xà hỘi hỌc - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/15.xahoihoc.docx · web viewcác nhà xã...
TRANSCRIPT
XÃ HỘI HỌCXÃ HỘI HỌC
Tác giả: Nguyễn Xuân Nghĩa
Chương 1. XÃ HỘI HỌC LÀ GÌSự quyến rũ của xã hội học nằm ở quan niệm của nó. Quan điểm này
luôn khiến chúng ta phải nhìn dưới một nhãn quan mới ngay chính thế giới mà
chúng ta đã sống suốt cả cuộc đời.
Peter Berger
Đời sống xã hội của con người có thể được tìm hiểu dưới nhiều góc độ
khác nhau và xã hội học chỉ là một trong các phương thức tiếp cận thực tại
trên. Tuy nhiên, cũng như các khoa học khác, để được khẳng định là một bộ
môn khoa học riêng biệt, xã hội học cần làm rõ những đặc trưng trong quan
điểm, trong lối tiếp cận, trong phương pháp cũng như trong các kỹ thuật
nghiên cứu của mình.
I. XÃ HỘI HỌC: MỘT BỘ MÔN KHOA HỌC XÃ HỘIXã hội học là một bộ môn khoa học có nguồn gốc xuất hiện chỉ trong
những thế kỷ gần đây. Chỉ đến năm 1838, nhà khoa học xã hội Pháp Auguste
Comte lần đầu tiên mới sử dụng thuật ngữ xã hội học (sociologie – là một từ
kết hợp bởi hai từ gốc là socius, societas và logos), để chỉ một bộ môn có một
cách nhìn mới về xã hội của con người.
Một cách tổng quát, xã hội học là một bộ môn nghiên cứu khoa học về
xã hội con người, về các ứng xử và quan hệ của con người trong các nhóm,
trong các tổ chức hình thành nên xã hội. Nhưng định nghĩa ngắn gọn này còn
khá mơ hồ, chưa cho phép ta phân biệt xã hội học với các bộ môn khác như
tâm lý học, dân tộc học.
Các nhà xã hội học đã nỗ lực khắc phục khó khăn này bằng cách nêu
lên những lãnh vực cụ thể của hành vi xã hội, của ứng xử xã hội mà họ quan
tâm tìm hiểu, như: con người cư xử như thế nào trong gia đình, tại sao có
những người giàu người nghèo, tại sao có những người phạm vào tội ác…
Hai khuynh hướng lớn về đối tượng của xã hội học
Cuối thế kỷ XIX, Max Weber và E. Durkheim đã đưa ra hai lối nhìn về
xã hội và về xã hội học khác nhau mà sau này đã ảnh hưởng nhiều đến các
nhà xã hội học, các trường phái xã hội học đương đại.
Theo M. Weber xã hội học phải tập trung nghiên cứu các hành động xã
hội (action sociale). Hành động xã hội khác hành động giản đơn bởi lẽ trong
hành động xã hội, tác nhân hành động phải quan tâm đến những tác nhân
khác. Hành động xã hội phải có một ý nghĩa với người khác, phải quan tâm
người khác đã giải thích nó như thế nào và phản ứng ra làm sao. Có nhiều
loại hình hành động xã hội, nhưng M. Weber đặc biệt lưu ý đến hành động xã
hội duy lý vì nó là một trong những đặc điểm chi phối xã hội hiện đại.
Từ quan niệm về hành động xã hội, M. Weber cho rằng xã hội học phải
mang tính lãnh hội (sociologie compréhensive), bởi lẽ nhà xã hội học phải tìm
hiểu quan điểm, ý đồ, sách lược của các tác nhân xã hội mới có thể lý giải ý
nghĩa của hành động. Như vậy hành động xã hội không thể được phân tích
riêng lẻ mà phải được phân tích trong những mối tương tác xã hội. Do đó nhà
xã hội học cũng phải phân tích, nhận thức được khoảng cách giữa những
mục tiêu ban đầu và kết quả có được. Khoảng cách này xảy ra do có nhiều
tác nhân với các sách lược khác nhau và do hậu quả kết tụ (agrégation)
những ứng xử cá nhân đơn lẻ.
Những nhà xã hội học theo khuynh hướng này thường sử dụng
phương pháp định tính trong nghiên cứu các hiện tượng xã hội. Phương pháp
này chủ yếu tìm hiểu những mối liên hệ lô gích giữa các hiện tượng xã hội
bằng cách so sánh những điểm giống nhau, khác nhau để tìm ra tính tương
đồng về cơ cấu, về chức năng giữa các hiện tượng.
Khuynh hướng thứ hai do E. Durkheim khởi xướng, quan niệm xã hội
học phải nghiên cứu các sự kiện xã hội (faits sociaux). Các sự kiện xã hội là
biểu hiện của ý thức tập thể. Durkheim đã phân biệt, ý thức cá nhân là tập
hợp những sở thích, xu hướng hoàn toàn có tính cách cá nhân, trong khi ý
thức tập thể được hình thành do những chuẩn mực, giá trị của cả một nhóm
xã hội. Từ đó Durkheim định nghĩa những sự kiện xã hội là tập hợp những
hành động, tư tưởng và tình cảm từ bên ngoài do xã hội áp đặt cho cá nhân.
Như vậy sự kiện xã hội không có tính cá nhân và là điều xã hội muốn chia sẻ
với các thành viên qua quá trình xã hội hóa.
Các sự kiện xã hội là những sự kiện có tính cách tập thể, nghĩa là
không phải sự kiện của một cá nhân đơn độc mà là của nhiều cá nhân, trong
mối quan hệ các cá nhân. Thật ra, vấn đề không đơn giản như vậy, vì như R.
Aron đã nhận xét, các hiện tượng của con người, hiện tượng nhân văn đều ít
nhiều mang tính cách xã hội, bởi lẽ các hiện tượng này được sản sinh trong
các tập thể và các tập thể này sẽ tác động lên chúng. Các hiện tượng xã hội
còn có tính khách quan – khách quan không chỉ trong các sự kiên có thể quan
sát được, mà còn trong ý nghĩa É. Durkheim đã đề cập, là những sự kiện có
sức cưỡng chế lên hành vi của con người, ví như các tín niệm (beliefs), các
giá trị. Các sự kiện xã hội còn mang tính tổng quát. Tổng quát không phải là
những đặc thù trong các sự kiện mà là những nét chung, những tương đồng
của những sự kiện cụ thể. Và cuối cùng sự kiện xã hội phải là những sự kiện
thực nghiệm – nghĩa là có thực, chứ không phải là những cái mong muốn,
những cái phải có.
Từ quan điểm về sự kiện xã hội, E. Durkheim cho rằng xã hội học phải
có tính khách quan. Xã hội học không thể nghiên cứu những sự kiện xã hội từ
những cá nhân bởi lẽ sự kiện xã hội thuộc về ý thức tập thể chứ không phải ý
thức cá nhân. Do đó một sự kiện xã hội phải được giải thích do một sự kiện
xã hội khác có trước – như trường hợp ông giải thích về tự tử. Cũng vì nhấn
mạnh đến tính khách quan mà Durkheim đã đề nghị: “Phải phân tích các sự
kiện xã hội như các đồ vật”, có nghĩa là có thể quan sát được quá trình
nghiên cứu các sự kiện xã hội.
Từ những luận điểm trên các nhà xã hội học theo khuynh hướng này
thường sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để tìm hiểu các hiện
tượng xã hội. Với phương pháp định lượng, vấn đề nghiên cứu được thao tác
hóa thành những chỉ báo, những biến số cụ thể, có thể đo lường được. Và
nghiên cứu xã hội học là nhằm đi tìm những mối quan hệ giữa các biến số,
những tính quy luật của những biến số.
Như vậy hiện tượng xã hội là một hiện tượng phức tạp và ta có thể
nghiên cứu chúng dưới nhiều lối tiếp cận khác nhau, dưới nhiều góc độ khác
nhau: tâm lý, kinh tế, pháp luật, xã hội… Nhưng nội dung cụ thể trên phần
nào làm rõ hơn đối tượng của xã hội học. Nhưng cần phải nói ngay nét đặc
thù của xã hội học không phải là nghiên cứu cái gì, bởi lẽ nhiều bộ môn khoa
học xã hội cũng cùng nghiên cứu những hiện tượng xã hội nêu trên – mà là
nghiên cứu thế nào. Điều đó có nghĩa là phải thấy đặc thù của xã hội học
trong lối nhìn, trong góc độ, trong nhãn quan nghiên cứu của nó.
Nhãn quan xã hội học:
Trong nghiên cứu của mình, các nhà xã hội học có thể sử dụng những
lối tiếp cận khác nhau. Nhưng mọi nhà xã hội học đều phải có nhãn quan
phân tích xã hội học.
Trước hết, cuộc sống xã hội của con người là một hệ thống đan xen
các mối quan hệ giữa những cá nhân. Các mối quan hệ này có thể được
phân tích tối thiểu dưới hai góc độ: góc độ tâm lý học và góc độ xã hội học.
Nhà tâm lý nghiên cứu các mối quan hệ giữa các cá nhân để tìm hiểu sự hình
thành và phát triển nhân cách của các con người cụ thể. Trong khi nhà xã hội
học đặt các quan hệ liên cá nhân đó (relations interpersonnelles) trong một
bối cảnh rộng lớn hơn của các nhóm, các tổ chức, các định chế, trong đó các
mối tương quan này được hình thành. Nói cách khác, xã hội học đặt trọng
tâm vào khía cạnh xã hội của các mối quan hệ trên và qua đó để tìm hiểu tổ
chức xã hội của con người và sự phát triển của nó.
Khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội, đặc trưng của xã hội học là
nghiên cứu xem những điều hiện xã hội, những lực xã hội ảnh hưởng như thế
nào lên ứng xử, lên những mối quan hệ giữa con người. Điều kiện xã hội là
những thực thể của đời sống mà chúng ta đã cùng nhau tạo ra, xuất phát từ
tương tác của con người. Những điều kiện xã hội khác những điều kiện sinh
lý và những điều kiện tâm lý. Những điều kiện sinh lý tác động đến ứng xử và
nhu cầu của chúng ta xét như là một sinh vật. Còn các dữ kiện tâm lý là
những dữ kiện liên quan đến hành vi của chúng ta với tư cách là những cá
nhân.
Trước một hiện tượng xã hội như ly hôn, thông thường người ta có thể
giải thích rằng những cặp vợ chồng ly hôn là do họ không còn có thể chung
sống với nhau nữa, hoặc do quan hệ giữa họ bị gãy đổ do những căng thẳng
kinh tế, hoặc do căng thẳng trong công việc, do chồng rượu chè, hay do
không chung thủy… Những lý do này đều có thực, khi ta tìm hiểu nguyên
nhân của những trường hợp riêng biệt. Nhưng còn nhiều nguyên nhân khác
nữa. Lấy thí dụ những trường hợp ly hôn ở Mỹ trong khoảng thời gian 1890–
1982. Trong thế kỷ qua, tỷ lệ ly hôn ở Mỹ đã gia tăng gấp mười lần, như vậy
bên cạnh những nguyên nhân của từng cá nhân cụ thể trong quyết định ly
hôn, những điều kiện xã hội có tác động của chúng: cũng trong khoảng thời
gian trên, lực lượng phụ nữ tham gia thị trường lao động càng gia tăng (năm
1900 chỉ 1/5 phụ nữ làm việc ngoài gia đình, năm 1984: 1/2), thêm vào đó là
các phong trào, các kỹ thuật kiểm soát sinh sản cũng gia tăng sự chọn lựa
của phụ nữ, ly hôn cũng không còn bị xem là một tội lỗi như cách đây một thế
kỷ.
Trước hiện tượng tự tử của một cá nhân cũng vậy, nhà tâm lý có thể
tìm hiểu những động cơ nào đã dẫn cá nhân đó đến hành động trên, có thể là
sự buồn phiền, chán nản, mặc cảm tội lỗi… Trong khi nhà xã hội học chú
trọng những đặc điểm tầng lớp xã hội của cá nhân đó như giới tính, nghề
nghiệp, tôn giáo, tình trạng gia đình, giàu nghèo… để tìm xem tại sao tự tử
ảnh hưởng đến tầng lớp này hơn tầng lớp khác. Đó là điều mà E. Durkheim
đã thực hiện trong công trình nghiên cứu về tự tử của ông. Ông đã đưa ra lý
thuyết là những người hội nhập tốt mặt xã hội – nghĩa là họ bị ràng buộc với
người khác về mặt tình cảm và nghĩa vụ – thì ít tự tử hơn những người cô
đơn mặt xã hội. Qua các số liệu cụ thể, ông cho thấy suất tự tử những người
thuộc nam giới, theo đạo Tin lành, những người giàu có, độc thân cao hơn
những thành phần xã hội khác (nữ giới, theo đạo Công giáo, có gia đình…).
Như vậy, theo thuật ngữ của Peter Berger, nhãn quan xã hội học chú trọng
đến cái tổng quát trong cái đặc thù. Có nghĩa là nhà xã hội học phải nhận ra
được những khuôn mẫu tổng quát của đời sống xã hội qua các ứng xử của
các cá nhân cụ thể. Trong khi thừa nhận cá nhân là những thực thể duy nhất,
độc đáo nhà xã hội học đồng thời cũng nhận ra các cá nhân đều thuộc về các
thành phần, các tầng lớp riêng biệt và các thành phần, tầng lớp xã hội đều
ứng xử khác nhau.
Có được nhãn quan xã hội học còn có nghĩa là thấy được cái độc đáo
trong cái bình thường. Đây là điều mà C. W. Mills gọi là trí tưởng tượng xã hội
học. Điều này không có nghĩa nhà xã hội học quan tâm đến những yếu tố kỳ
quái trong xã hội. Đúng hơn, nhà xã hội học phải thoát khỏi những lối giải
thích khuôn sáo, để nhìn thế giới với đôi mắt mới mẻ, khám phá được những
dữ kiện mới khác với những nếp nghĩ hằng ngày, tìm ra được cái gì quan
trọng mà lối giải thích thường ngày không đề cập đến. Muốn vậy, trước
những hoàn cảnh cụ thể ta phải lùi lại tìm những lý giải tổng quát hơn, tìm ra
những phân lớp của đối tượng mà ta đang nghiên cứu.
Trong cuộc sống thường ngày, người ta thường giải thích các hiện
tượng xã hội bằng “lẽ thường tình” (common sense). Ví như, người ta áp
dụng quan điểm “sinh học” để lý giải các chức năng của hôn nhân, của sự
phân công giới tính trong gia đình, quan điểm “tâm lý học” để giải thích hiện
tượng tự tử, hay quan điểm “ đạo đức” khi giải thích về hiện tượng tội phạm.
Thật ra các lối giải thích trên mang nhiều dấu ấn của các nền văn hóa đặc
thù. Ví như cuộc nghiên cứu của Mead ở tộc người Arapesh tại Tân Ghinê
cho thấy những phụ nữ ở đây đảm nhận những công việc nặng nhọc, còn đàn
ông thì nằm chung với vợ trong và sau thời kỳ họ sinh nở, cùng chia sẻ nỗi
đau và khó khăn của người phụ nữ. Hay ở tộc người Tchambuli, đàn ông
trang điểm sắc đẹp ngồi lê, đôi mách, làm những vật dụng để bán, trong khi
phụ nữ chủ động trong hôn nhân, đi tìm chồng, dữ dội trong quan hệ tình dục
và đi buôn bán để nuôi gia đình (Bilton, 1993).
Những lối giải thích các hiện tượng xã hội thường gặp khác là theo
“thuyết cá nhân” hay theo “thuyết tự nhiên”. Thuyết cá nhân cho rằng sự kiện
chỉ có thể được hiểu và giải thích thông qua các hành vi của cá nhân trong sự
kiện đó, như khi người ta giải thích bằng những lý do cá nhân các hiện tượng
tự tử, sự nghèo đói, các xung đột trong xí nghiệp. Thuyết tự nhiên giả định
các hành vi cá nhân là do bản năng, do số phận, do tiền định một cách tự
nhiên như vậy, như khi người ta giải thích về hôn nhân, về vai trò người phụ
nữ, về nhân cách…
Nhãn quan xã hội học, trái lại, như đã trình bày ở trên là đi tìm những
yếu tố, điều kiện xã hội, những sức ép xã hội, những yếu tố văn hóa, xã hội
nào đã quy định những hành vi, những mối quan hệ giữa các cá nhân.
Một đôi khi, nhãn quan xã hội học, trực giác phân tích xã hội học đến
với ta một cách tự nhiên. Khi tiếp xúc với một xã hội khác, việc nhận thức
được các điều kiện xã hội đến với ta dễ dàng hơn. Cũng vậy, những thành
phần xã hội có kinh nghiệm bị gạt ra bên lề xã hội dễ nhận thấy những tác
động của điều kiện xã hội hơn những người khác. Hay khi xã hội rơi vào một
giai đoạn khủng hoảng thì mọi người dễ nhìn hoàn cảnh xã hội dưới nhãn
quan xã hội học hơn.
Ngày nay, nhãn quan xã hội học còn đòi hỏi phải nhìn và giải thích các
hiện tượng xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa, bởi lẽ do sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, của thông tin, các xã hội càng ngày càng có liên hệ với
nhau, tương thuộc nhau; nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng phải được giải
quyết trên cấp độ toàn cầu và nhất là, biết được cuộc sống của người khác sẽ
giúp chúng ta hiểu được xã hội của chính mình nhiều hơn.
Lợi ích của nhãn quan xã hội học:
Trước hết nhãn quan xã hội học nâng cao sự am hiểu của chúng ta về
thế giới, về xã hội bằng cách phê phán, đánh giá lại những “chân lý” mà ta đã
chấp nhận một cách mặc nhiên, giúp giảm bớt định kiến xã hội.
Thứ đến, khi phân tích mối tương quan giữa hành vi, ứng xử của con
người trong cơ cấu và vận hành của tổ chức xã hội, nhãn quan xã hội học
giúp ta hiểu hơn những cơ hội cũng như những hạn chế, những bó buộc cũng
như những khả năng chúng ta gặp phải trong cuộc sống.
Cuối cùng, nhãn quan xã hội học giúp cho chúng ta tham gia tích cực
hơn các hoạt động trong xã hội, giúp tổ chức có hiệu quả các quá trình hoạt
động xã hội. Việc phân tích cơ cấu và biến chuyển xã hội cho phép đưa ra
các dự báo phục vụ việc vạch kế hoạch, chính sách đáp ứng nhu cầu phát
triển của xã hội.
II. TỪ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI ĐẾN KHOA HỌC XÃ HỘIMặc dù tư tưởng xã hội đã có từ lâu, kể từ khi lịch sử của con người
được ghi nhận, nhưng xã hội học như là một bộ môn khoa học chỉ phát triển
từ thế kỷ 19 và 20. Những giải thích của các nhà triết học Hi lạp và La Mã
trước đây về con người và xã hội chủ yếu dựa vào những giả định mơ hồ
không kiểm chứng được về bản chất của con người và không giải thích được
một cách hệ thống cơ cấu và vận hành của xã hội. Nhưng những khám phá
khoa học vào thế kỷ 17 đưa đến ý tưởng về sự tiến bộ, đối lập với những ý
tưởng trước đây cho rằng con người lệ thuộc vào sự an bài của thượng đế.
Điển hình cho việc giải thích sự phát triển của tư tưởng con người trong
khi lãnh hội thế giới là quan điểm của A. Comte về “định luật ba giai đoạn”
(law of the three stages). Theo ông tư tưởng con người đã tiến hóa qua ba
giai đoạn: giai đoạn thần học (theological stage) là giai đoạn con người quan
niệm xã hội là sự phản ánh của các lực lượng siêu tự nhiên, con người tin
tưởng vào sự an bài của thượng đế. Giai đoạn này đã kéo dài đến thời Trung
cổ. Giai đoạn siêu hình học (metaphysical stage) được đánh dấu khi con
người dùng khái niệm “bản chất” để giải thích các sự kiện nhân văn và xã hội
(như quan niệm của Nho giáo “Nhân chi sơ tính bản thiện”, hay quan niệm
“con người là chó sói của con người” của Hobbes sau này). Cả hai giai đoạn
này không giải thích xã hội bằng chính xã hội mà bằng những yếu tố ngoại lai.
Và cuối cùng, giai đoạn khoa học (scientific stage), khởi đầu cách đây vài thế
kỷ, cho rằng thế giới vật chất và xã hội tuân theo những quy luật khách quan
mà con người có thể khám phá được và khoa học là con đường duy nhất
giúp con người khám phá ra những quy luật này. Đó chính là quan điểm duy
nghiệm (empiricism).
Đồng thời vào thế kỷ 18, các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và
chính trị ở châu Âu và Bắc Mỹ đã thay đổi toàn diện xã hội và đem lại những
viễn tưởng mới cho đời sống xã hội của con người. Từ một lối sống chủ yếu
dựa trên nông thôn, nông nghiệp, và thủ công con người đã chuyển sang một
nếp sống đô thị, công nghiệp. Tuy nhiên lối sống mới cũng mang tính nghịch
lý: một mặt gia tăng năng suất lao động, đem lại một lối sống đa dạng, nhưng
mặt khác phá vỡ xã hội cổ truyền, đem lại những vấn đề xã hội mới như thất
nghiệp, nghèo đói, ô nhiễm.
Từ những ý tưởng chớm nở trong thời kỳ trên đã nảy sinh ý định xây
dựng một khoa học về xã hội con người. Đó là xã hội học. Bộ môn này đã
phát triển ở châu Âu vào thế kỷ 19, đã phát triển rất sớm ở Pháp và ở Đức, và
sau đó ở Anh, ở Mỹ.
Tuy nhiên, xã hội học với tư cách là một ngành khoa học độc lập chỉ
phát triển mạnh từ sau thế chiến thứ hai. Chúng ta có thể nêu lên một số
nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển này:
- Những thảm họa của chiến tranh do chủ nghĩa phát xít gây nên làm
con người ý thức hơn việc nghiên cứu sự vận hành của xã hội; đồng thời
những tiến bộ khoa học cũng đem lại cho con người những vấn đề xã hội
mới: sự bùng nổ dân số, nghèo đói, tội ác, thất nghiệp…
- Trong việc giải quyết những vấn đề xã hội, cải tạo xã hội, con người
thấy cần thiết phải có kiến thức về xã hội. Phải nghiên cứu sâu xa xã hội mới
có thể biến đổi chúng.
– Cuộc cách mạng thông tin đại chúng đã đem lại nhiều hiểu biết hơn
về các hiện tượng xã hội, các lối sống, các nền văn hóa khác nhau.
- Trong mọi vấn đề của xã hội, trong mọi lãnh vực hoạt động, càng
ngày càng đòi hỏi những kiến thức về con người, về xã hội, bởi lẽ các vấn đề
xã hội nếu chỉ được giải quyết thuần túy dưới góc độ kỹ thuật hay góc độ kinh
tế đều không đem lại kết quả mong muốn.
Trong suốt cả giai đoạn hình thành và cả trong giai đoạn hiện nay,
những tư tưởng, ý kiến, lối tiếp cận của các nhà xã hội học tiền phong vẫn
chiếm một vị trí quan trọng, vì họ đã đặt ra những vấn đề mà các xã hội công
nghiệp phải đối phó, phải giải quyết.
Auguste Comte (1798–1857):
Cũng như những nhà triết học xã hội khác vào thời ông ta, A. Comte
chịu ảnh hưởng sâu xa khoa vật lý học. Ông chia xã hội học thành hai bộ
phận tương ứng với hai ngành vật lý. “Tĩnh học xã hội” – bộ môn này chú
trọng nghiên cứu sự ổn định và trật tự xã hội và vấn đề tại sao xã hội liên kết
được với nhau. Bộ môn “Động thái xã hội” nghiên cứu những vấn đề về biến
chuyển và bất ổn định xã hội. Cũng như khoa vật lý muốn tìm hiểu những quy
luật của sự chuyển động, bộ môn xã hội học cũng phải nghiên cứu tìm ra
những quy luật của biến chuyển xã hội. Tìm kiếm những quy luật xã hội là mối
quan tâm hàng đầu của các nhà xã hội học tiền phong.
A. Comte cũng đã phát triển khái niệm thực nghiệm (positivism) – có
nghĩa là áp dụng những phương pháp khoa học để tìm hiểu xã hội và biến
chuyển của nó. Áp dụng khái niệm này vào việc tìm hiểu các xã hội hiện đại,
Comte nhấn mạnh rằng xã hội học phải dựa trên sự quan sát cẩn thận, phải
thường xuyên đưa vào các phương pháp thống kê. Nhưng đồng thời ông ta
cũng thừa nhận rằng có lẽ xã hội học ít tính cách thực nghiệm hơn do những
khó khăn về mặt thực tế, về mặt đạo đức khi phải can thiệp vào đời sống của
con người.
Một phương pháp khác được sử dụng bởi những nhà xã hội học thực
nghiệm đó là phương pháp đối chiếu. Khi sử dụng phương pháp này các nhà
xã hội học có thể so sánh cách thức theo đó các xã hội khác nhau được tổ
chức như thế nào và cũng có thể so sánh các xã hội sơ khai với các xã hội
hiện đại. Phương pháp này cho ta nhiều kết quả lý thú, nhưng đồng thời cũng
chỉ có tính cách tương đối, bởi lẽ mỗi xã hội đều mang tính đặc thù trong
không gian và thời gian. Đối với Comte, các khả năng để so sánh các xã hội
và các nền văn minh khác nhau xem ra hầu như là vô hạn. Tóm lại, ý tưởng
đóng góp độc đáo của A. Comte là sự cần thiết của một bộ môn khoa học mới
về tổ chức và lịch sử xã hội con người, đó là xã hội học.
Herbert Spencer (1820–1903):
Một khuôn mặt điển hình khác của xã hội học vào thời kỳ đó là H.
Spencer, ông đã dùng lý thuyết tiến hóa để giải thích biến chuyển xã hội. Các
công trình của Spencer về xã hội đã thu hút được sự chú ý quan trọng của
giới trí thức vào cuối thế kỷ 19. Khác với Comte, Spencer cho rằng các xã hội
không nhất thiết phải trải qua các giai đoạn phát triển, thay vào đó ông đặt
câu hỏi tại sao biến chuyển xã hội đã xảy ra. Biến chuyển xã hội đã xảy ra bởi
vì các thành viên trong xã hội phải thích ứng với các biến chuyển trong môi
trường họ đang sống, có thể là những biến chuyển trong môi trường thiên
nhiên hoặc trong môi trường xã hội như sự gia tăng dân số, hoặc do những
phương pháp sản xuất thực phẩm tốt hơn đã được tạo ra. Trong khi phát triển
lý thuyết về tiến hóa xã hội, Spencer đã vay mượn những ý tưởng của C.
Darwin, do đó lý thuyết của ông còn được gọi là lý thuyết Darwin xã hội
(social darwinism).
Karl Marx (1818–1883):
Ngược lại với Comte và Spencer, K. Marx tập trung nghiên cứu vai trò
của mâu thuẫn trong biến chuyển xã hội. Ông cho rằng những hình thái xã hội
mới được hình thành từ mâu thuẫn và xung đột trong các hình thái cũ. Marx
đã phê bình gắt gao chủ nghĩa tư bản và tiên đoán nó sẽ bị thay thế bởi chủ
nghĩa xã hội. Không có một nhà xã hội học tiền phong nào đã có ảnh hưởng
sâu rộng trên bộ môn khoa học mới này như là K. Marx. Nhưng Marx không
tự gọi mình là nhà xã hội học. Đúng hơn ông nghĩ mình trước hết là một nhà
triết học và sau đó là nhà kinh tế chính trị học. Ông thừa nhận đã bàn đến
những vấn đề xã hội học, nhưng những công trình của ông còn bao trùm lên
nhiều lãnh vực khác như triết học, kinh tế học, lý thuyết chính trị và sử học.
Marx được xem là một trong những nhà sáng lập bộ môn xã hội học
đương đại là do lý thuyết về biến chuyển xã hội và sự phân tích của ông về
mâu thuẫn xã hội. Nhưng khác với những nhà xã hội học cùng thời, Marx
không dựa trên những sự tương đồng với khoa vật lý và khoa sinh vật. Lý
thuyết của ông về biến chuyển xã hội có tính chất xã hội học vì nó dựa trên
những xung đột giữa những giai cấp lớn trong xã hội; nó đã không đề cập đến
những biến cố riêng biệt nào hoặc những cá nhân lãnh tụ đặc biệt nào.
Những vấn đề trung tâm Marx nghiên cứu là tại sao các cuộc cách mạng lại
xảy ra và đặc biệt tại sao chủ nghĩa tư bản đã thay thế một hình thái của tổ
chức xã hội trước đó là chế độ phong kiến, thông qua các cuộc cách mạng
vào thế kỷ 18.
Marx cho rằng quyền sở hữu tư liệu sản xuất đã đem lại sự bất bình
đẳng về kinh tế và chính trị. Mặc dù thừa nhận tính sáng tạo của lực lượng
sản xuất trong chủ nghĩa tư bản, ông cho rằng giai cấp công nhân đã bị bóc
lột bởi giai cấp tư sản là những người sở hữu tư liệu sản xuất. Giai cấp công
nhân sẽ nhận thức được thực trạng của mình và đấu tranh xây dựng một xã
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Lý thuyết của Marx luôn hữu ích đối với những nhà xã hội học khi phân
tích vai trò của mâu thuẫn trong biến chuyển xã hội. Và ước mơ về bình đẳng,
về công bằng xã hội luôn là suy nghĩ của những nhà xã hội học chân chính.
Max Weber (1864–1920):
Một nhà xã hội học tiền phong khác là Max Weber. Ông đã tìm cách mô
tả những nét cơ bản của các xã hội mới phát sinh từ những cuộc cách mạng
chính trị và xã hội từ thế kỷ 18 là 19. Weber nghiên cứu những điều kiện hình
thành nên những lối ứng xử kinh tế và chính trị có tính cách “duy lý” (rational)
xuất hiện trong xã hội. Những nghiên cứu của ông đã ảnh hưởng đến bản
chất và hướng đi của xã hội học hiện đại.
Có lẽ không một nhà sáng lập xã hội học nào chịu ảnh hưởng sâu đậm
các lý thuyết mác–xít về xung đột và biến chuyển xã hội như là Max Weber.
Weber thường dùng những ví dụ rút từ lịch sử các xã hội trên khắp thế giới.
Max Weber là một nhà xã hội học lớn, các công trình của ông bao trùm nhiều
khía cạnh, ông nghiên cứu về các tôn giáo trên thế giới, về tổ chức thư lại
(bureaucracy) của nhiều xã hội khác nhau, bản chất của các thành thị, sự
hình thành của chủ nghĩa tư bản, các loại hình khác nhau của tổ chức chính
trị, vai trò của các lãnh tụ trong các biến chuyển xã hội và tương quan của các
tổ chức kinh tế đối với các biến chuyển xã hội. Weber sử dụng các dữ kiện
lịch sử để trả lời cho vấn đề chính yếu ông đưa ra: với những điều kiện nào
các ứng xử chính trị và kinh tế có tính cách duy lý đã xuất hiện trong các xã
hội khác nhau. Khi nói đến ứng xử duy lý Weber muốn ám chỉ các hành động
dựa trên sự tính toán, được đánh giá theo những tiêu chuẩn khách quan,
nghĩa là đối lập với các niềm tin, các giá trị dựa trên truyền thống… Điều này
không có nghĩa là Weber không đánh giá cao tầm quan trọng của tôn giáo
trong xã hội hoặc ông không biết đến giá trị của truyền thống. Ông chỉ đơn
giản nêu lên nhận định, xã hội nào đang tìm cách áp dụng tính duy lý vào
khoa học, vào kinh doanh, vào chính trị và đặc biệt vào luật học – đều đang
trở thành những xã hội hùng cường hơn trên sân khấu thế giới. Đối với
Weber sự bành trướng của tính duy lý này trong ứng xử của các cá nhân
trong đời sống hằng ngày là nét đặc trưng của các xã hội hiện đại. Một trong
các tác phẩm quan trọng của Max Weber là “Đạo Đức Tin Lành và Tinh Thần
Của Chủ Nghĩa Tư Bản” (1904). Trong cuốn sách này, M. Weber tìm hiểu
tương quan giữa các ý tưởng tôn giáo và giai đoạn đầu phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Ông cho thấy giáo huấn của Tin Lành đã dẫn tới việc đầu tư
hơn là tiêu thụ, sự đầu tư này đến lượt nó khuyến khích sự phát triển chủ
nghĩa tư bản tại các xã hội theo đạo Tin Lành. Như vậy, Weber chứng minh
vai trò quan trọng của tôn giáo trong việc đưa đến những thay đổi trên bình
diện kinh tế. Nhưng đồng thời ông cũng đề cập đến tính đa dạng của các
nguyên nhân (pluralité des causes) và như vậy chủ nghĩa tư bản hiện đại còn
do những nguyên nhân chính trị, kinh tế khác nữa.
Một đóng góp khác của M. Weber là phương pháp lãnh hội
(compréhension) trong xã hội học. Đối với ông, lối giải thích xã hội học phải đi
tìm hiểu ý nghĩa của các tác nhân xã hội trong các hoạt động xã hội của họ,
như ông ta đã tìm hiểu những động cơ đạo đức ở những nhà tư bản theo đạo
Calvin.
Cũng trên bình diện phương pháp luận, Max Weber đã đưa ra khái
niệm loại hình lý tưởng (ideal type) – là một sự mô tả có tính cách trừu tượng
bất cứ hiện tượng xã hội nào bằng cách nêu lên những đặc trưng cơ bản của
hiện tượng xã hội này. Nhưng việc trừu tượng hóa này phải dựa trên những
sự kiện và loại hình lý tưởng này không mang một sự phê phán giá trị.
É. Durkheim (1859–1917):
Nhưng có lẽ nhà xã hội học có ảnh hưởng nhất của thời kỳ đầu này là
É. Durkheim. É. Durkheim là nhà xã hội học đầu tiên có một địa vị trong một
đại học lớn. Có được điều này là do công trình khoa học của ông về vấn đề tự
tử. Trong nghiên cứu này ông đã vạch ra một lối tiếp cận mới cho nghiên cứu
xã hội học. Bằng việc trình bày các số liệu thống kê có thể kiểm chứng được
về tỷ suất tự tử trong các xã hội khác nhau, ông đã có thể chứng minh, có thể
tiên đoán được ở nơi đâu và khi nào có suất tự tử cao. Các nguyên nhân tâm
lý có thể có giá trị đối với trường hợp tự tử của một cá nhân nào đó, nhưng
Durkheim cho thấy rằng các biến số xã hội như là tôn giáo hay là sự dao động
về kinh tế có thể giải thích sự khác biệt về số người tự tử ở các địa phương,
các xã hội khác nhau.
Một đóng góp khác của Durkheim là quan niệm của sự kiện xã hội (fait
social). Hầu như mọi nhà xã hội học đều tin rằng vấn đề tự tử có thể được
giải thích chủ yếu bởi trạng thái tinh thần của cá nhân như sự chán nản hoặc
mặc cảm tội lỗi. Nhưng Durkheim cho thấy rằng ở một số xã hội một vài hình
thức tự tử là do áp đặt của các nhóm xã hội đối với cá nhân, ví như tục Suttee
ở Ấn Độ. Và công trình nghiên cứu của Durkheim cho thấy rằng trong các xã
hội mà tài sản cá nhân có thể tăng hay giảm một cách đột ngột, suất tự tử có
thể cao hơn các xã hội trong đó các điều kiện kinh tế ít dao động. Theo ông,
sự kiện xã hội là một sự kiện bên ngoài cá nhân, khách quan, có sức ép lên
ứng xử của cá nhân và phải có tính thực nghiệm (É. Durkheim, 1993.).
Như vậy, hai trong các nguyên tắc quan trọng mà E. Durkheim đòi hỏi
khi phân tích sự kiện xã hội là phải xem sự kiện xã hội khách quan: “Phải xử
lý các sự kiện xã hội như những đồ vật” và “cái xã hội phải được giải thích
bằng cái xã hội”.
Nhãn quan xã hội học của Durkeim nhấn mạnh việc nghiên cứu các cơ
cấu xã hội và sự vận hành của chúng. Suốt cuộc đời con người tham gia vào
nhiều loại “hình cơ cấu xã hội khác nhau như: gia đình, học đường, quân đội,
xí nghiệp, nghiệp đoàn, giáo hội, đảng phái… Lối ứng xử của chúng ta với tư
cách là những cá nhân thường được giải thích rõ hơn bằng cách qui chiếu
vào các vai trò, vị trí của chúng ta trong tổ chức và khi tìm hiểu chức năng các
cơ cấu này. Và cũng theo ông ta, sự cố kết trong xã hội là do sự hội nhập
(intégration) của những cá nhân và do sự tồn tại của một nền đạo đức được
xây dựng một cách hợp lý dựa trên những giá trị tập thể.
Như vậy, các nhà sáng lập của bộ môn xã hội học hiện đại có khuynh
hướng tư duy ở cấp độ vĩ mô. Các công trình của họ thường đề cập đến các
xã hội tổng thể và cho thấy các đặc điểm của các xã hội đó ảnh hưởng thế
nào tới ứng xử của con người và biến chuyển xã hội.
III. SỰ HÌNH THÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC ĐƯƠNG ĐẠI VÀ CÁC LÝ THUYẾT CỦA NÓ
Xã hội học phát sinh từ châu Âu nhưng vào những năm đầu thế kỷ 20,
bộ môn này tìm thấy ở Bắc Mỹ đặc biệt là ở Hoa Kỳ – một mảnh đất màu mỡ
để phát triển. Ở đây, trước hết, sức ép của nhu cầu cần những thông tin thực
nghiệm liên quan đến điều kiện xã hội đang biến đổi cực kỳ nhanh chóng do
quá trình công nghiệp hóa, nền đạo đức Tin lành với tinh thần duy lý hóa, chủ
nghĩa thực dụng với tiêu chuẩn hiệu năng hàng đầu, các môi trường đại học
cởi mở và canh tân…đã thúc đẩy tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu xã hội học
có tính chất thực nghiệm và cũng đã hình thành nhiều trường phái xã hội học.
Ta có thể kể đến hai trường phái riêng biệt xuất hiện trong các đại học Mỹ vào
những năm trước thế chiến thứ II: trường phái Chicago sử dụng các phương
pháp nghiên cứu dựa sự quan sát, nghiên cứu thực địa, đặc biệt chú trọng
nghiên cứu tương quan giữa cá nhân và xã hội, do giả định rằng trật tự xã hội
là kết quả của một quá trình tương tác xã hội phức tạp giữa những cá nhân.
H. Blumer đã gọi quan điểm này là “tương tác biểu tượng”. Trong khi đại bộ
phận các đại học ở miền Đông như Harvard, Colombia quan tâm đến những
nghiên cứu xã hội ở cấp độ trung mô và vĩ mô, như T. Parsons với lý thuyết
chức năng của ông ta đã ảnh hưởng sâu sắc xã hội học Bắc Mỹ cho đến
những năm sau thế chiến thứ hai.
Sau thế chiến thứ II và mãi đến những năm của thập niên 90, xã hội
học càng phát triển với nhiều lý thuyết, nhiều trường phái đa dạng:
– Xã hội học ở Mỹ (và nói chung xã hội học anglo–saxon) với các lý
thuyết như: xã hội học phê phán của Alvin Gouldner, của R. W. Friedrichs,
của C. W. Mills; các biến thể của lý thuyết tương tác biểu tượng với các tác
giả E. Goffman, H. S.Becker, A. Strauss, H. Garfinkel; lý thuyết “gán nhãn”
(théorie de létiquage) với E. Lemert, de J. Gusfield, H.S. Becker; lý thuyết
đóng kịch với nhà xã hội học Canada Goffman, Glaser, Strauss; trào lưu
phương pháp luận dân tộc học (ethnomethodology) với Garfinkel, Cicourel,
Sudnow…; lý thuyết xã hội học lịch sử đổi mới với N. Elias, Tilly, Wallerstein,
C. Geertz, R. Bellah, Anderson…
– Xã hội học Pháp hồi sinh với “tứ trụ” nổi tiếng: P. Bourdieu với lý
thuyết cơ cấu phái sinh (structurahsme génétique) A. Tourain với lý thuyết
hành động (actionnalisme); M. Crozier với mô hình chiến lược (modèle
stratégique); R. Boudon với lý thuyết cá nhân phương pháp luận
(individualisme méthodoiogique)…
- Xã hội học Đức vẫn với các truyền thống duy nghiệm, mác–xít và hiện
tượng luận, nhưng cũng nổi bật lên các khuôn mặt mới tiếng tăm như
J.Habermas, N. Luhmann…
- Xã hội học mác–xít không chỉ có ảnh hưởng ở Đông âu mà còn tác
động mạnh mẽ xã hội học tại Đức, Pháp, Ý, châu Mỹ Latinh…
Xã hội học cổ điển và xã hội học đương đại đa dạng như vậy, nhưng để
có một cái nhìn hệ thống, ta tạm phân ra các ranh giới như sau, dựa trên các
nguyên lý, các cấp độ nghiên cứu và nội dung nghiên cứu xã hội học.
1. Dựa trên những nguyên lý nghiên cứu ta có thể phân ra các khuynh hướng:
Khuynh hướng duy khách thể (objectiviste): những nhà xã hội học
thuộc khuynh hướng này xem các sự kiện xã hội; các hiện tượng tập thể là ở
bên ngoài cá nhân. Do đó ta có thể nghiên cứu chúng một cách khách quan
như nghiên cứu các sự vật và không quan tâm đến những động cơ cá nhân.
Như trường hợp É. Durkheim khi ông nghiên cứu hiện tương tự tử ông đã
không đề cập đến những động cơ cá nhân.
Trái lại, những nhà xã hội học khác, như M. Weber, lại nghiên cứu hiện
tượng xã hội từ những ý nghĩa mà cá nhân gán cho những hiện tượng này.
Lối tiếp cận này được gọi là duy chủ thể (subjectiviste). Bằng lối tiếp cận lãnh
hội (compréhension) M. Weber đã giúp hiểu được sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản vào thế kỷ 16 một phần phát xuất từ những nguyên tắc đạo lý chi phối
cuộc sống của các nhà tư bản chủ nghĩa theo đạo Calvin vào thời bấy giờ.
Cũng có một số nhà nghiên cứu cố gắng phối hợp trong nghiên cứu
của mình cả hai lối tiếp cận trên, như P. Boudieu ở Pháp hay A. Giddens ở
Anh. Nhà xã hội học Pháp P. Bourdieu khi nghiên cứu về sự phân bố sinh
viên theo học các đại học ở Pháp, ông đã dựa trên những dữ kiện định lượng
để cho thấy rằng những sinh viên thuộc các tầng lớp xã hội bên dưới thường
theo các phân khoa không được đánh giá cao ở đại học, nhưng đồng thời các
sinh viên này qua việc học tập cũng cảm thấy một sự thành đạt cá nhân, và tự
nhận thấy đang đi theo một “sứ mệnh” cao cả.
2. Dựa trên cấp độ nghiên cứu, có thể phân biệt ba cấp độ nghiên cứu trong xã hội học như sau:
Xét về mức độ phức tạp, các nhà xã hội học nghiên cứu các hành vi xã
hội dưới ba cấp độ khác nhau. Xã hội học vi mô (micro sociology) quan tâm
đến các hành vi xảy ra ở cấp độ cá nhân và trong các nhóm nhỏ. Điều này có
nghĩa xã hội học nghiên cứu những khuôn mẫu tương tác giữa một số ít
người. Đây là xu hướng nghiên cứu của các nhà xã hội học như E.Goffman,
G. H. Mead, H. Becker, các nhà xã hội học thuộc lý thuyết tương tác, thuộc
trường phái Chicago… Xã hội học ở mức độ trung mô (middle level) quan tâm
đến việc nghiên cứu các cơ cấu xã hội xem chúng ảnh hưởng thế nào đến
cuộc sống của những con người đang tham gia các cơ cấu xã hội này như
thế nào. Các nhà xã hội học ở đại học Colombia Mỹ như P. Lazarfeld, R.
Merton thường tiến hành những cuộc nghiên cứu trên các dữ kiện định lượng
được thâu thập ở cấp độ quốc gia, họ không quan tâm đưa ra một khung khổ
lý thuyết để quy chiếu, và cũng không muốn đi đến những kết luận có tầm
khái quát. Xã hội học vĩ mô (macro sociology) cố gắng giải thích các quá trình
xã hội ảnh hưởng thế nào đến dân cư, đến các giai cấp xã hội và đôi khi đến
cả toàn thể xã hội. Ví như những cuộc nghiên cứu xem việc chuyển đổi từ
những ngành công nghiệp nặng sang những ngành công nghiệp kỹ thuật cao
đã ảnh hưởng thế nào đến đời sống của công nhân hay như cuộc nghiên cứu
xem những tình cảm dân tộc của thời kỳ sau thế chiến thứ nhất đã làm nảy
sinh chủ nghĩa phát xít như thế nào. Các nhà xã hội học theo xu hướng này
thường đặt vấn đề nghiên cứu trong khung khổ xã hội bao quát, xem đó như
là một hệ thống trừu tượng bao gồm những thành tố có quan hệ lệ thuộc
nhau. Và chính trong tương quan với các khung lý thuyết phân tích trên mà ta
tiến hành nghiên cứu ý nghĩa của hiện tượng đang được quan sát. Đó là
khuynh hướng nghiên cứu của T. Parsons và của bộ môn xã hội học tại đại
học Harvard Mỹ và nói chung khuynh hướng xã hội học Pháp, Đức.
3. Dựa trên lối nhìn về xã hội, các chủ đề và nội dung nghiên cứu có
thể phân ra khuynh hướng nghiên cứu về sự hội nhập xã hội (mô hình lý
thuyết cơ cấu–chức năng), về sự bất bình đẳng, sự thống trị trong xã hội (mô
hình lý thuyết mâu thuẫn xã hội) và về mối quan hệ xã hội tác động qua lại
(mô hình lý thuyết tương tác biểu tượng).
Theo thuật ngữ của nhà xã hội học Kuhn, trong khi tìm hiểu xã hội các
nhà xã hội học bị hướng dẫn bởi một hay nhiều “lộ trình”, hay mô hình lý
thuyết (theoretical paradigm). Mô hình lý thuyết là một hình ảnh căn bản về xã
hội, nó điều hướng suy nghĩ và nghiên cứu của nhà nghiên cứu.
+ Mô hình lý thuyết tương tác biểu tượng (Symbolic interactionist paradigm):
Mô hình lý thuyết này chịu ảnh hưởng sâu đậm lý thuyết hành động xã
hội của M. Weber. Nhà xã hội học người Đức này nhấn mạnh nhu cầu phải
thấu hiểu hiện tượng xã hội từ quan điểm của những người trong cuộc. Như
đã đề cập, ông nhấn mạnh vai trò của ý nghĩa mà con người gán cho sự vật,
của tư tưởng và của cách con người suy nghĩ quan niệm về xã hội.
Chịu ảnh hưởng của M. Weber, trường phái Chicago như chúng ta đã
đề cập – chú trọng nghiên cứu những mối quan hệ tâm lý–xã hội. Mô hình lý
thuyết này quan tâm nghiên cứu xem đời sống trong các nhóm xã hội chi phối
thế nào nhận thức và ứng xử của con người. Ví như công trình nghiên cứu
của G.H Mead và F. Znaniecki The Polish peasants in Poland and America
(1927). Trong công trình này các ông nghiên cứu xem những lối ứng xử của
người nông dân Balan khi đến định cư ở Mỹ và với thời gian tại sao đã thay
đổi và thay đổi như thế nào. Các ông tìm hiểu việc thích ứng với đời sống đô
thị đã tạo nên những mô thức ứng xử thế nào nơi người nông dân Balan.
Cuộc nghiên cứu của hai ông cho thấy rằng môi trường của người di dân
càng bị xáo trộn, càng vô trật tự (do ảnh hưởng của việc nhập cư, do thất bại
trong việc thích ứng với những điều kiện mới), thì xem ra có nhiều khả năng
cá nhân những người di dân càng có những hành vi mang tính chất chống lại
xã hội.
Một quan điểm nghiên cứu khác của trường phái Chicago này là quan
điểm tương tác biểu tượng (symbolic interactionism), nghiên cứu xem cơ cấu
xã hội hiện nay được hình thành như thế nào trong quá trình tác động hỗ
tương của con người. Hai tác giả điển hình của mô hình lý thuyết này là G. H.
Mead (1863–1931) và E. Goffman. Mead chú trọng mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội, ông cho rằng cái tôi (self) là sản phẩm của tương tác xã hội. Và
chính thông qua những tương tác này mà các cơ cấu xã hội lớn hơn được
hình thành. Ví như, trường học thường có một số qui tắc thành văn và bất
thành văn, chính thức và phi chính thức mà mọi học sinh sẽ học hỏi hay kinh
nghiệm thấy khi trao đổi, khi tương tác với những học sinh các lớp trên. Và
chính qua các tương tác này mà các quy tắc của tổ chức được “xây dựng” và
thay đổi. Việc nghiên cứu quá trình này được gọi là lối tiếp cận tương tác biểu
tượng. Goffman áp đụng lối tiếp cận này trong việc nghiên cứu sự tương tác
trong đời sống hằng ngày, như việc chào hỏi, nghiên cứu đời sống trong các
viện cứu tế, các lối ứng xử trên đường phố, tại những nơi công cộng.
Trên cơ sở của lý thuyết này đã hình thành một số lối tiếp cận khác như
phân tích tâm kịch (dramaturgical analsis) của E. Goffman (1922–82), phân
tích trao đổi xã hội (social exchange analysis) của G. Homans và P. Blau.
Mô hình lý thuyết này cho phép chúng ta nhìn xã hội một cách cụ thể
hơn, không còn bị chi phối bởi những cơ cấu xã hội trừu tượng. Và xã hội là
một tổng hòa các mối tương tác xã hội của cá nhân. Tuy nhiên nếu chỉ chú
trọng các mối tương tác cụ thể thường ngày, có nguy cơ sẽ bỏ qua ảnh
hưởng của những cơ cấu xã hội lớn hơn như các yếu tố văn hóa, chủng tộc,
giai cấp, giới tính…
+ Mô hình lý thuyết cơ cấu chức năng (Structuro– functionalist paradigm):
Những người tiên phong trong mô hình lý thuyết này là H. Spencer và
É. Durkheim. Durkheim cho rằng mỗi yếu tố của xã hội giữ vai trò của một bộ
phận trong việc giúp xã hội tồn tại, ví như tôn giáo giúp cho việc hội nhập xã
hội. Sau này, ở Mỹ, Talcott Parsons (1902–1979) tiếp tục tư tưởng của
Spencer và của Durkheim. Ở các đại học Colombia, Harward và Yale, các
nhà xã hội học đầu đàn quan tâm trước tiên đến những cấu trúc xã hội ở cấp
độ vĩ mô. Mô hình lý thuyết cơ cấu– chức năng do họ đề xướng nghiên cứu
xã hội vận hành như thế nào để thực hiện các chức năng cơ bản trong đời
sống con người.
Mô hình lý thuyết này quan niệm xã hội là một hệ thống có nhiều bộ
phận khác nhau, chúng liên kết với nhau nhằm đưa đến cố kết xã hội và ổn
định xã hội. Mô hình lý thuyết này dựa trên hai tiền đề:
a) trước hết nó giả định xã hội bao gồm những cơ cấu xã hội, thường
được định nghĩa như là những khuôn mẫu hành vi khá ổn định. Những cơ
cấu xã hội quan trọng nhất là những bộ phận chính yếu của xã hội, đó là gia
đình, hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế và những định chế văn hóa (giải trí,
nghệ thuật tôn giáo…);
b) thứ đến, mỗi yếu tố của cơ cấu xã hội phải được hiểu dưới góc độ
chức năng xã hội, xét như là các kết quả của sự vận hành xã hội với tính
cách là một toàn thể. Như vậy mỗi bộ phận xã hội có một hay nhiều chức
năng để xã hội tồn tại.
Một nhà xã hội học Mỹ khác có nhiều đóng góp cho mô hình lý thuyết
này là R.K. Merton, học trò của T. Parsons. ông bổ túc thêm, bất cứ một bộ
phận nào của xã hội cũng có hơn một chức năng và có những chức năng dễ
được nhận ra hơn những chức năng khác. Vì vậy, ông phân biệt hai loại chức
năng: chức năng công khai (manifest) và chức năng tiềm ẩn (latent). Chức
năng công khai là chức năng mà mọi thành viên trong xã hội đều biết, trong
khi chức năng tiềm ẩn là những kết quả không được nhận biết, không ý thức
được. Thí dụ, xe ôtô là một phương tiện để đi lại, nhưng nó cũng có những
chức năng tiềm ẩn: khi buồn người ta lái xe đi chơi, trong xã hội Mỹ, nó củng
cố giá trị của người Mỹ về sự độc lập của cá nhân, nó cũng có thể là biểu
tượng của địa vị xã hội. Mô hình lý thuyết này còn có xu hướng cho rằng mọi
kết cấu xã hội đều có ích đối với mọi xã hội. Nhưng Merton cho rằng không
phải mọi yếu tố của kết cấu xã hội đều thực sự cần thiết, mà đôi lúc nó phản
chức năng (dysfunctionnal) – nghĩa là nó có thể gây những kết quả bất lợi cho
sự vận hành của xã hội. Ví như xe hơi có thể gây ô nhiễm. Hay lòng yêu
nước có chức năng gây đoàn kết trong một quốc gia, nhưng cũng có thể đẩy
một quốc gia vào một cuộc chiến tranh hủy diệt và tốn kém (ví như trường
hợp của Irak trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh). Theo mô hình lý thuyết này,
những khuôn mẫu xã hội có tính phản chức năng có thể thay đổi với thời
gian. Do ô nhiễm, người ta phải cải tiến xe hơi để bớt thải khí độc hại.
Mô hình lý thuyết cơ cấu–chức năng là một mô hình lý thuyết lớn trong
xã hội học, nét nổi bật nhất của mô hình này cho ta một cái nhìn về xã hội
như là một toàn thể trật tự, ổn định và dễ hiểu. Từ những năm 1960 mô hình
lý thuyết này được sử dụng rộng rãi trong xã hội học, nhưng trong những thập
kỷ vừa qua nó bị phê phán gắt gao. Tại sao có thể giả định xã hội có một trật
tự “tự nhiên”, trong khi các khuôn mẫu xã hội thay đổi theo không gian và thời
gian. Mô hình này phản ánh một ý thức hệ bảo thủ, biện minh cho hiện trạng
khi quan niệm rằng mọi kết cấu xã hội đều hữu ích. Nó cũng đề cao thái quá
sự thống nhất xã hội, hội nhập xã hội và như vậy đã giảm thiểu những khác
biệt do các yếu tố bất bình đẳng như giai cấp, chủng tộc, giới tính… Thêm
vào đó nó nhấn mạnh sự ổn định xã hội nên đã không giải thích được những
xung đột xã hội hoặc biến chuyển xã hội.
+ Mô hình lý thuyết mâu thuẫn xã hội (social-conflict paradigm):
Từ sau thế chiến thứ II, mô hình lý thuyết chức năng bị đặt thành vấn
đề và cũng từ đó người ta tìm đến mô hình lý thuyết mâu thuẫn xã hội
(social–conflict paradigm), nhấn mạnh đến vai trò của xung đột và quyền lực
trong việc giải thích không chỉ chuyển biến xã hội mà cả tính liên kết của xã
hội.
Mô hình lý thuyết này quan niệm rằng xã hội là một hệ thống có những
bất bình đẳng xã hội và xung đột, chúng tạo nên những chuyển biến xã hội.
Trong khi mô hình lý thuyết cơ cấu–chức năng xem xã hội như là một hệ
thống giản đơn, liên kết, hội nhập với nhau và như vậy coi nhẹ những hậu
quả do bất bình đẳng xã hội gây ra, thì ngược lại mô hình lý thuyết mâu thuẫn
mô tả xã hội như một thực thể bị phân chia bởi những bất bình đẳng xã hội
liên quan đến giai cấp, chủng tộc, giới tính, tuổi tác… Mô hình này xem những
khuôn mẫu của bất bình đẳng là hệ luận của sự phân phối không đồng đều
cho các tầng lớp dân cư khác nhau các tài nguyên trong xã hội như tiền tài,
quyền lực, giáo dục, uy tín xã hội…
Trong khi mô hình cơ cấu–chức năng thừa nhận có những yếu tố phản
chức năng cho toàn xã hội, thì mô hình mâu thuẫn nhấn mạnh rằng có những
yếu tố hữu ích cho một số người thì lại phản chức năng đối với một số người
khác. Ví dụ, hệ thống trường dự bị đại học ở Mỹ chỉ có ích lợi cho con em
thuộc tầng lớp trên. Hay như hệ thống kiểm định “khả năng đại học” chỉ dễ
hiểu đối với các học sinh da trắng, con em những gia đình khá giả, và ngay
đối với những học sinh thông minh thuộc các tầng lớp khác thì hệ thống kiểm
định này rất mông lung, mơ hồ.
Trước bất kỳ vấn đề gì, mô hình lý thuyết mâu thuẫn thường đặt các
câu hỏi như: thành phần xã hội nào hưởng lợi, thành phần nào bị thiệt hại
trước biện pháp, trước vấn đề trên. Mô hình lý thuyết này xem xã hội như một
đấu trường tranh giành quyền lợi giữa các thành phần xã hội khác nhau. Hơn
thế nữa, các thành phần thống trị – ví như người giàu, nam giới, dân tộc chủ
thể – thưởng cố gắng bảo vệ quyền lợi của họ bằng cách duy trì nguyên
trạng.
Một số nhà xã hội học sử dụng mô hình lý thuyết này không chỉ nhằm
giải thích các hiện tượng xã hội mà còn nhằm biến đổi xã hội cho công bằng
hơn (Macionis, 1997).
Thật ra, không mô hình lý thuyết nào độc lập với các mô hình lý thuyết
khác, bởi lẽ mỗi mô hình lý thuyết nhấn mạnh các vấn đề khác nhau, và quan
sát những góc độ khác nhau của đời sống xã hội. Chúng ta cần kết hợp các
mô hình lý thuyết này và việc kết hợp này gia tăng khả năng thông hiểu và
giải thích các khía cạnh đa dạng của xã hội con người.
Để đơn giản hóa, chúng ta tạm đưa ra những nét chính yếu nhất trong
ba mô hình lý thuyết nói trên.
Bảng tóm tắt ba mô hình lý thuyết chính trong nghiên cứu xã hội học
Mô hình lý thuyết
Cấp độ
Quan niệm về xã hội
Các vấn đề căn bản nêu ra
Các lãnh vực nghiên cứu sở
trường
1.
Tương
tác biểu
tượng
Vi mô - Xã hội là một
tiến trình các
tương tác xã
hội trong các
bối cảnh cụ
thể, dựa trên
truyền thông
biểu tượng;
nhận thức của
cá nhân về
thực tại xã hội
là khác nhau và
thay đổi.
- Con người kinh
nghiệm về xã hội như
thế nào? Trong sự
tương tác con người
đã sản sinh ra, duy
trì, thay đổi các khuôn
mẫu xã hội như thế
nào? Cá nhân nỗ lực
uốn nắn nhận thức về
thực tại của kẻ khác
như thế nào? Từ tình
huống này đến tình
huống khác, ứng xử
của cá nhân đã thay
đổi ra làm sao?
- Những vấn đề
về gia đình; về
giáo dục; các loại
hình trị liệu;
truyền thông đã
xảy ra như thế
nào…
2. Cơ
cấu -
Chức
năng
Trung
mô, vĩ
mô
- Là một hệ
thống các bộ
phận có tương
quan; mỗi bộ
phận có những
hệ quả chức
năng đối với sự
vận hành của
xã hội như một
toàn thể.
- Xã hội được hội
nhập như thế nào?
Những bộ phận chủ
yếu của xã hội là gì?
Chúng tương tác với
nhau như thế nào?
Đâu là những hệ quả
của chúng đối với sự
vận hành.
– Nghiên cứu
những tổ chức
chính thức; việc
phát triển các
chính sách xã
hội; cải cách các
cơ cấu xã hội;
lượng giá các luật
lệ mới; nghiên
cứu trong khoa
học quản lý.
3. Mâu
thuẫn
xã hội
Vĩ mô Là một hệ
thống có những
bất bình đẳng;
có một bộ phận
hưởng lợi hơn
bộ phận khác;
sự bất bình
đẳng sẽ đưa
tới mâu thuẫn,
đưa tới biến
chuyển xã hội.
- Xã hội được phân
chia như thế nào?
Đâu là những khuôn
mẫu bất bình đẳng xã
hội chủ yếu? Tại sao
một vài tầng lớp xã
hội cố bảo vệ quyền
lợi của mình? Các
thành phần khác
- Nghiên cứu
trong chính trị
học; các phong
trào xã hội;
nghiên cứu sự
tranh giành
quyền lực, mâu
thuẫn và biến
chuyển trong các
tổ chức.
Ba mô hình lý thuyết trên vẫn còn là ba mô hình chủ yếu trong nghiên
cứu xã hội học. Nhưng trong hai thập niên vừa qua đã xuất hiện một số quan
điểm, lập trường mới. Những quan điểm mới này xuất phát từ các phong trào
đấu tranh nữ quyền, phong trào của những nhóm thiểu số, những dân tộc
thuộc địa, những nhóm bị gạt ra bên lề xã hội. Họ phê phán những lý thuyết
xã hội học cổ điển chỉ là tiếng nói của những người da trắng, của nam giới,
của phương Tây…Do vậy nhiều lãnh vực, vấn đề quan trọng đối với các
thành phần xã hội khác đã không được đề cập đến một cách đầy đủ, hay
được trình bày dưới những góc độ khác, đầy định kiến.
IV. CÁC LÃNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC Trong quan niệm của một số nhà xã hội học Tây phương, xã hội học là
một khoa học chứ không phải là một triết học xã hội (social philosophy). Triết
học là một hệ thống các ý tưởng, các giá trị và triết học xã hội là một khoa học
qui phạm (science normative) – là một hệ thống các tư tưởng suy tư con
người phải hành động với nhau như thế nào, trong khi xã hội học nghiên cứu
con người ứng xử với nhau như thế nào, và hậu quả của những lối ứng xử
này ra sao (P.B Horton, C.L. Hunt, 1985).
Xã hội học đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu quan hệ của con người
trong xã hội. Đặc biệt, chú trọng nghiên cứu sự hình thành các kết cấu trong
xã hội, các phong tục, tập quán, các giá trị xuất phát từ những kết cấu xã hội
này, và tác động ngược lại lên các kết cấu trên. Xã hội học đi tìm những điều
kiện xã hội, những lôgic đàng sau chi phối các ứng xử của con người. Xã hội
học cũng quan tâm đến sự tương tác giữa các đoàn thể xã hội với nhau, đến
các diễn trình, các định chế trong đó các nhóm, các đoàn thể đã và đang phát
triển.
Việc ứng dụng phương pháp xã hội học và các khái niệm chính của xã
hội học đại cương trong việc phân tích một số hiện tượng, lãnh vực xã hội đã
hình thành nên các bộ môn xã hội học chuyên ngành mà ta có thể nêu lên
một vài bộ môn:
– Xã hội học gia đình (sociologie de la famille)
– Xã hội học tôn giáo (sociol of religion)
- Xã hội học công nghiệp (industrial sociology)
– Xã hội học giáo dục (sociol of education)
- Xã hội học nông thôn/đô thị (rural/urban sociology)
– Xã hội học về nhóm nhỏ (sociology of small group)
- Xã hội học y tế (medical sociology)
– Xã hội học luật pháp (sociol of 1aw)
- Xã hội học chính trị (political sociology)
– Xã hội học truyền thông đại chúng (sociologie de la communication de
masse)
- Xã hội học về sự phân tầng xã hội (social stratification)
– Phương pháp luận xã hội học (methodology of social research)
– Tâm lý học xã hội (social psychology)
– Lý thuyết xã hội học (sociological theory)
- Xã hội học nghệ thuật (socialogy of the arts)
– Xã hội học về tội phạm (Criminology)
– Xã hội học các tổ chức phức tạp (sociol of complex organizations)
– Xã hội học về phát triển (sociology of development)…
Ngoài ra xã hội học chuyên ngành còn có những khái niệm, những lý
thuyết riêng.
Những chủ đề, những lãnh vực trên là đối tượng của nhiều bộ môn
khoa học, ví như truyền thông đại chúng cũng là đối tượng của tâm lý học,
của chính trị học; tội phạm cũng là đối tượng của luật học, của tâm lý học, của
khoa học chính trị…Nhưng mỗi khoa học đều có đặc trưng riêng khi nghiên
cứu vấn đề trên dưới góc độ của mình. Không một khoa học nào – ít ra là
trong trường hợp xã hội học – có thể tách rời các bộ môn khoa học khác. Đặc
biệt các lãnh vực nghiên cứu của xã hội học rất gần gũi và xen cài với tâm lý
học, dân tộc học (nhân học). Điều đó càng khẳng định hơn sự kiện xã hội là
phức tạp, đa dạng, mang nhiều chiều kích khác nhau và do đó đòi hỏi những
nghiên cứu liên ngành (études interdisclplinaires).
Chương 2. TỔNG QUAN VỀ CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC
Sự kiện khoa học được nhận thức, được xây dựng, được kiểm nghiệm.
Gaston Bachelard
Tương tự các khoa học khác, xã hội học đòi hỏi nhà nghiên cứu phải
chọn lựa các bước đi, các phương pháp thích hợp để trả lời cho những vấn
đề cụ thể được đặt ra.
I. CÁC BƯỚC ĐI ĐỂ THỰC HIỆN MỘT NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC 1. Xác định đề tài nghiên cứu và hình thành các câu hỏi cụ thể:
Trước hết phải xác định mục đích của cuộc nghiên cứu, hay nói cách
khác cuộc nghiên cứu nhằm tìm hiểu cái gì. Ví như, trong tác phẩm “Tự tử”,
É. Durkheim muốn tìm xem những điều kiện xã hội nào đã thúc đẩy một vài
cá nhân đi đến việc tự tử hơn những cá nhân khác.
Các câu hỏi tổng quát về xã hội hay về các cách ứng xử trong xã hội –
mà đề tài nghiên cứu nhằm giải đáp một phần nào – phải được chuyển thành
những câu hỏi cụ thể qua đó ta có thể sử dụng các kỹ thuật quan sát và đo
lường. Tác phẩm “Tự Tử” đã cho ta một ví dụ tốt về quá trình chuyển một câu
hỏi tổng quát về biến chuyển xã hội thành một nghiên cứu thử nghiệm (xem
phần Xây dựng mô hình phân tích).
2. Bước thăm dò và xem lại thư tịch:
Trước khi thâu thập dữ kiện mới, nhà nghiên cứu chuyên nghiệp phải
xem lại thư tịch tất cả các nghiên cứu và các nguồn tài liệu về vấn đề muốn
nghiên cứu, bao gồm cả các lý thuyết về phương pháp đã được sử dụng để
nghiên cứu đề tài trên. Việc xem lại thư tịch này đôi lúc cung cấp những dữ
kiện cần thiết để khám phá những vấn đề mới hơn. Trong giai đoạn này, cũng
có thể tiến hành những cuộc phỏng vấn thăm dò với các chuyên viên trong
lãnh vực quan tâm. Giai đoạn thăm dò này cũng có thể bao gồm việc tiến
hành một cuộc điều tra thăm dò ở qui mô nhỏ.
Giai đoạn này cũng giúp ta cách đặt vấn đề nghiên cứu như thế nào
(problématique), nghĩa là giải quyết vấn đề đặt ra dưới góc độ nào, trong
khung lý thuyết nào. Như Durkheim đã xem tự tử – một hành vi có tính riêng
tư – là một triệu chứng của việc thiếu cố kết trong xã hội, là một hiện tượng
xã hội thường xuất hiện trong các xã hội thiếu sự đoàn kết và ở đó chủ nghĩa
cá nhân đang phát triển mạnh. Nói cách khác Durkheim đã đặt vấn đề tự tử
trong khuôn khổ lý thuyết hội nhập xã hội.
3. Xây dựng một mô hình phân tích (xây dựng khung khái niệm):
Khi đã xác định vấn đề và góc độ nhìn vấn đề, giai đoạn kế tiếp là “thao
tác hóa” vấn đề đã đặt ra bằng cách định nghĩa những khái niệm (concept)
chính được sử dụng trong nghiên cứu. Ví như, tự tử là gì, mại dâm là gì, trẻ
em đường phố là gì, cố kết xã hội là gì? Và từ đó đặt ra các giả thiết
(hypothèse).
Thông thường câu hỏi nghiên cứu được diễn tả dưới hình thức một giả
thiết – là việc đặt ra một tương quan giữa hai hay nhiều hiện tượng, giữa hai
hay nhiều biến số. Muốn kiểm chứng giả thiết, phải định nghĩa nó bằng một
số chỉ báo (indicator) – là những khía cạnh dễ quan sát của hiện tượng xã hội
đang được nghiên cứu, chúng cho phép ta kiểm chứng giả thiết. Cũng có
nhiều khái niệm phức tạp đòi hỏi phải được cụ thể hóa bằng những chiều kích
(dimension) trước khi có thể đưa ra những chỉ báo cụ thể.
Lấy tác phẩm Tự tử của É. Durkheim làm thí dụ. Durkeim đã bắt đầu
nghiên cứu những hậu quả của biến chuyển xã hội trong các quốc gia
phương Tây. Ông tin rằng việc công nghiệp hóa và sự phát triển nhanh các
đô thị làm giảm đi sự gắn bó của con người với các cộng đồng địa phương.
Khi con người trở nên cô đơn và vô danh thì họ lại càng dễ dấn thân vào các
hành động có tính cách tự hủy hoại mình mà một thái cực là sự tự tử. Trong
quan điểm của Durkheim, hành vi tự tử có thể được giải thích bởi các biến số
xã hội như tỷ lệ hôn nhân hay ly dị, cũng như bởi những biến số có tính cách
tâm lý cá nhân như sự phiền muộn hay thất vọng. Như vậy, đối với Durkheim
việc nghiên cứu tự tử là một phương pháp để nghiên cứu một khái niệm lớn
hơn đó là sự hội nhập hay việc thiếu hội nhập của xã hội. Ông cố tìm xem có
phải những người nào ít hội nhập vào xã hội thì càng dễ tự tử.
Nếu quan điểm này là đúng thì tỷ lệ tự tử trong các tầng lớp xã hội sẽ
biến đổi theo mức độ hội nhập xã hội. Từ đó ông nêu lên một vài giả thuyết
sau:
- Tỷ lệ tự tử phải cao hơn ở những người chưa lập gia đình so với
người có gia đình.
– Tỷ lệ tự tử phải cao hơn ở những người chưa có con so với người có
con.
- Tỷ lệ tự tử phải cao hơn ở người có trình độ học vấn cao (vì học vấn
thường nhấn mạnh sự thành đạt của cá nhân và làm yếu đi những ràng buộc
tập thể)
- Tỷ lệ tự tử phải cao hơn ở những người theo đạo Tin Lành so với
người Công giáo (vì đạo Tin Lành nhấn mạnh hơn vai trò của cá nhân).
Mỗi một trong các giả thiết này chỉ rõ một tương quan giữa hai biến số
mà ta có thể kiểm định qua việc thâu thập những dữ kiện cụ thể, qua quan sát
thực nghiệm. Trong xã hội học, các biến số là các đặc tính của cá nhân, của
nhóm hoặc của toàn thể xã hội và chúng thay đổi tùy theo trường hợp. Các
giả thiết này đặt ra các tương quan giữa các biến số. Trong phân tích xã hội
học, một biến số có thể là một biến số đơn giản (tuổi, trình độ học vấn…) hay
là một biến số phức tạp (tính bảo thủ, sự cố kết xã hội, mức sống của gia
đình…). Biến số lệ thuộc (dependant variable) là biến số mà ta muốn giải
thích (ví như tỷ lệ tự tử) và biến số độc lập (independant variable) là yếu tố
mà nhà nghiên cứu tin rằng đã gây nên những biến đổi trong biến số lệ thuộc
(ví như tình trạng gia đình, trình độ học vấn, tôn giáo). Phải thật cẩn thận khi
đưa ra nhận định về mối liên hệ nhân quả, bởi lẽ hầu hết các hiện tượng xã
hội có nguyên nhân từ nhiều biến số khác nhau.
4. Thâu thập dữ kiện và kiểm chứng giả thiết
Muốn kiểm chứng giả thiết, một mặt phải thâu thập các dữ kiện và mặt
khác phải phân tích các kết quả thâu thập được.
Một cách tổng quát, chúng ta có thể phân các dữ kiện, các thông tin
cần thâu thập thành các loại như sau (Giacobbi. 1990).
Các dữ kiện có sẵn: Các dữ kiện phải thâu thập:
1. Các dữ
kiện định
lượng:
– Các số liệu chính thức, tài kiện
thư tịch; các dữ kiện thống kê do
những cuộc nghiên cứu khác; các
ngân hàng dữ kiện…
– Các số liệu dựa trên các
cuộc điều tra, thăm dò…
2. Các dữ
kiện không
định lượng:
- Các tài liệu văn bản; sách báo;
các tiểu sử; phim ảnh; hiện vật…
– các dữ kiện thâu thập qua
phỏng vấn; nghiên cứu thực
địa…
Trong nghiên cứu xã hội học (và nhất là trong lãnh vực tâm lý học xã
hội), để kiểm tra các giả thiết, đôi lúc cũng sử dụng các thử nghiệm – thử
nghiệm trong phòng thí nghiệm hay trên hiện trường. Do đặc trưng của sự
kiện xã hội, các thử nghiệm này đôi lúc có tính cách thăm dò và cần phải lưu
ý đến những khía cạnh đạo đức, khía cạnh thực tế của vấn đề.
Sau khi thâu thập dữ kiện, bước kế tiếp là kiểm chứng những kết quả
quan sát được có tương ứng với những kết quả được chờ đợi do giả thiết
nêu ra không. Phải xử lý các dữ kiện thâu thập được thành những biến số,
phân tích tương quan những biến số…
Trong nghiên cứu xã hội học người ta phân biệt tương quan
(correlation) và mối liên hệ nhân quả (relationship of cause and effect) giữa
các hiện tượng, các biến số. Tương quan là mối liên hệ giữa hai (hay nhiều)
biến số khi chúng cùng biến đổi với nhau nhưng ta không chứng minh chúng
có liên hệ nhân quả. Trong khi giữa hai biến số có mối liên hệ nhân quả khi
biến đổi trong một biến số sẽ đưa đến thay đổi trong biến kia. Trong hiện
tượng xã hội, có những sự kiện có đồng biến nhau nhưng không có tương
quan nhân quả. Ví như ở Mỹ, lương của những nhà điền kinh chuyên nghiệp
gia tăng khi số lượng xe hơi tiêu thụ gia tăng, nhưng khó chứng minh được
liên hệ nhân quả giữa hai biến số này.
Một ví dụ khác, người ta nhận thấy tỷ lệ thanh thiếu niên phạm pháp
cao ở những khu vực gia cư đông đúc và chật hẹp. Khi hai biến số cùng thay
đổi với nhau, chúng ta nói rằng chúng có tương quan, nhưng để kiểm định
giữa hai yếu tố nào có mối quan hệ nhân quả không, ta đưa thêm những biến
số mới để kiểm định (test variable). Lấy trường hợp mối tương quan giữa điều
kiện sinh sống (như khu nhà ổ chuột) và tỷ lệ phạm pháp của thanh thiếu
niên: người ta nhận thấy ở các khu nhà ổ chuột thường có tỷ lệ thanh thiếu
niên phạm pháp cao. Như vậy có phải điều kiện sinh sống chật hẹp là nguyên
Đieu kien sinh song
Ty le TTN pham phap
Muc loi tuc (nguyen nhan)
nhân của tình trạng thanh thiếu niên phạm pháp hay không? Thử hình dung
ra thêm một biến số nào có thể vừa đưa đến nạn thanh thiếu niên phạm pháp,
vừa gây ra các điều kiện sinh sống chật hẹp, và đó có thể là sự nghèo đói (lợi
tức thấp). Và qua nghiên cứu ta thấy rằng mức lợi tức thấp là nguyên nhân
của hai hiện tượng trên. Nếu kiểm soát biến số lợi tức – nghĩa là chỉ xét đến
những trường hợp cùng một mức lợi tức và đặt câu hỏi các điều kiện sinh
sống chật hẹp có đi đôi với một tỷ lệ cao về thanh thiếu niên phạm pháp
không? Câu trả lời là không. Trong trường hợp trên, giữa điều kiện sinh sống
chật hẹp và nạn thanh thiếu niên phạm pháp có tương quan, nhưng không
yếu tố nào là nguyên nhân của yếu tố nào. Người ta gọi giữa chúng có tương
quan giả (spurious correlation).
Cũng để minh họa sự khác biệt giữa mối tương quan và liên hệ nhân
quả R. Boudon trình bày thí dụ sau (Méthodes en sociologie, PUF, Que sais-
je). Kết quả một cuộc điều tra về tỷ lệ số người trẻ và người già nghe các buổi
phát thanh về các chương trình trên đài như sau:
Trước hết ta chỉ mới tìm hiểu hai biến số: lứa tuổi và việc nghe các loại
hình chương trình trên đài:
Lứa tuổi thanh niên:
Lứa tuổi người lớn tuổi:
Chương trình tôn giáo: 17% 26%
Chương trình bình luận chính
trị:
34% 45%
Chương trình nhạc cổ điển: 30% 29%
Tổng số trường hợp nghiên cứu:
1000 1300
Sau đó một biến số thứ ba, “biến số kiểm định” được đưa thêm để làm
rõ hơn mối liên hệ nhân quả, đó là trình độ học vấn. Chúng ta được kết quả
như sau:
Trình độ học vấn cao:
Trình độ học vấn thấp:
Trẻ: Già: Trẻ: Già:
Chương trình tôn giáo: 9% 11% 29% 32%
Chương trình bình luận chính
trị:
40% 55% 25% 40%
Chương trình nhạc cổ điển: 32% 52% 28% 19%
Tổng số trường hợp: 1000 1300
Sau khi đã đưa thêm biến số kiểm định, ta nhận thấy:
- Đối với việc nghe các chương trình tôn giáo, tác động của yếu tố tuổi
tác ít quan trọng hơn yếu tố trình độ giáo dục.
- Đối với các chương trình bình luận chính trị, các người lớn tuổi vẫn
thích nghe hơn, mặc dù những người trẻ có trình độ giáo dục cao nghe nhiều
hơn người trẻ có trình độ văn hóa thấp.
– Đối với các chương trình nhạc cổ điển, cho dù thuộc lứa tuổi nào, yếu
tố trình độ giáo dục thực sự có tác động.
Ví dụ trên cho thấy phải hết sức cẩn thận khi đưa ra các nhận định về
các mối tương quan, về liên hệ nhân quả và cũng cho thấy sự phân tích với
nhiều biến số (analyse multivatiée) là rất cần thiết.
Để chứng minh một mối liên hệ nhân quả giữa các biến số, phải hội đủ
các yếu tố sau:
(1) có hai biến số có tương quan,
(2) biến số độc lập phải có trước biến số phụ thuộc,
(3) không có một biến số thứ ba có tương quan đến hai biến số trên.
Khác với khoa học tự nhiên, trong nghiên cứu xã hội học khó tìm tương
quan nhân quả vì nó liên hệ đến một loạt biến số, do đó đôi khi nhà xã hội học
tạm bằng lòng với việc khám phá các tương quan.
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP, CÁC KỸ THUẬT CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CƯU XÃ HỘI HỌC
Khi nhà nghiên cứu đã xác định vấn đề nghiên cứu, đã phát triển các
giả thiết, và xem lại thư tịch, bước kế tiếp là phải quyết định sử dụng phương
pháp nào để tiến hành cuộc nghiên cứu, để thâu thập thông tin. Có nhiều
phương pháp khác nhau và việc chọn lựa một hay nhiều phương pháp tùy
thuộc loại vấn đề hay câu hỏi được nêu lên, tùy thuộc khả năng của người
nghiên cứu, cũng như các điều kiện thực tế.
1. Quan sát:
Có nhiều loại hình quan sát và một trong các loại hình quan sát rất
quan trọng và cũng thường được sử dụng là quan sát tham gia (observation
participante). Qua đó, nhà nghiên cứu tham gia vào cuộc sống của những
người được quan sát. Ở đây nhà xã hội học cố gắng vừa là người quan sát
các yếu tố một cách khách quan, vừa là người tham gia vào môi trường xã
hội được nghiên cứu. Loại hình nghiên cứu này có mục đích mô tả tính chất
đời sống của những người được nghiên cứu và do đó thường được xem là
một trong các phương pháp nghiên cứu định tính, để phân biệt với các
phương pháp định lượng mà ta sẽ đề cập ở phần sau. Theo nhà xã hội học
James Coleman, trong một nghiên cứu định tính chúng ta trình bày lại một
loạt hành vi qua đó việc nối kết các biến cố gợi cho ta thấy hệ thống xã hội
vận hành như thế nào.
Kỹ thuật quan sát cũng có thể mang hình thức như quan sát trực tiếp
hay quan sát gián tiếp, quan sát trong bối cảnh tự nhiên hay giả tạo. Thuộc
loại quan sát gián tiếp có những biện pháp không can thiệp vào (inobtrusive
mesures), hay nói cách khác là những kỹ thuật quan sát có mục đích ít tác
động, ít ảnh hưởng chừng nào hay chừng đó đến bối cảnh xã hội đang được
nghiên cứu. Lấy thí dụ các nghiên cứu của E. Hall hay của Ray Birdwhistle về
sự truyền thông không bằng lời qua các dữ kiện hình ảnh. Các nghiên cứu
của hai ông cho thấy những con người thuộc các nền văn hóa khác nhau sử
dụng các dấu hiệu không bằng lời, các khoảng cách không gian khác nhau
trong quan hệ tương tác.
“Xã hội học thị giác” (visual socioloy) liên quan đến việc sử dụng các
hình ảnh, băng từ và các phương tiện thị giác khác để quan sát con người
trong các bối cảnh khác nhau và giải thích các ứng xử của họ. Như trường
hợp H. Whyte dùng hình ảnh để nghiên cứu quan hệ xã hội tại các nơi công
cộng.
2. Các thử nghiệm:
Mặc dù không thông dụng lắm, vì những lý do thực tế và đạo đức
nhưng trong khoa học xã hội, đặc biệt trong tâm lý học xã hội, người ta cũng
sử dụng các thử nghiệm. Có hai loại hình thử nghiệm: loại thử nghiệm có
kiểm soát (controlled experiment) được tiến hành trong các phòng thí nghiệm.
Loại thứ hai là những thử nghiệm được tiến hành trên thực địa (field
experiment).
1/ Thử nghiệm có kiểm soát cho phép nhà nghiên cứu sử dụng một
biến số độc lập nhằm quan sát và đo lường một biến số phụ thuộc khác.
Trong loại thử nghiệm này, nhà nghiên cứu thành lập một nhóm được thử
nghiệm (experimental group) – là nhóm sẽ trải qua một biến đổi trong biến số
độc lập – và nhóm kiểm soát (control group) là nhóm không chịu sự tác động
của thử nghiệm, được dùng để so sánh, đối chiếu với nhóm chịu thử nghiệm.
Người ta thường sử dụng phương pháp này trong các nghiên cứu tâm lý xã
hội học ở cấp độ vĩ mô. Như thử nghiệm do Solomon Asch tiến hành từ đầu
(1)
(2)
a b c
những năm 1950 để tìm hiểu áp lực dư luận của đa số lên ý kiến của từng cá
nhân.
Asch phân các người tham gia thử nghiệm làm hai nhóm: nhóm kiểm
tra và nhóm thử nghiệm. Và trong mỗi nhóm ông đều đặt câu hỏi: đường
thẳng nào trong hình (2) là gần bằng nhất với đường thẳng trong hình (1).
Nhóm kiểm tra được mời vào phòng cùng ngồi với nhau, nhưng họ
không được trao đổi khi đưa ra nhận xét. Như ta cũng có thể đoán được,
những người trong nhóm này có thể đưa ra phán đoán đúng một cách dễ
dàng. Nhưng trong nhóm thử nghiệm người ta đã đưa vào yếu tố khác, một
biến số độc lập: đó là áp lực của nhóm. Nhóm thử nghiệm bao gồm những
người được đề nghị nói to lên phán đoán của mình trong nhóm. Mỗi người
trong nhóm này được đưa vào trong một nhóm gồm tám người khác cũng
được xem như là những người tham gia thử nghiệm nhưng thật ra họ đã
thông đồng trước với người lập thử nghiệm. Khi những hình này được chiếu
lên màn hình những người thông đồng đó đã chọn đường thẳng (a). Khi
người tham gia thử nghiệm thật sự đến phiên mình phải chọn lựa, anh/chị ta
phải đối diện với ý kiến thống nhất của đa số. Kết quả là 32% những người
thực sự tham gia thử nghiệm đã đi theo ý kiến của đại đa số và đưa ra một
phán đoán sai và trong 68% những người đã đưa ra nhận xét đúng, mặc dầu
có áp lực của đa số, cũng có khác biệt lớn: một số vẫn luôn luôn giữ nhận xét
đúng của mình trong khi những người khác thì do dự.
Thử nghiệm trên thực địa:
Thử nghiệm trên thực địa được dùng rộng rãi trong việc lượng giá các
chương trình, dự án cộng đồng có liên quan đến những vấn đề xã hội cụ thể.
Trong những thử nghiệm này, cũng có nhóm được nghiên cứu (treatment
group) là nhóm những người tham gia vào chương trình và một nhóm kiểm
tra bao gồm những người không tham gia vào chương trình. Như cuộc nghiên
cứu của quốc hội Mỹ về quan hệ giữa các chương trình tạo công ăn việc làm
cho giới trẻ và việc bỏ học. Trong cuộc thử nghiệm này, hàng ngàn thanh
thiếu niên đã bỏ học hay có dự định thôi học, đã được tạo cơ hội có công ăn
việc làm trong mùa hè hay sau khi đã hoàn tất chương trình học ở trường,
nếu họ đồng ý tiếp tục học hay đồng ý trở lại trường. Một nhóm kiểm tra khác
bao gồm những thanh thiếu niên cùng thuộc một tầng lớp xã hội nhưng không
được hứa hẹn như các thanh thiếu niên trong nhóm nghiên cứu. Kế hoạch
thử nghiệm này cho phép các nhà nghiên cứu xác định ảnh hưởng của
chương trình tạo việc làm. Kết quả rất đáng khích lệ: chương trình đã đem lại
một sự gia tăng 62,5% trong tỷ lệ các trẻ bỏ học trở lại trường.
3. Nghiên cứu điều tra (survey research):
Điều tra là một phương pháp tiếp xúc với những cá nhân để có được
những câu trả lời cho những vấn đề mình muốn tìm hiểu. Đây là một phương
pháp được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu xã hội học. Điều tra đặc biệt
hữu dụng khi muốn tìm giải đáp cho những vấn đề không thể quan sát trực
tiếp được, như khi tìm hiểu những xu hướng chính trị, những niềm tin tôn giáo
của những cá nhân, về cuộc sống riêng tư của các cặp vợ chồng…
Nghiên cứu điều tra có thể có nhiều cấp độ khác nhau: các cuộc điều
tra có tính thăm dò (exploratory) nhằm tìm một số gợi ý, giả thiết trước khi
thực sự bắt tay vào cuộc nghiên cứu chính thức, có quy mô lớn hơn. Điều tra
cũng thường được sử dụng trong những nghiên cứu mô tả (descriptive
research), qua đó nhà xã hội học cố gắng mô tả một vài thành phần xã hội với
một vài biến số liên quan. Và cuối cùng, các điều tra thường liên quan đến
nhiều biến số, nên phải tiến hành những cuộc điều tra giải thích (explanatory
research) – là những cuộc điều tra qua đó người nghiên cứu cố gắng xác định
tương quan giữa nhiều biến số, và ngay cả việc đi tìm những mối dây nhân
quả giữa chúng.
Các giai đoạn của một cuộc điều tra xã hội học:
1/ Xác định dân số
Xác định số lượng đối tượng nghiên cứu, mức độ tin cậy…
2/ Xây dựng mẫu nghiên cứu
Số người để phỏng vấn
Chọn mẫu ngẫu nhiên, phân suất hay phân tầng…
Chọn cách tiếp xúc với mẫu nghiên cứu.
3/ Thiết kế bảng câu hỏi, bảng hướng dẫn phỏng vấn
Chọn loại câu hỏi, thứ tự các câu hỏi…
4/ Thực hiện cuộc điều tra
Chọn, tập huấn người đi phỏng vấn; thời gian, địa điểm…
5/ Phân tích các kết quả
Chọn phương pháp thống kê để xử lý và trình bày các dữ kiện.
Dân số (population) và mẫu nghiên cứu (sample)
a/ Trong thống kê, trong nghiên cứu xã hội học khái niệm dân số (có khi
còn được gọi là toàn số hay tổng thể nghiên cứu) được định nghĩa là tập thể
những đối tượng có một số đặc tính chung nào đó mà người nghiên cứu
muốn tìm hiểu. Lấy thí dụ, ta muốn nghiên cứu xem tỷ lệ người Hoa ở thành
phố Hồ Chí Minh tốt nghiệp cấp ba là bao nhiêu, thì trong trường hợp đó tập
thể tất cả những người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh là dân số của cuộc điều
tra.
b/ Nhưng nghiên cứu toàn thể một dân số như vậy đòi hỏi nhiều tiền
bạc và thời gian, vì vậy người ta thường chọn một mẫu – là một bộ phận
tượng trưng của toàn thể dân số – để điều tra. Ví dụ hãng điều tra thăm dò ở
Mỹ Gallup thường chọn một mẫu 1.500 người đại diện cho toàn thể dân số
Mỹ. Có nhiều cách để chọn mẫu nhưng kỹ thuật thông thường nhất là chọn
mẫu ngẫu nhiên (random sampling), kỹ thuật này dựa trên định luật xác suất
của toán học. Điển hình của chọn mẫu ngẫu nhiên là việc xổ số hay việc rút
thăm. Như vậy nguyên tắc của chọn mẫu ngẫu nhiên là mỗi thành viên của
dân số đều có cơ hội được chọn lựa ngang nhau.
Một phương pháp khác là chọn mẫu phân suất hay định ngạch (quota
sampling), phương pháp này không dựa trên định luật xác suất, thay vào đó
người nghiên cứu chọn những đối tượng của mẫu có những đặc tính quan
trọng và điển hình của dân số. Một cách tổng quát, một mẫu phân suất không
tiêu biểu cho dân số, vì nó chỉ dựa vào một số đặc tính giới hạn của dân số.
Một đôi khi người ta phối hợp việc chọn mẫu phân suất với việc chọn
lựa ngẫu nhiên. Trong trường hợp đó, dân số được chia thành các phân lớp
và sau đó người ta sẽ chọn mẫu ngẫu nhiên riêng biệt cho từng phân lớp của
dân số. Kỹ thuật này được gọi là chọn mẫu phân tầng (stratified sampling).
Trên đây chỉ là một vài kỹ thuật chọn mẫu thông dụng nhất.
Chọn đối tượng chỉ là bước đầu trong việc điều tra, bước kế tiếp là thiết
kế bảng câu hỏi và bảng hướng dẫn phỏng vấn.
c/ Bảng câu hỏi và bảng hướng dẫn phỏng vấn:
Thiết kế bảng câu hỏi vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Việc
dùng từ ngữ trong bảng câu hỏi phải rõ ràng và dễ hiểu. Nhưng quan trọng
nhất, cách dùng từ ngữ trong câu hỏi phải tránh việc gợi ý cho câu trả lời.
Người nghiên cứu cũng phải quyết định việc chọn hình thức câu hỏi nào cho
thích hợp với nội dung muốn tìm hiểu: sử dụng câu hỏi mở hay câu hỏi đóng.
Câu hỏi đóng đòi hỏi người trả lời chọn một hay nhiều phương án trong một
loạt câu trả lời được đề nghị, trong lời câu hỏi mở cho phép người trả lời nói
lên những ý tưởng xuất hiện trong đầu óc mình. Người nghiên cứu cũng phải
quyết định chọn lựa bố trí trong bảng câu hỏi (questionnaire) các loại hình câu
hỏi thích hợp.
Bảng câu hỏi có thể được gởi tới đối tượng nghiên cứu, hoặc được
phỏng vấn qua điện thoại, hoặc được thực hiện trực tiếp bởi người nghiên
cứu với đối tượng. Mỗi hình thức trên đều có ưu điểm và khuyết điểm của
chúng. Việc chọn lựa hình thức nào tùy khả năng và mục tiêu của người
nghiên cứu.
Phỏng vấn là một cuộc đối thoại với một đối tượng nhằm thâu thập một
số dữ kiện sơ cấp. Trong việc phỏng vấn, cũng phải diễn tả các mục tiêu của
cuộc nghiên cứu thành những câu hỏi đơn giản, dễ hiểu và phải tạo một bầu
khí tin tưởng để đối tượng có thể trả lời thoải mái, chân thật. Muốn vậy, trước
hết phải làm cho đối tượng không e dè và hiểu rõ mục tiêu cuộc nghiên cứu
và tin tưởng khả năng đóng góp của mình cho việc nghiên cứu. Thứ đến, phải
làm thế nào cho đối tượng cảm thấy hứng thú, phấn khởi vì cảm thấy chia sẻ
những điều hữu ích qua cuộc phỏng vấn, hoặc cảm thấy đóng góp vào việc
cải thiện tình thế.
Phỏng vấn có thể có nhiều hình thức, dựa vào tính chặt chẽ của nội
dung phỏng vấn thường có hai hình thức chính là phỏng vấn có hướng dẫn
(directive) và phỏng vấn không hướng dẫn (non directive interview). Căn cứ
vào đối tượng được phỏng vấn, thường có hai loại hình chính là phỏng vấn
cá nhân và phỏng vấn nhóm. Việc chọn lựa hình thức thích hợp nào cũng tùy
thuộc tính chất và mục tiêu của nghiên cứu.
Phỏng vấn là một khoa học đồng thời là một nghệ thuật. Thời gian, địa
điểm của cuộc phỏng vấn, giới tính và lứa tuổi của người phỏng vấn phải
được chọn lựa kỹ càng vì có thể có ảnh hưởng kết quả của cuộc phỏng vấn.
Do đó, cần thiết phải chọn lựa một số người tập huấn trước khi đi phỏng vấn.
Những điều kiện lý tưởng khác là người phỏng vấn nắm được “mã ngôn ngữ”
và thuộc cùng nhóm với đối tượng nghiên cứu.
4. Phân tích thứ cấp (secondary analysis):
Ba phương pháp kể trên đều liên hệ đến việc nhà nghiên cứu tự thâu
thập dữ kiện. Nhưng điều này đôi lúc không thể thực hiện được, và trong
nhiều trường hợp nhà xã hội học phải sử dụng những số liệu do người khác
thâu thập. Việc sử dụng những dữ kiện do người khác thâu thập được gọi là
phân tích thứ cấp (secondary analysis), như việc sử dụng các số liệu của các
cơ quan thống kê, của các nhà xã hội học khác. Nghiên cứu nổi tiếng cảa É.
Durkheim về “Tự tử” cũng là một phân tích thứ cấp dựa vào các tư liệu thống
kê đã có về hiện tượng tự tử ở các xã hội Châu âu.
Các nhà xã hội học cũng có thể phối hợp nghiên cứu tư liệu với việc
phỏng vấn về tiểu sử của các cá nhân (life history). Họ cũng muốn tìm hiểu
các biến cố quá khứ một cách trực tiếp bằng cách phỏng vấn những nhân vật
đã chứng kiến những sự kiện lịch sử (oral history). Một số khác phối hợp
nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu đối chiếu về các xã hội hay các hiện tượng
xã hội.
Các phương pháp thâu thập dữ kiện đều có những ưu điểm cũng như
những hạn chế của chúng, như bảng tóm tắt sau đây cho thấy (J. Macionis,
1997; A. Giddens, 1997):
Phương pháp:
Ứng dụng: Ưu điểm: Hạn chế:
1) Quan
sát tham
gia:
– Dành cho những
nghiên cứu thăm dò
và nghiên cứu mô tả;
cho những dữ kiện
định tính.
– Cho phép nghiên
cứu những úng xử
có tính cách “tự
nhiên”; thường ít tốn
kém. Cho những
thông tin có bề sâu.
Người nghiên cứu
dễ linh động.
- Tốn thời gian; khó
lập lại cuộc nghiên
cứu; người nghiên
cứu phải vừa đóng
vai người trong
cuộc vừa đóng vai
người quan sát; qui
mô nhỏ.
2) Thử
nghiệm:
– Dành cho những
nghiên cứu giải thích,
có đặc điểm tìm
tương quan giữa các
biến số; cho những
– Khả năng lớn
trong việc tìm tương
quan nhân quả; tái
tạo lại cuộc nghiên
cứu tương đối dễ.
– Bối cảnh thử
nghiệm có tính
cách giả tạo; kết
quả dễ thiên lệch,
nếu bối cảnh
dữ kiện định lượng.
nghiên cứu không
được kiểm soát
chặt chẽ.
3) Điều
tra:
- Để thâu thập những
dữ kiện không thể
quan sát trực tiếp,
như thái độ, giá trị;
thuận lợi cho các
cuộc nghiên cứu
thăm dò, mô tả; cho
những dữ kiện định
tính và định lượng.
– Việc chọn mẫu
cho phép nghiên
cứu những dân số
lớn; phỏng vấn sâu
cho ta những câu trả
lời chất lượng.
– Phải soạn bảng
câu hỏi kỹ lưỡng;
khả năng thu lại các
bảng hỏi thấp;
phỏng vấn rất tốn
kém tiền bạc và đòi
hỏi thời gian.
4) Phân
tích thứ
cấp:
– Dành cho những
nghiên cứu giải thích,
nghiên cứu mô tả hay
thăm dò, bất cứ lúc
nào có được những
dữ kiện thích đáng.
– Tiết kiệm thời gian
và chi phí trong việc
thâu thập các dữ
kiện; có thể nghiên
cứu tính lịch sử của
vấn đề.
- Người nghiên cứu
không thể kiểm
soát những thiên
lệch của dữ kiện;
dữ kiện có thể
không thích hợp đối
với cuộc nghiên
cứu đang tiến hành.
III. TƯƠNG QUAN GIỮA LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁPCác phương pháp kể trên giúp chúng ta thâu thập các dữ kiện, nhưng
sự kiện không phải là mục đích cuối cùng của nghiên cứu. Mục đích của
nghiên cứu là đi đến việc kiểm chứng các giả thiết, phát triển các lý thuyết. Lý
thuyết (theory) là một hệ thống các khái niệm có tương quan với nhau nhằm
tìm cách giải thích những nguyên nhân của hiện tượng được quan sát.
Trong nghiên cứu của mình, nhà xã hội học cố gắng nối kết các hiện
tượng quan sát với các lý thuyết xã hội. Có hai quá trình trong lối tư duy lô
gích này. Tư duy lô gích diễn dịch (déduction) là phương pháp đi từ cái chung
(lý thuyết) để tìm ra cái riêng (sự kiện). Từ cái chung đến cái riêng thường đi
qua các giả thiết đặc thù. Thử nghiệm của Philip Zimbardo về nhà tù ở
Stanford bắt đầu từ ý tưởng tổng quát là chính bối cảnh các nhà tù có ảnh
hưởng tiêu cực đến cách ứng xử của con người sống trong bối cảnh đó, và
ông đã sử dụng thử nghiệm để kiểm chứng giả thiết trên.
Phương pháp tư duy kia là phương pháp quy nạp (induction), nghĩa là
bắt đầu với các quan sát đặc thù, người nghiên cứu cố gắng nối kết chúng
với một lý thuyết tổng quát. Như nghiên cứu của M.Weber khi ông đặt câu hỏi
tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển trước tiên ở những vùng theo đạo Tin lành
Calvin ở Châu âu, hay như nghiên cứu của E. Digby Baltzell khi ông ngạc
nhiên tại sao trường đại học New England sản sinh ra nhiều nhân vật nổi
tiếng, thành dạt trong xã hội Mỹ.
Trong nhiều trường hợp, người nghiên cứu sử dụng cả hai quá trình tư
duy trên. Họ thường bắt đầu với các tư tưởng tổng quát để đi đến các giả
thiết (giai đoạn diễn dịch), đến lượt chúng các giả thiết này được kiểm chứng
bởi các sự kiện do quan sát cụ thể. Những sự quan sát này dẫn đến việc thay
đổi những ý tưởng ban đầu và hình thành một lý thuyết khác.
Người ta thường nói rằng xã hội học thiếu các lý thuyết lớn. Nhưng thật
ra đây là vấn đề còn tranh cãi. Nếu lý thuyết được đánh giá bởi khả năng giải
thích và tiên đoán các sự kiện, thì xã hội học cũng có những lý thuyết có giá
trị lớn, như lý thuyết hội nhập xã hội của Durkheim; lý thuyết về tổ chức thư lại
(bureaucracy) của Max Weber vẫn có giá trị giúp tìm hiểu các loại hình tổ
chức; lý thuyết mâu thuẫn giai cấp của K. Marx vẫn luôn là lý thuyết chủ yếu
giải thích về sự bùng nổ các cuộc cách mạng.
Rõ ràng là không một lý thuyết xã hội học nào giải thích được tất cả
tính phức tạp của các hiện tượng xã hội. Nhưng điều này cũng xảy ra đối với
bất cứ bộ môn khoa học nào như kinh tế học, và ngay cả với những khoa học
tự xem là “chính xác” như vật lý học (với lý thuyết tương đối).
Chương 3. XÃ HỘI VÀ VĂN HÓAXã hội là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người.
K. Marx.
Nếu con người muốn tồn tại trong xã hội hiện đại, con người phải biết
xã hội vận hành như thế nào.
A. Kardiner & E. Preble.
Những người nào không biết đến một nền văn hóa nào khác ngoài văn
hóa mình đang sống thì không thể nhận biết nền văn hóa của chính mình.
Ralph Linton.
I. XÃ HỘI CON NGƯỜI A. Xã hội là gì:
Khái niệm xã hội, trong nghĩa rộng, không chỉ dành riêng cho con người
mà ám chỉ mọi tổ chức của các sinh vật có tương quan lệ thuộc lẫn nhau. Cụ
thể hơn, một xã hội là một tập hợp những sinh vật (1) được tổ chức, có phân
công lao động tồn tại qua thời gian, (2) sống trên một lãnh thổ, trên một địa
bàn, (3) và chia sẻ những mục đích chung, cùng nhau thực hiện những nhu
cầu chủ yếu của đời sống, như nhu cầu tái sản xuất, sản xuất của cải vật
chất, nhu cầu an ninh, các nhu cầu tinh thần…Định nghĩa này phân biệt khái
niệm xã hội với khái niệm dân số. Khái niệm dân số không hàm ý một tổ chức
xã hội, trong khi khái niệm xã hội nhấn mạnh những mối quan hệ hỗ tương
giữa các thành viên trong xã hội. Định nghĩa như trên, xã hội cũng không
đồng nghĩa với quốc gia, mặc dù trong thế giới hiện nay, khái niệm xã hội
thường ám chỉ một quốc gia, một nhà nước, bởi lẽ thông thường một thành
viên của xã hội nghĩ rằng họ là thành viên của một quốc gia nhất định. Nhưng
không phải luôn luôn như vậy và trong nhiều trường hợp không có một sự
đồng nhất giữa xã hội và nhà nước. Đó cũng là nguyên nhân của nhiều cuộc
nội chiến, của nhiều cuộc xung đột xã hội như trường hợp của người
Palestine, của những thổ dân ở Mỹ hay của bộ lạc Ibo ở Nigeria…
Xã hội con người khác xã hội của loài vật, bởi lẽ con người có khả năng
thay đổi hình thái và chức năng của xã hội để thích ứng với hoàn cảnh, hay
nói cách khác con người có khả năng xây dựng cho minh một nền văn hóa.
Văn hóa cho phép con người sống trong xã hội không chỉ dựa trên sự phân
công lao động, trên sự lệ thuộc hổ tương mà còn chia sẻ những giá trị, những
niềm tin (beliefs) chung. Cùng nhắm tới thực hiện một chức năng xã hội,
nhưng văn hóa cho phép con người, thuộc những nền văn hóa khác nhau, có
những loại hình quan hệ xã hội, tương tác xã hội khác nhau. Do đó một khi đã
được sản sinh, văn hóa và xã hội phát triển đan xen một cách rất phức tạp.
B. Dân cư và xã hội:
Sự gia tăng dân cư trên thế giới có quan hệ trực tiếp trên sự tiến hóa
các kết cấu xã hội của con người, đến lượt chúng tác động đến những biến
đổi trong lực lượng sản xuất, trong sự biến đổi kỹ thuật và khoa học. Xã hội
con người đã trải qua một triệu năm đầu tiên với lối sống săn bắt và hái lượm.
Trong suốt thời gian đó gia đình và các kết cấu dòng họ giữ vai trò quan trọng
trong cuộc sống. Cuộc cách mạng đầu tiên trong kỹ thuật sản xuất – cuộc
cách mạng nông nghiệp – có liên quan đến việc phát minh ra chiếc cày và các
biện pháp dẫn thủy. Suốt hàng trăm thế kỷ, xã hội con người chỉ sống bằng
chăn nuôi và trồng trọt, và các xã hội nông nghiệp có quy mô lớn chỉ xuất hiện
sau cuộc cách mạng nông nghiệp. Xã hội nông nghiệp cho phép con người
thoát khỏi sự lệ thuộc vào các nguồn thực phẩm mà họ không kiểm soát
được. Trong các xã hội đó, con người sản xuất thặng dư nên có thể nuôi các
tầng lớp không sản xuất ra được thực phẩm như thợ thủ công, những người
hành nghề tôn giáo, các thủ lĩnh dân sự và quân sự…Nhưng đồng thời, trong
các xã hội này nhu cầu đất đai càng gia tăng dẫn đến các cuộc xung đột. Nhu
cầu tích trữ thực phẩm và định cư những người không sản xuất dẫn đến việc
phát triển làng mạc và các đô thị nhỏ.
Biến chuyển cách mạng kế tiếp trong các kỹ thuật sản xuất của con
người là việc chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và thương mại. Cuộc
cách mạng này bắt đầu ở Anh vào những năm 1650, rồi phát triển sang Mỹ và
các quốc gia khác trong hai thế kỷ kế tiếp. Với những phát triển mới về khoa
học kỹ thuật đã hình thành một phương thức sản xuất mới, phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Việc chuyển sang nền sản xuất công nghiệp đã ảnh
hưởng kết cấu xã hội trên nhiều lãnh vực, với việc công nghiệp hóa nông
nghiệp, người ta không cần sử dụng nhiều lao động trong nông nghiệp, và
càng ít người sống dựa vào đất đai, do đó càng ngày càng có nhiều người đổ
xô về các đô thị và vùng phụ cận. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã gia tăng khả
năng tạo ra của cải của con người, đã thu ngắn khoảng cách không gian giữa
các xã hội do việc sáng chế ra những kỹ thuật mới về giao thông đi lại và
truyền thông. Đồng thời biến chuyển xã hội cũng làm nảy sinh các tầng lớp xã
hội mới, những phong trào xã hội mới.
C. Những thành tố của xã hội:
Những thành tố cấu tạo xã hội tổng thể là những cơ cấu xã hội (social
structure), chúng là những khuôn mẫu hành vi lập đi lập lại và tạo ra tương
quan giữa những cá nhân, đoàn thể, nhóm trong xã hội. Đơn vị cơ bản nhất
của cơ cấu xã hội là vị trí xã hội (social status) – là những thế đứng của một
cá nhân được xã hội thiết lập ra trong một nhóm xã hội nhất định. Và cách thế
một cá nhân phải ứng xử như thế nào trong một vị trí xã hội nhất định được
gọi là vai trò (role). Nhưng trong cùng một vị trí xã hội, con người ứng xử rất
khác nhau, tùy theo sự chờ đợi của xã hội ở vai trò (role expectations) cũng
như tùy thuộc sự nhận thức của cá nhân về sự kỳ vọng ở các vai trò trên. Sự
tập hợp một số vị trí và vai trò làm thành nên các nhóm. Nhóm (group) là
những đơn vị cơ bản của xã hội, chúng là những tập hợp con người có hành
động hổ tương trên cơ sở cùng thực hiện những mục tiêu chung. Nhóm trong
ý nghĩa đó bao gồm những tập hợp từ hai người đến những tổ chức có quy
mô lớn như những công ty đa quốc gia, chẳng hạn.
Kết cấu của hầu hết các nhóm trong xã hội đều được xác định bởi
những định nghĩa chung về vị trí và vai trò của các thành viên. Khi những vị trí
và vai trò này được chỉ định nhằm thực hiện các chức năng xã hội chính yếu,
chúng được gọi những định chế (institution). Trong ngôn ngữ đời thường,
thuật ngữ định chế được sử dụng để ám chỉ những tổ chức có quy mô lớn.
Nhưng trong xã hội học, định chế là một kết cấu các vị trí và các vai trò có ít
nhiều tính cách ổn định nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người
trong xã hội. Ví như, nhà nước là một định chế có chức năng bảo đảm an
ninh, đem lại ổn định trong xã hội; gia đình có chức năng tái sản xuất huấn
luyện các thành viên cho xã hội; thị trường là một định chế có chức năng điều
hòa sản xuất và trao đổi sản phẩm và dịch vụ.
Xã hội loài vật cũng có một số định chế hạn chế liên quan đến việc tái
sản xuất, tìm kiếm thực phẩm, và cai quản tập đoàn. Trong khi đặc trưng của
xã hội loài người là một sự phát triển không ngừng các định chế nhằm đáp
ứng những nhu cầu mới phát sinh của con người. Đây là quá trình phân biệt
hóa các định chế (differentiation) – là một quá trình trong đó những hoạt động
trước đây được thực hiện bởi một định chế nay được phân ra cho các định
chế khác. Và trong một ý nghĩa nào đó việc nghiên cứu sự hình thành, phát
triển, biến đổi và tàn lụi các kết cấu xã hội là một nhiệm vụ của xã hội học và
của nhiều khoa học xã hội khác.
II. VĂN HOÁ Cũng như khái niệm cơ cấu xã hội, khái niệm văn hóa là một khái niệm
căn bản trong xã hội học, bởi lẽ như chúng ta đã trình bày cái làm cho con
người khác loài vật chính là văn hóa. Mặc dù xã hội con người không thể tồn
tại nếu không có văn hóa, nhưng xã hội và văn hóa là hai thực thể không
đồng nhất.
A. Ý nghĩa của văn hóa:
Trong ngôn ngữ hằng ngày, thuật ngữ văn hóa mang nhiều ý nghĩa, nó
có thể ám chỉ trình độ giáo dục, di sản tinh thần, một lối sống, phong tục tập
quán…Nhưng dưới góc độ xã hội học, văn hóa là toàn bộ hữu cơ những hình
thái tư tưởng, ứng xử và sản xuất của một tổ chức, một xã hội, được truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác bằng những phương tiện tương tác truyền
thông chứ không qua con đường di truyền sinh học. Văn hóa bao gồm toàn
thể những thành tựu của con người trong lãnh vực sản xuất, xã hội và tinh
thần. Trong phạm vi bao quát đó của văn hóa, các nhà xã hội học chú trọng
đến những khía cạnh của văn hóa giúp giải thích được các lối ứng xử của con
người và các tổ chức xã hội.
Những thành tố của văn hóa: Một số nhà xã hội học – như William
Ogburn – phân ra trong mọi nền văn hóa hai bộ phận: văn hóa vật thể và văn
hóa phi vật thể (tinh thần).Văn hoá vật thể bao gồm những đồ đạc, dụng cụ,
sản phẩm nghệ thuật, trang thiết bị, khí giới, xe cộ, nhà cửa, áo quần, dụng
cụ sản xuất. Văn hóa phi vật thể thì khó định nghĩa hơn và nó bao gồm những
lãnh vực văn hóa mà ta không sờ mó được, như các khuôn mẫu hành vi, các
qui tắc, giá trị, thói quen, tập quán… Robert Bierstedt xem văn hóa bao gồm
ba lãnh vực: tư tưởng (ideas), chuẩn mực (norms) và văn hóa vật chất.
Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu những thành tố cơ bản nhất nằm bên dưới các
thành tố trên, đó là những biểu tượng (symbol) trong văn hóa của con người.
Như đã đề cập, văn hóa vật thể là một bộ phận quan trọng cấu thành
nền văn hóa, bao gồm những đồ dùng trong đời sống, nhà cửa, công cụ lao
động, những sản phẩm nghệ thuật, nền công nghệ của một xã hội… Văn hóa
vật thể thường gắn chặt với giá trị tinh thần và là biểu hiện của các giá trị tinh
thần. Lấy thí dụ, xã hội Mỹ đánh giá cao tinh thần tự lập, cá nhân chủ nghĩa,
cho nên trong lãnh vực đi lại xe hơi cá nhân phát triển hơn các phương tiện
giao thông công cộng. Trong xã hội Mỹ chiếc xe hơi là biểu hiện của sự thành
đạt cá nhân.
Văn hóa vật chất còn phản ánh trình độ kỹ thuật (technology). Kỹ thuật
là việc ứng dụng các kiến thức văn hóa; các tư tưởng khoa học vào môi
trường vật chất để phục vụ nhu cầu đời sóng. Với sự phát triển của kỹ thuật,
con người có thể chinh phục, uốn nắn thiên nhiên theo những giá trị văn hóa
của mình. Khoa học kỹ thuật đã giải phóng con người phần nào, nhưng đồng
thời, nếu không kiểm soát được, cũng đem lại cho con người nhiều căng
thẳng, nhiều tai họa (như nạn ô nhiễm) và cả nguy cơ hủy diệt nhân loại –
như nguy cơ hạt nhân. Vấn đề phát triển khoa học kỹ thuật là một mặt, nhưng
làm thế nào để khoa học kỹ thuật đem lại cho con người hạnh phúc, cải thiện
phẩm chất cuộc sống của con người là một vấn đề khác cần tiếp tục nghiên
cứu.
Văn hóa được xây dựng trên các biểu tượng (symbol). Biểu tượng là
bất cứ vật gì mang một ý nghĩa riêng biệt mà các thành viên trong cùng một
xã hội đều nhận biết. Các yếu tố trong thế giới thiên nhiên, âm thanh, hình
ảnh, cử chỉ của con người đều có thể dùng như là biểu tượng. Biểu tượng
gắn liền với cuộc sống nên chúng ta không ý thức tầm quan trọng của chúng.
Chỉ khi tiếp xúc với một nền văn hóa khác, hay khi các biểu tượng được phối
hợp một cách không nhất quán chúng ta mới thấy tầm quan trọng, ý nghĩa
đặc biệt của các biểu tượng trong nền văn hóa vì đối với chúng ta xem ra
không có ý nghĩa nhưng trong một nền văn hóa khác lại mang một ý nghĩa
đặc biệt. Thêm vào đó biểu tượng văn hóa thay đổi qua thời gian, ví như cách
đây vài chục năm xe Honda là biểu hiện của sự giàu có nhưng nay nó là
phương tiện đi lại thông dụng của quần chúng; chiếc quần jean cũng thay đổi
ý nghĩa qua thời gian, là chiếc quần của một giới nghề nghiệp trong xã hội Mỹ
nó đã trở thành phổ biến trong giới thanh niên vào những năm 1960…
Tóm lại, biểu tượng cũng là cách con người gán ý nghĩa cho cuộc
sống. Trong một xã hội đa dạng về mặt văn hóa, việc sử dụng biểu tượng có
thể gây cho ta một số khó khăn, nhưng nếu không có biểu tượng cuộc sống
sẽ không có ý nghĩa và xã hội cũng không mang dấu ấn nhân văn.
Một khả năng của con người là biết phối hợp các biểu tượng để tạo ra
ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một hệ thống các biểu tượng mà ý nghĩa đã được
chuẩn hóa, nhờ đó mọi người trong một xã hội nhất định có thể truyền thông
cho nhau. Xã hội nào cũng có ngôn ngữ viết và nói, trừ một số ít chỉ có ngôn
ngừ nói. Ngôn ngữ giúp cho các thành viên trong một xã hội cùng chia sẻ
những tư tưởng, niềm tin, cảm nghĩ. Ngôn ngữ cũng là công cụ chủ yếu để
truyền đạt văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ ngữ ta dùng bắt rễ từ
nhiều trăm năm trước, do đó khi hiểu ý nghĩa của biểu tượng thông qua ngôn
ngữ, ta nắm được kiến thức tích lũy, cái triết lý mà cha ông ta đã cảm nghiệm
được.
Ngôn ngữ là đặc trưng của văn hóa nhưng đồng thời cũng tác động
đến văn hóa, và mặt khác biến chuyển xã hội và văn hóa cũng tác động lên
ngôn ngữ.
Các chuẩn mực (norms) là những quy tắc của ứng xử, chúng quy định
hành vi của con người là tốt hay xấu, là thích hợp hay không thích hợp. Mỗi
nền văn hóa đều có các hệ thống chuẩn mực, chúng tạo thành hệ thống kiểm
soát (social control) của xã hội và điều tiết các hành vi, các ứng xử của cá
nhân và của đoàn thể trong nền văn hóa. Chúng nêu lên những chuẩn mực
như: phải hiếu thảo với cha mẹ, phải kính trọng người già, không được giết
người, không được trộm cắp…Nhưng các chuẩn thực không bao giờ có tính
cách tuyệt đối, chúng thay đổi tùy nền văn hóa, tùy hoàn cảnh và cũng thay
đổi theo thời gian.
Để thúc đẩy cá nhân và đoàn thể làm theo chuẩn mực đã đề ra, mọi
nền văn hóa đều quy định những chế tài (sanctions). Đó là những hành vi
thưởng phạt tùy theo việc tuân thủ hay vi phạm các chuẩn mực. Các chuẩn
mực văn hóa có mức độ chế tài khác nhau. Những quy tắc đạo lý (mores) là
những chuẩn mực có mức độ chế tài mạnh nhất, bởi lẽ chúng được đánh giá
trong mối liên quan đến sự sống còn của xã hội và mang ý nghĩa đạo đức cao
nhất. Các tập quán (folkways) có mức độ chế tài nhẹ hơn. William Graham
Sumner, người đầu tiên đã sử dụng hai thuật ngữ trên, cho thấy rằng luật
pháp là những chuẩn mực đã được thể hiện thành văn. Luật pháp thường
chính thức hóa các nguyên tắc đạo lý của một xã hội, và đôi khi chính thức
hóa một số tập quán, như việc buộc phải ăn mặc áo quần ở nơi công cộng.
Nhưng sự chế tài và quan niệm về quy tắc đạo lý cũng thay đổi theo thời gian,
ví như quan niệm về ngoại tình, đồng tính luyến ái và các mức độ chế tài của
chúng ở Mỹ cũng thay đổi qua thời gian.
Giá trị (value) là những tiêu chuẩn, những tư tưởng đề cao và biện
minh cho các chuẩn mực, trên cơ sở đó các thành viên của một nền văn hóa
xác định cái gì là đúng, là tốt, là đẹp và cái gì là cần thiết hay không cần thiết.
Giá trị tồn tại trong ý thức tập thể của một xã hội hay nói cách khác văn hóa là
những phương cách tồn tại và hành động mà một xã hội xem như là lý tưởng
phải đạt đến. Ví như giáo dục là một giá trị được các nền văn hóa Châu á đề
cao, và người ta xem đó như là phương cách tốt để đạt đến các vị trí trong xã
hội. Như vậy, giá trị là những sự đánh giá, phán đoán, trên quan điểm của
văn hóa, cái mà chúng ta phải làm. Các giá trị sẽ chi phối các quan niệm về
vũ trụ về nhân sinh của cá nhân. Chúng ta học được các giá trị qua quá trình
xã hội hóa trong gia đình, học đường, tôn giáo, và các đoàn thể xã hội nói
chung. Tuy nhiên các chuẩn mực, các quy tắc có liên quan đến một giá trị có
thể thay đổi. Đối với một số người để có thể có được giáo dục thì phải theo
học đại học, nhưng cũng có một số người quan niệm phải học tập qua việc
huấn nghệ, qua công tác thực tiễn.
Một số giá trị, chuẩn mực có liên quan với nhau hình thành nên một hệ
thống chặt chẽ được gọi là hệ ý thức (ideology), như chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa xã hội…
Các giá trị văn hóa không thuần nhất trong một nền văn hóa nhất định,
chúng thay đổi tùy theo quan niệm của các tầng lớp xã hội. Nhưng mặt khác,
trong một hay trong nhiều nền văn hóa có một số giá trị nào đó mà mọi người
đều thừa nhận, và chúng tồn tại qua thời gian. Trong một hệ thống giá trị đôi
lúc cũng có sự không thuần nhất, như sự mâu thuẫn giá giá trị bình đẳng và
chủ nghĩa cá nhân.
Như vậy, các chuẩn mực, các giá trị đưa ra những kỳ vọng, đưa ra cái
mà cá nhân phải làm, hay đúng hơn nó đưa ra cái lý tưởng của nền văn hóa,
cái văn hóa lý tưởng (ideal culture). Trong khi những hành vi, ứng xử thực tế
hiện có tạo thành cái văn hóa thực tiễn (real culture). Ví như chung thủy là
một giá trị của xã hội Mỹ, nhưng trong thực tế có 1/3 đàn ông Mỹ đôi khi
không trung thành với vợ.
Văn hóa với những thành tố cấu thành như vậy phải được phân biệt với
khái niệm văn minh. Các nền văn minh là các nền văn hóa có tính cách tiên
tiến, có sự phát triển đã đạt đến một trình độ nhất định, có nền văn hóa vật
chất và tinh thần mang những đặc trưng riêng. Các nền văn minh thường ảnh
hưởng đến các nền văn hóa khác khi chúng tiếp xúc với nhau. Có những nền
văn minh xa xưa không còn tồn tại như nền minh Hi lạp và La mã. Có những
nền văn minh có lịch sử lâu dài, trải qua những thăng trầm và nay vẫn còn tồn
tại như các nền văn minh Ấn Độ, Trung Quốc và có những nền văn minh
đang thống trị như các nền văn minh Châu âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Liên Xô
(trước 1991). Đây là các nền văn hóa thống trị bởi lẽ chúng cạnh tranh nhau
trên quy mô toàn cầu nhằm xuất khẩu ảnh hưởng về lối sống, về khoa học kỹ
thuật của mình. Trên bình diện nghiên cứu xã hội học ở cấp độ vĩ mô, văn
minh là một lãnh vực rất được chú trọng và ở cấp độ nghiên cứu này,
Bottomore đã định nghĩa văn minh là: “một phức thể văn hóa được hình thành
bởi những nét văn hóa lớn, đồng nhất, của một số xã hội nhất định. Lấy thí dụ
ta có thể mô tả chủ nghĩa tư bản phương Tây như là một nền văn minh, trong
đó các hình thức đặc thù về khoa học, về kỹ thuật, tôn giáo, nghệ thuật…
được tìm thấy trong một số xã hội khác nhau.
B. Thái độ đối với các nền văn hóa khác nhau:
Thông thường, vì hầu hết mọi người chỉ sống trong một nền văn hóa,
nên có xu hướng đánh giá những lối ứng xử của các dân tộc, các xã hội khác
theo quan điểm văn hóa của riêng mình. Thời thuộc địa khi các đế quốc đi
bành trướng đất đai, các tên thực dân có xu hướng đánh giá các nền văn hóa
thuộc địa là thấp kém, mọi rợ. Thái độ đó được gọi là vị chủng
(ethnocentrism) – là xu hướng phán đoán các nền văn hóa khác là thấp kém
theo những chuẩn mực, những giá trị của nền văn hóa của riêng mình. Thật
ra thái độ vị chủng không chỉ dành riêng cho những tên thực dân, bởi lẽ các
dân bản xứ cũng đánh giá người da trắng một cách tiêu cực – “rợ phương
Tây”. Khái niệm “vị chủng” nhắc chúng ta rằng lắm lúc chúng ta phê phán cái
hay dở, đúng sai trên cơ sở quen lạ hơn là trên giá trị khách quan của sự
kiện; thay vì đặt sự kiện trong bối cảnh văn hóa của chúng để phê phán. Thái
độ này không chỉ áp dụng trên vấn đề văn hóa mà ngay trong cuộc sống hằng
ngày, trước một sự kiện mới, phản ứng thông thường đầu tiên là không chấp
nhận cái gì khác lạ với ta.
Các nhà kinh doanh khi đi ra nước ngoài, nhưng nhà chính trị, những
nhà nghiên cứu khoa học xã hội, nhất là các nhà dân tộc học và xã hội học
phải có khả năng tạm ngưng phê phán các nền văn hóa khác bằng những giá
trị của riêng mình. Thái độ đó là “Tương đối hóa văn hóa” (cultural relativity) –
là xu hướng chấp nhận rằng mọi nền văn hóa phát triển theo phương cách
riêng của chúng, bằng cách thích ứng với các đòi hỏi đặc biệt của môi trường
trong đó chúng hình thành.
Tuy nhiên lối tiếp cận nghiên cứu này cũng có các giới hạn. “Tương đối
hóa văn hoá” là một thái độ cơ bản cần có khi muốn lãnh hội một nền văn hóa
khác, nhưng điều này không có nghĩa buộc chúng ta ngưng hoàn toàn mọi
phê phán về mặt luân lý.
Lấy thí dụ, chúng ta ngưng mọi phê phán, mọi biểu lộ tình cảm là để tìm
hiểu những giá trị nào, những hệ tư tưởng nào, những nền văn hóa nào đã
chi phối những người ủng hộ chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc. Nhưng với tư cách những nhà xã hội học, bổn phận của chúng ta là phải
đánh giá các hệ luận luân lý của các chuẩn mực, các giá trị của một nền văn
hóa và phải lên án chúng – trong trường hợp nay là chủ nghĩa phát–xít, chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc – khi thấy rằng chúng đem lại bạo lực và đau khổ
cho con người.
C. Tiếp xúc văn hóa và biến chuyển văn hóa:
Trong một thế giới luôn luôn biến chuyển, theo Fernand Braudel, có thể
có ba khả năng xảy ra khi các nền văn hóa, các nền văn minh tiếp xúc, va
chạm nhau:
Giao lưu văn hóa (acculturation):
Khi dân cư của một nền văn hóa chấp nhận và hội nhập những chuẩn
mực, giá trị, những nét văn hóa vật chất của những nền văn hóa khác vào
nền văn hóa của chính mình, quá trình này được gọi là quá trình giao lưu văn
hóa (hay tiếp biến văn hóa). Quá trình này có được thông qua sự tiếp xúc
giữa các nền văn hóa, thông qua sự vay mượn hay bắt chước những nét văn
hóa. Nhiều nét trong các lãnh vực văn hóa Việt Nam, từ ăn mặc, ăn uống, nhà
ở, sản xuất, tôn giáo…là những nét văn hóa có nguồn gốc từ những nền văn
hóa khác, hay của các dân tộc khác ở Việt nam. Quá trình giao lưu không
phải là quá trình một chiều, mà có sự trao đổi qua lại. Ví như người Chăm
chịu nhiều ảnh hưởng của người Việt trong lãnh vực ngôn ngữ, văn hóa vật
chất, nhưng mặt khác người Việt cũng chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa
Chăm như trong tín ngưỡng đồng bóng, một số thức ăn, công cụ lao động
của người Việt ở miền Trung cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Chăm…
Đồng hóa văn hóa (cultural assimilation), phân lớp văn hóa (subculture)
và văn hóa phản kháng (counterculture):
Khi các nhóm có những nền văn hóa khác biệt, trong cùng một xã hội –
sử dụng ngôn ngữ, các chuẩn mực và giá trị của xã hội trên và việc giao lưu
văn hóa này cho phép họ đảm nhiệm những vị trí bình đẳng trong các nhóm
và trong các định chế của xã hội, thì ta gọi đó là quá trình đồng hóa. Ví dụ một
số người Chro ở Đồng Nai đã trở thành người Việt.
Trong một xã hội, khi một tầng lớp dân cư có một nền văn hóa khác
biệt nhưng không bị đồng hóa hoàn toàn với nền văn hóa đa số, trong trường
hợp đó người ta nói đến phân lớp văn hóa (subculture), hay đôi lúc còn gọi là
tiểu văn hóa, văn hóa phụ. Trong một xã hội đa văn hóa, văn hóa của các dân
tộc thiểu số thường là các phân lớp văn hóa. Trong các xã hội phức tạp, trong
các xã hội hiện đại có những nhóm người tìm cách tạo ra và duy trì những lối
sống khác biệt với lối sống của các thành viên trong xã hội, trong trường hợp
đó họ cũng tạo ra những phân lớp văn hóa riêng biệt, ví như lối sống của các
nghệ sĩ của các người lang thang vô gia cư (clochard) ở Châu Âu.
Khi một phân lớp văn hóa thách đố những giá trị và những chuẩn mực
của nền văn hóa thống trị và tạo ra một lối sống đối nghịch, chúng ta gọi là
văn hóa phản kháng (counterculture), như trường hợp các nhóm Cánh Tả
Mới, nhóm Hippi là những văn hóa phản kháng đã có ảnh hưởng đối với
chính sách của Mỹ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam…
Thích nghi văn hóa (accommodation) và kháng cự (cultural resistance):
Khi một xã hội nhỏ hơn, ít người hơn nhưng vẫn có thể gìn giữ nền văn
hóa của mình cho dù sau một quá trình tiếp xúc lâu dài với nền văn hóa chủ
thể, trong trường hợp đó một quá trình thích nghi văn hóa đã xảy ra. Ví như
trường hợp của những người Do Thái và những người không theo Hồi giáo
trước khi thành lập nhà nước Israel vào năm 1948 họ vẫn giữ được nền văn
hóa của họ trong các xã hội Ả Rập. Sự thích nghi đòi hỏi mỗi phía chấp nhận
sự tồn tại của kẻ khác. Lịch sử các quan hệ giữa thổ dân Mỹ và những người
định cư từ Châu âu là một quá trình phức tạp giữa sự thích nghi và sự kháng
cự văn hóa. Sự kháng cự mang nhiều hình thức: như từ chối theo Thiên Chúa
giáo, từ chối nói tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, từ chối bán các sản phẩm và
cung cấp các dịch vụ cho người định cư da trắng. Sự kháng cự này cũng
không giúp cho người thổ dân thoát khỏi bệnh tật, nghèo đói, kể cả việc bị
chinh phục nhưng cho phép họ bảo lưu nền văn hóa và vay mượn ở những
người da trắng những nét văn hóa có lợi cho họ, ví như người thổ dân Mỹ ở
vùng đồng bằng đã sử dụng ngựa của người Tây Ban Nha, điều này đã thay
đổi phần nào những tập quán trong nền văn hóa của họ.
Do nhu cầu phân tích chúng ta đã tách biệt ba quá trình tiếp xúc văn
hóa trên, nhưng trong thực tế có thể ba quá trình này đan cài nhau, hay có
những ảnh hưởng riêng biệt tùy theo sự tác động của từng tiểu hệ thống
trong xã hội tổng thể.
D. Các lý thuyết nghiên cứu và giải thích về văn hóa:
1. Lý thuyết sinh thái học văn hóa (cultural ecology)
Sinh thái học là một bộ môn của khoa học tự nhiên nghiên cứu các sinh
vật đã tồn tại trong tương quan với môi trường thiên nhiên như thế nào. Do
đó, sinh thái học văn hóa nghiên cứu những mối quan hệ giữa văn hóa của
con người với môi trường thiên nhiên. Lối tiếp cận này chú trọng xem những
đặc tính của môi trường vật lý – như khí hậu, thực phẩm, tài nguyên thiên
nhiên ảnh hưởng như thế nào sự phát triển văn hóa của con người.
Ví như, nhiều dân tộc ít người ở Tây nguyên Việt Nam tin rằng các
rừng đầu nguồn có nhiều thần linh (yang) và có cấm kỵ không được chặt cây
ở đó vì sợ đụng chạm đến thần linh. Hay tục lệ cấm không được ăn thịt bò
của người Ấn Độ theo Ấn giáo bởi vì đối với người Ấn Độ, bò là một con vật
linh thiêng, là “mẹ của sự sống”. Phải chăng những cấm kỵ trên là những biểu
tượng của một niềm tin tôn giáo? Theo lối giải thích sinh thái học văn hóa,
vấn đề xem ra phức tạp hơn. Theo Marvin Harri, trong môi trường sinh thái
nghèo nàn của Ấn Độ xưa kia, con bò có một vai trò quan trọng. Trước hết,
bò chỉ ăn cỏ và không đụng đến, không tranh giành nguồn thực phẩm của con
người. Thứ đến, bò là một sức kéo quan trọng và phân bò được dùng trong
xây dựng, và dùng đốt để sưởi ấm. Do đó việc giết bò sẽ đưa đến nhiều vấn
đề kinh tế cho một xã hội nông nghiệp nghèo nàn như Ấn Độ. Hay như ở các
dân tộc Tây nguyên, việc chặt cây đầu nguồn đã đem đến lũ lụt, mất mùa mà
kinh nghiệm dân gian đã truyền lại qua những cấm kỵ.
Lối tiếp cận sinh thái học văn hóa cho ta một lối giải thích mới mẻ đáng
quan tâm. Nó nhấn mạnh tương quan giữa môi trường thiên nhiên và văn
hóa, đồng thời cho thấy nhiều khuôn mẫu văn hóa của con người có liên quan
đến những điều kiện môi trường hạn chế mà con người gặp phải. Nhưng hạn
chế của lối tiếp cận này là có khuynh hướng cho rằng môi trường thiên nhiên
quy định các khuôn mẫu văn hóa. Thật ra thiên nhiên có ảnh hưởng đến văn
hóa của con người, nhưng ngược lại văn hóa cũng tác động lên thiên nhiên.
Hơn thế nữa một số nét văn hóa có liên quan đến môi trường nhưng cũng có
những nét văn hóa không có tương quan gì với môi trường.
2. Lý thuyết sinh vật học xã hội (sociobiology):
Xu hướng muốn giải thích các hiện tượng xã hội bởi những nguyên
nhân sinh vật học đã có từ lâu. Nhưng một quan điểm gần đây là của Edward
O. Wilson thuộc đại học Harvard, ông đã có những nỗ lực đi tìm quan hệ giữa
những yếu tố di truyền và các hành vi xã hội của loài vật. Nhưng khi ứng dụng
vào xã hội của con người, lối giải thích sinh vật học xã hội chịu sự phê phán
từ cả hai phía, những nhà khoa học xã hội cũng như những nhà sinh vật học.
Nhưng cũng có một số nhà xã hội học ủng hộ giả thiết sinh vật học xã hội với
lập luận sự cấu tạo về gen có thể giải thích một vài khía cạnh ứng xử xã hội
của con người. Lấy thí dụ lối giải thích sinh vật học xã hội về cấm kỵ loạn
luân. Thông thường các nhà xã hội học giải thích cấm kỵ loạn luân là một
chuẩn mực văn hóa để duy trì định chế xã hội. Nhưng đối với nhà sinh vật
học xã hội, sự giao phối thân thuộc (inbreeding) đưa đến bệnh tật cho các thế
hệ tiếp theo, do vậy qua nhiều thế kỷ kinh nghiệm con người đã tạo cho mình
một bản năng di truyền đặt cơ sở trên gen đó là việc tránh loạn luân. Một số
nhà sinh vật học xã hội cũng cho rằng một số hành vi bạo lực, đồng tính luyến
ái… cũng có tính di truyền.
Thật ra sự cấu tạo các gen có đặt ra một số hạn chế cho hoạt động con
người và có thể có ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ, nhưng hiện chưa
có luận cứ thật sự nào chứng minh việc chương trình hóa các gen tạo ra các
hình thái ứng xử có tính quy phạm nơi con người. Dầu sao tinh thần khoa học
đòi hỏi chúng ta không được cự tuyệt giả thiết này, và đây vẫn còn là lãnh
vực cần tiếp tục nghiên cứu.
3. Lý thuyết cơ cấu–chức năng:
Lý thuyết này dựa trên một quan điểm chủ trương văn hóa cũng là một
trong các tiểu hệ thống (sous–système) cấu thành xã hội. Tiểu hệ thống này
tương đối ổn định bao gồm các thành phần có tương quan, bao gồm các yếu
tố văn hóa đáp ứng một số nhu cầu nào đó của xã hội. Trong tiểu hệ thống
trên mỗi yếu tố đều có chức năng trong sự vận hành và tồn tại của văn hóa
như là một toàn thể. Chính qua quá trình xã hội hóa mà cá nhân con người
hấp thụ những lối ứng xử, chuẩn mực và giá trị của một nền văn hóa. Quan
niệm xã hội ảnh hưởng đến nếp nghĩ và ứng xử của cá nhân đã có từ lâu
trong lịch sử: Platon, Hippocrate, Herodote đều có đề cập đến tính khí của
một số dân tộc. Ngày nay quan điểm của A. Kardiner về cái mà ông gọi là
“nhân cách cơ sở” – được xem như là cấu hình tâm lý, một mẫu số chung
trong lối sống của các cá nhân trong một xã hội – cũng chỉ là sự tiếp nối quan
điểm trên.
Biến chuyển văn hóa được xem là hậu quả của quá trình quãng bá văn
hóa (cultural diffusion), phát minh (invenion) và khám phá (discovery) trong
văn hóa. Một cách tổng quát lối tiếp cận này nhấn mạnh sự ổn định hơn là
biến chuyển xã hội. Lý thuyết này cũng xem các giá trị như là cơ sở của văn
hóa. Các yếu tố văn hóa thúc đẩy sự hội nhập xã hội nhưng những đòi hỏi
tuân thủ của nền văn hóa cũng gây nên những căng thẳng giữa các thành
viên trong xã hội. Lối tiếp cận này còn cho rằng, mặc dù có các khác biệt, mọi
nền văn hóa đều có các nét chung, bởi lẽ con người đều có các nhu cầu cơ
bản chung. Thuật ngữ các nét văn hóa phổ quát (cultural universals) ám chỉ
các nét văn hóa được tìm thấy ở mọi nền văn hóa trên thế giới. George
Murdock đã tiến hành một cuộc khảo sát đối chiếu hơn 100 nền văn hóa khác
nhau và tìm ra hơn một chục nét chung cho tất cả các nền văn hóa đó, như
gia đình, các tang lễ, các chuyện khôi hài…
C. Lévy– Strauss cũng quan niệm văn hóa là tập hợp những quy tắc
chung cho mọi nền văn hóa. Quan điểm này có ảnh hưởng quan trọng đối với
lối tiếp cận cấu trúc hiện đại, khi các tác giả thuộc lối tiếp cận này đi tìm
những cấu trúc, những hằng tố trong ngôn ngữ, trong hệ thống thân tộc, trong
việc trao đổi sản phẩm, trong lãnh vực huyền thoại…Trong các lãnh vực trên,
người nghiên cứu tìm kiếm xuyên qua các hiện tượng quan sát được những
tương quan, những lô gích để làm bật lên cái cơ cấu ẩn tàng. Ở đây cần phân
biệt cơ cấu tổng thể của một lãnh vực (ví như lãnh vực huyền thoại, hệ thống
thân tộc…) và toàn bộ những cơ cấu của các lãnh vực chuyên biệt – chúng
kết hợp với nhau để hình thành nền văn hóa. Mặt khác, trong tác phẩm
Anthropologie structurale (Nhân học cấu trúc)(1958), C. Lévi-Strauss đã đưa
ra một định nghĩa về văn hóa như là “hệ thống những cách biệt có ý nghĩa”.
Như vậy sẽ có nhiều cấp độ hệ thống văn hóa khác nhau: hệ thống văn hóa
toàn cầu, đại lục, dân tộc, miền, địa phương… gia đình, tôn giáo, nghề
nghiệp, chính trị…
Điểm mạnh của lối tiếp cận cơ cấu chức năng là giải thích được các
nền văn hóa được tổ chức như thế nào để đáp ứng những nhu cầu của con
người. Các nền văn hóa có những điểm chung, bởi lẽ chúng đều được tạo ra
bởi con người, nhưng mặt khác, có nhiều phương cách khác nhau để thỏa
mãn những nhu cầu của con người, do đó các nền văn hóa trên thế giới có
những khác biệt. Điểm hạn chế của lối tiếp cận nghiên cứu này là có khuynh
hướng nhấn mạnh những giá trị đang thống trị trong xã hội và ít chú trọng đến
các dị biệt văn hóa trong xã hội, nhất là những sự khác biệt văn hóa do những
bất bình đẳng xã hội. Cuối cùng, lối tiếp cận này có khuynh hướng xem văn
hóa như một hệ thống tương đối tĩnh và ít chú trọng đến việc giải thích biến
chuyển xã hội.
4. Lý thuyết mâu thuẫn xã hội:
Lối tiếp cận mâu thuẫn xã hội xem lãnh vực văn hoá như là địa bàn
tranh chấp, là nơi thể hiện những mâu thuẫn xã hội do sự bất bình đẳng trong
các tầng lớp xã hội gây ra. Lối tiếp cận này cho thấy văn hóa trong một xã hội
đôi lúc chỉ phục vụ nhu cầu của một tầng lớp xã hội nhất định. P. Bourdieu,
trong tác phẩm “Tình yêu nghệ thuật” (L’amour de l’art), đã phân tích những
bất bình đẳng văn hóa giữa các tầng lớp xã hội theo tương quan của họ đối
với những sản phẩm văn hóa.
Thay vì chấp nhận những giá trị có sẵn, lối tiếp cận này đặt câu hỏi tại
sao những giá trị đó tồn tại, ai đã sản sinh chúng, những giá trị đó củng cố sự
bất bình đẳng như thế nào. Các nhà xã hội học mác xít còn cho rằng các yếu
tố của nền văn hóa mang đặc tính của hệ thống sản xuất kinh tế. Ví như
những giá trị mà xã hội Mỹ đề cao như cá nhân chủ nghĩa, tinh thần cạnh
tranh phản ánh những giá trị của một xã hội tư bản chủ nghĩa. Những bất
bình đẳng xã hội đưa đến những mâu thuẫn căng thẳng rồi sẽ dẫn đến những
biến chuyển xa hội, chúng gặp sự chống đối của những người đang hưởng
lợi từ việc duy trì nguyên trạng (status quo).
Tương quan giữa văn hóa và các định chế xã hội khác:
vh kt
ct
Loi tiep can chuc nang Loi tiep can mac-xit
htt
QHSXct/tg/gd
(vh = văn hóa; kt = kinh tế, ct = chính trị; qhsx = quan hệ sản xuất; tg =
tôn giáo; gd = giáo dục; htt = hệ tư tưởng…)
Điểm mạnh của lối tiếp cận này là nó vạch ra rằng hệ thống văn hóa
khó đáp ứng một cách bình đẳng các nhu cầu của mọi tầng lớp xã hội. Nó
cũng cho thấy những yếu tố văn hóa được sử dụng để duy trì sự thống trị của
một thiểu số lên những người khác. Hậu quả của sự bất bình đẳng này sẽ
sản sinh ra các lực lượng đưa đến biến chuyển xã hội. Nhưng lối tiếp cận này
có xu hướng quá nhấn mạnh sự khác biệt trong văn hóa và ít quan tâm đến
việc những khuôn mẫu văn hóa cũng góp phần vào việc hội nhập xã hội.
5. Nghiên cứu ký hiệu học về văn hóa:
Ký hiệu học (semiotics) là một môn học về các ký hiệu (xuất phát từ từ
nguyên tiếng Hy lạp semeion, có nghĩa là ký hiệu). Ký hiệu học quan niệm
văn hóa như là một mạng lưới truyền thông rộng lớn, qua đó các thông điệp
(bằng lời hoặc không bằng lời) được chuyển tải qua những con đường phức
tạp và liên kết với nhau. Toàn bộ mạng lưới này tạo ra những hệ thống ý
nghĩa.
Trường phái ký hiệu học có nguồn gốc rất đa dạng với các tên tuổi như
Ferdinand de Saussure, Roman Jakobson, Câu lạc bộ ngôn ngữ học Praha.
Dĩ nhiên cũng phải kể đến C. Lévi– Srauss, vì cơ cấu luận vẫn thường được
xem là ông cố của trường phái ký hiệu học. Hiện nay trong nghiên cứu ký
hiệu học về văn hóa nổi lên ba khuynh hướng chính: ở Pháp với R. Barthes,
A.J. Greimas, J. Kristeva…chịu ảnh hưởng của F. de Saussure, Lévi– Stauss
và lý thuyết Mác–xít; ở Mỹ với C. Geertz chịu tác động tư tưởng của M.
Weber và T. Parsons và khuynh hướng thứ ba thường được gọi là trường
phái Matxcơva–Tartu chịu ảnh hưởng Câu lạc bộ ngôn ngữ học Praha, V.
Propp và V. Shklovskij.
Mặc dù giữa các trường phái ký hiệu học có những vị biệt, nhưng nói
chung khi phân tích văn hóa họ đều cố gắng làm bật lên các cơ cấu ý nghĩa
trong các hiện tượng văn hóa. Cơ cấu ý nghĩa này không phải được khám
phá bằng trực giác, bằng các lối giải thích thông thường mà bằng cách giải
mã những ký hiệu của nền văn hóa. Trong quan điểm của ký hiệu học, một ký
hiệu tự nó không mang ý nghĩa mà nó chỉ có ý nghĩa trong một bối cảnh, khi
được nhìn dưới góc độ nào đó. Do đó khi đứng trước một nền văn hóa, phải
xác định góc độ tìm hiểu văn hóa đó: từ bên trong (emic) hay từ bên ngoài
(etic), góc độ của người nói hay người nghe, sự mô tả có tính cách nội truyền
hay ngoại truyền.
Bước kế tiếp trong phân tích ký hiệu học về văn hóa là xác định các nét
văn hóa – các nhà ký hiệu học thường khái niệm “văn bản văn hóa” –. Nét
văn hóa có thể là một ký hiệu duy nhất nhưng thông thường là một chuỗi các
ký hiệu liên kết với nhau. Một nét văn hóa có thể là một bộ phận của một văn
bản văn hóa lớn hơn. Việc phân tích ký hiệu học chủ yếu nhằm đọc “văn
bản”, có nghĩa là xác định các ký hiệu, các mã liên kết các ký hiệu và các
thông điệp được chuyển tải. Một số văn bản rất khó “đọc” bởi chỉ là một ký
hiệu duy nhất hay khó phân ra các đơn vị phân tích – ví như một vũ điệu, một
số văn bản khác dễ phân tích hơn – ví như một câu chuyện cổ tích với các
nhân vật, các vai trò. Cần lưu ý khái niệm văn bản ở đây có thể bằng lời hay
không bằng lời, thuộc lãnh vực thị giác, thính giác, có thể đơn giản hay phức
tạp.
Trong việc phân tích văn hóa, các nhà ký hiệu học thường đặt trọng
tâm nghiên cứu cái bản thể và biến chuyển của một nền văn hóa.
Việc phối hợp các lối tiếp cận trên trong việc nghiên cứu sẽ giúp chúng
ta hiểu hơn tính phức tạp của hiện tượng văn hóa.
Chương 4. QUÁ TRÌNH XÃ HỘI HÓA VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ XÃ HỘIBản chất con người không phải là cái trừu tượng vốn có của một cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
của tất cả những quan hệ xã hội.
K. Marx
I. QÚA TRÌNH XÃ HỘI HOÁ Khái niệm xã hội hóa (socialization) đã được các nhà xã hội học sử
dụng để mô tả những phương cách mà con người học hỏi tuân thủ theo các
chuẩn mực, các giá trị, các vai trò mà xã hội đã đề ra. Và chính quá trình xã
hội hóa này tạo cơ sở cho việc hình thành nhân cách con người (personality).
Nhân cách là một hệ thống có tổ chức, là toàn bộ suy nghĩ, cảm nghĩ, ứng xử
của con người và được hình thành trên nền tảng những giá trị và những
chuẩn mực nhất định. Điều này có nghĩa, nhân cách bao gồm những điều
chúng ta suy nghĩ về thế giới quanh ta, về chính chúng ta, những điều chúng
ta cảm nhận, phản ứng trước các tình huống, phản ứng đối với người khác,
và những hành vi ứng xử của chúng ta trong đời sống hằng ngày. Chỉ qua
quá trình phát triển nhân cách mà con người trở thành những cá nhân đặc
thù, trong khi với tư cách là một thành viên trong xã hội chúng ta cùng chia sẻ
với những người khác một nền văn hóa chung.
Một trong những vấn đề cơ bản gây tranh luận trong việc nghiên cứu
quá trình xã hội hóa của con người là trong chừng mực nào sự phát triển của
con người tùy thuộc các yếu tố sinh vật học và trong chừng mực nào nó tùy
thuộc quá trình học hỏi của chúng ta.
A. Con người với tư cách là một sinh vật xã hội:
Trước vấn đề tranh luận trên, có hai lập trường cực đoan. Lý thuyết
sinh vật học xã hội chủ trương rằng hành vi của con người là kết quả, là sản
phẩm của những yếu tố di truyền và do sự cấu tạo về gen. Như cách giải
thích của Cesare Lombroso về vấn đề tội phạm, hay như cách giải thích
“phân biệt chủng tộc” - lập luận một chủng tộc nào đó bẩm sinh là thông minh,
khỏe mạnh, tài ba hơn chủng tộc khác. Trong khi lý thuyết hành vi
(behaviorism) khẳng định mọi hành vi đều có thể học hỏi, tập luyện được. Với
lý thuyết phản xạ có điều kiện, nhà tâm lý học Nga Ivan Pavlov chứng minh
rằng ngay với cả những hành vi được xem là có tính bản năng nhất cũng có
thể tái tạo lại, cũng có thể điều kiện hóa qua quá trình học hỏi. Lối tiếp cận
này được J.B. Watson tiếp tục, qua các thử nghiệm của ông, ông cho thấy
khả năng có thể tạo điều kiện để quy định hành vi theo hướng mong muốn.
Và sau này B.F. Skinner bằng kỹ thuật “tạo điều kiện tác vụ” (operant
conditioning) cho thấy một hành vi thoạt đầu không nằm trong mô thức “kích
thích – phản ứng” (stimulus – respónse) cũng có thể tạo ra trong khuôn khổ
mô thức này. Các thử nghiệm của lối tiếp cận hành vi nhằm chỉ ra rằng các
yếu tố sinh lý giữ vai trò rất nhỏ trong quá trình xã hội hóa.
Rõ ràng là trong quá trình phát triển của cá nhân, các yếu tố sinh lý có
ảnh hưởng nhất định, nhưng chỉ những yếu tố sinh lý thôi không đủ để con
người có thể thành người, để quá trình xã hội hóa có thể diễn ra. Ngay với cả
động vật, thử nghiệm của Harry Harlow cho thấy những con khỉ con được
nuôi trong điều kiện không có khỉ mẹ thì chúng không biết hành động thế nào
khi gặp đồng loại và thường có những hành vi hung dữ. Malson (1972) đã
nghiên cứu lại 53 trường hợp của các trẻ sói (feral children) đã được tìm thấy
trong khoảng thời gian 1944-1961. Ông nhận thấy, sau này mặc dù trải qua
quá trình tập luyện, nhưng hầu hết các em không thể bước đi hay sử dụng
ngôn ngữ như con người. Việc nghiên cứu trường hợp các trẻ bị cô lập trong
một thời gian dài với thế giới con người trong thời thơ ấu, cho thấy các em
này thường có sự phát triển không bình thường về mặt tâm lý và xã hội. Các
cuộc nghiên cứu về trẻ em trong các cô nhi viện – như của Goldfarb, Rutter,
Spitz – cho thấy rằng việc phát triển bình thường của trẻ em không chỉ đòi hỏi
sự hiện diện của con người mà còn cần cả sự quan tâm và tình thương của
người lớn. Những trẻ lớn lên trong cô nhi viện thường có những vấn đề về
phát triển tâm lý, và chậm phát triển về mặt nhận thức hơn các em được nuôi
dưỡng trong gia đình.
B. Các lý thuyết về sự phát triển nhân cách và xã hội hóa:
Xã hội hóa là một quá trình rất phức tạp nên có nhiều lối giải thích khác
nhau về quá trình này.
Sigmund Freud (1856–1939), tin rằng các yếu tố sinh lý đóng một vai
trò quan trọng trong sự hình thành nhân cách con người, mặc dù ông không
chấp nhận quan điểm cho rằng hành vi của con người chỉ là sự phản ánh
hoạt động của những bản năng sinh lý. Theo Freud, việc hình thành nhân
cách của con người do sự kết hợp của ba thành tố: bản năng xung động (id)
thể hiện những đòi hỏi cơ bản của con người, nó tồn tại trong vô thức và luôn
luôn đòi hỏi được thỏa mãn ngay. Nhưng không phải bao giờ xã hội cũng cho
phép cá nhân thỏa mãn ngay những nhu cầu vật chất của mình, do đó cá
nhân dần dần thực tế hơn. Cái tôi (ego) – hay là bản ngã – tiêu biểu cho ý
thức của con người trong nỗ lực quân bình những khuynh hướng bẩm sinh
luôn tìm kiếm việc được thỏa mãn và những đòi hỏi thực tiễn của xã hội, do
đó ego chính là khả năng nhận thức ra những giới hạn của chúng ta: chúng ta
không thể có tất cả những gì chúng ta muốn. Cuối cùng là siêu ngã
(superego), nó là sự hiện hữu của văn hóa trong cá nhân; của những chuẩn
mực, những giá trị đã được nội tâm hóa và là những đòi hỏi luân lý của nền
văn hóa. Qua quá trình phát triển như vậy đứa bé hiểu được rằng thế giới
không chỉ có khoái lạc mà còn có cấm đoán, còn có đau khổ và thế giới còn
bao gồm những quy tắc luân lý nữa. Sự sung sướng, khoái lạc của con người
không chỉ thể hiện về mặt vật chất mà cả mặt luân lý, tinh thần.
Theo Freud, khi bản ngã điều hợp được xung đột giữa bản năng và
siêu ngã, con người phát triển nhân cách một cách quân bình. Trong trường
hợp ngược lại, có thể gây nên những xáo trộn trong nhân cách. Freud nhấn
mạnh thời kỳ thơ ấu là một thời kỳ quan trọng trong việc hình thành nhân
cách của cá nhân, và những bất quân bình trong giai đoạn này có thể để lại
những dấu ấn trong tiềm thức của con người. Freud gọi nỗ lực của xã hội
nhằm kiểm soát những xu hướng của con người là sự áp chế (repression).
Áp chế này nhằm buộc cá nhân phải đi đến những thỏa hiệp nếu muốn được
thỏa mãn những nhu cầu. Các thỏa hiệp này hướng năng lực con người qua
những hình thức biểu hiện được xã hội chấp nhận. Và đây chính là quá trình
thăng hoa (sublimation), là quá trình chuyển hóa những xu hướng vị kỷ trở
thành những hình thức được xã hội chấp nhận.
Quan điểm của Freud đã chịu nhiều sự phê bình, nhất là quan điểm
quá nhấn mạnh khía cạnh áp chế tình dục, sự ích kỷ cá nhân và cái nhìn thiên
lệch của ông về phụ nữ. Nhưng những quan niệm của ông về xã hội hóa, về
việc nội tâm hóa những chuẩn mực xã hội, về tầm quan trọng của giai đoạn
phát triển tâm lý thời thơ ấu trong việc hình thành nhân cách con người, vẫn
còn là những đóng góp quan trọng cho nhiều bộ môn khoa học xã hội và khoa
học nhân văn.
Sau này, Erik Erikson, một học trò của S. Freud đã bổ sung thêm cho lý
thuyết của thầy mình khi nhấn mạnh hơn đến quá trình học hỏi trong việc hình
thành nhân cách con người. Ông cũng cho rằng quá trình hình thành cái tôi là
một quá trình đồng nhất hóa (identification). Đây là một quá trình xã hội khi cá
nhân chọn lựa và cố bắt chước các khuôn mẫu hành vi của người lớn. Quá
trình này kéo dài suốt cả cuộc đời, mặc dù những khía cạnh cơ bản nhất của
nó được hình thành từ thời thơ ấu. Kết quả của quá trình này là sự hình thành
một căn tính, một bản thể (identity) của con người – đó là nhận thức về cái tôi
trong tương quan với xã hội.
Ngược với quan điểm của Watson khi ông chủ trương có thể sử dụng
cùng những phạm trù để nghiên cứu và hiểu được những hành vi của con vật
và của con người, G. H. Mead phê bình Watson đã bỏ quên những quá trình
tâm lý, những yếu tố tinh thần trong nghiên cứu hành vi. Theo Mead cái cơ
bản của tồn tại của con người là cái tôi (self), đó là nhận thức có ý thức của
cá nhân về mình như là một thực thể riêng biệt trong xã hội. Nhưng cái tôi
không tách rời với xã hội, và mối tương quan này thể hiện qua nhiều bước.
Trước hết, Mead khẳng định rằng cái tôi hình thành như là kết quả của kinh
nghiệm về xã hội. Cái tôi – khác với thể xác của cá nhân – không đặt trên cơ
sở sinh lý, nó cũng không phải là biểu hiện của những xu hướng sinh lý như
Freud chủ trương, cũng không do sự trưởng thành về mặt cơ thể như quan
niệm của Piaget, nhưng do kinh nghiệm của cá nhân trong tương tác với kẻ
khác. Thứ đến, kinh nghiệm của con người về xã hội có được là do sự trao
đổi biểu tượng – biểu tượng là những ý nghĩa mà con người cùng chia sẻ
trong tương tác xã hội. Đây chính là cái làm cho con người khác con vật. Lấy
thí dụ, bằng những cách kích thích đặc biệt, ta có thể huấn luyện cho con chó
có những hành vi phức tạp, nhưng con chó không thể hiểu được ý nghĩa của
các hành vi trên. Động vật chỉ có thể phản ứng trước một hành vi bên ngoài,
và chỉ có con người mới có thể hiểu và phản ứng lại những suy nghĩ trong
đầu óc của người khác. Cuối cùng, với khả năng hiểu được tư tưởng của
người khác, con người có khả năng đặt mình vào vị trí và quan điểm của
người khác. Qua tương tác xã hội và với việc sử dụng các biểu tượng, chúng
ta có thể hình dung về mình như là người khác đang nhìn, đang quan sát
chúng ta. Mead mô tả quá trình này là “đóng vai trò của người khác”. Cùng
một quan điểm đó C. H. Cooley một đồng nghiệp của Mead, cho rằng xã hội
như là một gương soi qua đó chúng ta có thể hình dung về chính mình qua
phản ứng của người khác đối với chúng ta. Cooley dùng thật ngữ “cái tôi nhìn
qua gương” (looking–glass self) để chỉ khái niệm về cái tôi hình thành từ phản
ứng của người khác. Như vậy cái tôi vừa là chủ thể vừa là đối tượng: chủ thể
vì là tác nhân của hành động và là đối tượng khi cái tôi có thể nhìn chính
mình qua phản ứng của người khác.
Theo Mead, khi còn nhỏ đứa bé chỉ biết bắt chước, trong trường hợp
này nói một cách chính xác cái tôi chưa hình thành. Chỉ khi khả năng sử dụng
biểu tượng và các ngôn ngữ khác phát triển, cái tôi mới bắt đầu hình thành,
nhất là khi đứa trẻ qua trò chơi diễn kịch của mình có thể đóng các vai trò của
những người gần gũi thân quen và quan trọng đối với chúng (significant
others) như vai trò làm mẹ, làm cha, anh chị, y tá, bác sĩ…Có nghĩa là chúng
đã nhận ra các khuôn mẫu hành vi khác trong xã hội và có thể nhập tâm các
khuôn mẫu này trong ứng xử của chúng. Giai đoạn kế tiếp, với kinh nghiệm
xã hội được tích lũy, đứa bé có thể đồng thời đóng vai của nhiều người khác.
Và giai đoạn cuối cùng của quá trình phát triển cái tôi là khi đứa bé có thể tự
phản ứng một cách tự nhiên theo đòi hỏi của xã hội, có nghĩa là chúng nhận
ra rằng chúng sống trong một xã hội có những giá trị, những chuẩn mực mà
mọi người cùng chia sẻ (generalized others). Đặc điểm của Mead, và của các
tác giả thuộc lối tiếp cận tương tác biểu tượng, là chấp nhận quan điểm của
trường phái chức năng qui nhân cách con người bị quy định bởi xã hội, hay
nói cách khác quá trình xã hội hóa chỉ là quá trình cá nhân nội tâm hóa nền
văn hóa của xã hội. Theo G.H. Mead, xã hội và cá nhân tác động qua lại trong
quá trình xã hội hóa, nói cách khác con người cũng chủ động và sáng tạo
trong quá trình xã hội hóa của chính mình.
Theo Jean Piaget (1896–1980), quá trình nhận thức của con người
phát triển qua bốn giai đoạn. Giai đoạn cảm giác (sensorimotor stage),
thường tương ứng với hai năm đầu sau khi đứa bé chào đời, là giai đoạn mà
thế giới bên ngoài được kinh nghiệm qua giác quan, qua sự tiếp xúc vật chất.
Giai đoạn tiền thao tác (preoperational stage), hay giai đoạn tiền lý luận, là
giai đoạn con người bắt đầu có thể sử dụng biểu tượng, kể cả ngôn ngữ. Giai
đoạn này kéo dài từ hai tuổi đến bảy tuổi. Trong giai đoạn này, đứa bé phân
biệt được tư tưởng và thực tế khách quan, chúng không còn tin vào các giấc
mơ, nhưng chúng vẫn cho mình là trung tâm khi nhìn thế giới chung quanh,
và vẫn chưa trừu tượng hóa sự vật bằng những khái niệm như kích thước,
quy mô, trọng lượng, dung tích…Giai đoạn thao tác cụ thể (concrete
operational stage), hay là giai đoạn lý luận cụ thể, kéo dài từ 7 đến l1 tuổi, là
giai đoạn bắt đầu lý luận, nhưng dựa vào các tình huống cụ thể, chứ không lý
luận một cách trừu tượng. Trong giai đoạn này, chúng cũng bỏ đi cái nhìn vị
kỷ, và biết đặt mình vào vị trí người khác. Và cuối cùng, giai đoạn lý luận hình
thức (formal operational stage), là giai đoạn có những tư tưởng trừu tượng
cao và có thể tưởng tượng ra các khả năng của thực tế. Giai đoạn này bắt
đầu từ tuổi 12.
Việc phát triển qua các giai đoạn mà Piaget đưa ra, thật ra cũng tùy
thuộc việc phát triển riêng biệt của từng nền văn hóa, của tình trạng khoa học
kỹ thuật và tùy thuộc sự phát triển của từng cá nhân.
Lawrence Kohlberg tiếp tục lối tiếp cận của Piaget, nhưng ứng dụng
vào việc tìm hiểu sự phát triển về mặt đạo đức. Ông đã phân ra các giai đoạn
tiền quy ước, là giai đoạn hành vi đạo đức của cá nhân chịu sự chi phối của
tiêu chuẩn thưởng phạt; giai đoạn quy ước là giai đoạn hiểu được sự đúng
sai theo luật lệ luật pháp; và giai đoạn hậu quy ước là giai đoạn cá nhân hiểu
được sự tương đối, phân biệt được luật pháp xã hội và các nguyên tắc đạo
đức. Lý thuyết của Kohlberg bị phê phán vì không chú trọng đến sự khác biệt
giữa các nền văn hóa, sự khác biệt về giới tính. Người ta cũng nhận thấy,
ngay ở các xã hội đã phát triển, nhiều người trưởng thành cũng chưa đạt tới
giai đoạn hậu quy ước trong nhận thức đạo đức như L. Kohlberg đã nêu ra.
Nghiên cứu sự khác biệt về nhận thức đạo đức theo giới tính, Carol
Gilligan nhận thấy nam giới phán đoán cái gì là đúng là sai thường dựa trên
quan điểm công bằng, đặt cơ sở trên những quy định chính thức, những
nguyên tắc trừu tượng trong khi nữ giới dựa trên trách nhiệm, sự chăm sóc
và phán đoán một tình huống từ góc độ quan hệ cá nhân và dựa trên sự trung
thành. Carol Gilligan giải thích sự khác biệt trên là do đời sống của nam giới
thường bị chi phối bởi những nguyên tắc khách quan của nơi làm việc, trong
khi cuộc sống của người phụ nữ thường gắn bó với vai trò làm vợ, làm mẹ và
làm người chăm sóc. Và C. Gilligan đặt câu hỏi có nên lấy những chuẩn mực
của nam giới để đánh giá mọi người không?
Công trình nghiên cứu của Carol Gilligan cho ta hiểu hơn về sự phát
triển của con người và lưu tâm đến khía cạnh giới khi thực hiện và đánh giá
một công trình nghiên cứu. Gilligan cho rằng những khác biệt của những
khuôn mẫu trên phản ánh điều kiện hóa về mặt văn hóa. Nếu vậy, với việc
phụ nữ càng ngày càng tham gia lao động ngoài xã hội, phán đoán đạo đức
giữa nam giới và nữ giới sẽ càng ngày càng có nhiều tương đồng.
C. Các giai đoạn và môi trường của quá trình xã hội hóa:
Nói chung, quá trình xã hội hóa diễn ra trong suốt cuộc đời của con
người, nhưng chúng ta có thể phân ra ba giai đoạn chính. Xã hội hóa lần thứ
nhất diễn ra trong gia đình kể từ khi đứa bé sơ sinh được dạy dỗ để trở thành
một con người xã hội. Xã hội hóa lần hai khi đứa trẻ rời gia đình để đi học,
chịu sự tác động của học đường và nhóm bạn thân cùng tuổi (peer group). Và
xã hội hóa khi thành niên là quá trình qua đó cá nhân học những chuẩn mực
liên quan đến những vị trí xã hội mới, như vị trí của người chồng, người vợ,
của nhà báo, của nhà chính trị hay vị trí của người ông, của bà nội, bà
ngoại…
Trong các xã hội truyền thống, quá trình xã hội hóa chủ yếu xảy ra
trong gia đình, do đó tạo nên những nhân cách thuần nhất, nhưng trong xã
hội hiện đại nhiều nhân tố đóng góp vào quá trình xã hội hóa của cá nhân.
Gia đình là bối cảnh xã hội quan trọng nhất qua đó diễn ra quá trình xã
hội hóa của cá nhân. Gia đình chính là cái xã hội thu nhỏ mà lần đầu tiên cá
nhân được tiếp xúc, là nhóm sơ cấp đầu tiên góp phần hình thành nhân cách
của cá nhân. Chính thông qua gia đình mà cá nhân được học hỏi các chuẩn
mực, các giá trị mà xã hội đề cao. Mặc dù gia đình không hoàn toàn quyết
định sự phát triển của cá nhân, nhưng những nhân tố quan trọng nhất trong
nhân cách cá nhân như nhận thức về chính mình, thái độ, sở thích, tín niệm,
mục đích của cuộc sống…đại bộ phận đều được hình thành trong khuôn khổ
gia đình. Trẻ em không những được cha mẹ dạy bảo, mà chính bầu khí trong
gia đình, chính môi trường sống của gia đình để lại những dấu ấn sâu sắc lên
nhân cách trẻ, tác động đến cái nhìn về chính mình, về thế giới xung quanh
của trẻ em. Cũng chính trong gia đình mà trẻ em học hỏi vai trò về giới tính,
và sở đắc những vị trí, những vai trò xã hội do gia đình để lại. Đó là những vị
trí, vai trò chỉ định có liên quan đến giai cấp, tầng lớp xã hội, chủng tộc, tôn
giáo…Cách nuôi trẻ, dạy trẻ cũng tùy thuộc các nền văn hóa, tùy thuộc tầng
lớp xã hội. Như nghiên cứu của Melvin Kohn cho thấy các gia đình thuộc tầng
lớp lao động chân tay ở Mỹ có xu hướng dạy cho con những tính cách như
tuân thủ, kỷ luật, trong khi gia đình trung lưu dạy cho con cái tính khoan dung,
sáng tạo.
Rời gia đình, môi trường xã hội mà hầu hết các trẻ em tiếp xúc là
trường học. Trường học không chỉ dạy cho học sinh các kỹ năng để sau này
đảm trách các vai trò trong xã hội, mà trường học truyền đạt những giá trị của
xã hội, đề cao lối sống chủ đạo của xã hội. Đây cũng là nơi các em lần đầu
tiên có kinh nghiệm về một tổ chức xã hội, về việc đánh giá con người không
phải trên quan hệ cá nhân, mà trên những tiêu chuẩn phổ quát hơn – ví như
tài năng trong việc học tập. Qua việc dạy và chọn các môn học, nhà trường
cũng củng cố những quan niệm về giới tính. Nhà trường như vậy thực hiện
chức năng hội nhập xã hội – như quan điểm của lối tiếp cận chức năng, và do
đó cũng củng cố việc duy trì nguyên trạng, như nhận định của lối tiếp cận
mâu thuẫn xã hội.
Khi bắt đầu rời khỏi gia đình, trẻ có thể tìm thấy, tiếp xúc những nhóm
trẻ cùng tuổi ở khu phố hay ở trường học. Nhóm bạn thân cùng tuổi là một
môi trường xã hội đặc biệt đối với trẻ em, bởi lẽ, khác với môi trường gia đình
và trường học, đây là lần đầu tiên các em được độc lập, thoát khỏi sự kiểm
soát và áp đặt của người lớn, do đó các em thường trao đổi những điều mà
các em thường không muốn chia sẻ với người lớn, ví như mode quần áo, sở
thích về âm nhạc, giải trí, những tò mò về tình dục…Do sự biến đổi nhanh
của xã hội nên những mối quan tâm của cha mẹ và con cái rất khác nhau,
người ta đã nói đến khoảng cách giữa các thế hệ. Ngày nay áp lực của nhóm
bạn thân cùng tuổi rất mạnh và trẻ em thường tuân thủ theo chuẩn mực của
nhóm để được chấp nhận. Tuy nhiên, nhóm bạn thân cùng tuổi thường chỉ có
ảnh hưởng lên những nguyện vọng trước mắt và ngắn hạn của thanh thiếu
niên, trong khi gia đình vẫn còn có ảnh hưởng lên các nguyện vọng, ước mơ
về lâu dài của lớp trẻ.
Ngày nay, với sự phát triển khoa học kỹ thuật, các phương tiện truyền
thông đại chúng có ảnh hưởng rất lớn lên ứng xử của thanh thiếu niên, nhất
là vô tuyến truyền hình. Người ta tính trung bình ở Mỹ mỗi gia đình mở ti vi
trung bình hơn bảy giờ mỗi ngày. Các trẻ chưa đến tuổi đi học mỗi ngày ngồi
nhiều tiếng đồng hồ trước vô tuyến truyền hình, một thứ “vú nuôi điện tử”
Nhiều thanh thiếu niên dành nhiều thì giờ xem ti vi hơn thời gian dành trao đổi
với cha mẹ. Dĩ nhiên, vô tuyên truyền hình đem lại nhiều lợi ích trong việc giải
trí, giáo dục; nó cũng đem đến nhiều kiến thức về các nền văn hóa, về các
dân tộc, cũng gia tăng sự quan tâm của con người đến những vấn đề xã hội
trên thế giới. Nhưng mặt khác, các nhà xã hội học cho thấy có mối tương
quan giữa những chương trình ti vi đề cao bạo lực với những hành vi bạo lực
của người xem. Mặt khác, các phương tiện truyền thông đại chúng thường
sống nhờ quảng cáo, nhưng quảng cáo nhiều khi cũng tạo ra các nhu cầu giả
tạo và chúng điều kiện hóa nếp sống, nếp nghĩ của con người.
Môi trường làm việc, những đoàn thể chính trị và xã hội mà cá nhân
tham gia cũng là những nhân tố ảnh hưởng quá trình xã hội hóa.
Trong các môi trường trên cần phân biệt các môi trường sơ cấp và thứ
cấp và cũng phải thấy các môi trường trên đôi lúc cộng tác, đôi lúc cạnh tranh
nhau trong việc ảnh hưởng đến cá nhân.
Xã hội hóa là một quá trình phức tạp, là quá trình tương tác giữa các
yếu tố sinh lý, xã hội và cá nhân. Càng hiểu rõ cơ chế vận hành của xã hội
hóa, con người càng có nhiều tự do hơn trong ứng xử của mình.
II. KHUÔN MẪU HÀNH VI, VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ XÃ HỘI Xã hội và văn hóa tác động đến sự hình thành nhân cách và quá trình
xã hội hóa chính là quá trình con người học những phương thức để đóng các
vai trò trong xã hội. Vai trò của từng cá nhân được hình thành từ sự kết hợp
một số các hành vi, một số các khuôn mẫu hành vi.
A. Khuôn mẫu hành vi:
Những cách thức hành động, suy nghĩ được lập đi lập lại của chúng ta
mang một ý nghĩa nào đó thường được các nhà xã hội học gọi là khuôn mẫu
hành vi. Ví như mỗi sáng thứ hai học sinh phải chào cờ; ngày sóc ngày vọng
tín đồ đạo Phật đi đến chùa; việc ăn bằng đũa của người Việt Nam, hay ăn
bằng bốc tay phải của người Ấn Độ…Những hành vi trên có thể xem như là
những khuôn mẫu hành vi.
Khuôn mẫu hành vi là đơn vị nhỏ nhất cấu thành vai trò cấu thành các
định chế xã hội và đi xa hơn hình thành nên nền văn hóa. Các khuôn mẫu
hành vi được tổng quát hóa, tiêu chuẩn hóa để trở thành mẫu mực hướng
dẫn ứng xử của con người. Như vậy khuôn mẫu hành vi gồm các yếu tố: là
hành được lập đi lập lại bởi nhiều người, mang một nghĩa nào và như là mẫu
mực của ứng xử. Xã hội học không nghiên cứu hành vi dưới góc độ sinh lý,
mà đặt hành vi đó trong điều kiện xã hội, trong bối cảnh văn hóa của chúng.
Không phải mọi khuôn mẫu hành vi đều có tầm quan trọng như nhau.
Chính tính phổ quát, áp lực xã hội và giá trị xã hội là những tiêu chuẩn xác
định tầm mức ảnh hướng của từng khuôn mẫu hành vi. Sự phân biệt giữa
những cấm kỵ, phong tục, tập quán, tập tục… có được là nhờ dựa trên những
tiêu chuẩn trên.
B. Vai trò và vị trí xã hội:
Quá trình xã hội hóa là quá trình cá nhân học hỏi cách đóng các vai trò
mà mình đảm trách trong xã hội. Cũng có thể quan niệm một cách khác, mỗi
cá nhân hiện hữu trong xã hội chính là hiện hữu qua những vị trí và vai trò
trong tương quan với những người khác trong xã hội.
Bất cứ một tổ chức, một định chế nào đều cũng bao gồm một số vai trò.
Trong một xí nghiệp có vai trò của giám đốc, của các phó giám đốc, của các
trưởng phòng chuyên môn, của các tổ trưởng, của nhân viên, cho đến vai trò
của người gác dan…
Mỗi vai trò thường tương ứng với một vị trí xã hội nhất định do đó
người ta thường nhầm lẫn hai thuật ngữ này. Vị trí xã hội là một thế đứng
(position) của một cá nhân trong một nhóm, một đoàn thể đã được xã hội quy
định. Trong khi một vai trò là cách thế xã hội qui định một cá nhân phải ứng
xử như thế nào khi ở vào một vị trí xã hội cụ thể nào đó. Trong định chế gia
đình, cha, mẹ, con trai, con gái cậu, mợ… là những vị trí xã hội. Vai trò của
người mẹ là nuôi con, săn sóc cho con, đưa con đi học… Cho nên một người
mẹ mới sinh con ra, đem con bỏ vào cô nhi viện, là chưa thể hiện đúng vai trò
người mẹ.
Mỗi vai trò bao gồm, tập hợp một số khuôn mẫu hành vi nhất định. Có
những hành vi mà người đóng vai trò nào đó không thể không có được, đó là
những hành vi đòi hỏi. Người ta còn phân biệt những hành vi có thể chấp
nhận được, và những hành vi bị cấm đoán trong một vai trò (Fichter,1973).
Hành vi được đòi hỏi ở một giáo viên là phải lên lớp giảng dạy, giúp đỡ sinh
viên trong việc học tập. Ông ta/ cô ta có thể viết thư góp ý với Hội Liên hiệp
sinh viên ở trường về những công tác của hội. Đây là một hành vi có thể chấp
nhận được. Nhưng khi giáo viên xách động sinh viên, đập phá bàn ghế trong
lớp học thì đây là một hành vi hoàn toàn bị cấm đoán.
Vị trí xã hội là một khái niệm khách quan, độc lập với cá nhân và có tính
tương quan. Vị trí xã hội của một người thường đa dạng, tùy thuộc số nhóm
mà người đó tham gia trong đời sống xã hội. Nhưng trong các vị trí trên có vị
trí then chốt (key status) mà cá nhân thường đồng hóa mình. Mỗi vai trò
thường được định chế hóa và gắn liền với một khung cảnh nhất định. Vai trò
của ông bác sĩ là khám bệnh và chữa trị cho bệnh nhân. Trong phòng mạch,
ông ta có thể đề nghị bệnh nhân cởi áo quần để khám, nhưng trong một buổi
tiệc nếu có một bệnh nhân đến hỏi bệnh tình thì ông không thể đề nghị bệnh
nhân cởi quần áo như trong phòng mạch. Có nhiều vị trí xã hội của cá nhân
liên kết với nhau, ví như vị trí của người vợ, của người mẹ, của người nội trợ
thường liên kết trong vị trí của một người phụ nữ thành niên. Nhiều vị trí xã
hội đi theo một diễn trình và việc chuyển tiếp từ vị trí xã hội này sang vị trí xã
hội khác, nhất là với các vị trí xã hội gắn với giới tính, lứa tuổi, với chu kỳ của
đời sống – thường được đánh dấu bởi các nghi thức chuyển tiếp, như nghi lễ
hôn nhân chẳng hạn. Người ta còn phân biệt vị trí của cộng đồng với vị trí của
đoàn thể. Cuối cùng, trong thuật ngữ xã hội học Tây phương, thuật ngữ vị trí
xã hội đôi lúc đồng nghĩa với địa vị xã hội, có nghĩa là toàn bộ đánh giá của
xã hội về mặt uy tín, thế lực, trọng vọng… đối với một cá nhân.
Các nhà xã hội học đã đưa ra nhiều phân loại khác nhau về vai trò. Vai
trò cân xứng và không cân xứng, vai trò được chỉ định và vai trò thành đạt, vai
trò giản dị và vai trò phức tạp, vai trò chủ yếu và không chủ yếu, những vai trò
theo bậc thang đánh giá của xã hội, vai trò phổ quát và vai trò đặc thù (T.
Parsons). Trong đó đáng chú ý là sự phân loại các vai trò được chỉ định
(ascribed role) và vai trò thành đạt (achieved role). Trong các xã hội truyền
thống, đơn giản (như xã hội nông thôn, xã hội nguyên thủy), ít có xung đột vai
trò vì các vị trí xã hội của cá nhân thường được quyết định từ khi sinh ra và
bởi truyền thống hơn là bởi những gì cá nhân đạt được do nỗ lực của mình.
Tục ngữ ta mới có câu: “Con vua thì lại làm vua…”. Các vị trí và vai trò được
chỉ định thường không thay đổi, do đó đòi hỏi xã hội cũng không đa dạng. Trái
lại trong xã hội hiện đại người ta đánh giá cao những vị thế do cá nhân đạt
được (vị thế và vai trò của nhà báo, của giáo sư đại học, của nhà chính trị…).
Trong xã hội hiện đại cá nhân có xu hướng muốn thành đạt trong các vị thế
nghề nghiệp và các vị trí khác trong cộng đồng, trong xã hội. Xã hội hiện đại
cố gắng san bằng những mâu thuẫn trong vị trí được chỉ định và vị trí thành
đạt bằng cách tạo ra những bình đẳng, như các biện pháp cưỡng bách trong
giáo dục chẳng hạn. Và nói một cách tổng quát, các phong trào xã hội đều
nhằm tới sự bình đẳng này.
Vai trò và văn hóa: Tuy cùng một vị trí xã hội, nhưng cách ứng xử,
những đòi hỏi của xã hội cũng thay đổi theo bối cảnh văn hóa của từng xã
hội. Ở một số dân tộc ít người Việt Nam, vai trò quyết định trong hôn nhân
của người con gái không tùy thuộc cha mẹ ruột mà tùy thuộc người cậu.
Thêm vào đó tuy cùng một vị trí xã hội, nhưng lối ứng xử trong vai trò của
từng cá nhân tùy thuộc cá tính, và sự nhận thức của cá nhân về vai trò mà
mình phải đảm nhận.
Vai trò và nhân cách:
Như chúng ta đã biết nhân cách là toàn bộ vai trò mà một cá nhân đảm
nhận, là một tổng thể về phương diện lối sống, tổng thể những lối ứng xử,
hành vi đã trở nên ổn định nơi cá nhân. Giữa nhân cách và vai trò có ảnh
hưởng biện chứng. Một nhân viên khi trở thành giám đốc không những chỉ có
những thay đổi trong vị thế và vai trò, mà nhân cách xem ra cũng có thể biến
đổi. Những vai trò trong nghề nghiệp cũng có thể thay đổi nhân cách, và mặt
khác nhân cách cũng có thể là yếu tố thuận lợi hay ngăn cản việc đảm nhận
một vai trò. Vai trò xã hội cũng có thể phát triển một số đặc tính của nhân
cách cá nhân. Một nhân cách hướng ngoại thì dễ thích ứng với vai trò mậu
dịch viên và ngược lại vai trò mậu dịch viên có thể phát triển tính hướng ngoại
của nhân cách.
Xung đột vai trò và căng thẳng vai trò:
Sự căng thẳng vai trò (role strain) xuất hiện khi cá nhân cảm nhận
những yêu cầu mâu thuẫn trong vai trò hiện tại của mình hoặc không thể đáp
ứng những đòi hỏi của một vai trò mới. Ví như vai trò của người đốc công là
phải thỏa mãn đồng thời những yêu cầu của ban giám đốc và của công nhân.
Mặt khác thử nghiệm của S. Zuboff vào 1982, cho thấy việc sử dụng máy vi
tính trong việc kiểm soát công việc của công nhân có thể làm cho người đốc
công bớt căng thẳng, nhưng anh ta lại cảm thấy vai trò của mình không cần
thiết nữa. Việc không hoàn thành tốt vai trò cũng có thể gây căng thẳng. Một
người chồng thất nghiệp dễ rơi vào trạng thái u sầu vì cảm thấy mình không
đáp ứng những đòi hỏi của gia đình.
Mỗi cá nhân có thể có nhiều vai trò khác nhau, số lượng vai trò này tùy
thuộc số nhóm tham gia. Chính vì thế mà đôi lúc đã xảy ra xung đột giữa các
vai trò (role conflict). Một trong những xung đột vai trò thường thấy là xung đột
giữa vai trò trong đoàn thể sơ cấp và thứ cấp. Một người mẹ phấn đấu trong
công việc cơ quan có thể xao lãng công việc trong gia đình. Những lo âu
trong cuộc sống trong xã hội hiện đại xuất phát từ cố gắng của cá nhân nhằm
cân bằng sự xung đột giữa những vai trò khác nhau. Xung đột vai trò (role
conflict) xảy ra khi nhằm hoàn thành tốt một vai trò chúng ta phải hi sinh việc
hoàn thành tốt một vai trò khác. Ví như anh lính cứu hỏa khi chữa cháy ở khu
vực nhà mình ở có thể bỏ quên nhiệm vụ để chạy về xem gia đình mình có bị
ảnh hướng gì không (Killian, 1952).
Những kỳ vọng nơi vai trò (role expectations) và chế tài của xã hội:
Trong bất kỳ xã hội nào, người ta đều chờ đợi ở người cha, người mẹ,
người con những lối ứng xử thích hợp nào đó. Kỳ vọng nơi vai trò là những
mong muốn, những đòi hỏi mà xã hội đã xác định khi cá nhân đứng vào một
vị thế nhất định. Với tư cách người lính, người ta mong đợi anh ta phải dũng
cảm trên chiến trận, kể cả hy sinh tính mạng nếu cần thiết.
Nhưng trong thực tế luôn có một khoảng cách giữa vai trò được kỳ
vọng và vai trò thực tế. Hầu như mọi người con gái đều được xã hội hóa để
trở thành một người phụ nữ đảm đang, nhưng trong thực tế có người không
biết nấu ăn hay nấu ăn dở, không biết thể hiện vai trò của một người vợ…
Sự kỳ vọng ở vai trò nếu không được đáp ứng sẽ bị sự chế tài của xã
hội, sự chế tài này mang hình thức nhẹ như sự khen chê của dư luận, nhưng
cũng có thể mang những hình thức chế tài nặng do pháp luật quy định trong
các xã hội hiện đại hay do tập quán pháp (droit coutumier) như trong các xã
hội cổ truyền.
Chế tài xã hội
Mức độ / Hình thức Nhẹ: Nặng:
Chính thức: Luật giao thôngLuật liên quan sự sống, sở
hữu
Không chính thức: Tập quán, tục lệ Cấm kỵ, phong tục
C. Những lý thuyết về vai trò và cơ cấu xã hội:
Khi đề cập đến cơ cấu xã hội (social structure) ta muốn nói đến sự phối
hợp các khuôn mẫu hành vi, vai trò hình thành nên những mối tương quan
giữa những cá nhân và giữa những đoàn thể trong xã hội.
Có thể nêu lên ba khuynh hướng lý thuyết chính liên quan đến vai trò
và cơ cấu xã hội. G.H. Mead, một trong các cha đẻ của thuyết tương tác biểu
tượng, là người chủ trương rằng vai trò là kết quả của một quá trình tương
tác mang tính chất học hỏi và sáng tạo. Bất cứ vai trò nào cũng nằm trong
tương quan với các vai trò khác. Các vai trò xã hội không phải bao giờ cũng
được thực hiện một cách cứng nhắt theo quá trình đã học hỏi được từ quá
trình xã hội hóa, ngược lại chúng thành hình trong một diễn trình mặc cả với
các vai trò khác. Xã hội chỉ tạo ra một khung cơ cấu tổng quát trong đó cá
nhân có thể hình thành những “bài bản” riêng tùy theo nhận thức và cách ứng
xử riêng. Theo khuynh hướng lý thuyết này, xã hội của cá nhân được “xây
dựng” tùy theo nhận thức của cá nhân về chính mình và về những người
khác và tùy theo phương cách cá nhân đáp ứng lại những nhận thức đã hình
thành.
Nghiên cứu cơ cấu xã hội và cách vận hành của chúng là sở trường
của trường phái chức năng. R.Linton, người đầu tiên đã đưa ra sự phân loại
vị trí chỉ định và vị trí sở đắc, quan niệm vai trò là những lối ứng xử đã được
qui định sẵn và áp đặt tương ứng với những vị trí xã hội nhất định. Trường
phái này cho rằng cơ cấu xã hội qui định hành động của cá nhân và nói rộng
ra qui định cuộc sống của cá nhân. Ở phương diện nào đó, cuộc sống của
mỗi cá nhân bị qui định bởi vị trí khác nhau và các định chế xã hội qui định lối
ứng xử hằng ngày của chúng ta. Ví như, khi ta nói rằng một người phụ nữ, ở
lứa tuổi trung niên, theo đạo Phật, có chồng và ba con, tất nhiên ta đã nói đến
phần nào những nếp suy nghĩ, những lối ứng xử của người phụ nữ này.
Tuy nhiên trong thực tế, với những vị trí khác nhau, người phụ nữ này
có rất nhiều tự do khi đóng những vai trò khác nhau của mình, và ngay cả
người phụ nữ này có thể ứng xử hoàn toàn ngược lại với những vai trò mà xã
hội đã qui định. Như vậy, trường phái chức năng chưa đề cập đầy đủ về
những khía cạnh phức tạp trong ứng xử của con người.
Những bế tắc của trường phái chức năng đã dẫn các nhà xã hội học
đến việc đặt vấn đề: sự xung đột giữa các vị trí, các vai trò có dẫn đến việc
thay đổi các định chế xã hội không. Lý thuyết mâu thuẫn xã hội cho rằng
những thái độ có ý thức của cá nhân trước hoàn cảnh sống, và những cơ cấu
xã hội trong đó cá nhân tham gia có ảnh hưởng lớn đến cách ứng xử của cá
nhân, và ảnh hưởng đến cách vận hành của xã hội. Như khi người công nhân
bắt đầu nhìn lại một vài khía cạnh cuộc sống của mình, khi anh ta/ chị ta bắt
đầu nhận thấy những sự bất công, phân biệt đối xử, sẽ phản ứng, chống đối
và có thể có những người khác tạo nên một phong trào xã hội và có thể liên
kết với những phong trào khác rộng lớn hơn nhằm thay đổi cấu trúc xã hội
hiện có. Như vậy lý thuyết mâu thuẫn cho thấy những hành động của cá nhân
không hoàn toàn bị qui định bởi vị trí của cá nhân trong các định chế xã hội,
nhưng mặt khác các hành động của cá nhân có thể biến đổi cơ cấu xã hội.
Có lẽ chúng ta nên nhìn các trường phái trên, các khuynh hướng lý
thuyết trên như là những lối giải thích khác nhau về cơ cấu xã hội và về biến
chuyển xã hội. Dĩ nhiên trong thực tế, cũng có những khác biệt cơ bản giữa
những lý thuyết này. Lý thuyết chức năng cho rằng xung đột vai trò là cơ hội
để các định chế tự điều chỉnh hòng giải quyết những mâu thuẫn, ví như việc
tổ chức các nhà trẻ là nhằm giúp người phụ nữ tham gia các công việc ngoài
xã hội đồng thời vẫn có thể chăm sóc cho con cái. Mặt khác, những lý thuyết
mâu thuẫn có khuynh hướng xem xung đột vai trò như là dấu hiệu của những
mâu thuẫn lớn hơn giữa những giai cấp trong xã hội. Như vậy những lý thuyết
mâu thuẫn chú trọng và tiên đoán những biến đổi xã hội trong dài hạn hơn là
những thay đổi nhỏ trong các định chế cá biệt.
Chương 5. TỔ CHỨC XÃ HỘI (Social organizations)
Để thực hiện các mục tiêu chung trong cuộc sống, con người phải liên
kết lại với nhau, hình thành nên các tổ chức. Khái niệm tổ chức xã hội nhằm
chỉ tất cả các loại hình tập hợp, liên kết các cá nhân nói trên. Do đó, xã hội
hiện nay bao gồm vô vàn các nhóm, các tổ chức với nhiều loại hình và qui mô
khác nhau.
I. NHÓM XÃ HỘI Nhóm là tập hợp những con người có những hành vi tương tác nhau,
trên cơ sở những kỳ vọng chung có liên quan đến lối ứng xử của những
người khác. Như vậy, mỗi nhóm đều có cơ cấu xã hội riêng bao gồm một số
vị trí và vai trò nhằm thực hiện những mục tiêu cụ thể. Trong ý nghĩa này,
những người đứng hóng mát dọc bờ sông Sài gòn không phải là một nhóm
theo thuật ngữ xã hội học (nhưng họ hình thành các đám đông – một khái
niệm khác trong xã hội học – mà chúng ta sẽ đề cập trong chương 9).
Một trong những phân biệt quan trọng trong nghiên cứu nhóm là sự
phân biệt nhóm sơ cấp (groupe primaire) và nhóm thứ cấp (groupe
secondaire). Theo C.H. Cooley, nhóm sơ cấp có những đặc tính: có qui mô
nhỏ, có những quan hệ trực diện với nhau, có sự cộng tác, có những mục tiêu
chung và có tính cách thân mật, gắn với tình cảm yêu thương. Gia đình, bạn
bè, nhóm đồng nghiệp tại nơi làm việc, và có thể cả những nhóm thể thao,
các nhóm nhỏ trong quân đội… đều có thể liệt kê vào nhóm sơ cấp. Tóm lại,
trong nhóm sơ cấp ta có thể biểu lộ tình cảm mà không sợ các thành viên
khác rút ra khỏi nhóm.
Cooley đã nêu lên định nghĩa về nhóm sơ cấp vào đầu thế kỷ (1909),
do đó định nghĩa này ngày nay cần ít nhiều sửa đổi. Khái niệm quan hệ trực
diện hơi mơ hồ, có thể gây nhầm lẫn. Có những nhóm sơ cấp vẫn giữ được
tình đoàn kết mặc dù không có quan hệ diện đối diện. Ví như có những gia
đình, dòng họ vẫn giữ được mối dây liên hệ bà con thân mật dù ở xa nhau
(Sheila Klatzky.) Ngày nay sự phát triển của bưu điện, của thông tin cho phép
con người thu ngắn khoảng cách không gian. Thứ đến, sự thân mật mà
Cooley đề cập không phải bao giờ cũng là những cảm xúc tích cực, mà đôi
lúc còn là giận dỗi, ghen tuông…Dù sao trong các nhóm sơ cấp chúng ta
không bắt gặp một thái độ dửng dưng, bàng quan.
Nhóm thứ cấp có thể bao gồm nhiều người hơn, quan hệ trong nhóm ít
liên quan đến nhân cách, đến cá tính của các thành viên, thường có mục đích
hạn chế, các mối quan hệ kéo dài trong một thời gian nhất định, tương quan
trong nhóm thường dựa trên một thỏa ước chung – có tính cách thành văn
hay bất thành văn. Các tổ chức, các hiệp hội là các đoàn thể thứ cấp.
Bằng phương pháp loại hình lý tưởng của M. Weber chúng ta có thể
phân ra hai loại hình nhóm như sau (Bảng 5.1). Nhưng trong thực tế của cuộc
sống, có thể có những nhóm có đặc điểm của cả hai loại hình. Một cách tổng
quát, ở những vùng nông thôn, thị trấn nhỏ các mối quan hệ sơ cấp còn quan
trọng hơn ở các vùng đô thị rộng lớn – trừ trường hợp các nhóm dân tộc thiểu
số và các cộng đồng tôn giáo sống gần nhau ở đô thị. Nhìn trên bình diện
toàn cầu, ở các xã hội tiền công nghiệp, đặc biệt là ở vùng nông thôn, các
quan hệ sơ cấp vẫn còn trội yếu, trong khi ở các xã hội công nghiệp phát triển
các mối quan hệ thứ cấp phổ biến hơn.
Bảng 5.l: Tóm tắt một số đặc trưng của nhóm sơ cấp và thứ cấp
Nhóm sơ cấp Nhóm thứ cấp
* Tính chất của các
quan hệ:- định hướng cá nhân - định hướng mục tiêu
* Thời gian của các
mối quan hệ:- thường là dài hạn - thay đổi, thường là ngắn hạn
* Quy mô của mối
quan hệ:
– rộng, thường bao
gồm nhiều hoạt động
– hạn chế, chỉ liên quan đến
một số hoạt động
* Nhận thức của cá
nhân về các mối
quan hệ:
- xem các mối quan hệ
tự thân là mục đích
– xem các mối quan hệ như là
những phương tiện cho một
mục đích
* Ví dụ điển hình:– gia đình; nhóm bạn
thân– nhóm đồng nghiệp, lớp học
Về mặt tổ chức xã hội, cấp độ trung gian giữa nhóm sơ cấp và các định
chế lớn hơn ở tầm mức quốc gia là các cộng đồng (community). Người ta
thường phân ra các cộng đồng có tính cách lãnh thổ và các cộng đồng không
có tính cách lãnh thổ (territorial, nonterriorial). Cả hai loại cộng đồng này là sự
tập hợp các nhóm sơ cấp và thứ cấp. Nhưng cộng đồng có tính lãnh thổ bị
quy định bởi ranh giới địa lý, được hình thành trên tính lân cận, tính láng
giềng. Một cuộc nghiên cứu của H. Gans và B. Berger cho thấy sự lân cận là
điều kiện tốt cho việc hình thành các nhóm sơ cấp. Trong khi cộng đồng
không có tính cách lãnh thổ là hệ thống, là mạng lưới những hiệp hội được
hình thành nhằm thực hiện một số mục tiêu chung, như mạng lưới các hiệp
hội theo nghề nghiệp.
Những nhóm được hình thành trên cơ sở lân cận có thể được hội nhập
vào các mạng lưới rộng hơn vượt các ranh giới địa lý. Một yếu tố quan trọng
trong việc hình thành mạng lưới là sự phân biệt trong–nhóm và ngoài–nhóm
(ingroup, outgroup). Sự phân biệt đó có thể dựa trên bất cứ tiêu chuẩn nào,
nhưng thường là các yếu tố chủng tộc, lợi tức, và tôn giáo. Trong các khu gia
cư đôi lúc trẻ em phân ra các nhóm ở chung cư hay ở khu villa; học sinh phân
ra các nhóm học trường công hay trường tư. Sự phân biệt trong nhóm và
ngoài nhóm đôi lúc tạo ra khó khăn cho các đoàn thể thứ cấp trong việc lôi
kéo thành viên từ cả hai nhóm. Trong một cộng đồng, nếu có những sự phân
biệt như vậy, các nhóm sẽ theo các đảng phái khác nhau, hay hình thành các
phe phái khác nhau trong cùng một đảng phái, trong cùng một đoàn thể.
Phân tích mạng lưới xã hội (social network analysis): Việc nghiên cứu
người nào, đoàn thể nào liên kết với ai, với đoàn thể nào, lý do của chọn lựa,
ảnh hưởng của sự chọn lựa đó, được gọi là phân tích mạng lưới xã hội. Một
trong các tác giả đầu tiên chủ trương và sử dụng kỹ thuật phân tích này là
nhà phân tâm học Jacob Levy Moreno. Ông đã gọi phương pháp này là “trắc
lượng học xã hội” (sociométrie), với ý đồ lớn lao là đo lường tất cả những gì
có thể đo lường trong xã hội học. Ngày nay, người ta áp dụng kỹ thuật này để
tìm hiểu các mối quan hệ trong các nhóm nhỏ (thích ai, không thích ai…). Các
mối quan hệ đó thường được biểu diễn bằng các ma trận. Ta lấy một thí dụ,
trong một nhóm nhỏ gồm 5 sinh viên của lớp học, ta đặt câu hỏi: “Anh chị
thích ai nhất trong nhóm này?”, “Anh chị thích làm việc với ai nhất?” Ta có thể
biểu diễn các mối quan hệ đó bằng ma trận trắc lượng học sau đây (1 = được
chọn, 0 = không được chọn):
Thông Hồng Huy Thạch Mai
Thông 0 0 0 0 1
Hồng 0 0 0 0 1
Huy 0 0 0 1 0
Thạch 0 0 1 0 0
Mai 1 1 0 0 0
Tổng cộng: 1 1 1 1 2
Hồng « Mai « Thông Huy « Thạch
Qua ma trận trên ta biết người nào được ưa thích nhất và người nào ít
được thích nhất trong nhóm và ta cũng có thể vạch ra cơ cấu các mối quan
hệ trong nhóm.
Người ta cũng đã ứng dụng loại phân tích này để tìm hiểu lý do tại sao
một người đã tham gia các đoàn thể khác nhau và cũng có nhà xã hội học áp
dụng phương pháp này để mô tả sự vận hành của thế giới tài chánh phức
tạp.
II. CÁC LÝ THUYẾT VỀ NHÓM Trên đây chúng ta tìm hiểu về nhóm dưới góc độ sinh thái và các sự
phân loại của chúng, về các loại hình nhóm xen cài với nhau như thế nào.
Nhưng trong thực tế, các nhóm vận hành ra sao?
1. Lý thuyết tương tác biểu tượng:
Lý thuyết này chú trọng vấn đề các thành viên trong nhóm nhỏ quan
tâm và uốn nắn các qui tắc tác phong như thế nào để diễn đạt, thể hiện tính
cách của mình, và các cá nhân đã định nghĩa một tình huống, gán cho một
tình huống một ý nghĩa khác với thông lệ như thế nào. Simmel đặc biệt chú
trọng đến các nhóm nhỏ hai người (dyads), ba người (triads), vì theo ông, qua
những tác động hổ tương trong các nhóm nhỏ đó, cá nhân thực sự phát triển
vai trò và thể hiện cá tính khi thực hiện vai trò của mình. Các nhà xã hội học
thuộc trường phái này nghiên cứu sự tương tác qua mọi khía cạnh của ứng
xử: ngôn ngữ bằng lời; điệu bộ, cử chỉ, những biểu hiện vô ngôn, những cảm
xúc, đến cả khoảng cách giữa người này và người khác trong giao tiếp.
Cuộc nghiên cứu của David Sudnow (1967) về tác phong của các bác
sĩ tại phòng cấp cứu cho thấy rằng việc nhận định khác nhau về một tình
huống của các thành viên trong một nhóm đưa đến những mô thức ứng xử
khác nhau trong hành vi của nhóm. Một nhà xã hội học theo trường phái chức
năng có lẽ không để ý đến những khác biệt trong tác phong của các bác sĩ,
bởi lẽ họ cho rằng hành vi đã được qui định bởi vị trí và vai trò, chứ không bởi
việc giải thích, việc nhận định về chính hoàn cảnh. Ngược lại, những nhà xã
hội học theo trường phái tương tác đặc biệt chú trọng đến những thay đổi
trong hành vi nhằm quan sát con người trong các nhóm đã thích ứng thế nào
trong các tình huống khác nhau và quan sát những phương cách tế nhị họ
dùng để giao tiếp với nhau.
Một lối tiếp cận của trường phái này là lối tiếp cận đóng kịch
(dramaturgical approach). Lối tiếp cận này xem sự tương tác như thể đang
diễn ra trên sân khấu và qua các màn diễn. Những sách lược được dùng để
dựng nên một sân khấu theo những ý đồ được gọi là xử lý ấn tượng
(impression management). Một giáo viên trước khi bước vào lớp học sửa lại
tác phong và thay đổi nét mặt, để tạo ra một khung cảnh thích hợp cho việc
học tập. Nhiều khung cảnh xã hội (khách sạn, quán ăn, nghĩa trang, nơi thờ
tự…) đòi hỏi ta phải thay đổi hành vi khi chúng ta xuất hiện ở “tiền cảnh” hay
ở “hậu trường”. Các hành vi xung đột thường xảy ra ở hậu trường (ví như
trường hợp một cặp vợ chồng đang giận nhau và có bạn đến thăm).
Một lối tiếp cận khác của lý thuyết này được gọi là phương pháp luận
dân tộc học (ethnomethodology). Phương pháp này chú trọng đến các
phương thức được dùng để hiểu lối ứng xử của một người khác, chú trọng
đến những qui tắc nằm bên dưới các hành vi, đồng thời chi phối sự tương tác
trong nhóm (ví dụ những khuôn mẫu khi nói điện thoại, khi chào hỏi…).
2. Thuyết cơ cấu chức năng:
Trong khi trường phái tương tác đặt những vấn đề như: trong các nhóm
chúng ta giao tiếp với nhau như thế nào, làm thế nào để người khác hiểu
được ý nghĩa mà chúng ta muốn truyền đạt và trong quan hệ trong nhóm
chúng ta dùng những kỹ năng như thế nào để phục vụ mục tiêu của chúng ta,
thì ngược lại theo trường phái chức năng, bản chất của quan hệ trong nhóm
được xác định bởi những chờ đợi, những kỳ vọng của xã hội. Sự tương tác
trong nhóm có thể giải thích bởi vị trí, vai trò của các thành viên trong nhóm.
Như nghiên cứu của Elton Mayo ở Hawthorne cho thấy, đôi lúc cá nhân
không thể vượt qua những qui định của nhóm. Mặt khác sự tương tác trong
nhóm được giải thích bởi chức năng mà nhóm được chờ đợi thực hiện trong
một cơ cấu xã hội rộng lớn hơn. Người đốc công chẳng hạn không được
hoàn toàn đứng về phía ban giám gốc, vì như vậy sẽ bị công nhân tẩy chay
và ngược lại.
3. Các lý thuyết mâu thuẫn:
Các lý thuyết này xem việc cạnh tranh, mâu thuẫn, xung đột trong nhóm
và giữa các nhóm đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành cơ cấu
xã hội. Nhà xã hội học Simmel chỉ ra rằng xung đột là một yếu tố quyết định
quy mô, cơ cấu và chức năng của nhóm (ví như qui mô gia đình và sự xung
đột) Robert Michels nhấn mạnh khuynh hướng các tổ chức chính thức
thường bị cai trị bởi một nhóm nhỏ các lãnh tụ, mà ông ta gọi là “qui luật
muôn đời của thiểu số trị” (iron law of oligarchy). Qui chế của các nghiệp
đoàn, các đảng phái chính trị thường đề cao nguyên tắc dân chủ, nhưng trong
thực tế một thiểu số lãnh đạo ở các vị trí then chốt muốn nắm giữ và gia tăng
quyền hành, nên đi ngược lại quá trình dân chủ. Lewi Coser quan sát và thấy
rằng sự mâu thuẫn trong nhóm có thể đem lại những kết quả tốt. Ví như trong
một xí nghiệp những đòi hỏi của công đoàn có thể đem lại việc tăng lương,
cải thiện đời sống của công nhân. Và mặt khác ban giám đốc có thể cải thiện
các phương tiện kỹ thuật của nhà máy để tránh việc tăng thêm công nhân,
đồng thời cũng tránh luôn các đòi hỏi của họ. Lý thuyết của Coser xem ra
tránh được những cực đoan của lý thuyết chức năng chỉ nhấn mạnh đến trật
tự của các vị trí và vai trò, và những cực đoan của các lý thuyết xung đột khác
chỉ nhấn mạnh việc đấu tranh giành quyền lực trong các tổ chức xã hội.
III. NĂNG ĐỘNG NHÓM (group dynamics):Năng động nhóm là một bộ môn nghiên cứu về sự vận hành nội tại của
nhóm. Cơ cấu, sự lãnh đao, truyền thông trong nhóm là những nội dung
thường được đề cập trong bộ môn này.
1. Cơ cấu xã hội của nhóm:
Vấn đề được năng động nhóm quan tâm đầu tiên là vấn đề lãnh đạo
trong nhóm. Thông thường người ta quan niệm người lãnh đạo trong nhóm
phải hội đủ một số phẩm chất nào đó về mặt đạo đức và tâm lý. Những
nghiên cứu về nhóm cho thấy rằng, thật ra điều quan trọng không chỉ là tính
cách của người thủ lĩnh trong nhóm, mà là vai trò xã hội của anh ta. Người
thủ lĩnh không chỉ là người nắm bắt được các tâm tư và nguyện vọng của các
thành viên, mà là người thấu đáo mục tiêu của nhóm và biết cách vận động
các thành viên thực hiện mục tiêu. Ngày nay, người ta đi đến việc quan niệm
lãnh đạo như là một quá trình tập thể qua đó mọi thành viên trong tổ chức đều
được thông tin và có thể đóng góp ý kiến vào việc đưa ra các quyết định
chung.
Tính chất của sự lãnh đạo trong nhóm cũng ảnh hưởng đến hiệu suất
hoạt đông, đến ý thức kỷ luật, đến tâm lý của các thành viên trong nhóm. Như
cuộc nghiên cứu về ba kiểu lãnh đạo: dân chủ, độc đoán và thả lỏng (laissez–
faire leaders) – mà Lippitt và White đã tiến hành cho thấy.
Nghiên cứu về nhóm nhỏ cho thấy rằng có khuynh hướng phát triển hai
loại thủ lĩnh: thủ lĩnh nhiệm vụ (task leader) có chức năng thực hiện các mục
tiêu của nhóm và thủ lĩnh tình cảm (socioemotional leader) có nhiệm vụ tạo ra
một tình cảm tích cực trong nhóm, giảm sự căng thẳng bằng khôi hài, bằng
cách động viên hay quan tâm đến những vấn đề tâm lý của các cá nhân trong
nhóm. Mối quan hệ giữa thủ lĩnh nhiệm vụ với các thành viên có tính cách thứ
cấp, anh ta/ chị ta có thể ra lệnh, đưa ra các biện pháp kỷ luật nếu các thành
viên không hoàn thành những nhiệm vụ được giao. Trong thực tế đôi khi hai
vai trò này được thực hiện bởi một người nhưng thông thường có một sự
phân công không chính thức giữa hai loại thủ lĩnh này (như nghiên cứu của
Bales và Slater về nhóm 6 sinh viên đã cho thấy). Việc phân biệt hai loại hình
lãnh đạo này trong một nhóm xã hội còn biểu hiện ngay cả trong gia đình
truyền thống, nhất là trong gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Ở đó vai trò của người cha là đi kiếm tiền, quyết định những công việc lớn
trong gia đình, thi hành kỷ luật.Trong khi vai trò của người mẹ thiên về tình
cảm, cố gắng giữ gìn sự hòa thuận trong gia đình. Do đó người con thường
kính trọng cha mình và gần gũi với mẹ mình hơn trong các mối quan hệ cá
nhân.
Vấn đề truyền thông trong nhóm cũng thu hút sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu. Các loại hình truyền thông một chiều hay nhiều chiều cũng tùy
thuộc cấu trúc của nhóm, tùy thuộc tính chất của sự lãnh đạo trong nhóm và
tùy thuộc mục tiêu, chức năng hoạt động của nhóm.
Các nghiên cứu của K. Lewin, Lasswell, Riley lại cho thấy nhóm có vai
trò quan trọng trong truyền thông.
2. Nhóm qui chiếu và thái độ của cá nhân:
Một lãnh vực quan trọng trong nghiên cứu nhóm nhỏ đó là nghiên cứu
xem những quyết định đưa ra chịu ảnh hưởng của người nào – những người
quy chiếu (relevant others) – là những người mà ta kính trọng và bắt chước
hành vi của họ. Những phương cách theo đó người ta ảnh hưởng đến thái độ
và ứng xử của người khác thường được mô tả dưới thuật ngữ “nhóm quy
chiếu” (groupe de référence). Thuật ngữ này nhằm chỉ một nhóm mà cá nhân
dùng như là một khuôn khổ quy chiếu cho sự đánh giá về mình và cho việc
hình thành các thái độ, các lối ứng xử. Cuộc nghiên cứu của Theodore
Newcomb (1952) về các sinh viên đại học Bennington cho thấy các sinh viên
có khuynh hướng bảo thủ thường lập thành nhóm với nhau, và họ cũng
thường trở về thăm gia đình hơn những sinh viên khác. Nhưng các năm sau
họ thay đổi thái độ cho phù hợp với sinh viên ở trường, hoặc họ theo nhóm
các sinh viên tiến bộ hoặc họ theo các nhóm phân biệt chủng tộc.
Người ta có thể ứng dụng khái niệm nhóm quy chiếu vào việc nghiên
cứu thị trường, vào việc tìm kiếm các thủ lĩnh hướng dẫn dư luận (các tạp chí
chuyên môn; những nhà bình luận…). Lý thuyết của E. Katz và P. F.
Lazarsfeld về “ hai bước trong truyền thông” (two–steps flow of
communication) cho thấy truyền thông đại chúng không ảnh hưởng trực tiếp
lên đám đông, mà thường thông qua các thủ lĩnh hướng dẫn dư luận (opinion
leader).
Cuối cùng phải phân biệt nhóm quy chiếu với nhóm sơ cấp. Nhóm sơ
cấp có thể là một trong các nhóm quy chiếu, nhưng nhóm quy chiếu đa dạng
hơn và thường gắn với những nhóm có liên quan đến các vị thế trong xã hội
(status group). Nhóm quy chiếu có thể có ảnh hưởng đến hành vi trong tương
lai hơn là ứng xử hiện nay của một người nào đó.
IV. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC CÓ QUY MÔ LỚN Tổ chức chính thức (formal organization) được định nghĩa là những
nhóm xã hội có quy mô lớn, phức tạp trong đó những hệ thống quy tắc, chuẩn
mực, vị trí và vai trò đều xác định rõ ràng và thông thường được quy định
thành văn. Hệ thống quy tắc và chuẩn mực đó quy định tương quan của mỗi
thành viên với người khác và các điều kiện trong đó các tương quan này
được duy trì. Trong khi tổ chức hay kết cấu phi chính thức là các nhóm
thường đồng ý về các quy tắc, về các vị trí xã hội có tính cách bất thành văn,
ví như nhóm những công nhân của Phòng Lắp ráp điện trong nghiên cứu của
Mayo, họ đã tự đặt ra những chuẩn mực một cách phi chính thức.
Bảng 52: So sánh các nhóm có quy mô nhỏ và các tổ chức chính thức
Nhóm có quy mô nhỏ Tổ chức chính thức
Hoạt động:Các thành viên thường có
những công việc giống
nhau
Các thành viên thường làm
những công việc khác nhau và
chuyên môn hóa cao
Thứ bậc:Không có hay không
được quy định chính thức
Xác định rõ, tương ứng với chức
vụ
Chuẩn mực:Thực hiện không chính
thức những chuẩn mực
tổng quát
Xác định rõ bởi những quy định
và luật lệ.
Tiêu chí chọn các thành
viên:
Thường dựa trên tình
cảm cá nhân hay do quan
hệ thân thuộc
Dựa trên kỹ năng chuyên môn
nhằm thực hiện những công việc
được chỉ định
Quan hệ:Thay đổi, điển hình sơ
cấp
Điển hình thứ cấp
Truyền thông:
Diện đối diện Thường chính thức và bằng văn
bản
Tiêu điểm: Hướng về con người Hướng về công việc
Dựa trên mối quan hệ giữa một tổ chức và các thành viên của mình, A.
Etzioni đã phân ra ba loại hình các tổ chức chính thức: các tổ chức quy phạm
là những tổ chức có mục đích mà các thành viên tin tưởng là có giá trị đạo
đức. Các thành viên gia nhập các tổ chức này để thỏa mãn những kỳ vọng
của cá nhân, để có được uy tín xã hội hơn là vì mục tiêu tiền bạc. Cũng chính
vì lý do này mà người ta còn gọi đây là những hiệp hội tự nguyện. Hiệp hội tự
nguyện (volontary association) lại một tổ chức chính thức mà các thành viên
đeo đuổi cùng những lợi ích chung và đi đến những quyết định chung qua
một quá trình có tính cách dân chủ. Các tổ chức tương trợ, các tổ chức của
tôn giáo, các đảng phái chính trị…thường là những tổ chức tự nguyện. Trong
một cộng đồng thường chỉ một thiểu số tham gia những tổ chức tự nguyện.
Các tổ chức cưỡng bức là các tổ chức có mục đích trừng phạt (nhà tù,
trường trại cải tạo) hay chữa trị (bệnh viện tâm thần) cho các thành viên của
mình bằng cách cô lập một thời gian nhằm buộc họ thay đổi thái độ và hành vi
của mình.
Và cuối cùng, các tổ chức duy lợi (utilitarian organization) là các tổ
chức nhằm đem là các lợi ích vật chất cho các thành viên của mình. Đó là
trường hợp các cơ quan, công ty, xí nghiệp. Dưới quan điểm của một người
trong vị trí nhất định, một tổ chức có thể mang một trong ba danh nghĩa nói
trên.
Tổ chức chính thức đã tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử. Nhưng do
đặc tính của các xã hội tiền công nghiệp, ví như khuôn mẫu văn hóa có định
hướng quay về quá khứ, muốn duy trì trật tự “tiền định”, các tổ chức chính
thức trong xã hội cổ truyền tỏ ra kém hiệu quả. Chỉ từ khoảng vài thế kỷ trở lại
đây, đặc biệt và với sự xuất hiện của vũ trụ quan duy lý bắt đầu từ cuộc cách
mạng công nghiệp, theo M. Weber, các tổ chức chính thức mang tính bàn
giấy (bureaucracy) xuất hiện và càng ngày càng phổ biến ở châu Âu và Bắc
Mỹ.
Tổ thức mang tính thư lại hay quan liêu (bureaucracy) là một mô hình tổ
chức được thiết kế một cách duy lý, nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm
vụ phức tạp. Để tăng tính hiệu quả của tổ chức, theo M. Weber, tổ chức có
tính thư lại có những đặc điểm sau:
1) chuyên môn hóa: mỗi cá nhân làm những nhiệm vụ có tính chuyên
môn cao
2) thứ bậc trên dưới của các chức vụ: cấp trên giám sát cấp dưới
3) quy định và luật lệ: mọi hoạt động và vận hành của tổ chức đều
được quy định rõ ràng, có thể tiên đoán được
4) chuyên môn kỹ thuật: tuyển chọn và giám sát nhân viên dựa trên
chuyên môn kỹ thuật chứ không dựa trên quan hệ thân thuộc, quen biết
5) quan hệ khách quan, không có tính riêng tư
6) thông tin chính thức và bằng văn bản
Trên đây chỉ là những đặc tính lý tưởng của tổ chức bàn giấy, trong
thực tế những đặc điểm này có thể bị thay đổi bởi những cơ cấu phi chính
thức trong tổ chức. Mặc dù vậy, Max Weber còn nhận thấy sự gia tăng và
phát triển của các tổ chức thư lại là đặc điểm của các xã hội công nghiệp hiện
đại.
Tính khách quan, quan hệ không riêng tư là thế mạnh của tổ chức bàn
giấy, nhưng đồng thời chúng cũng làm cho hành vi của con người trở nên
máy móc, phi nhân bản vì không xét đến những hoàn cảnh, những nhu cầu
độc nhất và cá biệt.
Tổ chức có tính thư lại còn làm cho cá nhân cảm thấy bị tha hóa, bị
vong thân. Hay nói như M. Weber, cá nhân cảm thấy mình như con ốc vít bất
lực trong guồng máy khổng lồ. Tổ chức thay vì phục vụ con người, con người
lại đi làm nô lệ cho tổ chức (Macionis & Plumer, 1997: 193).
Một trong những hậu quả khác của việc gia tăng bộ máy thư lại trong
các xã hội hiện đại là khả năng cá nhân sẽ không còn đảm nhận hoàn toàn
trách nhiệm cho những hành vi của mình. Một cuộc nghiên cứu về việc tuân
thủ quyền lực – qua một cuộc thử nghiệm – đã dẫn nhà xã hội học Stanley
Milgram đến việc tìm hiểu khả năng của con người khi cưỡng lại sức ép nhằm
thực hiện các mệnh lệnh mà cá nhân họ không chịu trách nhiệm, và cũng
nhằm để chứng minh tính cách máy móc, xu hướng phi nhân trong các quyết
định của tổ chức thư lại. Milgram cũng nhận thấy việc phản kháng uy quyền
có khả năng xảy ra hơn khi cá nhân có sự hổ trợ của người khác. Những
cuộc nghiên cứu khác cũng cho thấy việc gắn bó với các bộ máy thư lại càng
lớn hơn khi có những ràng buộc mạnh mẽ trong các nhóm sơ cấp.
Theo R. Merton, những ảnh hưởng của các tổ chức bàn giấy lên trên
cá nhân bao gồm việc tạo ra những nhân cách bàn giấy có xu hướng theo
những ứng xử nệ nghi thức (ritualist). Theo Laurence Peter, các tổ chức bàn
giấy có xu hướng thăng trật cá nhân đến một trình độ mà họ không còn có
khả năng. Cũng vậy, Parkinson cho rằng khuynh hướng của con người trong
các tổ chức bàn giấy là chỉ lo lắng, và chăm chú vào công việc mà họ được
giao để khỏi phải làm thêm việc khác.
Ảnh hưởng mạnh mẽ của các tổ chức bàn giấy trên đời sống xã hội đã
giảm thiểu khả năng của cá nhân can thiệp cho bạn bè hay bà con ngoài các
định chế này. Hiện tượng này thường được mô tả dưới khái niệm “con người
tổ chức” (organizational man): những nhân viên của các công ty, của các
đoàn thể thường phải gắn bó với các tổ chức này và do đó nên ít gắn bó hơn
với những người ngoài tổ chức.
Trước những hạn chế đặt ra cho các tổ chức trong xã hội hiện đại, một
vấn đề lớn đặt ra cho những nhà xã hội học nghiên cứu tổ chức là làm thế
nào để nhân bản hóa tổ chức, có nghĩa là tạo ra một môi trường tổ chức dân
chủ hơn ở đó sự đóng góp của mọi người đều được chấp nhận và khuyến
khích, xem con người là nguồn lực lớn nhất của tổ chức. Các nhà nghiên cứu
tổ chức đã đúc kết một số lộ trình để làm cho tổ chức mang bộ mặt nhân bản:
1) hội nhập các thành viên không loại trừ ai 2) chia sẻ trách nhiệm và quyền
hành 3) phát triển sự thăng tiến cho mọi người.
Một trong các phương cách để thực hiện lý tưởng trên là hình thành
trong tổ chức những nhóm công tác tự quản.
V. QUAN HỆ SƠ CẤP VÀ TỔ CHỨC CHÍNH THỨC TRONG XÃ HỘI PHỨC TẠP, XÃ HỘI ĐẠI CHÚNG
Các nghiên cứu của Philip Selznick về đặc tính của đảng Bôn–sơ-vit
trong cuộc cách mạng 1917, của Shils và Janovitz về lính Đức quốc xã trong
thế chiến thứ hai, hay cuộc nghiên cứu của E. Mayo ở Hawthorne cho thấy
các nhóm sơ cấp vẫn còn tồn tại dai dẳng và có vai trò quan trọng, ngay cả
trong các tổ chức xã hội có quy mô lớn.
Xã hội càng lớn và phức tạp thì càng có khuynh hướng được hình
thành bởi những nhóm thứ cấp và các tổ chức chính thức. Điều này làm cho
xã hội càng có hiệu năng hơn nhưng chúng cũng có thể gây nên tình trạng
dửng dưng, tính cách máy móc, mơ hồ nơi cá nhân và cá nhân cũng không
còn thấy hạnh phúc, sự an toàn cá nhân như trong các nhóm sơ cấp của xã
hội cổ truyền. Durkheim chỉ ra rằng những thành viên trong những xã hội
phức tạp có tự do hơn trong việc chọn lựa tham gia đoàn thể nào, và tuân
theo chuẩn mực nào. Trước đây, trong các xã hội đơn giản – trong các xã hội
cổ truyền – hầu như các nhu cầu của con người đều chỉ được thoả mãn trong
các nhóm sơ cấp. Ngày nay con người có nhiều tự do hơn, nhưng họ cũng có
thể bị choáng ngợp với các chọn lựa đa dạng mở ra cho họ. Max Weber đã
khảo sát những hậu quả của việc gia tăng các tổ chức thư lại trong xã hội
hiện đại. Trong việc nghiên cứu này, ông đã phân biệt những động cơ lý trí
(rational motives) và những động cơ cổ truyền (traditional motives). Những
động cơ lý trí dựa trên sự tính toán giữa mục đích và phương tiện trong khi
những động cơ cổ truyền dựa trên niềm tin rằng một vài hành động nội tại là
đúng đắn, ví như chúng ta tin rằng việc chăm sóc con cái là một quy tắc
truyền thống của đời sống gia đình. Hành động do thúc đẩy bởi những động
cơ lý trí là đặc điểm của xã hội hiện đại hôm nay.
Thật ra những nghiên cứu của M. Weber về tổ chức quan liêu, về các
tổ chức chính thức chỉ được tiến hành ở các xã hội công nghiệp và trong bối
cảnh văn hóa của châu Âu và Bắc Mỹ. Ngày nay các nhà xã hội học ghi nhận
có những khuôn mẫu khác về các tổ chức chính thức trong những bối cảnh
văn hóa khác, mà Nhật Bản là một trường hợp điển hình. Theo William Ouchi,
các tổ chức chính thức của Nhật Bản phản ánh nột nền văn hóa nhấn mạnh ý
thức tập thể và tính liên đới xã hội. Ý thức tập thể này đã tránh cho Nhật bản
những vấn đề xã hội do chủ nghĩa cá nhân gây ra như đã từng tác hại ở châu
Âu và Bắc Mỹ. Tính liên đới, đoàn kết xã hội cũng mang lại cho các tổ chức
chính thức tại Nhật Bản những nét đặc trưng. Các tổ chức chính thức tại châu
Âu dựa trên những quan hệ thứ cấp, trong khi các tổ chức tại Nhật dựa trên
những quan hệ có tính sơ cấp hơn. Có tác giả còn cho rằng các tổ chức
chính thức ở Nhật chỉ là những đoàn thể sơ cấp có quy mô cực lớn.
W. Ouchi đã đưa ra năm điểm cho thấy sự khác biệt giữa các tổ chức
chính thức tại Nhật và châu Âu: 1) về sự thuê mướn và thăng tiến của nhân
viên; 2) về sự vững bền, gắn bó với xí nghiệp (an toàn nghề nghiệp); 3) về
cuộc sống riêng tư và hoạt động trong xí nghiệp, 4) về sự huấn luyện trong xí
nghiệp và 5) việc lấy các quyết định tập thể. Các điểm so sánh trên đều làm
nổi bật định hướng tập thể của các tổ chức chính thức tại Nhật. Điểm đáng
lưu ý, tại Nhật các mối ràng buộc xã hội của cá nhân được dùng như là một
phương tiện để gia tăng hiệu năng công việc và như vậy phải chăng đã bác
bỏ nhận định của M. Weber khi ông chủ trương rằng hiệu năng chỉ gắn với
những đặc trưng của những tổ chức bàn giấy.
Các nghiên cứu về xã hội học lao động của A. Caillies và Brilman khi
đối chiếu về văn hóa trong các xí nghiệp liên doanh Pháp – Nhật cũng cho ta
những nhận định tương tự. Một bên đề cao tập thể, dị biệt về thứ bậc
(hiéarchie) trong xí nghiệp được tôn trọng, chủ xí nghiệp gia trưởng nhưng là
người trung gian gần gũi với công nhân, tính đồng nhất về mặt tư tưởng. Bên
kia xem trọng cá nhân, thứ bậc chỉ được tôn trọng có giới hạn, chủ xí nghiệp
tách rời công nhân và tính không thuần nhất về mặt tư tưởng.
Tóm lại, cuộc sống trong xã hội hiện đại hôm nay đòi hỏi chúng ta phải
có nhiều kỹ năng để hoàn thành các vai trò trong các loại hình nhóm, trong
các tổ chức khác nhau. Cuộc sống trên đòi hỏi chúng ta phải cân bằng các
động lực tình cảm và lý trí, phải thấu hiểu tương quan giữa các nhóm khác
nhau và tương quan giữa các cá nhân trong các nhóm, phải biết phối hợp hài
hòa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể. Kinh nghiệm của xã hội Nhật Bản
trong việc giải quyết các mục tiêu cá nhân, các quyền lợi cá nhân thông qua
các tổ chức tập thể đáng cho chúng ta suy nghĩ.
Chương 6. PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘITrong mọi xã hội, khuynh hướng tiến đến sự công bằng là một lực
không thể tránh khỏi.
A. de Tocqueville
Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa.
Bao giờ dân nổi can qua,
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Ca dao Việt Nam.
Tục ngữ ta có câu: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Đây là
một nhận xét xuất phát từ một kinh nghiệm dân gian về sự thăng trầm của xã
hội, hay là một tư tưởng chịu nhiều ảnh hưởng quan niệm biến dịch phổ biến
ở nhiều dân tộc Á đông, hay chỉ là một sự an ủi thông thường của người đời?
Nhà xã hội học nổi tiếng người Pháp Pierre Bourdieu quan niệm rằng
trong cuộc chơi của chúng ta trong xã hội, chúng ta đã thừa hưởng và mang
theo bên mình ba loại vốn (capitaux) – trong nghĩa đen cũng như trong nghĩa
bóng: vốn liếng kinh tế (vd: gia sản, lợi tức…), vốn liếng xã hội (mạng lưới
những quan hệ xã hội) và vốn liếng văn hóa (bằng cấp, trình độ học vấn…).
Chính những khác biệt về vốn liếng đã đặt mỗi cá nhân vào những vị trí khác
nhau trong các tầng lớp xã hội khác nhau.
I. KHÁI NIỆM PHÂN TẦNG XÃ HỘI 1. Bất bình đẳng xã hội và sự phân tầng xã hội (stratification
sociale):
Con người trong xã hội mang nhiều đặc điểm khác nhau về giới tính,
tuổi tác, chủng tộc, tôn giáo, tài sản, uy tín xã hội, quyền hành…Chúng ta gọi
những sự khác biệt này là bất bình đẳng xã hội. Ở đây khái niệm bất bình
đẳng chưa mang một sự phê phán giá trị (jugement de valeur) tốt hay xấu.
Các nhà xã hội học cố gắng khám phá nguồn gốc những bất bình đẳng
trong cơ cấu và trong văn hóa của chính các xã hội này. Họ cũng biết rằng có
những khác biệt bẩm sinh giữa những cá nhân, và sự phát triển của từng cá
nhân cũng đào sâu những khác biệt này, nhưng mặt khác các nhà xã hội học
quan niệm nền văn hóa và cơ cấu xã hội có thể củng cố và duy trì những
khác biệt, những bất bình đẳng cá nhân đó. Hơn thế nữa, mỗi xã hội có
những phương cách khác nhau trong việc sở hữu các tư liệu sản xuất và các
tư liệu này đến lượt chúng chi phối quá trình tái sản xuất, và đào tạo các thế
hệ kế tiếp. Do đó, nhà xã hội học nghiên cứu xem những sự khác biệt trên
hình thành nên những mô thức bất bình đẳng khác nhau như thế nào trong
các xã hội cụ thể.
Những sự bất bình đẳng chỉ trở thành phân tầng xã hội khi các cá nhân
được sắp xếp theo các vị trí cao thấp theo những thuộc tính của mình như lợi
tức, của cải, quyền hành, uy tín, tuổi tác, tôn giáo, dân tộc…Như vậy, khái
niệm phân tầng xã hội (social stratification) ám chỉ những phương thức mà xã
hội sắp xếp các thành viên của mình trên cơ sở sự giàu có, quyền lực hay uy
tín xã hội.
2. Sự di động xã hội (social mobility):
Những xã hội trong đó ranh giới giữa các tầng lớp xác định rõ rệt, và
thành viên thuộc tầng lớp xã hội này không thể chuyển qua một tầng lớp xã
hội khác một cách dễ nàng, được gọi là những xã hội đóng kín (closed
societies). Ngược lại, những xã hội mở rộng (open societies) là những xã hội
trong đó con người có thể dễ dàng vượt qua ranh giới giữa những tầng lớp.
Việc di chuyển từ tầng lớp xã hội này qua tầng lớp xã hội khác được gọi là di
động xã hội. Sự di động này có thể là sự di động đi lên (upwardly mobile).
Như trong trường hợp khi một gia đình giàu lên và bắt đầu sở hữu các
phương tiện sản xuất và sinh hoạt của tầng lớp trên. Và trường hợp ngược lại
là di động đi xuống (downwardly mobile).
Hầu như đặc điểm của các xã hội có phân tầng đóng kín đặt cơ sở trên
những đẳng cấp (castes), là những tầng lớp trong đó con người được sinh ra
và gắn liền suốt đời. Thành viên của một đẳng cấp khi sinh ra thì gắn liền với
vị trí xã hội đã được chỉ định (ascribed status) như chúng ta đã đề cập ở các
chương trên. Các thành viên của một đẳng cấp không có thể hi vọng rời bỏ
đẳng cấp của mình. Hệ thống đẳng cấp thường dựa trên nền tảng hệ ý thức,
tôn giáo, tín ngưỡng. Kinh Rig Veda dạy rằng, xã hội Hindu, do ý muốn của
thần thánh, được chia ra làm bốn đẳng cấp chính: Brahmin (tu sĩ), Kshatriya
(chiến sĩ), Vaisya (nông dân và thương nhân), Sudra (đầy tớ và thợ thủ công).
Ngoài ra còn có những người hoàn toàn bị gạt ra ngoài xã hội, “những người
không được đụng đến” (intouchables). Các xã hội châu Âu thời phong kiến
cũng dựa trên những đẳng cấp, được gọi là état (Pháp) hay estate (Anh),
gồm có giới tăng lữ, giới quý tộc và giới thứ dân. Các xã hội nô lệ ở Nam Mỹ,
chế độ apartheid ở Nam Phi trước đây là điển hình của các xã hội đẳng cấp
(ở Nam Phi trước đây có luật đất đai quy định đất đai thuộc về thiểu số da
trắng, luật quy định những khu vực cư trú riêng của người da màu trong các
khu vực riêng gọi là ghetto, không cho người da đen đi bỏ phiếu…Vào cuối
năm 1993, Nam phi độ soạn thảo hiến pháp mới để xóa bỏ chế độ phân biệt
chủng tộc này).
Đặc điểm phân tầng của các xã hội mở rộng là giai cấp. Giai cấp là
những tầng lớp xã hội chủ yếu dựa trên những tiêu chuẩn kinh tế, như vị trí
trong hệ thống sản xuất, nghề nghiệp lợi tức tài sản…Giai cấp của các xã hội
hiện đại không đồng nhất, trong bất kỳ một giai cấp nào đều có các nhóm
khác nhau tùy theo mức độ uy tín mà họ nhận được từ xã hội nói chung.
Những nhóm như vậy thường được gọi là nhóm địa vị (status group). Ví như
trong xã hội người Mỹ, những người giàu, da trắng, theo đạo Tin lành, gốc
Anglo–saxon được trọng vọng nhất trong tầng lớp những người giàu ở Mỹ.
Phương cách mà con người tập hợp lại tùy theo mức độ họ có thể sử
dụng được các tài nguyên hiếm hoi xác định những cơ hội sinh tồn (life
chances) của họ, nghĩa là những cơ hội có thể có được hay sẽ bị từ chối suốt
cuộc đời do vị trí xã hội của họ. Mỗi tầng lớp xã hội đều có một lối sống riêng
(life–style), có những ngành nghề riêng, hưởng những nền giáo dục với chất
lượng khác nhau, và sử dụng thời gian nhàn rỗi cũng khác nhau.
II. PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ NỀN VĂN HOÁ Các định chế xã hội, như định chế giáo dục, chuẩn bị cho con người
chấp nhận các vị trí của mình trong xã hội. Nhưng tại sao con người, kể cả
những người ở tận đáy xã hội, lại phải chấp nhận vị trí của mình trong xã hội?
Câu trả lời thường là họ không còn chọn lựa nào khác, họ không có cơ hội,
phương tiện kinh tế cũng như chính trị để thay đổi cuộc sống của mình. Họ
cũng có thể nổi loạn để chống lại sự bất công. Nhưng một trong các lý do
khiến họ chấp nhận vị trí của mình chính là sự phân tầng xã hội cũng là một
bộ phận hữu cơ trong nền văn hóa của họ và nền văn hóa này đã ăn sâu
trong nếp nghĩ của họ.
Nói cách khác con người chấp nhận vị trí của mình trong một hệ thống
phân tầng xã hội chính bởi vì hệ thống đó được củng cố bởi những giá trị tiềm
tàng trong nền văn hóa của họ. Những khía cạnh của văn hoá biện minh cho
hệ thống phân tầng xã hội đã được học hỏi trong quá trình xã hội hóa. Trong
một ý nghĩa nào đó, xã hội phong kiến, qua những câu tục ngữ như:” Đói cho
sạch, rách cho thơm”, “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”;
…chỉ dạy cho con người chấp nhận sự phân tầng xã hội đang tồn tại.
Hệ thống phân tầng xã hội thường được biện minh bởi hệ ý thức, như
hệ ý thức mác xít, hệ ý thức tư bản, hệ ý thức bàlamôn… Trong xã hội Mỹ
chẳng hạn, người ta đã được dạy rằng quyền tư hữu là một quyền thiêng
liêng, làm việc trong các xí nghiệp tư là một phương cách tốt để kiếm sống…
Tư tưởng nho giáo trước đây cũng nhấn mạnh việc mọi người phải chấp
nhận và làm tròn vai trò của mình (“quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; hay
“ tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”). Triết lý bàlamôn cũng
chỉ là một triết thuyết biện minh cho hệ thống đẳng cấp ở Ấn Độ. Tôn giáo
như vậy cũng thường hợp thức hóa các hệ thống phân tầng xã hội. Tuy nhiên
Phật giáo, Kitô giáo, trong giai đoạn đầu đã chống lại hệ thống xã hội thời đó
– hệ thống xã hội của xã hội Ấn giáo và của đế quốc La mã và của cả người
Do thái– và đã đứng về phía những người nghèo. Kinh thánh có câu: con lạc
đà chui qua lổ kim còn dễ hơn người giàu vào nước thiên đàng”. Nhưng qua
nhiều thế kỷ các tôn giáo này đã bị “định chế hóa”, ví như Kitô giáo thời Trung
cổ đã ủng hộ chế độ phong kiến ở Châu âu. Nhiều vị vua phải được tấn
phong bởi thần quyền, và giới tăng lữ đã nhận nhiều quyền lợi từ chế độ…
Chính vì vậy có quan điểm cho rằng tôn giáo có hai chức năng mâu thuẫn:
chức năng cách mạng (hay tiên tri) và chức năng quy phục (submissive
function).
Ở mức độ vi mô, những qui tắc của các mối tương tác hàng ngày được
sử dụng để củng cố hệ thống phân tầng của xã hội. Điều này đặc biệt thể hiện
trong ngôn ngữ giao tiếp.
III. PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ QUYỀN LỰCNhững sự thay đổi trong những hệ thống phân tầng xã hội có thể xảy ra
với sự sắp xếp lại về mặt quyền lực xã hội cũng như do những thay đổi về
kinh tế và văn hóa. Quyền lực (power, pouvoir) đã được Weber định nghĩa
như là “khả năng của một tác nhân trong quan hệ xã hội khi ở vào một vị trí
có thể thực hiện ý muốn riêng của mình cho dù có sự phản kháng”. Quyền lực
trong ý nghĩa như vậy bao gồm cả quyền lực chính đáng và quyền lực không
chính đáng. Quyền lực chính đáng được gọi là uy quyền (authority)– là quyền
lực được mọi người thừa nhận và đây là yếu tố chủ yếu trong việc duy trì
tương quan hiện hữu trong các đẳng cấp, trong các giai cấp. Khi thiếu quyền
lực chính đáng để duy trì trật tự xã hội người ta phải sử dụng nhiều vũ lực.
Quy luật này không chỉ ứng dụng cho các xã hội vi mô mà cả cho các nhóm
nhỏ, các tổ chức xã hội nói chung. Theo Max Weber, uy quyền có thể xuất
phát từ truyền thống, từ tính hợp pháp hay hợp lý hay từ sức thu hút cá nhân
của một lãnh tụ.
Tóm lại, để hiểu được tại sao các tầng lớp nhân dân chấp nhận vị trí
của họ trong xã hội, không chỉ phải nghiên cứu vai trò của văn hóa, của hệ ý
thức mà còn phải tìm hiểu quyền lực và uy quyền được sử dụng để duy trì
các mối quan hệ đang tồn tại giữa các giai cấp. Như việc nghiên cứu cuộc
cách mạng Pháp 1789 cho thấy quyền lực và uy quyền đã được sử dụng như
thế nào, sự phân tầng xã hội ra sao, tại sao dân chúng Pháp từ việc chấp
nhận vương quyền tuyệt đối cuối cùng đã kết thúc cuộc cách mạng một cách
đẫm máu.
IV. TƯ LIỆU SẢN XUẤT, SỰ PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘI TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Những lực lượng chủ yếu dẫn đến sự phân tầng trong xã hội được tạo
nên bởi việc sở hữu những tư liệu sản xuất (có tác giả sử dụng thuật ngữ
“phương tiện hiện hữu” (means of existence)) trong một xã hội nhất định. Ví
như đối với những người nông dân bình thường, chiếm đại bộ phận dân cư
trên thế giới phân tầng xã hội dựa trên sở hữu đất đai và lao động nông
nghiệp. Với những người thuộc các tầng lớp thấp nhất, các bần nông, cố
nông chẳng hạn, do không sở hữu hay chỉ sở hữu ít ruộng đất họ phải làm
công việc nặng nhọc, phải đem sức lao động của mình ra bán, trong khi
những người thuộc tầng lớp trên, như thiểu số các điền chủ – có nhiều ruộng
đất – nên có thể sống một đời sống tương đối tiện nghi. Trong xã hội công
nghiệp hiện đại, tương quan của cá nhân đối với các tư liệu sản xuất vẫn là
yếu tố cơ bản trong việc xác định vị trí của một cá nhân trong hệ thống phân
tầng xã hội.
Xã hội công nghiệp hiện đại được đánh dấu bởi di động cơ cấu
(structural mobility), là việc loại bỏ cả những giai cấp, hay giảm bớt số lượng
thành viên trong một giai cấp do sự phát triển của kỹ thuật trong sản xuất, do
sự thay đổi các tư liệu sản xuất. Ví như cuộc cách mạng công nghiệp đã giảm
giai cấp nông dân ở Mỹ từ tỷ lệ 90% vào đầu thế kỷ xuống chỉ còn 2,9% dân
số hoạt động (1991). (So sánh với Anh: 2,2%; Đức: 3,3%; Pháp: 6%; Nhật:
6,7%; Liên Xô (1991): 18,8%; Trung quốc: 59,5%; Ấn độ: 66,5%; Thái lan:
63,8%; Việt nam: 72,2%.) Di động cơ cấu là sự chuyển dịch cơ cấu các lãnh
vực hoạt động kinh tế như xu hướng giảm lao động trong lãnh vực đệ nhất
đẳng và đệ nhị đẳng và xu hướng gia tăng lao động trong lãnh vực dịch vụ
trong các xã hội công nghiệp hiện nay.
Đặc điểm thứ hai của xã hội công nghiệp hiện tại là tính di động không
gian (spatial mobility) là việc di chuyển các cá nhân và các tập thể từ địa
phương này đến địa phương khác, đặc biệt là đến các thành thị. Hiện tượng
này do việc giảm vai trò của nông thôn, do dư thừa lao động ở nông thôn và
sự gia tăng tầm quan trọng của các định chế tập trung ở thành thị, như các thị
trường, các công ty, các cơ quan nhà nước. Nơi cư trú và nơi làm việc dần
dần tách rời nhau, làm cho tình cảm của cá nhân đối với cộng đồng địa
phương cũng giảm đi.
Khi nghiên cứu sự di động xã hội ta phải phân biệt rõ di động cơ cấu và
di động xã hội thực (mobilité nette). Như đã đề cập, di động cơ cấu là do tác
động của tiến bộ kỹ thuật lên cấu trúc nghề nghiệp – xã hội, trong khi di động
xã hội thực là sự chuyển đổi nghề nghiệp thực sự do sự chọn lựa của cá
nhân.
Ta cũng có thể phân biệt sự di động xã hội trong từng thế hệ
(intragenerational) và di động liên thế hệ (intergenerational). Di động nội thế
hệ đó là các cơ hội mà một cá nhân có thể đi lên hay rơi xuống một tầng lớp
xã hội khác trong quãng đời của mình. Còn di động liên thế hệ thường được
đo lường bằng cách so sánh địa vị trong giai cấp xã hội của hai thế hệ cha và
con (cũng có thể ba thế hệ: ông nội, cha, con).
Một cuộc nghiên cứu của Lipset và Bendix vào những năm 60 về sự di
động liên thế hệ tại 6 nước công nghiệp cho thấy khoảng 1/3 thế hệ trẻ đã
thăng tiến trong bậc thang xã hội:
Di động liên thế hệ tại sáu nước công nghiệp
Nước Di động xã hội đi lên: Di động xã hội đi xuống:
CHLB Đức (cũ)
Thụy Điển
Mỹ
Nhật
Pháp
Thụy Sĩ
29%
31%
33%
36%
39%
45%
32%
24%
26%
22%
20%
13%
Nguồn: S.M. Lipset, R. Bendix, Social mobility in industrial society,
Berkeley, Uni. of California Press, 1967.
Một cuộc nghiên cứu khác tại Pháp vào năm 1985 cho ta bảng tổng
hợp và chi tiết hơn như sau:
Phạm trù xã hội –
nghề nghiệp của
người cha:
Phạm trù xã hội – nghề nghiệp của người con:
- gc thống trị: - gc trung
lưu:
- gc bình
dân:
Tổng
cộng
- gc thống trị: 60,7% 32,2% 7,1% 100%
- gc trung lưu: 25,0% 52,2% 22,8% 100%
- gc bình dân: 7,2% 35,8% 57,0% 100%
Nguồn: Alternatives economiques, 6–1988.
Theo bảng trên, vào năm 1985, đối với 100 người con có cha thuộc
“giai cấp thống trị”, thì 60,7 người cũng có nghề nghiệp thuộc giai cấp này,
32,2 rớt xuống giai cấp trung lưu và 7,1 xuống giai cấp bình dân…Nhìn chung
cả ba giai cấp, thế hệ con vẫn tiếp tục nghề nghiệp của thế hệ cha. Nhưng
mặt khác ở các giai cấp trung gian, di động diễn ra nhiều hơn so với các giai
cấp khác. Những cuộc nghiên cứu tính di động xã hội của ba thế hệ liên tiếp
cho thấy tác động của yếu tố “dòng họ”, đặc biệt là địa vị xã hội của người
ông. Ví như những đứa con có cha là cán bộ, ông nội là công nhân thì cơ hội
ở lại trong giai cấp cán bộ của cha biến thiên từ 59,4% xuống 35,0% và nguy
cơ rớt xuống giai cấp thợ thuyền từ 2,7% lên 11%.
V. CÁC LÝ THUYẾT VỀ SỰ PHÂN TẦNG XÃ HỘI Phân tầng xã hội là một trong những vấn đề xã hội mấu chốt, do đó các
nhà tư tưởng xã hội, các lý thuyết xã hội đều ít nhiều có đề cập đến. Triết gia
Aristote quan niệm rằng tự bản chất có những người tự do và những người
nô lệ. Một số nhà tư tưởng xã hội cho rằng sự phân cấp xã hội là một điều
xấu xa cần phải phê phán và hủy bỏ. Những người khác lại cho rằng đó là
một điều cần thiết cho sự tồn tại xã hội. Một số người lại quan niệm đây là
một hiện tượng phức tạp cần phân tích và thấu hiểu nếu chúng ta muốn lãnh
hội được ứng xử của con người trong xã hội.
A. Lý thuyết mác–xít về giai cấp:
Sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản đã có những ảnh hưởng sâu đậm
trên các hệ thống phân tầng. Các tác phẩm căn bản của Marx như Đấu tranh
giai cấp tại Pháp, Tuyên ngôn Đảng cộng sản… đều có đề cập đến vấn đề
giai cấp. Nhưng định nghĩa tổng hợp nhất về giai cấp xã hội có lẽ là định
nghĩa của Lênin: “Giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa
vị xã hội của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,
khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai
cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động
của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ
kinh tế xã hội nhất định” (V.I Lênin, Toàn tập, tập 29, nxb Sự thật, Hà
Nội,1971, tr. 479–480).
Theo K. Marx và Lênin kết cấu giai cấp do phương thức sản xuất quyết
định. Ba phương thức sản xuất xã hội có đối kháng giai cấp có ba kết cấu
riêng. Phân tích kết cấu giai cấp và sự biến đổi của nó giúp ta hiểu vị trí vai trò
và thái độ chính trị của mỗi giai cấp trước sự phát triển của lịch sử. Đấu tranh
giai cấp phát sinh từ sự đối lập về lợi ích và vị trí của các giai cấp khác nhau
trong một hệ thống sản xuất nhất định. Và đấu tranh giai cấp là động lực phát
triển của xã hội có giai cấp vì chính thông qua đấu tranh giai cấp mà sự xung
đột giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất già cỗi được giải quyết.
Chủ nghĩa tư bản phân chia xã hội thành giai cấp đặt cơ sở trên quyền
sở hữu các tư liệu sản xuất. Nhưng làm thế nào để giai cấp có thể có những
hành động đấu tranh tập thể? Marx đã đưa ra sự phân biệt giai cấp khách
quan và giai cấp chủ quan. Giai cấp khách quan là giai cấp có quan hệ rõ
ràng đối với phương tiện sản xuất. Ví như giai cấp công nhân không sở hữu
tư bản, không sở hữu tư liệu sản xuất. Còn giai cấp chủ quan lệ thuộc vào
nhận thức của một tầng lớp xã hội về vị trí, về tình huống của mình xét như là
một giai cấp. Nếu thiếu ý thức giai cấp thì không thể tiến hành đấu tranh.
Trong chế độ tư bản, giai cấp đông đảo nhất trong các giai cấp và đại diện
cho lực lượng sản xuất mới là giai cấp công nhân, họ phải bán sức lao động
để đổi lấy tiền lương. Marx cũng cho rằng giai cấp công nhân ý thức bị bóc lột
thặng dư giá trị, và họ đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Kết quả của cách
mạng sẽ đưa đến một xã hội không giai cấp.
B. Quan điểm của Max Weber:
Marx định nghĩa giai cấp theo những tiêu chuẩn kinh tế. Trong khi M.
Weber cho thấy phân tầng xã hội không chỉ dựa trên của cải, mà còn trên yếu
tố uy tín xã hội, và cả trên yếu tố quyền lực, hay nói cách khác ông quan niệm
giai cấp bao gồm cả ba chiều kích nói trên.
Theo Max Weber, giai cấp (classe) hay quyền lực về mặt tiền bạc được
quyết định bởi khả năng cạnh tranh của cá nhân trên thị trường lao động. Một
giai cấp là tập hợp những cá nhân ở vào cùng một vị trí xã hội với cùng
những cơ may trước cuộc sống (lifes chances). Cơ may này không chỉ là cơ
may trước những điều kiện vật chất, mà còn là khả năng có được hay không
có được quyền lực, để từ đó có được của cải vật chất, có được khả năng tìm
kiếm lợi tức trong một xã hội nhất định. Nhưng thuộc về một giai cấp không
nhất thiết đưa đến hành động chung của giai cấp (như phân biệt giai cấp chủ
quan và khách quan của lý thuyết mác–xít) và quyền lực tiền bạc không nhất
thiết đem lại địa vị xã hội hay là uy tín xã hội.
Weber định nghĩa địa vị (status) như là mức độ uy tín trong một cộng
đồng, trong xã hội. Giai cấp kinh tế có tính cách vô ngã, khách quan trong khi
địa vị có tính cách chủ quan, vì là kết quả đánh giá của con người. Những
người có cùng mức độ uy tín thường có cùng một lối sống (style of life), nghĩa
là có chung các lối ứng xử, lối sinh hoạt. Vì có chung một lối sống, một mức
độ uy tín, nên họ thường giao tiếp với nhau, do đó hình thành nên những
nhóm cùng địa vị (status group), những tương tác không có tính cách kinh tế
như hoạt động trong thời gian nhàn rỗi, hôn nhân…– thường xảy ra trong
nhóm cùng vị thế xã hội.
Bình diện thứ ba của phân tầng xã hội theo M. Weber là quyền lực
chính trị, là đảng phái (party) – là khả năng tác động lên hành động của người
khác trong các nhóm có tổ chức, hay lên các quyết định tập thể của cộng
đồng hay của xã hội. Trong các xã hội công nghiệp, quyền lực đó nằm trong
tay các tổ chức thư lại có qui mô lớn như công ty, xí nghiệp thương mại và
các cơ quan chính quyền.
Như vậy, trong khi một số nhà xã hội học xem uy tín xã hội và quyền
lực chính trị chỉ là những hệ luận của vị trí kinh tế thì M. Weber cho thấy rằng
ba chiều kích của giai cấp đan xen nhau rất phức tạp. Thông thường ba loại
quyền lực này đi đôi với nhau, và việc sở đắc một loại sẽ kéo theo những loại
quyền lực khác. Một cách tổng quát, những người nào trong cùng một nhóm
địa vị phải có cùng những vị trí kinh tế để có thể đeo đuổi một lối sống riêng.
Những thành viên trong cùng một nhóm địa vị (nhất là tầng lớp trên) thường
hạn chế cơ hội để thành viên của các tầng lớp khác gia nhập nhóm riêng của
mình, họ thường dùng quyền lực “đảng phái” vào mục tiêu này. Nhưng cũng
trong nhiều trường hợp, ba chiều kích này không nhất thiết đi đôi với nhau.
Lấy thí dụ, tu sĩ Pierre – người luôn đấu tranh cho quyền lợi những người
nghèo, người hiện nay được dân chúng Pháp đánh giá cao nhất, có uy tín xã
hội cao nhất mà ngay giới chính trị Pháp cũng phải nể sợ – lại là người nghèo
về mặt tiền bạc. Như vậy quan điểm của M. Weber cho thấy rằng sự phân
tầng xã hội trong xã hội có giai cấp không nên được nhìn dưới những sự
phân loại rõ rệt, nhưng cần xem như là một sự sắp xếp trên một thứ bậc có
nhiều chiều kích. Ngày nay các nhà xã hội học mô tả thứ bậc đó qua khái
niệm vị trí kinh tế–xã hội (socioeconomic status) – là một sự sắp xếp dựa trên
những chiều kích khác nhau của sự bất bình đẳng xã hội như lợi tức, tài sản,
uy tín nghề nghiệp và học vấn. Chính trên quan điểm này mà các nhà xã hội
học phương Tây thường phân xã hội của họ ra các giai cấp như: giai cấp
thượng lưu (lớp trên, lớp dưới), giai cấp trung lưu (lớp trên, lớp dưới), giai
cấp công nhân và giai cấp hạ lưu. Lấy thí dụ trong trường hợp xã hội Mỹ, theo
Macionis giai cấp thượng lưu chiếm khoảng 4% dân số, giai cấp trung lưu
khoảng 40–45%, giai cấp công nhân (working class) khoảng 30% và giai cấp
hạ lưu khoảng 20%.
Cũng trong ba yếu tố cấu thành giai cấp, theo Weber mỗi yếu tố có một
tầm quan trọng đặc biệt qua các thời kỳ lịch sử. Trong xã hội nông nghiệp
theo ông đó chính là yếu tố uy tín xã hội, trong các xã hội công nghiệp vào
giai đoạn đầu đó là chiều kích kinh tế của giai cấp và trong các xã hội công
nghiệp đã chín mùi với sự phát triển của các tổ chức chính thức có quy mô
lớn thì yếu tố quyền lực giữ vai trò trội yếu. Do đó, trong các xã hội hiện đại
yếu tố đưa lại bất bình đẳng xã hội chính là yếu tố quyền lực.
Trong những nghiên cứu về sự phân tầng xã hội hiện nay ở Việt Nam,
quan điểm của M. Weber cũng đã được vận dụng: Quán triệt quan điểm Mác
xít về hình thái kinh tế xã hội, chúng tôi vận dụng thêm lý thuyết xã hội học
của Max Weber về phân tầng xã hội qua cách phân tích cơ may và hoàn cảnh
kinh tế của mỗi người trong thị trường, vị thế và vai trò xã hội của họ, và cùng
với cái đó là địa vị của họ trong hệ thống quyền lực”. Và cũng trong bài báo
nghiên cứu về sự phân tầng tại Hà nội đó, tác giả đã đi đến nhận định: “Trong
3 yếu tố của sự phân tầng, yếu tố quyền lực đang nổi lên rõ nhất, các yếu tố
về sở hữu và về trí tuệ (hoặc uy tín) bị chìm đi trong yếu tố thứ nhất. Quyền
lực đang tạo ra sở hữu.” (Phần chữ nghiêng là của tác giả bài báo). Quyền
lực ở đây trong ý nghĩa là khả năng chi phối người khác, không chỉ dành cho
người lãnh đạo cấp cao, mà cả một giáo viên, một nhân viên hành chánh
cũng có thể có quyền lực.
C. Các lý thuyết mâu thuẫn xã hội:
Các lý thuyết mâu thuẫn hiện đại tin tưởng rằng mâu thuẫn giai cấp là
lý do tiên quyết cho sự thay đổi xã hội. Tuy nhiên giữa các lý thuyết có bất
đồng về bản chất giai cấp của các xã hội tư bản, về đặc tính của giai cấp
công nhân (như nhận xét của Erik Olin Wright, 1979), về đánh giá quy mô
xung đột giữa giai cấp tư bản và giai cấp công nhân. Một số người thuộc lý
thuyết này như Melvin Tumin (1966), chú trọng những khía cạnh khác của sự
phân tầng xã hội, ngoài vấn đề xung đột. Theo Tumin, phân tầng xã hội hạn
chế khả năng khám phá ra những tài năng trong xã hội; đưa đến những nhận
thức về mình không thuận lợi cho sự sáng tạo của cá nhân; tạo nên những sự
nghi ngờ, thù địch, hạn chế sự hội nhập xã hội. R.Sennet và J. Cobb (1972)
đã dùng thuật ngữ “những vết thương được che dấu của giai cấp” để mô tả
hiện tượng sự nghèo đói đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên những người
thuộc tầng lớp dưới dù sau này họ đã thoát khỏi cảnh bần cùng.
D. Các lý thuyết chức năng:
Năm 1945, K. Davis và W. Moore đưa ra lý thuyết về sự phân tầng xã
hội, hai ông cho rằng xã hội vận hành được là do có sự phân tầng xã hội và
đôi lúc sự phân tầng xã hội là thật sự cần thiết cho xã hội. Bởi lẽ sự phân bố
không đồng đều các phần thưởng sẽ quy tụ những người có tài năng vào
những vai trò quan trọng trong xã hội. Các vai trò này đôi lúc đòi hỏi sự huấn
luyện cao, sự hy sinh cá nhân và luôn ở trong những tình huống căng thẳng.
Lấy thí dụ, năm 1984, với album như Thriller, M. Jackson hưởng được 37
triệu dollars mỹ và CBS lời 250 triệu. Đây là sự tưởng thưởng cho tài năng
của M. Jackson và cho sự mạo hiểm của CBS và chính nhờ có sự mạo hiểm
của CBS mà xã hội mới thưởng thức được tài năng của M. Jackson. Theo
Davis và Moore xã hội sẽ không còn sự phân tầng xã hội khi mọi người đều
có các tài năng như nhau, có thể đảm trách bất kỳ vị trí nghề nghiệp nào.
Lý thuyết chức năng giải thích được một số hiện tượng và phù hợp với
những thăm dò dư luận chung cho rằng hệ thống phần thưởng không bình
quân là cần thiết, sự bất bình đẳng là một điều không tránh khỏi. Tuy nhiên,
M. Tumin đã phê phán rằng tầm quan trọng của một số nghề nghiệp đôi lúc
không do bản chất của nghề nghiệp đó mà do một số nhóm xã hội đang nắm
quyền lực tạo ra một cách giả tạo. Quan điểm này cũng bị phê phán bởi lẽ nó
giả định xã hội vận hành dựa trên cơ sở đối xử thích đáng với các tài năng,
nhưng trong thực tế nó không chú ý sự kiện những phần thưởng cho người
thuộc thế hệ này lại là cơ may cho người thuộc thế hệ kế tiếp; nó cũng không
giải thích được tại sao những người tài năng thuộc các giai cấp dưới thường
không có thể nắm giữ những địa vị xã hội cao. Một cách tổng quát, có một số
phản chức năng (dysfonctions) mà lý thuyết chức năng đã không giải thích
được, đã không quan tâm đến như khuynh hướng của một số nhóm trong xã
hội dùng của cải, quyền lực để duy trì địa vị xã hội của họ, ngăn cản di động
xã hội của những người khác. Và như vậy phân tầng xã hội không phải là hữu
ích cho toàn xã hội mà nó còn là nguyên nhân của những xung đột trong xã
hội.
E. Lý thuyết tương tác:
Các lý thuyết mâu thuẫn và chức năng đã giải thích sự phân tầng xã hội
trên cơ sở kinh tế. Tuy nhiên các lý thuyết này chưa giải thích đủ việc tạo uy
tín xã hội của các tầng lớp xã hội. Theo lý thuyết tương tác, uy tín của một
người trong giai cấp không được đánh giá bằng những gì cá nhân đã sản
xuất hay bằng của cải của người đó mà bằng những tiện nghi mua sắm mà
qua đó cá nhân muốn biểu lộ con người của mình. Ví như, một tầng lớp giàu
mới ở thành phố HCM, biểu hiện thế giá xã hội của mình bằng việc sắm xe
hơi, chơi tennis, chơi golf, xây hồ tắm trong nhà, đi ăn nhà hàng, đi du lịch
nước ngoài… Và khi những tầng lớp dưới bắt chước theo những “mode” đó,
thì tầng lớp trên thay đổi, tìm những biểu hiện mới, “không thông dụng”
(Dowd, 1985). Như vậy lý thuyết tương tác không giải thích sự xuất hiện của
các giai cấp xã hội, nhưng chủ yếu giúp hiểu ứng xử của các nhóm địa vị
trong từng giai cấp. Và các ứng xử này, đến lượt chúng, xác định, củng cố
hay thách đố sự phân tầng xã hội. Tóm lại, theo lý thuyết tương tác, hệ thống
phân tầng xã hội không phải là một hệ thống cố định nhưng luôn luôn được
tái tạo qua ứng xử hàng ngày của từng triệu con người.
F. Quan điểm của G. Lenski và J. Lenski:
Hai vợ chồng Lenski cho rằng phân tầng xã hội đã biến chuyển qua các
giai đoạn lịch sử. Trong các xã hội săn bắt hái lượm, do trình độ kỹ thuật còn
sơ khai, nên hoạt động kinh tế chưa có thặng dư và không có tầng lớp nào
tích lũy nhiều của cải hơn các tầng lớp khác. Do đó sự phân tầng xã hội chỉ ở
mức tối thiểu.
Khi kỹ thuật sản xuất tiến bộ hơn, như trong các xã hội trồng trọt, chăn
nuôi, nông nghiệp, nền kinh tế sản xuất ra của cải thặng dư, một thiểu số ưu
đãi đã kiểm soát và tích lũy nguồn thặng dư của cải vật chất này. Dần dà
những lợi thế và bất bình đẳng quyền lực được định chế hóa và một hệ thống
phân tầng xuất hiện.
Nhưng theo hai tác giả này, trong xã hội công nghiệp, sự bất bình đẳng
xã hội có xu hướng giảm đi, bởi lẽ hoạt động sản xuất trong các xã hội công
nghiệp đòi hỏi trình độ học vấn, huấn luyện và trình độ chuyên môn cao ở
người công nhân. Điều này có nghĩa là càng ngày càng có một bộ phận lớn
dân cư có khả năng kiểm soát tài nguyên của xã hội nhiều hơn. Như vậy bất
bình đẳng xã hội có xu hướng giảm, bởi lẽ xu hướng này có lợi cho sự vận
hành của xã hội công nghiệp.
VI. BIẾN CHUYỂN CỦA PHÂN TẦNG XÃ HỘI Trong các xã hội phương Tây, người ta thường đưa ra sự phân tầng xã
hội dựa trên sự phối hợp các tiêu chuẩn về nghề nghiệp, các phạm trù xã
hội–nghề nghiệp (địa vị xã hội, uy tín, thu nhập…) và trình độ học vấn, chuyên
môn. Lấy thí dụ sự phân loại tổng hợp mà Gérard Ignasse và Marc–Antoinne
Génissel đưa ra: 1– những người lao động không chuyên môn, 2– lao động
chân tay có chuyên môn và nhân viên, 3– nhân viên kỹ thuật và cán bộ, 4–
cán bộ có trình độ đại học. Các tầng lớp trên đã biến chuyển qua các giai
đoạn phát triển kinh tế.
Trước giai đoạn công nghiệp hóa, sự phân tầng có cơ cấu hình kim tự
tháp: đáy lớn với đại bộ phận thuộc tầng lớp 1 (nghèo, không chuyên môn),
tầng lớp 4 (chuyên môn cao, giàu) ít, có nghĩa là càng lên cao các tầng lớp
càng có ít người.
Quá trình công nghiệp hóa đòi hỏi nhiều nhân lực chuyên môn, thu
nhập của nhiều người được tăng lên, do đó tầng lớp 1 sẽ giảm bớt đi, các
tầng lớp trung gian và khá giả phát triển hơn. Ta có cơ cấu phân tầng hình trái
xoan.
Khi quá trình công nghiệp hóa đã chín mùi với việc gia tăng lao động
trong lãnh vực dịch vụ, với việc giảm đáng kể tầng lớp những người thợ
không chuyên môn (bị thay thế bởi máy móc tự động) và sự gia tăng những
người có trình độ đại học, ta sẽ có cơ cấu hình bóng điện tròn. Cơ cấu này
đặt cơ sở trên sự phát triển các tầng lớp trung gian, nhưng nó không hội nhập
được tất cả các thành phần xã hội vào hệ thống, bởi lẽ một thiểu số vẫn bị
loại ra bên lề (đui bóng điện). Người ta đã đề cập đến loại hình xã hội phân
đôi: một bên những người ít nhiều thành công, nằm trong hệ thống và bên kia
những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội, như trường hợp những người vô gia (SDF)
trong các xã hội công nghiệp tiên tiến.
Ngày nay, các nhà xã hội học, một mặt, rất dè dặt trước các lý thuyết
nhằm xóa bỏ hoàn toàn những bất bình đẳng xã hội, và ngăn chặn sự hình
thành các giai cấp. Nhưng mặt khác, họ cũng phê bình gắt gao những bất
bình đẳng về mặt vật chất, cơ hội thăng tiến không đồng đều vẫn tồn tại dai
dẳng, ngay cả trong các xã hội công nghiệp tiên tiến hiện nay.
Chương 7. ĐỊNH CHẾ XÃ HỘI
I. PHÂN TÍCH ĐỊNH CHẾ XÃ HỘI 1. Khái niệm định chế:
Các định chế (social institutions) xã hội là kết cấu các vị trí xã hội ít
nhiều có tính cách ổn định, nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con
người trong xã hội. Ví như gia đình là sự kết hợp một số vị trí và vai trò
(chồng, vợ, cha, mẹ, con…), nó hình thành một hệ thống những quan hệ xã
hội và thông qua đó đời sống gia đình hình thành nên.
Trong xã hội, người ta thường kể đến các định chế cơ bản sau đây: gia
đình, giáo dục, kinh tế, chính trị, văn hóa (tôn giáo, truyền thông, nghệ thuật,
khoa học kỹ thuật…).
Mặc dù là những khái niệm riêng biệt, nhưng định chế và đoàn thể xã
hội, tổ chức xã hội, không hoàn toàn tách biệt nhau. Định chế là một tập hợp
các tương quan, các ứng xử, các chuẩn mực. Nhưng các tương quan, các
ứng xử, các chuẩn mực này đòi hỏi phải có những con người cụ thể thực hiện
chúng. Như vậy mỗi định chế có nhiều tổ chức xã hội vệ tinh để thực hiện các
khuôn mẫu hành vi, chuẩn mực của định chế. Trường học thì có các hội phụ
huynh, hội cựu học sinh, các hội văn nghệ, thể thao. Nhà nước thì có các tổ
chức chính trị, các đoàn thể xã hội, bộ máy quân đội, công an…
2. Một số nét đặc trưng của các định chế xã hội:
Mỗi định chế đều có những đặc thù riêng, nhưng đồng thời cũng có
những nét chung với các định chế khác. Tất cả các định chế đều muốn duy trì
sự trung thành của các thành viên, muốn áp đặt uy quyền của mình, đưa ra
các khuôn mẫu hành vi, đề ra các phương cách để đối phó với các định chế
khác. Do đó các định chế đều sử dụng một số kỹ thuật giống nhau.
Mỗi định chế đều đề cao một số ứng xử, hành vi và thái độ nhất định.
Gia đình thì đề cao sự chung thủy, tình yêu; nhà nước dạy công dân của
mình lòng trung thành, bổn phận, sự phục tùng; tôn giáo truyền bá cho tín đồ
sự khoan dung, lòng yêu mọi người; định chế kinh tế: đầu óc kiếm lời, năng
suất…
Mỗi định chế đều sử dụng các biểu tượng như là một dấu hiệu để nhắc
nhở về sự hiện hữu của mình. Lá quốc kỳ, búa liềm, chiếc thập giá, hình chữ
vạn, hay vòng luân hồi, chiếc nhẫn kết hôn, hay cả các nhãn hiệu trên các sản
phẩm kinh tế đều là các biểu tượng nhắc nhở đến các định chế. Các bài hát,
kiến trúc xây dựng đều có thể trở thành những biểu tượng của các định chế.
Các định chế thường chuẩn bị cho các thành viên trong định chế thực
hiện các vai trò được chỉ định bằng cách đề ra các qui tắc, các luật lệ quy
định hành vi, đôi khi được thể hiện một cách chính thức, như trong trường
hợp lời thề Hippocrates của người bác sĩ, như lễ trao nhẫn cưới, như lời thề
trung thành với các đoàn thể chính trị. Nhưng rất nhiều ứng xử trong một vai
trò nhất định được học hỏi hoặc truyền lại không qua con đường chính thức
mà do quan sát, do kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống. Nói một cách tổng quát
đó là bằng con đường phi chính thức, nó cũng rất quan trọng trong việc hình
thành nhân cách của các thành viên của định chế. Những đứa trẻ không
được sống trong môi trường gia đình hòa thuận, lớn lên sẽ gặp khó khăn
trong việc đảm nhận vai trò làm vợ, làm chồng hay vai trò của người cha,
người mẹ (Terman,1938).
Mỗi định chế đều có các chuẩn mực để qui định các thành viên trong
định chế phải ứng xử như thế nào. Nhưng mặt khác các định chế đều có các
hệ tư tưởng riêng để giải thích tại sao phải hành động như vậy. Hệ ý thức
thường bao gồm những giá trị, những tín niệm (belief) cơ bản. Trong khi các
luật lệ, các khuôn mẫu hành vi có mục đích ràng buộc các thành viên thì hệ ý
thức đem lại những lý giải về mặt lý trí cho việc áp dụng những chuẩn mực
của định chế vào những vấn đề cụ thể của xã hội.
Lấy thí dụ, trước nạn thanh thiếu niên phạm pháp trong các xã hội hiện
đại, mọi định chế đều cố gắng giải thích một cách nhất quán theo những
chuẩn mực của mình. Các tác giả Xô viết trước đây cho rằng hiện tượng du
đảng là hệ luận của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa; giáo hội thì cho rằng là do
sự lơ là trong việc giảng dạy và thực hành các giáo huấn tôn giáo; đối với nhà
giáo dục đó là hệ quả của một hệ thống giáo dục không thích hợp; đối với
những người khác đó là dấu hiệu tan rã của gia đình. Mặc dù đôi khi không
phản ảnh sự thật, hệ ý thức có chức năng tạo ra lòng trung thành và sự hợp
tác của các thành viên đối với định chế.
Một số nét đặc trưng của các định chế chủ yếu:
Đ/C Gia đình:
Tôn giáo: Chính trị: Kinh tế: Giáo dục:
a) Khuôn mẫu hành vi và thái độ:
- chung thủy
– tình yêu
– trách nhiệm
- từ bi, bác ái
– khoan dung
– trung thành
- tuân phục
- lợi nhuận
- hiệu năng
- chuyên cần
– trọng kiến
thức
b) Biểu tượng:
- nhẫn cưới - thập giá,
chữ vạn
– cờ quốc
huy
– nhãn hiệu - đồng phục,
huy hiệu
c) Văn hóa vật chất:
- nhà, bàn
ghế, bàn thờ
tổ tiên…
- chùa chiền,
nhà thờ,
thánh thất
- công sở - cửa tiệm - trường lớp
thư viện,
sách vở…
d) Luật lệ quy định ứng xử
- bộ luật gia
đình
– tập tục nuôi
dạy con
- gia phả
– sách kinh
– các giáo
điều, cấm kỵ
– hiến pháp
- luật nghị
định…
- hiệp ước
- hợp đồng
- điều lệ
- nội quy
- sổ liên lạc
e) Hệ ý thức:
- chủ nghĩa
lãng mạn
– quan niệm
dòng họ
- chủ nghĩa
giáo điều
- chủ trương
cải cách
- chủ nghĩa
yêu nước
– chủ nghĩa
xã hội
- tự do mậu
dịch
– kinh tế kế
hoạch
- giáo dục
chủ động
– tự trị giáo
dục…
3. Kết cấu của định chế:
Mọi định chế đều có kết cấu về các chuẩn mực và kết cấu nhân sự. Kết
cấu chuẩn mực bao gồm tất cả những kỳ vọng, những mong ước, các qui tắc,
thành văn hay bất thành văn, chính thức hay phi chính thức. Kết cấu nhân sự
bao gồm các cá nhân, các vai trò và vị trí xã hội nhờ đó định chế vận hành
được.
Các kết cấu này có thể chặt chẽ hay lỏng lẻo. Kết cấu chặt chẽ khi uy
quyền được tập trung, khi các tiến trình quyết định đều được tiêu chuẩn hóa
và dành ít tự chủ cho các nhóm nhỏ hay cho các cá nhân. Và ngược lại, kết
cấu lỏng lẻo ít tập trung hơn và dành nhiều tự do hơn cho cá nhân. Nhà nước
và quân đội là những định chế có kết cấu chặt chẽ vì mỗi vị trí, mỗi vai trò ở
mọi cấp bậc đều được xác định rõ. Các tổ chức trong các định chế kinh tế thì
tùy thuộc mục tiêu nhắm vào, có những tổ chức có kết cấu lỏng lẻo nhằm
khuyến khích tính năng động. Cùng một hệ tự tưởng, nhưng có những tổ
chức khác nhau về kết cấu, ví như giáo hội Công giáo có kết cấu chặt chẽ
hơn giáo hội Tin lành; cùng một hệ ý thức xã hội chủ nghĩa nhưng Cộng sản
Pháp có cơ cấu chặt chẽ hơn đảng Xã hội Pháp.
Các đơn vị của định chế cũng có kết cấu chính thức hay phi chính thức
như ta đã đề cập ở trên khi bàn đến tổ chức xã hội. Có lẽ cũng nên phân biệt
hai khái niệm uy quyền và ảnh hưởng. Khác với uy quyền, ảnh hưởng không
phải là quyền hành chính thức, không đặt cơ sở trên vị trí xã hội mà dựa trên
những đánh giá xuất phát từ những đặc tính của nhân cách. Kết cấu phi chính
thức phát triển một phần do những khác biệt về nhân cách giữa những cá
nhân và một phần do trên thực tế không một hệ thống vai trò nào đáp ứng
hoàn toàn những đòi hỏi của định chế. Do đó để được việc, đôi lúc phải đi ra
khỏi “các kênh” thông thường và sử dụng kết cấu phi chính thức. Kết cấu phi
chính thức đôi lúc là “xả xú bắp”, làm giảm bớt những đòi hỏi máy móc của
kết cấu chính thức.
4. Chức năng của định chế:
Hiện tượng xã hội rất phức tạp và do đó rất khó tiên đoán tất cả kết quá
của một hành động cụ thể. Theo R. Mertons, định chế có những chức năng
công khai mà ta dễ nhận ra qua những mục tiêu được công bố, và những
chức năng tiềm ẩn, tức là những chức năng ta không biết, không nhắm tới
hoặc có biết thì cũng được xem như là những phó sản. Chức năng công khai
của các định chế kinh tế là sản xuất; phân phối sản phẩm và dịch vụ nhưng
những chức năng tiềm ẩn của chúng có thể là gia tăng mức độ đô thị hóa,
thay đổi đời sống gia đình, gia tăng sự phát triển các nghiệp đoàn, ảnh hưởng
định chế giáo dục… Hoặc là, chức năng của cưỡng bách giáo dục là giúp cho
quần chúng có được những tri thức và các kỹ năng trước đây chỉ dành cho
một thiểu số. Nhưng chức năng tiềm ẩn của nó nhằm ngăn cản trẻ em lao
động sớm, làm giảm sự kiểm soát của cha mẹ, gia tăng sự hội nhập xã hội…
Một cách tổng quát, mỗi định chế có hai loại chức năng công khai
nhằm: (l) đeo đuổi các mục tiêu của chính nó, (2) gìn giữ sự đoàn kết nội bộ
để tồn tại. Nhà nước có chức năng phục vụ công dân của mình và bảo vệ
biên giới quốc gia, nhưng đồng thời cố gắng tránh nguy cơ xáo trộn từ bên
trong và cố gắng tránh bị xâm lăng từ bên ngoài. Khi một định chế thất bại
trong việc thực hiện hai chức năng này, nó phải biến đổi hay tan rã hoặc là
phải nhường những chức năng thiết yếu của nó cho các định chế khác.
5. Quan hệ giữa các định chế:
Các định chế đều tồn tại trong tương quan với nhau. Hôn nhân và sinh
suất đều ảnh hưởng đến việc cung cầu sản phẩm của định chế kinh tế. Giáo
dục tạo nên những thái độ ảnh hưởng đến việc chấp nhận hay từ khước tôn
giáo. Các định chế kinh tế, tôn giáo, giáo dục… đều muốn chi phối chính
quyền bởi lẽ hành động của chính quyền ảnh hưởng đến sự phát triển của
chúng.
Mối tương quan giữa các định chế giải thích tại sao các định chế ít khi
có thể kiểm soát hoàn toàn được các ứng xử của các thành viên theo các lý
tưởng của các định chế. Nhà trường có thể cung cấp một chương trình giáo
dục rất tốt cho mọi học sinh, nhưng hành vi của người học trò còn tùy thuộc
nhiều yếu tố ngoài sự kiểm soát của nhà trường. Tôn giáo kêu gọi tín đồ tuân
theo các nguyên tắc đạo đức, nhưng trong đời sống hằng ngày, trên các hoạt
động chính trị, kinh tế người tín đồ thấy phải thỏa hiệp những lý tưởng này
với thực tế. Trên lãnh vực vĩ mô, để tránh những xung đột, đôi lúc phải có
những thỏa hiệp, những nhượng bộ, những liên minh giữa các định chế.
Gia đình ảnh hưởng đến sự tham gia của các thành viên vào các định
chế khác và ngược lại nó là đối tượng mà các định chế khác quan tâm. Nhà
nước quy định các thủ tục về hôn nhân, ly dị và đôi lúc cũng can thiệp vào
việc nuôi dạy con cái. Nhà trường cũng dạy các giáo trình về “đời sống gia
đình”, và tìm sự hợp tác của gia đình qua việc lập các hội phụ huynh học sinh.
Các xí nghiệp, các giáo hội, và ngay cả quân đội cũng có những biện pháp để
ảnh hưởng đến gia đình. Như vậy mọi tổ chức xã hội đều phải đối diện với
vấn đề mâu thuẫn do sự gắn bó với gia đình và gắn bó với định chế khác gây
nên.
Với biến chuyển của xã hội mọi định chế đều phải thích ứng kịp thời,
bởi lẽ biến chuyển trong một định chế sẽ kéo theo những thay đổi trong các
định chế khác. Khi những mô thức của gia đình thay đổi, như sự tan vỡ của
hệ thống tương trợ trong chế độ đại gia đình, nhà nước phải có những chính
sách an sinh xã hội thích ứng.
6. Biến chuyến của định chế:
Các chuẩn mực, các tổ chức xã hội gắn liền với các định chế có thể bị
thay thế hay tan rã đi, nhưng định chế vẫn luôn tồn tại. Những qui tắc phụ
quyền, chế độ phong kiến có thể mất đi nhưng gia đình hay định chế chính trị
vẫn luôn tồn tại. Như vậy, định chế biến chuyển thông qua những thay đổi
trong các chuẩn mực của định chế và qua biến chuyển của các tổ chức xã hội
có liên quan.
II. ĐỊNH CHẾ TRONG CÁC XÃ HỘI HIỆN ĐẠI Quá trình phân biệt hóa định chế xã hội:
Khi xã hội trở nên to lớn và phức tạp hơn, các định chế xã hội phát triển
qua một quá trình phân biệt hóa, quá trình biện biệt hóa (differentiation). Lấy
thí dụ, trong các xã hội sơ khai con người chưa có khái niệm và chưa sử
dụng tiền tệ, và sự trao đổi sản phẩm là sự trao đổi trực tiếp (troc). Trái lại, xã
hội hiện đại là một xã hội bị tiền tệ hóa và nhiều cơ cấu xã hội gắn liền với
tiền tệ, như ngân hàng, bảo hiểm, quỹ tín dụng…và một loạt các vị trí xã hội
gắn các tổ chức tài chính này.
Theo G. Lenski, các nhu cầu chủ yếu của các thành viên trong bất cứ
xã hội nào đều gồm có:
1) Nhu cầu thông tin giữa các thành viên: trước hết là thông qua ngôn
ngữ, sau đó là các định chế truyền thông.
2) Sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ: trước tiên là thỏa mãn nhu cầu
sống còn, sau đó để thỏa mãn nhu cầu tìm cái ngon, vật lạ.
3) Phân phối các sản phẩm và dịch vụ: trong nội bộ xã hội và sau đó
qua các xã hội khác.
4) Che chở và bảo vệ: chống lại những tai họa của thiên nhiên và sau
đó nhằm chống lại những xã hội con người thù địch.
5) Thay thế các thành viên: có nghĩa là tái sản xuất ra những thành viên
mới cho xã hội (về mặt sinh lý cũng như về mặt xã hội).
6) Nhu cầu kiểm soát các thành viên, nhằm bảo đảm sự tồn tại của xã
hội, giảm thiểu và loại bỏ những xung đột. Trong các xã hội giản đơn, nhiều
chức năng trong các chức năng này được thực hiện bởi một định chế đó là
gia đình. Trong các xã hội hiện đại, các chức năng này được thực hiện bởi
nhiều định chế khác nhau, và thông thường một chức năng cơ bản được
phân công cho nhiều định chế khác. (Xem bảng)
Quá trình phân biệt hóa các định chế.
Loại hình xã hội:
Xã hội sơ khai: Xã hội hiện đại:
Chức
năng xã
Truyền thông:Gia đình, hệ thống thân
tộcTruyền thông đại chúng
Sản xuất: Gia đình dòng họ Các định chế kinh tế
Phân phối: Gia đình mở rộng, chợ Thị trường, định chế
hội
chuyên chở
Bảo vệ, che
chở:
Gia đình, thị tộc, làng
xóm
Quân đội, cảnh sát, công
ty bảo hiểm, định chế y tế
Thay thế, tái
sản xuất xh:Gia đình
Gia đình, trường học,
định chế tôn giáo
Kiểm soát xã
hội:Gia đình
Gia đình, định chế tôn
giáo, các tổ chức chính
quyền
Các lãnh vực định chế:
Các nhà xã hội học sử dụng thuật ngữ các lãnh vực định chế
(institutional sectors) để chỉ tất cả các định chế được tổ chức nhằm thực hiện
nhiều chức năng cần thiết trong mỗi lãnh vực của đời sống xã hội. Trong các
xã hội hiện đại mỗi một lãnh vực chính yếu không chỉ bao gồm một hoặc hai
định chế, nhưng là một loạt các định chế có tương quan với nhau. Ví như
lãnh vực sản xuất bao gồm các định chế sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ và
các định chế lao động. Các định chế của lãnh vực sản xuất lại có liên quan
mật thiết với các định chế trong lãnh vực phân phối lưu thông, bao gồm các
thị trường sản phẩm, dịch vụ và lao động cũng như các định chế chuyên chở.
Hợp chung lại các định chế sản xuất và phân phối hình thành nên các định
chế kinh tế của xã hội. Ta cũng có thể đưa ra thí dụ về tương quan giữa các
lãnh vực định chế, các định chế chủ yếu và các tổ chức then chốt khác như
sau:
Một số lãnh vực định chế, định chế chủ yếu và các tổ chức then chốt:
Lãnh vực định chế:
Định chế chủ yếu: Tổ chức then chốt:
– Giáo dục: *– g.d cấp 1, cấp 2, cấp3*– hệ thống trường công, trường
tư
- g.d chuyên nghiệp, cao – các trường chuyên nghiệp, các
đẳng, đại học… trường đại học…
Truyền
thông:
*– vô tuyến truyền thanh, vô
tuyến truyền hình
*- hệ thống vô tuyến truyền
thanh, vô tuyến truyền hình
- báo chí– báo chí, tạp chí, quầy bán
báo…
- xuất bản sách – nhà xuất bản, phát hành…
- phim ảnh- công ty, xí nghiệp làm phim,
phát hành phim ảnh
Chính trị: *- hành pháp *- Hội đồng nhà nước, nội các…
- lập pháp – Quốc hội, hội đồng nhân dân…
- tư pháp – tòa án các cấp
- quân đội - quân đội chính quy, dân quân
- Tôn giáo *- Phật giáo *- các giáo phái, hội đoàn.
- Thiên chúa giáo – chùa chiền, nhà thờ, thánh thất
- Hồi giáo…
… … …
Kỳ vọng ở vai trò trong các định chế hiện đại:
Những định chế khác nhau đặt ra các vị trí và vai trò khác nhau cho
những thành viên của mình, và chính từ những kỳ vọng khác nhau liên quan
đến các vai trò này mà các xung đột về vai trò xảy ra. Talcott Parsons đã
phân tích những khác biệt này thành năm cặp khả năng chọn lựa khác nhau,
thường được gọi là những biến số cho khuôn mẫu hành vi (pattern variables).
Những cặp chọn lựa này là: đặc thù / phổ quát (particularism / Universalism;
như ứng xử trong định chế gia đình khác ứng xử trong định chế hành chính);
dễ xúc động / dửng dưng, lý trí (affectivity / neutrality; như ứng xử của con
bệnh khác ứng xử của bác sĩ; của người chơi bài khác với chủ chia bài);
quyền lợi cá nhân / quyền lợi tập thể (self-interest / collective interest; ví như
ứng xử của người công nhân khác ứng xử của tổ sản xuất); được chỉ định /
sở đắc (ascription / achievement; như vai trò của một ông vua khác vai trò
của một tổng thống); cố định / phân tán (specificity / diffuseness; các vai trò
trong định chế gia đình có tính cách phân tán, trong khi các vai trò trong các
định chế kinh tế có tính cách tập trung). Các biến số khuôn mẫu này giúp cho
ta trong việc so sánh các định chế, trong việc lãnh hội được các lối ứng xử
trong các định chế khác nhau và hiểu được các loại mâu thuẫn giữa các vai
trò khác nhau.
Một vài đặc điểm của các định chế trong các xã hội hiện đại:
Các xã hội công nghiệp hiện dại có đặc tính và sự hiện diện của các
định chế mang tính cách bàn giấy (bureaucracy) và có sự phân công trong
các định chế trên. Những hậu quả của các khuynh hướng chủ yếu trên bao
gồm việc thay thế các cá thể bằng những tác nhân tập thể, việc ảnh hưởng
càng ngày càng gia tăng của các tổ chức bàn giấy lên trên cá nhân, và sự ra
đời của các định chế toàn bộ (total institutions). Các tác nhân tập thể ví như
các xí nghiệp thương mại hay các cơ quan chính quyền. Sự phát triển các tác
nhân tập thể đã giải phóng những cá nhân ra khỏi những vị trí cố định trong
xã hội, nhưng mặt khác cá nhân con người thường bất lợi khi phải giao tiếp
với những tác nhân tập thể trên.
Những định chế toàn bộ (total institutions) là những tổ chức có chức
năng chăm lo cho cuộc sống của những người không thể tự chăm sóc cho
chính mình – những người bị trừng phạt hay bị loại bỏ khỏi các định chế của
xã hội bình thường hoặc những người đã tình nguyện chọn một lối sống gắn
với các tổ chức như vậy. Bao gồm trong khái niệm định chế toàn bộ là các
viện cứu tế, nhà tù, nhà dưỡng lão, các trường nội trú, các học viên quân
sự… Một nét cơ bản của các tổ chức như vậy là việc xóa tan các ranh giới
thường phân cách các hoạt động ngủ, chơi, và làm việc của các cá nhân. Các
định chế toàn bộ thưòng được dựng nên và thay đổi như là kết quả của các
tranh luận ý thức hệ về chính sách xã hội.
Thuật ngữ “xây dựng định chế” (institution building) nhằm chỉ những
phương cách theo đó xã hội tạo ra hoặc thay đổi các định chế để đáp ứng
những nhu cầu mới, để thích ứng với những thay đổi kỹ thuật hoặc để sửa sai
các vấn đề xã hội.
Các quan điểm nghiên cứu định chế xã hội:
Các quan điểm lý thuyết khác nhau trong xã hội học nghiên cứu các
định chế lớn theo những phương thức riêng. Quan điểm của thuyết tương tác
biểu tượng tập trung vào những quá trình xã hội hóa và những phương cách
theo đó các thành viên của một định chế xác định tình huống của mình. Lấy
thí dụ trong việc nghiên cứu định chế quân đội, lý thuyết tương tác đã nghiên
cứu quá trình xã hội hóa như thế nào (việc gạt bỏ những vị trí xã hội cũ, học
hỏi những quy tắc, những chuẩn mực mới, tinh thần đồng đội, tinh thần phục
tùng, đẳng cấp…)
Quan điểm chức năng quan tâm đến việc các định chế lớn ảnh hưởng
với nhau như thế nào, các chức năng của định chế trong xã hội… Ví như tổ
chức quân đội đóng góp thế nào trong lãnh vực kinh tế, quan hệ giữa tổ chức
quân đội và chính trị, sự kiểm soát của chính quyền dân sự lên trên quân đội
ra sao và tương quan giữa tổ chức quân đội và các định chế dân chủ…
Cuối cùng, khi nghiên cứu trong phạm vi một định chế, lý thuyết mâu
thuẫn nghiên cứu xem thành phần xã hội nào được hưởng lợi nhất và những
xung đột, bất bình đẳng trong định chế như thế nào. Trong tương quan giữa
những định chế với nhau, lý thuyết mâu thuẫn xã hội tìm hiểu những vấn đề
liên quan đến sự thống trị của một vài định chế lên các định chế khác và lên
trên xã hội nói chung. Như sự phân tích của Marx về vai trò quyết định của
các định chế kinh tế lên trên các định chế chính trị, văn hóa…
Một thí dụ khác, khi nghiên cứu về thể thao trong một xã hội, ba quan
điểm nghiên cứu trên đều nhìn vấn đề dưới những góc độ khác nhau. Quan
điểm tương tác biểu tượng xem bất cứ bộ môn thể thao là những khuôn mẫu
phức tạp các tương tác xã hội. Dĩ nhiên, hoạt động của mỗi thành viên trong
mỗi bộ môn thể thao đều phải theo những đòi hỏi của các vị trí chỉ định và
theo những nguyên tắc, những luật chơi của môn thể thao. Nhưng mặt khác
hành vi của họ cũng mang tính ngẫu nhiên. Diễn tiến cuộc chơi tùy thuộc
nhận thức chủ quan của từng người chơi. Một tập thể thể thao – như một đội
banh – cũng không thuần nhất như người ta vẫn thường nhìn từ bên ngoài,
mà đối xử với nhau tùy theo nhận thức họ có về người khác: cũng có giúp đỡ,
ganh ty, định kiến…Nhận thức chủ quan của cầu thủ cũng thay đổi tùy theo
tình huống – tính chất của cuộc đấu, đối thủ thế nào… Và vẫn luôn có một
khoảng cách giữa những tác phong được chờ đợi ở định chế thể thao và ứng
xử thực tế của những người chơi thể thao.
Quan điểm chức năng đi tìm những chức năng của định chế thể thao
trong xã hội. Thể thao có chức năng công khai là một hình thức giải trí, một
“xả xú bắp” vô hại và nhằm rèn luyện thân thể. Nó cũng có những chức năng
tiềm ẩn là tạo công ăn việc làm cho một số người, tạo ra những khuôn mẫu
hành vi có ích cho sự vận hành của xã hội: tinh thần kỷ luật và nỗ lực trong
công việc. Giữa định chế thể thao và các xã hội cũng có mối tương quan, nhà
nước Spartes cổ đại thì cổ vũ những trò chơi hiếu chiến; ở các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây thì không có các cuộc đua xe tốc độ chết người như
trong các xã hội tư bản đề cao tính cạnh tranh. Thể thao không những đề cao
tinh thần thượng võ mà ngược lại cũng có các phản chức năng như cá độ,
tinh thần ăn thua cay cú…
Lý thuyết mâu thuẫn xã hội nhìn thấy qua định chế thể thao những bất
bình đẳng xã hội: không phải mọi thành phần xã hội đều có thể thụ hưởng
mọi trò chơi thể thao. Các bộ môn như quần vợt, golf chỉ dành cho những
người sung túc... Định chế thể thao cũng cho thấy rõ sự phân biệt giới tính,
những định kiến về giới tính. Cũng chỉ mấy năm gần đây thôi chúng ta mới
thấy phụ nữ Việt nam tham gia các môn đua đạp xe, bóng đá…Thế giới thể
thao cũng cho thấy chỉ làm lợi cho một thiểu số các ông bầu câu lạc bộ…Như
vậy định chế thể thao cũng chỉ là phản ánh các giá trị của hệ thống kinh tế
chủ đạo đang chi phối xã hội.
Định chế, quyền lực và biến chuyển xã hội:
Đối với các xã hội cổ truyền, việc du nhập những định chế mới vào một
xã hội thường gặp những chống đối, như trường hợp phản ứng của dân bản
xứ thời thuộc địa. Thông thường người dân các nước thuộc địa đứng trước
một chọn lựa khó khăn: hoặc là chấp nhận các định chế mới và đánh mất bản
thể của chính xã hội mình, hoặc làm thế nào để thích ứng với các định chế
của các xã hội công nghiệp mà không mất đi khả năng gìn giữ những định
chế đặc trưng của mình.
Đối với các xã hội hiện đại, để hiểu được biến chuyển trong các định
chế cần phải hiểu bản chất của quyền lực trong định chế. Một định chế có thể
được xem như một kết cấu trong đó những người có quyền lực gắn bó với
một số quyền lợi hay giá trị nhất định. Những ai muốn thay đổi một định chế
xã hội lớn phải đối đầu với những người nắm quyền hành trong định chế.
Điều này chỉ xảy ra khi một nhóm xã hội quyết tâm thay đổi bởi vì họ cảm thấy
bị ngược đãi. Một nhóm như vậy sẽ bắt đầu đặt vấn đề về những giá trị của
xã hội và có thể tổ chức một phong trào xã hội nhằm thay đổi những giá trị
không còn phù hợp. Đó là trường hợp của những phong trào đấu tranh cho
nữ quyền, đấu tranh xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc…
Chương 8. SỰ KIỂM SOÁT XÃ HỘI VÀ LỆCH LẠC XÃ HỘI
I. THẾ NÀO LÀ KIỂM SOÁT XÃ HỘI, LÀ LỆCH LẠC XÃ HỘI Trong nghĩa rộng, lệch lạc (deviance) là lối ứng xử vi phạm các quy tắc,
chuẩn mực của một xã hội hay của một tổ chức xã hội nhất định. Nhãn hiệu
người lệch lạc được gán cho những ai vi phạm hay chống lại những chuẩn
mực được đánh giá cao nhất của xã hội, đặc biệt là những chuẩn mực của
nền văn hóa thống trị, của tầng lớp thống trị. Những phương thức mà một xã
hội ngăn ngừa sự lệch lạc và trừng phạt những người lệch lạc thường được
gọi là sự kiểm soát xã hội (social control). Mặt khác, như khi đề cập đến quá
trình xã hội hóa, nền văn hóa đặt ra, hình thành nên những giá trị, chuẩn mực
là để củng cố các định chế xã hội và đồng thời thiết lập một hệ thống kiểm
soát xã hội. Như vậy trong nghĩa rộng, kiểm soát xã hội được xem như những
phương cách mà xã hội thiết lập và củng cố những chuẩn mực xã hội. Theo
Janovitz kiểm soát xã hội “là khả năng của một nhóm xã hội, hay của cả xã
hội trong việc điều tiết chính mình”.
Những phương tiện được sử dụng để ngăn ngừa sự lệch lạc và trừng
phạt những người lệch lạc chỉ là một bình diện của kiểm soát xã hội. Những
phương tiện trên có thể là cảnh sát, nhà tù, các bệnh viện tâm thần, các
trường trại cải tạo…Những định chế chính thức để kiểm soát xã hội chỉ được
sử dụng cho những đối tượng lệch lạc mà xã hội e ngại nhất. Những hình
thức lệch lạc nhẹ thường được điều tiết qua những hành vi tương tác giữa
những cá nhân. Như khi cha mẹ phê bình, ngăn cản đứa con trai để tóc quá
dài, hay ăn mặc quá “bụi”.
Thế nào là lệch lạc vẫn còn là một vấn đề tranh cãi. Bởi lẽ như đã định
nghĩa, lệch lạc tùy thuộc quan điểm và góc độ đứng nhìn vấn đề. Như trường
hợp Nelson Mandela trước đây, đối với những người da trắng Nam phi ông là
một người lệch lạc, đã bị bỏ tù vì chống lại luật lệ của Nam phi, nhưng đối với
người da đen ông ta là một vị anh hùng.
Hành vi lệch lạc hay không cũng tùy thuộc nền văn hóa. Đối với người
Việt chúng ta ăn thịt heo hay thịt bò không thành vấn đề, nhưng ăn thịt bò đối
với người Chăm theo đạo Bàlamôn hay ăn thịt heo đối với người Chăm theo
Hồi giáo là những hành vi lệch lạc.
Không có một phương thức đơn giản hay phổ quát để phân loại các
hành vi lệch lạc. Tuy nhiên có thể phân biệt sự lệch lạc ở cấp độ cá nhân, sự
lệch lạc của một nhóm và sự lệch lạc ở cấp độ định chế. Một số người bị gán
cái nhãn hiệu lệch lạc là do một vài nét đặc trưng cá nhân, do một số ứng xử
nào đó. Những người khác bị xem là lệch lạc bởi lẽ các thành viên trong
nhóm đi lệch khỏi những chuẩn mực của xã hội. Đối với xã hội, họ là những
người lệch lạc nhưng đối với nhóm họ là những người không lệch lạc và chỉ
làm theo những quy tắc của nhóm. Đối với một xã hội nhất định, một nhóm
hippi, một băng đảng, và ngay cả một nhóm người làm cách mạng…có thể bị
xem là một nhóm người lệch lạc. Xã hội thường có những phản ứng khác
nhau trước hành vi lệch lạc của một cá nhân, một nhóm hay của một định
chế. Như phản ứng đối với trường hợp một phụ nữ dễ dãi trong quan hệ giới
tính khác với trường hợp một cô gái mại dâm, khác với mại dâm như là một
định chế lệch lạc.
Mức độ mà những thành viên trong xã hội đồng ý hay không đồng ý
một hành vi nào đó là lệch lạc có thể xếp theo mức độ yếu và mạnh. Mức độ
yếu ở những trường hợp có nhiều tranh cãi và mức độ mạnh trong những
trường hợp có ít bất đồng. Những chế tài tiêu cực hay còn gọi là những sự
trừng phạt có thể được sắp xếp từ mức độ rất yếu đến mức độ rất mạnh. Hơn
thế nữa những giá trị và những quy tắc của một nền văn hóa thường thay đổi
thì những khái niệm, những hành vi nào là lệch lạc và chúng phải được chế
tài như thế nào cũng thay đổi. Như trong xã hội Mỹ, cách đây thột thế kỷ,
đồng tính luyến ái bị lên án gắt gao, ngược lại ngày nay có những phong trào
đấu tranh cho quyền lợi của những người này.
Nghiên cứu sự lệch lạc nhắm tới những người lệch lạc trong xã hội có
nghĩa là những người tự ý vi phạm những chuẩn mực của xã hội, chứ không
quan tâm đến những người có những đặc điểm khác thường về mặt cơ thể.
Đặc biệt nghiên cứu lệch lạc xã hội cũng nhắm vào những sự lệch lạc có tính
cách tội phạm. Hành vi tội phạm là những hành vi mà vì đó nhà nước có thể
áp dụng những sự chế tài theo luật hình sự. Nhưng vấn đề những hành vi đặc
biệt nào cấu thành tội phạm, và nhà nước phải xử lý vấn đề đó như thế nào
còn là vấn đề tranh cãi. Ở nhiều xã hội, có những hành vi mà mọi người đều
đồng ý là có tính cách tội phạm và cần phải bị trừng phạt, nhưng cũng có
những hành vi mà người này xem có tính cách tội phạm nhưng đối với người
khác thì không. Ví như, giết người, cướp của đều bị mọi xã hội trừng phạt,
nhưng sự xử lý của các xã hội rất khác nhau trước vấn đề mại dâm, trước
vấn đề ngoại tình. Có nhiều “tội” thật ra chỉ gây rối ít nhiều cho trật tự công
cộng, như say rượu nơi công cộng, mại dâm, vô gia cư, cờ bạc, ma túy…
Nhiều nhà xã hội học (Schur, Silberman) cho rằng những tội này không có
nạn nhân bởi vì nó không gây tổn hại vật chất cho ai khác ngoài chính đương
sự. Nhưng không phải mọi nhà xã hội học đều chấp nhận quan điểm trên. Một
số nhà xã hội học cho thấy ngay như nạn mại dâm, nghiện ma túy cũng
thường liên quan đến những tổ chức tội phạm có tổ chức. Chúng không phải
là vấn đề của cá nhân mà còn có những ảnh hưởng xã hội.
II. CÁC LÝ THUYẾT VỀ SỰ LỆCH LẠC XÃ HỘI 1. Những giải thích sinh vật học về tội phạm:
Những giải thích sinh vật học về sự lệch lạc thường liên hệ vấn đề tội
phạm với những nét đặc trưng của cơ thể, các loại hình của cơ thể hay với sự
bất bình thường của cấu tạo nhiễm sắc thể.
Nhà tội phạm học người Ý Cesare Lombroso (1911), qua cuộc nghiên
cứu của ông, chứng minh rằng những tên tội phạm là sự lai giống
(throwbacks) của những loại hình người sơ khai và hung tợn mà ta còn có thể
nhận thấy qua những nét trên cơ thể như trán vồ, mắt xếch, và tóc đỏ…Vào
những năm 1960, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra rằng một vài người
đàn ông có thừa ra một nhiễm sắc thể Y trong các tế bào của họ. Thêm vào
đó năm 1965, nhà di truyền học Patricia Jacobs báo cáo có một tỷ lệ nhỏ
nhưng có ý nghĩa những người đàn ông mang nhiễm sắc thể XYY được tìm
thấy trong những tên tội phạm tại một viện tâm thần ở xứ Êcốt. Nhưng 11
năm sau có trên 200 bài nghiên cứu về những người mang nhiễm sắc thể
XYY và các nhà di truyền học đã đi đến kết luận rằng: tần số các hành vi
chống xã hội của những người đàn ông có XYY có lẽ không khác nhiều
những người không mang nhiễm sắc thể XYY trong cùng một tầng lớp xã hội.
Những quan điểm này đã ảnh hưởng đến những giải thích xã hội học
về sự lệch lạc trong những thời kỳ đầu tiên và xem tội phạm, những hình thức
lệch lạc xã hội khác như là những biến thể của bộ môn “ bệnh lý học xã hội”,
đã đem những điều xấu xa, những tai họa cho đời sống đô thị. Quan điểm
này đã được thay thế bởi những lý thuyết khách quan hơn và có thể kiểm
chứng hơn từ các quan niệm xã hội học hiện nay.
2. Các lối giải thích tâm lý học về sự lệch lạc xã hội:
Như đã trình bày ở chương 4, S. Freud đã giải thích những lệch lạc, bất
bình thường trong nhân cách của cá nhân do sự không quân bình trong bộ
máy tâm thức. Bộ máy tâm thức của con người nếu để cho yếu tố xung động
bản năng (id) hay siêu ngã (superego) chi phối quá mạnh thì có thể đưa đến
sự buông thả hay ngược lại, có thể đưa đến những ức chế tâm lý.
Hai tác giả Walter Reckless và Simon Dinitz cũng đã dùng lối tiếp cận
tâm lý để giải thích tương quan giữa những đặc tính nhân cách và các hành vi
phạm pháp của thanh thiếu niên. Hai ông cho rằng các thanh thiếu niên mới
lớn thường dễ có những hành vi lệch lạc, nhưng những thanh thiếu niên nào
trong quá trình xã hội hóa hấp thụ được những giá trị đạo đức mạnh mẽ, có
được một nhận thức về mình tích cực (positive self-concept) thì có khả năng
chống lại các xu hướng phạm pháp hơn.
Lối tiếp cận tâm lý học cũng đã giải thích được phần nào mối tương
quan giữa những khuôn mẫu nhân cách với các hành vi phạm pháp hay các
hành vi lệch lạc. Tuy nhiên lối tiếp cận này chỉ giải thích hành vi lệch lạc trên
bình diện cá nhân. Thực ra một nhân cách lệch lạc hay không cũng tùy thuộc
lối nhìn của xã hội, của nền văn hóa trong đó cá nhân sinh sống và quan
trọng hơn một nhân cách lệch lạc là sản phẩm của môi trường xã hội. Lối tiếp
cận này cũng không giải thích được tại sao một vài người bị xem là lệch lạc
trong khi những người khác cũng có những ứng xử tương tự nhưng không bị
gán cho nhãn hiệu lệch lạc. Thêm vào đó, những hành vi tội phạm, những
hành vi lệch lạc của những người có quyền lực, có uy tín xã hội, hay nói cách
khác của tầng lớp trên trong xã hội thường ít bị xem là lệch lạc về mặt tâm lý.
3. Các lý thuyết chức năng:
Thông thường chúng ta xem một hành vi lệch lạc không có ích gì cho
sự tồn tại của xã hội, nhưng lối giải thích của lý thuyết chức năng cho thấy
các hình thức lệch lạc có thể có những đóng góp ít nhiều cho sự vận hành
của xã hội.
Qua tác phẩm Tự tử nổi tiếng, É. Durkheim cho thấy một hành vi lệch
lạc – như vấn đề tự tử – không chỉ là một vấn đề của cá nhân, mà tự tử là một
vấn đề xã hội: cộng đồng xã hội nào có những điều kiện xã hội ít tính hội nhập
xã hội, xã hội nào rơi vào tình trạng phi chuẩn mực (anomie) thì những xã hội
đó có tỷ suất người lệch lạc (trong trường hợp này là người tự tử) cao hơn
những xã hội khác.
Nhưng mặt khác, É. Durkheim quan niệm rằng sự lệch lạc cũng có tác
dụng khẳng định các giá trị, các chuẩn mực của nền văn hóa. Chúng ta sẽ
không có khái niệm về cái tốt, nếu như chúng ta không có khái niệm về cái
xấu tương ứng. Thêm vào đó phản ứng của xã hội đối với những hành vi lệch
lạc càng làm rõ hơn phạm vi của chuẩn mực được chấp nhận, càng củng cố
tính cố kết của một nhóm hay của xã hội nói chung. Sự lệch lạc còn có chức
năng khuyến khích sự thay đổi, đưa ra những giải pháp thay thế cho những
giá trị, những chuẩn mực, những ứng xử đang tồn tại mà trường hợp phát
triển các mode là điển hình.
Một lý thuyết chức năng khác đó là sự phân loại của Robert Merton, sự
phân loại này đặt trên cơ sở con người đã thích ứng thế nào với những đòi
hỏi của xã hội. Mục đích của Merton là khám phá ra tại sao một vài cơ cấu xã
hội tác động lên một vài người trong xã hội, thúc đẩy họ có những hành vi
lệch lạc hơn những người khác. Merton cũng dựa trên khái niệm phi chuẩn
mực (anomie) của Durkheim để giải thích tại sao một vài người dễ có những
hành vi lệch lạc.
Theo quan điểm này, qua quá trình xã hội hóa, con người đã học được
đâu là những mục đích đã được xã hội thừa nhận và đâu là những phương
tiện đã được chấp nhận để thực hiện các mục đích này. Những kẻ nào không
chấp nhận những mục đích đã được thừa nhận hay các phương tiện chính
đáng để hoàn thành các mục đích được đưa ra đều có thể xem như có những
hành vi lệch lạc.
Ví dụ, làm thế nào có được tiền bạc, giàu có là một mục đích của một
số nền văn hóa và lao động là một phương tiện được những xã hội này chấp
nhận để thực hiện các mục đích trên, còn việc ăn trộm, ăn cắp thì không
được xã hội chấp nhận. Việc ăn trộm, ăn cắp là những phương tiện không
được chấp nhận tại sao chúng vẫn tồn tại. Theo Merton, trong các xã hội
phức tạp như xã hội hiện đại của chúng ta, tiền bạc là một biểu tượng rất
quan trọng của địa vị do đó sức ép để có được tiền bạc rất lớn.
Qua quá trình xã hội hóa chúng ta đã học hỏi được đâu là những mục
đích và những phương tiện mà xã hội có thể chấp nhận được. Giả định rằng
hầu hết chúng ta đều muốn giàu có, có quyền hành hay muốn được nổi tiếng,
như vậy chúng ta chấp nhận những mục đích này của nền văn hóa chúng ta.
Đồng thời chúng ta cũng chấp nhận những phương tiện chính đáng để đạt
được những mục đích này: như giáo dục, lao động, tiến trình bầu cử. Như
vậy chúng ta là những người “tuân thủ” (conformist) các qui tắc của xã hội.
Nhưng không phải mọi người đều như vậy, có một số người sử dụng những
phương tiện không được truyền thống đề ra để thực hiện những mục đích
đeo đuổi. Đây là những người “canh tân” (innovator). Có những người khác
phủ nhận cả các mục đích và phương tiện hiện hữu. Đây là những người “rút
khỏi xã hội” (retreat). Có những người từ chối đeo đuổi những giá trị này
nhưng vẫn tiếp tục bị ràng buộc bởi những hình thức của các định chế xã hội.
Chúng ta gọi những người này là “nghi thức chủ nghĩa” (ritualist). Sau đây là
bảng phân loại của R. Merton:
Các hạng ngườiMục đích của nền
văn hóa
Phương tiện của
định chế
Tuân thủ: + +
Canh tân: + -
Nghi thức chủ nghĩa: - +
Rút khỏi xã hội: - -
Nổi loạn -/+ -/+
Ghi chú: (+): chấp nhận; (-): phủ nhận, từ chối; (-/+) phủ nhận những
mục đích, những phương tiện cũ và thay những mục đích mới, những
phương tiện mới.
Có thể đặt câu hỏi với lý thuyết của Merton là tại sao một số người
nghèo có xu hướng phạm tội trong khi những người khác lại không. Câu trả
lời là do họ gần gũi những phân lớp văn hóa (subculture) có xu hướng lệch
lạc, các phân lớp văn hóa này hợp thức hóa các hành vi lệch lạc.
Các lý thuyết chức năng bị chỉ trích khi đã giả định có một hệ thống
chung các giá trị được chia sẻ bởi mọi thành viên trong một xã hội. Thứ đến,
như chúng ta sẽ trình bày, không chỉ những người thuộc tầng lớp dưới mới có
những hành vi lệch lạc. Và trong nhiều trường hợp, hành vi lệch lạc không chỉ
là sự vi phạm các chuẩn mực của tầng lớp thống trị.
4. Các lý thuyết về mâu thuẫn:
Các lý thuyết này nhấn mạnh tương quan giữa sự đa dạng văn hóa và
lệch lạc xã hội. Hai loại hình chính yếu trong các lý thuyết về mâu thuẫn là lý
thuyết xung đột văn hóa và lý thuyết mác xít. Lý thuyết xung đột văn hóa đặt
trọng tâm nghiên cứu những phương thức hình thành các quy tắc xung đột
trong các hoàn cảnh khuyến khích những hoạt động tội phạm. Như quan niệm
của Daniel Bell về xã hội Mỹ. Ông cho rằng trong xã hội Mỹ có một sự mâu
thuẫn giữa nền đạo đức chính thức của văn hóa quần chúng và nền đạo đức
Thanh giáo. Ví như luật ở Mỹ từ năm 1919 đến 1932 cấm uống các thức uống
có rượu. Việc cấm đoán này được giải thích như là một nỗ lực của các nhà
làm luật theo đạo Tin Lành để áp đặt nền luân lý của họ lên tập đoàn những
người di dân mà việc uống rượu là một nhu cầu cần thiết trong đời sống xã
hội. Việc cấm đoán này chỉ làm tăng cơ hội cho việc sản xuất bất hợp pháp.
Nhận định này không có nghĩa là thừa nhận việc buôn bán và sử dụng các
sản phẩm bất hợp pháp. Thật ra, chỉ muốn nêu lên một sự kiện khi nào luật
pháp áp đặt nền luân lý của một đa số lên các ứng xử của các thiểu số khác,
thì những thị trường bất hợp pháp sẽ được tạo ra và được cung ứng bởi
những tổ chức có tính cách tội phạm.
Lý thuyết mác xít phê phán lý thuyết xung đột về văn hóa là đã không
quan tâm đến những ảnh hưởng của quyền lực và xung đột giai cấp. Đối với
những nhà xã hội học mác xít, luật cấm uống rượu không chỉ có nguyên nhân
là xung đột văn hóa, nhưng là do giai cấp nắm quyền trong xã hội muốn sở
hữu và kiểm soát các tư liệu sản xuất và muốn kiểm soát giai cấp lao động.
Theo các tác giả này, các nhà đại tư bản Mỹ như J. D. Rockefeller, J.P.
Morgan, A. Carnegie…mà R. Merton xếp vào hạng những người “canh tân”
thật ra là những người “ăn cướp” bởi lẽ họ đã lợi dụng tình trạng xáo trộn
trong giai đoạn đầu của phát triển công nghiệp tiếp theo cuộc nội chiến ở Mỹ
để tích lũy, đầu cơ những tài sản lớn lao. Theo sự phân loại của Merton, họ
có thể được liệt kê vào thành phần biết sử dụng các phương tiện mới để thực
hiện mục đích được xã hội chấp nhận, những người “canh tân”, nhưng dưới
quan điểm mác xít họ chỉ là những người thực hiện lô gích của chủ nghĩa tư
bản: bóc lột những người nghèo bởi những người giàu có và có quyền lực.
Các tác giả của lối tiếp cận mâu thuẫn xã hội cho rằng định nghĩa thế
nào là một hành vi lệch lạc thường dựa trên khả năng của những nhóm có
quyền lực lớn nhất trong xã hội nhằm thiết đặt ước muốn của họ lên trên
chính quyền. Những định nghĩa thế nào là tội phạm, ai phải bị trừng phạt
thường chỉ áp dụng cho tầng lớp bị trị. Lấy trường hợp tội loạn luân chỉ áp
dụng cho những người bình dân ở xã hội Ai cập và Trung Hoa xưa, chứ
không áp dụng cho tầng lớp quý tộc, vua quan. Steven Spitzer khẳng định
những chuẩn mực xã hội đều nhằm củng cố cho hệ thống kinh tế của một xã
hội nào đó và những người nào đe dọa hệ thống kinh tế trên đều bị xem là có
những hành vi lệch lạc. Ví như chủ nghĩa tư bản đặt cơ sở trên quyền tư hữu
nên bất cứ người nào đe dọa quyền này đều bị xem là lệch lạc (đặc biệt là khi
người nghèo ăn cắp của người giàu, còn khi người giàu bóc lột người nghèo
thì ít khi bị xem là lệch lạc, mà chỉ là một “lối kinh doanh”!). Chủ nghĩa tư bản
dựa trên việc khai thác sức lao động, nên những người nào không còn làm
việc như những người già, người thất nghiệp – đều bị xem là lệch lạc. Chủ
nghĩa tư bản cũng đặt cơ sở trên niềm tin rằng sự vận hành của chính nó là
đúng, là hợp lý nên những người nào có những hành vi chống lại sự vận
hành trên – như những phong trào phản chiến, các phong trào bảo vệ môi
trường – đều bị gán nhãn lệch lạc. Và ngược lại những hoạt động nào gia
tăng sự vận hành của chủ nghĩa tư bản – như các loại hình thể thao ganh đua
nhưng không tôn trọng mạng sống của con người như đua xe, đánh bốc…
đều được đề cao.
Nhà xã hội học Edwin Sutherland đã đưa ra một công trình nghiên cứu
về “tội phạm của giới cổ cồn trắng”, của những viên chức. Tội của họ là do sử
dụng quyền lực từ vị trí nghề nghiệp của mình nhằm vi phạm luật pháp hòng
kiếm lời như tham ô, móc ngoặt, biển thủ công quỹ, sản xuất hàng gian, hàng
giả, quảng cáo gian dối, làm ô nhiễm môi trường…ông ta đưa các ví dụ về xã
hội Mỹ, những tội phạm liên quan đến kinh doanh làm thiệt hại cho xã hội Mỹ
gấp tám lần thiệt hại trộm cướp các loại gây ra (1984). Số lượng người Mỹ
chết và bị thương do không có an toàn lao động cao gấp năm lần số người bị
giết do trộm cướp. Và tác giả cho thấy những hành vi lệch lạc của những
người giàu, của tầng lớp trên rất ít được các phương tiện thông tin đại chúng
đề cập đến như trường hợp những hành vi lệch lạc của người nghèo.
Marx và Engels cũng đề cập tới một bộ phận của giai cấp vô sản do
thất nghiệp, nghèo đói có thể trở thành nhưng tên tội phạm, mà hai ông
thường gọi là “những tên vô sản lưu manh”. Nhưng hai ông không tin tưởng
vào tầng lớp này mà chỉ tin vào những người công nhân có tổ chức sẽ đấu
tranh để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, các tác giả mác xít nhấn mạnh hơn xung đột giai cấp, giải
thích các loại hình khác nhau về tội phạm, về hành vi lệch lạc bằng vị trí xã
hội, giai cấp của chính những người đó.
5. Các lý thuyết tương tác:
Cả hai lý thuyết chức năng và lý thuyết mâu thuẫn đều không bàn đến
vấn đề các hành vi lệch lạc đã phát triển và đã sản sinh ra như thế nào.
Người ta đặt vấn đề tại sao có một vài người có những hành vi lệch lạc
trong khi những người khác cùng ở vào tình huống như vậy nhưng lại không
có. Chẳng hạn, vào những năm 1920 hai nhà xã hội học C.Shaw và Henry
Mckay đã nhận thấy rằng một vài khu vực ngoại ô Chicago luôn luôn có tỷ lệ
thanh niên phạm pháp cao hơn những nơi khác. Nhà xã hội học E.H.
Sutherand đã nhận thấy những thanh thiếu niên đã trở nên phạm pháp bởi lẽ
nền văn hóa của các nhóm, của các tổ chức trong đó chúng sinh sống đã hợp
pháp hóa tội ác hay nói cách khác, đã xem tội ác là chuyện bình thường và là
những phương tiện có thể chấp nhận được để đạt những mục đích mong
muốn. Người ta đã nhận thấy rằng tệ nạn thanh thiếu niên. phạm pháp ở một
vài khu vực đã được hổ trợ bởi những chuẩn mực của các nhóm trẻ của tầng
lớp dưới. Các nhóm thiếu niên phạm pháp trên có những quan niệm rất rõ thế
nào là gây rối, thế nào là ranh ma, thế nào là kích thích, thế nào là số phận,
thế nào là tính độc lập… Hệ thống giá trị của các nhóm thiếu niên phạm pháp
hoàn toàn khác biệt với những giá trị của các nhóm thiếu niên không có hành
vi phạm pháp ở trong cùng khu vực.
Hành vi lệch lạc không thể một sớm một chiều mà có được, chúng cũng
được truyền đạt qua một quá trình “học hỏi”.
Theo lý thuyết tương tác sự lệch lạc xã hội được sản sinh qua một quá
trình được gọi là “gán nhãn” (labelling); có nghĩa là xã hội gọi một số hành vi
nào đó là lệch lạc. Việc gán nhãn thường do những tác nhân chính thức của
các định chế có chức năng kiểm soát xã hội, như cảnh sát, tòa án, các bệnh
viện tâm thần hay trường học thực hiện.
Năm 1973, D. L. Rosenhan đã làm một thử nghiệm nổi tiếng. Ông và
một số đồng nghiệp giả vờ bị bệnh “nghe những tiếng lạ” và được nhận vào
một bệnh viện tâm thần. Bác sĩ chuẩn đoán các ông bị bệnh tâm thần hoang
tưởng. Thời gian ở trong bệnh viện, các bệnh nhân khác đều cho rằng ông và
các đồng nghiệp là những người bình thường. Nhưng các bác sĩ vẫn tiếp tục
cho họ là bị bệnh. Sau đó các nhà nghiên cầu này được thả ra với lý do bệnh
đã giảm, nhưng không một người nào được xem đã hoàn toàn lành bệnh.
Rosenhan cho thấy việc gán nhãn bệnh tâm thần đã gắn suốt đời với người
bệnh và đôi lúc đó là lý do cho sự ngược đãi. Nhân viên bệnh viện xem
thường bệnh nhân tâm thần, không quan tâm đến ý kiến của họ và đôi lúc
trừng phạt họ vì những vi phạm nhỏ nhặt. Nghiên cứu của Rosenhan đã đưa
đến việc cải thiện các bệnh viện tâm thần, và ông chủ trương càng loại bỏ bớt
các bệnh viện này càng tốt. Nhưng việc nghiên cứu những bệnh nhân xuất
viện sau đó cho thấy rằng cái “mác” lệch lạc đã gán cho họ đã được họ “nội
tâm hóa” và rất khó tháo gỡ.
Một nhà xã hội học khác – H. Becker – đã cho thấy những bước đầu đi
vào con đường lệch lạc rất khác nhau giữa những cá nhân, nhưng bước đi có
tính quyết định nhất là khi cá nhân đó bị bắt gặp trong hành vi lệch lạc và bị
gán nhãn công khai là lệch lạc.
Một nghiên cứu thực nghiệm của W. J. Chambliss về các băng đảng
thanh niên củng cố nhận định của Becker. Trong hai năm trời, Chambliss
quan sát băng nhóm mang tên là Saints bao gồm những thanh niên thuộc
tầng lớp trên và băng Roughnecks gồm những thanh niên thuộc tầng lớp
dưới. Cả hai băng này ở cùng một khu vực và đều có các hành vi như ăn
trộm xe, đua xe, đánh nhau, làm các trò tinh nghịch nguy hiểm…Trong thực
tế, băng Saints gây ra nhiều vụ, nhưng ít bị bắt hơn và không khi nào bị gán
nhãn du đảng. Trong khi băng thuộc tầng lớp dưới bị bắt nhiều hơn, bị gán
nhãn hiệu là du đãng nguy hiểm và bị gởi tới các trường cải tạo. Cha mẹ của
các thanh niên thuộc tầng lớp trên cho rằng đó là những hành vi nghịch ngợm
bình thường của những thanh niên mới lớn, và họ ở trong một địa vị xã hội
cao để có thể thuyết phục những người khác chấp nhận quan điểm của họ,
điều mà tầng lớp dưới không thể có.
Theo các nhà xã hội học, cả hai băng nhóm đều có những hành vi lệch
lạc sơ cấp (primary deviance). Nhưng chỉ có những thanh niên thuộc tầng lớp
dưới là bị cảnh sát và tòa án gán cho nhãn hiệu là phạm pháp. Hệ luận của
việc gán nhãn hiệu này là nhiều thanh niên thuộc tầng lớp dưới tiếp tục
những hành vi phạm pháp, mà những nhà xã hội học gọi là hành vi lệch lạc
thứ cấp (secondary deviance). Sự phân biệt này rất quan trọng vì trong chúng
ta ai cũng có ít nhiều hành vi lệch lạc, nhưng chỉ khi bị gán nhãn hiệu lệch lạc,
thì chúng ta mới có khuynh hướng phạm những hành vi lệch lạc kế tiếp, “cùi
không sợ lỡ”, để thực hiện nhận xét tiêu cực mà xã hội đã gán cho.
Các lý thuyết tương tác có một số điểm độc đáo. Trước hết, lý thuyết
này không nghiên cứu chính sự lệch lạc những phản ứng đối với hành vi lệch
lạc. Lý thuyết gán nhãn cũng phù hợp với điều mà ta gọi là tầm quan trọng
của cái quan niệm về chính mình (self–concept). Nhưng thật ra việc gán nhãn
có hậu quả tiêu cực hay tích cực vẫn đang là đối tượng của nghiên cứu thực
nghiệm trong nghiên cứu xã hội học. Thứ đến, không phải mọi cá nhân đều
sợ việc gán nhãn và có nhiều hành vi tự bản thân là lệch lạc chứ không do
quá trình gán nhãn.
III. TỘI PHẠM VÀ SỰ KIỂM SOÁT CỦA XÃ HỘI Việc nghiên cứu phạm vi ảnh hưởng của tội phạm thường được bắt
đầu bằng những dữ kiện thống kê về tỷ lệ tội phạm; bằng những nghiên cứu
về sự thay đổi, biến chuyển của các loại hình tội phạm qua thời gian.
Các phương pháp được sử dụng để kiểm soát tội phạm cũng thay đổi
khi xã hội trở nên phức tạp hơn. Khác với các xã hội cổ truyền, ở đó việc kiểm
soát tội phạm được giao cho gia đình và công xã, trong các xã hội rộng lớn
hơn, phức tạp hơn như các xã hội hiện đại người ta có xu hướng giảm thiểu
khả năng của các định chế địa phương trong việc kiểm soát tất cả các thành
viên của xã hội. Để giải quyết vấn đề những người lệch lạc, những xã hội
phức tạp có xu hướng phát triển những định chế được tiêu chuẩn hóa và ít
nhiều có tính cách cưỡng bức.
Một trong những định chế nổi bật nhất của sự kiểm soát xã hội trong xã
hội hiện đại là nhà tù. Các chức năng cơ bản của nhà tù là bảo vệ xã hội bằng
cách cách ly phạm nhân, trừng phạt (hay đền bù), can ngăn răn đe, và phục
hồi. Tuy nhiên chức năng cách ly xem ra không ngăn cản được tội phạm vì
chỉ có tính cách tạm thời và còn bị phê phán không có tính nhân đạo. Chức
năng trừng phạt đôi lúc chỉ có tính cách hủy hoại và tạo thêm gánh nặng cho
xã hội. Chức năng răn đe cũng không hiệu quả vì các tên tội phạm không sợ
và nhiều người cũng không biết mức chế tài nếu họ vi phạm pháp luật. Chỉ
gần đây thôi mục đích phục hồi mới được chú ý một cách nghiêm túc, nhưng
trong nhiều trường hợp, ở nhà tù, phạm nhân học nhiều điều xấu hơn là điều
tốt. Nhiều cuộc nghiên cứu ở Mỹ đã cho thấy rằng nhà tù không thành công
trong việc phục hồi những tội phạm và trong thực tế là “trường dạy tội ác”
(school of crimes). Một số phạm nhân khi ra khỏi tù, mặc dù đã hoàn lương
nhưng vẫn bị xã hội kỳ thị. Một số ít chương trình phục hồi tỏ ra có hiệu quả
khi chú trọng việc huấn nghiệp và đem lại kinh nghiệm lao động và ý thức lao
động cho phạm nhân. Ngày nay nhất là đối với thanh thiếu niên làm trái pháp
luật, người ta chú ý đến các hình thức thử thách, lao động công ích hơn là
các hình thức cải tạo tập trung.
Chương 9. HÀNH VI TẬP THỂ VÀ PHONG TRÀO XÃ HỘI“Sao chổi, sao Mộc đẩy giá tăng vọt ở miền Tây - Suốt gần tuần nay,
mấy bà chị dâu nhà tôi đến khổ sở vì má tôi. Chuyện là vầy: từ trước nay mỗi
ngày, má tôi cứ phát “khít riêm” 20.000 đồng tiền chợ. Vậy mà hơn tuần nay
bỗng dưng lượng thực phẩm mua về mỗi ngày một “sa sút”. Thức ăn mua cho
một ngày chỉ đủ ăn một bữa. Má tôi cằn nhằn, mấy bà chị dâu cố giải
thích:”Tại cái giá nó tăng đột ngột”. Rồi bà kể lại câu chuyện nghe được ngoài
chợ: người ta nói sao chổi, sao Mộc đụng nhau, trời đất sẽ tối tăm suốt bảy
ngày, bảy đêm, nhà cửa chìm xuống mấy thước nước. Vì vậy các loại thực
phẩm, hàng tiêu dùng khô bỗng dưng hút một cách dễ sợ”.
Cũng chuyện tin đồn, nhưng xảy ra ở Mỹ. Tuần báo Tuổi trẻ Chúa nhật
số 564 ngày 21–8–1994, kể lại câu chuyện: “…Một buổi chiều mùa hè, thiên
hạ đang cởi trần phơi nắng ngoài bãi biển Long Beach (California), thì đột
nhiên kênh truyền hình WNBC loan tin động trời: Cá mập đang lảng vảng
ngoài phơi Long Beach. Giọng nói của xướng ngôn viên Chuck Scarborough
rống lên một cách khiếp hãi như thể cá mập đang nằm ở dưới gầm bàn của
ông ta. Thiên hạ rúng động như nghe tin động đất ở Cali, chạy nháo nhào,
kêu ơi ới, thôi thì chồng tìm vợ, vợ tìm con, con tìm cha mẹ, tất cả kêu gào
như trong một nhà thương điên: “Kitty!… Cá mập! Kitty, em đâu rồi?… “Cá
mập! Ed, Ted… Pat… các con ơi… các con đâu rồi?” “Ôi, cá mập… cái quần
tôi mới để đây đâu rồi? Goddamn it!. Mấy nàng đang chổng mông tắm nắng
cũng vội vã nhổm dậy ngó dáo dác như thể cá mập có thể bò lên cát đến tận
chỗ của các nàng đang nằm để chào hêlô. Nhưng chỉ mười phút sau, phóng
viên Dave Browde, cũng thuộc kênh truyền hình nói trên, vội vã đính chính:
“Đó chỉ là cá mập loại hiền, ăn chay, chưa bao giờ biết ăn thịt người…”
Mẫu tin trên có liên quan đến hiện tượng xã hội mà ta thường gọi là tin
đồn (rumour) và hoảng loạn của quần chúng (mass hysteria) là những khái
niệm thường được các nhà xã hội học bao gồm trong khái niệm hành vi tập
thể. Vậy hành vi tập thể là gì?
I. HÀNH VI TẬP THỂ Hành vi tập thể (collective behavior) là những hành động, suy nghĩ và
cảm xúc liên quan đến một số người khá đông và thường không tuân thủ theo
những chuẩn mực xã hội đã được thiết lập. Hành vi tập thể có thể mang
nhiều hình thức và có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực. Những hành vi bắt
chước thời trang (fashion), mode, sự hoảng loạn (hysteria), đám đông
(crowd), bạo động, đồn đãi (rumour), công luận (public opinion) và các phong
trào xã hội (social movements) đều có thể liệt kê vào loại hình các hành vi tập
thể.
Từ lâu hành vi tập thể là một hiện tượng quan trọng của xã hội con
người, nhưng các nhà xã hội học nhận thấy khó nghiên cứu chúng so với các
hiện tượng xã hội khác, ví như sự phân tầng xã hội, các định chế xã hội…
Người ta thường xem đó là những hành vi bất bình thường, lệch lạc của đời
sống xã hội. Chỉ từ thập niên 1960, với những bất ổn càng ngày càng gia
tăng, với các phong trào xã hội xuất hiện ngày càng nhiều, các nhà xã hội học
mới chú trọng nghiên cứu các loại hình đa dạng của hành vi xã hội. Một đặc
điểm khác làm cho việc nghiên cứu các hành vi tập thể trở thành khó khăn là
chúng có quá nhiều đặc tính khác nhau và cũng đem lại những hậu quả cũng
rất khác nhau. Rất khó xác định nguồn gốc rõ rệt của các hành vi tập thể vì
chúng thường liên quan đến một lượng người khá lớn và thông thường họ
cũng không quen biết nhau. Cuối cùng, hành vi tập thể khó nghiên cứu bởi
chúng thường được biểu hiện qua những cảm xúc đột xuất, bộc phát và
thường chỉ kéo dài trong một khoảng thời gian ngắn. Tuy nhiên trong những
năm trở lại đây các nhà xã hội học đã có những nỗ lực hệ thống hóa những
hiểu biết về những hiện tượng xã hội này.
Hành vi tập thể và các tập hợp (collectivities): Các hành vi tập thể
thường xảy ra trong các tập hợp người. Chúng ta sử dụng khái niệm tập hợp
để chỉ một lượng người khá lớn, giữa họ có những hành vi tương tác rất hạn
chế và họ không cùng nhau chia sẻ những chuẩn mực quy ước hay được xác
định một cách rõ rệt. Turner và Killian còn đưa ra sự phân biệt các tập hợp
tập trung và những tập hợp phân tán theo không gian. Nhưng nói chung, khi
so sánh với các nhóm xã hội, các tập hợp xã hội có ba đặc điểm sau đây: Sự
tương tác xã hội hạn chế, ranh giới xã hội không rõ (trong các tập hợp người
ta thường không có ý thức mình là thành viên của tập hợp đó), các chuẩn
mực thường có tính bó buộc yếu hoặc không có tính quy ước.
Một trong các khái niệm quan trọng nhất khi nghiên cứu hành vi tập thể
là khái niệm đám đông. Khái niệm này để chỉ một tập hợp tạm thời những
người đang cùng chia sẻ một số quan tâm nào đó. Herbert Blumer đã đưa ra
sự phân loại như sau về đám đông:
- Đám đông tình cờ (casual crowds), là một tập hợp người có tính cách
tình cờ, giữa họ không có hay có rất ít sự tương tác qua lại. Như trường hợp
một đám đông hóng mát bên bờ sông hay một đám đông hiếu kỳ đang dừng
lại xem tai nạn giao thông trên đường phố.
– Đám dông quy ước, như trường hợp những người tập hợp lại tham
dự một đám tang, nghe một buổi diễn thuyết. Khác với đám đông tình cờ,
đám đông quy ước có một chủ đích rõ rệt, và một số hành vi của họ tuân theo
những khuôn mẫu đã định.
- Đám đông biểu cảm hình thành từ những tập hợp người quy tụ lại để
thể hiện những cảm xúc như vui sướng, ủng hộ tinh thần, hoan hỉ…Như trong
trường hợp các đám đông đổ xô ra đường mừng Năm mới, mừng lễ Quốc
khánh, Giáng sinh…
– Đám đông hành động là những đám đông có những hành động quậy
phá, phá phách, gây bạo lực. Như những đám đông hôligan trong những cuộc
đấu bóng đá.
Ta có thể quan sát những trường hợp một loại hình đám đông này
chuyển sang một loại hình khác: từ một đám đông quy ước biến thành một
đám đông biểu cảm rồi trở thành một đám đông hành động.
J. Macionis đã thêm vào bảng liệt kê của Blumer một loại hình đám
đông thứ năm: đám đông phản kháng (protest crowds). Qua đó ta có thể kể
đến những hình thức đình công, tuyệt thực, tẩy chay, các cuộc diễu hành
phản kháng… Các đám đông phản kháng kết hợp một số nét của đám đông
quy ước nhưng chúng cũng có thể đi đến những hành vi bạo động.
Các nhà xã hội học Mỹ còn đưa thêm những khái niệm Mob (đám đông
cực kỳ hung dữ, có mục tiêu rõ ràng là phá phách, chém giết): như trường
hợp những cuộc bạo loạn ở Mỹ vào khoảng thời gian 1880–1930, hơn năm
ngàn người ta đen đã bị những người da trắng treo cổ (lynch). Còn khái niệm
bạo động (riot) để chỉ một đám đông có những hành vi bộc phát mang tính
bạo động, phá phách. Những cuộc bạo động thường là những phương thức
thể hiện cảm nhận về sự bất công của tập thể. Một loại hình khác của đám
đông hành động là đám đông hoảng sợ (panic). Đám đông hoảng sợ – do một
mối đe dọa lớn – thường có những hành vi phi lý, không kiểm soát được và
có tính cách tự hủy diệt. Như trường hợp một đám cháy xảy ra trong rạp hát,
đám đông hoảng sợ xô đẩy dẫm nát lên nhau tìm đường thoát thân.
Các tập hợp xã hội phân tán:
Các hành vi tập thể không chỉ giới hạn ở một số người tập trung, các
nhà xã hội học sử dụng thuật ngữ hành vi quần chúng (mass behavior) để chỉ
những hành vi tập thể của một tập hợp người phân tán về mặt địa dư. Hành
vi quần chúng bao gồm sự đồn đại (rumour), dư luận, sự cuồng loạn quần
chúng, các mode…
Trước hết, khái niệm quần chúng (mass) ám chỉ một tập hợp người khá
lớn, đang hướng về một đối tượng xã hội hay đang cùng chia sẻ một số biểu
tượng chung nào đó. Ta có thể ứng dụng khái niệm quần chúng cho tập hợp
những khán giả đang theo dõi một chương trình trên ti vi, hay các thính giả
đang nghe một chương trình cải lương trên đài.
Sự đồn đại là việc truyền đi những thông tin không chính thức. Nội dung
của đồn đại có thể đúng có thể sai hoặc cả hai, nhưng tính xác đáng của nó
khó được xác định. Sự đồn đại thường phát triển khi đại bộ phận quần chúng
không có những thông tin chính thức và khi có những tình huống mập mờ.
Trong trường hợp đó sự đồn đại nhằm giải thích một cách không chính thức
tình huống đang xảy ra. Sự đồn đại có đặc tính là dễ gây ra, dễ thay đổi, dễ
biến dạng và một khi đã xuất hiện thì khó kiểm soát, khó dừng lại. Chỉ có thể
ngăn chặn sự đồn đại bằng cách đưa ra những thông tin chính thức, có chất
lượng và rõ ràng. Cuối cùng, sự đồn đại cũng có thể gây nên, tạo ra những
hành vi tập thể, những đám đông.
Dư luận quần chúng là ý kiến, thái độ của một số người trong xã hội
trước một hay nhiều vấn đề đang gây tranh cãi. Quần chúng không phải là
một tập hợp thống nhất, mà có rất nhiều phân lớp với những dị biệt, do đó dư
luận quần chúng thường bị chi phối bởi những người mà ta gọi là thủ lĩnh dư
luận và dư luận quần chúng cũng thay đổi qua thời gian. Trong các chế độ
dân chủ, trong nền kinh tế thị trường việc thăm dò dư luận quần chúng rất
quan trọng, trong việc quản lý nhà nước cũng như quản lý kinh tế. Nhưng các
cuộc thăm dò dư luận này không chỉ nhằm tìm hiểu thực trạng mà chúng còn
có thể, ngược lại, tác động trên thái độ quần chúng.
Sự cuồng loạn của quần chúng (mass hystetia) bao gồm trạng thái lo
âu lan rộng và hành vi hoảng sợ của quần chúng trước một đe dọa – có thực
hay tưởng tượng – đang tới. Thông thường sự hoảng sợ rất dễ lây lan, khi
thấy có một người khác sợ ta cũng rất dễ sợ theo. Sự hoảng sợ thường tiến
triển theo chiều xoắn ốc, càng lúc càng gia tăng, để dẫn đến những hành vi
không hiệu quả, đến lượt chúng lại làm gia tăng sự cuồng loạn.
Các mốt (mode) là các khuôn mẫu tư duy hay cư xử được một số
người bắt chước theo trong một khoảng thời gian nhất định. Mốt còn là đặc
tính của các xã hội công nghiệp, nó liên quan đến nỗ lực của con người nhằm
tạo uy tín trong xã hội. Theo nhà xã hội học người Đức G. Simmel, con người
có xu hướng bắt chước mốt của tầng lớp trên, giàu có hơn. Và tầng lớp giàu
có một khi thấy những mode của tầng lớp mình trở nên phổ biến thì lại đi tìm
những mode mới để khẳng định vị trí xã hội đặc thù của mình. Chính vì vậy
mà Thorstein Veblen gắn liền mốt với sự tiêu thụ phô trương – là hành vi tiêu
thụ để tỏ ra sự giàu có với người khác.
Các lý thuyết giải thích sự hình thành đám đông:
Nhiều nhà xã hội học đã cố gắng mô tả hành vi trong đám đông cũng
như cố gắng giải thích tại sao các hành vi đó đã xảy ra.
Lý thuyết tiêm nhiễm: Chính nhà xã hội học Pháp Gustave Le Bon
(1841–1931) là người đầu tiên đưa ra một giải thích ít nhiều có tính hệ thống
về hành vi của đám đông. Ông cho rằng đám đông có thể gây nên ảnh hướng
mê hoặc đối với các thành viên của đám đông. Trong một đám đông khuyết
danh, cá nhân con người có thể đánh mất cá tính của mình, đánh mất tinh
thần trách nhiệm cá nhân vào cái tinh thần tập thể của đám đông. Đám đông
có cuộc sống riêng của chính nó, thoát khỏi các ràng buộc của chuẩn mực xã
hội. Cá nhân trong các đám đông không còn tự suy nghĩ mà để bị cuốn hút
bởi các cảm xúc dễ lây nhiễm của đám đông như sự sợ hãi, lòng hận thù. Có
một năng lực liên kết các thành viên trong đám đông lại với nhau, nó đè bẹp
các ràng buộc quy ước của xã hội và hệ luận phải đến là tạo ra bạo lực có
khả năng hủy diệt.
Những đặc trưng của đám đông mà G. Le Bon nêu lên như tính khuyết
danh, khả năng gợi ý (suggestibility), sự tiêm nhiễm cảm xúc…ngày nay vẫn
còn được các nhà xã hội học thừa nhận. Nhưng ý kiến của ông cho rằng đám
đông có một ý thức riêng, một tinh thần tách biệt hẳn suy nghĩ và ý đồ của các
thành viên trong đám đông thì khó được chấp nhận. Đám đông có thể làm dễ
dàng hơn sự bộc lộ cảm xúc đang bị đè nén, nhưng đám đông không tạo ra
chính những cảm xúc đó.
Lý thuyết đồng quy (convergence theory): Các tác giả của lý thuyết
đồng quy quan niệm có thể có sự thống nhất hành động trong các đám đông,
nhưng họ không chấp nhận ý kiến của G. Le Bon cho rằng một khi con người
tụ tập thành đám đông thì từ chính bản thân của đám đông hình thành nên
một ý thức, một tinh thần riêng biệt. Lý thuyết này chủ trương sự thống nhất
của đám đông là hậu quả của một thành tố có trước sự hình thành đám đông:
những cá nhân có suy nghĩ tương tự nhau thường quy tụ lại với nhau, thường
cùng bị lôi kéo vào những ứng xử tương đồng nhau. Việc tham gia vào đám
đông có thể khuyến khích những hành vi mà trong các bối cảnh bình thường
con người không thể có do sự kềm chế của các chuẩn mực xã hội. Nhưng
việc các cá nhân thành viên của đám đông ứng xử như nhau chủ yếu là do
những đặc tính cá nhân của họ hơn là do đám đông tạo ra. Điều này khẳng
định, trong nhiều trường hợp hành vi của đám đông có tính cách phi lý như G.
Le Bon ghi nhận, nhưng thật ra nó là hệ quả hợp lý của sự chọn lựa của
quyết định cá nhân tham gia đám đông. Lấy thí dụ, những thành viên tham gia
các đoàn biểu tình phản kháng, họ không chỉ dễ bị lôi cuốn bởi những cảm
xúc trong đám đông, mà chính họ muốn có một hành vi phản kháng nào đó.
Lý thuyết “chuẩn mực bộc phát”: Lý thuyết này bác bỏ ý kiến cho rằng
hành vi trong đám đông có tính cách phi lý và không có tổ chức. Theo R.
Turner và L. Killian, các đám đông có cơ cấu, có tổ chức vì có mục tiêu và có
những chuẩn mực xã hội vì các thành viên đều mong đợi các thành viên khác
tuân thủ theo. Khác với lý thuyết đồng quy, lý thuyết “chuẩn mực bộc phát”
cho rằng đám đông thường bao gồm những người ít ra cũng có nhiều dị biệt
về động cơ, nhưng những người này hợp nhau lại để cùng theo đuổi một số
hành vi nào đó theo những chuẩn mực xã hội. Nói cách khác, các thành viên
trong một đám đông đều hiểu rằng một thành viên khác trong đám đông phải
ứng xử như thế nào. Trong các đám đông tình cờ, hay trong các đám đông
quy ước, mọi người ta đều hiểu, đều biết được các thành viên phải tuân theo
những chuẩn mực nào. Tuy nhiên, các đám đông biểu cảm, đám đông hành
động, đám đông phản kháng thường phát triển những chuẩn mực riêng chi
phối ứng xử của các thành viên. Các chuẩn mực mới bộc phát này thường
đưa đến những hành vi “lệch lạc” so với những hành vi quy ước.
Tương tự những tập hợp xã hội khác, đám đông có thể gây áp lực buộc
các thành viên ứng xử theo các chuẩn mực của mình. Nhưng điều này không
có nghĩa là mọi người trong đám đông đều đồng ý với những chuẩn mực
đang phát sinh và hành động theo chúng. Trong đám đông sẽ có những thủ
lĩnh tiên phong, nhưng cũng có những người theo đuôi, hay có những người
không làm gì hết. Việc tồn tại những chuẩn mực, một thứ bậc các vị trí trong
đám đông đã buộc Turner và Killian kết luận rằng hành vi trong đám đông
không hoàn toàn có tính cách hỗn độn, phi lý như lý thuyết tiêm nhiễm chủ
trương mà ngược lại hai tác giả này đồng ý với lý thuyết đồng quy rằng hành
vi của đám đông là những hành vi có suy nghĩ, bởi lẽ đám đông có mục đích
nhất định. Nhưng khác với lý thuyết đồng quy, hai tác giả này cho rằng không
phải các mục đích đều có sẵn trước nhưng chúng phát sinh ra tùy diễn biến
của tình hình. Theo hai tác giả này, ngay trong đám đông mà sự xúc động
đang lên cao cũng có thể có những quyết định ý thức. Đối với các khán giả
trong một rạp hát đang bị cháy, việc dẫm lên nhau để chạy thoát không phải
là một hành vi phi lý, điên rồ, nhưng đối với họ đó là lối thoát hợp lý. Những
hành vi tập thể xa lạ với các khuôn mẫu văn hóa chủ đạo đều thường bị gán
cho tính cách phi lý.
II. CÁC PHONG TRÀO XÃ HỘI Đám đông, dư luận, thời trang… và những loại hình hành vi tập thể vừa
trình bày trên đây thường chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn và ít khi có ảnh
hướng trên toàn xã hội, trong khi các phong trào xã hội có tính tự giác hơn và
thường kéo dài trong thời gian. Các phong trào xã hội là những hoạt động tự
nguyện có tổ chức, dài hạn, có chủ đích khuyến khích hay chống đối một
chiều kích, một khía cạnh nào đó của biến chuyển xã hội. Phong trào xã hội
khác các hành vi tập thể khác do ba đặc tính: tính tổ chức nội bộ cao hơn,
kéo dài hơn trong thời gian và là một nỗ lực tự giác nhằm thay đổi tổ chức
của chính xã hội.
Các phong trào xã hội có thể phát sinh từ những vấn đề công cộng mà
xã hội đang quan tâm: như các phong trào đấu tranh cho sự bình đẳng giới,
bình đẳng dân tộc, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi sinh…
Một số nhà xã hội học đã cố gắng phân loại các phong trào xã hội dựa
trên những tiêu chí khác nhau. Một trong các chiều kích để phân loại các
phong trào xã hội là tiêu điểm quan tâm: một số phong trào chú trọng đến các
cá nhân (hay một tầng lớp xã hội), một số khác lại đề cập những vấn đề liên
quan đến toàn xã hội. Chiều kích thứ hai là phạm vi mà biến đổi nhắm tới:
biến đổi hạn chế đối với cá nhân và xã hội hay là một sự chuyển hóa rộng
lớn. Từ đó có thể phân ra các phong trào xã hội có tính cách thay thế
(alternative social movements), có tính cách cứu thế (redemptive), cải cách
(reformative) hay cách mạng (revolutionary).
A. Touraine, nhà xã hội học Pháp, đã đưa ra định nghĩa về phong trào
xã hội như sau: “là hành động xung đột của các tác nhân của các giai cấp xã
hội đấu tranh nhằm kiểm soát hệ thống hành động lịch sử”. Như vậy A.
Touraine chỉ đề cập đến những phong trào có tác động lên toàn xã hội.
W. Kornblum đưa ra một phân loại khác về các phong trào xã hội:
- Các phong trào cách mạng: nhằm tìm cách lật đổ các hệ thống phân
tầng xã hội và các định chế đang tồn tại và thay thế bằng các hệ thống và
định chế mới. Như trường hợp cuộc cách mạng Nga 1917.
- Các phong trào cải cách: chỉ nhằm thay đổi bộ phận của một vài định
chế, một vài giá trị của xã hội. Như các phong trào công đoàn tại các nước tư
bản, chúng chỉ thương lượng với giới tư bản nhằm cải thiện điều kiện làm
việc, cải thiện lương bổng của công nhân.
- Các phong trào bảo thủ: nhằm bảo vệ những giá trị, những định chế
của xã hội và thường chống lại bất kỳ sự thay đổi nào.
- Và các phong trào phản động: nhằm trở lại những giá trị, những định
chế trong quá khứ, do đó bác bỏ những giá trị, những định chế đang tồn tại.
Như phong trào Ku Klux Klan ở Mỹ chẳng hạn.
Các lý thuyết giải thích về sự phát sinh của các phong trào xã hội:
Lý thuyết về sự bất mãn do bị tước đoạt: Theo lý thuyết này các phong
trào xã hội phát sinh khi có một số đông người cảm thấy bất mãn do thiếu
thốn những điều cần thiết cho cuộc sống của họ. Những người nào cảm thấy
họ đang thiếu thốn những điều kiện vật chất, thiếu các cơ hội bình đẳng, thiếu
điều kiện làm việc, thiếu quyền lợi, thiếu nhân phẩm hay khi thấy quyền lợi
của mình bị suy giảm…thì dễ dấn thân vào các hành vi tập thể nhằm cải thiện
tình thế của họ. Phong trào kỳ thị chủng tộc Ku Klux Klan là do những người
da trắng thấy quyền lợi của mình bị thiệt thòi do việc giải phóng người da đen.
Ngược lại phong trào đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản là do
nhận thấy mình bị bóc lột công lao động.
Nhưng thế nào là thiếu thốn, là bị tước đoạt thì tương đối. Nói cách
khác, con người có xu hướng đánh giá hoàn cảnh của mình trong tương quan
với một số thành phần xã hội nào đó. Sự bất mãn tương đối là việc nhận thức
những bất lợi của mình khi so sánh với cái kẻ khác đang có hay với cái mà
người ta tin tưởng phải tồn tại. Sự bất mãn tương đối xuất hiện khi ta quy
chiếu với những người khác có vị trí xã hội thuận lợi hơn. Như vậy với khái
niệm bất mãn tương đối, các phong trào xã hội sẽ phát sinh khi con người có
lý do bất mãn với hiện trạng của mình. Qua cuộc nghiên cứu về cuộc cách
mạng Pháp, A.de Tocqueville nhận thấy cuộc sống của nông dân Pháp dễ
chịu hơn cuộc sống của nông dân Đức, nhưng tại sao nông dân Đức không
làm cách mạng? Câu trả lời của Tocqueville là nông dân Đức đã quen sống
trong chế độ nông nô phong kiến, nên không có mức sống cao và cũng không
cảm thấy bóc lột. Ngược lại nông dân Pháp đã kinh qua những cải thiện và
cảm thấy xã hội không như mong muốn. Và họ mơ ước những cải thiện hơn
nên cũng dễ cảm thấy bất mãn hơn.
Nhà xã hội học James C. Davies đưa ra quan điểm, khi mức sống đang
được nâng lên, thì sự chờ đợi, kỳ vọng chúng cũng tăng lên (rising
expectations). Nếu mức sống của xã hội ngừng lại không cải thiện, hay trở
nên xấu hơn thì quần chúng dễ bị bất mãn. Như vậy các phong trào xã hội có
mục tiêu đem lại những thay đổi xã hội có khả năng xảy ra khi có những giai
đoạn ngắn mà mức sống giảm sụt sau một thời kỳ dài được cải thiện.
Lý thuyết về sự bất mãn chiếu rọi một vài tia sáng quan trọng trong việc
tìm hiểu sự phát sinh, phát triển các phong trào xã hội. Nhưng lý thuyết này
không giải thích được tại sao trong mọi xã hội các tầng lớp xã hội đều có ít
nhiều bất mãn và tại sạo các phong trào xã hội lại chỉ phát sinh trong tầng lớp
này nhưng không phát sinh trong tầng lớp khác. Lý thuyết này cũng có nguy
cơ rơi vào lối lý luận luẩn quẩn, vòng vo: phong trào xã hội là do sự bất mãn
tạo nên, nhưng nhận thức sự tồn tại thực sự của bất mãn chỉ thể hiện qua
phong trào xã hội.
Lý thuyết về xã hội đại chúng: Lý thuyết xã hội đại chúng của William
Kornhauser đôi lúc còn gọi là lý thuyết về sự tan rã xã hội (social breakdown)
lập luận các phong trào xã hội hình thành từ những người cảm thấy bị cô lập
về mặt xã hội, tự cảm thấy cá nhân mình không có ý nghĩa gì trong cái xã hội
đại chúng to lớn và phức tạp. Do thiếu những mối dây ràng buộc với các kết
cấu xã hội có sẵn như gia đình, tôn giáo, chính trị, nghề nghiệp…họ dễ cảm
nhận một sự bất lực, và mặt khác, do thiếu những chuẩn mực ràng buộc của
xã hội đại chúng, họ dễ dấn thân vào các hoạt động phi quy ước, các hoạt
động bạo lực. Như vậy các phong trào xã hội là nơi có thể tìm thấy những liên
hệ, những ràng buộc, tìm thấy sức mạnh mà con người đang thiếu. Sự tan rã
xã hội xảy ra khi một số đông con người tách rời các định chế xã hội cổ
truyền, và khi đó con người rất dễ bị vận động vào các phong trào đại chúng,
trước hết không nhằm thay đổi xã hội mà chỉ muốn chạy trốn sự cô đơn, cô
lập của chính mình.
Kornhauser chỉ nhìn thấy những khía cạnh tiêu cực và bảo thủ của các
phong trào xã hội, ông xem chúng như là những lệch lạc, chệch hướng khỏi
những chuẩn mực xã hội và những cá nhân tham gia những phong trào xã
hội là những người dễ bị các thủ lãnh trong các phong trào xúi giục chống lại
những nguyên tắc của xã hội dân chủ và họ là những người ít tinh thần tập
thể nhất trong các nhóm xã hội.
Một số nghiên cứu khẳng định những ý tưởng của Kornhauser cho thấy
rằng việc tan rã những khuôn mẫu xã hội thực sự thúc đẩy những tầng lớp
nghèo vào các phong trào xã hội. Một cuộc nghiên cứu khác của Bert Useem
về sự báo động trong nhà tù ở Mexico cho thấy có nguyên nhân từ việc cắt
đứt những mối quan hệ xã hội của các tù nhân. Tuy nhiên quan điểm của
Kornhauser có nhiều khuyết điểm. Trước hết ông ta không thấy các phong
trào xã hội không chỉ phát sinh từ sự tan rã kết cấu xã hội, mà ngay trong các
xã hội ổn định, có tổ chức, cũng có các căng thẳng, xung đột – như những bất
bình đẳng về giai cấp, về chủng tộc, về giới trong các xã hội hiện đại. Thứ
đến có những phong trào xã hội thu hút nhiều thành viên có tinh thần hội nhập
cao chứ không phải chỉ những người bên lề xã hội.
Lý thuyết về sự căng thẳng kết cấu xã hội (structural strain theory): Một
trong các lối tiếp cận quan trọng giúp hiểu thêm sự phát sinh các phong trào
xã hội là lý thuyết của Neil Smelser về sự căng thẳng của kết cấu xã hội.
Smelser đưa ra sáu yếu tố xã hội góp phần hình thành nên các phong trào xã
hội. Lý thuyết của ông cũng nêu lên những giả thiết giải thích tại sao có
những hành vi tập thể mang những hình thức vô tổ chức như những cuộc bạo
động, nhưng cũng có những hành vi tập thể mang các hình thức có tính tổ
chức cao như các phong trào xã hội.
a/ Xu hướng của kết cấu xã hội: Smelser lập luận rằng nguồn gốc của
các phong trào xã hội nằm trong kết cấu của xã hội. Một kết cấu xã hội thuận
lợi cho sự phát sinh của một phong trào xã hội sẽ cho phép những sự bất
mãn được bộc lộ ra.
b/ Căng thẳng của kết cấu: khả năng các phong trào xã hội phát sinh
càng gia tăng khi có nhiều căng thẳng trong xã hội, ví như các mâu thuẫn về
chủng tộc, giai cấp.
c/ Sự phát triển và lan rộng của một niềm tin vào tính chính đáng của
phong trào. Một vài người sẽ giải thích về nguyên nhân của sự căng thẳng
trong xã hội, những hậu quả của nó và vấn đề phải làm gì để cải thiện tình
hình và những điều này dần dần được một số đông người chấp nhận. Theo
Smelser, những người ít am hiểu về tình huống trên thường biểu lộ sự bất
mãn trong các hành vi tập thể ít có tính tổ chức. Ngược lại, việc am hiểu,
phân tích rõ ràng sẽ khuyến khích sự hình thành của một phong trào xã hội có
tổ chức tốt.
d/ Những yếu tố châm ngòi: các phong trào xã hội đòi hỏi có thời gian
dài để hình thành. Tuy nhiên, vào một thời điểm nào đó một hay nhiều biến cố
có thể làm cho hành vi tập thể sớm xảy ra.
e/ Vận động để hành động: một khi các yếu tố dự báo đã hướng dư
luận quần chúng vào một trọng tâm nào đó thì các hành động tập thể có khả
năng xảy ra như các cuộc mít tinh, rải truyền đơn, gây vốn, vận động hành
lang và các cuộc biểu tình.
f/ Sự kiểm soát của xã hội: hướng phát triển và kết quả của một phong
trào xã hội có thể bị chi phối bởi phản ứng của hệ thống đang nắm quyền lực.
Cách tiếp cận của Smelser để tìm hiểu các phong trào xã hội có ưu
điểm là cố gắng giải thích hành vi tập thể bắt nguồn trong chính xã hội như
thế nào và các yếu tố xã hội có thể khuyến khích các loại hình hành động tập
thể khác nhau như thế nào. Lý thuyết của ông cũng có ưu điểm là giải thích
được tại sao hành vi tập thể có thể mang hình thức của các phong trào xã hội
có tổ chức hay mang hình thức của các cuộc bạo động có tính cách tự phát
hơn. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu khác, Smelser đã bỏ qua các yếu
tố quan trọng trong việc hình thành các phong trào xã hội và cũng không đề
cập đến mức độ thành công hay thất bại mà các phong trào xã hội đã đem lại.
Lý thuyết vận động tài nguyên nhấn mạnh các phong trào xã hội phát
sinh và đạt được các mục tiêu chỉ khi nào chúng được hỗ trợ bởi những tài
nguyên cần thiết như tiền bạc, nhân lực, khả năng thông tin, những mối quan
hệ với những người có ảnh hưởng và truyền thông đại chúng, và chỉ khi nào
chúng được quần chúng xem là chính đáng. Như vậy, theo lý thuyết vận động
tài nguyên các phong trào xã hội cần được xây dựng trên những tổ chức
mạnh để có thể thu hút các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả và vận động
các thành viên của mình hành động.
Những người bên trong cũng như bên ngoài phong trào có thể đóng
một vai trò quan trọng trong việc cung cấp và phát triển các tài nguyên cho
một phong trào xã hội. Những tầng lớp xã hội kém may mắn thường thiếu tiền
bạc, các mối quan hệ, khả năng lãnh đạo và các kỹ năng tổ chức cần có của
một phong trào xã hội thật sự. Do đó, sự ủng hộ của các cảm tình viên bên
ngoài phong trào có thể giúp đỡ bù đắp những thiếu sót trên. Các phong trào
xã hội cũng cần có các mạng lưới xã hội như là phương tiện để lôi cuốn
những người có thể giúp đỡ về mặt nhân lực cũng như tài lực cho phong trào.
Ưu điểm của lý thuyết vận động tài nguyên là đã thừa nhận cả hai yếu
tố tài nguyên và sự bất mãn để cần thiết cho sự thành công của phong trào xã
hội. Lý thuyết này cũng cho thấy sự tác động của bất cứ phong trào xã hội
nào và các đoàn thể, các tổ chức đều có thể cung cấp các tài nguyên quý
báu, hữu ích cho phong trào. Tuy nhiên, lý thuyết vận động tài nguyên cũng
có điểm yếu khi hàm ý các phong trào xã hội trong các tầng lớp nghèo đói
không quyền lực chỉ có thể thành công nếu có sự trợ giúp từ bên ngoài. Một
cuộc nghiên cứu cho thấy các phong trào đòi nhân quyền của người da đen ở
Mỹ vào những năm 1950, 1960 chủ yếu là do người da đen và với những tài
nguyên từ cộng đồng của người da đen. Thêm vào đó có một sự thật rõ ràng
là những người có quyền lực trong xã hội thường chống lại các nỗ lực của
những người ít quyền lực hơn nhằm thay đổi nguyên trạng. Một cách tổng
quát, sự thành công hay thất bại của một phong trào xã hội là một quá trình
đấu tranh liên quan đến những người chống đối hay ủng hộ nguyên trạng.
Nếu những lực lượng của hệ thống hay của phản phong trào mạnh mẽ và
đoàn kết thì phong trào xã hội có khả năng thất bại và ngược lại nếu chúng
yếu và chia rẽ thì những cơ hội thành công của phong trào xã hội có nhiều
khả năng hơn.
Lý thuyết về các phong trào xã hội mới: Đây là một lý thuyết mới nghiên
cứu về các phong trào xã hội xuất hiện gần đây trong các xã hội đã phát triển.
Các phong trào xã hội này đặt trọng tâm vào những vấn đề sinh thái toàn cầu,
đấu tranh cho quyền của các nhóm thiểu số, giảm nguy cơ chiến tranh…Một
nét đặc trưng các phong trào này là quy mô ở cấp quốc gia và toàn cầu. Thứ
đến trong khi các phong trào trong các giai đoạn trước chú trọng đến những
vấn đề kinh tế thì những phong trào này đặt trọng tâm vào những vấn đề văn
hóa và môi trường của xã hội chúng ta đang sống. Các phong trào mới này
thường tìm sự ủng hộ của các giai cấp trung lưu và các tầng lớp trên.
Vì mới xuất hiện, hiện nay các nhà nghiên cứu cũng đang đánh giá về
lý thuyết này. Nhìn chung mọi người thừa nhận các phong trào xã hội mới
xuất hiện là để đáp ứng sự gia tăng quyền lực của nhà nước và sự phát triển
của hệ thống kinh tế chính trị mang tính toàn cầu. Lý thuyết này cũng cho thấy
vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc liên kết quần
chúng đấu tranh cho những vấn đề toàn cầu. Tuy nhiên người ta cũng phê
phán lý thuyết này hơi cường điệu những khác biệt của các phong trào xã hội
trong quá khứ và hiện nay. Lấy thí dụ những phong trào đấu tranh cho phụ nữ
từ trước đến nay vẫn luôn đấu tranh cho việc cải thiện môi trường làm việc và
lương bổng của phụ nữ.
Các giai đoạn phát triển của các phong trào xã hội:
Sự bền vững của các phong trào xã hội một phần lớn tùy thuộc vào sự
hữu hiệu của tổ chức. Một số phong trào chủ trương không phát triển tổ chức
thường không bền vững theo thời gian, ví như các phong trào hippi trước
đây. Ngược lại một số phong trào dựa trên những tổ chức tốt, như phong trào
đấu tranh cho nữ quyền, các phong trào đấu tranh cho quyền các dân tộc
thiểu số… đã bền vững qua thời gian và đạt những kết quả nhất định.
Có một vài phong trào xã hội có quá trình phát triển độc đáo duy nhất,
nhưng đại bộ phận đều phát triển qua một số giai đoạn nhất định:
– Giai đoạn hình thành: Một phong trào xã hội khi được thừa nhận là
kết quả của một quá trình tranh đấu gian khổ và lâu dài, lấy thí dụ, như sự
hình thành những tổ chức cách mạng, việc tranh đấu cho những nguyên tắc
bình đẳng về giới và dân tộc. Các phong trào xã hội đều xuất phát từ sự bất
mãn của một thành phần hay của đại bộ phận dân chúng. Trong giai đoạn
hình thành này thường xuất hiện các thủ lĩnh có ma lực (charisma), có sức
thu hút quần chúng như một Mahatma Gandhi, một Hồ Chí Minh, một M. L.
King…Giai đoạn hình thành phong trào này cũng gắn liền với việc xây dựng
cơ sở.
– Giai đoạn liên kết, củng cố: Một phong trào không thể tồn tại bằng sự
phấn khởi, bằng ước muốn mà phải được tổ chức, phải được điều hành bởi
những nhà quản lý. Đây là giai đoạn phát triển các thủ tục điều hành của tổ
chức, hình thành các chính sách, các chiến thuật, xây dựng một tinh thần tích
cực. Trong giai đoạn này, phong trào có thể đi đến những hành động tập thể
– như biểu tình – để gây ý thức cho dư luận, chứng minh sự tồn tại của mình.
Việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, liên kết với các tổ chức
khác là rất cần thiết để truyền đạt thông điệp của phong trào, tranh thủ tài
nguyên cần thiết cho sự thành công của phong trào.
– Giai đoạn quan liêu hóa, bàn giấy hóa: Khi một phong trào đã đi vào
tổ chức, nó dần dần sẽ mang những đặc tính của một tổ chức chính thức.
Các quan hệ bàn giấy sẽ thay thế cho các quan hệ cá nhân. Việc bàn giấy
hóa tổ chức có thể đưa phong trào vào nề nếp, nhưng đôi khi cũng có nguy
cơ ngăn cản sự thành công của phong trào. Nhiều nhà xã hội học – như
Frances Piven hay Richard Cloard cho thấy đôi khi các nhà lãnh đạo phong
trào quá quan tâm đến việc xây dựng tổ chức chính thức mà quên đi việc phát
triển tính chiến đấu của phong trào, làm cho xung lực của phong trào chậm
lại.
- Giai đoạn thoái trào: Một phong trào, cũng như những tổ chức xã hội,
khi bị hành chính hóa, quan liêu hóa sẽ đánh mất đi những nét lý tưởng lôi
cuốn ban đầu, và nếu không kịp thời thích ứng với các biến chuyển, sẽ bị đào
thải. Cũng như một xí nghiệp sản xuất mà sản phẩm không còn thu hút khách
hàng nữa thì có nguy cơ phá sản. Trong giai đoạn này, các phương tiện của
phong trào có thể trở thành mục đích, làm phong trào mất đi tính lý tưởng,
nặng nề và hình thức – cái mà R. Merton gọi là “nệ nghi thức” (ritualist).
F. Miller đã đưa ra bốn nguyên nhân có thể dẫn sự thoái trào của
phong trào. Trước hết có thể phong trào đã quá thành công trong các mục
tiêu đã đưa ra nên không còn lý do tồn tại. Nhưng điều này ít khi xảy ra, bởi lẽ
các phong trào thường đưa ra nhiều mục tiêu liên tục. Hoặc là phong trào
được lãnh đạo tồi, cạn tài nguyên, bị bàn giấy hóa, hay mục tiêu đưa ra không
còn hấp dẫn đối với xã hội, chia rẽ, xung đột nội bộ vì những mục tiêu, đối
sách phải chọn lựa. Hoặc là khi các lãnh đạo phong trào bị “hội nhập” vào cơ
cấu quyền lực có sẵn. Hoặc là phong trào bị hệ thống quyền lực hiện hữu đàn
áp, như tổ chức ANC trước đây của N. Mandela bị chính quyền Nam phi đàn
áp. Ngoài bốn lý do Miller nêu ra, J. Macionis còn đưa ra khả năng phong trào
trở thành một bộ phận của hệ thống. Có nghĩa là phong trào không hoàn toàn
thành công trong các mục tiêu đưa ra, nhưng cũng đạt một phần và không
còn mang đặc trưng của một tổ chức mang tính đối kháng mà trở thành một
bộ phận của hệ thống, như phong trào bảo vệ người tiêu dùng trước đây của
R. Nader.
– Giai đoạn tái tổ chức: Công việc tái tổ chức không phải là công việc
dễ dàng. Muốn tổ chức lại một phong trào đòi hỏi phải biết thích ứng với nhu
cầu biến chuyển. Việc tái tổ chức có thể có liên quan đến việc ấn định những
mục tiêu mới, hình thành những kết cấu mới, những quy trình mới hay giải
thích lại những lý tưởng ban đầu đã bị định chế bỏ quên. Lấy thí dụ, đối với
một số người phương Tây, các tôn giáo như Phật giáo, Hồi giáo có tính cách
lạc hậu, nhưng một số lãnh đạo các nước Á Phi đã dùng chúng như là biểu
tượng của sự thống nhất quốc gia. Một số lãnh tụ tôn giáo da đen ở Mỹ đã
nhấn mạnh các lý tưởng huynh đệ, bất bạo động của Kitô giáo để chống lại
sự phân biệt chủng tộc.
Như vậy, mọi phong trào muốn tồn tại và luôn mang sức sống, cần nhìn
thấy vấn đề thiết yếu phải tiến hành những thay đổi định kỳ về các chuẩn
mực, các mục tiêu, cách làm việc và ngay cả sự lãnh đạo.
Không thể tách rời các phong trào xã hội và các biến chuyển xã hội.
Các phong trào xã hội trong thời gian qua đã đưa đến những biến đổi lớn lao
và lâu dài trong các lãnh vực xã hội như các phong trào đấu tranh cho quyền
bình đẳng dân tộc, bình đẳng giới, bảo vệ môi sinh…Nhưng mặt khác biến
chuyển xã hội cũng khơi mào cho những phong trào xã hội, như cuộc cách
mạng công nghiệp đã sản sinh ra các phong trào công nhân, phong trào nữ
quyền…Trong xã hội hiện đại, biến chuyển xã hội là một quá trình liên tục vừa
là điều kiện vừa là hậu quả của các phong trào xã hội.
Chương 10. BIẾN CHUYỂN XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA(Social change and process of modernization
Changement social et processus de modernisation)
Biến chuyển không phải là sự tận thế – nó là phản đề của sự tận thế.
Chỉ có tận thế khi nào có đấu tranh chống lại biến chuyển. Hiểu được biến
chuyển sẽ đem đến sự giải thoát.
Paul Bohannon.
Nhà dân tộc học Goodenough kể lại rằng, tộc người Onotoans sống ở
một hòn đảo thuộc quần đảo Nam Gilbert Thái bình dương, họ sống thành
những dòng họ (kaainga) có cùng một tổ tiên chung. Người Onotoans sống
bằng nghề đánh cá gần bờ biển, với các phương tiện đánh bắt thô sơ, nên họ
phải tương trợ nhau dựa trên cơ sở đại gia đình. Nhưng vào đầu thế kỷ 20 họ
đã mua được các thuyền gỗ có gắn động cơ, phương pháp đánh bắt mới này
chỉ cần hai ngư dân cho mỗi ghe và do đó họ không còn cần sự giúp đỡ của
đại gia đình. Điều này dẫn đến việc suy vong của định chế đại gia đình. Như
vậy việc du nhập một kỹ thuật mới đã khiến các định chế xã hội thay đổi.
Nhưng mặt khác, đối với người Onotoans, họ rất ao ước có thuyền gắn động
cơ vì điều này gia tăng uy tín xã hội của họ, và các loại cá biển được đánh bắt
bằng phương tiện này rất được ưa chuộng. Do đó, với số tiền kiếm được từ
việc đi làm thuê cho người Anh ở một khu mỏ lân cận, họ dành để sắm các
thuyền máy này. Như vậy một kỹ thuật mới phù hợp với những giá trị mong
ước đã đem lại biến chuyển trong cơ cấu xã hội của người Onotoans. Trong
khi những thổ dân lân cận, mặc dù cũng kiếm được nhiều tiền, nhưng không
muốn sắm các loại thuyền máy trên nên cũng không có các biến chuyển trong
cơ cấu xã hội như ở người Onotoans.
Ví dụ trên cho ta một khái niệm thế nào là biến chuyển xã hội, nguồn
gốc của biến chuyển xã hội do đâu…
I. BIẾN CHUYỂN XÃ HỘI LÀ GÌ? Người ta thường phân biệt khái niệm biến chuyển xã hội với khái niệm
biến cố xã hội (évènement social). Một biến cố xã hội như một cuộc biểu tình,
một cuộc bầu cử, một cuộc đình công… Một biến cố có thể đem đến thay đổi
cũng có thể không. Do đó T. Parsons đã đưa ra sự phân biệt giữa những thay
đổi về sự quân bình và thay đổi có tính cơ cấu. Thay đổi về sự quân bình là
việc đi tới một thế quân bình mới sau những xáo trộn và như vậy các đặc
trưng của hệ thống vẫn không thay đổi, hay nói cách khác chỉ một bộ phận
của tổng thể biến đổi, nhưng cơ cấu của nó vẫn không bị ảnh hưởng. Trong ý
nghĩa đó, thay đổi thế quân bình không liên quan đến biến chuyển xã hội mà
chúng ta đề cập ở đây.
Như vậy, biến chuyển xã hội là sự thay đổi có tính cơ cấu trong những
tổ chức, trong những lối suy nghĩ và ứng xử của xã hội qua thời gian. Biến
chuyển xã hội có thể nhận thấy qua thời gian, kéo dài và là một hiện tượng
tập thể. Ta có thể mô tả biến chuyển xã hội bằng những đặc tính tổng quát
sau đây:
Biến chuyển xã hội là phổ biến nhưng xảy ra khác nhau tùy môi trường
xã hội: mỗi xã hội đều biến chuyển qua thời gian nhưng không phải mọi biến
chuyển đều tuân theo cùng một tốc độ. G. J. Lenski đã cho thấy tốc độ của
biến chuyển xã hội gia tăng khi nền kỹ thuật của một xã hội phát triển. Do đó,
biến chuyển xã hội ở các xã hội có nền kỹ thuật phát triển cao sẽ nhanh hơn
là những xã hội có nền kỹ thuật kém phát triển. Thêm vào đó, không phải mọi
yếu tố văn hoá biểu hiện cùng một nhịp độ thay đổi. William Ogburn đã dùng
khái niệm “chậm trễ văn hóa” (cultural lag) để chỉ hiện tượng văn hóa vật chất
thường thay đổi nhanh hơn văn hóa tinh thần.
Biến chuyển xã hội vừa có tính cách tự giác vừa có tính cách phi kế
hoạch: Trong các xã hội công nghiệp, nhiều khía cạnh của biến chuyển xã hội
đã được đề ra một cách tự giác, ví như con người đã chủ động trong việc
phát triển các hình thức năng lượng mới, những kỹ thuật y khoa mới. Nhưng
mặt khác, con người thường khó hình dung tất cả những hậu quả của các
thay đổi này. Khi xe hơi xuất hiện tại xã hội Mỹ vào đầu thế kỷ, ít ai có thể
hình dung những thay đổi mà nó đem lại. Sự xuất hiện của xe hơi đã thay đổi
mô thức cư trú của con người, đã biến đổi các nền kinh tế.
Biến chuyển xã hội thường gây tranh luận, bởi lẽ biến chuyển xã hội
đem lại những hậu quả tốt cũng như xấu. Ta đã biết những lợi ích mà xe hơi
đem lại nhưng đồng thời cũng đưa đến vấn đề ô nhiễm và tai nạn giao thông.
Bất cứ một biến đổi nào trong xã hội cũng có kẻ ủng hộ, người chống đối.
Nhà tư bản xem việc cải tiến kỹ thuật là cơ hội để kiếm được nhiều lợi nhuận
hơn, còn công nhân thì chống đối vì sợ mất việc. Thật vậy, từ lâu việc phát
triển năng lượng nguyên tử cũng đem lại nhiều tranh cãi: Bên cạnh sự thay
đổi kỹ thuật, những biến đổi trong các khuôn mẫu xã hội có liên quan đến
quan hệ chủng tộc hay giới tính cũng đã trở thành những vấn đề tranh cãi
chung.
Biến chuyển xã hội khác biệt về mặt thời gian và hậu quả: Có những
biến đổi chỉ kéo dài trong một quãng thời gian ngắn và không có ảnh hưởng
lâu dài. Nhưng cũng có những thay đổi kỹ thuật biến đổi cả bộ mặt xã hội và
còn tồn tại lâu dài như phát minh về vô tuyến truyền hình cách đây hơn 50
năm. Và ngày nay cuộc cách mạng thông tin với sự ra đời của máy vi tính và
hệ thống internet chắc chắn sẽ thay đổi toàn thế giới trong những thập niên
tới. Máy vi tính một mặt tạo ra những công việc mới nhưng mặt khác cũng
loại bỏ không ít những ngành nghề, nó tạo ra khả năng cho con người tiếp
cận thông tin, nhưng đồng thời cũng can thiệp vào đời sống riêng tư của con
người.
II. CÁC YẾU TỐ CỦA BIẾN CHUYỂN XÃ HỘI Biến chuyển xã hội có nguồn gốc bên trong cũng như bên ngoài xã hội.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày nay mọi xã hội đều gắn bó hữu
cơ với nhau, do đó một biến đổi ở một bộ phận sẽ kéo theo những biến đổi
trên các lãnh vực khác.
Đâu là những yếu tố giải thích, đâu là những điều kiện cho biến chuyển
xã hội?
1. Các quá trình văn hóa:
Văn hóa là một hệ thống động, luôn biến đổi, con người luôn thêm vào
những yếu tố mới cũng như loại bỏ đi những yếu tố không còn tác dụng.
Những yếu tố mới xuất hiện qua những quá trình cơ bản như: phát minh
(invention), khám phá (discovery), truyền bá (diffusion).
Các phát minh – bao gồm việc đưa ra những tư tưởng mới, những kỹ
thuật mới – góp phần thay đổi diện mạo xã hội. Như những phát minh về máy
hơi nước, động cơ phản lực… Cũng như quan điểm của K. Marx trước đây
trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, nhiều nhà khoa học xã hội hiện
nay, như Lewis Mumford, Henri Janne…, đã phân chia lịch sử con người dựa
trên sự phát triển kỹ thuật. Và gần đây nhất, Alvin Toffler đã nói đến ba đợt
sóng lịch sử của sự phát triển các kỹ thuật: đợt sóng thứ nhất tương ứng với
cuộc cách mạng trong nông nghiệp, đợt sóng thứ hai bắt đầu với quá trình
công nghiệp hóa và đợt sóng thứ ba – là thời kỳ chúng ta đang sống – được
đánh dấu bởi những phát minh các kỹ thuật tiên tiến, đặc biệt là những kỹ
thuật trong lãnh vực thông tin và truyền thông.
Khám phá có nghĩa là nhận thức ra những yếu tố đang tồn tại trong thế
giới, bắt đầu hiểu được và lãnh hội chúng theo một phương cách mới. Như
những khám phá y khoa về cơ thể của con người đã giúp gia tăng tuổi thọ
trung bình (espérance de vie) trong các thập kỷ qua. Sự truyền bá thông qua
con đường thương mãi, di dân, truyền thông đại chúng đã đem lại những biến
đổi xã hội sâu sắc. Chúng ta thử quan sát lối sống của người Việt hiện nay từ
ăn mặc, nhà ở, đi lại, giải trí…đều mang những yếu tố văn hóa đến từ bên
ngoài, dĩ nhiên cũng có quá trình tiếp thu, giao hoán văn hóa.
2. Kết cấu xã hội:
Mâu thuẫn, xung đột trong kết cấu xã hội cũng là nguyên nhân đưa đến
biến chuyển xã hội. Lý thuyết có ảnh hưởng lớn đã liên kết vấn đề mâu thuẫn
xã hội và vấn đề biến chuyển xã hội là lý thuyết của K. Marx về đấu tranh giai
cấp và xem đấu tranh giai cấp như là động lực phát triển xã hội.
Một số nhà xã hội học khác cũng tự nhận mình thuộc thuyết mâu thuẫn.
Nhưng điểm khác biệt là họ đề cập đến những mâu thuẫn về quyền lợi hơn là
mâu thuẫn về cơ cấu. Theo G. Adam và J. D. Reynaud, mục tiêu của những
người gây ra xung đột là chỉ nhằm điều chỉnh các mối tương quan giữa các
phe phái. L.A. Coser quan niệm mâu thuẫn là biểu hiện của sự dị biệt, của
xung đột về quyền lợi và chúng cũng có thể góp phần củng cố sự cố kết xã
hội. Còn R. Dahrendorf cho rằng nguồn gốc của xung đột giai cấp là mâu
thuẫn về quyền lực.
Cho dù thế giới có những biến chuyển thăng trầm, Marx vẫn luôn có lý
khi ông cho rằng mâu thuẫn xã hội phát xuất từ những bất bình đẳng – đó là
bất bình đẳng giai cấp, bất bình đẳng dân tộc, hay bất bình đẳng giới tính – và
việc giải quyết những mâu thuẫn trên sẽ đem đến những biến chuyển, những
thay đổi về mặt kết cấu xã hội. Các phong trào đấu tranh của công nhân, đấu
tranh dân quyền, đấu tranh của phụ nữ ở các xã hội trên khắp thế giới là biểu
hiện của những xung đột trên.
3. Tư tưởng:
Tư tưởng giữ một vai trò quan trọng trong việc xúc tác cũng như trong
việc cản trở biến chuyển xã hội.
Lý thuyết mác xít thừa nhận vai trò quan trọng của tư tưởng, của lý luận
trong việc tạo ra các biến chuyển xã hội. K. Marx khi nói về cách mạng vô sản
ở Đức đã viết: “Vũ khí vật chất của triết học là giai cấp vô sản, cũng giống
như vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản là triết học”. Max Weber lại càng
nhấn mạnh vai trò của hệ ý thức. Ông xem tư tưởng giữ vai trò động cơ trong
biến chuyển xã hội. Điển hình là nghiên cứu của ông về tương quan giữa
những giá trị luân lý của đạo Tin lành (phái Calvin) và sự hình thành chủ
nghĩa tư bản. Ông cho rằng vũ trụ quan nhấn mạnh tính hợp lý và tính kỷ luật
trong đạo Tin lành đã góp phần đưa đến những biến chuyển xã hội trong nền
kinh tế của các quốc gia châu Âu vào thế kỷ 18.
Cũng vậy theo T. Parsons, nguồn gốc của biến chuyển xã hội là những
biến đổi những giá trị, những khuôn mẫu. Trong lý thuyết hệ thống xã hội của
Parsons, tiểu hệ thống nào có nhiều thông tin nhất sẽ kiểm soát toàn bộ hệ
thống và đó lại tiểu hệ thống văn hóa.
Tư tưởng có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển các phong trào
xã hội. Một lý quyết phân tích thực tiễn đứng đắn và tiên đoán được xu thế
phát triển sẽ có tính thuyết phục cao.
4. Môi trường thiên nhiên:
Xã hội con người và môi trường thiên nhiên có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Do đó khi có thay đổi trong một bộ phận sẽ kéo theo thay đổi trong
bộ phận kia.
Trong nhiều xã hội sơ khai, trong khi khai thác thiên nhiên, con người
vẫn biết tôn trọng sự cân bằng sinh thái. Việc khai thác thiên nhiên đôi lúc tùy
thuộc quan niệm về không gian và thời gian của các dân tộc, của các xã hội.
Quá trình công nghiệp hóa theo mô thức các quốc gia Tây phương, dựa trên
một quan điểm chế ngự thiên nhiên, đã đưa đến hiểm họa tàn phá thiên
nhiên, ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên ngày nay một số các quốc gia Tây
phương một mặt rút được bài học phải bảo vệ môi trường, mặt khác họ “xuất
khẩu những ngành công nghiệp gây ô nhiễm sang các nước đang phát triển.
Các thay đổi chu kỳ trong thiên nhiên cũng ảnh hưởng đến đời sống
của con người, và trong một vài trường hợp xóa đi cả một xã hội, một nền văn
minh. Như nền văn minh cổ đại Ấn độ vào khoảng năm 1500 trước công
nguyên bị nước sông Hằng dâng lên và hủy diệt. Bốn thế kỷ sau nền văn
minh ở quần đảo Crete cũng bị xóa sổ bởi những trận động đất. Hay giả thiết
về sự biến mất đột ngột của nền văn minh Óc Eo ở Việt Nam do những thay
đổi về thiên nhiên gây ra.
5. Dân số:
Dân số cũng là một yếu tố quan trọng đưa đến biến chuyển xã hội. Việc
gia tăng dân số càng ngày càng đặt ra nhiều vấn đề đối với môi trường thiên
nhiên. Mặt khác tại những quốc gia có diện tích chật hẹp như Nhật Bản, Hà
Lan, nhiều khuôn mẫu xã hội chịu ảnh hưởng bởi sự hạn chế về mặt không
gian. Vấn đề đô thị hóa cũng đưa đến những thay đổi trong đời sống tại các
thành phố. Sự thay đổi trong cơ cấu dân số cũng đòi hỏi những thích ứng về
mặt xã hội. Ví như sự gia tăng tuổi thọ trung bình của con người đặt ra những
vấn đề về an sinh xã hội, về các dịch vụ y tế. Vấn đề di dân nội địa hay giữa
các xã hội, các quốc gia cũng đưa đến những biến chuyển văn hóa qua việc
truyền bá văn hóa, giao lưu văn hóa nhưng đồng thời cũng đưa đến những
vấn đề xung đột chủng tộc, xung đột văn hoá…
III. BIẾN CHUYỂN XÃ HỘI VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI (Modernity):Một trong những vấn đề trung tâm trong việc nghiên cứu biến chuyển
xã hội là vấn đề hiện đại hóa (modernization) và tính hiện đại (modernity).
Tính hiện đại được định nghĩa là những khuôn mẫu, những mô thức của tổ
chức xã hội có liên quan đến vấn đề công nghiệp hóa. Dưới góc độ xã hội
học, tính hiện đại là một khái niệm để mô tả những mô hình xã hội mang
những đặc trưng của giai đoạn đi liền sau cuộc Cách mạng Công nghiệp ở
Tây Âu vào cuối thế kỷ 18. Đối với những nhà xã hội học, biến chuyển xã hội
từ cuộc Cách mạng Công nghiệp được xem là quá trình hiện đại hóa và như
vậy khái niệm hiện đại hóa không bao hàm một phê phán giá trị. Neil Smelser
đã gắn quá trình hiện đại hóa với những biến chuyển sau:
– Trên bình diện kỹ thuật, đó là sự biến đổi từ việc sử dụng những kỹ
thuật thô sơ, cổ truyền sang việc áp dụng các tri thức khoa học.
- Trên bình diện nông nghiệp, đó là việc chuyển từ nền nông nghiệp tự
cung tự cấp sang việc thương mãi hóa những sản phẩm nông nghiệp.
– Trên lãnh vực công nghiệp, có một sự quá độ từ việc sử dụng sức
người, sức của động vật sang việc cơ giới hóa.
- Trên bình diện sinh thái, có sự thay đổi từ việc cư trú trong những
nông trại, làng mạc đến việc tập trung trong các đô thị.
- Trên bình diện đời sống chính trị, hệ thống quyền lực ở các công xã,
làng mạc nhường lại vai trò cho các định chế ở cấp độ nhà nước.
– Trên bình diện giáo dục, để đáp ứng nhu cầu của các xã hội công
nghiệp, nhiều định chế giáo dục mới được thiết lập.
– Trên bình diện gia đình, gia đình mở rộng truyền thống cũng thay đổi
để phù hợp với những định chế kinh tế mới đòi hỏi nhiều cơ động hơn.
– Hệ thống phân tầng xã hội cũng thay đổi do quá trình di động cơ cấu
và di động không gian tác động lên.
– Bất bình đẳng về giới giảm bớt phần nào khi người phụ nữ có cơ hội
tham gia vào những định chế kinh tế mới…
Peter Berger đã phát triển và đưa ra thêm bốn đặc điểm tổng quát của
hiện đại hóa, đó là:
– Sự suy tàn của các cộng đồng, của các xã hội truyền thống có qui mô
nhỏ: Trong một thời gian rất dài tổ chức xã hội loài người dựa trên yếu tố
huyết thống và lân cận, dựa trên công xã thị tộc và công xã láng giềng. Ngày
nay những cộng đồng này vẫn tồn tại nhưng chúng không còn là đặc trưng
của các xã hội công nghiệp. Như các chương trên đã đề cập, qua quá trình
phân biệt hóa các định chế, đại bộ phận các nhu cầu của cuộc sống xã hội
hiện đại được thực hiện bởi các định chế khác ngoài gia đình.
- Sự gia tăng chọn lựa của cá nhân: Trong các xã hội tiền công nghiệp,
con người thường tin tưởng rằng cuộc sống bị chi phối bởi những lực lượng
ngoài tầm tay của con người, đó là thần linh, là số phận. Khái niệm số phận
cũng cho thấy các xã hội tiền công nghiệp cho con người những chọn lựa rất
là hạn chế. Trong các xã hội truyền thống, cuộc sống của cá nhân bị quy định
bởi những khuôn mẫu ứng xử của gia đình, làng xóm. Trái lại trong xã hội
hiện đại, sức mạnh của truyền thống giảm dần, con người có nhiều khả năng
đưa ra những chọn lựa riêng của mình mà P. Berger gọi là quá trình cá nhân
hóa (individualization), điển hình là có nhiều lối sống đa dạng khác nhau mà
cá nhân có thể chọn lựa, có thể thay đổi…
– Sự đa dạng hóa gia tăng của các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng:
Trong các xã hội tiền công nghiệp, tôn giáo – nhất là các tôn giáo định chế –
còn giữ nhiều chức năng xã hội. Nhưng với quá trình phân biệt hóa các định
chế, tôn giáo càng ngày càng thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của mình và cá
nhân có nhiều chọn lựa hơn trong lãnh vực tôn giáo. Các nhà xã hội học gọi
đây là quá trình thế tục hóa (secularization). Điều này không có nghĩa là các
tôn giáo sẽ hoàn toàn biến mất. Nhưng tôn giáo sẽ quay trở về với chức năng
chính yếu của mình: thỏa mãn nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng. Một hiện tượng đáng lưu ý là đồng thời với sự sút giảm vai trò của các
tôn giáo “định chế”, có một sự gia tăng đáng kể các giáo phái (sects), và sự
gia tăng của khuynh hướng cực đoan (fundamentalism) trong các tôn giáo.
– Hướng về tương lai và nhận thức về thời gian càng ngày càng gia
tăng: Theo Peter Berger, trong xã hội hiện đại con người càng ngày càng
hướng về tương lai trong khi trong các xã hội truyền thống, trong các xã hội
tiền công nghiệp, quá khứ là điểm qui chiếu cho hành động của con người
trong hiện tại. Con người hiện đại hướng về tương lai tin tưởng các phát
minh, các khám phá khoa học sẽ làm cho cuộc sống con người tốt hơn. Cuộc
sống hướng về tương lai làm cho con người hiện đại dễ dàng chấp nhận các
thay đổi hơn.
Mặt khác, trong các xã hội tiền công nghiệp, đặc biệt là các xã hội chịu
ảnh hưởng của chu kỳ sản xuất nông nghiệp, con người cảm nhận thời gian
theo chu kỳ lập lại. Trái lại, từ cuộc cách mạng công nghiệp, mọi hoạt động
của con người đều được tính toán chi li từng giây từng phút, có bắt đầu và có
kết thúc. Peter Berger cho rằng việc mang đồng hồ là một biểu tượng của xã
hội hiện đại. (Xem Phụ lục, bảng đối chiếu đặc trưng của hai mô hình xã hội
hiện đại và xã hội cổ truyền).
Điểm cần lưu ý, các đặc điểm trên của quá trình hiện đại hóa không
nhất thiết xảy ra đồng thời, mà tùy đặc trưng và chọn lựa của từng xã hội, quá
trình hiện đại hóa có những biểu hiện riêng biệt, mang những liều lượng nhất
định.
Tóm lại quá trình hiện đại hóa giải phóng con người ra khỏi những cộng
đồng nhỏ bé, đã đem lại cho cá nhân nhiều tự do hơn trong việc chọn lựa,
nhưng đồng thời cũng làm mất đi cảm thức gắn bó của cá nhân đối với cộng
đồng mà các phong tục tập quán, các tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần tạo
nên. Trong xã hội hiện đại, con người có nhiều độc lập, nhiều tự do hơn trong
hoạt động và trong các chọn lựa tinh thần của mình, nhưng mặt khác mối dây
ràng buộc xã hội lỏng lẻo hơn và có tính giai đoạn.
IV. CÁC LÝ THUYẾT VỀ QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ A. Quan điểm của những nhà xã hội học tiền phong:
Xã hội học đã hình thành ở Châu âu vào cuối thế kỷ 19 trong các xã hội
đã kinh qua những biến chuyển to lớn do cuộc cách mạng công nghiệp đem
lại, do đó nhiều nhà xã hội học cố gắng mô tả và giải thích sự hình thành các
xã hội hiện đại.
Nhà xã hội học Đức Ferdinand Toennies đã mô tả sự hình thành quá
trình hiện đại hóa như là bước quá độ từ xã hội cộng đồng (gemeinschaft)
sang một xã hội hiệp hội (gesellschaft). Theo quan điểm của ông, đây là một
quá trình có liên hệ đến việc biến mất dần dần các cộng đồng và sự gia tăng
tầm quan trọng của cá nhân.
Theo sự phân tích của É. Durkheim về biến chuyển xã hội, quá trình
hiện đại hóa liên quan đến việc phân công lao động (division du travail) gia
tăng trong các hoạt động sản xuất. Phân công lao động là việc chuyên môn
hóa cao trong hoạt động của con người, hay nói cách khác mỗi cá nhân chỉ
đảm nhận một hay vài công việc riêng biệt mà thôi. É. Durkheim phân ra hai
loại hình tổ chức xã hội, một dựa trên sự tương đồng xã hội, một dựa trên sự
khác biệt xã hội. Khái niệm của ông về sự đoàn kết có tính cách máy móc
(solidarité mécanique) nhằm chỉ những mối liên hệ xã hội điển hình của các
xã hội tiền công nghiệp, đặt cơ sở trên nhận thức rằng mọi người đều giống
nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Trong các xã hội này con người có nhiều hoạt
động giống nhau và cùng chia sẻ những khuôn mẫu văn hóa truyền thống
chung. Durkheim gọi sự đoàn kết này có tính cách máy móc bởi lẽ sự giống
nhau giữa họ tạo niềm tin họ thuộc vào nhau và liên kết họ một cách ít nhiều
có tính cách máy móc. Sự đoàn kết máy móc có những đặc điểm xã hội chủ
yếu như gemeinschaft của Toennies. Đối với Durkheim, quá trình hiện đại hóa
là việc chuyển từ sự đoàn kết có tính cách máy móc sang sự đoàn kết hữu cơ
(solidarité organique). Đó là những mối liên hệ xã hội điển hình của các xã hội
công nghiệp lớn, đặt cơ sở trên sự lệ thuộc hỗ tương của con người có
những hoạt động chuyên môn hóa khác nhau.
Trong khi Toennies xem quá trình hiện đại như là việc đánh mất tính
đoàn kết xã hội, thì Durkheim nhìn quá trình này như việc thay đổi, biến
chuyển của cơ sở đoàn kết xã hội, từ những ràng buộc dựa trên sự giống
nhau đến sự lệ thuộc hỗ tương kinh tế dựa trên sự phân công lao động trong
các xã hội công nghiệp rộng lớn hơn, phức tạp hơn. Như vậy cái nhìn của
Durkheim về tính hiện đại đa dạng hơn, tích cực hơn. Dầu vậy, đối với
Durkheim, sự tương thuộc về mặt kinh tế không có nghĩa mọi người đều chia
sẻ những giá trị văn hóa, đạo đức chung. Các khuôn mẫu văn hóa càng ngày
càng trở nên đa dạng. Durkheim e ngại xã hội hiện đại dễ đi đến sự xáo trộn
bởi cái mà ông ta gọi là phi chuẩn mực (anomie). Đó là hiện tượng không có
các chuẩn mực hay các chuẩn mực văn hóa xung đột nhau, trở nên yếu đi và
không còn là những hướng dẫn đạo đức cho cá nhân.
Do đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tư tưởng trong việc đưa đến
những biến chuyển xã hội, M. Weber cho rằng quá trình hiện đại hóa là quá
trình tàn lụi của những khuôn mẫu tư tưởng truyền thống và đồng thời là sự
gia tăng tầm quan trọng của tính hợp lý. Các xã hội truyền thống hướng về
quá khứ, do đó chống lại tất cả canh tân, đổi mới. Trong khi các xã hội hiện
đại có đặc tính là dựa trên một sự tính toán các phương tiện hữu hiệu nhất để
đạt tới cứu cánh mong muốn. Tính hiệu quả thúc đẩy ứng dụng những khuôn
mẫu xã hội mới chừng nào sự canh tân đó cho phép đạt cứu cánh một cách
nhanh chóng, do đó các xã hội hiện đại thường nhìn vào thành quả để đánh
giá. Weber khẳng định rằng các xã hội hiện đại đã làm ta “vỡ mộng”
(désenchanté), bởi lẽ với một vũ trụ quan duy lý thì những cái gì trước đây
được xem là do “ước muốn của siêu nhiên” của định mệnh thì nay đều có thể
tính toán và tiên đoán. Mặc dù không phủ nhận sự tiếp tục tồn tại của những
tôn giáo có tổ chức, nhưng Weber cho rằng quá trình thế tục hóa làm cho xã
hội hiện đại xa dần các thần thánh và ngày càng hướng về những hệ thống tư
tưởng duy lý, trong đó có khoa học.
Điển hình của vũ trụ quan duy lý là sự xuất hiện trong các xã hội hiện
đại các tổ chức thư lại. Tổ chức xã hội trong các xã hội truyền thống dựa trên
lòng trung thành của cá nhân và dựa theo các cách ứng xử của quá khứ, thì
ngược lại tổ chức thư lại chỉ dựa trên hiệu năng, hiệu quả. Cũng như
Toennies và Durkheim, Weber không đề cao xã hội hiện đại mà không phê
phán. Weber thừa nhận rằng trong khi khoa học có thể đem lại những thành
tựu kỹ thuật, thì nó vẫn bất lực trong việc đem lại những câu trả lời cho những
vấn đề cơ bản nhất về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống của con người.
Ông e ngại quá trình duy lý hóa có thể có hậu quả là phi nhân hóa xã hội khi
cuộc sống của con người càng ngày càng bị điều tiết bởi những tổ chức bàn
giấy khách quan.
K. Marx có một cái nhìn về quá trình hiện đại hoá rất khác biệt với
những nhà tư tưởng xã hội khác, bởi lẽ Marx nhấn mạnh tầm quan trọng của
mâu thuẫn xã hội. Đối với Marx xã hội hiện đại đồng nghĩa với chủ nghĩa tư
bản, là một hệ thống kinh tế được sản sinh ra do đấu tranh giai cấp vào cuối
thời kỳ trung cổ. Giai cấp tư sản nắm giữ hệ thống sản xuất mới do cuộc cách
mạng công nghiệp đem lại đã thành công trong việc thay thế giai cấp địa chủ
quý tộc.
Marx không có phủ nhận sự hình thành tính hiện đại có liên quan đến
sự suy tàn của các cộng đồng có quy mô nhỏ, đến sự phân công lao động gia
tăng và sự xuất hiện của vũ trụ quan duy lý. Theo ông, cả ba yếu tố này đều
cần thiết cho việc phát triển chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã kéo
những người nông dân từ các vùng nông thôn về các đô thị với một hệ thống
thị trường không ngừng phát triển; sự chuyên môn hóa là cơ sở cho sự vận
hành các xí nghiệp; và tính duy lý thể hiện rõ trong xã hội hiện đại bằng yêu
cầu gia tăng lợi nhuận. Mặc dù không ngừng phê bình xã hội tư bản, Marx có
một cái nhìn về quá trình hiện đại hóa khá lạc quan. Marx tin tưởng mâu
thuẫn xã hội trong xã hội tư bản sẽ đem lại một cuộc cách mạng và cuối cùng
dẫn đến một xã hội công bằng hơn, nhân đạo hơn.
B. Một số lối giải thích đương đại về quá trình hiện đại hóa:
Quá trình hiện đại hóa như là sự hình thành xã hội đại chúng:
Một lời giải thích quan trọng về tính hiện đại nhấn mạnh các phương
cách mà cách mạng công nghiệp đã dẫn đến sự hình thành các xã hội đại
chúng có qui mô lớn. Thuật ngữ xã hội đại chúng ám chỉ một xã hội công
nghiệp mang đặc tính có các bộ phận cấu thành đồng nhất nhưng tách rời
nhau. Lối tiếp cận nghiên cứu tính hiện đại như là xã hội đại chúng – đã đặt
cơ sở trên các ý tưởng của Toennies, Durkheim, và Weber – có hai lập luận
chính:
Qui mô của đời sống xã hội gia tăng: đời sống xã hội có qui mô nhỏ
trong các xã hội tiền công nghiệp đã trở thành những cộng đồng có qui mô
lớn trong các xã hội công nghiệp. Việc chuyên biệt hóa các hoạt động kinh tế,
đô thị hóa và việc gia tăng dân số nhanh chóng tiếp theo cuộc cách mạng
công nghiệp đã gia tăng qui mô của đời sống xã hội. Trong các xã hội có qui
mô lớn, mỗi cá nhân thường chỉ quen thân một số ít người, biết đến nhiều
người khác chỉ qua công việc của họ (ví dụ “bác sĩ”, người bán hàng trong
siêu thị”…) và nhìn đại bộ phận những người khác như là một đám đông vô
danh. Sự truyền thông diện đối diện vẫn còn, nhưng những tổ chức truyền
thông đại chúng chính thức (báo chí, truyền hình, đài…) ngày càng giữ vai trò
quan trọng. Các tổ chức chính thức giữ vai trò quan trọng trong mọi khía cạnh
của đời sống xã hội và đảm nhận những trách nhiệm trước đây do gia đình,
bạn bè và những người láng giềng đảm nhận một cách không chính thức.
Truyền thông đại chúng và sự phát triển các phương tiện giao thông
góp phần làm suy yếu các giá trị văn hóa truyền thống, khi con người tiếp xúc
với các giá trị và chuẩn mực văn hóa khác đa dạng hơn. Khi xem các tin tức
thế giới trên truyền hình hay khi tiếp xúc với những người thuộc các dân tộc
khác, con người dễ chấp nhận sự đa dạng của văn hóa và đi đến việc đánh
giá cao quyền và tự do chọn lựa của cá nhân. Các phân lớp văn hóa và văn
hóa phản kháng (counterculture) phát triển trong các xã hội đại chúng. Các
thành phần có vị trí yếu kém trong xã hội trước đây như phụ nữ, các dân tộc
thiểu số - giành được quyền tham dự lớn hơn vào công việc xã hội, kể cả
quyền bầu cử. Các cơ hội này đi đôi với sự phát triển kinh tế, kích thích sự di
động xã hội.
Sự hình thành và phát triển của nhà nước: Trong các xã hội có qui mô
nhỏ ở châu Âu vào thời trước cách mạng công nghiệp, chính quyền nằm
trong tay các lãnh chúa địa phương. Do thiếu các phương tiện truyền thông,
không một ông vua, ông chúa nào có thể thực hiện sự kiểm soát hữu hiệu lên
toàn thể xã hội. Nhưng dần dần với cuộc cách mạng công nghiệp, chính
quyền trung ương càng ngày càng phát triển về qui mô và tầm quan trọng.
Lấy thí dụ, năm 1795 ngân sách của chính quyền Mỹ khoảng 6 triệu đô la, số
tiền đó chỉ bằng ngân sách ba ngày vào năm 1985. Qui mô của nhà nước
cũng gia tăng, chính quyền can thiệp vào mọi lãnh vực của đời sống xã hội
như điều tiết lương bổng và ấn định điều kiện làm việc, giáo dục lực lượng lao
động tương lai, cung cấp trợ cấp tài chánh cho những người thất nghiệp,
bệnh hoạn… Dĩ nhiên trong quá trình đó, thuế má cũng gia tăng lên một cách
đều đặn, lấy thí dụ hiện nay một người Mỹ phải lao động bốn tháng trong một
năm để có tiền trả các dịch vụ gia tăng của nhà nước. Đồng thời các phương
tiện chính trị cũng tập trung vào các tổ chức thư lại lớn làm cho các cộng
đồng địa phương cảm thấy họ có ít quyền trên đời sống của chính mình.
Tóm lại, lý thuyết xã hội đại chúng thấy được các hậu quả tích cực
cũng như tiêu cực của việc chuyển biến từ đời sống xã hội có qui mô nhỏ
sang đời sống xã hội có qui mô lớn. Các xã hội hiện đại nhấn mạnh về quyền
của cá nhân, chấp nhận hơn những sự khác biệt xã hội và đem lại một mức
sống cao hơn các xã hội truyền thống trong quá khứ. Nhưng các xã hội đại
chúng cũng có đặc điểm ít nhiều về cái mà Durkheim gọi là phi chuẩn mực.
Qui mô và tính phức tạp của xã hội đại chúng làm cho cá nhân thường cảm
thấy bất lực khi đối diện các tổ chức bàn giấy. Ví như, mặc dầu hệ thống
chính trị Mỹ ngày nay chấp nhận quyền bầu cử của mọi công dân từ 18 tuổi
trở lên, nhưng thông thường chỉ có khoảng phân nửa cử tri Mỹ đi bầu. Sự
kiện này cho thấy rằng hệ thống chính trị - cũng như nhiều lãnh vực khác của
các xã hội có qui mô lớn – thường làm cho cá nhân cảm thấy không ai có thể
làm gì khác hơn, không ai có thể ảnh hướng lên xã hội đại chúng, không ai có
thể tác động lên cái guồng máy khổng lồ đó.
Một cách tổng quát, lối giải thích này về quá trình hiện đại hóa có xu
hướng nhìn một cách thiện cảm đời sống trong các xã hội có qui mô nhỏ
trong quá khứ. Do đó việc phân tích xã hội đại chúng kéo được sự chú ý của
những người bảo thủ về xã hội và về kinh tế. Những người này ủng hộ nền
đạo đức có tính cách qui ước và chống lại sự điều tiết càng ngày càng gia
tăng của chính quyền vào đời sống xã hội.
Quá trình hiện đại hóa như là quá trình sự phát triển xã hội có giai cấp:
Lối giải thích này thừa nhận sự kiện các xã hội hiện đại có qui mô đại
chúng, nhưng cho rằng trung tâm vấn đề hiện đại hóa là sự bành trướng của
chủ nghĩa tư bản. Hơn thế nữa, bất bình đẳng xã hội và xung đột xã hội vẫn
được thừa nhận và tiếp tục tồn tại trong các xã hội tư bản.
Theo K. Marx, chủ nghĩa tư bản tại các nước phát triển không chỉ là sản
phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp mà còn phản ánh những mục tiêu
bành trướng của chủ nghĩa tư bản. Hệ thống tư bản chủ nghĩa đặt cơ sở trên
việc tìm kiếm lợi nhuận ngày càng gia tăng, do đó luôn luôn tìm cách gia tăng
sản xuất và tiêu thụ. Vì đặt cơ sở trên việc tìm kiếm lợi nhuận, các nhà tư bản
tìm cách khai thác quần chúng lao động một cách có hiệu quả nhất và xem
con người như là những phương tiện để phát triển nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Như vậy chủ nghĩa tư bản dần dần đã đi lệch khỏi các quan niệm
truyền thống về đạo đức. Theo quan niệm truyền thống này con người cho dù
vị trí xã hội nào đều là những con người có giá trị và bình đẳng trước thượng
đế, chứ con người không phải là một vít ốc trong một bộ máy của quá trình
hiện đại hóa. Phương pháp khoa học cũng thách thức các tín niệm truyền
thống, nó hợp pháp hóa quyền lực và của cải của các nhà tư bản. Khoa học
đã thách thức ảnh hưởng của tôn giáo trong xã hội hiện đại nhưng mặt khác
khoa học cũng hợp pháp hóa nguyên trạng, vì nó cho rằng các tiến bộ kỹ
thuật sẽ tiếp tục cải thiện đời sống xã hội. Theo J. Habermas, khoa học khám
phá và phát minh các liều thuốc chữa chạy cho các vấn đề xã hội thay vì thay
đổi các mô thức xã hội đã tạo ra những vấn đề xã hội trên.
Cái lôgích của khoa học và qui mô bành trướng của xã hội hiện đại thể
hiện rõ ràng nhất trong việc phát triển các công ty tư nhân, đó là những công
ty liên quốc gia có qui mô rất lớn và kiểm soát một số tài nguyên lớn trên thế
giới. Dưới quan niệm xã hội giai cấp, qui mô ngày càng lớn của đời sống là
một hậu quả không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản.
Bất bình đẳng xã hội vẫn tồn tại: lý thuyết xã hội đại chúng nhấn mạnh
quá trình hiện đại hóa đã dần dần thâu ngắn những khác biệt xã hội, chúng
đã là đặc trưng của các xã hội tiền công nghiệp. Tuy nhiên, theo lý thuyết xã
hội giai cấp, quá trình hiện đại hóa chỉ thay đổi về bề mặt các bất bình đẳng
xã hội. Nói cách khác, mặc dầu có sự kiện là mức sống trung bình đã tăng
lên, nhưng các xã hội tư bản hiện đại vẫn còn tương tự các xã hội có sự phân
chia sâu sắc các tầng lớp xã hội như trước đây, bởi lẽ hầu hết tài nguyên vẫn
tiếp tục bị kiểm soát bởi một thiểu số ưu tú. Lấy thí dụ ở Mỹ, 5% những người
Mỹ giàu nhất kiểm soát hơn phân nửa tài nguyên của nước Mỹ. Theo Paul
Blumberg, mức sống ở Mỹ gia tăng trong thế kỷ qua không che dấu sự kiện là
một thiểu số vẫn tiếp tục kiểm soát hầu hết tài nguyên trong khi một bộ phận
dân cư vẫn sống trong nghèo đói. Hay theo tài liệu của Liên hiệp Quốc, vào
năm 1980, 26% dân số các nước giàu trên thế giới tạo ra 78% tổng sản
lượng của cả thế giới, tiêu thụ 81% năng lượng, sử dụng 70% phân bón hóa
học, 85% quặng sắt của cả thế giới (TTCN,18–9–94).
Về vấn đề nhà nước, theo lý thuyết xã hội giai cấp, nhà nước trong xã
hội tư bản bảo vệ quyền lợi và tài sản của giới tư sản là giai cấp có quyền lực
nhất trong xã hội. Lý thuyết này cũng cho rằng các quyền lợi chính trị và kinh
tế mà đại bộ phận những người lao động ở các nước tiên tiến ngày nay được
hưởng không phải là sự biểu hiện lòng tốt của các nhà nước tư sản mà chúng
là kết quả của một quá trình đấu tranh chính trị gay go và lâu dài. Dù vậy,
ngày nay một số nhà chính trị bảo thủ đang nhân danh tính hiệu quả và hệ
thống thị trường tự do đang nỗ lực cắt giảm những chương trình tài trợ của
chính quyền cho những thành phần kém may mắn nhất trong xã hội. Giải
thích của lý thuyết xã hội giai cấp về quá trình hiện đại hóa giành được ủng
hộ của những người tiến bộ – về mặt xã hội cũng như kinh tế. Những người
này đòi hỏi bình đẳng kinh tế và xã hội lớn hơn cho mọi thành phần xã hội và
họ cũng ủng hộ sự điều tiết lớn hơn của nhà nước vào nền kinh tế thị trường.
Tóm lại, lý thuyết xã hội giai cấp giải thích sự hình thành của quá trình
hiện đại hóa rất khác với lý thuyết xã hội đại chúng. Thay vì nhấn mạnh qui
mô ngày càng gia tăng của đời sống xã hội và sự hình thành của các tổ chức
chính thức lớn, lối tiếp cận này nhấn mạnh sự bành trướng của chủ nghĩa tư
bản, sự tồn tại dai dẳng của bất bình đẳng xã hội. Thay vì chỉ thấy sự tương
đối của các chuẩn mực đạo đức, lý thuyết xã hội giai cấp nhấn mạnh vấn đề
vong thân – một khái niệm mà Marx đã dùng để chỉ tình trạng đại bộ phận
quần chúng có rất ít thực quyền để ảnh hưởng đến đời sống của chính mình.
C. Cá nhân trong xã hội hiện đại:
Xã hội đại chúng và vấn đề hình thành căn tính (identité) của con
người:
Trong các xã hội hiện đại, con người có nhiều riêng tư hơn, nhiều tự do
hơn để thể hiện cá tính của mình. Nhưng đồng thời lý thuyết xã hội đại chúng
cũng cho thấy sự đa dạng về mặt xã hội, sự cố kết xã hội yếu đi, sự thay đổi
nhanh chóng trong các xã hội hiện đại cũng gây khó khăn cho sự phát triển
căn tính của con người. Mỗi người đều phát triển một căn tính xã hội – cái tôi
– được nhận thức và phát triển qua sự tương tác với người khác. Quá trình
này liên quan đến việc nội tâm hóa những yếu tố phi vật thể của nền văn hóa
– các giá trị, các tín niệm, các ý nghĩa – vào trong một nhân cách riêng biệt.
Các xã hội truyền thống có qui mô nhỏ, có văn hóa đồng nhất, có biến chuyển
chậm, tạo một cơ sở xã hội ổn định cho sự phát triển căn tính của cá nhân,
vạch ra một con đường dù hẹp nhưng rõ ràng cho cá nhân (ví như trường
hợp phát triển nhân cách ở các xã hội dân tộc ít người).
Các xã hội hiện đại, có qui mô rộng lớn hơn, đa dạng về văn hóa và
biến chuyển nhanh, đem lại cho cá nhân nhiều chọn lựa hơn, nhưng trên một
cơ sở không vững chắc. Khi điều trái và điều phải, cái tốt và cái tồi, cái xấu và
cái đẹp đều trở thành tương đối, thì con người trong xã hội hiện đại có được
nhiều tự do sáng tạo hơn nhưng lại mất đi sự an toàn mà truyền thống tạo ra.
David Riesman đã mô tả quá trình hiện đại hóa bằng những ảnh hưởng tác
động lên tính cách xã hội (social character), tính cách xã hội này được định
nghĩa là các khuôn mẫu tư tưởng, tri thức và ứng xử được chia sẻ bởi nhiều
người trong cùng một xã hội. Riesman cho rằng tính cách xã hội của các xã
hội tiền công nghiệp có xu hướng hướng về truyền thống (tradition–
directedness). Điều này có nghĩa là các phương cách tư duy, cảm nhận và
hành động được nội tâm hóa trong nhân cách của con người phản ánh những
mô thức văn hóa được chia sẻ bởi mọi thành viên trong cộng đồng và ít thay
đổi theo thời gian. Con người hướng về truyền thống có những mô thức ứng
xử tương tự người khác không phải vì họ bắt chước mà bởi lẽ tất cả họ đều
chia sẻ một số xác tín sâu xa về lối sống của mình.
Trái lại, trong các xã hội công nghiệp biến chuyển nhanh và đa dạng về
văn hóa, một nhân cách không thay đổi là một trở ngại, bởi lẽ xã hội đề cao
sự thích ứng của cá nhâm Vì vậy Riesman mô tả tính cách xã hội của các xã
hội công nghiệp là hướng về kẻ khác (other–directedness). Điều đó ám chỉ
các khuôn mẫu nhân cách qua đó con người tìm kiếm sự an toàn bằng cách
tuân thủ theo các cách ứng xử của kẻ khác. Con người phát triển một căn
tính – tương tự xã hội quanh họ – có xu hướng trở nên không thống nhất và
thay đổi. Các cá nhân có xu hướng hướng về kẻ khác cố gắng tạo ra những
căn tính khác nhau và đóng các vai trò khác nhau tùy theo tình huống xã hội.
Con người hiện đại mang những bộ mặt khác nhau tùy khi ở trường hay công
sở, khi ở nhà hay khi ở nơi thờ tự… Một nhân cách thay đổi như vậy có thể bị
đánh giá là không trung thực trong xã hội cổ truyền nhưng tính uyển chuyển
và thích ứng là những nét được đề cao trong các xã hội hiện đại. Tuân thủ
theo những giá trị và chuẩn mực, kể cả các mode, là ví dụ điển hình về xu
hướng hướng về kẻ khác của con người hiện đại. Đối với con người trong xã
hội hiện đại, cái quan trọng là sự đánh giá cái gì là hợp thời của những người
cùng thế hệ chứ không phải của truyền thống. Nhưng xây dựng cái tôi trên
những cơ sở xã hội thay đổi như vậy có thể dẫn đến sự khủng hoảng căn tính
trong xã hội hiện đại. “Tôi là ai?” là câu hỏi thường bắt gặp của con người
trong xã hội hiện đại. Dưới quan điểm xã hội học, vấn đề khó khăn trong việc
phát triển nhân cách của cá nhân là sự phản ánh tính không thuần nhất nội tại
của chính xã hội.
Xã hội giai cấp: vấn đề tham gia đích thực vào công việc xã hội.
Lý thuyết xã hội giai cấp cho rằng sự hứa hẹn giành nhiều tự do cá
nhân hơn trong các xã hội hiện đại đã bị lũng đoạn bởi sự tồn tại dai dẳng của
bất bình đẳng xã hội. Trong khi xã hội hiện đại đề cao tính tương đối của đạo
đức thì các giá trị văn hóa tiếp tục đặt một vài thành phần trong xã hội vào
một vị trí rõ ràng là bất lợi. Sự phân tầng xã hội đặt cơ sở trên sự phân bố bất
bình đẳng về của cải và quyền lực, điều này có nghĩa là một số người sẽ có
nhiều cơ hội hơn những người khác. Các nhóm thiểu số, phụ nữ và người già
là những thành phần chịu nhiều định kiến và phân biệt đối xử, lấy thí dụ sự
hình thành quá trình hiện đại hóa đi đôi với sự suy tàn về thế đứng xã hội của
người già. Như vậy, thay vì đau khổ do có quá nhiều tự do như lý thuyết xã
hội đại chúng chủ trương, một bộ phận quần chúng vẫn tiếp tục bị từ chối cơ
hội tham gia một cách đầy đủ vào đời sống xã hội.
Mặc dù sự kiện công nghiệp hóa đã tạo ra di động xã hội lớn hơn,
nhưng các xã hội hiện đại tiếp tục bị thống trị bởi một tầng lớp ưu tú trong khi
một tỷ lệ khá lớn nhân dân vẫn sống trong nghèo khổ. Do đó, các yêu cầu đòi
hỏi tham gia vào quá trình quyết định nổi lên trên nhiều lãnh vực, ví như các
phong trào đấu tranh của công nhân, của những người tiêu thụ, các phong
trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.
Trên bình diện thế giới, chủ nghĩa tư bản công nghiệp đã đặt một tỷ lệ
khá lớn dân cư trên thế giới dưới ảnh hưởng của các công ty đa quốc gia.
Quá trình này có hệ luận tập trung gần phân nửa của cải trên thế giới vào tay
một số xã hội giàu có nhất, trong khi chúng chỉ chiếm khoảng 10% dân số thế
giới. Như vậy trái với nhận định của Weber về tính hợp lý của xã hội hiện đại,
H. Marcuse cho rằng xã hội hiện đại là phi lý vì nó không đáp ứng những nhu
cầu cơ bản của nhiều người. Hơn thế nữa, tiến bộ của kỹ thuật đã không cho
phép con người kiểm soát hơn đời sống của chính mình. Trái lại, quyền quyết
định vận mạng của cả thế giới tập trung trong tay của chỉ một vài người. Thay
vì xem kỹ thuật là phương tiện để giải quyết các vấn đề thế giới, ông cho rằng
kỹ thuật đúng hơn là nguyên nhân của những vấn đề này. Tóm lại, lý thuyết
xã hội giai cấp phê phán các xã hội hiện đại đã giảm tầm mức kiểm soát của
con người lên chính đời sống của mình.
D. Quá trình hiện đại hóa và sự tiến bộ:
Các nền văn hóa của hầu hết các quốc gia công nghiệp đều gắn liền
tính hiện đại với ý tưởng về tiến bộ – tiến bộ có nghĩa là tiến về một mục đích
được giả định là tốt. Các nền văn hóa Châu âu và Bắc Mỹ tin rằng hiện tại tốt
hơn quá khứ và tương lai sẽ tốt hơn hiện tại.
Như chúng ta đã thấy, đánh đồng tính hiện đại với tiến bộ là quá giản
đơn bởi lẽ đã không biết đến tính phức tạp của những biến chuyển xã hội. Cái
mà chúng ta định nghĩa là tiến bộ tùy thuộc các quan niệm về giá trị: các biến
chuyển xã hội được xem là tiến bộ và tốt đối với quan điểm này có thể bị xem
là bảo thủ hoặc xấu đối với quan điểm khác.
Một trong những hậu quả quan trọng nhất của hiện đại hóa là thừa
nhận những quyền cơ bản của con người. Ý tưởng cho rằng con người có
quyền đơn giản bởi lẽ họ là con người, hơn là do vị trí xã hội của họ, là một ý
tưởng hoàn toàn có tính chất hiện đại và đã được phản ảnh trong tuyên ngôn
về nhân quyền của Liên hiệp quốc. Về mặt lịch sử các khái niệm về quyền
con người và nhân phẩm của con người có thể xem như là sự tiếp nối khái
niệm danh dự trong các xã hội tiền công nghiệp.
Trên nguyên tắc mọi người đều chấp nhận ý tưởng chủ trương rằng
các cá nhân phải có sự độc lập trong việc quyết định đời sống của chính
mình. Tuy nhiên, sự đa dạng xã hội – hậu quả không tránh khỏi của tự do
chọn lựa – tiếp tục là nguồn gốc của căng thẳng và mâu thuẫn trong xã hội
hiện đại. Lấy thí dụ về gia đình, trong các xã hội hiện đại, đại gia đình truyền
thống đã suy tàn và tiểu gia đình đang mang nhiều hình thức khác nhau.
Trong các xã hội Châu âu hiện nay, một con số càng ngày càng gia tăng
những nam nữ thanh niên muốn sống độc thân; hay sống với nhau, có con,
mà không qua hôn nhân; hay sống với những người cùng giới tính. Đối với
những người ủng hộ chọn lựa cá nhân, những thay đổi loại này là tiến bộ.
Nhưng đối với những người xem mô hình gia đình truyền thống là nền tảng
của xã hội thì họ sẽ thất vọng với những thay đổi trên.
Những hậu quả của quá trình hiện đại hóa còn là vấn đề tranh cãi. Các
tiến bộ kỹ thuật không có thể được xem là điển hình về tiến bộ. Dĩ nhiên, sự
canh tân kỹ thuật cho phép cải thiện đời sống của con người, ví như chúng ta
có các phương tiện đi lại nhanh hơn, có các phương tiện truyền thông xa hơn,
hiệu quả hơn và chúng ta có nhiều khả năng hơn để chống lại bệnh tật.
Nhưng kỹ thuật tiên tiến cũng là nguy cơ đối với môi trường thiên nhiên và
ngay cả đối với tương lai của nhân loại.
Tóm lại, Alvin Toffler cho rằng những người nghiên cứu về biến chuyển
xã hội “phải chống lại cám dỗ bị quyến rũ bởi những đường thẳng”. Điều này
có nghĩa là biến chuyển xã hội không diễn tiến theo đường thẳng và tiên đoán
được. Một cách nào đó xã hội hiện tại là sự nối dài trực tiếp của quá khứ,
nhưng mặt khác nó cho thấy có những sự phát triển không tiên đoán được. Vì
biến chuyển xã hội là không xác định được bởi tính phức tạp của nó, quá
trình hiện đại hóa – nếu chỉ đồng nghĩa với sự tăng trưởng đời sống vật chất
– không có thể được đồng nhất với tiến bộ xã hội.
E. Các xã hội đang phát triển và quá trình hiện đại hóa:
Trên đây chúng ta đã đề cập đến ảnh hưởng của quá trình hiện đại hóa
ở các xã hội công nghiệp hóa tiên tiến ở châu Âu và Bắc Mỹ. Trong các thập
kỷ gần đây quá trình hiện đại hóa cũng tác động đến các nước đang phát
triển. Nhằm giải thích quá trình này có một số tiếp cận lý thuyết chính sau
đây:
Lý thuyết hiện đại hóa: một cách dễ hiểu nhất, lý thuyết hiện đại hóa lập
luận khi các xã hội truyền thống biến đổi do quá trình công nghiệp hóa, dần
dần chúng sẽ mang những nét tương tự các xã hội ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Hiện nay các nước đang phát triển phải đối đầu với những vấn đề xã hội
nghiêm trọng do nghèo đói và gia tăng dân số nhanh gây nên. Lý thuyết hiện
đại hóa cho rằng khi quá trình công nghiệp hóa xảy ra ở các nước tiền công
nghiệp thì các xã hội này cũng sẽ kinh qua các mô thức biến đổi xã hội đã
từng xảy ra ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản, như: quá trình đô thị hóa, sự gia
tăng dân số cao sẽ giảm bớt với thời gian, chuyên môn hóa trong sản xuất,
tương quan xã hội có tính cách phi ngã, tôn giáo truyền thống giảm vai trò xã
hội, quan tâm đến quyền của cá nhân, giáo dục đại chúng, sự hình thành và
phát triển của gia đình hạt nhân…
Các nhà xã hội học nhận thấy lý thuyết hiện đại hóa có nhiều hệ luận
mâu thuẫn. Trước hết, trong quan điểm của vài nhà xã hội học đã có ảnh
hưởng đến lý thuyết hiện đại hóa như T. Parsons, hiện đại hóa thường đồng
nghĩa với tiến bộ. Parsons chủ trương một quan điểm tiến hóa về biến chuyển
xã hội, ông cho rằng các xã hội hiện đại tốt hơn các loại hình xã hội trước đó
bởi lẽ năng suất cao hơn cho phép nâng cao mức sống, thăng tiến tự do của
con người và thúc đẩy sự đa dạng văn hóa. Chúng ta đã phê phán việc đồng
nhất tính hiện đại với sự tiến bộ xã hội. Mặt khác, việc chống lại quá trình hiện
đại hóa là rõ ràng trong nhiều xã hội truyền thống, ví như cuộc cách mạng
1979 tại Iran cho thấy tầm mức chống lại hiện đại hóa của các lực lượng
trong xã hội Iran. Thứ đến một vài lý thuyết gia của thuyết hiện đại hóa cho
rằng khi các xã hội truyền thống có được các kỹ thuật công nghiệp, chúng sẽ
trở nên tương tự các quốc gia Tây phương. Lý thuyết đồng quy
(convergence) về quá trình hiện đại hóa có một vài nhận xét xác đáng, đó là
hiệu năng của sản xuất và các hình thức tiên tiến về truyền thông và đi lại đã
gia tăng sự truyền bá văn hoá. Nhưng các biến chuyển xã hội đi theo quá
trình công nghiệp hóa không phải luôn luôn sẽ thay thế các nền văn hóa cổ
truyền. Do đó, có một số lý thuyết gia chấp nhận quan điểm phân tán
(divergence) về quá trình hiện đại hóa. Ví như quá trình hiện đại hóa ở Nhật
Bản đã phối hợp nhiều canh tân văn hóa với các truyền thống lâu đời để sản
sinh ra một mô hình lối sống độc đáo. Các xã hội ở các nước thế giới thứ ba
cho thấy một sự pha trộn phức tạp các khuôn mẫu văn hóa cổ truyền và hiện
đại. Đồng thời một số xã hội cho thấy thích ứng các kỹ thuật công nghiệp
nhanh hơn một số xã hội khác.
Về các ảnh hưởng ngoại lai lên quá trình hiện đại hóa ở các xã hội
truyền thống, phải kể đến tầm quan trọng của các công ty đa quốc gia. Việc
làm ăn với các xã hội truyền thống đã cung cấp cho các công ty này nhân
công, tài nguyên rẻ mạt và các thị trường mới cho sản phẩm của họ. Lý
thuyết hiện đại hóa thường có một cái nhìn thuận lợi đối với các công ty đa
quốc gia này, xem chúng như là phương tiện thúc đẩy quá trình hiện đại hóa.
Lý thuyết các hệ thống thế giới (còn được gọi là lý thuyết phụ thuộc): Lý
thuyết các hệ thống thế giới dựa trên lập luận quá trình hiện đại hóa không chỉ
là kết quả giản đơn của công nghiệp hóa, nhưng tùy thuộc vào vị trí của một
xã hội trong hệ thống kinh tế thế giới. Nét đặc trưng của lối tiếp cận này là đặt
quá trình hiện đại hóa trong bối cảnh thế giới chứ không xem biến đổi ở mỗi
xã hội là độc lập với các xã hội khác. Thứ đến, các xã hội truyền thống nghèo
không hiện đại hóa theo phương cách của các xã hội châu Âu và Bắc Mỹ, bởi
lẽ chúng lệ thuộc vào các quốc gia giàu có và đã công nghiệp hóa.
Lý thuyết các hệ thống thế giới được triển khai bởi Immanuel
Wallerstein khẳng định rằng hệ thống kinh tế thế giới là sự bành trướng của
chủ nghĩa tư bản. Hệ thống thế giới này được cấu thành bởi một số xã hội hạt
nhân, các xã hội bán ngoại vi và các xã hội ngoại vi. Các xã hội hạt nhân là
các xã hội đầu tiên đã trải qua cuộc cách mạng công nghiệp, các xã hội này
có ảnh hưởng kinh tế chi phối toàn thế giới. Các xã hội bán ngoại vi, ví như
các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, các nước sản xuất dầu lửa ở Trung
Đông, hay Mêhicô, Bradin…– là các nước có công nghiệp và các định chế tài
chính phát triển ở một mức độ nào đó, nhưng vẫn còn lệ thuộc các nước hạt
nhân về tư bản và kỹ thuật. Còn các xã hội ngoại vi là các xã hội có trình độ
công nghiệp hóa hạn chế, nền kinh tế yếu kém như đại bộ phận các xã hội
nông nghiệp ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ La–tinh. Các quốc gia hạt nhân ở vị
trí có thể xuất khẩu hay hạn chế việc xuất khẩu các kỹ thuật đến các quốc gia
nghèo và như vậy có thể tác động lên quá trình hiện đại hóa ở các quốc gia
này tùy theo mối quan hệ quyền lợi giữa các xã hội hạt nhân, xã hội bán
ngoại vi và các xã hội ngoại vi.
Chúng ta có thể kể trường hợp nước Đức và Nhật Bản là các xã hội bị
tàn phá nặng nề sau thế chiến thứ hai. Nhưng các xã hội này có các nền văn
hóa đề cao tinh thần kỷ luật và sự lao động cực lực, và đặc biệt họ được sự
giúp đỡ của Mỹ nên đã trở thành các cường quốc kinh tế thế giới. Các “con
hổ Châu Á” như Đài loan, Nam Triều tiên cũng có những mối quan hệ khắn
khít với Mỹ. Nhưng đây chỉ là những trường hợp đặc biệt.
Trong nhiều trường hợp, trong các mối quan hệ kinh tế giữa quốc gia
giàu và quốc gia nghèo, các quốc gia giàu thường rút ra được nhiều lợi lộc
hơn. Các quốc gia nghèo chỉ là nơi cung cấp nguyên liệu, nhân công rẻ và là
thị trường cho các công ty đa quốc gia.
Các xã hội kém phát triển là các xã hội nằm bên lề hệ thống kinh tế thế
giới. Theo lý thuyết các hệ thống thế giới, tình trạng kém phát triển này không
do việc thiếu tài nguyên thiên nhiên, lao động hay kỹ năng tổ chức trong chính
các xã hội này mà đúng hơn là do vị trí không quyền lực trong bối cảnh thế
giới. Theo nhiều tác giả, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, sự phân hóa giữa
các xã hội giàu và nghèo càng gia tăng. Hơn thế nữa, khi nền kinh tế của các
quốc gia nghèo chủ yếu dựa trên việc xuất khẩu tài nguyên ít ỏi của mình, thì
các xã hội này sẽ không bao giờ phát triển được sự phân công lao động phức
tạp và một nền kinh tế đa dạng cần thiết cho một quá trình hiện đại hóa thực
sự, vì luôn luôn có một tình trạng lệ thuộc vào các quốc gia giàu trên thế giới.
Tình trạng lệ thuộc này biểu hiện qua hiện tượng nợ của các xã hội thuộc thế
giới thứ ba, và đã dẫn đến cơn khủng hoảng nợ vào những năm 1980.
Lý thuyết các hệ thống thế giới cho ta một bức tranh khá trung thực về
quá trình hiện đại hóa hiện nay, và đã phê bình, bổ sung cho lý thuyết hiện đại
hóa ở một số điểm. Nhưng chính lý thuyết này cũng có những hạn chế. Quá
trình công nghiệp hóa chậm tại các nước đang phát triển không chỉ có nguyên
nhân là các chính sách kinh tế của các nước giàu, mà bản thân các nước
đang phát triển cũng có một số nhược điểm, như sự gia tăng dân số cao, sự
phân tầng xã hội nội tại trong các xã hội đang phát triển cũng là nguyên nhân
của bất bình đẳng xã hội và trong một số xã hội, các yếu tố văn hóa đôi lúc
ngăn cản biến chuyển xã hội và “dị ứng” với quá trình hiện đại hóa, như
trường hợp một số xã hội Hồi giáo ở Trung Đông. Ngoài ra, một số nhà xã hội
học mác–xít phê phán lý thuyết các hệ thống thế giới, họ cho rằng, không như
quan điểm của Wallerstein, chủ nghĩa tư bản không chỉ là một hệ thống tương
quan về mậu dịch mà sâu xa hơn đó là một phương thức sản xuất.
Các lối giải thích dân túy mới (neo–populist): ở châu Âu vào thế kỷ 19
đã có những nhà nghiên cứu phê phán quá trình công nghiệp hóa trên quy
mô lớn với lập luận những thiệt hại mà quá trình này gây ra lớn hơn những
ích lợi mà nó đem lại. Điển hình, tại Nga vào thế kỷ 19, trào lưu dân túy này
cho rằng nước Nga có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua công xã
nông thôn, không qua chủ nghĩa tư bản. Quan điểm này ngày nay còn được
một số nhà dân túy mới đi theo, với các chủ trương: xây dựng các xí nghiệp ở
quy mô nhỏ, duy trì nông nghiệp và sản xuất tiểu thủ công nghiệp, duy trì làng
mạc và các thành phố nhỏ hơn là phát triển các thành phố công nghiệp có
quy mô lớn. Đặc điểm của các nhà dân túy mới là không phải họ không biết
đời sống nông thôn rất khổ cực và đói nghèo, họ cũng am hiểu và biết sử
dụng những kiến thức của khoa học kinh tế, họ cũng chấp nhận công nghiệp
hóa một phần và đeo đuổi việc hiện đại hóa nông nghiệp, nhưng mối quan
tâm chính của họ là làm thế nào phân phối của cải và lợi tức cho công bằng.
Những đề nghị của họ về một nền sản xuất nhỏ và các chính sách có liên
quan là nhằm thực hiện mối quan tâm này. Kitching đã bao gồm trong những
nhà dân túy mới một số tên tuổi như: Julius Nyerere – cựu tổng thống của
Tanzania, E. F. Schumacher, M. Lipton…
Vào những năm 1960, Julius Nyerere được nhiều người biết đến do lý
thuyết về chủ nghĩa xã hội châu Phi của ông. Nyerere tin tưởng những giá trị
truyền thống của châu Phi có thể làm nền tảng cho việc phát triển chủ nghĩa
xã hội. Ông phê phán quan điểm chủ trương phải phát triển theo chủ nghĩa tư
bản hoàn toàn rồi mới đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là quan điểm lấy châu Âu
làm trung tâm. Theo ông, châu Phi tiền thuộc địa đã mang những đặc điểm
của chủ nghĩa xã hội, mặc dù người dân ở đó không ý thức điều trên. Họ
sống theo những nguyên tắc cơ bản của triết lý Ujamaa: kính trọng lẫn nhau,
chia sẻ của cải và lợi tức, nghĩa vụ lao động. Chính chủ nghĩa thực dân đã
đem lại những yếu tố lũng đoạn: chủ nghĩa cá nhân về mặt kinh tế; xung đột
giai cấp… Nhưng không phải mọi việc đều đã mất, ông tin tưởng nếu những
giá trị truyền thống được hồi sinh có thể là động lực cho việc phát triển xã hội
và kinh tế. Nyerere đặt nông nghiệp vào vị trí trung tâm. Ông chủ trương xây
dựng những làng ujamaa tự quản về mặt tiêu thụ và sản xuất. Nếu có công
nghiệp hóa phải tận dụng nhân lực, sử dụng những kỹ thuật thích hợp và phải
phân tán về mặt địa dư. Ông quan niệm các thành thị chỉ là ăn bám và bóc lột,
do đó sẽ không có vai trò quan trọng trong một xã hội có nền sản xuất kinh tế
chủ yếu là nông nghiệp.
Việc thực hiện triết lý ujamaa đã không đạt được kết quả như Nyerere
mong đợi. Công bằng xã hội vẫn còn được duy trì ít nhiều, nhưng tăng trưởng
kinh tế đã không xảy ra. Hơn thế nữa, việc “làng xã hóa” không được lòng
dân khi mà bộ máy hành chính còn có nhiều vấn đề và không ai chịu trách
nhiệm trong sản xuất nông nghiệp.
Nhà kinh tế học M. Lipton cũng quan niệm mâu thuẫn giai cấp quan
trọng nhất trong các xã hội chậm phát triển hiện nay trên thế giới không phải
là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động mà là giữa các giai cấp ở nông thôn và
thành thị (Thật ra khái niệm giai cấp của Lipton ở đây không dựa trên quan
điểm của Marx, cũng không trên quan điểm của M. Weber, nhưng đúng hơn
là các nhóm quyền lợi). Theo ông, các chính sách công nghiệp hóa chỉ có lợi
cho thành thị: nông dân phải bán nông sản với giá rẻ, nông thôn ít được đầu
tư về giáo dục, nguồn nhân lực có kỹ năng ở nông thôn đều đổ dồn ra các đô
thị và nông thôn không được quan tâm đầy đủ trong ưu tiên phát triển. Từ đó
ông chủ trương phát triển công nghiệp hóa có thể chấp nhận được nhưng
phải bắt đầu từ nông thôn, nên chuyển tư bản về nông thôn thay vì đầu tư vào
các hoạt động tại đô thị nhưng không hiệu quả.
Nhiều tác giả đã phê phán quan điểm của M. Lipton. Trước hết, tài
nguyên không chỉ chảy một chiều từ nông thôn ra thành thị, thuế khóa ở nông
thôn thường được nhiều ưu đãi hơn ở đô thị. Thứ đến, ngay tại nông thôn sự
bất bình đẳng cũng rất lớn giữa người giàu người nghèo. Hạn chế nữa của
Lipton là ông quá tin vào hiệu quả đầu tư tại nông thôn. Cuối cùng, về
phương diện lý thuyết, khái niệm về giai cấp của ông đã bị phê bình gắt gao.
Quan điểm của những nhà môi trường: Phong trào môi trường bắt đầu
từ cuối những năm 1960 với đòi hỏi kiểm soát ô nhiễm tại các nước công
nghiệp tiên tiến. Cũng vào giai đoạn trên, đã xuất bản báo cáo của Câu lạc bộ
Roma “Những giới hạn của sự tăng trưởng” (1972). Phê phán căn bản của
phong trào môi trường là chủ trương tăng trưởng kinh tế một cách không
kiểm soát. Các tác giả này đặt vấn đề: phát triển có đồng nghĩa với sự gia
tăng liên tục tổng sản phẩm quốc dân hay không, bởi lẽ tăng trưởng kinh tế
không kiểm soát đã gây những thiệt hại lớn lao cho môi trường. Các nhà kinh
tế học Mishan, Schumacher đều phê phán việc đeo đuổi sự tăng trưởng kinh
tế một cách không giới hạn.
Một cách tổng quát, các nhà môi trường chủ trương các chính sách sau
đây nhằm một sự phát triển bền vững và lâu dài: phải có hài hòa trong mô
thức tiêu thụ, trong lối sống và trong việc sử dụng thời gian; phải sử dụng
những kỹ thuật thích hợp lấy môi trường làm trọng tâm; ít sử dụng năng
lượng và sử dụng những năng lượng có thể tái tạo; phải quản lý nghiêm túc
tài nguyên thiên nhiên; việc sử dụng đất đai và các mô hình cư trú phải tuân
thủ các nguyên tắc môi trường; các chính sách kinh tế xã hội phải dựa trên kế
hoạch hóa từ cơ sở và có sự tham gia của quần chúng.
Quan điểm của các nhà môi trường về quá trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa không tạo được sự tin tưởng ở một số nước đang phát triển. Một
số nước đang phát triển cho rằng gây ô nhiễm môi trường nặng nề là trách
nhiệm của các nước công nghiệp tiên tiến và họ có bổn phận phải giải quyết.
Thứ đến, người ta nghi ngờ chủ trương chống tăng trưởng, chống công
nghiệp hóa là một âm mưu nhằm kềm hãm các nước đang phát triển trong
tình trạng lệ thuộc, chậm phát triển. Chủ trương cổ vũ việc sản xuất ở quy mô
nhỏ, tận dụng nhân lực, với những kỹ thuật đơn giản, không ô nhiễm, dễ bảo
quản cũng gây nghi ngờ ở các nước đang phát triển là các nước công nghiệp
tiên tiến muốn duy trì những lợi thế của mình và chu chuyển giao cho những
nước đang phát triển những kỹ thuật hạng hai. Từ những phê phán kể trên,
các nhà môi trường tỏ ra dung hòa hơn, họ không đòi phải ngưng tăng
trưởng, mà đòi hỏi tìm những phương pháp và cách thức thích hợp nhằm sử
dụng sự tăng trưởng hòng đem lại tiến bộ xã hội và quản lý được tài nguyên
và môi trường.
Đất nước Việt Nam ta đang trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại
hóa. Việc tiếp thu có phê phán những quan điểm trên sẽ giúp chúng ta tìm
được một mô hình phát triển riêng biệt, phù hợp với mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
V. CÁC MÔ HÌNH VỀ BIẾN CHUYỂN XÃ HỘI Các nhà xã hội học thường cố gắng đưa ra những mô hình về biến
chuyển xã hội nhằm tiên đoán tương lai của các xã hội hay của các nền văn
minh.
Nhiều nhà xã hội học tiền phong như A. Comte, H. Spencer hay É.
Durkheim đều đã đưa ra những mô hình tiến hóa về biến chuyển xã hội. Mô
hình tiến hóa dựa trên những thành tố sau: a) Biến chuyển xã hội là một điều
tự nhiên và luôn luôn tồn tại, biến chuyển xã hội có nghĩa là tiến lên những
cấp độ cao hơn trong trật tự xã hội, b) biến chuyển xã hội có một hướng nhất
định, từ đơn giản đến phức tạp, c) biến chuyển xã hội là liên tục cho dù không
có những yếu tố ngoại lai; đại bộ phận những nhà tiến hóa luận đều đồng hóa
biến chuyển xã hội với tiến bộ, d) do vậy biến chuyển xã hội là cần thiết và
xảy ra theo các bước đồng nhất cho mọi xã hội.
Hai giả định trong mô hình tiến hóa đã bị nhiều phê phán: mọi xã hội
đều tiến hóa theo khuôn mẫu các xã hội châu Âu và đồng hóa biến chuyển xã
hội với tiến bộ. Ngày nay các nhà tiến hóa luận thay thế mô hình tiến hóa đơn
tuyến cổ điển trên bằng mô hình đa tuyến. Với mô hình đa tuyến, người ta
nhấn mạnh rằng phải nghiên cứu các xã hội một cách riêng biệt để khám ra
các giai đoạn tiến hóa duy nhất của xã hội đó.
Một số nhà khoa học xã hội như O. Spengler, A. Toynbee, P. Sorokin
chủ trương biến chuyển xã hội đi theo chu kỳ. Họ xem rằng các nền văn minh
tiến hóa như các giai đoạn của đời người, có phát triển có tàn lụi. Các xã hội
luôn luôn phải ứng phó với các thách đố, hay chúng luôn thay đổi giữa hai
cực giá trị (như hai cực giá trị “tinh thần” và “vật chất” theo P. Sorokin).
Theo quan điểm chức năng, biến chuyển xã hội xảy đến như là hệ luận
của gia tăng dân số, thay đổi kỹ thuật, bất bình đẳng giai cấp và là nỗ lực của
các tập thể khác nhau trong việc tìm kiếm thỏa mãn những nhu cầu của mình
trong một xã hội mà tài nguyên ngày càng khan hiếm. Xã hội, qua các biến
chuyển, luôn biết thích ứng, biết điều chỉnh để đi đến một sự quân bình mới.
Mô hình biến chuyển xã hội theo lý thuyết xung đột lập luận rằng những
mâu thuẫn quyền lợi giữa những nhóm, những tập đoàn với mức độ quyền
lực khác nhau sẽ đem lại biến chuyển xã hội, đưa đến một hệ thống phân
tầng xã hội mới và hệ thống phân tầng xã hội này đến lượt nó gây ra xung đột
và biến chuyển mới. Ngày nay một số nhà xã hội học áp dụng lý thuyết mâu
thuẫn để tìm hiểu biến chuyển trong một số nhóm xã hội, trong một số định
chế và theo họ – R. Dahrendorf chẳng hạn – không phải bao giờ biến chuyển
cũng đưa đến những cuộc cách mạng. Các cuộc cách mạng chỉ xảy ra khi sự
bóc lột một giai cấp lên đến cực điểm và giai cấp này không còn chịu đựng
nỗi phải sử dụng vũ lực.
Dựa trên lý thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với lý thuyết
về các hình thái kinh tế–xã hội, K. Marx có một cái nhìn tích cực và lạc quan
hơn về biến chuyển xã hội.
Tóm lại, do tính đa dạng và phức tạp, biến chuyển xã hội vẫn luôn là
vấn đề gây nhiều tranh cãi. Nhưng biến chuyển xã hội là một hiện thực, hiện
nay các thay đổi trong mọi xã hội đang diễn ra một cách gia tốc, và các xã hội
ngày nay càng có quan hệ hữu cơ với nhau hơn. Thế kỷ hai mươi mốt mà
chúng ta đang sống sẽ đem lại những thành đạt to lớn trên phương diện khoa
học kỹ thuật, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa có giải đáp, ví như: đâu là ý
nghĩa của cuộc sống của con người, vấn đề nghèo nàn lạc hậu, vấn đề xung
đột giữa các xã hội…Tuy nhiên chúng ta có một an ủi, sự hiểu biết về xã hội
con người trong các thập kỷ gần đây có tiến bộ hơn, trong đó có sự đóng góp
của bộ môn xã hội học.
Phụ lục:
Một số nét đặc trưng của xã hội truyền thống
Một số nét đặc trưng của xã hội hiện đại:
* Mô hình
cư trú:
Quy mô nhỏ; dân cư phân tán
trong các công xã nhỏ
Quy mô lớn; dân cư tập
trung trong các đô thị
– quan hệ
với các xã
hội khác:
Biệt lập, tự cung tự cấp Lệ thuộc hỗ tương
* Cơ cấu xã
hội:
- vị trí và vai
trò:
Ít vị trí xã hội, vị trí có tính chỉ
định; ít vai trò chuyên môn hóa
Nhiều vị trí xã hội, vừa chỉ
định, vừa sở đắc; nhiều vai
trò chuyên môn hóa
- quan hệ:sơ cấp; ít tính vô ngã, ít riêng
tư, ít chọn lựathứ cấp; vô ngã và riêng tư
- truyền
thông:diện đối diện
diện đối diện + truyền thông
đại chúng
- kiểm soát
xã hội:dư luận phi chính thức
cảnh sát + hệ thống pháp
luật chính thức
- phân tầng
xã hội:
mô thức bất bình đẳng chặt chẽ;
ít di động xã hội
mô thức bất bình đẳng mềm
dẻo; di động đáng kể
- tính chất
của định
chế:
có tương quan, bao trùmtách biệt, có tính cách chính
thức
– khuôn mẫu quyền, phụ quyền; ít lực phụ quyền thoái trào; lực
mẫu giới: lượng lao động nữ ngoài xã hộilượng lao động nữ ngoài xã
hội gia tăng
- gia đình:
gia đình mở rộng: vai trò quan
trọng trong xã hội hóa và trong
sản xuất kinh tế
gia đình hạt nhân vẫn còn vai
trò trong xã hội hóa, nhưng
không còn là đơn vị sản xuất
kinh tế.
– tôn giáo:là cơ sở của vũ trụ quan; ít tính
đa dạng tôn giáo
tôn giáo “định chế” giảm vai
trò xã hội; nhiều giáo phái đa
dạng
–giáo dục: dành cho thiểu số ưu tú
giáo dục cơ bản phổ thông;
giáo dục cao cấp cho một tỷ
lệ càng gia tăng
nhà nước:qui mô nhỏ; ít can thiệp vào xã
hội
qui mô lớn; can thiệp vào
vấn đề xã hội
–kinh tế:
trên cơ sở nông nghiệp; tiểu thủ
công nghiệp trong gia đình; ít
viên chức
sản xuất công nghiệp đại
chúng; nhà máy, xí nghiệp là
nơi sản xuất; nhiều nhân
viên dịch vụ.
- y tếsinh suất, tử suất cao, tuổi thọ
trung bình hạn chế
sinh suất, tử suất thấp, tuổi
thọ trung bình cao
* khuôn
mẫu văn
hóa
– giá trị:đồng nhất; ít phân lớp văn hóa
hay văn hoá phản kháng
dị biệt, đa dạng, nhiều phân
lớp văn hóa, nhiều văn hóa
phản kháng
– chuẩn
mực:
có ý nghĩa đạo đức cao; ít chấp
nhận dị biệt
ý nghĩa đạo đức thay đổi;
chấp nhận dị biệt
– định
hướng:liên kết hiện tại với quá khứ liên kết hiện tại với tương lai
- kỹ thuật:tiền công nghiệp; năng lượng
do sinh vật
công nghiệp; nguồn năng
lượng tiên tiến
* Biến
chuyển xã
hội:
chậm; thay đổi qua nhiều thế hệ nhanh; trong một thế hệ
Tính cố kết
xã hộicao, thống nhất
thấp, có khuynh hướng “phi
chuẩn mực”
TÀI LIỆU THAM KHẢO Permela Abbott & Claire Wallace, An Introduction to Sociology – Feminist
Perspectives, 2nd ed., Routledge, London, 1997.
Mavis Hiltunen Biesanz & John Biesanz, Introduction to Sociology, 2nd
Ed., New Jersey, Prentice–Hall, 1973.
Tony Bilton và tgk, Nhập môn xã hội học, Hà Nội, Viện xã hội học, nxb
Khoa lọc xã hội, 1993.
Raymond Boudon, Francois Bourricaud, Dictionaire critique de la
sociologie, Paris, PUF, 1982.
Đoàn Văn Chúc, Xã hội học văn hóa, NXB Văn hóa – thông tin, 1979.
Chatles–Henry Cuin, Francois Gresle, Histoire de la sociologie, 2 tomes,
Paris, Ed. La Découverte, 1992,
Émile Durkheim, Các quy tắc của phương pháp xã hội học, bản dịch của
Nguyễn Gia Lộc, Hà Nội, nxb Khoa học Xã hội, 1993.
Jean–Pierre Durand, Robert Weil, Sociologie contemporaine, Vigot, 1989.
Joseph H. Fichter, Xã hội học, bản dịch của Trần Văn Đính, Sài Gòn, Hiện
đại thư xã, 1993.
Michèle Giacobbi, Jean–Pierre Roux, Initiation à la sociologie, Paris,
Hatier, 1990.
Anthony Giddens, Sociology, 3rd ed., Polity Press, 1997.
David Hulme, ark Turner, Sociology and development – Theories, policies
and practices, Harwester Wheatsheaf, 1990.
Gérard Ignasse, Marc–Antoine Génissel, Introduction à la sociologie,
Ellipses, 1995.
William Kornblum, Sociology in a changing World, New York, Ho’t Rinehart
& Winston, 1988.
Hermann Korte, Nhập môn lịch sử xã lội học, NXB Thế giới, 1997.
Alfred McClung Lee, Principles of sociology, 3rd ed., New York, batnes &
Noblé, 1971.
John J. Macionis, Ken Plummer, Sociology – a global itroduction, New
Jersey, Prentice–Hall Europe, 1997.
Gordon Marshall, Dictionary of Sociology, Oxford Univ. Press, 2nd ed.,
1998.
Một vài vấn đề xã hội học và nhân loại học, NXB KHXH, Hà nội, 1996.
Nguyễn Khắc Viện, Từ điển xã hội học, NXB Thế giới, Hà Nội, 1994.
Nguyễn Xuân Nghĩa, Phương pháp và kỹ thuật trong nghiên cứu xã hội.
TPHCM. NXB Trẻ, 2004.
Nguyễn Xuân Nghĩa, Xã hội học: khái niệm, khuynh hướng, vấn đề,
TPHCM, ĐHM–BC, 1994, 1996, 1998.
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, Xã hội học, NXB ĐHQG Hà Nội, 1997.
Raymond Quivy, Luc Van Campenhoudt, Manuel de recherche en
sciences sociales, Paris, Dunod, 1988.
Trần Hữu Quang, Xã hội học nhập môn, TP. HCM, Viện đào tạo mở rộng,
1993.
Tương lai, Những nghiên cứu xã hội học về cơ cấu xã hội và chính sách
xã hội, NXB KHXH, Hà Nội, 1994.
Tương lai, Xã hội học và những vấn đề của sự biến chuyển xã hội, NXB
KHXH, Hà Nội, 1997.
Tương lai (cb), Xã hội học. Từ nhiều hướng tiếp cận và những thành tựu
bước đầu, NXB KHXH, Hà Nội, 1994.
Viện nghiên cứu Xã hội học (Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô), Những cơ
sở nghiên cứu xã hội học, Mát–xcơ–va, NXB Tiến bộ, 1988.
Vũ Quang Hà, Các lý thuyết xã hội học, tập 1 & 2, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2001.
MỤC LỤCChương 1: Xã hội học là gì?
Chương 2: Tổng quan về các phương pháp và kỹ thuật trong nghiên
cứu xã hội học.
Chương 3: Xã hội và văn hóa.
Chương 4: Quá trình xã hội hóa. Vị trí và vai trò xã hội.
Chương 5: Tổ chức xã hội.
Chương 6: Phân tầng xã hội và di động xã hội.
Chương 7: Định chế xã hội.
Chương 8: Kiểm soát xã hội và lệch lạc xã hội.
Chương 9: Hành vi tập thể và phong trào xã hội.
Chương 10: Biến chuyển xã hội và quá trình hiện đại hóa.
Tài liệu tham khảo.
---//---
ĐẠI HỌC MỞ BÁN CÔNG TP.HCM
KHOA XÃ HỘI HỌC
XÃ HỘI HỌC
Biên soạn
NGUYỄN XUÂN NGHĨA
Cao học xã hội học, D.E.A. Xã hội học
LƯU HÀNH HỘI BỘ - 2006