b ửu sơn kỳhương - kinhsamthatson.files.wordpress.com · sấm truyền Đức phật thầy...
TRANSCRIPT
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 1
Bửu Sơn Kỳ Hương
Thiền Tịnh Bửu Sơn
ấn tống 2018 Sydney
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 2
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An
***
Tây An Cổ Tự, làng Long Kiến, An Giang
Tuế thứ Kỷ Dậu niên - Nhuận nhị ngoạt nhị thập thất nhựt
- Đồ Trương trợ bút, nhứt quyển giảng
Thừa nhâm (1) Hổ Cứ (2) bước sang,
Tháng heo (3) giáo giác kiếm đàng chạy ra.
Nhiệm mầu vui đạo Thích Ca,
Thiền môn hứng chí Di Đà lòng chuyên.
Nương thuyền bát nhã cho yên,
Vào non ngũ uẩn tín thiềng sùng tu.
Hiếu trung trọn (4) giữ một câu,
Bãi tiên suối hạc cầm câu đợi chờ.
Liếc xem thuyền bá bơ vơ,
Sóng khơi biển thảm dật dờ sông mê!
Bớ ai ăn ở vụng về,
Không lo nước lửa nhiều bề chông gai.
Bởi mình, ai dễ mặc ai,
Để cho sa sẩy mình chôn lấy mình.
Phật Tiên chí hiển chí linh,
Một câu chánh niệm thì mình thảnh thơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Nhơn từ phải giữ đừng lời trớ trinh.
Biến dời cuộc thế thình lình,*
Thiện tồn ác thất (5) thiên đình số phân.
Vần xây thế giái phàm trần,
Sự mình không biết mưu thâm ở người.
Hư nên nhờ phận Phật Trời,
Từ năm Kỷ
Dậu 1849 khi
mới ra khai
sáng phái đạo
Phật Bửu Sơn
Kỳ Hương,
Đức Phật Thầy
đã truyền pháp
Thiền Tịnh
song tu chuyên
niệm Phật Lục
Tự Di Đà.
Cuộc tẩy trần
sắp tới đây rất
hãi hùng, nhơn
loại chết 7 còn 3.
Ai nghe lời Phật
Thầy hành theo
pháp môn
phước huệ song
tu, vừa siêng
niệm Di Đà phát
huệ vừa bố thí
vơi nghiệp, ắt sẽ
chóng thành tựu
ngõ hầu thoát
qua cơ sàng lọc.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 3
Non băng đất lỡ giữa vời linh đinh.
Phải làm như bổn nhựt trình (6)
Trẻ già xin nhớ giữ gìn mà coi.
Niên như điển, nguyệt như thoi (7).
Vần xây thế giái luân hồi chẳng chơi!
Có Người Thiện Nữ truyền lời,* Nhứt Vân thiên lộ máy trời thinh thinh.
Nhị Vân Thánh ứng quang minh,
Tam Vân triều hội gia đình phân vân.
Ngó xa xem cũng thấy gần,
Xa gần gió tạt bụi trần sạch không.
Hắc đầu tử, bạch đầu ông (8)
Bớ người dương thế sao không coi đời.
Đạo vơi vơi, đạo vơi vơi,
Đường xưa cảnh cũ Lập Đời sửa xây.
Buồn khoanh tay, buồn khoanh tay!
Thấy trong Con Tạo khéo xây lạ lùng.
Đời bạo ngược ít (người) hiếu trung,
Miệng thời toan tính, lòng dùng mưu sâu.
Thiện phùng thiện ác đáo đầu,
Oan oan tương báo ai hầu cứu cho.
Thẳng mà tính, thẳng mà lo (9)
Thiên đường hữu lộ phải dò nẻo đi,
Nghe chi những tiếng thị phi,
Trách con mắt thịt vậy thì chẳng coi. ____________________________________________
(*) Cuối Hạ Nguơn, Đức Phật Thầy tái thế mượn xác
Người Thiện Nữ thuyết pháp lộ thiên cơ Tận Thế và
Hội Long Hoa. Năm 1940, Đức Huỳnh Giáo chủ cũng
tiên báo Phật Thầy tái thế mượn xác Nữ bằng những
bài thơ xướng họa Hằng Nga {đọc ở trang 18-19 trong
sách này}.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 4
Mở hai con mắt thồi lồi,
Nước xao sóng dợn ầm ầm bên tai.
Cực bớ ai, cực bớ ai. Cám thương trần thế dạy hoài không nghe.
Nước gần lớn gió đưa bè,
Giữ cầm lèo lái một bề thuận theo.
Dặm cheo leo, cảnh cheo leo,
Một mình khó nỗi chống chèo đặng đâu!
Làm sao chẳng xét trước sau,
Khinh khi Chú Lái ai hầu rước đưa.
Người đời như buổi chợ trưa,
Tan rồi lại hiệp, hiệp tan mấy hồi.
Khóc lỡ khóc, cười lỡ cười,
Tình tang hỡi bậu, cạn đời còn chi!
Lệ lâm li, lụy lâm li,
Thương chăng thương kẻ từ bi giữ lòng.
Lọc nước trong, lọc nước trong, Sợ chi lũ kiến chòm ong chơi bời.
Ăn nhịn miệng, nói nhịn lời,
Mặc tình thế sự chê cười mặc ai!
Dốc cầu đặng chữ Như Lai,
Phủi câu danh lợi mặc ai tranh tài.
Cảnh thiên thai, chốn thiên thai,
Chí công luyện sắt giồi mài nên kim.
Cảnh rất nghiêm, cảnh rất nghiêm,
Muôn thu xây dựng khó tìm đặng đâu.
Buồn dàu dàu, buồn dàu dàu,
Hỗn nguơn xoay lại đời nay mơ màng.
Mèo kêu vang, mèo kêu vang.
Rắn rồng sợ chạy vào ngàn ẩn thân.
(1) Sau khi
Mohamed Bouazizi
tự thiêu, sang qua
năm Mèo Tân Mão
2011, cách mạng
dân chủ khiến khói
lửa lan qua các
nước Trung đông:
Libya, Ai Cập,
Yemen, Bahrain,
Syria…
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 5
Ngọn cờ phất, trống thùng tan,
Kẻ lên người xuống hai đàng khác nhau.
Quặn ruột đau, quặn ruột đau,
Phật Tiên thương chúng dạ sầu héo khô.
Gắng công lục tự nam mô,
Họa may cá suối gặp hồ liên hoa.
Phật trời lòng lại xót xa,
Giáo trong thiện chúng Long Hoa mà nhờ.
Gió đưa ngọn cỏ phất phơ,
Sẽ coi cuộc thế như cờ bị vây.
Cảnh đã xây, cảnh đã xây,
Nhành lai đời khác, đổi thay cuộc đời.
Xem trong Máy Tạo hết rồi,
Ngửa ngiêng biển thẳm rã rời bờ ao!
Thuyền ai chạy tới sông đào,
Thuyền ông Bát nhã Phật vào độ dân.
Khuyên người sớm xả bụi trần,
Dắt cho khỏi chốn mê tân bớ người!
Súc sanh ngạ quỉ là loài,
Màng chi những chốn lạc loài đọa thân.
Tây phương thắng bước chơn lần,
Hưởng nhờ muôn thuở bửu châu thiếu gì.
Tín thành truyền dạy vân vi,
Bớ người lớn nhỏ sao không giữ gìn!
Nay xem cảnh thế thình lình,*
Vô thường quỉ dẫn ai binh đặng nào.
Sớm còn tối mất lao đao,
Tỉ như trời chớp, sáng nào đặng lâu.
Dặm canh thâu, dặm canh thâu!
Thở than than thở lo âu cho đời.
Trong Chuyện
Bên Thầy, Đức
Huỳnh Giáo Chủ
tiên tri: “Ngòi
nổ Thế Chiến
Ba chắc chắn sẽ
khởi từ Trung
Đông, khi cuộc
chiến Trung
Đông tạm
ngưng, sẽ tới
vùng Á Đông”
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 6
Nghĩ trong cuộc thế vơi vơi,
Khổ tăng gia khổ trong đời gian nan.
Kìa kìa quỉ mị khởi loàn,
Xà thương Hổ giảo (10) đa đoan Hội Này.
Phần thời giặc giã phủ vây, Phần thời đói khát thân rày chẳng yên.
Lăng xăng nhiều cuộc đảo điên,
Sợ trong thế sự như thuyền chạy khơi.
Đã hết lời, đã hết lời,
Khuyên răn dạy biểu cho người thiện duyên.
Trách lòng nhiều sự chẳng kiêng,
Ốm đau cầu giảm, an thuyên chẳng màng.
Biến sanh những sự tà gian,
Hủy tăng phá giới (11) lòng toan hại người.
Thế nay cạn , sự đã rồi!
Mở mang dời đổi Lập Đời Thượng Nguơn.
Chuyển luân thiên địa tuần huờn,
Hội Này thấy lửa tàm lam cháy mày. Ít ai tỏ biết đặng hay,
Ví như cầm chén rủi tay bể rồi!
Thầy xưa lời dặn hẳn hòi,
Thực nhơn nhơn thực đến hồi chẳng không.
Oan oan tương báo chập chồng,
Tham tài tích đại, (12) mình không xét mình.
Khiến xui phụ tử tương tranh,
Cha không lành thảo con lành đặng đâu.
Trung quân, phụ tử (13) làm đầu,
Phản quân, sát phụ, hỡi câu sách nào?
Trời xui trăm vật trăm hao,
Bên xứ Tunisia,
Mohamed Bouazizi
tự thiêu ngày 17-
12-2010 nhằm
ngày 12 tháng 11
âl năm Cọp Canh
Dần {Hổ giảo}.
Dân Tunisia nổi
lên lật đổ nhà độc
tài Ben Ali . Ngọn
lửa tự thiêu năm
Dần ấy khiến sang
năm Mẹo 2011,
chiến tranh khói
lửa lan qua các
nước Trung Đông:
Ai Cập, Yemen,
Bahrain, Libya,
Syria…
Nói mẹo bóng
gió, nói cái này
ám chỉ cái kia.
bể + chén =
bể chén, cụm từ
“bể chén” ám chỉ
kẻ gây ra trận
chiến Biển Đông
phải chết theo
luật nhân quả.
Khi
cuộc
chiến
Trung
Đông
tạm
ngưng,
sẽ tới Á
Đông.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 7
Để cho đồ khổ, xiết bao nhọc nhằn.
Ngọn phù thủy (14) cuộc đất xây, Rồng nằm đáy biển, sông hằng hứng sương.
Bao giờ hưởng thọ Kỳ Hương (15)
Tuế tăng vạn tuế lưu phương lâu dài.
Sanh thân này khổ bớ ai,
Trăm ngàn việc khổ chất hoài vô thân.
Phú hết phú, bần hết bần,
Thân vong tài tán quan dân cũng đồng.
Khiến xui vợ lại giết chồng,
Con mà hại mẹ tình không yêu vì.
Anh em đồng khí tương li,
Quân thần phản nghịch thế thì (16) Hạ Nguơn.
Đổi dời hải thủy băng sơn,
Tiêu đường quỉ mị, nghĩa nhơn Lập Đời.
Tam Nguơn qui dựng lại rồi,
Tang điền thương hải rã rời đổi xoay.
Lần lần tay tính tối ngày,
Người nay như thế thấy rày lại không.
Chữ rằng nhơn vật dữ đồng (17)
Vật còn biết tánh người không tỏ tình.
Ngồi buồn than trách một mình,
Thương trong thế sự thình lình tiêu tan.*
Đua nhau rượu thịt nghinh ngang,
Chửi cha mắng mẹ, nhiều đàng ngược xuôi.
Biến sanh thấy sự hẳn hòi,
Tử nhi vô hối (18) hết đời tà ma.
Nhiệm mầu thuyền đạo Thích Ca,
Quan Âm (19) cứu khổ, Di Đà độ sanh.
Giữa lúc nhơn
loại đang say
mê tận hưởng
nền văn minh
khoa học vật
chất bỏ mất
tâm linh, thì
Thế Chiến Ba
Tận Thế bùng
nổ san bằng
tiêu tan, nên
Đức Phật Thầy
lặp lại 3 lần
cụm từ
thình lình để
cảnh báo. Đây
là lần đại ân xá,
hãy tu mau.
Nếu trễ không
được lên làm
người Thượng
Nguơn, sẽ rơi
rớt làm kiếp
thú cầm hàng
ngàn năm sau.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 8
Non đoài giữ dạ tín thành,
Thầy cho Cư Sĩ học hành chưa thông.
Anh em ai có phục tùng,
Theo Tôi học đạo phải dùng tai nghe.
Phật truyền chưởng thọ Bồ Đề,
Giữ câu minh chánh chớ hề sai ngoa.
Muốn cho vào (20) chốn ta bà,
Phương tiện bố thí hà sa phước gìn.
Kỉnh Trời kỉnh Đất, Thần Minh,
Tông môn phụng tự giữ toàn Tứ Ân.
Sanh tại tiên hiếu song thân,
Một hậu vi nghĩa ân cần sớm mai.
Trung quân lòng giữ chẳng sai,
Giồi câu tiết chánh tỏ bày bia son.
Mình tu phải dạy cháu con,
Đạo truyền kế đạo Phật môn lâu dài.
Thích Ca Phật Tổ Như Lai,
Lục niên tân khổ chẳng nài nhọc công.
Đến nay về hạ thần long,
Tỉ như thuyền nhỏ bị phong giang hồ.
Di Đà lục tự Nam Mô,
Vãng sanh Tịnh độ ra vô thanh nhàn.
Thoát nơi khổ hải mới sang,
Lánh vòng trần tục khỏi đàng tử sanh.
Phận Tôi Cư Sĩ tín thành,
Thầy truyền dạy chúng làm lành tu thân.
Hạ nguơn cuộc thế cũng gần,
Tỉnh tâm tự giác ân cần cho mau.
Chuyện tu chẳng khó ở đâu,
Lấy câu bố thí làm đầu rất nên.
Cuối Hạ Nguơn,
Đức Phật Thầy
tái thế mượn
xác Người
Thiện Nữ Cư
Sĩ dốt viết
không rành văn
tự, ứng khẩu
thuyết pháp, ai
theo Ngài học
đạo, phải dùng
tai lắng nghe
cho kỹ như tri
âm Bá Nha Tử
Kỳ.
Cuối hạ nguơn,
Đức Phật Thầy
mượn xác Người
Thiện Nữ Cư Sĩ
ứng khẩu thuyết
pháp lộ thiên cơ
Tận Thế và Hội
Long Hoa.
Đức Phật Thầy
truyền pháp bố
thí cho chúng
sanh được chóng
vơi nghiệp, để hổ
trợ cho pháp
niệm Phật Di
Đà mau thành
tựu.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 9
Thiên thần biên chép đôi bên,
Thiện tăng ác giảm hư nên lời truyền.
Thuở xưa Phật dạy chẳng tin,
Kẻ nghe người bỏ, nói mình khôn ngoan.
Tham tài dưỡng vật đa đoan,
Để nuôi thân thịt không toan nghe lời.
Sát sanh hại vật ăn chơi,
Gian phu dâm phụ nhiều lời trớ trinh.
Thấy rồi mình lại tủi mình,
Nói ra thời tệ làm thinh thêm sầu.
Cao bay xa chạy khỏi đâu,
Mắc trong lưới nhặt dãi dầu khá thương.
Phật Tiên tương hội ai tường,
Cứu sanh độ tử mỗi đường trần gian.
Giáo khuyên trần chúng nhiều phang,
Giữ câu nhẫn thiện lòng toan tu hành. Chử (21) lời đừng có đua tranh,
Bồ Đề một hột tâm thành đặng siêu.
Long Hoa thắng hội tiêu diêu,
Dữ lành đến đó mai chiều sẽ hay.
Phận mình Cư Sĩ dám bày,
Luật nghi phép tắc diễn bài tỏ ra.
Nhứt Nguơn Đức Phật Thích Ca,
Giáng sanh cõi thế Long Hoa hội kỳ.
Người sanh bá tuế sở qui,
Bá niên giảm thọ hạ di thiếu thời.
Giảm chí tam thập đến nơi,
Người cao ba thước là đời cơ nguy.
Tai ương khổ não nhiều kỳ,
Giảm chí vậy thì nay thiệt chẳng sai.
Cuối hạ nguơn,
Đức Phật Thầy
mượn xác
Người Thiện
Nữ Cư Sĩ ứng
khẩu thuyết
pháp lộ thiên cơ
Tận Thế và Hội
Long Hoa,
khuyên bá gia tu
pháp môn niệm
Di Đà và bố thí,
phước huệ song
tu phù hợp căn
cơ chúng sanh
thời Hạ Nguơn
mạt pháp.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 10
Người cao hai thước chẳng dài,
Ôn hoàng tật bịnh liên lai khốn nàn.
Giảm chí thập tuế bước sang,
Người cao một thước tai nàn bớ dân.
Thiệt là đại biến phàm trần,
Vạn nhơn nam nữ thẳng lần sơn trung.
Sách còn ghi nói chẳng không,
Con gái có chồng ngũ ngoạt thành song.
Mạt hạ phong tục long đong,
Thần hôn (22) quốc loạn người không y người.
Oan hình, lao ngục khắp nơi,
Nhãn tiền tựu thị (23) là nơi để dành.
Thác về lục đạo tứ sanh,
Tiên đạo, nhơn đạo phước mình thảnh thơi.
Tu la, Ngạ quỉ là loài,
Súc sanh, Địa ngục nhiều tai khốn nàn (24)
Tứ sanh phân nói rõ ràng,
Noãn, thai, thấp, hóa là phang luân hồi (25)
Trì trai, giái sát bớ người,
Cảnh trên Tịnh Độ là nơi để dành.
Làm người cho biết hiền lành,
Vãng sanh vi đại cứu chư các loài.
Thánh thần minh chánh thiện tai (26)
Ác sát mỗi vật đầu bài vi tiên,
Chúng sanh nhiều việc đảo điên.
Sát sanh hại mạng không kiêng đất trời.
Đổi thừa sát hại ăn chơi,
Sau về địa ngục tội hành không dung.
Sát hại tà dâm tội hung,
Vọng ngôn trá ngữ thiên công gia hình.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 11
Lưỡng thiệt ác khẩu trớ trinh,
Người tuy chẳng thấy, tội mình nhiều thay.
Tham lam gian giảo vậy vay,
Ngục hình dành để đợi khi luân hồi.
Bất hiếu phụ mẫu nghịch lời,
Cha sanh mẹ dưỡng là nơi ơn dày.
Âm quan (27) về đến mới hay,
Hành hình phân xử đêm ngày khóc than.
Bất kính Tam Bảo rõ ràng,
Khinh khi Phật Pháp nhiều đàng thinh thinh.
Làm người tự giác tự minh,
Phật tiên mến tưởng Thiên đình cũng thương.
Tu tâm tu tánh giữ thường,
Tu trong kinh giáo Phật đường truyền ra.
Tu tánh tu hạnh nết na,
Tu câu Lục tự Di Đà đừng quên.
Tu hành hiếu nghĩa đôi bên.
Tu cang tu kỷ gắng bền hiếu trung.
Tu nhơn tu đức để lòng,
Tu trau vóc ngọc lấm bùn đừng mang.
Tu công bồi đấp miếu đàng (28)
Tu tài bố thí việc gian thì đừng.
Tu cầu thánh thọ thiên xuân,
Dân khương vật phụ (29) khỏi oan cơ hàn.
Tu cầu vạn hải thiên san,
Hà thanh hưng vượng (30) vạn bang thái bình.
Thần hôn (31) lạy Phật đọc kinh (32)
Lạy Thầy đức hóa tái sanh đạo mầu.
Sông sâu cá lội thấy đâu,
Minh mông trời rộng chim hầu bay cao.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 12
Giác thời đặng hưởng thiên đào (33)
Mê thời địa ngục, ngày nào đặng sanh?
Tay mình lại chặt lấy mình,
Mắt thời thấy đó làm thinh không rằng.
Tai nghe tội phước lăng xăng,
Đau thời tưởng Phật, hết rằng thời thôi!
Kiếm lời dễ cảm khua môi,
Khen chê phải chẳng nói thôi chi màng.
Dị đoan án nội rõ ràng,
Diêm đình tội để khó toan luân hồi.
Kinh rằng Phật dạy cạn lời,
Giác thời đặng thấy, mê thời thấy đâu.
Chốn vui chốn khổ thêm sầu,
Đục trong hai ngả toan âu nẻo nào?
Hữu duyên đặng hưởng quyền cao,
Vô duyên lại gặp thân sau cơ bần.
Lời vàng tạc để thiên lân (34)
Có đâu trễ nải quá chừng dân ôi!
Nước non nay đã cạn rồi,
Nào hay vội lỡ một hồi Pháp Cơ.
Mê man nhiều nỗi dật dờ,
Hồn bay phưởng phất như tơ lộn cuồn.
Thoát qua như ngọn tên bay,
Khác quê, khác xứ, khác nay thú cầm.
Đêm ngày mù mịt tối tăm,
Hồn sa phách lạc mới nên luân hồi.
Mở mang xoay lại Lập Đời,
Khác loài thú vật khác người tân dân.
Còn người Phật Thánh Tiên Thần,
Yêu ma nào có loạn trần được đâu!
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 13
Tóm thâu thế giái một bầu,
Phật trời phân định đâu đâu thái bình.
Nay đà gặp Phật giáng sanh,
Khá khuyên bá tánh làm lành tu thân.
Sự đời xem thấy cũng gần,
Trở người trở vật trở năm trở ngày.
Trở ăn trở mặc bằng nay,
Trở chồng, trở vợ, trở vì quân vương.
Trở non, trở núi, trở vườn,
Trở trâu trở ruộng trở đường vào ra.
Trở thời trở tiết những là,
Trở cây trở trái bông hoa trở kỳ.
Trở bậu trở bạn cố tri,
Lời ăn tiếng nói vậy thì khác xưa.
Trở lòng, ăn nói đẩy đưa,
Trở căn trở bịnh thuốc xưa trị nào!
Đời nay ma quỉ loạn vào,
Pháp linh phù thủy cứu nào đặng chăng!
Làm người chớ cậy tài năng,
Mai thì thấy đó, tối rằng thấy đâu.
Có khi hơi thở ra vô,
Đứt hơi nào biết qui mô chốn nào!
Sanh tiền mình chẳng biết sao,
Tử về âm cảnh hồn vào ngục môn,
Nhứt nhựt tam đả oan hồn (35)
Oan thân nghiệt trọng ai hiềm cứu cho.
Nhãn tiền sao chẳng biết lo,
Sông không cầu bắc mướn đò ai đưa?
Để cho khát nước quá trưa,
Ra công đào giếng cù cưa đặng nào.
Gần ngày Tận
Thế, hoàn cầu hỗn
loạn binh đao bịnh
tật tai họa dồn dập,
Đức Phật Thầy
giáng trần mượn
xác Người Thiện
Nữ khuyến tu, kêu
gọi bá gia ráo riết
hành theo pháp
môn niệm Di Đà
và bố thí, phước
huệ song tu mau
thành tựu ngõ hầu
thoát qua cơ sàng
lọc chết 7 còn 3.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 14
Thuở còn trai tráng dường bao,
Sao không tu tập già nào biết đâu.
Xưa sanh tánh thiện làm đầu,
Lớn khôn tích ác mình âu hại mình.
Thiên sanh nhơn hữu tánh linh,
Mê trần mê lẫn tại mình trách ai.
Tội làm một mảy chẳng sai,
Xin người tự hối giồi mài tánh linh.
Để cho mình buộc lấy mình,
Thê thằng tử phược (36) linh đinh không rời.
Ta bà là (37) chốn thảnh thơi,
Vui câu bát nhã gần vời ma ha.
Đói thời nhờ ruộng Thích Ca,
Khát thời nhờ nước Phật Bà dưỡng thân.
Lời Thầy xưa có cạn phân,
Nương câu thanh tịnh dõi lần đường mây.
Mặt trời chinh xế bóng cây,
Giồi câu tứ trí tánh hằng học khôn.
Tu hành chi luận giàu nghèo,
Vùa hương bát nước mai chiều giữ coi.
Hữu tình Trời Phật xét soi,
Màng chi nhiều ít heo đòi không nên.
Lưỡng thần cầm sổ đôi bên,
Chép ghi tội phước tâu lên cho người.
Ngọc lành sao chẳng trau giồi,
Sá chi phấn thổ (38) vui cười tay trao.
Chẳng coi trước, chẳng nhắm sau,
Người nay như mộng thấy đâu cho bền.
Gương loan sáng tỏ dưới trên,
Ngựa hồng cất chạy xuống lên hai đường.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 15
Phất qua như bóng nguyệt quang,
Khi tròn khi khuyết nở tàn dường bao.
Hoa đông hồi lại xuân qua,
Nhỏ không tu tập thì già biết chi!
Buông lời nói chẳng kính vì,
Biết đâu phép tắc lễ nghi chuyện nào.
Sanh thân này khổ biết sao,
Để cho sa sẩy kiếp nào đặng sanh!
Khá khuyên cải dữ làm lành,
Sùng tu Tam Bảo học hành cho thông.
Rắn còn tu đặng thành rồng,
Làm người sao chẳng xét trong thân mình.
Để cho thân chịu linh đinh,
Tai kia họa nọ biến sanh mọi bề.
Dương là cảnh, âm là quê,
Phước mình gánh vác đặng về cảnh xưa.
Hữu duyên Thần Thánh tiếp đưa,
Vì mình thiện niệm sớm trưa lần hồi.
Vắn dài lời nói cạn rồi,
Lạy Thầy trở lại phản hồi bổn gia.
Lầm thầm miệng niệm Di Đà,
Tay lần chuỗi hột lòng ta giữ lòng,
Kỉnh dưng Minh Chúa hưng long,
Dân khương vật phụ thiên xuân thái bình.
Phụ từ tử hiếu trung trinh,
Hà thanh hải yến, (39) an ninh trong ngoài. Nam Mô A Di Đà Phật
Chú thích
(1) Phải chăng muốn chỉ vào thiên can lúc Đức Phật Thầy trở
về Hổ Cứ? Theo đó thì sau Kỷ dậu (1849) ba năm, là đến năm
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 16
Nhâm tí (1852). Lúc đó Đức Phật Thầy đang mở nhiều trại
ruộng và Ngài cũng vân du hóa độ nhiều nơi. Bản Nôm
viết Thừa nhâm, không viết Thừa nhiệm.(2) Hổ Cứ là địa danh
bên cạnh Tòng Sơn, nên viết là (chữ Nôm) mới đúng.(3) Bản
Nôm chép là Nguyệt Trư tức tháng heo.(4) Bản Nôm chép toàn
(chữ Nôm), đọc là trọn. (5) Cũng đọc là “Lành còn dữ mất”.
(6) Do chữ “Nhựt nhựt trình báo” mà ra chữ Nhựt trình. Xưa
các quan làm việc, khi có điều gì quan trọng, thì cấp trên buộc
cấp dưới phải nhựt trình (trình báo hàng ngày) để hiểu biết,
theo dõi và kiểm soát. Cũng do đó mà về sau, khi nước ta bắt
đầu có nghề làm báo thì tờ báo được gọi là nhựt trình
hoặc nhựt báo (journal). Tờ báo đầu tiên xuất bản bằng Pháp
văn tại nước ta là tờ Le Bulletin officiel de l’Expédition de la
Cochinchine do Đô đốc Charner điều khiển 20 số, rồi kế đó là
Đô đốc Bonard tiếp tục nhiệm vụ đến số 173. Số đầu ra ngày
29-9-1861. Còn tờ báo đầu tiên xuất bản bằng Việt văn tại nước
ta là tờ Gia Định báo, số 1 ra ngày 15-4-1865. Điều khiển báo
này do các ông E.Patteau đến Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh
Của: “Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra,Chép làm một bổn để mà xem
chơi”. (Thơ Thầy thông Chánh). Vậy từ ngữ Nhựt trình theo ý
nghĩa những bản văn thông báo để mọi người cùng hiểu, đã có
từ rất xưa, còn theo ý nghĩa của thông tin, báo chí thì về sau
hơn, nhưng cũng khởi đầu từ 1861, tức cách nay (1973) lâu đến
112 năm. (7) Năm như chớp, tháng như thoi. Ý nói ngày giờ
qua mau. (8) Con đen tóc, cha bạc đầu. (9) Thẳng tức thủng
thẳng. Cũng đọc là thỉnh thoảng(10) Rắn cắn cọp ăn. (11) Hủy
báng thầy tu và phá bỏ giới luật. (12) Tham của, chất chứa cho
đầy túi, phải viết là (chữ Nôm). (13) Bản Nôm chép phụ tử.
Đúng ra là hiếu phụ. (14) Nước nổi. Mực nước dâng lên cao.
Miền Nam không gọi mực nước lên vào mỗi mùa thu là mùa lụt,
mà gọi là mùa nước nổi. (15) Chỉ danh xưng tông phái Bửu Sơn
Kỳ Hương của Phật Thầy. (16) Tức thời thế, đây chỉ cuộc đời.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 17
Không phải như thế thì...(17) Người và vật cùng đồng nhau về
tánh tình, cũng biết mừng giận, đau thương. (18) Đến chết mà
không chịu ăn năn. (19) Tức Quan Thế Âm Bồ Tát. Không
phải Quan Âm Thị Kính. (20) Có lẽ chữ thoát. Chắc chắn bản
Nôm đã chép sai chữ này. (21) Chữ: ghi nhớ. Nôm viết là (chữ
Nôm). (22) Kẻ bề tôi tối tăm. Phải viết là (chữ Nôm). (23) Tựu
thị: đến đó, lúc ấy. (24) Lục đạo được chia làm hai:Tam thiện
đạo và Tam ác đạo. Tam thiện đạo tương đối thảnh thơi, dễ
chịu (Tiên đạo, thần đạo và nhơn đạo); còn Tam ác đạo thì
nguy nan, khốn đốn (địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh). (25) Tử
sanh cũng gọi là Tứ chủng sanh, gồm có Noãn sanh (sanh từ
trong bào thai, như người, khỉ, ngựa) Thấp sanh (sanh từ chỗ
ẩm ướt, như cá, rắn, cóc), Hóa sanh (sanh từ chỗ tự nhiên hóa
ra, như loài bướm từ sâu mà đổi dạng).(26) Thiện tai: lành
thay, ý nói rất lành. (27) Quỉ thần ở cõi âm.(28) Chỉ triều đình,
tôn miếu xã tắc. Nên viết là (chữ Nôm). (29) Nhân dân và vạn
vật đều yên vui và phong phú. (30) Cảnh yên ổn phát đạt. (31)
Buổi sớm mai và buổi chiều tối. (32) Nguyên văn chép “bái
Phật tụng kinh”, nên Nôm là lạy Phật đọc kinh. (33) Quả đào
ở cõi trời. Cũng gọi tiên đào. Đức Huỳnh Giáo Chủ có câu:
“Đào tiên tạm thực về ngồi cõi xa”. Không phải chữ Đào yêu
trong câu Đào chi yêu yêu trong Kinh Thi Trung Hoa. (34)
Ngàn xóm. Xưa cứ năm nhà làm một xóm. Tựa như tiếng bá
gia: một trăm nhà. Đây có nghĩa là ban rải ra cùng khắp các
nơi. (35) Hồn oan mỗi ngày bị đánh đập ba lần. (36) Vợ là cái
dây, con là trói cột. (37) Có thể chữ nào bị chép thành chữ là.
Chắc chắn người ta đã tam sao thất bổn câu này. (38) Phấn
thổ: Bụi đất. Những thứ không ra gì, đáng vất bỏ đi. Có câu
“Tiền tài như phấn thổ...”(39) Sông trong biển lặng. Chỉ cuộc
đời thái bình.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 18
Bàn tay lật ngửa vậy mà,
Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh.
Đi xa thì phải dặn rành… (Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ở làng Nhơn Nghĩa {Xà No}, ngày rằm tháng
6 Canh Thìn 1940)
Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã
khói lửa mịt mù, Bồ Tát Phật giáng trần không có thì giờ
nhàn rỗi ngồi uống trà run đùi ngâm thơ vịnh nguyệt. Mỗi
hành động, mỗi lời nói của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ đều
khế hợp với thiên cơ đạo lý. Ngày 14-6- Canh Thìn (1940)
tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vịnh Hằng Nga
dụng ý gởi một thông điệp quan trọng cho đệ tử hậu lai biết
rằng Thầy sẽ mượn xác tái sanh thời cuối Hạ Nguơn như
sau:
Thơ xướng.
Khen ai cắc cớ bấm trời tây, Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày; Một phiến linh đinh trôi mặt biển, Nửa vừng lửng đửng dán trên mây Cá ngờ câu thả tơi bời lội Chim tưởng cung trương sập sận bay; Nên một nên hai còn bé tuổi,
Mười lăm mười bảy bốn phương hay.
Hành Trạng tái sanh của Đức Phật Thầy
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 19
Thơ họa.
Mây hồng năm sắc ở phương Tây, Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày; Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội, Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay; Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi,
Thức giấc đời mê phải được hay.
Mở đầu bài thơ xướng bằng câu: Khen ai cắc cớ
bấm trời tây, một chữ là một nhiệm mầu! Cụm từ cắc cớ
có nghĩa là không thường, lạ đời, dị kỳ, dị sự. Nhưng thật
đó chính là dị pháp, diệu pháp huyền cơ. Chữ khen là điều
tốt lành, ý nói điềm lành đến từ cõi Tây phương Cực Lạc
{bấm trời Tây}. Chữ bấm nghĩa là bấm quẻ coi điềm lành
cắc cớ đó là gì.
Câu thứ nhì giải đáp rõ: Tỉnh giấc Hằng Nga khéo
vẽ mày, cụm từ Tỉnh giấc Hằng Nga, nghĩa là sau một thời
gian vắng bóng, nay Đức Thầy tái thế mượn xác nữ {Cô
= Hằng Nga}; cụm từ Tỉnh giấc ám chỉ sự tái sanh tái thế.
Cụm từ cắc cớ có cái lý đặc biệt là Đức Thầy tái thế
thay vì như xưa nhiều lần mượn xác Nam, thì nay cắc cớ
mượn xác Nữ, khiến phần đông bổn đạo không thể nào
ngờ, không dè, mượn xác Cô mà tại sao xưng Cậu? {Kim
Ô mà nói đảo ngược là Ô Kim}. Vì vậy họ lo sợ Ngài là
tà ma và xa lánh, ví như cá sợ mắc lưỡi câu và chim sợ
cung tên bắn.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 20
Cá ngờ câu thả tơi bời lội,
Chim tưởng cung trương sập sận bay.
Những chữ cá chim là những từ ám chỉ người trong
bổn đạo. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành, cắc cớ Đức
Thầy về phải mượn xác nữ nhằm tạo điều kiện tiếp cận
người đạo, nhưng lại khiến người đạo vô cùng bàng hoàng
lo sợ, không những họ tránh xa Ngài, mà họ còn chê bai,
khinh bỉ nhún trề…Chỉ có những ai đại căn mới hiểu được
chuyện cắc cớ này! Đây là cơ sàng lọc tuyển chọn: Chấp
tướng chấp danh là rớt!
Bài thơ họa cũng cho biết từ Tây phương Đức Thầy
tái thế, khẳng định hồn linh Ngài là Ô Kim nói lái đảo
ngược từ chữ Kim Ô nghĩa là Mặt Trời {Cậu}. Ngài tái thế
mượn xác Người Thiện Nữ học hành chưa thông, ứng
khẩu thuyết Phật pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt,
ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe:
Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển,
Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây.
Lòng trong Thánh kệ tình bơi lội,
Dạ sạch Phật kinh ý luyện bay.
Câu sấm: “Sáng suốt Ô Kim bởi vẹn mày”, tại sao không
viết đúng là Kim Ô mà lại cố ý viết đảo ngược lại là Ô
Kim? Đức Thầy dụng ý là: Vì hoàn cảnh Hạ Nguơn mạt
pháp tà ma lộng hành, tùy cơ ứng biến Thầy về mượn xác
Nữ {Cô} mà phải xưng là Cậu (Đức Cậu) để nhắc cho đệ
tử nhớ rằng Thầy trở về, Cô Cậu, Cậu Cô; Ô Kim, Kim Ô.
Phải chăng đây là trường hợp dị sự như Ông Ba Nguyễn
văn Thới tiên tri:
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 21
Ai biết nước xuôi nuôi nước ngược,
Bịnh căn vô dược được thọ trường.
Dị thế dị thường tường dị lộ,
Phật Trời cứu độ ngộ Phật Trời.
Dị cư dị thời lời dị thuyết,
Dị đoan dị tiếc kiết dị minh.
Dị sự dị ninh linh dị pháp,
Vô nhơn đối đáp pháp thinh không.
Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu,
Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.
Phép phép linh linh ninh quốc sự,
Nhơn dân vô lự tự an khương.
An quốc an Vương khương thới nhạc,
Di Đà Di Lạc đạt Vi Vô. (Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 83: 85, Ông Ba Nguyễn văn Thới
viết năm 1915)
Ông Ba Thới tiên tri gần ngày Tận Thế và Hội Long
Hoa, sẽ có một đấng Bồ Tát Phật xưng ĐỨC CẬU giáng
trần với hành trạng nhiều đặc điểm: dị thế, dị thường, dị
lộ, dị thuyết, dị pháp, dị cư, dị thời, dị sự, và hành đạo
tưởng như dị đoan tà giáo, nhưng mà có phép mầu dị linh
khiến người dân được an khương thời Di Lạc Phật Vương
sắp tới. Thánh địa Di Lạc ở miền Nam VN.
Dị thế là Bồ Tát ra đời thuyết pháp nhằm thời ma
chướng hoành hành; Dị thường là Bồ Tát có hành trạng kỳ
lạ, ví như mượn xác Nữ mà xưng là Đức Cậu; Dị thuyết
là thuyết pháp khác thường, khi ngâm nga ca hát, khi rao
đờn, khi rao giọng lôtô; Dị pháp là pháp khác thường, kỳ
lạ tưởng chừng như dị đoan nhưng có phép linh nhiệm
mầu khó nghĩ bàn; Dị cư là Bồ Tát thuyết pháp mà mang
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 22
hành trạng Cư Sĩ tại gia xưng khùng điên, không xuất gia
ở chùa; Dị sự là Bồ Tát làm những chuyện kỳ cục khó hiểu,
hư hư thực thực… Tất cả những điều dị kỳ đó của Đức
Cậu kết thành pháp linh mầu nhiệm.
Dị sự dị ninh linh dị pháp,
Vô nhơn đối đáp pháp thinh không.
Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, *
Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.
Đêm dài dặn cạn dầu tiêm lụn,
Chẳng thấy ai tìm kiếm Bóng TRĂNG.
Để làm cho mích bụng CHỊ HẰNG,
Nơi CUNG NGUYỆT chờ trông mõn dạ. (Diệu Pháp Quang Minh, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm
1940)
Cuối Hạ Nguơn, Đức Thầy giáng trần mượn xác tái sanh
với dáng Người Thiện Nữ ra đời truyền pháp, nhưng
chẳng thấy ai tìm để học đạo, khiến Thầy buồn. ___________________________________________________
Thầy TIÊN môn đệ tục,
Đạo chánh tín đồ tà;
Cha hiền sanh con dữ,
Tức bụng chị HẰNG NGA.
HẰNG NGA bóng vẫn sáng,
Mặc dù nhiều mây áng;
Khi ngọn gió thổi qua,
Ánh TRĂNG huờn tỏ rạng.
Tỏ rạng là ánh TRĂNG,
Mây không thể cản ngăn;
Cản ngăn chỉ phí sức,
CHỊ HẰNG soi thế gian,
Cho kẻ tối thấy đàng;
Không vì câu danh lợi,
Vạn cổ vẫn minh quang.
Minh quang tánh của Trăng,
Như minh quang đạo HẰNG;
Khoảng thế gian càng tối,
Ánh quang minh càng tăng.
(Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr.132, Bồ
Tát Thanh Sĩ viết ở Tokyo ngày 10-6-
1964)
Không thắng nổi CHỊ HẰNG.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 23
Càn Khôn Dĩ Định
Đầu xuân Canh Tuất ra bài,
Khuyên trần tu niệm mai ngày đăng Tiên
Ai người còn sống trần miền,
Có duyên tu niệm mối giềng ráng phăng
Thương trần Đạo mới trối trăn,
Cho trần biết việc khó khăn tới rồi.
Đầu năm đã khó yên ngồi,
Mai đây đến việc phủi rồi sạch không.
Phủi luôn nhà trống ruộng đồng,
Nhà hoang lá đổ đau lòng dân ơi.
Đói lòng thân lại tả tơi,
Thiếu tu hồn xác chơi vơi vật vờ.
Đồi cao Đạo lại đặt lờ,
Ngồi chờ Tam Bảo Tự giờ từng giây.
Dân ơi dừng nghiệp gổ gây,
Ngày giờ nó đến tới đây lánh nàn.
Để qua cơn lọc sảy sàng,
Đến đường Thiên Lộ đầu đàng là đây.
Trò Đông Thầy trấn miền Tây,
Trong ngày quy tụ đó đây hợp hòa.
Sáng ngày con Chó sủa tru,
Chừng Heo cắn ổ hiềm thù mới yên (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)
Cụm từ “Sáng ngày” ám chỉ đầu thế kỷ 21; cụm từ “con chó
sủa tru” ám chỉ năm Mậu Tuất 2018 chiến tranh nguyên tử
bùng nổ chết chóc thật hãi hùng.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 24
Dân ơi mau chọn Màu Dà,
Bông hoa tàn lụn lụa là mà chi.
Náu nương chú bác cô dì,
Sao bằng cha mẹ dễ gì ai hơn.
Khuyên dân, dân chớ giận hờn,
Nếu ai có giận TA đờn giải khuây.
Đờn kêu Nam Bắc Đông Tây,
Mau mau tựu đến cùng Đây một Đò.
Bây giờ TA trổi giọng hò,
Kêu trong bá tánh lần dò trường chay.
Sát sanh đền mạng có ngày,
Dù cho trí dõng cao tài cũng tiêu.
Xử phân lấy luật Thiên Điều,
Ai người hung dữ gặp diều nó tha.
Ai mà niệm Phật Di Đà,
Gặp thuyền Bát Nhã Cờ Dà cứu cho.
Tạm thời nương náu với Đò,
Đợi cơn trời lặng lần dò đi lên.
Nghe Đò sau ắt làm nên,
Cãi Đò là cãi Ơn Trên khác nào.
Đò nay xưa vẫn một sào,
Xưa sao nay vậy Nam Trào đáo lai.
Độ tu Đò chẳng nói sai,
Nếu ai căn thiện nhận ngay ra Đò.
Dân ơi! bớt việc hát hò,
Để nghe Đây hát tri dò nhờ thân.
Báo cho khổ ải quá gần,
Âm binh nổi dậy ầm ầm tứ phương.
Rắc gieo nhiễu hại phố phường,
Rồi đây bít ngõ cùng đường đói đau.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 25
Bây giờ chê muối phụ rau,
Ngày sau đến việc không rau cậy nhờ.
Bây giờ Phật Chúa không thờ,
Ngày sau đến việc lưới lờ mắc vây.
Tìm Đông rồi lại tìm Tây,
Đông Tây cách trở bị vây bỏ mình.
Rao lần Đò nguyện Thiên Đình,
Để cho Đò dạy dân tình ăn chay.
Ăn xong Đò dẫn gặp Ngài,
Sau ra mắt Phật cầu Ngài độ sinh.
Cầu Ngài độ hết điêu linh,
Hồn luôn thể xác quang minh trở về.
Dân ơi! Nguơn Thượng hầu kề,
Dân mau tỉnh ngộ Đò thề nguyện đưa.
Trên Đò có sẵn tương dưa,
Khỏi lo đói khát kẻo trưa trễ Đò.
Bây giờ tạm dứt hát hò,
Hỏi qua bá tánh Đò hò việc chi?
Tìm ra sau mới được thi,
Thực hành cho đúng tên ghi bảng vàng.
Tu chơn tiếng dội xóm làng,
Bằng tu giả dối lọt sàng mai sau.
Đò này xuất hiện Đài Cao,
Thông Thiên Đài nọ kêu trau tâm lành.
Đài kêu báo trước ruộng thành,
SÀI tiêu, CHỢ hết, HÀ thành tan hoang!
Ai khôn sau được nằm sàng,
Còn mê vật chất kinh hoàng lọt sâu.
Ai khôn sau được cỡi TRÂU, 2021
Còn ai cãi Phật mất Trâu buồn lòng.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 26
Ai khôn còn gặp CHUỘT đồng, 2020
HEO về cũng biết no lòng nhờ tu. 2019
Đức dày mặc kệ CHÓ tru, * 2018
CHÓ tru mặc Chó, cố tu được rồi.
Sông còn khi lở khi bồi,
Có ai mà được yên ngồi đặng lâu?
Nếu khôn tìm đến ruộng sâu,
Nước trong đất quý cá câu chờ thời.
Trăng còn khi khuyết lúc vơi,
Ngồi buồn Đò lại nói chơi sau tường.
Nói xong Đò lại lên đường,
Tránh xa thành thị phố phường kẻo nguy!
Ai người thượng trí thử tri,
Xem Đò nói vậy là chi hỡi người?
Đò Điên Đò Dại đừng cười,
Mười người khóc chín mình cười được sao
Mình yên kẻ đổ máu đào,
Máu người hất đổ mình nhào ai nâng?
Khổ người mình lại dửng dưng,
Đến khi mình khổ dửng dưng người nhìn.
Thành lòng Đò nguyện Thiên Đình,
Máu người hết đổ dân tình khổ qua.
Thành tâm Đò nguyện Di Đà,
Điển lành nhuần gội nước nhà bình an.
Nguyện cầu Phật giáng phàm gian,
Chúa lâm trần tục đặng ban phép lành
Cho trần dẹp tánh chúng sanh,
Cải tà quy chánh nói ăn hiền hòa. (Bài Càn Khôn Dĩ Định trích trong quyển Mê Ngộ tr. 48-52, Tu sĩ Thiện Đạo
Nhân thuyết tại Tam Bảo Tự suối Lồ Ồ, đêm 16-1-Canh Tuất 1970)
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 27
Trong mười năm dựng nghiệp minh đình, (2010- 2019)
Biển hồ lai láng mặc tình cá đua. (Kim Cổ Kỳ Quan, Thừa Nhàn 9: 18 , ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915)
Mưa dầu nắng lửa mười năm chẵn, (Dần 2010- Hợi 2019)
Nước nẩy tôi hiền trổ Chúa nhân. (Tận Thế và Hội Long Hoa tr. 171, Cô Trúc Lâm Nương tiên tri, Vương kim
biên khảo năm 1952)
Chó ai mà bỏ nhà hoang, 2018
Thây phơi chết đói ngổn ngang xóm làng.
Heo tôi đã đúng làm hàng, 2019
Cạo lông chia thịt ngon toàn năm châu.
Chuột nhỏ đào ổ quá sâu, 2020
Nằm hang ca hát ai đâu biết gì.
Trâu tôi rất giỏi ai bì, 2021
Chờ cho nước cạn bắt thì cày chơi.
Mặc tình đúng buổi nghỉ ngơi,
Thượng Nguơn ăn tết chiều mơi đã gần. (Kinh Sấm Giảng Xưa của Tứ Thánh)
NGÀY tháng trôi qua tợ bóng câu, * bóng ngựa
GIỜ Ơn Trên định chẳng còn lâu.
TẬN đời vạn cảnh lâm trần mộng,
THẾ diệt thiên bang cuộc bể dâu.
CHẬP chững nhân gian nhiều ách nước,
CHỜN vờn thế giới lắm oan sầu.
BÊN kia bên nọ tranh vô địch,
LƯNG lửng rồi thôi chẳng đến đâu! (Tiên tri của Bồ Tát Thanh Sĩ, Tận Thế và Hội Long Hoa tr. 229, Vương Kim
biên khảo, nhà xuất bản Long Hoa ấn hành năm 1952)
* Bóng câu là bóng ngựa ám chỉ thời điểm báo hiệu nguy cơ.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 28
Phụ lục: Hành trạng Đức Phật Thầy
Năm 1996, lần đầu tiên thăm trại rẫy lãnh trang của
Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh, tôi được Ngài chỉ cho coi giống
nhãn mới mua về chuẩn bị trồng. Nhìn những cây nhãn
giống được sắp xếp nằm bên mái hiên chòi tranh, nhiều
bạn đạo hy vọng quanh trại rẫy sẽ là vườn nhãn quằn trái.
Đức Cậu cho biết sau này ở đây sẽ là vườn nhãn, sầu riêng
trù phú đủ để nuôi bạn đạo.
Lúc đầu tôi cũng nghĩ vườn cây ăn trái nhãn, sầu riêng
sẽ là nguồn kinh tế cho các bạn đạo sinh sống. Nhưng sự
thật không phải vậy. Bởi đất Bình Long cứng khô cằn
không thích hợp cho vườn cây trái như nhãn, sầu
riêng…Đất nơi này chỉ thích hợp cho cây điều, mít, cao
su…
Sau này tôi mới biết rằng Đức Cậu trồng cây nhãn, cây
sầu riêng là trồng cơ đạo, nhắc nhở môn đồ nhớ nguồn gốc
vị tổ phái Đạo Phật Bửu Sơn Kỳ Hương. Chữ nhãn là mắt,
và mắt là mục, ám chỉ tên hoàng tử Nguyễn Quang Mục
tức tên của Đức Phật Thầy Tây An. {Quang Mục = Mắt
Sáng}.
Khi Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ băng hà năm
1792, thì Bắc Cung Hoàng hậu nguyên là Ngọc Hân Công
Chúa con gái vua Lê Hiển Tông, tiếc thương khóc thảm
thiết đầm đìa nước mắt qua bài Ai Tư Vãn:
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 29
Buồn thay nhẽ xuân về hoa ở,
Mối sầu riêng ai gở cho xong.*
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại, giữa dòng nào e.
Con trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi.
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở phách thì đã theo.
Qua đoạn văn trên, Bà Ngọc Hân Công Chúa dù buồn
thê thảm muốn quyên sinh cho vẹn tình phu thê, nhưng
cũng phải ráng sống lo cho con thơ ấu: Con trứng nước
thương vì đôi chút. Với tấm lòng lo lắng thương con, và
cũng là lo cho tiền đồ dân tộc, Bà Ngọc Hân phải cải trang
giả dạng bần khổ mang con trốn vào miền Nam để tránh
cái nạn khắc nghiệt tru di cửu tộc của Gia Long, và bà đổi
tên họ con trai từ Nguyễn Quang Mục thành Đoàn Minh
Huyên. Sau này Đoàn Minh Huyên chính là Đức Phật Thầy
Tây An. Qua bao cay đắng, Bà Ngọc Hân Công Chúa nuôi
con tu hành thành chánh quả, nhưng người đời vẫn không
ai hiểu được mối sầu riêng của Bà. Người đời dèm pha
rằng sau khi vua Quang Trung băng hà, Bà cam tâm lấy
vua Gia Long. Nhưng đâu có ai ngờ rằng Bà đã cải dạng
giả trang trốn vào Nam. Mối sầu riêng của Bà mang tiếng
là gái lấy hai chồng do miệng thế dèm pha:
Gái đâu có gái lạ lùng, Con vua mà lấy hai chồng làm vua.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 30
Bà từng than thở trong Ai Tư Vãn: “Mối sầu riêng ai
gở cho xong?” Mối sầu riêng của Bà không thể thổ lộ cùng
ai, bà đành phải âm thầm chịu đựng cho tới khi Bà nhắm
mắt lìa trần tại nơi vùng đất Cái Nai. Trái sầu riêng ngoài
da sần sùi xấu xí (bị tiếng đời dèm pha), nhưng trong ruột
thơm ngon lạ lùng (tâm lòng đức độ cao thượng), đó là nói
lên hành trạng cao quý của Bà Ngọc Hân Công Chúa, Bà
chính là Mẹ Đức Phật Thầy Tây An.
Ngày nay khi lên trại rẫy nhìn những cây nhãn và cây
sầu riêng, có mấy ai hiểu đặng đó là hình ảnh tổ tông mối
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương? Mỗi hành động, mỗi việc làm
của Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh có ý nghĩa thâm sâu huyền
diệu. Làm vậy, nhưng không phải vậy, cái lý xa muôn dặm.
Nhắc đến con mà không nhắc đến mẹ cha, là thiếu ân
đức. Nhắc đến nhãn {mục} mà không nhắc đến sầu riêng
{Ngọc Hân} là điều thiếu sót.
Trong sấm kinh Kim Cổ Kỳ Quan, ông Ba Thới lặp đi
lặp lại hình ảnh Đức Phật Thầy, Bà Ngọc Hân Công Chúa,
và Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ. Theo sử liệu xa
xưa, Hoàng đế Quang Trung tên bộ là Nguyễn Huệ, nhưng
tên họ thật trong gia phả của Ngài là Hồ Thơm, Ngài họ
Hồ tên Thơm, nguyên quán tổ tông ở làng Quỳnh Đôi,
huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Theo chính sách di dân
lập ấp thời chúa Nguyễn, có một chi họ Hồ vào Nam đổi
thành họ Nguyễn, định cư ở đất Tây Sơn, tỉnh Nghĩa Bình.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 31
Anh hùng áo vải Nguyễn Huệ vung kiếm thần bình
Nam dẹp Bắc, từ buổi ban đầu phất cờ đào khởi nghĩa ở
Quy Nhơn. Trong quyển Hành Hương Miền Tây Bắc, Đức
Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết:
Đất Quy Nhơn ơi! Vua Nguyễn Đức Ngài,
Hộ bá tánh nơi này yên lặng.
Và cũng trong quyển Hành Hương Miền Tây Bắc, Đức
Cậu Bần Sĩ cho biết chính nơi đất miền Trung là sanh quán
con vua Quang Trung tức hoàng tử Nguyễn Quang Mục:
Nay TA chỉ có mấy lời,
Chơn du rảo bước khắp trời Đông Tây.
Buổi chiều tiết lạnh rơi đầy,
Nơi miền Trung khổ Phật Thầy sinh ra.
*****
Sấm giảng minh họa
hành trạng Đức Phật Thầy.
Quy Nhơn miền Trung là địa danh anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ {tên thật trong gia phả là Hồ Thơm} phất
ngọn cờ đào khởi nghĩa bình Nam dẹp Bắc lên ngôi Hoàng
Đế Quang Trung {1788-1792}. Và cũng chính đất miền
Trung là nơi con Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ
được sanh ra, đó là hoàng tử Nguyễn Quang Mục {Mắt}
mà trong bộ kinh Kim Cổ Kỳ Quan được Ông Ba Nguyễn
văn Thới nhắc nhở bằng những câu sấm:
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 32
Trái THƠM gọt vỏ cúng Trời,
Bỏ cùi còn MẮT ăn thời rát môi.
Ghét Chúa bao nỡ thương ôi,
Ghét tôi bao thuở thương ôi Chúa mình.
Trái THƠM nhiều MẮT can tình,
Đặng ăn chặng giữa bất bình ngoài trong.
MẪU LONG sanh đắc TỬ LONG,
HỔ PHỤ HỔ TỬ trái bông tại nhành.
Cây đắng trái ngọt để dành,
Cây ngọt trái đắng chẳng lành bỏ đi.
Lời ghi người hỡi lời ghi,
Người ở ăn hết người đi thời còn.
(Kim Cổ Kỳ Quan, Thừa Nhàn 177: 74, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết
năm 1915)
Ghi chú: MẪU LONG ám chỉ Ngọc Hân Công Chúa; HỔ
PHỤ ám chỉ Vua Quang Trung; TỬ LONG, HỔ TỬ ám
chỉ hoàng tử Nguyễn Quang Mục {Mắt Sáng} tức Đức
Phật Thầy Tây An.
Con MẮT sao ngó thấy SÁNG ngời,
Trong như Mắt cọp miệng người ngọt Thơm.
Răng thì trắng thiệt người ăn cơm,
Lưỡi sao răng vậy gạo THƠM ngọt ngào. (Kim Cổ Kỳ Quan 28:55, Ông Ba Thới viết năm 1915)
Sấm truyền Bửu Sơn Kỳ Hương tiên tri:
Chừng nào gốc MỤC lên chồi,
TA vưng sắc lịnh tái hồi trần gian.
Những ai từng hành hương lên nơi lãnh trang của
Đức Cậu, ắt đã tận mắt nhìn thấy có một gốc mục đã đâm
chồi linh thiêng đúng như lời sấm truyền.
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An 33
Phụ lục:
Thơ văn minh họa sinh quán Đức Phật Thầy.
...Miền Trung ơi! TA nhìn thấy tận tường,
Hưởng phong cảnh thê lương quằn quại.
Đất miền Trung ơi! nên nguyện cầu khẩn bái,
Vì tiền kiếp sanh vào biết phải làm sao.
Làng nước ơi! mắt lệ tuôn trào,
Lớp đói lạnh, lớp khóc gào thảm thiết.
Hỡi các bạn nên thương miền Trung Việt,
TA hành hương xin viết lại một bài.
Đất Quy Nhơn ơi Vua Nguyễn Đức Ngài,
Hộ bá tánh nơi này yên lặng.
Nơi cố quán bảo làm sao rời đặng,
Chỗ chôn nhao cắt rún của mình.
Biên ít lời tặng các bạn thơ sinh,
Nên thương xót bạn mình miền Trung đấy. ...................................................
Nay TA chỉ có mấy lời,
Chơn du rảo bước khắp trời Đông Tây.
Buổi chiều tuyết lạnh rơi đầy,
Nơi miền Trung khổ Phật Thầy sinh ra.
Đôi lời TA thuyết thiết tha,
Kính xin cô bác ông bà ráng lo.
Lập công bồi đức trời cho,
Làm lành lánh dữ gay go dứt liền. (trích quyển Hành Hương Miền Tây Bắc ấn hành năm 2005, Đức Thầy Bần Sĩ
Vô Danh thuyết nhân chuyến du phương hành đạo ra miền Trung và Bắc.)
Sydney, ngày 4-4-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo