thanh lí tài sản
Post on 24-Jun-2015
114 Views
Preview:
TRANSCRIPT
5/12/2013
Thanh lí tài sản
Thực trạng, so sánh và giải pháp
Nhóm 6
Mục lục
1. Cơ sở lí luận về thanh lí tài sản.........................................................................3
1.1. Các định nghĩa về tài sản phá sản...............................................................................................3
1.1.1. Tài sản..................................................................................................................................3
1.1.2. Tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.........................................................3
1.1.3. Khái niệm và phạm vi Tài sản phá sản..................................................................................4
1.2. Mối quan hệ giữa quản lí và xử lí tài sản....................................................................................6
1.2.1. Sự thống nhất giữa quản lý và xử lý tài sản phá sản............................................................6
1.2.1.1 Về chủ thể quản lý và xử lý tài sản phá sản....................................................................6
1.2.1.2 Mục đích của hoạt động quản lý và xử lý tài sản phá sản..............................................7
1.2.2. Sự khác biệt giữa quản lý và xử lý tài sản phá sản...............................................................7
1.2.3. Sự tác động qua lại giữa quản lý và xử lý tài sản phá sản....................................................7
1.3. Pháp lí về thanh lí tài sản............................................................................................................7
2. Thực trạng thanh lí tài sản phá sản ở việt nam...............................................12
2.1. Hạn chế, bất cập trong tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản............................14
2.2. Hạn chế, bất cập trong xử lý các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố.........................................................................................................................................................15
2.3. Hạn chế, bất cập trong việc thu hồi nợ đối với cá nhân, tổ chức còn mắc nợ doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản..............................................................................................................17
2.4. Hạn chế, bất cập trong thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản18
2.5. Một số bất cập, khó khăn khác liên quan đến xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản...................................................................................................................................20
3. Đối chiếu so sánh............................................................................................21
3.1. Mỹ.............................................................................................................................................21
3.2. Nhật bản...................................................................................................................................22
4. Kiến giải..........................................................................................................26
4.1. Giải pháp lâu dài và bền vững:..................................................................................................26
4.2. Những giải pháp cấp bách, tình thế:.........................................................................................27
4.2.1. Khắc phục những hạn chế và bất cập trong tổ chức và hoạt động Tổ chức quản lý, thanh lý tài sản..........................................................................................................................................27
4.2.2. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong xử lý các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố..................................................................................................................27
4.2.3. Quy định cụ thể hình thức và cách thức thu hồi nợ đối với cá nhân, tổ chức còn mắc nợ doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản................................................................................27
4.2.4. Khắc phục bất cập trong thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản...............................................................................................................................................28
4.2.5. Hạn chế tối đa những khó khăn khác liên quan đến xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.................................................................................................................28
1
Tài liệu tham khảo..............................................................................................28
Thành viên nhóm 6
1) Tạ Thúy Lan2) Phạm Văn Thành3) Kim Thị Nga4) Nguyễn Thị Hồng5) Lã Kiều Chinh6) Nông thị Hà Phương7) Nguyễn Thị Kiều Linh8) Đinh Hồ Nho Thông9) Nguyễn Lê Hương Thu
2
1. Cơ sở lí luận về thanh lí tài sản1.1. Các định nghĩa về tài sản phá sản1.1.1. Tài sản
Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Tài sản bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá (như trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu...) và
các quyền tài sản (như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số
tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn
góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng...).
Điều 181 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Quyền tài sản
là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch
dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Vậy, quyền sở hữu trí tuệ được
coi là tài sản.
Điều 164 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Quyền sở hữu bao
gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản
của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật (quyền chiếm hữu là
quyền nắm giữ, quản lý tài sản; quyền sử dụng là quyền khai thác
công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản; quyền định đoạt là
quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu
đó).
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba
quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.
1.1.2. Tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Theo điều 49, luật phá sản năm 2004:
1) Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản bao gồm:
Tài sản và quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại
thời điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
3
a) Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà
doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao
dịch được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản;
b) Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh
nghiệp, hợp tác xã. Trường hợp thanh toán tài sản là vật
bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo đảm, nếu giá trị
của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh
toán thì phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã;
c) Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã
được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai.
2) Tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh lâm vào
tình trạng phá sản bao gồm tài sản quy định tại khoản 1 Điều
này và tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp
danh không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh. Trường
hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có tài sản
thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư
nhân, thành viên hợp danh đó được chia theo quy định của Bộ
luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
1.1.3. Khái niệm và phạm vi Tài sản phá sản
Tài sản phá sản là tài sản của con nợ sau khi có quyết định
tuyên bố phá sản hay nói cách khác nó là tài sản của chủ thể phá
sản. Nó có thể chứa tài sản bảo đảm hoặc không chứa tài sản bảo
đảm.
Trong Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, không có khái
niệm "Tài sản phá sản" mà chỉ có khái niệm "tài sản còn lại" theo Điều
39. Vấn đề xác định xem tài sản có bảo đảm được thanh toán trước
hay sau thời điểm ra quyết định tuyên bố phá sản, tài sản còn lại
4
(theo Điều 39) có gồm cả tài sản có bảo đảm hay không cũng chưa
có sự thống nhất.
* Quan điểm thứ nhất cho rằng:
Theo Điều 39 Luật phá sản doanh nghiệp thì "Tài sản còn lại" là
tài sản của doanh nghiệp ở vào thời điểm doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản bao gồm toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp hay quyền quản lý của doanh nghiệp (Doanh nghiệp Nhà
nước), trong đó có tài sản mà doanh nghiệp mắc nợ đã đem đi bảo
đảm cho các khoản nợ của mình ở các chủ nợ. Nó bao gồm:
1) Tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp đang
có ở doanh nghiệp
2) Tiền và tài sản góp vốn liên doanh, liên kết với cá nhân,
doanh nghiệp hoặc tổ chức khác.
3) Tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp mà cá nhân, tổ chức
doanh nghiệp khác đang nợ hoặc chiếm đoạt.
4) Tài sản mà doanh nghiệp đang cho thuê hoặc cho mượn.
5) Các quyền về tài sản.
Tài sản của doanh nghiệp tư nhân còn bao gồm cả tài sản của
chủ doanh nghiệp tư nhân không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh
doanh.
Theo quan điểm này, căn cứ vào Điều 15 của Luật phá sản
doanh nghiệp năm 1993 thì trong quyết định mở thủ tục tuyên bố
phá sản đã ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ. Và theo Điều
16,17 thì Thẩm phán phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để
bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ, nên không được
cho thanh toán nợ có bảo đảm. Theo khoản 6 Điều 37 thì chỉ trong
quyết định tuyên bố phá sản mới nêu ra phương án phân chia giá trị
tài sản của doanh nghiệp. Theo khoản 4 Điều 39 thì việc phân chia
5
tài sản còn lại theo danh sách chủ nợ mà danh sách chủ nợ thì phải
có cả tên chủ nợ có bảo đảm lẫn chủ nợ không có bảo đảm (Điều
22). Do đó, tài sản bảo đảm phải được thanh toán sau khi có quyết
định tuyên bố phá sản và tài sản còn lại phải chứa cả tài sản có bảo
đảm. Theo Điều 38 chủ nợ có bảo đảm phải được thanh toán trước
chủ nợ không có bảo đảm. Nghĩa là, chủ nợ có bảo đảm phải được
thanh toán sau chi phí phá sản, các khoản lương, trợ cấp cho người
lao động và thuế. Điển hình là trong quyết định tuyên bố phá sản
doanh nghiệp tư nhân Hiệp Thành của Toà án kinh tế Toàn án nhân
dân tỉnh Tây Ninh hay trong quyết định tuyên bố phá sản công ty tơ
tằm xuất nhập khẩu Thanh Hóa của tòa kinh tế tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa, chủ nợ có bảo đảm đã được xếp vào thứ tự ưu tiên thanh
toán sau thuế và trước các chủ nợ không có bảo đảm.
* Quan điểm thứ hai cho rằng: Tài sản còn lại theo Điều 39 là
tài sản của doanh nghiệp bị phá sản nhưng không bao gồm tài sản
có bảo đảm và việc thanh toán nợ cho các chủ nợ có bảo đảm trước
hay sau là tuỳ vào Thẩm phán giải quyết vụ việc. Vì họ cho rằng:
Khoản 2 Điều 18 đã cho phép Thẩm phán giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản được toàn quyền quyết định điều đó. Việc ấn định thời
điểm ngừng thanh toán nợ chẳng qua chỉ áp dụng đối với doanh
nghiệp mắc nợ nhằm hạn chế tình trạng tẩu tán tài sản. Còn danh
sách chủ nợ được thành lập trên cơ sở bảng kê tài sản. Việc định giá
các tài sản trong bảng kê các tài sản chỉ mang tính tạm thời, tương
đối để so sánh các khoản nợ phải trả, phải thu của doanh nghiệp
đang bị giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản (vì giá trị ban đầu của
tài sản bảo đảm có thể thấp hơn hoặc cao hơn thực giá tại thời điểm
mà nó bán ra). Do đó việc xác định ai nợ lại ai chỉ mang tính tương
đối, chủ nợ có bảo đảm có thể trở thành chủ nợ có bảo đảm một
phần và trong danh sách chủ nợ, chủ nợ đó tạm thời trở thành chủ
nợ không có bảo đảm đối với phần nợ không được bảo đảm. Số nợ
6
không có bảo đảm này được ghi là "tạm thời" và có chú thích rõ.
Nghĩa là dù thanh toán cho các chủ nợ có bảo đảm trước tiên cũng
không vi phạm các quy định ở Điều 15, ở Khoản 4 Điều 39 và Điều
22.
Hơn nữa, Điều 38 cũng quy định rằng: "Nếu giá trị tài sản thế
chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ của chủ nợ có bảo
đảm, thì chủ nợ đó được tham gia vào việc phân chia giá trị tài sản
còn lại của doanh nghiệp như các chủ nợ không có bảo đảm khác.
Nếu giá trị tài sản cầm cố đó lớn hơn số nợ, thì phần chênh lệch
được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản". Vì
vậy, họ đã đồng nhất giá trị tài sản còn lại trong Điều 38 giống như giá
trị tài sản còn lại trong Điều 39.
1.2. Mối quan hệ giữa quản lí và xử lí tài sản1.2.1. Sự thống nhất giữa quản lý và xử lý tài sản phá sản1.2.1.1 Về chủ thể quản lý và xử lý tài sản phá sản
Với mục tiêu là tránh được sự thất thoát tài sản, bảo đảm an
toàn về mặt pháp lý cho tài sản của doanh nghiệp, đồng thời thực
hiện việc thanh toán nợ một cách công bằng, khách quan và hiệu
quả, các nước khi ban hành Luật Phá sản đều rất quan tâm đến vấn
đề quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Vì vậy, Luật
Phá sản các nước đều quy định việc thành lập ra một thiết chế nhằm
đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ và sau đó phải quy định cho nó
một địa vị pháp lý nhất định, đó là chủ thể quản lý, xử lý tài sản.
Thông thường, chủ thể quản lý, xử lý tài sản là cá nhân hoặc tổ chức
được cử ra để thực hiện các hành vi quản lý, xử lý tài sản của doanh
nghiệp phá sản. Pháp luật của các nuớc trên thế giới đã thiết kế hai
mô hình chủ thể quản lý, xử lý TSPS. Mô hình thứ nhất, chủ thể quản
lý, xử lý tài sản là một nhân viên do Toà án bổ nhiệm. Mô hình thứ
hai, việc quản lý, xử lý TSPS được giao cho một nhóm người do Toà
án thành lập ra và thường gọi là Tổ quản lý tài sản.
7
1.2.1.2 Mục đích của hoạt động quản lý và xử lý tài sản phá sản
Quản lý và xử lý TSPS truớc hết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ nợ; bên cạnh đó, quản lý và xử lý TSPS cũng
góp phần bảo vệ quyền lợi của con nợ, giúp con nợ sử dụng tài sản
hợp lý và hiệu quả hơn. Quản lý và xử lý TSPS còn có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của nguời lao động…
1.2.2. Sự khác biệt giữa quản lý và xử lý tài sản phá sản
Mặc dù thủ tục quản lý TSPS và xử lý TSPS có những điểm
thống nhất, tương đồng, song về bản chất thì đây là hai thủ tục này
lại có sự khác biệt, điều đó có thể lý giải bởi sự khác nhau về đối
tƣợng, phƣơng thức thực hiện việc quản lý và xử lý tài sản phá sản…
1.2.3. Sự tác động qua lại giữa quản lý và xử lý tài sản phá sản
Quản lý TSPS là tiền đề, là điều kiện cho hoạt động xử lý TSPS.
Những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục quản lý TSPS và quy
định về cơ chế thực hiện việc quản lý TSPS nghiêm ngặt, sẽ góp
phần làm cho khối TSPS không những được sử dụng một cách hợp lý,
đúng pháp luật mà còn có tác dụng bảo toàn TSPS, góp phần hạn
chế khả năng vì các mục đích khác nhau mà con nợ có thể thực hiện
hành vi tẩu tán tài sản, điều đó giúp cho việc xử lý TSPS có hiệu quả
cao, nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
có liên quan…
Xử lý TSPS là vấn đề quan trọng nhất, là mục đích của pháp
luật phá sản. Xử lý TSPS khách quan, minh bạch và hiệu quả giúp
cho pháp luật phá sản thực hiện được các mục đích đã đặt ra, đồng
thời góp phần tăng tính hiệu quả của việc quản lý TSPS. Bởi vì, với
những nội dung khoa học, cùng ý nghĩa quan trọng và thiết thực, cơ
chế xử lý TSPS sẽ tác động lớn tới các chủ thể quản lý TSPS, giúp
8
các chủ thể này phát huy tinh thần trách nhiệm trong việc quản lý
TSPS nhằm hạn chế thấp nhất việc tẩu tán, mất mát TSPS để bảo
toàn TSPS.
1.3. Pháp lí về thanh lí tài sản.
Tại mục 2, chương VI – Thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý, luật
Phá sản năm 2004 đã quy định về các vấn đề trong việc thanh lý tài
sản. Đây là cơ sở pháp lí để các doanh nghiệp, tổ chức quyết định
thực hiện thanh lý tài sản.
Luật Phá sản năm 2004 quy định:
Điều 9. Tổ quản lý, thanh lý tài sản
1. Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán
ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ
quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản.
2. Thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản gồm có:
a) Một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm
Tổ trưởng;
b) Một cán bộ của Toà án;
c) Một đại diện chủ nợ;
d) Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ
tục phá sản;
đ) Trường hợp cần thiết có đại diện công đoàn, đại diện người
lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn tham gia Tổ quản lý,
thanh lý tài sản thì Thẩm phán xem xét, quyết định.
3. Căn cứ vào các quy định của Luật này, pháp luật về thi hành án
dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan, Chính phủ
ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài
sản sau khi thống nhất ý kiến với Toà án nhân dân tối cao.
9
Điều 10. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản
1. Tổ quản lý, thanh lý tài sản có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp, hợp
tác xã;
b) Giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã;
c) Đề nghị Thẩm phán quyết định áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trong
trường hợp cần thiết;
d) Lập danh sách các chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ;
những người mắc nợ và số nợ phải đòi của doanh nghiệp, hợp tác xã;
đ) Thu hồi và quản lý tài sản, tài liệu, sổ kế toán và con dấu
của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý;
e) Thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định của
Thẩm phán;
g) Phát hiện và đề nghị Thẩm phán ra quyết định thu hồi lại tài
sản, giá trị tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý đã bán hoặc chuyển
giao bất hợp pháp trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
43 của Luật này;
h) Thi hành quyết định của Thẩm phán về việc bán đấu giá tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý theo
đúng quy định của pháp luật về bán đấu giá;
i) Gửi các khoản tiền thu được từ những người mắc nợ và từ
việc bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã vào tài khoản
mở tại ngân hàng;
10
k) Thi hành các quyết định khác của Thẩm phán trong quá
trình tiến hành thủ tục phá sản.
2. Tổ quản lý, thanh lý tài sản thi hành các nhiệm vụ, quyền hạn quy
định tại các điểm đ, e, g, h và k khoản 1 Điều này theo quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự, các quy định khác của pháp luật có
liên quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Điều 11. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Tổ trưởng
Tổ quản lý, thanh lý tài sản
1. Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
a) Điều hành Tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn quy định tại Điều 10 của Luật này;
b) Mở tài khoản ở ngân hàng để gửi các khoản tiền thu được từ
những người mắc nợ và từ việc bán đấu giá các tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý trong trường hợp cần
thiết;
c) Tổ chức thi hành các quyết định của Thẩm phán.
2. Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Điều 78. Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản trong trường
hợp đặc biệt
Trường hợp doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã
được Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động
kinh doanh, nhưng vẫn không phục hồi được và không thanh toán
được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì Toà án ra
quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp mà không
11
cần phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét việc áp dụng thủ tục
phục hồi.
Điều 79. Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản khi Hội nghị
chủ nợ không thành
Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản khi Hội
nghị chủ nợ không thành trong những trường hợp sau đây:
1. Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp
tác xã không tham gia Hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính
đáng hoặc sau khi Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc trường hợp quy định tại
Điều 13 và Điều 14 của Luật này;
2. Không đủ số chủ nợ quy định tại khoản 1 Điều 65 của Luật này
tham gia Hội nghị chủ nợ sau khi Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một
lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc trường hợp
quy định tại các điều 15, 16, 17 và 18 của Luật này.
Điều 80. Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản sau khi có Nghị
quyết của Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất
Sau khi Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết
đồng ý với dự kiến các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh,
kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp,
hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh,
nếu có một trong các trường hợp sau đây thì Toà án ra quyết định
mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã:
1. Doanh nghiệp, hợp tác xã không xây dựng được phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều
68 của Luật này;
2. Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã;
12
3. Doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực
hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp
các bên liên quan có thoả thuận khác.
Điều 81. Nội dung quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản
1. Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản quy định tại các điều 78,
79 và 80 của Luật này phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
b) Tên của Toà án; họ và tên Thẩm phán phụ trách tiến hành
thủ tục phá sản;
c) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục
thanh lý tài sản;
d) Căn cứ của việc áp dụng thủ tục thanh lý tài sản;
đ) Phương án phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
theo nguyên tắc quy định tại Điều 37 của Luật này;
e) Quyền khiếu nại, kháng nghị và thời hạn khiếu nại, kháng
nghị.
2. Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản phải được Toà án gửi và thông báo
công khai theo quy định tại Điều 29 của Luật này.
Điều 82. Hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã trong quá
trình thanh lý tài sản
Trong quá trình thi hành quyết định mở thủ tục thanh lý tài
sản, theo đề nghị của Tổ quản lý, thanh lý tài sản, Thẩm phán có thể
ra quyết định cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện một số
hoạt động cần thiết cho việc thanh lý tài sản hoặc làm tăng thêm
khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
13
Điều 83. Khiếu nại, kháng nghị quyết định mở thủ tục thanh lý
tài sản
1. Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, các chủ nợ
có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền
kháng nghị quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản.
2. Những người mắc nợ doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền khiếu nại
phần quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã liên quan đến nghĩa vụ trả nợ của mình.
3. Thời hạn khiếu nại, kháng nghị là hai mươi ngày, kể từ ngày cuối
cùng đăng báo về quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản.
Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày hết thời hạn khiếu nại,
kháng nghị, Toà án đã ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi hồ sơ về phá sản kèm theo đơn
khiếu nại, quyết định kháng nghị cho Toà án cấp trên trực tiếp để
xem xét, giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định mở thủ tục
thanh lý tài sản.
Điều 84. Giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định mở thủ
tục thanh lý tài sản
1. Ngay sau khi nhận được hồ sơ về phá sản kèm theo đơn khiếu nại,
quyết định kháng nghị, Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp chỉ định
một tổ gồm ba Thẩm phán xem xét, giải quyết khiếu nại, kháng nghị
quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản.
2. Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ về phá
sản, Tổ Thẩm phán phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kháng nghị
quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. Tổ Thẩm phán có quyền ra
một trong các quyết định sau đây:
a) Không chấp nhận khiếu nại, kháng nghị và giữ nguyên quyết
định mở thủ tục thanh lý tài sản của Toà án cấp dưới;
14
b) Sửa quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của Toà án cấp
dưới;
c) Huỷ quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của Toà án cấp
dưới và giao hồ sơ về phá sản cho Toà án cấp dưới tiếp tục thủ tục
phục hồi theo quy định của Luật này.
3. Quyết định giải quyết khiếu nại, kháng nghị của Toà án cấp trên
trực tiếp là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
ra quyết định.
Điều 85. Đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản
Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản trong
những trường hợp sau đây:
1. Doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản để thực hiện phương
án phân chia tài sản;
2. Phương án phân chia tài sản đã được thực hiện xong.
2. Thực trạng thanh lí tài sản phá sản ở việt nam
“Luật Phá sản Việt Nam” hiện hành được Quốc hội thông qua
ngày 15/6/2004, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2004 và thay
thế Luật Phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993, được đánh giá là
một bước tiến bộ lớn trong kỹ thuật lập pháp so với Luật Phá sản
doanh nghiệp năm 1993, đưa những quy định của pháp luật về phá
sản tiến gần với những quy định về phá sản của các nước phát triển.
Sau gần 10 năm thi hành, Luật Phá sản năm 2004 đã góp phần
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và hài hòa của chủ nợ,
con nợ và người lao động; Qua đó, góp phần làm lành mạnh hoá nền
kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh và bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội. Đây là cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện cho
ngành Tòa án nhân dân giải quyết hậu quả pháp lý của các doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
15
Dù được kỳ vọng là sẽ khắc phục được những vướng mắc của
Luật Phá sản năm 1993 và đưa những quy định của Luật này thực sự
đi vào cuộc sống, tuy nhiên, thực tiễn thi hành cũng cho thấy, những
quy định của pháp luật về phá sản còn không ít hạn chế, bất cập
như tỷ lệ doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản
chưa phản ánh đúng thực trạng tài chính thực tế của các chủ thể
kinh doanh; quá trình tiến hành thủ tục phá sản còn bị kéo dài; hiệu
quả giải quyết phá sản còn kém, số nợ phải thu thấp hơn số nợ phải
trả, tỷ lệ thu hồi nợ rất thấp; tỷ lệ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã
sau khi mở thủ tục phá sản là rất thấp…
Theo Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phá sản của Tòa án nhân
dân Tối cao trình Quốc hội cho thấy, năm 2012 đăng ký là 69.874
doanh nghiệp, trong đó dừng hoạt động và giải thể là 54.261 (có
44.906 doanh nghiệp dừng và 9.355 giải thể. Với 44.906 doanh
nghiệp dừng hoạt động trong một năm, không ai dám khẳng định là
nó sẽ không gây hậu quả cho xã hội. Trong khi đó, củng theo Báo
cáo này, qua 9 năm thực hiện Luật Phá sản năm 2004, Tòa án các
cấp chỉ thụ lý 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, ra
236 Quyết định mở thủ tục phá sản, trong đó ra 83 Quyết định tuyên
bố phá sản. Trước đó, dưới sự điều chỉnh của Luật Phá sản doanh
nghiệp 1993 củng ở tình trạng tương tự. Ở đây có thể thấy, số lượng
doanh nghiệp tự rút lui khỏi nền kinh tế thông qua các quy định của
Luật là một con số rất nhỏ. Một câu hỏi lớn được đặt ra, vì sao một
trong những đạo luật có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong việc
tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh lại ít được sử dụng? Một
trong những nguyên nhân chính trực tiếp của thực trạng trên vẫn là
do những bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật Phá sản
2004.
Một trong những nguyên nhân cơ bản đó là quy định của pháp
luật về phá sản còn chưa thật sự phù hợp, khả thi, đặc biệt những
16
quy định về giải quyết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (sau
đây gọi chung là doanh nghiệp) khi lâm vào tình trạng phá sản. Bởi
lẽ, một trong những vấn đề trọng tâm, phức tạp và nhận được sự
quan tâm nhất của cả chủ nợ, con nợ cũng như người lao động đó là
giải quyết tài sản.
Sau đây là một số những hạn chế và bất cập từ thực tiễn thi
hành các quy định của Pháp luật về giải quyết tài sản của Doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản:
2.1. Hạn chế, bất cập trong tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Theo quy định tại Luật Phá sản năm 2004 thì thành phần của
Tổ quản lý, thanh lý tài sản khá toàn diện, bao gồm đại diện của cơ
quan nhà nước có trách nhiệm trong giải quyết thủ tục phá sản; đại
diện của những người có quyền và nghĩa vụ liên quan (chủ nợ và con
nợ, công đoàn). Về lý thuyết, với cơ cấu đại diện và nguyên tắc làm
việc tập thể, thảo luận, quyết định theo đa số thì có thể bảo đảm và
dung hòa được quyền lợi của các bên liên quan trong giải quyết vụ
việc phá sản. Tuy nhiên, khi áp dụng trên thực tiễn lại xuất hiện một
số vấn đề sau đây:
Một là, việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản còn chậm
nên đôi khi tài sản của doanh nghiệp bị tẩu tán:
Nguyên nhân là còn sự mâu thuẫn giữa các văn bản hướng dẫn
Luật Phá sản khi quy định về việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài
sản ; do cơ cấu thành viên của Tổ gồm nhiều thành phần trong khi
đó công tác phối hợp giữa Tòa án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân
liên quan trong việc cử người tham gia còn chưa chặt chẽ, nhịp
nhàng.
17
Hai là, tổ chức thiếu ổn định, sự phối hợp giữa các thành viên
trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản còn chưa thường xuyên, chặt chẽ
nên hoạt động chưa hiệu quả.
Nguyên nhân là do phần lớn các thành viên của Tổ đều là kiêm
nhiệm và ở các đơn vị khác nhau và thời gian giải quyết phá sản có
thể mất nhiều ngày.
Ba là, cơ cấu thành viên còn thiên về tính đại diện mà chưa
chú trọng đến yêu cầu chuyên môn nên chất lượng hoạt động còn
thấp.
Nguyên nhân là Luật Phá sản quy định chưa tương xứng giữa
trách nhiệm và quyền hạn của Tổ quản lý, thanh lý tài sản với điều
kiện về trình độ, chuyên môn đối với các thành viên của Tổ. Thực tế
cho thấy, để thực hiện những nhiệm vụ của Tổ được quy định như
định giá tài sản; lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh
nghiệp; quản lý tài sản, tài liệu, sổ kế toán của doanh nghiệp thì các
thành viên phải có trình độ chuyên môn cao về kế toán, tài chính
nhưng Luật Phá sản lại chưa có quy định để đáp ứng yêu cầu này.
Bốn là, còn sự mâu thuẫn giữa Luật Phá sản với Luật Thi hành
án dân sự năm 2008 làm ảnh hưởng đến hoạt động của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản và việc tổ chức thi hành quyết định của Thẩm phán.
Theo quy định của Luật Phá sản, Tổ quản lý, thanh lý tài sản có
nhiệm vụ tổ chức thi hành các quyết định của Thẩm phán theo quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự (khoản 2 Điều 10). Trong
khi đó, Luật Thi hành án dân sự lại không cho phép Thủ trưởng Cơ
quan thi hành án dân sự ra các quyết định thi hành án đối với các
quyết định của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản, kể cả quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 138). Do đó, trong
trường hợp Chấp hành viên làm Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài
18
sản không thể tổ chức thi hành quyết định của Thẩm phán trong phá
sản doanh nghiệp.
Từ những bất cập trên khiến cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản
không phát huy được vai trò của mình và hoạt động hoàn toàn
không hiệu quả, kéo theo việc giải quyết thủ tục phá sản kéo dài,
đôi khi là không thể thực hiện được.
2.2. Hạn chế, bất cập trong xử lý các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố
Điều 35 Luật Phá sản quy định “Xử lý các khoản nợ được bảo
đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố: Trường hợp Thẩm phán ra
quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì
các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố
được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó; nếu giá trị tài sản thế chấp
hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được
thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã; nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì
phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh
nghiệp, hợp tác xã”. Quy định này dẫn đến một số vấn đề như:
Một là, không rõ việc xử lý tài sản thế chấp là tách rời hay thực
hiện chung với các thủ tục thanh lý nợ.
Nếu việc bán tài sản thế chấp được giải quyết tách rời với các
thủ tục thanh lý tài sản và thanh toán nợ của doanh nghiệp, bên
nhận thế chấp rất có thể sẽ sử dụng quyền bán và quyết định
phương thức bán để ép doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
phải bán tài sản với mức giá không như mong muốn của họ. Do đó,
việc bán tài sản này chỉ nên được tiến hành đồng thời với thủ tục
phá sản nếu có thỏa thuận giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản với bên
nhận thế chấp. Nội dung của sự thỏa thuận bao gồm chủ thể được
19
quyền bán tài sản, phương thức bán và trách nhiệm thanh toán tiền
cho bên nhận thế chấp.
Hai là, không rõ về phương thức xử lý tài sản bảo đảm, tức là
cho phép bên nhận thế chấp được nhận chính tài sản thế chấp để
thực hiện thanh toán khoản nợ có bảo đảm hay là Tổ quản lý, thanh
lý tài sản tổ chức bán đấu giá tài sản bảo đảm để thu hồi tiền thanh
toán nợ cho chủ có bảo đảm.
Chủ nợ có tài sản bảo đảm có được quyền đề nghị Thẩm phán
phụ trách thủ tục phá sản, Tổ quản lý, thanh lý tài sản cho phép xử
lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu Tổ quản lý, thanh lý tài sản tiến
hành việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi khoản nợ đến hạn ngay
sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản đối dới doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đang có khoản nợ đến hạn hay
không.
Ba là, quy định về thời gian tạm đình chỉ xử lý tài sản thế chấp
còn chưa rõ ràng, hợp lý.
Luật Phá sản 2004 quy định việc xử lý tài sản bảo đảm của
doanh nghiệp đối với các chủ nợ có bảo đảm bị tạm đình chỉ giải
quyết, nhưng lại không có quy định về khoảng thời gian bị đình chỉ
này. Hơn nữa, có những trường hợp được phép xử lý tài sản thế chấp
trong quãng thời gian tạm đình chỉ, nhưng quy định tại các văn bản
hướng dẫn lại chưa xuất phát từ cơ sở bảo vệ lợi ích cho chủ nợ có
bảo đảm hoặc rất chung chung, mang nặng tính định tính, suy đoán.
Ví dụ quy định “không ảnh hưởng lớn” đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm “là cần
thiết”.
20
2.3. Hạn chế, bất cập trong việc thu hồi nợ đối với cá nhân, tổ chức còn mắc nợ doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản
Doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản thường gặp khó
khăn trong việc thu hồi các khoản nợ của doanh nghiệp khi một số
đơn vị mắc nợ đã tự giải thể, chuyển trụ sở nhưng không thông báo
hoặc một số cá nhân không có địa chỉ cụ thể, rõ ràng hoặc không
còn ở nơi cư trú. Đối với bên mắc nợ là tổ chức, doanh nghiệp thì có
những trường hợp họ chỉ công nhận nợ mà không có phương án trả
nợ hoặc đề nghị được trả dần với kế hoạch dài. Có đơn vị vừa là con
nợ vừa là chủ nợ thì họ xin được đối trừ... nhưng để được đối trừ nợ
thì lại phải qua một thủ tục khác là thủ tục xử lý tài sản phá sản.
Thực tế gặp một số khó khăn liên quan đến việc thu hồi nợ đối
với cá nhân, tổ chức còn mắc nợ doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản do quy định tại Luật Phá sản là chưa rõ ràng. Có thể kể đến
như:
Một là, chưa quy định phương thức xử lý cho một số trường hợp
đặc biệt như con nợ không có mặt tại địa phương và không xác định
được địa vị ở đâu hoặc đối với con nợ cố tình vắng mặt trong đối
chiếu nợ.
Hai là, chưa có hướng xử lý đối với trường hợp các khoản nợ
phải trả và các khoản nợ phải thu phát sinh từ tranh chấp với doanh
nghiệp yêu cầu tuyên bố phá sản mà không thể thỏa thuận được.
Ba là, chưa có quy định về việc thu hồi nợ của doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản với những người nợ doanh nghiệp.
Những quy định thiếu rõ ràng trên khiến cho việc thu hồi nợ
của doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản kéo dài và không
thể thực hiện được.
21
2.4. Hạn chế, bất cập trong thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Một là, quy định về thanh lý tài sản gắn liền với quyền sử dụng
đất chưa hợp lý, rõ ràng nên gặp rất nhiều khó khăn khi triển khai,
do rất khó tách biệt giữa tài sản với quyền sử dụng đất.
Một trong những khó khăn trong vấn đề thanh lý bán đấu giá
tài sản của doanh nghiệp bị phá sản là nhà xưởng gắn liền với quyền
sử dụng đất. Trong thực tế, các doanh nghiệp khi vay tiền của các tổ
chức tín dụng thì đã thế chấp nhà xưởng gắn liền với đất có quyền
sử dụng đất với thời hạn lâu dài. Nhưng khi bán, chuyển nhượng nhà
xưởng gắn liền với diện tích đất thì Tổ quản lý thanh lý tài sản không
thể chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bởi vì doanh nghiệp nếu
thuộc quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật Đất đai mà bị giải thể, phá
sản thì lại thuộc trường hợp do Nhà nước thu hồi đất.
Do đó, phần nhà xưởng nếu không gắn với quyền sử dụng đất
thì không bán được hoặc bán theo giá rất thấp. Vấn đề này đặc biệt
khó khăn khi liên quan đến doanh nghiệp nhà nước, bởi trong quá
trình kinh doanh, doanh nghiệp nhà nước được giao đất, mua đất
nhưng khi thanh lý tài sản thông thường chủ sở hữu doanh nghiệp
nhà nước không đồng ý cho bán đất vì cho rằng nguồn gốc đất từ
vốn nhà nước. Cũng có nhiều trường hợp, tài sản gắn liền với quyền
sử dụng đất của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lại không
phải là tài sản của doanh nghiệp, như ở lâm trường, nhiều nhà cửa,
công trình kiến trúc, rừng trồng, cây công nghiệp… trên đất lại của
cán bộ, công nhân viên chứ không phải của doanh nghiệp nên Tòa
án rất khó xử lý.
Hai là, quy định về định giá tài sản còn chưa hợp lý làm ảnh
hưởng tới tính chính xác và gây thiệt hại cho các chủ nợ cũng như
con nợ.
22
Luật Phá sản quy định Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền về
định giá tài sản doanh nghiệp. Đối với tổng giá trị tài sản hiện có của
doanh nghiệp dưới 30 tỷ đồng thì Tổ thành lập Hội đồng định giá tài
sản. Thành phần Hội đồng này gồm Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý
tài sản làm Chủ tịch Hội đồng; đại diện cơ quan tài chính; đại diện
một số cơ quan khác có liên quan; đại diện chủ nợ của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản; đại diện công đoàn hoặc đại diện người
lao động và Hội đồng quyết định theo đa số.
Tuy nhiên, với cơ cấu thành phần của Hội đồng được quy định
như trên thì rất khó bảo đảm về nghiệp vụ về tài chính, đủ trình độ
để định giá về tài sản. Do vậy, giá trị tài sản được xác định thường là
không chính xác. Điều này có thể dẫn tới hiện tượng: (i) giá được xác
định thấp hơn giá trị thật khiến cho doanh nghiệp phá sản cũng như
các chủ nợ bị thiệt hại; hoặc (ii) giá được xác định quá cao, khiến
cho việc thanh lý được tài sản này gặp khó khăn, tài sản không bán
được đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không thể bị tuyên phá sản,
chủ nợ không đòi được nợ, doanh nghiệp muốn phá sản cũng không
được.
Ba là, quy định về phương thức bán tài sản còn chưa hợp lý
làm cho việc bán tài sản chậm, kéo dài thời gian giải quyết phá sản.
Theo quy định hiện nay, việc bán các tài sản của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện thông qua phương thức
duy nhất là đấu giá. Về lý thuyết, đây là phương thức bảo đảm tính
công khai, minh bạch, bình đẳng và bảo đảm tối đa quyền lợi của
doanh nghiệp.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, quy định này vừa làm hạn chế tính
linh hoạt của việc lựa chọn phương thức bán tài sản; vừa không phù
hợp với sự đa dạng về tính chất, giá trị của từng loại tài sản. Đặc
biệt trong một số trường hợp lại làm gia tăng thời gian, chi phí và
không bảo đảm lợi ích tối đa của doanh nghiệp do phải đấu giá
23
nhiều lần, mất thêm chi phí đấu giá, chi phí bảo quản hoặc tiêu hao,
giảm giá trị tài sản, thậm chí không thể bán được tài sản.
Trên thực tế, đã có những trường hợp đề xuất thực hiện
phương thức khác như thỏa thuận gán nợ, đổi tài sản hay chỉ định
mua… nhưng do chưa được quy định cụ thể nên nhiều trường hợp
việc giải quyết phá sản đã bế tắc.
Bốn là, Luật Phá sản thiếu quy định về vấn đề xử lý tài sản còn
lại của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở nước ngoài.
Đây là một thực tế đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế, việc
doanh nghiệp mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài rất nhiều.
Vấn đề giải quyết phá sản các doanh nghiệp này, cần phải tính đến
khả năng thu hồi các tài sản ở nước ngoài nhằm bảo đảm mục tiêu
thu hồi toàn bộ tài sản của doanh nghiệp để bán và thanh toán cho
chủ nợ.
2.5. Một số bất cập, khó khăn khác liên quan đến xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Một là, khi thực hiện thủ tục phá sản, Tòa án gặp khó khăn
trong việc thu thập thông tin về chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ doanh
nghiệp phá sản và doanh nghiệp phá sản.
Thông thường, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
không thể nào cung cấp đầy đủ các thông tin đối với những đối
tượng nêu trên nên Toà án cần phải thực hiện. Trong quá trình thực
hiện, nếu Toà án có được sự hợp tác của doanh nghiệp phá sản thì
việc xác minh sẽ diễn ra nhanh và thuận lợi hơn. Nhưng trong nhiều
trường hợp, do thiếu sự phối hợp chặt chẽ nên việc lập danh sách
chủ nợ và người mắc nợ khá khó khăn và thường là chưa chính xác.
Hai là, nhiều doanh nghiệp có những khoản nợ khó đòi.
24
Có những khoản nợ mặc dù đã tiến hành xác minh nhưng vẫn
không tìm ra địa chỉ của con nợ. Có những khoản nợ của con nợ
cũng đã và đang bị giải thể, phá sản nên không có khả năng thanh
toán,…
Ba là, Về chế độ tài chính - kế toán của doanh nghiệp.
Chế độ tài chính - kế toán của doanh nghiệp có ảnh hƣởng
quan trọng với việc quản lý và xử lý TSPS doanh nghiệp. Hiện nay,
chế độ tài chính - kế toán của doanh nghiệp Việt Nam là không minh
bạch, chỉ số minh bạch về tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam
đƣợc xếp vào loại yếu kém trên thế giới.
Bốn là, Về phía các cơ quan nhà nước.
Các cơ quan nhà nƣớc can thiệp quá sâu vào quá trình giải
quyết phá sản cũng nhƣ hoạt động quản lý và xử lý tài sản phá sản
nên đã ảnh hƣởng lớn đến quá trình thực thi LPS mà đặc biệt là hạn
chế hiệu lực của những quy định về qủan lý và xử lý tài sản phá sản.
Thực tế cho thấy doanh nghiệp nhà nƣớc không thể nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản nếu nhƣ chƣa có ý kiến đồng ý của các cơ
quan chủ quản. Hay vấn đề xử lý quyền sử dụng đất trong trƣờng
hợp thế chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng cũng gặp
nhiều khó khăn…
Ngoài ra, còn có nguyên nhân từ yếu tố tâm lý.
Với tính phức tạp vốn có, thủ tục phá sản và những quy định về
quản lý và xử lý TSPS hiện nay ở Việt Nam đã tạo nên một tâm lý e
ngại, không yên tâm cho các đối tượng có liên quan. Yếu tố tâm lý
của các chủ thể có liên quan đến việc giải quyết phá sản đƣợc coi là
một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng kém hiệu
lực của pháp luật phá sản. Đó là những nguyên nhân từ phía doanh
nghiệp mắc nợ, các chủ nợ, người lao động thậm chí đối với cơ quan
có thẩm quyền giải quyết việc phá sản cũng nhƣ việc quản lý và xử
25
lý TSPS luôn là vấn đề mới mẻ, chƣa có nhiều trình độ và kinh
nghiệm, do vậy các cơ quan này rất lúng túng khi giải quyết phá
sản.
3. Đối chiếu so sánh 3.1. Mỹ
VIỆT NAM
Bị xem như “tội đồ”
Mục đích chính của Luật Phá sản là tạo lối thoát nhân đạo cho
những doanh nghiệp lâm vào hoàn cảnh khó khăn tài chính, không
còn khả năng trả dứt nợ. Nhưng trên thực tế, các quy định của luật
này lại quá tập trung vào việc bảo vệ sự công bằng cho các chủ nợ
nên thủ tục rối ren. Do đó, nhiều doanh nghiệp khi lâm vào cảnh vỡ
nợ, phải phá sản, họ không muốn chọn Luật Phá sản để giải quyết
nếu chọn cách phá sản theo luật, doanh nghiệp sẽ đối diện với rất
nhiều thủ tục nhiêu khê, rắc rối, khó thực hiện. nếu mọi việc trôi
chảy thì từ khi mở thủ tục phá sản đến khi mở thủ tục thanh lý tài
sản mất ít nhất là sáu tháng. “Nhưng từ khi có Luật Phá sản đến nay,
chưa có trường hợp nào trơn tru như vậy; trường hợp nhanh nhất
cũng hơn một năm”,
Nhưng nặng nề, “nguy hiểm” nhất trong quá trình giải quyết
doanh nghiệp phá sản theo Luật Phá sản đó là: những người điều
hành doanh nghiệp dẫn đến phá sản bị pháp luật xem như những
“tội đồ”. Thật vậy, theo quy định, chủ doanh nghiệp phá sản và
những người quản lý doanh nghiệp đó sẽ bị tòa ra quyết định không
được quyền thành lập cũng như cấm đảm nhiệm các chức vụ quản lý
doanh nghiệp từ một đến ba năm, kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên
bố phá sản.Đối với người giữ chức vụ quản lý, điều hành công ty
100% vốn nhà nước, người được giao đại diện phần vốn góp của Nhà
nước ở doanh nghiệp khác bị tuyên bố phá sản thì sẽ không được
26
đảm đương chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào, cũng
như doanh nghiệp nào có vốn nhà nước. “Luật quy định như thế
không khuyến khích doanh nghiệp chọn cách phá sản theo luật
Hoa kì
Mục đích cơ bản của Luật Phá sản Hoa Kỳ (LPSHK) là cho con
nợ lương thiện một cơ hội làm lại từ đầu bằng cách làm nhẹ gánh
nặng cho con nợ đối với hầu hết các khoản nợ, và giúp họ tuần tự trả
cho các chủ nợ bằng tài sản có sẵn cho việc chi trả.
Thanh lý tài sản (Điều 7, LPSHK): Một ban quản lý sẽ được chỉ
định để trông coi tài sản của con nợ vì lợi ích của các chủ nợ. Tuy
nhiên con nợ được phép giữ lại một số tài sản ngoại lệ có giới hạn
theo luật, còn lại phần lớn được ban quản lý bán đi để phân cho các
chủ nợ theo thủ tục mà luật phá sản quy định.
Điều chỉnh nợ cá nhân (Điều 13, LPSHK): Con nợ được phép giữ
lại tài sản của mình, nhưng phải trả lại cho chủ nợ làm nhiều lần từ
các thu nhập tương lai của mình. Tòa yêu cầu con nợ trình duyệt kế
hoạch về cách thức và thời gian thanh toán nợ. Một ban quản lý
được chỉ định, và một phần thu nhập của con nợ được trả cho ban
quản lý để trả cho chủ nợ.
- Tổ chức lại sản xuất kinh doanh (Điều 11, LPSHK): Cơ hội sản
xuất kinh doanh được đưa ra để doanh nghiệp tổ chức lại nhằm giải
quyết vấn đề tài chính. Con nợ được phép tiếp tục hoạt động dưới sự
giám sát của tòa án.
- Điều chỉnh nợ của hộ nông dân (Điều 12, LPSHK): Tương tự
như việc điều chỉnh nợ cá nhân, ngoại trừ một số đặc điểm chỉ có ở
gia đình nông dân.
- Điều chỉnh nợ của vùng đô thị (Điều 9, LPSHK): Quy định cho
đơn vị hành chính như thành phố, thị trấn, hay quận, cơ quan công
quyền, hay thiết chế khác của tiểu bang.
27
3.2. Nhật bản
Thủ tục thanh lý tài sản bao gồm: (1) Phá sản; (2) Thanh lý đặc
biệt và (3) Thoả hiệp. Theo thủ tục này thì toàn bộ tài sản của công
ty được chuyển thành tiền mặt và thanh toán cho các chủ nợ, chấm
dứt sự hoạt động cũng như chấm dứt sự tồn tại của công ty.
(1) Phá sản là việc thanh lý doanh nghiệp dưới sự giám sát
chặt chẽ của Toà án. Quy trình chung của thủ tục này là:
- Đơn yêu cầu phá sản: Khi các bên xác nhận những nguyên
nhân gây nên tình trạng phá sản đang tồn tại thì có thể gửi đơn yêu
cầu phá sản đối với người mắc nợ. Ở Nhật Bản chủ yếu là người mắc
nợ nộp đơn xin phá sản. Chỉ một số ít vụ chủ nợ nộp đơn xin phá sản
người mắc nợ, như: Ngân hàng yêu cầu phá sản đối với người mắc
nợ để thu hồi nợ. Khi người mắc nợ nộp đơn yêu cầu phá sản thì kèm
theo đơn là: bản cân đối tài chính, bản kiểm kê tài sản, danh sách
chủ nợ và phải nộp một khoản lệ phí. Tình trạng phá sản là không có
khả năng trả các khoản nợ đến hạn và đối với pháp nhân là không có
khả năng trả nợ. Pháp nhân được coi là không có khả năng trả nợ khi
khoản tiền nợ lớn hơn tài sản có của pháp nhân. Khi doanh nghiệp
mắc nợ ngừng trả các khoản nợ, thì người mắc nợ được coi là không
có khả năng tài chính để trả nợ và thường khi không trả hai ký phiếu
hồi lại thì được coi là một dấu hiệu ngừng thanh toán.
- Quyết định phá sản của Toà án: nếu Toà án nhận được đơn
yêu cầu phá sản xác nhận nguyên nhân gây phá sản là có thực thì
Toà án sẽ ra quyết định phá sản.
Thương nhân, tất cả các thể nhân, pháp nhân đều có thể bị
tuyên bố phá sản. Khi thương nhân bị tuyên bố phá sản thì các vụ
kiện liên quan đến khoản nợ của thương nhân bị tạm đình chỉ ít nhất
cho đến khi kiểm kê các khoản nợ. Việc thi hành các bản án, những
biện pháp khẩn cấp tạm thời… cũng bị tạm đình chỉ.
28
Những khoản nợ phá sản là những khoản nợ mà chứng cứ của
những khoản nợ đó có thể được đưa ra trong thủ tục phá sản và có
thể được trả một phần hoặc toàn bộ khi phân chia tài sản có của
người mắc nợ.
Những khoản nợ là lương của người lao động của công ty bị
phá sản là những khoản nợ được ưu tiên thanh toán. Chủ nợ phải có
nghĩa vụ xuất trình chứng cứ về những khoản nợ của mình trước Toà
án. Trong quyết định tuyên bố phá sản, Toà án ấn định thời hạn mà
chủ nợ phải xuất trình chứng cứ về các khoản nợ của mình. Thời hạn
này tối thiểu là hai tuần và tối đa là 4 tháng kể từ khi ra quyết định
tuyên bố phá sản.
Cùng với việc ra quyết định phá sản, Toà án chỉ định nhân viên
quản lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Trường hợp doanh
nghiệp bị phá sản không còn tài sản thì Toà án sẽ tuyên bố chấm
dứt thủ tục phá sản ngay.
- Quản lý và bán tài sản của doanh nghiệp: Nhiệm vụ này do
nhân viên quản lý tài sản thực hiện. Ngay sau khi được chỉ định,
nhân viên quản lý tài sản sẽ đến trụ sở doanh nghiệp mắc nợ và
thực hiện các biện pháp bảo toàn tài sản theo quyết định của Toà
án. Nếu doanh nghiệp chưa cho công nhân thôi việc thì họ sẽ cho
công nhân thôi việc. Nhân viên quản lý tài sản quyết định việc bán
tài sản theo thủ tục thông thường hoặc tổ chức bán đấu giá, quyết
định việc dừng kinh doanh hay để doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục
kinh doanh. Tất cả tiền thu được phải gửi vào một tài khoản riêng và
mục tiêu là chuyển toàn bộ tài sản của doanh nghiệp bị phá sản
thành tiền để thanh toán cho giai đoạn tiếp theo. Nhân viên quản lý
có quyền hủy những hành vi nhất định được thực hiện trước khi có
quyết định tuyên bố phá sản mà gây thiệt hại đối với các chủ nợ.
- Xác định tổng số nợ và tổng số chủ nợ: Thông qua đơn yêu
cầu phá sản và yêu cầu thanh toán, Nhân viên lục sự của Toà án sẽ
29
lập danh sách các khoản nợ theo các tài liệu, chứng cứ được các chủ
nợ cung cấp theo thời hạn như trên. Danh sách khoản nợ bao gồm
các nội dung như tên, địa chỉ của chủ nợ, số lượng khoản nợ, giao
dịch làm phát sinh khoản nợ. Tùy thuộc vào vụ việc cụ thể mà nội
dung danh sách có thể có những nội dung khác.
Nhân viên quản lý tài sản cũng phải điều tra các khoản nợ: họ
sẽ gửi khai báo của doanh nghiệp mắc nợ tới các chủ nợ. Chủ nợ sẽ
thông báo số nợ của mình cho nhân viên quản lý tài sản. Sau khi xác
định nếu thấy đúng chủ nợ và số nợ thì nhân viên quản lý tài sản
đưa họ vào danh sách chủ nợ. Nếu có sự không thống nhất, không
đúng thì ở đây sẽ có sự tranh chấp giữa chủ nợ và doanh nghiệp
mắc nợ về khoản nợ, tranh chấp này chuyển cho Toà án giải quyết
theo thủ tục tố tụng dân sự.
Vào ngày ấn định kiểm tra các khoản nợ, công ty bị tuyên bố
phá sản, chủ nợ, người quản lý tài sản cùng kiểm định các khoản nợ.
Toà án xác định ngày kiểm tra các khoản nợ trong quyết định tuyên
bố phá sản. Nhân viên quản lý tài sản phải kiểm tra chứng cứ các
khoản nợ trước ngày kiểm tra các khoản nợ.
Tại Điều 98 của Luật Phá sản năm 1922 còn quy định về việc
bù trừ. Theo đó, chủ nợ có một khoản nợ phá sản mà lại là người
mắc nợ của công ty phá sản vào cùng thời điểm tuyên bố phá sản có
thể thanh toán khoản nợ của mình bằng tài sản phá sản. Tuy nhiên,
một số trường hợp cụ thể sẽ không được thanh toán bù trừ như sau:
khoản nợ được hình thành sau khi tuyên bố phá sản, quyền đòi nợ
được mua tậu sau khi tuyên bố phá sản.
- Thanh toán khoản nợ và chấm dứt thủ tục phá sản. Nhân viên
quản lý tài sản sẽ thực hiện công việc này. Sau ngày kiểm tra các
khoản nợ đầu tiên, người quản lý tài sản có trách nhiệm phân chia
các tài sản tiền mặt của công ty bị phá sản. Sau khi thanh lý hoàn
toàn, người quản lý tài sản tiến hành phân chia tài sản của công ty
30
bị phá sản lần cuối với sự phê chuẩn của Toà án. Sau đó, Toà án
triệu tập một cuộc họp toàn thể các chủ nợ để nhân viên quản lý tài
sản trình bày về mặt tài chính. Khi giá trị của khối tài sản phá sản
không đủ để trả các chi phí phá sản thì Toà án tuyên bố chấm dứt
thủ tục phá sản. Khi yêu cầu tuyên bố phá sản, Toà án đánh giá rằng
tổng tài sản phá sản sẽ không đủ chi phí thì Toà án có trách nhiệm
tuyên bố chấm dứt phá sản ngay khi quyết định tuyên bố phá sản.
Luật Phá sản Nhật Bản còn quy định sự phục quyền. Sự phục
quyền được đưa vào Luật năm 1952 dưới ảnh hưởng của luật phá
sản Mỹ. Sự phục quyền là hoàn toàn và ngay lập tức khi các điều
kiện theo quy định của pháp luật được đáp ứng. Công ty phá sản vào
bất cứ lúc nào có thể yêu cầu Toà án ra lệnh phục quyền. Lệnh phục
quyền được ban hành sẽ hủy bỏ tất cả các quyền đòi nợ khi đã trả
tiền lãi, trừ một số khoản nợ như nợ thuế, các khoản tiền phạt hình
sự.
(2) Thủ tục thanh lý đặc biệt
Thủ tục thanh lý đặc biệt hay còn gọi là thủ tục phá sản tự
nguyện. Theo thủ tục này, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản sẽ gửi đơn cho Toà án và nói rõ sẽ áp dụng thủ tục thanh toán
đặc biệt. Doanh nghiệp sẽ triệu tập Đại hội cổ đông, nêu rõ lý do phá
sản. Đại hội sẽ tuyên bố giải tán công ty và chọn một người thanh
toán tài sản. Người này sẽ thực hiện việc thanh toán tài sản dưới sự
giám sát của Toà án (thông qua các báo cáo của họ). Người thanh
toán tài sản sẽ chuyển hóa các tài sản thành tiền để thanh toán các
khoản nợ, nếu số tiền thu được lớn hơn nợ thì sau khi thanh toán nợ,
số tiền còn lại sẽ được chia cho các cổ đông. Nếu nợ lớn hơn số tiền
thu được thì người thanh toán tài sản sẽ phải lựa chọn hoặc là tiếp
tục thực hiện thủ tục thanh toán đặc biệt hoặc nộp đơn cho Toà án
xin áp dụng thủ tục phá sản.
31
Thủ tục thanh lý đặc biệt chỉ được áp dụng cho loại Công ty cổ
phần. Thông thường, doanh nghiệp lựa chọn thủ tục này vì chi phí
khi áp dụng thủ tục phá sản là rất cao. Nhưng thực tế thì thủ tục này
cũng không được áp dụng nhiều vì phạm vi áp dụng rất hạn hẹp.
(3) Thỏa hiệp
Luật về thỏa hiệp quy định rằng, thủ tục thỏa hiệp được đưa ra
theo yêu cầu của công ty phá sản kèm theo một kế hoạch thỏa hiệp.
Sau khi yêu cầu thỏa hiệp được đưa ra, Toà án chỉ định một hay
nhiều Ủy viên Hội đồng thỏa hiệp. Các Ủy viên Hội đồng này xem xét
và đưa ra ý kiến về cơ hội tạo lập thủ tục thỏa hiệp. Toà án xem xét,
nếu thấy yêu cầu có thể chấp nhận thì tuyên bố tạo lập thủ tục thỏa
hiệp. Mục tiêu của thỏa hiệp là tránh phá sản, phục hồi lại quyền của
người mắc nợ. Toà án chỉ định một người quản lý tài sản thỏa hiệp.
Người quản lý này có trách nhiệm xem xét thái độ của người mắc nợ
và theo dõi quá trình hoạt động của doanh nghiệp dưới sự kiểm soát
của Toà án.
4. Kiến giải4.1. Giải pháp lâu dài và bền vững:
Ban hành bộ luật sửa đổi và bổ sung để phù hợp với tình hình thực
tế:
-Việt Nam ra nhập WTO năm 2007 và luật cũng cần có những
sửa đổi và bổ sung để phù hợp và đáp ứng những tiêu chuẩn và luật
pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các doanh
nghiệp; nhằm nâng tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp trên thị
trường quốc tế.
-Luật Doanh nghiệp, Luật thi hành án và các luật khác cũng đã
có những điều luật sửa đổi và bổ sung nên Luật phá sản cũng cần
phối hợp, nghiên cứu và đưa ra những thay đổi sao cho các luật có
sự thống nhất về nội dung và tránh sự chồng chéo.
32
4.2. Những giải pháp cấp bách, tình thế:4.2.1. Khắc phục những hạn chế và bất cập trong tổ chức và hoạt động Tổ chức quản lý, thanh lý tài sản
-Cần có sự thống nhất và đơn giản hóa, tập trung hóa các cơ
quan chuyên môn chuyên trách xử lý các thủ tục và hướng dẫn pháp
luật cho các doanh nghiệp phá sản một cách nhanh chóng và kịp
thời để tránh việc tẩu tán tài sản.
- Thống nhất và hợp nhất các văn bản luật liên quan đến các
thủ tục phá sản, thanh lý tài sản để không mất thời gian và công sức
của các doanh nghiệp khi tiến hành thanh lý tài sản.
4.2.2. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong xử lý các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố
- Làm rõ việc xử lý tài sản thế chấp là tách rời hay thực hiện
chung với các thủ tục thanh lý nợ.
- Cụ thể hóa các phương thức xử lý tài sản bảo đảm: nêu rõ
bên nhận thế chấp được nhận chính tài sản thế chấp để thực hiện
thanh toán khoản nợ có bảo đảm hay là Tổ quản lý, thanh lý tài sản
tổ chức bán đấu giá tài sản bảo đảm để thu hồi tiền thanh toán nợ
cho chủ có bảo đảm.
-Quy định rõ ràng về thời gian tạm đình chỉ xử lý tài sản thế
chấp: có khung thời gian chuẩn để các doanh nghiệp áp dụng theo
khung.
4.2.3. Quy định cụ thể hình thức và cách thức thu hồi nợ đối với cá nhân, tổ chức còn mắc nợ doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản
-Quy định rõ ràng các phương thức xử lý cho một số trường hợp
đặc biệt như con nợ không có mặt tại địa phương và không xác định
được địa vị ở đâu hoặc đối với con nợ cố tình vắng mặt trong đối
chiếu nợ.
33
- Nêu các phương hướng, biện pháp xử lý đối với trường hợp
các khoản nợ phải trả và các khoản nợ phải thu phát sinh từ tranh
chấp với doanh nghiệp yêu cầu tuyên bố phá sản mà không thể thỏa
thuận được.
-Thêm các quy định về việc thu hồi nợ của doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản với những người nợ doanh nghiệp
4.2.4. Khắc phục bất cập trong thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
- Thành lập quy định về thanh lý tài sản gắn liền với quyền sử
dụng đất chưa hợp lý, rõ ràng nên gặp rất nhiều khó khăn khi triển
khai, do rất khó tách biệt giữa tài sản với quyền sử dụng đất
- Quy định về định giá tài sản một cách hợp lý, nhất quán tránh
làm ảnh hưởng tới tính chính xác và gây thiệt hại cho các chủ nợ
cũng như con nợ.
-Quy định về phương thức bán tài sản rõ ràng và minh bạch
làm cho việc bán tài sản nhanh chóng và đơn giản, đúng quy định và
thủ tục; tuy nhiên cần đa dạng các hình thức bán tài sản.
4.2.5. Hạn chế tối đa những khó khăn khác liên quan đến xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
-Khi thực hiện thủ tục phá sản, Tòa án cần có những giấy tờ và
trình tự cụ thể để tránh những khó khăn trong việc thu thập thông
tin về chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ doanh nghiệp phá sản và doanh
nghiệp phá sản để có được sự hợp tác của doanh nghiệp phá sản thì
việc xác minh sẽ diễn ra nhanh và thuận lợi hơn.
- Đối với những khoản nợ khó đòi: cần có sự phối hợp điều tra
và giúp đỡ của các cơ quan liên quan như Công an, Cơ quan thuế, …
để công tác xác minh được chính xác và nhanh gọn.
34
- Về chế độ tài chính - kế toán của doanh nghiệp: đòi hỏi
những quy định minh bạch, rõ ràng và chính xác để công tác xử lý
tài sản và nợ được đúng yêu cầu.
- Về phía các cơ quan nhà nước: Có các quy định và thống
nhất giữa các cơ quan, đồng thời cũng cần quy trách nhiệm và nghĩa
vụ cụ thể cho từng cơ quan để tránh việc can thiệp quá sâu vào quá
trình giải quyết phá sản cũng như hoạt động quản lý và xử lý tài sản
phá sản .
Tài liệu tham khảo
Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam – Vũ Thị Hồng Vân.
http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=19494
http://www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=5976
http://luatminhkhue.vn/pha-san/tim-hieu-phap-luat-pha-san-tren-the-gioi.aspx
http://www.slideshare.net/pigsmallht/bo-co-thc-tp-ti-ti-sn-c-nh
http://danluat.thuvienphapluat.vn/van-ban-qui-dinh-thanh-ly-tai-san-45290.aspx
http://hueuni.edu.vn/cchc/show_vanban.php?VBID=91&PHPSESSID=7f44a9e2c31c322af5648da92eb72673
http://camau.gdt.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b0/04_Sj9CPykssy0xPLMnMz0vMAfGjzOINTCw9fSzCgv2d3AJdDTxdnfxCvC2NjAz8DPULsh0VAWK7v8M!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/camau/site/docsystem/5368c97f-9400-4dda-83dd-0aab63ae81e3
http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=17090
http://qttb.hcmussh.edu.vn/3cms/upload/qttb/File/quytrinh/quydinhqttb.pdf
http://vbpq.mof.gov.vn/htmlfile/viewdoc.aspx?Docmain_ID=41803
http://www.baomoi.com/
http://baodautu.vn/
35
top related