trÍ tỊnh toÀn tẬp 1trí tịnh toàn tập là sự diễn dịch chuẩn mực với thâm...

1282

Upload: others

Post on 02-Aug-2020

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 1

  • 2 KINH A DI ĐÀ

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 3

    GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

    HT. Thích Trí Tịnh   

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

      

     

     

     

    NHÀ XUẤT BẢN HÔ ̀NG ĐỨC

  • 4 KINH A DI ĐÀ

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 5

    BAN CHỨNG MINH Hòa thượng Thích Từ Nhơn Hòa thượng Thích Thanh Từ Hòa thượng Thích Tắc An Hòa thượng Thích Hiển Tu Hòa thượng Thích Viên Giác Hòa thượng Thích Trí Quảng Hòa thượng Thích Như Niệm Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh Hòa thượng Thích Giác Toàn Hòa thượng Thích Nhật Quang (Chùa Ấn Quang - Q. 10).

  • 6 KINH A DI ĐÀ

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 7

    BAN CỐ VẤN Hòa thượng Thích Chơn Lạc Hòa thượng Thích Thiện Nhơn Hòa thượng Thích Nhật Quang (TV. Thường Chiếu) Hòa thượng Thích Minh Cảnh Hòa thượng Thích Minh Thông Hòa thượng Thích Thiện Pháp Hòa thượng Thích Hoằng Đức Hòa thượng Thích Tắc Lãnh Hòa thượng Thích Hoằng Thông Hòa thượng Thích Minh Tùy Thượng tọa Thích Chân Tính Thượng tọa Thích Đồng Bổn Thượng tọa Thích Minh Duyên Thượng tọa Thích Hoằng Kiên.

  • 8 KINH A DI ĐÀ

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 9

    BAN BIÊN TẬP Trưởng ban: Thượng tọa Thích Hoằng Tri Phó ban: Thượng tọa Thích Hoằng Chí Phó ban: Đại đức Thích Hoằng Thạnh.

    BAN THỰC HIỆN Đại đức Thích Pháp Đăng (Trưởng ban) Thượng tọa Thích Thiện Xuân Thượng tọa Thích Hoằng Vi Đại đức Thích Hoằng Tín Đại đức Thích Hoằng Đạt Đại đức Thích Hoằng Xưng Đại đức Thích Hoằng Thường Đại đức Thích Minh Thành Đại đức Thích Hoằng Hiển Đại đức Thích Hoằng Nhiệm Đại đức Thích Hoằng Phước Đại đức Thích Hoằng Lập Sa-di Thích Tâm Chánh Phật tử Hoằng Ân Phật tử Hoằng Tôn Phật tử Thanh Tiền Phật tử Thanh Tựu Phật tử Diệu Tịnh.

  • 10 KINH A DI ĐÀ

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 11

    TÁN DƯƠNG CÔNG ĐỨC Hôm nay, chúng ta có phúc duyên chiêm ngưỡng bộ Trí

    Tịnh Toàn Tập, một tuyển tập kinh, luật, luận trong Tam Tạng giáo điển của Phật giáo, được HT. Thích Trí Tịnh gia tâm nghiên cứu và diễn dịch ra chữ Việt để cho tăng, ni, Phật tử dễ dàng trong việc tu học và đọc tụng.

    Lần đầu tiên, chúng ta có được một toàn tập kinh, luật, luật lớn lao và quan trọng của Phật giáo Việt Nam. Trí Tịnh Toàn Tập là sự diễn dịch chuẩn mực với thâm tâm và ngòi bút linh hoạt, Hòa thượng Trí Tịnh đem đến cho chúng ta một sự hiểu biết sâu rộng đối với Phật pháp, mà Trí Tịnh Toàn Tập là sự hướng dẫn quan trọng cho tứ chúng trên bước đường tu hành.

    Kinh giáo là kim chỉ nam cho người con Phật, nên sự diễn dịch giáo điển phải là bậc cao tăng thạc học thì mới đem lại sự kính ngưỡng tiếp nhận, và càng được thêm lợi ích với công đức và đạo hạnh của dịch giả, nên Trí Tịnh Toàn Tập là phúc duyên của Phật giáo Việt Nam và cho tăng, ni, Phật tử.

    Sự hiện diện của Trí Tịnh Toàn Tập là sắc đẹp và hương thơm trong vườn hoa đạo, làm cho giáo lý của Phật pháp càng thêm rực rỡ và ngào ngạt, khiến cho tăng, ni và Phật tử tha thiết muốn phổ biến rộng rãi các kinh, luật, luận của Hòa thượng đã diễn dịch, nên câu hội và đề xuất Trí Tịnh Toàn Tập để huân triêm lợi lạc cho đại chúng hiện tại và lâu mãi về sau, nên bộ Trí Tịnh Toàn Tập xuất hiện.

    Tôi trân trọng tán dương công đức Trí Tịnh Toàn Tập với tứ chúng và mong tăng, ni, Phật tử được ân triêm lợi lạc rộng lớn trên bước đường tu hành.

    Việt Nam Quốc Tự HT. Thích Từ Nhơn

  • 12 KINH A DI ĐÀ

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 13

    LỜI KHẢI BẠCH Kính bạch chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức

    Tăng Ni! Kính thưa Phật tử trong và ngoài nước! Suốt cuộc đời hành đạo của Hòa thượng Tôn Sư là một sự

    nghiệp vĩ đại: dịch kinh, giảng kinh và tụng kinh. Kinh của Ngài dịch là những bộ kinh lớn quan trọng của Phật giáo Đại thừa, cương yếu lập tông của các Tông phái. Về giảng kinh thì phần đông chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư qua các trường lớp Phật học ngày trước đều thọ nhận sự giáo dưỡng của Ngài. Về tụng kinh thì Ngài dạy phải thuộc lòng kinh thì mới gọi là tụng kinh. Khi mới vào chùa, Ngài rất siêng năng tụng niệm. Ngoài các thời khóa quy định, Ngài còn tụng thêm ở thất riêng. Thích kinh nào là học thuộc lòng kinh đó và tụng niệm thường xuyên. Khi về Trường Phật Học Liên Hải, mỗi sáng sớm Ngài đều trì kinh Pháp Hoa trọn bộ, trì xong mới dùng sáng. Về sau, Ngài giữ thời khóa nhất định: mỗi ngày đều tụng kinh Phổ Hiền, bài kệ phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cang, kinh Phổ Môn, kinh A-di-đà và cuối cùng là niệm Phật hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Bây giờ, sức yếu, Ngài chỉ tụng thầm. Tụng thầm mà vẫn thuộc thì sự nhiếp tâm rất cao.

    Trước tấm gương vĩ đại đó, chúng con thật lấy làm hổ thẹn. Về ba phương diện trên, chúng con chưa có phần nào tương ứng. Nay Hòa thượng Tôn Sư tuổi hạc đã cao, sức khỏe mỗi ngày một yếu, thế mà chúng con chưa làm được gì để gọi là “tri ân báo ân” đối với sự nghiệp của Ngài.

  • 14 KINH A DI ĐÀ

    Chúng con từng nghe: Nhạn bay ngang trời Bóng chìm đầm lạnh Nhạn không có ý để lại dấu tích Nước không có ý lưu giữ bóng hình. Dù biết phù sinh hư ảo, vạn vật vô thường, song trước ân

    đức vô bờ của Hòa thượng Tôn Sư, chúng con cũng muốn lưu lại chút dư âm trong một đời tu học và hành đạo của Ngài, nhằm lợi lạc quần sanh. Thế nên, chúng con bèn họp đại chúng, cùng nhau thỉnh chư Tôn túc chỉ dạy để chúng con thực hiện bộ Trí Tịnh Toàn Tập, hầu ghi lại dấu ấn vàng son trong một đời hoằng hóa của Ngài, tuy muộn màng nhưng vẫn còn kịp lúc. Thầm nguyện Ngài từ bi trụ thế, gia trì trí lực cho chúng con để chúng con có thể sớm hoàn thành mỹ mãn công trình Phật sự quan trọng nầy. Rất mong, bộ Toàn Tập sẽ đem lại lợi ích lớn cho Phật giáo Việt Nam, cũng như cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước.

    Nguyện cầu Tam Bảo gia hộ cho Hòa thượng Tôn Sư trụ thế dài lâu để chúng con còn nhờ ân giáo dưỡng và cũng mong ân Tam Bảo gia hộ cho chúng con được đầy đủ thắng duyên thực hiện hoàn mãn bộ Toàn Tập nầy, để tỏ lòng tri ân báo ân Hòa thượng Tôn Sư trước khi Ngài về Phật.

    Chúng con xin tri ân chư Tôn túc Hòa thượng, Thượng tọa đã sách tấn, động viên, cố vấn, hướng dẫn chúng con trong quá trình thực hiện.

    Chúng tôi cũng xin tri ân đến tất cả huynh đệ Tăng Ni, Phật tử trong Ban Biên tập đã dốc lòng, dốc sức làm việc để sớm hoàn chỉnh từng bộ, đưa vào in ấn.

    Chúng tôi cũng không quên ghi nhận công đức của chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử đã cúng dường tịnh tài để chúng tôi đầy đủ phương tiện thực hiện công trình.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 15

    Xin nhất tâm tùy hỉ trước mọi tấm lòng hướng về việc làm đầy ý nghĩa nầy. Trong lúc thực hiện không tránh khỏi những sơ sót, kính mong chư Tôn đức khắp mười phương niệm tình chỉ dạy cho.

    Chùa Vạn Đức, ngày 19/02 Tân Mão (28/03/2011)

    TM. Ban Biên tập

    Tỳ-kheo Thích Hoằng Tri

    *

  • 16 KINH A DI ĐÀ

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 17

    TIỂU SỬ

    Hòa thượng pháp danh Thiện Chánh, tự Trí Tịnh, pháp hiệu Hân Tịnh, húy Nhựt Bình, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41. Là đệ tử của Hòa thượng: thượng Thiện hạ Quang, khai sơn chùa Vạn Linh ở núi Cấm, Châu Đốc. Hòa thượng thế danh Nguyễn Văn Bình, sanh ngày 17 tháng 10 năm 1917 (02/09 Đinh Tỵ), tại xã Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng), huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp), là con út trong gia đình có sáu anh chị em.

    Thân phụ Ngài là ông Nguyễn Văn Cân, một nông dân chơn chất. Cụ ông qua đời lúc Hòa thượng mới lên ba tuổi. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Truyện, mất lúc Hòa thượng vừa được bảy tuổi. Vì mồ côi cả cha lẫn mẹ quá sớm, nên Hòa thượng ở với người anh thứ ba là ông Nguyễn Văn Đặng (nay đã qua đời). Hòa thượng có ba chị gái: thứ hai, thứ năm và thứ sáu. Người thứ tư thì mất sớm.

    Đến năm 10 tuổi, Hòa thượng mới vào học lớp năm (thời đó, lớp năm là lớp thấp nhất). Hòa thượng rất thông minh, vừa học vừa dạy lại các cháu. Ban đêm còn đọc truyện Tàu cho mọi người nghe. Một ngày nọ, nhân thấy người hàng xóm bắt chim dòng dọc đem về nhổ lông rồi nướng ăn. Nhìn sự đau đớn của con vật trước khi chết, trong lòng Hòa thượng xót thương vô cùng, từ đó bèn phát tâm ăn chay trường. Trong nhà có người hỏi thì chỉ trả lời là không ăn mặn được. Lúc chơi đùa với lũ trẻ cùng trang lứa trong xóm, thấy các bạn lấy dàn ná bắn chim thì Hòa thượng đuổi cho nó bay đi, dù cho chúng bạn có chê cười, trách mắng, cũng không bận lòng.

    Năm 15 tuổi, Hòa thượng học đến lớp đệ thất, rồi sang học chữ Nho với người chú và học thuốc Bắc với người anh họ.

    HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH 

  • 18 KINH A DI ĐÀ

    Hòa thượng thấy cảnh lục đục của gia đình anh chị nên có ý xuất ly thế tục. Từ đây, Hòa thượng bắt đầu tìm hiểu đến các tôn giáo như Cao Đài, Thông Thiên Học v.v... và đặc biệt quan tâm đến Phật giáo, vì chủ thuyết của các tôn giáo kia có nhiều điểm Hòa thượng không thỏa mãn. Nhân duyên đọc được quyển Tây Phương Trực Chỉ, từ đó, Hòa thượng âm thầm tập niệm Phật, trì chú vãng sanh, gởi lòng mình về cõi Tây Phương Tịnh Độ. Mỗi ngày, Hòa thượng lấy quyển sách thuốc Bắc của người anh cầm trên tay, xem như đang đọc sách nhưng Hòa thượng đang âm thầm niệm Phật: hễ niệm đủ 100 câu Phật hiệu thì lật qua một trang. Ngài đến các chùa, đa số thấy quý thầy chú trọng về việc làm đồ mã, cúng bái, đi đám; trên bàn thờ thì tối om, thờ nhiều tượng, tượng nào cũng đội khăn đỏ trông phát sợ nên không có cảm tình lắm. Hòa thượng cho rằng, các vị cao tăng có lẽ ẩn dật nơi non cao núi thẳm, nên có ý hoài vọng các chùa trên núi.

    Năm 18 tuổi, Hòa thượng thấy có một ông lão, bảo rằng: “Con có căn tu, phải cần tìm thầy học đạo thì sẽ được như trong sách ước”. Ông còn bảo thêm: “Chừng nào cọp chết, rắn mới về non”. (Hòa thượng tuổi Tỵ).

    Năm 1937, lúc Hòa thượng 21 tuổi, cùng người bạn lên Sài Gòn lập nghiệp, ở chung nhà trọ. Nhà ấy có một người đi chơi ở Tây Ninh về mua được một con cọp con, đem về nuôi được chín, mười ngày thì nó chết. Ứng điềm chiêm bao, Hòa thượng liền thu xếp tìm đường xuất gia. Trước đó, tuy đã có ý định xuất thế cho sớm nhưng còn người chị thứ sáu chưa lập gia đình, nên không nỡ bỏ đi. Nay bà chị đã yên bề gia thất, Hòa thượng yên tâm ra đi, để lại cho các anh chị mỗi người một lá thư và một tấm hình.

    Hòa thượng đi thẳng lên núi Cấm, vì trước đã nghe có nhiều vị chân tu trên núi ấy. Vừa đến chân núi, vì quá vui mừng nên quăng cả giày dép. Hòa thượng nhảy từ tảng đá này

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 19

    qua tảng đá khác và nguyện ghé lại ngôi chùa nào trước thì sẽ xuất gia ở đó, dù chưa biết chùa đó tên gì, trụ trì là ai. Và rồi nhân duyên đưa Ngài đến ngôi chùa Vạn Linh, là một ngôi chùa ở xa và cao nhất. Hòa thượng vào chùa xin xuất gia. Lúc đó, Hòa thượng Trụ trì không có ở trong chùa mà ở thất riêng ngoài bìa rừng, chỉ khi nào có việc thì sau giờ Tịnh độ mới vào dạy bảo tăng chúng ít lời. Hôm ấy là tối 14 tháng 02 Đinh Sửu, ngày sám hối giữa tháng. Sau giờ sám hối, chúng ra thưa, Hòa thượng Trụ trì vào. Hòa thượng Trụ trì nhìn sững Hòa thượng hồi lâu rồi mới nói với đại chúng: “Bay đừng khinh thường thằng này. Đời trước nó đã làm Hòa thượng, đời nay nó cũng làm Hòa thượng, nhưng vì có tội hay nhìn con gái nên đời này bị bệnh mắt suốt đời”. Thế là hôm sau, Hòa thượng được thế phát vào ngày vía Phật nhập Niết-bàn.

    Sau khi xuất gia, Hòa thượng lãnh việc viết sớ điệp. Hòa thượng Trụ trì cho Ngài ở cái thất nhỏ trong vườn chùa. Ngoài các việc và thời khóa trong chùa, Hòa thượng còn ra thất tụng kinh và làm bổn phận hết sức cần mẫn. Ngài hành khổ hạnh như nhịn ăn, ít ngủ, đến đỗi Hòa thượng Trụ trì phải cảnh cáo.

    Nhân đọc được tạp chí Từ Bi Âm, Hòa thượng phát khởi ý nguyện học rộng Phật pháp. Cuối năm 1939, Hòa thượng xin phép Hòa thượng Trụ trì xuống núi về Sài Gòn để tìm học kinh luật.

    Về đến Sài Gòn, Hòa thượng cùng thầy Thiện Phước ra núi Thị Vải tìm chỗ thích hợp để cất thất. Sau cùng, tìm được một điểm tương đối tốt gần chùa Tổ (nay là Linh Sơn Bửu Thiền). Trong chùa có cho mượn dụng cụ đốn cây và dẫn nước về. Thời gian đó chưa có ai ở nhiều, nên sơn lam chướng khí rất nặng. Vì thế, chẳng mấy hôm, Hòa thượng và thầy Thiện Phước đều bị bệnh sốt rét, lên cữ từng cơn. Thấy không kham nổi nên hai người đồng xuống chân núi. Thầy Thiện Phước thì tá túc nơi am của bà Năm, Hòa thượng thì tá túc nơi

  • 20 KINH A DI ĐÀ

    hang đá của bà Bảy. Vài hôm sau, thầy Thiện Phước tịch. Hòa thượng bèn về Sài Gòn tá túc ở chùa Tịnh Độ, Gò Vấp. Chùa này do ông Tư Lành làm xếp ga xây dựng lên. Nhà ông ở phía trước, chùa xây phía sau, có thỉnh quý thầy để trụ trì. Hòa thượng đến bệnh viện Sài Gòn để điều trị, nhưng cũng chẳng thuyên giảm. Thấy vậy, Ngài tự nguyện với lòng: “Có chết như huynh Thiện Phước cũng chẳng sao”. Thế nên, không quan tâm đến việc trị bệnh nữa mà phát tâm biên chép kinh Pháp Hoa. Có một Phật tử biết tâm nguyện của Hòa thượng, giúp tìm mua giấy mực. Đến ngày 14 tháng 10 là biên chép xong. Đúng hôm ấy, trong khi gởi để đóng lại thành quyển, chưa đem về thì có ông Mười là bổn đạo trong chùa đến nói với Hòa thượng: “Tôi biết có ông thầy kia trị bệnh sốt rét hay lắm, để tôi đưa huynh đến đó xem sao!”.

    Ông bèn lấy xe đạp chở Hòa thượng đến đó. Ông thầy thuốc không có nhà riêng, ở đậu nhà người ta mà làm thuốc. Sau khi hỏi bệnh trạng và giờ lên cữ, ông nói bệnh nặng lắm vì lên cữ khuya. Ông vào nhà sau, một lúc đem ra cục thuốc để trên miếng giấy, quan sát thì Hòa thượng biết có ớt và tỏi đâm chung. Ông bảo trước khi lên cữ nửa tiếng, lấy tay mặt với ra sau lưng, từ trên cổ lần xuống hết ngón tay giữa chấm chỗ nào thì đó là huyệt cao quan, lấy cục thuốc ịn vào đó (cục thuốc được để trên miếng giấy mỏng chừng 3 ngón tay), rồi cứ ngồi ngay ngắn chờ. Hòa thượng về làm y như vậy. Nửa tiếng sau khi ịn cục thuốc, cơn sốt rét bắt đầu kéo đến. Như mọi lần, nó bắt đầu từ xương khu quặn lên như con rắn bò, đến cục thuốc nó dừng lại và quặn vòng quanh đó dữ lắm rồi lại ngưng, làm như vậy ba lần rồi ngưng luôn. Từ đó căn bệnh sốt rét dứt hẳn.

    Sau khi hết bệnh, Hòa thượng ở lại chùa đó một thời gian ngắn. Về sau, có người em gái họ đã xuất gia ghé thăm, pháp danh là Diệu Trí. Cô ấy có khoe với Hòa thượng là được học kinh này kinh nọ và khuyên Hòa thượng nên tìm học. Lúc bấy

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 21

    giờ, chỉ có trường An Nam Phật Học mở ở chùa Báo Quốc tại Huế, trong tâm Hòa thượng khởi ý đi Huế từ đó.

    Đầu năm 1940, Hòa thượng về lại Cái Tàu để xin giấy ra Huế học, nhưng chính quyền không cho, bảo Hòa thượng phải ở lại năm bảy tháng mới cấp giấy. Hòa thượng không chờ được nên lên Sài Gòn tìm cơ hội để đi, được một thí chủ là bà Ba Hộ (chủ đất chùa Vạn Đức) cúng dường 15 đồng làm lộ phí. Thật ra, đi tàu suốt đến Huế thì khỏe hơn, nhưng bấy giờ, Huế thuộc vùng bảo hộ của Pháp, còn miền Nam là thuộc địa, nên ra đó phải có giấy như xin Passport ra nước ngoài vậy. Vì thế, Hòa thượng phải đi từng chặng. Hòa thượng lên tàu đi Phan Thiết, đến nơi thì đã trưa, Hòa thượng kêu xe kéo đến chùa nào gần cũng được, vì thật sự cũng không biết chùa nào mà đến. Xe kéo Hòa thượng đến chùa Bình Quang, Hòa thượng vào chùa xin cơm. Chùa dọn cơm xong, lúc sắp ăn thì vị Ni trụ trì nói: “Huynh à! Chư tăng ở đây đi đường hay ăn cơm là phải mặc áo dài, sao huynh không mặc?”. Hòa thượng làm thinh, trong bụng thầm nghĩ: “Cũng muốn mặc lắm nhưng có đâu mà mặc”. Sau này vị Ni đó vẫn còn nhớ chuyện cũ, trong tâm tiếc rằng phải chi lúc ấy cúng dường cho Hòa thượng một hai cái áo dài nào có khó gì, lại còn gieo được phước lành cúng dường bước đầu cho một vị cao tăng sau này.

    Sau khi ăn cơm xong, Hòa thượng lại tiếp tục ra bến xe để đi Bình Định, vì trước khi đi, Hòa thượng có đến tòa soạn báo Từ Bi Âm, gặp Hòa thượng Trụ trì chùa Liên Tôn ở Bình Định, lúc đó là Phó chủ bút, còn Hòa thượng Bích Liên làm chủ bút. Ra đến Bình Định, Hòa thượng tìm lại chùa Liên Tôn. Hôm đó, Hòa thượng Trụ trì còn ở Thành phố chưa về. Trong chùa, chỉ có một vị thầy trông coi gọi là thầy Khố. Ít hôm sau, Hòa thượng Trụ trì về, có cả cô Diệu Trí và có thị giả. Hòa thượng bèn xin tạm ở đây tu học. Hòa thượng Trụ trì nhờ Hòa thượng viết lại Bát-nhã Tâm Kinh mà Hòa thượng đã giảng và

  • 22 KINH A DI ĐÀ

    in từng kỳ trong báo Từ Bi Âm, ghép lại thành tập để in ra phổ biến. Thời gian đó, Hòa thượng Trụ trì có giảng Cảnh Sách Cú Thích Ký, chủ yếu là dạy cho cô thị giả, Hòa thượng và cô Diệu Trí cũng theo học. Cô Diệu Trí có nhờ ngoài Bắc thỉnh một số kinh chữ Hán, giúp đỡ cho Hòa thượng có tài liệu để học. Cô Diệu Trí đề nghị Hòa thượng nên ra Huế vào trường học tốt hơn. Thế nên, Hòa thượng ở đó được ba tháng thì tiếp tục lên đường ra Huế, còn cô Diệu Trí thì về lại Sài Gòn. Lúc đó là tháng 08 năm 1940.

    Ra đến Huế, Hòa thượng cũng không biết đến chùa nào, mới nhờ mấy người kéo xe. Họ nói ở chùa Tây Thiên có quý thầy ở miền Nam ra. Hòa thượng nhờ họ kéo đến đó. Chùa Tây Thiên là chùa của Hòa thượng Giác Nhiên, vị tăng Thống thứ hai của GHPGVNTN. Ở đó, Hòa thượng gặp Hòa thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa. Hòa thượng Giác Tâm chùa Duyên Giác ở Bến Tre thì đã ra trường trước. Ở đây cũng có dạy kinh Lăng-nghiêm. Sau buổi học, thầy Giác Tâm bảo Hòa thượng đọc lại phần đã học. Hòa thượng đọc lại, giảng nghĩa rành rẽ. Thầy Giác Tâm thấy thế mới đề nghị Hòa thượng nên đến trường lớp, vấn đề liên hệ thầy Giác Tâm sẽ lo cho.

    Hòa thượng được nhận vào học và được cấp học bổng, vì một thân một mình không ai bảo trợ. Khi Hòa thượng vào học thì lớp đó là năm thứ sáu của Tiểu học (Sơ cấp) còn vài tháng nữa là thi lên Trung học (Trung cấp). Các môn khác thì Hòa thượng học không khó lắm, chỉ có môn Duy Thức là mù tịt không biết gì. Lúc đó đang dạy Duy Thức Dị Giản sắp hết, Hòa thượng mới mượn tập xem lại từ đầu và dần dần hiểu ra. Sau khi hết quyển, cho làm bài kiểm tra với chủ đề là Bát Thức Đồng Dị. Bài đó, Hòa thượng được chấm chín điểm rưỡi, cao nhất lớp. Việc này đã làm xao động trong chúng. Hòa thượng được Hòa thượng Đốc Giáo để ý. Đến cuối năm, khi thi lên Trung cấp, học chúng lo ngại nếu Hòa thượng đứng

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 23

    đầu thì mất thể diện những người học lâu. Sau khi thi viết, đến phần khảo hạch miệng. Bác sĩ Lê Đình Thám phụ trách môn này. Cách thi là lật quyển sách nhằm trang nào thì giải thích trang đó. Vì lật nhằm trang chưa học nên Hòa thượng giải thích chưa được trúng lắm. Giáo sư Lê Đình Thám cười và nói: “Chú này đến sau, mà sau này sẽ hữu dụng!”. Chung cuộc, Hòa thượng cũng được đứng hạng bảy.

    Đầu năm 1941, Hòa thượng thọ giới Sa-di tại Huế với Đại lão Hòa thượng Thích Trí Độ chùa Quốc Ân - Huế, được ban pháp tự là Trí Tịnh.

    Sau đó, Hòa thượng tiếp tục học lên Trung đẳng và tốt nghiệp vào cuối năm 1942. Đến năm 1945 thì tốt nghiệp Cao đẳng. Cũng năm này, trường An Nam Phật Học dời vào Tòng Lâm Kim Sơn, Hòa thượng được Hội và Ban giám đốc cử làm Giám viện Quản đốc trường. Kế đó, vì nạn đói ở Huế cũng như cả miền Bắc, nhà trường quyết định chuyển học tăng Sơ đẳng và Trung đẳng khoảng 40 vị vào Nam và giao toàn chúng cho Hòa thượng quản lý. Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Chí Quang lo chỗ nơi, mục tiêu hướng đến là Lưỡng Xuyên Phật Học. Vào đến Nam, đoàn học tăng tạm ở lại chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho do thầy Trí Long trụ trì. Thầy Trí Long cũng là một học tăng trong đoàn. Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Chí Quang trở về Lưỡng Xuyên lo sắp xếp, còn Hòa thượng về chùa Kim Huê, Sa Đéc tạm ở và lo nhập thất. Ngày 19 tháng 06 năm 1945, Hòa thượng được thọ Đại giới tại Đại giới đàn tổ chức tại chùa Long An, Sa Đéc, do Đại lão Hòa thượng chùa Kim Huê làm Hòa thượng đàn đầu.

    Cách mạng tháng Tám năm 1945 phát động, Lưỡng Xuyên Phật Học bị phân tán. Hòa thượng Thiện Hoa về chùa Phật Quang ở Trà Ôn, Cần Thơ do Hòa thượng Thiện Tâm là anh ruột làm trụ trì, xây dựng tạm mái trường. Hòa thượng từ Sa Đéc về Phật Quang, cùng Hòa thượng Thiện Hoa tập họp các

  • 24 KINH A DI ĐÀ

    học tăng lập thành trường Phật Học Phật Quang, khai giảng vào cuối năm. Học tăng trường Phật Quang phần đông là học viên mới, còn nhóm cũ phần đông tự phân tán vì quốc biến.

    Cuối năm 1946, tình hình địa phương không được ổn định. Hòa thượng dời một số học tăng về tạm ở chùa Vạn Phước, Phú Lâm, Chợ Lớn. Sau đó, Hòa thượng cùng thầy Huyền Dung xây dựng thành trường Liên Hải Phật Học, quy tụ số học tăng khoảng 70 vị từ khắp các nơi về. Trong đó có Hòa thượng Đạt Từ ở chùa Thiền Tôn (Thủ Đức) đến giúp và giữ chức Giám trường, Hòa thượng Quảng Liên và Hòa thượng Quảng Huệ cũng về hợp tác. Tại đây, Hòa thượng đã tổ chức được một Đại giới đàn. Hòa thượng Quảng Liên cũng như Hòa thượng Bửu Huệ được thọ Đại giới tại đây.

    Đến năm 1950, Hòa thượng có bệnh phải đi dưỡng bệnh ở Linh Sơn Cổ Tự (Vũng Tàu), nên giao toàn trường cho Hòa thượng Thiện Hòa vừa ở Bắc về quản lý. Năm 1951, Hội chùa Linh Sơn thỉnh Hòa thượng làm trụ trì và giao toàn quyền quản lý.

    Năm 1952, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt được thành lập ở Sài Gòn, Hòa thượng được mời giữ chức Trưởng Ban Giáo Dục và Trưởng Ban Giám Luật. Kế đó, Giáo Hội Tăng Già toàn quốc được thành lập, Hòa thượng được cử vào các chức vụ: Trưởng Ban Giáo Dục, Ủy viên Phiên dịch Tam Tạng và Phó Trị Sự Trưởng. Vì có nhiều trọng trách trong Giáo hội nên tháng 04 năm 1954, Hòa thượng trao quyền trụ trì chùa Linh Sơn cho Thượng tọa Tịnh Viên, cho đến năm 1995 thì Thượng tọa Tịnh Viên viên tịch.

    Với hoài bão truyền đăng tục diệm, hoằng dương chánh pháp, kiến tạo già lam, Hòa thượng được Phật tử cung thỉnh về ngôi nhà xưa không người thừa kế trên một vùng đất hoang vu vắng vẻ ít người đi lại, tọa lạc tại ấp Bình Đức, xã Tâm Bình, quận Thủ Đức, phường Tam Phú, TP. Hồ Chí Minh.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 25

    Nơi đây, Hòa thượng khai sơn tạo dựng già lam, lấy tên là Vạn Đức. Lần lần, do uy tín và đạo đức của Hòa thượng, tăng ni quy tụ về cất chùa am chung quanh, biến nơi này thành một đạo tràng lớn mà hiện nay, nói đến đạo tràng Vạn Đức ai ai cũng đều biết.

    Năm 1955, với chí nguyện hoằng dương Tịnh độ, hướng dẫn chúng sanh đời mạt pháp, Hòa thượng thành lập Cực Lạc Liên Hữu, khuyến tấn người niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh Độ. Trong đó, Hòa thượng làm Liên trưởng, Hòa thượng Huệ Hưng làm Liên phó, thầy Tịnh Đức làm Thư ký. Cực Lạc Liên Hữu được Hòa thượng khai hóa đã khơi dậy phong trào tu tập, khuyến tấn hành giả tín hướng chỉ quy Tịnh Độ. Hòa thượng là vị Tổ Sư đương thời chấn hưng Tịnh tông trong tòa nhà Phật Giáo Việt Nam. Hòa thượng từng chỉ dạy: “Sự nghiệp của người xuất gia chính là thiện căn công đức, tự mình giác ngộ và giác ngộ cho mọi người. Pháp môn niệm Phật rất đơn giản, dễ thực hành. Một câu A-di-đà Phật, mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể niệm, không trở ngại mọi ngành nghề, ai nấy đều có thể tu được, chỉ cần nhất tâm tinh tấn, Tín-Nguyện-Hạnh vững bền thì chắc chắn thành công”.

    Hòa thượng rất quán triệt Thánh điển, tinh tường y dược Đông phương, tăng ni, Phật tử Việt Nam thấm nhuần được kinh điển Đại thừa, phần lớn do công trình dịch thuật của Hòa thượng.

    Dịch phẩm của Hòa thượng rất có giá trị. Hòa thượng quý chuộng điều căn bản là dịch đúng nghĩa, chính xác, rõ ràng, chơn chất, không bóng bẩy, âm vận êm xuôi, để người đọc tụng lưu thông, thầm nhận được nghĩa thú rất rõ ràng, dễ nắm bắt được ý chỉ của kinh.

    Năm 1947, Hòa thượng dịch kinh Pháp Hoa ở trường Liên Hải Phật Học. Sau đó là kinh Tam Bảo, Địa Tạng, phẩm Phổ Hiền.

  • 26 KINH A DI ĐÀ

    Năm 1951, do yêu cầu của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Hòa thượng chuyển dịch kinh Phạm Võng để tụng trong ngày Bố-tát.

    Năm 1952, trước tác bộ Đường Về Cực Lạc tại chùa Linh Sơn, Vũng Tàu.

    Năm 1964, dịch kinh Hoa Nghiêm ở chùa Vạn Đức, rồi tiếp tục kinh Đại Bát Niết-bàn, Đại Bát-nhã.

    Năm 1972, dịch Đại Bửu Tích, Hán bộ từ 01-120. Năm 1978, được phép in nên dịch thêm hai tập, Hán bộ từ

    121-150. Rồi dịch Văn-thù Vấn Bát-nhã, Hán bộ từ 151-155; Vô

    Tận Ý Bồ-tát, Hán bộ từ 156-159; Thập Lục Quán Kinh, Hán bộ 160.

    Tất cả ghép chung vào Đại Bảo Tích để tiện việc xin phép. Năm 1962, Hòa thượng được bổ nhiệm làm Phó Viện

    Trưởng Phật Học Viện Trung Phần. Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

    thành lập, Hòa thượng làm Trưởng đoàn Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Việt Nam, được suy cử làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự.

    Năm 1973, làm Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo. Năm 1978, Hòa thượng được Hòa thượng Tăng Thống tấn

    phong giáo phẩm cùng ba vị: Hòa thượng Trí Nghiêm ở Nha Trang, Hòa thượng Giác Tánh ở chùa Nguyên Thiều, Bình Định và Hòa thượng Minh Tâm ở Phan Rang.

    Huy hiệu bánh xe pháp luân 12 căm của GHPGVNTN là ý kiến của Hòa thượng (Tam chuyển pháp luân Tứ đế).

    Năm 1981, GHPGVN thành lập, Hòa thượng được suy cử làm Phó Chủ Tịch Thường Trực.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 27

    Năm 1982, kiêm thêm Trưởng Ban Trị Sự Thành Hội PG TP. HCM.

    Năm 1984, Hòa thượng chính thức được suy cử làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

    Năm 1987, kiêm thêm Trưởng Ban Tăng Sự, giao Trưởng Ban Trị Sự Thành Hội cho Hòa thượng Thiện Hào.

    Năm 1992, kiêm thêm Đệ Nhất Phó Pháp Chủ, kiêm Giám Luật đến bây giờ.

    Hòa thượng cả đời tận tụy vì Phật pháp, luôn lấy việc học kinh, tụng kinh, niệm Phật, giảng dạy và phiên dịch kinh điển từ Hán tạng ra Việt văn làm chánh hạnh của đời mình. Hiện nay, tuy tuổi đã 95 (2011), nhưng tinh thần Hòa thượng vẫn sáng suốt, càng thêm dốc sức tu Tịnh nghiệp. Mỗi ngày, Hòa thượng thầm tụng thuộc lòng kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện, kinh Kim Cang, bài kệ phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Môn, kinh A-di-đà và sau đó niệm Phật cầu sanh Cực Lạc, lấy đó làm thường khóa, chưa từng bỏ sót. Hòa thượng luôn nhắc nhở tăng ni, Phật tử phải nhớ vô thường để tiến tu, lấy sự ăn chay, phóng sanh làm nền tảng trưởng dưỡng tâm từ bi, siêng làm việc lành lợi ích rộng khắp cho mọi người, và nhất là luôn luôn niệm Phật, đọc tụng kinh điển Đại thừa để an định tâm mình, chế phục phiền não, lấy thế giới Cực Lạc làm chỗ trở về, bảo đảm thành tựu quả vị Phật. Vì sự lợi tha, cứ vào nửa tháng, Hòa thượng lại truyền giới Bát quan trai cho hàng Phật tử tại gia đến tu học tại chùa Vạn Đức.

    Hòa thượng thật là một tấm gương sáng, một bậc chân tu sáng ngời đạo hạnh trong lòng tăng ni, Phật tử Việt Nam, là bậc thầy mẫu mực của Tịnh tông để các liên hữu cùng noi bước.

    Sau ngày vía Bồ-tát Quán Thế Âm 19/02 năm Giáp Ngọ (2014), sức khỏe Hòa thượng yếu hẳn. Hàng đệ tử thỉnh Ngài nên đi bệnh viện, Hòa thượng không đồng ý. Đến ngày 24/02,

  • 28 KINH A DI ĐÀ

    nhận thấy Ngài quá yếu nên quý Thầy đã đưa Hòa thượng đến bệnh viện Chợ Rẫy một cách miễn cưỡng.

    Được sự quan tâm của Giáo hội và Nhà nước cũng như tập thể y bác sĩ đã tận tình chữa trị, nhưng đến sáng ngày 28/02 âl (28/03/2014), nhận thấy không khả quan, quý Thầy đã quyết định đưa Hòa thượng về chùa Vạn Đức. Lúc 09 giờ 15 phút, Hòa thượng đã an nhiên thị tịch trong tiếng niệm Phật vang rền của đại chúng. Hòa thượng hưởng thượng thọ 98, hạ lạp 69.

    Sau đó, đại chúng đã luân phiên niệm Phật đến 17 giờ 15 phút mới dừng. Lúc ấy, nhục thân Hòa thượng vẫn mềm mại, sắc diện hồng hào, thảnh thơi như đi vào giấc ngủ, và nóng ở đỉnh đầu. Trong bảy ngày tang lễ, chư tăng và Phật tử đã luân phiên niệm Phật suốt ngày đêm cho đến ngày di quan nhập tháp.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 29

    Giới, Định, Huệ thoát Ta-bà Tín, Nguyện, Hạnh sanh Cực Lạc

    HT. Thích Trí Tịnh

  • 30 KINH A DI ĐÀ

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 31

      

    KINH A DI ĐÀ(1) Hán dịch: Đời Dao Tần, Ngài Tam Tạng

    Pháp sư Cưu Ma La Thập(2)

    1. KỲ VIÊN ĐẠI HỘI(3)

    Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc

    nước Xá Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội đều là bực đại A la hán mọi người đều quen biết, như là:

    Trưởng lão Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Ma ha Ca Chiên Diên, Ma ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nâu Lâu Đà… Những vị đại đệ tử như thế và hàng đại Bồ tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương

  • 32 KINH A DI ĐÀ

    Tử, A Dật Đa Bồ tát, Càn Đà Ha Đề Bồ tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát... cùng với các vị đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích Đề Hoàn Nhơn v.v... Đại chúng cùng đến dự hội(4).

    2. Y BÁO CHÁNH BÁO(5)

    Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất rằng: Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có

    thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đang nói pháp.

    3. Y BÁO TRANG NGHIÊM

    Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc(6).

    Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc(7).

    Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng, bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thì ánh sáng xanh, sắc vàng thì ánh sáng vàng, sắc đỏ thì ánh sáng đỏ, sắc trắng thì ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch(8).

    Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

    Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 33

    trời Mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành(9).

    Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

    Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tần già, Cộng mạng… những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã. Tiếng chim đó diễn nói những pháp như: ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ đề phần, bát Thánh đạo phần v.v... Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

    Xá Lợi Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thật là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá Lợi Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi(10).

    Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động các mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

    Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

    4. CHÁNH BÁO VÔ LƯỢNG THÙ THẮNG

    Xá Lợi Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?

  • 34 KINH A DI ĐÀ

    Xá Lợi Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.

    Xá Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà (11).

    Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.

    Xá Lợi Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử đều là bậc A la hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.

    Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

    Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực Bất thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị bực Nhứt sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói thôi!

    Xá Lợi Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ(12).

    5. NHƠN HẠNH VÃNG SANH

    Xá Lợi Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi đó.

    Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thì người đó đến lúc lâm chung đức

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 35

    Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà (13).

    Xá Lợi Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế. Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đây, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

    6. SÁU PHƯƠNG PHẬT ĐỒNG KHUYÊN TIN

    Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà. Phương Đông cũng có đức A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.

    Xá Lợi Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhựt Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.

    Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bửu Tướng Phật, Tịnh Quang Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.

  • 36 KINH A DI ĐÀ

    Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhựt Sanh Phật, Võng Minh Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.

    Xá Lợi Phất! Thế giới phương Dưới, có đức Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật... hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.

    Xá Lợi Phất! Thế giới phương Trên, có đức Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bửu Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bửu Hoa Đức Phật, Kiến Nhứt Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật.. hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy(14).

    Xá Lợi Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

    Xá Lợi Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh nầy mà thọ trì đó và nghe danh hiệu của các đức Phật, thì những thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 37

    Xá Lợi Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

    Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thì những người ấy đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

    Xá Lợi Phất! Cho nên các thiện nam tử, thiện nữ nhơn nếu người nào có lòng tin thì phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

    7. THUYẾT KINH RẤT KHÓ

    Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy:

    Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hy hữu, có thể ở trong cõi ta bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, mà Ngài chứng được ngôi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin nầy.

    Xá Lợi Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thực hành việc khó nầy: được thành bực Vô thượng Chánh giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin nầy, đó là rất khó (15)!

    Đức Phật nói kinh nầy rồi, ngài Xá Lợi Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: trời, người, A tu la v.v... nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ Phật mà lui ra.

    *

  • 38 KINH A DI ĐÀ

    THÍCH NGHĨA KINH A DI ĐÀ

    [1] Trong kinh nầy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức A Di Đà Phật.

    [2] Triều Tấn (Tàu), Dao Hưng chiếm một phần đất xưng vương, quốc hiệu là Tần nên gọi là Dao Tần.

    Bậc thông hiểu tam tạng: kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam tạng Pháp sư.

    Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.

    [3] Ông Cấp Cô Độc Trưởng giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái tử, con vua Ba Tư Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tinh xá để thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy.

    Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị đại A la hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.

    [4] A Dật Đa là tên của đức Di Lặc Bồ tát. Càn Đà Ha Đề Bồ tát là ngài Bất Hưu Tức Bồ tát. Thích Đề Hoàn Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời

    Đao Lợi. [5] Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao vườn v.v... gọi

    chung là cõi nước, trong đây y báo là nước Cực Lạc. Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời,

    chim thú v.v... trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh văn v.v...

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 39

    [6] Cõi nước ta đương ở đây gọi là ta bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ v.v... Trái lại, bên cõi Cực Lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc v.v…

    KHỔ Ở CÕI TA BÀ TAM KHỔ: 1. Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống

    nay chết mai nầy đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét v.v...

    2. Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xoay chuyển, như sương đầu cỏ, như móc buổi mai.

    3. Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, thiên chuyển luôn không dừng...

    BÁT KHỔ: 1. Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng đau khổ

    trăm bề… 2. Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng,

    thần hôn, lưng mỏi, gối dùn, mặt nhăn đầu bạc... 3. Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm

    không yên, đi đứng không ổn... 4. Tử khổ: ngộp mệt không ngằn, lộn tròng, méo miệng,

    chuyển xương, gân rút... 5. Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở

    mang họa, cầu thọ mà yểu vong... 6. Ái biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly... 7. Oán tắng tội khổ: oan gia đối đầu, cừu thù gặp gỡ.

  • 40 KINH A DI ĐÀ

    8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng không khác…

    VUI Ở CỰC LẠC TAM LẠC: 1. Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi

    xinh, ấm no, khương kiện... 2. Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước

    không thiêu diệt... 3. Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh trí bất

    động... BÁT LẠC: 1. Sanh lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh... 2. Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu... 3. Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh,

    không đau... 4. Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt... 5. Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thực tự nhiên... 6. Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không

    rời... 7. Vô oán tắng hội lạc: thuần là thượng thiện nhơn, đồng

    tâm xứng ý... 8. Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ

    không dời... Không đâu khổ bằng ta bà, không đâu vui bằng Cực Lạc,

    vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn ta bà mà nguyện về chốn Cực Lạc!

    [7] Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ,

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 41

    xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc v.v... hoặc có thứ cây thân vàng, lá bạc, nhánh lưu ly v.v...

    Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên nầy bằng chất gỗ.

    [8] Trong đây nói đất (địa) đó là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng... Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi.

    Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: 1. Trong sạch 2. Nhẹ nhàng 3. Mát mẻ 4. Ngon ngọt 5. Đượm thuần 6. Êm đềm hòa huỡn 7. Uống vào hết đói khát 8. Bổ khỏe thân tâm. [9] Người trong nước Cực Lạc đều có thần túc thông,

    trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy

    gẫm tưởng niệm những pháp lành: Phật, Pháp và Tăng v.v... Đi kinh hành có hai điều lợi ích:

    1. Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ.

    2. Điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.

    [10] Tín, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ).

  • 42 KINH A DI ĐÀ

    Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh).

    Thất Bồ đề Phần cũng gọi là thất giác chi (7 đức giác ngộ) là: Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả.

    Bát thánh đạo phần là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

    Ở trong cõi ta bà nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.

    [11] Đoạn nầy là đức Phật Thích Ca tự định danh nghĩa của ba tiếng A Di Đà, vì có hai điều vô lượng: 1) Vô lượng quang, 2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là A Di Đà.

    [12] A bệ bạt trí (Phạm âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bậc nầy thời một mực đi trên đường thánh, thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cực Lạc đều vào bậc bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy).

    Các bậc thượng thiện nhơn là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.

    [13] Cõi Cực Lạc rất thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành phước đức

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 43

    rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát..v.v.. phóng quang đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cực Lạc.

    - Niệm Phật không còn có móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.

    [14] Người tu Tịnh độ phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật..v.v…) Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cực Lạc) Trong ba điều nầy, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.

    - Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng. Sông Hằng là con sông lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hy Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.

    - Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?

    - Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới (1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = 1 đại thiên thế giới).

    Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là ta bà (Phạm âm) dịch là Kham nhẫn ngụ ý rằng trong cõi nầy có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.

  • 44 KINH A DI ĐÀ

    [15] Ngũ trựơc: 1. Kiếp trược: Kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong

    thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ.

    2. Kiến trược: Những điều mê chấp, tà kiến, điên đảo v.v…

    3. Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín v.v…

    4. Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,...) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng.

    5. Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong chừng hơi thở v.v…

    Năm món trên đây tánh cách nhiễu não, sai lầm, thiên biến vô thường nên đều gọi là trược (nhơ đục).

    * PHỤ LỤC VÀI TÍCH VÃNG SANH CÓ CHỨNG NGHIỆM

    Những sự tích của các vị tu Tịnh độ được vãng sanh mà chúng ta được đọc đến, hầu hết là trích dịch ở sách Tàu mà những vị được vãng sanh kia là người Tàu. Người nước ta tu Tịnh độ, từ xưa đến nay há lại không có người được vãng sanh ư? Nếu có, sao không thấy sách nào ghi đến? Có vãng sanh cùng chép vào sách là hai chuyện. Từ xưa đến nay người nước ta tu Tịnh độ được vãng sanh rất nhiều, nhưng vì thiếu sót sự ký lục, thiếu sự lưu truyền, nên dầu có nhiều mà ít người được biết, có biết cũng chỉ riêng nơi nhóm người được mục kích, nhưng rồi nó cũng theo thời gian mà phai lần.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 45

    Nhưng chính tôi cũng từng nghe biết nhiều người tu Tịnh độ khi lâm chung có chứng nghiệm chắc chắn được vãng sanh nhưng vì không ghi chép, không thường lập lại trong trí, nên nay thấy sự khuyết điểm như vừa nói ở trên, muốn tường thuật lại thời đã quên lãng gần hết, hoặc nhớ người mà quên tên họ, năm tháng v.v... Ghi chép mà không rành rẽ tên họ chỗ nơi, thời làm thế nào mà thủ tín được!

    Vài sự tích chép dưới đây may chăng nó có thể làm tiền phong bổ cứu điều khuyết điểm trên, mà từ đây về sau, lần lượt mọi người được đọc những trang tiểu sử vãng sanh có chứng nghiệm của các nhà đạo tâm vì mục đích vị tha tường thuật, để thật nghiệm lời Phật đã dạy và nẩy nở tín tâm của mình.

    Ngày 10-10 Mậu Tý (1948 DL).

    * NÁN LẠI MỘT NGÀY

    Bà Nguyễn thị Danh pháp danh Đạt Nhiên, người làng Thanh Hà hạt Chợ lớn, gần 60 tuổi mới phát tâm cầu đạo thọ pháp với Sư cụ chùa Tôn Thạnh chuyên tâm tu tịnh nghiệp. Đến năm Ất Dậu 1945 DL (năm bà 68 tuổi), bà nhuốm bịnh. Biết trước giờ vãng sanh, ngày 7 tháng 4, bà sai người đến chùa Tôn Thạnh thỉnh Sư cụ Liễu Thoàn rằng:

    Ngày mùng 8 tháng 4 nầy, bà theo Phật, xin thỉnh Sư cụ đến ngày đó xuống nhà để bà từ tạ.

    Nhưng vì ngày mùng 8 tháng 4 là ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca, Sư cụ mắc ở lại chùa hành lễ, nên thành ra sáng mùng 9, Sư cụ mới xuống đến. Thấy Sư cụ bà mừng rỡ mà bạch rằng:

  • 46 KINH A DI ĐÀ

    Từ hôm qua tới nay, tôi trông thầy lắm. Trước khi về Phật, tôi muốn gặp thầy để tạ từ. Đáng lẽ tôi đã đi hồi trưa hôm qua song vì chờ thầy nên tôi phải nán lại tới hôm nay. Bây giờ tôi sắp đi, xin nhờ thầy hộ cho một biến kinh.

    Sư cụ cùng vài người đệ tử lên trước bàn Phật tụng kinh A Di Đà, vừa xong quyển, thời bà ngồi chắp tay niệm Phật mà quy Tây. Bà có hai người con trai đều xuất gia, hiện đương coi chùa Linh Phong tại làng Tân Hiệp, tỉnh Mỹ Tho.

    * Ý NGUYỆN VÃNG SANH

    Bà Trần Thị Lai, người ở làng Tân Kim, hạt Chợ Lớn, năm 45 tuổi phát tâm tu hành. Có lời nguyện rằng:

    Tôi quyết chí tu hành, xin Phật cho tôi được vãng sanh vào ngày vía Đức A Di Đà Phật (17 tháng 11).

    Quả nhiên, đến ngày 17 tháng 11 năm Đinh Hợi (1947 D.L), bà niệm Phật mà từ trần.

    Con cháu của bà đều xuất gia, hiện nay đang tu tại chùa Pháp Tánh (làng Tân Kim, Chợ Lớn).

    * BIẾT TRƯỚC NGÀY GIỜ VÃNG SANH

    Ông Hồ Văn Định, người làng Long An (Chợ Lớn), năm 42 tuổi phát tâm mộ đạo, chuyên ròng niệm Phật tụng kinh.

    Đến năm Mậu Tý (1948 D.L) ngày mùng 3 tháng 9, ông nói trước vợ con rằng:

    Đến giờ Thân, thời tôi về Phật.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 47

    Thật giờ Thân, ông chắp tay niệm Phật mà vãng sanh. Ba tích vãng sanh trên đây là của Sư cụ Liễu Thoàn (Hòa

    thượng chùa Tôn Thạnh ở Cần Giuộc) tường thuật. Sư cụ tự nói rằng những người tu Tịnh độ lúc lâm chung có thật nghiệm là được vãng sanh. Sư cụ tường thuật đây, đều là tận mắt Sư cụ mục kích trong khi Sư cụ đến hộ niệm. Ngoài ra Sư cụ còn thuật thêm 7 người nữa, như ông Nguyễn Văn Xá (làng Quy Đức) niệm Phật chờ mây trắng đến mà từ trần. Cô Nguyễn Thị Sao (làng Mỹ Lệ) trước giờ lâm chung thấy ba lằn mống bạc xẹt ngang mình từ đông sang tây v.v…

    Ôi! Sanh không biết từ đâu đến, chết không biết rồi sẽ về đâu, hãi hùng kinh sợ, giật mình lăn lộn, mắt trợn ngược, miệng kéo xếch, ngột hơi cứng lưỡi, chơn rút, tay vinh v.v... kể sao cho hết cảnh trạng thống khổ trong khi sắp chết của một phần đông trong số người cả đời không biết gì là điều lành, là đạo đức.

    Muốn “tử an” há lại dễ được lắm ư! Câu tử khổ từ xưa đức Phật đã từng răn nhắc! muốn khỏi “tử khổ” phải làm thế nào?

    Kinh nói: Khi con người sắp chết, thời tất cả cảnh tượng của những

    điều ác hay lành trọn trong đời của người đó gây tạo đều tuần tự phô diễn lại trong trí của người đó. Nếu cảnh dữ thời sẽ chết một cách đau khổ, sợ sệt. Còn cảnh lành thời đi một cách yên vui vững vàng.

    Biết trước ngày giờ mình sẽ từ giã thân ô trược nầy, khi đi thong dong tự tại, là những điều dành riêng cho những người hành đạo chơn chánh và đã đắc lực, mà dễ được nhứt là người tu về PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ (niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc).

  • 48 KINH A DI ĐÀ

    Ngày thường đã tu Tịnh độ thời là đã vun trồng chánh nhơn Tịnh độ. Nhơn thành thời kết quả. Trong kinh đức Phật có dạy:

    Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà... nơi cõi nước kia hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

    Lời của đức Phật, đấng Thiên Nhơn Sư, phán ra quyết định là đúng thật, đó là điều mà từ xưa đến nay, người có chánh tín, không ai là không công nhận PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ (niệm Phật A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc) là pháp môn vừa thù thắng nhứt vừa giản tiện nhứt đó là lời các vị Tổ sư thường nói.

    Thù thắng nhứt, vì người tu Tịnh độ mau chứng bậc “bất thối”, mau “thành Phật”. Cho đến ngài Văn Thù, ngài Phổ Hiền là bậc Pháp vương tử mà còn nguyện sanh thay!

    Giản tiện nhứt, vì mọi người, bất luận là trí, ngu, nam, nữ, đều có thể thực hành và đều có thể thành tựu.

    Xem như nguyện của Bà Danh v.v... đến già mới phát tâm. Thời gian tu hành không bao lâu, mà đều có phần tự tại an vui khi lâm chung: người thời ngừng sự chết lại, người thời y như chỗ mình nguyện cầu, người biết rõ giờ khắc... Những sự tự tại an vui khi lâm chung của người tu Tịnh độ là thoại ứng được vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc vậy.

    Người tu Tịnh độ được như thế là do nhờ sức đại nguyện của đức Phật A Di Đà nhiếp thọ.

    Trong kinh “Vô Lượng Thọ Phật”, đức A Di Đà khi tu hạnh Bồ tát có phát 48 điều đại nguyện để nhiếp sanh. Ngài đã thực hành đầy đủ 48 điều đó, và hiện tại cũng như vị lai Ngài vẫn dùng 48 điều đại nguyện đó bủa khắp pháp giới để tiếp độ muôn loài.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 49

    48 LỜI ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ

    1. Giả sử khi Ta được thành Phật, trong cõi nước của Ta còn có địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    2. Giả sử khi Ta được thành Phật, mà hàng trời, người trong nước Ta sau khi mạng chung còn phải đọa vào ba ác đạo, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    3. Giả sử khi Ta được thành Phật, tất cả thân thể của hàng trời, người trong nước Ta chẳng thuần sắc vàng ròng cả, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    4. Giả sử khi Ta được thành Phật, hình sắc của hàng trời, người trong nước Ta có tốt xấu không đồng nhau, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    5. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng trời, người trong nước Ta chẳng biết túc mạng, ít nhứt là biết những việc trong trăm nghìn ức vô số kiếp, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    6. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng trời, người trong nước Ta chẳng được Thiên nhãn, ít nhứt là thấy trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    7. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng trời, người trong nước Ta chẳng được Thiên nhĩ, ít nhứt là nghe lời thuyết pháp của trăm nghìn ức vô số đức Phật mà chẳng thọ trì trọn vẹn được, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    8. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng trời, người trong nước Ta chẳng được tha tâm trí, ít nhứt là rõ biết tâm niệm của chúng sanh trong nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

  • 50 KINH A DI ĐÀ

    9. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng trời, người trong nước Ta chẳng được thần túc thông trong khoảng một niệm, ít nhứt chẳng vượt qua được trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    10. Giả sử khi Ta được thành Phật, nếu hàng trời, người trong nước Ta còn sanh lòng tham chấp nơi thân mình, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    11. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng trời, người trong nước Ta chẳng trụ trong dòng chánh định mãi đến lúc thành Phật, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    12. Giả sử khi Ta được thành Phật, ánh sáng của Ta còn có hạn lượng, ít nhứt chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    13. Giả sử khi Ta được thành Phật, thọ mạng của Ta còn có hạn lượng, ít nhứt là trăm nghìn ức vô số kiếp, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    14. Giả sử khi Ta được thành Phật, có người tính đếm biết được số của hàng Thanh văn trong nước Ta, hoặc giả nhẫn đến tất cả chúng sanh trong cõi Tam thiên Đại thiên đều thành bực Duyên giác, cùng nhau đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp mà biết được số Thanh văn đó, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    15. Giả sử khi Ta được thành Phật, thọ mạng của hàng trời, người trong nước Ta không có hạn lượng, trừ khi họ có bổn nguyện riêng, dài ngắn tự tại theo ý muốn. Nếu không được vậy, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    16. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng trời, người trong nước Ta nhẫn đến nghe có tên bất thiện, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 51

    17. Giả sử khi Ta được thành Phật, các đức Phật trong vô lượng thế giới ở mười phương không đều ngợi khen xưng danh hiệu của Ta, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    18. Giả sử khi Ta được thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tín nhạo muốn sanh về nước của Ta, nhẫn đến trong mười niệm, nếu chẳng được vãng sanh, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác; chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch và chê bai chánh pháp.

    19. Giả sử khi Ta được thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát Bồ đề tâm tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước của Ta, đến lúc người đó mạng chung, nếu Ta chẳng cùng với đại chúng vây quanh hiện ra nơi trước người đó, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    20. Giả sử khi Ta được thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của Ta, để tâm nơi nước của Ta vun trồng cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước của Ta, nếu không được quả toại, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    21. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng trời, người trong nước Ta chẳng đều thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    22. Giả sử khi Ta được thành Phật, các hàng Bồ tát ở Phật độ phương khác sanh về nước Ta rốt ráo chắc đến bậc Nhứt sanh bổ xứ, trừ những vị có bổn nguyện muốn tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ, chứa nhóm cội công đức, độ thoát mọi loài, đi qua cõi nước của chư Phật tu hạnh Bồ tát, cúng dường các đức Phật Như Lai ở mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh làm cho trụ vào đạo Vô thượng chánh chơn, vượt ngoài hạnh tu tuần thứ theo địa vị của hạng tầm thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền, nếu chẳng được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

  • 52 KINH A DI ĐÀ

    23. Giả sử khi Ta được thành Phật, Bồ tát trong nước Ta nương thần lực của Phật mà đi cúng dường các đức Như Lai, chừng trong khoảng một bữa ăn mà chẳng có thể đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước của chư Phật, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    24. Giả sử khi Ta được thành Phật, Bồ tát trong nước Ta ở trước chư Phật hiện cội công đức của mình, bao nhiêu những đồ muốn dùng để cúng dường chư Phật nếu chẳng có đúng như ý muốn đó, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    25. Giả sử khi Ta được thành Phật, Bồ tát trong nước Ta không thể diễn nói Nhứt thiết trí, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    26. Giả sử khi Ta được thành Phật, Bồ tát trong nước Ta không được thân kim cang bền chắc, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    27. Giả sử khi Ta được thành Phật, trong nước Ta, những hàng trời, người, tất cả muôn vật đều đẹp đẽ, trong sạch, sáng rỡ, hình sắc lạ thường, rất nhiệm, rất mầu, không ai có thể cân lường được. Những chúng sanh kia nhẫn đến người được Thiên nhãn mà có thể biện biết rõ ràng danh số của những vật trên đó, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    28. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng Bồ tát trong nước Ta, nhẫn đến những vị công đức kém ít mà không thấy biết được Đạo Tràng Thọ cao bốn trăm muôn dặm, vô lượng màu sắc, vô lượng ánh sáng, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    29. Giả sử khi Ta được thành Phật, nếu Bồ tát trong nước Ta đọc kinh pháp, phúng tụng, thọ trì, giảng thuyết mà không được trí huệ biện tài, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 53

    30. Giả sử khi Ta được thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước Ta nếu có người hạn lượng được đó, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    31. Giả sử khi Ta được thành Phật, cõi nước của Ta thanh tịnh, thảy đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương, dường như gương sáng soi thấy rõ bóng mặt. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    32. Giả sử khi Ta được thành Phật, trong nước Ta, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lầu đài, ao nước, cây hoa... tất cả muôn vật đều do vô lượng chất báu đẹp cùng trăm nghìn thứ hương thơm hiệp chung lại làm thành, nghiêm sức tốt lạ, hơn hẳn hàng trời người. Mùi thơm của những vật ấy xông khắp cả cõi nước ở mười phương. Bồ tát ngửi được mùi hương ấy thì đều tu hạnh của Phật. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    33. Giả sử khi Ta được thành Phật, những loài chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương được ánh sáng của Ta chiếu đến thân, thì thân tâm của chúng sanh ấy hòa dịu hơn hẳn hàng Trời, Người. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    34. Giả sử khi Ta được thành Phật, những loài chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước chư Phật ở mười phương, nghe danh tự của Ta mà chẳng được các món tổng trì sâu mầu cùng Vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    35. Giả sử khi Ta được thành Phật, những người nữ trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương nghe danh tự của Ta mà vui mừng tin mến phát Bồ đề tâm, nhàm ghét thân gái, nếu sau khi mạng chung còn thọ thân gái trở lại, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

  • 54 KINH A DI ĐÀ

    36. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng Bồ tát trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương thế giới nghe danh tự của Ta, thì sau khi mạng chung vẫn thường tu hạnh thanh tịnh đến lúc thành Phật đạo. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    37. Giả sử khi Ta được thành Phật, các hàng Trời, Người nhơn dân trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương nghe danh hiệu của Ta, năm vóc gieo xuống đất, cúi đầu lễ lạy, vui mừng tin mến, tu hạnh Bồ tát, thì các hàng Trời, Người đều kính trọng đó. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    38. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta muốn được y phục, thì những y phục tốt đẹp đúng phép của đức Phật ngợi khen liền tùy niệm tự nhiên hiện đến trên thân, nếu còn phải cần may vá, đập, nhuộm giặt... Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    39. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta hưởng thọ sự vui sướng không bằng bực lậu tận Tỳ kheo, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    40. Giả sử khi Ta được thành Phật, Bồ tát trong nước Ta tùy ý muốn thấy vô lượng cõi Phật nghiêm tịnh ở mười phương, tức thì ở trong cây báu thảy đều soi thấy rõ ràng đúng như ý muốn chẳng khác gương sáng soi thấy bóng mặt. Nếu không như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    41. Giả sử khi Ta được thành Phật, các hàng Bồ tát ở nước phương khác nghe danh tự của Ta, mãi đến lúc thành Phật, nếu các căn thiếu xấu chẳng đầy đủ, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    42. Giả sử khi Ta được thành Phật, các hàng Bồ tát ở nước phương khác nghe danh tự của Ta thảy đều chứng được chánh định thanh tịnh giải thoát. Trụ trong chánh định đó,

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 55

    trong khoảng móng niệm liền cúng dường khắp vô lượng bất khả tư nghị các đức Phật Thế Tôn, mà vẫn không quên mất tâm chánh định. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    43. Giả sử khi Ta được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của Ta, sau khi mạng chung sanh vào nhà tôn quý. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    44. Giả sử khi Ta được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của Ta, vui mừng hớn hở, tu hạnh Bồ tát đầy đủ cội công đức. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    45. Giả sử khi Ta được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của Ta, thảy đều chứng được Chánh định phổ đẳng. Trụ trong chánh định đó, mãi đến lúc thành Phật, thường thấy tất cả vô lượng bất khả tư nghị các đức Phật. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    46. Giả sử khi Ta được thành Phật, Bồ tát trong nước Ta tùy ý muốn nghe pháp chi, thì tự nhiên liền được nghe pháp đó. Nếu không được như thế, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    47. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của Ta, chẳng liền được bực Bất thối chuyển, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

    48. Giả sử khi Ta được thành Phật, hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của Ta, mà chẳng liền chứng được bực Âm hưởng nhẫn, Nhu thuận nhẫn và Vô sanh pháp nhẫn cùng ở nơi pháp của chư Phật mà chẳng liền được bực Bất thối chuyển, Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

  • 56 KINH A DI ĐÀ

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 57

    HỒNG DANH BỬU SÁM[1] Bất Động Pháp Sư thuật

    1. TÁN THÁN CÔNG ĐỨC CỦA CHƯ PHẬT[2]

    Đại từ đại bi thương chúng sanh Đại hỷ đại xả cứu hàm thức Tướng tốt sáng rỡ dùng nghiêm thân Chúng con chí tâm quy mạng lễ O(1)

    2. QUY Y TAM BẢO [3]

    Nam mô Quy y Kim Cang Thượng sư O(2) Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng O(3)

    3. PHÁT TÂM TỐI THƯỢNG THỪA [4]

    Con nay phát tâm, chẳng vì tự cầu phước báu nhơn Thiên, cùng quả Thanh văn, Duyên giác, nhẫn đến các quả vị Bồ tát trong quyền thừa. Con chỉ y theo tối thượng thừa, phát tâm Bồ đề, nguyện cùng chúng sanh trong pháp giới chung cùng một lúc đồng chứng đặng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác O(4)

    4. QUY Y VÔ TẬN TAM BẢO [5]

    Nam mô Quy y khắp mười phương cùng tận cõi hư không tất cả các đức Phật O(5)

    Nam mô Quy y khắp mười phương cùng tận cõi hư không tất cả tôn Pháp O(6)                                                             

    Lưu ý: Dấu O đánh chuông, lạy 1 lạy.

  • 58 HỒNG DANH BỬU SÁM

    Nam mô Quy y khắp mười phương cùng tận cõi hư không tất cả Hiền Thánh Tăng O(7)

    5. XƯNG DƯƠNG MƯỜI HIỆU CỦA CHƯ PHẬT[6]

    Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn O(8)

    6. LỄ 89 HIỆU PHẬT [7]

    Nam mô Phổ Quang Phật O(9) Nam mô Phổ Minh Phật O(10) Nam mô Phổ Tịnh Phật O(11) Nam mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật O(12) Nam mô Chiên Đàn Quang Phật O(13) Nam mô Ma Ni Tràng Phật O(14) Nam mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bửu Tích Phật O(15) Nam mô Nhứt Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật O(16) Nam mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật O(17) Nam mô Huệ Cự Chiếu Phật O(18) Nam mô Hải Đức Quang Minh Phật O(19) Nam mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang

    Phật.O(20) Nam mô Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật O(21) Nam mô Đại Bi Quang Phật O(22) Nam mô Từ Lực Vương Phật O(23)

    Nam mô Từ Tạng Phật O(24)

  • TRÍ TỊNH TOÀN TẬP 59

    Nam mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật O(25) Nam mô Hiền Thiện Thủ Phật O(26) Nam mô Thiện Ý Phật O(27) Nam mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật O(28) Nam mô Kim Hoa Quang Phật O(29) Nam mô Bửu Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật O(30) Nam mô Hư Không Bửu Hoa Quang Phật O(31) Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật O(32) Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật O(33) Nam mô Bất Động Trí Quang Phật O(34) Nam mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật O(35) Nam mô Tài Quang Minh Phật O(36) Nam mô Trí Huệ Thắng Phật O(37) Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật O(38) Nam mô Thiện