưới Hoa. Thanh
Nam thì Cô Láng Giềng. Hôm nào có mặt tôi, Thái Thanh
lại hỏi: Biệt Ly hay Buồn Tàn Thu đây ông? Có bữa Râu
Kẽm cảm khái quá liền ôm đàn guitare mà hát một mình (ít
khi lắm). Hát tiếng Tây ”Un jour si tu m’abandonnes”
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 197
(Ngày nào, nếu em bỏ ta). Có khi vui anh vui em, Chương
bỏ luôn phòng trà cùng Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo kéo
lên “Quang Minh Đỉnh”.
Trong những năm ”Đêm Màu Hồng” tôi thường cố
giữ một nền nếp. Cứ đêm 30 Tết gần Giao Thừa là tôi kiếm
một bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu Hồng tặng
Thái Thanh. Cô em nhỏ ngày nào đi kháng chiến bây giờ
trở thành tiếng hát vượt thời gian. Có lần tôi nhận được cặp
bánh chưng của bà thân Chương và Thái Thanh gửi cho.
Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ
quê hương phủ Quốc gửi vào.
Những lúc ấy, năm mới sắp sang, năm cũ sắp hết
mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai Thảo ngồi từ từ uống rượu,
uống cho say, uống cho quên uống không không mệt mỏi.
Tôi chợt nhớ một câu của Mai Thảo “Chúng tôi thân với
nhau trong một tình thân thiết rất buồn rầu”.
Buổi cuối cùng tôi gặp Phạm Đình Chương đâu vào
khoảng tháng 5 năm 1975 khi “đứt phim” được chừng hơn
1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên Gia Định
có cả Mai Thảo nữa. Mai Thảo mang thêm một chai rượu
vang còn sót lại. Các bạn có ý tiễn đưa tôi và Thanh Tâm
Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê lương.
Rồi Chương và tôi đạp xe ra về trước. Đạp toát mồ
hôi đến quãng Trần Quốc Toản thì mỗi đứa mỗi đường.
Chương ngừng lại và tôi cũng ngừng theo. Chương nắm lấy
tay tôi vẻ bùi ngùi mà nói: “đi nhé”. Tụi tôi xưa nay ít có
cái trò nắm tay, nắm chân như vậy, nhìn nhau một cái là đủ
rồi. Chừng như Chương thương cảm cho số phận tôi trước
việc đi cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về.
Nhưng bây giờ, 16 năm sau, tôi đã đi cải tạo về rồi,
Chương lại làm một chuyến đi không bao giờ trở lại. Đi
nhé! Ngàn năm vĩnh biệt Phạm Đình Chương./
Phan Lạc Phúc (1998)
Trang 198 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Chú thích
[1] Thơ Đinh Hùng
[2] Những thắng cảnh miền Quốc Oai, Sơn Tây
[3] Nhạc Hoàng Quý
[4] Nhạc Lưu Hữu Phước
[5] Thơ Quang Dũng
[6] Được Mùa, nhạc Phạm Đình Chương
[7] Thơ Quang Dũng
[8] Áo bào thay chiếu anh về đất - Thơ Quang Dũng
[9] Hội Trùng Dương, nhạc Phạm Đình Chương
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 199
Cái thuở ban đầu
lưu luyến ấy
Trần Thế Ðức, CVA 63
Thường thì những người có danh, có chức mới viết
hồi ký khi về già. Tôi chỉ là một nhà giáo bình thường,
chẳng có gì to lớn cả, nên chẳng bao giờ nghĩ đến việc tự
viết về mình. Tuy nhiên, qua bao năm sống còn, nghĩ lại
mình cũng còn những điều đáng nhớ nên mạo muội ghi lại:
Trong cuộc đời chúng ta, biết bao mốc thời gian, biết bao
biến cố xảy ra, nhất là những ai đã sống trong những ngày
tàn khốc nhất trên đất nước Việt Nam trong những năm
khói lửa (1945-1975). Không nhắc tới những biến cố trên
đất nước, trong cuộc đời mình, một mốc thời gian quan
trọng là lúc quyết định chọn nghề sau khi rời mái trường
trung học.
Thuở niên thiếu của tôi (cuối thập niên 1950 và đầu
1960), không có cố vấn học đường, cố vấn nghề nghiệp, và
những tài liệu hướng dẫn về các ngành học ở đại học cũng
như các trường chuyên nghiệp như ngày nay ở các nước
tiên tiến. Tài liệu duy nhất mà chúng tôi biết là cuốn sách
nhỏ “Ðây Ðại Học” do sinh viên Công Giáo soạn và tái bản
nhiều lần. Ở trường, các thầy trẻ, mới ra trường, cũng là
những người hướng dẫn chúng tôi rất nhiệt tâm. Khi tôi học
lớp đệ nhị ở Trường Trung Học Chu Văn An Sài Gòn
(1961-1962), thầy Phạm Xuân Lương, một thầy giáo trẻ,
mới tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm, coi chúng tôi như những
đứa em, và hướng dẫn chúng tôi rất nhiều.
Trang 200 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Ðối với những kẻ con nhà nghèo như tôi, lời khuyên
của thầy là nên học Ðại Học Sư Phạm, vì thời gian học chỉ
có ba năm, lại có học bổng (1,500 đồng một tháng) có tí
tiền tiêu xài, không cần xin cha mẹ. Vào thời đó, đây là một
số tiền lớn vì lương công chức (thư ký phù động) khoảng
trên 2,000 đồng, lương chuẩn úy 2,200 đồng ăn tô phở chỉ
tốn 5 đồng, ly cà phê 2 đồng. Từ đó tôi thấy con đường đi
trước mắt: Ðại Học Sư Phạm. Nhưng học môn gì? Tôi học
ban A, khoa học thực nghiệm nên định học môn Vạn Vật,
theo gót các thầy Nguyễn Văn Ðỉnh (vị thầy chuyên dạy
ban A, với phương pháp thật dễ hiểu) và Nguyễn Ngọc
Quỳnh (người có hai bàn tay lả lướt vẽ thành những hình
tuyệt đẹp như những bức tranh của họa sĩ, mà khi thầy xóa
bảng, chúng tôi cứ tiếc). Ðôi khi thầy Quỳnh biểu diễn
bằng cả hai bàn tay với đủ loại phấn màu… Ngoài ra,
chúng tôi có thể hỏi các anh chị của bạn bè, những người đi
trước. Một người bạn tôi có ông anh học rất giỏi, năm nào
cũng lãnh phần thưởng là những chồng sách cao, khi còn
học Chu Văn An. Sau khi đậu tú tài, anh thi đậu vào trường
Cao Ðẳng Nông Lâm Súc. Tôi rất mê ngành nông nghiệp
mà anh đang học. Anh phải đi thực tập hàng tháng trời, khi
thì ở các đồn điền cao su Long Khánh-Bình Dương, khi thì
ở các đồn điền trà Bảo Lộc-Lâm Ðồng. Ðọc cuốn luận văn
sau khi thực tập của anh (ngành trồng trà ở Bảo Lộc-Lâm
Ðồng), tôi rất thích. Nhưng tôi không thể mơ tới trường này
được, vì trong kỳ thi tuyển có bài toán ban B, chỉ bài Vạn
vật mới ở trình độ ban A. Tôi học ban A thì làm sao làm
nổi bài toán ban B.
Trường Trung Học Chu Văn An của tôi gần như là
trường ban B. Thế mà tôi lại chọn ban A. Lớp ban A của tôi
tập trung những kẻ cùng thân phận như tôi (dốt hoặc sợ
môn toán), nhưng lại là nơi khởi đầu của nhiều bạn học giỏi
đã chọn con đường thật dài và sáng giá: y khoa đại học, để
trở thành bác sĩ. Những người bạn thân của tôi từ thời đệ
thất đều khuyên và rủ tôi cùng vào APM (Année
Préparatoire de Medecine = dự bị y khoa) với họ. Nhưng
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 201
hoàn cảnh của gia đình tôi quá eo hẹp, 7 năm học thật quá
dài. Tôi đành chọn con đường ngắn hơn chút ít: nha khoa,
chỉ học 5 năm. Chó ngáp phải ruồi, tôi đậu (họ tuyển 30
ngưởi trong số 800 thí sinh dự thi). Thế là tôi học dự bị nha
khoa (APD = Année Prépatoire Dentaire) ở Ðại Học Khoa
Học, kế bên Ðại Học Sư Phạm.
Hơn 10 mạng ban A chúng tôi thi vào Ban Vạn Vật,
Ðại Học Sư Phạm, nhưng chỉ có một đứa duy nhất đậu.
Học ban A thì phải “tụng” Vạn Vật cho kỹ. Tôi thuộc cả
đến những chỗ xuống hàng và mọi hình vẽ trong cuốn sách
dày cộm, thế mà vẫn ăn vỏ chuối. Ban Vạn Vật thực là khó:
khoảng 1,000 thí sinh, trường Ðại Học Sư Phạm chỉ lấy có
15 người. Người bạn cùng lớp với tôi đậu được là do đâu?
Có lẽ do tài khéo tay của anh ta (vẽ thật đẹp như họa sĩ), và
cũng do bài Anh Văn nữa. Kỳ thi có một bài Vạn Vật và
bài Anh Văn (dịch Anh-Việt).
Tôi học dự bị nha khoa, giờ rảnh thì cùng bạn bè
lang thang khắp nơi: hầm MPC, Ðại Học Sư Phạm, chờ giờ
học sắp tới. Bỗng tôi thấy bên Ðại Học Sư Phạm tấp nập
với những tà áo thướt tha. Ðại Học Sư Phạm đang nhận
đơn thi tuyển cho niên khóa sắp tới. Tôi gặp lại bạn bè Chu
Văn An cũ, đang học ở những đại học không mấy chắc ăn
(Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa) cũng nộp đơn thi vào
Sư Phạm cho yên.
Người ta nộp đơn thì tôi cũng lấy bằng tú tài ra và
điền đơn, đâu có mất mát gì. Nhưng thi vào môn nào? Ban
Vạn Vật thì tôi đã tiêu tùng từ năm trước, không dám đụng
đến nữa. Anh Văn và Việt Văn thì làm sao địch nổi bọn ban
C. Thôi thì nộp vào ban Sử Ðịa vậy, vô thưởng vô phạt, ai
cũng như ai. Ðến ngày, tôi cũng đi thi. Thế mà chó ngáp
phải ruồi, tôi đậu, thứ hạng cũng khá cao trong 40 thí sinh
trúng tuyển, của khoảng 1,000 người dự thi. Bao nhiêu bạn
bè của tôi đều không thấy tên. Năm trước, khi thi vào ban
Vạn Vật, tôi còn mở sách ra dò lại bài. Chứ bây giờ, tôi thi
chơi chứ có định học đâu mà ôn bài! Sau này, khi học Sử
Trang 202 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Ðịa ở Ðại Học Sư Phạm, tôi ngẫm nghĩ tại sao mình lại
đậu? Tôi nhớ mang máng đề thi lúc đó là: “Tình hình thế
giới giữa hai thế chiến.” Tôi đoán: khi làm bài thi, tôi đã
làm đúng phương pháp sử mà sau này tôi được học: phân
tích, tổng hợp, giải thích sự kiện. Ðó là những ý niệm tôi
rút ra khi học sử ở trung học, khác với lối học thuộc lòng
ngày, tháng, năm, tên vua này, vua nọ… chán ngấy. Hồi
đó, tôi không hài lòng về cách dạy Sử-Ðịa của vài thầy khi
còn học ở những lớp dưới. Tôi nghĩ: bài như thế thì phải
dạy học sinh thế này, thế kia, chứ bắt học sinh học thuộc
lòng thì còn gì hay nữa. Tôi đã nghĩ ra phương pháp phản
hồi đối với bài dạy, mà sau này khi học sư phạm tôi mới
được biết.
Sử Ðịa ở trung học, bị coi là môn phụ, môn ăn chơi.
Nhưng tôi lại thấy học Sử như đọc truyện nên nắm bắt
được những sự kiện chính, những mốc thời gian. Môn Sử
khiến cho con người tôi lúc thì nóng bừng lên, lúc thì giận
tím gan (phản hồi). Môn Sử tạo cho con người tinh thần
yêu nước, yêu non sông, đất Việt. Còn Ðịa Lý, tôi có cảm
tưởng như mình được đi du lịch khắp năm châu bốn biển,
biết được nhiều nơi, nhiều dân tộc trên thế giới và rút ra
những bài học cho đất nước mình. Có lẽ Sử-Ðịa đã thấm
vào trong tim óc tôi từ lâu, nên tôi đã làm bài thi đúng
phương pháp và may mắn thi đậu.
Trước ngày khai giảng ban Sử Ðịa, tôi coi thời khóa
biểu niêm yết trước văn phòng hành chánh, thấy giờ học
cũng nhàn nhã nên thử vào xem sao. Tôi cứ tưởng sẽ được
gặp các vị nổi tiếng trong lãnh vực Sử Ðịa như ông bà Tăng
Xuân An, Giáo Sư Phan Khoang, Sử Gia Phạm Văn Sơn,…
Nhưng trên thời khóa biểu chỉ thấy tên các vị giáo sư mà
trước kia tôi chưa hề nghe tiếng: Phạm Cao Dương, Phạm
Ðình Tiếu, Lâm Thanh Liêm, Nguyễn Thế Anh,… cả mấy
ông Tây nữa (Teulières, Flamand). Vị giáo sư đầu tiên mà
tôi được gặp là Giáo Sư Phạm Cao Dương. Những giây
phút đầu tiên chúng tôi học với thầy không phải là bài sử,
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 203
mà là những lời hướng dẫn cho chúng tôi con đường chúng
tôi nên theo, nên làm. Theo thầy, trong lãnh vực Sử-Ðịa và
văn hóa của người Việt Nam, còn rất nhiều điều mà người
Việt Nam chúng ta chưa nghiên cứu, chẳng hạn lịch sử mỹ
thuật Việt Nam chưa có những công trình nghiên cứu sâu
xa. Còn sử Việt Nam, từ trước tới nay, người viết sử chỉ
nhìn dưới khía cạnh lịch sử chính trị mà không nhìn dưới
khía cạnh lịch sử văn minh. Quả thực là thật mới mẻ đối
với tôi. Thầy đã hé mở cho chúng tôi biết sử là gì. Thầy còn
nhắc: mình không làm thì ai làm? Tôi nhớ lại, khi còn học
ở trung học, các thầy tôi nhắc tới những công trình nghiên
cứu văn hóa Việt Nam do người Pháp thực hiện. Có những
ông tây da trắng, mũi lõ ngồi hút thuốc lào cùng với các
bác nông dân trên bờ ruộng để tìm hiểu văn hóa Việt Nam.
Người Pháp làm được thì tại sao mình không làm được? Vả
lại họ nghiên cứu cách nay mấy chục năm rồi, nước ta, dân
ta đã có nhiều thay đổi. Những lời đầu tiên của Giáo Sư
Phạm Cao Dương khiến tôi suy nghĩ và cảm thấy hứng
khởi. Giáo Sư Phạm Cao Dương đã xoáy vào tim bọn sinh
viên mới bước chân vào đại học. Tôi thấy cũng hay. Mình
sống, làm được chút gì là vui. Dạy trung học chỉ có 16 giờ
mỗi tuần, nghĩa là chỉ có bốn buổi, còn quá nhiều thời giờ
rảnh rỗi, mình có thể làm việc khác, tìm hiểu về văn hóa,
sử, địa của địa phương mình, và rộng ra của nước Việt
Nam chúng ta. Tôi tìm thấy nguồn vui. Những lời nói đầu
tiên của Giáo Sư Phạm Cao Dương khi tôi bước chân vào
Ðại Học Sư Phạm đã tạo nên bước ngoặt có tính cách quyết
định trong cuộc đời tôi.
Hôm sau, Giáo Sư Lâm Thanh Liêm cũng khuyến
khích chúng tôi nên ghi danh học Sử Ðịa ở Ðại Học Văn
Khoa và đi vào con đường nghiên cứu địa lý. Những lời
tâm huyết của thầy là nguồn khích lệ lớn lao cho 40 lính
mới chúng tôi: nửa lớp ghi danh học năm dự bị ở Ðại Học
Văn Khoa. Một số bạn không ghi danh ở đó vì còn học tiếp
bên Luật Khoa mà họ đã theo đuổi từ trước, hoặc bận bịu
dạy thêm ở trường tư, kiếm cơm nuôi gia đình.
Trang 204 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Ngoài Giáo Sư Phạm Cao Dương, chúng tôi học với
Giáo Sư Phạm Ðình Tiếu. Thầy Phạm Ðình Tiếu lôi cuốn
chúng tôi với tính tình cởi mở, gần gũi với học trò. Phong
cách thân mật với học trò, làm việc hăng say hết mình của
thầy đã thấm vào con người chúng tôi. Sau này, khi ra
trường, những nhà giáo chuyên về Sử Ðịa của lớp chúng tôi
thường lăn xả vào những sinh hoạt trong trường mà những
người chuyên dạy tư thường tránh né: tổ chức những sinh
hoạt xã hội, trại du khảo, trại công tác, đảm nhận chức vụ
hiệu đoàn phó (hiệu trưởng là hiệu đoàn trưởng). Có những
bạn phải nhận chức vụ hiệu trưởng, giám học ngay từ năm
đầu tiên nhận nhiệm sở. Những sinh hoạt trong trường
khiến đời sống trong trường học không chỉ là phấn trắng,
bảng đen, sách vở. Chính những sinh hoạt này tạo nên sự
khắng khít giữa thầy, trò, trường, lớp mà không sách vở
nào tạo nên được. Ngoài Sử Ðịa và Việt Văn, có thầy cô
dạy môn nào đào tạo học sinh trở thành những người có
tâm hồn Việt Nam? Từ thế hệ chúng tôi, học sinh không
còn nhìn ông thầy Sử Ðịa qua môn học hệ số 2, môn phụ.
Sử Ðịa không còn là môn mà bất cứ ai cũng dạy được.
Trước kia, Sử Ðịa do những giáo chức không
chuyên môn đảm nhận vì Ðại Học Sư Phạm chưa cung cấp
đủ thầy cô giáo. Còn chúng tôi do Ðại Học Sư Phạm đào
tạo vững vàng về kiến thức chuyên môn, tự tin về khả năng
sư phạm, lấy lại uy tín cho bộ môn Sử Ðịa. Có những bạn
cùng khóa chúng tôi đã “hớp hồn” học sinh: “Sau này em
sẽ học Ðại Học Sư Phạm, môn Sử Ðịa, giống thầy.” Không
biết các bạn tôi đúng hay sai? Khi “thôi miên”học sinh vào
môn học mà nhiều người vẫn coi thường, khiến học sinh
không chọn những con đường khác, nghề khác là điều thiệt
thòi cho các em. Tương tự như thế, thầy giáo trẻ mới ra
trường khiến cô nữ sinh nào đó bị say lòng, dù anh ta
không làm điều gì trái với chức năng của nhà giáo, cũng là
điều đáng tiếc, vì nếu không gặp ông thầy thần tượng của
em, biết đâu em chẳng gặp được chàng trai nào đó có chức,
có danh hơn ông thầy tỉnh lẻ. Tuy nhiên, ông thầy dạy Sử
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 205
Ðịa tạo được ảnh hưởng đối với tương lai của học sinh đã
chứng tỏ sự thành công của nhà giáo.
Khi học với Giáo Sư Lâm Thanh Liêm về những
môn địa hình thái học (Géomorphologie) và bản đồ
(Cartographie) tôi thấy hay: Khi học ở lớp đệ tam (1960-
1961), tôi thật uể oải với môn địa chất học, phải chịu đựng
nhiều giờ trong tuần, ban A mà. Nhưng nay, đất đá là
những dạng cụ thể ở các địa hình, trên đất nước Việt Nam
và trên thế giới, là thực tế bên ngoài nhà trường, tôi lại thấy
gần gũi. Môn học này nhẹ nhàng đối với tôi. Giáo Sư Lâm
Thanh Liêm mới từ Pháp về, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ đệ
tam cấp ở Đại Học Sorbonne, Paris, một trường đại học nổi
danh.
Một môn mới lạ đối với những người mới bước
chân vào lãnh vực chuyên môn về Sử là môn Bình giảng sử
liệu do Giáo Sư Nguyễn Thế Anh giảng dạy. Tôi thích thú
với môn này, vì những dữ kiện của quá khứ nói lên rất
nhiều điều sống động, mình khám phá ra biết bao điều đã
chìm vào thời gian đã qua: xã hội, kinh tế, chính trị, giải
thích những biến cố từ sâu trong quá khứ. Giáo Sư Nguyễn
Thế Anh cũng mới từ Pháp về, với bằng thạc sĩ. Theo hệ
thống giáo dục Pháp, người có văn bằng thạc sĩ là giáo sư
đại học thực thụ, chứ không phải thạc sĩ là tên của văn bằng
cao học sau cử nhân như hiện nay trong nước gọi. Những
ngày đầu bước chân vào Ðại Học Sư Phạm, tôi thơ thới,
hân hoan. Tôi cùng các bạn cùng lớp sang ghi danh ở Ðại
Học Văn Khoa, nằm ở đường Nguyễn Trung Trực (sau này
là trụ sở của Thư viện Quốc gia). Ðây là trung tâm thành
phố Sài Gòn, sát bên đường Lê Thánh Tôn, đi bộ trăm mét
là tới đại lộ Lê Lợi, nhà sách Khai Trí, kem Mai Hương,
nước mía Viễn Ðông,… Sau giờ học, chúng tôi có thể bát
phố, ngồi quán cà phê ngắm các bóng hồng thướt tha trên
đường Lê Lợi, hoặc ghé vào rạp xi nê khi có phim hay. Tôi
ghi danh với mục đích vui chơi nhiều hơn là học.
Trang 206 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Trường Ðại Học Văn Khoa không có những đại
giảng đường khang trang như những đại học khác. Phòng
học ở đây nằm trong những căn nhà bệ rạc không thua gì
khu “chuồng ngựa” trường Chu Văn An của tôi. Sinh viên
dự bị nhiệm ý Sử Ðịa phải học chung nhiều môn với các
sinh viên chọn nhiệm ý khác, nên lớp học nào cũng đông
nghẹt. Các cô thường đi sớm dành chỗ cho nhau ở các hàng
ghế đầu, giống như đi xem kịch vậy. Không thể tranh giành
với các bóng hồng, lại lười đi sớm, tôi thường ngồi phía sau
lưng các bóng hồng, hoặc đứng ngoài cửa sổ mà ngóng vào
nghe giảng. Trường xập xệ như vậy nhưng thầy trò không
màng những thứ vật chất tầm thường trên thế gian và
hướng tới những cái hay, cái đẹp.
Tại Ðại Học Văn Khoa, tôi thấy những môn học
thật nhẹ nhàng, bay bướm. Cũng may, thời khóa biểu ở Ðại
Học Văn Khoa và Ðại Học Sư Phạm không trùng nhau
nhiều nên tôi có thể đi học được mà không sợ bị mất bài.
Nếu có trùng với Ðại Học Sư Phạm thì tôi mượn vở ghi
“cua” của bạn. Tôi không chủ đích học văn chương, nhưng
những giáo sư văn chương khiến tôi thấy học cũng thích
thú: Nghe Giáo Sư Nguyễn Văn Trung nói chuyện về văn
chương, về nhà văn (nhà văn, người là ai?) cũng hấp dẫn.
Còn mỗi buổi học với Linh Mục Thanh Lãng là một bài nói
chuyện lý thú về văn chương, không uổng công đứng mỏi
chân ở ngoài cửa sổ ghi chép.
Văn chương ở đại học, dù chỉ ở cấp thấp nhất (năm
dự bị) cũng khác với văn chương tôi học ở trung học. Tôi
cũng phải học môn chữ Hán. Tưởng rằng thứ chữ này thật
khó nuốt, nhưng giáo sư Lưu Khôn đã thay đổi cách suy
nghĩ của tôi. Với cách dạy của thầy, tôi thấy học loại chữ
này không khó, nhưng mình phải bỏ thời gian với nó. Qua
những bài học đầu tiên, tôi nhận ra tính thâm thúy của
người TrungHoa qua lối viết của họ. Sau này tôi sẽ bỏ thời
giờ nhiều hơn để học thứ chữ này để có khả năng đọc được
những bản văn cổ viết bằng chữ Hán.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 207
Thế là ở Ðại Học Văn Khoa, tôi cũng thấy học mà
vui.
Sau khi “ngao du” ở cả hai trường Sư Phạm và Văn
Khoa, tôi quyết định “xin chọn nơi này làm quê hương.” Lý
do là học ở những nơi này rất nhẹ nhàng, không mệt nhọc
như học Anatomie, Physique, Chimie,… và đến trường lại
thấy mướt mắt, cuộc đời cũng có niềm vui. Tìm hiểu sâu xa
về văn hóa dân tộc, nghiên cứu về đất nước, lịch sử dân tộc
mình cũng là nguồn vui. Sau này, khi học ở Ðại Học Văn
Khoa, được dịp dự những buổi trình tiểu luận cao học (thời
đó chưa có tiến sĩ) hoặc tìm hiểu những đề tài nghiên cứu ở
bậc cao học, tôi nhận ra đó là những khám phá về đời sống
của dân tộc mình.
Một lý do nữa khiến tôi chọn nghề dạy học là nhà
giáo vẫn còn chút giá trị tinh thần trong xã hội. Vào thời
tôi, nhà giáo vẫn được quý trọng. Bạn bè tôi có anh chị dạy
học ở tỉnh cho biết thầy cô giáo phải ăn uống trong tiệm
đàng hoàng, chứ không được ngồi ở các quán bên lề đường
hay trong chợ. Nếu không phải là thầy cô giáo thì ăn uống
ở đâu, chẳng ai để ý. Thầy giáo mà giao du với cô nào thì
ngày hôm sau cả trường đều biết và xầm xì. Các anh sĩ
quan cặp bồ với cô này, cô nọ lại là chuyện thường. Tôi
không muốn nói là cần mọi người kính nể, hay sợ bị coi là
tấm gương cho mọi người, mà chỉ muốn nói rằng nhà giáo
vẫn còn được xã hội quý mến. 10 năm sau, xã hội thay đổi,
danh dự của nhà giáo tuy có sứt mẻ, nhưng xã hội vẫn nể vì
họ những bậc thay mặt cha mẹ dạy dỗ con cái của họ.
Còn về vật chất thì ngành giáo được chính phủ ưu
đãi hơn các công chức hạng A khác: chỉ số lương của giáo
sư trung học đệ nhị cấp mới vào nghề là 470, trong khi tốt
nghiệp Quốc Gia Hành Chánh hoặc Cao Ðẳng Nông Lâm
Súc chỉ số lương là 430. Sinh viên Ðại Học Sư Phạm được
học bổng 1,000 đồng mỗi tháng, trong khi sinh viên trường
Cao Ðẳng Nông Lâm Súc phải xin học bổng, nếu được
chấp thuận mới được 700 đồng mỗi tháng. Với tiền học
Trang 208 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
bổng hàng tháng, tôi không cần phải xin cha mẹ hoặc đi
dạy kèm nữa. Bạn tôi ở tỉnh về Sài Gòn học, với số tiền học
bổng này, anh ta đủ trang trải tiền trọ và tiền ăn hàng tháng.
Lương giáo sư trung học đệ nhị cấp mới ra trường thời đó
khoảng 9,000 đồng mỗi tháng. Nếu dạy thêm một số giờ (vì
thiếu người dạy), lương sẽ trên 10,000 đồng/tháng. Ðây là
mức lương rất cao (gấp 5 lần lương của thư ký). Với mức
lương này, tôi nghĩ cuộc sống sẽ đầy đủ. Không mong làm
giàu, tôi chỉ mong cuộc sống yên ổn, an nhàn.
Nếu tôi học xong nha khoa, làm sao tôi có được vài
trăm ngàn đồng để mua máy làm răng? Dược sĩ không có
tiền mở nhà thuốc tây thì cho mướn bằng. Còn nha sĩ thì
không thể cho mướn bằng được. Thời đó, người mình chưa
có thói quen đi khám răng và điều trị ở nha sĩ. Khi đau răng
hoặc làm răng giả, người ta thường đến thợ trồng răng.
Tôi đã quyết định bỏ Nha Khoa, theo học Sư Phạm
song song với Văn Khoa. Thế là dạy học là nghề và nghiệp
của tôi. Tôi vui với học trò, vui với việc nghiên cứu Sử Ðịa.
Thế hệ chúng tôi chưa làm được việc gì to lớn cho đất
nước, nhưng rất vui vì đã đem hết khả năng của mình đào
tạo mầm non cho đất nước. Ðất nước Việt Nam còn đau
thương, còn chiến tranh, nhưng chúng tôi rất tự tin vì đã
được đào tạo thành những nhà giáo đầy đủ khả năng
chuyên môn, đầy nhiệt huyết để đào tạo thế hệ mai sau
thành những người có lòng và có khả năng xây dựng đất
nước. Dù các môn Sử Ðịa đòi hỏi tinh thần khách quan và
khoa học, nhưng qua những dữ kiện đó, lòng yêu nước vẫn
nảy mầm trong học sinh và các em không hổ thẹn làm
người Việt Nam. Song song với nghề nghiệp, một số chúng
chúng tôi tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu sâu rộng hơn trong
những lãnh vực sử và địa.
Khi chúng tôi tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm thì một
bạn đã trình tiểu luận cao học Ðịa Lý và bốn người hoàn tất
văn bằng cử nhân giáo khoa Sử Ðịa. Tới ngày 30 tháng 4,
1975 thì: Hai người hoàn tất văn bằng cử nhân giáo khoa
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 209
Sử Ðịa. Hai anh này không học tiếp lên cao học vì một anh
say mê với các môn kinh tế ở Ðại Học Luật Khoa. Còn anh
kia thì bận bịu với việc dạy học ở tỉnh nhà. Một người hoàn
tất cao học Sử, do Giáo Sư Nguyễn Thế Anh bảo trợ. Hai
người đậu cao học Ðịa Lý, do giáo sư Lâm Thanh Liêm
bảo trợ. Hai người này qua được năm thứ nhất chuyên khoa
Ðịa Lý, chuẩn bị luận án tiến sĩ chuyên khoa Ðịa Lý.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biến cố đau
thương của toàn dân Việt Nam. Khi nón cối, dép râu, nón
tai bèo giẫm nát Sài Gòn, vào chiếm trường học thì cuộc
đời đã chấm dứt. Thân phận chúng tôi là những kẻ chiến
bại, những kẻ được kẻ chiến thắng cho tạm dung. Chúng tôi
bám lấy trường chỉ để bám lấy sự sống cho gia đình, để
khỏi bị tống ra ngoài thành phố mà người ta gọi là đi kinh
tế mới. Bọn con trai chúng tôi trong khóa 7 Ðại Học Sư
Phạm may mắn không phải đi tù cải tạo, vì chúng tôi chỉ
học quân sự 9 tuần, mang cấp bậc khóa sinh dự bị sĩ quan.
Các bạn từ khóa 6 trở về trước và khóa 8 trở về sau đều
phải nếm mùi tù cải tạo vì mang cấp bậc sĩ quan quân đội
Việt Nam Cộng Hòa, biệt phái. Trong xã hội cộng sản,
mình chỉ được nói những gì mà đảng cho nói, nói mà chẳng
ai tin, ngay cả chính mình. Những nhà giáo tạm dung như
chúng tôi muốn yên thân thì chấp nhận thân phận những
con vẹt để sống cho qua ngày. Người bạn cùng lớp với tôi
dạy ở trường trung học Pétrus Ký (nay là Lê Hồng Phong)
vạ mồm vạ miệng nói trước lớp: “Hoàng Sa, Trường Sa là
của Việt Nam.” Thế là đám học trò đoàn, đảng báo cáo với
ban giám hiệu và ngay hôm sau, anh bị đuổi khỏi trường.
Khi mới tiếp xúc với cộng sản, anh ta chưa nhận ra được
cách sống cho thích hợp.
Bản chất nhà giáo là sống chân thật nên khó xoay sở
trong lúc tình thế nhiễu nhương. Một số rất ít người lanh lợi
tháo vát thì kiếm sống thêm trên đường phố: buôn bán
thuốc tây chui, quần áo cũ… Chúng tôi được đào tạo về cả
Sử lẫn Ðịa, nhưng họ chỉ định dạy một môn Sử, hoặc
Trang 210 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Ðịa. Sử của Cộng Sản là sử đảng, sử bác. Khi Việt Cộng
mới chiếm Sài Gòn, muốn biết xem lối viết Sử của họ ra
sao, tôi tìm đọc cuốn Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam tập I.
Ngay trang đầu là hình Hồ Chí Minh to tổ bố. Vậy là gì?
Hồ Chí Minh được đặt trước các bậc tổ tiên của dân Việt,
trước cả các vị anh hùng dân tộc như Trần Hưng Ðạo,
Nguyễn Huệ,… Sau đó là lời nhắn nhủ của thủ tướng Phạm
Văn Ðồng: “… Các đồng chí phải chứng minh cho được
thời kỳ chiếm hữu nô lệ…” Như thế: Thủ Tướng Phạm Văn
Ðồng là nhà hành chánh, nhà chính trị mà các người gọi là
nhà viết sử của chế độ phải tuân lệnh thì loại văn mà họ
viết ra chỉ để vừa lòng xếp, chứ không phải là kết quả của
cuộc nghiên cứu khách quan.
Họ đặt cái cày đi trước con trâu, tìm con bò cho vừa
cái chuồng. Chưa nghiên cứu mà phải tìm cho được thời kỳ
chiếm hữu nô lệ ở Việt Nam. Cái gọi là “Sử” của Cộng Sản
chỉ là một loại văn viết theo đơn đặt hàng của đảng. Sau
này mới biết những nhân vật lịch sử mà học sinh bị nhồi sọ
như Phan Ðình Giót, Lê Văn Tám chỉ là những sản phẩm
bịp bợm. Những cuốn sách tái bản sau này của bộ Lịch Sử
Dân Tộc Việt Nam đã bỏ câu nói của Phạm Văn Ðồng,
nhưng ảnh của Hồ Chí Minh thì vẫn vậy. Dẫn chứng như
trên, tôi muốn nói: đối với cộng sản, không có môn Sử mà
chỉ có những lời tuyên truyền theo họ muốn.
Còn về Ðịa Lý? Làm sao mà dẫn chứng chủ nghĩa
tư bản đang giẫy chết trong khi nền kinh tế và trình độ khoa
học kỹ thuật vượt bậc của họ không thể bịp được đứa con
nít? Làm sao mà chứng minh: “Ðồng hồ Liên Xô tốt hơn
đồng hồ Thụy Sĩ”? và phản khoa học như: “Trăng Trung
Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ”? Cái khổ của người trí thức
không phải vì chầu chực để được nhận những hột bo bo,
con cá ươn, mớ rau thối… mà là nỗi nhục cho thân phận
của mình, và nỗi đau cho đất nước và dân tộc.
Người ta gọi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày đứt
phim, ngày đổi đời, ngày mất nước, ngày quốc hận. Ðiều
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 211
nào cũng đúng. Phận mình còn không biết có yên thân
không thì còn nghĩ gì tới nghiên cứu. Nghiên cứu làm sao
được khi tài liệu không có. Tin tức, số liệu được công bố
thì toàn là những bịa đặt. Tất cả mọi thứ trong chế độ “ưu
việt nhất của loài người” phải được đảng lãnh đạo. Ðảng có
sai bảo thì mới được làm. Bọn nhà giáo gốc ngụy, lý lịch ba
đời đầy rẫy những vết đen thì đảng cho yên thân là tốt lắm
rồi, nói gì đến nghiêu cứu. Tinh thần đâu mà nghiên cứu
khi hàng ngày gia đình nheo nhóc, dạ dày lép xẹp. Còn về
mặt hành chánh, trường Ðại Học Tổng Hợp (thay cho Ðại
Học Văn Khoa trước kia) chỉ công nhận văn bằng cử nhân,
chứ không công nhận văn bằng cao học. Cuộc đời của
nhiều người coi như đã chấm dứt từ cái ngày đen tối đó.
Vài lời ghi lại của một kẻ đã hết lòng với cả hai
trường Ðại Học Sư Phạm và Văn Khoa Sài Gòn, nhân dịp
Hội Ngộ 40 Năm Viễn Xứ (được tổ chức tại Nam Cali,
USA) mà đường xa vạn dặm không thể tới dự được.
Trần Thế Đức, CVA63 Úc Châu, 28 tháng 8, 2015
Trang 212 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
NGƯỜI VIỆT -
CHIM VIỆT -
CÁ VIỆT
Lưu Văn Vịnh , CVA 57-60 Theo nhà Phật, chúng sinh bao gồm muôn loài, loài người, chó
lợn,voi ngựa…sinh tử trên giải đất Việt, loài cá sống dưới biển
Đông, đàn chim lượn trên vòm trời Nam, tất cả đêu mang chung
một cộng nghiệp, cho nên gặp thời mạt pháp, khi hàng triệu dân
lành chết oan vì bom đạn vượt biên vượt biển, thì cũng tới lượt
triệu triệu cá chết vì độc chất, triệu triệu gà lợn bị chết vì dịch
tễ, loài chim mất rừng lá, khí trời ô nhiễm, trụi lông tan tác,
chim sẻ chim xanh có cơ tuyệt chủng…
* Chim Việt đậu cành Nam phương
Cá Việt nằm phơi bóng thuỳ dương
Hồn Việt muôn đời ôm chặt giữ lấy quê hương !
Toàn con dân, chim-cá-người,
Toàn chúng sinh nước non ta
Một bầu trời-Một góc biển
Cùng cộng nghiệp chia nhau nước mặn phù sa
Cùng thở bầu linh khí vòi vọi vòm cung Đông Á
Uống máu ăn thề giữ đất giữ biển đảo quê cha
Sóng bạc đầu cuồn cuộn ầm ầm tiếng thét
Trăm ngàn bộ xương người chưa chịu hoá kiếp
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 213
Cùng cá chết biển Đông
nằm nín hơi đáy biển
chờ một ngày quật khởi Lạc Hồng.
Thuỷ phủ họp bàn trang nghiêm trình Trời
Long quân trợn mắt vuốt râu
mở trang Sách Ước
Gậy thánh thần treo cất bốn ngàn năm
Đầu tử đầu sinh, nước Nam một dòng sinh mệnh
Vạn vạn ánh mắt nung nẩy lửa ngọn tre Thánh Gióng
Voi Quang Trung Hưng Đạo ngạo nghễ thét trời Đông
Muôn bắp tay, muôn ngàn tráng sĩ, bừng bừng sức sống
Mỗi tia mắt Việt quắc sáng lưỡi dao chuỷ thủ Kinh Kha
Mỗi thân cá Việt lấp lánh tấm áo giáp trấn giữ sơn hà
Mỗi cánh chim Việt bay cao sứ điệp mệnh trời bao la.
Rạch gươm mặt đất, quắc mắt thép, ngang trời xanh
Triệu triệu hồn chim, hồn cá, hồn người
Hải triêu âm vời vợi ầm ầm sóng biển Đông
Muôn năm vang vang lời thề khắp non sông
Khúc khải hoàn ca Lạc Việt vạn tuế vạn Vạn Xuân.
LƯU VĂN VỊNH-, CVA 57-60 Đã đọc trong ngày Tân niên CVA Bắc CA
26-2-2017 tại San Jose.
*
Trang 214 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Nhân ngày Quốc Hận 30/4,
Nhớ về Sài Gòn của tôi
Một thời để thương,
Một thời để nhớ
Nguyễn Lương Tuyền, CVA63
Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyên
Lời giới thiệu: Bác Sĩ Nguyễn Lương Tuyên sinh quán tại
Hải Dương (Bắc Việt). Di cư vào Nam năm 1954. Là cựu
học sinh Chu Văn An Sàigòn từ 1956 tới 1963 và cựu sinh
viên Y Khoa Đại Học Sàigòn khoá 1963-1970.
* Đậu Thủ Khoa ky thi tuyển Nội Trú các Bệnh Viện
(Interne lauréat des Hopitaux de Sàigòn), Làm Interne
des Hopitaux 5 năm, từ 1968 tới 1973
* Giảng nghiệm Trưởng khoa Giải phẫu Trẻ em (Pediatric
Surgery) từ 1973 -1975 tại Y Khoa Đại Học Sàigòn.
Sau khi di tản qua Bắc Mỹ năm 1975 :
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 215
* Đi học lại 6 năm trong đó có : 3 năm Giải Phẫu Tổng
Quát (General Surgery) và 2 năm Fellowship in
Pediatric Surgery ở Nhà Thương Nhi Đồng Toronto
(The Toronto Hospital for Sick Children (ĐH Toronto).
* Năm 1981: định cư tại Montreal, làm việc tại University
of McMill. Attending Pediatric Surgeon tại The
Montreal Children's Hospital cho tới ngày vê hưu năm
2010 vì lý do sức khoẻ.
Chức vụ sau cùng tại Đại học McGill trước khi vê hưu:
Associate Professor of Pediatric Surgery
Awards & Honours :
* Teacher of the year 1992
* Lifetime Achievment Award 2009 (Giải thưởng thành
tựu một đời tại Đại học McGill)
* Năm 2010: một Excellent Award mỗi năm, cho một
Resident vê Giải phẫu xuất sắc. Award này mang tên L
T Nguyen Excellent Award.
Tôi xa Sài Gòn đã hơn 40 năm. Sài Gòn là nơi nuôi
tôi lớn lên, trưởng thành. Những ngày hoa mộng của đời tôi
được bắt đầu ở thành phố yêu dấu này, để rồi bị chấm dứt
một cách tức tưởi vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Sài
Gòn bị đổi chủ, đổi tên. Tôi bị buộc phải rời xa Sài Gòn,
năm đó tôi vừa tròn 30 tuổi.
Tôi mở mắt chào đời ở Miền Bắc nước Việt. Khi
Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông từ các An Toàn Khu
ở Việt Bắc về tiếp thu Hà Nội theo đúng Hiệp Định
Genève, ký ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi theo gia đình di
cư vào Nam, đúng hơn là vào sống ở Sài Gòn. Đó là ngày
28 tháng 8 năm 1954 - chỉ hơn 1 tháng sau khi Hiệp Định
Genève chia đôi đất nước được ký kết. Tôi đặt chân đến Sài
Gòn vào khoảng nửa đêm. Mệt mỏi rã rời, tôi ngủ vùi cho
đến sáng bảnh mắt ngày hôm sau mới thức dậy.
Trang 216 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Tôi được nếm mùi vị văn hóa ẩm thực của Sài Gòn
ngay. Tôi được ăn món truyền thống của miền Nam: bì bún
với nước mắm dấm, tỏi, ớt cùng giá sống. Lần đầu trong
đời tôi được nếm hương vị thức ăn của Miền Nam. Sao mà
nó ngon thế!!. Dì Sáu, người giúp việc nhà của anh chị tôi,
đã reo lên khi tôi chào chị: ''Bà Thầy ơi (chị gọi Bà Chị của
tôi), thằng nhỏ này biết nói tiếng ''Ziệc''. Quả thật, vào thời
điểm đó, một số đông đồng bào miền Nam vẫn còn coi
những người di cư đến từ miền Bắc là những người đến từ
một nước khác, những người ngoại quốc...
Người dân Miền Nam đã mở rộng vòng tay, tiếp
đón gần 1 triệu người đến từ miền Bắc. Chỉ trong chưa đầy
6 tháng, Chánh quyền của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và
nhân dân Miền Nam đã thành công trong việc định cư, ổn
định đời sống gần 1 triệu người tỵ nạn CS đến từ miền Bắc.
Sài Gòn là thủ đô của Miền Nam về phương diện
chánh trị, kinh tế, giáo dục, âm nhạc nghệ thuật, báo chí
văn chương... Có thể nói Sài Gòn tượng trưng cho cuộc
sống của cả Miền Nam. Dân số của Sài Gòn vào năm 1954
có khoảng hơn 1 triệu người. Cậu bé Bắc kỳ 9 tuổi là tôi bị
hoa mắt vì những điều khác hẳn Hà Nội:
Chuyên chở công cộng ở Hà Nội chỉ có tầu điện,
xích lô, không có taxi, xe hơi rất ít. Các thương hiệu xe hơi
ở Hà Nội hồi đó là xe Citroen, xe Traction, xe Vedette. Ở
Sài Gòn, có nhiều phương tiện chuyên chở như xe bus, xe
taxi, xe xích lô, xe xích lô máy và cả xe thổ mộ do ngựa
kéo. Vào giờ ăn, giờ nghỉ trưa rất khó gọi taxi, gọi xích lô...
vì các bác tài xế cần nghỉ để ăn uống, ăn trưa. Khi tỉnh giấc
''la siette'', hầu như tất cả đều đến hiệu ăn, nhâm nhi ly cà
phê ''bí tất'', cà phê này hình như rất phổ thông ở Miền
Nam, khác hẳn cà phê filtre của Hà Nội.
Người dân Sài Gòn có những ý tưởng rất thực
dụng. Thí dụ thay vì thối lại 50 xu, người bán hàng chỉ cần
xé đôi đồng bạc 1 đồng rồi trả lại khách hàng một nửa. Sau
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 217
vài năm, lối thối tiền thực dụng này bị chánh phủ của TT
Ngô đình Diệm bãi bỏ.
Đường phố Sài Gòn còn mang tên Tây. Thí dụ
đường Hồng Thập Tự có tên Tây là Rue Chasseloup
Laubat. Chỉ sau một thời gian ngắn Chính phủ của TT Ngô
Đình Diệm đã dùng tên Việt Nam cho các đường ở Sài
Gòn. Thí dụ Rue Catinat được mang tên mới là đường Tự
Do. Sau 30 tháng 4, các đồng chí CS đặt một tên mới là
đường Đồng Khởi. Đường Công Lý chạy ngang Tòa Án, là
đường chánh để đi vào Phi Trường Tân Sơn Nhất, được
''các đồng chí'' đổi tên là Đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ngay
sau khi họ hoàn toàn làm chủ thành phố. Người dân Sài
Gòn bèn châm biếm
''Nam Ky Khởi Nghĩa tiêu Công Lý:
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do''
Về ngôn ngữ, người Miền Nam dùng chữ DZ thay
cho chữ V. Thí dụ Vấn Vương được phát âm là Dzấn
Dzương. Chữ V được phát âm là DZ nhưng khi viết, người
Sài Gòn viết rất đúng. Người Sài Gòn thường hay lẫn lộn
dấu hỏi, dấu ngã. Trái lại các âm TR, S, Ch, L, N... được
phát âm rất rõ ràng. Giọng nói, cách phát âm khác biệt của
từng miền là đặc tính của ngôn ngữ Việt Nam, được hát đi
hát lại nhiều lần. Hát "ố tang ố tang tình tang'' phải dùng
giọng Huế nghe mới hay. Hát Cải Lương phải dùng giọng
Miền Nam mới hay. Đoàn Kim Chung, Tiếng Chuông
Vàng Thủ Đô Hà Nội, khi vào Sài Gòn đã đóng đô ở Rạp
Olympic ở đường Hồng Thập Tự. Đoàn đã chuyển qua
trình diễn cải lương bằng giọng của đồng bào Miền Nam.
Hát tân nhạc phải dùng tiếng Bắc mới hấp dẫn người nghe.
Ca Sĩ hát bằng tiếng Nam rất ít, có thể đếm được trên đầu
ngón tay. Có lẽ chỉ có Quái kiệt Trần Văn Trạch và da sĩ
Hải Minh ở Đài Phát Thanh Quân Đội Sau này tôi mới
được biết Ca sĩ Hải Minh chính là Giáo Sư Âm Nhạc Trần
Van Khê. Ông cũng là anh ruột của Nghệ sĩ Trần Văn
Trạch
Trang 218 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Tính tình cởi mở, cười nhiều hơn giận, thân thiện
với mọi người là cá tính của dân Sài Gòn nói riêng cá tính
của dân Miền Nam nói chung; dản dị như Miền Nam, chỉ
có mưa nắng hai mùa.
Tôi đã lớn lên và trưởng thành tại Thành phố Sài
Gòn. Năm năm đầu, từ 1955 tới 1960, là 5 năm thần tiên, 5
năm tuyệt vời, 5 năm hòa bình, 5 năm phát triển tột bực của
miền Nam dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa do Tổng Thống
Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Thế giới đã ngạc nhiên, thán
phục sự trỗi dậy của dân Miền Nam, trên mọi lãnh vực
trong hơn 20 năm, cho đến năm định mệnh 1975.
Sau 1975, tài liệu mật được phơi bầy. Người ta mới
hay ngay sau khi đặt bút ký vào Hiệp Định Genève năm
1954, ông Hồ đã sửa soạn xâm lăng miền Nam để nhuộm
đỏ đất nước theo lệnh các quan thầy CS Quốc Tế Nga và
Tầu.
Thực vậy, CS đã để lại Miền Nam cả một binh đoàn
gồm hàng ngàn binh lính, cán bộ. Lê Duẩn đã lén ở lại
Miền Nam, không tập kết ra Bắc theo đúng Hiệp Định
Genève. Y chính là người điều khiển các CS nằm vùng ở
Miền Nam.
Khi chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
từ chối không tổ chức Tổng Tuyển Cử dự trù vào năm 1956
bởi Hiệp Định Genève ký ngày 20/7/1954. CSVN quyết
định xâm lăng tiến chiếm miền Nam. Trong bản Đề Cương
Cách Mạng ở Miền Nam do Lê Duẩn biên soạn năm 1958,
Lê Duẩn đã khẳng định không có giải pháp nào để chiếm
miền Nam ngoài giải pháp ''chiến tranh nổi dậy''. Đám CS
nằm vùng được lệnh đào vũ khí chôn dấu và bắt đầu cuộc
chiến tranh nổi dậy để xâm chiếm miền Nam.
Trận chiến lớn giữa quân CS và Quân Đội Quốc
Gia tại Trảng Xụp, Tây Ninh là trận đánh mở màn cho cuộc
xâm lăng miền Nam của CS vào năm 1959. Tháng 12 năm
1960, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được những người
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 219
CS từ miền Bắc thành lập. Thực ra trước đó vài năm, CS đã
bắt đầu các cuộc phá hoại cũng như khủng bố giết chóc các
viên chức xã ấp tại Miền Nam.
Từ năm 1960, Miền Nam bị CS từ Miền Bắc xâm
nhập, phá hại, khủng bố. Trận chiến càng ngày càng tăng
cường độ. Mọi lãnh vực của đời sống của dân Miền Nam
đều bị CS phá hoại... nhưng Thủ Đô Sài Gòn vẫn an ninh,
phát triển. Tết Mậu Thân 1968, chiến tranh đã đến cửa ngõ
của Sài Gòn.
Khoảng năm 1965-1966, khi quân Mỵ và Đồng
Minh đổ bộ vào Miền Nam để trực tiếp hỗ trợ Quân Lực
VNCH, CSVN, với sự hỗ trợ đắc lực của Cộng Sản Quốc
tế, với chiêu bài ''đánh Mỹ cứu nước'' đã động viên toàn
Miền Bắc cho công cuộc xâm lăng Miền Nam. Thanh niên
Miền Bắc đã được lệnh của Đảng CSVN vượt Trường Sơn
kéo vào Nam tham dự cuộc chiến ''chống Mỹ cứu nước''.
Dư luận quốc tế bị ''nhiễm độc'' nặng tuyên truyền của CS,
đã ngả về phía Cộng Sản. Quân Dân của Miền Nam đã
chiến đấu trong cô đơn, nhất là từ đầu thập niên khi '"Đồng
Minh bỏ chạy".
Mặc dù bị CS phá hoại về đủ mọi lãnh vực, Miền
Nam vẫn thực hiện được những tiến bộ không ngờ (des
progrès déconcertants) trong mọi lĩnh vực của đời sống:
Trở lại với Sài Gòn của tôi. Trong 21 năm tôi đã
mục kích những thay đổi, tiến bộ về mọi lĩnh vực chưa
từng bao giờ có của thành phố mặc dầu quân dân miền
Nam phải đối diện hàng ngày với quân CS do CS Miền Bắc
lãnh đạo. Miền Nam chỉ có được 6 năm không tiếng súng.
Còn 15 năm, cho tới ngày đất nước bị rơi vào tay quân
Cộng Sản VN. Quân đội của CSVN đã được sự hỗ trợ của
CS Quốc Tế trong suốt cuộc xâm lăng này. Xin được tóm
tắt những tiến bộ không ngừng nghỉ trong vài lĩnh vực:
Trang 220 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Về giáo dục
Giáo dục, từ Tiểu học cho tới Đại Học, hoàn toàn
miễn phí
Giáo dục tại Miền Nam, vào thời điểm trước năm
1975, được xây dựng trên một triết lý. Đó là Dân Tộc,
Nhân Bản và Khai phóng. Triết lý này được đề ra sau Hội
Nghị Toàn Quốc về Giáo Dục năm 1958 dưới thời của Bộ
Trưởng Giáo Dục Trần Hữu Thế. Triết lý này luôn luôn
bàng bạc trong nền giáo dục ở Miền Nam cho tới ngày CS
chiếm Miền Nam năm 1975. Trái lại người CS chỉ có một
triết lý về giáo dục, đó là phục vụ Bác và Đảng, phục vụ Xã
Hội Chủ Nghĩa. Nền Giáo Dục tại VN bây giờ đã hoàn toàn
phá sản, chỉ tạo ra nhiều tên ăn cắp, dối trá, lừa đảo, bịp
bợm. Điều này dễ hiểu vì những người lãnh đạo ở VN bây
giờ là những tên ăn cắp. ''Thượng bất chánh, hạ tất loạn''
như người xưa đã nói.
Giáo Dục tại Miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa, dù
bị phá hoại triền miên, đã đào tạo được đầy đủ nhân tài cho
Tổ Quốc. Sinh viên VNCH, khi ra ngoại quốc du học, đã
chứng tỏ khả năng của họ. Họ không thua kém bất kỳ sinh
viên đến từ những nước khác. CSVN đã gửi một số sinh
viên ra nước ngoài, du học. Các người này đã đã làm nhục
dân tộc vì chỉ đi ăn cắp. Người Việt do CSVN gửi ra nước
ngoài rất nổi tiếng là "hay ăn cắp" tại khắp mọi nơi trên thế
giới, nhất là tại các nước ở Á Châu như Nhật, Đại Hàn, Đài
Loan, Thái Lan...
Y Tế
Nền Y Tế của Miền Nam cho đến năm 1975 là một
nền Y Tế miễn phí cho mọi người, không phân biệt giai
tầng xã hội và nhất là không hối lộ từ y công cho tới bác sĩ.
Phải vào nhà thương bây giờ là một nỗi khổ tâm không bút
nào tả xiết. Trước 1975, cũng có những nhà thương tư
nhưng rất ít so sánh với hệ thống các nhà thương công bất
vụ lợi của Bộ Y Tế.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 221
Văn học
Trước năm 1975, sáng tác được tự do, không có sự
can thiệp của chánh quyền. Nhóm Sáng Tạo, từ Miền Bắc
di cư vào Sài Gòn năm 1954, đã thổi một luồng gió mới
vào văn học Miền Nam. Văn Học ở Miền Nam được tự do
phát triển hơn bao giờ hết. Nhiều tác phẩm văn học có giá
trị đã ra đời trong giai đoạn này. Trong khi đó ở Bắc bờ
Bến Hải, các người cầm bút bị đàn áp, cầm tù, cấm viết vì
đã lỡ đi ra ngoài những qui định của CSVN. Có lẽ chỉ có ở
VNCS các chiến dịch đàn áp những người cầm bút như
Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm, thập niên 50 tại Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông Trùm văn nghệ của
Miền Bắc Tố Hữu là tác giả của những câu vè:
Thương biết mấy khi con học nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sít Ta Lin
hay
Tin từ trong ấy loan xa
Bác Hố đang sống chuyển ra từ trần
Thơ với thẩn!!! hỡi Tố Hữu ''nhà thơ cung đình'' của
chế độ! Trong khi tại Miền Nam, văn chương lãng mạn đã
ngự trị trong tâm giới trẻ. Thơ Nguyên Sa là một thí dụ
điển hình. Thế hệ mới lớn của Miền Nam, ai mà không biết
tới những câu thơ đầy tình tự lãng mạn:
Áo nàng vàng anh vê yêu hoa cúc
Áo nàng xanh, anh mến lá sân trường
Sợ thư tình chưa rõ nghĩa yêu đương
Anh pha mực cho vừa mầu áo tím.
(thơ Nguyên Sa)
Âm Nhạc
Dù chỉ tồn tại có 21 năm, nhưng Âm nhạc tại Sài
Gòn nói riêng, tại Miền Nam nói chung đã phát triển tột
bực với một trời âm nhạc lãng mạn cực kỳ hay. Nền âm
nhạc lãng mạn này đã đi vào tâm hồn của người dân Miền
Trang 222 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Nam, từ thành thị đến thôn quê. Các nhạc sĩ được sáng tác
trong một bầu không khí tự do. Trong khi đó, tại Miền Bắc
Xã Hội Chủ Nghĩa của Ông Hồ và các "đồng chí", mọi
công trình nghệ thuật, kể cả âm nhạc đều phải theo một
khuôn thước, đó là: ''phục vụ chủ nghĩa, phục vụ Bác và
Đảng'' theo đúng như ''Bản Đề Cương Văn Hóa'' của Đại
Đồng Chí Trường Chinh, ra đời cuối thập niên 40. Xin hãy
nghe lời phát biểu của Trường Chinh trong một buổi hội
với văn nghệ sĩ ''Các đồng chí phải sáng tác theo tiếng gọi
của con tim, nhưng các đồng chí đã dâng hiến con tim cho
Đảng vật thì các đồng chí phải sáng tác để phục vụ Đảng.''
Một thí dụ điển hình là Nhạc sĩ TCS. Tài của ông đã
được thăng hoa khi ông sống tự do dưới chế độ tự do thời
Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam tự do. Nhiều bản nhạc
tình, lãng mạn vô cùng của TCS đã được ra đời trong giai
đoạn này. Sau 1975, tài nghệ của họ Trịnh, dưới chế độ CS,
đã bị thui chột. TCS không cho ra đời một bản nhạc tình
nào. Phải chăng ''cây quít TCS ở Miền Nam đã cho nhiều
quả ngọt, dưới chế độ Cộng Sản, cũng cây quít đó chỉ cho
toàn quả chua'',
Thay lời kết
Tôi chưa từng về thăm VN kể từ ngày rời quê
hương. Đất nước Việt nói chung, Sài Gòn nói riêng đã thay
đổi rất nhiều. Sài Gòn như Sài Gòn của tôi trước năm 1975
đã không còn nữa. Ngay từ 1975, nhóm "dép râu, nón tai
bèo" đã khai tử tên Sài Gòn để thay vào đó tên của một
người đã mang lại tang thương, chết chóc, tàn phá cho dân
tộc. Các hậu duệ của Y đang để mất quê hương vào tay kẻ
thù truyền kiếp ở phương Bắc.
Về quê để làm gì đây? khi quê hương, khi Sài Gòn
đã không còn nữa. Quê hương sắp mất vào tay kẻ thù từ
phương Bắc còn Sài Gòn bị gán cho tên tội đồ của dân tộc.
Chế độ CS đã tan rã ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Tại Nga Sô, Thành phố St Pretesburg đã tìm lại được tên
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 223
xưa sau gần một thế kỷ bị CS đổi tên. Tại VN, thử đô của
Miền Nam sẽ tìm lại được tên gọi của ngày xưa: Thành phố
Sài Gòn một khi chế độ bạo tàn bị tiêu diệt. Ngày ấy không
còn xa.
Khi Sài Gòn bị đổi tên ngay sau ngày 30/4/1975,
Nhạc sĩ Nam Lộc đang ở trại tỵ nạn ở Phi Luật Tân đã thốt
lên:
Sài Gòn ơi! ta đã mất người trong cuộc đời,
Sài Gòn ơi! ta đã mất thời gian tuyệt vời
. . .
(Nam Lộc: Sài Gòn ơi! vĩnh biệt)
Người tỵ nạn CS tại mọi nơi trên thế giới đều mong
được trở về lại Sài Gòn như bài thơ sau đây của tác giả:
Người di tản buồn:
Nếu một mai nước non thanh bình
Ta sẽ trở vê thăm quê xưa
Thăm lại những lối mòn ngày cũ.
Để bồi hồi bâng khuâng tưởng nhớ
những tháng ngày qua
Ta sẽ tìm lại bạn bè xưa:
ai còn?
ai đã khuất?
ai đang nức nở?
Sài Gòn ơi! lòng ta bừng sóng gió
Tình hoài hương cuồn cuộn như nước triêu dâng
Vì xa "em" ta đau đớn bội phần
Như tiếc nuối một cuộc tình đã mất
Nhiêu lúc ta mơ vê quá khứ
Tưởng như mình đang sống tại quê nhà
Khi tỉnh giấc lại âm thầm tiếc nuối
Những tháng ngày mơ mộng của đời ta
(Người di tản buồn)
(Tháng 4, Montréal Canada)
Nguyễn Lương Tuyền, CVA63
Trang 224 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Ngày
chia đôi đất nước
và
Tâm sự người xa xứ !
Nguyễn Mạnh Trinh
Cầu Hiên Lương
Hơn nửa thế kỷ trước, những năm giữa thập niên
50, những người miền Bắc di cư vào Nam với nỗi ngậm
ngùi. Thơ, văn, nhạc, hình như cũng chuyên chở nhiều tâm
sự, của “nhớ về Hà Nội”, của tâm tình hoài niệm vô bờ. Và
sau hơn hai mươi năm, thì những người Việt lưu vong xứ
người lại bồi hồi nhớ về một đất nước đã xa, một thành phố
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 225
Sài Gòn đã mất tên và thành kỷ niệm. Những bộ môn nghệ
thuật kể trên lại được khắc ghi lại từ những cảm hoài mênh
mông, từ những nỗi niềm ấp ủ của những người yêu quê
hương đất nước và luôn ngóng về nơi chốn đó với cả những
tấm lòng. Bao nhiêu năm qua, những văn thi nhạc sĩ Việt
Nam từ những cuộc đổi dời với những tác phẩm đánh dấu
những thời kỳ đặc biệt của lịch sử Việt Nam.
Tháng 7 mỗi năm có ngày 20 là thời điểm nhớ về
một giai đoạn lịch sử cũ, mà có người đã gọi là thời kỳ của
người di cư. Cũng như sau này, ngày 30 tháng tư năm 1975
đã thành ngày của những người di tản bỏ nước ra đi. Tất cả,
cũng là của những người trốn chạy chế độ Cộng sản đi tìm
dân chủ tự do.
Hồ Gươm Hà Nội
Tại sao lại có sự nhớ lại lịch sử trong ngày 20 tháng
7 mỗi năm?
Đó là ngày mà các phe liên hệ gồm các phái đoàn
Anh, Hoa Kỳ, Nga Xô Viết, Trung Cộng, Pháp, Việt Cộng,
Lào, Campuchia ký Hiệp ước Genève chia đôi đất nước
Trang 226 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Phái đoàn Việt Nam Quốc gia mà
bác sĩ Trần Văn Đỗ là Trưởng Phái đoàn không chịu ký để
phản đối việc chia cắt đất nước. Sau đó là cuộc di cư vĩ đại
của hơn một triệu người miền Bắc di cư vào Nam và đã làm
thay đổi cả xã hội miền Nam về nhiều mặt kinh tế, chính
trị, giáo dục, và cả văn học nghệ thuật nữa. Và như vậy,
chúng ta mới có những tác phẩm văn thơ nhạc “Nhớ về Hà
Nội” đánh dấu một thời kỳ đặc biệt của văn học sử Việt
Nam.
Nếu có người nói đó là cuộc di cư của chữ nghĩa thì
chúng ta sẽ có nhận định ra sao? Đó là một cách nói.
Nhưng, xét trên thực tế, ngày 20 tháng 7 năm 1954 có thể
coi như bắt đầu cho hai mươi năm văn học miền Nam, một
giai đoạn văn học đáng kể từ tính chất khai phóng cũng như
có những thành tựu mà chính những người đối nghịch
chính kiến cũng không thể phủ nhận. Nền văn học ấy đã có
những cuộc lên đường của những tác giả lừng lẫy, đã có
những công trình sáng tạo nghệ thuật biểu trưng được tâm
tình của một thời đại đầy biến chuyển của một đất nước
chiến tranh.
Vùng phi quân sự, vĩ tuyên 17
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 227
Hình như lịch sử Việt Nam đầy những chuyến đi
bất đắc dĩ và những thành phố là nơi đã chứng kiến những
cuộc chia ly. Rất nhiều người đồng ý với nhận định ấy.
Những thành phố của chia ly. Sài Gòn, sau năm
1975. Hà Nội, sau năm 1954. Những thành phố của hoài
niệm trong thời gian ấy. Năm 1954, hàng triệu người rời bỏ
miền Bắc xuôi Nam tìm tự do, cuộc di cư vĩ đại của những
người ghê sợ Cộng sản. Năm 1975, Cộng sản chiếm toàn
bộ đất nước. Hàng trăm ngàn người di tản ra ngoại quốc
sau đó đến từng đợt vượt biển của hàng triệu người. Không
gian, thời gian, của những biến cố kể trên, đã thành môi
trường và động lực thúc đẩy văn nghệ sĩ tạo thành những
tác phẩm văn chương hay âm nhạc phản ánh tâm tình thời
đại.
Trong văn chương và âm nhạc Việt Nam, chắc có
nhiều tác phẩm về đề tài này? Dĩ nhiên là rất nhiều. Những
bài viết của nhà văn Mai Thảo trong “Đêm Giã Từ Hà
Nội”, Thanh Tâm Tuyền trong “Ung Thư”, Dương Nghiễm
Mậu trong “Quyên, Dĩ vãng và Hà Nội”, Hồ Hữu Tường
trong “Phố Sinh Từ”, Vũ Bằng trong “Thương Nhớ Mười
Hai” và “Miếng Ngon Hà Nội”,… Những bài thơ của Vũ
Hoàng Chương, Đinh Hùng,Thanh Nam, Hoàng Anh Tuấn,
Nhất Tuấn, Hà Huyền Chi,… mở ra một thế giới Hà Nội
của hoài vọng, của nỗi niềm. Rồi những bài thơ phổ nhạc
mà thơ nhạc đã phối hợp và bổ túc cho nhau thành những
tuyệt tác và có tuổi thọ văn chương nghệ thuật miên viễn…
Có những bản nhạc đã có đời sống trường cửu vượt
qua được thời gian với những đề tài hoài niệm về những
thành phố vĩnh viễn cách xa. Đó là một đặc tính của âm
nhạc Việt Nam. Một dòng nhạc hoài niệm kéo dài suốt nửa
thế kỷ đã cho chúng ta những bản nhạc để đời. Những bản
nhạc mà tuổi thọ của nó dài hơn tuổi thọ của chính tác giả
sáng tạo ra nó. Nhạc sĩ có khi khuất bóng từ lâu, nhưng
nhạc phẩm vẫn còn sống, còn được hát và còn được thính
giả nghe và hâm mộ. Qua một thời gian, qua sự đãi lọc, bản
Trang 228 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
nhạc có thể tồn tại được phải có sức lôi cuốn từ ngôn từ và
điệu nhạc. Và nhất là, phù hợp với tâm tư của từng thời kỳ,
của hoàn cảnh mỗi người khi nghe âm điệu nhắc lại những
phần đời sống đã qua.
Thời gian mới di cư vào Nam, tôi còn nhỏ lắm và
đang học tiểu học.
Năm 1954, gia đình tôi vào Nam. Đang học ở một
trường tiểu học mà một số học sinh là người Bắc, lạ người
lạ cảnh, tâm tư như tờ giấy trắng, nhưng tôi vẫn nhớ như in
bài hát mà tôi đã gân cổ hát trong giờ sinh hoạt học đường.
Lúc ấy, hào hứng tin tưởng xiết bao. Bản nhạc “Về Miền
Nam” của Trọng Khương nhắc lại tôi ngày thơ ấu:
“Đứng vùng lên nào bao thanh niên yêu nước
Hướng vê đây miên nam thân yêu nắng sáng
Theo vết chân người xưa ta tiến lên đường đi
Bao nắng mưa sương gió nào ngại chi.
Sông nào cắt đứt đôi nơi
Sông nào xé nát tim tôi
Sông nào bóp chết thương yêu Việt nam ơi!…”
Chợ Bến Thành Saigon
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 229
Bản nhạc mà tuổi thơ tôi đã hát say sưa như vậy đã
tạo nhiều cảm xúc cho tôi. Bài hát ấy, với tôi, tự nhiên nhắc
và nhớ đến những khuôn mặt ấu thơ. Những cô giáo, thầy
giáo khai tâm tuổi nhỏ. Cùng với ngôn từ và điệu nhạc, là
bước chân trở về. Đó, lãnh địa thiêng liêng của đời người,
mà dần dần thời gian đi qua, in sâu trên tiềm thức. Đất
nước mới, mở ra những lạc quan, như tuổi xanh ngây thơ
nhưng thật nhiều ước vọng… Bài hát như một dây chuyền
để bắt đầu cho một chuỗi liên tưởng. Vô tình, bài hát như
một contact để mở một mạch điện cho khúc phim đời sống
riêng tôi…
Dòng nhạc hoài niệm ấy chắc còn rất nhiều bản
nhạc làm cho tôi cảm khái như bản “Về Miền Nam”?
Nhưng những bài hát khác, thường là những nỗi buồn,
ngậm ngùi hướng vọng về chốn quê xa. Hàng trăm ca khúc
có chung dòng nhạc. Không phải chỉ với bài hát ấy, mà còn
nhiều bài hát khác, nhiều phim truyện khác, nhắc nhớ lại
thời kỳ đặc biệt của đất nước. Một cách khái quát, theo bài
thuyết trình “Love and Longing at the Border: Songs On
Both Sides of the 17th Parallel” của Jason Gibbs trong
seminar của Popular Culture Association tại thành phố San
Antonio, tiểu bang Texas, thì có tới 18 ca khúc của những
người di cư nhớ về quê hương cũ đã xa. Như “Bắc Một
Nhịp cầu” của Hoàng Trọng, lời Hồ Đình Phương; “Biệt
Hải Phòng” của Phó Quốc Thăng; “Chờ Anh Em Nhé” của
Xuân Tiên, lời Nhật Bằng; “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” của
Lam Phương; “Giấc mơ Hồi Hương” của Vũ Thành; “Hận
Ly Hương” của Anh Hoa và Ngọc Lang; “Hướng về Đất
Bắc” của Phó Quốc Thăng; “Hướng về Hà Nội” của Hoàng
Dương; “Lá thư gửi mẹ” của Nguyễn Hiền, lời Thái Thảo;
“Mộng ngày hồi hương” của Hoàng Trọng, Hồ Đình
Phương; “Sầu Ly Hương” của Lam Phương; “Thu Ly
Hương” của Nhật Bằng và Đan Thọ; “Tình Cố Đô” của
Lam Phương lời Mạnh Thương; “Về Bến Xưa” của
Nguyễn Hiền, lời Thiện Huấn; “Vọng Cố Đô” của Đan Thọ
Nhật Bằng; “Xa Quê Hương” của Đan Thọ, Xuân Tiên;
Trang 230 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
“Xuân Ly Hương” của Phó Quốc Lân. Nhưng danh sách ấy
chưa đầy đủ lắm, còn thiếu một cách đáng kể: “Mưa Sài
Gòn, Mưa Hà Nội” của Phạm Đình Chương, thơ Hoàng
Anh Tuấn; “Thương về Năm Cửa Ô xưa” thơ Tạ Tỵ, nhạc
Y Vân; “Mùa Hoa Nở” của Cung Tiến.
Hình ảnh của thành phố Hà Nội chắc in sâu trong trí
nhớ của tôi qua những bản nhạc mà tôi đã nghe trong một
khoảng thời gian dài. Trong những bài hát ấy, Hà Nội như
một hình tượng của nhung nhớ. Thành phố ấy, phải rời bỏ
đi xa với nỗi đau đớn tận cùng. Hà Nội ơi! Có phải là tiếng
kêu thảng thốt của trái tim vỡ vụn. Không phải với tôi mà
chung của rất nhiều người, Hà Nội thành thánh địa của hồi
tưởng. Lúc học trung học, hai thành phố gợi cho tôi nhiều
ấn tượng và mê đắm nhất là Paris và Hà Nội. Lúc đó, tôi
chỉ mong có ngày đặt chân đến. Paris của cậu bé Vincent
trong sách “Cours De Langue et de Civilisation” của giáo
sư Mauger mở ra biết bao nhiêu ảnh tượng kỳ thú. Còn Hà
Nội, là “Đêm Giã Từ Hà Nội” của Mai Thảo, là “Ung Thư”
của Thanh Tâm Tuyền, hay nhạc “Hướng Về Hà Nội” của
Hoàng Dương.
Có người hỏi tôi khi di cư vào Nam là lúc còn rất
nhỏ, thế mà tại sao tôi lại nhung nhớ bồi hồi một cách tận
cùng như vậy khi nghe lại những bản nhạc ấy.
Bởi vì từ nhạc, tôi cảm thấy nhiều điều. Không gian
xa cách ngàn trùng. Thời gian chia ly vời vợi. Đời sống
bỗng lênh đênh chia hai giữa buồn nhớ và hy vọng. Sẽ có
một ngày trở về, có phải? Nhưng cuộc sống như giòng
nước trôi đi lạnh lùng. Xa xứ và ly hương, như giòng sông
Bến Hải chia đôi đất nước.
Nhiều bản nhạc cũng gây rung động trong tôi như
thế? Bởi vì, đó là tâm tưởng chung của một thế hệ phải chịu
những biến chuyển nghiệt ngã của thời thế. Như lời ca từ
của “Chuyến đò vĩ tuyến” của Lam Phương, “Đêm nay
trăng sáng quá anh ơi, sao ta lìa cách bởi giòng sông bạc
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 231
hai màu…” Hay trong “Bắc một nhịp cầu” của Hoàng
Trọng, lời Hồ Đình Phương, “Lạnh lùng phương Nam mơ
bóng cây xanh ven hồ. Ngậm ngùi phương Bắc trông lúa xa
xăm mong chờ. Vì một giòng sông xóa mờ. Tình đời lìa đôi
bến bờ…”. Nỗi lòng người đi của Anh Bằng "Tôi xa Hà
Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu... Hôm nay Sài Gòn
bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui, nhưng riêng một người
tâm tư sầu lắng đi trong bùi ngùi"... Hoặc ở trong “Vọng
Cố Đô” của Đan Thọ và Nhật Bằng, “Hà Nội ơi! Xa cách
muôn trùng dương. Những lúc sương chiêu xuống. Tìm đâu
bóng Hồ Gươm lòng bao mến thương...” Và với “Mùa Hoa
Nở” của Cung Tiến, “Chiêu mưa thương nhớ đến bao giờ.
Đường vê nẻo Bắc xa mờ, mơ hồ. Đàn chim gieo thương
nhớ. Câu tiếng nước nhà…”…
Những bản nhạc ấy, trôi theo giòng sông âm nhạc
và liên tiếp nhau để thành một thời đại hoài niệm, mà tiếng
kêu tha thiết vẳng lên từ nơi chốn đã vời xa: Hà Nội. Tiếng
hát, lời ca, không còn đơn thuần là ca khúc mà đi xa hơn,
để thành chia sẻ, kỷ niệm của một phần của đời người. Bao
nhiêu năm, với bao nhiêu ban nhạc thính phòng hoặc đại
chúng, được trình diễn từ những ca sĩ tuyệt vời, những bản
nhạc ấy vẫn sống, từ thời hòa bình tạm thời đến cuộc chiến
khốc liệt. Mấy chục năm, vẫn không phai cảm xúc trong
lòng khán thính giả…
Dòng nhạc hoài niệm hình như tới bây giờ vẫn còn
hiện hữu trong nền âm nhạc Việt Nam? Vâng, đó là một trớ
trêu của lịch sử đất nước. Năm 1975, cơn hồng thủy lại đến
với dân tộc Việt Nam. Đất nước thống nhất, hòa bình
nhưng trại tù mở ra khắp nước. Kinh tế lụn bại, chính tình
hà khắc, dân chúng đói khổ. Rồi đánh tư sản, rồi vơ vét tiền
của người dân khiến hàng triệu người bỏ xứ ra đi tìm đất
sống. Những chuyện phim như “Chúng Tôi Muốn Sống”,
“Đất Lành”, …bỗng thành hiện thực. Và, dòng nhạc hoài
niệm lại tiếp nối. Tâm tư, nỗi niềm của thế hệ, của thời đại
lại phản ánh rõ nét. Ở hải ngoại, ngóng về quê hương, về
Trang 232 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Sài Gòn với tấm lòng tan nát. Nốt nhạc lời ca thành tiếng
vọng gửi về qua khoảng cách của hai bờ đại dương.
Hình ảnh của Hà Nội đậm nét trong văn thơ nhạc
của những người di cư vào miền Nam lập đời sống, sự
nghiệp mới. Thành phố ấy biểu trưng cho quê hương đã xa,
cho thời gian đã qua nhưng đôi khi muốn trở mình hồi sinh
sống lại. Những con đường, những hẻm phố, của 36 phố
phường ngày xưa, của ăn Bắc mặc Kinh, của một thời văn
hóa dân tộc là tinh chất của những năm dựng nước và giữ
nước. Nói về Hà Nội, quả là một câu chuyện miên man mà
thời gian một hai tiếng đồng hồ chẳng đủ cho những người
khao khát nắng gió quê nhà luôn hướng vọng về một thành
phố đã xa. Hình như có những bản nhạc có xuất xứ từ ngôn
ngữ thơ viết về Hà Nội và trở thành một vài bài hát tiêu
biểu.
Một bài thơ được phổ nhạc của một thi sĩ cho rằng
thơ và nhạc có những đặc tính khác nhau nên ở những bài
thơ được phổ nhạc thì tinh chất thi ca bị giảm sút đi và
không còn là thơ tinh tuyền nữa. Thế mà, ông có một bài
thơ được nhạc sĩ Y Vân phổ nhạc và là một bản nhạc coi
như tiêu biểu cho dòng thơ nhạc hoài niệm về Hà Nội. Đó
là thi sĩ Tạ Tỵ và bài thơ được phổ nhạc: “Thương Về Năm
Cửa Ô Xưa”.
Bài thơ như một kỷ niệm đẹp của một thời thế đã
xa, của một quê hương đã khuất. Chuyển thể thành nhạc lại
thành những giai điệu tha thiết của nhớ thương, nhắc lại
những nơi chốn đã qua khiến rung động tâm tình người xa
xứ. Thuở ấy, những nhung nhớ của tâm hồn hoài niệm cứ
mãi khắc khoải tâm tư, thì bây giờ nơi xứ lạ vẫn ngóng về
biển đông để tìm ra một tấc lòng rưng rưng theo nhịp tim
sóng vỗ. Bài thơ Tạ Tỵ như những âm vang đồng vọng của
những người khi nghĩ đến quê nhà lại xót xa thắt ruột.
Bài thơ “Thương Về Năm Cửa Ô Xưa” có những
câu như:
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 233
“Tôi đứng bên này vĩ tuyến
Thương vê năm cửa ô xưa
Quan Trưởng đêm tàn dẫn lối
Đê cao hun hút chợ Dừa
Cầu Rên mưa dầm lầy lội
Gió vê đã buốt lòng chưa?
Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ
Nhị Hà lấp lánh sao thưa
Cầu Giấy đường hoa phượng vỹ
Nhớ thương biết mấy cho vừa…”
Bài thơ này do Y Vân phổ nhạc mà nghe từ giọng
hát Lệ Thu thì không có giây phút nào tuyệt vời hơn.
Có một bài hát mà một thời được hát với tất cả tâm
tình của người đang trong hoàn cảnh của ngày tháng Hà
Nội sắp mất và chọn sự ở lại với những khúc mắc trong
lòng. Đó là bản nhạc “Hướng Về Hà Nội” của nhạc sĩ
Hoàng Dương. Đọc một đoạn viết của nhà văn Nguyễn
Đình Toàn để có thể hiểu được tâm sự của người nhạc sĩ:
“Thế nhưng hoàn cảnh lịch sử cũng đóng một vai
trò quan trọng đối với bài hát của Hoàng Dương. Đó là
những ngày tháng Hà Nội sắp mất. Người ta đang sửa soạn
ký với nhau một hiệp định chia đôi Việt Nam ở một nơi nào
đó gọi là Genève. Hà Nội trong những ngày tháng ấy giống
như một cơ thể mắc chứng hoại huyết. Xanh xao. Vàng vọt.
Người ta bỏ đi. Người ta chạy trốn. Người “bên ngoài”
(hậu phương) đã về trộn với người bên trong (Hà Nội).
Người ta hân hoan. Người ta sợ hãi. Úp úp. Mở mở. Hà Nội
bị xé đôi bằng nỗi vui mừng và kinh hoàng thâm nhập cùng
một lúc vào lòng người Hà Nội trước khi nó thuộc về cái
phần đất nước bị cắt đôi. Hà Nội đẹp. Hà Nội buồn. Hà Nội
lãng mạn hay thực tế cũng sẽ mất như những đám sương
mù tháng bảy đang xóa bỏ nó. Người ta phải nói lời giã từ
Hà Nội. Gọi hồn Hà Nội. Hoàng Dương đã chọn ở lại Hà
Nội. Bài hát của ông có cái xa và cái gần Hà Nội. Có cái
ngọt ngào của một bản tình ca, cái não nùng của một cuộc
Trang 234 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
chia lìa. Cho người ở lại giấu nó trong lòng. Cho người ra
đi hát như một lời gọi vói…”
Bản nhạc “Hướng Về Hà Nội” có những lời thiết
tha:
“Hà Nội ơi! Hướng vê thành phố xa xôi.
Ánh đèn giăng mắc muôn nơi
Áo màu tung gió chơi vơi
Hà Nội ơi! Phố phường giãi ánh trăng mơ
Liễu mêm nhủ gió ngây thơ
Thấu chăng lòng khách bơ vơ
Hà Nội ơi! Những ngày vui đã ra đi
Biết người còn nhớ nhung chi
Hết rồi giây phút phân ly
Hà Nội ơi! Dáng huyên tha thướt đê mê
Tóc thê thả gió lê thê
Biết đâu ngày ấy anh vê…”
“Hướng Về Hà Nội” là lời của người chọn sự ở lại.
Thế còn những người ra đi thì sao? Có mơ mộng gì đến
ngày trở về không?
Bài “Giấc Mơ Hồi Hương” của nhạc sĩ Vũ Thành là
tiếng lòng thổn thức của tâm tư ấy. Theo một bài viết của
tác giả Quỳnh Giao thì lời ca của “Giấc Mơ Hồi Hương”
phát xuất từ một bài thơ mà nhạc sĩ Vũ Thành không nhớ
tên tác giả.
“Đau đớn nhìn Hà Nội
khuất dần sau sương rơi
sông Nhị Hà sôi nổi
cầu Long Biên xa rồi
mắt nhìn hình ảnh cuối
lòng thương nhớ khôn nguôi
nghẹn ngào tâm sự cũ
thôi rồi Hà Nội ơi!”
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 235
Vậy ca từ của “Giấc Mơ Hồi Hương” có tương tự gì
với lời thơ ở trên không? Nếu nói rằng có ảnh hưởng để
cảm hứng thì có nhưng tương tự thì không.
“Lìa xa thành đô yêu dấu
một sớm khi heo may vê
lòng khách tha hương vương sầu thương
nhìn em mờ trong sương khói
bước đi nhưng chưa nỡ rời
lệ sầu tràn mi, đượm men cay đắng biệt ly
rồi đây dù lạc ngàn nơi
ta hướng vê phía xa vời tìm mộng xưa lãng quên
tháng ngày tàn phai…”
Nhạc sĩ Thanh Trang có một nhận xét khá dí dỏm
nhưng chính xác:
“Cùng thời niên thiếu tôi rất yêu thích những bài hát
của cố nhạc sĩ Vũ Thành như “Nhặt cánh sao rơi”, “Nhớ
bạn”. Tôi để ý thấy trong những bài hát của mình, ông Vũ
Thành chả bao giờ dùng chữ “em” khi nói đến hình ảnh
một người con gái. Chữ “em” hiếm hoi mà ông sử dụng thì
lại để chỉ…Hà Nội trong bài “Giấc Mơ Hồi Hương”…”
Tác giả Quỳnh Giao cũng viết: “Vũ Thành quả là
người khiêm tốn, vì với Quỳnh Giao lời ca của “Giấc Mơ
Hồi Hương” sâu xa và mới hơn ý của bài thơ nguyên thủy.
Thời đó gọi thành phố Hà Nội là “em” mà không là mới
sao? Và lãng mạn quá đi chứ!
Có một bản nhạc mà một nhà phê bình âm nhạc gọi
là cây cầu bắc giữa hai thành phố, hai chốn, hai nơi, hai
phận đời và hai kiếp người.
Phạm Đình Chương phổ nhạc thơ Hoàng Anh Tuấn:
“Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội”, một bài hát mà mỗi khi
người di cư nghe lại quặn đau. Hình như, thơ Hoàng Anh
Tuấn và nhạc Phạm Đình Chương đã quyện vào nhau để
Trang 236 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
trở thành những cảm giác của những người cùng tâm sự
chia sẻ với nhau chung một nỗi niềm…
Trong thơ Hoàng Anh Tuấn có nhiều thành phố:
Paris, Sài Gòn, Đà Lạt, San José, … Nhưng, tập thơ cuối
đời và độc nhất của ông lại là “Yêu em, Hà Nội”. Đó có
phải là một sự kiện đặc biệt? Thực sự cũng dễ hiểu.
Trong thi ca Hoàng Anh Tuấn, muôn đời miên viễn
trong tâm tưởng vẫn là Hà Nội. Chẳng phải riêng trong vô
thức, là hình bóng người tình muôn thuở. Mà cũng chẳng
phải là tình cảm đầu đời với một nơi chốn từ đó đã sinh ra
và lớn lên. Thơ ông với Hà Nội, là nỗi bí nhiệm của tổng
hợp những nỗi niềm của người từ nơi chia xa nhớ về. Nó
không đơn thuần là tình yêu đầu đời và cũng không đơn
thuần là hoài niệm về tuổi thơ. Mà, là tất cả, từ ấn tượng
không phai nhạt. Từ tâm tư của trái tim cảm lụy. Của
những “ngôn ngữ trời cho” của một bất thần vụt đến của
thơ.
Chúng ta có thể dẫn chứng một vài bài của “Yêu
em, Hà Nội”.
Những bài thơ Hà Nội, có nỗi thiết tha, có ngữ ngôn
bình dị và tự nhiên không một chút làm dáng nào. Thơ như
thể một cánh buồm phăng phăng vẫy vùng trong cái cao
rộng của đất trời, của những phương trời tuy mịt mù khói
sóng nhưng gần cận thân quen. Thơ phá vỡ đi cái biên giới
hữu hạn của không gian, thời gian. Hà Nội dệt bằng những
bài thơ, mềm như nắng và nhẹ như mây trời. Trong thơ
Hoàng Anh Tuấn.
Hà Nội, kỷ niệm:
“… xin trở lại thuở ngày xưa tinh nghịch
cầm tay nhau ngày đó để xa nhau
để ước ao khi thương nhớ nghẹn ngào
được cầm lại bàn tay em công chúa
khung cửa sổ mở ra trời yêu cũ
chẳng khuất vào sợ khuất dáng em xưa
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 237
một nỗi buồn thoáng Hà Nội mùa thu
vẽ từng nét tình yêu em hương cốm.”
Với bài thơ mà nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã phổ
thành ca khúc thì là một bài thơ, được tháp cánh bằng nhạc,
khi được đọc hoặc hát lên, tạo thành một xúc cảm mãnh
liệt. Bài thơ “Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội” được phổ nhạc
bởi nhạc sĩ Phạm Đình Chương, mà có người đã cho là tình
khúc hoài niệm hay nhất trong những bản nhạc buồn.
Những câu thơ cứ ngân vang, rưng rưng trong lòng người
xa xứ. Những cơn mưa, mưa ngoài trời và mưa trong hồn:
“Mưa hoàng hôn
trên thành phố buồn gió heo may vào hồn
thoảng hương tóc em ngày qua
ôi người em Hồ Gươm vê
nương chiêu tà
liễu sầu úa thêm cũ nằm mơ hiên hòa
thương màu áo ngà
thương mắt kiêu sa
hiên ngoan thiết tha…”
Hai phương trời. Hai tâm tư. Quê hương Hà Nội đã
xa từ quá khứ. Tự nhiên những hạt mưa buốt lạnh. Mưa của
hoàng hôn, của những nỗi buồn cuối ngày của thi sĩ và
nhạc sĩ …
Nguyễn Mạnh Trinh
*
Trang 238 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Hà Nội 80 ngày,
đi hay ở
Viên Linh, CVA 58
New York Times ra ngày 21 tháng 7, 1954 :
Kết quả Hội nghị Geneve chia đôi Việt Nam. (Tài liệu Viên Linh)
Ngày ký Hiệp Ðịnh Geneve 21 tháng 7, 1954, tôi
còn ở quê nhà Ðồng Văn, và học khóa hè ở trung học Phủ
Lý, cả hai nơi đã nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh, chỉ
mới vài tuần lễ. Pháp và phía quốc gia có 80 ngày để rút
khỏi Hà Nội, 100 ngày để rút khỏi Hải Dương, 300 ngày để
rút khỏi Hải Phòng, bờ bến cuối cùng của tự do.
Họ Nguyễn trong có gia đình chúng tôi nhiều người
làm việc cho chính quyền, trong có một ông chú rể làm
trong Nha Báo Chí của ông Hoàng Nguyên, một ông chú
khác làm thư ký tòa soạn tuần báo Cải Tạo của ông Phạm
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 239
Văn Thụ, ở Hà Nội, một ông chú ruột là “ông tỉnh” Hải
Dương, ông là người đứng tên sở đắc có định kỳ ngôi biệt
thự hai tầng ở cuối đường Chợ Ðuổi Hà Nội, nơi tôi tá túc
những ngảy niên thiếu cho tới lúc này. Như thế việc trở về
Hà Nội được hay không cũng không còn bao nhiêu ngày,
nhất là theo thời hạn cho phép, bộ đội Việt Minh sẽ vào
tiếp thu Hà Nội ngày 9 tháng 10 nếu họ muốn. Ngay lúc
này, vấn đề đi hay ở đã rõ ràng với mẹ tôi – có tin rỉ tai bà
là người thứ hai trong danh sách 5 địa chủ sẽ bị mang ra
đấu tố – tất cả mọi người trong họ đã và đang trên đường ra
Hải Phòng. Trước hết, ngay từ bây giờ cả nhà phải đi Hà
Nội rồi mới tính chuyện ra hải cảng sau.
Tôi được mẹ khuyến khích cứ đi một mình, không ở
nhà ông chú đường Chợ Ðuổi thì còn có ông bác trên phố
Hàng Bông, gần Cửa Nam, bác Tổng, hành nghề bói toán.
Bác trai và bác gái đã trên 60, không ai tính đi Nam làm gì,
nhất là thời thế đã khiến bác đang thu tiền vào như nước.
Ðược mẹ cho phép, cậu con trai với “thiết mã” tinh ròng
còn đợi gì mà không phóng về thủ đô.
Hồ Hoàn Kiếm Hà Nội
Ðây không phải lần đầu tiên đạp xe từ quê nhà ra
thành phố, cùng với Hướng người bạn lớn tuổi ở Phố Ga,
Trang 240 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
hắn và tôi đã từng trốn nhà đi Hà Nội chơi rồi về trong
ngày mà không ai biết. Hắn nói, “Cứ con đường Quốc Lộ 1
mà đi, tới tận Ải Nam Quan cũng được. Từ nhà tụi mình
lên thủ đô có 47 cây số, từ thủ đô lên biên giới khoảng 160
cây số nữa, có là bao xa. Vào Nam thì xa hơn, cũng cứ
Quốc Lộ 1 mà chạy, mệt thì vác xe leo lên tàu hỏa, thiết lộ
nằm trên đường cái quan, trừ những quãng băng núi chui
hầm, chỉ năm ba ngày là tới. Mày muốn đi với tao không?
Phải đi. Con trai như tao với mày, tụi mình cùng đi là
được.” Hướng có cái xe đua, ghi-đông vòng xuống như
sừng bò rừng, hắn nằm rạp trên xe phóng như một mũi tên.
Ít lâu sau tôi trở lại Hà Nội một mình.
May thay, không phải tất cả họ hàng đã ra Hải
Phòng, tôi còn có thì giờ trở về ngôi biệt thự cũ, vác xe leo
lên lầu, thấy chú thím Hai tôi ở căn phòng có lan can nhìn
xuống đường. Trước đây nguyên căn lầu 4 phòng có ông bà
nội, gia đình chú Út, cô tôi, riêng tôi ở căn nhỏ nhất, gần
đầu cầu thang. Ngôi biệt thự xây cất khang trang, một tầng
có bốn phòng lớn một phòng nhỏ rộng rãi, cửa phòng mở ra
một hành lang rộng cả hai thước. Phía mặt tiền trên tầng
cao nhất đắp nổi hai chữ bằng xi măng, quét vôi vàng nhạt,
góc cạnh mấy chữ đã hơi mòn, song còn đọc thấy: Hotel
Shanghai. Mỗi tầng có một nhà tắm, cầu vệ sinh bằng sứ
men trắng, phía trên cầu là bồn nước có giây với các khoen
sắt nối nhau, và cái tay cầm cũng bằng sứ, để giật cho nước
trên bồn dội trong cầu. [Bốn mươi năm sau qua Pháp, vào
ăn tại nhà hàng Baie d‘Along (Vịnh Hạ Long), tôi ngơ ngẩn
khi bước vào phòng vệ sinh, thấy đúng cái bồn đó, và tán
thán mãi về sự tiến bộ của nước Pháp].
Ông bà nội và con cháu chiếm nguyên tầng trên
cùng, nay không còn thấy ai, chắc đã ra Hải Phòng đi Nam,
nhưng lại thấy chú thím Hai. Nguyên ông bà nội có bốn
trai, ba người đầu, một người út, trên chú Út là cô Tư, thầy
tôi là con cả, nhưng đã thất lộc vào tháng 5, 1945. Chú Hai
chưa bao giờ ra Hà Nội, bây giờ lại ở đây, nhưng tôi hiểu.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 241
Tất cả mọi người đã đi, chú phải lên trông coi ngôi biệt thự
nhiều phòng cho thuê của chú Ba, thay thế chú Ba, vậy bây
giờ chú Hai là người sở đắc ngôi biệt thự mười bốn
phòng… Ông đi thu tiền nhà và sẽ gửi cho chú Ba, chắc
chắn còn là “ông tỉnh” Hải Dương. Vừa thấy tôi, ông vẫy
lại gần. “Cháu à, chú nghĩ khó khăn lắm rồi. Mấy hôm nay
chú xuống bên dưới thu tiền nhà, họ không trả. Trước kia
có xảy ra chuyện như thế không?” “Không,” tôi trả lời.
Thường là cô Tư hay chú Út xuống thu tiền nhà.
- Cô Tư nói cháu cũng từng đi thu tiền nhà?
- Có một lần thôi chú, lúc cô Tư ốm đi bệnh viện.
Tao thấy có thằng du côn lắm. Nó trừng mắt nhìn
tao. Nó nói hỗn thời thực dân bóc lột hết rồi. Cháu thử đi
thu tiền giùm chú xem sao? Họ biết cháu hết mà, cô Tư nói
thế.
- Vâng, cháu ở đây đã mấy năm, họ biết chứ.
Tầu điện ở Hà Nội
Tôi đạp xe lên phố Hàng Bông, vòng qua Cửa Nam
ngắm cảnh một vòng rồi mới đi kiếm số nhà ông Bác bên
ngoại. Không thấy số nhà, nhưng thấy cái biển kẻ tay mấy
chữ sơn đỏ Quỷ Cốc Tử tôi đoán là nhà ông chứ không thể
có hai Quỷ Cốc Tử cùng một dãy phố. Quả thế, hai bác đều
Trang 242 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
đã già, tuy là lần đầu tôi gặp, cả hai đều niềm nở. Cháu ở
luôn đây đi, có căn gác xép bên trên chưa cho thuê, cho
mày ở đó, rồi đưa cho các bác bao nhiêu thì đưa.
Những ngày sau, tôi chạy quanh thủ đô đi tìm bạn
bè, nhất là mấy người bạn văn nghệ tập sự thường mỗi chủ
nhật họp sau tại sân tòa án hay kéo nhau lên đồi Yên Thái ở
phía Tây Bắc Hà Nội. Chúng tôi khoảng năm người, ba
người từng có bài được chọn đăng trên các báo ở thủ đô,
trong đó truyện ngắn của tôi được đăng trên nhật báo Tiếng
Dân, còn được mời tới tòa báo lãnh nhuận bút. Ðó là sáng
tác đầu tiên tôi gửi đi, nó được đăng ngay hai ba ngày sau
và được trả tác quyền như một người lớn. Cuộc đi thăm
thất bại, không gặp một ai. [Chỉ ba năm sau khi ở Sài Gòn,
chúng tôi chỉ còn 3 người, một ở lại miền Bắc, một là
Trường Giang bị bắn chết khi năm 1956 Giang bơi qua
sông Hiền Lương Bến Hải vào Nam]. Sau khi bộ đội Việt
Minh tiến vào thủ đô ngày 10 tháng 10, tôi tới trường cũ
trình diện, được gặp Giáo Sư Tạ Quang Bửu ngồi sau chiếc
bàn thầy Hiệu Trưởng Vũ Ngô Xán vẫn ngồi các năm
trước. “Thưa thầy”… Ông ngắt lời tôi, bảo tôi gọi bằng
“Anh.” Tên trường Chu Văn An rút ngắn thành Chu An.
Ðây sẽ là chương khác của một cuốn sách.
Cuối cùng tôi phải rời Hà Nội ra Hải Phòng, không
phải trong hạn 80 ngày (ngày chót 10 tháng 10, 1954) mà
tới mãi cuối tháng 12, và đặt chân xuống phi trường Tân
Sơn Nhất vào đúng Ðêm Giáng Sinh 1954.
Tới nay là 60 năm, chưa có dịp quay về nhìn lại
kinh thành cũ. Tôi vẫn nhắn những người có thể nhắn, nếu
có về hãy thăm Hà Nội giùm tôi, cố đô Hà Nội của tôi,
không phải Hà Nội bây giờ. Lời nhắn là một bài thơ gửi
những người trẻ tuổi.
Em Có Về Hà Nội (II)
Em có vê Hà Nội
Hãy đến hỏi giùm cảnh vật thâm u
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 243
Ðất nước tang thương em hãy hỏi Tháp Rùa
Mười thế kỷ rồi làm sao chưa hiểu?
Tâm cao khiết em hãy vào Văn Miếu
Ðọc văn bia tiến sĩ nhớ người xưa
Hỏi giùm anh, chữ nghĩa có bao giờ
Im lặng mãi như những hàng gạch ngói?
Nghe tiếng véo von, nhớ vê Hà Nội
Nơi trâu vàng ngựa đá cõi rồng xanh
Nơi hồ thiêng, sông hiển, nước xây thành
Nơi Hội Nghị Diên Hồng
Nơi Bình Ngô Ðại Cáo
Nơi sớ trảm gian thần
Nơi trả vua mũ áo
Nơi Huyên Trân bỏ nước, nước giầu them
Nơi vua Hùng đày xa xứ An Tiêm
Ngày vê nước chở vê thuyên dưa đỏ.
Anh tự hỏi khi trở vê nước cũ
Anh mang gì vê lễ tạ hồn xưa?
Anh mang gì vê lễ tạ quê hương?
Có nhớ chăng rồng ngủ Vịnh Hạ Long
Sao chưa thấy thành Thăng Long rồng dậy?
Ðời vua Lý nghìn năm xưa ở đấy
Nghìn năm sau ở đấy vẫn Thăng Long
Ðón rồng lên dựng lại nước thanh bình
Chấm dứt một thời thiên hôn địa ám.[1]
Viên Linh
Chú thích:
[1] Đoạn chót bài “Em Có Về Hà Nội” của Viên
Linh. [Vào Google, đánh máy “Viên Linh Em Có Về Hà
Nội” sẽ nghe được nhạc sĩ Nguyễn Văn Thành hát ca khúc
ông phổ từ bài thơ này].
Trang 244 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Từ Hà Nội
đến Sài Gòn 54 - 75
Lữ Tuấn
LTS: Lữ Tuấn là bút hiệu của anh Nguyễn Công Luận, sinh
viên Sĩ Quan Đà Lạt khóa 12, nguyên Trưởng Phòng Sưu
Tầm Nghiên Cứu, Tổng Cục CTCT. Sau năm 1975, anh bị
đi tù cải tạo hơn 7 năm. Anh định cư tại San Jose,
California, Hoa Ky.
*
Tháng 6 năm 1954 đúng 50 năm về trước, là lúc
mọi người trong vùng kiểm soát của chính phủ Quốc Gia ở
Bắc Việt cực kỳ lo lắng và hoang mang sau khi cứ điểm
Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Nhiều tin
đồn trái ngược càng làm cho mọi người thêm sợ hãi.
Khoảng 20 tháng 6, tại Nam Định và các tỉnh phụ cận, có
tin đồn được lan truyền nhanh chóng nói rằng quân đội
Pháp và quân đội Quốc Gia sẽ rút khỏi Nam Định và các
tỉnh phía Nam Hà Nội. Từ hôm ấy, hàng loạt doanh trại
được tháo gỡ vội vàng, xe vận tải quân sự chở vật liệu nặng
bắt đầu theo nhau từ Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình đổ về
Nam Định cùng các xe cộ từ Nam Định nối nhau đi Hà
Nội. Kho đạn Nam Định cho phá hàng loạt đạn súng cối và
đạn pháo binh ở vùng đất hoang phía tây thành phố.
Bộ Tư Lệnh Pháp và chính quyền Bảo Đại không hề
lên tiếng về tình hình tại Bắc Việt. Bộ Chỉ Huy Pháp tại
Nam Định vẫn tiếp tục công việc chuẩn bị cuộc diễn binh
hùng hậu vào ngày quốc khánh Pháp, 14 tháng 7 năm 1954
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 245
mà họ đã loan báo trước. Vào lúc này, đã có tin đồn ông
Ngô Đình Diệm sẽ về nước làm thủ tướng. Những truyền
đơn đầu tiên ký tên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ủng
hộ ông Diệm xuất hiện lác đác ở Nam Định.
Ba ngày cuối cùng phi cơ quân sự lên xuống liên
tiếp. Khi đã chuyên chở gần hết vật dụng và người, trạm
hàng không quân sự Nam Định bắt đầu cho mọi người tự
do lên phi cơ C-47 còn trống nhiều chỗ để đi Hà Nội.
Nam Định bắt đầu hoảng hốt thực sự từ ngày 28
tháng 6 khi điện bị cắt. Thành phố tối mù. Nhiều người
chen chúc mua vé xe hoặc thuê xe di tản về Hà Nội. Nam
Định là nơi số doanh trại và binh lính dầy đặc nhất Việt
Nam. Trước đó từ 9 giờ khuya là giờ giới nghiêm, thành
phố vắng vẻ không một bóng người trên phố xá. Nay đột
nhiên tất cả chìm trong không gian đen thui, nhưng lại cựa
mình mạnh hơn trong bóng tối. Trên đường phố người ta đi
lại đông đúc khác thường quá cả giờ giới nghiêm.
Đường phố Hà Nội, hình chụp vào tháng 7 năm 1954.
Gia đình tôi lúc ấy đang ở một căn cư xá công chức
nơi mẹ tôi làm việc. Lúc 7 giờ sáng, một anh lính tống thư
Trang 246 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
viên người Pháp vào sở đưa một giấy báo di chuyển, ghi
đúng số người thuộc quyền sở này và gia đình nhân viên kể
cả 4 gia đình ở cư xá. Tất cả mau lẹ tập trung đợi xe. Sau
đó chừng 15 phút, một tiểu đội Bảo Chính Đoàn dẫn 4 xe
vận tải trưng dụng của tư nhân đến nơi và cho biết đúng 8
giờ kém 15 mọi người phải có mặt đầy đủ trên xe.
Việc di tản có vẻ đã được chuẩn bị nhiều tuần lễ
trước đó. Số người ngồi trên xe thoải mái rộng rãi vì không
ai mang theo đồ đạc gì nhiều ngoài một vài chiếc valise và
túi xách tay gọn nhẹ.
Lệnh di chuyển cho biết đoàn xe này phải qua trạm
kiểm soát phía bắc hướng đi Phủ Lý-Hà Nội vào khoảng
giờ nhất định mà tôi nhớ là sau 8 giờ và trước 8 giờ 10
phút. Lệnh này cũng cảnh cáo nếu xe nào đến sớm quá hay
muộn quá theo giờ ấn định sẽ bị ủi ra khỏi mặt đường để
tránh nhiễu loạn giao thông.
Hồi đó tôi còn là học trò. Vội vàng xếp quần áo,
hình ảnh, giấy tờ cần thiết, cuống cuồng không biết phải
mang theo gì và phải bỏ lại món nào. Lúc còn chừng 25
phút, tôi xin phép mẹ tôi chạy ra phố nói là để chào mấy
thằng bạn. Cô ruột tôi , người nuôi nấng tôi từ nhỏ không
chịu vì sợ tôi chậm trễ e sẽ kẹt lại. Nhưng mẹ tôi hiểu ý,
mỉm cười can thiệp nói, “Chị cứ cho nó đi, nó không dám
về muộn đâu.”
Mẹ tôi thừa biết tôi đi đâu. Tôi đạp xe với tốc độ
không thua các tay đua vòng quanh Đông Dương, xẹt qua
trước nhà cô bạn mà tôi thương vụng nhớ thầm từ năm 17
tuổi và chưa hề mở lời yêu đương.
Nàng đang ngồi chải tóc ở cửa sổ trên lầu. Không rõ
nàng có nhìn thấy tôi hay không, nhưng tôi vội vàng đánh
bạo thu hết can đảm hôn gió trên bàn tay phải ném về phía
cửa sổ rồi lao xe như gió về nhà, trước giờ xe chạy khoảng
10 phút. Ở miền Bắc hồi ấy trai gái còn nhút nhát, phải can
đảm lắm mới dám làm như thế vì tôi linh cảm chuyến đi
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 247
này sẽ lâu lắm, có thể là cả đời. Sau này trong đời lính chưa
bao giờ tôi phải vận dụng can đảm cao độ như vậy dù gặp
nhiều tình thế rất khó khăn nguy hiểm.
Quân cảnh Pháp thi hành đúng giờ giấc như quy
định. Tại trạm kiểm soát Cổng Hậu, từng đoàn xe gồm năm
mười chiếc có lính hộ tống được cho khởi hành. Một vài xe
đến muộn phải đậu một bên đường chờ giải quyết sau. Trên
đường đi, tại mỗi cây cầu đều có một toán Công Binh đặt
săn chất nổ. Một trung sĩ Công Binh Việt Nam cho biết họ
phải phá nổ các cầu này khi đơn vị cuối cùng đi qua.
Buổi trưa đoàn xe chúng tôi đi đến Hà Nội. Gia
đình tôi về ở nhà người thân. Đêm hôm ấy thị xã Phủ Lý bị
một sư đoàn Việt Minh tấn công. Thành phố đã hư hại săn
nay lại chịu tàn phá gần hết những gì còn lại.
Cuộc rút lui này tuy tiêu biểu cho việc Pháp thua
trận nhưng lại là cuộc rút lui thành công. Dựa vào tài liệu
của Pháp và thực tế quan sát thấy tại chỗ, cho thấy Đại Tá
Vanuxem chỉ huy trưởng Phân Khu Nam đã điều động
cuộc rút lui mau lẹ, có trật tự với tổn thất nhẹ không đáng
kể. Đoàn quân rút lui vượt qua nút Phủ Lý trước khi bị địch
đánh chận.
Kế hoạch tỉ mỉ do bộ tham mưu Pháp bí mật soạn
thảo, trong đó chỉ có các sĩ quan từ đại úy mới được cho
tham dự. Mọi việc đánh máy, chuyển nhận công điện, văn
thư tài liệu đều do các cấp sĩ quan từ đại úy trở lên đích
thân thi hành. Bí mật được giữ đến phút chót. Chỉ có một
điều đáng tiếc là nhiều đội dân quân tự vệ ở nhiều làng mạc
các tỉnh vùng này kể cả quanh những trung tâm chiến lược
như Phát Diệm, Bùi Chu bị Pháp bỏ rơi. Nhiều dân quân
chạy không kịp bị Việt Minh bắt và giết hại.
Hà Nội vốn yên tĩnh, lúc đó đang sống thanh bình
không nghe tiếng súng. Những vũ trường, hàng quán sang
trọng và độc đáo với những thắng cảnh nổi tiếng đầy bóng
dáng người đẹp thướt tha. Cuộc di tản 4 tỉnh phía Nam làm
Trang 248 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
cho đường phố Hà Nội đông người thêm nhưng vẫn không
mất vẻ mỹ lệ của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.
Đồng bào đón cụ Ngô Đình Diệm vê nước ngày 25/5/1954
Lúc ấy hội nghị Genève bắt đầu họp. Ai cũng thấy
phe Cộng Sản đang nắm ưu thế. Những người có quan tâm
đều lo ngại không biết sẽ đình chiến kiểu nào. Có thể là hai
bên ngưng bắn xen kẽ mà sau này năm 1972-73 người ta
gọi là “giải pháp da beo.” Cũng có thể là chia đôi đất nước
thành hai miền Nam và Bắc. Người ta cũng bàn tán gay go
về ranh giới đình chiến sẽ nằm ở vĩ tuyến nào? Vĩ tuyến 13,
16 hay 19?
Đầu tháng 7, ông Diệm ra Hà Nội. Một số đông đảo
dân chúng chào đón ông, và nhiều người hy vọng vị nhân sĩ
này sẽ cứu vãn tình hình. Sau đó ngày 7 tháng 7 năm 1954
ông Diệm chính thức nhậm chức thủ tướng. Ông thành lập
Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt. Các đoàn thể, đảng phái chống
Cộng đều ủng hộ đường lối này. Nhiều sĩ quan, binh sĩ
cũng săn sàng tham gia việc phòng thủ lãnh thổ phe quốc
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 249
gia đang nắm giữ. Một số đông đảo đặt niềm hy vọng lớn
lao vào sự trợ giúp của Hoa Kỳ thay thế người Pháp.
Nhóm chúng tôi là đảng viên Đại Việt và Quốc Dân
Đảng đều hăng hái tham gia tuyên truyền vận động ủng hộ
chủ trương giữ Bắc Việt. Đêm đêm, chúng tôi đi ném
truyền đơn ở khu Hồ Tây, Cổ Ngư, Ngọc Sơn và nhiều nơi
khác kể cả những nơi có lính Pháp lui tới. Hà Nội bắt đầu
có không khí căng thẳng và phảng phất mùi chiến tranh.
Đường phố Hà Nội về khuya lần đầu tiên có những
bóng dáng cảnh sát võ trang súng trận Mas-36 và quân
phục tác chiến đi tuần tiễu. Nhưng các cơ sở dân sự cơ yếu
và doanh trại quan trọng của Quân Đội Quốc Gia đều thấy
có lính Maroc hoặc da đen canh gác, rõ ràng là Pháp đang
phòng ngừa chính biến chống lại họ.
Ngày 14 tháng 7, quân đội Pháp tổ chức diễn binh ờ
Bờ Hồ phía Tòa Thị Chính. Thông cáo và bích chương của
Pháp vẽ hình nắm đấm được thấy khắp nơi. Pháp giải thích
rằng rút 4 tỉnh phía Nam là bàn tay trước kia xòe ra nay
nắm lại để đánh mạnh hơn. Tất nhiên ít ai tin vào luận điệu
này.
Đám học sinh chúng tôi từ Nam Định chạy về nhiều
đứa tình nguyện vào Khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị và lục tục lên
đường khoảng trước ngày 15 tháng 7 năm 1954. Phần còn
lại thường tìm gặp nhau trao đổi tin tức và bàn luận về tình
hình đất nước.
Chiều 21 tháng 7 năm 1954 khi bọn tôi đang tụ họp
thì có tin trên đài Con Nhạn (Hirondelle) của quân đội Pháp
vang lên lời loan báo “Hiệp Định Đình Chiến đã được ký
kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng câu ấy trên trang
nhất bằng chữ lớn. Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế
nào việc này cũng sẽ đến. Báo này cho hay đất nước phân
chia ở sông Bến Hải, Vĩ Tuyến 17.
Tân Thủ Tướng Pháp Mendès-France nhậm chức
Trang 250 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
ngày 17/6/54, đã tuyên bố rằng ông ta sẽ từ chức nếu không
đạt được thỏa hiệp trước ngày 20 tháng 7 năm 1954. Vì thế
hiệp định Genève về Đông Dương được ký lúc sáng sớm
ngày 21 nhưng nhà cầm quyền Pháp đã cho đồng hồ ngưng
chạy từ đêm trước để làm như lúc ấy vẫn còn là ngày 20.
Tại Việt Nam thời điểm này là trưa ngày 21.
Hà Nội liền thay đổi rõ rệt. Niềm hy vọng giữ Bắc
Việt lịm tắt dần và dân chúng nóng lòng về tin tức sẽ có
cuộc di cư. Một số bài trên báo chí đang từ thái độ chống
cộng quay dần sang ủng hộ Việt Minh. Người các tỉnh đổ
về Hà Nội đông đảo. Cán bộ Việt Minh cấp thấp ra vào Hà
Nội dễ dàng. Đồ chơi trẻ em bày bán trước dịp Trung Thu
có những chiếc máy bay, xe thiết giáp, xe chở lính, tàu thủy
được sơn cờ đỏ sao vàng. Các cơ quan an ninh chẳng ai
thèm để ý.
Một số cán bộ Việt Minh quen biết gia đình tôi đến
thăm và khuyên gia đình tôi nên ở lại nhưng mẹ tôi và tôi
đã dứt khoát ra đi. Sau đó 4 tháng, chúng tôi gặp lại vài
người trong số cán bộ này ở Sài Gòn. Chính họ cũng đã
mau chóng nhận rõ thực chất của Cộng Sản và kịp thời ra
đi trước khi cảng Hải Phòng đóng cửa tháng 3 năm 1955.
Những gia đình chuẩn bị di cư đem đồ đạc bày bán
dọc bờ hồ Thiền Quang làm thành một thứ chợ trời. Một
buổi sáng sớm khi những người đầu tiên đang lục tục khuân
đồ đạc đến chợ thì thấy có một lá cờ đỏ sao vàng treo trên
tàng cây cao chừng ba bốn mét. Một thanh niên nổi nóng
trèo lên giật lá cờ ném xuống đất.
Một trung tá người Pháp đi bộ ngang qua hung hăng
can thiệp, lớn tiếng đại ý nói đó là quốc kỳ của một nhà
nước, không được xúc phạm. Ông ta không ngờ những
người bán chợ trời đều không ưa lá cờ máu ấy. Thế là xô
xát xẩy ra, kết quả viên trung tá bị trọng thương vì gạch đá
gậy gộc cho đến lúc xe quân cảnh Pháp cấp cứu.
Tin tức về di cư được loan báo chính thức vào đầu
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 251
tháng 8. Nhiều nhà giầu đã đi vào Nam bằng phương tiện
riêng. Đại đa số còn lại đợi ghi danh di cư bằng phi cơ và
tàu biển. Trong nhóm chúng tôi từ Nam Định lên, phần đi
Khóa 5 Thủ Đức, số còn lại một phần tham gia đoàn cán bộ
xã hội được gửi vào Nam để phụ trách các trại tiếp cư do
Bộ Xã Hội thiết lập. Tôi ở trong số này. Buổi chiều ngày 11
tháng 8 năm 1954 bốn đứa bọn tôi đi bộ thăm tất cả các di
tích và thắng cảnh quanh Hà Nội lần cuối.
Phi trường Gia Lâm
Sáng sớm 12 tháng 8 khi qua cửa kiểm soát phi
trường Gia Lâm, một trung úy Nhảy Dù người Pháp hỏi
chuyện chúng tôi vì thấy 25 đứa trong đoàn cán bộ xã hội
toàn là thanh niên còn trẻ. Sau khi nghe chúng tôi nói rõ lập
trường và mục đích ra đi, ông ta nắm tay chúng tôi giọng
xúc động nói rằng, “Nước Pháp đã liên tiếp sai lầm để các
bạn chịu hậu quả đau đớn hôm nay.” Nói xong không ai
ngờ viên trung úy trẻ dưới 30 này bật khóc, nước mắt chảy
dài trên má.
Chúng tôi cũng cảm động tuy nhiên vẫn còn cầm
được nước mắt. Nhưng khi phi cơ lượn một vòng lấy cao
độ, tất cả đều ngó xuống. Giữa tấm thảm mây mưa xám xịt
che kín bên dưới phi cơ có một khoảng trống vuông vắn
Trang 252 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
hiện ra Hồ Gươm và 36 phố phường. Cảnh tượng tuy tầm
thường nhưng lại gây xúc động mạnh, khiến đứa nào cũng
rưng rưng nước mắt. Đây là lần chúng tôi vĩnh biệt Hà Nội.
Vĩnh biệt miền Bắc.
Sau những giờ bay dài phi cơ đến Tân Sơn Nhất,
cảnh những con rạch đỏ ngầu giữa hai hàng dừa xanh làm
chúng tôi tươi vui hơn. Được đưa về nhận việc tại trại Bệnh
Viện Bình Dân dưới quyền Bộ Xã Hội, ngày hôm sau
chúng tôi được phân phối đi các trại tiếp cư khắp Sài Gòn,
Chợ Lớn và Gia Định. Đợt đầu tiên đồng bào di cư bằng
cầu vận chuyển của chính phủ và các nước trợ giúp đã vào
Sài Gòn từ đầu tháng 8 năm 1954.
Nhờ vào dịp hè, các trường học vùng Sài Gòn, Chợ
Lớn, Gia Định được trưng dụng để đón nhận người di cư
đến bằng phi cơ quân và dân sự, các quân vận hạm Mỹ như
Marine Serpent và Marine Addler, các mẫu hạm Anh và
Pháp. Trại tiếp cư lớn nhất vùng Sài Gòn là trại Phú Thọ
Lều (sát trường đua Phú Thọ, gồm hàng trăm lều vải lớn
mỗi lều chứa bốn năm gia đình do quân đội Mỹ dựng. Gọi
là Phú Thọ Lều để phân biệt với trại Học Sinh Di Cư Phú
Thọ ở gần kế đó. Trại Phú Thọ Lều chứa trên 10 ngàn
người.
Trợ cấp tiền mặt một ngày cho mỗi người lớn 12
đồng, trẻ em 6 đồng, dư để ăn ba bữa tươm tất. Lúc ấy một
bát phở hay một tô hủ tiếu giá 3 đồng, một bữa cơm ở quán
ăn xã hội hai món canh và mặn giá 5 đồng. Chai bia 3 đồng
kể cả nước đá, một gói thuốc lá Ruby 8 đồng. Lương giáo
viên tiểu học khoảng hơn 4,000 đồng, lương trung sĩ 2,200
đồng, lương cán bộ ngang lương thấp là 1,500 đồng. Một
căn nhà gỗ lợp tôn 4×20 mét ở mặt đường khoảng chợ Hòa
Hưng giá chừng 30,000 đồng.
Đời sống trong các trại tiếp cư rất đa dạng. Sống
chật chội chung đụng và ồn ào, làm nảy sinh nhiều vui
buồn, đụng chạm, kết bạn, rã bạn, tạo ra những mối tình ái
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 253
lăng nhăng xấu tốt đủ cỡ đủ kiểu. Những cảnh âu yếm giao
tình nặng nhẹ bên bờ bụi gần trại trong đêm khuya vắng vẻ
của trai gái, vợ chồng đủ lứa tuổi, là những nét sinh hoạt rất
sống động có đủ vui, buồn, yêu, giận, phát khóc và nực
cười.
Từ tháng 8 năm 1954, mỗi ngày có trung bình hàng
ngàn người từ Hà Nội và Hải Phòng vào Sài Gòn bằng
đường hàng không và nhiều ngàn người mỗi tuần bằng tàu
chiến. Công việc định cư được tiến hành song song và khẩn
thiết. Phủ Tổng Ủy Di Cư lúc ấy đã thay thế bộ Xã Hội
trong nhiệm vụ chuyên biệt này.
Hình chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong một trại tạm cư với
hàng trăm căn lêu. Lúc đó, một trong những trại định cư lớn nhất ở
Saigon là trại Phú Thọ Lêu được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường
đưa Phú Thọ. Trại này có lúc đã chứa đến 10,000 người di cư. (HÌNH
ẢNH: VNCTLS sưu tầm).
Thời gian tạm cư kéo dài đến cuối năm 1954 và các
trường học được trả lại cho học sinh. Trại Phú Thọ Lều giải
tán. Người di cư theo nhau đi định cư khắp nơi, ở nhà tư
hoặc ở các trại định cư khắp các tỉnh. Tính đến chuyến tàu
Trang 254 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
sau cùng tháng 3 năm 1955 có khoảng 950,000 người từ
bắc Vĩ Tuyến 17 di cư vào Nam.
Nếu tính theo giấy tờ, con số này có thể lên tới hơn
1 triệu vì có sự gian lận sổ sách của một số viên chức cán
bộ lợi dụng thủ tục khai và lãnh tiền trợ cấp dễ dàng. Và
không phải 90% người di cư là tín đồ Công Giáo như nhiều
người nhận định. Số đồng bào Công Giáo di cư có lẽ chỉ
chiếm khoảng 70% tổng số.
Một điểm đáng ghi nhận là đáng lẽ số người di cư
còn cao hơn nữa nhưng vì vụ tướng Nguyễn Văn Hinh
chống ông Diệm và những cuộc giao tranh giữa quân chính
phủ và lực lượng Bình Xuyên đầu năm 1955 ở Sài Gòn nên
nhiều người Bắc không dám vào Nam. Tin tức về vụ này
làm một số rất nhiều người đã định ra đi nhưng vì e ngại
loạn lạc mà đổi ý.
Nói chung, sự xuất hiện của ông Ngô Đình Diệm và
thái độ can dự của người Mỹ đã gây được tin tưởng trong
một số đông đảo người miền Bắc khiến họ yên tâm vào
Nam. Đại đa số thành phần trí thức, chuyên viên cao cấp
như kỹ sư, bác sĩ, chuyên viên trung cấp, thợ giỏi, đã rời bỏ
đất Bắc khiến chính quyền ông Hồ Chí Minh gặp khó khăn
lớn trong mục tiêu xây dựng một đội ngũ chuyên viên kỹ
thuật mà họ cho là xương sống của nền kinh tế và khoa học
kỹ thuật Xã Hội Chủ Nghĩa.
Cuộc di cư năm 1954 tạo ra những thay đổi sâu
rộng trong lịch sử Việt Nam. Xin ghi lại một vài sự kiện
nổi bật xảy ra và những nét đặc biệt của cuộc di cư sau
Hiệp Định Genève 1954 điển hình tại vùng thủ đô Sài Gòn.
Trước hết phải nhìn nhận cuộc di cư đã giúp hàn
gắn những chia cách đáng buồn giữa hai miền trong nước.
Tình trạng chia rẽ do hậu quả của những năm dài dưới chế
độ thuộc địa Pháp đã tiêu tan mau chóng. Những dị biệt về
phong tục, ngôn ngữ vì ngăn cách, lâu ngày được san bằng
gần hết. Những ngăn cách và hiểu lầm còn lại không gây
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 255
hậu quả nào nghiêm trọng. Về mặt chính trị và xã hội, sau
nhiều biến chuyển và chiến tranh, cuộc di cư vĩ đại năm
1954 đã góp phần thay đổi bộ mặt bề ngoài cũng như nếp
sống của dân chúng đến chỗ tốt đẹp, phong phú hơn.
Trước tháng 10 năm 1954, chính quyền địa phương
còn gần y nguyên như thời Pháp Thuộc. Văn thư, giấy tờ,
tên công sở, phố xá còn dùng tiếng Pháp. Từ khi chính phủ
Ngô Đình Diệm nắm toàn quyền sau những âm mưu đảo
chánh bất thành, luật lệ được thi hành nghiêm chỉnh. Nhiều
cải cách hành chánh đã làm giảm hẳn nạn giấy tờ nhiêu
khê. Văn thư, giấy tờ đều bắt đầu dùng tiếng Việt. Xin Tư
Pháp Lý Lịch bây giờ chỉ mất một tuần thay vì đợi 3 tháng.
Xin chứng nhận bản sao đợi lấy ngay hay sau vài giờ thay
vì một tuần lễ. Các cuộc cải tổ mạnh mẽ được tiến hành có
kết quả tốt nhờ phần nào ở sự ủng hộ tích cực của đồng bào
di cư đối với chính phủ.
Cuộc đổi tiền Đông Dương thành tiền Việt Nam
năm 1955 trong 3 ngày không giới hạn số lượng là một đòn
bất ngờ vô hiệu hóa hàng tỷ bạc Đông Dương mà chính
quyền Hồ Chí Minh thu gom được ở miền Bắc vì họ không
kịp chuyển vào Nam để đổi lấy tiền miền Nam mới. Đợt
đổi tiền này cũng chấm dứt luôn thói quen tiêu dùng coi
nửa tờ giấy bạc 1 đồng như 5 cắc (hào). Khi cần xài hay trả
lại 5 cắc, chỉ cần xé đôi tờ giấy bạc một đồng. Đành rằng
tập tục này không áp dụng cho những giấy bạc mệnh giá
trên một đồng.
Lúc ấy ảnh hưởng tuyên truyền của Cộng Sản rất
mạnh ở nam phần ngay tại Sài Gòn. Nhiều người mở đài
Hà Nội công khai mà không ai bắt bớ. Nhiều người miền
Nam ít hiểu biết về thực tế Cộng Sản đã thật thà hỏi mấy
đồng bào di cư mới gặp gỡ rằng “Ngoài Bắc đã độc lập rồi,
mấy thầy cô dô đây làm chi?” Do đó đã xẩy ra một số đụng
chạm nhỏ trong tháng đầu. Dần dần đồng bào miền Nam
mới nhìn đồng bào di cư một cách có thiện cảm hơn.
Trang 256 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Trong bối cảnh ấy, lực lượng học sinh di cư đã dẫn
đầu cuộc biểu tình vào dịp 20 tháng 7 năm 1955 đòi tống
xuất các đoàn đại biểu của quân đội Cộng Sản từ Hà Nội
trú đóng tại hai khách sạn Majestic và Galliéni (đường Trần
Hưng Đạo). Khi bị khiêu khích, cuộc biểu tình biến thành
bạo động, gây thiệt hại nặng cho hai khách sạn nhưng
không có thương vong quan trọng. Những hành vi cương
quyết của quần chúng khiến bọn thân Cộng Sản không còn
nhởn nhơ tuyên truyền bán công khai như trước.
Người di cư tiếp xúc, trao đổi với dân chúng địa
phương mau chóng tạo ra những hiểu biết và thông cảm.
Về kinh tế thương mại, người Bắc vào Nam đã mở mang
thương trường, ra các cửa hàng nhất là hàng ăn. Năm 1954
hầu hết cửa tiệm ăn do người Hoa kinh doanh, và họ dành
độc quyền ngành lúa gạo cũng như các sạp thịt ở mọi chợ.
Đời sống dễ dàng ở miền Nam khiến người Việt ít muốn
cạnh tranh, ngay như ngành công chức cũng không hấp dẫn
nhiều người. Bà con lao động xích lô kiếm đủ tiền tiêu
trong ngày nhiều khi đẩy xe lên lề dưới bóng cây làm một
giấc, khách gọi mấy cũng từ chối. Cách biệt giầu nghèo ở
Nam Việt lúc ấy rất ít.
Các tầng lớp dân di cư cần cù chịu đựng tham gia
thị trường lao động đã làm cho đời sống kinh tế miền Nam
lên cao nhưng lại buộc mọi người phải làm ăn chăm chỉ
hơn. Một số người địa phương không hài lòng vì nếp sống
thong thả lè phè cũ đã mất đi không còn trở lại.
Trang phục phụ nữ hai miền khác nhau, nổi rõ nhất
là giới nữ sinh trung học tuổi đôi tám. Nữ sinh Hà Nội làm
dáng sớm hơn, quần hẹp, áo dài nở vòng số một. Nữ sinh
Sài Gòn vận quần trắng rộng, áo bà ba trắng nhiều hơn áo
dài được may vòng số 1 tương đối phẳng phiu có lẽ vì đó là
cách tỏ ra là con nhà nghiêm túc. Sau hơn một năm các cô
hai miền tự nhiên hòa hợp cách ăn mặc, bọn thanh niên
sinh viên học sinh chúng tôi không còn phân biệt được gốc
gác các cô qua y phục nữa. Điều quan trọng và dễ thương
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 257
hơn hết là những câu chuyện tình Bắc duyên Nam đã nhiều
khi hóa giải rất nhiều cho những mâu thuẫn văn hóa chính
trị.
Các trường phía Bắc di chuyển vào Sài Gòn giữ gần
y nguyên ban giám hiệu và tổ chức riêng. Từ Hà Nội vào,
Chu Văn An tiếp tục tại cơ sở cạnh Petrus Ký. Trưng
Vương học chung cơ sở nhưng khác giờ với Gia Long…
sau hai ba năm mới ra học ở các cơ sở riêng trước Thảo
Cầm Viên. Mấy năm sau nữa thì học sinh gốc hai miền dần
dần pha trộn.
Chuyện đáng nhớ là năm 1955 học sinh Bắc vào
Nam và các bạn gốc miền Nam mở chiến dịch phá bỏ tên
đường tiếng Pháp. Nhờ đó mà việc đặt tên đường mới, vốn
là việc mất nhiều công sức, đã được Tòa Đô Chánh Sài
Gòn thực hiện trong vòng khoảng một tháng.
Về mặt văn hóa và báo chí, các nhà văn, nhà thơ,
nhà báo từ Bắc vào Nam đã hòa hợp với đồng nghiệp miền
Nam tạo ra sinh khí mới, lối viết và văn phong, sắc thái
trong sáng, có sức truyền đạt hơn. Sau một thời gian ngắn
người đọc chỉ có thể nhận thấy một số khác biệt ít ỏi giữa
bài vở sách báo do các tác giả gốc từ các miền khác nhau
viết ra.
Đặc biệt là về tân nhạc, lớp nhạc sĩ và ca sĩ cũng
như những người yêu nhạc từ miền Bắc vào Nam đã lôi
cuốn được phong trào âm nhạc mới phát triển mạnh để tiến
đến tới cao điểm nghệ thuật ca nhạc trong các thập niên
sau. Và ngược lại số người Bắc di cư hâm mộ ca nhạc kịch
cải lương cũng gia tăng nhiều.
Về mặt ăn chơi, sự thay đổi rõ rệt hơn. Sòng bạc
Kim Chung, Đại Thế Giới, khu mại dâm Bình Khang bị
đóng cửa đầu năm 1955. Giữa năm 1954 cả Sài Gòn hình
như chỉ có 2 hay 3 tiệm phở Bắc. Chỉ sau vài tháng số tiệm
phở tăng đến hàng chục. Các quán cà phê cũng lục tục ra
đời cùng với các ngành buôn bán khác. Các xuất gọi là phụ
Trang 258 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
diễn tân nhạc trước khi chiếu phim chính ra đời dần dần
tiến đến những buổi trình diễn âm nhạc chuyên nghiệp gọi
là “nhạc hội” giúp vào việc phổ biến âm nhạc sâu rộng hơn.
Trước đó hoạt động âm nhạc chỉ được biết qua các chương
trình ca nhạc và các cuộc thi hát, tuyển lựa ca sĩ của các đài
phát thanh quốc gia, đài quân đội và đài Pháp Á cùng hai
đài Huế và Hà Nội.
Ngôn ngữ hai miền sau cuộc di cư cũng thay đổi và
pha trộn về từ ngữ tuy vẫn giữ những nét độc đáo của từng
vùng mà không lai giọng. Điểm đáng lưu ý là sau nhiều
năm gia đình gốc gác miền Bắc di cư có con cái đứa thì nói
giọng địa phương (Nam hay Trung), đứa thì nói giọng Bắc,
đứa thì nói cả hai ba giọng tùy theo môi trưởng xóm giềng
và trường học. Nhưng không mấy ai nói lẫn lộn cùng một
lúc các giọng khác nhau.
Về mặt đời sống xã hội, người di cư dần dần và
chậm chạp chịu ảnh hưởng bởi lối sống phóng khoáng,
chân thật, thẳng thắn của dân miền Nam. Sau một thế hệ,
tính nết người Bắc di cư khác hẳn tính nết của đồng hương
của họ còn ở lại quê nhà. Đến sau 30 tháng 4 năm 1975
người ta càng thấy điều này rõ rệt hơn khi gặp đợt Bắc Kỳ
mới vào Nam.
Trong đời sống tinh thần, có hai sự kiện đáng nhớ
trong thời gian ấy. Một là trước ngày Việt Minh tiếp thu Hà
Nội thì chùa Một Cột, di tích quý báu nhất của Việt Nam bị
kẻ vô danh phá bằng chất nổ. Rất may chùa chỉ hư hại một
góc. Nghe tin ấy chúng tôi đều hết sức buồn phiền. Hai là
giữa lúc nhịp độ di cư đang lên cao thì Hoàng Dương, em
nhạc sĩ Hoàng Trọng cho ra đời ca khúc Hướng Về Hà Nội
với lời ca tha thiết “Hà Nội ơi, hướng vê thành phố xa xôi…
mái trường phượng vĩ dâng hoa, dáng chiêu ủ bóng tiên
nga… biết đâu ngày ấy anh vê.” Ca khúc này khiến lứa tuổi
18, 19 chúng tôi cảm thấy rõ điều mà các văn thi nhạc sĩ
gọi là “tan nát cõi lòng.”
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 259
Dĩ nhiên trong ngót một triệu người Bắc di cư có đủ
mọi thành phần tốt xấu kể cả đầu trộm đuôi cướp, quan lại
tham nhũng, trọc phú bất lương, tay sai thực dân và nội
tuyến Cộng Sản. Nhưng so với số các phần tử tinh hoa của
xã hội, số người yêu nước, chuyên viên giỏi các loại, các
nhân sĩ, trí thức, chiến sĩ quốc gia chân chính, thì những
phần tử xấu xa nói trên chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bé.
Một số người cho rằng người miền Bắc di cư đã là
chứng nhân lịch sử khiến đồng bào miền Nam hiểu rõ bản
chất của chế độ Cộng Sản. Điều đó có thể đúng một phần
nhỏ. Phần quan trọng hơn là chính vì thực tế những đường
lối mà Cộng Sản thi hành tại miền Nam tại nông thôn từ
khoảng năm 1961 trở đi. Từ đó họ đã thấy rằng chế độ
Cộng Sản đi ngược lại quyền lợi và sự an hòa của nhân dân
ta nhất là giai cấp nghèo khổ ở nông thôn.
Tôi và các bạn cùng lứa tuổi di cư vào ở miền Nam
gần 40 năm tính đến năm 1990 qua di trú sang Hoa Kỳ.
Tuy sinh ra trên đất Bắc nhưng chỉ ở Bắc dưới 20 năm,
trong đó mới biết chuyện đời được dăm ba năm. Vì thế
chúng tôi có hai miền quê quán. Quê quán thứ nhất ở miền
Bắc còn ở trong tim nhiều hơn. Quê quán thứ hai ở miền
Nam sau ngày di cư năm 1954 mới thực sự chứa đựng
nhiều vui buồn, yêu thương, giận dỗi, vinh quang và tủi
nhục vì trải qua quãng đường đời dài 40 năm với biết bao
nhiêu là kỷ niệm./
Lữ Tuấn
Trang 260 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
THÁNG TƯ
Tháng tư u uất trên không
Tiếng còi tàu đã bỏ sông bỏ nguồn
Bơ vơ thành phố không hồn
Còn ai trông ngóng bãi cồn bờ kênh
Trời cao trời cũng mông mênh
Đất sao lỡ bước chênh vênh bến bờ
Người vong quốc, kẻ rợ Hồ
Biết đâu ngày tháng đợi chờ ta đây
Thà như chiến lũy phơi thây
Thà như tội nghiệt đọa đầy nhân gian
Thà như máu cạn xương tan
Than ôi tử sĩ chết oan một ngày
Tàu đi buông tiếng bi ai
Nỗi đau xé thịt một đời sinh ly
Phố phường lặng lẽ li b ì
Nghe cơn đại nạn ấm ì ngoài xa
Bánh xe xích sắt nghiến da
Mặt trời bỗng tối, mắt nhòa bóng đêm
Bên đường quân phục không tên
Ai người lính chiến, ai quên binh đoàn
Tháng tư mơ giấc hoàng lan
Tàu về trong ánh hào quang mặt trờ i
Cờ treo, nhạc nổi, hoa mời
Bao nhiêu lễ hội đón người phương xa
Nguyễn Vũ Văn (CVA59)
Tháng 4/2017
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 261
BẢO TÀNG
Tới đỉnh gió gọi hồn lịch sử
Cuồn cuộn mây tử sĩ xôn xao
Công thần hiển hách riêng một cõi
Còn ai thoi thóp dưới chiến hào
Áo mũ vua ban cờ đại tướng
Bia đá ghi ơn phò bạo quân
Ta nghe kèn trận như điên đảo
Tiếng hò kéo pháo ríu đôi chân
Bom đạn kinh hoàng trời đất rống
Xác chết chồng người vẫn thiêu thân
Quân lệnh như sơn mạng như rác
Dựng cờ vang dội võ tướng quân
Bạo chúa lên ngôi thời mạt trị
Trắng tay bá tính biết lầm than
Nhìn lên ngoảnh mặt về phương bắc
Nhìn xuống nô dân một lũ câm
Công thần thất sủng, ôi danh tướng
Người đã khuất rồi có hối không
Tử sĩ chết oan nay hội ngộ
Có ai đòi mạng cướp linh hồn ?
Trở lui ngoài cửa đầu như đá
Gió ù lên hồn lại sơ sinh
Trên cao trời vẫn xanh trong ngắt
Bỗng nhả ra mấy giọt phân chim
Nguyễn Vũ Văn
CVA59
Trang 262 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Người Hà Nội,
người Sàigòn
Ban Biên Tập, sưu tầm
Sàigòn trước năm 1975 có là Hòn Ngọc không?
Điều này còn tùy người.
Dân Sàigòn, trước năm 1975, hãnh diện về thành
phố của mình, dù nhiều người vẫn thấy Sàigòn đã có thể
chưa bằng Seoul, Singapore, Bangkok. Có người, với góc
nhìn nào đó, thấy Phnom Penh, Vientiane đẹp hơn. Có
người so sánh với các địa phương khác trong nước, thích
Huế, thích Dalat, thích Hà Nội hơn, nhưng đối với người
Sàigòn thì thành phố của họ vẫn là viên ngọc họ yêu
thương. Viên ngọc Sàigòn trong mắt họ và yêu thương
trong tim họ khác với con mắt và tình cảm yêu thích của
các tay thực dân ngồi salon từ thủ đô ánh sáng Paris nhìn
sang, tấm tắc khen công trình kiến tạo ở xứ Viễn Đông của
mình.
Sàigòn đẹp, nhưng Hà Nội có thua gì? Sàigòn làm
sao có được những hồ nước trong veo, mát rượi, thơ mộng
như Hà Nội? Sàigòn sao có được các công trình kiến trúc
lich sử như Văn miều, Trấn Quốc, Hồ Gươm, đền Ngọc
Sơn? Và nhất là Sàigòn thời trước 1954, không quy tụ được
nhiều tao nhân, mặc khách, văn nhân, thi sĩ như Hà Nội.
Người Hà Nội khác người Sàigòn. Người Hà Nội có
vẻ từ tốn, lịch lãm, tao nhã, tế nhị và khách sáo. Tế nhị và
khách sáo đến mức làm người Sàigòn khó chịu.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 263
Thiếu nữ Sài Gòn
Lếch thếch chạy vào Nam, bỏ lại gia tài, sản nghiệp,
xuống tàu di cư nhận 800 đồng mỗi người khi bước xuống
đất Sàigòn, người di cư Hà Nội nhíu mày, tròn xoe mắt với
cách sống của dân địa phương. Người “Sè-gòng” trần trùng
trục, thân dưới chỉ cuốn chiếc sà rông, co giò trên ghế, đổ
cà phê loại pha bằng vợt, cà phê “dớ”, ra dĩa, húp xì xụp.
Họ xé toạc đồng bạc đề trả hay “thối lại” 5 cắc. Tệ hại hơn
nữa là đi đâu cũng nghe chửi thề.
Dân Bắc đi chợ có thói quen mặc cả, trả giá kỳ kèo
thêm bớt một hai luôn làm người bán hàng Nam kỳ khó
chịu, có khi không bán hàng cho. Lần đầu tiên mua trái cây,
người Hà Nội ngỡ ngàng, ngạc nhiên thú vị khi hỏi mua
một chục, nhận được 12 trái, có khi 14, 16 thậm chí đến 20
trái.
Cách cư xử thoải mái, bình đẳng của người Sàigòn
với mọi người cũng làm dân Hà Nội lấy làm lạ. Anh xích lô
đạp, xich lô máy hay anh chạy xe ngựa cũng không khúm
múm, không ông-con, bà-cháu với khách. Anh sống vất vả
hơn, nghèo túng hơn anh công, tư chức nhưng thoải mái
không thua gì. Sáng cà phê, bánh mì, hủ tíu, xíu mại, trưa
Trang 264 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
kéo xe nằm dưới gốc cây làm một giấc no mắt, tối dẫn cả
nhà đi coi cải lương. Gầm cầu có thể là chỗ ngủ của cả nhà.
Anh ta có thể nói dóc chứ không nói xạo, không xảo trá.
Người Hà Nội di cư coi thường dân Sè-gòng nói
ngọng, dân Sàigòn không tinh tế nhận ra điều đó, họ thản
nhiên chấp nhận chia sẻ việc làm với hàng chục ngàn người
nhập cư, chỉ thỉnh thoảng nhướng mắt hỏi: “Hòa bình rồi,
sao không ở lại Bắc kỳ, zô Ziệc-Nam đây chi zậy?”
Người ta phân biệt dân Bắc kỳ cao su, dân Bắc kỳ
54. “Bắc kỳ cao su” nghèo mạt rệp, theo Tây mộ phu vào
dồn điền cạo mủ. Dân “Bắc kỳ 54” phải gân cổ cắt nghĩa
mãi người ta mới hiểu được tại sao cả triệu người phải bỏ
quê hương vào Nam, tha hương cầu thực, và cho đến ngày
được “giải phóng”, tất cả người miền Nam mới thật sự
đồng cảm và cùng khóc với dân 54.
Từ thập niên 70, chiến tranh lan rộng, Sàigòn có khi
bị pháo kích bằng hỏa tiễn, đêm nghe đại bác, nhìn hỏa
châu, dù phải nhận hàng trăm ngàn dân quê trốn chiến tranh
ồ ạt đổ về thủ đô giành việc làm, người Sàigòn vẫn thoải
mái bao dung. Nhà ổ chuột bắt đầu dựng cẳng cừ tràm trên
kênh Tàu Hủ, kênh Nhiêu Lộc, trên bãi rác. Bên cạnh các
cuộc biểu tình của nhiều thành phần chống chính phủ,
người Sàigòn vẫn thoải mái: Sáng ăn cơm sườn, chiêu ăn
nước tương, tối chun vô mùng nằm nghe cải lương. Câu hát
chơi, nhưng gần đúng với người Nam Bộ thời đó.
Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm
Dưới 9 năm cai trị của một ông tổng thống mà
người ta gọi là độc tài, Ngô Đình Diệm, nguyên bộ trưởng
bộ lại thời Bảo Đại phong kiến, cả miền Nam, không riêng
gì Sàigòn, đã thay đổi. Bệnh viện, nhà cứu tế, viện dưỡng
lão, quán cơm cho sinh viên nghèo, cho người lao động chỗ
nào cũng có. Ông Ngô Đình Diệm rất chú trọng đến giáo
dục. Trường học từ mẫu giáo, tiểu, trung học đến đại học
được xây dựng. Ngoài các lớp xoá nạn mù chữ, các lớp dậy
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 265
văn hóa ban đêm, còn có các trường dạy nghề, dạy ngoại
ngữ. Nghề giáo được coi trọng, lương giáo viên trung, tiểu
học đủ nuôi vợ, nuôi con. Quân nhân, công chức được
khuyến khích, được tạo điều kiện dễ dàng đi học thêm,
nhiều sĩ quan được ông Diệm cho giải ngũ, cho học bổng
du học. Tư lệnh không quân, Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh
nằm trong trường hợp này. Trong các trường đại học, sinh
viên trẻ ngồi cạnh các công chức, sĩ quan già như Thiếu
tướng Nguyễn Đức Thắng. Sáng, chiều đường phố Sàigòn
ngập áo trắng học sinh. Hồi đó đồng phục nam sinh, chỉ áo
sơ mi trắng, quần kaki xanh, nữ sinh áo dài trắng, các
trường tư không bắt bận đồng phục, trừ hầu hết các trường
thuộc các dòng tu công giáo, nữ sinh thường mặc robe.
Sài Gòn xưa
Trung tâm Sàigòn không thay đổi mấy, hình như chỉ
có năm bảy dinh cơ làm mới, làm lớn ra: Dinh Độc lập, vì
bị ném bom, rạp cinéma Rex, khu thư viện Hoa Kỳ bên
cạnh đó và nhà hàng Caravelle là đáng để ý. Đường Duy
Tân cây dài bóng mát, đướng tản bộ của các cặp sinh viên
Trang 266 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
luật, Cường Để, Tú Xương và nhiều đường khác vẫn như
thời xa xưa, yên bình, thơ mộng, lãng mạn và quý phái.
Vùng xa trung tâm thành phố, khu Minh Mạng, Vườn Soài,
Lăng Cha Cả, Xóm Mới bắt đầu đông dân, nhà cửa khang
trang nhờ dân di cư.
Tội phạm ít, diện tích trên các trang báo dành cho
tòa án, tội phạm rất nhỏ, thậm chí xe cán chó cũng là tin.
Đáng chú ý và rầm rộ nhất là tin vũ nữ Cẩm Nhung bị vợ
Trung tá Thức tạt axit đánh ghen. Vụ này khiến ông quan
năm bị ngài “tông tông” Diệm nóng mặt cách tuột chức
tước. Các băng đảng cũng có nhưng họ không “bẩn” như
ngày nay. Các vụ giết người lại càng ít xảy ra. Phải nói
thêm là dù có bất cứ tội phạm loại nào xảy ra, nội vụ được
loan tin, không bao giờ báo chí có câu kết luận theo kiểu
chỉ đạo mà các báo chí miền Bắc phải viết: “Đấy là tàn dư
của chế độ cũ”. Câu đổ tội vu khống rẻ tiền này theo vào
Nam sau năm 75 làm dân Nam kỳ nóng mặt chửi thề. Đến
khoảng năm 80, cái câu tuyên truyền ngốc nghếch, bẩn thỉu
học theo cách dậy bảo của trùm tuyên truyền Đức quốc xã
Joseph Goebbels này mới chấm dứt.
Người Sàigòn hầu hết đều thật thà và đáng tin cậy,
họ thích huỵch toẹt mọi chuyện, ít để bụng nhưng cũng dễ
“nổi khùng”. Họ cũng thường không đua đòi, khoe khoang.
Quý bà, quý cô phần lớn đều vui vẻ, nền nếp, kín đáo. Ăn
nói dù không có duyên, không đằm thắm, quyến rũ lắm
nhưng thẳng thắn và thành thật, nhất là không chua chát, xỏ
xiên.
Những nhu cầu căn bản về ăn uống, quần áo, thuốc
men, tiền thuê nhà dễ chịu cho tất cả mọi thành
phần. Lương một công chức hạng thấp, một người lính, có
thể nuôi cả gia đình, giáo viên có đời sống sung túc và
được xã hội kính trọng như từng lớp trí thức. Có vài nơi
cung cấp cơm trưa cho sinh viên học sinh, miễn phí, nhưng
không được lâu.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 267
Kiến trúc nhà ở đẹp mắt, đa dạng, rộng rãi không
bắt chước lẫn nhau như kiểu nhà nào cũng tháp nhọn chọc
lên trời biểu hiện tính khoe khoang, thiển cận, trọc phú.
Phương tiện giao thông vận tải không tuyệt vời như
Đài Loan, nhưng đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu đi lại của
người dân. Ngoài hệ thống xe buýt rẻ tiền đến các nơi, các
khu dân cư đông đúc, xa trung tâm thành phố, còn có xe
taxi, xích lô. Trước xích lô máy khá nhiều, sau không hiểu
sao dần vắng bóng, sau này thêm xe Lam. Có điều thú vị là
sĩ quan mặc quân phục không được ngồi xích lô hay đi xe
Lam. Nói chung, dù với người không có xe, việc di chuyển
đi lại không bị hạn chế.
Các bệnh viện công khá nhiều. Có thời nhà thương
công được gọi là nhà thương thí, dù thí nhưng bệnh nhân
được chăm sóc ân cần. Rất nhiều nữ tu Công giáo lo việc
chăm sóc cho bệnh nhân nghèo, ngay cả người cùi, hủi.
Bệnh viện Bình Dân trên đường Phan Thanh Giản, bệnh
viện Sài-Gòn trên đường Lê Lợi, bệnh Viện Gia Định trên
đường Nguyễn Văn Học đều là nhà thương công. Bệnh
viện Bình Dân nổi tiếng hơn vì nhiều sinh viên thực tập và
các giáo sư dạy ở đây. Không có cảnh ghép đôi, ghép ba,
ăn tiền, hạch sách bệnh nhân. Bệnh viện Vì-Dân được bà
TT Thiệu xin tiền từ thiện xây, có hai phần, phần phải trả
viện phí, phần miễn phí dành cho thân nhân quân nhân.
Kinh phí cho phần miễn phí lấy từ nguồn thu của bên phải
trả tiền.
Sàigòn thường có các cuộc triển lãm nghệ
thuật. Các ban nhạc quân đội thay nhau biểu diễn cuối tuần
trước trụ sở quốc hội, sau này là Hạ nghị Viện, hay tại bờ
sông, trước bộ tư lệnh Hải Quân. Nhiều cuộc hội thảo về
văn chương, đọc sách thú vị. Thị trường sách đa dạng,
phong phú, nhiều ngôn ngữ. Ngoài các nhà sách lớn như
Xuân Thu, Khai Trí còn có rất nhiều quầy sách, báo, tạp chí
trên đường Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Huệ. Đó cũng là những
điểm cho đám sinh viên, học sinh đến “xem cọp” những ấn
Trang 268 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
phẩm mới nhất, nhiều khi đứng đến cả giờ để ghi ghi, chép
chép. Nói đến “xem sách cọp” nhớ đến “học cọp”. Sài gòn
xưa có nhiều điểm học luyên thi, thi tú tài 1, 2. Đông học
sinh lắm, nhưng đám học cọp cũng không ít, họ vào lớp,
thấy bóng giám thị đến là dọt ra. Các thày biết ai học cọp
cũng kệ, việc đó của thày giám thị.
Các hoạt động chính trị rất phong phú, nhiều đảng
phái, nhiều nhóm như nhóm Caravelle, nhiều chính khách
salon. Các cuộc biểu tình có lúc diễn ra như cơm bữa. Sinh
viên, học sinh biểu tình xong quay về trường học, có sức
lần sau đi nữa. Đậu học tiếp, rớt đi lính rán chịu, không ai
cản trở tự do của họ.
Đám tang đi qua, xe cộ đều tránh, người đi đường
ngả mũ, cúi đầu chào vĩnh biệt. Đó cũng đánh giá được
trình độ văn hóa của người Sàigòn.
Luật pháp và chính phủ còn một số bất cập, nhưng
được đánh giá là cố gắng đem lại một nền dân chủ pháp
quyền cho dân và cố gắng làm cho đời sống người dân khá
hơn. Cảnh sát dù không được dân ưa, nhưng không đến nỗi
bị khinh ghét.
Người Hà Nội, người Sài Gòn ngày xưa như thế.
Không ai hổ thẹn, mà trái lại còn hãnh diện khi được
gọi là người Hà Nội hay người Sài Gòn. Ngày nay, nói
tới người Sài Gòn còn đỡ chứ nói tới người Hà Nội thì
thật là một điều sỉ nhục cho những người miền Bắc vì
người ta thường gọi là người Hà Lội chứ không phải là
người Hà Nội.
Ban Biên Tập, sưu tầm
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 269
HÀ THÀNH THANH LỊCH,
NAY CÒN ĐÂU ?
*Phải biết bao năm, mới xây dựng được một nên văn hóa ?
Đoan Nghi
Thiếu Nữ Hà Thành 1930
“Vì lợi ích 10 năm, trồng cây. Vì lợi ích 100 năm,
trồng người” Và chỉ sau thời gian ngắn, với chính sách
trồng người này đã phá nát nền văn hóa Hà Thành thanh
lịch như thế nào ?
Nền văn hóa thanh lịch của Hà Nội, được hình
thành, phát triển, và củng cố từ mấy trăm năm, qua bao
nhiêu thế hệ tiếp nối nhau, vẫn phát huy rực rỡ dưới 80
Trang 270 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
năm đô hộ của thực dân Pháp , nhưng lại bị yểu tử dưới bàn
tay của những người Cộng Sản …
Hơn nửa thế kỷ trước, Hà Nội được mệnh danh là
đất “ngàn năm văn vật”, nơi đã trải qua “4,000 năm văn
hiến”. Hà Nội được xưng tụng là “Hà Thành thanh lịch”,
đào tạo ra những “trai thanh, gái lịch”. Các“nam thanh, nữ
tú” đã làm Hà Nội hãnh diện bằng 2 câu thơ:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.
Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng An
Hà Nội xa xưa, chỉ là một thành phố xinh xắn,hiền
hòa, với 36 phố phường và 5 cửa ô. Phố xá Hà Nội ngắn,
gọn, và sạch sẽ, nhà cửa khang trang. Người Hà Nội hầu
như quen biết nhau gần hết. Họ chung sống hài hòa, và đối
xử với nhau lịch sự tới độ khách sáo. Khoảng cách giữa
giàu và nghèo không chênh lệch là mấy.
Hà Nội còn nổi tiếng về các vùng phụ cận như làng
Nhật Tân ven Sông Hồng, nhờ thổ nhưỡng đặc biệt đã
trồng được loại hoa đào đẹp nhất miền Bắc. Hoa đào Nhật
Tân, sắc hồng thắm rực rỡ, cánh kép lâu tàn, nụ hoa chi chít
trên cành. Ngày mùng một Tết, đào Nhật Tân nở rộ, những
bông hoa tươi thắm còn ngậm sương mai, xen lẫn với các
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 271
nụ hoa chúm chím, và lất phất những cánh lá non mươn
mướt trên cành, trông đẹp vô tả. Theo dòng lịch sử, ngày
mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi vừa chiến thắng trận
Đống Đa, vua Quang Trung vào thành Thăng Long, và đã
tới ngay làng Nhật Tân để chọn một cành đào đẹp nhất, gửi
về tặng Bắc Cung Hoàng Hậu, là công chúa Ngọc Hân.
Hà Nội còn nổi danh với khu Khâm Thiên, nơi giải
trí của các bậc thức giả phong lưu. Họ đã ngẫu hứng sáng
tác ra những bài ca trù, cho các ả đào ngâm nga bên khay
rượu. Giọng ngâm thơ, xen lẫn với tiếng trống chầu
thưởng, phạt, khen, chê đã nâng cao trình độ nghệ thuật của
một thú ăn chơi nửa thanh nửa tục. Nhiều bài hát ả đào đã
nổi danh, được lưu truyền trong văn học, và làm phong phú
thêm cho nền văn hóa Việt Nam.
Hà Nội mang nhiều dấu ấn lịch sử, trải qua nhiều
triều đại. Năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư,
ra thành Đại La, đột nhiên thấy trên trời hiện ra đám mây
mang hình dáng một con rồng đang bay lượn. Vua cho đó
là điềm lành, nên đổi tên ra Thăng Long thành. Rồi tới đời
vua Minh Mạng, năm 1831, lại đổi tên từ Thăng Long ra
Hà Nội.
Hồ Hoàn Kiếm
Trang 272 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Hồ Hoàn Kiếm, một danh lam thắng cảnh ở trung
tâm Hà Nội, ghi lại huyền thoại vua Lê Thái Tổ du ngoạn
trên hồ, khi vừa đại thắng quân Minh, năm 1428. Một con
rùa vàng trồi lên mặt nước, đòi lại thanh bảo kiếm, đã cho
nhà vua mượn diệt giặc. Nhận được thanh kiếm, rùa bèn
ngậm vào miệng, và lặn xuống đáy hồ. Vua Lê Thái Tổ bèn
đặt tên cho hồ, là Hồ Hoàn Kiếm.
Thăng Long thành còn ghi lại chiến tích oai hùng
của trận Đống Đa, khi vua Quang Trung đại phá quân
Thanh vào ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu, 1789, khiến Thái
Thú Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự vận, và tướng giặc Tôn
Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín, tháo chạy về Tàu.
Đất Hà Thành là đất địa linh nhân kiệt. Người Hà
Thành tao nhã, lịch sự từ lời ăn tiếng nói, tới cách phục
sức, và giao tế.
Cái văn hóa của người Hà Nội xa xưa, là hình ảnh
của những người đàn ông phong lưu, lịch lãm, tề chỉnh mỗi
khi bước ra khỏi cửa, là các bà nội trợ nề nếp, đảm đang,
khăn nhung, áo lụa, khoe tài nữ công gia chánh qua những
mâm cỗ thịnh soạn vào các ngày giỗ, ngày Tết, là các cô
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 273
thiếu nữ duyên dáng, e ấp trong tà áo nhung, tấm khăn
quàng, lên chùa lễ Phật buổi đầu năm. Người Hà Nội, khi
vui không sôi nổi, ồn ào, khi bất bình, giận dữ, biết kiềm
chế lời ăn tiếng nói, để tránh xung đột.
Cái thanh lịch của người Hà Nội không phải chỉ tập
tành trong một sớm một chiều mà có được. Cái phong thái
đó, phải có săn trong nếp nhà, từ trước khi đứa trẻ sinh ra
đời, để rồi khi lớn lên, đứa trẻ cứ rập khuôn theo cái nếp có
săn, mà học theo cách cư sử, phép giao tế, lời ăn tiếng nói,
nếp sinh hoạt của những bậc trưởng thượng. Thêm vào đó,
là sự theo dõi, uốn nắn, dạy dỗ của các bậc phụ huynh, để
rồi khi tới tuổi trưởng thành, người con trai trở nên một
thanh niên phong lưu, lịch lãm, mạnh dạn bước vào đời, và
người con gái trở thành một thiếu nữ đức hạnh, đảm đang,
có khả năng quán xuyến một gia đình mới.
Có người nhận xét, người Hà Nội khéo ăn khéo nói,
nhưng không thực lòng, xử sự mềm mỏng nhưng thiếu
chân tình, lịch sự, nhã nhặn nhưng ngầm kiểu cách. Có
người còn nói, người Hà Nội coi trọng thể diện, giữ gìn mặt
mũi, và sợ dư luận, nên họ sống cho người ngoài, nhiều
hơn cho chính họ.
Những nhận xét đó, không phải là sai. Ngày tôi còn
nhỏ, mẹ tôi thường nhắc nhở: “Ở trong nhà thiếu thốn, thì
cũng chỉ có mình biết, nhưng bước ra ngoài, mà xử sự hẹp
hòi, thì sẽ bị thiên hạ chê cười, làng nước đàm tiếu.” Bởi
vậy, các khoản chi tiêu về giao tế như hiếu, hỷ, hay mọi
đóng góp, mẹ tôi đều rất hào phóng. Để bù lại, bà thẳng tay
cắt xén những khoản chi tiêu trong gia đình, kể cả khoản
tiền chợ mỗi ngày. Mẹ tôi còn kể cho tôi nghe rằng ngày bà
còn trẻ, trước khi đi ăn giỗ, ăn cưới, bà đều bị bà ngoại tôi
ép ăn cơm trước ở nhà, để khi tới nơi, không vì đói mà ăn
uống thô tục. Con gái của gia đình lễ giáo là phải … khảnh
ăn, thanh cao, và đài các.
Tôi đã từng theo mẹ tôi đi tham dự các buổi họp
Trang 274 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
mặt với bạn bè của bà. Vừa ăn xong, là các bà tranh nhau
trả tiền, để chứng tỏ rằng mình là người lịch sự, hào phóng,
nhưng khi về nhà, thì lại ngồi tiếc tiền. Có lần tôi nghe bà
bạn hỏi ý kiến mẹ tôi về cái áo choàng của chồng bà vừa
mua tặng từ Hồng Kong. Mẹ tôi hết lời khen ngợi, nhưng
khi bà khách vừa ra về, thì mẹ tôi lại nói với ba tôi là cái áo
màu mè, coi thiếu thẩm mỹ. Tôi thắc mắc về thái độ này,
thì mẹ tôi giải thích rằng: “chiếc áo đã lỡ mua rồi, không
thay đổi được, thì can chi làm buồn lòng người khác !”.
Ngày còn nhỏ, tôi cứ phân vân, không biết những
thái độ này là đúng hay sai, nhưng từ khi biết suy nghĩ, tôi
lại thấy, có lẽ những cách xử thế này, đã góp phần không
nhỏ trong việc kiến tạo cái xã hội thanh lịch của người Hà
thành. Vì họ luôn muốn vui lòng người khác, trọng “thể
diện”, và sợ tai tiếng, nên họ thận trọng từ lời ăn, tiếng nói,
tới cách thức giao tế, và dạy dỗ con cái. Thà là bản thân và
gia đình chịu o ép, thiệt thòi, chứ không để cho thiên hạ dị
nghị, chê cười. Đó là những người Hà Nội của hơn nửa thế
kỷ trước.
Người xưa nói, “cùng một giống quýt, trồng ở
Giang Nam thì ngọt, nhưng trồng ở Giang Bắc thì
chua”. Như vậy, môi trường đã đóng góp không nhỏ vào
việc hình thành phẩm chất của cây trái.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 275
Con người cũng vậy. Bản chất con người cũng thay
đổi theo hoàn cảnh và môi trường sống. Sau khi đất nước bị
chia đôi năm 1954, miền Bắc được giao cho CS, thì từ cảnh
quang, tới con người Hà Nội, đều mau chóng….bị phá sản.
Nếp sống lễ giáo, gia phong của người Hà Nội, bị CS lên
án là “phong kiến”, “tiểu tư sản”, và hô hào từ bỏ, để học
theo “nếp sống mới” khai thác sức lao động của con người.
Nông trường và công trường được thành lập để mọi
người tham gia lao động tập thể. Tà áo dài duyên dáng,
thướt tha, được thay thế bằng quần đen, áo ngắn, vừa gọn
gàng, vừa đỡ tốn vải. Có lao động mới được nhà nước bán
cho 15 kí gạo mỗi tháng, đuợc mua nhu yếu phẩm theo giá
quy định, và được phân phối 3 mét vải may quần áo mỗi
năm. Văn chương, thi phú, và âm nhạc bị kết tôi là văn hóa
nô dịch, văn chương tiểu tư sản, ủy mị, ru ngủ con người,
nên bị cấm lưu hành và trình diễn.
Hà Nội sau năm 1954
Vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” năm 1957, đã tận
diệt các nhà trí thức, và các văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền được
tự do sáng tác. Nhà nước nắm quyền chỉ đạo văn hóa, xử
dụng cho mục đích tuyên truyền và khích động đấu tranh.
Bằng chính sách văn nghệ chỉ huy, CS đã bóp nghẹt tự do
Trang 276 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
ngôn luận, và tước đi cái khả năng sáng tạo của người làm
văn nghệ. Tôn giáo cũng bị bài xích, vì cho là thuốc phiện,
làm mê muội trí óc.
Tiếp thu Hà Nội, CS chào mừng dân chúng bằng
“Tuần Lễ Vàng”, kêu gọi mọi người đóng góp vàng và các
quý kim, để nhà nước có tiền kiến thiết đất nước. Ban đầu
là tự nguyện, nhưng sau khi “ tuần lễ vàng” kết thúc, cán bộ
ngầm tiếp xúc với những gia đình khá giả, rỉ tai hăm dọa và
bắt buộc họ đóng góp theo mức ấn định của nhà nước.
“Tuần lễ vàng” là hình thức cướp của, và bần cùng hóa
nhân dân,giống như những đợt đánh tư sản tại miền Nam,
năm 75, sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm.
Thanh niên, thiếu nữ Hà Nội sau năm 1954
Ngay khi vừa ổn định, chính quyền CS đã có kế
hoạch dồn những người Hà Nội ra các vùng phụ cận thành
phố, để lấy chỗ cho những người có công với cách mạng,
từ các vùng nông thôn Hà Đông, Nam Định, và Ninh Bình
vào nhập cư. Những người Hà Nội còn sót lại, như cá nằm
trên thớt, cố uốn mình để thích nghi theo nếp sống của
những người mới nhập cư, mong được yên thân.
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 277
Để củng cố thể chế, nhà nước đã đặt tai mắt khắp
mọi nơi, mọi chỗ, ngấm ngầm chỉ định những người láng
giềng, bạn bè, thân tộc, nhòm ngó, theo dõi lẫn nhau, để
báo cáo cho chính quyền. Ngay cả các học sinh, cũng được
cán bộ chỉ dẫn về nhà nghe lén những lời trò chuyện trong
gia đình, để rồi báo cáo lại với thầy cô, tạo ra một bầu
không khí ngột ngạt, bất an, nghi kỵ lẫn nhau trong gia đình
và xã hội.
Đợt cải cách ruộng đất trời long đất lở, vào những
năm 54-56, đảng CS đã phá vỡ cái kỷ cương và lễ giáo của
một xã hội đặt nặng đạo đức và nền tảng gia đình,của người
dân miền Bắc. Để đạt chỉ tiêu, cán bộ đã bắt buộc, thúc
đẩy, hăm dọa, để con cháu đứng lên đấu tố ông bà, cha mẹ,
học trò tố khổ thầy, những tay chân thân tín kể tội chủ bằng
những câu chuyện bịa đặt, các lời lẽ hỗn hào, thô lỗ, thậm
chí “mày tao chi tớ”, “thằng này, con kia” bất kể tới tuổi
tác và tôn ti trật tự, ngay trước mặt đám đông.
Toà án Nhân dân đấu tố địa chủ
Nhà nước giữ độc quyền quyết định và phân phối
những nhu cầu sống căn bản của người dân như gạo,
đường, muối, vải ... Trong thời kỳ kinh tế bao cấp, người
Trang 278 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
dân triền miên sống trong tình trạng thiếu thốn, và trở nên
thèm thuồng đủ thứ. Con người dần dần “biến chất”, trở
thành ích kỷ, hẹp hòi, và ti tiện. Đi chơi xa, phải xách theo
khẩu phần gạo của mình, nếu không, chỉ được ngồi nói
chuyện xuông, nhìn gia đình chủ nhà ăn cơm, vì mỗi người
chỉ có đủ khẩu phần gạo cho mình. “Bần cùng sinh đạo
tặc”, xã hội nảy sinh ra nhiều tệ trang như tham nhũng, móc
ngoặc, cắt xén, phe phẩy. Người ta săn sàng bán rẻ bạn bè,
thân tộc, vì những quyền lợi vật chất nhỏ nhen. Con người
mất hết nhân phẩm.
Trong các sinh hoạt công cộng, những buổi học tập
chính trị, diễn giả đã không ngần ngại dùng những từ ngữ
thiếu văn hóa như “thằng này, con nọ”, “mày, tao, chi, tớ”,
để khích động lòng căm thù của người nghe. Thậm chí, đến
những câu vè, câu thơ, công cụ tuyên truyền, cũng mang
đầy tính chất bạo lực đến… rợn người:
“Bún xào thịt giặc mới ngon.
“Cơm chan máu địch cho con no lòng…”
hoặc
Giết! Giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bên lâu, cùng rập bước chung long
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Stalin bất diệt [1]
Được trưởng thành trong một môi trường vô văn
hóa, thiếu nhân bản, và tràn ngập hận thù như vậy, người
dân dễ dàng trở nên hiếu động, hung hăng, săn sàng đỏ mặt,
xăn tay áo gây gổ. Mở miệng ra là chửi thề, dùng các danh
từ thô lỗ như “đéo…” “đếch…” để mở đầu câu chuyện. Xã
hội cũng xuất hiện những hàng quán loại “cơm mắng, cháo
chửi”, chẳng giống ai. Ở đây, khách hàng không phải là
thượng đế, mà bị đối xử tàn tệ hơn cả… con ở.
Nhiều người đã lập lại ngôn từ của bà chủ quán:
“Này ! không chờ được thì … xéo đi, lấy chỗ cho người
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 279
khác, đừng có đứng đó mà lải nhải …”, hoặc là “Mắt để ở
trên trán hay sao mà xớn xác, không chịu nhìn. Nước mắm
để ở góc bàn kia kìa …” Điều ngạc nhiên là mỗi lần nghe
chửi mắng, thì thực khách trong quán đã không tức giận,
mà lại còn nháy mắt với nhau và … rú lên cười. Người ta
bảo, sở dĩ quán đông khách là vì các món ăn vừa rẻ, vừa
ngon. Hóa ra, chỉ vì tham ăn, tục uống mà người Hà Nội
bây giờ mất hết cả tư cách.
Ăn uống ở Hà Nội, thực khách xả rác vô tư. Những
xương xẩu, giấy chùi tay, đàm rãi khạc nhổ đều dùng sàn
nhà, ngay dưới chân. Cười nói, đùa rỡn quang quác như ở
chỗ không người. Ra đường, muốn đi tiểu thì quay đi quay
lại, thấy vắng người là vạch quần … xả xú bắp.
Về cảnh quang, Hà Nội ngày nay, không còn là một
thành phố hiền hòa và sạch sẽ như hơn nửa thế kỷ trước.
Cho dù, Hà Nội đã có những tòa cao ốc chọc trời, những
sân golf trưởng giả, những khách sạn nguy nga, nhưng sự
phát triển của Hà Nội, là sự phát triển không đồng đều, và
thiếu kế hoạch. Khu giàu sang sát ngay bên khu nghèo khó,
giống như một cái áo cũ mang nhiều miếng vá khác nhau.
Hệ thống thoát nước không được phát triển song hành, nên
sau mỗi trận mưa lớn, là thành phố ngập lụt, gây trở ngại
giao thông. Cảnh sống tập thể của 5, 7 gia đình trong một
căn nhà, đã thường xuyên xảy ra xung đột, xô xát, gấu ó lẫn
nhau. Vì cảnh “cha chung không ai khóc”, nên không ai
quan tâm tới việc tu bổ hoặc bảo trì nhà cửa. Vôi tường tróc
lở, mái ngói rêu phong, cửa nẻo xộc xệch, quần áo phơi kín
ban-công. Ngoài phố xá, thương buôn ngồi la liệt chật kín
vỉa hè, xả rác vô tội vạ, bất chấp khách bộ hành. Trên trời,
đường dây điện chằng chịt như bát quái trận đồ. Dưới lòng
đường, xe cộ quá tải, bụi bậm mờ mịt, khói xe đầy trời, tạo
nên nạn ô nhiễm môi trường.
Người Hà Nội ngày nay, giàu nghèo cách biệt như
hai thái cực. Giai cấp giàu có tụ tập trong những khu sang
trọng, ở nhà cửa kiến trúc theo kiểu Âu Mỹ, có bảo vệ giữ
Trang 280 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
an ninh, có xe hơi sang trọng, có con cái ra ngoại quốc du
học và khi đau ốm, thì bay sang các nước tân tiến điều trị.
Giai cấp nghèo thì buôn gánh bán bưng, ăn bữa sáng lo bữa
tối, sống trong những căn nhà lụp xụp, bên đống rác. Sự
cách biệt vật chất, tạo nên tình trạng phân hóa trong xã hội.
Thương buôn ở Hà Nội ngày nay chỉ biết mánh
mung, lừa lọc, làm hàng giả, hàng nhái, pha trộn hóa chất
vào thực phẩm để trục lợi. Du sinh sang Nhật, móc nối với
tiếp viên hàng không, ăn cắp mỹ phẩm trong siêu thị, mang
về VN bán kiếm lời. Nữ sinh đánh lộn, xé quần áo, lột trần
nhau giữa chốn thanh thiên bạch nhật. Thanh niên giựt bóp,
cướp xe ngay giữa ban ngày …
Bảy mươi năm trời, vận nước oan khiên đã đưa Hà
Nội vào vòng tay sắt máu của chế độ CS, khiến Hà Nội bị
… phá sản cả về hình thức lẫn nội dung. Nền văn hóa của
Hà Nội hiện nay là loại “văn hóa chợ trời” do cuộc sống xô
bồ, chụp giựt. Các nam thanh nữ tú, cũng được thay thế
bằng các chị cán bộ cục mịch, dữ dằn và các anh thanh niên
vai u, thịt bắp, chửi thề như … pháo nổ.
Trở về thăm cố hương, những người Hà Nội năm
xưa, không khỏi ngậm ngùi, tiếc nuối cho một nền văn hóa
đã từng vang bóng một thời, và dư âm còn kéo dài cho tới
ngày nay. Và rồi đây, nếu chế độ CS còn tồn tại, thì nền
văn hóa “Hà Thành thanh lịch” năm nào, sẽ dần đi vào
quên lãng với thời gian./
Đoan Nghi
Chú thích:
[1] Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc, trang 37
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 281
THƯƠNG NHỚ
SÀI GÒN
Hoàng Mạnh Hải, CVA 58
Tôi như nhiều người không sinh ra tại Sài Gòn
nhưng suốt học trình từ tiểu học lên đại học được sống với
thủ đô của miền Nam, mà qua tên gọi mỹ miều là “Hòn
Ngọc Viễn Đông”. Tôi suy tư về nguồn gốc các danh từ Sài
Gòn và Hòn Ngọc Viễn Đông.
Theo sự truy nguyên, Sài Gòn thuở ban đầu là đất
của người Khờ-me, là một làng đánh cá, có tên đầu tiên là
Prey Nokor mà Prey là thánh thần (dieu, god) và Nokor là
Trang 282 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
thành phố hay đô thị (la ville; town, city), mang ý nghĩa là
“thành phố thánh thần”.
Năm 1862, Việt Nam là thuộc địa của Pháp, người
Pháp đặt tên chính thức là Saigon. Lấy theo cách giải thích
vì sao người Pháp gọi là “Saigon” do theo âm ngữ của
người Tàu (Thầy Ngòn, Xi Coón) hay Miên ngữ “Prey
Nokor”.Từ đó Saigon được Việt hóa là SàiGòn. Vì là thuộc
địa của Pháp, thành phố được Pháp xây dựng rất tối tân,
mới lạ, được xem là bậc nhất của vùng Đông Nam Á vào
thời bấy giờ. Nên Pháp xem đó là Hòn Ngọc Viễn Đông (la
Perle de l’Extrême-Orient, the Pearl of the Far East) hay
theo sự ví von của người Pháp là Paris Phương Đông (Paris
de l’Orient, Paris in the Orient) để ám chỉ là một thành phố
giàu sang, lịch lãm của Pháp ở vùng Đông Nam Á.
Giả thuyết khác như theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê
Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất Nguyễn
Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá
vỡ “Lũy Sài Gòn” (theo Hán Nho viết là “Sài Côn”). Đây là
lần đầu tiên chữ “Sài Gòn” xuất hiện trong tài liệu Việt
Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán - “Côn” - được dùng
thế cho “Gòn”. Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh
Sài Gòn, không phải đợi đến năm 1778 khi người Tàu ở Cù
Lao Phố bị quân Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên
Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cống.
Dù sao thì Sài Gòn và Hòn Ngọc Viễn Đông vẫn là
một nơi quyến rũ, ấp ủ con tim bao thế hệ dù là gốc Âu hay
Á. Trước khi tôi rời Sài Gòn vì biến cố chính trị 1975,
những kỷ niệm lưu luyến với Sài Gòn hay Hòn Ngọc Viễn
Đông có nhiều lắm. Thời sinh viên thuở ấy sao mà đẹp đẽ
trong ngắn ngủi, thời gian trôi qua như cái chớp mắt mà
nay đã gần 4 thập niên ly hương, nhìn lại thấy mình không
còn trẻ của lứa tuổi hai mươi của Sài Gòn mộng mơ. Tòa
nhà Quốc Hội VNCH không còn nữa kỷ niệm đêm đêm tản
bộ hóng mát dọc theo bờ sông Sài Gòn, hướng mắt về mái
nhà lồng bên kia là Thủ Thiêm từ bến đò, bến bắc, gió thổi
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 283
mát rượi từ mé sông, không còn nữa kỷ niệm Sài Gòn mưa
lãng mạn ta phải luồn lách những vũng nước không tên,
trong cái giá lạnh khi lượn xe gắn máy chạy trong cơn mưa
rào xối xả từ trời cao mà nước mưa bắn văng tung tóe.
Sài Gòn cũng đã chìm khuất vào dĩ vãng xa xôi, rồi
khi kỷ niệm trở về chỉ còn lại những nỗi nhớ đáng yêu bằng
nước mắt ấm đầy ắp những lưu luyến yêu thương trong tâm
tưởng, đôi lúc âm thầm trở về, cơ hồ như Sài Gòn đã sống
dậy mãnh liệt trong tiềm thức cũ, mãi mãi theo ta những
nhờ nhung không nguôi như bài ca:
“Sài gòn bây giờ trời mưa hay nắng?
Tà áo em bay theo giọt nắng vàng
Con đường ta đi giòng sông kỷ niệm
Nỗi nhớ trong em nỗi nhớ dịu dàng
Sài gòn bây giờ mưa giăng ngập lối
Hai đứa bên nhau âu yếm không rời
Đôi mắt yêu thương làn môi chờ đợi
Từng đợt mưa rơi... bối rối bồi hồi
Sài gòn bây giờ lòng ai vương vấn
Mai anh đi rồi còn nhớ em không?
Đôi mắt nai tơ buồn xa vời vợi
Trang 284 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Cơn gió vô tình đuổi lá vàng rơi
Sài gòn bây giờ có buồn không em?
Mưa vẫn rơi rơi.. từng giọt êm êm
Suối tóc thơm bay hương tình dịu nhẹ
Ngây ngất dạt dào con phố vê đêm”
(Sài Gòn Niềm Thương Nỗi Nhớ
Tác Giả: Võ Tá Hân, Trần Ngọc)
Sài Gòn gắn bó với tôi bắt đầu bằng những ngày thơ
ngây thành phố như một chốn phồn hoa đô hội, người ta có
thể bị choáng ngợp với một đô thị mang dáng vẻ tây
phương như người con gái kiều diễm, kiêu sa, đài các, rồi
cũng ở một góc nào đó Sài Gòn ủ dột của phố đêm lầy lội
của xóm nghèo, trong nét bình dân của tiếng rao hàng,
những con kinh nước đen,...
Nhiều người sống với Sài Gòn, dù mưa hay nắng,
ban ngày hay ban đêm, bận rộn tất bật hay nhàn rỗi rong
ruổi với phố xá của nó. Thưởng thức những món ngon mà
cả nhóm bạn tôi khoái khẩu nào là mì Cây Nhãn, mì Chú
Hỏa, mì La Cay Nguyễn Tri Phương, hủ tiếu gà cá Chợ Cũ,
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 285
hủ tiếu saté Lệ Thanh Chợ Lớn. Lề đường Sàigòn xưa có
hàng me Nguyễn Du, có hàng sao cao vút khúc Võ Trường
Toản, Trưng Vương. Tôi nhớ rõ có những hàng phượng vĩ
và hoàng điệp trong sân trường Petrus Ký, Sài Gòn có
trường Gia Long với món bò bía, xe đậu xanh đậu đỏ; có
trường Luật Khoa trên đường Duy Tân với xe nước dừa
uống môi em ngọt; có trường Dược Khoa, Văn Khoa trên
đường Cường Để chạy thẳng xuống bờ sông Sài Gòn có
Bến Bạch Đằng,… Sài Gòn có những quán kem, quán cà-
fé, quán ăn vỉa hè,… Những sinh hoạt bình dị có quán cơm
Bà Cả Đọi, quán Bắc Bà Ba Bủn; để thưởng thức những
món Sài Gòn sự khoái khẩu với hệ quả Pavlov cồn cào dạ
dầy sau những buổi tan học ngày cũ bạn bè rủ nhau đi ăn
hàng Sài Gòn. Tôi nhớ con hẻm kín đáo Casino Sài Gòn
nào những bún chả, bánh cuốn Thanh Trì, bánh tôm Cổ
Ngư; những gánh hàng rong, những xe bán thức ăn của khu
Bàn Cờ, khu Nguyễn Thiện Thuật, Chợ Vườn Chuối, Chùa
Kỳ Viên, Chợ Đũi,... xen kẻ trong trí nhớ có nhiều lưu
niệm trong ký ức xưa, có những nhà hàng, những điểm hẹn
hò như: Passage Eden, Casino Sài Gòn, Mini Rex, La
Pagode, Pôle Nord, Givral, Brodard, khu thương xá Tax,...
Nhắc đến Sài Gòn có những nơi như Continental,
Caravelle, Majestic,…
Trang 286 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Thương nhớ làm sao kỷ niệm Sài Gòn có nước mía
Viễn Đông, có thịt phá lấu, có gỏi đu đủ gan cháy khô bò,
có bánh bột chiên, có món bánh cay gần khu Chùa Chà Và
mà nhà văn Thinh Quang nhắc tôi hôm nọ. Những thực
khách của những nhà hàng sang trọng theo cung cách kiểu
tây phương của Sài Gòn, nhưng rồi chính họ cũng là những
giới hâm mộ thường trực tại các quán cóc trên vỉa hè Sài
Gòn. Đó là những nét đặt thù của Sài Gòn, của người Sài
Gòn, hay thuật ngữ phương tây «Saigonais», hoặc
“Saigonese”.
Nhớ Sài Gòn, làm sao quên nỗi những góc phố,
những con đường của nơi ấy nhỉ? Năm 1865, Phó đô đốc
Pierre Paul Marie de la Grandière (1807 - 1876) đại diện
cho chính quyền Pháp tiến hành việc đặt tên cho 26 con
đường trên địa bàn của thành phố Sài Gòn mà trước đó chỉ
được đánh số thứ tự. Trải qua hơn 300 năm xây dựng và
phát triển, Sài Gòn đã có hơn 1.500 con đường lớn, nhỏ và
từ lâu các tên đường thay đổi do yếu tố chính trị. Thời Pháp
thuộc thì đường Tự Do xưa của ta là đường Catinat; rồi
Pháp đặt Charner ta cho tên đường Nguyễn Huệ, Pháp đặt
tên đường Mac Mahon ta là Công Lý; và đường Bonard là
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 287
Lê Lợi; đường Mossard là đường Nguyễn Du; đường mang
tên Phó đô đốc HQ Pháp De La Grandlière ta thay bằng tên
vua ta đường Gia Long; đường Paul Blanchy tên ta là Hai
Bà Trưng, đường Mayer là tên vua ta đường Hiền Vương;
và đại lộ Boulevard de la Somme phe ta đặt tên vua, đại lộ
Hàm Nghi, nhà tôi ở đường mang tên tây D’Espagne tên ta
là vua Lê Thánh Tôn,...
Những khách sạn thời Pháp thuộc tọa lạc ngay trung
tâm Sài Gòn đã là nhân chứng cho bao năm binh biến, vật
đổi sao dời. Khách sạn Continental được các kiến trúc sư
nổi tiếng của Pháp thiết kế và xây dựng vào năm 1880 và
nay là khách sạn lâu đời nhất Việt Nam. Continental từng
đón tiếp nhiều nhân vật nổi tiếng như nhà thơ Nobel của
Ấn Độ là Rabindranath Tagore; văn hào Pháp André
Malraux là tác giả của La condition humaine (Thân phận
con người 1933), sau làm Bộ trưởng Văn hóa Pháp (1959-
1969); văn hào Anh Graham Greene (tác giả của sách best
seller “The Quiet American” - Người Mỹ Trầm Lặng); cựu
tổng thống Pháp Jacques Chirac, và nữ tài tử điện ảnh
Catherine Deneuve (thủ diễn trong các phim đoạt giải điện
ảnh Indochine, Le Dernier Métro, Belle de Jour),...
Trang 288 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Quán Givral, nhà sách Xuân Thu... phố xưa như nỗi
nhớ của người Sài Gòn, hồn của người Sài Gòn.
Chủ nhân đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau,
nhà sản xuất vật liệu xây dựng, sau bán lại cho Công tước
De Montpensier. Chủ sau là Mathieu Francini. Ngoài ra,
Continental còn có tên là «Radio Catinat», nơi mà giới báo
chí truyền thông tụ hội, trao dổi, thu nhặt tin tức thời sự
“nóng” nhất, sai có, đúng có.
Nhà hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành
lập năm 1925, nằm ở góc đường Catinat và Luro (sau là
Cường Để) nhìn ra bờ sông Sài Gòn, do một thương nhân
người Tàu giàu có và nổi tiếng nhất nhì Sài Gòn thời bấy
giờ là Hui Bon Hoa (tức chú Hỏa) xây dựng theo đồ án
thiết kế của một kiến trúc sư người Pháp. Suốt gần 90 năm
tuổi của mình, Majestic đã đón tiếp nhiều nhân vật quốc tế,
hay chính khách: Tổng thống Pháp Mitterrand, Thái tử
Nhật Akishino, Thủ tướng Lý Hiển Long của Singapore,
Thái tử Đan Mạch Henrick, Thái tử Anh Andrew, Công
chúa Thái Lan Maha Chakri Sring Dhorn ...
Các quán cà phê như La Pagode là nơi hội tụ của
giới thơ văn, báo chí Sài Gòn một thuở như tụ quán Caffe
Trieste nằm trên Vallejo Street (góc đường Grant) hướng
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 289
bắc của phố San Francisco, chủ nhân là một người Ý di cư,
nhưng quán cà phê nảy là nơi mà giới tao nhân mặc khách,
những nghệ sĩ lui tới gặp gỡ nhau, nò là phòng hội của
những nhà văn Lawrence Ferlinghetti, Alan Watts, Jack
Kerouac, Allen Ginsberg, Richard Brautigan, Bob
Kaufman, Gregory Corso, Michael McClure, Kenneth
Rexroth, Neeli Cherkovski,... nhà thơ nổi tiếng Jack
Hirschman, nghệ sĩ Peter Le Blanc, Don Moses và nhiếp
ảnh gia giải Pulitzer là Joe Rosenthal, rồi những Jimo
Perini, Bill Cosby, Paul Kantner, Liam Mayclem, Joey
Reynolds và Mal Sharpe,... Trieste còn là nơi thi sĩ gốc Nga
giải Nobel văn chương Joseph Brodsky lui tới trau chuốt
thơ của mình. Còn nữa. Rồi ở góc phòng còn phảng phất
bóng dáng của nhà đạo diễn nổi danh Francis Ford Coppola
ngồi đọc và đánh bóng kịch bản phim “The Godfather”
những năm 70.
Paris có Café de Flore, ở ngay ngã Tư của
Boulevard Saint-Germain và đường St. Benoit, nơi gặp gỡ
ngày xưa của văn và triết gia như André Breton, Françoise
Sagan, André Malraux, Francois Mauriac, Jean-Paul Sartre,
Simone de Beauvoir, Albert Camus,... Cái chung của La
Pagode của Sài Gòn, Caffe Trieste của San Francisco hay
hay Café de Flore của Paris là những địa điểm tụ họp của
giới văn hoá nghệ thuật, những nơi có lịch sử của chính nó.
Trang 290 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
“Nắng SàiGòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng...”
Sàigòn có thơ Nguyên Sa, có nhạc Ngô Thụy Miên,
hỡi những ai đã từng đi dưới cơn nắng của Sài Gòn, bạn
còn nhớ chứ? Nhà thơ Vũ Uyên Giang cho bài thơ nhớ Sài
Gòn xưa, Sài Gòn nhớ nắng, nhớ mưa:
“Nhớ quá Sàigòn của thuở xưa
Ta từ Bưu Điện bước ngang qua
Nhà thờ Đức Mẹ nằm im lặng
Con phố Hàn Thuyên nắng nhạt nhòa…
Nhớ đến Sàigòn một thuở xưa
Buổi chiêu nhạt nắng lại rơi mưa
Gọi thầm khe khẽ tên ai đó
Đất khách trong lòng đang đổ mưa.”
Vũ Uyên Giang
Sài Gòn qua nỗi nhung nhớ của nhà văn Trần Mộng
Tú:
“Âm thanh của những tiếng động hàng ngày, như
tiếng chuông nhà thờ buổi sáng, tiếng xe rồ của một chiếc
xích lô máy, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng
chuông leng keng của người bán cà rem, tiếng gọi nhau ơi
ới trong những con hẻm, tiếng mua bán xôn xao khi đi qua
cửa chợ, vẻ im ắng thơ mộng của một con đường vắng sau
cơn mưa…”
Làm lên một Sài Gòn bềnh bồng trong nỗi nhớ. Sài
Gòn mỗi tháng, mỗi năm, dần dần đổi khác. Chúng tôi lớn
lên, đi qua thời kỳ tiểu học, vào trung học thì chiến tranh
bắt đầu thấp thoáng sau cánh cửa nhà trường. Đã có những
bạn trai thi rớt Tú Tài phải nhập ngũ. Những giọt nước mắt
đã rơi xuống sân trường. Sau đó, với ngày biểu tình, với
đêm giới nghiêm, với vòng kẽm gai, với hỏa châu vụt bay
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 291
lên, vụt rơi xuống, tắt nhanh, như tương lai của cả một thế
hệ lớn lên giữa chiến tranh.
Sài Gòn như một người tình đầu đời, để cho ta bất
cứ ở tuổi nào, bất cứ đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra
như một vệt son còn chói đỏ. Sài Gòn như một mảnh trầm
còn nguyên vẹn hương thơm, như một vết thương trên ngực
chưa lành, đang chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống.
Sài Gòn khi đổi chủ chẳng khác nào như một bức
tranh bị lật ngược, muốn xem cứ phải cong người, uốn cổ
ngược với thân, nên không còn đoán ra được hình ảnh trung
thực nguyên thủy của bức tranh
Sài Gòn bây giờ trở lại, thấy mình trở thành một du
khách trên một xứ sở hoàn toàn lạ lẫm. Tôi thương Sài Gòn
và thương cho chính mình, đã hư hao một chốn để về.” Thi
sĩ Phạm Sĩ Trung nhớ Sài Gòn:
“Sài Gòn ơi Sài Gòn
Những con đường thân quen
Hàng cây cao bóng mát
Tình yêu thật êm đêm
Sài Gòn ơi Sài Gòn
Nơi tôi đã lớn lên
Nhớ thương buồn vời vợi
Suốt đời chẳng sao quên”
Ca sĩ Quỳnh Giao hát bài «Nhớ Sài Gòn», sáng tác
của Phạm Anh Dũng:
“Nhớ đến em nhiêu này Sài Gòn ơi
Xa xôi ngàn khơi đâu tà áo trắng
Duy Tân im lìm phố vắng
Thương cây lá hoang tàn
Người xây giấc mơ hồi hương.
Này Sài Gòn yêu thương
Hãy còn đây vấn vương
Nhớ bờ sông nước êm
Ghế đá chốn công viên...”
Trang 292 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Khi nghe bài «Em Sài Gòn», của hai nhạc sĩ
Nguyên Phan và Minh Tuấn, có thể thính giả đồng thuận là
Em Sài Gòn cũng mang ý nghĩa Sài Gòn có em, kỷ niệm
vơi đầy có em, hỡi em Sài Gòn:
“Em Sài Gòn, một thời để nhớ để yêu
Em Sài Gòn, một thời hoa bướm nên thơ
Em Gia Long, mắt buồn sầu vương màu áo
Em Trưng Vương, một chiêu áo trắng thơ ngây
Em Sài Gòn, bây giờ dạt trôi nơi đâu
Em Sài Gòn, bây giờ còn mãi cách xa
Hay nay em, đã bước qua cầu
Để lại sông xưa, giọt nắng phai mầu
Để lại sân trường, một thời xanh tuổi mộng mơ”
Sài Gòn có gì vui không em? Em Sài Gòn, anh nghe
thời gian đã qua đi. Trong cái dĩ vãng ấy, anh tìm thấy Sài
Gòn trong thi vị, Sài Gòn trong lãng mạn. Sài Gòn mùa hè
có tiếng ve kêu vang, đèo xe giữa mùa lá me bay khi nắng
hè chói chan hay lướt đi trong mưa có sự gần gủi của lời
tình tự Sài Gòn.
Nhớ Sài Gòn như một thoáng Sài Gòn tươi màu
nắng đẹp, một thoáng Sài Gòn hạt mưa rớt rơi, tựa như cô
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 293
gái ngây thơ ngẩn ngơ trên phố mong chờ, tà áo phất phơ ru
ngàn tiếng tơ:
“Một thoáng Sài Gòn tươi màu nắng đẹp
Một thoáng Sài Gòn hạt mưa rớt rơi
Tựa như cô gái ngây thơ ngẩn ngơ trên phố
mong chờ
Tà áo phất phơ ru ngàn tiếng tơ
Đẹp lắm Sài Gòn em vê gió lộng
Tà áo nhạt hồng để ai ngóng trông
Thời gian trôi mãi xa xăm suốt bao năm tháng
âm thầm
Thành phố đổi thay trong màu mắt ai
Đèn màu thắm ánh sáng rực rỡ đẹp như đôi mắt
mong chờ
Những đêm rong chơi đường khuya mãi nên
quên đêm vê
Sài Gòn ơi đêm nghe còn đó ngàn xưa hôm nay
vẫn rộn ràng
Điệu đàn ngân vang trong gió vài nàng tiên nga
e ấp xuống trần gian mơ màng
Một thoáng Sài Gòn khung trời lắm mộng
Một thoáng Sài Gòn ngược xuôi phố đông
Người đi xa đã bao năm vẫn nghe thương nhớ
trong lòng
Thành phố thướt tha trong tà áo hoa”
Một Thoáng Sài Gòn: Nhắc lại kỷ niệm một thoáng
Sài Gòn, có lẽ nên nhắc thêm bài ca rộn ràng, vui tươi của
nhạc sĩ Văn Phụng là bài hát tôn vinh vẻ đẹp của Sài Gòn,
hay một Hòn Ngọc Viễn Đông:
“Người ơi Saigon chốn đây
Là Ngọc Viễn Đông
Vốn đã lừng danh
Nắng lên muôn chim đùa hót
Muôn hoa cười đón
Vinh quang ngày mới
Trang 294 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Cùng nhau đi tới Saigon
Là nơi du khách dập dồn
Từ năm châu tới viếng thăm Thủ Đô
Dòng sông chen chúc tàu đò
Ngựa xe buôn bán hẹn hò
Người dân no ấm sống đời tự do.”
Vẻ đẹp của Sài Gòn khi mường tượng lại Sài Gòn
xưa, hay của một thoáng Sài Gòn, xin hãy lắng nghe bài ca
của nhạc sĩ Y Vân, mà nhiều người không quên các câu:
“Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi!”
Dừng chân trên bến khi chiêu nắng chưa phai,
Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay
Nếp sống vui tươi nối chân nhau đến nơi này
Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi !
Ngựa xe như nước trên đường vẫn qua mau
Người ra thăm bến câu chào nói lao xao
Phố xá thênh thang đón chân tôi đến chung vui
Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi !
Lá la la lá la, Lá la la lá la....
Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi!”.
Hoàng Mạnh Hải
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 295
Bắc và Nam
Trần Mộng Lâm, CVA 60
Bác sĩ Trân Mộng Lâm
Lời giới thiệu: Anh Trần Mộng Lâm sanh quán tại Nam
Định, Bắc Phần. Di cư vào Nam năm 1954. Anh là cựu học
sinh các trường trung học Nguyễn Trãi và Chu Văn An
(1957-1960). Anh nhập ngũ năm 1967 và phục vụ tại Quân
Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ cho đến năm 1975. Sau
năm ngày 30/4/1975, anh bị Việt cộng bắt đi tù cải tạo từ
năm 1975 đến năm 1977. Vượt biên năm 1978, được chính
phủ Canada nhận với tư cách tỵ nạn chính trị năm 1978 và
sống tại Montréal Canada từ đó tới nay. Anh là người
chống Hán-Cộng và liên tục đấu tranh cho Tự Do, Dân
Chủ và toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Anh nhất quyết
không vê Việt Nam nếu còn Cộng Sản.
Trang 296 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Cách đây vài năm, tôi tiếp tại văn phòng một khách
hàng Á châu. Cô ta khoảng chừng 20 tuổi, dáng người nhỏ
nhắn, dễ thương, có vẻ ngoan. Sau khi công việc chuyên
môn xong, tôi hỏi cô gốc gác ra sao, cô ta là người nước
nào. Cô xác nhận với tôi là cô đến từ Việt Nam. Tôi lại hỏi
cô ở thành phố nào, cô nói thành phố Hồ Chí Minh. Lúc đó
chúng tôi nói tiếng Pháp với nhau, vì đó là ngôn ngữ tôi xử
dụng hàng ngày trong công việc. Khi nghe tới tên Hồ Chí
Minh, tôi nổi giận, và tôi nói với cô : C’est un assassin,
c’est un bourreau (đó là một tên sát nhân, một tên đao thủ).
Tôi nhớ rõ cuộc đối thoại này, vì cho tới ngày hôm nay, tôi
không quên được ánh mắt của cô bé, nhìn tôi nẩy lửa.
Cô bé đó không trở lại gặp tôi một lần nào. Tôi biết
là tôi đã gây cho cô một cú sốc nặng, và tôi cũng biết rằng
vì lớn lên trong sự giáo dục sau 1975, dưới mắt cô bé,
HCM là một thần tượng, một anh hùng dân tộc.
Câu chuyện ngày hôm đó khiến tôi ý thức được một
điều, là giữa những người như tôi, trưởng thành tại Miền
Nam trước 1975, và những người như cô bé đó và thế hệ
của cô, tuy cũng sống tại Miền Nam, là một khoảng cách
quá xa, không dễ gì thông cảm được với nhau.
Thành phố tôi ở có nhiều người Việt Nam, nhưng
không phải người Việt nào cũng giống nhau. Người tỵ nạn
gốc Việt Nam Công Hòa như tôi, thì dù họ nói tiếng Bắc,
tiếng Trung, hay tiếng Nam, chúng tôi thông cảm dễ dàng.
Tuy nhiên có một số người Việt, cũng mang danh tỵ nạn
chánh trị, nhưng đến từ Miền Bắc, thì họ cũng vẫn lễ phép
khi đến gặp tôi, nhưng tuy gần, mà vẫn cách xa thế nào đó.
Khi nói tới chánh phủ Hà Nội, những người lớn tuổi gọi là :
ông Chánh Phủ, khi nói tới những sự kiện xẩy ra tại Hà
Nội, họ luôn mồm mình thế này, mình thế kia. Mình đây là
chánh quyền Cộng Sản, vì đối với họ, Cộng Sản đồng nghĩa
với tổ quốc. Tôi biết rằng họ bị sinh tử phù Cộng Sản quá
nặng, không dễ gì thay đổi dược. Người ta hay nói người
Miền Bắc hay ăn nói thô tục, hay chưởi đ.m, nhưng có lẽ là
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 297
dân ngoài đường phố thôi, còn những người tôi gặp, thì khi
họ nói với tôi, cũng lễ phép, hay xưng em, nhỏ nhẹ thôi.
Tôi cũng có nghe họ nói với nhau, khi đó thì khác hẳn, vẫn
chính phủ mình thế này, chính phủ mình thế nọ, và nếu có
văng tục, thì cũng giữa họ với nhau thôi. Tôi có sao nói
vậy, và không thích nói tới họ một cách khinh miệt, theo
kiểu 3 thằng việt cộng không đủ để làm rớt một cọng đu đủ.
Vốn sống của tôi từ khi sanh ra tại Miền Bắc,
trưởng thành tại Miền Nam, phục vụ trong quân đội
VNCH, đi tù cải tạo, rồi hành nghề tại Montréal trên 30
năm, tiếp xúc với đủ mọi giới người Việt, cho tôi một kết
luận rất rõ ràng là Bắc và Nam là 2 nên văn hóa khác nhau,
không đến nỗi một trời một vực, nhưng không thể nào
giống nhau.
Sự kiện khác nhau của 2 miền Nam Bắc cộng thêm
với việc hiện nay tôi sống tại tiểu bang Québec nằm trong
liên bang Canada ảnh hưởng rất nhiều đến sự suy nghĩ của
tôi. Đối với Canada, thì Québec là một xã hội khác biệt,
une société distincte. Việc này được Canada công nhận,
Québec dùng tiếng Pháp trong khi các tiểu bang khác dùng
tiếng Anh, Chính Phủ Québec có khi là Tự Do trong khi
chánh quyền trung ương là Bảo Thủ hay ngược lại. Người
Quebec có quyền định đoạt số phận mình, ngay cả việc ở
lại hay tách rời khỏi Canada (đến nay đã có nhiều cuộc
trưng cầu dân ý).
Trong khi đó, tại Việt Nam, tình hình khác xa. Miền
Nam sau 1975 bị áp đặt chế độ CS. Vì mặc cảm thua trận,
cả Miền Nam ngậm miệng như hến. Hiện nay, với chánh
sách di dân từ Miền Bắc vào Miền Nam, và sự nhồi sọ của
giáo dục, văn hoá Miền Nam có cơ nguy biến mất. Còn đâu
một nền văn hóa sông nước mà chúng ta đã thấm nhuần.
Miền Bắc và Miền Nam là 2 xã hội khác nhau,
cùng lắm có thể ở trong cùng một quốc gia, nhưng phải
Trang 298 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
là 2 thể chế. Hãy để người Miền Nam có cơ hội định
đoạt số phận của họ bằng một cuộc trưng cầu dân ý.
Đó là lý do tại sao tôi đã viết những bài khiến tôi bị
cho là mất gốc, là quên cội nguồn dân tộc, quên tổ tiên.
Cội nguồn dân tộc, các nhiễm thể, ADN là gì ??
Nhiều khi những người cùng ADN với mình chính là
những người hành hạ mình hơn ai hết, mà việc này thì dân
Á Châu số một.
Hãy nhìn xem bên Triều Tiên. Kim Jong Un và Kim
Jong Nam không phải cùng một ông cha hay sao ?? Vậy mà
ai giết Kim Jong Nam ??
Cùng ADN nhưng cái kiểu này thà khác còn hơn.
Nghĩ tới nguồn gốc nhưng hoà hợp hòa giải với
người CS Miền Bắc, thì ngày Việt Nam trở thành một tỉnh
của Trung Cộng không xa, vì mua chuộc bằng tiền bạc, sắc
đẹp, thì việc ấy ai bằng các chú ba ?? Có vàng trong tay thì
nguồn gốc, cội nguồn là cái quái gì.
Trần Mộng Lâm
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 299
CẢM TẠ MIỀN NAM
Ngô Quốc Sĩ, CVA60
Phan Huy, chàng “bộ đội Cụ Hồ” trước đây đã phổ
biến bài thơ “Tôi Bỏ Đảng” làm nhiều người nức lòng đến
nghẹn ngào cảm mến. Hôm nay, Phan Huy lại cho độc giả
5 châu thưởng thức bài thơ “Cảm Tạ Miền Nam” để tiếp
tục bày tỏ nỗi niềm nuối tiếc và thống hối của một người đã
đem tuổi trẻ dâng hiến cho chế độ cộng sản, nay thức tỉnh,
biết mình bị lừa và quyết đứng lên tranh đấu cho công lý,
sự thật và tự do dân chủ của dân Việt.
Mở đầu bài thơ, Phan Huy đã thổ lộ nỗi lòng thầm
kín, anh đã ấp ủ từ lâu, nghĩa là từ ngày anh cầm súng theo
đoàn quân Bắc Việt vào xâm lăng miền Nam. Có lẽ khi vào
tới miền Nam năm 1975, anh đã thức tỉnh ngay và biết
mình bị lừa, nhưng anh chưa dám mở miệng nói lên sự thực
của lòng mình. Anh cảm thấy có lỗi về sự im lặng kéo dài
đó mãi tận hôm nay:
Đã từ lâu, tôi có điêu muốn nói
Với Miên Nam, miên đất mới thân quen
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của Miên Bắc, xứ ngàn năm văn vật.
Nhưng rồi năm tháng trôi qua, nỗi ray rứt trước hiện
thực càng ngày càng bi đát do cộng sản tạo nên cho dân tộc
Việt Nam, đã thúc đẩy anh phải mạnh dạn lên tiếng. Anh đã
không thể chối bỏ sự thật về miền Nam đã bị tuyên truyền
cộng sản xuyên tạc bóp méo. Đó là sự thực thần tiên của
ấm no hạnh phúc đã bị bọn người tự mệnh danh là “đoàn
quân giải phóng” cướp mất:
Tôi còn nhớ sau cái ngày "thống nhất"
Trang 300 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiên
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Phan Huy nhớ lại ngay từ lúc đặt chân vào miền
Nam, anh đã từng ngạc nhiên, thán phục trước hiện thực
miền Nam sinh động, trù phú và tự do dân chủ, hoàn toàn
trái ngược với tuyên truyền láo khoét của Đảng và Nhà
Nước:
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ ngụy quyên
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Từ ngạc nhiên, Phan Huy đã không cầm nổi nước
mắt nhìn cánh cửa tự do khép lại do bạo lực dối trá của kẻ
xâm lăng mệnh danh là giải phóng. Anh đã khóc, khóc thật
lớn, khóc vì giận đảng cộng sản nhẫn tâm lừa dối đồng bào,
lừa dối thế giới. Mà anh cũng khóc cho sự mất mát lớn lao
của dân tộc. Và hơn hết, anh đã khóc cho chính mình, một
thời ngây thơ tin vào tuyên truyền cộng sản phản bội dân
tộc. Hẳn đó là những dòng nước mắt sám hối cay nồng:
Trước mắt tôi, một Miên Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.
Khóc rồi giận. Những dòng nước mắt căm hờn đó
đã chảy thành lời trần tình, phơi bày bộ mặt thật ác độc của
cộng sản sau những huyền thoại và chiêu bài lừa phỉnh.
Cộng sản đã áp dụng chính sách tẩy não, nhồi sọ, bịt mắt,
biến con người thành những con vẹt, không những cán bộ
đảng viên, mà đa số người truyền thông, cũng là những con
vẹt nói theo đảng, nói cho đảng và nói cho mình để đổi lấy
đặc quyền đặc lợi:
Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng "kính yêu"
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 301
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiêu
Con người nói năng như là chim vẹt.
Những con vẹt đó mở miệng ra là ca tụng đảng, ca
tụng chế độ. Trước kia, Hữu Loan đã gọi bọn họ là lũ nịnh
bợ “ngậm vòi đu đủ, trợn mắt phùng mang, thổi vào rốn
cấp trên” thì hôm nay, 60 mươi năm sau, Phan Huy cũng
mạnh dạn lột mặt nạ bọn nịnh hót bỉ ổi này:
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lê-nin
Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản.”
Điểm đáng nói là càng nịnh bợ, thì càng trơ trẽn lố
bịch, bởi lẽ thực tế hoàn toàn trái ngược với những gỉ bọn
nịnh bợ nói ra, viết ra. Tiêu biểu là chế độ ưu việt đã bắt
người cày thay trâu, coi con người như cỏ rác. Nếu cô giáo
Lam đã lên án cộng sản coi mạng sống con người thua cả
“cái móng tay”, thì Phan Huy cũng lên án cộng sản coi con
người như bèo dâu, như trâu ngựa, khi nhân quyền đang trở
thành giá trị phổ quát, khi nhân loại đã bước vào thời đại
văn minh kỹ thuật tân tiến, làm chủ thiên nhiên, chinh phục
không gian:
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.
Càng căm hờn chế độ bạo cuờng phỉnh gạt, đày đọa
dân tộc, anh chàng ‘bộ đội cụ Hồ’ lại càng tỏ ra biết ơn
miền Nam. Nào là miền Nam đã mở mắt anh, giúp anh nhìn
thấy ánh sáng văn minh, tự do dân chủ. Nào là miền Nam
đưa anh về vời cội nguồn dân tộc:
Cảm tạ Miên Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyên, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Trang 302 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Cảm tạ Miên Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở vê tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Các Mác và Lê nin ngoại tộc.
Miền Nam còn giúp anh mở rộng tầm nhìn, nhận
thức nền văn minh khoa học tiến bộ của 5 châu, thay vì bịt
mắt bưng tai vỗ ngực tự hào là “đỉnh cao trí tuệ loài
người”
Cảm tạ Miên nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
Nhất là miền Nam đã cho anh một ân huệ. Đó là
cuộc chiến đấu can trường của quân dân miền Nam trong
công cuộc bảo vệ tự do dân chủ, chống lại kẻ thù xâm lăng
từ phương Bắc, trong đó có anh!
Cảm tạ Miên Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành nhân.
Biết nói gì hơn? Mà có nói thêm cũng bằng thừa, vì
Phan Huy đã nói quá đủ! Chính nghĩa miền Nam đã bị cộng
sản miền Bắc bắn nát. Tự do dân chủ miền Nam đã bị “con
cháu Bác” giết chết. Hạnh phúc dân miền Nam đã bị cộng
sản Hà Nội cướp mất! Tội về ai? Công về ai? Tất cả đã đã
qúa rõ như ban ngày! Chỉ còn mong có thêm nhiều Phan
Huy, nhiều Nguyễn Đình Cống, nhiều Kim Chi và Bùi
Minh Quốc, thì dân Việt được nhờ biết mấy!
Ngô Quốc Sĩ, CVA60
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 303
Tôi theo phái đoàn
Trung Tâm Quốc Gia
Kỹ Thuật Phú Thọ
Ủy Lạo Chiến Sĩ
Quần Đảo Trường Sa
Nguyễn Đức Thịnh
CVA 61-62
Dẫn nhập: Ngày 12 tháng 7 năm 2016 Tòa án Trọng Tài
Thường Trực quốc tế (Permanent Court of Arbitration) trụ
sở tại The Hague, Hòa Lan đã phán quyết là Đường 9
Đoạn Lưỡi Bò mà Trung Cộng vẽ ra để dành độc quyên sở
hữu Biển Đông là không có căn bản pháp lý. Phán quyết
này quốc tế hóa tranh chấp tại Biển Đông và có lợi cho các
nước nhỏ quanh vùng. Với viễn tượng lạc quan, tôi xin kể
chuyến đi ủy lạo chiến sĩ tại Trường Sa năm 1974 của phái
đoàn giáo sư và sinh viên Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Phú Thọ, một chuyến ủy lạo chiến sĩ ngoài biên đảo của
một cơ quan dân sự, tôi nghĩ, có một không hai dưới thời
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Sau khi Trung Cộng tấn công và chiếm đóng quần
đảo Hoàng Sa của VNCH vào tháng giêng năm 1974,
VNCH đã tăng quân tại các đảo đang trấn giữ ở Trường Sa
để ngăn chặn Trung Cộng tấn công và chiếm đóng. Trung
Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ (TTQGKTPT) đã nhờ
Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (HQ) cung cấp phương tiện
di chuyển để đến ủy lạo chiến sĩ trấn đóng tại một số đảo
Trang 304 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
này. Chuyến đi đã xẩy ra trên 40 năm, nhưng có nhiều chi
tiết tôi còn nhớ rất rõ; ngược lại một số chi tiết khác thì tôi
“nhớ gì kể nấy”.
Ngày khởi hành đã bị dời lại đến mấy lần làm tôi rất
nóng ruột và đôi khi đã nghĩ là có lẽ chuyến đi sẽ không
tiến hành được. Có nhiều người ghi danh đã bỏ cuộc. Nay
nghĩ lại tôi thấy ngày khởi hành bị dời lại nhiều lần mới
hợp lý. Vì HQ khó mà cử riêng một tầu chiến dành riêng
cho chuyến đi cho chúng tôi và có lẽ phải kết hợp với
chuyến đi tiếp tế lương thực, bổ xung vũ khí hay tuần tra
các đảo của HQ. Ngoài ra còn phải chắc là Trung Cộng
không hung hăng thừa thắng xông lên trở lại tấn công
Trường Sa, có thể gây nguy hại đến sinh mạng của các giáo
sư và sinh viên viếng thăm; hay là biển Đông không có bão
lớn trong những ngày đó, sợ dân sự không quen chịu phong
ba bão táp ngoài khơi.
Nhưng rồi ngày khởi hành cũng đến. Phái đoàn
chúng tôi gồm khoảng chừng 20 người. Anh Trần Minh
Giám đại diện Trung Tâm, anh Trần Kiêm Cảnh, Công
Nghệ và tôi Công Chánh cùng khoảng 20 nam sinh viên hai
trường Công Chánh và Công Nghệ lên Tầu Khu Trục Hạm
Trần Hưng Đạo HQ1 vào một buổi sáng đẹp trời tại bến
Bạch Đằng. Chúng tôi được phân chia ngay chỗ ngủ. Các sĩ
quan trên tầu đã mau mắn nhường cabin của họ cho 3 nhà
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 305
giáo chúng tôi, còn các sinh viên thì ngủ trong khu dành
cho hạ sĩ quan và binh sĩ phía dưới.
Ông Hạm Trưởng ân cần tiếp phái đoàn và nói
chuyện riêng với chúng tôi. Ông này rất trẻ, vào khoảng
tuổi chúng tôi (30-35), đã được huấn luyện tại Hoa Kỳ. Vì
cùng lứa tuổi, chúng tôi thân mật xưng “Anh-Tôi” và bỏ
xưng hô “Ông Hạm Trưởng-Ông Giáo Sư” khách sáo lúc
ban đầu.
Ông Hạm Phó là người đứng tuổi, tôi nghĩ phải
ngoài 50. Ông lúc nào cũng bận rộn đôn đốc mọi chuyện
trong bộ đồ HQ đã bạc màu. Tôi thấy sự tương phản với
các quân phục trắng toát, ủi phẳng phiu thấy trên màn ảnh
xi nê của những hải quân khác. Cả thủy thủ đoàn bận rộn
chuẩn bị nhổ neo cho tầu rời cảng.
“Đường Ra Cửa Biển” trên sông Saigon rất êm.
Chúng tôi lợi dụng lên boong ngắm cảnh. Sông bát ngát và
phong cảnh rất đẹp.
Đến giờ cơm trưa, anh Hạm Trưởng thân mật mời 3
chúng tôi dùng bữa với anh. Và chúng tôi đều đều dùng
bữa với anh trong suốt thời gian ở trên tầu. Một điểm đáng
ghi nhớ là anh luôn luôn đem đồ ăn “Chị Hạm Trưởng” đã
sắp săn cho anh dùng khi đi hải hành để cùng ăn (share) với
Trang 306 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
chúng tôi, bổ xung thêm khẩu phần vốn dĩ không được hậu
hĩ của quân đội.Chúng tôi rất cảm động về tấm thịnh tình
này của anh Hạm Trưởng, và rất e dè liệu cơm gắp mắm.
Có hôm thủy thủ đoàn đánh được cá thì chúng tôi
có bữa cháo“hải sản tươi” rất ngon!
Đêm đến, khi “thuyên đã ra khơi”, thì một cơn bão
ập đến. Ngủ trong cabin, tôi chỉ thấy người lắc lư một chút,
nhưng những tiếng rên cứ vọng lên từ phía dưới mỗi khi
tầu lắc qua một bên! Tôi nghĩ rằng các anh em sinh viên
sức người còn trẻ thì sẽ không có vấn đề gì. Thành thử tôi
cũng không có can đảm lần mò xuống hầm tầu thăm các
anh em sinh viên.
Hôm sau, “trời lại sáng”. Chúng tôi lên boong
ngắm cảnh mây nước bao la. Anh bác sĩ quân y Trần Văn
Nam cất tiếng hát:
Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt
Chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất
Và tiếng hát, và nước mắt … [1]
Rồi chúng tôi cũng tới được đảo đầu tiên; cũng là
đảo lớn nhất trong chuyến ủy lạo này. Tôi không nhớ tên
đảo, rất có thể là đảo Trường Sa Lớn, thị xã của huyện
Trường Sa. Anh Hạm Trưởng cho HQ1 neo ở chỗ nước sâu
và mọi người sẽ dùng ca nô vào bờ. Anh nói bản đồ đáy
biển đang dùng rất cũ (outdated), vẽ từ thời Pháp nên anh
phải cẩn thận, neo thật xa cho chắc ăn, phiền các anh di
chuyển bằng ca nô lâu một chút!
Sĩ quan chỉ huy trưởng đảo còn rất trẻ, cấp bậc
Trung Úy thì phải. Các binh sĩ cho anh nickname là “Chúa
Đảo”. Trung úy Chúa Đảo tập họp binh sĩ biên phòng, quân
phục chỉnh tề để tiếp phái đoàn sinh viên giáo chức Trung
Tâm, đã không quản ngại biển xa đến thăm. Sau diễn văn
chào mừng của chủ và đáp lễ của khách, các sinh viên khệ
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 307
nệ bưng ra quà ủy lạo, phần lớn là đồ hộp, để tặng các anh
chiến sĩ biên đảo.
Đảo này khá lớn, nhưng binh sĩ chỉ có rau sam là
rau tươi. Và tôi thấy mấy con chuột. Chú nào chú nấy mập
mạp chạy rất nhanh.
Rồi chúng tôi ra “thăm biển”. Đảo là san hô bồi.
Nước trên thềm san hô khá nông, chỉ tới bụng tôi (nghĩa là
rất nông!). Nước rất trong, dù không có kính lặn (goggles)
mà tôi vẫn thấy đủ các hải sản muôn màu sặc sỡ. Các con
hải sâm mầu sám, đường kính to gần bằng gang tay trườn
mình trên đá san hô. Các con sao biển khá to di chuyển gần
đáy. Các con cá nước mặn màu sắc sặc sỡ, to nhỏ đủ loại
tung tăng bơi giữa các cây san hô. Đây cũng là lần đầu tiên
tôi thấy san hô “live” dưới biển. Các con sò đủ loại, sò sà
cừ (abalone), sò, hến to nhỏ vv... Có anh binh sĩ cho tôi hay
là “ông thầy” phải cẩn thận tránh sò khổng lồ to gần một
thước tây. Thường thì há miệng đón đồ ăn. Nhưng ai mà
đút chân vào thì lập tức nó sập miệng lại. Chỉ có nước cưa
chân thôi! Tôi tò mò lần bước ra đến bờ của thềm san hô
xem nó “ra nàm thao”. Bờ thềm san hô thẳng đứng vì nước
biển đổi từ mầu xanh lơ sang xanh thẫm gần như đen rất
đột ngột. Sợ có con bạch tuộc khổng lồ dưới biển sâu bất
thần trồi lên mặt nước, dùng các cánh tay dài ngoằng cuốn
người kéo xuống (như coi trong xi nê), tôi không khỏi rùng
mình, vội quay lại.
Tôi còn nhớ từ thời tiểu học, đã học nước ta “giang
sơn gấm vóc, rừng vàng biển bạc”. Rừng vàng thì tôi chưa
được nhìn tận mắt, nhưng “biển bạc” là đây!
Rồi mọi người được bảo lên bờ vì tới giờ đánh cá.
Một vài binh sĩ tháo chốt lựu đạn và thẩy xuống nước. Sau
tiếng “ùm” vang động thì cá nổi lên. Chiều nay chúng tôi sẽ
có cá ăn. Có anh binh sĩ tặng tôi một chuỗi vòng đeo cổ với
các vỏ ốc nhỏ đủ mầu sắc rất đẹp mắt và mấy vỏ ốc sà cừ,
ốc khác rất đẹp mà tôi không biết tên.
Trang 308 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
Buổi cơm chiều với các binh sĩ thật là vui. Họ biến
chế gạo sấy thành xôi, và nhiều thứ khác. Họ cười đùa rất
vui vẻ, hồn nhiên với cả phái đoàn. Tôi không thấy gì
chứng tỏ họ lo buồn về tình hình căng thẳng tại Biển Đông
lúc bấy giờ; họ cũng không tỏ ra buồn cho số phận phải ra
hải đảo, xa gia đình gì cả. Có lẽ nhiệm vụ ở đảo của họ có
tính cách định kỳ: Sau một thời gian thì toán khác ra thay
thế cho toán này lên bờ, chứ không phải đi “công tác đảo”
là coi như biết tối mật quốc gia và không biết ngày về.
Chúng tôi không ngủ đêm ở đảo nào. Xế chiều,
chúng tôi lên ca nô ra HQ1 ngủ trong khi tầu di chuyển đến
đảo khác.
Đảo thứ hai đến thăm rất nhỏ, chỉ bằng một cái sân
đá banh! Làm gì có chuyện:
Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 309
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà [2]
Nhưng Thiếu Úy Chúa Đảo cũng làm đủ lễ nghi
quân cách. Dưới ánh nắng chói chang của bầu trời xanh
biếc, trên một mảnh đất (hay san hô?) rộng bằng một sân đá
banh, bao quanh bởi biển rộng bao la, đứng trước toán binh
sĩ dàn chào, Chúa Đảo chào mừng đoàn khách hiếm hoi!
Khách đáp lễ biết ơn các chiến sĩ đóng chốt tại tiền đồn trên
một mảnh đất nhỏ bé để giữ nước. Sau khi tặng quà, khách
lại ra đi. Chúng tôi được cho biết có nhiều đảo còn nhỏ
hơn, có khi bị ngập hoàn toàn khi triều lên.
Đảo thứ ba, đảo cuối cùng tới thăm, thì vào khoảng
“bậc trung”. To hơn sân đá banh nhiều. Đặc biệt ở đây có
rất nhiều trứng rùa (và cả rùa là nguồn thịt tươi). Điểm đặc
biệt khác là đêm đến, chim tới “nghỉ đêm” hàng đàn. Đến
sáng lại bay đi. Nếu dùng súng bắn chim, thì tiếng súng sẽ
làm chim sợ và chúng không trở lại nữa. Do đó Chúa Đảo
này cấm bắn chim và chỉ giăng lưới. Chim nào mắc lưới
không bay theo đàn được thì bị bắt, còn đàn chim thì không
hề hay biết gì về thiếu “quân số” cả.
Chắc là có chuyện gì gấp nên HQ1 không đưa
chúng tôi về Saigon như đã định và chúng tôi được đưa về
Vũng Tầu. Từ đó có xe của cơ quan (Hải Quân, Ty Công
Chánh, Trung Tâm?) đưa chúng tôi về Saigon, vì tôi không
nhớ phải mua vé xe đò. Tôi chỉ nhớ khi tới Vũng Tầu, thấy
đủ nam phụ lão ấu qua lại, tôi mới chợt nhận ra là đã hơn
một tuần nay, tôi sống trong một thế giới toàn đàn ông,
tuyệt nhiên không có bóng dáng một người đàn bà nào cả!
Tất cả chúng tôi về đến Saigon an toàn.
Anh Giám, anh Cảnh và tôi đồng ý tổ chức một bữa
ăn ở nhà hàng với thân hữu và gia đình để hàn huyên về
chuyến đi để đời này. Và nhất là mời anh chị Hạm Trưởng,
người thì đã “share home made food”; người thì đã “made
home food” cho chúng tôi. Tôi lãnh nhiệm vụ đi mời anh
Trang 310 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017
chị Hạm Trưởng nhà ở Phú Nhuận. Tiếc thay, chị Hạm
Trưởng cho hay anh đang đi hải hành.
Sau hơn một tuần, tôi đã xa rời thế giới của riêng tôi
và đã được gặp rất nhiều người có cuộc sống khác hẳn. Anh
Hạm Trưởng, ông Hạm Phó, các sĩ quan hải quân và Chúa
Đảo, các thủy thủ, và binh sĩ trấn đồn; tất cả mọi người đối
sử với chúng tôi rất lịch sự, rất tình cảm, cởi mở và chân
tình, thấy được trong một xã hội văn minh và nhân bản.
Thế mà chỉ hơn một năm sau, vật đổi sao dời, mỗi người
một ngả.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ? [3]
Nguyễn Đức Thịnh
Chú thích:
[1] “Nửa Hồn Thương Đau”, Nhạc Phạm Đình Chương,
Thơ Thanh Tâm Tuyền
[2] “Bạn Đến Chơi Nhà”, Nguyễn Khuyến
[3] “Ông Đồ”, Vũ Đình Liên