mỞ ĐẦu - hcma.vnhcma.vn/uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực...
Post on 26-Oct-2020
10 Views
Preview:
TRANSCRIPT
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang
thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường, như Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ:
“Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có
những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng
thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính
trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an
ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính -
tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng. Cục
diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc
tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế”
[35, tr.182-183]. Vì thế, Việt Nam đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội
mới, nhưng đồng thời cũng có nhiều thách thức đan xen. Đặc biệt, các thế lực
thù địch, phản cách mạng đang ra sức chống phá công cuộc đổi mới của Việt
Nam bằng mọi âm mưu, thủ đoạn rất tinh vi và xảo quyệt, trên mọi lĩnh vực:
Kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Trước tình hình
đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh nhằm tạo sức
mạnh tổng hợp răn đe và sẵn sàng chiến thắng khi có tình huống xảy ra.
Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Một số tỉnh
biên giới phía Bắc có vị trí chiến lược rất quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, là địa bàn có tiềm năng kinh tế lớn, có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền
2
quốc gia. Trong thời kỳ mới, tình hình biên giới đất liền cũng như biên giới
phía Bắc trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được giải quyết theo
hướng hoà bình, hữu nghị. Tuy nhiên, vấn đề biển Đông vẫn còn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ bất ổn trong khu vực nói chung và giữa Việt Nam với Trung
Quốc nói riêng. Do đó, vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ xung đột cả biên giới trên bộ
và trên biển. Cùng với đó, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chiến
lược “diễn biến hoà bình”… Chính vì vậy, biên giới phía Bắc vẫn là khu vực
chiến lược quan trọng mà các lực lượng thù địch luôn tìm cách lợi dụng,
chống phá cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra hết sức
quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia nói chung, biên giới phía
Bắc nói riêng. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đó, vấn đề có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu là phải phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện. Có như vậy
mới tạo ra cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội vững chắc nhằm đảm bảo quốc phòng -
an ninh trong thời kỳ mới.
Gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn
nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước bằng việc đề ra nhiều chủ
trương, chính sách nhằm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội; quốc phòng, an
ninh… đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, trên thực tế, các tỉnh biên giới phía
Bắc có điều kiện địa lý khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và không đồng bộ, điểm
xuất phát thấp, đặc biệt là phát triển kinh tế… thực trạng đó đã tác động tới mất ổn
định về kinh tế - xã hội; quốc phòng và an ninh không được đảm bảo. Vì vậy, phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới
phía Bắc vừa là yêu cầu cơ bản, lâu dài của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
nói chung, vừa là đòi hỏi cấp thiết cho nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo
vệ Tổ quốc nói riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển kinh tế - xã
hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc” làm
luận án tiến sỹ.
3
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
Trên cơ sở làm rõ lý luận về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh và phân tích, đánh giá thực trạng ở một số tỉnh biên giới
phía Bắc Việt Nam, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản và những giải
pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
ở một số địa phương.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
+ Tổng quan tình hình nghiên cứu về phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh; chỉ ra những nội dung đã được đề cập nghiên
cứu, cũng như những vấn đề chưa được đề cập, nghiên cứu.
+ Hệ thống hoá và làm rõ khuôn khổ lý thuyết của việc phát triển kinh tế - xã
hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
+ Phân tích và đánh giá đúng việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hội
gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, chỉ rõ
những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của chúng và những vấn đề đặt ra
trong thời kỳ mới.
+ Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh
tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía
Bắc trong thời kỳ mới.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là phát triển kinh tế -
xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Cụ thể là: mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh và các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố ảnh
hưởng như: điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, chính trị…
Trong mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định đến quốc phòng, an
4
ninh. Ngược lại, quốc phòng, an ninh có tác động tích cực trở lại kinh tế - xã
hội, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Ngày nay,
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh
càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. Phát triển kinh tế - xã hội ổn định nhanh, bền
vững giữ vai trò quyết định cho đảm bảo quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an
ninh không chỉ bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn đảm bảo an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hoà bình, ổn định, là tiền đề,
điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội
nhanh, bền vững. Bởi vậy, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh phù hợp với từng điều
kiện, giai đoạn lịch sử cụ thể trên từng địa phương.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận án nghiên cứu lý luận, thực tiễn phát triển kinh tế -
xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Trong đó, tập trung làm rõ mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh;
nội dung phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và
các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa hẹp là đảm bảo nhu cầu vật chất -
kỹ thuật, tài chính và nhân lực (xét ở mặt kỹ thuật, thuộc phạm vi chuyên ngành
Kinh tế quân sự - Hậu cần quân sự); theo nghĩa rộng, đảm bảo quốc phòng, an ninh
là chủ quyền quốc gia không bị xâm phạm, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được đảm bảo (môi trường hoà bình, ổn định được đảm bảo), theo đó luận án
nghiên cứu đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa rộng.
- Về không gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, trong đó tập
trung vào 3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng.
5
- Về thời gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tập trung vào
3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng từ năm 2001 đến 2013.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận, thực tiễn
Luận án được nghiên cứu dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh tế quân sự, học thuyết bảo vệ
Tổ quốc và các văn kiện của Đảng, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh;
những chủ trương, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh vùng biên giới phía Bắc; các chỉ thị, nghị quyết của Bộ
Quốc phòng; các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của các cơ quan, sở, ban,
ngành ở một số tỉnh biên giới phía Bắc; các công trình liên quan đến đề tài đã
được công bố; kết quả điều tra khảo sát nghiên cứu thực tế có liên quan đến
đề tài là cơ sở lý luận, thực tiễn của luận án.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của kinh tế chính
trị Mác - Lênin; sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp các
phương pháp lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê so sánh và
phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ nội dung luận án. Phương pháp đó
được vận dụng vào các chương cụ thể như sau:
Chương 1, Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ yếu sử dụng phương pháp thống
kê, kết hợp với phương pháp phân tích. Cuối chương sử dụng phương pháp trừu
tượng hoá khoa học, gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá
trình và những hiện tượng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh đã được nghiên cứu, từ đó tách ra những cái điển hình, bền vững,
6
ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất
của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản chất ở trình độ sâu hơn,
hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh những bản chất, để thấy
được bản chất của vấn đề mà các công trình khoa học, các đề tài, luận án trước
đó đã nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tiếp tục nghiên cứu, kế thừa và phát triển để
làm cơ sở cho nghiên cứu các chương sau của luận án.
Chương 2, Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh. Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ
yếu sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để hình thành các khái niệm,
phạm trù khoa học đặc trưng cho các mặt khác nhau của các hiện tượng quá trình
phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc, tiến tới hình thành các qui luật, xác lập sự phụ thuộc và tác
động lẫn nhau một cách nhân quả, ổn định của các hiện tượng và quá trình phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh mà đề tài luận án đưa
ra. Cùng với phương pháp trừu tượng hoá khoa học là phương pháp phân tích để
thấy được những nội dung, những nhân tố ảnh hưởng và kinh nghiệm trong phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Chương 3, Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc. Phương pháp nghiên cứu
trong chương này kết hợp sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp,
thống kê so sánh, chuyên gia; sau đó sử dụng phương pháp phân tích và
phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Trên cơ sở đó hoàn thành chương 4:
quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
Trong suốt quá trình viết luận án, nhất là sự chuyển tiếp, kế thừa nội
dung các chương và nội dung toàn luận án cần phải chú ý vận dụng tốt
phương pháp logic và lịch sử.
7
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Hệ thống hoá và làm rõ hơn một bước cơ sở khoa học về phát triển
kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và nhận diện những vấn đề đang đặt ra
đối với phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một
số tỉnh biên giới phía Bắc, đặc biệt là trong tình hình phức tạp hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: phần mở đầu; 4 chương, 12 tiết; kết luận; danh mục các
công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án;
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN không phải là vấn đề riêng của
thời đại ngày nay, không chỉ là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, mà
là vấn đề có tính quy luật chung cho mọi XH còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, còn
mưu đồ thôn tính của dân tộc này đối với dân tộc khác. Đối với Việt Nam, phát triển
KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là một quy luật khách quan, là sự thiết lập mối
quan hệ hữu cơ giữa hai nội dung, hai lực lượng, cái này tạo tiền đề cho phát triển
cái kia và ngược lại. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung gắn
kết đó đều được bổ sung, phát triển. Chính vì vậy, việc khái quát lịch sử vấn đề
nghiên cứu và nghiên cứu, tiếp cận nhiều kênh thông tin, đặc biệt là những công
trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài là vấn đề có ý nghĩa to lớn giúp
cho luận án có cơ sở khoa học trong kế thừa, phát triển.
1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội gắn
với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam
1.1.1. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong
thời kỳ Phong kiến
Việt Nam là quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng trong khu vực và
trên thế giới, nền KT chậm phát triển, nên trải qua hàng nghìn năm lịch sử, kể từ khi
các Vua Hùng dựng nước đến nay, Việt Nam luôn bị nhiều kẻ thù nhòm ngó, tiến
công xâm lược. Tình hình đó đã đặt ra cho dân tộc ta phải nhận thức rõ KT và QP là
những nhân tố có vai trò rất quan trọng, phải chú trọng phát triển KT và thường
xuyên chăm lo đến QP, tạo sức mạnh bền vững bảo vệ vững chắc đất nước. Vì vậy,
ngay từ thời kỳ phong kiến, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đã trở
thành kế sách dựng nước và giữ nước của dân tộc. Kế sách “Dựng nước đi đôi với
giữ nước” đã trở thành nét văn hoá QS, QP độc đáo và là truyền thống quý báu của
dân tộc. Kế sách đó đòi hỏi sự chuẩn bị đất nước đánh giặc ngay từ thời bình; đồng
9
thời, khi chiến tranh xảy ra thực hiện vừa đánh giặc, vừa lao động sản xuất; thắng
giặc rồi thì lo xây dựng đất nước, lúc nào cũng phải sẵn sàng đối phó với mọi kẻ
thù, nhiệm vụ đánh giặc giữ nước gắn với nhiệm vụ xây dựng đất nước. Thực chất,
đây là sự nhận thức về tính tất yếu của việc kết hợp KT với QP trên cơ sở nhận thức
mối quan hệ chặt chẽ giữa KT với chiến tranh, KT với QP: “Thực túc, bình cường”,
“Phú quốc, binh cường”; đất nước giàu mạnh là cơ sở vật chất tạo ra sức mạnh QP
đủ sức ngăn ngừa, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù;
QP mạnh tạo ra môi trường hoà bình cho xây dựng, phát triển đất nước. Kế sách
“Dựng nước đi đôi với giữ nước” của ông cha ta trong thời kỳ phong kiến được
biểu hiện tập trung ở những nội dung sau:
Một là, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã đề ra nhiều kế sách giữ
nước sáng tạo, linh hoạt; thể hiện sự gắn kết chặt chẽ KT với QP, tiêu biểu là
kế sách “Ngụ binh ư nông” dưới các triều đại phong kiến Lý, Trần và Lê Sơ;
“Lấy dân làm gốc”, dân giàu nước mạnh, quốc phú binh cường... “Ngụ binh ư
nông” là gửi một bộ phận quân vào nông dân, nông thôn, kết hợp quân với
dân cùng xây dựng quân đội, chỉ duy trì một số lượng quân thường trực hợp
lý. Kế sách “Ngụ binh ư nông” là sản phẩm của nhận thức coi trọng việc binh
với vai trò quan trọng của nông nghiệp nhằm bảo đảm sự cân đối, hợp lý giữa
phát triển KT và củng cố QP, giữa xây dựng LLVT thường trực với LLVT dự
bị. Khi Bàn về kế sách “Ngụ binh ư nông”, nhà sử học Ngô Thì Sĩ đánh giá:
“Chế độ binh lính của nhà Lý… mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh,
hết canh lại về quê làm ruộng, quân không phải cấp lương… không có phí tổn
nuôi lính, mà có công hiệu dùng sức lính, cũng là chế độ hay” [63, tr.27]. Nhà
sử học Phan Huy Chú cũng đưa ra lời bình: “Đời xưa binh lấy nghề nông là
có ý phục việc nguy hiểm vào nơi thuận tiện… Trong thành vua có quân Túc
vệ, đội ngũ đông nghiêm. Còn quân ở ngoài thì vẫn theo ý nghĩa đời xưa, lúc
vô sự thì về làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi ra hết. Cho nên binh vẫn
đủ mà không phải tiêu phí nhiều, càng thêm hăng hái chống thù. Cái chiến
10
công dẹp quân Chiêm, phá quân Tống, cái oai hùng ba lần đánh bại quân
Nguyên cũng đủ cho biết binh lực hai đời cường thịnh là thế nào” [18, tr.8];
“Đời Lý… ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên
canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý…
binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn lương… Phép nuôi
binh đời Lê sơ đại để theo phép ngụ binh ư nông của các đời Lý, Trần, không
phải cấp lương bổng. Thời Hồng Đức trở về sau, cứ theo phép đấy không đổi”
[18, tr.20]. Như vậy, có thể nói, kế sách “Ngụ binh ư nông” là một cơ chế
hoàn hảo về mặt động viên và sử dụng nguồn nhân lực trong việc xây dựng
LLVT phòng giữ đất nước, xây dựng tiềm lực QP mạnh trên cơ sở phát triển
KT với củng cố lực lượng QS. Nhờ cơ chế này đã tạo ra binh mạnh, lương
nhiều trong thời bình và khi thời chiến xảy ra, sẽ tao ra một lực lượng hùng
hậu toàn dân là lính, cả nước đánh giặc.
Hai là, các triều đại phong kiến luôn quan tâm đến việc xây dựng lực lượng,
khuyến khích việc di dân lên các vùng biên giới, hải đảo, thực hiện chính sách giãn
dân, khai hoang lập ấp ở các vùng biên ải để khai phá đất hoang, phân bố lại lực
lượng, tăng cường lực lượng tại chỗ, vừa làm giàu cho đất nước, vừa phục vụ cho
nhiệm vụ giữ nước, tạo ra thế trận đánh giặc từ xa và thực hiện gửi lực lượng, tích
trữ lương thực trong dân để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh bảo vệ biên cương
đất nước, như thực tiễn ông cha ta đã thực hiện đưa quân lính lên khai hoang lập ấp
ở vùng biên giới Quảng Yên, Lạng Sơn.
Ba là, nhiều triều đại phong kiến như: Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ… rất
coi trọng mở mang hệ thống giao thông thuỷ, bộ như: kênh nhà Lê ở Thanh
Hoá và Nghệ An; kênh Vĩnh Tế ở Tây Nam Bộ… với mục đích vừa phục vụ
nhu cầu giao lưu phát triển KT, vừa đảm bảo QP, QS như: cơ động lực lượng,
phương tiện QS, vận tải tiếp tế, thông tin liên lạc khi chiến tranh xảy ra.
Bốn là, để chuẩn bị cho công cuộc giữ nước từ thời bình, các triều đại
phong kiến thường xuyên quan tâm đến phát triển nhiều ngành KT có tính
11
lưỡng dụng, tiêu biểu là các ngành thủ công nghiệp trong nước, nhất là các
ngành nghề có liên quan đến QP để vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa đảm
bảo nhu cầu QP của đất nước.
Trên thực tế, từ thế kỷ XI, ở nước ta (Đại Việt) đã hình thành và phát triển
các xưởng thủ công của triều đình vừa sản xuất các sản phẩm mang tính chất KT
như sản xuất các sản phẩm dân sinh dùng trong hoàng gia, cung đình, vừa sản
xuất sản phẩm trực tiếp đảm bảo cho các nhu cầu QS như: đảm bảo nhu cầu xây
dựng LLVT, quân đội, thuyền chiến, vũ khí… Thời Lý đã sản xuất được thuyền
lớn đảm bảo cho thuỷ quân tác chiến trên sông lớn và biển gần; vũ khí hạng nặng
như máy bắn đá… Thời Trần đã sản xuất được “Thần cơ song pháo” là một loại
hoả pháo có uy lực mạnh. Thời Lê đã sản xuất ra các loại thuyền chiến, vũ khí rất
phong phú và có tác dụng chiến đấu rất cao… Các lò thủ công gia đình cũng được
quan tâm phát triển, thời bình tập trung sản xuất các sản phẩm dân sinh đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt của nhân dân địa phương; thời chiến sẵn sàng chuyển sang sản
xuất các sản phẩm đảm bảo nhu cầu QS như: khai mỏ, đúc đồng, rèn sắt, đóng
thuyền, sản xuất vũ khí… Đây là các cơ sở sản xuất cung cấp chủ yếu các loại vũ
khí cho các lực lượng dân binh, thổ binh và còn đảm bảo cung ứng, sửa chữa vũ
khí cho cả quân triều đình khi chiến tranh xảy ra. Những nội dung trên cho thấy,
các triều đại phong kiến nước ta đã quan tâm phát triển nhiều ngành KT có tính
lưỡng dụng, vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa đáp ứng nhu cầu tăng cường khả
năng đảm bảo QP, AN của đất nước.
1.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
1.1.2.1. Trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược
Ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách cách mạng
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
12
Lênin về mối quan hệ KT với chiến tranh, KT với QP, kế thừa truyền thống, kinh
nghiệm kết hợp KT với QP trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, sự
nhận thức về phát triển KT với đảm bảo QP ở Việt Nam luôn có những phát triển
mới. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, “Chỉ thị của Ban Chấp
hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc” (25/11/1945), xác định nhiệm vụ
cần kíp của cách mạng lúc này là “Phải củng cố chính quyền, chống thực dân
Pháp xâm lược, bại trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân” [26, tr.26-27].
Qua Chỉ thị cho thấy Đảng đã nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kháng chiến
và kiến quốc. Thực chất, đó là sự nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo phát
triển KT với đảm bảo QP của Đảng, Nhà nước trong điều kiện kháng chiến. Vấn
đề đảm bảo QP với phát triển KT thông qua hoạt động của quân đội trong thời gian
chuẩn bị cho kháng chiến cũng được Đảng nhận thức sâu sắc. Nghị quyết Hội nghị
QS toàn quốc của Đảng (19/10/1946), đã xác định nhiệm vụ lao động sản xuất của
quân đội: “Những nơi bộ đội đóng, lấy đại đội hay trung đội độc lập làm đơn vị, bắt
buộc phải tham gia sản xuất, trồng rau, chăn nuôi” [26, tr.128-129]. Khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ ra phạm vi cả nước, Đảng
ra Chỉ thị “Toàn quốc kháng chiến” (22/12/1946). Chỉ thị xác định: Toàn dân
kháng chiến, kháng chiến khắp nơi; mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một
pháo đài; mỗi viên đạn diệt một quân thù; cướp súng giặc để bắn giặc… tăng gia
sản xuất để kháng chiến; giữ gạo muối nuôi quân; vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc… “Chỉ thị toàn quốc kháng chiến” là sự phát triển nhận thức của Đảng về
phát triển KT với đảm bảo QP.
Để tiếp tục thực hiện chủ trương trên, Nghị quyết Hội nghị cán bộ
Trung ương của Đảng (từ ngày 3 đến 6/4/1947) đã xác định: “Tổ chức căn cứ
địa không những ở vùng rừng núi mà ở cả đồng bằng”; “Áp dụng chiến thuật
tiêu thổ kháng chiến một cách rộng rãi”; “Phá KT địch bằng cách tẩy chay và
QS phá hoại”; “Tích cực xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến, vừa kiến
13
quốc, và lập nền kinh tế tự túc”; “Thực hành việc bộ đội tăng gia sản xuất”
[26, tr.180-181, 185]. Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ III (15/6/1947), tiếp
tục khẳng định vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ tăng gia sản xuất của quân
đội: “Các chính trị viên cần làm cho bộ đội hiểu rằng tăng gia sản xuất là một
nhiệm vụ quan trọng” [25, tr.172]; mặc dù trong thời kỳ này, thực hiện chức
năng, nhiệm vụ chiến đấu là chủ yếu, nhưng quân đội đã quán triệt và nhận
thức sâu sắc nhiệm vụ sản xuất. Tiếp tục chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến
quốc, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (tháng 3 năm
1951) xác định: Muốn kháng chiến trường kỳ, phải luôn luôn bồi dưỡng lực lượng
KT, tài chính, phải coi nhiệm vụ KT, tài chính là một nhiệm vụ rất quan trọng. Đây
chính là những phát triển mới trong nhận thức phù hợp với thực tiễn của Đảng ta về
mối quan hệ giữa KT với chiến tranh và QP; đồng thời, thể hiện sự nhất quán trong
thực hiện chủ trương kết hợp KT với QP ở nước ta trong giai đoạn này.
Kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi,
nhân dân ta thực hiện công cuộc khôi phục KT đất nước sau gần 2 năm, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá II đã họp Hội nghị lần thứ 12 (mở rộng),
ra Nghị quyết về kế hoạch nhà nước năm 1957. Nghị quyết xác định: “Trong
khi thực hiện nhiệm vụ kinh tế, các ngành công tác còn phải kết hợp chặt chẽ
với nhiệm vụ củng cố các khu vực tự trị, nhiệm vụ củng cố quốc phòng,
nhiệm vụ đấu tranh chính trị để thực hiện thống nhất nước nhà” [27, tr.262].
Qua đó cho thấy, Đảng, Nhà nước có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ khôi
phục, phát triển KT gắn với đảm bảo QP trong thời kỳ mới.
Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, có thể thấy rằng,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960), thể hiện sự nhận thức
hoàn chỉnh của Đảng về đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP xuyên suốt thời
kỳ này. Nghị quyết Đại hội xác định, cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại
có hai nhiệm vụ chiến lược: “Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở Miền Bắc.
14
Hai là, giải phóng Miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn toàn độc lập và dân chủ trong cả nước” [28,
tr.916]. Như vậy, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về kết hợp xây dựng
KT với củng cố QP trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược là thắng lợi của
việc Đảng đã tiếp tục phát triển đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” trong
kháng chiến chống thực dân Pháp thành đường lối kết hợp chặt chẽ giữa xây
dựng, phát triển KT với tăng cường, củng cố QP, tạo nên một hậu phương vững
chắc, rộng lớn khắp cả nước để tiến hành chiến tranh giải phóng thắng lợi.
1.1.2.2. Thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội đến khi tiến
hành công cuộc đổi mới
Sau đại thắng mùa xuân 1975, nước nhà được độc lập, thống nhất, cả
nước đi lên xây dựng CNXH, với kinh nghiệm thực tiễn 30 năm chiến tranh
giải phóng, Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định, vấn đề kết hợp KT với
QP là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của đường lối xây dựng
nền KT XHCN trên phạm vi cả nước. Đại hội chỉ rõ: “Phải kết hợp đúng đắn
kinh tế với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước
đó là yêu cầu sống còn của dân tộc ta” [29, tr.58]. Đường lối đó chỉ ra, xây
dựng nền KT đất nước trong thời bình, phải đồng thời đáp ứng cùng một lúc
các nhu cầu: cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN; mở rộng quan hệ KT với
các nước, đảm bảo QP, AN thường xuyên vững chắc. Theo đó, vấn đề kết hợp
QP với KT trong hoạt động của quân đội tiếp tục có sự phát triển trong nhận
thức của Đảng, Nhà nước. Ngày 17 tháng 3 năm 1976, Bộ Chính trị khoá IV
đã ra Nghị quyết số 250-NQ/TW “Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng
kinh tế”. Nghị quyết đã xác định mục đích, nhiệm vụ KT và phương hướng
nhiệm vụ căn bản trong xây dựng KT của quân đội. Đây là mốc đánh dấu sự
chuyển biến kịp thời trong nhận thức của Đảng về kết hợp QP với KT trong điều
kiện mới, đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH.
15
Tuy nhiên, khi mọi việc mới bắt đầu được vạch ra với mục tiêu phục vụ
nền KT đất nước sau chiến tranh, thì chúng ta phải đương đầu với những khó
khăn, phức tạp mới; trong đó nổi lên là hai cuộc chiến tranh xâm lược biên
giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của các thế lực thù địch. Trước tình hình
đó, Đại hội V của Đảng tiếp tục có nhận thức sâu sắc về kết hợp KT với QP:
“Kết hợp chặt chẽ KT với QP, QP với KT, từng bước phát triển kinh tế quốc
phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực KT của đất nước”.
Những năm đầu của thập kỷ 80, thế kỷ XX, đất nước vừa có hoà bình,
vừa xảy ra chiến tranh, nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo đảm đời
sống của nhân dân trở nên cấp bách. Để phát huy vai trò của quân đội, Bộ
Chính trị đã ra Nghị quyết bổ sung về nhiệm vụ quân đội làm KT trong 5 năm
(1981 - 1985). Theo đó, quân đội tập trung vào thực hiện một số nhiệm vụ cụ
thể trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây
dựng cơ bản, hàng không dân dụng, hợp tác KT với Lào, Campuchia... đảm
bảo kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ QS với nhiệm vụ xây dựng KT; ưu tiên lựa
chọn các công việc có tính cấp bách, các công trình có giá trị KT lớn và có
quan hệ chặt chẽ giữa KT với QP, tính toán kỹ và quản lý chặt chẽ, từng bước
nâng cao hiệu quả KT, chống tham ô, lãng phí. Mặc dù từ đầu thập kỷ 80 đến
cuối năm 1986, tình hình KT - XH Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tình trạng
lạm phát gia tăng, Đảng, Nhà nước vẫn kiên trì đường lối xây dựng KT kết
hợp với củng cố QP, phát huy tốt nhất những kết quả xây dựng KT đảm bảo
cho QP. Theo đó, việc kết hợp KT với QP trong các hoạt động của quân đội
tiếp tục được duy trì, có những bước phát triển mới.
1.1.2.3. Thời kỳ đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế
Kế thừa và phát triển chủ trương chiến lược kết hợp KT với QP trong thời kỳ
mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra phương hướng cơ
16
bản và những nội dung lớn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc kết hợp KT với QP,
QP với KT theo phương hướng cơ bản, lâu dài; đồng thời, có dự kiến để kịp thời
điều chỉnh cho phù hợp khi xảy ra biến động đảm bảo chiến thắng. Trên cơ sở đó,
Đại hội chỉ ra những nội dung cụ thể của việc kết hợp: “Kết hợp trong công tác quy
hoạch phân vùng kinh tế, phân bố lại lao động, phân bố lực lượng sản xuất; xây
dựng các ngành kinh tế kỹ thuật, phát triển kinh tế địa phương phải nhằm tạo ra thế
bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ cả về kinh tế và quốc phòng trong cả nước
và trong từng địa phương” [30, tr.67].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, việc phát triển
KT gắn với xây dựng nền QP càng được chú trọng hơn trong tình hình mới.
Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với
kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên
từng địa phương” [31, tr.85].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, diễn ra trong bối
cảnh chúng ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
Đại hội xác định, kết hợp KT với QP gắn liền với phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân, từng bước tăng cường tiềm lực QP và AN của đất nước. Đại hội
chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP trong việc quy hoạch và phát triển các
vùng kinh tế, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu bảo
đảm QP - AN làm cơ sở cho những chủ trương cụ thể” [32, tr.184].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục phát triển
đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP của Đại hội VIII và cụ thể hoá trong
những năm đầu của thế kỷ XXI, Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế
với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến
lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [33, tr.40]. Theo đó,
Nghị quyết số 71/ĐUQSTW ngày 25/4/2002 của Đảng uỷ QS Trung ương về:
“Nhiệm vụ sản xuất xây dựng KT của quân đội trong thời kỳ mới, tiếp tục sắp
17
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp quân đội”. Nghị
quyết số 21, 37, 39, 53 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về phát triển KT - XH và
đảm bảo QP, AN của 4 vùng (đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ và
vùng KT trọng điểm phía Nam, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, trung
du và miền núi phía Bắc) và Nghị quyết 54 - NQ/TW ngày 14/9/2005 về phát
triển KT - XH và đảm bảo QP, AN vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020. Những định hướng cơ bản đó đảm bảo về chính
trị và cơ sở khoa học cho giải quyết quan hệ phát triển KT gắn với QP - AN
trong từng khu vực.
Thực tiễn nêu trên đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển các khu KT - QP, xây dựng các khu QP - KT
với mục tiêu tăng cường QP, AN là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn chiến lược
và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo” [43, tr.110]. Đại
hội cũng chỉ ra: “Xây dựng CNQP trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự
chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo
hướng hiện đại, vừa phục vụ QP vừa phục vụ dân sinh” [34, tr.110].
Kết hợp KT với QP, AN vừa là chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa là
giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức
thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu
mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ ra những
vấn đề cơ bản cần nắm vững về kết hợp KT với QP, AN trong thời kỳ hội nhập
quốc tế. Đây là chủ trương chiến lược hết sức quan trọng, được thể hiện nhất quán
và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:
“Kết hợp chặt chẽ KT với QP - AN, QP - AN với KT trong từng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT - XH và trên từng địa bàn” [35, tr.82].
Tiếp đó, chiến lược phát triển KT - XH 10 năm (2011 - 2020) chỉ rõ: “Gắn kết QP
18
với AN. Kết hợp chặt chẽ QP, AN với phát triển KT - XH trên từng địa bàn lãnh
thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án” [35, tr.138].
Trong báo cáo chính trị Đảng tiếp tục xác định: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP,
AN; QP, AN với KT trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển KT -
XH; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” [35, tr.234]. Qua đó, thể hiện
tính nhất quán, xuyên suốt thực hiện chủ trương kết hợp phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trong xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc XHCN thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta luôn coi đó vừa là đường
lối, quan điểm, vừa là giải pháp chiến lược; mỗi bước đổi mới, phát triển KT - XH
luôn gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần đảm bảo thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
1.2.1. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số quốc
gia trên thế giới
Jayawardena , trong công trình nghiên cứu “Một kết cấu khái niệm
nghiên cứu quốc phòng và phát triển kinh tế quốc gia”, [84] đã làm rõ: thứ
nhất, quan niệm hiện nay và cấu trúc lý luận của QP; thứ hai, xác định các
đặc điểm bối cảnh QP của Sri Lanka và thứ ba, phát triển cấu trúc khái niệm
để nghiên cứu quan hệ giữa QP và phát triển KT. Theo Dr MM Jayawardena,
phần lớn các nghiên cứu đã tập trung vào mối quan hệ giữa QP và tăng trưởng
KT hoặc các yếu tố liên quan của nó chứ không phải là phát triển KT; theo
Ông, Sandler và Hartely đã khảo sát và trình bày kết luận của nhiều nghiên
cứu về khía cạnh KT vĩ mô của QP với chủ để “Tăng trưởng KT, phát triển và
chi tiêu quân sự” nhưng hầu như chưa có bất kỳ một phân tích toàn diện nào
về QP và phát triển KT. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, một nghiên cứu tổng
19
quan về QP và phát triển KT mà tăng trưởng KT được đưa ra xem xét là yêu
cầu cần thiết. Nghiên cứu này về cơ bản sẽ mở ra những nghiên cứu nghiêm
túc cả về lý thuyết và thực nghiệm; trong bối cảnh này, kết luận rằng những lý
do chính cho những sai sót về tri thức chủ yếu là do thiếu những nghiên cứu
tổng quan toàn diện về QP và nền KT, hoặc phát triển KT sẽ cung cấp cơ sở
cho những nghiên cứu chuyên sâu mà có thể lấp khoảng trống trong kiến thức
về QP và phát triển KT.
Wolfgang-Peter Zingel với tác phẩm: “An ninh quốc gia và phát triển kinh
tế: phát triển an ninh - an ninh đang phát triển” [89] đã đi từ quan niệm phát
triển KT, các chỉ báo, chiến lược, sự hỗ trợ, tái cấu trúc và thay đổi; quan niệm
AN, những mối đe doạ, sự thống nhất và toàn vẹn quốc gia, sự can thiệp, AN và
lý thuyết KT, những rủi ro và sự thất bại của nhà nước trên các lĩnh vực như:
hàng hoá, dịch vụ, hạ tầng cơ sở, nhà ở, tài chính, tiền tệ, lao động, giáo dục, y tế
và các dịch vụ XH. Công trình nghiên cứu đã đưa ra các trường hợp can thiệp
của một số nước Nam và Đông Nam Á, chỉ ra những ảnh hưởng KT và XH của
sự can thiệp. Những ảnh hưởng KT của một sự can thiệp phụ thuộc vào: thứ
nhất, hoàn cảnh tại thời điểm can thiệp; thứ hai, loại can thiệp; thứ ba, bối cảnh
đi cùng với sự can thiệp và thứ tư, có thể được coi là quan trọng nhất, sự chấp
nhận can thiệp của nhân dân sở tại.
Trong công trình nghiên cứu của Adam Posen và Daniel K. Tarullo: “Báo
cáo của nhóm nghiên cứu về kinh tế và an ninh quốc gia” [80], các tác giả đã đi
vào làm sáng tỏ đâu là những đúng đắn và sai lầm trong tư duy hiện nay về KT
và AN quốc gia. Trong trường hợp nước Mỹ, toàn cầu hoá KT đã làm tăng cả
năng lực lẫn nguy cơ bị tổn thương của nước Mỹ. Khả năng của Mỹ hạn chế sự
dịch chuyển công nghệ và thương mại sang các nước khác bị suy giảm so với
vác thập kỷ trước; trong dài hạn sự hợp nhất và phát triển KT quốc tế sẽ nâng
cao AN quốc gia Mỹ. Một vài quan điểm sai lầm cho rằng AN KT và quốc gia
20
Mỹ bị đe doạ bởi sự tăng trưởng KT tương đối nhanh hơn ở các nơi khác trên thế
giới; hay toàn cầu hoá KT có nghĩa rằng các biện pháp trừng phạt KT và các áp
lực tương tự được Mỹ áp dụng sẽ có hiệu quả hơn. Trên cơ sở phân tích đó, công
trình nghiên cứu cũng chỉ ra những thách thức chủ yếu hiện nay đối với nước
Mỹ từ góc độ phát triển KT và AN quốc gia và các nguyên tắc chủ yếu để ứng
phó là sự tích hợp chính sách KT và AN quốc gia, trong đó chính sách KT trong
nước phải được thay đổi.
Cuốn sách “Kinh tế quốc phòng” của Sandler Todd and Hartley Keith
[87] đã đề cập tới các nội dung: Dưới cách tiếp cận KT, QP được coi là một
loại hàng hoá công, hàng hoá công gắn với sự thất bại của thị trường, do
không có khả năng loại trừ việc sử dụng hàng hoá này nên nó không khuyến
khích thị trường sản xuất và cung cấp, trong khi cũng do không có tính cạnh
tranh nên nó cũng không có lý do hạn chế người sử dụng (nói cách khác, chi
phí cận biên cho người sử dụng là bằng không); nói một cách đơn giản, hàng
hoá công không thể đóng gói và bán trên thị trường. Sự thất bại của thị
trường sẽ dẫn đến các ngoại ứng và cần có sự can thiệp của nhà nước. Công
trình nghiên cứu còn nhấn mạnh rằng: Khi xây dựng một lý thuyết để hiển
thị mối quan hệ giữa QP trong phát triển, nhà nghiên cứu cần phải tính toán
những tác động về mặt cung (chẳng hạn lợi ích phát sinh thêm về mặt công
nghệ, ngoại ứng tích cực) và các yếu tố về mặt cầu (ví dụ tác động chèn ép
đầu tư hoặc xuất khẩu). Một mô hình đầy đủ có thể được đặc trưng bởi mối
quan hệ phức tạp giữa lĩnh vực QP và phần còn lại của nền KT. Trên cơ sở
đó, cuốn sách đã đi vào phân tích nhu cầu QP, việc chạy đua vũ trang, chính
sách liên minh, công nghiệp, thương mại QP… KTQP không chỉ hướng tới
chi tiêu quân sự và các cuộc đối đầu có vũ trang mà chúng còn là lợi ích
được hiểu là động lực của chi tiêu vũ trang, xung đột và các khía cạnh KT
liên quan của lĩnh vực quân sự. Sự hiểu biết đúng đắn về những động lực này
21
chắc chắn sẽ thúc đẩy các biện pháp kiểm soát việc sản sinh các loại vũ khí và sự
bất ổn của xung đột, từ đó đóng góp cho phúc lợi và tương lại của nhân loại.
Trong cuốn “Sách tra cứu về kinh tế quốc phòng” của Sandler Todd và
Hartley Keith [88], các ông đã đi sâu vào ba vấn đề lớn: thứ nhất, chi tiêu
quân sự trên thế giới nhằm giải quyết các vấn đề xung đột, khủng bố, liên
minh quân sự và chạy đua vũ trang, thứ hai, phân tích chi tiêu QP và tăng
trưởng KT; khảo sát chi tiêu quân sự ở các nước đang phát triển, đi sâu phân
tích các mặt cụ thể của KTQP như: các mô hình khuyến khích quá trình cung
ứng QP, các vấn đề KT của nguồn nhân lực quân sự, cơ sở công nghiệp QP,
KTQP dưới giác độ nghiên cứu và phát triển, chính sách công nghiệp trong
lĩnh vực QP, tác động đến khu vực của chi tiêu QP; thứ ba, nhìn nhận QP và
KTQP trong bối cảnh toàn cầu hoá, từ đó đi vào các nội dung cụ thể như tổng
quan vấn đề KT của xung đột, vấn đề KT chính trị của gìn giữ hoà bình, chủ
nghĩa khủng bố tiếp cận từ lý thuyết trò chơi và phân tích thực chứng; KT
chính trị của các biện pháp trừng phạt KT; các vấn đề KT của chạy đua vũ
trang; thương mại, công nghiệp QP và một khảo sát về nền KT hoà bình.
Intriligator trong bài viết, “Về bản chất và phạm vi của kinh tế quốc
phòng” [83] cho rằng: KTQP được xem xét như là một bộ phận của nền KT
gắn liền với những vấn đề liên quan đến QP, bao gồm mức độ chi tiêu QP, cả
trong tổng thể và trong bộ phần của toàn bộ nền KT; tác động của chi tiêu QP
tới sản phẩm và lao động ở cả trong nước và tác động tới các nước khác trên
trường quốc tế; các lý do cho sự tồn tại và quy mô của lĩnh vực QP; quan hệ
của chi tiêu QP tới sự thay đổi công nghệ, các hạng mục chi tiêu QP và quan
hệ giữa lĩnh vực QP với sự ổn định hoặc bất ổn định quốc tế.
Reppy Judith trong bài viết: “Về bản chất và phạm vi của kinh tế quốc
phòng: một bình luận” [85] đã xác định bản chất và phạm vi của KTQP trên cơ sở
hợp nhất quan niệm của Intriligator nhưng tập trung vào các đặc điểm về mặt thể
22
chế duy nhất của hệ thống QP và Ông cho rằng, KTQP có thể mở rộng hơn tới
mức bao gồm cả các yếu tố phi quân sự trong định nghĩa về AN quốc gia. (ví dụ
bảo vệ môi trường). Nhiều ý kiến đồng ý với Reppy rằng, các đặc điểm về mặt thể
chế duy nhất là thích hợp để hiểu KTQP. Chẳng hạn, các hợp đồng cộng thêm phí
sẽ tạo nên ý nghĩa hơn khi ai đó nhận ra rằng người mua (ví dụ BQP) có thể sẽ cân
nhắc lại lựa chọn thay đổi thông số của một hệ thống vũ khí được đề xuất vào thời
điểm cuối cùng. Một hợp đồng cộng thêm phí sẽ chuyển rủi ro của việc thay đổi
tiêu chuẩn kỹ thuật từ người cung cấp sang người mua.
1.2.2. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam
1.2.2.1. Những công trình khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn
phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số khu
vực, tỉnh, thành phố trên cả nước
Cho tới nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu lý luận và
thực tiễn về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Có thể nói, đây là
những công trình nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở khoa học cho chủ trương
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của Đảng, Nhà nước ta:
Trần Xuân Trường và Nguyễn Anh Bắc, trong cuốn Vấn đề kết hợp
kinh tế với quốc phòng ở nước ta [77] đã khẳng định, vấn đề kết hợp KT với
QP là một nội dung của đường lối xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc ở nước
ta, một quy luật phổ biến với mọi nước XHCN. Từ khẳng định đó, các tác giả
đã phân tích, luận chứng làm rõ mối quan hệ, vai trò ngày càng tăng của nhân
tố KT với chiến tranh và QP; đồng thời, làm rõ tính quy luật; yêu cầu, phương
thức, đặc điểm, mức độ, trình độ, nội dung kết hợp KT với QP ở nước ta. Tác
giả còn chỉ ra, để KT và QP gắn bó khăng khít với nhau đến mức như là một,
phải có sự am hiểu, thống nhất hành động của cán bộ, đảng viên và toàn thể
nhân dân; có một hệ thống tổ chức lãnh đạo, quản lý thống nhất dựa trên một
hệ thống pháp luật đầy đủ; có cơ quan tham mưu và cán bộ tham mưu giỏi.
23
Trần Thái Bình trong bài “Quan hệ giữa kinh tế và QP - AN trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [8] đã xác định: Quan hệ giữa KT và QP,
AN là mối quan hệ cơ bản, được hình thành từ trong quá trình dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Ngày nay, mối quan hệ này có vị trí đặc biệt quan trọng,
nhất là trong bối cảnh nước ta đang xây dựng, phát triển nền KT thị trường
định hướng XHCN và mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Vì vậy,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa KT và QP, AN là đòi hỏi tất yếu khách quan
trong suốt quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, nhân dân ta hết sức coi trọng
việc thực hiện tốt mối quan hệ này và đã thu được những kết quả quan trọng,
tương đối toàn diện, cả về nhận thức, tổ chức thực hiện. Bên cạnh kết quả đã
đạt được, nhận thức và thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa KT với QP, AN
còn hạn chế ở một số vấn đề. Để nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa KT
với QP, AN đáp ứng yêu cầu hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu đó là: nâng cao nhận thức cho
cán bộ các cấp, các ngành về mối quan hệ giữa KT với QP, AN; nâng cao hiệu
quả vận hành cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa KT với QP,
AN; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách có liên quan đến
mối quan hệ giữa KT với QP, AN; coi trọng kết hợp phát triển KT với củng cố
QP, AN trong hoạt động KT đối ngoại. Tuy nhiên, bài viết chưa có điều kiện
đi vào nghiên cứu mối quan hệ giữa KT với QP, AN; các lĩnh vực đặc thù hay
ở từng khu vực cụ thể.
Tác giả Trần Trung Tín, luận án tiến sĩ kinh tế “kết hợp kinh tế với quốc
phòng ở nước ta hiện nay” [66] đã góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận kết hợp
KT với QP trong thời kỳ mới ở Việt Nam; làm rõ mối quan hệ giữa phát triển
KT với củng cố QP, từ đó xác định quan điểm mang ý nghĩa chỉ đạo và đề ra
24
những biện pháp kết hợp KT với QP một cách hiệu quả. Trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp mang tính định hướng ở tầm vĩ mô. Tuy nhiên, luận án chưa
đi sâu nghiên cứu về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên từng
địa bàn cụ thể.
Giáo trình giáo dục QP dùng cho bồi dưỡng kiến thức QP, AN đối
tượng 1, Kết hợp phát triển KT - XH gắn với tăng cường QP, AN trong quá
trình CNH, HĐH đất nước [16] đã chỉ rõ, sự phát triển KT - XH gắn với QP,
AN đã trải qua một quá trình nhận thức lâu dài. Nhưng do điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử, chúng ta chỉ hiểu nó trong mối quan hệ kết hợp giữa hai lĩnh vực
KT với QP và QP với KT. Hiện nay, mối quan hệ kết hợp không chỉ dừng lại
ở hai lĩnh vực trên mà còn được đan xen, mở rộng giữa KT với XH và QP với
AN. Bản chất của sự kết hợp phát triển KT - XH gắn với QP, AN ở nước ta
trong thời kỳ mới được hiểu là sự gắn kết chặt chẽ hoạt động của các lĩnh vực
KT - XH với QP, AN thành một thể thống nhất trên phạm vi cả nước và từng
địa phương, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Tác giả Phạm Đức Nhuấn, luận án tiến sĩ kinh tế, “Xây dựng tiềm lực kinh tế
quân sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”[62] đã đề cập tới việc xây dựng tiềm
lực KT quân sự Việt Nam luôn gắn với tiềm lực KT, tiềm lực khoa học kỹ thuật của
XH; tiền lực KT quân sự là cơ sở nền tảng cho KT - XH. Sự phát triển về KT quân
sự có ý nghĩa trực tiếp cho sự phát triển QP, AN và xét trên một phương diện khác,
nó là động lực cho sự phát triển trên các mặt của đời sống XH. Theo góc độ nghiên
cứu khác, tác giả đã tiếp cận hàm lượng chất xám, hàm lượng khoa học trong sự
phát triển các thành tố KT và QP, AN. Sự phát triển các yếu tố KT đều nằm trong
một bức tranh tổng thể, hữu cơ của sự tương tác các mặt, các thành tố QP, AN; ở đó,
đã xuất hiện những dấu hiệu bản chất của quan hệ KT với QP, AN.
Kết hợp chặt chẽ KT với QP đã có nhiều bài viết như: “Xây dựng tiềm
lực QP, AN trong chiến lược phát triển KT - XH” của Bùi Phan Kỳ [50]; “Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI với vấn đề mối quan hệ KT với QP, AN trong
25
xây dựng và BVTQ” của Trương Thành Trung [76]; “Nghiên cứu chiến lược
quốc phòng phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” của Nguyễn Đình Chiến
[17]; “Mấy quan điểm về QP, AN trong chiến lược phát triển KT - XH 2011 -
2020” của Hoàng Xuân Lâm [51]… Các bài viết đã tập trung phản ánh về tư
duy mới của Đảng trong sự kết hợp KT với QP, QP với KT, trong đó tập trung
ở một số vấn đề cơ bản: Một là, kết hợp chặt chẽ KT với QP, QP với KT là
quan điểm nhất quán của Đảng. Đó là sự tiếp nối truyền thống của dân tộc
"dựng nước đi đôi với giữ nước", "nước mạnh, quân hùng”, cùng với các
chính sách "ngụ binh ư nông", "động vi binh, tĩnh vi dân", "thực túc binh
cường"... Hai là, trong từng thời kỳ, Đảng ta đã có sự phát triển hoàn thiện
quan điểm nhận thức về nội dung QP, AN trong chiến lược KT - XH. Ba là,
trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, KT - XH phát triển,
tăng trưởng KT không chỉ tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực KT cho tăng
cường tiềm lực QP, mà còn tạo cơ sở CT - XH thuận lợi cho việc nâng cao ý
thức trách nhiệm của toàn dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng coi sự ổn định, phát triển bền vững của đất
nước là nền tảng của QP, AN và củng cố QP, AN là điều kiện quan trọng để
bảo đảm cho KT phát triển bền vững. Chiến lược phát triển KT - XH năm
2011 - 2020 đã nhấn mạnh: “Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định CT -
XH, tăng cường QP, AN, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”,
“Tăng cường tiềm lực QP, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo.
Giữ vững hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước…”. Bốn là, bố
trí thế trận QP, AN phù hợp với tình hình mới; gắn kết QP với AN; kết hợp
chặt chẽ QP, AN với phát triển KT - XH trên từng địa bàn lãnh thổ, trong
công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án. Bảo đảm AN chính
trị và trật tự, an toàn XH, quan tâm đặc biệt đến các vùng, địa bàn trọng điểm.
26
Mở rộng phương thức huy động nguồn lực xây dựng CNQP và nâng cao khả
năng bảo đảm của CNQP. Lồng ghép các chương trình để xây dựng các khu
KT - QP ở vùng biên giới, hải đảo. Hơn nữa, để thực hiện sự kết hợp chặt chẽ
giữa KT với QP, AN và QP, AN với KT, Đảng đã đề cập tới sự phát triển sâu
sắc từng mặt, trong đó có vấn đề rất quan trọng đó là phát triển tiềm lực KT
hoặc QP, AN.
Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể, các tác giả mới chỉ dừng lại ở
việc quán triệt nghị quyết của Đảng. Chưa đề cập một cách thấu đáo vấn đề
quan trọng là làm thế nào để quan điểm này đi vào cuộc sống.
Tác giả Minh Đức viết về “Phương châm kết hợp kinh tế với quốc phòng
của một số nước ASEAN” [44]. Bài viết đã đề cập đến bối cảnh, tình hình thế
giới, khu vực và trong nước còn diễn biến phức tạp với những mức độ khác
nhau. Các nước ASEAN hiện nay, bên cạnh những mặt thuận lợi là một khu vực
có vị trí địa chiến lược quan trọng, giàu tiềm năng, đang phát triển năng động
vào hàng bậc nhất của thế giới, nhiều nền KT liên tục đạt được mức tăng trưởng
cao... Tuy nhiên, cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức như đang
chịu tác động nặng nề của hậu khủng hoảng KT - tài chính thế giới; sự cạnh
tranh quyết liệt giành quyền ảnh hưởng ở khu vực của các cường quốc trên thế
giới; một số "điểm nóng" chưa được giải quyết; tình trạng tranh chấp trên biển
Đông, các hoạt động khủng bố, ly khai cùng nhiều mối đe doạ phi truyền thống
khác... có chiều hướng gia tăng, là những nguy cơ đe doạ đến AN, ổn định của
các nước và khu vực. Trong bối cảnh đó, cùng với việc tập trung phát triển KT -
XH, các nước ASEAN còn chú trọng đảm bảo QP, AN quốc gia; coi đây là hai
mặt có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ với nhau, không thể xem nhẹ bất cứ mặt nào.
Từ thực tế đó, cần chú trọng kết hợp KT với QP; Tuỳ vào điều kiện cụ thể của
mỗi nước để có hướng kết hợp phù hợp. Song, nhìn chung có thể thực hiện một
số hướng chính sau: Một là, nâng cao vai trò quản lý, điều hành của nhà nước.
Thứ hai, thực hiện việc điều, chuyển giao công nghệ giữa các ngành dân sự và
27
QS. Thứ 3, nâng cao năng lực của các ngành CNQP trong sản xuất, trong chế tạo
vũ khí, trang bị QS, tham gia phát triển KT - XH và xuất khẩu.
Đề tài KX.04.11 “Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính sách đối
với dân tộc thiểu số trong sự phát triển KT - XH ở miền núi” [41] là đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, do Bế Viết Đẳng làm chủ nhiệm. Đề tài
thuộc chương trình khoa học công nghệ Nhà nước KX.04 “Những luận cứ khoa
học cho việc đổi mới chính sách xã hội và cơ chế quản lý việc thực hiện chính
sách xã hội”. Nội dung nghiên cứu: trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới do Đại hội VI và VII của Đảng. Đề tài trình bầy
vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc trên thế giới và ở Việt Nam, đồng
thời trình bầy quá trình thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới ở Việt
Nam hiện nay; đánh giá thực trạng phát triển KT - XH ở vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số và miền núi nước ta hiện nay; xây dựng những luận cứ khoa học, đề
xuất kiến nghị và một số giải pháp cụ thể, cơ bản và cấp bách cho việc xây dựng
và thực hiện chính sách dân tộc, phát triển KT - XH ở các dân tộc thiểu số và
miền núi hiện nay. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề cập đến việc xây dựng các chính
sách đối với dân tộc thiểu số trong sự phát triển KT - XH ở miền núi trên bình
diện chung của cả nước, chưa đề cập và chưa gắn với việc đảm bảo QP, AN, nhất
là ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Đề tài KX. 04.14 “Luận cứ khoa học đổi mới chính sách xã hội nhằm đảm
bảo an ninh xã hội và khắc phục các tệ nạn xã hội” [40] là đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Nhà nước, do Lê Thế Tiệm làm chủ nhiệm. Đề tài thuộc chương
trình khoa học công nghệ Nhà nước KX.04 “Những luận cứ khoa học cho việc
đổi mới chính sách xã hội và cơ chế quản lý việc thực hiện chính sách xã hội”.
Đề tài đã tập trung đánh giá thực trạng tình hình AN XH ở nước ta hiện nay (tình
hình tội phạm, tệ nạn XH, trật tự XH) làm rõ những nguyên nhân, tính quy luật
phát triển của tình hình trên: xây dựng hệ quan điểm và nhận thức mới về đảm
28
bảo AN XH và khắc phục tệ nạn XH. Dự báo xu thế phát triển của tình hình AN
XH ở nước ta thời gian tới trước những thay đổi của bối cảnh trong nước và
quốc tế; đề xuất những khuyến nghị về đổi mới các chính sách XH nhằm đảm
bảo AN XH và khắc phục các tệ nạn XH. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề cập đến
việc đổi mới chính sách XH nhằm đảm bảo AN XH và khắc phục các tệ nạn XH,
chưa gắn với việc phát triển KT và đảm bảo QP.
Tập thể tác giả Quốc Toản, Mạnh Hùng, Mạnh Dũng có bài “Kết hợp phát
triển kinh tế biển với tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
trong tình hình mới” [68]. Các tác giả khẳng định: KT biển, QP, AN trên biển vừa là
vấn đề cơ bản lâu dài, vừa là vấn đề sống còn đối với nước ta; đồng thời, đây là vấn
đề nóng bỏng hiện nay. Bài viết đã đề cập tới thực trạng KT biển, QP, AN biển và
những vấn đề đặt ra. Trên cơ sở đó, bài viết đã đề xuất hệ thống các biện pháp: Một
là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
biển, đảo và nhiệm vụ kết hợp phát triển KT biển với tăng cường QP, AN trên biển.
Hai là, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về biển, các vấn đề liên
quan tới biển, đảo, quản lý việc kết hợp phát triển KT biển với tăng cường QP, AN
bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Ba là, tăng cường xây dựng, bảo vệ biển, đảo trong
mọi tình huống. Bốn là, xây dựng thế trận QP, AN hoàn chỉnh, bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển, đảo. Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, nhất là đối với các quốc gia
ở khu vực Biển Đông, góp phần gìn giữ hoà bình, thúc đẩy KT đất nước.
Tác giả Cấn Văn Lực, luận án tiến sĩ kinh tế “Nghiên cứu về phát triển
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và tác động của nó đối với xây dựng tiềm
lực quốc phòng trên địa bàn QK7” [57] đã chỉ ra cơ sở lý luận, thực tiễn,
những giải pháp phát triển khu vực KT trọng điểm và sự tác động tích cực của
nó tới QP, AN. Đồng thời, xác định vùng KT trọng điểm là một vùng KT lớn,
tiềm ẩn nhiều nguồn lực có khả năng tạo ra sức bật mạnh, có sức hút lớn đối
với các lãnh thổ xung quanh, các nguồn lực từ bên ngoài, có lợi thế so với các
29
vùng khác trong nước, bảo đảm đem lại các lợi ích to lớn cho toàn bộ nền KT
của đất nước nếu được đầu tư thích đáng và tổ chức hợp lý nền sản xuất trong
vùng. Tác giả luận án đã lập luận trên cơ sở khoa học về phát triển vùng KT
trọng điểm sẽ tác động mạnh tới tiềm lực QP, AN ở khu vực. Tuy nhiên, luận
án tập trung nhiều hơn về tiềm lực QP, tiền lực QP của Việt Nam được xây
dựng trên nền tảng của tiềm lực KT, tiềm lực KH - CN, tiềm lực chính trị, tinh
thần, tiềm lực QS. Trong đó, tiềm lực QS là tiêu biểu và là kết quả tổng hợp
của các tiềm lực, được xây dựng, tổ chức, quản lý vì lợi ích phòng thủ quốc
gia; mức độ huy động tiềm lực QP phụ thuộc vào mục đích, tính chất của sự
nghiệp phòng thủ đất nước, bản chất của chế độ CT - XH và trình độ phát
triển của LLSX. Các yếu tố tạo nên tiềm lực QS xét ở mức độ nền tảng phải
nói tới KT. Hệ thống lý luận chung này đều gắn với các mặt KT, XH trên địa
bàn QK7 với những nét đặc thù. Tác giả đã đi vào một lát cắt rất cơ bản trong
mối quan hệ KT với QP, AN, song chưa có điều kiện tập trung khai thác sự
kết hợp của 2 mặt KT - XH và AN, QP.
Tác giả Đinh Văn Huệ có bài viết: “Mấy suy nghĩ về kết hợp KT với
QP, AN trong vùng KT trọng điểm phía Nam” [48]. Trên cơ sở phân tích tình
hình của sự kết hợp KT với QP, AN, tác giả đã đề xuất phương hướng, mục
tiêu, yêu cầu thực hiện sự kết hợp KT với QP, AN ở vùng KT trọng điểm phía
Nam. Thực hiện kết hợp KT với QP, AN, QP, AN với KT ở vùng KT trọng
điểm phía Nam phải tạo điều kiện phát triển nhanh, ổn định, đồng bộ, tác
động tích cực tới toàn vùng, đảm bảo vững chắc cho QP, AN; sự kết hợp phải
hướng tới phát huy tối đa nội lực, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng, ưu tiên đầu tư
phát triển các tổ hợp công nghiệp có quy mô lớn, các ngành nghề lưỡng dụng về
QS, dân sự; phối hợp chặt chẽ các lực lượng từ Trung ương tới địa phương; thực
hiện có kế hoạch, với những bước đi thích hợp; sự kết hợp trong mối quan hệ thân
thiện, hữu cơ với môi trường; khắc phục sự tách rời hai mặt hoặc chung chung, trừu
30
tượng, thiếu sự cụ thể cho từng mặt KT hoặc QP, AN. Tuy nhiên, hệ thống giải pháp
chưa thật sự mang tính đồng bộ.
1.2.2.2. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát triển
kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới
phía Bắc
Liên quan đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc đã có nhiều công trình khoa học và đề tài đề cập với các hướng
tiếp cận khác nhau.
Các tác giả Tô Đức Hạnh và Phạm Văn Linh trong cuốn “Phát triển
kinh tế hàng hoá trong nông thôn các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam thực
trạng và giải pháp” [45] đã trình bầy một cách có hệ thống cơ sở lý luận,
thực tiễn về phát triển KT hàng hoá trong nông thôn; chỉ ra một số kinh
nghiệm của Đài Loan và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) trong phát triển KT
hàng hoá ở nông thôn vùng núi. Điểm chú ý là tập thể tác giả đã đưa ra một
hệ thống giải pháp phát triển KT hàng hoá nông thôn, đó là: thực hiện đa
dạng hoá các hình thức sở hữu ở nông thôn, tăng cường vai trò KT của Nhà
nước; mở rộng phân công lao động gắn với xây dựng cơ cấu KT hợp lý;
phát triển thị trường; xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn; phát
triển giáo dục, nâng cao dân trí gắn với đào tạo nguồn nhân lực; huy động
và sử dụng hợp lý các nguồn vốn cho phát triển KT hàng hoá; phát triển
khoa học công nghệ. Tuy nhiên, bài viết chưa đề cập đến việc phát triển KT
hàng hoá gắn với đảm bảo QP, AN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Tác giả Trần Công Cửu trong đề tài “Định hướng và giải pháp kết hợp
phát triển KT - XH với QP - AN thời kỳ CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Hải
Dương” [23] đã đánh giá ưu điểm và hạn chế của sự kết hợp phát triển KT - XH
với QP, AN thời kỳ CNH, HĐH trên địa bàn. Ưu điểm: trong quy hoạch phát
triển KT - XH đã quan tâm đến việc kết hợp QP, AN; ngoài sản xuất phát triển
31
KT - XH còn có khả năng cung cấp một số mặt hàng đảm bảo QP, AN; phong
trào đô thị hoá nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, phát triển giao thông nông
thôn đã gắn với kế hoạch tác chiến phòng thủ địa phương; nền QP, AN, thế trận
QPTD gắn với thế trận ANND ngày càng vững chắc; triển khai chương trình QP,
AN theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII bước đầu đạt kết quả tốt;
khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của Quân đội và Công an
được nâng lên… Bên cạnh đó, đề tài còn chỉ ra một số điểm hạn chế như: nhận
thức về kết hợp phát triển KT - XH với QP, AN ở một số ít cán bộ, nhân dân còn
hạn chế; trong Tỉnh còn có điểm phức tạp, tiềm ẩn nhân tố gây mất ổn định về
tình hình AN chính trị, trật tự an toàn XH. Từ cơ sở lý luận, thực tiễn, đề tài đã
xác định nội dung kết hợp KT - XH với QP, AN trong quy hoạch: kết hợp phát
triển KT - XH với QP, AN trên các vùng, địa bàn, lãnh thổ, trong các lĩnh vực,
ngành trọng điểm; xây dựng lực lượng, thế trận QP địa phương gắn với xây dựng
về lực lượng, thế trận ANND. Đề xuất các biện pháp cơ bản kết hợp phát triển
KT - XH gắn với QP, AN trong thời kỳ đổi mới (giai đoạn 2003 - 2020) đó là:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của
chính quyền; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục QP nói chung,
kiến thức kết hợp KT - XH với QP, AN nói riêng; xây dựng quy hoạch tổng thể
và kế hoạch phát triển KT - XH kết hợp với QP, AN; xây dựng Tỉnh thành
KVPT vững chắc là điều kiện bảo đảm môi trường ổn định thúc đẩy phát triển
KT - XH; xây dựng cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm phát triển KT - XH kết
hợp với củng cố QP, AN của địa phương ngày càng vững mạnh. Tuy nhiên, đây
là đề tài đề cập ở phạm vi hẹp, việc xác định nội dung và giải pháp còn ở mức
độ, thiếu tính đồng bộ.
Tác giả Vũ Văn Tài, luận án tiến sĩ quân sự “Nghiên cứu xây dựng
các khu kinh tế quốc phòng trên biên giới phía Bắc” [65] đã đề cập tới hệ
thống các nội dung có ý nghĩa là lý luận cơ bản; chỉ ra thực tiễn xây dựng
các khu KT - QP trên biên giới phía Bắc đã thu được kết quả bước đầu, có
32
ý nghĩa chiến lược quan trọng trong việc điều chỉnh lại dân cư, xây dựng
thế trận QP, AN, đẩy mạnh phát triển KT - XH. Tuy nhiên, vẫn còn những
hạn chế cả về nhận thức, mô hình, cơ cấu đầu tư; hạn chế về thực tiễn tổ
chức, quản lý và chất lượng, hiệu quả xây dựng các khu KT - QP. Trên cơ
sở đó, đề xuất một số giải pháp sát thực, khả thi cho việc xây dựng các khu
KT - QP trên biên giới phía Bắc như: giáo dục nâng cao nhận thức, năng
lực tổ chức và xây dựng; khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn vốn, vật tư kỹ
thuật, vận dụng sáng tạo cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy, hiệp đồng các
cấp và bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách, các văn bản, pháp luật cho
xây dựng các khu KT - QP các tỉnh biên giới phía Bắc. Từ đó, đề xuất các
kiến nghị cho các công trình khoa học tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, luận
án mới dừng lại ở việc xây dựng các khu KT - QP trên địa bàn.
Tác giả Phạm Bằng Luân trong, luận án tiến sĩ kinh tế “Phát triển KT
trang trại và vai trò của nó đối với xây dựng tiềm lực QP ở các tỉnh Trung du
miền núi phía Bắc ” [56] đã trình bầy khá hệ thống những vấn đề lý luận, thực
tiễn về phát triển KT trang trại và phân tích làm rõ vai trò của KT trang trại
đối với xây dựng tiềm lực QP gắn với một địa bàn cụ thể là vùng Trung du
miền núi phía Bắc. Một trong những đóng góp mới của luận án là đã phân tích
làm rõ vai trò của phát triển KT trang trại đối với xây dựng tiềm lực QP ở các
tỉnh Trung du miền núi phía Bắc, đó là góp phần tăng cường các nguồn lực
trong khu vực nông nghiệp nông thôn; là bước tiến mới về QHSX trong nông
nghiệp, cơ sở quan trọng nâng cao tiềm lực chính trị - tinh thần cho nền
QPTD; thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ của
đất nước; góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, yếu tố quan trọng
cho duy trì, hoàn thiện năng lực và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các LLVT.
Tuy nhiên, luận án mới chỉ đề cập đến một vấn đề nhỏ trong lĩnh vực nông
nghiệp, chưa phán ánh đầy đủ bản chất vấn đề phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN.
33
1.3. Những vấn đề rút ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án như
trên, có thể rút ra một số vấn đề mà luận án phải tập trung nghiên cứu đó là:
- Luận án cần tập trung nghiên cứu làm rõ hơn khuôn khổ lý thuyết về
phát triển KT - XH hội gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc;
làm rõ những khái niệm công cụ, xây dựng khái niệm trung tâm, trên cơ sở đó đi
vào nghiên cứu giải quyết những nhiệm vụ mà luận án đề ra.
- Nhìn chung các công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến
đề tài luận án mới chỉ đề cập đến việc phát triển KT gắn với QP. Trong
bối cảnh tình hình hiện nay cho thấy, KT luôn gắn bó chặt chẽ với XH,
QP luôn gắn bó chặt chẽ với AN. Chính vì vậy, vấn đề rút ra mà luận án
phải tập trung nghiên cứu ở đây là nghiên cứu một cách toàn diện trong
mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa KT với XH và QP với AN trong phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.
- Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài cho
thấy, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu có liên quan trực tiếp
đến một địa bàn, thời kỳ, lĩnh vực, ngành nghề cụ thể ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc, nhưng mới chỉ đề cập ở mức độ còn hạn chế, chưa có tính
hệ thống và toàn diện. Do đó, vấn đề rút ra mà luận án phải tập trung
nghiên cứu đó là nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện cả lý luận, thực
tiễn, tập trung phân tích, đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết trong quá trình phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề trên, luận án đề xuất quan điểm và
giải pháp phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới
phía Bắc một cách hệ thống, đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần xây dựng thành công và bảo vệ vững Tổ quốc
Việt Nam XHCN.
34
Kết luận chƣơng 1
Các tỉnh biên giới phía Bắc là một địa bàn chiến lược quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN, sự phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển KT -
XH và QP, AN của cả nước. Việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP,
AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới vừa là vấn đề cơ bản
lâu dài, vừa là là vấn đề có tính cấp thiết.
Để kế thừa một cách có chọn lọc và phát triển từ các công trình khoa học
đã được công bố, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài trên những nội dung cơ bản: kết hợp phát triển KT với việc bảo vệ nền độc
lập, giải quyết quan hệ dựng nước đi đối với giữ nước ở Việt Nam trong thời kỳ
Phong kiến; trình bày một cách lôgic quan điểm của Đảng, những vấn đề chung
của các nhà khoa học, các vấn đề cụ thể liên quan tới phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
Nghiên cứu tổng quan các công trình khoa học trong nước và nước
ngoài có liên quan đế đề tài như trên, làm cơ sở cho hướng nghiên cứu tiếp
theo của luận án. Đó là những vấn đề có thể kế thừa, phát triển, tránh sự trùng
lặp. Những vấn đề rút ra mà luận án phải tập trung nghiên cứu là sự gợi mở cho
việc nghiên cứu để làm sáng rõ việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP,
AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới mới.
35
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
GẮN VỚI ĐẢM BẢO QUỐC PHÕNG, AN NINH
2.1. Khái niệm và nội dung phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm
bảo quốc phòng, an ninh
2.1.1. Khái niệm
Kinh tế - xã hội
Kinh tế là phạm trù xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử XH loài người. Có
nhiều cách quan niệm khác nhau về KT: KT là cơ sở của đời sống XH, là nhân tố
xét đến cùng quyết định sự tồn tại, phát triển của chế độ XH. KT là hệ thống tổ
chức nhằm sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Hoạt động KT là hoạt động
cơ bản, thường xuyên của XH loài người, bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất,
tái sản xuất ra của cải vật chất, nhằm thoả mãn nhu cầu của XH.
Kinh tế bao giờ cũng gắn liền với vấn đề XH. Sự gắn bó giữa KT với
vấn đề XH ngày càng chặt chẽ cùng với sự phát triển của KT. Bởi lẽ, khi con
người tham gia vào các hoạt động KT như: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu
dùng thì bao giờ con người cũng phải quan hệ với nhau, tạo thành mặt XH
trong các hoạt động ấy. Mặt khác, nếu xét ở tầm vĩ mô, XH vừa là mục tiêu
vừa là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển KT. Sự hài hoà trong phát triển KT và
phát triển XH quyết định sự phát triển của một quốc gia. Chính vì vậy, ở tất cả
các quốc gia, trong các nghiên cứu, trong chiến lược, chính sách phát triển,
phạm trù KT và phạm trù XH luôn gắn với nhau.
Đối với chế độ XH XHCN nói chung, ở Việt Nam nói riêng, muốn xây
dựng thành công CNXH trong thời kỳ mới, nhất thiết phải xây dựng, bảo vệ,
phát triển được nền KT đất nước. Phát triển KT là sự tăng trưởng KT đi kèm
với sự hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế KT và chất lượng cuộc sống. Ngày nay,
phát triển KT còn được bổ sung thêm tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm cao,
36
phù hợp với sự biến đổi của nhu cầu XH, nhu cầu con người, bảo vệ môi trường,
bảo đảm công bằng XH. Sự phát triển không ngừng của sản xuất, của KT là cơ
sở của mọi sự phát triển trong đời sống XH. Theo đó, phát triển KT - XH là quá
trình gia tăng đồng thời cả KT, cả XH trong trạng thái đan xen vào nhau, hỗ
trợ, tạo điều kiện cho nhau theo chiều hướng tiến bộ, tích cực.
Qua đó cho thấy, phát triển không phải chỉ là sự gia tăng một mặt nào đó,
có khi sự gia tăng đó chưa hẳn đã là phát triển, thậm chí còn là sự thụt lùi. Chẳng
hạn, trong quá trình phát triển chỉ chú trọng tới sự tăng trưởng KT thuần tuý, bỏ
qua các vấn đề XH hay bỏ qua QP, AN… tất yếu sẽ dẫn đến làm KT với bất cứ
giá nào; hậu quả là phân hoá giầu nghèo, môi trường sinh thái bị phá huỷ, các
vấn đề XH nổi lên gay gắt, QP, AN không được đảm bảo… Đó không phải là sự
phát triển. Thế nhưng, sự đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, trước mắt chưa có sự
gia tăng lĩnh vực đó, nhưng nó tạo ra tiền đề thuận lợi cho sự gia tăng toàn diện,
hài hoà và bền vững của mọi mặt thì đó mới là sự phát triển.
Quốc phòng, an ninh
Quốc phòng là hoạt động xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước,
nhằm tạo ra sức mạnh để bảo vệ đất nước, bao gồm tổng thể các hoạt động:
chính trị, QS, văn hoá, XH, đối nội, đối ngoại của một quốc gia, nhằm mục đích
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận
lợi để xây dựng đất nước. QP là hoạt động xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà
nước, do đó QP là một hiện tượng lịch sử, gắn liền với hiện tượng chiến tranh,
chỉ diễn ra khi XH còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam: “Quốc phòng, công cuộc
giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối ngoại về
quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học… của nhà nước và nhân dân để
phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh
quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững hoà bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt
37
động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới
mọi hình thức, quy mô. Quốc phòng trở thành hoạt động của cả nước, trong
đó LLVT làm nòng cốt. Quốc phòng phải kết hợp chặt chẽ với an ninh để bảo
vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Quốc phòng, an ninh phải kết hợp chặt chẽ với
kinh tế để bảo vệ và xây dựng đất nước. tổ chức quốc phòng của mỗi nước
phụ thuộc trực tiếp vào chế độ chính trị - xã hội, truyền thống dân tộc và
hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Nhiều nước quan niệm quốc phòng là một bộ
phận của an ninh quốc gia” [14, tr.848].
Qua đó cho thấy, QP là hoạt động xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà
nước nhằm tạo ra sức mạnh để bảo vệ đất nước. Hoạt động QP bao gồm tổng
thể các hoạt động: chính trị, quân sự, văn hoá, XH, đối nội, đối ngoại của một
quốc gia, nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
Quốc phòng là hoạt động của cả nước, trong đó LLVT là lực lượng nòng
cốt và phụ thuộc trực tiếp vào chế độ CT - XH của đất nước. Theo đó, QP Việt
Nam là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc Việt Nam;
trong đó, sức mạnh QS là đặc trưng, LLVT nhân dân làm nòng cốt. QS là lĩnh
vực hoạt động đặc biệt liên quan đến đấu tranh vũ trang, chiến tranh và quân đội,
là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. QP Việt
Nam được hình thành, phát triển trong lịch sử dựng nước, giữ nước trước đây và
đang được kế thừa, phát triển trong công cuộc xây dựng, BVTQ hiện nay và mai
sau. Tất cả các hoạt động QP luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, sự điều hành quản lý của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam; đồng
thời, kế thừa biện chứng những giá trị truyền thống trong suốt chiều dài hơn
4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Trong thời kỳ mới, QP phải luôn kết hợp chặt chẽ với các lĩnh vực: AN,
đối ngoại để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương xây dựng lực lượng và thế trận QPTD gắn với xây dựng lực
38
lượng và thế trận ANND. QP, AN phải kết hợp chặt chẽ với KT - XH để bảo
vệ và xây dựng đất nước.
“An ninh là trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm đe
doạ sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh
vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội. Có an ninh quốc gia, an ninh chính trị,
an ninh quân sự, an ninh kinh tế… Duy trì an ninh toàn diện là điều kiện để phát
triển xã hội” [14, tr.25]. Ở đây, tập trung vào AN quốc gia: “An ninh quốc gia là
trạng thái ổn định vững chắc của chế độ chính trị - xã hội, chủ quyền quốc gia
được toàn vẹn. ANQG bao gồm: an ninh kinh tế, an ninh chính trị, an ninh quân
sự, an ninh văn hoá - tư tưởng và trật tự an toàn xã hội, trong đó an ninh chính trị
làm nòng cốt, xuyên suốt trong sự kết hợp chặt chẽ với quốc phòng và công tác
đối ngoại; có nước quan niệm ANQG bao gồm cả quốc phòng. ANQG được quyết
định bởi nhiều yếu tố: sự đúng đắn của đường lối chính trị (cả đối nội và đối
ngoại); năng lực lãnh đạo của chính đảng cần quyền; vai trò quản lý xã hội của
nhà nước; sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế, văn hoá, xã hội; sức
mạnh quốc phòng mà nòng cốt là sức mạnh QS, an ninh; ý thức chính trị của toàn
dân… trong đó vai trò lãnh đạo của chính đảng cầm quyền giữ vai trò quyết định.
Bảo vệ ANQG được xác định là một nhiệm vụ trọng yếu của mọi quốc gia. Ở VN,
bảo vệ ANQG thuộc trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó
CAND và QĐND là lực lượng nòng cốt” [14, tr.26].
Qua khái niệm QP và AN cho thấy, QP và AN tuy là những phạm trù
khác nhau, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó, đan xen, hỗ trợ nhau trong
quá trình gìn giữ hoà bình, đẩy lùi nguy cơ, BVTQ và chế độ. Vì vậy, trong
nghiên cứu, trong chiến lược, chính sách của đất nước, phạm trù QP và phạm
trù AN thường gắn với nhau.
Bảo đảm quốc phòng, an ninh
Đảm bảo QP, AN hiểu một cách khái quát nhất đó là tổng thể các quá
trình, biện pháp của Nhà nước và nhân dân được tiến hành trong điều kiện
39
phát triển nền KT thị trường định hướng XHCN, nhằm thoả mãn các nhu cầu
tổng thể cho các hoạt động QP, AN, bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, quá trình đảm bảo QP, AN không phải là công việc riêng của
Nhà nước, mà cần phải coi đó là trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của Nhà
nước và nhân dân, của các thành phần KT, các tầng lớp dân cư. Mọi người
dân, mọi thành phần KT và tổ chức KT - XH trên đất nước ta nói chung, ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng đều có nghĩa vụ và quyền lợi cùng
với Nhà nước chăm lo đảm bảo QP, AN, bảo vệ Tổ quốc. Đó là một trong
những biểu hiện quan trọng của đường lối QPTD, ANND, chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta. Đường lối đó đã, đang và sẽ
được thực hiện có hiệu quả trên đất nước ta nói chung, ở một số tỉnh biên giới
phía Bắc nói riêng trong thời kỳ mới.
Với cách hiểu đảm bảo QP, AN như trên, đã thể hiện một cách khá toàn
diện. Đó là sự đảm bảo một cách tổng thể các nhu cầu của hoạt động QP, AN bảo
vệ Tổ quốc đều do Nhà nước và nhân dân ta tiến hành. Trong thời kỳ mới, nhiệm
vụ QP, AN của ta đang có nhiều đòi hỏi mới, hoạt động QP, AN không chỉ nhằm
đánh thắng kẻ thù xâm lược bằng vũ trang, mà còn phải đánh thắng kẻ thù phá
hoại đất nước ta bằng chiến lược ”DBHB”, BLLĐ, các hoạt động phá hoại phi
vũ trang..., hoạt động QP, AN không chỉ nhằm giữ vững lãnh thổ, bao gồm: trên
bộ, trên không, trên biển, mà còn phải nhằm giữ vững chế độ XH mà Đảng, nhân
dân ta đã và đang xây dựng. Đảm bảo QP, AN ở nước ta nói chung, ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc nói riêng phải đáp ứng được yêu cầu mới đó giành thắng lợi.
Với cách hiểu khái quát về đảm bảo QP, AN như trên, còn cho thấy, đặc
điểm của đảm bảo QP, AN trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện phát triển
KT thị trường định hướng XHCN, đặc điểm này đã và đang chi phối mạnh mẽ
đến phương thức hay cách thức đảm bảo. KT thị trường với đặc trưng cơ bản
là trao đổi ngang giá, mọi chi phí trong hoạt động KT đều phải tính toán và
40
hoạch toán đầy đủ. Trong lĩnh vực QP, AN lại diễn ra theo những quy luật
riêng của nó. Vì nhiệm vụ QP, AN có khi phải thực hiện đảm bảo bằng mọi
giá. Tuy vậy, trong điều kiện phát triển KT thị trường, việc đảm bảo QP, AN
cần phải cân nhắc tính toán cụ thể, vừa đảm bảo lợi ích QP, AN, vừa phải đạt
tính hiệu quả cao xét về mặt KT - XH. Hơn thế nữa, bên cạnh mặt tích cực
của nền KT thị trường, bản thân nó cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Việc đảm
bảo QP, AN cần phải biết khai thác mặt tích cực và tìm cách khắc phục những
mặt hạn chế đó
Khi bàn về tính khách quan hay vai trò của phát triển KT - XH với đảm
bảo QP, AN, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã cho rằng, đây là
một mặt công tác gắn liền với sự ra đời của giai cấp và đấu tranh giai cấp. Ở
đâu có giai cấp và đấu tranh giai cấp, ở đó còn phải duy trì và củng cố LLVT.
Theo đó, tất yếu có hoạt động đảm bảo các nhu cầu tổng thể, đảm bảo cho các
hoạt động của LLVT, bảo vệ Tổ quốc. Ph.Ăngghen viết: “Toàn bộ tổ chức và
phương thức chiến đấu của quân đội, và do đó thắng lợi và thất bại, đều tỏ ra
là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất
liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào số lượng và chất lượng của dân
cư và của kỹ thuật” [2, tr.241]. V.I Lênin cũng có những luận điểm nổi tiếng
nói về tính khách quan hay vai trò của công tác đảm bảo cho các LLVT, Ông
viết: ”Một quân đội giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp
cách mạng cũng sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang tiếp
tế lương thực và huấn luyện một cách đầy đủ” [53, tr.497].
Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta có thể khẳng định rằng,
cái trục xuyên suốt của lý luận phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN chính
là từ mối quan hệ giữa KT với chiến tranh và QP. Đảm bảo QP, AN là nhân tố hết
sức quan trọng tạo nên sức mạnh quân sự, sức mạnh QP, AN của mỗi quốc gia,
cũng như của mỗi KVPT. Khả năng và mức độ đảm bảo QP, AN phụ thuộc chặt
41
chẽ vào tình hình KT của đất nước. V.I Lênin viết: “Mối liện hệ giữa tổ chức quân
sự của một đất nước với toàn bộ chế độ kinh tế và văn hoá của nước ấy chưa bao
giờ lại hết sức chặt chẽ như ngày nay” [54, tr.192].
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
Kinh tế - XH và QP, AN là những phạm trù khác nhau, nếu xét ở mục tiêu
tổng quát, chúng đều nhằm thực hiện mục tiêu chung của giai cấp thống trị, của
nhà nước, nếu xét ở mặt kỹ thuật và những hoạt động cụ thể, giữa chúng cũng có
những mặt tương hợp. Tuy nhiên, xem xét về mặt lịch sử và đặc điểm thuần tuý
của mỗi lĩnh vực, giữa chúng có sự khác nhau. Nếu như KT - XH tồn tại cùng với
sự tồn tại và phát triển của con người và XH loài người, thì QP chỉ là một hiện
tượng lịch sử, là một mặt hoạt động của XH gắn liền với sự phân chia XH thành
các giai cấp đối kháng, với sự tồn tại các nguy cơ xảy ra chiến tranh xâm lược.
Nếu như KT - XH hoạt động theo hệ thống quy luật KT và quy luật vận động của
XH, thì QP, AN lại hoạt động theo hệ thống quy luật đấu tranh vũ trang. Do đó,
KT là hoạt động tạo ra của cải vật chất, ngược lại QP, AN lại là hoạt động cần thiết
phải tiêu dùng, thậm chí là tiêu dùng lớn của cải vật chất do KT tạo ra.
Với mục tiêu chung và sự khác biệt như trên, do đó trong lịch sử các
nhà nước tìm cách kết hợp hai lĩnh vực này trong chiến lược, chính sách,
nhiệm vụ xây dựng và phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Đồng
thời, sự gắn kết ấy ngày càng sâu rộng và có hiệu quả cùng với sự tiến bộ của
kỹ thuật công nghệ cũng như tính ưu việt của chế độ KT - XH, nhằm làm cho
hai lĩnh vực này vừa bổ sung cho nhau, thúc đẩy nhau phát triển để tạo ra các
tiềm lực và sức mạnh quốc gia, thực hiện thắng lợi mục tiêu của nhà nước và
dân tộc, vừa giảm thiểu được mâu thuẫn về mặt KT thuần tuý.
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là một tất yếu lịch sử, một
hoạt động của Nhà nước và XH ở Việt Nam, dựa trên cơ sở nhận thức được
quy luật khách quan. Sự Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đã trải
42
qua một quá trình nhận thức lâu dài. Trước đây, chúng ta chỉ hiểu nó trong
mối quan hệ kết hợp giữa hai lĩnh vực KT với QP và ngược lại QP với KT,
trong đó đặc trưng của sự kết hợp là nhằm đem lại tính “lưỡng dụng” phục vụ
cho việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ. Quá trình
nhận thức ngày càng phát triển, mối quan hệ kết hợp không chỉ dừng lại ở hai
lĩnh vực đó, mà còn được đan xen mở rộng: KT gắn với XH và QP gắn với
AN; do vậy, phạm trù KT với QP đã được thay thế bằng thuật ngữ “KT - XH
với QP, AN” lần đầu tiên được Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng trong các
văn kiện từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đến nay. Đó là sự khái quát
phản ánh tư duy mới về nội hàm của sự gắn kết đầy đủ, rộng lớn phù hợp với
sự phát triển của thời kỳ mới.
Trong thời kỳ mới, với đường lối xây dựng nền QPTD và chiến tranh
nhân dân cho thấy, nhiệm vụ QP, AN nói riêng và phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN nói chung không phải chỉ riêng Nhà nước mà là của toàn dân.
Hiện nay, chúng ta thực hiện nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
QP, AN trong một cơ chế hoàn toàn khác trước, do vậy mặc dù nội dung đảm
bảo QP, AN không đổi, song phương thức tiến hành phải khác. Trong thời kỳ
mới, đối tượng QP, AN của Việt Nam cũng có sự phát triển mới. CNĐQ và các
thế lực thù địch đã, đang chuyển từ chiến lược dùng bạo lực vũ trang là chính sang
sử dụng các biện pháp phi vũ trang, thực hiện chiến lược “DBHB”, BLLĐ đối với
các nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam... Do vậy, việc phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN phải đề cập đến cả việc đảm bảo QP, AN sẵn sàng đáp
ứng tốt với cả các thủ đoạn phi vũ trang của địch.
Với cách hiểu trên: Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là những
hoạt động chủ động, tự giác của Đảng, Nhà nước, nhân dân, LLVT và các thành
phần KT, để thực hiện sự thống nhất hữu cơ giữa các hoạt động phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN; mỗi bước phát triển KT - XH phải gắn với việc đảm
43
bảo QP, AN, xuất phát từ lợi ích quốc gia để tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Khái niệm trên cho thấy, đã bao hàm nội dung của phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN là sự gắn kết một cách tổng thể, mỗi bước phát
triển KT - XH phải luôn gắn kết với việc đảm bảo QP, AN, xuất phát từ lợi ích
quốc gia để tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc, không thể có KT
thuần tuý, không thể có KT tách khỏi bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu tổng quát của phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là
tăng tính hiệu quả tổng hợp của cả phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN
trong từng lĩnh vực hoạt động.
Chủ thể của phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là toàn Đảng,
toàn dân, LLVT và các thành phần KT. Dựa trên cơ sở luật pháp và nhận thức,
vận dụng đúng quy luật của từng lĩnh vực, đặc điểm, yêu cầu của từng giai
đoạn, để Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành cơ sở pháp lý, chủ trương,
chính sách phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN phù hợp.
Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, tất cả các
hoạt động của các lĩnh vực, các ngành, của mọi tầng lớp nhân dân, từng địa
phương phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, vì lợi ích quốc gia; lấy lợi ích quốc
gia làm mục tiêu hàng đầu.
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một
số tỉnh biên giới phía Bắc
Từ những vấn đề trên, có thể khái quát thực chất phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc là những hoạt
động chủ động, tự giác của Đảng bộ, chính quyền địa phương các cấp,
các tỉnh, của từng cơ sở và toàn dân, toàn quân dựa trên cơ sở pháp
luật, tinh thần yêu nước, đặc điểm, yêu cầu của từng tỉnh để thực hiện sự
thống nhất hữu cơ giữa các hoạt động phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN, hướng tới sự phát triển ổn định bền vững KT - XH gắn với
44
đảm bảo QP, AN trên cơ sở đảm bảo lợi ích của từng địa phương và lợi
ích quốc gia để tạo thành sức mạnh tổng hợp, góp phần thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trên địa
bàn mỗi tỉnh.
Như vậy, thực chất phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một
số tỉnh biên giới phía Bắc là việc chủ động thực hiện sự gắn kết các hoạt động
phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN thành một thể thống nhất hữu cơ,
làm cho mục tiêu, lợi ích phát triển KT - XH gắn kết chặt chẽ với mục tiêu,
lợi ích đảm bảo QP, AN ngay trong từng nhiệm vụ, từng bước phát triển; mỗi
bước phát triển KT - XH là yếu tố quyết định đến QP, AN được đảm bảo vững
chắc; QP, AN được đảm bảo vững chắc sẽ tạo ra môi trường hoà bình, ổn định
cho phát triển KT - XH, hướng tới sự phát triển ổn định bền vững KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN, tạo thành sức mạnh tổng hợp của từng địa phương,
của quốc gia góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trên địa bàn mỗi tỉnh.
Mục tiêu tổng quát của phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc là tăng tính hiệu quả tổng hợp của cả phát triển
KT - XH và đảm bảo QP, AN trong từng lĩnh vực hoạt động trên địa bàn một
số tỉnh biên giới phía Bắc.
Chủ thể của phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số
tỉnh biên giới phía Bắc là Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành, LLVT và
toàn dân mà trực tiếp là Đảng bộ, chính quyền địa phương, các ngành, lĩnh
vực, các thành phần KT, các cơ sở, đơn vị, toàn dân và LLVT trên địa bàn
một số tỉnh biên giới phía Bắc. Dựa trên cơ sở luật pháp và nhận thức, vận
dụng đúng quy luật của từng lĩnh vực, đặc điểm, yêu cầu của của từng giai
đoạn trên địa bàn từng tỉnh, để Đảng bộ, chính quyền từng tỉnh xây dựng
và ban hành cơ sở pháp lý, chủ trương, chính sách phát triển KT - XH gắn
45
với đảm bảo QP, AN phù hợp. Vai trò các chủ thể trong phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc được thể hiện cụ
thể trong từng giai đoạn: giai đoạn đầu chủ thể giữ vai trò quan trọng là
Đảng, Nhà nước, các bộ, ban ngành và toàn dân; về lâu dài, chủ thể giữ vai
trò quyết định trực tiếp là Đảng bộ, chính quyền địa phương, các ngành,
lĩnh vực, các thành phần KT, các cơ sở, đơn vị, toàn dân và LLVT trên địa
bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Quá trình phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN phải luôn gắn kết với
nhau thành một thể thống nhất, mỗi bước phát triển KT - XH phải luôn gắn
kết với việc đảm bảo QP, AN bảo vệ Tổ quốc, không thể có KT thuần tuý,
không thể có KT tách khỏi bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình thực hiện phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc phải
xuất phát từ lợi ích quốc gia, vì lợi ích quốc gia; lấy lợi ích quốc gia làm mục
tiêu hàng đầu.
2.1.2. Nội dung
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN được thể hiện trên nhiều
nội dung, luận án tập trung làm rõ những nội dung cơ bản sau:
2.1.2.1. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh trong quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực hiện
Công tác quy hoạch, kế hoạch có vai trò rất quan trọng trong phát
triển KT - XH và QP, AN. Sự phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
phụ thuộc rất lớn vào công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức
thực hiện. Chính vì vậy, việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực
hiện phải đảm bảo khoa học và tính khả thi cao, có như vậy mới phát huy tốt
nhất các nguồn lực: con người, tài chính, vật tư cho phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN. Đó cũng là một trong những nhân tố đảm bảo cho
quá trình nâng cao hiệu quả, khắc phục những tiêu cực, lãng phí, thiếu
46
trách nhiệm trong quá trình thực hiện của các tổ chức và cá nhân... nhằm
thúc đẩy nhanh quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN một
cách hài hoà, đạt hiệu quả cao, vững chắc trong từng lĩnh vực, từng gia i
đoạn phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn.
Để nội dung phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong quy
hoạch, kế hoạch và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao, vấn đề quan trọng đặt ra
đó là, trong công tác quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển KT - XH, quy
hoạch phát triển ngành, lĩnh vực có thể trong thời gian 05 năm, 10 năm và phải
có tầm nhìn chiến lược 10 năm, 20 năm, thậm chí là dài hơn nữa. Công tác quy
hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH phải gắn kết chặt chẽ với công tác quy
hoạch, kế hoạch đảm bảo QP, AN, cụ thể là trong xây dựng thế trận QPTD, thế
trận ANND, gắn thế trận QPTD với thế trận ANND và xây dựng KVPT tỉnh,
thành phố cũng như xây dựng thế trận QS trong KVPT tỉnh, thành phố.
Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với BCA và các địa phương lập quy
hoạch tổng thể các cơ sở thuộc lĩnh vực QP như: hệ thống CNQP, hệ
thống cảng, kho bãi, xây dựng đồn biên phòng, đường tuần tra biên giới...
Chỉ đạo Bộ chỉ huy QS các tỉnh, thành phố xây dựng, rà soát, điều chỉnh,
bổ sung, hoàn thiện kế hoạch phòng thủ, trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Quy hoạch hệ thống các đồn, trạm biên phòng ở toàn tuyến biên
giới và hải đảo, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nhu cầu đảm bảo QP,
AN và phát triển KT - XH vùng biên giới đất liền đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030, trình Chính phủ phê duyệt.
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với BQP, các ngành có liên quan, các địa
phương xây dựng các đề án: Đảm bảo AN, trật tự an toàn XH phục vụ cho
phát triển KT - XH. Cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả phòng, chống tội
phạm và các tệ nạn XH, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, cờ bạc, buôn bán phụ
nữ và trẻ em qua biên giới...
47
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố căn cứ vào Nghị quyết của Bộ
Chính trị, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát lại quy hoạch tổng thể,
phát triển KT - XH, quy hoạch các khu KT tổng hợp, khu KT cửa khẩu, khu
công nghiệp, khu vui chơi giải trí, hệ thống các đô thị và khu dân cư trên địa
bàn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Xây dựng kế hoạch đầu tư
cụ thể của từng địa phương; trong đó, xác định rõ các lĩnh vực được ưu tiên,
giải pháp về huy động và sử dụng vốn cho từng chương trình, dự án. Phối hợp
với BQP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai các dự án đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng các vùng biên giới, ven biển, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; đồng
thời, phối hợp với BCA thực hiện dự án tăng cường trang thiết bị, phương tiện
và lực lượng cho công an cơ sở trên các địa bàn đó.
2.1.2.2. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh trong xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Cơ cấu KT có sự gắn kết chặt chẽ KT với QP phải được thể hiện ở sự
phù hợp trong quy hoạch, bố trí và xây dựng hệ thống chiến lược về KT và
QP. Đó chính là việc quy hoạch bố trí sản xuất, phân vùng KT, phân bố lại
dân cư, thực hiện sự gắn kết lao động với đất đai và tài nguyên, lực lượng
chiến đấu, phương tiện vật chất với điều kiện địa hình một cách khoa học, hợp
lý trong những vùng KT, những ngành KT và thành phần KT, đảm bảo ở đâu
cũng có lực lượng xây dựng KT và lực lượng sẵn sàng chiến đấu, BVTQ. Ở
đây, sự phát triển đòi hỏi mỗi ngành KT đều có điều kiện phục vụ tốt nhất KT
cho cả phát triển KT, đời sống và cho cả đảm bảo QP, AN; mỗi vùng chiến
lược về KT là vùng hậu phương đã được chuẩn bị; cơ cấu thành phần KT phải
được duy trì một cách hợp lý.
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong xây dựng cơ cấu
KT hợp lý đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa lợi ích phát triển KT - XH với
yêu cầu đảm bảo QP, AN trong cơ cấu lao động XH. Đó chính là việc phân
48
bố và phân công lại lao động XH; đào tạo, sử dụng lực lượng lao động theo
hướng CNH, HĐH mà vẫn đáp ứng được mọi nhu cầu nhân lực cho công
cuộc xây dựng quân đội, củng cố QP, AN; cơ cấu KT đó thể hiện ở sự thống
nhất giữa cơ sở vật chất - kỹ thuật nói chung với cơ sở vật chất - kỹ thuật
của QP, AN nói riêng.
Thực chất, đó chính là sự gắn kết yêu cầu phát triển LLSX, khoa học, kỹ
thuật, đổi mới trang bị kỹ thuật cho các ngành KT với việc hiện đại hoá lực
lượng QP, xây dựng và phát triển một hệ thống CNQP, một nền khoa học QS
hiện đại nằm trong nền công nghiệp quốc gia.
Trong điều kiện của nền KT thị trường định hướng XHCN hiện nay, nội
dung phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong xây dựng cơ cấu KT
hợp lý còn bao hàm cả việc duy trì một cơ cấu thành phần KT hợp lý nhằm đảm
bảo định hướng XHCN, đồng thời khuyến khích tất cả các thành phần KT tham
gia thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH, góp phần xây dựng phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN trong thời kỳ mới.
2.1.2.3. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh trong các ngành, các lĩnh vực chủ yếu
Trước hết, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong ngành
công nghiệp. Đây là nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, được quy định
bởi vai trò của nền công nghiệp, bao gồm cả công nghiệp dân dụng và CNQP
đối với sự phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN của mỗi tỉnh. Trong công
nghiệp cần quy hoạch, bố trí các doanh nghiệp, công ty của ngành công
nghiệp một cách hợp lý, quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng KT kém phát
triển, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, làng nghề ở nông thôn. Đồng thời, cần
chú trọng khai thác khả năng của công nghiệp phục vụ nhu cầu QP, AN, tiến
tới đẩy mạnh phát triển các ngành, các lĩnh vực và cơ sở công nghiệp mang
tính lưỡng dụng cao. Đẩy mạnh phát triển CNQP theo hướng vừa phục vụ nhu
49
cầu QP, AN, vừa phục vụ nhu cầu phát triển KT - XH. Tích cực khai thác
năng lực của các cơ sở CNQP hiện có phục vụ nhu cầu dân sinh và nhu cầu
QP, AN. Từng bước đổi mới mô hình tổ chức, cơ chế quản lý và công nghệ
nhằm thực hiện tốt nhất việc lưỡng dụng hoá nền công nghiệp. Tập trung xây
dựng một số cơ sở CNQP then chốt do quân đội trực tiếp quản lý.
Trong thời kỳ mới, cùng với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển
KT tri thức, đặt ra yêu cầu cấp thiết, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN một cách hiệu quả, theo hướng tăng tính
“lưỡng dụng” trong quá trình xây dựng, phát triển các cơ sở công nghiệp, nhất là
các cơ sở cơ khí chế tạo, hoá nổ, các ngành công nghiệp phụ trợ, viễn thông, vật
liệu mới... Tập trung vốn Nhà nước, vốn của các tỉnh và có cơ chế thích hợp thu
hút đầu tư nước ngoài để xây dựng một số cơ sở mạnh về chế tạo động cơ tàu
thuỷ, ô tô và tiến tới các loại động cơ phục vụ ngành hàng không, sản xuất vật liệu
mới, vật liệu nổ… phục vụ nhu cầu phát triển KT - XH và nhu cầu đảm bảo QP,
AN. Khai thác tốt khả năng của công nghiệp dân dụng đảm bảo nhu cầu QP, AN
và khả năng của CNQP đáp ứng nhu cầu dân sinh theo cơ chế thị trường, cạnh
tranh, có sự quản lý của Nhà nước. Phối hợp với các bộ, ngành của Nhà nước và
các tỉnh từng bước đưa CNQP thành một bộ phận công nghiệp quốc gia. Trong
bố trí phải tính toán đến khả năng cơ động của các cơ sở CNQP, công nghiệp lư-
ỡng dụng quan trọng một cách hợp lý, bí mật. Đối với các cơ sở công nghiệp
thuộc khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cần phải có những
chế tài đủ mạnh để những quy định của pháp luật liên quan đến QP, AN, trật tự
và an toàn XH được thực hiện một cách nghiêm túc.
Thứ hai, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong nông, lâm,
ngư nghiệp. Đây là một nội dung có ý nghĩa quan trọng, góp phần đảm bảo cho
sự nghiệp xây dựng và BVTQ giành thắng lợi. Với nội dung phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN trong nông, lâm, ngư nghiệp, trước hết cần phải có quy
50
hoạch phát triển các vùng lúa, vùng rau, màu, vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm;
quy hoạch diện tích rừng và phát triển ngư nghiệp, vùng ven biển một cách vững
chắc. Đồng thời, cần có chính sách đầu tư KH - CN tiên tiến, cung cấp các loại
giống và các điều kiện thâm canh tăng năng suất, bảo đảm cho các loại sản phẩm
được tạo ra có giá trị KT cao. Gắn bó giữa phát triển sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp với xây dựng nông thôn mới, làm cho bộ mặt các vùng nông thôn thay
đổi một cách cơ bản. Làm cho đồng bào các dân tộc và nhân dân các vùng nông
thôn trên địa bàn mỗi tỉnh ngày càng thêm gắn bó với đảng bộ và chính quyền
địa phương, nâng cao tinh thần đoàn kết gắn bó giữa quân với dân, nâng cao
tiềm lực, sức mạnh QP, AN trên địa bàn đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ biên giới, BVTQ trên chính quyền hương mình.
Để phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong nông, lâm, ngư nghiệp
đạt hiệu quả, cần phải quy hoạch và có chính sách thúc đẩy phát triển KT - XH vùng
nông thôn gắn với đảm bảo tiềm lực và sức mạnh QP, AN trên từng mũi, từng
hướng của KVPT tỉnh, thành phố. Phát triển KT - XH vùng và tiểu vùng trên địa
bàn các tỉnh, thành phố là một nội dung quan trọng hàng đầu trong công tác xây
dựng KVPT tỉnh, thành phố. KT - XH từng vùng, tiểu vùng phát triển, bảo đảm
cho KT - XH mỗi tỉnh phát triển, là điều kiện tiên quyết để xây dựng KVPT tỉnh
vững mạnh về mọi mặt. Đồng thời, KVPT tỉnh vững mạnh về mọi mặt, AN được
giữ vững là điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy mạnh đổi mới, thu hút đầu tư,
phát triển KT - XH từng vùng và của các tỉnh. Vì thế, phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN, làm cho KT - XH và QP, AN cùng mạnh lên, KVPT tỉnh
mạnh lên là yêu cầu khách quan mang tính nội sinh và cấp bách của mỗi vùng
cũng như của mỗi tỉnh trên địa bàn cả nước.
Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong
nông, lâm, ngư nghiệp cần lấy hiệu quả phát triển KT - XH gắn với yêu cầu
đảm bảo QP, AN làm cơ sở cho những chủ trương phát triển cụ thể của từng
51
vùng. Phải tạo được sự bố trí về ngành nghề, cơ sở KT, lao động, dân cư, hạ
tầng, tài nguyên trên từng vùng phù hợp với yêu cầu phát triển KT - XH và
đảm bảo QP, AN trên từng hướng, từng địa bàn, nhất là những hướng, địa bàn
quan trọng, chiến lược vùng biên giới, hải đảo. Chuẩn bị tốt cả về KT - XH và
QP, AN cho chiến tranh bảo vệ trên địa bàn từng vùng và toàn địa bàn biên
giới ngay trong thời bình, làm cho mỗi vùng trở thành một trung tâm KT - XH
và là một phòng tuyến về QP, AN, đủ sức để thực hiện làng giữ làng, huyện
giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh, cả tuyến biên giới trở thành một pháo đài vững chắc,
kiên cường nếu chiến tranh xâm lược sảy ra.
Thứ ba, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong giao thông,
bưu chính viễn thông, xây dựng cơ bản cần được tính toán, xem xét cụ thể cả
mục tiêu phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN ngay từ khi lập quy hoạch, kế
hoạch xây dựng, sửa chữa nâng cấp các tuyến giao thông, đường bộ, đường sắt,
đường không, đường biển, hệ thống kho bãi… trên từng tỉnh, từng hướng chiến
lược, tạo nên mạng lưới giao thông liên hoàn ở tất cả các cấp từ xã đến huyện,
tỉnh… Trong thời bình, mạng giao thông vận tải chủ yếu phục vụ công cuộc phát
triển KT - XH các tỉnh, khi chiến tranh xảy ra phục vụ tốt nhất cho vận chuyển
vật chất, cơ động lực lượng, phương tiện phục vụ chiến tranh. Trong quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KT tri thức, đẩy mạnh hội nhập quốc tế
cả bề rộng lẫn chiều sâu, đây là lĩnh vực sẽ tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, thu
hút nhiều vốn, nhân lực, tác động mạnh mẽ đến KT - XH và QP, AN. Những công
trình được xây dựng phải thúc đẩy phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN;
gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu KT - XH với mục tiêu QP, AN ngay từ đầu; từ
trong thiết kế, quy hoạch dự án đầu tư đến quá trình thi công xây dựng. Khi xây
dựng công trình, nhất là các công trình trọng điểm trên tuyến biên giới và trên
địa bàn từng tỉnh, cần tính đến khả năng tự bảo vệ và được bảo vệ, tính đến khả
năng chuyển hoá phục vụ cho các nhiệm vụ đảm bảo QP, AN khi có nhu cầu,
52
đặc biệt là khi có chiến tranh xảy ra; phải tính toán đến nhu cầu và nhiệm vụ
phòng thủ dân sự, phòng thủ của các tỉnh và các LLVT đóng quân trên địa bàn;
trong quá trình xây dựng các khu KT cửa khẩu, các đô thị mới cần gắn với các
KVPT, coi trọng xây dựng các công trình ngầm trong điều kiện có thể.
Thứ tư, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong lĩnh vực khoa
học - công nghệ, giáo dục - đào tạo. Khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo có
tác động trực tiếp và toàn diện đến mọi lĩnh vực của đời sống XH, bao gồm cả
KT - XH và QP, AN. Cùng với khoa học - công nghệ, giáo dục - đào là động lực
thúc đẩy phát triển KT - XH và QP, AN. Động lực đó sẽ được tăng lên khi
khoa học - công nghệ, giáo dục - đào của lĩnh vực dân dụng được gắn kết chặt
chẽ lĩnh vực QP, AN. Do đó, việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP,
AN trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, giáo dục - đào là yêu cầu khách
quan, cấp thiết trong xây dựng và BVTQ. Quá trình đẩy mạnh phát triển
khoa học - công nghệ, giáo dục - đào cần phải chú trọng tới tính “lưỡng
dụng”, trong công tác đào tạo nguồn nhân lực vừa phục vụ nhu cầu phát
triển KT - XH, vừa có thể đáp ứng nhu cầu đảm bảo nguồn nhân lực cho
QP, AN. Cần có cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác về
KH - CN và GD - ĐT giữa hai lĩnh vực dân dụng và QP, AN. Tận dụng tối
đa cơ sở vật chất kỹ thuật, phòng thí nghiệm, các kết cấu hạ tầng khác và
các nhà khoa học của cả hai lĩnh vực phục vụ cho công tác nghiên cứu KH - CN
và GD - ĐT đáp ứng nhu cầu cho cả hai lĩnh vực phát triển KT - XH và đảm bảo
QP, AN. Đồng thời, triển khai ứng dụng nhanh các thành tựu mới về KH - CN và
GD - ĐT nhằm thúc đẩy phát triển cả hai lĩnh vực KT - XH và QP, AN.
Trong giai đoạn hiện nay, một trong những nội dung tất yếu đặt ra là phải
đẩy mạnh phát triển KH - CN và GD - ĐT ngang tầm. Muốn vậy, phải chú ý ngay
từ đầu việc gắn kết phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN. Trong chiến lược, kế
hoạch phát triển KH - CN và GD - ĐT của cả hai lĩnh vực KT - XH và QP, AN
53
cần phải thể hiện rõ sự gắn kết chặt chẽ. Đồng thời, cần tạo ra môi trường pháp lý và
cơ chế phù hợp để thúc đẩy hợp tác, chuyển giao, hội nhập về KH - CN và GD - ĐT
giữa phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN. Bảo đảm cho mỗi bước phát triển
KH - CN và GD - ĐT đều bao hàm cả phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN.
Trước hết, cần phải gắn chương trình phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào
tạo với yêu cầu phát triển KT - XH và bảo vệ biên giới; xây dựng quy hoạch, kế
hoạch huy động tiềm lực khoa học - công nghệ, giáo dục - đào dân dụng, QS
phục vụ cho phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN; chú trọng ưu tiên thích đáng
cho việc ứng dụng KH - CN vào lĩnh vực then chốt mũi nhọn của QP, AN. Hoạt
động KH - CN cần đẩy mạnh liên kết ba lực lượng: các doanh nghiệp, cơ quan
nghiên cứu, cơ quan quản lý để vừa phục vụ phát triển KT - XH, vừa phục vụ QP, AN;
cần đẩy mạnh phát triển thị trường KH - CN, tư vấn khoa học và chuyển giao
công nghệ giữa hai lĩnh vực.
Trong thời gian tới, để phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong
lĩnh vực này cần hướng vào các vấn đề cụ thể: Kết hợp trong nghiên cứu, ứng
dụng công nghệ thông tin, viễn thông hiện đại, nâng cao khả năng phát hiện
đối tượng, kiểm soát tình hình AN, QP chống bạo loạn, chống khủng bố góp
phần thực hiện chiến lược bảo vệ biên giới, bảo vệ đất nước từ xa. Nghiên
cứu góp phần hiện đại hoá vũ khí, trang bị kỹ thuật của các lực lượng QP, AN,
tăng cường khả năng bảo đảm AN trên các lĩnh vực chính trị, KT, giao thông
vận tải và trật tự an toàn XH. Nghiên cứu mở rộng, nâng cao chất lượng các
sản phẩm, công trình, dịch vụ "lưỡng dụng" phục vụ có hiệu quả phát triển
KT - XH và đảm bảo QP, AN. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy hoạch phát
triển các khu KT cửa khẩu, các khu đô thị mới, xây dựng các công trình nhà
cao tầng gắn với xây dựng kho, bãi đỗ xe và các công trình ngầm khác gắn
với các thiết bị chiến trường và nơi ẩn nấp... Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ
mới cho bảo vệ AN môi trường, phát hiện sớm và chống ô nhiễm môi trường
54
có hiệu quả phục vụ cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN theo
hướng văn minh, hiện đại.
Thứ năm, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong y tế. Sự gắn kết
đó đã trở thành truyền thống, được duy trì thường xuyên cả trong thời bình và thời
chiến, không chỉ thiết thực đối với vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, những nơi
khó khăn, dân trí thấp mà còn phát huy hiệu quả cả ở địa bàn đô thị. Việc gắn kết
thể hiện trước hết ở xây dựng chiến lược phát triển y tế toàn diện, đồng bộ. Bên
cạnh việc chú trọng phát triển có chiều sâu các trung tâm y tế chất lượng cao tại các
độ thị, phải coi trọng phát triển mạng lưới y tế cộng đồng, chú trọng đầu tư phát
triển mạng lưới y tế nông thôn, ưu tiên các vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng
xa. Trong thời bình, các cơ sở y tế có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân
dân, sản xuất thuốc chữa bệnh, kết hợp phát triển y học hiện đại với y học cổ truyền
tạo tính đa dạng, phong phú trong hoạt động bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Khi
chiến thanh xảy ra, các cơ sở y tế có nhiệm vụ chi viện cứu chữa thương, bệnh binh,
bảo đảm cho các LLVT cơ động chiến đấu giành thắng lợi.
Thứ sáu, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong công tác
QP, đảm bảo AN và trong đối ngoại, kinh tế đối ngoại
- Hoạt động QP, AN là một dạng hoạt động đặc biệt, tuy nhiên mỗi hoạt
động đều gắn với những điều kiện KT - XH nhất định. Nội dung phát triển
KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong công tác QP, đảm bảo AN là: trong
mỗi hoạt động QP, đảm bảo AN không chỉ chú ý đến hiệu quả QP, AN thuần
tuý, mà còn phải chú ý cả hiệu quả KT - XH; đảm bảo vững chắc mục tiêu
QP, AN, nhưng cũng quan tâm đầy đủ đến việc thực hiện các mục tiêu KT - XH,
tích cực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu KT - XH trong điều kiện có thể.
Để đạt được các yêu cầu trên, cần chú ý một số nội dung cơ bản: một là, đối
với công tác QP, đảm bảo AN, phải thực hiện đẩy mạnh tiết kiệm cả lao động
sống và lao động vật hoá trong các hoạt động huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
55
chiến đấu, công tác của LLVT, nhất là những hoạt động của Quân đội và Công
an. Trên cơ sở nguồn nhân lực được biên chế, nguồn ngân sách được cung cấp,
Quân đội, Công an và các LLVT khác cần phải phấn đấu để hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ QP, AN được giao, bảo vệ vững chắc từng địa bàn, giữ vững AN, trật
tự, an toàn XH trên địa bàn biên giới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ
XHCN. Tổ chức, bố trí LLVT phù hợp với điều kiện KT - XH và nhu cầu phòng
thủ, đảm bảo AN trong tình hình mới; đó cũng chính là cách để tiết kiệm chi phí
cho công tác QP, AN, nâng cao hiệu quả hoạt động của các LLVT nhân dân, thực
hiện phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Hai là, khai thác có hiệu quả
tiềm năng của các cơ sở CNQP và khu KTQP để tham gia phát triển KT - XH
với chất lượng, hiệu quả tổng hợp cao nhất. Trong điều kiện có thể, tổ chức
cho các đơn vị Quân đội, Công an tham gia xây dựng các công trình KT
trọng điểm của các tỉnh; đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân,
đồng bào các dân tộc nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước và của từng tỉnh; giúp
đồng bào các dân tộc vùng biên giới, hải đảo, vùng xa sôi hẻo lánh xoá đói
giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; Quân đội, nhất là bộ đội Biên phòng
cùng với các lực lượng AN tham gia chống buôn lậu, tệ nạn XH, bạo loạn,
tham nhũng cũng chính là là những nội dung cụ thể trong phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN trong công tác QP, đảm bảo AN.
- Đối ngoại và KT đối ngoại ngày càng có vai trò quan trọng trong phát
triển KT - XH, đảm bảo QP, AN của đất nước. Đó là nguồn ngoại lực, thu hút
nguồn vốn lớn với công nghệ cao, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở rộng thị
trường, đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN. Do đó, phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN cần được thể hiện ngay trong quá trình
đẩy mạnh quan hệ đối ngoại và mở rộng KT đối ngoại. Trong quan hệ đối ngoại
rộng mở, song phương và đa phương, việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
56
QP, AN được biểu hiện tập trung ở sử dụng quan hệ đối ngoại và KT đối ngoại
phục vụ cho cả nhu cầu phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN. Thông qua quan
hệ đối ngoại, KT đối ngoại mà xác lập, mở rộng quan hệ đối ngoại, KT đối ngoại
phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, kịp thời phát hiện, đẩy lùi
thách thức “DBHB”, BLLĐ, nguy cơ chiến tranh, giữ vững ổn định chính trị, chế
độ XH và nền hoà bình, tạo điều kiện để phát triển đất nước. Muốn vậy, trong đối
ngoại và KT đối ngoại, ngay từ mục tiêu, nhiệm vụ của nó đã thể hiện và đòi hỏi
khách quan, cấp thiết phải gắn kết chặt chẽ với KT - XH với đảm bảo QP, AN.
Đối ngoại phải gắn kết chặt chẽ với KT, văn hoá, QP, AN để không ngừng tăng
cường hợp tác và đấu tranh, mở rộng quan hệ đối tác, hạn chế mặt đối tượng; mở
rộng quan hệ hoà bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển với các dân tộc, các tổ chức,
khu vực và quốc tế, trước hết là đối với các nước láng giềng như: Trung Quốc,
Lào. Camphuchia. Trên cơ sở đó để thu hút vốn, kỹ thuật - công nghệ, tri thức,
kinh nghiệm tiên tiến; đồng thời, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn ngừa các
nguy cơ từ xa, góp phần giữ vững môi trường hoà bình và lợi ích quốc gia.
2.2. Sự cần thiết của phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP - AN là vấn đề có tính quy luật
của các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, là sự cần thiết, cấp bách ở
Việt Nam trong thời kỳ mới được xuất phát từ nhiều vấn đề, trước hết là
những vấn đề cơ bản sau:
2.2.1. Xuất phát từ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo
quốc phòng, an ninh
Trước hết, chúng ta cần khẳng định, KT - XH và QP, AN là những mặt
hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền. Mỗi lĩnh
vực có mục đích, cách thức hoạt động và quy luật riêng, song giữa chúng có
mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, KT - XH là
57
yếu tố quyết định đến QP, AN: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh”
[35, tr.82]. Ngược lại, QP, AN có tác động tích cực trở lại KT - XH, bảo vệ và
tạo điều kiện thúc đẩy KT - XH phát triển: “phát triển kinh tế - xã hội là nền
tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh vững
mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội” [34, tr.227-228].
Kinh tế - XH quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của QP, AN. Lợi
ích KT suy đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung đột XH,
để giải quyết các mâu thuẫn đó, phải có hoạt động QP, AN. KT - XH quyết định
đến việc cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực cho hoạt động QP, AN,
Ăngghen đã khẳng định: Thất bại hay thắng lợi của chiến tranh đều phụ thuộc vào
điều kiện KT, vì vậy để xây dựng QP, AN vững mạnh phải xây dựng, phát triển
KT. KT - XH quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực
cho QP, AN, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của LLVT; quyết định đến
đường lối chiến lược QP, AN. Đến lượt mình, QP, AN không chỉ phụ thuộc vào
KT - XH mà còn tác động trở lại với KT - XH trên cả góc độ tích cực và tiêu cực.
QP, AN vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện
thuận lợi cho phát KT - XH. Hoạt động QP, AN tiêu tốn đáng kể một phần nguồn
nhân lực, vật lực, tài chính của XH, những tiêu dùng này theo Lênin là những tiêu
dùng “mất đi”, không quay vào tái sản xuất XH; do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu
dùng của XH, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền KT. Hoạt động QP, AN còn có
thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho nền KT,
nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn chế những tác động tiêu cực này, phải gắn
phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN vào một chỉnh thể thống nhất.
Ngày nay, mối quan hệ giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN
càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. QP, AN không chỉ gồm việc bảo vệ chủ quyền
về lãnh thổ, mà còn đảm bảo AN chính trị, KT, XH, văn hoá tư tưởng. Phát
58
triển KT - XH ổn định nhanh, bền vững giữ vai trò quyết định cho sự nghiệp
chung của đất nước. KT phát triển tạo cơ sở để đảm bảo tăng cường sức mạnh
QP, AN; QP, AN được đảm bảo vững chắc tạo môi trường thuận lợi cho hoà
bình, ổn định lâu dài, là tiền đề, điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho phát
triển KT - XH nhanh, bền vững. Trong phát triển KT - XH có lợi ích của QP, AN,
trong đảm bảo QP, AN có lợi ích của KT - XH. Sở dĩ như vậy là vì, xuất phát
từ mối quan hệ biện chứng giữa KT với chính trị, chiến tranh và QP. Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sản xuất vật chất - phát triển KT là
nhân tố xét đến cùng quyết định một cách toàn diện đối với lĩnh vực QP cả
về nguồn gốc, bản chất, quy mô và trình độ. QP do KT quyết định, song
đến lượt nó, QP tác động to lớn trở lại đến sự phát triển KT theo những
chiều hướng khác nhau. Theo đó, phát triển KT - XH có quan hệ tác động
nhiều mặt đến QP, AN; đó là quan hệ giữa phát triển KT - XH vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của một đất nước chịu
sự chi phối của các quy luật KT thị trường định hướng XHCN với hoạt
động QP, AN có mục đích phục vụ lợi ích chung của cả quốc gia, dân tộc
và vận động theo những quy luật đặc thù, chịu sự chi phối chủ yếu của chủ
thể quản lý XH. Về thực chất, đây chính là một trong những biểu hiện cụ
thể của mối quan hệ giữa KT với chính trị. Mặc dù có sự khác nhau cơ bản
về mục đích, đối tượng, chủ thể và phương thức tiến hành, song phát triển
KT - XH và đảm bảo QP, AN đều là hoạt động XH của con người trong
điều kiện có sự khác biệt về lợi ích giữa các giai tầng, các nhóm XH khác
nhau. Chính vì vậy, phải xuất phát từ mục đích và quan hệ lợi ích giữa các
chủ thể của hai hoạt động này để xem xét quan hệ qua lại giữa chúng trong
sự vận động vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Trong mối quan hệ đó, tính thống nhất thể hiện ở chỗ, cả hai hoạt động
này đều hướng đến thực hiện mục tiêu chung là vì lợi ích quốc, xuất phát từ lợi
ích quốc gia để tạo thành sức mạnh quốc gia tổng hợp thực hiện thắng lợi hai
59
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ, đều chịu sự chi phối, định hướng của
các thành tố kiến trúc thượng tầng XHCN. Mặt khác, muốn phát triển KT - XH
cần phải có môi trường hoà bình, ổn định để phát triển. Điều đó chỉ có được khi
QP, AN của đất nước được đảm bảo một cách vững chắc, thế và lực của đất nước
ngày càng được củng cố và tăng cường. Đồng thời, cơ sở của sức mạnh QP, AN
hiện nay có cội nguồn và chủ yếu dựa vào hiệu quả phát triển KT - XH trong
môi trường hoà bình, hợp tác và hữu nghị. Trên bình diện này, giữa phát triển KT - XH
với đảm bảo QP, AN là điều kiện tiền đề thúc đẩy nhau cùng phát triển. Tuy
nhiên, bên cạnh tính thống nhất, còn thể hiện mâu thuẫn đó là, trong phát triển
KT - XH có nhiều chủ thể khác nhau: các thành phần KT, các doanh nghiệp, KT
hộ... ít nhiều có sự đối lập nhau về sở hữu và do đó, lợi ích cơ bản của mỗi chủ
thể là khác nhau, thậm chí là xung đột, đối lập với lợi ích chung. Nhìn một cách
tổng thể trong nền KT hiện nay, chúng ta đang phát triển nền KT nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; vì thế, trên thực tế có rất nhiều
chủ thể đến từ nước ngoài, trước hết là để tìm kiếm lợi ích thông qua quá trình
hợp tác làm ăn với các chủ thể trong nước, trong đó không loại trừ có những đối
tượng tội phạm, lợi dụng chống phá chế độ, xâm hại AN quốc gia và lợi ích nhân
dân... Trong khi đó, các chủ thế KT trong nước phần nhiều tiềm lực và khả năng
còn hạn chế, nội lực và lợi ích có thể bị tổn thất trong quá trình phát triển KT;
việc đóng góp nghĩa vụ cho QP, AN hiện nay dưới cái nhìn của không ít chủ thể
KT sẽ cho rằng, mâu thuẫn với yêu cầu cắt giảm chi phí, tập trung nguồn lực cho
đầu tư phát triển KT... từ đó làm cho sự đồng thuận trong XH bị giảm sút, việc
thực hiện mục tiêu của CNXH trong đó có nhiệm vụ QP, AN sẽ trở nên khó
khăn, phức tạp hơn nhiều.
Qua đó cho thấy, mối quan hệ qua lại giữa phát triển KT - XH với đảm
bảo QP, AN vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Chính vì vậy, chúng ta
cần phải chú ý xử lý đúng đắn mối quan hệ này, nhằm hạn chế những mâu
60
thuẫn có thể nảy sinh giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN. Việc phát
triển KT - XH có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo QP, AN. Đồng
thời, QP, AN được đảm bảo sẽ có tác động tích cực to lớn trở lại thúc đẩy phát
triển KT - XH. Chính mối quan hệ này đặt ra yêu cầu cần phải chủ động
thường xuyên gắn kết chặt chẽ giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN
trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ Việt
Nam XHCN.
2.2.2. Xuất phát từ yêu cầu của quy luật xây dựng Tổ quốc gắn liền
với bảo vệ Tổ quốc
Xây dựng Tổ quốc gắn liền với BVTQ là một quy luật của cách mạng
Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, quy luật đó càng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Quy luật đó đòi hỏi chúng ta trong khi tập trung sức xây dựng đất nước
về mọi mặt, không một phút lơi lỏng nhiệm vụ đảm bảo QP, AN, đủ sức giữ
vững môi trường hoà bình AN để đổi mới, xây dựng đất nước, bảo đảm cho
mọi cơ sở, mọi thành quả của sự nghiệp xây dựng Tổ quốc luôn trong trạng
thái được đảm bảo an toàn.
Mặt khác, quy luật đó còn đòi hỏi mỗi cơ sở KT - XH, trong quá trình
xây dựng phải tạo được khả năng đề kháng cao nhất để tự bảo vệ mình. Đảm
bảo cho mỗi cơ sở, mỗi địa bàn trên phạm vi cả nước vừa được bảo vệ, vừa tự
bảo vệ ở mức cao nhất. Để đạt được yêu cầu này, đòi hỏi Nhà nước, các bộ,
ngành và địa phương phải chủ động gắn kết hai nhiệm vụ xây dựng, phát triển
KT - XH với đảm bảo QP - AN trong một chiến lược chung thống nhất và
phải được cụ thể hoá trong mỗi lĩnh vực của đời sống XH cả ở tầm vĩ mô và
vi mô, nhằm đạt được đồng thời cả lợi ích KT - XH và lợi ích QP, AN trong
cùng một quá trình.
Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, tất cả các
hoạt động của các lĩnh vực, các ngành, của mọi tầng lớp nhân dân, từng địa
phương phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, vì lợi ích quốc gia; lấy lợi ích quốc gia
61
làm mục tiêu hàng đầu để tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề
này đã được thực tế chứng minh một cách sống động: sức mạnh quốc gia không
chỉ là phát triển KT mà là tổng hợp của nhiều yếu tố khác; sẽ không thể là một
cường quốc mạnh, có vị thế nếu chỉ là cường quốc về KT. Ví dụ: Nhật Bản,
Trung Quốc… Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động thường xuyên gắn kết chặt
chẽ giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN bảo vệ Tổ quốc.
2.2.3. Xuất phát từ thực tiễn thế giới và truyền thống của dân
tộc Việt Nam
- Thực tiễn thế giới: Trong XH chiếm hữu nô lệ và phong kiến, LLSX,
phân công lao động còn thấp, KT quân sự chưa phát triển, chưa trở thành một
ngành riêng biệt phục vụ cho nhu cầu chiến tranh và QP. Đặc điểm đó quy
định trình độ và quy mô kết hợp KT - XH với QP, AN của các nhà nước trong
thời kỳ này còn rất thấp. Tuy vậy, sự kết hợp KT - XH với QP, AN luôn được
các nhà nước coi trọng trong việc chuẩn bị và cung cấp binh lương, vũ khí
cho LLVT thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền đất nước hay tiến hành chiến
tranh xâm lược, mở rộng bờ cõi.
Trong CNTB, nhất là thời kỳ hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của
LLSX, KH - CN, đồng thời với bản chất hiếu chiến của các nhà nước tư sản,
đặc biệt là ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đã đẩy khu vực KT quân sự lên quy
mô, trình độ cao chưa từng thấy trong lịch sử, làm cho mối quan hệ giữa KT - XH
và QP, AN trở nên khăng khít hơn. Kết hợp KT - XH với QP, AN không chỉ
trở thành tất yếu mà còn là vấn đề liên quan mật thiết đến hiệu quả KT, KT
quân sự và tăng cường sức mạnh QP, QS của nhà nước. Qui mô, trình độ, nội
dung, hình thức kết hợp KT - XH với QP, AN khá rộng lớn, sâu sắc và phong
phú: Kết hợp chiến lược phát triển KT với chiến lược QS; kết hợp trong tổ
chức bộ máy và đội ngũ chuyên gia quản lý; kết hợp trong phát triển các
ngành KT, KH - CN dân sự và QS…
62
Với các nước XHCN, kể cả Liên Bang Cộng hoà XHCN Xô viết, các
nước XHCN Đông Âu trước đây và các nước đang đổi mới mô hình phát triển
hiện nay đều coi kết hợp KT - XH với QP, AN là nội dung chiến lược của công
cuộc xây dựng và BVTQ, được nhà nước chủ động tiến hành một cách rộng rãi,
thường xuyên, liên tục trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống XH, nhằm
vừa đẩy mạnh phát triển KT - XH, vừa đảm bảo củng cố sức mạnh QP, AN.
- Thực tiễn truyền thống dân tộc Việt Nam: Ngược dòng lịch sử cho
thấy, ông cha ta đã sớm có tư tưởng kết hợp KT với QP, QS, với phương châm
chiến lược "dựng nước đi đôi với giữ nước". Thực tiễn kết hợp KT với QP, QS
ở nước ta thời kỳ phong kiến có nhiều nét độc đáo, là bài học quí cho chúng ta
hiện nay. Vào thời Tiền Lê, Lê Hoàn đã tổ chức cho gia đình binh lính lên
khai hoang lập ấp, mở mang KT ở vùng biên giới Lạng Sơn, Quảng Yên, vừa
làm nhiệm vụ đồn trú bảo vệ biên giới, vừa phát triển KT xây dựng hậu
phương tại chỗ. Đến thời Lý - Trần - Lê (sơ), ông cha ta có tư tưởng "Ngụ
binh, ư nông", "động vi binh, tĩnh vi dân", thực hiện "khoan thư sức dân", mở
rộng khai hoang lập ấp nơi biên ải xung yếu để "phục binh sẵn, phá thế giặc
dữ". Tổ tiên ta còn chú trọng phát triển các ngành nghề thủ công ở các làng xã
để sẵn sàng sản xuất vũ khí cho quân đội khi có yêu cầu, mở mang đường xá,
đóng thuyền, xây dựng đê điều, làm thuỷ lợi để vừa phát triển KT vừa tăng
khả năng cơ động cho quân đội khi có chiến tranh, tạo ra thế "thiên la địa
võng" của chiến tranh nhân dân, đủ sức đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Kế tục truyền thống kết hợp phát triển KT với đảm bảo QP, QS của
ông cha, thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chủ Tịch đã sớm
chỉ đạo toàn dân thực hiện kết hợp KT với QP, QS theo phương châm: "vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc", "vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất và tiết
kiệm". Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa cuộc kháng
63
chiến chống thực dân Pháp đến thành công. Sau khi miền Bắc được giải
phóng, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khoá II (1958), Đảng ta đã nêu
lên chủ trương kết hợp tăng cường củng cố QP với xây dựng hậu phương
vững chắc. Kết hợp KT với QP đã được nêu lên thành một nội dung trong
đường lối KT và đường lối QS của Đảng ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng (1960). Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan
trọng đưa đến thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Bước vào thời kỳ đất nước thống nhất, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và BVTQ, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đến nay, kết
hợp phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN luôn được Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định rõ trong văn kiện, các chiến lược và kế hoạch phát triển KT - XH,
xây dựng quân đội, đảm bảo QP, AN.
2.3. Những nhân tố ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế - xã hội gắn
với đảm bảo quốc phòng, an ninh
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong tình hình mới chịu
sự chi phối ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Trước hết, cần quan tâm đến một số
nhân tố ảnh hưởng cơ bản sau:
2.3.1. Bối cảnh tình hình mới của thế giới, khu vực và trong nước
- Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất
nhanh, phức tạp, khó lường, như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
đã phân tích và dự báo. Thực tiễn tại nhiều khu vực và trên thế giới cho thấy,
những mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, sắc tộc có điều kiện bùng phát, các thế lực thù
địch triệt để lợi dụng tình hình để can thiệp. Vì vậy, nguy cơ mất ổn định ở nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới diễn biến khó lường, không chỉ do nguyên
nhân bên trong mà còn do sự can thiệp từ bên ngoài. Sự phát triển của KH - CN
mà ưu thế thuộc về các nước tư bản phát triển, đã làm xuất hiện một số loại hình
chiến tranh mới: chiến tranh thông tin, chiến tranh công nghệ cao… để chống các
64
nước có chủ quyền. Tình hình đó, buộc nhiều nước trên thế giới triển khai nghiên
cứu các giải pháp nhằm bảo vệ đất nước trước những biến hoá khó lường theo
hướng quan tâm đến cả phát triển KT - XH và tăng cường củng cố QP, AN, trong
đó phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là một giải pháp quan trọng.
- Tình hình khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực
Đông Nam Á có những diễn biến phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh: “Khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng
động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển
đảo ngày càng gay gắt” [35, tr. 184]. Các nước Đông Nam Á đang phải đối mặt
với những thử thách và khả năng cạnh tranh quốc tế. Giữa các nước Đông Nam
Á cách nhìn nhận chưa đồng nhất trong quan hệ với các nước lớn. Đặc biệt, hiện
nay ở khu vực Biển Đông, còn tồn tại sự tranh chấp về chủ quyền giữa một số
nước Đông Nam Á và Trung Quốc, trong đó có Việt Nam. Vấn đề tranh chấp
này, hiện nay các nước trong khu vực thống nhất giải quyết bằng đối thoại, bằng
ngoại giao, hoà bình. Tuy nhiên, đằng sau đó chứa đựng những tính toán khác
nhau, tìm mọi cách để hợp thức hoá và khẳng định chủ quyền hoặc gây trở ngại
cho việc khai thác tài nguyên khoáng sản, đánh bắt hải sản như “Sự kiện tàu hải
giám và tàu cá Trung Quốc cố tình cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam
vào ngày 26/5/2011 và 09/6/2011, trong khi tàu đang tiến hành thăm dò, khảo sát
địa chấn trong thềm lục địa và vùng đặc quyền KT 200 hải lý của Việt Nam…”,
làm cho tình hình Biển Đông tiếp tục căng thẳng.
- Bối cảnh tình hình trong nước, như Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh: “Ở trong nước: Những thành tựu,
kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo cho đất nước thế và
lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước... Tuy nhiên, nước ta vẫn
đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn
biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào” [35, tr.184-185].
65
Qua 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển KT - XH 2001 - 2010, chúng
ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là
những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - KT khu vực và
toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi
tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược phát triển KT - XH 2001 - 2010 đã
được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về LLSX, QHSX. KT tăng trưởng
nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước
bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu KT chuyển dịch theo hướng tích
cực. Thể chế KT thị trường định hướng XHCN tiếp tục được xây dựng và hoàn
thiện. Các lĩnh vực văn hoá, XH đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là
xoá đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ
rệt, dân chủ trong XH tiếp tục được mở rộng. Chính trị - XH ổn định; QP, AN
được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và
hiệu quả, góp phần tạo môi trường hoà bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho
phát triển đất nước. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi, thế và lực của
nước ta ngày càng vững mạnh; vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh CNH, HĐH, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.
Bên cạnh những thành tựu đạt được như trên, chúng ta cũng còn nhiều
mặt hạn chế cần khắc phục đó là, những thành tựu đã đạt được là chưa tương
xứng với tiềm năng của đất nước, nền KT phát triển chưa bền vững. Chất lượng
tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền KT còn thấp, các cân
đối KT vĩ mô chưa vững chắc, cung ứng điện chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác
quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém
hiệu quả, đầu tư còn dàn trải, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung
còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp
66
nhà nước còn bất cập. Tăng trưởng KT vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển
theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn
hoá, XH có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào
tạo và y tế; đạo đức lối sống một bộ phận XH xuống cấp. Môi trường ở nhiều
nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất chưa được quản lý tốt, khai thác và sử
dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế KT thị
trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản
trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất
ổn định chính trị - XH và đe doạ chủ quyền quốc gia. Các thế lực thù địch vẫn
tiếp tục thực hiện âm mưu “DBHB” gây BLLĐ, sử dụng các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Trước bối cảnh tình hình mới của thế giới, khu vực, trong nước như
trên, vừa tạo ra những thời cơ, thuận lợi mới, vừa tạo ra những nguy cơ và
thách thức mới cho công cuộc xây dựng và BVTQ, đòi hỏi Việt Nam phải tiếp
tục đổi mới tư duy về xây dựng, củng cố nền QPTD, ANND, xây dựng LLVT
nhân dân, QĐND và CAND, nhất là phải thực hiện tốt phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN, BVTQ phù hợp với tình hình mới. Đó cũng chính là
một trong những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.
2.3.2. Âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta của các thế
lực thù địch
Một vấn đề quan trọng khác đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ chi phối
quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên cả nước nói chung,
ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng, cả hiện tại và trong tương lai, đó là
việc các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh chiến lược “DBHB” kết hợp
BLLĐ và sẵn sàng can thiệp vũ trang khi có điều kiện. Trong tình hình đó,
67
việc thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN sẽ gặp những khó
khăn phức tạp mới, phải có sự điều chỉnh cần thiết cho phù hợp.
Trong thời kỳ mới, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược
“DBHB” chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng đã và đang điều chỉnh một
số vấn đề về chủ trương, giải pháp sử dụng các thủ đoạn “mềm, ngầm, sâu,
điểm”, kích động bạo loạn, ly khai, tạo dựng “ngọn cờ” trên một số vùng
trọng điểm, nhất là vùng có đồng bào theo tôn giáo, vùng dân tộc thiểu số,
vùng biên giới. Chúng mở rộng địa bàn hoạt động, đi vào các địa bàn trọng
yếu, tích cực móc nối, liên kết các nhóm, tổ chức phản động và tìm mọi cách
xâm nhập vào nội bộ nước ta (nhất là các cơ quan lãnh đạo, chính quyền,
đoàn thể) nhằm tạo dựng “ngọn cờ” chuẩn bị thời cơ gây bạo loạn, ly khai ở
một số vùng hoặc nhiều vùng có tính chất độc lập để chia cắt đất nước ta, hy
vọng tạo dựng nhà nước “tự do”, “độc lập” chịu sự chi phối của bên ngoài…
Trên lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, kẻ thù tận dụng những vấn đề do lịch sử
để lại, đẩy mạnh tuyên truyền lôi kéo; mặt khác, chúng lợi dụng trình độ dân trí
thấp, sự yếu kém của đời sống nhân dân các dân tộc thiểu số vùng biên giới,
những thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo… để kích động các
phần tử quá khích tuyên truyền tư tưởng tự trị li khai, đòi thành lập cái gọi là
“Quốc gia Mông độc lập”, do Vàng Chứ cầm đầu. Đồng thời, kẻ thù còn đẩy
mạnh việc truyền đạo trái phép để tập hợp lực lượng, tăng cường các hoạt động
chống đối, có sự hậu thuẫn, tiếp tay hỗ trợ từ bên ngoài. Tổ chức “Hội người
Mông thế giới” ra “Cương lĩnh thành lập nhà nước Mông độc lập”, trong đó
vùng Tây Bắc được xác định là một trọng điểm. Từ ý đồ đó, chúng sử dụng mối
quan hệ thân tộc từ nước ngoài gửi thư, tiền, băng hình về để tuyên truyền, lôi
kéo họ tộc người Mông thành lập “Quốc gia Mông độc lập”... Về lãnh thổ, trên
biên giới đất liền, kẻ thù tiến hành chỉ đạo các hoạt động xâm canh, xâm cư đất
canh tác của nhân dân đồng bào các dân tộc ta ở vùng biên giới; trên biển Đông,
68
với âm mưu từng bước hiện thực hoá đường lưỡi bò của Trung Quốc, ngày
01/5/2014 vừa qua Trung Quốc đã đơn phương hạ đặt giàn khoan Hải Dương
(Halyang Shlyou) 981 trái phép trong vùng đặc quyền KT của Việt Nam và đâm
chìm thuyền cá của ngư dân Việt Nam... Đây cũng chính là một trong những
nhân tố gây ảnh hưởng đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở nước
ta nói chung, cũng như ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
2.3.3. Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh trong thời kỳ mới
- Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong thời kỳ mới, chúng ta đang thực
hiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng, phát triển nền KT thị
trường định hướng XHCN, BVTQ có vai trò đặc biệt quan trọng. Văn kiện
các Đại hội của Đảng luôn khẳng định luận điểm quan trọng: kết hợp chặt
chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và BVTQ XHCN. Trong tình
hình mới, xây dựng và BVTQ đang giao thoa lẫn nhau, gắn bó khăng khít
đến mức xây dựng là gốc của bảo vệ và bảo vệ là bộ phận hợp thành của
xây dựng. Đây là điểm rất mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa xây
dựng và BVTQ ở Việt Nam hiện nay. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
hữu cơ, là điều kiện và cơ sở của nhau. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ đó
sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, đảm bảo cho Tổ quốc, chế độ XHCN ngày
càng phát triển nhanh, bền vững.
Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ hết sức quan trọng, ngay từ khi thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định giữ vững chính
quyền, BVTQ là chức năng sống còn của Nhà nước XHCN. Tầm quan trọng của
việc BVTQ đã được khẳng định và ghi nhận trong các chủ trương, chính sách,
cũng như các văn bản pháp luật. Nghiên cứu các văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng cho thấy, hiện nay, tư duy mới về BVTQ thể hiện
trước hết ở quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ Việt Nam XHCN, trong
69
khi tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ XHCN, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa hai mặt tự nhiên - lịch sử và
chính trị - XH trong BVTQ, chúng ta đặc biệt quan tâm đến việc “giữ vững
hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm AN quốc gia, trật tự, an toàn XH; chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế
lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta” [35, tr.81-82]. Báo
cáo Chính trị còn nhấn mạnh đến việc “giữ vững chủ quyền biển đảo, biên
giới, vùng trời... sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ AN phi truyền thống
mang tính toàn cầu” [35, tr.233].
Trong bối cảnh tình hình tranh chấp chủ quyền biển, đảo đang diễn ra
hết sức gay gắt, phức tạp thì vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo đối
với nước ta càng đặt ra yêu cầu cao hơn trong mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ. Vấn
đề mới đặt ra là vừa giữ vững chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng
của Tổ quốc, vừa giữ được môi trường hoà bình, ổn định để phát triển, không
để xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh là một đòi hỏi cao trong nhiệm vụ
BVTQ trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, chúng ta
cần phải thực hiện tốt những biện pháp cụ thể đó là: “Tăng cường QP, giữ
vững AN quốc gia, trật tự, an toàn XH là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên
của Đảng, Nhà nước và nhân dân, trong đó QĐND và CAND là lực lượng
nòng cốt. Xây dựng thế trận QPTD, kết hợp chặt chẽ với thế trận ANND vững
chắc” [35, tr.82].
- Về nhiệm vụ QP, AN, trong mỗi thời kỳ phát triển quan trọng của đất
nước, Đảng ta đều vạch ra những định hướng quan trọng về QP, AN, BVTQ.
Trong thời kỳ mới, bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. Hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn. Nhưng đấu
tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, tôn giáo, khủng bố, tranh
70
chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích KT tiếp
tục diễn ra phức tạp; các mối đe doạ AN phi truyền thống mang tính toàn cầu
diễn ra ở nhiều nơi. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay là các nước với
chế độ XH, rình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của các
nước vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức nhưng sẽ có những bước tiến mới.
Từ nghiên cứu thực tiễn, tổng kết lý luận, căn cứ vào yêu cầu nhiệm
vụ xây dựng và BVTQ trong thời kỳ mới, nhiệm vụ của QP, AN đã được
Đảng ta xác định trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) là:
“Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân”, “giữ vững hoà bình”, “bảo đảm an
ninh quốc gia”. Đây là những phát triển mới hết sức quan trọng, không
chỉ xác định rõ thêm các thành tố trong phương diện XH của đất nước, mà
còn khẳng định lại các nội dung bảo vệ của QP, AN đã tiến hành từ trước
đến nay. Đồng thời, đó còn là sự khắc phục những nhận thức chưa đầy đủ
về QPTD và ANND của một số cán bộ, đảng viên ở cấp, các ngành. Đây
cũng là cơ sở lý luận thống nhất tư tưởng và hành động để chúng ta đấu
tranh chống các quan điểm thù địch, phản động, sai trái về mục tiêu,
nhiệm vụ QP, AN. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ của QP, AN
tiếp tục được kế thừa, phát triển: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Đây không chỉ là sự phát
triển về tư duy BVTQ mà còn là sự nhận thức đúng đắn những vấn đề
mới, nhạy cảm của thời cuộc - khi mà các thế lực thù địch, phản động
quốc tế và trong nước đang ra sức chia tách cả về phương diện tự nhiên
lẫn phương diện XH của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt
Nam... Sự phát triển đó làm cho nhiệm vụ BVTQ của QP, AN ngày càng
toàn diện, chính xác và phù hợp hơn với tình hình mới.
71
Như vậy, trong sự nghiệp BVTQ Việt Nam XHCN, vấn đề xây dựng
nền QPTD kết hợp với thế trận ANND đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nền
QPTD và thế trận ANND được xây dựng từ đơn vị cơ sở, có liên hệ phối hợp
chặt chẽ với nhau trên từng địa bàn, từng khu vực và trên phạm vi cả nước.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh, đất
nước ta trong giai đoạn cách mạng mới đang đứng trước những thời cơ và
nguy cơ. Bên cạnh những thời cơ bên trong và bên ngoài, trong đó có thành
công của sự nghiệp đổi mới, sự phát triển về KT, chính trị, văn hoá, đối ngoại,
QP, AN, chúng ta đang đứng trước những nguy cơ lớn, khi tiến hành công
cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Chúng ta cần phải nắm bắt các thời cơ, đồng
thời vượt qua các nguy cơ.
Về nguy cơ, để củng cố QP, bảo vệ, giữ vững AN ở nước ta hiện nay
cần phải xem xét đến hai nhóm nguy cơ, đó là nhóm nguy cơ bên ngoài và
bên trong. Nhìn từ góc độ QP, AN truyền thống, đó là sự xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, là các hoạt động
“DBHB”, “tự diễn biến”, là các nguy cơ bạo loạn chính trị, các hoạt động
chống phá của kẻ thù... Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã nhấn mạnh: “giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời”
trong sự nghiệp BVTQ XHCN. Đây là nội dung quan trọng trong nội hàm
BVTQ XHCN trong tình hình mới với nhiều nội dung như: hoàn chỉnh các
quy định pháp lý bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; giáo dục
nhân dân hiểu rõ vị trí, vai trò của chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời
trong sự nghiệp BVTQ; quy hoạch phân vùng phát triển KT, văn hoá - XH
gắn với QP, AN trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng
trời; xây dựng thế trận QPTD và thế trận ANND ở ven biển, trên đảo và khu
vực biên giới làm căn cứ vững chắc, nơi xuất phát vươn ra biển; xây dựng các
công trình phòng thủ QS để bảo toàn lực lượng khi có chiến tranh và phòng,
72
chống thiên tai, tai nạn, tổ chức cứu hộ khắc phục hậu quả; tổ chức hệ thống
phòng thủ dân sự, xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ AN Tổ quốc.
Bên cạnh đó còn có các mối đe doạ AN phi truyền thống. Hiện nay,
những vấn đề AN phi truyền thống đã vượt qua khỏi phạm vi lợi ích AN quốc
gia của một nước, trở thành những thách thức mạng tính toàn cầu, bởi hoạt
động của tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố quốc tế, nhất là khủng bố bằng
vũ khí sinh học, hoá học, bệnh dịch là “không biên giới”. Chính vì vậy, cuộc
đấu tranh với những vấn đề này đòi hỏi phải có sự nổ lực chung của cộng
đồng quốc tế, những giải pháp, bước đi hài hoà kết hợp giữa KT, chính trị,
ngoại giao, pháp luật, khoa học - kỹ thuật và các mặt khác.
Trong giai đoạn hiện nay, cần ưu tiên đấu tranh với các loại tội phạm phi
truyền thống như: hoạt động khủng bố, buôn bán ma tuý, buôn người, cướp biển,
buôn bán vũ khí, rửa tiền, tội phạm KT quốc tế và tội phạm công nghệ cao. Tính
phi truyền thống của các loại tội phạm này thể hiện ở hai khía cạnh: Đối với các
loại tội phạm truyền thống, do điều kiện mới đã xuất hiện nhiều phương thức, thủ
đoạn mới và bọn tội phạm thường sử dụng các tiến bộ KH - CN để gây án. Điển
hình là tội phạm lừa đảo, nếu trước đây các đối tượng trực tiếp lừa đảo, thì hiện
nay rất phổ biến tình trạng lừa đảo qua mạng Internet, cả đối tượng lừa đảo và
người bị lừa đảo không hề biết mặt nhau. Còn đối với các tội phạm mới, tính phi
truyền thống thể hiện vừa là tội phạm mới, thậm trí có hành vi tội phạm hiện còn
chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự, vừa thể hiện ở phương thức, thủ đoạn
mới chưa từng xảy ra trước đây ở nước ta. Do vậy, trong thời kỳ mới, BVTQ cũng
là giải quyết các thách thức AN phi truyền thống như: AN biển, AN sinh thái, AN
môi trường, AN dân số, AN năng lượng... đã và đang xuất hiện với tư cách là các
vấn đề toàn cầu.
Tóm lại, trong thời kỳ mới, bối cảnh tình hình mới của thế giới, khu
vực và trong nước; âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta của
73
các thế lực thù địch; và tư duy mới về nhiệm vụ BVTQ, nhiệm vụ QP, AN
là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN. Chính vì vậy, chúng ta phải nắm chắc các nhân tố cơ bản đó
để có phương hướng, giải pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, và
phát huy những ảnh hưởng tích cực để thúc đẩy quá trình phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN, BVTQ.
2.4. Kinh nghiệm của khu vực Tây Nguyên về phát triển kinh tế -
xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
Trong thời kỳ mới, để phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng,
ngoài việc phát huy tốt những thành tựu đã đạt được, một số tỉnh biên giới
phía Bắc cần phải hết sức coi trọng việc nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng
tạo, linh hoạt những bài học kinh nghiệm trong phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN trên địa bàn cả nước cũng như của khu vực Tây Nguyên.
Tây Nguyên một thời gọi là Cao nguyên Trung phần, là một vùng
lãnh thổ tự nhiên, bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông
và Lâm Đồng (xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ Bắc xuống Nam), là khu vực
có vị trí quan trọng về KT, chính trị, QP, AN. Khu vực Tây Nguyên có
diện tích tự nhiên 54. 447 km2, chiếm 16,3% diện tích cả nước, giới hạn
trong toạ độ địa lý từ 11 độ 45 phút đến 15 độ 27 phút độ vĩ Bắc và từ 107
độ 12 phút đến 108 độ 55 phút độ kinh Đông. Tây Nguyên, phía Bắc giáp
tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp các tỉnh: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai; phía Nam giáp tỉnh
Bình Phước; phía Tây giáp nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào và
Vương quốc Campuchia. Với những hành lang tự nhiên thông với Nam
Lào, Đông Bắc Campuchia, có hệ thống đường giao thông liên hoàn nối
với các tỉnh duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ, các cửa khẩu quốc
74
tế trên tuyến hành lang Đông - Tây. Chính vì vậy, Tây Nguyên vừa có
điều kiện phát triển thành vùng KT trọng điểm, vừa có vị trí chiến lược về
QP của đất nước.
Tây Nguyên là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng trong chiến
lược phát triển KT - XH và chiến lược QP, AN, BVTQ. Trong thời gian
qua, Đảng Bộ, chính quyền, dân, quân các tỉnh Tây Nguyên đã quán
triệt, thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Với hiệu quả ngày
càng được khẳng định, đảm bảo sự ổn định cho khu vực Tây Nguyên, tạo
điều kiện thuận lợi thúc đẩy Tây Nguyên phát triển bền vững. Trong
những năm qua, Tây Nguyên không những phát triển về KT - XH, từng
bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, chăm lo xây
dựng khối đại đoàn kết các dân tộc mà còn đảm bảo QP, AN, kịp thời
phát hiện, ngăn chặn, đập tam mọi âm mưu, hoạt động chống phát của
các thế lực thù địch. Hiệu quả phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP,
AN của khu vực Tây Nguyên cho thấy, phát triển KT - XH đã tạo ra cơ
sở vững chắc để đảm bảo QP, AN, giữ vững ổn định chính trị - xã hội
trên địa bàn Tây Nguyên. Mặc dù trong những năm qua, khu vực Tây
Nguyên còn xảy ra một số vụ việc như: biểu tình, gây rối (2/2001,
4/2004, 4/2008) nhưng tình hình AN chính trị trên địa bàn vẫn giữ vững
ổn định, QP luôn được đảm bảo vững chắc, tạo môi trường thuận lợi cho
KT - XH phát triển, góp phần củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, kịp
thời đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc, kích động
của các thế lực thù địch, phản động. Các LLVT đóng quân trên địa bàn
Tây Nguyên, nhất là Binh đoàn 15 - Tổng Công ty 15 (BQP) đã trở thành
mô hình đạt hiệu quả cao về thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên... Từ hiệu quả trong
thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn chiến
75
lược Tây Nguyên trong những năm qua đã để lại một số kinh nghiệm quý
giá sau:
2.4.1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình
thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
Để thực hiện tốt việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, các
tỉnh Tây Nguyên luôn coi trọng giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Các đảng bộ Tây nguyên luôn coi trọng phát triển KT - XH là nhiệm vụ trung
tâm, đảm bảo QP, AN là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Các cấp uỷ đảng
đề ra nhiều giải pháp tập trung và kết hợp giải quyết đồng bộ cả về chính trị,
tư tưởng, KT - XH, QP, AN; luôn đầu tư phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
QP, AN. Luôn có sự đổi mới về chất trong nhận thức về phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN. Đảm bảo yêu cầu, ở đâu có hoạt động phát triển KT - XH
thì ở đó phải gắn với đảm bảo QP, AN. Mặt khác, đã nhận thức rõ việc đảm
bảo QP, AN là để duy trì, tạo môi trường hoà bình, thuận lợi cho việc phát
triển KT - XH. Kiên quyết khắc phục những nhận thức chưa đúng của một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân cho rằng, QP, AN chỉ là nhiệm vụ riêng
của Quân đội và Công an; QP chỉ nhằm chuẩn bị lực lượng, phương tiện để
đánh thắng chiến tranh xâm lược từ bên ngoài. Do đó, cần phải nâng cao trách
nhiệm của các cấp, các ngành trong tham gia xây dựng nền QPTD, gắn với
ANND cả về lực lượng và thế trận; nhất là thực hiện tốt phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN trong xây dựng và tổ chức diễn tập KVPT tỉnh,
thành phố trên địa bàn Tây Nguyên.
Các đảng bộ Tây Nguyên thường xuyên quán triệt nâng cao nhận thức
và tạo sự chuyển biến về ý thức trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt các cấp trong việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, xây
dựng thế trận QPTD, gắn với thế trận ANND, “thế trận lòng dân” vững mạnh
trên địa bàn. Tuyên truyền sâu rộng về công tác giáo dục QP, AN nhằm nâng
76
cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ các cấp và nhân dân nắm vững các quan
điểm cơ bản về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP AN, về BVTQ
XHCN. Kịp thời cung cấp thông tin cho nhân dân thấy rõ bản chất, âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Như vậy, trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
khu vực Tây Nguyên luôn đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, trực tiếp
của các cấp uỷ đảng. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu về nguyên tắc cơ
bản cần phải được nhận thức và quán triệt sâu sắc trong điều kiện khu vực
Tây Nguyên vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định bỡi âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
2.4.2. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, các đơn vị kinh tế
của lực lượng vũ trang trong quá trình thực hiện phát triển kinh tế - xã hội
gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
Xuất phát từ đặc điểm, tình hình khu vực Tây Nguyên, Đảng bộ các tỉnh
đã ban hành nghị quyết về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, làm cho
mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thấm sâu vào nhận thức của
đồng bào các dân tộc vùng biên giới, không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của đồng bào, thông qua đó xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”
vững chắc trên địa bàn. Đồng thời, các tỉnh đã chỉ đạo các nông trường, lâm
trường trên địa bàn phối hợp chặt chẽ với các đơn vị KT của Quân đội triển khai
các dự án phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN dọc theo tuyến biên giới.
Một trong những chính sách mang lại hiệu quả KT - XH và QP, AN là ưu tiên,
tạo điều kiện thuận lợi đưa đồng bào các dân tộc vào trồng cao su, cà phê trong
các nông trường, lâm trường nhà nước, các đơn vị KT của Quân đội đóng quân
trên địa bàn Tây Nguyên. Chính việc tuyển dụng đồng bào các dân tộc vào các
nông, lâm trường, các đơn vị KT của Quân đội là phương thức hiệu quả nhằm
xoá đói, giảm nghèo, chuyển giao kỹ thuật sản xuất, tạo việc làm ổn định, nâng
cao đời sống, từ đó củng cố niềm tin cho đồng bào các dân tộc vào đường lối,
77
chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN,
BVTQ trong tình hình mới.
2.4.3. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh trong quá trình thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh
Các cấp uỷ đảng ở khu vực Tây Nguyên nhận thức sâu sắc vấn đề phát
triển KT, xoá đói giảm nghèo, xây dựng khu dân cư, tạo ra vành đai biên giới
vững chắc phải gắn với giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo QP, AN. Việc
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN vừa là nhiệm vụ chính trị quan
trọng, vừa là yêu cầu cấp thiết và có tính chiến lược lâu dài. Vấn đề giữ vững
chính trị - xã hội ở Tây Nguyên là một trong những điều kiện tiên quyết để phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Sự ổn định, phát triển vùng đồng bào
dân tộc thiểu số là nhân tố quan trọng, góp phần đảm bảo sự ổn định, phát triển
chung của toàn khu vực Tây Nguyên. Do đó, trong quá trình lãnh đạo phát triển
KT - XH cần đề ra các chủ trương, chính sách, giải pháp phù hợp để thúc đẩy
sản xuất, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng
bào các dân tộc, tạo sự ổn định về chính trị, đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Các sự kiện xảy ra vào
thánh 2/2001, tháng 4/2004 đã để lại nhiều bài học và kinh nghiệm quan trọng
về công tác đảm bảo QP, AN, giữ vững chính trị - xã hội, nâng cao tinh thần
cảnh giác cách mạng, đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. Những thành
tựu đạt được trong quá trình phát triển khu vực Tây Nguyên luôn gắn liền với
sự ổn định chính trị - xã hội, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN và
củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc vững mạnh.
2.4.4. Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trên địa bàn
Nền QPTD vững chắc là nền QP được xây dựng dựa trên sức mạnh của
toàn dân, của lòng dân được quy tụ thành một khối thống nhất dưới sự lãnh
đạo của Đảng; chính vì vậy, xây dựng “thế trận lòng dân” là một trong những
78
nội dung cơ bản của việc xây dựng thế trận QPTD. Nhân dân tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, gắn bó mật thiết với chế độ XHCN, đoàn kết, chung sức
chung lòng xây dựng và bảo vệ đất nước chính là “bức trường thành” vững
chãi nhất không một thế lực nào có thể phá bỏ. Đối với khu vực Tây Nguyên,
việc xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh gắn với thế trận QPTD vững
mạnh có ý nghĩa chiến lược quan trọng. “Thế trận lòng dân” ở Tây Nguyên
phải được xây dựng trên nền tảng kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước,
đoàn kết của đồng bào các dân tộc thiểu số, lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của Đảng, tính hiệu quả của thực hiện chủ trương, chính sách dân
tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước.
Thực tế đã chứng minh một cách sống động, trong chiến tranh giải phóng
dân tộc, Tây Nguyên là căn cứ địa cách mạng, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
giàu truyền thống yên nước, đoàn kết một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ. Thế nhưng
trong các sự kiện xảy ra năm 2001 và 2004, hàng ngàn đồng bào bị các thế lực thù
địch tuyên truyền, lợi dụng, lôi kéo, kích động tham gia biểu tình, bạo loạn. Thực tế
này đặt ra yêu cầu cần nhận thức rõ ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc, đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện chính sách đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng, giúp đỡ lẫn
nhau cùng phát triển giữa các dân tộc Tây Nguyên. Cần nhận thức khu vực Tây
Nguyên với tất cả chiều sâu của truyền thống lịch sử, tiềm năng, lợi thế phát triển
KT, sức mạnh, bản chất văn hoá độc đáo của đồng bào các dân tộc trên địa bàn.
Chính vì vậy, quá trình xây dựng “thế trận lòng dân” ở Tây Nguyên cũng là quá
trình đấu tranh gay go, quyết liệt chống lại những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của
bọn phản động tại các buôn, làng Tây Nguyên. Các buôn, làng tây Nguyên là nơi
trực tiếp triển khai và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
trong đó có chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN tại cơ sở và
còn là nơi kiểm nghiệm tính hiệu quả của các chủ trương, chính sách đó.
Như vậy, sự ổn định, phát triển bền vững của khu vực Tây Nguyên
trước hết là phải được bắt đầu từ sự ổn định, phát triển từ chính các buôn,
79
làng Tây Nguyên. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, công tác xây dựng
buôn, làng có phần bị buông lỏng, nhiều buôn, làng vùng đồng bào dân tộc
thiểu số luôn trong tình trạng “trắng đảng viên”, “trắng đoàn thể”. Do đó, cấp
uỷ, chính quyền địa phương các cấp đã hướng mạnh về cơ sở, thực hiện
phương châm: cấp tỉnh nắm chắc đến từng xã, cấp huyện nắm chắc đến từng
thôn, buôn, cấp xã nắm chắc đến từng hộ gia đình. Tập trung xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở vững mạnh toàn diện, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu. Coi trọng, phát huy vai trò tích cực của già làng, trưởng
buôn, những người có uy tín. Tập trung xây dựng các mô hình “Buôn, làng
không có người theo kẻ xấu hoạt động tôn giáo trái phép”, “Buôn làng không
có người vượt biên trái phép”, “Làng thanh niên văn hoá”. Tiếp tục xây dựng
làng thanh niên lập nghiệp nơi biên giới ở xã Mo Ray, huyện Sa Thầy, Kon
Tum; làng thanh niên lập nghiệp Ia Mơ, xã biên giới Ia Mơ, huyện Chư
Prông, gia Lia...
Chính những việc làm trên đã tích cực xây dựng cấp uỷ đảng, chính quyền,
Mặt trận và các đoàn thể cơ sở vững mạnh, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”
ở khu vực Tây Nguyên vững chắc, nhằm làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch mà trực tiếp là bọn phản động Fulro. Đó chính là bài học kinh
nghiệm quan trọng để xây dựng thế trận QPTD gắn với “thế trận lòng dân” trên
địa bàn Tây Nguyên, góp phần thực hiện tốt chủ trương chiến lược phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn trong tình hình mới.
2.4.5. Kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động
Để đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc và hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch, phản động, vấn đề có ý nghĩa chiến lược là
cần coi trọng việc tổ chức, giáo dục ý thức phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
80
QP, AN cho toàn dân, xây dựng nền QPTD vững mạnh để tạo ra sức đề kháng
ngay từ cơ sở, biến quá trình bảo vệ thành quá trình tự bảo vệ trước những âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Cần tăng cường đấu tranh trên
các lĩnh vực: KT, chính trị, tư tưởng, văn hoá, đối ngoại... xây dựng ý thức phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN và đối ngoại cho cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân. Chú trọng tăng cường công tác đấu tranh chống các luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch; làm cho các nước, các tổ chức quốc tế hiểu
đúng thực chất tình hình Tây Nguyên. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại
về Tây Nguyên, tập trung vào thành tựu phát triển KT, XH, chính sách của Đảng,
Nhà nước về vấn đề dân tộc, tôn giáo.
Sau các sự kiện xảy ra năm 2001, 2004, cấp uỷ, chính quyền các tỉnh khu
vực Tây Nguyên đã triển khai nhiều phương án để “an dân”, ổn định tình hình
chính trị, đẩy mạnh phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; từng bước chủ
động đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Các ban,
ngành đã chú trọng tăng cường công tác thông tin đối ngoại, tạo điều kiện thuận
lợi cho các đoàn ngoại giao, báo chí, tổ chức nước ngoài đến tìm hiểu tình hình
Tây Nguyên, bác bỏ kịp thời mọi ý đồ xuyên tạc của các thế lực thù địch. Những
thành quả về phát triển KT - XH, xoá đói giảm nghèo, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân, hình thành “thế trận lòng dân” trên địa bàn Tây Nguyên là vũ khí
hiệu quả nhất chống lại những luận điệu xuyên tạc và hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch, bọn phản động Fulro nhằm chia rẽ Đảng, Nhà nước với
nhân dân và quân đội nói chung, khu vực Tây Nguyên nói riêng.
Từ kinh nghiệm của khu vực Tây Nguyên về phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN cho thấy, một số tỉnh biên giới phía Bắc cần giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN;
phát huy vai trò chủ đạo của KT nhà nước, các đơn vị KT của quân đội trong phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở khu vực biên giới; giữ vững sự ổn định
81
chính trị; xây dựng “thế trận lòng dân”; kiên quyết và chủ động đấu tranh chống
các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đó chính là những bài học kinh nghiệm
quý giá mà một số tỉnh biên giới phía Bắc cần kế thừa, học tập và vận dụng linh
hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện, tình hình từng địa phương; có như vậy mới
đen lại hiệu quả cao trong thực hiện chủ trương chiến lược phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN.
Kết luận chƣơng 2
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài luận án như đã trình bày ở chương một, chương hai luận án đi
vào hệ thống hoá và làm rõ thêm cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN trên những nội dung cơ bản: phân tích làm rõ một số
khái niệm về KT - XH; QP, AN; đảm bảo QP, AN; phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN và phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới
phía Bắc. Phân tích làm rõ những nội dung cơ bản; sự cần thiết phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN; những nhân tố có tác động ảnh hưởng đến phát triển
KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN và trình bầy kinh nghiệm của khu vực Tây
Nguyên về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Trên cơ sở đó, một số
tỉnh biên giới phía Bắc có thể tham khảo làm bài học kinh nghiệm để nghiên cứu
và vận dụng sáng tạo, chủ động, linh hoạt phù hợp để đem lại hiệu quả cao trong
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.
82
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI GẮN VỚI ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG, AN NINH
Ở MỘT SỐ TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
3.1. Các yếu tố môi trƣờng ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế - xã
hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
Biên giới phía Bắc Việt Nam bao gồm 7 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Lào
Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh [phụ lục 1], tổng diện tích
tự nhiên khoảng 5,2 triệu ha. Phía Bắc vùng này giáp với Đông Nam Trung
Quốc có đường biên giới dài 1.495km (120 km là biên giới đường sông), chạy
dài qua 31 huyện thị, 159 xã, 2.838 làng, bản của 7 tỉnh biên giới, tiếp giáp
với 15 huyện của hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây - Trung Quốc. Phía Tây giáp
Lào, có đường biên giới dài 632 km; phía Đông giáp Biển Đông; phía Nam
giáp với đồng bằng, trung du Bắc Bộ. Là vùng có vị trí chiến lược hết sức
quan trọng cả về KT, QP, AN, đối ngoại. Là cầu nối liền trực tiếp Việt Nam
với các nước láng giềng: Trung Quốc, Lào, xa hơn là các nước trong khu vực
Châu Á. Vùng này nếu được khai thác tốt sẽ mang lại nguồn lợi không nhỏ
trong phát triển KT - XH, cho phép các tỉnh này vừa có khả năng mở rộng
khai thác những điều kiện tự nhiên, KT - XH; vừa mở rộng tiếp nhận vốn đầu
tư, tri thức, KH - CN của các nước trong khu vực và trên thế giới.
3.1.1. Điều kiện địa lý
- Về địa hình tự nhiên: Các tỉnh biên giới phía Bắc có địa hình rất phức
tạp, đồi núi có độ phân cách, phân địa cao. Cơ bản các tỉnh đều có độ cao trên
dưới 1.000m so với mực nước biển. Nhiều tỉnh có núi rừng hiểm trở như các
tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, độ cao trung bình gần 1.000m;
một số dãy núi cao từ 2.000m đến 3.000m như: Tây Côn Lĩnh, Phan Xi Phăng.
Địa hình thấp dần theo chiều từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Các tỉnh
83
này có tỷ lệ rừng che phủ thấp, xen lẫn có một số thung lũng bằng thuận lợi cho
phát triển nông nghiệp; nhiều khu vực có thế mạnh về đất đai cho phát triển
nông, lâm như: Quảng Ninh, Lạng Sơn,… Song, nhìn chung địa hình ở đây rất
phức tạp, bị chia cắt, gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, giao thông và trao đổi
hàng hoá… Một số tỉnh có nhiều sông lớn chảy qua như: sông Hồng, sông Đà,
sông Kỳ Cùng, sông Bắc Luân, sông Ka Long và nhiều sông, suối nhỏ. Mùa
khô, phần lớn các sông, suối đều cạn nước, nguồn nước cung cấp cho phát
triển KT - XH thường bị hạn chế. Mùa mưa các dòng chảy lớn, thường xảy ra
lũ lụt, sạt lỡ làm biến đổi địa hình, cản trở giao thông. Phần lớn các công trình
thuỷ lợi ở các tỉnh này có quy mô nhỏ nên khả năng điều tiết nước hạn chế,
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất phát triển KT - XH.
- Về khí hậu, thời tiết: vùng này có khí hậu nhiệt đới, 4 mùa: xuân, hạ,
thu, đông. Mỗi mùa thường có nhiệt độ, độ ẩm, tỷ lệ ngày nắng, lượng mưa
khác nhau. Đặc trưng của từng mùa cũng khác nhau: mùa xuân thời tiết, độ
ẩm cao; mùa hạ trời nắng nóng, hay có những cơm mưa rào lớn; mùa thu mát
mẽ; mùa đông lạnh, hanh khô. Một số tỉnh biên giới phía Tây Bắc nằm trong
vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, do có độ cao hơn nên tính chất khí hậu
nhiệt đới đã bị phá vỡ, ở các vùng có độ cao trên 800m xuất hiện khí hậu á
nhiệt đới, vùng núi cao có khí hậu ôn đới. Một số tỉnh biên giới phía Đông
bắc có khí hậu hai mùa rõ rệt: mùa đông thường khô hanh, ít mưa, lạnh, nhiệt
độ trung bình 10 độ C. Trong những năm gần đây, khí hậu ngày càng cực
đoan hơn, có năm có hiện tượng sương muối, băng giá. Mùa hè có mưa nhiều,
lượng mưa trung bình từ 1.500mm trở lên. Cùng với đó là độ che phủ của
rừng thấp nên hàng năm thường có nhiều lũ lụt, nhất là lũ ống, lũ quét, sạt lỡ
đất… gây thiệt hại nhiều về người, tài sản của nhân dân địa phương.
- Về tài nguyên,khoáng sản: Địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là
nơi tập trung nhiều khoáng sản, mỏ, điểm quặng rất đa dạng, phong phú về
84
loại hình, có trữ lượng lớn, chất lượng tương đối cao như: đất hiếm ở Lai
Châu; đồng, vàng, Apatít ở Lào Cai; thiếc, bôxít ở Cao Bằng… Đây chính là
điều kiện thuận lợi giúp các địa phương phát triển công nghiệp khai khoáng,
chế biến khoáng sản, tạo khả năng cho ngành công nghiệp phát triển với tư
cách là vành đai lương thực, thực phẩm cho các vùng công nghiệp, giao lưu
văn hoá, khoa học kỹ thuật. Về tài nguyên rừng, nhìn chung rừng ở đây thuộc
loại nghèo và trung bình, diện tích đang bị thu hẹp nhanh chóng bởi tình trạng
đốt phá rừng làm nương rẫy, nạn cháy rừng còn để xảy ra phổ biến, rừng giàu
chiếm tỷ lệ nhỏ, phần lớn tập trung ở khu vực giáp biên giới, nơi địa hình
hiểm trở, khó khai thác.
3.1.2. Kinh tế - xã hội, chính trị
Các tỉnh biên giới phía Bắc có dân số khoảng 4,3 triệu người, mật độ thưa
(120 người/km2), phân bố không đều, tỷ lệ tăng dần từ vùng cao xuống vùng thấp,
từ những khu vực đi lại khó khăn đến nơi có đường giao thông thuận lợi; chủ yếu
tập trung ở các thành phố, thị xã, thị trấn, khu vực cửa khẩu, các thung lũng dọc
theo sông suối. Các tỉnh này có 43 dân tộc sinh sống, chủ yếu là dân tộc thiểu số,
chiếm gần 50% số dân của các dân tộc thiểu số cả nước. Đồng bào sống ở vùng
biên giới chủ yếu là các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, HMông, Thái, Dáy, Hà Nhì, Lô
Lô, La Hủ… Những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về
xây dựng khu KT mới, khu KT - QP, khu KT cửa khẩu, do đó dân số ở vùng biên
giới tỷ lệ, thành phần dân tộc được nâng lên. Song, so với các vùng khác, tỷ lệ này
vẫn còn rất thấp [phụ lục 2]. Một số tỉnh biên giới phía Bắc có các tôn giáo như:
Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa, Đạo Tin lành… Đồng bào theo các tôn giáo sống hoà
thuận, thương yêu giúp đỡ nhau trong sản xuất, ổn định đời sống. Tuy nhiên, với
bản chất không bao giờ thay đổi của kẻ thù, trước âm mưu, thủ đoạn chống phá
cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, bằng chiến lược “DBHB”, chúng
dùng mọi thủ đoạn để kích động, lôi kéo phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ
85
các tôn giáo. Nhất là trong thời gian gần đây, kẻ thù ráo riết đẩy mạnh các hoạt động
truyền đạo trái phép, nhất là đạo Tin lành…
Về kinh tế: nền KT ở các tỉnh biên giới phía Bắc sản xuất nông, lâm
nghiệp là chính. Do trình độ dân trí còn thấp, tập quán canh tác lạc hậu, vì vậy
nền KT sản xuất nhỏ, mang tính tự cấp, tự túc là chính. Bước chuyển dịch cơ
cấu đầu tư theo chương trình 135, nhiều ngành nghề ở địa phương phát triển
theo hướng sản xuất kết hợp nông, lâm nghiệp với trồng cây công nghiệp, cây
ăn quả, cây dược liệu, chăn nuôi trâu, bò, dê, cá… Một số địa phương đã hình
thành những vùng sản xuất tập trung theo hướng chuyên canh đạt được hiệu
quả KT cao, nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra cơ sở vật chất ngày càng
vững chắc cho phát triển KT, văn hoá, XH, góp phần không nhỏ cho nhiệm vụ
đảm bảo QP, AN trên địa bàn nói riêng, cả nước nói chung.
Dọc chiều dài toàn tuyến biên giới hiện nay có 21 cửa khẩu, trong đó có
4 cửa khẩu quốc tế. Đây chính là “cửa ngõ” giao thương phát triển thương mại
giữa Việt Nam với Trung Quốc; ngoài ra có hàng trăm đường tiểu ngạch, hàng
ngàn đường mòn dân sinh, nhân dân thường qua lại buôn bán tự do rất khó
quản lý. Từ sự tác động của cơ chế thị trường, lợi nhuận buôn bán lậu các loại
hàng hoá, làm cho đời sống nhân dân vùng này chênh lệch khá lớn, sự phân
hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân trên các địa bàn ngày càng gia tăng,
đời sống nhân dân các đồng bào sinh sống ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc đã khó khăn ngày càng khó khăn hơn. Vì vậy, phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nhằm tận dụng các
thế mạnh về tài nguyên, các nguồn lực, đẩy mạnh đầu tư, phát triển ngành
nghề… để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triển KT - XH cải thiện, không
ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời, là cơ sở vật chất đảm bảo cho
nhiệm vụ xây dựng lực lượng, thế trận, tiềm lực QP, AN trên địa bàn, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc.
86
Về giao thông: trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc có các quốc
lộ: 1, 2, 3, 6, 18 chạy theo trục Bắc - Nam; quốc lộ 4a, 4b, đường 279, 379,
đường tuần tra biên giới chạy theo trục Đông - Tây và đường sắt. Ngoài ra,
còn có hệ thống các đường liên tỉnh, liên huyện, đường lâm sinh, dân sinh
đang được mở rộng cùng với nhu cầu phát triển KT - XH từng tỉnh. Tuy
nhiên, nhìn chung các tuyến đường bộ chính phần lớn còn hẹp, thường bị
xuống cấp do mưa lũ nhiều; các tuyến đường sắt năng lực vận chuyển còn hạn
chế. Hệ thống đường giao thông liên huyện, liên xã chưa thật sự phát triển,
nhiều xã vùng cao chưa có đường ô tô đến xã. Giao thông của đa số các huyện
trong vùng thường gặp giản đoạn trong mùa mưa lũ. Đây chính là trở ngại lớn
cho phát triển KT - XH, đảm bảo QP, AN trên địa bàn.
Về thuỷ lợi: trong những năm qua, Nhà nước đã tập trung đầu tư, nhưng
do nguồn vốn còn hạn chế nên hệ thống thuỷ lợi ở một số tỉnh biên giới phía
Bắc còn kém phát triển. Do đó, việc cung cấp nước cho sản xuất, sinh hoạt
còn nhiều hạn chế. Phần lớn các công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu cơ bản
là hệ thống tự chảy, tính lưỡng dụng của các công trình phụ thuộc vào nguồn
nước tự nhiên. Nguồn nước chủ yếu lại do chế độ mưa chi phối, dẫn đến gặp
nhiều khó khăn trong sản xuất, sinh hoạt của đồng bào.
Hệ thống điện: do đặc điểm tự nhiên, vị trí địa hình chi phối, nên mạng
lưới điện quốc gia chỉ mới đến được khắp các tỉnh biên giới phía Bắc trong
những năm gần đây. Tuy nhiên, ở nhiều tỉnh, điện lưới quốc gia mới chỉ đến
tỉnh lỵ, huyện lỵ, trung tâm xã. Nhiều nơi phát triển hệ thống thuỷ điện nhỏ,
nhiều hộ đồng bào sử dụng điện do các nhà máy thuỷ lực tự xây lắp cung cấp,
cá biệt có nơi chưa có điện.
Về giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội: cơ sở vật chất ở một số tỉnh biên giới phía
Bắc đạt mức độ bình quân chung của cả nước (tính trên tổng số dân), nhưng chất
lượng đa số các cơ sở vật chất phục vụ XH còn nghèo nàn, nhiều cơ sở vật chất đã
87
xuống cấp, trang thiết bị vừa thiếu, vừa bị hư hỏng. Nhiều địa phương trong các tỉnh,
trường, lớp chủ yếu là nhà tranh tre dột nát, học sinh đi học xa, đời sống đội ngũ giáo
viên còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ y tế cơ sở vừa yếu, vừa thiếu. Đời sống
của nhân dân đồng bào các dân tộc nhìn chung còn nghèo, thu nhập thấp, tỷ lệ đói
nghèo nhiều địa phương còn cao, khu vực biên giới Đông Bắc là 23,2%, biên giới
Tây Bắc là 46,1%. Trình độ dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại,
tệ nạn XH có chiều hướng gia tăng. Trên thực tế, nhân dân vùng ven biên giới giữa
hai nước còn duy trì nhiều mối quan hệ mật thiết về hôn nhân, huyết thống, về dân
tộc, tôn giáo… Nhận thức của nhiều người dân về biên giới quốc gia chưa rõ ràng,
gây ảnh hưởng không nhỏ đến QP, AN. Đây chính là những vấn đề đặt ra trong quá
trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong thời kỳ mới.
Về chính trị, hệ thống chính trị cơ sở ở một số tỉnh biên giới phía Bắc
đang từng bước được xây dựng, năng lực quản lý, trình độ tổ chức, vận động
nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước còn hạn chế.
Nhân dân các dân tộc luôn đoàn kết phát huy truyền thống yêu nước, kiên
cường bất khuất trong đấu tranh, cần cù sáng tạo trong lao động. Có nhiều địa
phương được phong tặng danh hiệu anh hùng LLVT.
3.1.3. Về quốc phòng - an ninh
Các tỉnh biên giới phía Bắc có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi cửa ải
biên cương Tổ quốc. Chính vì vậy, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc luôn bị kẻ
thù nhìn ngó. Mặc dù trong thời kỳ mới, trước xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác
để phát triển, đất nước ta đang trong hoà bình, QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía
Bắc ổn định. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều bất ổn không thể xem
thường: kẻ thù không từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng. Hơn thế, chúng còn
chống phá một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, KT; nhất là
thương mại, dịch vụ, văn hoá, đặc biệt là QP, AN. Trong đó, vấn đề dân tộc, tôn
giáo, lãnh thổ được kẻ thù xác định là trọng điểm.
88
Về vấn đề dân tộc, tôn giáo, kẻ thù thường xuyên lợi dụng các vấn đề
do lịch sử để lại, trình độ dân trí thấp để truyền đạo trái phép, sự thấp kém của
đời sống nhân dân các dân tộc thiểu số vùng biên giới, những thiếu xót trong
thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để đẩy mạnh tuyên truyền lôi kéo, kích
động nhân dân đồng bào các dân tộc thiểu số nghe theo những luận điệu
xuyên tạc, chống phá của kẻ thù.
Về lãnh thổ, biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong một thời gian dài là
biên giới hoà bình, hữu nghị, nhưng phía Trung Quốc đã từng bước lợi dụng sơ
hở, mất cảnh giác của một số ban, ngành, địa phương tại một số tỉnh biên giới phía
Bắc Việt Nam để thực hiện “gặm nhấm” lãnh thổ nước ta bằng nhiều thủ đoạn
tinh vi, tiến hành chỉ đạo các hoạt động xâm canh, xâm cư đất canh tác của nhân
dân ta ở vùng biên giới như: mượn đường đi lại; xây kè chắn trên sông suối để
thay đổi dòng chảy; nguỵ tạo dấu hiệu để lấn chiếm lãnh thổ (mồ mả, nhà cửa, cột
mốc...). Hiện nay, mặc dù ở cấp Trung ương giữa hai nước đã đạt được những
thoả thuận nhất định về biên giới. Nhưng trên thực tế, ở các địa phương phía
Trung Quốc có đường biên giới giáp với các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam,
vẫn tồn tại nhiều hoạt động xâm lấn biên giới, vi phạm chủ quyền lãnh thổ theo
kiểu “phép vua thua lệ làng”. Phía Trung Quốc tận dụng các mối quan hệ dòng
tộc, thân tộc để tiến hành các hoạt động thăm thân, đầu tư sản xuất, hợp đồng mua
quyền sử dụng đất trong thời gian dài, rồi đưa người sang sản xuất theo hướng
định cư lâu dài, nhằm từng bước thực hiện xoá nhoà biên giới quốc gia theo quan
điểm “biên giới mềm”, ở đâu có người Hoa sinh sống, đó là lãnh thổ của Trung
Quốc; hàng hoá của họ đến đâu, AN quốc gia của họ được coi trọng đến đó… Khi
chiến tranh xảy ra, các tỉnh biên giới phía Bắc là nơi đột phá mở đầu cho cuộc tiến
công xâm lược của kẻ thù. Hướng chủ yếu đánh vào Việt Nam nhằm thực hiện
mục tiêu chiến lược theo ý định của chúng. Chính vì vậy, phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN là đẩy mạnh phát triển KT - XH, ổn định, nâng cao đời sống
89
nhân dân. Qua đó, phát triển lực lượng, củng cố thế trận, tăng cường tiềm lực, nhất
là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sức mạnh tổng hợp đủ sức đánh
bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, quyết không để kẻ thù xâm hại
đến lợi ích quốc gia, tạo cớ gây chiến tranh xâm lược.
Trong thời kỳ mới, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng
được mở rộng, củng cố; sau chiến tranh, năm 1991 hai nước đã nối lại bình
thường hoá quan hệ ngoại giao. Qua các chuyến thăm của các đoàn lãnh đạo cấp
cao hai nước đã từng bước nâng lên tầm quan hệ chiến lược theo tinh thần 16 chữ
vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai”; tinh thần 4 tốt: “Láng giềng tốt, đồng chí tốt, bạn bè tốt và đối tác tốt”, “Đối
tác chiến lược”. Hai nước đã ký kết “Hiệp ước về Biên giới trên bộ”, ngày
31/12/2008 hai bên đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc trên đất liền có chiều
dài 1.406km, với tổng 1.971 cột mốc. Trong đó, có 1.549 cột mốc chính, 422 cột
mốc phụ. Ngày 18/11/2009, Chính phủ hai nước đã ký “Hiệp định Quy chế biên
giới” thay thế “Hiệp định tạm thời”. Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng, tạo môi
trường thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN,
nhất là trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới. Tuy nhiên,
trước bối cảnh tình hình mới hiện nay, đặc biệt việc Trung Quốc hạ đặt trái phép
giàn khoan Hải Dương (Halyang Shlyou) 981 (5/2014) vừa qua… chúng ta phải
hết sức cảnh giác, tỉnh táo trong việc nhận định, đánh giá, dự báo tình hình, phân
biệt rõ đối tượng, đối tác.
Từ sự phân tích đặc điểm tự nhiên, KT - XH, QP, AN ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc như trên cho thấy những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng
đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN như sau:
- Thuận lợi
Các tỉnh biên giới phía Bắc có vị trí địa lý khá thuận lợi, có thể cho phép
tận dụng được lợi thế so sánh của mình trong quan hệ hợp tác KT - thương mại
với các vùng trong cả nước và quốc tế.
90
Phía Bắc các tỉnh này giáp với Trung Quốc là nước có diện tích rộng,
dân số đông, có KT tăng trưởng nhanh, ổn định trong nhiều năm gần đây. Tiếp
giáp liền kề với các tỉnh biên giới nước ta là hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây,
tuy là những tỉnh còn nghèo của Trung Quốc, nhưng vẫn vượt trội về KT so với
các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Đó là thị trường có nhiều thuận lợi đối với
các tỉnh biên giới phía Bắc như: vị trí liền kề, thị trường dễ tính, nhu cầu tiêu
thụ sản phẩm lớn, trong giao dịch, thanh toán, buôn bán còn mang tính truyền
thống, chưa cần nhiều đến ngoại tệ mạnh… Dọc biên giới có hệ thống cửa
khẩu, chợ mậu biên, các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ như: thành phố cửa
khẩu Móng Cái, thành phố Lạng Sơn, thành phố Cao Bằng, thành phố Hà
Giang, thành phố Lào Cai, thành phố Lai Châu, thành phố Điện Biên… thông
qua việc giao lưu KT, văn hoá, dân cư ở các tỉnh biên giới có điều kiện tiếp
nhận thông tin mới về thị trường, tiến bộ KH - CN… tạo thuận lợi cho phát
triển KT - XH. Đây chính là những thuận lợi cơ bản giúp cho một số tỉnh biên
giới phía Bắc nước ta vừa phát huy được thế mạnh của mình để đẩy mạnh quan
hệ KT, thương mại với nước bạn, hình thành các vùng chuyên môn hóa, tạo ra
hệc vùng KT xuất khẩu những mặt hàng mũi nhọn và nhập khẩu máy móc thiết
bị công nghiệp phục vụ cho nhu cầu phát triển KT - XH.
Phía Nam, các tỉnh biên giới phía Bắc tiếp giáp với các tỉnh miền núi, trung
du, đồng bằng Bắc Bộ, tiếp sau là vùng đồng bằng sông Hồng có thủ đô Hà Nội,
sân bay quốc tế Nội Bài, cảng Hải Phòng, là những trung tâm KT, chính trị, XH,
KH - CN của Bắc Bộ và cả nước, trên vùng giáp ranh đã hình thành những thành
phố, thị xã, thị trấn như: thành phố Hạ Long, thị xã Quảng Yên, thành phố Hải
Phòng, thành phố Bắc Giang, thành phố Phú Thọ, thành phố Bắc Ninh… là tụ
điểm giao lưu KT, văn hoá, XH giữa miền xuôi với miền núi biên giới; đồng thời,
là thị trường tiêu thụ hàng nông, lâm sản từ biên giới về vùng xuôi, cung cấp hàng
hoá từ các vùng đồng bằng, đô thị lên vùng biên giới. Cùng với các yếu tố thuận
91
lợi đó, các tỉnh biên giới phía Bắc còn là địa bàn có hệ thống giao thông đường bộ,
đường sắt, đường sông tương đối phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao
lưu phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN.
Về tài nguyên đất đai, khí hậu của các tỉnh biên giới phía Bắc thích hợp
với phát triển cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc,
trồng rừng lấy gỗ và nguyên liệu giấy, cây dược liệu, cây đặc sản… Đó chính
là cơ sở tự nhiên thuận lợi cho sự phân công lao động XH, phát triển sản xuất,
điều chỉnh dân cư giữa các khu vực trên biên giới, vừa có giá trị lớn về phát
triển KT - XH, vừa có giá trị lớn về QP - AN.
- Khó khăn
Địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, nhất là các tỉnh Cao Bằng,
Lạng Sơn, Quảng Ninh có địa hình bị chia cắt, núi non hiểm trở, độ dốc cao
gây khó khăn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các quan hệ giao lưu
KT - XH, đặc biệt còn gây ra tình trạng thiếu nước trong mùa khô, lũ ống, lũ
quét, sạt lở đất đá trong mùa mưa… ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sản
xuất, sinh hoạt của nhân dân đồng bào các dân tộc; gây cản trở đến phát triển
KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.
Môi trường tự nhiên thời gian qua đã được tái tạo, cải thiện đáng kể. Tuy
nhiên, đất trống, đồi núi trọc nhiều, việc tái tạo môi sinh, trồng lại rừng, nâng cao
độ che phủ là việc làm đòi hỏi nhiều công sức, thời gian. Kết cấu hạ tầng còn
nhiều hạn chế, hệ thống đường sá đi lại khó khăn lại bị xuống cấp, nhất là ở
các địa bàn vùng cao biên giới gây nhiều khó khăn cho việc giao thương hàng
hoá, nắm bắt thông tin, thị trường, chuyển giao công nghệ…
Mật độ dân số thưa, khoảng 120 người/ km2, cá biệt có tỉnh mật độ dân
cư chỉ có 30 người/km2 như tỉnh Lai Châu. Trình độ học vấn thấp, thiếu kiến
thức KH - CN... Trình độ phát triển KT - XH thấp, nền KT còn mang nặng
tính tự cấp, tự túc, quan hệ thị trường phát triển chưa đồng đều. Cơ cấu GDP
92
của các tỉnh này, nông, lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ lệ đói nghèo
còn cao... những vấn đề đó gây khó khăn không nhỏ cho phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn trong thời kỳ mới.
3.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc
Thực trạng quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc được thể hiện trên các mặt sau:
3.2.1. Sự gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo
quốc phòng, an ninh trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch và tổ chức
thực hiện phát triển các ngành, các lĩnh vực
Trong những năm qua, quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiên các nghị
quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trên cơ sở quy
hoạch phát triển KT - XH của cả nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, cho ý kiến chỉ đạo, một số tỉnh biên giới phía Bắc đã thường xuyên coi
trọng công tác quy hoạch, khuyến khích các tổ chức, thu hút các chuyên gia,
các nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn. Tiêu biểu như tỉnh
Quảng Ninh, để thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo AN, QP từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, tập đoàn
McKinsey của Mỹ, một trong những tập đoàn tư vấn uy tín của thế giới đã
trúng thầu làm đơn vị tư vấn thực hiện quy hoạch; đề án này đã được Tập thể
Bộ Chính trị đánh giá cao; trên cơ sở đó Quảng Ninh đã tổ chức nhiều cuộc
hội thảo khoa học để tranh thủ ý kiến của nhiều tổ chức và các nhà khoa học
đầu ngành trên cả nước…
Đến nay, cơ bản các tỉnh biên giới phía Bắc đã có quy hoạch, kế hoạch tổng
thể và quy hoạch, kế hoạch cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, từ việc lập quy
hoạch, kế hoạch phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng KT - XH dọc tuyến biên giới;
93
lập, thẩm định, phê duyệt các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, quy hoạch
phát triển ngành gắn với phát triển XH và đảm bảo QP, AN cho các tỉnh, thành phố,
các huyện, thị xã; các dự án phát triển khu công nghiệp; trong quy hoạch phát triển
điện lực, thương mại, du lịch, dịch vụ; quy hoạch phát triển làng nghề, trung tâm
thương mại, siêu thị và hệ thống chợ, hệ thống xăng dầu...; trong quy hoạch, kế
hoạch phát triển nông nghiệp; hệ thống y tế; GD - ĐT, KH - CN và trong công tác
quy hoạch, kế hoạch, các chương trình, dự án giải quyết việc làm, xoá đói giảm
nghèo, ổn định đời sống, KT, XH.
Cùng với công tác quy hoạch, kế hoạch các lĩnh vực như trên, một số
tỉnh biên giới phía Bắc đã thường xuyên chú ý đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả trong công tác xây dựng và quản lý quy hoạch.
3.2.2. Sự gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo
quốc phòng, an ninh trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Cơ cấu KT ở một số tỉnh biên giới phía Bắc chuyển dịch theo hướng
tích cực từ nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ,
nông nghiệp.
Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch theo hướng tiến bộ, công nghiệp nhà
nước đã tập trung vào những ngành có vốn đầu tư lớn, chủ đạo như: khai thác,
chế biến khoáng sản, thuỷ điện… Một số sản phẩm công nghiệp do Trung
ương quản lý có khối lượng lớn là khai khoáng, xi măng. Giá trị sản xuất
công nghiệp có xu hướng tăng nhanh. Công nghiệp chế biến nông - lâm sản
gắn với các vùng nguyên liệu đã ngày càng phát huy tác dụng. Nhiều ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống của các dân tộc, các làng nghề truyền
thống được khuyến khích, phát triển mạnh.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển
dịch mạnh mẽ sang chăn nuôi và trồng cây công nghiệp; số đơn vị nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản ngày càng tăng. Đối với lĩnh vực ngư nghiệp - kinh tế biển
94
(Quảng Ninh); trong 7 tỉnh biên giới phía Bắc, ngoài đường biên giới trên đất liền,
Quảng Ninh là tỉnh duy nhất có biển, đường biên giới trên biển với Trung Quốc; có
đường phân định Vịnh Bắc Bộ trên biển hơn 191 km; bờ biển dài 250 km; với ngư
trường rộng trên 6,1 nghìn km2, 40.000 ha bãi triều, trên 20.000 ha eo vịnh; có 2
huyện đảo (Cô Tô, Vân Đồn) với 2.077 hòn đảo. Xuất phát từ điều kiện tự nhiên về
biển, đảo như vậy, dẫn đến KT biển, ven biển có bước phát triển mạnh mẽ và được
gắn kết chặt chẽ với QP - AN.
3.2.3. Sự gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo
quốc phòng, an ninh trong xây dựng kết cấu hạ tầng
Trên địa bàn cả nước cũng như một số tỉnh biên giới phía Bắc, quá
trình phát triển KT nói chung, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
nói riêng đều cần có sự đóng góp của nhiều yếu tố như: cơ chế, chính sách;
các nguồn lực; trình độ văn hoá, KH - CN; kết cấu hạ tầng đảm bảo… Trong
đó, việc xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo là một trong những điều kiện quan
trọng, quyết định hiệu quả phát triển KT - XH, tạo điều kiện thuận lợi đảm
bảo QP, AN như: đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho các LLVT, đảm
bảo thông tin liên lạc, tổ chức triển khai, cơ động lực lượng... Thực tế cho
thấy, một số tỉnh biên giới phía Bắc là nơi có kết cấu hạ tầng KT - XH kém và
chậm phát triển: từ hệ thống đường giao thông, mạng lưới thông tin liên lạc,
công trình thủ lợi, cơ sở y tế, trường học đến các công trình phúc lợi công
cộng… Do đó, trong những năm qua, Nhà nước cũng như chính quyền các
tỉnh biên giới phía Bắc đã quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng một cách
đồng bộ, nhằm vừa phục vụ phát triển KT - XH, vừa đảm bảo QP, AN.
Đối với lực lượng quân đội đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên
giới phía Bắc. Phát huy truyền thống QĐND Việt Nam, lao động, sản xuất, xây
dựng KT là một trong ba chức năng cơ bản. Chức năng lao động, sản xuất, xây
dựng KT của Quân đội là vấn đề có tính bản chất của một quân đội của nhân
95
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong thời kỳ mới, QĐND Việt Nam thực hiện
tốt nhiệm vụ lao động, sản xuất, xây dựng KT không chỉ góp phần tăng cường
bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, tăng cường sức mạnh
chiến đấu của quân đội, mà còn trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi chủ
trương chiến lược của Đảng, Nhà nước về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
QP, AN. Lực lượng Quân đội đóng quân trên địa bàn một số tỉnh Biên giới
phía Bắc bao gồm: lực lượng Quân khu 1 trên địa bàn các tỉnh: Lạng Sơn,
Cao Bằng; lực lượng Quân khu 2 trên địa bàn các tỉnh: Điện Biên, Lai Châu,
Lào Cai, Hà Giang; lực lượng Quân khu 3 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới
phía Bắc đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đặc biệt là những thành
tựu trong phát triển các khu KT - QP.
3.2.4. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong phát triển
kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc thời gian qua
3.2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân
Những thành tựu
Một là, công tác lập quy hoạch, kế hoạch, tổ chức thực hiện phát triển
các ngành, các lĩnh vực đã đạt được nhiều tiến bộ tích cực trong việc gắn kết
chặt chẽ phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN
- Dọc tuyến biên giới trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc đã
được các cơ quan QS, dân sự phối hợp lập quy hoạch, kế hoạch phát triển hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng KT - XH, nhất là phát triển đường vành đai, đường tuần
tra biên giới, các cụm, khu dân cư, các khu KT cửa khẩu như: thành phố cửa
khẩu Móng Cái (Quảng Ninh); cửa khẩu Hữu Nghị, Tân Thanh… (Lạng Sơn);
cửa khẩu Tà Lùng, Trà Lĩnh, Sóc Giang, Lý Vạn (Cao Bằng); cửa khẩu Lào
96
Cai (Lào Cai)… Hệ thống chính trị được tăng cường củng cố; cơ sở KT, văn
hoá, XH, LLVT của các địa phương, cũng như lực lượng của Quân khu 1,
Quân khu 2, Quân khu 3, lực lượng bộ đội Biên phòng đóng quân trên địa bàn
luôn đoàn kết gắn bó với nhau, với đồng bào các dân tộc trong quá trình phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn.
- Các tỉnh, thành phố, các huyện, thị xã đã khẩn trương lập, thẩm định,
phê duyệt các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, quy hoạch phát triển
ngành gắn với phát triển XH và đảm bảo QP, AN. Các huyện, thị xã đã và
đang triển khai xây dựng các quy hoạch chi tiết của địa phương phù hợp với
quy hoạch của tỉnh và tổ chức thực hiện, quản lý quy hoạch theo đúng các quy
định hiện hành, thúc đẩy phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong
KVPT, theo phương châm "làng giữ làng, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh".
- Các dự án phát triển khu công nghiệp, trung tâm dịch vụ thương mại,
du lịch, khu chuyên canh; các dự án phát triển huyện, thị xã, khu đô thị, khu
dân cư... đều được gắn kết chặt chẽ giữa khả năng, nhu cầu đổi mới, phát triển
của địa phương và nhu cầu đảm bảo QP, AN. Các dự án phát triển kết cấu hạ
tầng đều thể hiện được sự gắn kết hài hoà, đồng bộ trong tổng thể chung giữa
đô thị trung tâm với các đô thị vệ tinh, giữa tỉnh này với tỉnh khác trên địa
bàn, với các tỉnh, thành phố khác trong vùng KT trọng điểm phía Bắc, miền
Bắc và cả nước, cũng như với các nước bạn Trung Quốc, Lào và các nước
khác trong khu vực ASEAN. Trên cơ sở đó, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ, liên
hoàn, hiệu quả cả trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số
tỉnh biên giới phía Bắc và gắn kết với các tỉnh, các địa bàn chiến lược khác,
cả trong phát triển KT - XH, trong đảm bảo QP, AN, cả trong thời bình, cũng
như khi có tình huống chiến tranh xảy ra. Trên cơ sở quy hoạch của Chính
phủ và các tỉnh biên giới phía Bắc về phát triển công nghiệp, các cụm công
nghiệp tập trung, đến nay ở các thành phố trung tâm, các khu KT cửa khẩu,
97
đồng thời với sự bố trí tài nguyên, khoáng sản, các tiềm năng phát triển du
lịch trên một số địa phương cơ bản nằm ở các vị trí có ý nghĩa chiến lược
không chỉ về KT - XH, mà còn có ý nghĩa đặc biệt về QP, AN.
Trong công nghiệp, nhất là công nghiệp khai thác, trên cơ sở quy hoạch, các
tỉnh đã huy động mọi chủ thể ở các thành phần KT tham gia khai thác những lợi thế
so sánh của từng tỉnh, nhằm đẩy mạnh tăng trưởng, phát triển KT trên địa bàn là tất
yếu khách quan, phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước; những
vùng khai thác tài nguyên như: than đá ở Quảng Ninh; thiếc ở Tĩnh Túc - Cao
Bằng; apatít Lào Cai... Trong quy hoạch các khu KT cửa khẩu: cửa khẩu quốc tế
Móng Cái (Quảng Ninh); cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn); cửa khẩu quốc tế
Tà Lùng (Cao Bằng); cửa khẩu quốc tế Lào Cai... là những điểm du lịch, dịch vụ
đang tiến hành khai thác đều gần các vị trí chiến lược quan trọng, vừa là cửa ngõ
“phên dậu” trên tuyến biên giới phía Bắc, vừa là căn cứ vững chắc của cách mạng
nước ta. Với vị trí chiến lược đó đã góp phần làm thay đổi diện mạo KT - XH đối
với các vùng đô thị của một số tỉnh biên giới phía Bắc.
- Trong quy hoạch phát triển điện lực, thương mại, du lịch, dịch vụ; quy
hoạch phát triển làng nghề, trung tâm thương mại, siêu thị và hệ thống chợ, hệ
thống xăng dầu... ở một số tỉnh biên giới phía Bắc đều được quan tâm gắn kết cả
về KT, XH, lao động, dân cư, đảm bảo QP, AN và trật tự an toàn XH trên địa bàn.
- Trong quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp, một số tỉnh biên
giới phía Bắc đã và đang tập trung chỉ đạo, đầu tư kinh phí cho công tác lập,
điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh các quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển
nông nghiệp, KT biển, đảo (Quảng Ninh), thuỷ lợi, chăn nuôi, thuỷ sản, bảo
vệ, phát triển rừng... Các quy hoạch này vừa có tầm nhìn rộng, vừa có cơ sở
khoa học và thực tiễn cao, thống nhất, đồng bộ, phù hợp với quy hoạch tổng
thể phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Trong số đó, nhiều quy
hoạch đã được hoàn thành.
98
- Trong quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế của một số tỉnh biên giới
phía Bắc đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã được hoàn thành, đã và đang được tổ
chức thực hiện. Theo đó, một số tỉnh đã và đang nỗ lực hiện đại hoá các bệnh viện
cấp tỉnh, đồng thời đầu tư nâng cấp các bệnh viện tuyến huyện, tuyến khu vực, xây
dựng mạng lưới y tế vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; phát triển một số cụm,
trung tâm y tế chuyên sâu. Hệ thống y tế của LLVT trên địa bàn cũng được quy
hoạch, đầu tư nâng cấp. Cùng với phát triển hệ thống bệnh viện các tỉnh, các LLVT
trên địa bàn rất quan tâm đến loại hình quân dân y kết hợp; đặc biệt đã quan tâm
đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển ngành y tế, vừa đáp ứng nhu cầu dân
sinh, phát triển KT - XH, vừa gắn với đảm bảo QP, AN trong mọi tình huống cả
thời bình và thời chiến nếu xảy ra.
- Trong công tác quy hoạch, kế hoạch, các chương trình, dự án giải quyết
việc làm, xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống, KT, XH cũng được Đảng Bộ,
Chính quyền ở một số tỉnh biên giới phía Bắc đặc biệt quan tâm; tập trung đẩy
mạnh công tác đào tạo nghề, phát triển làng nghề truyền thống, hỗ trợ vốn,
kiến thức, kỹ thuật công nghệ, tìm kiếm thị trường... Nhờ đó, sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ trên địa bàn được phát triển, nâng cao thu nhập cho người lao
động, góp phần tích cực thực hiện xoá đói giảm nghèo trên từng địa phương,
đời sống đồng bào các dân tộc ngày càng được cải thiện, nâng cao. Qua đó,
nhân dân đồng bào các dân tộc trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc
luôn tin tưởng, đồng tình với đường lối lãnh đạo của Đảng.
- Trong công tác quy hoạch phát triển GD - ĐT, KH - CN, một số tỉnh biên
giới phía Bắc đã phấn đấu hoàn thành quy hoạch phát triển hệ thống trường học đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, bao gồm cả đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, trung học dạy nghề và các bậc học phổ thông. Trong quy hoạch đã
có tầm chiến lược phát triển GD - ĐT nhằm đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao
cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn. Công tác quy hoạch,
99
quản lý quy hoạch phát triển KH - CN đã và đang được triển khai khá đồng bộ, theo
hướng gắn mục tiêu, nhiệm vụ KH - CN với phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
QP, AN. Đẩy mạnh ứng dụng KH - CN gắn với phát triển KT tri thức; xây dựng
môi trường pháp lý, đổi mới công tác tổ chức, quản lý KH - CN; hoàn thiện cơ chế,
chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư của mọi thành phần KT cho nghiên cứu,
ứng dụng, chuyển giao KH - CN; đẩy nhanh việc ứng dụng KH - CN vào sản xuất,
kinh doanh, thúc đẩy đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng và
khả năng cạnh tranh của nền KT; cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân đồng bào các dân tộc, đảm bảo tốt hơn cho các nhiệm vụ giữ gìn trật tự an toàn
XH, AN, QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Đối với công tác xây dựng và quản lý quy hoạch, kế hoạch, một số tỉnh
biên giới phía Bắc đã thường xuyên chú ý đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả trong công tác xây dựng và quản lý. Các tỉnh đã ban hành quy chế quản lý
quy hoạch, cơ chế giám sát thực hiện quy hoạch; đẩy mạnh phân cấp lập, thẩm
định, phê duyệt, quản lý và thực hiện quy hoạch cho cấp huyện, thị xã. Thực
hiện công khai hoá các quy hoạch, kế hoạch; tổ chức thực hiện và giám sát việc
thực hiện quy hoạch, kế hoạch một cách chặt chẽ. Các cơ quan chức năng của
các tỉnh trên địa bàn thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm,
đúng quy định của pháp luật đối với các công trình, dự án thực hiện không đúng
quy hoạch để đảm bảo tính thống nhất của quy hoạch và sự phát triển bền vững
của các tỉnh. Đồng thời, đảng bộ, chính quyền các tỉnh đã thường xuyên bám sát
thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính, khai thác, sử
dụng các nguồn lực, giải quyết tốt các mối quan hệ, các vấn đề nảy sinh... theo
đó đã tháo gỡ kịp thời nhiều vướng mắc, bảo đảm cho quá trình tổ chức thực
hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số
tỉnh biên giới phía Bắc đạt hiệu quả cao, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và BVTQ trên quê hương mình.
100
Hai là, chuyển dịch cơ cấu KT theo hướng tích cực, đã gắn kết chặt chẽ
phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN. Nổi bật hơn là các tỉnh: Quảng Ninh,
công nghiệp 53%, dịch vụ 41,9%, nông nghiệp 5,1% (năm 2011) [67, tr.6]; Lạng
Sơn, nông, lâm nghiệp chiếm 39,57%, công nghiệp - xây dựng 20,81%, dịch
vụ 39,62% [9, tr.428]; Cao Bằng, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng 21,15%,
dịch vụ 45,65%, nông - lâm nghiệp 33,2% [9, tr.270].
- Đối với lĩnh vực công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ,
công nghiệp nhà nước đã tập trung vào những ngành có vốn đầu tư lớn, chủ
đạo như: khai thác, chế biến khoáng sản, thuỷ điện… Một số sản phẩm công
nghiệp do Trung ương quản lý có khối lượng lớn là khai khoáng, xi măng. Giá
trị sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng nhanh.
Bảng 3.1: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá hiện hành, theo địa phƣơng
Đơn vị tính: Tỷ đồng
ĐỊA PHƢƠNG 2005 2009 2010 2011 Sơ bộ 2012
Quảng Ninh 20989,0 64853,8 80347,6 99122.1 127870,3
Lạng Sơn 696,0 1836,8 2186,4 2475,0 2983,3
Cao Bằng 572,0 1301,6 2317,0 2547,3 3236,3
Hà Giang 260,3 693,7 946,9 1495,6 1967,1
Lào Cai 812,3 4055,2 6259,9 9138,4 12995,5
Lai Châu 117,1 347,0 639.0 587,0 774,3
Điện Biên 422,3 1049,4 1330,8 1673,2 2124,3
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo Niên giám Thống kê [70].
Công nghiệp chế biến nông - lâm sản gắn với các vùng nguyên liệu
ngày càng phát huy tác dụng. Nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
truyền thống của các dân tộc, các làng nghề truyền thống được khuyến
khích phát triển mạnh, góp phần giải quyết công ăn, việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động.
101
Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu KT, kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh của ngành công nghiệp ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nêu trên cho
thấy, phát triển KT có vai trò hết sức qua trong đối với việc đảm bảo QP - AN.
Phần lớn các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công
nghiệp đều được xây dựng ở các khu trung tâm thành phố, thị xã, thị trấn, cửa
khẩu, đầu mối giao thông… Đó là những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng
về QP, AN. Hơn nữa, các doanh nghiệp, đơn vị KT công nghiệp này được thiết
kế khai thác theo hướng “lưỡng dụng” vừa phục vụ dân sinh, vừa sản xuất một
số mặt hàng đảm bảo cho QP, AN và QS khi cần thiết. Đồng thời, là nơi tập
trung một lực lượng lao động đông đảo, có trình độ kỹ thuật, sức khoẻ…; đây
chính là yếu tố đảm bảo nguồn nhân lực - lực lượng tại chỗ cho QP, AN khi cần
thiết có thể huy động, động viên lực lượng, nhất là khi có tình huống chiến tranh
xảy ra. Bên cạch đó, trong từng doanh nghiệp đều được xây dựng lực lượng tự
vệ thường xuyên có sự phối hợp, kết hợp với các đơn vị quân đội, công an đóng
quân trên địa bàn tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ doanh nghiệp cũng như
góp phần đảm bảo QP, AN trong khu vực.
- Đối với lĩnh vực nông, lâm nghiệp, cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã có
sự chuyển dịch mạnh mẽ sang chăn nuôi và trồng cây công nghiệp; số đơn vị
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ở các tỉnh biên giới phía Bắc ngày càng tăng
[phụ lục 13]. Từ đó đã có nhiều thay đổi nhằm nâng cao hiệu quả trên mỗi
đơn vị sản xuất, hình thành nhiều vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi.
Nhiều địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đã chuyển nhanh từ
sản xuất mang tính tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá, nhiều mặt hàng
nông sản của vùng đã chiếm được vị thế quan trọng trên thị trường trong nước
và thị trường quốc tế.
Một số tỉnh biên giới phía Bắc đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách,
cơ chế phát triển KT - XH như: chính sách đất đai, chính sách thuế, thị trường,
102
vốn, chính sách hỗ trợ cho phát triển kết cấu hạ tầng, chính sách về cán bộ, lao
động trong các hợp tác xã, các doanh nghiệp không thuộc thành phần KT nhà
nước; nhất là đã quan tâm đến chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn và
xây dựng nông thôn mới. Qua đó, đã đem lại kết quả sản xuất nông nghiệp tương
đối cao. Tiêu biểu như tỉnh Quảng Ninh, trong nông nghiệp giá trị sản xuất bình
quân 6,7%/năm. Đã đảm bảo AN lương thực vùng nông thôn; chú trọng phát triển
chăn nuôi gia súc, gia cầm theo quy mô trang trại, mang tính hàng hoá; đẩy mạnh
khai thác, nuôi trồng thủ sản theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá X) về
chiến lược Biển Việt Nam. Lâm nghiệp phát triển mạnh, khai thác có hiệu quả
tiềm năng đất đại, lao động và các nguồn vốn tham gia trồng, bảo vệ rừng, góp
phần để nhân dân miền núi làm giàu từ rừng, nâng tỷ lệ che phủ rừng lên trên
50%. Quan tâm hỗ trợ nông dân kinh phí, kỹ thuật phòng chống, khắc phục thiên
tai, bệnh dịch; tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản
xuất nông nghiệp, nhất là ở vùng núi, hải đảo; làm tốt công tác chuyển dịch cơ cấu
mùa vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu nhập trên một diện
tích canh tác [39, tr.21]. Tỉnh Cao Bằng, giá trị sản xuất nông nghiệp/ha canh tác:
20/20 triệu; tổng sản lượng lương thực: 237 nghìn tấn năm 2008, kế hoạch 2010:
230 nghìn tấn (mục tiêu 215 nghìn tấn); tổng đàn bò: 135,66/177 nghìn con, bằng
76,6% mục tiêu Nghị quyết Đại hội, bình quân tăng 1,75/7%/năm [9, tr.270].
Từ kết quả đạt được nêu trên, đã thúc đẩy phát triển nông nghiệp, lâm
nghiệp lên một bước cao hơn, qua đó đã góp phần đảm bảo lương thực, thực
phẩm cho QP, AN trong mọi tình huống.
- Đối với lĩnh vực ngư nghiệp - KT biển (Quảng Ninh). Nhận thức
đúng vai trò KT biển, những năm qua, ngoài việc tổ chức thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quảng Ninh đã tập trung triển khai
thực hiện các nghị quyết, kết luận liên quan trực tiếp đến phát triển KT biển,
đảo như: Nghị quyết số 09-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X),
103
về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; Nghị quyết Trung ương 4: “Xây
dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh” thành trung tâm kinh tế mạnh, nòng
cốt là cảng biển, công nghiệp và du lịch biển làm đầu tàu lôi kéo cả vùng phát
triển”… Theo đó, trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền các cấp tỉnh
Quảng Ninh, nhất là Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các huyện ven biển, hai
huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn đã quan tâm đến quá trình phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP - AN biển, đảo và vùng ven biển. Đặc biệt, là địa bàn có cả
đường biên giới trên biển, trên bộ, với vùng biển rộng, gồm nhiều đảo có giá
trị về KT - XH, QP, AN, trong quá trình xây dựng tiềm lực KT - QP, Quảng
Ninh luôn triển khai cả trên đất liền và trên biển đảo, coi trọng các khu vực
trọng điểm nhằm đảm bảo tính liên kết vững chắc trên toàn địa bàn. Những
năm gần đây, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN được các cấp, các
ngành triển khai đạt hiệu quả cao thể hiện rõ trong lập quy hoạch tổng thể
cũng như trong quá trình thực hiện các kế hoạch phát triển KT - XH. Cơ quan
quân sự, công an các cấp không chỉ làm tốt chức năng tham mưu giúp cấp uỷ,
chính quyền quản lý nhà nước về QP, AN mà còn thực hiện nghiêm túc việc
khảo sát, thẩm định, giám sát việc triển khai các dự án KT - XH, QP, AN theo
nguyên tắc có lợi cho QP, AN hoặc chí ít cũng không làm ảnh hưởng đến thế
trận KVPT. Tỉnh cũng đã chỉ đạo khảo sát, quy hoạch, quản lý chặt chẽ các cơ
sở công nghiệp lưỡng dụng, các phương tiện kỹ thuật của nền KT, sẵn sàng
động viên phục vụ nhiệm vụ QP, AN khi có tình huống.
Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên các địa
phương vùng biển, đảo, công tác khuyến ngư, khuyến khích phát triển các
làng nghề thủ công phục vụ du lịch, nâng cao kiến thức làm KT du lịch; hỗ trợ
đầu tư, khuyến khích nuôi trồng, xuất khẩu thuỷ hải sản... được coi trọng. Do
đó, các ngành ngư nghiệp và vùng KT ven biển, đảo Quảng Ninh trong những
năm qua đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. KT vùng ven biển có bước phát triển
104
khá rõ rệt, nhất là các địa danh có khả năng thu hút khách du lịch như: Vịnh
Hạ Long, Vân Đồn, Cô Tô… Đã chú ý nhiều hơn đến việc kết hợp phát triển
KT du lịch với nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản: Sản lượng nuôi trồng thuỷ
sản của Quảng Ninh năm 2005 là 19165 tấn, năm 2009 là 27508 tấn, năm
2010 là 28725 tấn, năm 2011 là 29651 tấn và sơ bộ năm 2012 là 28944 tấn;
tương ứng với các năm, sản lượng khai thác cá biển là: 22,4 nghìn tấn, 29,5
nghìn tấn, 30,4 nghìn tấn, 29,4 nghìn tấn và 36,0 nghìn tấn [70, tr.214, 212].
Nhiều địa phương biết nuôi trồng, khai thác, xuất khẩu các loại thuỷ hải sản
quý, giá trị KT cao. Trong số đó, nổi lên là vùng ven biển Hạ Long, Móng
Cái, Vân Đồn, Cô Tô. Cùng với phát triển KT, nâng cao đồi sống vật chất,
Đảng bộ, chính quyền các cấp ở các huyện ven biển, đảo đã quan tâm nâng cao
đời sống tinh thần cho nhân dân vùng ven biển, đảo. Công tác tuyên truyền, giáo
dục cho nhân dân quán triệt, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật; xử trí kịp thời,
đúng đắn những vấn đề nảy sinh trên biển và vùng ven biển; nâng cao trình độ
dân trí, các hoạt động văn hoá nghệ thuật, các tiêu chí xây dựng nông thôn mới
được tăng cường. Nhờ đó, bộ mặt nông thôn vùng ven biển và các huyện đảo
không ngừng được đổi mới. Theo đó, nền QPTD, ANND biển và vùng ven biển
được nâng lên từng bước. Nhận thức và hành động của ngư dân về việc khai thác
KT biển gắn với sự có mặt thường xuyên trên biển, khẳng định chủ quyền biển
đảo của đất nước không ngừng tăng lên, trở thành trách nhiệm và tình cảm của
mỗi ngư dân đối với Tổ quốc. Các tổ chức dân quân tự vệ, dự bị động viên đều
giữ vững sự lãnh đạo, quản lý, luyện tập đúng quy định, với chất lượng không
ngừng nâng cao. Ngư dân, dân quân tự vệ làm KT biển gắn với khẳng định chủ
quyền biển, cùng với các lực lượng bảo vệ biển chuyên trách, tạo thành thế trận
QPTD trên vùng biển thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ninh ngày càng vững chắc. Đây
là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN trên vùng biển, đảo tỉnh Quảng Ninh.
105
- Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong các ngành
KT của một số tỉnh biên giới phía Bắc đã có sự phát triển tương đối rõ rệt.
Mặc dù trong những năm qua, tình hình KT thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp, nhất là cuộc khủng hoảng KT thế giới lan rộng vào cuối năm 2008, đầu
năm 2009 đã tác động ít nhiều đến sự phát triển KT - XH. Tuy nhiên, cùng
với sự nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, các doanh nghiệp trong các ngành
KT của một số tỉnh biên giới phía Bắc đã có sự phát triển tương đối rõ rệt,
doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tăng nhanh.
Bảng 3.2: Doanh thu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Đơn vị tính: Tỷ đồng
ĐỊA PHƢƠNG 2005 2008 2009 2010 2011
Quảng Ninh 50423 88957 94315 139332 186992
Lạng Sơn 2409 6558 8323 11265 12595
Cao Bằng 1849 3733 4105 5828 7695
Hà Giang 1080 2628 3625 4543 6060
Lào Cai 3294 10395 12231 16630 28539
Lai Châu 477 1305 1883 3040 3541
Điện Biên 1130 2466 3902 6206 7177
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo Niên giám Thống kê [70].
Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu
nhiệm vụ phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN
- Trong phát triển hệ thống đường giao thông, một số tỉnh biên giới phía
Bắc đã quán triệt tốt quan điểm của Đảng về phát triển kết cấu hạ tầng, nhận
thức vai trò quan trọng của hệ thống đường giao thông là yếu tố rút ngắn khoảng
cách về không gian, thời gian cho nhân dân đồng bào các dân tộc vùng biên giới,
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, tạo ra thế
phòng thủ chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia. Từ đó, với sự tập trung đầu tư
106
của Chính phủ, sự cố gắng nổ lực của cấp uỷ, chính quyền một số tỉnh Biên giới
phía Bắc, Bộ Giao thông vận tải đã cùng với các tỉnh tập trung triển khai thực
hiện nhiều dự án, hạng mục công trình giao thông đường bộ, đường sông, nhất là
những vùng khó khăn; do đó nhiều tuyến đường đã được cải tạo, nâng cấp, xây
dựng mới, trong đó một số công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Chính vì vậy, hệ
thống đường bộ ở đây khá phát triển.
Trên địa bàn một số tỉnh biên giới Đông Bắc như: Quảng Ninh, Lạng Sơn,
mật độ đường giao thông gần đạt mức trung bình của cả nước (0,29 km2 so với
0,32 km/km2); có một số đường quan trọng như quốc lộ 1A, quốc lộ 1B đã đưa
vào sử dụng khai thác hiệu quả, quốc lộ 12, 3, 6, 18, 36… và tuyến đường sắt.
Một số tỉnh biên giới Tây Bắc như: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang,
nhìn chung mật độ đường giao thông thấp hơn. Tuy nhiên, có nhiều tuyến đường
quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trong địa bàn như: tuyến
đường sắt Hà Nội - Lào Cai; quốc lộ 2 Hà Nội - Hà Giang; quốc lộ 6 Hà Nội -
Điện Biên, Lai Châu (chạy qua hai tỉnh: Hoà Bình, Sơn La); quốc lộ 279…;
đường sông chưa phát triển, nhưng đã có đường hàng không đi Điện Biên.
Đến nay, hệ thống các tuyến đường chiến lược quan trọng nối các trung
tâm KT trong vùng với nhau và với bên ngoài như các trục đường: 1A, làm
mới quốc lộ 1B; quốc lộ 2, 3, 6, 12, 279 cơ bản đã được nâng cấp; hệ thống
đường giao thông cấp 3, cấp 4 được mở rộng. Nhất là những tuyến đường lên
các cửa khẩu quốc gia và quốc tế, các KVPT biên giới đã góp phần quan
trọng trong phát triển KT - XH, trao đổi hang hoá giữa các tỉnh biên giới phía
Bắc với Trung Quốc, Lào và tăng cường củng cố khả năng phòng thủ biên
giới, đảm bảo QP, AN, BVTQ.
Hệ thống đường vành đai biên giới gồm các tuyến: 4A, 4B, 4C, 4D, đường
12 chạy song song với các tuyến biên giới phía Bắc, Đông Bắc (Việt - Trung) và
107
phía Tây Bắc (Việt Lào), với tổng chiều dài 1049 km. Đây là tuyến đường
có vị trí quan trọng trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
một số tỉnh biên giới phái Bắc. Chính vì vậy, trong những năm qua đã được
ngành Giao thông vận tải tập trung đầu tư nâng cấp; cơ bản hệ thống cầu,
cống trên các tuyến đường đều được đầu tư xây dựng cơ bản. Cho đến nay,
hệ thống đường giao thông đã thông suốt từ Quảng Ninh đi Lai Châu, Điện
Biên. Nhất là tuyến đường tuần tra biên giới kết hợp với dân sinh cơ bản
hoàn thành và đưa vào sử dụng đạt hiệu quả tốt; các tỉnh có đường biên
giới đi qua các sông, suối còn được đầu tư xây dựng hệ thống kè. Ngoài ra,
còn huy động quần chúng nhân dân kết hợp với bộ đội Biên phòng tích cực
đấu tranh chống xâm lấn, phá bỏ các công trình bên phía Trung Quốc xây
dựng trái phép vi phạm quyền lãnh thổ nước ta… Những hoạt động này
không những góp phần tạo điều kiện thuận lợi phát triển KT - XH như:
phục vụ đời sống dân sinh, sản xuất, vận chuyển, trao đổi hàng hoá qua
biên giới, mà còn góp phần đảm bảo QP, AN, bảo vệ biên giới như: tạo
điều kiện thuận lợi cho bộ đội Biên phòng cơ động lực lượng tuần tra bảo
vệ đường biên, mốc giới, các hoạt động ngăn chặn kịp thời việc lấn chiếm
biên giới, giải quyết dứt điểm các vụ xâm canh, xâm cư, xây kè nắn dòng
chảy… giữ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là đảm bảo QP, AN
vững mạnh về mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược trong
tương lai nếu kẻ thù liều lĩnh gây chiến.
Hệ thống đường giao thông nông thôn phát triển mạnh, bằng vốn đầu tư
của Nhà nước và vốn tự cân đối, với phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng xây dựng; các địa phương đã nâng cấp, làm mới hàng nghìn km đường,
mở thêm nhiều tuyến đường mới. Đường đến trung tâm xã cơ bản được đảm
bảo [phụ lục 6]. Số xã có đường trục xã, liên xã xã đã được kiên cố hoá bằng
nhựa hoặc bê tông ngày một tăng [phụ lục 7]; cơ bản các xã đều có đường ô
108
tô đến thôn, bản. Chính vì vậy, hạ tầng giao thông nông thôn được cải thiện
đáng kể. Trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là nơi đóng quân của các
đồn, trạm biên phòng, các LLVT địa phương, do đó, sự phát triển của hệ
thống đường giao thông nơi đây vừa phục vụ nhân dân đồng bào các dân tộc,
vừa tạo điều kiện cho các đồn, trạm biên phòng, các LLVT làm nhiệm vụ bảo
vệ biên giới quốc gia.
- Trong công tác thuỷ lợi: những năm qua, Nhà nước cùng với một số
tỉnh biên giới phía Bắc đã tập trung vốn ưu tiên đầu tư xây dựng nhiều công
trình thuỷ lợi lớn, quan trọng, các công trình thuỷ lợi nhỏ cơ bản đã được
nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới, thực hiện kiên cố hoá hàng nghìn hồ, đập
nước, hệ thống kênh mương đảm bảo cung cấp nước cho nhu cầu sản xuất,
tăng nhanh diện tích đất ruộng cấy lúa nước và phục vụ sinh hoạt cho nhân
dân đồng bào các dân tộc cũng như các LLVT trên địa bàn.
Công tác phát triển mạng lưới cấp nước sạch, đến nay, các tỉnh biên
giới phía Bắc đã đầu tư xây dựng được khoảng trên 20.000 công trình cung
cấp nước sinh hoạt với công xuất đạt trên 30 triệu m3/ngày đêm. Các nhà máy
nước ở tất cả các thành phố, thị xã, các tỉnh lỵ cơ bản được đầu tư xây dựng
mới hoặc cải tạo nâng công suất. Các thị trấn, huyện lỵ phần lớn đã được đầu
tư xây dựng hệ thống cấp nước sạch một cách đồng bộ; tình trạng thiếu nước
sinh hoạt ở nhiều vùng núi cao, nhất là ở các khu vực núi như các tỉnh: Lai
Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn đã cơ bản được cải thiện. Đến nay, tỷ
lệ hộ nông thôn được cấp nước sinh hoạt đạt trên 75%; 100% các đơn vị quân
đội, các đồn biên phòng đóng quân trên địa bàn đều đã được đầu tư xây dựng
hệ thống bể chứa nước, hệ thống đường ống dẫn nước, đảm bảo đủ nước sạch.
Hệ thống điện sản xuất, sinh hoạt cơ bản đã phủ khắp các địa bàn nông
thôn [phụ lục 5]… góp phần duy trì tốt điều kiện sản xuất, sinh hoạt của đồng
bào các dân tộc và đảm bảo mọi mặt hoạt động của bộ đội đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
109
- Về GD - ĐT, KH - CN. Sự nghiệp GD - ĐT ở một số tỉnh biên giới
phía Bắc trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đến
nay, đã có 100% số xã có trường mầm non, mẫu giáo cơ bản được xây dựng
kiên cố và bán kiên cố [phụ lục 8]. Các bản ở xã trọng tâm đều có lớp cắm
bản; hơn 90% trẻ em trong độ tuổi đến trường. Số trường tiểu học, trung học
cơ sở được xây dựng kiên cố, bán kiên cố được nâng lên [phụ lục 9, 10]; hầu
hết các trường được tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc bảo đảm chất lượng dạy và học. 100% các huyện đều có trường
trung học phổ thông, ở các huyện vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới
có trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú dân nuôi tại các cụm xã. Nhìn
chung 7 tỉnh biên giới phía Bắc đều đã hoàn thành giáo dục phổ cập tiểu học,
có tỉnh đã phổ cập cơ sở. Trong đó, Quảng Ninh là một trong số các tỉnh có
chất lượng GD - ĐT phát triển, giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, hoàn
thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; “Chất lượng giáo dục có chuyển biến,
Quảng Ninh là một trong 10 tỉnh đứng đầu cả nước về kết quả thi tốt nghiệp lớp
12, học sinh giỏi quốc gia, học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. Cơ
bản hoàn thành các mục tiêu về kiên cố hoá trường - lớp, xoá phòng học tạm,
phòng học 3 ca, nhà công vụ giáo viên (về trước kế hoạch 2 năm)” [9, tr.515-516].
Tỉnh Lạng Sơn, công tác GD - ĐT có bước chuyển biến mới về quy mô, nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện các mục tiêu quốc gia. Tỷ lệ trẻ huy
động đến trường, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp học, trúng tuyển đại học, trung
học chuyên nghiệp năm sau cao hơn năm trước, số học sinh giỏi các cấp tăng rõ
rệt; đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong năm 2006, đạt chuẩn phổ cập
tiểu học đúng độ tuổi năm 2008. Ba cuộc vận động lớn trong ngành giáo dục
được triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo được sự đồng tình cao trong XH, chất
lượng giáo dục từng bước được nâng lên, đánh giá đúng thực chất hơn; đội ngũ
cán bộ, giáo viên đã từng bước được chuẩn hoá, cơ bản đáp ứng theo yêu cầu về
110
số lượng và chất lượng. Cơ sở vật chất trường, lớp học được tăng cường, đã cơ
bản xoá xong phòng học tre nứa lá, có khoảng 3986/6774 phòng học được đầu
tư kiên cố và 1895/6774 phòng học bán kiên cố. Công nhận thêm 51 trường học
đạt chuẩn quốc gia, nâng số trường đạt chuẩn đến hết năm 2010 là 84 trường
(vượt mục tiêu 02 trường) [9, tr.428-429]. Tỉnh Cao Bằng đã hoàn thành phổ cập
giáo dục trung học cơ sở vào năm 2008; phổ cập giáo dục tiểu học đã xong và
vẫn đang duy trì.
Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú từ Trung ương đến các địa
phương đều được kiện toàn, đáp ứng nhu cầu học tập cho con em đồng bào
các dân tộc. Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, trong đó đề cập đến
việc xoá mù chữ được một số tỉnh biên giới phía Bắc đặc biệt quan tâm. Phổ
cập giáo dục đúng độ tuổi và đang thực hiện tiêu chí phổ cập trung học cơ sở.
Phần lớn, người dân tộc thiểu số ở một số tỉnh biên giới phía Bắc đã đọc
thông, việt thạo tập trung ở độ tuổi 10 đến 15 là 70,2%; từ 16 đến 18 là 84,3%
và nhóm tuổi từ 19 đến 24 là 48,6%.
Đội ngũ giáo viên được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn
nghiệp vụ, thường xuyên và chu kỳ ở cả ba cấp học. Cơ sở vật chất GD, ĐT
được tăng cường, đặc biệt đối với học sinh dân tộc thiểu số như chính sách cử
tuyển, miễn học phí, cấp phát giấy vở học sinh và dạy tiếng dân tộc... Ngoài
ra, còn có một số chính sách đặc biệt đối với các nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, vùng KT - XH đặc biệt khó khăn...
Hoạt động nghiên cứu KH, phát triển CN được đẩy mạnh, nhìn chung
một số tỉnh biên giới phía Bắc đã tập trung nghiên cứu, áp dụng tiến bộ kỹ
thuật vào những lĩnh vực trọng yếu, bức thiết, lâu dài, như: công nghệ khai
thác khoáng sản, cơ khí chế tạo, quản lý địa chính, cải cách hành chính, dịch
vụ công, bảo vệ môi trường... Việc ứng dụng KH - CN thông tin trong công
tác quản lý, điều hành của nhà nước được triển khai tích cực, đạt kết quả cao.
111
Việc ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ trong sản xuất, kinh doanh
luôn được chú trọng; đã tổ chức chuyển giao ứng dụng sản xuất ngô, lúa lai,
sản xuất giống khoai tây bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào; công nghệ
nhân giống cây ăn quả bằng phương pháp ghép… KH - CN đã thâm nhập vào
hầu hết các hoạt động KT - XH, cả khu vực hành chính, dịch vụ công đến các
tổ chức chính trị XH và doanh nghiệp. Nhìn chung, khả năng tiếp cận, trình
độ công nghệ của nền KT và của XH được nâng lên, góp phần phục vụ tốt yêu
cầu phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn. Những thành
tựu đó đã góp phần tạo ra nguồn nhân lực có trình độ văn hoá và khả năng
lĩnh hội kiến thức nói chung, cũng như kiến thức về phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN.
- Về y tế. Ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong những năm qua, công
tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được đảm bảo ngày càng tốt hơn; số bác
sĩ, y sỹ, y tá, nữ hộ sinh ngày càng tăng; thực hiện tốt chính sách đưa bác sỹ
về xã, số lượng bác sỹ đang làm việc tại các trạm y tế xã tăng nhanh. Đến nay,
100% số xã có trạm y tế xã, phần lớn được xây dựng kiên cố và bán kiên cố
[phụ lục 12]. Phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế ở trung tâm cụm xã đã
được đầu tư trang thiết bị, thuốc men; hệ thống y tế ngoài công lập được hình
thành đã góp phần phụ vụ công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân đồng bào
các dân tộc; đẩy mạnh công tác y tế dự phòng, không để xảy ra dịch bệnh lớn
trên địa bàn; thường xuyên củng cố, nâng cao chất lượng công tác khám, chữa
bệnh; tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị, bác sỹ cho các cơ sở khám
chữa bệnh, y tế xã. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình được củng cố, tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên ngày càng giảm. Công tác kiểm soát vệ sinh an toàn thực
phẩm thường xuyên được tăng cường. Tuổi thọ bình quân của người dân ngày
càng tăng cao; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm mạnh; cơ bản trẻ
em dưới 1 tuổi được tiêm phòng đủ 7 loại vắc xin; trên 90% dân số được tiếp
112
cận dịch vụ y tế; gần 90% xã, phường cơ bản hoàn thành các mục tiêu chuẩn
quốc gia về y tế. XH hoá hoạt động y tế đạt nhiều kết quả, đặc biệt một số
tỉnh đã huy động các nguồn lực cho đầu tư các bệnh viện chuyên khoa, trạm y
tế xã, nhất là các xã vùng biên giới, hải đảo. Tiêu biểu trong lĩnh vực phát
triển y tế là các tỉnh: Quảng Ninh đã hoàn thành nâng cấp, mở rộng quy mô
các bệnh viện tuyến tỉnh, khu vực huyện; 100% trạm y tế xã cơ bản đã hoàn
thành các mục tiêu chuẩn quốc gia (về trước kế hoạch 5 năm) [9, tr.515].
Lạng Sơn, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều cố gắng,
từng bước nâng cao về chất lượng, không để dịch bệnh nguy hiểm hoặc lớn
xảy ra. Cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh được bổ sung; trình độ năng
lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý, thầy thuốc từng bước được nâng
lên, hiện có 04 bệnh viện tuyến tỉnh, 10 bệnh viện đa khoa cấp huyện, 24
phòng khám đa khoa khu vực, 226 trạm y tế xã, phường, thị trấn; hết năm
2010 có 87,2% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã (mục tiêu 80%); 80% trạm
y tế xã phường, thị trấn có bác sỹ (mục tiêu 80%); 100% nhân viên y tế thôn,
bản có trình độ sơ cấp trở lên, đạt tỷ lệ 8 bác sỹ/vạn dân (mục tiêu 10); công
tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm thường xuyên, tỷ lệ trẻ em dưới 5
tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 29% năm 2005 xuống còn 21,7% năm 2010, đạt
mục tiêu đề ra; công tác kế hoạch hoá gia đình được quan tâm, mức giảm sinh
trung bình hàng năm đạt 0,38% (mục tiêu 0,35-0,4%) [9, tr.429]. Cao Bằng có
74,3/100% thôn bản có cán bộ y tế trình độ sơ cấp trở lên; 60/70% số trạm y
tế có bác sỹ; 7/8 bác sỹ/vạn dân; giảm tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
bình quân 1,34%/năm (mục tiêu 1,5%/năm) [9, tr.271].
Cùng với sự phát triển hệ thống y tế dân sinh, hệ thống y tế của các
LLVT ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cũng phát triển, đạt nhiều thành tựu
đáng khích lệ, nhất là đội ngũ cán bộ y tế của các đơn vị cơ sở bộ đội biên
phòng đã phát huy tác dụng rất lớn không chỉ đảm bảo quân số khoẻ cho đơn
113
vị, mà còn làm tốt công tác phối hợp, kết hợp với các cơ sở y tế của các địa
phương cùng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân đồng bào các dân tộc như: tích
cực tham gia chương trình quân dân y kết hợp khám, chữa bệnh cho đồng bào
các xã, thị trấn biên giới; tham gia tuyên truyền cho đồng bào các xã biên giới
về phòng chống bệnh sốt rét, bướu cổ, lao và phòng các loại dịch bệnh khác.
Tổ chức tập huấn cho y tá thôn, bản; chữa bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho
đồng bào… kết quả đó đã góp phần đáng kể vào việc đảm bảo nguồn nhân lực
cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn.
- Về văn hoá - thông tin. Trên tuyến biên giới phí Bắc trong thời gian
qua đã phát huy khá tốt các trung tâm bưu điện cụm xã và các điểm bưu điện
văn hoá xã, gần 90% xã đã có điểm phục vụ Bưu chính viễn thông [phụ lục 11];
từ đó đã góp phần tích cực đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
đến với đồng bào các dân tộc. Ngành văn hoá - thông tin đã phối hợp với các
đơn vị trên địa bàn tăng cường các hoạt động tuyên truyền cố định, cũng như
lưu động, thông qua nhiều hình thức như triển lãm nhỏ, chiếu phim phục vụ
nhân dân, nhất là các khu vực đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, giáp
biên giới; đồng thời, còn tổ chức các lễ hội truyền thống, ngày hội thể thao
văn hoá các dân tộc, hội thi thông tin tuyên truyền… 100% các tỉnh có các
đoàn nghệ thuật và rạp chiếu phim. Đến nay, 100% địa phương có điện
thoại, hầu hết các vùng, nhất là những khu vực trung tâm KT như: cửa khẩu,
thị xã, thị trấn… đã được phủ sóng thông tin di động. Đặc biệt, đa số các
đồn, trạm biên phòng, các đơn vị chức năng khác như: Hải quan, Thuế vụ,
Kiểm dịch… đã được trang bị đầy đủ máy điện thoại, đảm bảo liên lạc thông
suốt, phục vụ tốt cho quá trình phối hợp công tác cũng như trong sinh hoạt.
Đối với tỉnh Quảng Ninh, hoạt động văn hoá - thông tin phát triển rộng
khắp, góp phần tích cực hiệu quả trong việc đưa thông tin về chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nà nước, KH - CN, văn hoá
114
trong nước và quốc tế, các phong trào thi đua, các tấm gương điển hình
trong lao động, sản xuất đến đông đảo nhân dân. Tỷ lệ phủ sóng phát thanh -
truyền hình đạt trên 95%; 100% thôn, bản có điện thoại. Triển khai sâu rộng
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Nhiều di tích
lịch sử, văn hoá được bảo tồn, tôn tạo, nhiều lễ hội được phục dựng, phát
triển theo hướng kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc xây dựng các thiết
chế văn hoá được qua tâm. Hoạt động văn học nghệ thuật có bước phát triển
mới. Công tác quản lý, khai thác di tích, danh thắng được quy hoạch, sắp
xếp, đầu tư quy mô, kết hợp hiệu quả văn hoá với du lịch; công tác quản lý,
bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long được
quan tâm [39, tr.28-29]. Tỉnh Lạng Sơn, công tác văn hoá - thông tin được
đẩy mạnh; phong trào thi đua toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
phát triển sâu rộng; các thiết chế văn hoá được quan tâm đầu tư xây dựng,
đến nay toàn tỉnh có 62% số hộ được công nhận gia đình văn hoá (mục tiêu
80%); có 35% thôn bản, khối phố đạt chuẩn văn hoá (mục tiêu 60%); có
60% số thôn, bản, khối phố có nhà văn hoá (đạt mục tiêu 60%); 67% số xã
có bưu điện văn hoá xã. Đầu tư tôn tạo, nâng cấp một số di tích lịch sử cách
mạng, văn hoá; các loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian, các giá trị văn hoá
truyền thống được bảo tồn, khôi phục và phát huy [9, tr.429]. Tỉnh Cao
Bằng, số đơn vị cơ sở (làng, bản) có nhà văn hoá: 950/30 đơn vị; tỷ lệ làng,
xóm, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hoá: 50/50%; 73/70-80% gia đình đạt tiêu
chuẩn văn hoá; 82/90% cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hoá. Số điện
thoại/100 dân: 85 máy (mục tiêu 10 máy); tỷ lệ có máy thu hình: 85/85% [9,
tr.271]. Những thành tựu này đã góp phần rất lớn trong phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
- Hoạt động đối ngoại phát triển, công tác QP, AN, quản lý biên giới,
trật tự an toàn XH ở một số tỉnh biên giới phía Bắc được bảo đảm vững chắc
115
Trong thời gian qua, nhìn chung các hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp
tác trong và ngoài nước được đẩy mạnh. Tăng cường quan hệ, hợp tác với các
tỉnh biên giới của Trung Quốc như: Quảng Tây, Vân Nam, cũng như với nước
bạn Lào, giải quyết tốt các vấn đề liên quan nên đã góp phần xây dựng tuyến
biên giới ổn định, phát triển, góp phần củng cố quan hệ giữa Việt Nam -
Trung Quốc, Việt Nam - Lào. Công tác đối ngoại nhân dân được chú trọng,
cùng với hoạt động đối ngoại nhà nước đã góp phần quảng bá hình ảnh một số
tỉnh biên giới phía Bắc, cũng như hình ảnh Việt Nam, tăng cường quan hệ hợp
tác với các nước, đặc biệt là nước láng giềng: Trung Quốc, Lào. Quan hệ hợp
tác phát triển giữa một số tỉnh biên giới phía Bắc với các tỉnh còn lại của khu
vực Trung du miền núi phía Bắc, với các thành phố lớn: Hà Nội, Hải phòng
và các địa phương trong vùng KT trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng Sông
Hồng, vùng Duyên Hải, cũng như với các tỉnh, các vùng trên địa bàn cả nước
được tăng cường. Trong đối ngoại KT, nhìn chung đã có nhiều tiến bộ trong
công tác mời gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là các tỉnh: Quảng Ninh,
Lạng Sơn… [phụ lục 14].
Công tác QP, AN, quản lý biên giới, trật tự an toàn XH ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc luôn được đảm bảo vững chắc, luôn coi trọng xây dựng,
củng cố vững chắc KVPT, thế trận QPTD, ANND trên địa bàn từng tỉnh, phối
hợp giữa các lực lượng ngày càng chặt chẽ; tập trung đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần thực hiện tốt
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ. Các LLVT địa phương được
chăm lo xây dựng; phong trào toàn dân bảo vệ AN Tổ quốc được củng cố,
phát triển sâu rộng. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP, AN, xây dựng
thế trận biên phòng toàn dân được quan tâm, đổi mới cả nội dung, hình thức.
Chủ quyền quốc gia trên bộ, trên biển được giữ vững. Hoàn thành công
tác phân giới, cắm mốc biên giới đất liền. AN chính trị, trật tự an toàn XH được
116
đảm bảo. Tội phạm nghiêm trọng, tội phạm xuyên biên giới đều được điều tra,
khám phá, không để hình thành các tụ điểm phức tạp. Triển khai kiên quyết,
đồng bộ các biện pháp ngăn chặn, xử lý tình trạng khai thác, tiêu thụ khoáng sản
trái phép, nhất là than đá trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Các biện pháp quản lý
nhà nước về trật tự XH, nhất là công tác quản lý lao động là người nước ngoài,
bảo đảm trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, phòng chống tệ nạn
ma tuý đã có chuyển biến tích cực… Với những thành tựu đạt được như trên,
đã tạo môi trường hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi giúp cho một số
tỉnh biên giới phía Bắc phát triển nhanh KT - XH trên địa bàn.
Bốn là, lực lượng quân đội đóng quân trên địa bàn đạt nhiều thành tựu quan
trọng trong thực hiện nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
Toàn lực lượng Quân đội đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới
phía Bắc, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã quán triệt sâu
sắc đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Quân đội về phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN. Toàn lực lượng đã có những chuyển biến tích cực
về nhận thức trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện tốt chủ trương chiến
lược phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Hiện nay, tất cả các đơn vị
đang tổ chức hoạt động sản xuất, làm KT dưới hình thức khai thác, tận dụng
công suất, năng lực sản xuất, phục vụ QP chưa sử dụng đến, theo tinh thần Quyết
định 30/2003/QĐ-BQP ngày 03/9/2008 của BQP về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Quy chế số 30/2003/QĐ - BQP. Theo tinh thần đó, một số đơn vị đã và
đang đầu tư phát triển mạnh việc tăng gia sản xuất làm KT trên toàn địa bàn
đóng quân, nhìn chung các đơn vị đều thực hiện có hiệu quả việc tăng gia sản
xuất làm KT với các loại hình: khu tăng gia tập trung; các đơn vị tự tổ chức tăng
gia sản xuất quanh doanh trại; thực hiện mô hình vườn, ao chuồng... đã tận dụng
được mặt bằng, thời gian để tăng gia, sản xuất, làm KT mang lại hiệu quả cao,
góp phần vừa tạo nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ, cải thiện, nâng cao đời
117
sống bộ đội, vừa tự bổ sung kinh phí, đóng góp tích cực vào xây dựng, hoàn
thành thắng lợi các nhiệm vụ QP, QS của các đơn vị đóng quân trên địa bàn. Đối
với các đoàn KT - QP, thực hiện ý định của BQP, các Quân khu giáp biên giới
phía Bắc đã kết hợp chặt chẽ với các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương tổ
chức triển khai 9 khu KT - QP [phụ lục 3]. Quân khu 1 có: khu KT - QP mẫu
Sơn, Bảo Lạc - Bảo Lâm; hiện nay BQP, Quân khu và địa phương có chủ
trương chuẩn bị tổ chức triển khai mới khu KT - QP ở Cao Bằng và một số
khu vực khác. Quân khu 2 có: khu KT - QP Mường Trà, Vị Xuyên, Xí Mần,
Bát Xát, Phong Thổ - Lai Châu và dự kiến triển khai ở một số khu vực trọng
yếu khác. Quân khu 3 có: khu KT - QP Bắc Hải Sơn, Bình Liêu - Quảng Hà -
Móng Cái. Trong những năm qua, các đoàn KT - QP này đã thu được thành
tựu quan trọng trên tất cả các mặt:
- Về phát triển KT, nhìn chung các khu KT - QP đã giúp dân khai
hoang, cải tạo đồng ruộng, xây dựng ruộng lúa nước, trồng đồng cỏ phục vụ
chăn nuôi gia súc. Trong những năm qua, các khu KT - QP đã chỉ đạo, hướng
dẫn giúp đỡ nhân dân khai hoang phục hoá được 1.100 ha; 352 ha trồng lúa
nước; 237,4 ha nuôi trồng thuỷ hải sản; 7.952 ha trồng cây ngắn ngày; chăn
nuôi 4.592 con trâu, bò; 3.148 con lợn; trồng mới được 17.707 ha rừng; bảo
vệ và chăm sóc 35.388 ha rừng. Đặc biệt, đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ
thuật về sản xuất, chăn nuôi được 87 lớp cho 21.299 lượt người. Điển hình là
mô hình trồng thuỷ sản tại khu vực Lục Lầm của Lâm trường 27 thuộc khu
KT - QP Bình Liêu - Quảng Hà - Móng Cái đã đem lại hiệu quả; bằng sự hỗ trợ
kỹ thuật, giống, vốn của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ KH - CN
và môi trường, kết hợp với các hộ dân hùn vốn, đến nay đã đưa vào sử dụng
hơn 200 ha đầm nuôi tôm, cá..., một số đầm có năng suất hàng năm đạt 7 đến 8
tấn tôm/1 ha, tạo ra mô hình phát triển KT điển hình của khu KT - QP [phụ lục 4].
Khu KT - QP Mẫu Sơn đã phối hợp chặt chẽ với các huyện Cao Lộc, Lộc
118
Bình, Đình Lập tổ chức tập huấn kỹ thuật khuyến nông, khuyến lâm cho 480
hộ dân, hỗ trợ giống, phân bón cho 399 hộ dân trồng 50 ha lúa lai, 25 ha ngô
lai (năng suất lúa đạt 240 - 260 kg/1 sào, năng suất ngô đạt 280 - 300kg/1
sào); trồng được 34 ha cây ăn quả, 15 ha cây xoài ghép, 5 ha tre măng Bát bộ,
hỗ trợ gần 100 hộ dân chăn nuôi bò cái sinh sản... Kết hợp với các dự án, các
chương trình khác của chính phủ, các đoàn KT - QP kết hợp với các địa
phương thực hiện chương trình 135, khuyến nông, khuyến lâm, xoá đói giảm
nghèo, bước đầu đã thay đổi tập quán canh tác, sinh hoạt của nhân dân:
chuyển từ nuôi lợn thả rông sang nuôi lợn cao sản, nhốt chuồng; đưa trâu, bò
ra khỏi gầm nhà sàn; trồng các giống cây ăn quả, cây cao sản; biết cày cấy,
làm lúa nước; bước đầu hình thành hoạt động dịch vụ hai đầu nhằm cung cấp
vật tư, bao tiêu sản phẩm...
- Về XH, các đoàn KT - QP đã phối hợp với các địa phương tuyên
truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia phát triển văn
hoá - XH với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư”. Các hoạt động văn - thể, các phong trào xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình hạnh phúc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, xoá mù chữ, bài trừ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, ăn ở vệ sinh
khoa học... được nhân dân trên địa bàn tích cực thực hiện, tạo được
chuyển biến mới, góp phần từng bước XH hoá các lĩnh vực văn hoá, giáo
dục, thể thao, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Đến nay, tại các khu KT - QP có
nhiều bản, làng, gia đình được công nhận “Làng văn hoá”, “Gia đình văn
hoá”; đã xây dựng được 19 nhà văn hoá, hàng chục trạm thu phát truyền
hình, đưa hệ thống phát thanh truyền hình về thôn, bản; triển khai chương
trình quân dân y kết hợp, tổ chức khám chữa bệnh cho 71.164 lượt người
dân... góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần cho đồng bào các
dân tộc trên địa bàn.
119
- Về xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, trong những năm qua, các khu KT - QP
trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc đã xây dựng hoàn thành 548 km
đường giao thông các loại; 18 cầu bê tông và cầu treo; 16 bệnh xá quân dân y
kết hợp với 5.729 m2; 10 trường học, nhà trẻ, mẫu giáo với 2.940 m2; 40
công trình thuỷ lợi, công trình cấp nước sạch; 10 trạm biến thế điện, hàng
trăm km đường điện; xây dựng 750 m2 nhà văn hoá, xây mới 7 trụ sở uỷ ban
xã, 6 trạm bưu điện mới; gần 1.000 m2 nhà chợ; 700 m2 nhà chăn nuôi, đào
mới 30 ha nuôi trồng thuỷ hải sản, khai hoang phục hoá được 270 ha trồng
lúa, khai phá mới 3.434 ha trồng rừng... Ngoài ra, còn nhiều công trình đang
triển khai thực hiện. Xây dựng được 50.031 m2 hệ thống nhà doanh trại, nhà
làm việc nhằm giảm bớt khó khăn, ổn định nơi ăn ở cho cán bộ, công nhân
viên, chiến sỹ trên địa bàn Quân khu 1: 7.955 m2, Quân khu 2: 34.316 m2,
Quân khu 3: 7.760 m2.
- Về ổn định dân cư tại các địa bàn chiến lược, thực hiện nhiệm vụ
Chính phủ tại quyết định 135, những năm qua, tại các khu KT - QP ở một
số tỉnh biên giới phía Bắc đã thực hiện di dân, sắp xếp ổn định, bố trí lại
dân cư, tạo nên thế và lực mới đảm bảo QP, AN, bảo vệ biên giới. Các khu
KT - QP đã tổ chức đón nhận được 3.613 hộ dân; di dãn dân và tách trên
5.000 hộ; đồng thời, tạo việc làm cho gần 10.000 nhân khẩu; kiện toàn mới
được 14 tổ chức đảng, tổ chức chính quyền tại các địa bàn xây dựng, điển
hình như: Khu KT - QP Mường Chà, từ tình trạng dân sống tản mạn không
tập trung, hiện nay đã xây dựng được 13 cụm điểm bản tại các xã: Chà
Nưa, Chà Cang, Na Hỳ huyện Mường Lay và các xã Mường Toong, Mường
Nhé, Xín Thầu, Chung Chải, Tà Tổng huyện Mường Nhé; sắp xếp ổn định
cho 1.850 hộ với 11.096 nhân khẩu, trong đó có 620 hộ với 3.557 khẩu tại
chỗ, định canh định cư cho 1.230 hộ với 7.539 khẩu là dân di cư tự do. Khu
KT - QP Bình Liêu - Quảng Hà - Móng Cái, sau chiến tranh biên giới có
120
một số xã “trắng dân” không thể thành lập được đơn vị hành chính, Đoàn
KT - QP 327 đã phối hợp với các cấp chính quyền địa phương di dân, tách
hộ được 2.841 hộ, trong đó đoàn KT - QP đã sắp xếp, đón nhận được 885
hộ lên biên giới với nhiều hình thức phong phú; nhờ đó đã khôi phục được
2 xã Bắc Sơn và Hải Sơn. Khu vực Lục Lầm đã từng bị xoá tên sau cuộc
chiến tranh biên giới, đến nay đã đưa được 150 hộ dân ra làm ăn sinh sống,
nuôi trồng thuỷ hải sản, phát triển các hoạt động sản xuất, góp phần tạo ra
vành đai bảo vệ biên giới và đề nghị các cơ quan chức năng thành lập lại đơn vị
hành chính xã. Trên địa bàn khu KT - QP Mẫu Sơn và Bảo Lạc - Bảo Lâm đã tổ
chức di dân được 357 hộ, trong đó khu KT - QP Mẫu Sơn (Lạng Sơn) gồm
12 xã biên giới thuộc 3 huyện với 28 bản giáp biên, sau chiến tranh biên
giới cơ bản nơi đây là những thôn, bản trống, kết cấu hạ tầng gần như mất
trắng, đất đai còn nhiều bom mìn, đến nay đã triển khai xây dựng khôi
phục xong 6 bản và đang tiếp tục triển khai thực hiện ở một số bản khác.
Khu KT - QP Bảo Lạc - Bảo Lâm mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng đã
tổ chức xây dựng được 3 bản dân cư mới.
- Về QP, AN, trên cơ sở quy hoạch và đầu tư xây dựng các cụm, điểm dân
cư sát tuyến biên giới, các khu KT - QP đã hỗ trợ vốn làm nhà và cây con giống,
giúp đỡ về kỹ thuật lao động sản xuất, chống di dân và đón nhận dân ở tuyến sau
đến định cư, giúp dân ổn định cuộc sống lâu dài... Đó là nền tảng vững chắc để
các khu KT - QP tổ chức xây dựng thế trận QP, AN, góp phần bảo vệ vững chắc
chủ quyền biên giới quốc gia trong những năm qua. Các khu KT - QP đã phối
hợp chặt chẽ với các lực lượng: ban chỉ huy QS các huyện, bộ đội biên phòng,
dân quân tự vệ, cấp uỷ đảng và chính quyền trên địa bàn làm tốt công tác QP, AN, giữ
vững trật tự và an toàn XH. Mở hàng chục lớp bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho
2.991 lượt người, tổ chức 46 lớp bồi dưỡng và tập huấn dân quân tự vệ cho
8.963 lượt người... đây là nhân tố nòng cốt góp phần quan trọng trong việc tuyên
121
truyền, giáo dục, giữ vững ổn định tình hình trên địa bàn, tạo được niềm tin
tưởng cho nhân dân đồng bào các dân tộc và cấp uỷ chính quyền cơ sở. Lực
lượng của khu KT - QP thực hiện đồng thời 3 chức năng: chiến đấu, công tác,
sản xuất. Với nhiệm vụ QP, AN, các khu KT - QP đã tổ chức xây dựng lực
lượng, biên chế, trang bị theo quyết định của Bộ trưởng BQP; tổ chức huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu đúng kế hoạch đạt chất lượng tốt. Thường xuyên bám
nắm địa bàn, xây dựng, luyện tập theo các phương án chiến đấu, sẵn sàng cơ
động đánh địch khi có tình huống xảy ra; kết hợp với ban chỉ huy QS huyện, xã
từng bước làm tốt công tác đăng ký, quản lý, huấn luyện lực lượng dự bị động
viên. Đến nay, trên các địa bàn có khu KT - QP cơ bản đã không còn xảy ra các
điểm nóng về tình trạng di dịch dân tự do, tổ chức truyền đạo trái phép; các tệ
nạn trong vùng đã giảm đáng kể như: buôn bán, tàng trữ, sử dụng ma tuý, mại
dâm, vượt biên trái phép... Những thành tựu trên đã góp phần tạo ra môi trường
thuận lợi để xây dựng, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc XHCN.
Nguyên nhân
Một là, trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu
sát của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ban, ngành. Đây là nguyên nhân
quan trọng hàng đầu. Xuất phát từ vị trí chiến lược, vai trò quan trọng đối với
sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Do đó, một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn
nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của Đảng,
Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ban, ngành, giúp cho một số tỉnh biên giới phía
Bắc đổi mới và phát triển đúng hướng, nhằm thúc đẩy nhanh quá trình phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đạt kết quả cao.
Hai là, Đảng bộ, chính quyền, cùng với toàn dân, toàn quân trên địa
bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn có sự nhạy bén trong đổi mới tư duy,
122
vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và phát
huy tinh thần đoàn kết, vượt mọi khó khăn trong thực hiện phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN. Đây là nguyên nhân chủ quan có ý nghĩa trực tiếp làm
nên những thành tựu trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, tạo
nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc biên giới phía Bắc của Tổ quốc, góp
phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và BVTQ trong
thời kỳ mới.
Ba là, Bộ Tư lệnh các quân khu: Quân khu 1, Quân khu 2, Quân khu 3
và Bộ Chỉ huy QS, Bộ Chỉ huy biên phòng một số tỉnh biên giới phía Bắc
thường xuyên quán triệt sâu sắc, chỉ đạo thực hiện sâu sát, quyết liệt đường
lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN trên địa bàn toàn tuyến biên giới phía Bắc.
Bốn là, Đảng bộ, chính quyền các tỉnh và Quân đội, Công an trên địa
bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc thường xuyên có sự phối hợp chặt chẽ, sự
phấn đấu nỗ lực trong qua trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.
Năm là, trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc thường xuyên nhận được sự quan tâm hợp tác
giúp đỡ có hiệu quả của nhân dân cả nước và các nước láng giềng Trung Quốc,
Lào (tuy nhiên, trong tình hình mới hiện nay, nhất là việc Trung Quốc hạ đặt trái
phép giàn khoan Hải Dương (Halyang Shlyou) 981 (5/2014) vừa qua, một lần
nữa nhắc chúng ta cần phải cảnh giác, tỉnh táo trong ứng xử, phân biệt rõ đối tác,
đối tượng...). Các địa phương trong cả nước thường xuyên quan tâm, hợp tác
chặt chẽ về chính trị, KT - XH, văn hoá, QP, AN với quân và dân các dân tộc ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc đẩy nhanh tốc độ phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN. Các nước láng giềng Trung Quốc, Lào có quan hệ ngày càng rộng
mở; nâng cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm tạo điều kiện thuận
lợi cho các tỉnh vùng biên giới phía Bắc đẩy nhanh tốc độ phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN.
123
3.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Những hạn chế
Một là, hạn chế trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực
hiện phát triển các ngành, các lĩnh vực
Công tác lập quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực hiện phát triển các
ngành, các lĩnh vực ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời gian qua vẫn
còn bộc lộ không ít tồn tại, yếu kém. Sự thiếu đồng bộ giữa phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN còn xảy ra ở nhiều vùng, nhiều khu vực trên địa bàn
biên giới, cụ thể là:
- Công tác quy hoạch, kế hoạch còn thiếu đồng bộ và phù hợp với tiềm
năng, khả năng thực tế của các tỉnh. Các huyện, thị xã, xã, phường tuy đã
khẩn trương lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch
phân khu, quy hoạch chi tiết... song chưa đồng bộ, chưa sát với khả năng, nhu
cầu phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong từng thời kỳ, từng địa
phương và từng ngành. Vì vậy, xuất hiện khá nhiều quy hoạch treo, thậm chí
là treo quá lâu; tình trạng điều chỉnh quy hoạch tổng thể cũng như từng vùng,
từng địa phương và điều chỉnh dự án quá nhiều lần; tình trạng phát triển đô thị
chưa đồng bộ với hạ tầng giao thông, phát triển dân chưa đồng bộ với phát
triển dịch vụ y tế, trường học, mạng lưới bán lẻ, chợ; tình trạng hạ tầng lưới
điện, thông tin, truyền thông quá phức tạp gây nhiều lãng phí, bất lợi cho cả
hoạt động KT, dân sinh, cả AN, QP.
- Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp, khu công nghiệp, cụm công
nghiệp tập trung, ít nhiều vẫn thấy tình trạng chạy theo số lượng, chiều sâu
của sự phát triển chưa thật sự đạt mong muốn. Tình trạng công nghệ lạc hậu,
dự án vốn thấp, chủ yếu là gia công lắp ráp, tiêu thụ hàng cho nước ngoài,
công nghiệp phụ trợ phát triển không đồng bộ... Điều này không chỉ ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng, phát triển KT - XH bền vững trên địa bàn, mà còn
124
ảnh hưởng đến phát triển tiềm lực CNQP, huy động tiềm lực đó phục vụ đảm
bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc và cả nước. Quy
hoạch phát triển công nghiệp, công nghệ lưỡng dụng còn hạn chế.
- Quy hoạch tổng thể phát triển thuỷ lợi, thuỷ sản, phát triển rừng...
chưa thật sự gắn kết với việc tạo hạ tầng, thiết bị chiến trường, các cụm phòng
ngự liên hoàn, bảo đảm cho tỉnh giữ tỉnh; huyện, thị giữ huyện, thị; làng, bản
giữ làng, bản và phối hợp tác chiến của KVPT tỉnh.
- Công tác quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án giải quyết việc
làm, giảm nghèo, ổn định tình hình KT, đời sống, XH nhiều địa phương ở một
số tỉnh biên giới phía Bắc chưa thật sự đồng bộ, bền vững. Thị trường lao
động của các tỉnh tuy đã dần đi vào chiều sâu nhưng chưa thật sự vững chắc.
Công tác đào tạo nghề, phát triển làng nghề truyền thống, hỗ trợ vốn, kiến
thức, kỹ thuật công nghệ, tìm kiếm thị trường... nhằm tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập ổn định cho nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới ở
một số tỉnh, ven biển, đảo (Quảng Ninh) vẫn còn tình trạng chưa sát thực tế,
lãng phí và thiếu tính bền vững.
- Quá trình triển khai thực hiện quy hoạch phát triển hệ thống trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung học dạy nghề ở một số tỉnh còn chậm.
- Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở các
tỉnh chưa quan tâm thoả đáng đến việc gắn kết chặt chẽ phát triển KT - XH với
đảm bảo QP, AN. Hệ thống hạ tầng KT - XH khu vực nông thôn, nhất là vùng
sâu, vùng xa, biên giới đầu tư chưa đồng bộ, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát
triển KT và đời sống của nhân dân đồng bào các dân tộc. Hạ tầng giao thông,
thuỷ lợi, điện, nước... phục vụ sản xuất ở một số địa phương trên địa bàn các
tỉnh còn gặp nhiều khó khăn. Môi trường khu vực nông thôn và thành thị ở
nhiều địa phương còn bị ô nhiễm, có nơi khá nghiêm trọng, nhất là ở các khu
vực làng nghề chế biến nông sản, một số khu công nghiệp tập trung, các hộ
125
chăn nuôi quy mô lớn, cũng như chăn nuôi phân tán trong khu vực dân cư.
Quản lý đất đai ở nhiều nơi thuộc các tỉnh trên địa bàn còn bị buông lỏng, dẫn
tới lấn chiếm, sử dụng sai mục đích…
Hai là, hạn chế trong phát triển KT, cơ cấu KT chuyển dịch còn chậm, hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các ngành KT còn thấp; đời
sống của nhân dân đồng bào các dân tộc còn chậm được cải thiện và nâng cao.
Nhìn chung trong những năm qua, chuyển dịch cơ cấu KT, tỷ trọng
công nghiệp dịch vụ còn thấp so với yêu cầu. Nền KT chưa phát huy hết nội
lực, kết hợp với việc thu hút, sử dụng tốt các nguồn lực khác để phát triển;
quy mô nền KT ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nhìn chung còn nhỏ lẻ, chất
lượng hiệu quả thấp, nhiều chỉ tiêu cơ bản chưa tạo được sự chuyển biến căn
bản về chất, còn thấp so với mục tiêu, yêu cầu đề ra, còn cách xa so với mức
trung bình của cả nước. Mắc dù một số tỉnh biên giới phía Bắc là địa bàn có
nhiều tiềm năng phát triển, song GDP bình quân trên đầu người thấp so với
bình quân cả nước. Nền KT chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, tự cấp,
tự túc. Các tiềm năng lợi thế lớn trên địa bàn chậm được khai thác, đổi mới.
Cơ chế, chính sách khai thác tiềm năng đất đai, đồi rừng, khoáng sản, dịch
vụ, KT cửa khẩu, việc thu hút các thành phần KT đầu tư, phát triển trên từng
tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, kết quả đạt thấp. Chỉ số năng lực cạnh
tranh của hầu hết các tỉnh trên địa bàn còn thấp.
Ngành công nghiệp nhìn chung quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất phần
lớn lạc hậu, công nghiệp chế biến khoáng sản chưa được đẩy mạnh. Sự phát
triển ngành công nghiệp chủ yếu dựa trên tăng trưởng về số lượng, tập trung ở
ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, chế biến nông - lâm sản.
Ngành ngoại thương của một số tỉnh biên giới phía Bắc phát triển chủ
yếu là với Trung Quốc, xuất khẩu trong những năm qua tuy có tăng đáng kể
nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu nhỏ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là
126
khoáng sản, chè… nhưng có khối lượng nhỏ, không ổn định. Ngành thương
mại chưa thiết lập được mối liên kết lâu dài giữa các cơ sở sản xuất với các
công ty thương mại để hình thành các kênh lưu thông hàng hoá hoàn chỉnh,
mở rộng mạng lưới thương mại liên vùng, cả nước và với quốc tế.
Trong ngành nông - lâm - thuỷ sản, một số giống cây trồng, vật nuôi
chưa chủ động được, vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc. Hệ số sử dụng
đất cho trồng trọt còn thấp, chưa hình thành vùng chuyên canh trồng một
số nông sản có giá trị cao, chưa áp dụng được các công nghệ tiên tiến vào
sản xuất, thu hoạch và sau thu hoạch. Khâu chế biến nông sản chưa đáp
ứng nhu cầu, chỉ có gạo, ngô, chè, thuốc lá được chế biến và sơ chế. Các
sản phẩm khác như: thảo quả, đỗ, lạc, vừng, rau, hoa quả chưa có các nhà
máy chế biến. KT lâm nghiệp phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm
năng. Là vùng biên giới có thế mạnh về rừng nhưng nghề rừng chưa tạo
được nhiều việc làm và thu nhập cao cho người lao động. Chưa có chính
sách phát triển rừng một cách hợp lý, tỷ lệ rừng sản xuất còn ít nên mức
đóng góp của ngành lâm nghiệp trong nền KT còn thấp.
Ba là, hạn chế trong phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
Trong thời gian qua, mắc dù ở địa bàn một số tỉnh biên giới phía
Bắc đã được Nhà nước ưu tiên vốn đầu tư tương đối lớn để phát triển kết
cấu hạ tầng, song do điều kiện địa hình phức tạp, chia cắt, hiểm trở, đồng
bào các dân tộc sinh sống không tập trung… Do vậy, nhìn chung hiệu quả
đầu tư còn thấp, so với yêu cầu thực tế thì mới chỉ đáp ứng được phần
nào, đặc biệt là chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN trên địa bàn.
- Kết cấu hạ tầng chưa tạo sự chuyển biến căn bản, còn nhiều khó khăn yếu
kém; nhiều công trình, dự án quan trọng chưa được triển khai hoặc triển khai
chưa đồng bộ. Đặc biệt, các tuyến đường quốc lộ liên quan đến nhiều địa
127
phương như: tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai; quốc lộ 1 Hà Nội - Lạng Sơn;
đường 18 Bắc Ninh - Quảng Ninh; đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai; quốc lộ 3
Hà Nội - Thái Nguyên - Cao Bằng… còn gây ách tắc, chưa tạo điều kiện thu hút
các nguồn lực đầu tư. Mạng đường giao thông nông thôn phát triển chậm, chất
lượng chưa cao, nhất là vùng sâu, vung xa, vùng biên giới. Nhiều công trình thuỷ
lợi thi công chậm, hiệu quả quản lý sau đầu tư thấp, tình trạng thiếu nước phục
vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân diễn ra rất nhiều nơi, nhất là về mùa khô ở
các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Nhu cầu nước tưới cây công
nghiệp lớn nhưng chưa đủ sức đầu tư, các công trình kè sông biên giới triển khai
còn chậm so với yêu cầu. Kết cấu hạ tầng XH vùng nông thôn ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc, nhất là hệ thống trường học, trạm y tế, thiết bị văn hoá còn thiếu
và chất lượng thấp. Việc hình thành các trung tâm KT của các tỉnh chậm được
quy hoạch và đầu tư; kết cấu hạ tầng một số khu vực cửa khẩu, khu KT cửa khẩu
còn thiếu đồng bộ, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của một số tỉnh biên
giới phía Bắc. Việc ban hành chủ trương, chính sách thu hút đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng về giao thông nông thôn còn chậm.
- Nhiều dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực, sản
phẩm có lợi thế chưa được tập trung đầu tư đúng mức, vì vậy chưa “tạo ra các
mũi đột phá làm điểm tựa để phát triển những địa phương có ít lợi thế”. Thu hút
đầu tư để khai thác tiềm năng, lợi thế công nghiệp, nông, lâm nghiệp… chưa
mạnh mẽ, phát triển thuỷ điện vừa và nhỏ còn nhiều khó khăn vướng mắc. Khai
thác khoáng sản còn lộn xộn, chủ yếu vẫn là tiêu thụ than đá, các loại quặng thô,
đem lại hiệu quả thấp. Nhiều dự án chế biến nông sản chưa gắn với vùng nguyên
liệu và thị trường tiêu thụ, dẫn đến tình trạng thua lỗ kéo dài. KT cửa khẩu được
các địa phương xác định là trọng điểm, mũi nhọn, nhưng do tình trạng thiếu vốn
nên triển khai chậm, nhiều nơi hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ. Cơ chế, chính
sách đối với KT cửa khẩu còn nhiều bất cập; chưa hình thành động lực thu hút
128
đầu tư, kinh doanh, chưa khuyến khích các địa phương đầu tư phát triển, chất
lượng chưa cao, khả năng cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thấp;
tình trạng bồi lắng sông, suối, hồ đập ở mức cao làm ảnh hưởng đến nguồn thuỷ
năng của nhiều công trình thuỷ điện.
- Đời sống XH còn nhiều khó khăn, bức xúc. Đời sống vật chất, tinh thần của
đồng bào vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, mức hưởng thụ các dịch vụ
công cộng thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật sự
bền vững, nguy cơ tái nghèo cao. Công tác ổn định dân cư, đưa dân cư trở lại biên
giới thực hiện chậm, kết quả chưa bền vững, tình trạng di dịch cư tự do vẫn diễn
biến phức tạp. Công tác GD - ĐT, KH - CN chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực tại chỗ cho phát triển KT - XH, QP, AN của các tỉnh. Chất lượng, hiệu
quả GD - ĐT còn thấp. Nhiều dự án y tế, GD - ĐT, KH - CN triển khai chậm, các
bệnh viện tuyến tỉnh, huyện mới chỉ được bề ngoài, thiết bị bên trong còn thiếu,
công nghệ lạc hậu. Các tệ nạn XH còn chậm được đẩy lùi: tệ nạn ma tuý, tình
trạng buôn lậu còn diễn biến phức tạp; một số phong tục, tập quán, hủ tục lạc hậu
vẫn còn tồn tại. Tình trạng AN chính trị, trật tự an toàn XH vẫn tiềm ẩn nhiều
nhân tố phức tạp trên địa bàn, nhất là địa bàn các xã, huyện biên giới.
Bốn là, những hạn chế của lực lượng Quân đội đóng quân trên địa bàn
thực hiện nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
Trong những năm qua, những đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn
một số tỉnh biên giới phía Bắc (loại hình các đơn vị dự toán có thu) công tác
đầu tư cho nhiệm vụ tăng gia sản xuất làm KT còn hạn chế, hiệu quả thấp.
Đối với các đoàn KT - QP, quá trình xây dựng có nhiều khó khăn, công tác
quy hoạch, kế hoạch xây dựng có khu KT - QP thiếu cụ thể; chưa huy động được
sức mạnh tổng hợp; hiệu quả xây dựng thấp, chất lượng hạn chế, chưa thực hiện
được tự cân đối theo quy định của Nhà nước. Nhìn chung các khu KT - QP xây
dựng trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là những địa bàn có địa hình phức
129
tạp, khí hậu khắc nghiệt, hệ thống kết cấu hạ tầng chưa phát triển, chất đất khô cằn,
độ dốc lớn, đất canh tác ít, rất khó khăn cho phát triển sản xuất và chăn nuôi. Trong
thực tiễn, các khu KT - QP bước đầu đã gắn kết phát triển KT - XH với đảm bảo
QP, AN; tuy nhiên trước mắt vẫn phải lấy mục tiêu đảm bảo QP, AN là chủ yếu, tập
trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên tuyến
biên giới. Do vậy, trong lĩnh vực phát triển KT khả năng cạnh tranh khó khăn nên
rất khó có lãi, vẫn phải hoạt động theo cơ chế bao cấp là chính.
Các đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc đều chưa tổ
chức được sản xuất tập trung, nhìn chung chưa định hình rõ ràng mô hình xây
dựng, phát triển KT. Điều 21, Quy chế hoạt động của đoàn KT - QP nêu rõ:
“Đoàn KT - QP phải phối hợp với địa phương khảo sát thống kê các hộ đói nghèo
trong vùng dự án theo tiêu chí xác định của Nhà nước; lập mô hình và các biện
pháp xoá đói, giảm nghèo cho các nhóm hộ, thậm chí đến từng hộ; sơ kết, tổng kết
đánh giá kết quả thực hiện xoá đói, giảm nghèo, phải đối chiếu với tiêu chuẩn do
Nhà nước qui định, phải cụ thể và thực chất”. Thế nhưng quá trình thực hiện quy
chế, việc thống kê, phân loại, đánh giá các hộ nghèo chỉ mới một vài đoàn thực hiện
tốt, song chưa xây dựng được nề nếp phối hợp với chính quyền địa phương để đánh
giá. Trong quá trình giúp đồng bào xoá đói, giảm nghèo, một việc rất quan trọng là
tổ chức làm dịch vụ hai đầu (cung ứng vật tư, giống, hướng dẫn kỹ thuật, tạo điều
kiện để nhân dân tiêu thụ, trao đổi sản phẩm làm ra) thì các đoàn KT - QP nói
chung vẫn đang trong quá trình tìm tòi, nên đã hạn chế đến chính sách xoá đói giảm
nghèo theo tinh thần Quyết định 135/CP của Thủ tướng Chính phủ.
Một số dự án trong khu KT - QP có quy hoạch chồng lấn với các dự án
của địa phương; ngược lại, một số địa phương lại coi các khu KT - QP là cơ
hội nhanh chóng để phát triển KT - XH địa phương mình nên ỷ lại Quân đội
lo các điều kiện về KT, văn hoá, XH cho dân, thậm chí Quân đội phải lo toàn
bộ cho dân cả việc ăn, ở, học hành, khám chữa bệnh, AN, trật tự... như một
130
chính quyền “quân quản”. Một số địa phương chưa làm hết trách nhiệm trong
chăm lo bố trí đất ở, đất canh tác, giải quyết các vấn đề hành chính, có địa
phương không muốn đón nhận nhân dân từ các tỉnh khác đến, tổ chức di, giãn
dân nội tỉnh, nội huyện còn chậm.
Sự phối hợp giữa các đoàn KT - QP với Bộ Chỉ huy QS tỉnh ở một số
tỉnh còn lỏng lẻo, dẫn đến chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của sự gắn
bó giữa các lực lượng quân đội cùng đóng quân trên địa bàn, do đó đã hạn chế
đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ QS và công tác tổ chức xây dựng khu KT - QP.
Một số khu KT - QP chưa quan tâm đúng mức đến việc sử dụng tiếng đồng
bào các dân tộc và sử dụng cán bộ là người dân tộc tại chỗ, làm ảnh hưởng
đến công tác dân vận, nắm tình hình địa bàn, tổ chức xây dựng và giải quyết
các tình huống xảy ra trong khu KT - QP...
Nguyên nhân
Trước hết, cần phải khẳng định những hạn chế, yếu kém trong quá trình
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc
thời gian qua là do nguyên nhân sâu xa thuộc về nhận thức.
Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ đứng đầu đơn vị, địa
phương nhận thức về sự cần thiết phải xây dựng nền QPTD, gắn kết giữa hai
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ biên giới, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
QP, AN ngay từ trong thời bình còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, trong tư duy
cũng như hành động còn có biểu hiện nghiêng nhiều, thậm chí tuyệt đối hoá
lĩnh vực phát triển KT - XH, xem nhẹ nhiệm vụ đảm bảo QP, AN và ngược
lại. Dẫn đến việc quán triệt, tuyên truyền và nhận thức về vị trí, vai trò tầm
quan trọng của nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN chưa
thật sự sâu rộng, do đó công tác tổ chức thực hiện ở một số địa phương có mặt
công tác chưa đáp ứng yêu cầu. Một số cấp uỷ, chính quyền thiếu chủ động, chưa
đề cao tinh thần trách nhiệm, chưa thật sự sáng tạo trong phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN trên địa bàn.
131
Hai là, điểm xuất phát của một số tỉnh biên giới phía Bắc thấp, điều kiện
tự nhiên khó khăn, hầu hết các tỉnh thuộc diện miền núi, biên giới, thành phần
dân cư cơ bản là đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống… do đó sức hấp dẫn
thu hút đầu tư nguồn ngoại lực kém; khả năng huy động các nguồn lực tại chỗ
hạn chế. Đó chính là lực cản không nhỏ cho phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN trên địa bàn.
Ba là, trình độ dân trí, chất lượng nhân lực, trình độ năng lực của đội ngũ
cán bộ trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc nói chung, đội ngũ cán bộ cơ
sở nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là trình
độ nhận thức về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN còn hạn chế, còn
tư tưởng trông chờ, ỷ lại, coi đó là công việc chưa cấp bách, thiếu thiết thực và là
công việc do cấp trên, do quân đội và công an đảm nhiệm…
Bốn là, hệ thống chính sách phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
của Nhà nước, của các tỉnh, địa phương, đơn vị trên địa bàn biên giới phía
Bắc chưa đồng bộ, thiếu cơ chế, giải pháp rõ ràng nên nhiều khi, nhiều trường
hợp cấp dưới, cấp cơ sở thực hiện chính sách do cấp trên quy định còn mang
tính đối phó, hình thức; chưa thật sự tự giác, vận dụng thiếu sáng tạo. Nhiều
chính sách, nhất là chính sách bảo đảm lợi ích của chủ thể gắn kết giữa phát
triển KT - XH với đảm bảo QP, AN chưa thật sự phù hợp, nên chưa khuyến
khích, tạo ra động lực chính trị - tinh thần, gắn trách nhiệm, nghĩa vụ với kích
thích bằng lợi ích vật chất đối với chủ thể để thực hiện gắn kết phát triển KT - XH
với đảm bảo QP, AN trên địa bàn. Dẫn đến tình trạng hạn chế, yếu kém trong
thực hiện chủ trương chiến lược phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là không tránh khỏi.
Năm là, công tác đảm bảo AN, trật tự an toàn XH và môi trường sinh thái,
tạo điều kiện cho phát triển KT - XH chưa vươn lên ngang tầm với tình hình mới,
điều kiện mới của một số tỉnh biên giới phía phía Bắc. Trong thời kỳ đổi mới, một
số tỉnh biên giới phía Bắc tuy có nhiều thuận lợi, nhưng cũng đứng trước nhiều
132
thách thức mới nảy sinh ngay trong điều kiện phát triển nền KT thị trường định
hướng XHCN, hội nhập quốc tế, sự giao lưu thương mại, dịch vụ ngày càng tăng
giữa các tỉnh biên giới phía Bắc với hai tỉnh: Vân Nam, Quảng Tây - Trung Quốc
và với Lào, cũng như với các địa phương trong cả nước. Sự gia tăng dân số; việc
di, dịch cư tự nhiên và cơ học; nguồn nhân lực ngoại tỉnh đến các khu KT cửa
khẩu làm ăn ở một số tỉnh biên giới phía Bắc... cũng đã và đang làm xuất hiện
nhiều thách thức mới về AN, trật tự an toàn XH... Đó chính là những nguyên nhân
cơ bản dẫn đến sự hạn chế, yếu kém trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời gian qua.
3.3. Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc
3.3.1. Yêu cầu ngày càng cao trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh với việc nhận thức còn hạn chế của
một bộ phận không nhỏ nhân dân và cán bộ ở một số tỉnh biên giới phía Bắc
Tư duy mới về nhiệm vụ BVTQ và nhiệm vụ QP, AN trong thời kỳ mới
đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN. Để phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đáp ứng tốt yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng, một vấn đề quan trọng đặt ra cần phải giải quyết đó
là mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao của phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN với sự nhận thức còn hạn chế của một bộ phận nhân dân và cán
bộ ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được xác
định bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững
hoà bình, ổn định chính trị, đảm bảo AN quốc gia, trật tự, an toàn XH; chủ động
ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù
địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đồng thời, nhấn mạnh đến
việc giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời... sẵn sàng ứng phó với các
133
mối đe doạ AN phi truyền thống mang tính toàn cầu. Đặc biệt, trong bối cảnh tình
hình tranh chấp chủ quyền biển, đảo đang diễn ra hết sức gay gắt, phức tạp; nhất là
việc Trung Quốc đơn phương đặt giàn khoan Hải Dương (Halyang Shlyou) 981
trái phép trong vùng đặc quyền KT của Việt Nam và đâm chìm thuyền cá của ngư
dân Việt Nam thì vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo đối với nước ta
càng đặt ra yêu cầu cao hơn trong mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ.
Nhiệm vụ QP, AN đã được Đảng ta xác định là: “Bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân”, “giữ vững hoà bình”, “bảo đảm an ninh quốc gia”. Trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ QP, AN tiếp tục được kế thừa, phát
triển: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc”. Sự phát triển đó làm cho nhiệm vụ BVTQ của QP, AN ngày
càng toàn diện, chính xác và phù hợp hơn với tình hình mới.
Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ trong thời
kỳ mới, cần phải thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Vấn đề đó
chỉ đạt được hiệu quả cao khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận thức một cách
sâu sắc và được thực hiện từ đơn vị cơ sở, có liên hệ phối hợp chặt chẽ với nhau trên
từng địa bàn, từng khu vực và trên phạm vi cả nước. Thế nhưng, trên thực tế vẫn còn
một bộ phận không nhỏ nhân dân và cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ cao cấp
của Đảng, Nhà nước và địa phương ở một số tỉnh biên giới phía Bắc có những nhận
thức phiến diện về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN: còn có quan niệm
cho rằng trong bối cảnh hiện nay, cần tận dụng cơ hội để hợp tác và phát triển
KT, tập trung nỗ lực cho CNH, HĐH, coi nhẹ nhiệm vụ QP, AN, coi nhẹ việc
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Từ đó, họ đưa ra yêu cầu không nên
duy trì Quân đội với quân số đông, không cần đầu tư ngân sách cho QP, AN nhiều;
hơn thế nữa còn có những ý kiến kiến nghị với Đảng, Nhà nước thu hẹp tổ chức, biên
chế của QĐND và CAND, chuyển các công ty, các khu KT - QP từ Quân đội quản lý
sang Nhà nước quản lý… Đồng thời, còn có cả nhận thức cho rằng, BVTQ là trách
nhiệm riêng của LLVT, của QĐND và CAND. Vì lẽ đó, không cần thiết phải xây
dựng nền QPTD, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân gắn với thế trận ANND; vì
134
theo họ, làm như thế là rất tốn kém, lãng phí các nguồn lực không cần thiết. Nhiều
người còn cho rằng, hiện nay chúng ta đang trong thời bình, chiến tranh đã đi vào dĩ
vãng, kẻ thù cũng không còn hiện hữu trên đất nước ta, do đó, hiện nay chúng ta
không cần phải khuếch đại, nhấn mạnh kẻ thù; quá nhấn mạnh chiến lược “DBHB”,
BLLĐ, sự chống phá của các thế lực thù địch. Họ cho rằng, quá nhấn mạnh như vậy
chỉ là quan điểm của lãnh đạo, chỉ huy LLVT khi muốn giành sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước và của toàn XH cho LLVT… Đó chính là những biểu hiện nhận thức còn
hạn chế, lệch lạc cần phải giải quyết trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
3.3.2. Yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế trên địa bàn một số tỉnh
biên giới phía Bắc
Qua phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cho thấy, vấn đề đặt ra cần phải giải
quyết đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ QP, AN với
quá trình phát triển KT - XH còn hạn chế.
Giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN luôn có mối quan hệ
khăng khiết với nhau. Trong mối quan hệ đó, KT - XH là yếu tố quyết định
đến QP, AN. Ngược lại, QP, AN có tác động tích cực trở lại KT - XH, bảo vệ
và tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy KT - XH phát triển. Tuy nhiên, trên thực
tế hiện nay cho thấy, nhiệm vụ QP, AN luôn có sự phát triển và yêu cầu cao
phù hợp với tình hình cách mạng trong giai đoạn mới đó là bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân, giữ vững hoà bình, đảm bảo AN quốc gia; bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Để thực
hiện được nhiệm vụ này phải trên cơ sở có một nền KT phát triển. Thế
nhưng trên thực tế quá trình phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên giới phía
Bắc còn nhiều hạn chế như đã phân tích đánh giá ở phần thực trạng. Đây
chính là vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời gian tới.
135
3.3.3. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng, an ninh với chính quá trình quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội ở một số tỉnh biên giới phía Bắc
Từ sự phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cho thấy, một số vấn đề đặt ra từ
chính quá trình phát triển KT, đó chính là mâu thuẫn giữa lợi ích KT - XH và lợi
ích QP, AN. Mâu thuẫn đó được biểu hiện trên những vấn để sau:
- Vấn đề đặt ra trong quy hoạch sử dụng đất đai, việc thu hồi đất nông
nghiệp để tạo kết cấu hạ tầng cho phát triển các khu công nghiệp, các khu KT
cửa khẩu... trên thực tế cho thấy đó không chỉ là vấn đề KT thuần tuý, thu hồi
đất, trả tiền đền bù là xong, mà còn là vấn đề XH hết sức phức tạp, người
nông dân sẽ làm gì với số tiền đền bù trong tay để tiếp tục quá trình KT trong
điều kiện không còn đất canh tác. Đây không chỉ là vấn đề KT, mà còn là vấn
đề XH, thậm chí là vấn đề chính trị, vì nó liên quan chặt chẽ đến việc huy
động các nguồn lực từ nông thôn cho cho các nhiệm vụ QP, QS ở mỗi địa
phương mà trực tiếp và trước hết là nguồn nhân lực. Thực tế đó đặt ra vấn đề
khách quan phải nghiên cứu thấu đáo từ khâu quy hoạch, kế hoạch phát triển
các ngành KT chủ yếu, cũng như trong phát triển KT tại các vùng, các khu và
các địa dàn chiến lược ở mỗi tỉnh trên địa bàn biên giới phía Bắc.
- Vấn đề đặt ra trong quy hoạch và bố trí các khu dân cư, cùng với xu
thế phát triển chung của cả nước, một số tỉnh biên giới phía Bắc đang thực
hiện quá trình công nghiệp hoá, đi liền với đô thị hoá làm thay đổi cơ cấu dân
cư, cũng đặt ra những vấn đề về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
như, điều chỉnh tổ chức, bố trí lại lực lượng, xây dựng các công trình QP,
phương án tác chiến của các KVPT...
- Vấn đề đặt ra trong quy hoạch kết cấu hạ tầng, việc lựa chọn vị trí xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng: các nhà máy cung cấp năng lượng, hệ thống
chuyển tải năng lượng, hệ thống giao thông đường bộ, sân bay, cảng, kho, chạm,
hệ thống bưu chính viễn thông, hệ thống ngân hàng... có liên quan chặt chẽ đến
136
việc phát huy ưu thế tiềm năng lợi thế so sánh về KT của một số tỉnh biên giới
phía Bắc khi nó được xây dựng và đi vào hoạt động. Song quá trình triển khai lại
phải tính toán đến khả năng bảo vệ và đảm bảo sức sống của các công trình đó
trong điều kiện có chiến tranh. Do đó, trước khi xây dựng, vấn đề đặt ở vị trí nào
để đạt được cả hai mục đích KT và QP, như vậy cần phải tính đến một khía cạnh
khác là các công trình đó được thiết kế như thế nào để phát huy khả năng sinh lời
về KT, đồng thời sử dụng được cả cho QP khi có tình huống xảy ra. Đó chính là
vấn đề đang đặt ra cần phải được giải quyết trong quá trình phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Những vấn đề đặt ra trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc như trên, đó chính là mâu thuẫn giữa lợi ích KT - XH
và lợi ích QP, AN. Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết khi thực hiện gắn kết chặt chẽ
phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN bằng quan điểm và giải pháp khoa học.
Kết luận chƣơng 3
Từ cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc như trên, chương 3 luận án tập trung phân tích đánh
giá thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc trong thời gian qua trên các nội dung: Khái quát đặc điểm tự
nhiên, KT - XH, QP, AN, qua đó chỉ rõ những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng
đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Phân tích, đánh giá làm rõ thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN;
chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế còn
tồn tại trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc. Từ thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số
tỉnh biên giới phía Bắc thời gian qua, đã và đang đặt một số vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu để tìm ra giải pháp khắc phục trong thời gian tới. Đó chính là một trong
những cơ sở khoa học để xây dựng, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
137
Chƣơng 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
GẮN VỚI ĐẢM BẢO QUỐC PHÕNG, AN NINH Ở MỘT SỐ
TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC TRONG THỜI KỲ MỚI
4.1. Quan điểm cơ bản phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới
Xuất phát từ cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc như trên cho thấy, để tiếp tục nâng cao
hiệu quả phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng trong thời kỳ mới, đòi hỏi khách quan là phải phát huy tốt nhất những
thành tựu đã đạt được, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những yếu kém còn tồn
tại. Để thực hiện được điều đó, các tỉnh biên giới phía Bắc cần quán triệt sâu sắc,
vận dụng sáng tạo, linh hoạt những quan điểm sau:
4.1.1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới
Đi lên CNXH là con đường duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Con đường đó phù hợp với quy luật tiến hoá
của lịch sử và xu thế phát triển khách quan của thời đại, thể hiện đúng ý chí,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân và của cả dân tộc Việt Nam.
Kinh tế bao giờ cũng là yếu tố suy đến cùng quyết định tiến trình lịch sử, sự
phát triển KT quyết định và gắn kết với sự phát triển XH. XH XHCN mà nhân
dân ta xây dựng là một XH: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
138
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” [35, tr. 70]. Xây dựng nền KT
mang đặc trưng XHCN như vậy là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn,
bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, luôn tiềm ẩn những lực cản, những nguy cơ,
thách thức tính định hướng XHCN của nền KT. Do đó, giữ vững định hướng
XHCN được đặt ra như một tất yếu khách quan, một yêu cầu bức thiết của công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung, trong quá trình phát triển KT - XH ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng.
Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta
nói chung, ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng có ý nghĩa to lớn cả về lý luận
và thực tiễn. Đây không chỉ thuần tuý là vấn đề KT - XH mà còn là vấn đề
chính trị - KT, liên quan đến sự phát triển của nền KT, đến sự tồn vong của chế độ
XHCN cũng như sự lãnh đạo của Đảng ta. Cùng với quan điểm giữ vững định
hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta nói chung, quan điểm
giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc là quan điểm chỉ đạo, là đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Quan điểm này chi phối toàn bộ quá trình phát triển của một số tỉnh biên giới phía
Bắc cũng như trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định, chỉ có CNXH mới thực sự giải quyết được tận gốc rễ
mọi áp bức bóc lột, mới bảo đảm quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc
trong một quốc gia. Nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ngày
nay, chế độ ta là chế độ dân chủ, Đảng và Chính phủ chỉ lo phục vụ lợi ích
cho nhân dân. Đồng bào tất cả các dân tộc không phân biệt lớn nhỏ phải
thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà,
cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng CNXH làm sao tất cả các dân
tộc được hạnh phúc ấm no” [59, tr.53].
139
Trong thời kỳ mới, nước ta bước vào thời kỳ chiến lược trong bối cảnh thế
giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường; như Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhận định: “Hoà bình hợp tác và phát triển vẫn
là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật
đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội
phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng…” [35, tr.27-28]. Lợi dụng tình hình đó,
CNĐQ và các thế lực thù địch tiếp tục chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều
âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhất là thông qua chiến lược
“DBHB” chúng tìm mọi cách để kích động, lôi kéo, chia rẽ khối đại đoàn kết giữa
các dân tộc, chống phá chế độ, phủ nhận CNXH... Điển hình như: sự kiện tháng 2
năm 2001 ở Tây Nguyên…; mường Nhé - Điện Biên năm 2011… Trong bối cảnh,
tình hình đó, Đảng ta luôn khẳng định tính nhất quán của con đường XHCN mà
Đảng, Bác Hồ, nhân dân ta đã lựa chọn là duy nhất đúng đắn, khoa học. Chỉ có
kiên định con đường XHCN, „„Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế…” [35, tr.204] mới thật sự xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Các vùng, miền trong cả nước gắn kết chặt chẽ với nhau, bổ sung
cho nhau, bảo vệ lẫn nhau đi theo con đường mà mình đã lựa chọn, đẩy mạnh
được sự phát triển KT - XH.
Để giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc, hơn bao giờ hết chúng ta phải luôn luôn chủ
động duy trì, xây dựng, phát triển sáng tạo những giá trị ưu việt của CNXH
trên tất cả các mặt của đời sống XH; trong đó, đặc biệt chú trọng đẩy nhanh
tiến trình phát triển KT - XH để từng bước giải quyết thoả đáng đời sống vật
chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc nơi đây. Đồng thời, không ngừng
nâng cao nhận thức về CNXH, về con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ
và nhân dân ta đã lựa chọn. Đó chính là cơ sở khoa học để giữ vững định
hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH, phát huy cao độ tinh thần
140
cách mạng của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc
trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, BVTQ XHCN trên
địa bàn trong thời kỳ mới.
4.1.2. Đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ và toàn diện trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
Một số tỉnh biên giới phía Bắc là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng
về QP, AN; do đó, CNĐQ và các thế lực thù địch luôn tìm mọi âm mưu, thủ
đoạn, lợi dụng tình hình địa bàn miền núi, biên giới, nơi có đồng bào dân tộc
thiểu số để kích động, lôi kéo, chống phá sự nghiệp đổi mới của chúng ta từ
chính nơi đây. Trong bối cảnh tình hình như vậy, việc phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN, nhất là nhiệm vụ đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc càng đặt ra quan trọng và cấp thiết hơn.
QP, AN muốn được đảm bảo, trước hết công cuộc phát triển KT - XH
phải phát triển một cách hệ thống, đồng bộ và toàn diện cả về KT, văn hoá,
XH, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân
tộc trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, gắn với nhiệm vụ xây dựng
nông thôn mới, xây dựng từng địa phương vững mạnh toàn diện. Sở dĩ như
vậy là vì, việc đảm bảo QP, AN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không chỉ đơn
thuần là dựa vào yểu tố KT hay XH, mà phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của
cả KT và XH, có như vậy mới tạo thành sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn
đảm bảo QP, AN. Do đó, để đảm bảo QP, AN phải phát triển một cách hệ
thống, đồng bộ và toàn diện trong quá trình phát triển KT - XH, không được
tuyệt đối hoá yếu tố phát triển KT mà dẫn đến xem nhẹ các yếu tố khác như:
yếu tố XH, yếu tố chính trị - tinh thần; dân tộc, tôn giáo… Ngược lại, không
nên tuyệt đối hoá yếu tố chính trị - tinh thần… dẫn đến xem thường yếu tố vật
chất, xem thường lợi ích cá nhân, chỉ quan tâm đến giáo dục tư tưởng - chính
trị một cách chung chung, những tư tưởng đó đều sai lầm, nhất là trong điều
kiện phát triển KT thị trường như hiện nay.
141
Vấn đề trên đã được thực tiễn cách mạng chứng minh, trong thời kỳ chiến
tranh giải phóng cũng như chiến tranh BVTQ trước đây, đồng bào các dân tộc cả
nước nói chung, một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng đã cùng với các LLVT
chiến đấu ngoan cường, xả thân vì quê hương, đất nước. Giải phóng được tỉnh
nào, vùng nào đã nhanh chóng xây dựng tỉnh đó, vùng đó thành căn cứ cách
mạng, căn cứ hậu phương vững chắc để đảm bảo cung cấp sức người, sức của cho
tuyền tuyến giành thắng lợi… cho dù lúc đó, nước ta còn là nước nghèo, nền KT
kém phát triển, toàn dân và LLVT phải chiến đấu trong bối cảnh ăn không đủ no,
mặc không đủ ấm, nhưng với một tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”,
chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, một lòng chiến đấu đến cùng cho độc
lập tự do của Tổ quốc. Qua đó cho thấy, sức mạnh chiến đấu trên chiến trường
không phải chỉ phụ thuộc vào sức mạnh vật chất thuần tuý, mà còn dựa vào sức
mạnh có ý nghĩa quyết định đó là nhân tố chính trị - tinh thần, như Lênin đã khẳng
định: Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần
của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Chính vì vậy, trong thời kỳ mới
để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ
XHCN, trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ và toàn diện.
4.1.3. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân; trước hết là nhiệm vụ trực tiếp của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía
Bắc là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển KT - XH và chiến lược
QP, AN của cả nước. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, để thực hiện phát triển
một cách cân đối, hài hoà giữa các địa phương, các vùng trong cả nước, nhất là
đưa miền núi, biên giới, hải đảo phát triển theo kịp các vùng đồng bằng, đô thị
142
trong cả nước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có chủ trương vừa phát huy tinh
thần trách nhiệm chung của cả nước tạo thành sức mạnh tổng hợp, nhưng trước
hết phải phát huy sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc của Đảng bộ, chính quyền, cùng
toàn dân, toàn quân ở một số tỉnh biên giới phía Bắc. Cần phải chú ý phát huy
vai trò năng động, sáng tạo của từng địa phương, cơ sở và đồng bào các dân tộc;
khắc phục tư tưởng cục bộ địa phương, cục bộ dân tộc; tư tưởng trông chờ ỷ lại;
tư tưởng an phận thủ thường, cam chịu; tư tưởng xem nhẹ vai trò của đồng bào
các dân tộc thiểu số; kiên quyết chống lại tư tưởng chỉ tập trung khai thác tài
nguyên thiên nhiên, rừng, biển; không chú ý đến việc phục hồi, tái tạo, bồi đắp
và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Nhìn một cách tổng thể, do điều kiện lịch sử, tự nhiên, KT, XH ở một số
tỉnh biên giới phía Bắc có tính đặc thù và còn nhiều khó khăn, dẫn đến sẽ gặp
không ít khó khăn trong quá trình phát triển hoà nhập cùng với các địa phương,
các vùng khác trong cả nước, nếu thiếu sự tác động tích cực từ bên ngoài, trong
đó vai trò của Nhà nước, cùng với các cơ quan, ban, ngành Trung ương có vị trí,
ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vị trí, ý nghĩa đó phải được thể hiện như Bác Hồ đã
căn dặn: “các cơ quan Trung ương phải có nghĩa vụ “hết lòng phục vụ”, phải có
kế hoạch đẩy mạnh phong trào miền núi đi lên” [60, tr.146].
Với phương châm, “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, Nhà nước giúp
nhân dân ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tạo ra những điều kiện thuận lợi ở
tầm vĩ mô để thúc đẩy sự tự thân vận động của các địa phương này, tuyệt đối
không làm thay. Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ bằng cách hỗ trợ giống, vốn, kỹ
thuật, đào tạo cán bộ, đào tạo nghề, đầu tư cơ sở hạ tầng… Đồng thời, kêu gọi
các địa phương, các lực lượng trong cả nước tạo điều kiện giúp đỡ một số tỉnh
biên giới phía Bắc vươn lên. Bên cạnh đó, tích cực động viên để các tỉnh này
phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân đồng bào các dân tộc
quyết tâm vươn lên bằng chính bàn tay, khối óc của mình để xây dựng quê
143
hương, chung tay xây dựng đất nước bằng việc làm thiết thực thúc đẩy phát triển
KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ngay trên chính quê hương mình.
Các LLVT nói chung, Quân đội, bộ đội biên phòng nói riêng là lực lượng
ra đời, chiến đấu và trưởng thành luôn gắn bó với địa bàn biên giới, với đồng bào
các dân tộc. Với chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm, tính chất công tác của mình;
LLVT, nhất là quân đội, bộ đội biên phòng đóng quân và hoạt động ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc phải thường xuyên phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm
tham gia tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở chính trị, góp phần phát
triển KT - XH, trọng tâm là phát huy tốt mọi nguồn lực, trước hết là nội lực để
tham gia xoá đói giảm nghèo, thực hiện phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc. Đây là một trong những nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt, có
ý nghĩa chiến lược lâu dài của quân đội, bộ đội biên phòng trong thời kỳ mới,
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
4.1.4. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc phải phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế
Trong thời kỳ mới, tham gia hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ có bước
phát triển mới, trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng cho thấy, chúng ta không chỉ đề cập đến việc hội nhập KT quốc tế mà
còn đề cập đến vấn đề chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, không chỉ về
KT mà còn các vấn đề về giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và cả việc:
“Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh” [35, tr.233]. Như vậy, với việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng hơn, tác động mạnh mẽ hơn, đan xen giữa các yếu tố thuận
chiều và không thuận chiều đối với nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN. Các lĩnh vực KT - XH, QP, AN của nước ta sẽ có bước phát triển
mới về quy mô, trình độ. Các lĩnh vực văn hoá, XH, y tế, GD - ĐT, KH - CN
của đất nước sẽ có bước phát triển vượt trội. Tình hình đó quy định, tác động
144
mạnh mẽ đến quá trình thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN ở nước ta nói chung, một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng.
Theo đó, trong thời gian tới, việc “mở cửa” biên giới giữa Việt Nam và
các nước láng giềng có chung đường biên giới sẽ được phát triển cả bề rộng
lẫn chiều sâu. Đặc biệt là một số tỉnh biên giới phía Bắc sẽ thực hiện xây
dựng các khu KT cửa khẩu, thành phố cửa khẩu để quan hệ giao lưu KT với
bên ngoài mà trực tiếp là với Trung Quốc, Lào và các nước khác trong khu
vực đang đặt ra như một nhu cầu cấp thiết. Vấn đề đặt ra là trong quá trình
“mở cửa” biên giới phải đảm bảo giữ vững nguyên tắc phát triển bình đẳng,
cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Mở cửa phải vừa
mạng lại lợi ích KT - XH cho đất nước, vừa phải đảm bảo QP, AN quốc gia.
Đây là quan điểm cơ bản, là nguyên tắc trong quan hệ quốc tế hiện nay, nhất
là trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc thì quan điểm đó càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng; đòi hỏi hai quốc gia phải tuân thủ nghiêm ngặt để đảm
bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa KT đối ngoại và chính trị đối ngoại, QP, AN, giữ
vững bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, để góp phần thúc đẩy phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, nơi đây đang rất cần
mời gọi đầu tư của nhiều chương trình, dự án, kể cả các dự án đầu tư của nước
ngoài. Nhưng một thực tế hiển nhiên là để mời gọi được các chương trình, dự án
đầu tư vào một số tỉnh này là không dễ. Bởi lẽ, địa bàn một số tỉnh biên giới phía
Bắc có điều kiện địa lý tự nhiên, KT, XH không thuận lợi, do đó không mấy hấp
dẫn các nhà đầu tư. Chính vì vậy, để hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
đòi hỏi phải có một cơ chế thông thoáng, có chính sách ưu đãi để tăng sự hấp dẫn,
khuyến khích các nhà đầu tư vào làm ăn. Cũng cần phải thấy rằng, một khi đã có cơ
chế, chính sách ưu đãi, mời gọi được nhiều dự án đầu tư, nhất là những dự án có
vốn đầu tư của nước ngoài, các tổ chức quốc tế sẽ dẫn đến một hiệu ứng hai chiều,
145
cả tích cực và tiêu cực. Đặc biệt, trong thời kỳ mới, “Các thế lực thù địch vẫn tiếp
tục thực hiện âm mưu “DBHB”, gây BLLĐ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta” [35, tr.185]. Trong đó,
một số tỉnh biên giới phía Bắc là một trong những địa bàn trọng điểm mà các thế
lực thù địch xác định để chống phá. Do đó, không phải tất cả mọi dự án đầu tư của
nước ngoài, các tổ chức quốc tế đều tốt... Chính vì vậy, trong quá trình mời gọi đầu
tư, chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác cao độ, xây dựng các phương án
sẵn sàng đối phó kịp thời. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, không phải tất cả các dự
án, chương trình đầu tư của nước ngoài đều gây tổn hại đến QP, AN của ta. Có dự
án của nước ngoài, trong quan hệ được ta xác định nước đó vừa là đối tượng, vừa là
đối tác, nhưng nếu xem xét dự án đầu tư không thấy có vấn đề xâm hại đến đảm
bảo QP, AN quốc gia, mà có lợi cho phát triển KT - XH cho quê hương, đất nước
thì chúng ta nên hợp tác làm ăn với họ.
Trong quá trình thực hiện cần tránh một số khuynh hướng: Một là, quá
chú trọng đến phát triển KT - XH, coi nhẹ yếu tố QP, AN sẽ dễ rơi vào cái bẫy
của kẻ thù dùng “thòng lọng” KT để khống chế ta về chính trị. Hai là, quá
chú trọng đến đảm bảo QP, AN, dẫn đến trong quan hệ KT, thương mại với
các nước, các tổ chức quốc tế đều thấy có nguy hại đến đảm bảo QP, AN, như
vậy sẽ không dám ký kết làm ăn với các nước, các tổ chức quốc tế, còn nếu
làm thì rụt rè, tạo nên những khó khăn, thủ tục phiền hà không đáng có. Ba là,
cần ra sức đấu tranh với tư tưởng mở rộng đầu tư nước ngoài bằng mọi giá,
đấu tranh với những biểu hiện xem thường lợi ích QP, AN trong xét duyệt đầu
tư, quản lý các dự án nước ngoài của nhiều cán bộ các cấp, các ngành…
Chính đây là một trong những yếu tố tạo nên sự không phù hợp trong điều kiện
hội nhập quốc tế. Có như vậy, mới đảm bảo cho quá trình phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc phù hợp với điều
kiện hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới.
146
4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới
Từ lý luận, thực tiễn, quan điểm chỉ đạo như trên cho thấy, trong thời
kỳ mới, để tiếp tục thúc đẩy nhanh quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng, đòi hỏi khách quan là phải phát huy tốt nhất những thành tựu đã
đạt được, hạn chế tới mức thấp nhất những yếu kém, khuyết điểm còn tồn tại.
Để thực hiện được điều đó, thiết nghĩ một số tỉnh biên giới phía Bắc cần thực
hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp, trước hết cần tập trung thực hiện tốt một
số giải pháp chủ yếu sau:
4.2.1. Nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm
bảo quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc
Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận
thức về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh
biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân là
giải pháp quan trong hàng đầu. Bởi lẽ, chỉ khi nào đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhân dân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc có nhận thức đúng đắn,
sâu sắc về tầm quan trọng, tính tất yếu khách quan của việc phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn biên giới, thì mới cụ thể hoá một cách
đồng bộ, thường xuyên, có hiệu quả các nội dung phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN, tạo ra sự thống nhất về nhận thức khi bàn định trong tiếp tục
nâng cao hiệu quả phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.
Công tác giáo dục, tuyên truyền phải được tiến hành thường xuyên,
toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung làm cho mọi cán bộ, đảng viên
và nhân dân nhận thức thật sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước
và của từng tỉnh về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn
147
biên giới phía Bắc. Làm cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân, đặc biệt
là những người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong lãnh đạo, quản lý nhận thức
rõ tình hình quốc tế, khu vực, trong nước, bối cảnh tình hình ở từng tỉnh về
những vấn đề có liên quan đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới. Cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp phải nhận thức đầy đủ, toàn diện các quan điểm, nội
dung, giải pháp phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN để trong quyết
định, giải quyết những vấn đề cụ thể có đủ năng lực thực hiện, nhất là nhận
định và chú ý đến các khu vực biên giới nhạy cảm, vùng xung yếu, vùng có
đồng bào dân tộc, tôn giáo.
Các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là các địa phương vùng biên
giới, hải đảo trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc cần phải tiếp tục quán
triệt sâu sắc và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX về Chiến
lược BVTQ trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các tỉnh... Đặc
biệt, cần quán triệt, vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng về kết hợp KT - XH
với QP, AN; QP, AN với KT - XH. Trên cơ sở đó, cụ thể hoá bằng các chương
trình, kế hoạch, giải pháp phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của từng
tỉnh trên địa bàn biên giới Phía Bắc trong thời kỳ mới. Để thực hiện tốt những
nội dung trên, trong thời gian tới một số tỉnh biên giới phía Bắc cần thực hiện
tốt một số nội dung giải pháp cụ thể sau:
Trước hết, các cấp uỷ đảng, chính quyền một số tỉnh biên giới phía Bắc
phải thường xuyên quán triệt thật sâu sắc về chủ trương, giải pháp chiến lược
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của Đảng, Nhà nước. Trong khi
coi phát triển KT - XH là nhiệm vụ trung tâm, các tỉnh cần phải coi đảm bảo
QP, AN là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên không một phút lơi lỏng. Luôn
phải lấy việc gắn kết phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN làm giải pháp
148
chiến lược, cơ bản lâu dài trong phát triển tiềm lực, sức mạnh, vị thế của mỗi
tỉnh trên địa bàn biên giới phía Bắc. Các nghị quyết lãnh đạo, các chương
trình hành động của các cấp uỷ đảng, chính quyền các tỉnh đều phải đặc biệt
coi trọng chủ trương, giải pháp chiến lược phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN trên địa bàn biên giới.
Hai là, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền trong
nhân dân đồng bào các dân tộc về chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
Chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc phụ thuộc
nhiều yếu tố, trước hết là nhận thức của chủ thể. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm tạo sự thống nhất nhận thức, đồng
thuận, tích cực tham gia của nhân dân đồng bào các dân tộc đối với vấn đề
này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây cũng là sự phát huy sức mạnh toàn
dân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thực hiện chủ trương
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Nội dung tuyên truyền cần phải
toàn diện, song với từng đối tượng, thời kỳ, lĩnh vực cần có cách cập nhật
riêng phù hợp, sát với đặc điểm hoạt động thực tiễn, sinh hoạt của nhân dân
đồng bào các dân tộc một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Ba là, không ngừng nâng cao hiệu quả giáo dục QP, AN cho các đối
tượng và toàn dân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ
mới. Nghị định 116/2007/NĐ - CP của Chính phủ về giáo dục QP, AN, quy
định 5 đối tượng giáo dục kiến thức QP, AN và các đối tượng khác không
thuộc 5 đối tượng này. Nâng cao hiệu quả giáo dục QP, AN cho các đối tượng
là vấn đề có ý nghĩa to lớn, cần thiết, cấp bách trong sự nghiệp xây dựng nền
QPTD, ANND BVTQ. Đó cũng là vấn đề cần thiết, cấp bách trong quá trình
thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở nước ta
149
nói chung, ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng. Để nâng cao hiệu quả
giáo dục QP, AN cho các đối tượng ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, trước hết
cần phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, cập nhật thông tin cho
người làm công tác giáo dục, tuyên truyền, đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Công tác giáo dục, tuyên truyền
phải được coi trọng, thực hiện thường xuyên trong quá trình công tác, hoạt
động thực tiễn, trong đời sống hàng này của mọi cán bộ, đảng viên, công dân,
trong mọi tổ chức chính trị, KT, văn hoá, XH và trong mỗi gia đình. Vì vậy,
để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền cần phải chú ý một cách
toàn diện, đồng bộ trong các lĩnh vực hoạt động của cả hệ thống chính trị, của
tất cả các tổ chức KT, XH, văn hoá ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Bốn là, đầu tư nguồn lực thoả đáng, thực hiện XH hoá đối với công tác
giáo dục nâng cao nhận thức về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới. Để nâng cao nhận thức của
cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng bào các dân tộc về phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cần phải có sự đầu tư
thoả đáng. Trước hết là đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ nòng cốt làm công tác
giáo dục, tuyên truyền. Với những cán bộ này, phải được đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức một cách toàn diện cả về KT - XH, QP, AN, cũng như về kiến thức,
phương pháp giáo dục, tuyên truyền. Cần đầu tư kinh phí thoả đáng cho công
tác biên soạn tài liệu, các loại sách vở, băng hình, hội hoạ, ba nô áp phích...
nhằm tác động trực tiếp vào người dân trong mọi sinh hoạt, hoạt động của đời
sống XH, trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Tận dụng tốt các phương tiện truyền
thông, lồng ghép kiến thức QP, AN nói chung, phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN nói riêng vào các loại hình văn hoá, nghệ thuật, sinh hoạt
cộng đồng, làm cho mọi người dân, mọi cán bộ và tổ chức tiếp nhận kiến thức
đó một cách dễ dàng, nhanh, hiệu quả.
150
Năm là, trong quá trình thực hiện, cần phải chống tư tưởng nóng vội,
chủ quan, duy ý chí và các khuynh hướng tuyết đối hoá phát triển KT - XH
dẫn đến coi nhẹ việc đảm bảo QP, AN hoặc ngược lại, tuyệt đối hoá đảm bảo
QP, AN, coi nhẹ phát triển KT - XH…
4.2.2. Thực hiện quy hoạch ổn định trong dài hạn, phát triển kinh tế - xã
hội bền vững gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới
Trong thời kỳ mới, để phát triển KT - XH một cách bền vững gắn với
đảm bảo QP, AN, trên địa bàn cả nước nói chung, một số tỉnh biên giới phía
Bắc nói riêng, vấn đề quan trọng đặt ra đó là, cần phải thực hiện tốt việc quy
hoạch ổn định trong dài hạn, phát triển KT - XH một cách bền vững gắn với
đảm bảo QP, AN. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, xây dựng
và năng lực quản lý đô thị, nông thôn. Đối với các quy hoạch quan trọng có
ảnh hưởng lớn đến các mục tiêu phát triển lâu dài, cần lựa chọn các đơn vị tư
vấn có uy tín trong và ngoài nước để đảm bảo chất lượng quy hoạch có tầm
nhìn phù hợp với thời đại. Tập trung sớm hoàn thành các quy hoạch như quy
hoạch tổng thể phát triển KT - XH của các tỉnh giai đoạn 2011 - 2020, định
hướng đến 2030; quy hoạch phát triển nguồn nhân lực; quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất; quy hoạch ngành, lĩnh vực…
Trước hết, cần phải thực hiện việc quy hoạch sử dụng đất đai
Trong đời sống XH, vấn đề đất đai luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Với quan điểm lao động là “cha”, đất là “mẹ” của của cải vật chất, thì đất đai
có ý nghĩa sống còn liên quan trực tiếp đến mọi người dân trong nhiều thế hệ.
Đối với quốc gia, đất đai là tài nguyên, là nguồn sản sinh ra các sản phẩm
phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu cho tiêu dùng, duy trì sự sống của XH.
Tuy nhiên, đất đai luôn có giới hạn, là yếu tố không dễ khôi phục, cải tạo.
Chính vì vậy, trong quản lý, sử dụng phải hợp lý để vừa giữ vững sự cân đối
quỹ đất cho nhu cầu phát triển chung, vừa đảm bảo AN lương thực quốc gia,
151
đáp ứng được yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, đảm bảo được quyền lợi, lợi
ích hợp pháp của người dân là một vấn đề cấp thiết hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, để thúc đẩy phát triển KT - XH trên địa bàn
một số tỉnh biên giới phía Bắc, vấn đề quan trọng là việc chuyển dịch cơ cấu
KT nông nghiệp nông thôn. Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu KT nông nghiệp
nông thôn, thúc đẩy phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên giới Phía Bắc, cần
phải thực hiện tốt việc quy hoạch sử dụng đất đai ổn định trong dài hạn, nhằm
sử dụng đất đúng mục đích, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đối với một số tỉnh
biên giới phía Bắc, vấn đề quy hoạch sử dụng đất đai càng quan trọng hơn
bao giờ hết. Vì đây là các tỉnh có điều kiện địa hình phức tạp, giao thông khó
khăn, đất đai đang bị khai thác bừa bãi, tài nguyên rừng cạn kiệt, tình trạng du
canh du cư của đồng bào các dân tộc còn nhiều; bên cạnh đó còn bị ảnh
hưởng bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan dẫn đến các hiện tượng sạt lở, sói
mòn…, đất nông nghiệp vẫn là phổ biến, công tác giao đất, giao rừng triển
khai còn chậm, đất trống, đồi trọc còn nhiều…
Thực hiện tốt việc quy hoạch sử dụng đất đai là quá tình giải quyết hậu
quả của việc khai thác sử dụng đất đai bừa bãi, của việc sản xuất nương rẫy tự
do và chiếm dụng đất của đồng bào nơi đây. Hiện nay, để thực hiện đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, các tỉnh biên giới phía Bắc phải tiến
hành quy hoạch sử dụng đất đai cho phù hợp. Trong quy hoạch cần phải coi
trọng quy hoạch đất cho trồng trọt, chăn nuôi theo sở trường của đồng bào các
dân tộc để đảm bảo cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Do vậy, phải tận dụng
tối đa đất có điều kiện thuận lợi để tăng năng suất lương thực, nhưng phải trên
cơ sở thâm canh, tăng năng suất, chỉ nên khai hoang những diện tích đất đai
có điều kiện thuận lợi về nguồn nước để sản xuất lúa nước, hạn chế, tiến tới
không để đồng bào các dân tộc đốt nương làm dẫy trồng lúa nương. Sản xuất
lương thực là đòi hỏi thường xuyên và cấp bách không chỉ đảm bảo duy trì
152
cuộc sống cho đồng bào các dân tộc vùng biên giới, mà còn góp phần đảm
bảo nguồn lương thực tại chỗ cho QP, AN. Tuy nhiên, sản xuất lương thực,
nhất là sản xuất lúa không phải là thế mạnh của một số tỉnh biên giới phía Bắc,
do đó để KT - XH ở các tỉnh này phát triển phải biết phát huy triệt để thế mạnh ở
đây; phải thực hiện tốt công tác quy hoạch đất đai, khoanh vùng hình thành, phát
triển các vùng sản xuất thâm canh các loại cây trồng mũi nhọn phù hợp với từng
giống cây, chất đất, tạo ra nhiều vùng với nhiều sản phẩm hàng hoá với khối
lượng lớn như: cam, quyết, mận, hồi, quế, chè, na… thực hiện phát triển lâm
nghiệp theo hướng kết hợp bảo vệ, khai thác, tái sinh rừng. Tăng nhanh diện tích
rừng phòng hộ ở những địa phương đảm bảo kế hoạch có điều kiện, đảm bảo kế
hoạch trồng rừng tập trung. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách phát
triển nghề rừng, từng bước đi vào kinh doanh lâm nghiệp theo mô hình KT đồi
rừng, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, khuyến khích hộ đồng bào các
dân tộc tích cực trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Có như vậy, việc
quy hoạch sử dụng đất đai ổn định lâu dài mới phát huy tốt tác dụng, huy động
tốt các nguồn lao động tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu cuộc sống cho
đồng bào các dân tộc và tăng khả năng dự trữ nguồn lương thực, thực phẩm cũng
như các mặt hàng khác góp phần đảm bảo QP, AN tại chỗ đáp ứng tốt yêu cầu
nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất đai ổn định trong dài hạn, việc thực
hiện tốt chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng trên phải gắn với việc giao đất,
giao rừng, tổ chức lại sản xuất. Việc giao đất, giao rừng cần phải được thực hiện
một cách hợp lý: đối với đất trồng, rừng tự nhiên gần làng, bản thuộc rừng sản
xuất thì nên giao cho các hộ gia đình sản xuất, quản lý, bảo vệ; đối với đất, rừng
ở những vị trí quan trọng, xung yếu phải do các doanh nghiệp nhà nước quản lý
sản xuất, bảo vệ. Trong quá trình thực hiện, nếu xảy ra tranh chấp đất đai, việc
giải quyết phải thông qua chính sách ruộng đất, phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch
153
sử của từng địa phương, theo luật định hiện hành để giải quyết một cách triệt để.
Những diện tích đất trước đây quy hoạch cho các doanh nghiệp nhà nước, đến
nay sử dụng kém hiệu quả thì nên trả lại cho chính quyền địa phương để trả cho
chủ cũ, hoặc giao cho đồng bào sản xuất. Đối với những diện tích đất QP, AN
phải đặc biệt ưu tiên như: đất xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với QP, AN, đất xây
dựng hệ thống hầm hào, công sự, các công trình phòng thủ, các trận địa phòng
thủ dọc tuyến biên giới, các trạm cửa khẩu, các đồn biên phòng, các trạm kiểm
soát liên ngành, đường giao thông huyết mạch, đường tuần tra biên giới, các diện
tích rừng do quân đội quản lý. Việc thực hiện quy hoạch, giao đất, giao rừng phải
có biểu sử dụng kèm theo, với diện tích đất ở một số tỉnh biên giới hiện nay, nếu
giải quyết được vấn đề thuỷ lợi, rà phá hết bom mìn có thể quy hoạch, bố trí giải
quyết đất canh tác, tạo công ăn, việc làm cho số lượng lớn lao động, đồng thời
tạo ra các điểm dân cư nông thôn biên giới, gắn với bố trí, sắp xếp, ổn định dân
cư các xã biên giới, tạo thành lực lượng tại chỗ bảo vệ biên giới với ý nghĩa là
“phên dậu” BVTQ. Chính vì vậy, BQP, chính quyền địa phương các tỉnh biên
giới phía Bắc cần tiếp tục đẩy nhanh nhiệm vụ rà phá hết bom mìn, xây dựng
phương án, tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đồng bào các dân tộc trở lại làm
ăn, sinh sống, góp phần đảm bảo QP, AN vững chắc trên địa bàn biên giới.
Như vậy, trong thời gian tới để thực hiện quy hoạch sử dụng đất đai ổn
định trong dài hạn đạt kết quả tốt, các tỉnh biên giới phía Bắc cần phải tiếp tục
thực hiện tốt các nguyên tắc cơ bản của công tác quy hoạch sử dụng đất, giao
đất, giao rừng cho đồng bào các dân tộc, kết hợp tốt chính sách ưu tiên của
Nhà nước với nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc nơi
đây, để vừa đảm bảo dân chủ, công bằng, vừa thực hiện tốt chính sách ưu tiên
đối với đồng bào các dân tộc thiểu số vùng biên giới, nhằm khai thác tốt nhất
mọi tiềm năng, thế mạnh thúc đẩy phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
154
Hai là, thực hiện quy hoạch phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, việc thực hiện tốt quy hoạch phát
triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ là vấn đề quan trọng, là tiêu chuẩn để
đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu KT, trình độ phát triển KT - XH của
mỗi vùng, mỗi địa phương.
Trong quy hoạch phát triển công nghiệp, Nhà nước cần tập trung quy
hoạch phát triển thuỷ điện lớn, khai thác mỏ lớn và vừa như các mỏ than đá ở
Quảng Ninh, apatit ở Lào Cai… để giải quyết vấn đề năng lượng, nguyên liệu
đang đòi hỏi cấp bách và phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu. Đồng thời, thực
hiện công tác quy hoạch để khai thác các nguồn thuỷ năng phục vụ cho quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH, nhất là cần phải chú trọng công nghiệp chế biến,
ưu tiên cho những ngành nguồn vốn còn hạn chế, công nghệ đơn giản tạo
được nhiều công ăn việc làm. Tiếp theo mới phát triển các ngành nhiều vốn,
công nghệ cao, ưu tiên công nghiệp chế biến nông, lâm sản theo chiều sâu đi
từ sơ chế đến tinh chế, thực hiện giảm xuất khẩu sản phẩm thô.
Trong quy hoạch phát triển thương nghiệp, xuất phát từ đặc thù của một
số tỉnh biên giới phía Bắc, do đó phải thực hiện quy hoạch, tổ chức lại hệ
thống thị trường, các trung tâm thương mại, chợ nông thôn. Thương mại nhà
nước phải được củng cố, mở cửa hàng, các điểm phân phối hàng hoá đến các
xã, trung tâm cụm xã, thực hiện ổn định một số mặt hàng chủ lực, nhất là các
mặt hàng thiết yếu: thuốc chữa bệnh, dầu hoả, muối, phân bón, thuốc trừ
sâu… Phát triển mạng lưới chợ nông thôn để tạo điều kiện cho đồng bào các
dân tộc vùng biên giới giao lưu hàng hoá. Các chợ phải được xây dựng kiên
cố, nhất là hệ thống chợ huyện, chợ trung tâm cụm xã, chợ phiên. Qua đó có
thể thực hiện sự ưu tiên thiết thực nhất các doanh nghiệp hoạt động ở các tỉnh
biên giới phía Bắc - địa bàn còn nhiều khó khăn như: cung cấp đủ vốn, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng, miễn giảm thuế…
155
Trong quy hoạch phát triển các khu KT cửa khẩu, sau hơn 10 năm thực
hiện xây dựng các khu KT cửa khẩu trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc đã
đạt thành tựu đáng khích lệ, chính kết quả đó đã khơi dậy được tiềm năng, thế
mạnh mọi mặt nơi đây, nhất là tiềm năng du lịch, thương mại… Hiện nay, biên
giới phía Bắc có 21 cửa khẩu, cơ bản các cửa khẩu chưa thật sự được khai thác có
hiệu quả phục vụ cho phát triển thương mại, sản xuất trong vùng và cả nước. Hơn
thế nữa, các cửa khẩu biên giới phía Bắc nước ta còn kém khá xa về trình độ phát
triển so với các cửa khẩu của Trung Quốc. Chính sự chênh lệch về trình độ phát
triển này đã làm cho lợi ích từ kinh doanh dịch vụ của ta thua kém nhiều so với
Trung Quốc, rất dễ dẫn đến tình trạng bị Trung Quốc chi phối mọi hoạt động KT.
Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, đòi hỏi chúng ta
phải lựa chọn trong số các khu KT cửa khẩu có điều kiện thuận lợi, có triển vọng
cao để tập trung phát triển. Những khu chưa quy hoạch chỉ nên duy trì việc phát
triển hoạt động quan hệ buôn bán dịch vụ thông thường, dần dần tạo sự tích luỹ,
tiếp tục làm tốt công tác chuẩn bị mọi điều kiện yếu tố cần và đủ để hình thành
khu KT với mô hình hoàn chỉnh trong thời gian tới. Bên cạnh đó, phải tích cực
nghiên cứu kỹ lưỡng chính sách đối với cửa khẩu Trung Quốc để có đối sách phù
hợp, xử lý linh hoạt các tình huống, tránh bị bên Trung Quốc nâng giá, ép giá, gây
khó khăn trong hoạt động và quan hệ KT, cũng như chi phối các vấn đề khác.
Đồng thời, phải có chủ trương nhất quán từ trên xuống, gắn chính sách thương
mại với giải quyết các vấn đề về lao động việc làm, có giải pháp đồng bộ, cụ thể
giải quyết các tệ nạn XH, tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy phát triển thương mại
dịch vụ, du lịch trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc.
Trong thời gian tới, để phát huy thành tựu đã đạt được, ngăn chặn có
hiệu quả tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, đòi hỏi hơn bao giờ hết,
các tỉnh biên giới phía Bắc cần phải thực hiện tốt quy hoạch phát triển các
khu KT cửa khẩu. Cùng với cả nước thực hiện đến năm 2020 tổng kim ngạch
156
xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ qua biên giới Việt Nam với các nước láng
giềng đạt 42 - 43 tỷ USD. Cần phải tập trung ưu tiên xây dựng phát triển khu
KT cửa khẩu Móng Cái của tỉnh Quảng Ninh, Tân Thanh của tỉnh Lạng Sơn,
cửa khẩu Lào Cai, vì đây được xác định là “đầu mối hành lang KT liên vùng,
quốc tế”. Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, ngoài Móng Cái, các khu KT cửa
khẩu Bắc Phong Sinh, Hoành Mô - Đồng Văn (Quảng Ninh) cũng được xác
định tiếp tục đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng. Đối với các khu KT cửa khẩu
biên giới giáp Trung Quốc, sẽ được xây dựng, phát triển trở thành trung tâm thương
mại, dịch vụ, du lịch của cả vùng trung du, miền núi phía Bắc, đầu mối của hành
lang KT Hà Nội - Móng Cái - Phong Thành; Hà Nội - Lạng Sơn - Nam Ninh và
Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác phát triển trong
quy hoạch phát triển quốc tế “hai hành lang, một vành đai”. Phát triển các khu
KT cửa khẩu gắn với việc hình thành hệ thống đô thị, điểm dân cư nông thôn
biên giới, gắn với bố trí, sắp xếp, ổn định dân cư các xã biên giới Việt - Trung.
Phát triển KT ở các khu KT cửa khẩu phải gắn liền với đảm bảo QP, AN,
nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia, AN biên giới trên cơ sở giải quyết các vấn
đề XH bức xúc, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào các dân tộc
một số tỉnh biên giới phái Bắc.
Ba là, thực hiện quy hoạch kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển
KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
Để quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn
một số tỉnh biên giới phía Bắc được thuận lợi, vấn đề quan trọng hàng đầu là
phải xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó đặc biệt coi trọng hệ thống
đường giao thông, điện, thuỷ lợi, thông tin truyền thông, hạ tầng đô thị và hạ
tầng khu KT cửa khẩu… thuận lợi, vừa tạo điều kiện thúc đẩy phát triển KT - XH,
vừa đảm bảo QP, AN, BVTQ. Thế nhưng, trên thực tế, kết cấu hạ tầng các khu
KT cửa khẩu của chúng ta còn hạn chế. Trong khi đó, nếu nhìn thực tế từ phía
157
Trung Quốc ta thấy, trong thời gian qua họ đã tập trung xây dựng, phát triển
mạnh hệ thống kết cấu hạ tầng ở vùng biên giới như: phát triển hệ thống giao
thông vận tải, kho tàng, bến bãi, thông tin liên lạc, điện nước, kể cả các loại dịch
vụ, du lịch, các ngân hàng tài chính, tín dụng… Đó chính là một trong những
nguyên nhân cơ bản làm cho KT - XH các tỉnh này kém phát triển. Do đó, để
thúc đẩy KT - XH trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc phát triển gắn với
đảm bảo QP, AN, BVTQ, đòi hỏi chúng ta phải tích cực, chủ động trong thực
hiện quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng.
Trong thời kỳ mới, chúng ta đang phấn đấu đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH, phấn đấu từ nay đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Theo đó, các tuyến đường giao thông chính từ thủ đô Hà Nội
lên các tỉnh biên giới phía Bắc cần phải được ưu tiên phát triển mạnh nhằm thúc
đẩy phát triển KT - XH như: đường 18 (Bắc Ninh - Quảng Ninh), quốc lộ 1B
(Hà Nội - Lạng Sơn), đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai, đường Hồ Chí Minh đoạn
Cao Bằng - Bắc Cạn và đường sắt từ Hà Nội đi các tỉnh biên giới phía Bắc… Các
tuyến đường giao thông trên địa bàn các tỉnh, từ tỉnh tới huyện phải được nâng cấp,
xây dựng mới bảo đảm thông suốt cả 4 mùa, có đường ô tô đến trung tâm xã, cụm
xã; đặc biệt ưu tiên cho các trục đường ra biên giới, đường dọc biên giới, đường
tuần tra biên giới; nâng cấp hệ thống giao thông tới các trung tâm thương mại cửa
khẩu. Để thực hiện được vấn đề đó, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương phải
có sự phối hợp chặt chẽ, có sự phân công, phân cấp, có những biện pháp khả thi
trong thực hiện quản lý, xây dựng hệ thống đường giao thông. Đồng thời, phát huy
tốt phòng trào xây dựng giao thông nông thôn, giao thông miền núi, biên giới, hải
đảo, qua đó huy động toàn dân tham gia, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước, trong
đó ưu tiên cho những huyện, xã biên giới.
Cùng với hệ thống đường giao thông, các tỉnh phải có kế hoạch đảm bảo
năng lượng, đẩy nhanh hoàn thành việc kéo điện lưới quốc gia đến các địa bàn
158
còn lại. Mục tiêu này thực hiện dựa trên cơ sở tập trung đầu tư kéo điện lưới về
các địa phương kết hợp với sự hỗ trợ một phần kinh phí tại các chương trình, dự
án cho đồng bào dân tộc thiểu số ở những nơi xa xôi, hẻo lãnh, các địa bàn biên
giới. Chú trọng phát triển mạnh thuỷ điện nhỏ, cực nhỏ và các nguồn năng lượng
khác để giúp đồng bào các dân tộc ở các tỉnh biên giới có đủ điện dùng cho đời
sống sinh hoạt và sản xuất. Đối với vấn đề thuỷ lợi, cần phải tiếp tục xây dựng
mới, thực hiện quản lý khai thác tốt các công trình đã xây dựng đảm bảo đủ nước
tưới tiêu cho các vùng cây công nghiệp, các vùng sản xuất cây lương thực, kết
hợp giải quyết tốt nước cho sản xuất với nước sạch đảm bảo cho sinh hoạt của
nhân dân, ưu tiên nước sạch phục vụ đời sống cho đồng bào các dân tộc và các
trạm, đồn biên phòng, cũng như các đơn vị LLVT đóng quân trên địa bàn.
Trong thời gian tới, để thực hiện tốt quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng
phục vụ tốt nhất cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, đòi hỏi các tỉnh
biên giới phía Bắc phải nghiên cứu nắm vững tiềm năng, lợi thế triển khai xây dựng
hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông vận tải bao gồm: giao thông
vận tải đường bộ liên tỉnh, liên huyện, liên xã, đường tuần tra biên giới; hệ thống
đường sắt, đường không; cùng với các công trình kho tàng, bến bãi, nhà ga; các
công trình văn hoá - XH; các cơ sở y tế trên từng tỉnh. Trên cơ sở đó, xem xét, tính
toán, cân đối giữa các nhu cầu phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; nhất là
việc cân đối giữa các nhu cầu vận tải chi viện cho tuyền tuyến với năng lực vận tải
QS, khả năng vận tải của các thành phần KT để xây dựng kế hoạch sẵn sàng huy
động lực lượng, phương tiện đảm bảo QP, AN trong mọi tình huống, nhất là đảm
bảo tốt cho chiến tranh nếu xảy ra. Các tuyến đường vận tải chiến lược, nhất là các
trục đường huyết mạch ra biên giới, đường tuần tra biên giới phải được xây dựng
đồng bộ, bảo đảm chất lượng tốt, tốc độ cơ động cao, năng lực vận chuyển, chịu
được trọng tải lớn đủ sức chi viện kịp thời, liên tục cho các hướng chiến lược, kể cả
trong trường hợp các chiến trường bị chia cắt, góp phần giành thắng lợi trong mọi
tình huống, bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
159
Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc, các trung tâm cụm xã có vị trí, vai trò rất quan trọng, là trung
tâm KT, văn hoá, XH tiểu vùng, tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc thiểu số
vùng biên giới tham gia vào đời sống KT - XH, tăng cường năng lực để thoát
nghèo; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần xây dựng nông thôn
mới… Đó chính là cơ sở tiền đề vật chất để sắp xếp ổn định dân cư, phát huy tối đa
tiềm lực KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Do đó, việc thực hiện quy hoạch xây
dựng các trung tâm cụm xã trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là yêu cầu
cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược góp phần đắc lực cho phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN, BVTQ trong thời kỳ mới. Trong quá trình thực hiện xây dựng các
trung tâm cụm xã, cần phải chú ý lựa chọn địa điểm vừa thuận lợi cho việc giao lưu
KT - văn hoá trong khu vực, vừa liên kết được hệ thống các trục đường giao thông,
hệ thống điện lưới của tỉnh, huyện một cách liên hoàn. Quy hoạch xây dựng phải
phân định được từng khu chức năng, gắn trung tâm với quy hoạch vành đai, vườn
đồi, vùng cây trồng, vật nuôi; tận dụng, huy động được tối đa các nguồn lực để xây
dựng các công trình trong trung tâm cụm xã. Trong xây dựng trung tâm cụm xã ở
các tỉnh, huyện biên giới cần phải gắn với cụm KT cửa khẩu, đồng thời đáp ứng với
yêu cầu quy hoạch xây dựng KVPT vùng biên giới. Quy hoạch xây dựng các trung
tâm cụm xã nhất thiết phải là trung tâm KT, văn hoá, XH gắn với QP, AN của địa
phương. Quá trình xây dựng, phát triển các trung tâm cụm xã không chỉ vì mục
đích KT đơn thuần mà phải xét đến yêu cầu đảm bảo QP, AN.
Tóm lại, việc quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc vừa tạo ra cơ sở vật chất quyết định sự phát triển KT - XH, vừa
tạo ra cơ sở vật chất bảo đảm QP, AN. Bởi vì, kết cấu hạ tầng là yếu tố quan
trọng cấu thành cơ sở vật chất kỹ thuật của nền QPTD. Vì vậy, khi xây dựng
kết cấu hạ tầng, phải tính đến việc đảm bảo QP, AN, nhất là mạng lưới đường
giao thông phải đáp ứng kịp thời cho việc cơ động LLVT, các phương tiện
160
chiến đấu, hệ thống thông tin liên lạc phải đảm bảo thông suốt đáp ứng tốt
yêu cầu chỉ huy chiến đấu… Đồng thời, kết cấu hạ tầng phát triển không chỉ
phát huy khả năng đảm bảo tại chỗ cho QP, AN, mà còn là điều kiện tiên
quyết đảm bảo huy động sức mạnh tổng hợp của các vùng, miền trên cả nước
chi viện đảm bảo QP, AN cho các tỉnh biên giới phía Bắc khi cần thiết.
Bốn là, thực hiện quy hoạch, bố trí dân cư
Thực hiện tốt quy hoạch, bố trí dân cư là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
trên địa bàn cả nước nói chung, một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng trong
quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Thực trạng hiện nay
cho thấy, trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, đồng bào các dân tộc
thiểu số sinh sống phân tán, rải rác, thiếu quy hoạch; thậm chí nhiều vùng
biên giới chưa có dân cư sinh sống. Chính vì vậy, để phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN nơi đây, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu là
phải thực hiện tốt quy hoạch, bố trí dân cư đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phải căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc. Hiện nay, một số tỉnh biên giới phía Bắc đều đã có quy
hoạch tổng thể phát triển KT - XH đến năm 2015. Riêng đối với các tỉnh biên
giới trên địa bàn cả nước đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định
về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các Khu KT cửa khẩu của Việt
Nam đến năm 2020”, với mục tiêu tổng quát của đề án là xây dựng các khu
KT cửa khẩu trên các khu vực biên giới trở thành các vùng KT động lực của
từng tỉnh biên giới giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Trên cơ sở đó, tỉnh
Quảng Ninh đã quy hoạch riêng cho phát triển khu KT cửa khẩu Móng Cái.
Chính vì vậy, việc quy hoạch bố trí dân cư phải căn cứ vào quy hoạch tổng
thể phát triển KT - XH của từng tỉnh mới phù hợp với đặc điểm tự nhiên, điều
kiện KT, XH từng vùng, phong tục tập quán của từng dân tộc. Việc quy hoạch
bố trí dân cư phải thực hiện theo phương châm không gây biến động lớn trong
161
đời sống của đồng bào các dân tộc; điều chỉnh bố trí dần từng bước để đạt
mục đích, yêu cầu đề ra từ thấp đến cao, từ bộ phận đến tổng thể; quy hoạch
bố trí dân cư phải theo đúng đề án đã được phê duyệt để đồng bào các dân tộc
tự nguyện, chủ động trong xây dựng ổn định cuộc sống mới.
- Phải căn cứ vào quy hoạch phát triển hệ thống giao thông. Kết cấu hạ
tầng nói chung, đường giao thông nói riêng là khâu đột phá mở đường cho sự
phát triển. Hiện nay, Nhà nước rất chú trọng đầu tư phát triển hệ thống đường
giao thông nói chung, hệ thống đường giao thông các tỉnh biên giới nói riêng.
Đây chính là cơ sở hình thành các cụm dân cư, các thị trấn, thị tứ, các trung
tâm cụm xã, các vùng KT hàng hoá… Vì vậy, ở nơi nào đã hình thành cụm
dân cư, đã có đường giao thông, trường, trạm thì tiếp tục hỗ trợ để đồng bào
các dân tộc ổn định cuộc sống lâu dài. Ở những nơi đồng bào còn sống rải rác,
phân tán thì Đảng, chính quyền các địa phương nơi đó phải làm tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục, vận động để đồng bào tự nguyện di chuyển đến những
địa bàn quy hoạch.
- Phải gắn với quy hoạch các vùng nguyên liệu, các cơ sở chế biến để tạo
ra sản phẩm hàng hoá. Để thực hiện được vấn đề này, việc quy hoạch bố trí dân
cư phải gắn liền với việc thực hiện tốt định canh, định cư theo các dự án. Trên
thực tế đã chứng minh, công tác định canh, định cư không những khai thác được
tiềm năng đất đai, phân bổ lại dân cư, góp phần tạo việc làm, xoá đói giảm
nghèo, mà còn tạo nên môi trường XH ổn định, chống phá rừng tràn lan, đảm
bảo QP, AN tốt. Chính vì vậy, bố trí dân cư phải gắn với phát triển các trung tâm
cụm xã, thị trấn, thị tứ, khu công nghiệp, vùng nguyên liệu, các nông, lâm
trường, các mô hình vườn đồi, trang trại… hình thành các vùng sản xuất hàng
hoá ven các trục đường quốc lộ thuận tiện cho việc giao thương hàng hoá. Thực
hiện định canh rồi mới định cư. Thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng, giải quyết
tốt vấn đề tranh chấp đất đai, bảo đảm những điều kiện thuận lợi nhất cho đồng
bào các dân tộc ổn định cuộc sống sản xuất, xây dựng quê hương, làng bản.
162
- Bố trí dân cư phải đặc biệt chú trọng gắn với nhiệm vụ đảm bảo QP,
AN. Một số tỉnh biên giới phái Bắc có 159 xã biên giới tiếp giáp với Trung
Quốc, có tổng diện tích tự nhiên hơn 908.000 ha. Hiện nay, nhiều nơi chưa có
dân sinh sống. Đây chính là vấn đề gây khó khăn cản trở rất lớn đến việc xây
dựng thế bố trí chiến lược QP, AN trên tuyến biên giới. Việc quy hoạch bố trí
dân cư không chỉ lấy hiệu quả KT thuần tuý mà phải đặc biệt quan tâm đến
vấn đề XH, đảm bảo QP, AN. Do đó, việc quy hoạch bố trí dân cư nơi đây
phải được ưu tiên hàng đầu; phải tổ chức hoạch định, điều chỉnh bố trí dân cư
trên toàn tuyến biên giới. Trước hết, phải thực hiện tốt khâu khảo sát một cách
toàn diện. Trên cơ sở đó, bố trí dân cư phải gắn với việc đảm bảo phát triển
kết cấu hạ tầng để vừa đảm bảo hộ gia đình nào cũng có đất canh tác, vừa bảo
đảm việc học hành, khám chữa bệnh, điện nước… phục vụ tốt cuộc sống sinh
hoạt và sản xuất. Nhà nước và chính quyền địa phương các tỉnh biên giới phía
Bắc có chính sách ưu tiên hỗ trợ đồng bào các dân tộc nơi đây về giống, vốn,
kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, đảm bảo công tác bao tiêu sản phẩm của đồng
bào làm ra. Đồng thời, tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng KVPT, củng
cố lực lượng, thế trận QPTD gắn với lực lượng và thế trận ANND.
Trong quá trình thực hiện quy hoạch bố trí dân cư, không nên dàn trải, cần
tập trung vào những tuyến, những hướng, những khu vực trọng điểm, phù hợp
với điều kiện địa hình, đặc điểm tự nhiên, đất đai, thuỷ lợi thuận lợi, trình độ quản
lý điều hành của cán bộ cơ sở, khả năng chi viện, đầu tư của các địa phương và
nhà nước. Phải kết hợp chặt chẽ việc giao đất, giao rừng với việc giáo dục tinh
thần yêu nước, ý thức bảo vệ đường biên, mốc giới; xây dựng và nhân rộng mô
hình đồng bào các dân tộc tự quản biên giới. Đảng, Nhà nước cần có chính sách
ưu tiên đặc biệt đối với tuyến biên giới, vận động nhân dân cả nước có nhiều
phong trào hành động thiết thực hướng về biên giới… Trên cơ sở đó, tạo ra động
lực để đồng bào các dân tộc thật sự gắn bó với bản làng, biên giới. Có như vậy,
163
việc quy hoạch bố trí dân cư mới thật sự góp phần thúc đẩy phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.
4.2.3. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trên địa
bàn gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới
Để tiếp tục thúc đẩy nhanh quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, đáp ứng tốt với yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng trong thời kỳ mới, một trong những giải pháp quan trọng hàng
đầu là phải quán triệt và thực hiện tốt định hướng phát triển KT - XH, đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền KT trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía
Bắc gắn với đảm bảo QP, AN. Trong quá trình thực hiện phải căn cứ vào thế
mạnh của từng tỉnh để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
KT như: Quảng Ninh là tỉnh có lợi thế về tài nguyên khoáng sản, nhất là than
đá, KT biển, du lịch; Lạng Sơn, Cao Bằng có lợi thế về khoáng sản, trồng cây
công nghiệp ngắn ngày…
Thực hiện phát triển mạnh mẽ LLSX, xây dựng QHSX tiến bộ phù hợp,
hình thành đồng bộ thể chế KT thị trường định hướng XHCN. Chuyển đổi mô
hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao
chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Tăng trưởng giảm bớt phụ thuộc vào tài
nguyên hữu hạn như: đất, than, các loại khoáng sản, nhân công giá rẻ, các loại
hình dịch vụ thô sơ… chuyển sang mô hình tăng trưởng bền vững; phấn đấu
là những tỉnh phát triển KT ổn định, bền vững, dựa vào trị thức. KH - CN,
tăng tiêu dùng, xuất khẩu, đầu tư…
Thực hiện cơ cấu lại nền KT, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản
xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp, điều
chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng, sức
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền KT với bảo vệ môi
164
trường, phát triển KT ổn định, bền vững. Cơ cấu lại nền KT, trong tâm là cơ
cấu lại các ngành sản xuất và dịch vụ theo hướng phát triển các loại hình dịch
vụ cao cấp; tập trung phát triển mạnh ngành công nghiệp, nhất là đối với tỉnh
Quảng Ninh có thế mạnh cho việc phát triển mạnh ngành du lịch; đưa công
nghiệp vào phát triển bền vững, giảm xuất khẩu thô, nâng cao hàm lượng giá
trị gia tăng trong các sản phẩm công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp; đưa công
nghiệp vào phát triển bền vững.
Tập trung phát triển bền vững, đưa yếu tố con người, tự nhiên và XH
vào phát triển bền vững trong điều kiện thực tiễn ở một số tỉnh biên giới phía
Bắc. Khuyến khích các ngành KT sử dụng hiệu quả tài nguyên, khai thác tài
nguyên với sản lượng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên, sử dụng công nghệ hiện
đại, bảo đảm môi trường. Ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại nhằm sử
dụng hiệu quả tài nguyên, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Tiếp tục nâng cao đời sống nhân dân, nhất là nhân dân đồng bào các dân tộc
thiểu số trên địa bàn các xã biên giới ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, thực
hiện cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc tạo thêm công ăn việc làm
từ các ngành công nghiệp; tiếp tục đẩy mạnh đưa công nghiệp, dịch vụ về
nông thôn và xây dựng lối sống thân thiện với môi trường.
4.2.4. Củng cố, nâng cao sức mạnh đảm bảo quốc phòng, an ninh tạo
môi trường hoà bình, ổn định nhằm phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là hai nhiệm vụ chiến
lược tuy có tính đặc thù, quy luật vận động riêng, song giữa chúng có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Phát triển KT - XH tạo tiền đề vật chất, tinh thần để
đảm bảo QP, AN của đất nước nói chung, một số tỉnh biên giới phía Bắc
nói riêng. Ngược lại, đảm bảo QP, AN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN,
tạo môi trường hoà bình cho phát triển KT - XH. Chỉ trên cơ sở một nền
hoà bình, AN được giữ vững mới tập trung được mọi nguồn lực của đất
165
nước và từng địa phương, mới mở rộng được hợp tác quốc tế, thu hút vốn
đầu tư, KH - CN, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để phát triển KT - XH, đảm
bảo QP, AN, từng bước thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Hiện nay và trong những năm tới, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo
QP, AN ở nước ta nói chung, ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng trong
tình hình bối cảnh vừa có thuận lợi, vừa có khó khăn; khó khăn lớn nhất là
CNĐQ và các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “DBHB”, gây
BLLĐ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế
độ chính trị ở nước ta.
Để góp phần đấu tranh làm thất bại chiến lược “DBHB”, BLLĐ và
các tình huống khác có thể xảy ra, giữ vững hoà bình, tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển KT - XH của đất nước nói chung, nhất là ở địa bàn một
số tỉnh biên giới phía Bắc, cần phải đảm bảo QP, AN, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc XHCN. Muốn vậy, cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu: Tăng
cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách
nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, kiến thức QP, AN.
Trước hết, tiếp tục giáo dục nâng cao nhận thức về nhiệm vụ đảm bảo QP, AN
cho toàn dân, cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức đoàn thể, đồng
bào các dân tộc một số tỉnh biên giới phía Bắc. Trong quá trình thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay,
nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đang đặt ra nhiều
vấn đề mới trong công tác quản lý, do đó tiếp tục giáo dục nâng cao trình
độ nhận thức cho các đối tượng trên địa bàn có ý nghĩa to lớn. Nhất là để
đảm bảo QP, AN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, tạo môi trường hoà
bình cho phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, hơn bao giờ
hết phải không ngừng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
166
giáo dục QP, AN cho các đối tượng với nhiều nội dung, hình thức phong
phú, phù hợp, làm cho đồng bào các dân tộc, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng
viên nhận rõ được âm mưu, thủ đoạn chiến lược “DBHB”, BLLĐ của các
thế lực thù địch; nhận thức sâu sắc tư duy mới về BVTQ XHCN thể hiện
trước hết ở quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ Việt Nam XHCN,
trong khi tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ XHCN, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa hai mặt tự nhiên -
lịch sử và chính trị - XH trong BVTQ, chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến
việc “giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm AN quốc gia và trật tự,
an toàn XH; chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta” [35, tr.81-82]. “Giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng
trời… sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống mang
tính toàn cầu” [35, tr.233].
Trên cơ sở đó, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng bào các dân tộc ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc nhận rõ phương hướng đảm bảo QP, AN cả tiềm
lực, thế trận, xây dựng LLVT trong tình hình mới, nắm được nội dung xây dựng
nền QPTD, tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố thành KVPT vững chắc; xây
dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện chiến lược BVTQ… Đồng
thời, làm rõ cơ chế lãnh đạo, điều hành tổ chức thực hiện, phương thức, nội dung
quản lý QP, AN ở từng địa phương gắn với chức trách, quyền hạn của mỗi cấp,
mỗi ngành theo pháp luật. Từ đó, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức quan
điểm, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và toàn thể đồng bào các dân tộc với
nhiệm vụ đảm bảo QP, AN trên địa phương mình… Có như vậy, mới thật sự
đảm bảo QP, AN tạo môi trường hoà bình, ổn định nhằn phát triển KT - XH ở
một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
167
4.2.5. Nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, phát triển kinh tế
theo phương châm phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng,
an ninh của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trên địa bàn
Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là chủ trương chiến lược
của Đảng, là công việc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Lực lượng
QĐND và CAND do tính đặc thù của mỗi lực lượng là khác nhau, dẫn đến
hoạt động sản xuất, làm KT của QĐND và CAND không giống nhau. Tuy
nhiên, xét tính chất hoạt động, về cơ bản cũng có những loại hình sản xuất,
làm KT tương đối thống nhất. Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, làm
KT theo phương châm phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của các
đơn vị QĐND và CAND đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía
Bắc trong thời gian tới cần phải thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Trước hết, tiếp tục nâng cao hiệu quả sản xuất, dịch vụ của các đơn vị
làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và công tác.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả sản xuất, dịch vụ của các đơn vị làm
nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và công tác. Các đơn vị QĐND,
CAND đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc cần quán triệt,
thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng, Nhà nước, Chính
phủ, nghị quyết, quyết định, chỉ thị của bộ, ngành mình. Riêng với lực lượng
QĐND, để thực hiện nhiệm vụ sản xuất, làm KT gắn kết với đảm bảo QP trên
địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, cần phải quán triệt, thực hiện tốt Nghị
quyết số 520-NQ/QUTW, ngày 25 tháng 9 năm 2012 về "Lãnh đạo nhiệm vụ
sản xuất, xây dựng KT kết hợp với QP của Quân đội đến năm 2020”.
Trên cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trung tâm, các đơn vị cần tận
dụng tốt thời gian, công sức, điều kiện để tăng gia sản xuất, làm dịch vụ, nhằm
cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ, góp phần xây dựng đơn vị theo đúng quy
định. Tích cực phát triển chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp với quy mô
thích hợp, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; tận dụng đất đai trồng các loại
168
rau, củ, quả theo hướng thâm canh, chuyên canh, phù hợp với đặc điểm thổ
nhưỡng. Các đơn vị có điều kiện tự thân hoặc được địa phương giúp đỡ về đất
đai, cần phát triển cây công nghiệp có giá trị KT cao và ổn định.
Mặc dù đây là loại hình sản xuất, làm dịch vụ trên cơ sở tận dụng thời
gian, công sức, điều kiện của đơn vị, song cần phải hết sức tránh hiện tượng
"nước sông công lính", mà vẫn phải dựa trên những tính toán, hạch toán để
đạt hiệu quả cao, đóng góp ngày càng nhiều vào quá trình thực hiện nhiệm vụ
chính trị trung tâm, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị trên địa bàn
một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Đối với các nhà trường quân đội thuộc các Quân khu 1, Quân khu 2, Quân
khu 3, các nhà trường của BCA, các trường QS thuộc bộ chỉ huy QS một số tỉnh
biên giới phía Bắc cần phải căn cứ vào tính chất, chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm
của mình để xác định nhiệm vụ lao động sản xuất, làm dịch vụ một cách phù
hợp. Cần tận dụng tốt thời gian, kinh nghiệm, những thế mạnh khác của cán bộ,
chiến sĩ, tận dụng đất đai, đầu tư mua sắm tư liệu để đẩy mạnh hoạt động tăng
gia sản xuất cải thiện đời sống, đóng góp vào xây dựng đơn vị. Đồng thời, căn
cứ vào các quy định của Quân đội, Công an, tín hiệu của thị trường, đặc điểm,
thế mạnh của mình để tham gia vào một số lĩnh vực dịch vụ đào tạo phù hợp với
chuyên môn nghiệp vụ, vừa làm tăng thu nhập để cải thiện đời sống, góp phần
xây dựng đơn vị, vừa tái tạo tốt hơn về khả năng chuyên môn nghiệp vụ, trang bị
của nhà trường.
Đối với các bệnh viện, nhà khách, nhà nghỉ, đoàn an dưỡng, bên cạnh việc
đáp ứng nhu cầu QP, AN, cần tận dụng năng lực còn lại để làm dịch vụ theo đúng
quy định của BQP và BCA. Các bệnh viện cần phát triển theo hướng quân dân y kết
hợp, vừa đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ khám chữa bệnh cho cán bộ, chiến sĩ
quân đội, công an, vừa tham gia vào chăm sóc sức khoẻ nhân dân theo nhu cầu,
đúng quy định của Bộ. Các nhà khách, nhà nghỉ, đoàn an dưỡng cũng trên cơ sở
169
hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trung tâm, cần tận dụng năng lực còn lại để làm
dịch vụ theo đúng quy định của BQP và BCA.
Tuy nhiên, làm dịch vụ ở các bệnh viện, nhà khách, nhà nghỉ, đoàn an
dưỡng của QĐND và CAND trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc phải
đặc biệt chú ý chấp hành đúng mọi quy định, không làm biến chất, hoặc chệch
hướng chức năng, nhiệm vụ của mình; không để xảy ra tình trạng sao nhãng
hoặc hạ thấp trong đảm bảo các dịch vụ này đối với cán bộ, chiến sĩ. Đồng
thời, các đơn vị làm dịch vụ phải chấp hành nghiêm túc các quy định về tài
chính, sử dụng vật tư, trang bị QP, AN; cần tránh tình trạng "lấy QP nuôi KT".
Hai là, nâng cao hiệu quả làm KT của các doanh nghiệp do Bộ Tư lệnh
các quân khu đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, các doanh
nghiệp do bộ chỉ huy QS và Sở Công an ở một số tỉnh biên giới phía Bắc quản lý
Các doanh nghiệp này đều là loại hình doanh nghiệp KTQP, vừa phục
vụ mục tiêu phát triển KT, vừa phục vụ mục tiêu QP, AN. Vừa chịu sự quản lý
của Quân đội, Công an, vừa chịu sự quản lý của các bộ chuyên ngành. Để
nâng cao hiệu quả tổng hợp KT - XH, QP, AN, cần phải chú ý một số vấn đề
cơ bản: Nắm vững, gương mẫu thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN của Đảng, Nhà nước, của một số tỉnh biên giới phía Bắc,
của BQP, BCA. Hiệu quả làm KT cần phải xem xét một cách tổng hợp cả kết
quả đạt được về tài chính, cũng như kết quả đạt được về XH, QP, AN, tránh
phiến diện. Các doanh nghiệp cần phải ra sức cùng với cả nước đổi mới mô
hình phát triển, tăng cường trang bị công nghệ hiện đại, phát triển theo chiều
sâu, chuyên môn cao. Cần thực hiện tốt chủ trương tái cấu trúc các doanh
nghiệp nhà nước, lựa chọn, tập trung vào những ngành nghề mũi nhọn, tránh
đầu tư dàn trải. Chấp hành nghiêm kỷ luật tài chính, các quy định của Quân
đội, Công an, đẩy lùi lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, tác phong sinh hoạt
không phù hợp, xứng đáng là "Bộ đội cụ Hồ", CAND trên mặt trận làm KT.
170
Ba là, nâng cao hiệu quả tổng hợp trong hoạt động của các đoàn KT -
QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc
Đoàn KT - QP là mô hình thể hiện rõ sự phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN, đảm bảo QP, AN với phát triển KT - XH. Tuy ra đời chưa
lâu, nhưng mô hình đoàn KT - QP đã chứng minh được tính ưu việt trên thực
tiễn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng xung yếu, vùng biên giới, hải đảo trên
địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Để tiếp tục đảm bảo cho các đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh
biên giới phía Bắc phát triển đúng hướng, ngày càng đạt hiệu quả cao hơn,
trong thời gian tới cần tiếp tục cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của mỗi đoàn,
vừa đúng với chức năng, nhiệm vụ chung do BQP quy định, vừa sát với đặc
điểm của từng quân khu, cũng như với từng tỉnh, địa bàn đóng quân của từng
đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Các đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc được
triển khai xây dựng chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa giáp biên giới với Trung
Quốc. Đây là những địa bàn rất nhạy cảm cả về KT, chính trị, QP, AN; mặt
khác, hoạt động lại trong điều kiện có nhiều khó khăn gian khổ, nhiệm vụ
được giao rất nặng nề, đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều thiếu thốn... tất
cả những yếu tố đó thường xuyên chi phối, tác động đến tư tưởng, tình cảm,
lòng nhiệt tình của mỗi cán bộ, chiến sỹ. Vì vậy, cần phải không ngừng giáo
dục nâng cao nhận thức, năng lực tổ chức, xây dựng khu KT - QP. Khai thác,
sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, vật tư, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xây dựng
các đoàn KT - QP. Vận dụng sáng tạo cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy,
hiệp đồng của các cấp. Bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp
luật của nhà nước. Các đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía
Bắc cần chủ động phối hợp, kết hợp chặt chẽ với các cấp uỷ đảng, chính
quyền, nhân dân địa phương, tăng cường dân vận, gắn bó quân - dân, tạo sự
đồng thuận cao trong tổ chức thực hiện chủ trương, nhiệm vụ phát triển KT - XH
171
gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn; thường xuyên nâng cao nhận thức của
cán bộ, chiến sĩ, nhất là kiến thức KT, kỹ thuật nông nghiệp, hiểu biết tập
quán của nhân dân đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn một số tỉnh biên
giới phía Bắc; nâng cao năng lực tổ chức thực hiện; khai thác, sử dụng có hiệu
quả các nguồn vốn, vật tư, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của
các đoàn KT - QP, xây dựng các địa bàn vững về chính trị, ổn định, phát triển
từng bước về KT - XH, đảm bảo vững chắc về QP - AN. Có như vậy mới góp
phần thiết thực vào phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn
một số tỉnh biên giới phía Bắc đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ
biên giới của Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.
Kết luận chƣơng 4
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn, bài học kinh nghiệm, những nhân tố tác
động và những vấn đề đặt ra trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN
ở một số tỉnh biên giới phía Bắc như trên, để tiếp tục nâng cao hiệu quả phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong thời kỳ mới cần quán triệt, thực
hiện tốt một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu:
Quan điểm cơ bản phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số
tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới cần tập trung vào: giữ vững định
hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH; đảm bảo tính hệ thống, đồng
bộ, toàn diện trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trước hết là nhiệm vụ trực tiếp của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên địa bàn; và phát triển KT - XH gắn với đảm
bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc phải phù hợp với điều kiện hội
nhập quốc tế trong thời kỳ mới.
Giải pháp chủ yếu phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một
số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới: thường xuyên làm tốt công tác
giáo dục, tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức thật sâu sắc
172
đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, địa phương về phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN; thực hiện tốt việc quy hoạch ổn định trong dài hạn,
phát triển KT - XH bền vững trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc gắn
với đảm bảo QP, AN; Quán triệt, thực hiện tốt định hướng phát triển KT - XH,
đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền KT trên địa bàn một số tỉnh biên
giới phía Bắc gắn với đảm bảo QP, AN; tăng cường củng cố, nâng cao sức
mạnh QP, AN tạo môi trường hoà bình, ổn định nhằn phát triển KT - XH; và
không ngừng nâng cao hiệu quả lao động sản xuất, làm KT theo phương châm
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của QĐND và CAND trên địa
bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
Đó là quá trình nỗ lực đồng bộ của toàn đảng, toàn dân, toàn quân trên
địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, bảo đảm cho mỗi bước phát triển về
KT - XH đều tạo ra mỗi bước đảm bảo QP - AN, làm cho một số tỉnh biên
giới phía Bắc trở thành một địa bàn giàu về KT, vững về CT - XH, mạnh về
QP, AN, vững bước trong quá trình tiếp tục đổi mới và phát triển bền vững.
173
KẾT LUẬN
1. Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN không phải là vấn đề riêng
của thời đại ngày nay, không chỉ là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt
Nam, mà là vấn đề có tính quy luật chung cho mọi XH còn giai cấp và đấu tranh
giai cấp, còn mưu đồ thôn tính của dân tộc này đối với dân tộc khác. Thực chất phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là sự gắn kết một cách tổng thể, mỗi bước
phát triển KT - XH phải luôn gắn kết với việc đảm bảo QP, AN BVTQ, không thể
có KT thuần tuý, không thể có KT tách khỏi BVTQ.
2. Thực chất phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc là thực hiện sự thống nhất hữu cơ giữa các hoạt động phát
triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, hướng tới sự phát triển ổn định bền
vững KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN
là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền;
mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động và quy luật riêng, song giữa chúng
có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau; phát triển KT - XH là yếu tố quyết định
đến đảm bảo QP, AN; ngược lại, đảm bảo QP, AN có tác động tích cực trở lại phát
triển KT - XH, bảo vệ, tạo điều kiện thúc đẩy KT - XH phát triển.
3. Trong thời kỳ mới, bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước
và một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng có nhiều đặc điểm mới cả về
KT, CT, QP, AN, đối ngoại..., quy định nội dung phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN một cách toàn diện, trước hết là trong quy hoạch, kế
hoạch phát triển KT, XH, QP, AN; trong xây dựng cơ cấu KT hợp lý và
trong phát triển các ngành, các lĩnh vực chủ yếu.
4. Từ thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc trong thời gian qua cho thấy đã thu được nhiều thành tựu
đáng khích lệ. Tuy nhiên, còn bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục trong thời
gian tới. Những thành tựu và hạn chế đó do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
5. Trong thời kỳ mới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả phát triển KT - XH
gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cần phải phát huy
174
cao độ những thành tựu đã đạt được, khắc phục tới mức thấp nhất những hạn
chế còn tồn tại. Muốn vậy, cần phải quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt quan
điểm và giải pháp phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
Quan điểm cần tập trung vào: giữ vững định hướng XHCN trong quá
trình phát triển KT - XH; đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, toàn diện trong quá
trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; phát triển KT - XH gắn với
đảm bảo QP, AN là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trước hết là
nhiệm vụ trực tiếp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên địa bàn một số tỉnh
biên giới phía Bắc; và phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc phải phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế. Giải pháp chủ
yếu bao gồm: thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền cho cán bộ,
đảng viên, nhân dân nhận thức thật sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà
nước, địa phương về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; thực hiện tốt
việc quy hoạch ổn định trong dài hạn, phát triển KT - XH bền vững trên địa bàn
một số tỉnh biên giới phía Bắc gắn với đảm bảo QP, AN; quán triệt, thực hiện tốt
định hướng phát triển KT - XH, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền KT
trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc gắn với đảm bảo QP, AN; tăng cường
củng cố, nâng cao sức mạnh QP, AN tạo môi trường hoà bình, ổn định nhằn phát
triển KT - XH; và không ngừng nâng cao hiệu quả lao động sản xuất, làm KT
theo phương châm phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của QĐND và
CAND trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
Để thực hiện tốt quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu trên, đòi hỏi phải
phát huy tốt tinh thần nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên
địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, có như vậy mới thúc đẩy nhanh quá trình
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, bảo vệ vững chắc tuyến biên giới
địa đầu của Tổ quốc; góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.
175
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƢỢC
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Văn Nam (2010), “Tham gia toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế - thời cơ và thách thức đối với quốc phòng nước ta hiện nay”, Tạp
chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, Số 4, Tr. 43 - 46.
2. Lê Văn Nam (2012), “Phát triển kinh tế gắn với quốc phòng - an ninh
trong tình hình mới”, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, Số 4, Tr. 50 - 53.
3. Lê Văn Nam (2013), “Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh
trên địa bàn biên giới tỉnh Quảng Ninh - kết quả và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và
Quản lý, Số 6, Tr. 54 - 57.
4. Lê Văn Nam (2013), “Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện tốt
nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh trong
thời kỳ mới”, Tạp chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, Số 4, Tr. 26 - 29.
176
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu trong nƣớc
1. Ph.Ăngghen (1982), Tuyển tập luận văn quân sự, tập 1, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
2. Ph.Ăngghen (1987), Chống Đuy Rinh, Các Mác - Ph.Ăngghen, toàn
tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật, H. 1995.
3. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2003), Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Hà Nội.
6. Báo Quân đội nhân dân (2011), “Chủ động xây dựng các chiến lược,
dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh”, Báo Quân đội
nhân dân, thứ 2, ngày 12/12/2011,
7. Nguyễn Hải Bằng (1999), Đề tài khoa học xã hội, Kết hợp kinh tế với
quốc phòng - an ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Học viện Quốc phòng, Hà Nội.
8. Trần Thái Bình (2010), “Quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, an
ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, số 6, tr. 29-31.
9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm
2020, Chiến lược - Kế hoạch - Dự báo, Nxb Thống kê, Hà Nội.
10. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Quốc Phòng (2005),
Chương trình hợp tác xây dựng mô hình quản lý, bảo vệ rừng có hiệu quả ở
các khu vực kinh tế quốc phòng, Hà Nội.
11. Bộ Quốc Phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Kế sách
giữ nước thời Lý - Trần, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
177
12. Bộ Quốc Phòng (2003), Qui chế về quản lý hoạt động sản xuất, xây
dựng kinh tế của Quân đội, Hà Nội.
13. Bộ Quốc phòng (2004), Qui chế hoạt động của đoàn kinh tế - quốc
phòng, Hà Nội.
14. Bộ Quốc phòng, Trung tâm từ điển bách khoa quân sự, Từ điển Bách
khoa Quân sự Việt Nam (2004), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
15. Bộ Quốc Phòng - Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh (2004), Chương trình phối hợp Quân đội và Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh tham gia phát triển kinh tế - xã hội củng cố quốc phòng, an ninh
ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo (2005-2010), Hà Nội.
16. Bộ Quốc Phòng (2007), Giáo trình giáo dục quốc phòng, dùng cho
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh đối tượng 1, tập 1, cuốn 1, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
17. Nguyễn Đình Chiến (2011), “Nghiên cứu chiến lược quốc phòng phục vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Báo Quân đội nhân dân, thứ bảy, ngày 10/12/2011.
18. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 4, Nxb Sử học.
19. Cục Kinh tế - Bộ Quốc Phòng (2002), Mô hình tổ chức và phương
thức hoạt động của các lực lượng Quân đội sản xuất, xây dựng kinh tế, Đề tài
khoa học cấp Bộ Quốc phòng Hà Nội.
20. Cục Kinh tế - Bộ Quốc Phòng (2004), Báo cáo sơ kết 5 năm Quân
đội xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, Hà Nội.
21. Cục Kinh tế - Bộ Quốc Phòng (2006), Xây dựng khu kinh tế - quốc
phòng giai đoạn 1998-2006, Hà Nội.
22. Cục Kinh tế - Bộ Quốc Phòng (2006), Tổng kết báo cáo của các
đoàn kinh tế - quốc phòng về công tác xoá đói giảm nghèo, Hà Nội.
23. Trần Công Cửu (2003), Định hướng và giải pháp kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Đề tài khoa học cấp tỉnh.
178
24. Nguyễn Tiến Dũng (2002), Luận án tiến sĩ kinh tế: Phát triển kinh
tế nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình hình thành nền kinh
tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Đại học kinh tế quốc dân.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1969), Văn kiện quân sự của Đảng, tập
II, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo
tổng kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua
20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
179
37. Đảng uỷ Quân sự Trung ương (1998), nghị quyết số 150/ĐUQSTW về
việc Quân đội tham gia lao động sản xuất, làm kinh tế, phát huy vai trò nòng cốt
tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên
các địa bàn chiến lược, Hà Nội.
38. Đảng uỷ Quân sự Trung ương (2002), Nghị quyết số 71/ĐUQSTW về
việc nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ mới - tiếp tục
sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (11/2010),
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Hạ Long.
40. Đề tài KX.04.14 (1994), Luận cứ khoa học đổi mới chính sách xã
hội nhằm đảm bảo an ninh xã hội và khắc phục các tệ nạn xã hội.
41. Đề tài KX.04.11 (1995), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính
sách đối với dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi.
42. Lê Anh Điền (2003), Luận án tiến sĩ quân sự: Bộ đội Biên phòng
tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện ở vùng dân tộc Mông trên khu
vực biên giới Tây Bắc, Học viện Quốc phòng, Hà Nội.
43. Đoàn kinh tế - quốc phòng 327 (2008), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ xây dựng khu kinh tế - quốc phòng giai đoạn 1998 - 2008, Quảng Ninh.
44. Minh Đức (2011), “Phương châm kết hợp kinh tế với quốc phòng
của một số nước ASEAN”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6, tr. 25-27.
45. Tô Đức Hạnh, Phạm Văn Linh (2000), Phát triển kinh tế hàng hoá
trong nông thôn các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam thực trạng và giải pháp,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đỗ Huy Hằng (2009), Xây dựng tiền lực hậu cần trong khu kinh
tế - quốc phòng trên địa bàn các quân khu phía Bắc, Luận án tiến sĩ quân
sự, Học viện Quốc phòng, Hà Nội.
47. Đặng Vũ Hiến (2007), “Kết hợp kinh tế với quốc phòng bảo đảm
hậu cần cho tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, Số 5, Tr. 30-32.
180
48. Đinh Văn Huệ (1999), “Mấy suy nghĩ về kết hợp kinh tế với quốc
phòng, an ninh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”, Thông tin Khoa học
công nghệ môi trường, số 24.
49. Phạm Mạnh Hùng (2009), Đầu tư phát triển các khu kinh tế - quốc phòng
ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.
50. Bùi Phan Kỳ (2010), “Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6, tr. 21-23.
51. Hoàng Xuân Lâm (2010), “Mấy quan điểm về quốc phòng, an ninh
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1011-2020”, Tạp chí Quốc phòng
toàn dân, số 6, tr. 29-32.
52. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời
Lê Sơ, Hà Nội.
53. V.I Lênin (1918) “Phải đứng trên thực tế”, V.Lênin Toàn tập, Tập
35, Nxb Tiến Bộ, M 1976.
54. V.I Lênin (1950), Hải cảng lữ thuận thất thủ, V.I Lênin Toàn tập,
Tập 9, Nxb Tiến Bộ, M 1976.
55. V.I.Lênin, “Dự thảo Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về
thống nhất quân sự”, Toàn tập, tập 38.
56. Phạm Bằng Luân (2007), Phát triển kinh tế trang trại và vai trò của
nó đối với xây dựng tiềm lực quốc phòng các tỉnh Trung du miền núi phía
Bắc, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.
57. Cấn Văn Lực (2006), Phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
và tác động của nó đối với việc xây dựng tiềm lực quốc phòng trên địa bàn
Quân khu 7. Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - quân sự.
58. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, Tập 8, Nxb Sự thật, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (1989), “Bài nói chuyện với đồng bào các dân tộc tỉnh
Tuyên Quang”, Toàn tập, Tập 9, Nxb Sự thật, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (1995), Những bài nói và viết về quân sự, Tập 1, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
181
61. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội.
62. Phạm Đức Nhuấn (2002), Xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị -
quân sự, Hà Nội.
63. Ngô Gia Văn Phái (1960), Việt sử tiêu án, Nxb Văn hoá Á Châu,
Sài Gòn.
64. Nguyễn Văn Rinh (2003), “Quân đội đẩy mạnh xây dựng khu kinh tế -
quốc phòng, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên
địa bàn chiến lược, biên giới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân. Số 11, tr. 15-18.
65. Vũ Văn Tài (2010), Nghiên cứu xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng
trên biên giới phía Bắc, luận án tiến sĩ quân sự, Học viện Quốc phòng, 2010.
66. Trần Trung Tín (1998), Kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta hiện
nay, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
67. Tỉnh uỷ Quảng Ninh (2012), Đề án Phát triển kinh tế - xã hội
nhanh, bền vững; đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh và thí điểm xây
dựng hai đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Móng Cái, Dự thảo
ngày 30/7/2012 - Bản tóm tắt, Hạ Long, tháng 7/2012, tr. 6.
68. Quốc Toản, Mạnh Hùng, Mạnh Dũng (2008), “Kết hợp phát triển
kinh tế biển với tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
trong tình hình mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 10.
69. Tổng Cục thống kê (2012), Kết quả điều tra nông nghiệp, nông
thôn và thuỷ sản năm 2011, Nxb Thống kê.
70. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê (2012), Nxb Thống kê.
71. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê (tóm tắt) (2012), Nxb
Thống kê.
72. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg Phê
duyệt chương trình thực hiện xoá đói giảm nghèo của Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
73. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 227/2000/QĐ-TTg Phê
duyệt đề án tổng thể Quân đội tham gia xây dựng khu kinh tế - quốc phòng, Hà Nội.
182
74. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg Phê
duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng
đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội.
75. Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Từ điển tiếng Việt (1992), Nxb Trung
tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
76. Trương Thành Trung (2011), “Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI với vấn
đề mối quan hệ kinh tế với quốc phòng, an ninh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
Tạp chí Giáo dục Lý luận chính trị, Học viện Chính trị, Số 4, tr. 18-21.
77. Trần Xuân Trường - Nguyễn Anh Bắc (1980), Vấn đề kết hợp kinh
tế với quốc phòng ở nước ta, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
78. Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên Dự án giảm nghèo tỉnh Điện Biên
giai đoạn 2010 - 2015, kèm theo quyết định số 562/QĐ - UBND ngày
12/5/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên.
79. Http://www.chinhphu.vn
- Tài liệu nƣớc ngoài
80. Adam Posen, Daniel K. Tarullo, Report of the Working Group on
Economics and National Security, the Princeton Project on National Security,
https://www.princeton.edu/-ppns/confrences/reports/fall/ENS.pdf
81. Arther J Mann, (1985) “The Impact of Defence spending on
Economic Performance:A Survey of Evidence and Problems”, Defence
spending and Economy, Summer 85, Vol.29 Issue 2, p 403-434.
82. Dunne,Paul and Smith,Ron P,(1990), “Military Expenditure and
Unemployment in the OECD”, Defence Economics, 4(2), p 113-22.
83. Intriligator, “On the Nature and scope of Defence Economics”, Defence
economics, number 1 (1) 1990. p 4-7.
84. Jayawardena, (2013), “A conceptual frame work to study national
defence and economic development”, International Journal of Education and
Research, Vol.1 No.3 March 2013. www.ijern.com/images/March-2013/07.dpf
183
85. Reppy Judith, “On the Nature and scope of Defence Economics: A
comment”, Defence Economics, number 1 2 (3) 1991. p 269-274.
86. Smith Ron, (1980) “Military Expenditure and Investment in OECD
Countries 1954-73”, Journal of Comparative Economics, 4 (1), p 19-32
87. Sandler Todd and Hartley Keith, (1995), Economics of Defense,
Cambridge University Press.
88. Sandler Todd and Hartley Keith (2007), Handbook of Defense
Economics, Volume 2 defense in a Globalized World, North – Holland.
89. Wolfgang-Peter Zingel: National security and Economic
Development: Security development - developing security,
http://www.bundesheer.at/pdf_pool/publikationen/eco_impact
s_02_national_security_zingel.pdf .
top related