ve tieu thuyet to tam cua hoang ngoc phach
DESCRIPTION
V “ Ề T TÂM Ố ” C A HOÀNG NG C PHÁCH Ủ Ọ Lê Duy Tân L p: Văn 3CN ớ MSSV: K33606044 2. Lê Quang H ng (2003). ư Thi u S n toàn t p ế ơ ậ , Hà N i: Văn h c, 735 tr ộ ọ 3. Ph m Th Ngũ (1965), Vi t Nam văn h c s ạ ế ệ ọ ử gi n c tân biên, t p 3, Sài Gòn: Qu c h c ả ướ ậ ố ọ tùng th , 661 tr. ư Tài li u tham kh o: ệ ảTRANSCRIPT
VỀ “TỐ TÂM” CỦA HOÀNG NGỌC PHÁCH
Lê Duy Tân
Lớp: Văn 3CN
MSSV:
K33606044
Tố Tâm là tiểu thuyết duy nhất của Hoàng Ngọc
Phách được viết xong năm 1922, in lần đầu năm 1925
tại nhà xuất bản Châu Phương, Hà Nội. Tố Tâm xuất
hiện “lập tức gây xôn xao, sôi nổi dư luận một thời”
[2, 257], “từ Nam đến Bắc không mấy ai là không biết
đến” [2, 87]. Tác phẩm được sùng bái đến mức trở
thành cuốn sách gối đầu giường, thành tự điển cho
những người “nhập môn hay muốn nhập môn vào
tình yêu”. Với sự ra đời của mình, “Tố Tâm đã làm
dậy lên một phong trào đi tìm tự do cá nhân cho
thanh niên nam nữ” [3, 361].
Tố Tâm viết về chuyện tình trong sáng, say đắm
nhưng cũng không kém phần bi thảm của Tố Tâm và
Đạm Thủy. Đạm Thủy là sinh viên cao đẳng Sư phạm
có tài văn thơ. Tố Tâm là cô con gái lớn xinh đẹp, nết
na của bà Án, khi còn bé học chữ Nho, sau học
trường Pháp – Việt, đỗ sơ học, rất yêu văn chương,
đã thầm yêu Đạm Thủy khi đọc văn thơ của chàng
đăng trên báo. Do tình cờ hội ngộ nên tình yêu giữa
hai người nảy nở và ngày càng trở nên sâu nặng hơn.
Song đó là một mối tình vô vọng bởi gia đình Đạm
Thủy đã hỏi vợ cho chàng và chàng không muốn trái
ý cha mẹ; còn Tố Tâm, mặc dù yêu tha thiết Đạm
Thủy nhưng cũng không muốn làm cho người vợ
chưa cưới của chàng đau khổ. Bà Án biết Tố Tâm và
Đạm Thủy yêu nhau, chỉ “có ý giữ gìn” chứ không
phản đối. Đến khi cậu tú B. dạm hỏi Tố Tâm, bà ưng
gả nhưng Tố Tâm không thuận.
Tố Tâm và Đạm Thủy thường xuyên trao đổi
những bức thư tình. Nhưng thư từ cũng không thể
làm nguôi nỗi nhớ thương, họ thực sự có nhu cầu gặp
nhau, cùng nhau trò chuyện. Hễ có điều kiện là hai
người đi chơi vùng ngoại ô, có khi còn đi biển Đồ Sơn.
Đó là những tháng ngày say đắm và đẹp đẽ nhất của
Tố Tâm và Đạm Thủy. Trước tình yêu trong sáng của
Tố Tâm, đã có lúc Đạm Thủy muốn vứt bỏ sự nghiệp
cùng nàng trốn đến một nơi nào đó để cùng hưởng
hạnh phúc nhưng vì nghĩ đến gia thân nên lại thôi.
Khi bà Án ốm nặng, bà muốn Tố Tâm nhận lời lấy
cậu tú B. để yên bề gia thất. Thương mẹ nên Tố Tâm
chiều theo ý bà mà ưng thuận. Lấy chồng xong, Tố
Tâm nhuốm bệnh, 36 ngày sau thì qua đời.
Tố Tâm được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại
đầu tiên của nền văn học Việt Nam viết theo lối kết
cấu tâm lý, kết tinh thành tựu của một giai đoạn có
tính chất giao thời của hai giai đoạn văn học. Tình
yêu nam nữ trong tác phẩm đã bắt đầu thoát ra khỏi
những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến,
hướng tới một chân trời mới lạ của tình yêu tự do cá
nhân.
Với Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách đã có những
đổi mới trong quan niệm về hiện thực phản ánh. Nếu
các nhà văn khác cùng thời với ông có xu thế hướng
ngoại, khai thác những vấn đề xã hội, hướng đến
quan hệ giữa con người với con người để tố cáo xã hội
thì Hoàng Ngọc Phách lại hướng vào nội tâm, vào thế
giới bên trong, đi vào chiều sâu của tâm giới. Trong
tác phẩm, mọi trạng thái tâm lý đều có cơ sở, có quá
trình hình thành rất logic và hợp lý: để gặp và yêu
ngay Tố Tâm, tiềm thức của Đạm Thủy đã lưu giữ
gương mặt ấy ngay từ lúc ở nhà quan huyện; Tố Tâm
đáp lại ngay chân tình của Đạm Thủy bởi nàng, vì
yêu thơ, đã yêu cả chàng thi sĩ tài hoa – chủ nhân của
những vần thơ bay bổng... Đi sâu vào khai thác thế
giới nội tâm phong phú và bí hiểm của con người là
mảnh đất mới mà nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật
hiện đại cần phải hướng đến. Chính sự đổi mới về
thiên hướng khai thác này đã dẫn đến sự đổi mới
trong nội dung phản ánh của Tố Tâm. Những sự kiện
của đời sống bên ngoài và những hành động của nhân
vật không còn giữ vai trò quan trọng hàng đầu nữa
mà chỉ là yếu tố phụ, nhường chỗ cho những suy tư,
những trạng thái tình cảm, những vui, buồn, lo âu,
thấp thỏm và những phân tích về quá trình tâm lý
của con người. Có thể nói, đi sâu vào thế giới bên
trong, vào đời sống nội tâm của nhân vật là một phát
hiện, một khám phá vô cùng mới mẻ của Hoàng Ngọc
Phách.
Tố Tâm đã đặt ra vấn đề quyền sống trong lĩnh
vực tình cảm của cá nhân con người trong xã hội hiện
đại. Đó là quyền được yêu, được lựa chọn người yêu,
quyền bảo vệ tình yêu chân chính của cá nhân. Tố
Tâm đã đem đến cho văn học Việt Nam một nội dung
mới, mở ra một hướng phát triển mới. Tố Tâm đã lấy
cái “tôi” làm điểm xuất phát cho tình cảm yêu đương
và đã dám chung thủy đến cùng với tình cảm lãng
mạn tuyệt vời đó. Tình yêu của hai nhân vật chính là
mối tình chân thực, đẹp như mộng mà chỉ có tự do
hôn nhân mới có thể với tới được. “Đọc sách Tố Tâm
ta phải nhận thấy cái chỗ kém hèn của luân lý nước
nhà vì nó mà một giai nhân phải giã thế, từ trần để lại
một bậc tài tử phải sống mà nuốt lệ” [2, 377]. Nếu
như trước đây, Truyện Kiều của Nguyễn Du chỉ xuất
hiện như tiếng kêu thương, khát khao quyền sống,
quyền hạnh phúc của con người, thì Tố Tâm đã
nghiễm nhiên trở thành một lời khẳng định. Nó báo
hiệu một thời đại mà ai ai cũng được quyền mưu cầu
hạnh phúc với tư cách con người cá nhân đích thực.
Trong tác phẩm, các tính cách nhân vật có sự
phát triển nội tại như chính trong cuộc đời thật. Đạm
Thủy là hình ảnh một thanh niên trí thức Tây học, Tố
Tâm là hình ảnh một cô gái “mới”, học chữ Tây, mê
văn chương, biết làm thơ. Khác với những câu
chuyện tình yêu tràn ngập chi tiết lãng mạn, trong tác
phẩm, những mơ mộng về hạnh phúc lứa đôi chủ yếu
diễn ra trong nội tâm của nhân vật. Yêu nhau từ lúc
trộm nhớ thầm thương đến khi gặp gỡ nhau và cảm
thấy ý hợp tâm đầu, Tố Tâm và Đạm Thủy trở thành
đối tượng chiêm ngưỡng, tôn thờ của nhau. Họ lấy
thơ văn, một thú vui tao nhã, làm nhịp cầu giao cảm.
Tình yêu của họ, vì thế, cũng thật trong sáng, thanh
cao. Tố Tâm yêu văn rồi đến yêu người, hai yếu tố
thực, hư này làm cho hình ảnh của văn nhân càng
thêm lung linh, nhiều màu sắc. Bị thu hút bởi một
mối tình trinh nguyên, say đắm, Tố Tâm cũng như
Đạm Thủy ý thức rất rõ giá trị của những giờ phút
bên nhau. Thật tự nhiên và cũng thật mới mẻ, táo
bạo: Tố Tâm đã chủ động viết thư, làm thơ tặng Đạm
Thủy – những cánh tình thư, những trang nhật ký trở
thành nơi ký thác nỗi lòng. Hai người tâm tình với
nhau trong phòng riêng; lại còn giấu mẹ, hẹn nhau
trên bãi biển trước cảnh trời nước mênh mông hay
đến những vùng quê yên ả tiếng chuông chùa… Mối
tình của đôi lứa yêu nhau được khơi dậy từ hai trái
tim còn rất trẻ, luôn say sưa những xúc cảm yêu
đương, bỏ mặc sau lưng mọi trở lực để hướng đến
một đóa hoa yêu cao khiết, vĩnh hằng.
Có thể nói, Tố Tâm đã hoàn thành sứ mệnh mở
đường cho sự đổi mới hệ thống thi pháp tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX. Tác phẩm là một
tiểu thuyết thuộc thể tài đời tư. Xây dựng Tố Tâm,
nhà văn đã tiếp cận thực tại từ góc nhìn đời tư – một
đặc trưng chủ yếu của tiểu thuyết hiện đại. Dưới góc
nhìn đời tư, với một quan niệm nghệ thuật mới về con
người, con người cá nhân đã xuất hiện trong tác
phẩm và nhân vật được soi sáng bằng một hệ quy
chiếu mới có khả năng khám phá, phát hiện những
vùng khuất tối mà những góc nhìn khác không có khả
năng nhìn thấy được.
Về phương diện ngôn ngữ và nghệ thuật kể
chuyện, Tố Tâm đã những bước tiến nhất định. Trong
tác phẩm, nhiều hình thức tổ chức ngôn ngữ được sử
dụng: đối thoại giữa các nhân vật, độc thoại nội tâm,
ngôn ngữ người kể chuyện… Nhìn chung, ngôn ngữ
trong Tố Tâm là một thứ ngôn ngữ chải chuốt, giàu
cảm xúc, đầy chất trữ tình, chất thơ... Nó mang đặc
điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn. Trong bối
cảnh quốc văn còn đang phôi thai, trình độ tiểu
thuyết còn thấp kém, với một kỹ thuật diễn đạt như
thế, Tố Tâm hoàn toàn xứng đáng được ghi nhận
công lao gọt giũa, làm giàu chữ quốc ngữ.
Tố Tâm cũng có nhiều nét mới so với tiểu thuyết
truyền thống. Ở Tố Tâm, ta bắt gặp một lối kết cấu
mới. Lối kết cấu này được hình thành trên cơ sở đan
cài hai mảng hiện tại và quá khứ: nó vừa trở về theo
dòng hồi tưởng, vừa tái hiện trực tiếp câu chuyện qua
những bối cảnh và sự kiện sinh động. Tính đơn tuyến
quen thuộc bị phá vỡ thay vào đó, câu chuyện chủ yếu
được trình bày thông qua không gian hồi tưởng và
thời gian tâm lý. Những khi đôi bạn Đạm Thủy – Tố
Tâm gặp nỗi buồn hay có được niềm hạnh phúc ngây
ngất, đâu đâu thời gian tâm lý cũng trải kín một
màu…
Nếu “truyện thơ Nôm truyền thống thường
mượn cốt truyện nước ngoài để thể hiện những vấn
đề của cuộc sống Việt Nam […] thì ở đây, tính ước lệ
và tượng trưng, tính ám dụ và ẩn dụ được đẩy lên
hàng đầu nhằm giáo dục con người vươn tới cái cao
thượng của nhân cách theo chuẩn mực đạo lý luân
thường” [1, 257]. Viết Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách đã
khai thác cốt truyện trong đời sống của thanh niên
thành thị Việt Nam lúc bấy giờ. Cốt truyện của Tố
Tâm không có vai trò đặc biệt như trong truyện Nôm
mà bị đẩy xuống bình diện sau, các sự kiện tình tiết
cũng giảm thiểu. Cốt truyện của tác phẩm đã được
nới lỏng, trọng tâm chuyển từ cốt truyện sang nhân
vật, từ những điều “trông thấy” sang những điều
“cảm thấy”, từ thế giới bên ngoài vào thế giới nội tâm
nhân vật. Tố Tâm chủ yếu xoay quanh một câu
chuyện duy nhất, không thiên về hành động bên ngoài
mà chủ yếu là thế giới nội tâm với những hành động
bên trong. Tiểu thuyết kết thúc bằng bi kịch tình yêu
đổ vỡ, bằng cái chết thương tâm của nhân vật chính
hoàn toàn khác xa so với kết thúc có hậu của truyện
Nôm. Với Tố Tâm, lối kết cấu chương hồi truyền
thống được thay thế bằng kiểu kết cấu theo quy luật
tâm lý. Tác giả thực sự có hứng thú khi “xét cái tình
trạng của lòng người”, “chép cái hành động của tâm
lý”, “tách bạch những nỗi éo le của ái tình” [4,2].
Nhiều tình huống tâm lý nhân vật được khai thác,
nhiều hành động của nhân vật được miêu tả. Tất cả
đều hướng tới việc phô bày tâm lý nhân vật. Qua ngòi
bút của Hoàng Ngọc Phách, Đạm Thủy và Tố Tâm
thực sự có đời sống nội tâm phong phú, mỗi nhân vật
đã có được cuộc sống của riêng mình.
Khi xây dựng nhân vật, Hoàng Ngọc Phách cũng
không phân chia nhân vật thành hai tuyến đối lập
như trong văn học truyền thống. Nhà văn đã xây
dựng nhân vật bằng một phương pháp mới: không
tập trung vào các sự kiện, hành động bên ngoài của
nhân vật mà tập trung vào các quá trình tâm lý và
các trạng thái tình cảm của nhân vật. Trong tác
phẩm, nhà văn đã sử dụng thành công nhiều thủ
pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Những biến thái tinh vi
của tâm hồn nhân vật đã được nhà văn miêu tả trong
môi trường hẹp, qua nhật ký, thư từ, qua ngoại hình
và hành động… Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật
là một trong những đóng góp quan trọng của Hoàng
Ngọc Phách cho kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết Việt
Nam đương đại.
Xung đột chủ yếu của Tố Tâm là xung đột tình
cảm và lý trí giữa Tố Tâm và Đạm Thủy. Về mặt tình
cảm, Đạm Thủy tha thiết yêu Tố Tâm, nhưng lý trí lại
ràng buộc anh kết hôn với cô gái mà chàng chưa hề
biết mặt. Về phía Tố Tâm, mặc dù say mê Đạm Thủy
nhưng lại không muốn làm tan vỡ hạnh phúc của cô
gái đã có lời hứa hôn với Đạm Thủy, và sau đó là
chiều theo ý mẹ lấy cậu tú B. Tuy cũng có lúc hai
người định “đem nhau trốn đi một chỗ thâm sơn cùng
cốc, hay chân trời góc biển nào không ai biết đến để
cùng hưởng cuộc ân ái trăm năm” [4, 98] nhưng đó
chỉ là ý nghĩ thoáng qua do “chịu ảnh hưởng ở các ái
tình tiểu thuyết Tây – Âu” [4, 3] chứ chưa đủ sức
thoát khỏi sự níu kéo của “tình gia quyến” cùng với
sự kiềm tỏa của chữ tín và chữ hiếu cứng nhắc của
đạo lý phong kiến. Có thể nói, Tố Tâm và Đạm Thủy
chưa thực sự là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn.
Tình yêu của họ chỉ mới là một thứ tình yêu nửa vời
tuy có đắm say nhưng vẫn chưa thoát khỏi sự ràng
buộc của lễ nghĩa. Tố Tâm tuy yêu say đắm Đạm
Thủy nhưng vẫn chấp nhận lấy chồng để chiều theo ý
mẹ. Đạm Thủy tuy vô cùng đau khổ vì tình yêu tan vỡ
nhưng lại vẫn “cảm thấy nức lòng”, vẫn đầy hào
hứng trước công danh sự nghiệp.
Tố Tâm là cuốn tiểu thuyết tâm lý đặc sắc có vai
trò mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
song nó lại không phải là một viên ngọc toàn bích do
những hạn chế về thời đại và thế giới quan của tác giả
- một nhà văn xuất thân Nho học vốn đã quen với nếp
cũ.
Về nội dung, tác phẩm chưa xây dựng được điển
hình cho một tầng lớp, một giai cấp. Bản thân Đạm
Thủy chỉ là một cá nhân cô đơn. Bi kịch của chàng
thật cá biệt so với nhân vật ký giả và bạn bè cùng
hoàn cảnh xuất thân như anh. Ngoài tình yêu, Đạm
Thủy hoàn toàn xa lạ với đời sống chính trị - xã hội,
nghĩa là xa lạ với cái bối cảnh trực tiếp gây nên bi
kịch cho tình yêu, hạnh phúc của mình. Nếu người
đọc mong muốn tiểu thuyết phải là bức tranh khái
quát hiện thực thì Tố Tâm lập tức thiếu ngay cái sức
mạnh điển hình hóa. Nếu công chúng đòi hỏi tác
phẩm văn học phải đứng ở vũ đài đấu tranh giai cấp
thì Tố Tâm ngay tức khắc sẽ bị đánh đồng với các
sáng tác thoát ly hiện thực. Tất nhiên, chúng ta không
thể đòi hỏi một tiểu thuyết lãng mạn phải chứa đựng
nhiều chức năng xã hội. Song, giá như, ngoài cơ sở
tâm lý, nhà văn còn dùng cơ sở xã hội để lý giải sự
biến động trong đời sống tinh thần nhân vật thì ý
nghĩa xã hội của tác phẩm còn lớn hơn nhiều. Thời
bấy giờ, công chúng chưa mạnh dạn kết thành làn
sóng ủng hộ tác phẩm, phải chăng, một phần cũng bởi
điều này?
Về nghệ thuật, một số sự kiện trong truyện còn
dài dòng, dàn trải, nhất là các đoạn đối thoại, những
phần trích dẫn thư từ, hay những câu thơ xướng
họa,... Điều này làm giảm đi độ “căng” cần thiết của
một tiểu thuyết vốn cần nhiều mâu thuẫn, xung đột, ít
nhiều gây cảm giác nhàm chán cho người đọc mà
những đoạn đối thoại giữa Đạm Thủy với thằng bé
người ở, hay những chỗ trích thư từ, nhật ký của Tố
Tâm là các ví dụ tiêu biểu.
Lời văn nghệ thuật của tác phẩm, bởi tập trung
miêu tả tầng lớp thượng lưu, lại được tác giả gọt giũa
quá bóng bẩy nên khó hấp thu được lời ăn tiếng nói
sống động của quần chúng nhân dân. Tác phẩm hoàn
toàn thiếu vắng vốn ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm
xúc, như người đọc đã từng gặp trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh. Nhiều đoạn văn lại theo vết mòn xưa,
dùng câu văn biền ngẫu, quá đăng đối, quá ràng
buộc, khiến mạch văn thiếu phần co giãn, linh hoạt,
thậm chí lê thê, nặng nề.
Mặt khác, tác phẩm kể chuyện tình yêu thời hiện
đại, nhưng nhà văn lại để đôi trai gái tân thời gởi cho
nhau những câu đối, dòng thơ luật Đường khuôn sáo,
hình ảnh mòn cũ: “liễu ủ hoa sầu, năm canh giọt lệ,
sương sa gió thổi, tuyết phủ mây mờ,...”. Điều đó
khiến người đọc không khỏi liên tưởng về cuộc tình
của những văn nhân tài tử thời phong kiến ngày xưa.
Những nhà nho thủ cựu thấy nhân vật xa lạ với mình.
Nhưng thanh niên trí thức Tây học lại thấy nhân vật
dường như chưa hẳn là mình.
Ngoài ra, đôi chỗ, nhà văn, vì quá nôn nóng
muốn dùng văn chương “gây nên một nền luân lý”,
do đó, đã biến nhân vật Tố Tâm thành cái loa phát
ngôn, thuyết lý cho đạo đức: “Em là phận gái, cái
chức phẩm với đời, có cũng hay mà không cũng được,
chả ai nghị luận gì, ai trách chi nữ nhi nan hóa,
nhưng anh là bậc nam nhi hai vai nghĩa vụ, anh đừng
làm như em mà giữ lấy một mối tình vô hy vọng. Anh
là người có văn chương, có tư tưởng, anh nên nhớ
rằng cái thân anh không phải của một mình anh, phải
làm việc cho nhà, cho nước, cho xã hội...” [4, 87].
Người đọc thật khó bị thuyết phục bởi một cô gái
đang đau khổ sụt sùi vì tình, lại bất ngờ tỉnh táo, nói
những lời mang màu sắc giáo huấn trang nghiêm như
thế!
Ngoài ra, Tố Tâm còn thể hiện thái độ nửa vời
của Hoàng Ngọc Phách trong việc giải quyết mâu
thuẫn, xung đột của con người trước hiện tại. Một
mặt, nhà văn ca ngợi, ủng hộ tình yêu tự do của thanh
niên nam nữ nhưng mặt khác lại để nhân vật của
mình bị ràng buộc bởi gia đình, bởi trách nhiệm, bởi
thứ đạo đức còn mang nhiều dấu tích của lễ giáo
phong kiến hủ lậu.
Mặc dù vậy, nhìn một cách tổng quát, những hạn
chế vừa nêu cũng không làm mờ được vẻ đẹp sáng
ngời của tác phẩm bởi những khiếm khuyết ấy, dù gì,
là hệ quả tất yếu của một quyển tiểu thuyết tâm lý đã
xuất hiện quá sớm so với bối cảnh thời đại.
Tài liệu tham khảo:
1. Phan Cự Đệ và những người khác (1998). Văn
học Việt Nam 1900 – 1945, TP HCM: Giáo dục,
668 tr.
2. Lê Quang Hưng (2003). Thiếu Sơn toàn tập, Hà
Nội: Văn học, 735 tr
3. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản
ước tân biên, tập 3, Sài Gòn: Quốc học tùng thư,
661 tr.
4. Song An Hoàng Ngọc Phách (1988). Tố Tâm, Hà
Nội: Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, 124tr.
5. Trần Thị Trâm (1996). Tiểu thuyết Tố Tâm và vị
trí của tác phẩm trong quá trình phát triển của
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, luận án phó tiến sĩ
khoa học Ngữ văn, Hà Nội: Đại học Sư phạm,
157 tr.