bcpt_trienvong2015_vcbs
DESCRIPTION
BCPT_Trienvong2015_VCBSTRANSCRIPT
Báo cáo
Triển vọng
2015
BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
PHÒNG PHÂN TÍCH & NGHIÊN CỨU
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 1
VIETCOMBANK SECURITIES COMPANY
Nội Dung
KINH TẾ VĨ MÔ ..................................................................................................................... 2
Tăng trưởng được đẩy mạnh với động lực chính từ Xuất khẩu, đóng góp lớn từ khối FDI ............. 2
Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp kỷ lục ........................................................................................ 6
Thị trường ngoại hối ổn định trong năm 2014, rủi ro tỷ giá nhiều khả năng sẽ tăng cao
trong nửa cuối năm 2015 .................................................................................................................. 7
Thị trường tài chính - Lãi suất duy trì xu hướng giảm trong năm 2014, thanh khoản của
hệ thống ngân hàng khá tốt ............................................................................................................... 8
Kinh tế - tài chính thế giới .............................................................................................................. 12
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ...................................................................................... 15
Xu hướng chung của thị trường ...................................................................................................... 15
Cổ phiếu Dầu khí đánh mất vị thế, cổ phiếu Xây dựng cơ sở hạ tầng, Cảng biển, Vận tải
biển, Hóa chất và Xuất khẩu có thể thay thế vai trò dẫn dắt. ......................................................... 18
Năm 2014, dòng vốn ngoại hoạt động vô cùng sôi nổi vào đầu năm và trầm lắng trong
các tháng cuối năm. ........................................................................................................................ 20
Kỳ vọng dòng vốn ngoại sẽ sôi nổi trở lại trong Quý 1 2015 ......................................................... 22
TRIỂN VỌNG MỘT SỐ NHÓM NGÀNH CHÍNH .......................................................... 25
Ngành Ngân hàng ........................................................................................................................... 26
Ngành Bảo hiểm ............................................................................................................................. 30
Ngành Bất động sản ........................................................................................................................ 34
Ngành Xây dựng công trình ............................................................................................................ 38
Ngành Thép ..................................................................................................................................... 40
Ngành Xi măng ............................................................................................................................... 42
Ngành Vận tải biển ......................................................................................................................... 45
Ngành Điện ..................................................................................................................................... 48
Ngành Dệt may ............................................................................................................................... 51
Ngành Thực phẩm ........................................................................................................................... 54
Ngành Dược phẩm .......................................................................................................................... 57
Ngành Thủy sản .............................................................................................................................. 59
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 2
KINH TẾ VĨ MÔ
Tăng trưởng được đẩy mạnh với động lực chính từ Xuất khẩu, đóng
góp lớn từ khối FDI
GDP 2014 tăng 5,98% cao
hơn mức tăng 5,42% của năm
2013. Khu vực Công nghiệp
và Xây dựng dẫn đầu về tăng
trưởng.
Sự phục hồi đúng hướng của nền kinh tế tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh trong năm 2014.
Tăng trưởng GDP 2014 ước đạt 5,98% với sự tăng tốc khá tốt trong nửa cuối năm, đặc biệt là
trong Quý 4 với mức tăng đến 6,96%. Đáng chú ý, khác biệt so với những năm trước khi động
lực chính cho tăng trưởng đến từ khu vực Dịch vụ, trong năm 2014 khu vực Công nghiệp và
Xây dựng đã vươn lên dẫn đầu về tăng trưởng với mức tăng đạt đến 7,14%, bứt phá tốt so
với mức 5,43% của năm 2013 và đóng góp 2,75 điểm phần trăm cho mức tăng trưởng chung.
Trong khi đó, khu vực Dịch vụ lùi xuống thứ hai với mức tăng 5,96%, đóng góp 2,62 điểm
phần trăm, còn lại là khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Nguồn: CEIC, VCBS
Lĩnh vực sản xuất cho thấy
cải thiện tốt …
Trong khu vực Công nghiệp và Xây dựng, chỉ số sản xuất toàn ngành Công nghiệp tăng 7,6%
(yoy), bứt phá đáng kể so với mức chỉ 5,9% của năm 2013 và đạt mức cao nhất kể từ năm
2009 trở lại đây. Đầu tàu dẫn dắt cho sự phục hồi mạnh này đến từ ngành Công nghiệp chế
biến chế tạo với mức tăng 8,45%, cải thiện tốt từ con số 7,44% của năm 2013. Chỉ số PMI
ngành sản xuất tháng 12, theo HSBC, đạt mức cao nhất trong 8 tháng với con số 52,7 điểm.
Trong đó, sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới cũng như số lượng nhân công tại các công
ty đang tăng với tốc độ nhanh. Đây đồng thời cũng là tháng thứ 16 liên tiếp chỉ số này trên 50,
phản ánh sự mở rộng của lĩnh vực sản xuất.
Ngoài ra, tồn kho tiếp tục duy trì xu hướng giảm nhẹ tháng thứ tư liên tiếp khi tỷ lệ tồn kho
bình quân 11 tháng lùi về mức 74,5%. Chỉ tồn kho tính đến hết tháng 11 chỉ ghi nhận mức tăng
nhẹ 4,4% (mom), tương ứng mức tăng 10% (yoy), thấp hơn mức 10,2% của cùng kỳ 2013. Sự
cải thiện tốt của ngành Công nghiệp đi cùng với tồn kho có chiều hướng giảm nhẹ là những
dấu hiệu tích cực cho thấy sự phục hồi đúng hướng của nền kinh tế.
0%
1%
2%
3%
4%
5%
6%
7%
8%
Q1 Q2 Q3 Q4
Tăng trưởng GDP (qoq)
2011 2012 2013 2014
0%
1%
2%
3%
4%
5%
6%
7%
8%
9%
Tăng trưởng GDP và của các khu
vực kinh tế
GDP
GDP Nông nghiệp
GDP Công nghiệp và Xây dựng
GDP Dịch vụ
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 3
Nguồn: CEIC, SBV, VCBS
… nhưng phân hóa khá rõ nét
với sự nổi bật của khối FDI.
Cầu đầu tư nội địa chỉ phục
hồi ở mức vừa phải.
Chúng tôi đánh giá sự phục hồi của lĩnh vực sản xuất là không đồng đều. Sự bứt phá chủ yếu
từ nhóm các doanh nghiệp có yếu tố xuất khẩu, đầu tàu là khối FDI, trong khi các doanh
nghiệp nội địa vẫn còn nhiều khó khăn trong bối cảnh sức cầu trong nước phục hồi yếu hơn
mong đợi. Trong các ngành sản xuất, những ngành có chỉ số sản xuất tăng mạnh so với năm
2014 hầu hết là ngành thu hút vốn FDI lớn như sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm
quang học (+37,5%); xe có động cơ (+22,8%); da và các sản phẩm có liên quan (+21,2%) và
dệt (+20,8%). Ngoài ra, về chỉ số sử dụng lao động, phản ánh sự mở rộng, khối doanh nghiệp
ngoài Nhà nước chỉ tăng 2,5%, giảm so với mức 3,2% của năm 2013, trong khi doanh nghiệp
FDI tăng đến 9,5%, tăng mạnh so với con số 6,5% của năm 2013.
Tăng trưởng tín dụng ghi nhận mức tăng 14% đến cuối năm 2014, đạt mục tiêu 12%-14% của
NHNN đồng thời cũng cao hơn con số 12,51% của năm 2013. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ
hơn, căn cứ vào số liệu được công bố từ cuối Quý 3 kết hợp với những tín hiệu về sự phân hóa
trong lĩnh vực sản xuất, chúng tôi đánh giá cầu đầu tư nội địa chỉ phục hồi ở mức vừa phải và
nhiều khả năng tín dụng ngoại tệ đóng góp một phần không nhỏ cho mức tăng chung của tăng
trưởng tín dụng năm 2014.
Việt Nam ghi nhận xuất siêu
kỷ lục 2 tỷ USD trong năm
2014.
Về hoạt động xuất nhập khẩu, trong năm 2014 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 150 tỷ USD
(+13,6% yoy) và kim ngạch nhập khẩu ước đạt 148 tỷ USD (+12,1% yoy). Theo đó, như kỳ
vọng của chúng tôi, năm 2014 được ghi nhận là một năm xuất siêu khá của Việt Nam với tổng
giá trị xuất siêu ước đạt khoảng 2 tỷ USD. Điều này góp phần ổn định thị trường ngoại hối và
tỷ giá trong năm 2014. Trong khi đó, từ một góc độ khác, do đầu vào của nền kinh tế Việt Nam
phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nên con số về nhập khẩu cũng cho thấy sự phân hóa trong lĩnh
vực sản xuất. Đóng góp chính cho mức tăng của nhập khẩu phần nhiều đến từ khối FDI
(+13,6%) trong khi kim ngạch nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước chỉ tăng 10,2%.
Nguồn: CEIC, VCBS
42
44
46
48
50
52
54
0%
5%
10%
15%
20%
25%
01/1
3
03/1
3
05/1
3
07/1
3
09/1
3
11/1
3
01/1
4
03/1
4
05/1
4
07/1
4
09/1
4
11/1
4
Ch
ỉ số
tồn
kh
o C
N c
hế b
iến
, ch
ế t
ạo
Chỉ số tồn kho CN và PMI ngành
sản xuất
Chỉ số tồn kho CN chế biến, chế tạo (%) PMI ngành sản xuất (Theo HSBC) Ngưỡng PMI 50
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
Tăng trưởng tín dụng và M2
Tăng tín dụng (y/y) Tăng M2 (y/y)
-5
0
5
10
15
01
/13
03
/13
05
/13
07
/13
09
/13
11
/13
01
/14
03
/14
05
/14
07
/14
09
/14
11
/14
Tỷ U
SD
Xuất nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân Thương mại (ytd)
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%Xuất khẩu/GDP
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 4
Xuất khẩu, đầu tàu là khối
FDI, tiếp tục là động lực chính
cho tăng trưởng
Sự nổi trội của khối doanh nghiệp FDI có thể coi như nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu và giúp
Việt Nam ghi nhận năm 2014 có mức xuất siêu kỷ lục. Khối FDI chiếm gần 70% tổng kim
ngạch xuất khẩu, tương ứng hơn 101 tỷ USD, tăng 15,2% so với năm 2013. Tỷ lệ giá trị xuất
khẩu/GDP duy trì xu hướng tăng và ghi nhận sự bứt phá mạnh mẽ từ mức 77% của năm 2013
lên đến 90% trong năm 2014. Điều này cho thấy rõ xuất khẩu, với đầu tàu là khối FDI, tiếp tục
là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng.
Nguồn: CEIC, VCBS
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tiếp tục ghi nhận con số ấn tượng
với tổng vốn đăng ký đạt 20,23 triệu USD, chỉ giảm nhẹ 6,5% so với con số đột biến của năm
2013 và vượt kế hoạch gần 20%. Thêm vào đó, vốn FDI giải ngân duy trì xu hướng tăng tích
cực khi đạt 12,4 tỷ USD (+7,4% yoy).
Trong năm 2015, mặc dù phải đối mặt với rủi ro tỷ giá khi đồng USD được dự báo mạnh lên
cùng với khả năng FED sẽ nâng lãi suất từ Q3.2015 nhưng chúng tôi kỳ vọng Việt Nam sẽ tiếp
tục tạo sức hút tốt với dòng vốn đầu tư nước ngoài với các cơ sở như (1) nền chính trị và kinh
tế ổn định; (2) nỗ lực từ phía Chính phủ trong việc kêu gọi đầu tư nước ngoài với nhiều chính
sách ưu đãi và (3) các hiệp định thương mại quan trọng được ký kết như TPP, FTA. Chúng tôi
kỳ vọng khối FDI sẽ tiếp tục phát huy vai trò là động lực chính cho tăng trưởng trong năm
2015.
Nỗi lo về cầu tiêu dùng yếu
vẫn còn đó.
Trong khi lĩnh vực sản xuất phát đi những tín hiệu tích cực thì những chỉ báo về cầu tiêu dùng
vẫn chưa cho thấy sự khởi sắc thực sự. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng chỉ tăng 10,6% (loại trừ yếu tố giá tăng 6,3%) thấp hơn mức tăng 12,6% của năm 2013
và chỉ bằng khoảng một nửa so với giai đoạn 2011 trở về trước, giai đoạn được đánh giá là cầu
tiêu dùng trong nước tăng trưởng tốt. Trong năm 2015, việc giá dầu được dự báo ở mức thấp
sẽ là yếu tố tạo hiệu ứng kích cầu nhất định. Tuy nhiên khi tâm lý thắt chặt chi tiêu vẫn đang
hiện hữu thì việc đẩy lùi nó có lẽ sẽ cần thêm một khoảng thời gian tương đối hoặc một cú
hích mạnh mẽ hơn. Theo đó, chúng tôi dự báo cầu tiêu dùng sẽ khó có thể có sự bứt phá trong
năm 2015.
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Tỷ USD Vốn FDI
Vốn đăng ký mới Vốn bổ sung Vốn giải ngân
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 5
Nguồn: CEIC, VCBS
Tăng trưởng kinh tế 2015
được dự báo sẽ vẫn phụ thuộc
nhiều vào ngoại lực (khối
FDI). Dự báo tăng trưởng
GDP năm 2015 sẽ vào khoảng
5,9%-6%.
Dù chưa thực sự bứt phá nhưng GDP theo chu kỳ kinh tế đã cho thấy những tín hiệu phục hồi
tốt hơn từ vùng đáy. Trong năm 2015, chúng tôi cho rằng sự ổn định sẽ được đảm bảo và duy
trì tốt. Các nguồn lực nhiều khả năng sẽ tiếp tục được tập trung thúc đẩy quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và xử lý nợ xấu. Theo đó, động lực mới cho tăng
trưởng nhiều khả năng sẽ chưa sớm xuất hiện, tăng trưởng kinh tế được dự báo sẽ vẫn phụ
thuộc nhiều vào ngoại lực (khối FDI), đặc biệt trong bối cảnh các hiệp định thương mại quan
trọng như TPP và FTA đang được thúc đẩy mạnh mẽ.
Việc giá dầu giảm mạnh sẽ tạo hiệu ứng kích cầu nhất định đồng thời đa phần các doanh
nghiệp cũng phần nào được hưởng lợi khi giá đầu vào giảm từ đó có thể hỗ trợ cho đà phục hồi
của nền kinh tế trong năm 2015, đặc biệt là giai đoạn nửa đầu năm. Tuy nhiên ở chiều ngược
lại, điều này cũng ảnh hưởng tiêu cực lên nguồn thu ngân sách (thu từ dầu thô thường chiếm
hơn 11% tổng thu ngân sách trong 5 năm trở lại đây), khiến triển vọng xuất khẩu của Việt Nam
sụt giảm, tác động xấu lên tăng trưởng kinh tế trong năm 2015 (tổng giá trị xuất khẩu dầu thô
tương đương khoảng 4% – 6% GDP trong những năm gần đây).
Mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức 6,2% được nhìn nhận là khá thách thức, chúng tôi dự báo
con số này năm 2015 có thể sẽ vào khoảng 5,9%-6%.
Nguồn: VCBS
0
5
10
15
20
25
0
50
100
150
200
250
300
Ng
hìn
tỷ
VN
D
Doanh thu hàng hóa bán lẻ và dịch vụ
Thương nghiệp Khách sạn, nhà hàng Dịch vụ và du lịch Tăng trưởng (%)
-4%
-3%
-2%
-1%
0%
1%
2%
3%
GDP theo chu kỳ kinh tế
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 6
Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp kỷ lục
Lạm phát cả năm 2014 chỉ
tăng 1,84%. CPI tháng 1 được
dự báo tiếp tục giảm 0,35%-
0,45% (mom) tương ứng tăng
0,6%-0,7% (yoy). Tỷ lệ lạm
phát năm 2015 được dự báo
vào khoảng 3,5% - 3,7%.
Năm 2014 tiếp tục là một năm nền kinh tế duy trì tốt sự ổn định. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2014
ghi nhận mức tăng thấp kỷ lục chỉ 1,84%. Diễn biến về mức tăng theo tháng của CPI qua từng
tháng trong giai đoạn 9 tháng đầu năm cũng khá tương tự như cùng giai đoạn trong những năm
trước khi CPI tăng mạnh trong những tháng đầu năm do ảnh hưởng của dịp Tết, sau đó hạ
nhiệt từ cuối Quý 1 và tăng trở lại từ cuối Quý 2 với việc điều chỉnh tăng giá của một số mặt
hàng thiết yếu như Dịch vụ Y tế và Giáo dục. Điểm khác biệt so với các năm gần đây là ở Quý
4 với việc CPI ghi nhận mức tăng thấp trong tháng 10 và chuyển sang giảm trong hai tháng
cuối năm do giá xăng dầu và gas giảm mạnh.
Trong khi đó, nếu xét về diễn biến của mức tăng CPI theo cùng kỳ, xu hướng giảm nhanh và
mạnh được thể hiện khá rõ rệt. Ngoài nỗ lực từ phía Chính phủ và NHNN trong việc điều tiết
cung tiền và kiểm soát mặt bằng giá cả kết hợp với tác động của giá dầu giảm như kể trên (chủ
yếu trong những tháng cuối năm) thì nguyên nhân chính tạo áp lực giảm lên lạm phát được
nhìn nhận là đến từ việc sức cầu trong nước phục hồi yếu hơn mong đợi.
Nguồn: CEIC, VCBS
Trong bối cảnh sức cầu trong nước dự báo sẽ duy trì đà phục hồi tương đối yếu kết hợp với
việc giá dầu thô thế giới nhiều khả năng sẽ duy trì ở mức thấp trong một thời gian tương đối
nữa, xu hướng giảm của lạm phát theo cùng kỳ nhiều khả năng sẽ còn tiếp diễn trong những
tháng đầu năm 2015. Trong đó, do Tết Ất Mùi diễn ra muộn hơn 1 tháng so với các năm gần
đây nên điểm thấp nhất của CPI trong năm 2015 nhiều khả năng sẽ rơi vào tháng 1 và tháng 2.
Chúng tôi dự báo CPI tháng 1 sẽ ghi nhận mức giảm khoảng 0,35% – 0,45% (mom) tương ứng
mức tăng chỉ 0,6%-0,7% so với cùng kỳ. Từ tháng 3, CPI được kỳ vọng sẽ tăng trở lại nhưng
khó có đột biến và kết thúc 6 tháng đầu năm 2015 sẽ vẫn ở mức khá thấp, khoảng 1,5%-1,6%
(yoy).
Trong giai đoạn nửa cuối 2015, xu hướng tăng của lạm phát theo cùng kỳ nhiều khả năng sẽ
tiếp tục được duy trì dựa trên một số cơ sở chính: (1) dự báo giá dầu thô có thể ghi nhận sự
phục hồi nhất định kéo việc theo điều chỉnh tăng trở lại của giá xăng dầu trong nước, (2) sức
cầu có cải thiện tốt hơn về cuối năm theo yếu tố mùa vụ và (3) giá các mặt hàng thiết yếu do
nhà nước quản lý như Y tế, Giáo dục, Điện, … sẽ tiếp tục tăng theo lộ trình. Tỷ lệ lạm phát
năm 2015 được dự báo vào khoảng 3,5% - 3,7%.
0%
4%
8%
12%
16%
20%
-0.5%
0.0%
0.5%
1.0%
1.5%
2.0%
2.5%
02/1
2
04/1
2
06/1
2
08/1
2
10/1
2
12/1
2
02/1
3
04/1
3
06/1
3
08/1
3
10/1
3
12/1
3
02/1
4
04/1
4
06/1
4
08/1
4
10/1
4
12/1
4
Tốc độ tăng CPI
Tốc độ tăng CPI (mom) Tốc độ tăng CPI (yoy)
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 7
Thị trường ngoại hối ổn định trong năm 2014, rủi ro tỷ giá nhiều
khả năng sẽ tăng cao trong nửa cuối năm 2015
Tỷ giá tăng 1% trong năm
2014, thị trường ngoại hối duy
trì sự ổn định. Sau đợt điều
chỉnh vào đầu năm 2015, dự
báo tỷ giá sẽ không điều chỉnh
thêm trong nửa đầu năm 2015
tuy nhiên áp lực điều chỉnh tỷ
giá sẽ tăng cao trong nửa cuối
năm và lần điều chỉnh tiếp
theo rất có thể sẽ vào Quý 3.
Sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối đi cùng những cam kết và khả năng thực hiện
cam kết một cách nhất quán từ phía NHNN là một thành công đáng ghi nhận. Trong cả năm
2014, tỷ giá chỉ tăng 1% lên 21.246 VND/USD từ 19/06/2014. Động thái này được nhìn nhận
như một biện pháp can thiệp nhằm bình ổn thị trường trong bối cảnh tỷ giá tại các NHTM tăng
kịch trần kể từ sau sự kiện biển Đông bất ngờ bùng nổ vào tháng 5. Sau khi được điều chỉnh, tỷ
giá tại các NHTM nhanh chóng hạ nhiệt và ổn định trở lại.
Trong Quý 4, tỷ giá lại có dấu hiệu nóng lên dưới các áp lực như (1) cầu ngoại tệ tăng theo yếu
tố mùa vụ; (2) tăng trưởng tín dụng ngoại tệ khá nóng và (3) đồng USD mạnh lên so với các
đồng tiền khác trên thế giới. Trong khi đó, nguồn cung ngoại tệ được đánh giá là vẫn khá ổn
định khi (1) Việt Nam ghi nhận xuất siêu khoảng 2 tỷ USD; (2) vốn FDI giải ngân duy trì xu
hướng tăng và đạt 12,4 tỷ USD (+7,4% yoy); (3) kiều hối được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng so với
năm 2013 và (4) dự trữ ngoại hối hiện đang ở trên 35 tỷ USD, tương đương khoảng trên 12
tuần nhập khẩu. Trước tình hình này, NHNN đã phát huy tốt vai trò cơ quan điều hành, chủ
động can thiệp và điều tiết tốt thị trường, giữ vững cam kết không điều chỉnh tỷ giá, từ
đó củng cố niềm tin của thị trường với tiền đồng.
Nguồn: CEIC, VCBS
Sau những nỗ lực bình ổn thị trường và chờ khi cao điểm về nhu cầu ngoại tệ theo yếu tố mùa
vụ qua đi, bước sang đầu năm 2015, NHNN đã quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng
thêm 1% lên mức 21.458 VND/USD, áp dụng từ 7/1/2015. Việc điều chỉnh tỷ giá, theo chúng
tôi, là hợp lý và mang tính chủ động.
Tỷ giá tăng sẽ tạo áp lực nhất định đến chi phí nguyên liệu sản xuất khi đầu vào của nền kinh
tế Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Tuy nhiên mức tăng 1% là không quá nhiều
trong khi tỷ lệ lạm phát thấp và giá xăng dầu giảm mạnh cũng đang hỗ trợ cho chi phí đầu vào
giảm theo.
Ở chiều ngược lại, việc tăng tỷ giá cũng tiếp tục cho thấy những hành động nhất quán của
NHNN trong việc định hướng và ổn định thị trường và nền kinh tế, tiếp tục đảm bảo duy trì
mặt bằng lãi suất thấp để hỗ trợ tăng trưởng. Bên cạnh đó, tỷ giá tăng cũng phần nào hỗ trợ cho
xuất khẩu, vốn là động lực cho tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây và được kỳ vọng
sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng này trong năm 2015.
Sau khi quyết định tăng tỷ giá, tỷ giá tại các NHTM cũng hạ nhiệt và giảm nhanh. Trước tình
20,500
20,700
20,900
21,100
21,300
21,500
21,700
06/13 08/13 10/13 12/13 02/14 04/14 06/14 08/14 10/14 12/14
Tỷ giá USD/VND
Tỷ giá BQLNH Tỷ giá trần
Tỷ giá sàn Tỷ giá mua ngay của VCB
Tỷ giá bán ngay của VCB
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 8
hình này, từ ngày 12/1/2015, NHNN cũng tăng mạnh giá niêm yết mua bán USD (tại sở giao
dịch của NHNN) lên 21.350 VND/USD mua vào và 21.600 VND/USD bán ra. Điều này được
nhìn nhận như một động thái nhằm can thiệp, bình ổn và tránh những biến động mạnh của thị
trường, đồng thời cũng là một cách để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu và tạo điều kiện để tăng
dự trữ ngoại hối.
Chúng tôi cho rằng áp lực lên tỷ giá trong 6 tháng tới là không lớn và dự báo sẽ không có
thêm sự điều chỉnh nào nữa trong nửa đầu năm. Tuy nhiên, trong 6 tháng cuối năm đặc biệt
là sau khi FED nâng lãi suất, rủi ro tỷ giá là một yếu tố cần phải cân nhắc và được nhìn nhận là
lớn hơn rất nhiều so với cùng giai đoạn năm 2014. Lần điều chỉnh tỷ giá tiếp theo rất có thể
sẽ vào Quý 3.
Mục tiêu giữ tỷ giá không điều chỉnh quá 2% của NHNN được đánh giá là khá thử thách
và phải đối mặt với các vấn đề chính như (1) đồng USD mạnh lên cùng sự cải thiện của kinh tế
Mỹ và hiệu ứng của việc FED tăng lãi suất; (2) khả năng kiểm soát tăng trưởng tín dụng ngoại
tệ và (3) chính sách duy trì mặt bằng lãi suất VND thấp để hỗ trợ tăng trưởng.
Thị trường tài chính - Lãi suất duy trì xu hướng giảm trong năm
2014, thanh khoản của hệ thống ngân hàng khá tốt
Lãi suất huy động và cho vay
tiếp tục xu hướng giảm trong
năm 2014. Trong nửa đầu
năm 2015, mặt bằng lãi suất
được kỳ vọng sẽ duy trì ổn
định. Trong 6 tháng cuối năm,
áp lực tăng lãi suất hiện hữu.
Tiếp nối năm 2013, mặt bằng lãi suất duy trì xu hướng giảm trong năm 2014 với mức giảm
khoảng 1,5%-2%/năm so với cuối năm 2013. Vào cuối Quý 1, NHNN đã ra quyết định giảm
các mức lãi suất chủ chốt. Sau đó đến đầu Quý 4, NHNN tiếp tục giảm trần lãi suất huy động
VND kỳ hạn dưới 6 tháng giảm từ 6%/năm xuống 5,5%/năm, lãi suất tối đa với tiền gửi bằng
USD của cá nhân giảm từ 1%/năm xuống 0,75%/năm, đồng thời giữ ổn định các mức lãi suất
điều hành như lần cắt giảm trước đó: lãi suất tái cấp vốn 6,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu
4,5%/năm.
Vào thời điểm cuối năm 2014, lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng dao động trong
khoảng 4%-5,45%/năm, với các kỳ hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất trong khoảng 5,3%-
7,5%/năm. Đáng chú ý là vào cuối tháng 12, nhiều ngân hàng lớn quyết định hạ lãi suất các kỳ
hạn dài từ 12 tháng trở lên, vốn là một trong những cơ sở để tính toán lãi suất cho vay, xuống
còn từ 6%-7%/năm. Lãi suất huy động giảm đã tạo điều kiện để lãi suất cho vay giảm theo sau
đó. Hiện tại, lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên duy trì mức trần 7%/năm đối với ngắn hạn
nhưng theo nguồn tin của chúng tôi, khá nhiều doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này với tình hình
tài chính lành mạnh có thể vay được ngân hàng dưới mức trần này. Trong khi đó, lãi suất cho
vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 7%-9%/năm đối với ngắn hạn;
9,5%-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Nguồn: CEIC, VCBS tổng hợp
0%
5%
10%
15%
20%
25%Lãi suất huy động và cho vay
Cho vay NN, NT, XK Cho vay sản xuất HĐ 1 tháng trở xuống
HĐ 3 tháng HĐ trên 12T
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 9
Mặt bằng lãi suất hiện tại đã thấp hơn giai đoạn 2005 – 2006 và, theo chúng tôi, cũng đã phản
ánh tương đối phù hợp với diễn biến của nền kinh tế, đặc biệt là lạm phát, áp lực tỷ giá và
thanh khoản hệ thống ngân hàng. Chúng tôi cho rằng trong nửa đầu năm 2015,mặt bằng lãi
suất nhiều khả năng sẽ duy trì ổn định hoặc có thể giảm đôi chút, nhưng dư địa giảm,
nếu có, cũng rất ít.Trong nửa cuối năm 2015, sức ép từ việc đồng USD mạnh lên sẽ tạo áp
lực đáng kể lên lãi suất tiền đồng. Nhà điều hành sẽ phải cân nhắc giữa tỷ giá và lãi suất
nhưng có lẽ việc tăng lãi suất sẽ là biện pháp cực chẳng đã khi nền kinh tế vẫn đang cần các
biện pháp nới lỏng và kích thích để hỗ trợ đà phục hồi.
Tăng trưởng tín dụng gia tốc
trong Quý 4 và đạt 14% đến
cuối năm 2014. Mục tiêu tăng
trưởng tín dụng 13%-15%
trong năm 2015 là khả thi.
Diễn biến của tăng trưởng tín dụng trong năm 2014 không có nhiều khác biệt so với những
năm trước. Sau khi ghi nhận mức giảm trong hai tháng đầu năm, do ảnh hưởng của yếu tồ mùa
vụ và dịp Tết, tín dụng tăng trưởng trở lại từ tháng 3, tiếp tục cải thiện dần dần qua từng tháng
và có sự gia tốc mạnh mẽ trong Quý 4. Tính đến cuối tháng 12, tín dụng ghi nhận mức tăng
14%, đạt mục tiêu 12% - 14% của NHNN. Các biến động của con số tín dụng một lần nữa cho
thấy tính chu kì trong hoạt động ngân hàng cũng như nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Theo quan sát của chúng tôi, động lực cho sự gia tốc kể trên vẫn đến từ các NHTM có yếu tố
nhà nước với hoạt động giải ngân lớn đối với các doanh nghiệp và tập đoàn lớn. Bên cạnh đó,
mặc dù chưa có con số chính thức của cả năm 2014, nhưng căn cứ vào số liệu vào cuối tháng
9, cơ cấu tín dụng cho thấy xu hướng tín dụng ngoại tệ tăng vượt trội so với tín dụng nội tệ.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng, về cách thống kê hiện tại của NHNN, có ý kiến cho rằng phần
đầu tư vào trái phiếu chính phủ vẫn được tính vào tổng dư nợ tín dụng. Trong trường hợp đó,
theo ước tính của VCBS, trong phần tín dụng tăng thêm của 2014 (khoảng 410.402 tỷ đồng
tính đến 19/12/2014), 71% là tín dụng trực tiếp cho nền kinh tế, 29% là phần đầu tư vào TPCP.
Nguồn: NHNN, VCBS
Trong năm 2015, mặc dù cầu đầu tư nội địa được dự báo chưa thể sớm bứt phá nhưng đà phục
hồi được kỳ vọng sẽ tiếp tục duy trì và cải thiện dần so với năm 2014. Bên cạnh đó, mặt bằng
lãi suất ổn định và duy trì ở mức thấp kết hợp với nợ xấu từng bước được giải quyết sẽ là
những yếu tố hỗ trợ cho tăng trưởng tín dụng. Theo đó, chúng tôi kỳ vọng tăng trưởng tín
dụng năm 2015 sẽ không thấp hơn năm 2014 và mục tiêu 13%-15% được đánh giá là khả
thi.
Nợ xấu có chiều hướng giảm.
VAMC đẩy nhanh mua nợ
xấu.
Theo công bố của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu tính đến hết tháng 11/2014 của toàn hệ
thống ở mức 3,8%. Như vậy, sau khi tăng mạnh trong tháng 6 với việc áp dụng thông tư 09, tỷ
lệ nợ xấu đã có dấu hiệu giảm dần qua 5 tháng liên tiếp và có thể sẽ tiếp tục giảm trong tháng
12. Kết quả tích cực này có được là do (1) tín dụng có dấu hiệu khởi sắc và gia tốc mạnh trong
những tháng cuối năm; (2) các ngân hàng khá nỗ lực kiểm soát dư nợ xấu đối với các khoản
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
Tăng trưởng tín dụng và M2
Tăng tín dụng (y/y) Tăng M2 (y/y)
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 10
vay mới, (3) các tổ chức tín dụng sử dụng trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu và (4) hoạt
động mua nợ xấu của VAMC được tăng cường.
Nguồn: NHNN, VCBS
Nếu như trong tháng 8 tháng đầu năm, hoạt động mua nợ xấu của VAMC khá cầm chừng khi
chỉ đạt khoảng 17 nghìn tỷ đồng thì trong 4 tháng cuối năm, hoạt động này đã ghi nhận những
bứt phá mạnh. Tính chung cả 12 tháng, VAMC đã mua khoảng 98 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong
đó có 36 nghìn tỷ đồng mua trong tháng 12, nâng tổng số nợ xấu mua được kể từ khi bắt đầu
hoạt động lên mức 138 nghìn tỷ đồng.
Những tín hiệu tích cực từ chiều mua nợ xấu đã được ghi nhận nhưng ở chiều xử lý nợ xấu,
hiện VAMC mới bán được khoảng 4 nghìn tỷ đồng tương ứng khoảng hơn 2,1% tổng số nợ
mua được. Con số này cho thấy khá rõ năng lực xử lý nợ xấu của VAMC còn khá khiêm tốn
với nguyên nhân chính, theo chúng tôi, là còn nhiều vướng mắc từ hành lang pháp lý và
VAMC cũng chưa được trao đủ quyền lực.
Hiện tại cũng đã có một số nỗ lực đẩy nhanh quá trình bán nợ thông qua việc cho phép VAMC
linh hoạt và có quyền quyết định nhiều hơn trong xác định giá bán của nợ xấu hoặc TSĐB mà
VAMC hoặc ngân hàng đã nắm quyền định đoạt. Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-
BTNMT-NHNN và thông tư 18/2014/BTP về hướng dẫn đấu giá nợ xấu và tài sản đảm bảo
cho nợ xấu đều quy định bên nhận đảm bảo được chỉ định tổ chức thẩm định giá để xác định
giá bán tài sản khi các bên liên quan đến tài sản không đạt được thỏa thuận về mức giá. Tuy
nhiên, chúng tôi đang kỳ vọng vào những thay đổi mạnh mẽ mang tính đột phá hơn, đặc biệt là
khả năng Nghị định 53 sẽ được sửa đổi theo hướng trao thêm quyền cho VAMC, trước khi có
thể ghi nhận những cải thiện rõ rệt trong quá trình bán nợ.
263.242 (+16% yoy) tỷ đồng
trái phiếu được huy động.
640.650 (+94%) tỷ đồng trái
phiếu được giao dịch. Thị
trường vô cùng sôi động trong
năm 2014.
Thị trường trái phiếu chứng kiến bước chuyển mình đáng kể trong năm 2014. 263.242 tỷ đồng
trái phiếu được huy động, tăng gần 16% so với năm ngoái. Trong khi đó, thanh khoản thị
trường thứ cấp liên tục thiết lập kỷ lục giao dịch theo từng tháng, đạt 640.650 tỷ đồng trong cả
năm 2014, tăng 94% so với cùng kỳ năm ngoái. Sự sôi động của thị trường đến từ các nguyên
nhân sau: (1) kinh tế vĩ mô ổn định, (2) lạm phát thấp, (3) sự dư thừa thanh khoản của hệ thống
ngân hàng, (4) Việt Nam được nâng cấp tín nhiệm, và (5) cơ hội giao dịch, dựa trên xu hướng
giảm của lợi suất trái phiếu và mặt bằng lãi suất nói chung.
3.00%
3.50%
4.00%
4.50%
5.00%
5.50%
01/12 04/12 07/12 10/12 01/13 04/13 07/13 10/13 01/14 04/14 07/14 10/14
Nợ xấu
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 11
Nguồn: HNX, VCBS
Lãi suất trúng thầu trái phiếu Kho Bạc Nhà Nước giảm từ 108 đến 250 điểm cơ bản trong năm
nay. Đáng chú ý, lãi suất kỳ hạn 10 năm và 15 năm giảm mạnh từ tháng 8 cho đến nửa đầu
tháng 10. Tuy nhiên sau đó, lãi suất 2 kỳ hạn này bật tăng mạnh trở lại, phản ánh những thông
tin quan trọng về thị trường khi (1) tỷ giá chịu nhiều áp lực, (2) nguồn cung trái phiếu dài hạn
dồi dào từ Kho Bạc Nhà Nước, (3) các ngân hàng tích cực chuẩn bị thanh khoản và đẩy mạnh
tín dụng dịp cuối năm, và (4) lực cầu trái phiếu dài hạn chưa đủ mạnh.
Nguồn: HNX, VCBS
Trong năm 2015, lãi suất trái phiếu có thể sẽ giảm nhẹ trong 6 tháng đầu năm, do: (1) thanh
khoản của hệ thống ngân hàng thường khá dư thừa và tăng trưởng tín dụng rất chậm trong nửa
đầu năm; (2) 65% tổng lượng trái phiếu đáo hạn năm 2015 (207.000 tỷ đồng) sẽ nằm trong
khoảng từ tháng 1 đến tháng 6, gia tăng nguồn lực tài chính dồi dào; (3) tỷ giá đã được điều
chỉnh tăng 1% và khả năng sẽ ổn định trong nửa đầu năm, điều này sẽ giúp ngân hàng Nhà
Nước hạ lãi suất tín phiếu khi lạm phát ở mức khá thấp. Tuy nhiên, lãi suất trái phiếu có thể sẽ
chịu áp lực đi lên vào nửa cuối năm, khi: (1) tín dụng thường tăng tốt hơn vào dịp cuối năm; (2)
tỷ giá chịu nhiều sức ép khi đồng USD có thể mạnh lên và khả năng nâng lãi suất điều hành của
FED; (3) lạm phát có thể sẽ tăng tốt hơn nửa đầu năm do lộ trình tăng giá của ngành giáo dục và
y tế.
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
40,000
1/1
3
3/1
3
5/1
3
7/1
3
9/1
3
11
/13
1/1
4
3/1
4
5/1
4
7/1
4
9/1
4
11
/14
Thị trường sơ cấp
ST VBSP VDB
-
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
140,000
160,000
180,000
1/1
3
3/1
3
5/1
3
7/1
3
9/1
3
11
/13
1/1
4
3/1
4
5/1
4
7/1
4
9/1
4
11
/14
Thị trường thứ cấp
Outright Repo Reverse repo
0
1
2
3
4
5
6
7
8
-
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
01/1
3
02/1
3
03/1
3
04/1
3
05/1
3
06/1
3
07/1
3
08/1
3
09/1
3
10/1
3
11/1
3
12/1
3
01/1
4
02/1
4
03/1
4
04/1
4
05/1
4
06/1
4
07/1
4
08/1
4
09/1
4
10/1
4
11/1
4
12/1
4
CP
I y
oy
(%
)
Lãi
suất
trú
ng
th
ầu
(%
)
Lợi suất trúng thầu
1Y ST-Bill 2Y 3Y 5Y 10Y 15Y CPI (y-o-y)
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 12
NHNN đã hoàn thành suất sắc
nhiệm vụ điều tiết thị trường
trong năm 2014.
Ngân hàng Nhà Nước đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ trong năm 2014, trong vai trò điều
tiết thị trường. Lãi suất thị trường mở được tăng giảm nhịp nhàng, phù hợp với điều kiện thị
trường. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng luôn được đảm bảo ở mức tốt, thể hiện khá rõ qua
lượng giao dịch repo thấp và số dư tín phiếu ngân hàng Nhà Nước luôn ở mức cao. Tín phiếu
ngân hàng Nhà Nước trở nên đa dạng hơn khi có thêm kỳ hạn mới. Điều này sẽ giúp các ngân
hàng chủ động và linh hoạt hơn trong việc chuẩn bị thanh khoản cho những thời điểm quan
trọng. Lãi suất repo ở mức 5%, trong khi lãi suất tín phiếu ngân hàng Nhà Nước ở mức 3.5%,
3.6%, 4% và 4.4% đối với kỳ hạn 28, 56, 91 và 182 ngày.
Kinh tế - tài chính thế giới
Mỹ
Nền kinh tế lớn nhất thế giới
có năm phục hồi mạnh nhất
kể từ thời kỳ suy thoái.
Trong năm 2014, nền kinh tế Mỹ ghi nhận nhiều nỗ lực hồi phục tích cực. Ngoại trừ sự sụt giảm
trong Q1 (chủ yếu là do vấn đề thời tiết xấu), Mỹ đều tăng trưởng nhanh trong các quý còn lại
của năm, đặc biệt là trong Q3. Trong đó, điểm nhấn của nền kinh tế khổng lồ nằm ở khu vực lao
động khi tỷ lệ thất nghiệp giảm dần qua các tháng và chạm xuống mốc kỷ lục 5,8% trong hơn 6
năm qua, và số lượng việc làm tạo ra vào khoảng 239.000 đơn vị/tháng, cao nhất kể từ năm
1999, trong năm nay.
Bên cạnh đó, mặc dù tốc độ mở rộng đang chậm lại dưới ảnh hưởng của việc nhu cầu từ nước
ngoài (đặc biệt là khu vực Châu Âu) giảm sút, khu vực sản xuất có nhiều khởi sắc và liên tục
mở rộng trong suốt cả năm 2014, ghi nhận năm lạc quan nhất kể từ thời kỳ suy thoái.
Tuy vậy, vấn đề cần giải quyết của Mỹ đang nằm ở tỷ lệ lạm phát khi con số này đang giảm dần
kể từ T6/2014 đến nay và ngày càng xa vời mục tiêu 2% đề ra hồi đầu năm. Nguyên nhân một
phần đến từ việc nhu cầu nội địa vẫn còn yếu và phần lớn hơn là do giá dầu lao dốc kéo theo giá
nhiên liệu đi xuống. Trong tương lai, khi giá đầu vào hạ có thể sẽ kích thích nhu cầu tiêu dùng
trong nước cải thiện dần và từ đó lạm phát được dự báo sẽ có những diễn biến lạc quan hơn.
Mặc dù nền kinh tế ghi nhận nhiều chuyển biến rất tích cực và bứt phá so với các năm liền
trước, đặc biệt là trên thị trường lao động và việc làm, nhưng sự chậm lại của khu vực sản xuất,
lạm phát,… khiến FED chỉ đưa ra quyết định chấm dứt gói kích thích QE3 vào cuối T10/2014
và vẫn tiếp tục cẩn trọng giữ nguyên quan điểm về việc duy trì lãi suất thấp thêm một thời gian
nữa. Chúng tôi kỳ vọng rằng, FED có thể sẽ nâng lãi suất lên vào khoảng cuối Q2, đầu
Q3.2015 khi nền kinh tế Mỹ nhiều khả năng sẽ tiếp tục hồi phục với tốc độ như 6T cuối
năm 2014 trong năm 2015.
Châu Âu
Nền kinh tế Châu Âu mất dần
đà tăng trưởng.
Nền kinh tế Châu Âu mất dần động lực tăng trưởng, đặc biệt là trong nửa cuối năm 2014 khi
các số liệu đều không đạt được kỳ vọng. Ba nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức, Pháp và Italia
đồng loạt suy yếu là nguyên nhân trọng yếu kéo EU đi xuống.
Khu vực sản xuất, vốn là điểm sáng của EU trong nửa cuối năm 2013 và đầu năm 2014, cũng tỏ
ra đuối sức trong suốt cả 3 quý 2,3 và 4 củanăm 2014. Chỉ số PMI – HSBC, dù vẫn trên ngưỡng
50, nhưng giảm dần qua các tháng và về sát đường mở rộng – suy thoái cho thấy sự mong manh
trong phát triển của khu vực này, đặc biệt là trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Ukraine và
những mâu thuẫn chính trị giữa EU - Nga. Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp không có sự cải thiện
trong 6T cuối năm 2014 và neo ở mức 11,5% từ T6 đến nay, thay vì giảm dần như giai đoạn
trước đó.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 13
Vấn đề đáng lo ngại nhất của EU là tình hình lạm phát liên tục giảm dần và ngày càng cách xa
mức mục tiêu 2% đặt ra. Đặc biệt, tỷ lệ này đã giảm mạnh từ +0,8% (T1.2014) về vùng âm
0,2% (T12.2014) dưới ảnh hưởng của giá dầu lao dốc và sức cầu tiêu dùng nội địa quá yếu.
Đồng thời, điều này cũng thêm khẳng định về nguy cơ EU đã rơi lại về vùng suy thoái bất chấp
những giải pháp ECB đưa ra trước đó như hạ lãi suất xuống thấp kỷ lục, khởi động chương trình
mua lại lượng lớn trái phiếu thế chấp bằng tài sản (ABS),…
Trước tình trạng kinh tế rất u ám này, EU phát đi những cam kết mới: (1) nhanh chóng thành
lập quỹ đầu tư chiến lược châu Âu; (2) tập trung sâu hơn vào cải cách cơ cấu; (3) nỗ lực duy trì
nguồn tài chính công bền vững và ECB cũng hé mở về sẽ khả năng thay đổi quy mô, tốc độ và
thành phần của chính sách kích thích hiện tại và có thể nới lỏng thêm vào đầu năm 2015 nếu
tình hình kinh tế không cải thiện. Chúng tôi cho rằng, sự suy thoái của khu vực EU sẽ tiếp
tục kéo dài ít nhất là đến hết Q1.2015 và có thể có những khởi sắc nhẹ trong các quý tiếp
theo khi độ trễ về thời gian của các chính sách qua đi.
Châu Á
Trung Quốc hồi phục yếu và
tồn tại nhiều rủi ro.
Nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục hồi phục yếu và xuất hiện thêm nhiều rủi ro. Tốc độ tăng
trưởng từng quý đã thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ các năm trước và do vậy, mục tiêu tăng
trưởng 7,5% cho cả năm 2014 có thể sẽ khó đạt được. Bên cạnh đó, khu vực sản xuất đã bắt đầu
có dấu hiệu chuyển sang giai đoạn co hẹp, khi PMI sản xuất lại quay trở về dưới ngưỡng 50
trong tháng 12 với sự suy giảm mạnh của sản lượng, số đơn đặt hàng mới và số lượng việc làm.
Ngoài ra, cầu tiêu dùng nội địa của nền kinh tế khổng lồ cũng không còn được tích cực như giai
đoạn trước, thể hiện qua tốc độ tăng giảm dần của tỷ lệ lạm phát qua các tháng và ở dưới mức
2% (yoy) trong 3 tháng liên tiếp (T9, T10 và T11), thấp hơn nhiều so với mức chuẩn năm 2014
do Chính phủ đề ra là 3,5%. Trong khi đó, thị trường bất động sản, một trong những động lực
tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế, tiếp tục suy yếu với doanh thu bán nhà giảm 12% so với
cùng kỳ năm ngoái trong tháng 11.
Vấn đề của Trung Quốc cũng nằm ở tình trạng tham nhũng cao, bất chấp các nỗ lực chống tham
nhũng của Chính phủ. Điều này trở thành rào cản cho nền kinh tế trong việc thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài ra quyết định đầu tư vào đây.
Đối mặt với tình trạng đình trệ kéo dài của lĩnh vực sản xuất và thị trường bất động sản kéo
giảm chi tiêu tiêu dùng của người dân, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) đã tiến hành
2 đợt bơm tiền vào hệ thống ngân hàng quốc gia trong T9, T10 và quyết định hạ lãi suất cho
vay, lãi suất tiền gửi nhằm kích thích tăng trưởng. Chúng tôi kỳ vọng rằng, các biện pháp
này, cộng thêm hiệu ứng lao dốc của giá dầu sẽ giúp cho nền kinh tế Trung Quốc tăng tốc
trở lại với trọng tâm là cầu nội địa hồi phục và thặng dư thương mại cải thiện mạnh.
Nền kinh tế Nhật Bản gặp
nhiều khó khăn.
Nền kinh tế Nhật Bản gặp nhiều khó khăn và loay hoay trong các mục tiêu tăng trưởng. Với
quyết định tăng thuế tiêu dùng lên 8% hồi T4.2014 nhằm giảm bớt gành nặng nợ công, Nhật
Bản đã đánh mất nhiều chỉ tiêu quan trọng còn lại: (1) Người tiêu dùng và doanh nghiệp cắt
giảm mạnh chi tiêu và đầu tư đẩy áp lực lạm phát ngày càng suy yếu (lạm phát lõi chỉ tăng 0,7%
trong tháng 11) và xa vời con số 2% đặt ra hồi đầu năm; (2) Các khoản tiền lương của người lao
động Nhật Bản (điều chỉnh theo lạm phát) đã giảm tháng thứ 16 liên tiếp (tính đến T10/2014)
khi các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh và tiêu thụ đầu ra; (3) GDP tăng
trưởng âm trong hai quý liên tiếp so với cùng kỳ năm trước (-0,4% trong Q2 và -1,9% trong Q3)
khiến cho Nhật Bản phải tuyên bố rơi vào suy thoái kỹ thuật; (4) Tổ chức xếp hạng tín nhiệm
Moody's hạ 1 bậc xếp hạng phát hành trái phiếu của Nhật Bản xuống A1 và tổ chức đánh giá tài
chính Fitch Ratings đặt Nhật Bản vào diện theo dõi hạ bậc tín nhiệm
Trước tình hình này, Thủ tướng Shinzo Abe buộc phải (1) tuyên bố hoãn đợt tăng thuế thứ 2
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 14
(dự kiến tiến hành trong T10/2015) thêm 18 tháng để kích thích tiêu dùng trong nước; (2) giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 32,1% kể từ T4/2015 và xuống còn 31,3% trong năm 2016
nhằm khuyến khích khối doanh nghiệp nhanh chóng tăng lương cho người lao động và tăng
cường đầu tư hơn; (3) thông qua gói kích thích hơn 29 tỷ USD tập trung hỗ trợ khối doanh
nghiệp nhỏ cũng như công cuộc tái thiết khu vực nông thôn và những khu vực từng chịu thảm
họa thiên nhiên để vực dậy nền kinh tế thoát khỏi suy thoái. Đồng thời BOJ cũng buộc phải tăng
cung tiền lên 80 nghìn tỷ/năm trong cuộc họp chính sách tháng 10 và bơm tiền vào nền kinh tế
thông qua mua trái phiếu Chính phủ và các tài sản khác.
Theo đó, kinh tế Nhật Bản đã phục hồi rất nhẹ trở lại trong các tháng cuối năm với điểm sáng là
khu vực sản xuất liên tục mở rộng và hoạt động xuất khẩu tăng trưởng khá. Do vậy, với những
chính sách nới lỏng được tăng cường vào cuối năm, chúng tôi kỳ vọng rằng nền kinh tế
lớn thứ ba thế giới sẽ có những khởi sắc, dù còn chậm chạp, trong năm 2015.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 15
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Xu hướng chung của thị trường
Nguồn: VCBS tổng hợp
Thị trường trải qua 4 giai đoạn
rõ ràng.
Trong năm 2014, thị trường biến động khá mạnh và chia giai đoạn rõ rệt gần như tương ứng với
4 quý:
Q1.2014: Tiếp nối đà tăng từ Q4.2013, thị trường tăng điểm rất mạnh trong Q1.2014 với thanh
khoản được cải thiện đáng kể. Sự ổn định và hồi phục tích cực của nền kinh tế vĩ mô thể hiện
qua các chỉ tiêu như: (1) khu vực sản xuất tiếp tục mở rộng; (2) mặt bằng lãi suất được NHNN
điều chỉnh giảm làm tăng thêm dòng vốn giá rẻ đổ vào thị trường; (3) lạm phát và tỷ giá được
kiểm soát tốt; và (4) nền kinh tế thế giới tiếp tục phát đi tín hiệu phục hồi như Mỹ và thoát dần
ra khỏi vùng rủi ro như Trung Quốc. Đây là điều kiện nền tảng thuận lợi để thị trường chứng
khoán Việt nam thu hút dòng vốn ngoại cũng như hấp dẫn được dòng vốn nội trong thời gian
này. Theo đó, VN Index tăng đến 17,23% trong khi HNX Index bất ngờ bứt phá 31,85% so với
thời điểm cuối năm 2013, trở thành một trong những chỉ số tăng nhanh nhất trên thế giới trong
Q1.2014.
Q2.2014: Thị trường đã có sự chững lại sau chuỗi ngày tăng dài khi cả điểm số và thanh khoản
đều tuột dốc nhanh. Sự điều chỉnh này chủ yếu là để tìm kiếm điểm cân bằng mới khi thị trường
dường như hưng phấn và phản ánh quá đà kỳ vọng hồi phục của nền kinh tế trong Q1. Bên cạnh
đó, tăng trưởng tín dụng rất chậm trong bối cảnh nợ xấu chưa tìm kiếm được hướng đi và cầu
nội địa yếu khiến cho nền kinh tế tăng trưởng ở mức dưới tiềm năng. Thêm vào đó, sự kiện
căng thẳng Biển Đông nổ ra tạo tâm lý lo ngại cho nhà đầu tư cũng là một trong những nguyên
nhân trọng yếu khiến thị trường giảm sâu trong nửa đầu Q2.
Q3.2014: Từ sự kiện Biển Đông, áp lực bán ra tăng lên ồ ạt và kéo theo một lượng lớn là hàng
giải chấp buộc phải bán, lực cầu bắt đáy đẩy lên cao và tạo ra cú hồi phục ngoạn mục của hai
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 16
chỉ số trong cuối Q2 và tiếp diễn suốt cả Q3 sau đó. Nền tảng kinh tế vĩ mô trong thời gian này
duy trì ổn định và tuy không có tin hỗ trợ mới nhưng cũng không xuất hiện thêm thông tin xấu.
Bên cạnh đó, yếu tố dòng tiền,với hiệu ứng hạ chủ động lãi suất huy động của các NHTM đã
tạo ra lực nâng đỡ cho các thị trường chứng khoán, đặc biệt là tại các cổ phiếu có hoạt động
kinh doanh và triển vọng tốt. Tuy vậy, chuyển sang các tháng cuối Q3, tâm điểm của thị trường
lại chủ yếu tập trung tại các cổ phiếu Dầu khí như GAS, PVD, PVS, … thay vì lan tỏa ra toàn
bộ thị trường chung. Điều này báo hiệu trước một cú bull-trap sắp xảy ra.
Q4.2014: Nhịp tăng dài liên tục kéo dài suốt 4 tháng đã tạm bị chững lại vào cuối tháng 9. Mặc
dù nền kinh tế vẫn tiếp tục ổn định nhưng không còn nhiều điểm đột phá để có thể giúp cân
bằng lại với các thông tin xấu về kinh tế thế giới và về ngành được công bố:
(1) Trước hết là hiện tượng lao dốc của giá dầu thế giới từ 100 USD/thùng xuống còn một nửa
chỉ trong vòng hơn 3 tháng (từ 16/9 đến nay) khiến cho thị trường khó có thể đi lên khi nhóm
các cổ phiếu Dầu khí chiếm tỷ trọng cao trong rổ tính với vốn hóa lớn và số lượng mã nhiều.
(2) Tiếp đến là thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được ban hành, mà trong đó
có nội dung “Tổng mức dư nợ cấp tín dụng của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài đối với tất cả khách hàng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu không được vượt quá 5%
vốn điều lệ, vốn được cấp của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.”, thay
thế quy định cũ “Tổng dư nợ cho vay và chiết khấu giấy tờ có giá đối với tất cả khách hàng
nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng”
tạo ra tâm lý hoàn toàn không tích cực cho đông đảo nhà đầu tư khi lo ngại về nguồn cung ứng
đòn bẩy tài chính nói riêng và thanh khoản trên thị trường chứng khoán nói chung trong thời
gian tới.
(3) Mỹ chấm dứt hoàn toàn gói kích thích kinh tế khổng lồ QE3 trong khi Nhật chính thức
tuyên bố nền kinh tế rơi vào suy thoái, Trung Quốc giảm tốc và EU loay hoay trong các chính
sách vực dậy nền kinh tế u ám sau những căng thẳng chính trị Nga – Ukraine và tiếp đó là các
lệnh cấm vận kinh tế Nga – Phương Tây.
Những thông tin xấu liên tiếp được đưa ra khiến cho bức tranh thị trường chứng khoán trong Q4
không mấy sáng sủa và về tổng thể, VN Index chỉ còn tăng trưởng 8,12% trong khi HNX Index
tăng 22,32%.
0
50
100
150
200
250
300
490
520
550
580
610
640
31
/12/2
013
07
/02/2
014
07
/03/2
014
04
/04/2
014
08
/05/2
014
05
/06/2
014
03
/07/2
014
31
/07/2
014
28
/08/2
014
29
/09/2
014
27
/10/2
014
24
/11/2
014
22
/12/2
014
KLGD VN-Index
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
60
65
70
75
80
85
90
95
31
/12/2
013
07
/02/2
014
07
/03/2
014
04
/04/2
014
08
/05/2
014
05
/06/2
014
03
/07/2
014
31
/07/2
014
28
/08/2
014
29
/09/2
014
27
/10/2
014
24
/11/2
014
22
/12/2
014
KLGD HNX-Index
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 17
Nguồn: VCBS tổng hợp
2015: cơ hội luôn có. Bước sang năm 2015, thị trường có thể sẽ phải trải qua nhiều đợt biến động mạnh khi phải đối
mặt với những khó khăn lớn nhưng cũng gặp được nhiều thuận lợi.
Về mặt thuận lợi, nền tảng kinh tế vĩ mô được kỳ vọng sẽ duy trì ổn định với các mục tiêu đề ra
không quá khác biệt so với năm 2014. Trong đó, giá xăng dầu liên tục giảm đang tạo ra một vài
điểm nhấn đáng lưu ý: (1) Các doanh nghiệp hạ thấp được chi phí đầu vào, đặc biệt là các doanh
nghiệp vận tải; (2) Người tiêu dùng có thêm một khoản để chi tiêu hoặc đầu tư. Cả hai yếu tố
này đều sẽ gián tiếp hoặc trực tiếp giúp cho các doanh nghiệp cải thiện doanh số bán hàng, từ
đó nâng cao doanh thu và cải thiện kết quả kinh doanh trong năm tới.
Các yếu tố hỗ trợ mạnh cho hai chỉ số cũng cần phải kể đến là Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương TPP và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (FTA) được
kỳ vọng sẽ sớm được hoàn thành và ký kết trong năm 2015. Bên cạnh đó, các chính sách nới
lỏng và các gói kích thích kinh tế khổng lồ của EU, Nhật Bản và có thể là cả Trung Quốc có thể
sẽ đem lại sự dịch chuyển dòng vốn từ nước họ sang các thị trường mới nổi mà trong đó có Việt
Nam.
Về mặt khó khăn: sự bứt phá từ những hoạt động trong nền kinh tế chưa đến và khó có thể là
động lực tăng trưởng chính cho thị trường chứng khoán. Trong đó, mặt bằng lãi suất đang duy
trì ở mức thấp và khó có dư địa giảm thêm khiến cho các doanh nghiệp sẽ không còn được
hưởng lợi nhiều từ xu hướng này như năm trước.
Ngoài ra, giá dầu thô trên thế giới liên tục giảm sút sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp
thuộc họ Dầu khí trong khi số lượng và tỷ trọng của các mã này trên hai sàn HOSE và HNX khá
lớn. Thêm vào đó, việc giá dầu đi xuống cũng khiến cho các nền kinh tế Xuất khẩu chủ lực Dầu
thô trên thế giới yếu đi và phản ánh triển vọng phục hồi nhu cầu mở rộng sản xuất toàn cầu
không mấy tích cực. Kéo theo đó là sự trì trệ trong tăng trưởng của các nền kinh tế lớn như EU,
Nhật Bản và Trung Quốc, từ đó ít nhiều sẽ ảnh hưởng không tốt, trước hết là đến hoạt động đầu
tư và giao thương xuất nhập khẩu với Việt Nam. Ngoài ra, FED chắc chắn sẽ nâng lãi suất lên
và động thái này nhiều khả năng sẽ diễn ra vào khoảng cuối Q2, đầu Q3 và do vậy, sự rút vốn
của nhà đầu tư nước ngoài trước thời điểm này sẽ là yếu tố đáng kể cần cân nhắc.
Đánh giá dựa trên những thuận lợi và khó khăn kể trên, chúng tôi kỳ vọng rằng thị trường vẫn
sẽ có kịch bản tích cực với xu hướng tăng điểm chiếm ưu thế nhưng cũng sẽ trải qua nhiều biến
động với các nhịp tăng giảm mạnh trong năm 2015.
P/E của Việt Nam dù cao hơn so
với cuối năm, cho thấy sức hấp
dẫn giảm bớt, nhưng vẫn thấp
nhất trong khu vực
Chỉ số P/E của thị trường Việt Nam (sàn HSX) vào cuối năm 2014 chỉ còn ở mức 13,21; giảm
đáng kể so với đỉnh T8.2014 là 16 và tăng nhẹ so với hồi đầu năm (12,54). Trong suốt năm vừa
qua, P/E đã tăng dần trong ba quý đầu năm và bắt đầu giảm nhanh trong quý cuối chủ yếu là do
sự giảm giá nhanh của các cổ phiếu niêm yết. Mặc dù vậy, nếu so sánh tương quan với các thị
trường trong cùng khu vực với bối cảnh kinh tế, chính trị khác nhau, Việt Nam vẫn chiếm được
nhiều lợi thế với các cổ phiếu “rẻ” và hấp dẫn tương đối. Xét tới yếu tố nền chính trị ổn định,
kinh tế phục hồi vững vàng, tần suất xuất hiện thiên tai thảm hỏa lớn không nhiều thì nước ta
vẫn là một trong những điểm đến tiềm năng của dòng vốn ngoại. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý
rằng, hiện nay đã rất nhiều thị trường trong khu vực Đông Nam Á bắt đầu mở rộng và có những
chính sách ưu đãi và thu hút dòng vốn đầu tư rất tích cực như Myanmar, Phillippines,.. Do vậy,
sự cạnh tranh của thị trường Việt Nam và các thị trường nước bạn trong vấn đề tìm kiếm dòng
tiền chảy vào thị trường sẽ trở nên khắc nghiệt hơn rất nhiều.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 18
P/E các nước trên khu vực
Quốc gia T6.2014 T12.2014
Việt Nam 13,59 13,21
Thái Lan 17,48 16,6
Malaysia 16,82 15,78
Indonesia 21,49 21,01
Philipines 21,65 20,8
Singapore 13,73 13,65
Nguồn: Bloomberg, VCBS tổng hợp
Cổ phiếu Dầu khí đánh mất vị thế, cổ phiếu Xây dựng cơ sở hạ tầng,
Kho vận, Hóa chất, và Xuất khẩu có thể thay thế vai trò dẫn dắt.
Cổ phiếu Dầu khí tăng nhanh
trong 8 tháng đầu năm và lao dốc
trong 4 tháng còn lại.
Duy trì vị thế dẫn đầu trong suốt cả năm 2013, nhóm cổ phiếu Dầu khí đã thể hiện mình rất tốt
trong 8 tháng đầu của năm 2014. Với những đặc thù như tính phòng thủ cao, hoạt động kinh
doanh luôn ổn định với doanh thu và lợi nhuận tăng trưởng đều đặn nhờ những chính sách ưu
tiên của Chính phủ cũng như ít biến động theo những thăm trầm của nền kinh tế, các mã đầu
ngành như GAS, PVD, PVS, … đã tạo được dấu ấn khó phai với tất cả các nhà đầu tư trên thị
trường. Đã có những thời điểm, ngành Dầu khí tăng tới gần 100% so với hồi đầu năm và khiến
cho rất nhiều tài khoản của nhà đầu tư tăng theo cấp số nhân khi đẩy mạnh đòn bẩy tài chính.
Với số lượng mã đông đảo và vốn hóa lớn và rất lớn, các mã Dầu khí đã hoàn thành xuất sắc vai
trò trụ cột của mình trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, bước sang các tháng tiếp theo, các cổ phiếu Dầu khí đã không thể đứng vững trước
sự lao dốc của giá Dầu thô thế giới. Đánh mất tới 50% từ 100 USD/thùng về chỉ còn 50
USD/thùng trong vòng hơn 3 tháng (giữa T9 – nay), cả họ Dầu khí đã phải trải qua làn sóng bán
tháo ồ ạt của cả nhà đầu tư khối nội và khối ngoại. Theo đó, thị trường chung đã bị ảnh hưởng
tiêu cực trên phương diện (1) giá trị đóng góp thực tế của nhóm Dầu khí vào hai chỉ số giảm
mạnh và (2) tâm lý chung của đông đảo nhà đầu tư nắm giữ các cổ phiếu thuộc các ngành khác
xấu đi khi chứng kiến hai chỉ số liên tục giảm sâu nhiều phiên liền.
Bên cạnh Dầu khí, ngành Chứng khoán cũng ghi nhận một năm giao dịch hào hứng và nhiều
biến chuyển tích cực. Điều này được lý giải là do kỳ vọng của nhà đầu tư vào kết quả kinh
doanh của các doanh nghiệp Chứng khoán này sẽ tốt hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp
thuộc ngành khác khi
(1) Thị trường có sự biến động mạnh và chia giai đoạn rất rõ ràng khiến cho hoạt động môi giới
chứng khoán trở nên sôi nổi hơn.
(2) Thanh khoản có sự cải thiện và thường xuyên ở mức cao trong 3 quý đầu năm 2014.
(3) Khối tự doanh các công ty chứng khoán đã có những cơ hội mua/bán thuận lợi trong từng
quý (mua vào bắt đáy khá tốt đợt TTCK giảm sâu hồi giữa tháng 5 và sau đó đã liên tục bán ra
chốt lời tại vùng giá cao trong cả tháng 6; và lặp lại quá trình này sau đó).
11
12
13
14
15
16
P/E của HSX T01/2013 - T12/2014
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 19
Nguồn: VCBS tổng hợp
Cổ phiếu của các doanh nghiệp
Xây dựng cơ sở hạ tầng, Kho
vận, Hóa chất và Xuất khẩu có
nhiều cơ hội vươn lên giành ưu
thế.
Trong năm 2015, nền kinh tế được kỳ vọng sẽ giữ được tốc độ hồi phục ổn định như năm 2014.
Chúng tôi xác định động lực tăng trưởng của Việt Nam đang xuất phát từ ngành Xuất khẩu với
các chính sách đẩy mạnh của Chính phủ trong năm qua. Theo đó, Việt Nam đã trở thành nước
Xuất siêu trong 3 năm liên tiếp với giá trị thặng dư thương mại có chiều hướng cải thiện. Ngoài
ra, các hiệp định thương mại với các đối tác lớn như Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược
xuyên Thái Bình Dương TPP và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (FTA) được kỳ
vọng sẽ hoàn thành việc ký kết vào cuối năm 2015 có thể tạo nên những bước đột phá tại các
doanh nghiệp Xuất khẩu thuộc các ngành chiến lược như Dệt may, linh kiện điện tử, thực phẩm,
thủy sản,…
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thuộc ngành Cảng biển, Vận tải biển cũng là một trong các điểm
đến của dòng tiền bởi (1) Chính sách siết chặt kiểm soát trọng tải đường bộ tạo ra sự gia tăng
mạnh chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất; do vậy, động thái chuyển hướng sang vận
chuyển hàng bằng đường biển trở thành lựa chọn tối ưu cho rất nhiều doanh nghiệp; (2) Giá
xăng dầu liên tục điều chỉnh giảm mạnh theo giá dầu thô thế giới khiến cho các doanh nghiệp
Vận tải tiết kiệm được chi phí đầu vào và từ đó cải thiện được biên lợi nhuận vốn khá khiêm tốn
của mình; (3) Khi nền kinh tế phục hồi, ngành Vận tải là một trong những ngành được hưởng
lợi đầu tiên.
Ngoài ra, chúng tôi cũng lưu ý nhà đầu tư đến các doanh nghiệp Xây dựng cơ sở hạ tầng và
công nghiệp phụ trợ bởi một trong những nhân tố quan trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế là chi tiêu công, mà trong đó, xây dựng cơ sở hạ tầng là cốt lõi. Theo đó, những
công trình lớn và những hợp đồng quan trọng sẽ tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp đạt doanh
thu, lợi nhuận cao tại lĩnh vực này.
Thêm nữa, giá Dầu thô liên tục giảm sâu là tiền đề để các doanh nghiệp thuộc ngành Hóa chất
gồm nhựa, bột giặt, phân bón,….được hưởng lợi nhờ giá nguyên liệu đầu vào (chế phẩm từ
Dầu) giảm mạnh. Do vậy, kết quả kinh doanh của các Doanh nghiệp này báo hiệu sẽ được cải
thiện theo hướng tích cực trong năm 2015.
Với những triển vọng kể trên, chúng tôi cho rằng, việc chuyển đổi trụ từ các mã Dầu khí quen
thuộc sang các mã thuộc đa dạng các ngành kể trên sẽ là điểm cần lưu ý trong năm 2015. Theo
đó, vai trò dẫn dắt sẽ được san đều ra nhiều ngành thay vì chỉ tập trung cục bộ như trước.
-25%
-5%
15%
35%
55%
75%
95%Lợi suất theo nhóm ngành
Chỉ số VCBS - Ngành dầu khí Chỉ số VCBS - Ngành khoáng sản
Chỉ số VCBS - Ngành thực phẩm tiêu dùng Chỉ số VCBS - Ngành chứng khoán
Chỉ số VCBS - Ngành bất động sản Chỉ số VCBS - Ngành ngân hàng
Chỉ số VCBS - Ngành bảo hiểm
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 20
Nguồn: VCBS tổng hợp
Nhóm vốn hóa trung bình vươn
lên chiếm ưu thế.
Trong 8 tháng đầu năm, cả ba nhóm vốn hóa lớn, trung bình và nhỏ luôn bám sát nhau và vận
động theo cùng xu hướng: tăng trong 3 tháng Q1, điều chỉnh trong 2 tháng tiếp theo và hồi phục
trong 3 tháng sau đó. Tuy nhiên, trong 4 tháng còn lại, các nhóm này có sự phân hóa rõ nét và
biến động theo các chiều hướng khác nhau. Điều này chủ yếu là bởi sự giảm giá mạnh của các
blue-chips (mà trong đó các cổ phiếu Dầu khí chiếm tỷ trọng cao) trong khi các penny và
midcap giữ giá khá tốt và dao động đi ngang làm chủ đạo.
Như vậy, trái ngược với các năm trước, blue-chips đã đánh mất vai trò dẫn dắt và lan tỏa động
lực tăng điểm đến số đông các cổ phiếu trên sàn. Thay vào đó, nhóm vốn hóa trung bình nổi trội
với tốc độ tăng trưởng hơn 34% trong năm qua.
Với những lợi thế về quy mô vừa phải, hoạt động trong giai đoạn tăng trưởng của chu kỳ kinh
doanh, thị giá tầm trung, chúng tôi kỳ vọng rằng nhóm cổ phiếu này sẽ hấp dẫn với số đông nhà
đầu tư. Trong khi đó, các blue-chips với thị giá lớn và phần lớn bắt đầu đi vào giai đoạn trưởng
thành và suy thoái sẽ không còn quá tiềm năng để đạt được tốc độ tăng trưởng cao về giá nữa.
Thay vào đó, các cổ phiếu vốn hóa lớn sẽ đóng vai trò là trụ đỡ và tạo nền tảng để các midcap
vươn lên trong năm 2015. Tuy vậy, trong nhóm blue-chips, sự phân hóa sẽ trở nên rõ rệt hơn
khi các blue-chips Dầu khí chìm xuống sẽ là lúc các blue-chips thuộc ngành khác nổi lên và cân
bằng lại. Do vậy, nhà đầu tư có thể chú ý thêm vào các mã này để tìm kiếm cơ hội trong năm
2015 bên cạnh các midcap tiềm năng là các mã đầu ngành Xuất khẩu, Kho vận, Vận tải biển,
Xây dựng cơ sở hạ tầng và công nghiệp phụ trợ.
Năm 2014, dòng vốn ngoại hoạt động vô cùng sôi nổi vào đầu năm và
trầm lắng trong các tháng cuối năm.
Dòng vốn ngoại chảy mạnh vào
thị trường trong nửa đầu năm và
hoạt động yếu trong nửa còn lại
của năm 2014.
Trong Q1, khối ngoại mua ròng đáng kể trong hai tháng đầu và chuyển sang trạng thái bán ròng
mạnh trong tháng còn lại. Điều này là dễ hiểu khi hai tháng đầu năm thường là chu kỳ giải ngân
mạnh của nhà đầu tư nước ngoài. Kèm theo đó, khi bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ổn định và
triển vọng phục hồi tốt trong dài hạn cộng với những ưu thế tương đối so với các nước bạn
trong khu vực, thị trường Chứng khoán Việt Nam là điểm đến hấp dẫn cho các dòng vốn rẻ của
khối ngoại. Các điều kiện về thế giới cũng vẫn thuận lợi cho Việt Nam khi Cục dự trữ liên bang
Mỹ FED, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản BOJ và Ngân hàng Trung ương Châu Âu ECB cam
kết giữ mặt bằng lãi suất thấp và Trung Quốc đã xoa dịu những lo ngại về rủi ro vỡ nợ, rủi ro
-5%
5%
15%
25%
35%
45%Lợi suất theo nhóm vốn hóa
Chỉ số VCBS - Nhóm vốn hóa lớn Chỉ số VCBS - Nhóm vốn hóa trung bình
Chỉ số VCBS - Nhóm vốn hóa nhỏ
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 21
thanh khoản bằng một số biện pháp cụ thể.
Bước sang Q2, khối ngoại hoạt động rất tích cực trở lại sau khi chứng kiến mức bán ròng mạnh
trong T3.2014. Mức mua ròng liên tiếp trong 3 tháng (T4, T5, T6) khá bất ngờ khi cùng thời
điểm này năm ngoái, khối ngoại chỉ mua ròng một lượng rất nhỏ (do chuyển hướng bán ròng
mạnh trong T5.2013 khi rủi ro từ phía Trung Quốc được đẩy lên cao). Ngoài ra, căng thẳng trên
biển Đông bùng phát cũng không hề khiến cho lượng mua ròng của khối ngoại bị giảm sút mà
vẫn duy trì đều đặn qua từng phiên là điều tương đối tích cực. Tuy nhiên, chúng tôi cũng lưu ý
nhà đầu tư rằng, nếu xem xét kỹ về cơ cấu mua ròng của khối ngoại, có thể thấy lượng giải ngân
chủ yếu đến từ hai quỹ ETF đầu tư tại Việt Nam là VNM và FTSE. Hai quỹ này hoạt động chủ
yếu tại Mỹ và EU, nơi có chính sách lãi suất ở mức rất thấp, huy động đều đặn qua từng phiên
(phân tích chi tiết dưới đây) khiến cho dòng vốn liên tục chảy vào thị trường chứng khoán Việt
Nam. Trong khi đó, các nhà đầu tư các nhân và tổ chức nước ngoài khác hầu như không có
động thái gì trên thị trường do Q2, thông thường, không phải là giai đoạn hoạt động mạnh của
họ.
Trong Q3, khối ngoại chủ yếu tập trung vào bán ròng với giá trị thấp, thay vì mua ròng mạnh
trong các tháng trước. Hoạt động mua/bán có phần chững lại do Q3 theo thông lệ là quý cơ cấu
lại danh mục. Bên cạnh đó, sự trầm lắng trong các thông tin kinh tế vĩ mô và sự chờ đợi các
quyết sách mới của FED (Mỹ), ECB (Châu Âu) và BOJ (Nhật Bản) khiến cho hành động của
nhà đầu tư không hoàn toàn sôi nổi và dứt khoát như giai đoạn trước. Với lượng mua/bán nhỏ,
tác động đến tâm lý cũng như giá trị của các nhà đầu tư nước ngoài đến tổng thể thị trường Việt
Nam là không đáng kể.
Bước sang Q4, xu hướng bán ròng vẫn là động thái chính của khối ngoại mặc dù thời gian này
các năm trước, họ thường tích cực mua vào mạnh. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trái ngược
trên xuất phát từ việc (1) giá Dầu giảm mạnh kéo theo họ phải cơ cấu danh mục theo hướng bán
ra một cách dứt khoát các mã Dầu khí vốn chiếm tỷ trọng cao trong danh mục dài hạn và mua
vào dần các cổ phiếu đầu ngành khác; (2) Mỹ chấm dứt gói QE3 trong khi nền kinh tế EU và
Nhật Bản rơi vào suy thoái trầm trọng khiến cho dòng vốn ngoại cần có thời gian để định hướng
lại.
Như vậy, trong cả năm 2014, khối ngoại chỉ mua ròng 3.747 tỷ đồng, giảm tới 43,9% so với
cùng kỳ năm ngoái và thấp nhất trong vòng 3 năm trở lại đây.
Nguồn: VCBS tổng hợp
1196
429
1246
1730
1209
-2133
1751
2580
1950
175
-308
-1135 -1208 -943
78
-2,500
-1,500
-500
500
1,500
2,500
Tổng giá trị mua ròng của NĐTNN T10/2013 - T12/2014
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 22
Tương tự các năm trước đó, giao dịch của khối ngoại trong năm 2014 vẫn chủ yếu xoay quanh
các cổ phiếu thuộc nhóm vốn hóa lớn. Điều này được thể hiện rõ qua danh sách 10 cổ phiếu
được mua ròng và bán ròng nhiều nhất trong năm 2013. Tuy nhiên, điểm khác biệt là, phía bán
ròng đã xuất hiện những cái tên quen thuộc được khối ngoại mua vào mạnh trong các năm trước
như KDC, HAG, HPG,… cho thấy mục đích cơ cấu danh mục của họ là khá rõ ràng. Bên cạnh
đó, các cổ phiếu vốn hóa trung bình với yếu tố cơ bản tốt cũng đã được nhà đầu tư nước ngoài
quan tâm hơn với lượng mua ròng ở mức vừa phải. Điều này cho thấy cơ hội dành cho các cổ
phiếu này đã bắt đầu được mở rộng dần ra, và có thể sẽ trở thành tâm điểm của thị trường trong
thời gian tới.
Nguồn: VCBS tổng hợp
Kỳ vọng dòng vốn ngoại sẽ sôi nổi trở lại trong Quý 1 2015
Sau áp lực thoái vốn trong
Quý 4.2015, những tín hiệu
tích cực hơn của các ETF đã
được ghi nhận, báo hiệu chu
kỳ giải ngân mới của khối
ngoại đã bắt đầu.
Xét riêng về hai quỹ ETFs ngoại tiêu biểu đang hoạt động tại thị trường chứng khoán Việt Nam,
Quỹ FTSE Vietnam UCITS ETF (FTSE) và Quỹ Market Vectors Vietnam ETF (VNM), năm
2014 là năm số lượng chứng chỉ quỹ của hai Quỹ này có nhiều biến động.
Trong nửa đầu năm 2014, con số mua ròng ấn tượng của nhà đầu tư nước ngoài vào khoảng thời
gian này có đóng góp đáng kể của các ETF. Bối cảnh mặt bằng lãi suất thấp và nhiều nền kinh
tế lớn trên thế giới duy trì các biện pháp nới lỏng và kích thích kinh tế là điều kiện rất thuận lợi
để các ETF thu hút vốn thông qua phát thành thêm chứng chỉ quỹ (ccq) mới trên thị trường
quốc tế và sau đó giải ngân mạnh trên thị trường Việt Nam.
753
545
466 436 431
399 395 393 391 362
0
100
200
300
400
500
600
700
800
Top 10 cp mua ròng của khối ngoại
-1717
-1089 -939
-722
-487
-249 -225 -199 -151 -149
-2000
-1800
-1600
-1400
-1200
-1000
-800
-600
-400
-200
0
Top 10 cp bán ròng của khối ngoại
150
250
350
450
550
650Tổng giá trị tài sản (triệu USD)
VNM FTSE
5
10
15
20
25
30
10
15
20
25
30
35
Số C
CQ
(tr
iệu
)
NA
V/C
CQ
(U
SD
)
Số CCQ đang lưu hành và
NAV/CCQ
Số CCQ VNM Số CCQ FTSE
VNM FTSE
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 23
Nguồn: VCBS
Tuy nhiên, trong nửa cuối năm, động thái của hai quỹ có phần trái chiều khi VNM chuyển sang
bán ròng mạnh do chịu áp lực thoái vốn từ các nhà đầu tư trong khi FTSE hoạt động cầm chừng
với số chứng chỉ quỹ ít biến động. Cụ thể, chỉ riêng trong 3 tháng cuối năm, VNM đã ghi nhận
sụt giảm 2,45 triệu đơn vị tương đương giá trị bán ròng trên thị trường Việt Nam khoảng hơn
700 tỷ đồng. Trong khi đó, quỹ FTSE ghi nhận mức tăng ccq tương đối khiêm tốn với con số
173 nghìn đơn vị tương đương giá trị mua ròng khoảng 100 tỷ đồng.
Sự khác biệt về diễn biến của hai quỹ là do VNM niêm yết tại thị trường Mỹ trong khi FTSE
chủ yếu giao dịch trên thị trường Châu Âu. Theo đó, trong bối cảnh (1) đồng USD mạnh lên, (2)
nền kinh tế Mỹ cho thấy những dấu hiệu khởi sắc, (3) FED chấm dứt gói QE3 và khả năng nâng
lãi suất vào nửa cuối năm sau, các nhà đầu tư Mỹ cũng cần cân nhắc việc cơ cấu lại danh mục,
giảm bớt tỷ trọng đầu tư bên ngoài và từ đó tạo áp lực bán ròng lên thị trường Việt Nam. Với
những nhà đầu tư Châu Âu, hiệu ứng ngược lại diễn ra khi ECB đang thi hành chính sách nới
lỏng và dự kiến sẽ đẩy mạnh kích thích kinh tế.
Đáng chú ý, bước sang đầu năm 2015, những tín hiệu tích cực hơn từ hai Quỹ ETF kể trên đã
được ghi nhận. Trong đó, tính đến 14/1, quỹ VNM đã huy động thêm 1 triệu ccq, còn FTSE
cũng ghi nhận tăng thêm 247.500 ccq, tương đương tổng giá trị mua ròng trên thị trường trong
chưa đầy 2 tuần đầu năm khoảng 350 tỷ đồng.Động thái từ hai quỹ cũng thường là một trong
những tham chiếu mà các nhà đầu tư nước ngoài khác cân nhắc và xem xét. Theo đó,
chúng tôi cũng đánh giá đây có thể xem như một dấu hiệu về chu kỳ giải ngân mới của
khối ngoại đã bắt đầu.
Dòng vốn ngoại được kỳ vọng sẽ
tiếp tục chảy vào thị trường
chứng khoán Việt Nam trong
năm 2015.
Theo dữ liệu lịch sử, dòng vốn ngoại thường giải ngân khá mạnh từ khoảng giữa Q4 năm trước
để mở đầu cho một chu kỳ đầu tư mới trong năm tiếp theo. Tuy nhiên, năm nay có phần trễ hơn
khi giá Dầu thô thế giới bất ngờ lao dốc và ảnh hưởng đến thời gian cũng như quyết định đầu tư
của họ. Mặc dù vậy, tính đến nay, khối ngoại đã bắt đầu có những động thái đầu tiên để mở đầu
chu kỳ giải ngân sau khi đã hoàn thành việc cơ cấu danh mục dài hạn. Lượng mua ròng dần và
liên tiếp cho thấy Việt Nam vẫn đang là một trong những sự lựa chọn tiềm năng của dòng vốn
ngoại.
Bên cạnh đó, chúng tôi kỳ vọng 2015 sẽ không phải là ngoại lệ so với 5 năm trước đó khi:
(1) Từ phía trong nước: (i) chính trị ổn định; (ii) thiên tai không quá thường xuyên và ảnh hưởng
lớn đến triển vọng kinh tế; (iii) nền kinh duy trì sự ổn định và đang phục hồi đúng hướng; (iv) dự
luật nới room cho công ty chứng khoán và các doanh nghiệp niêm yết, nếu sớm được thông qua,
cũng sẽ tạo ra động lực không nhỏ, góp phần thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài
tại các cổ phiếu hiện đã hết hoặc gần hết room ngoại.
(2) Từ phía thế giới: (i) các nền kinh tế lớn vẫn đang duy trì và đẩy mạnh các biện pháp nới lỏng
kích thích kinh tế như Nhật Bản, Châu Âu, Trung Quốc và có thể cho thấy sự cải thiện tích cực
trong tăng trưởng khi các biện pháp này phát huy hiệu quả sau độ trễ thời gian trước đó; (ii) Mỹ
được kỳ vọng sẽ giữ mặt bằng lãi suất thấp trong 6 tháng đầu năm 2015; (iii) hiệu ứng dòng vốn
rẻ tại các quốc gia có vốn đầu tư vào Việt Nam lớn.
Theo đó, lượng giải ngân của nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2015 sẽ vẫn ở mức tương đối
cao, có sức ảnh hưởng đáng kể đến thị trường chung và tập trung chủ yếu tại các blue-chips đầu
ngành có triển vọng sáng bên cạnh một vài midcap tiềm năng.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 24
Như vậy, các chỉ báo của trong năm 2014 cho thấy nền kinh tế đang duy trì sự ổn định và hồi phục đúng hướng. Đây
là nền tảng căn bản để thị trường đi lên vững vàng trong năm 2014 cũng như trong tương lai. Tuy nhiên, đan xen
trong dó là một vài sự kiện không mong muốn bất ngờ xảy đến như căng thẳng Biển Đông giữa Việt Nam – Trung
Quốc và giá Dầu thế giới lao dốc đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán và tạo ra các
nhịp giảm sâu phá vỡ các ngưỡng tâm lý quan trọng.
Theo đó, thị trường có thể mất nhiều thời gian để hồi phục trong năm 2015 khi nền kinh tế chỉ giữ vững ở mức ổn định
và chưa có nhiều bứt phá với những khó khăn không thể giải quyết trong một sớm một chiều như tăng trưởng tín dụng
thấp, nợ xấu, cầu yếu,…
Ngoài ra, các chính sách và sự kiện quan trọng có sức ảnh hưởng lớn đến sự vận động của thị trường chứng khoán
như hiệp định TPP, FTA, quyết định nới room, Mỹ nâng lãi suất, diễn biến giá Dầu….cũng là một trong các nhân tố
khiến cho thị trường chứng kiến những nhịp dao động mạnh trong năm tới.
Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn kỳ vọng cao vào kịch bản tăng điểm với các nhịp lên xuống mạnh của hai chỉ số. Với sự hỗ
trợ của lực cầu ngoại và hiệu ứng dòng vốn rẻ cũng như dựa trên các nền tảng kể trên, chúng tôi cho rằng thanh
khoản sẽ được duy trì ở mức khá với tâm lý tích cực của đông đảo nhà đầu tư.
Các blue-chips phân hóa cao và nhường vai trò trụ cột của Dầu khí lại cho các blue-chips thuộc ngành khác sẽ là cơ
hội không nhỏ cho các nhà đầu tư trong năm tới. Dựa trên nền tảng này, động lực tăng điểm chính của thị trường có
thể sẽ chuyển từ nhóm cổ phiếu Chứng khoán, Dầu khí sang các cổ phiếu đầu ngành Xây dựng cơ sở hạ tầng, Xuất
khẩu, Hóa chất và Kho vận do tính chất đặc thù và được hưởng lợi từ giá dầu hay các chính sách phát triển kinh tế
của Chính phủ.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 25
TRIỂN VỌNG MỘT SỐ NHÓM NGÀNH CHÍNH
Năm 2014, lĩnh vực sản xuất vẫn đang trong đà phục hồi với sự tăng trưởng ổn định của các ngành Thực phẩm và Dược phẩm. Đặc biệt
một số nhóm ngành xuất khẩu như Dệt May và Thủy Sản đạt được mức tăng trưởng khá tốt.
Về triển vọng năm 2015, chúng tôi cho rằng một số nhóm ngành dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt do hưởng lợi từ giá dầu giảm như
ngành Vận tải biển, hay hưởng lợi từ các hiệp định thương mại quốc tế mà Việt Nam kỳ vọng đàm phán thành công trong năm tới (TPP,
FTA) như ngành Dệt May. Nhóm ngành Bất động sản, Xây dựng công trình và Vật liệu xây dựng đang có những tín hiệu hồi phục tích
cực từ sức cầu cải thiện. Trong khi đó một số ngành mang tính phòng thủ như Thực phẩm, Dược phẩm, Điện, Bảo hiểm vẫn duy trì mức
tăng trưởng ổn định. Ngành Ngân hàng sẽ còn gặp nhiều khó khăn nhưng các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt sẽ có KQKD tiếp tục
cải thiện. Trong khi bảo hiểm nhân thọ tiếp tục tăng trưởng mạnh thì lĩnh vực phi nhân thọ đã bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng trở lại.
Ngành Thủy sản được dự báo sẽ tiếp tục hồi phục nhưng còn nhiều rủi ro trong năm 2015.
Ngành Vận tải biển, Dệt may, BĐS - VLXD - Xây dựng công trình kỳ vọng tăng trưởng tích cực trong năm 2015.
Ngành Vận tải biển sẽ có được kết quả kinh doanh khả quan hơn trong năm 2015 nhờ chi phí nhiên liệu đầu vào giảm và xu hướng
thanh lý đội tàu còn tiếp diễn, đặc biệt là có khả năng được hưởng lợi hơn từ giá cước cải thiện.
Ngoài ra, năm 2015 còn được đánh giá là năm thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của ngành Dệt may. Triển vọng tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu từ việc hưởng lợi về thuế suất từ các hiệp định tự do thương mại cũng như xu hướng dịch chuyển các đơn hàng từ
Trung Quốc sang Việt Nam.
Tín hiệu khả quan đối với nhóm ngành Bất động sản - Xây dựng công trình - VLXD dần xuất hiện trong năm 2014. Ngành Bất động
sảntiếp tục xu hướng ấm lên, nhiều sản phẩm phù hợp với thị trường đã được đón nhận tích cực trong năm 2014 với giá bán cải thiện.
Thị trường BĐS trong năm 2015 sẽ tiếp tục sôi động với sự tham gia chủ động hơn của nhà đầu tư nước ngoàicũng như hoạt động M&A
tại các dự án có vị trí thuận lợi. Bên cạnh đó sự tích cực sẽ không chỉ hiện diện tại phân khúc bình dân và trung cấp mà con lan tỏa sang
phân khúc cao cấp. Ngành Xây dựng công trình nhìn chung đã có những sự chuyển biến tích cực, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ
của lĩnh vực xây dựng hạ tầng. Dự báo trong năm 2015 ngành xây dựng sẽ tăng trưởng cải thiện hơn năm 2014 khi xây dựng hạ tầng
tiếp tục là động lực tăng trưởng chính và xây dựng nhà ở sẽ có sự hồi phục khả quan. Sự tăng trưởng từ ngành BĐS và Xây dựng giúp
cho một số vật liệu xây dựng như thép, xi măng cũng đạt tăng trưởng khá. Ngành Thépđạt mức tăng trưởng khá trong năm 2014 nhưng
sẽ tiếp tục phải đối mặt với khó khăn khi thép nhập khẩu giá rẻ từ Nga và Trung Quốc sẽ xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường trong năm
2015 trong khi nhu cầu tiêu thụ thép nội địa vẫn ở mức thấp. Ngành Xi măng dự báo sẽ hồi phục tốt hơn khi cung cầu đã cân bằng trở
lại nhờ nhu cầu tiêu thụ nội địa cũng như xuất khẩu xi măng gia tăng.
Nhóm ngành phòng thủ bao gồm Thực Phẩm, Dược Phẩm và Điện duy trì tăng trưởng ổn định.
Trong năm 2014, tiêu điểm của Ngành Thực phẩm tập trung vào thương vụ M&A của các tập đoàn lớn. Trong khi phân ngành sữa tăng
trưởng tốt và tín hiệu lạc quan đối với nguồn cung khi nhiều dự án phát triển đàn bò sữa trong nước đang được triển khai thì mía đường
dù chưa thoát khỏi những khó khăn nội tại nhưng phần nào cho thấy tín hiệu chạm đáy. Phân ngành bánh kẹo duy trì tăng trưởng ổn
định, với thị phần chính vẫn thuộc về doanh nghiệp Việt Nam. Trong năm 2015, chúng tôi cho rằng kỳ vọng lạc quan về kinh tế vĩ môvà
tổng cầu cải thiện là nền tảng tốt để ngành thực phẩm duy trì mức tăng ổn định và bền vững.
Cùng tính chất phòng thủ, Ngành Dượccũng giữ vững mức tăng trưởng ổn định. Các DN niêm yết trong ngành vẫn duy trì KQKD khả
quan, hầu hết đều hoàn thành kế hoạch cả năm về doanh thu và lợi nhuận.
Bên cạnh đó, ngành Điện cũng duy trì mức tăng đều đặn, với sản lượng điện thương phẩm tiếp tục tăng trên 10% trong năm 2014. Dự
báo năm 2015 sản lượng sản xuất điện tiếp tục gia tăng, đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ.
Ngành Ngân hàng, Bảo hiểm và Thủy sản có triển vọng nhưng với một số đặc thù riêng.
Khả năng sinh lời của toàn hệ thống Ngân hàngdự báo sẽ được cải thiện trong năm 2015. Diễn biến tín dụng nhiều khả năng tương tự
như năm 2014 với mục tiêu tăng tín dụng 13-15% có cơ sở thực hiện.NIM có khả năng tiếp tục giảm trong ngắn hạn do lãi suất cho vay
trung và dài hạn được điều chỉnh giảm nhẹ, và sẽ ổn định trở lại sau đó. Tỷ lệ nợ xấu có khả năng giảm xuống cùng với sự tăng tốc mua
nợ xấu của VAMC. Xu hướngtái cấu trúc và M&A sẽ tiếp tục gia tăng trong năm 2015.Các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt và thực
hiện trích lập đầy đủ trong quá khứ sẽ kiểm soát được rủi ro chi phí tốt hơn.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 26
Đối với ngành Bảo hiểm, trong khi bảo hiểm nhân thọ tiếp tục tăng trưởng mạnh thì lĩnh vực phi nhân thọ đã bắt đầu lấy lại đà tăng
trưởng 2 con số sau khi đã có xu hướng giảm mạnh trong giai đoạn 2010-2013. Dự báo năm 2015, bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm sức
khỏe y tế sẽ vẫn là nòng cốt về tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ trong khi doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ được kỳ
vọng tăng trưởng tốt.
Ngành thủy sản được kỳ vọng tăng trưởng tốt. Trong năm 2015, ngành cá tra được dự báo sẽ dần cải thiện hơn so với giai đoạn 2012-
2014, mặc dù chưa thể có tăng trưởng mạnh về tổng kim ngạch. Bên cạnh đó, ngành tôm cũng khó tiếp tục ghi nhận tăng trưởng ấn
tượng mà thay vào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ chậm hơn và dần ổn định ở xu thế đi ngang trong dài hạn.
Sau khi đánh giá tổng quan vĩ mô, triển vọng ngành, chúng tôi xem xét các doanh nghiệp trong ngành đang niêm yết và đưa ra các
khuyến nghị đầu tư như sau:
TT Ngành Khuyến nghị đầu tư
1 Ngành Ngân hàng VCB, MBB: Mua
2 Ngành Bảo hiểm PVI, BIC, BVH: Nắm giữ
3 Ngành Bất động sản VIC, HDG, DXG, BCI, NBB, VPH: Mua
4 Ngành Xây dựng công trình CTD, FCN: Mua
5 Ngành Thép HPG: Nắm giữ
6 Ngành Xi măng BCC: Mua
HT1: Nắm giữ
7 Ngành Vận tải biển VOS: Nắm giữ
8 Ngành Điện SHP, NT2: Mua
9 Ngành Dệt may TCM, GMC: Mua
10 Ngành Thực phẩm VNM, HAG: Nắm giữ
MSN, KDC: Theo dõi
11 Ngành Dược phẩm DMC, SPM, TRA: Mua
IMP,DHG: Nắm giữ
12 Ngành Thủy sản VHC, FMC, CMX: Mua
HVG, : Nắm giữ
Ngành Ngân hàng
Diễn biến ngành 2014:
Mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm. Tín
dụng gia tốc trong Q4. Nợ xấu
chưa có nhiều cải thiện, năng lực
xử lý nợ xấu của VAMC bộc lộ
nhiều hạn chế. Các tín hiệu chính
sách tích cực từ NHNN trong quản
trị an toàn hệ thống, xử lý sở hữu
chéo.
Mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm. Trần lãi suất huy động VND được điều chỉnh giảm thêm 50
điểm phần trăm đối với kì hạn dưới 6 tháng, về mức 5,5%/năm kể từ ngày 28/10/2014. Chỉ số
CPI tăng thấp (1,8% yoy cho cả năm 2014) tiếp tục là cơ sở cho lần cắt giảm trần lãi suất thứ hai
trong năm của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Trước đó, vào ngày 17/3/2014, trần lãi suất huy
động VND kỳ hạn 1-6 tháng đã được cắt giảm từ 7%/năm xuống 6%/năm.
Động thái kể trên, theo đánh giá của chúng tôi, đã phản ánh kì vọng thị trường, hợp thức hóa các
diễn biến trước đó khi các NHTM đã cắt giảm mạnh lãi suất đầu vào. Về ý nghĩa điều hành, việc
điều chỉnh giảm một lần nữa cho thấy thông điệp duy trì môi trường lãi suất thấp nhằm khuyến
khích đầu tư tư nhân của NHNN.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 27
Sau khi tăng trưởng với tốc độ chậm trong 9T2014 và chỉ đạt 7,26% ytd vào cuối tháng 9,
tín dụng chứng kiến sự gia tốc lớn trong Q4 với mức tăng lần lượt đạt 8,63% ytd, 10,23% ytd
và 12,6% ytd cho các tháng 10, 11 và 12 (tính đến 22/12). Các biến động của con số tín dụng một
lần nữa cho thấy tính chu kì trong hoạt động ngân hàng cũng như nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Theo quan sát của chúng tôi, động lực cho sự gia tốc này vẫn đến từ các NHTM có yếu tố nhà
nước.
Tín dụng ngoại tệ tiếp tục tăng trưởng vượt trội so với tín dụng nội tệ.Cụ thể, tại thời điểm
23/09/2014, tăng trưởng cho vay bằng ngoại tệ đạt 20,77% ytd trong khi tín dụng VND chỉ tăng
nhẹ 4,77% ytd. Mức lãi suất thấp tương đối của ngoại tệ so với VND, tỷ giá ổn định, cùng với sự
nới lỏng hơn của SBV đối với hoạt động cho vay bằng ngoại tệ được cho là nguyên nhân dẫn tới
sự chênh lệch kể trên.
Thanh khoản hệ thống dồi dào. Chênh lệch huy động trừ tín dụng của toàn hệ thống duy trì ở
mức cao, trung bình đạt 376.699 tỷ đồng so với mức 182.907 tỷ đồng của năm 2013. Hệ số cho
vay/huy động của hệ thống chạm đáy vào tháng 7, ở mức 82,2%, tỷ lệ này đối với các NHTMNN
và NHTMCP lần lượt là 90,7% và 74,7% ở cùng thời điểm. Xu hướng giảm đã chững lại khi hệ
số cho vay/huy động tăng nhẹ lên mức 83,3% vào tháng 10, trong đó khối NHTMCPNN cải thiện
mạnh lên mức 93,4% trong khi khối NHTMCP lại giảm nhẹ về 74,2%. Sự biến động này một lần
nữa chứng minh nhận định của chúng tôi về việc động lực chính của tăng trưởng tín dụng các
tháng gần đây vẫn đến từ các ngân hàng có yếu tố nhà nước.
Trong điều kiện dư thừa thanh khoản, các NHTM tăng cường đầu tư trái phiếu khi mặt
bằng lợi suất tiếp nối đà giảm (trung bình giảm khoảng 220 điểm phần trăm mỗi kì hạn). Theo
báo cáo tổng kết 8T2014 của KBNN, các NHTM nắm giữ khoảng 86% tổng lượng TP phát hành
mới. Báo cáo tài chính của các NHTM tại thời điểm cuối tháng 9/2014 cũng cho thấy sự gia tăng
đáng kể danh mục TPCP đang nắm giữ với mức tăng từ 12%-191% yoy.
Nợ xấu chưa có dấu hiệu cải thiện, nguy cơ tiềm ẩn nằm ở nhóm nợ tái cơ cấu.Theo công bố
của NHNN, tỷ lệ nợ xấu tính đến cuối tháng 9/2014 của toàn hệ thống ở mức 3,88% tổng dư nợ,
giảm nhẹ so với mức 4,11% và 3,9% của 2 tháng liền trước đó. Theo đó, tổng nợ xấu nội bảng
của các NHTM tính đến cùng thời điểm ở mức 144.743 tỷ đồng. Đà giảm của tỷ lệ nợ xấu cùng
pha với sự gia tốc tín dụng và tốc độ mua nợ xấu của VAMC.
Trong khi đó, nếu tính cả phần nợ đã được tái cơ cấu, tỷ lệ nợ xấu sẽ ở mức 8,09% theo tính
toán của NHNN. VCBS ước tính trên các số liệu trên và nhận thấy tỷ lệ nợ xấu trong các khoản
nợ được tái cơ cấu là 50%. Tỷ lệ này giảm nhẹ so với mức 60% của cuối năm 2013, cho thấy đã
có nhiều doanh nghiệp hơn hưởng lợi nhờ hoạt động cơ cấu nợ, phục hồi sản xuất từ đó có khả
năng trả nợ. Tuy nhiên, rủi ro vẫn là rất lớn nếu các khoản nợ tránh được chuyển nhóm nhờ quyết
định 780 đều chưa được trích lập dự phòng. Chấm dứt quyết định 780 sẽ kéo theo sự hình thành
nợ xấu và tạo áp lực trích dự phòng tức thì, làm giảm KQKD của các ngân hàng
VAMC tích cực mua nợ xấu, nhưng năng lực xử lý ở mức thấp do các hạn chế về cơ chế
hoạt động. Tốc độ mua nợ xấu của VAMC cải thiện nhanh từ cuối Q3/2014, nâng tổng số nợ xấu
mua được trong năm 2014 (tính đến 23/12/2014) lên mức 83.063 tỷ đồng. Số nợ mua được trong
8T2014 khá hạn chế trong khi nợ mua của các tháng tiếp theo (khoảng 59.000 tỷ đồng) đóng góp
71% vào kết quả lũy kế từ đầu năm. Tuy nhiên, VAMC mới chỉ xử lý (bao gồm bán thỏa thuận,
đấu giá, thu hồi, phát mại tài sản) được 3,3% tổng số dư nợ đã mua tính đến cùng thời điểm
(123.000 tỷ đồng).
Nợ xấu VAMC đã mua Giá trị (tỷ đồng)
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 28
Tổng số nợ mua trong năm 2014 83.063
Số nợ mua cộng dồn đến 23/12/2014 123.000
Tổng số nợ được xử lý 4.000
Con số xử lý khiêm tốn có thể lý giải bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, chưa có cơ chế đảm bảo chắc chắn quyền định đoạt của VAMC hay ngân hàng
đối với tài sản đảm bảo. Việc thu hồi TSĐB hiện tại vẫn tuân theo quy định tại điều 63 Nghị
định 163/2006/NĐ-CP. Theo đó, việc thu giữ TSĐB phụ thuộc rất nhiều vào thái độ hợp tác của
bên nắm giữ. Nếu sự tự nguyện không diễn ra, bên xử lý TS có thể đem vụ việc ra tòa và phụ
thuộc vào quyết định của tòa án. Theo các ngân hàng, việc xử lý thông qua tòa án thường kéo dài
trung bình 2-4 năm, theo báo cáo “Doing Business”, 2014 của Ngân hàng Thế giới. Điều này dẫn
đến (1) chi phí giao dịch cao, và (2) giá trị TSĐB giảm sút theo thời gian. Theo đó, sức hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư cũng bị ảnh hưởng.
Thứ hai, năng lực tài chính hiện tại của VAMC là hạn chế với mức vốn điều lệ chỉ 500 tỷ
đồng. Điều này khiến việc mua nợ bằng tiền thay vì trái phiếu đặc biệt chỉ được thực hiện ở mức
độ khiêm tốn.
Thứ ba, mức trích lập thấp làm giảm động lực bán nợ theo giá thị trường của ngân hàng. Theo
ước tính của VCBS, tỷ lệ trích lập dự phòng trên giá trị sổ sách của các khoản nợ xấu bán cho
VAMC chỉ đạt 17,9%, do đó nếu bán nợ/tài sản đảm bảo theo giá trị trường, theo ước tính chỉ
tương đương 20-40% giá trị sổ sách, sẽ khiến các TCTD chịu một khoản lỗ đáng kể. Do đó vẫn
tồn tại tâm lý kéo giãn thời gian xử lý nợ, chờ đợi sự hồi phục của thị trường bất động sản. (Chi
tiết xem tại báo cáo ngành ngân hàng 2014 của VCBS).
Thông tư 36 thay thế thông tư 13 quy định chặt chẽ hơn về giới hạn cấp tín dụng và sở hữu
chéo. Các thay đổi ở thông tư 36/2014/TT-NHNN bao gồm 04 nhóm nội dung quan trọng, liên
quan đến (1) giới hạn góp vốn mua cổ phần, (2) chỉ số an toàn hoạt động, (3) giới hạn cấp tín
dụng và (4) giá trị thực của vốn điều lệ. Nhìn chung, các quy định mới đều theo hướng thắt chặt
và bám sát hoạt động của TCTD hơn.
Theo đó, các quy định của Thông tư 36 được cho là sẽ có tác động tích cực đến hoạt động của hệ
thống NHTM trong dài hạn, hướng đến giải quyết sở hữu chéo và cấp tín dụng không kiểm soát
cho người có liên quan. Trong ngắn hạn, các nhóm nội dung liên quan đến giới hạn cho vay trên
tiền gửi, giới hạn cấp tín dụng sẽ ảnh hưởng mạnh đến tình hình hoạt động của các ngân
hàng.(Chi tiết các đánh giá cụ thể về thông tư 36 của VCBS xem tại đây.)
Khả năng sinh lời của toàn hệ thống được cải thiện với ROA và ROE lần lượt đạt 0,51% và
5,49% cuối Q3.2014 so với các mức 0,49% và 5,18% của cùng kì năm 2013.
Triển vọng 2015:
Mặt bằng lãi suất sẽ tiếp tục được
duy trì thấp trên cơ sở lạm phát
thấp. Áp lực tăng nhẹ lãi suất trong
nửa cuối năm 2015 do diễn biến
lạm phát và yếu tố tỷ giá. NIM có
khả năng tiếp tục giảm trong ngắn
hạn và sẽ ổn định trở lại sau
đó.Mục tiêu tín dụng tăng trưởng
13-15% cho năm 2015 có cơ sở
thực hiện, diễn biến tăng trưởng
Với mức trần lãi suất 5,5% hiện tại, NHNN hoàn toàn có dư địa để điều chỉnh giảm thêm 50-100
điểm phần trăm trên cơ sở lạm phát năm 2015 dự báo tiếp tục ở ngưỡng thấp, chỉ tiêu định hướng
5% và VCBS dự báo 3,7%. Thực tế cho thấy, biểu lãi suất các kì hạn ngắn của một số ngân hàng
đang được duy trì trong ngưỡng 4,5%-5% cho các kì hạn từ 1-3 tháng. Theo đó, việc giảm trần lãi
suất nếu có cũng không mang nhiều ý nghĩa về mặt điều hành, mà sẽ thiên về việc hợp lý hóa các
diễn biến của thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên, lãi suất có áp lực tăng nhẹ trở lại trong nửa cuối năm 2015 dựa trên các yếu tố
lạm phát và tỷ giá.
Về lãi suất cho vay, từ cuối tháng 12/2014, lãi suất huy động kì hạn dài được điều chỉnh giảm, là
dấu hiệu của việc giảm nhẹ lãi suất cho vay trung và dài hạn. Do đặc trưng trong hoạt động của
ngân hàng thương mại, (điều chỉnh lãi suất cho vay sẽ ảnh hưởng ngay đối với NIM trong khi ảnh
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 29
nhiều khả năng sẽ tương tự năm
2014.
hưởng của thay đổi lãi suất đầu vào sẽ có độ trễ) NIM vẫn còn áp lực giảm nhẹ trong ngắn hạn, ít
nhất đến hết nửa đầu năm 2015, sau đó sẽ ổn định hơn.
Mục tiêu tăng tín dụng 13-15% có cơ sở thực hiện. Diễn biến tín dụng nhiều khả năng
tương tự như năm 2014. Trên kì vọng tăng trưởng GDP được cải thiện, các tỷ lệ nợ xấu và lãi
suất huy động được kiểm soát tốt, chúng tôi cho rằng việc đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao
hơn cho năm 2015 là có thể hiểu được.
Về diễn biến tăng trưởng tín dụng, chúng tôi tin vào một kịch bản tương tự các năm trước đó dựa
trên tính mùa vụ. Theo đó, tín dụng sẽ tăng thấp, thậm chí tăng trưởng âm vào thời điểm nửa đầu
năm, sau đó sẽ gia tốc trở lại và tăng mạnh vào các tháng cuối năm. Tín dụng nhiều khả năng vẫn
tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên theo định hướng của NHNN và đặc biệt mở rộng đối với khối
các doanh nghiệp xuất khẩu và lĩnh vực xây dựng cơ bản, khối ngành được kì vọng sẽ tiếp tục dẫn
dắt tăng trưởng kinh tế trong năm tới đây. Do động lực tăng trưởng kinh tế vẫn đến từ khối doanh
nghiệp xuất khẩu và các công nghiệp phụ trợ kèm theo sử dụng nhiều đầu vào nhập khẩu, cùng
với nhu cầu từ nhập khẩu xăng dầu, nhu cầu tín dụng USD nhiều khả năng sẽ vẫn ở mức cao. Tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng NHNN và các ngân hàng thương mại sẽ có cách tiếp cận thận trọng hơn
trên cơ sở xem xét các yếu tố thanh khoản và khả năng tăng tỷ giá.
Khi tín dụng nhiều khả năng tăng trưởng âm do yếu tố mùa vụ, ít nhất trong Q1/2015, thanh
khoản dồi dào và CPI dự kiến tăng thấp sẽ thúc đẩy các ngân hàng quay trở lại mạnh mẽ trên thị
trường trái phiếu. Thêm nữa, các diễn biến của CPI trong Q1 khiến khả năng giảm thêm của lợi
suất là hoàn toàn có thể, giúp kênh đầu tư trái phiếu tiếp tục duy trì sức hấp dẫn.
VAMC sẽ mua nợ theo giá thị trường; nghị định 53 được kì vọng sẽ sửa đổi, tăng cường
năng lực xử lý nợ cho VAMC. Chúng tôi nhận thấy các đề nghị thay đổi đều hướng tới (1) tăng
năng lực tài chính cho VAMC để tiến hành mua nợ theo giá thị trường, (2) tăng khả năng tự quyết
của VAMC khi xử lý tài sản đảm bảo, để đẩy nhanh tốc độ xử lý, và (3) giãn áp lực trích lập dự
phòng TPĐB trong một số trường hợp khi thực tế cho thấy mức trích lập 20% vượt quá khả năng
đáp ứng của một số ngân hàng nhỏ đang tái cơ cấu. Tuy nhiên, chúng tôi chưa đặt cược vào một
sự thay đổi đột phá và cho rằng hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu sẽ cần nhiều
thời gian hơn dự kiến.
Tỷ lệ nợ xấu có khả năng giảm xuống cùng với sự tăng tốc mua nợ xấu của VAMC. NHNN
cho rằng tỷ lệ nợ xấu có thể giảm về mức 3% vào cuối năm 2015 dù có nhiều lo ngại về việc áp
dụng thông tư 02 dưới dạng đầy đủ sẽ tạo ra xu thế ngược lại. Về mặt kỹ thuật, chúng tôi cho rằng
điều này là có thể thực hiện được nếu như tất cả ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 3% sẽ bán nợ cho
VAMC theo như bắt buộc để duy trì tỷ lệ này ngang bằng hoặc dưới ngưỡng 3%. Tuy nhiên như
đã chỉ ra ở các báo cáo trước, bán nợ cho VAMC chỉ là bước tạm thời đưa khối tài sản có vấn đề
của các ngân hàng sang VAMC. Triển vọng xử lý nợ xấu sẽ phụ thuộc nhiều vào năng lực quản
trị của mỗi ngân hàng và tốc độ hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc xử lý nợ của VAMC.
Các điều kiện thị trường và định hướng chính sách sẽ thúc đẩy hoạt động M&A. Chúng tôi
nhận thấy một số điều kiện thúc đẩy hoạt động M&A ngân hàng đang được đẩy cao trong điều
kiện hiện tại bao gồm: (1) nhóm ngân hàng yếu kém đã bộc lộ rõ trong quá trình tái cơ cấu và xử
lý nợ xấu vừa qua, với những ngân hàng không thể tự tái cơ cấu, sáp nhập với ngân hàng khác là
lựa chọn khả dĩ để tồn tại khi điều kiện kinh doanh khó khăn hơn. (2) Trong khi đó, các ngân
hàng lớn với sức cạnh tranh được kiểm chứng đang tận dụng cơ hội để mở rộng về quy mô. Với
đặc thù kinh doanh ngân hàng và sự khống chế của NHNN đối với việc mở mới chi nhánh, M&A
với một ngân hàng khác là cách nhanh nhất để mở rộng thị phần và tăng độ thâm nhập. (3) Ngoài
ra, định hướng chính sách rõ ràng hơn của NHNN hướng tới thu gọn hệ thống sẽ làm xuất hiện
nhiều thương vụ sáp nhập theo chỉ định, và có thể một lần nữa, các ngân hàng lớn do NN chi phối
sẽ đứng ra mua lại để tái cơ cấu các ngân hàng nhỏ hơn.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 30
VCB và MBB tiếp tục là các cổ
phiếu yêu thích của chúng tôi.
Trong điều kiện NIM có xu hướng ổn định, yếu tố trích lập dự phòng cho nợ xấu và cho TPĐB
của VAMCsẽ là thách thức lớn nhất đối với triển vọng lợi nhuận của các ngân hàng. Các ngân
hàng có chất lượng tài sản tốt và thực hiện trích lập đầy đủ trong quá khứ sẽ kiểm soát được rủi ro
chi phí tốt hơn. Theo tiêu chí này, VCB và MBB tiếp tục là các cổ phiếu yêu thích của chúng tôi.
VCB duy trì được sự ổn định hoạt động, tích cực mở rộng cho vay song song với quản trị tốt chất
lượng tài sản. MBB tiếp tục dẫn đầu về khả năng sinh lời, ngân hàng cũng có chính sách quản trị
rủi ro thận trọng. Ngoài ra, ACB cũng là một cổ phiếu đáng chú ý với những cải thiện đạt được
gần đây.
Nguồn: NHNN, VCBS
Ngành Bảo hiểm
Diễn biến ngành2014:
Bảo hiểm phi nhân thọ đã bắt đầu
lấy lại đà tăng trưởng.
Bảo hiểm phi nhân thọ:
Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ gốc giai đoạn 2007-2014
Nguồn: VCBS tổng hợp
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đã bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng trong năm 2014. Theo
số liệu từ Cục Quản lý & Giám sát bảo hiểm, doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn thị trường trong
9T2014 đạt 20.218 tỷ đồng (+10,9% yoy) và cả năm 2014 ước đạt 25.250 tỷ đồng (+10,5% yoy).
Như vậy, sau khi đã có xu hướng giảm mạnh trong giai đoạn 2010-2013, doanh thu phí bảo hiểm
gốc đã bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng 2 con số trong năm nay
Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn ngành vẫn là các dòng sản
phẩm với giá trị được bảo hiểm nhỏ, cụ thể là: bảo hiểm xe cơ giới (27,4%), bảo hiểm tài sản
-400000
-200000
0
200000
400000
600000
800000
1000000
04
/12
07
/12
10
/12
01
/13
04
/13
07
/13
10
/13
01
/14
04
/14
07
/14
10
/14
Chênh lệch huy động và tín dụng
(HĐ-TD, tỷ đồng)
0%
10%
20%
30%
40%
50%
Tăng trưởng HĐ, TD yoy
Tăng tín dụng (y/y)
Tăng trưởng huy động (y/y)
30%
25% 25%
18%
10%
07%
11%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ gốc (tỷ đồng) Tăng trưởng (yoy)
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 31
&thiệt hại (22,4%) và bảo hiểm sức khỏe (20,6%). Về tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm
gốc trong 9T2014, dẫn đầu vẫn đang là bảo hiểm cháy nổ (+23% yoy), bảo hiểm sức khỏe
(+18,3% yoy) và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển (+15,3% yoy), các nhóm sản phẩm khác tăng
trưởng khoảng 5-10% so với cùng kỳ 2013. Nguyên nhân cũng đã được chúng tôi đề cập đến
trong các báo cáo triển vọng ngành giai đoạn trước, cụ thể:
1. Doanh thu phí bảo hiểm cháy nổ tăng trưởng mạnh trong năm nay phần lớn là do tác động
của Thông tư liên tịch 214/2013/TTLN-BTC-BCA. Tuy nhiên, chúng tôi đã dự báo rằng xu
hướng tăng trưởng này chỉ kéo dài trong ngắn hạn và trên thực tế, tăng trưởng phí đã bắt đầu
chậm lại trong Q3.2014 này (+13,7% yoy).
2. Bảo hiểm sức khỏe y tế tiếp tục tăng trưởng mạnh do sự cải thiện nhận thức của người dân về
lợi ích mà bảo hiểm đem lại trong bối cảnh chi phí khám chữa bệnh có xu hướng ngày càng
tăng lên trong tương lai.
3. Tăng trưởng của bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bắt nguồn từ sự hồi phục đang dần rõ nét
của nền kinh tế, đặc biệt là kim ngạch xuất nhập khẩu khả quan trong năm nay (+12,9% yoy).
Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
Các kênh bán bảo hiểm phi truyền
thống đang được triển khai mạnh
mẽ.
Các kênh bán bảo hiểm phi truyền thống đang được triển khai mạnh mẽ. Bên cạnh cải tiến
phương thức bán hàng truyền thống, các doanh nghiệp bảo hiểm có xu hướng phát triển các kênh
bán hàng khác để mở rộng thị phần và thúc đẩy doanh thu. Trong đó:
- Bán bảo hiểm thông qua ngân hàng (bancassurance). Bancassurance được đẩy mạnh kể từ
năm 2013 trong nỗ lực đa dạng hóa nguồn thu của ngân hàng và đa dạng hóa các kênh phân phối
của các công ty bảo hiểm.
Với các công ty bảo hiểm, cơ sở khách hàng của ngân hàng là thị trường đầy tiềm năng,
đồng thời giúp tiết giảm chi phí bán hàng và chi phí đầu tư mở rộng mạng lưới chi
nhánh.
Hiện đã có 8 ngân hàng hợp tác phân phối các sản phẩm bảo hiểm với PTI, trong đó có
LienViet Post Bank, VIB, VPB, TCB,…; PGI hiện cũng đang hợp tác phân phối bảo
hiểm với ba ngân hàng là HD Bank, ACB và TienPhong Bank; MIC, VBI, BSH cũng
đưa ra các bộ sản phẩm chuyên biệt cho kênh bancassurance để đẩy mạnh hợp tác với
ngân hàng mẹ.
Chúng tôi nhận thấy tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm phân phối qua kênh bancassurance
đã tăng lên ở nhiều doanh nghiệp, chiếm 5-10% tổng doanh thu năm 2014 so với mức
phổ biến dưới 3% của năm 2013.
- Bán bảo hiểm trực tuyến: Đây là hình thứcbán hàng ứng dụng tiện ích thương mại điện tử,
trong đó phí bảo hiểm phải trả sẽ được tính tự động dựa trên các điều kiện định sẵn. Kênh này
PVI
21%
BHBV
23%
BMI
10%
PGI
8% PTI
6%
BIC
3%
Khác
29%
Thị phần bảo hiểm phi nhân thọ theo
doanh thu phí bảo hiểm gốc 2013
PVI
23%
BHBV
21%
BMI
10%
PGI
7% PTI
6%
BIC
4%
Khác
29%
Thị phần bảo hiểm phi nhân thọ theo
doanh thu phí bảo hiểm gốc 9T.2014
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 32
đang dần trở nên phổ biến với sự hỗ trợ của các điều kiện sau đây:
Xu hướng tiêu dùng đang dần “thân thiện” hơn với các sản phẩm thương mại điện tử. Các
hình thức khuyến mại áp dụng đối với khách hàng mua bảo hiểm trực tuyến làm tăng tính
hấp dẫncủa hình thức này.
Hầu hết các công ty bảo hiểm hiện đang trong quá trình triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu
khách hàng tập trung về hội sở chính (dự kiến hoành thành năm 2015-2016), tạo tiền đề cho
việc định phí bảo hiểm tự động.
Hiện tại chỉ có 7/29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có kênh bán hàng này (BHBV,
Liberty Việt Nam, MIC, BIC, VASS và PVI). Chúng tôi kỳ vọng sẽ có thêm các công ty
khác triển khai kênh giao dịch này trong năm 2015 để bổ trợ cho các kênh bán hàng truyền
thống.
Bảo hiểm nhân thọ: Tăng
trưởngmạnh.
Bảo hiểm nhân thọ:
Bảo hiểm nhân thọ tăng trưởng mạnh. Tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc 9T2014 đạt 19.449 tỉ
đồng (+25,8% yoy), tổng số hợp đồng đang có hiệu lực (theo hợp đồng chính) là 5.501.393 hợp
đồng (+10% yoy). Như chúng tôi đã từng đề cập trong các báo cáo trước, việc lãi suất tiết kiệm
liên tục được điều chỉnh giảm trong năm 2014 đã làm tăng tính hấp dẫn cho bảo hiểm nhân thọ,
đặc biệt là nhóm Bảo hiểm hỗn hợp và Bảo hiểm liên kết đầu tư. Trong cơ cấu doanh thu phí theo
nhóm sản phẩm, tỷ trọng của hai nhóm sản phẩm này lần lượt là 47,7% và 46,7%.
Cơ cấu thị phần: Bảo Việt Nhân Thọ (BVNT), Prudential và Manulife vẫn dẫn đầu thị trường.
Tuy nhiên, đáng chú ý là BVNT đã vượt lên Prudential về doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới
trong 9T2014.
Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm
đang niêm yết đều có KQKD khả
quan so với cùng kỳ 2013.
Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đang niêm yết đều có kết quả kinh doanh khả quan so
với cùng kỳ 2013.
Mã LNTT 6T2014
(tỷ đồng) % thay đổi yoy % hoàn thành kế hoạch lợi nhuận 2014
ABI 50,9 +9,0% 40,7%
BIC 67,2 +25,6% 51,7%
BMI 67,2 +28,2% 34,3%
BVH 816,9 +11,2% 51,9%
Prudential
32%
BVNT
29%
Manulife
12%
Dai-ichi
Life
9%
AIA
8%
ACE Life
5%
Khác
5%
Thị phần bảo hiểm nhân thọ theo
doanh thu phí bảo hiểm gốc 9T.2014
Prudential
42%
BVNT
24% Manulife
12%
AIA
11%
Dai-ichi
Life
11%
ACE Life
6% Khác
12%
Thị phần bảo hiểm nhân thọ khai thác
mới (theo doanh thu phí) 9T.2014
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 33
PGI 52,6 +175,3% 52,1%
PTI 50,5 +49,4% 69,2%
PVI 152,2 -32,8% 40,5%
VNR 248,9 +8,7% 55,9%
Về PVI, kết quả LNTT 9T2014 của công ty giảm so với cùng kỳ chủ yếu là bởi (1) chi phí bồi
thường ròng tăng mạnh so với cùng kỳ 2013, nhiều khả năng là đến từ sự kiện công nhân bạo
động tại các khu công nghiệp Nghệ An, Hà Tĩnh, Đồng Nai và Bình Dương vào giữa tháng 5
(tăng thêm 221,7 tỷ, tương đương +34%); (2) chi phí trích lập dự phòng bồi thường trong
kỳlà117,6 tỷ (trong khi cùng kỳ năm 2013, công ty được hoàn nhập dự phòng 74,7 tỷ). Rủi ro bạo
động & nổi loạn luôn được đánh giá là rất thấp tại Việt Nam nên thường sẽ thuộc điều khoản mở
rộng trong hợp đồng bảo hiểm và được cung cấp cho khách hàng dưới dạng giá trị gia tăng với
mức phí rất thấp (hoặc thậm chí miễn phí) so với hạn mức được bồi thường, cũng như ít được tái
bảo hiểm. Do đó, KQKD 9T2014 của PVI có sự suy giảm đáng kể cũng là điều dễ hiểu, đặc biệt
là khi PVI là nhà bảo hiểm chính cho dự án Formosa Hà Tĩnh. Tuy nhiên, theo nghị quyết của
Hội đồng quản trị ngày 19/12/2014, LNTT cả năm dự kiến sẽ vượt khoảng 1% so với kế hoạch.
Triển vọng ngành 2015
Bảo hiểm phi nhân thọ: Bảo hiểm
xe cơ giới và bảo hiểm sức khỏe y
tế sẽ vẫn là nòng cốt về tăng trưởng
doanh thu phí.
Chúng tôi khuyến nghị NẮM GIỮ
với PVI và BIC.
Bảo hiểm phi nhân thọ:
Bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm sức khỏe y tế sẽ vẫn là nòng cốt cho sự tăng trưởng doanh
thu phí. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế phát đi những tín hiệu phục hồi tích cực và ngày
càng rõ nét, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm từ các nhóm sản phẩm liên quan đến các
tài sản có giá trị lớn nhiều khả năng sẽ được cải thiện, vươn lên mức 10-15%. Theo dự báo của
Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, doanh thu phí bảo hiểm gốc sẽ tăng 12% trong năm 2015.
Trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ niêm yết, chúng tôi khuyến nghị NẮM GIỮ với
PVI và BIC dựa trên tiềm năng tăng trưởng trung-dài hạn của hai doanh nghiệp này:
Mặc dù chi phí bồi thường tăng đột biến là một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến KQKD
trong năm 2014, PVI hiện vẫn đang chiếm thị phần bảo hiểm phi nhân thọ dẫn đầu thị
trường với ưu thế về các hợp đồng lớn, đặc thù đến từ Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
(Petro Vietnam). Ngoài ra, mảng bảo hiểm nhân thọ của PVI tuy chỉ mới triển khai từ
năm 2013 nhưng cơ sở khách hàng lớn với mức thu nhập cao trong hệ thống của Petro
Vietnam là nhân tố giúp đảm bảo tốc độ tăng trưởng doanh thu phí tốt trong trung hạn.
BIC dù có thị phần nhỏ trong ngành bảo hiểm phi nhân thọ nhưng vẫn luôn giữ được
mức sinh lời ổn định trong giai đoạn 2011-2013 (ROE luôn trong khoảng 11-12%),
đồng thời có tiềm năng tăng trưởng lớn từ cơ sở khách hàng của ngân hàng BIDV và
liên doanh bảo hiểm tại Lào và Campuchia, cũng như có thể sẽ có đối tác chiến lược là
một công ty bảo hiểm nước ngoài trong năm 2015.
Bảo hiểm nhân thọ: Doanh thu phí
bảo hiểm nhân thọ được kỳ vọng
tăng trưởng tốt với tốc độ ~20%
trong năm 2015.
Bảo hiểm nhân thọ:
Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ được kỳ vọng tiếp tục tăng trưởng tốt với tốc độ ~20%
yoy trong năm 2015. Nhận định của chúng tôi được đưa ra dựa trên cơ sở: (1) thị trường bảo
hiểm nhân thọ Việt Nam được đánh giá là còn nhiều tiềm năng phát triển khi tỉ lệ người tham gia
bảo hiểm nhân thọ mới chỉ chiếm khoảng 6% dân số; (2) NHNN đã phát đi tín hiệu rằng lãi suất
có thể sẽ tăng nhẹ trong năm 2015 (nhiều khả năng sẽ vào nửa cuối năm), tuy nhiên vẫn có định
hướng duy trì lãi suất tiền gửi thấp nhằm tạo điều kiện giảm lãi suất đầu ra để kích thích tín dụng,
nhất là trong bối cảnh lạm phát ở mức thấp; và (3) bảo hiểm hưu trí tự nguyện sẽ dần trở nên phổ
biến hơn trong tương lai.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 34
Về bảo hiểm hưu trí tự nguyện, đây được cho là một giải pháp mang tính thị trường cho vấn đề
quá tải quỹ BHXH.Chúng tôi cho rằng thị trường bảo hiểm hưu trí tự nguyện tại Việt Nam
có rất nhiều tiềm năng phát triển khi (1) số người tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện tại Việt
Nam trong năm 2014 mới chỉ khoảng 10.000 người, trong khi số lao động tại khu vực thành thị là
hơn 16 triệu (số liệu từ Tổng Cục thống kê); (2) tổng doanh thu phí bảo hiểm hưu trí tự nguyện
trong năm 2014 là khoảng 160 tỷ đồng trong khi chúng tôi ước tính giá trị của thị trường bảo
hiểm hưu trí tự nguyện Việt Nam năm 2014 vào khoảng 2.600-3000 tỷ đồng (dựa trên một số dữ
liệu từ Tổng Cục thống kê); (3) Việt Nam đang ở cơ cấu “dân số vàng”, do đó lực lượng lao động
và thu nhập bình quân của người lao động đều được dự báo sẽ tăng trưởng tốt trong tương lai.
Tuy nhiên, như chúng tôi cũng đã từng đề cập, sẽ cần có thời gian để thị trường làm quen và tiếp
nhận dòng sản phẩm này, đặc biệt là khi các chính sách ưu đãi về thuế cho người tham gia bảo
hiểm hưu trí tự nguyện hiện vẫn chưa thực sự hấp dẫn.
Chúng tôi khuyến nghị NẮM GIỮ
với BVH cho mục tiêu đầu tư dài
hạn.
Trong số các doanh nghiệp đang niêm yết có kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đáng chú ý nhất chỉ
có BVH (thông qua công ty con là BVNT). BVNT hiện đang có thị phần lớn đứng thứ hai toàn
ngành, nhưng đã vươn lên dẫn đầu về phí khai thác mới trong 9T2014. Ngoài ra, mặc dù mảng
bảo hiểm phi nhân thọ đang trong quá trình tái cơ cấu, BHBV cũng sẽ được hưởng lợi từ sự phục
hồi của nền kinh tế, và quy mô vốn lớn vẫn giúp BHBV có lợi thế đáng kể so với các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ khác khi đấu thầu các hợp đồng đặc thù có giá trị lớn như bảo hiểm
hàng không. Do đó, chúng tôikhuyến nghị NẮM GIỮ với BVH cho mục tiêu đầu tư dài hạn.
Ngành Bất động sản
Diễn biến ngành 2014:
Sản phẩm phù hợp với thị trường
được đón nhận tích cực; giá bán
cải thiện với các dự án tốt; hoạt
động M&A sôi động tại các dự án
có vị trí thuận lợi; hành lang pháp
lý dần hoàn thiện.
Năm 2014, thị trường BĐS phân hóa với 2 xu hướng chủ đạo cho các doanh nghiệp trong ngành:
(1) tái cơ cấu về nguồn vốn tài trợ cho HĐKD đồng thời định hình phân khúc sản phẩm hay
mảng hoạt động công ty có thế mạnh; (2) củng cố và tạo nền tảng tăng trưởng cho tương lai
thông qua hoạt động M&A các dự án đang gặp khó khăn về tài chính hay hợp tác với các công ty
có quỹ đất lớn. Thị trường có những tín hiệu khả quan so với năm 2013:
- Số lượng giao dịch thành công tăng cao. Trong năm 2014, theo thống kê của Savills số lượng
căn hộ giao dịch thành công tại Tp. Hồ Chí Minh đạt hơn 8.850 căn (tăng 135% so với cùng kỳ
năm 2013); tại Hà Nội tình hình giao dịch cũng không kém phần sôi động với trên 10.600 căn,
tăng xấp xỉ 60% so với năm 2013 (Nguồn: CBRE). Phân khúc bình dân và trung cấp vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong giao dịch thành công.
Nguồn: CBRE, Savills.
-
1,000
2,000
3,000
4,000
Q1 Q2 Q3 Q4
Số lượng căn hộ bán theo quý trong
năm 2014
HCM Hà Nội
Đơ
n v
ị: c
ăn
hộ
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 35
Giá bán tại khu vực Tp. HCM có sự cải thiện nhẹ. Thị trường sơ cấp và thứ cấp lần lượt chứng
kiến sự tăng giá 0,9% và 2,5% so với cùng kỳ năm trước (tính đến Q3.2014, JLL), trong đó tại
khu vực đang phát triển mạnh về hạ tầng, giá bán các dự án được điều chỉnh tăng 3-5% sau mỗi
lần mở bán. Tại Hà Nội, giá cả trên thị trường sơ cấp có xu hướng ổn định; sự tăng giá chỉ
xuất hiện tại một số dự án trung cấp và bình dân thuộc khu vực nội đô có vị trí thuận lợi và các
tiện ích đi kèm, giá tăng khoảng 5% trong các đợt mở bán mới (Nguồn: CBRE).
Tổng giá trị hàng tồn kho giảm mạnh: theo số liệu của Bộ Xây dựng, tính đến 20/11/2014, tổng
giá trị hàng tồn kho đạt 77.811 tỷ đồng, giảm 16.647 tỷ đồng so với cuối năm 2013 (-17,6% ytd).
Trong đó, Tp. HCM giảm 2.558 tỷ đồng (-14,6% ytd), Hà Nội giảm 3.284 tỷ đồng (-25,3% ytd).
Sự sụt giảm trên xuất phát từ sự chủ động của chủ đầu tư trong việc thay đổi diện tích, giảm giá
bán giúp sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng hơn. Trước 2012, diện tích phổ biến
của phân khúc trung cấp và bình dân từ 50-250m2 tuy nhiên sau 2012 thì giảm xuống từ 48-
150m2.
Số căn hộ tồn kho theo phân khúc tại HCM
Nguồn: Q3.2014, CBRE
Số căn hộ tồn kho theo phân khúc tại HN
Nguồn: Q3.2014, CBRE
Hạ tầng tạo động lực tăng trưởng cho BĐS. Trong năm 2014, các dự án BĐS tại các khu vực
đang phát triển mạnh về hạ tầng (tuyến metro số 1, đường vành đai Phạm Văn Đồng, cao tốc Cát
Lái – Long Thành, khu đô thị Thủ Thiêm) đã được thị trường đón nhận tích cực. Các dự án thuộc
phân khúc khác nhau (bình dân như Sunview town; cao cấp như Masteri Thảo Điền và Lexington
residence; đất nền như Phước Long Springtown) có tỷ lệ bán hàng cao 70- 80% trong các đợt mở
bán.
Tái cơ cấu nguồn vốn tài trợ HĐKD và các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính thực hiện
M&A. Các doanh nghiệp gia tăng sử dụng nguồn vốn từ các cổ đông tài trợ HĐKD trong năm
2014 nhằm giảm áp lực về tài chính (tính đến Q3.2014, vốn góp từ các cổ đông tăng 21,1% so với
cuối năm 2013 trong khi nợ vay chỉ tăng 9,6%; tỷ lệ Nợ vay/VCSH giảm từ 0,92 xuống còn 0,89
lần.
Hoạt động M&A sôi nổi trong năm 2014: các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính thực hiện mua
lại dự án mà chủ đầu tư đang gặp khó khăn hoặc muốn thoái khỏi hoạt động ngoài ngành. Các
chủ đầu tư tích cực M&A trong năm qua như Novaland (Lexington, Icon 56, Galaxy…), FLC
group (Alaska garden, Lavender, 36 Phạm Hùng...), Vingroup (CTCP BĐS Hồng Ngân,
Starbowl, Vinatex…), Hưng Thịnh (Thiên Nam, 12view, Thới An…), Đất Xanh (Riverside,
Green city, CT15…).
Dư nợ cho vay BĐS tăng nhanh. Thói quen mua nhà thay đổi mạnh mẽ khi có trên 40% số
lượng người mua nhà sử dụng nguồn vốn vay từ các ngân hàng do tỷ lệ cho vay cao (70% giá trị
căn hộ) và lãi suất giảm (từ trên 14%/năm cùng kỳ năm 2013 xuống còn khoảng 8%/năm). Theo
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 36
NHNN thì tính đến tháng 11.2014 dư nợ cho vay đối với lĩnh vực đầu tư, kinh doanh BĐS đạt
trên 292 nghìntỷ đồng (tăng 11,5% ytd, tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung
10,22% ytd). Gói tín dụng 30 nghìn tỷ đồng được đẩy nhanh tiến độ cho vay với số vốn cam
kết đến tháng 10.2014 là 8.342 tỷ đồng, số tiền đã giải ngân trên 3.804 tỷ đồng trong đó đã giải
ngân gần 2.500 tỷ đồng cho khách hàng cá nhân.
Chính sách mang tính hỗ trợ thị trường BĐS được ban hành. Luật nhà ở và Luật kinh doanh
BĐS được Quốc hội thông qua vào tháng 11/2014 có hiệu lực vào tháng 7/2015 sẽ giúp thị
trường BĐS hoạt động minh bạch, hướng đến lợi ích của người mua nhà. Việc mở cửa cho người
nước ngoài sở hữu nhà (căn hộ, biệt thự, liền kề) sẽ gia tăng nguồn cầu và giải quyết hàng tồn kho
của các dự án thuộc phân khúc cao cấp, nghỉ dưỡng. Bên cạnh đó, với việc phải có bảo lãnh của
tổ chức tài chính khi kinh doanh BĐS hình thành trong tương lai và người mua nhà chỉ thanh toán
không quá 70% giá trị hợp đồng sẽ giảm rủi ro dự án trễ tiến độ hay dòng tiền từ dự án không
được sử dụng đúng mục đích.
Cập nhật KQKD 9T2014
KQKD của các DN đến từ hoạt
động kinh doanh cốt lõi, DTTC
giảm mạnh, các loại chi phí được
quản lý hiệu quả hơn.
KQKD của các DN BĐS niêm yết trên sàn cải thiện đáng kể trong 9T2014 với DTT và LN
HĐKD của các DN tăng lần lượt 20% và 48% so với 9T2013. LNST giảm 3,8% yoy do sự
sụt giảm của DT tài chính.
KQKD thể hiện những điểm tích cực so với cùng kỳ năm 2013: (1) LN đến từ HĐKD cốt lõi hơn
là xuất phát từ các hoạt động tài chính như chuyển nhượng dự án hay cổ phần với LN HĐKD
tăng 48% yoy trong khi DTTC giảm 51% yoy; (2) Các loại chi phí được quản lý hiệu quả hơn, chi
phí bán hàng & quản lý doanh nghiệp chiếm 8,7% DTT; (3) Gia tăng sử dụng nguồn vốn chủ sở
hữu để tài trợ HĐKD nhằm giảm thiểu rủi ro trong giai đoạn thị trường vẫn còn nhiều khó khăn,
Vốn góp từ cổ đông tăng 21,1% yoy so với Tổng nợ vay tăng 9,6% yoy.
Một số DN có LNST tăng trưởng cao so với cùng kỳ: FLC (tăng 3,87 lần yoy), ITA (tăng 6,26
lần yoy), KDH (từ -139 tỷ đồng, tăng lên 71 tỷ đồng), KBC (từ -128 tỷ đồng , tăng lên 165 tỷ
đồng), LGL (từ -47 tỷ đồng , tăng lên 18 tỷ đồng), NBB (tăng 2,66 lần yoy), PDR (tăng 4,82 lần
yoy), PPI (từ -7 tỷ đồng, tăng lên 27 tỷ đồng), SCR (từ -7 tỷ đồng, tăng lên 18 tỷ đồng), TDH
(tăng 2,02 lần yoy). KQKD 9T2014 của các DN tăng trưởng mạnh so với 9T2013 đến từ các
nguồn khác nhau: hoạt động kinh doanh BĐS (ITA, KBC, LGL, NBB, PDR, PPI), các công ty
liên kết hay hoạt động tài chính (FLC, KDH, SCR, TDH).
Triển vọng 2015:
Các sản phẩm phù hợp với nhu cầu
thị trường, cơ sở hạ tầng đang phát
triển, tiện ích hoàn thiện sẽ được
hấp thụ tốt. Nhà đầu tư nước ngoài
tạo thêm nguồn cầu và dòng vốn
đầu tư vào thị trường. Thị trường
hoạt động lành mạnh, minh bạch
hơn với các chính sách pháp lý.
VCBS cho rằng thị trường BĐS trong năm 2015 sẽ tiếp tục sôi động với sự tham gia chủ
động hơn của nhà đầu tư nước ngoài; bên cạnh đó sự tích cực sẽ không chỉ hiện diện tại phân
khúc bình dân và trung cấp mà con lan tỏa sang phân khúc cao cấp. Tuy nhiên, diễn biến lạc quan
trên sẽ rất khác nhau giữa các doanh nghiệp và KQKD của các công ty niêm yết có thể sẽ thấp
hơn năm 2014 do có độ trễ trong việc hạch toán KQKD.
Các dòng sản phẩm sẽ được thị trường hấp thụ tốt trong thời gian tới có các đặc điểm:
Căn hộ vừa túi tiền có giá bán dao động khoảng 1,2 tỷ đồng/căn, diện tích từ 55-70m2,
tiến độ xây dựng được bảo đảm. Căn hộ trung cấp và cao cấp với giá bán trên 23 triệu
đồng/m2, tại các khu vực đang phát triển hạ tầng, có đầy đủ các tiện ích sống và dịch vụ
tương xứng tiêu chuẩn cao cấp của căn hộ (tính riêng Quận 2 có trên 20.700 căn hộ cao
cấp từ công ty Vingroup, Novaland, Đại Quang Minh, Keppel land sẽ được chào bán
trong năm 2015).
Đất nền có vị trí mang tính đón đầu sự phát triển hạ tầng trong tương lai, giá dao động
trong khoảng 11 triệu đồng/m2 và có phương thức thanh toán hấp dẫn (hỗ trợ cho vay từ
ngân hàng, thanh toán trong 2-3 năm không có hoặc có lãi suất thấp, các chính sách
khuyến mãi của chủ đầu tư).
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 37
Biệt thự, nhà phố với vị trí thuận lợi, tiện ích nội khu hoàn thiện. Đây sẽ một trong những
sản phẩm thu hút người mua nhà nước ngoài. Đến hết Q3.2014, tại khu vực Tp. HCM có
trên 416 căn được tiêu thụ với 70% là của các dự án chào bán mới so với 153 căn cùng kỳ
năm 2013 (Nguồn: Savills).
Các dự án tại các khu vực đang phát triển mạnh về hạ tầng như phía Đông của HCM,
dọc tuyến metro số 1, cao tốc Long Thành – Dầu Giây, đường Phạm Văn Đồng hay cầu
Nhật Tân sẽ được thị trường đón nhận tích cực.
Hoạt động M&A, chuyển nhượng dự án sẽ tiếp tục sôi động không chỉ giữa các nhà đầu tư
trong nước mà còn có sự tham gia chủ động hơn của nhà đầu tư nước ngoài, xuất phát từ: (1) việc
đền bù, giải tỏa, lập dự án mới mất nhiều thời gian hơn so với việc nhận chuyển nhượng các dự
án đang dở dang; tính đến hết năm 2014 có 689 dự án nhà ở đang dừng triển khải(Nguồn: Horea);
(2) các nhà đầu tư nước ngoài có vị thế công bằng hơn trong việc đầu tư, xây dựng, cho thuê BĐS
sau khi có các sửa đổi về pháp lý; (3) các quy định pháp lý chặt hơn như có sự bảo đảm của tổ
chức tài chính với BĐS hình thành trong tương lai, thanh toán không quá 70% giá trị hợp đồng,
kinh doanh BĐS phải có vốn pháp định 20 tỷ đồng… một mặt sẽ gây áp lực lên các doanh nghiệp
không có tiềm lực tài chính nhưng đồng thời nâng cao chất lượng của các công ty trong ngành.
Tín dụng cho lĩnh vực BĐS đang được đẩy mạnh thông qua các chương trình hỗ trợ về lãi
suất, thời gian cho vay đối với người mua nhà/sửa nhà của các NHTM; hệ số rủi ro giảm từ 250%
xuống còn 150% kể từ 1/2/2015 với khoản vay BĐS sẽ giúp các chủ đầu tư tiếp cận dễ dàng hơn
với nguồn vốn từ các ngân hàng; ngoài ra những sửa đổi của gói tín dụng 30 nghìn tỷ đồng (nâng
thời gian cho vay lên 15 năm, mở rộng đối tượng cho vay, lãi suất ở mức 5%/năm, bổ sung
NHTMCP tham gia chương trình và giới hạn tổng giá trị không vượt quá 1,05 tỷ đồng thay vì giới
hạn diện tích và giá bán) sẽ tiếp tục hỗ trợ phân khúc nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ.
Các kênh đầu tư khác không có nhiều triển vọng làm tăng tính hấp dẫn của BĐS: lãi suất
tiết kiệm ở mức thấp và được kỳ vọng sẽ tiếp tục giảm trong năm 2015; tỷ giá định hướng điều
chỉnh tăng 2% cho cả năm 2015 và đã được tăng 1% vào tháng 01/2015; giá vàng trong nước cuối
2014 chỉ thay đổi 1,2% so với cuối 2013 trong khi lợi tức cho thuê tại khu vực HCM từ 4-9%
càng làm tăng tính hấp dẫn của BĐS như một kênh đầu tư dài hạn.
Do đó, VCBS cho rằng thị trường BĐS 2015 sẽ có diễn biến tích cực với sự tham gia của các
bên người mua nhà để ở, mua nhà để cho thuê và chủ đầu tư.
Các DN BĐS niêm yết mà VCBS khuyến nghị MUA gồm có VIC, HDG, DXG, BCI, NBB và
VPH. Các nhà đầu tư dài hạn có thể cân nhắc thêm vào danh mục đầu tư của mình.
VIC có danh mục các dự án đa dạng và đứng đầu thị trường trong nhiều phân khúc sản phẩm
(mặt bằng bán lẻ, khách sạn và resort, căn hộ); ngoài ra còn có lợi thế về quỹ đất lớn, khả năng
huy động nguồn vốn giá rẻ từ các định chế tài chính, cũng như uy tín về mặt tiến độ xây dựng.
DTT ước đạt 26.500 tỷ đồng (106% KH, + 44% yoy), LNST đạt 4.352 tỷ đồng (97% KH, -
60,9% yoy). EPS cơ bản đạt 3.807 đồng. P/B ở mức 3,79 lần.
HDG hoạt động tập trung ở phân khúc BĐS có quy mô trung bình và nhỏ, sử dụng đòn bẩy tài
chính ít, có quỹ đất sạch khá lớn và rẻ trong đó mới chỉ khai thác được khoảng 1 nửa, các dự án
của HDG đang được triển khai và bán hàng hàng khá tốt. DTT 2014 ước đạt 1.600 tỷ đồng (45%
KH, +6,7% yoy), LNST đạt 170 tỷ đồng (100% KH, +18,9% yoy). EPS cơ bản đạt 2.837 đồng.
P/B ở mức 2,59 lần.
DXG là nhà môi giới hàng đầu trong lĩnh vực BĐS với hệ thống kênh phân phối đa dạng và đội
ngũ bán hàng có kỹ năng tốt; DXG cũng đang xây dựng hình ảnh là nhà phát triển BĐS cung cấp
các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường với giá cả phù hợp và tiến độ bảo đảm. DTT 2014 ước
đạt 515 tỷ đồng (99% KH, +50% yoy), LNST đạt 135 tỷ đồng (108% KH, +63% yoy), EPS cơ
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 38
bản đạt 1.801 đồng. P/B ở mức 1,15 lần.
BCI có lợi thế quỹ đất lớn, chi phí sở hữu đất thấp và tập trung tại khu vực phía Tây Tp. HCM;
cơ cấu tài chính lành mạnh, bên cạnh đó BCI có nguồn tiền ổn định từ khu công nghiệp Lê Minh
Xuân và Siêu thị Big C. DTT 2014 ước đạt 271 tỷ đồng (70% KH, -22% yoy); LNST đạt 82 tỷ
đồng (85% KH, -15% yoy) và EPS cơ bản đạt 1.130 đồng. P/B ở mức 0,88 lần.
NBB tích lũy quỹ đất lớn tại khu vực Tp. HCM và các tỉnh thành lân cận với chi phí thấp. Dòng
tiền của NBB đang dần cải thiện thông qua hoạt động thoái vốn khỏi các khoản đầu tư ngoài
ngành và việc hợp tác kinh doanh với các đối tác có tiềm lực về tài chính như CII, Creed Group.
Năm 2015, KQKD sẽ khả quan do thoái vốn khỏi mỏ titan và thay đổi cấu trúc hợp tác NBB 2, 3.
DTT năm 2014 ước đạt 209 tỷ đồng (68% KH, +3% yoy), LNST năm 2014 ước đạt 44,7 tỷ đồng
(64% KH, +77% yoy). EPS cơ bản đạt 1.011 đồng. P/B ở mức 0,90 lần.
VPH tích lũy quỹ đất lớn tại khu vực Tp. HCM với chi phí thấp. Dòng tiền được kỳ vọng sẽ cải
thiện thông qua bán sỉ 30ha đất dự án Nhơn Đức cho hai trường đại học thu về trên 600 tỷ đồng
và tiếp tục triển khai dự án Lacasa và M&A các dự án tiềm năng. LNST năm 2014 dự kiến ở mức
thấp 1-2 tỷ đồng. P/B ở mức 0,71 lần.
Ngành Xây dựng công trình
Diễn biến ngành 2014:
Ngành xây dựng trong năm 2014
nhìn chung đã có những sự chuyển
biến tích cực, đặc biệt là sự phát
triển mạnh mẽ của lĩnh vực xây
dựng hạ tầng.
Diễn biến ngành2014
Lũy kếcả năm, giá trị sản xuất xây dựng đạt 849 nghìn tỷ đồng (+10,2% yoy), xây dựng nhà ở
đóng góp 41,8%, nhà không để ở đóng góp 16,1% và xây dựng dân dụng – chuyên dụng đóng
góp 56,9%.Nếu trong Q2 và Q3 tăng trưởng ngành xây dựng được dẫn dắt bởi lĩnh vực nhà ở thì
Q4 chứng kiến sự tăng trưởng rất mạnh của lĩnh vực xây dựng dân dụng và chuyên
dụngvới tốc độ38% yoy, vượt xa mức tăng trưởng của các phân khúc khác.
Phân khúc xây dựng nhà ở tăng trưởng âm trong Q4 khiến cả năm chỉ tăng 6,4%.Xây dựng
nhà ở tăng trưởng khá tốt trong Q2 và Q3 với tốc độ lần lượt 18,9% yoy và 27,6% yoy. Nguyên
nhân chủ yếu dotiến độbán căn hộ trong giai đoạn này tương đối tốt cũng như nền kinh tế dần đi
vào ổn định, lãi suất giảm tạo cơ hội cho các chủ đầu tư tiếp tục xây dựng dự án mới hoặc tái khởi
động lại các dự án dở dang. Tuy nhiên, sự sụt giảm trong Q4 khi tăng trưởng âm 12,9% yoy đã
khiến tăng trưởng cả năm phân khúc này chỉ đạt 6,4% yoy, thấp hơn so với năm trước.
Xây dựng dân dụng và chuyên dụng tăng trưởng 15,7% trở thành điểm sáng dẫn dắt
ngành.Sự bứt phá mạnh mẽ trong Q4 đã giúp lĩnh vực xây dựng dân dụng và chuyên dụng
đạtmức tăng trưởng xấp xỉ 15,7%.Mặc dù tình trạng thi công chậm tiến độ vẫn còn diễn ra tại một
số dự án trọng điểm như dự án mở rộng quốc lộ 1A (đặc biệt đoạn qua khu vực miền Trung)
vàcác dự án đường sắt đô thị (Nam Thăng Long – Trần Hưng Đạo, Cát Linh – Hà Đông) nhưng
nhìn chung,năm 2014 đã cho thấy sự khởi sắc rõ nét của lĩnh vực xây dựng hạ tầng.Các công
trình vốn ngân sách,vốn vay ODA được đẩy mạnh triển khai và đặc biệt là sự tăng trưởng mạnh
của khu vực vốn FDIđã tạo động lực để mảng xây dựng dân dụng và chuyên dụng tăng trưởng
mạnh.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 39
Nguồn:Tổng Cục Thống Kê, VCBS tổng hợp
Nếu xét theo khu vực, xây dựng thuộc khu vực Nhà nước tiếp tục đà suy giảmkhi đạt 84,3
nghìn tỷ đồng (-9,0% yoy). Đây là năm thứ 4 liên tiếp xây dựng Nhà nước có tốc độ tăng trưởng
âm kể từ khi Nghị Quyết 11 về cắt giảm đầu tư công có hiệu lực. Khu vực tư nhân vẫn là động
lực tăng trưởng chính của ngành, đạt 709,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 83,6%, tăng trưởng
10,2%.Hình thức hợp tác công – tư (PPP) được khuyến khích phát triển đã tạo điều kiện để khối
tư nhân tham gia vào các lĩnh vực xây dựng hạ tầng, công nghiệp, năng lượng… giúp giá trị xây
dựng khu vực tư nhân tăng trưởng liên tục trong những năm qua và ngày càng khẳng định vai trò
đầu tàu trong ngành xây dựng nói chung. Khu vực vốn đầu tư nước ngoài đạt 54,8 nghìn tỷ
đồng, tăng trưởng mạnh 62,6% yoy.Vốn FDI đăng ký mới và bổ sung trong nămđạt
20,2tỷUSD, giảm 6,5% yoynhưng số vốn thực chi đạt 12,4 tỷ USD, tăng 7,4% yoy. Sự tăng
trưởng đột biến xây dựng khu vực vốn FDI có sự đóng gópkhông nhỏ từ các thương hiệu lớn thế
giới LG Electronics, Nokia, Samsung, Formosa, Bridgestone…khi các tập đoàn này chuyểnnhà
máy sản xuất sang Việt Nam.
Triển vọng ngành 2015:
Dự báo trong năm 2015 ngành xây
dựng sẽ tăng trưởng cải thiện hơn
năm 2014 khi xây dựng hạ tầng tiếp
tục là động lực tăng trưởng chính
và xây dựng nhà ở sẽ có sự hồi
phục khả quan.
Nền kinh tế khởi sắc hơn sẽ là điều kiện để ngành xây dựng phục hồi. Nền kinh tế trong năm
2014 cho thấy dấu hiệu lạc quan đã tạo niềm tin cho các doanh nghiệp về hiệu quả của các chính
sách vĩ mô của Chính phủ và NHNN. Lạm phát được kiểm soát, lãi suất giảm về mức thấp tạo
điều kiện để hoạt động xây lắp có thể mở rộng do chủ đầu tư có thể tiếp cận nguồn vốn giá rẻ.
Xây dựng nhà ở khởi sắc, xây dựng hạ tầng sẽ tiếp tục là động lực dẫn dắt ngành.Diễn biến
thị trường BĐS cho thấy sự khởi sắc hơn trong năm nay, tồn kho giảm mạnh17,6% so với cuối
năm 2013 khi mức giá đã hợp lý hơn và nguồn cung đang nhắm đến phân khúc bình dân, phù hợp
với nhu cầu thực tế. Chúng tôi dự báo xây dựng thuộc khu vực nhà ở sẽ tăng trưởng tốt khi các
chủ đầu tư xây dựng mới cũng như tiếp tục triển khai các dự án đang dở dang. Thêm vào đó, nhu
cầu đô thị hóa cũng sẽ là một yếu tố thúc đẩy hoạt động xây dựng nhà ở trong dài hạn. Xây dựng
hạ tầng vẫn là điểm sáng trong năm 2015. Theo phê duyệt điều chỉnh chiến lược phát triển GTVT
Việt Nam đến 2020, quy hoạch mạng đường bộ cao tốc bao gồm 22 tuyến với tổng chiều dài
5.837 km. Thực trạng hiện nay, Việt Namchỉ mới có khoảng 500 km đường cao tốc, do đó, dư địa
phát triển vẫn rất lớn. Hợp tác hình thức PPP cũng có thể phát triển mạnh hơn khi có khung pháp
lý hoàn chỉnh, thu hút thêm nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng, mang lại triển vọng trong dài
hạn cho lĩnh vực này.
Đầu tư nước ngoài được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng. Các hiệp định như TPP, FTA chuẩn
bị được thông qua mang đến thuận lợi cho nhiều ngành sản xuất thế mạnh của Việt Nam. Đây là
cơ hội để Chính phủ có thể tăng cường thu hút dòng vốn ngoại, tạo động lực tăng trưởng cho hoạt
143.9
181.4 206.6
238.5
155.5
197.2
234.9 261.4
Giá trị xây dựng theo lĩnh vực
Giá trị xây dựng Nhà ở
Nhà không để ở Dân dụng & chuyên dụng
9,9%
83.6
%
6,5%
Cơ cấu ngành theo khu
vực năm 2014
Nhà nước Ngoài Nhà nước
Nước ngoài
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 40
động xây dựng trong năm 2015. Những năm gần đây cho thấy xu hướng các nhà sản xuất lớn
đang chuyển dịch hệ thống sản xuất từ Trung Quốc sang khu vực Đông Nam Á nhằm tận dụng
các chính sách ưu đãi cũng như nguồn nhân công giá rẻ.Xu thế này sẽ còn tiếp diễn trong thời
gian tới và là cơ sở để chúng tôi kỳ vọng dòng vốn đầu tư xây dựng sẽ tiếp tục tìm đến Việt Nam
trong năm sau.
Cập nhật KQKD của một số DN
trong ngành.
Khuyến nghị: đầu tư đối với CTD
và FCN
Chúng tôi cho rằng trong thời điểm hiện tại, NĐT có thể xem xét đầu tư vào cổ phiếu của doanh
nghiệp tốt trong phân khúc xây dựng nhà ở và xây dựng hạ tầng dân dụng như CTCP Xây Dựng
Cotec (CTD) và CTCP Nền Móng và Công trình ngầm Fecon (FCN).
CTD là doanh nghiệp đã khẳng định được thương hiệu trong lĩnh vực xây dựng nhà ở, khách sạn,
thương mại, KQKD 9T2014 tăng trưởng khả quan (DT 4.493 tỷ đồng, +33% yoy; LNST 234 tỷ
đồng, +24% yoy).
FCN là doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực xây dựng nền móng ở các nhà máy điện, công
nghiệp và cũng đang từng bước tham gia vào lĩnh vực hạ tầng thông qua việc hợp tác với các tổng
công ty xây dựng hạ tầng lớn như Cienco1 và Tedi, KQKD 9T2014 (DT 590 tỷ đồng, -15% yoy;
LNST 70 tỷ đồng, -19% yoy).
Cả CTD và FCN có nền tảng cơ bản tốt, triển vọng trong năm 2015 là khả quan cùng với mức giá
không quá cao: CTD có P/E forward 8,2 lần, FCN có P/E forward 8,7 lần. Chúng tôi khuyến
nghị đầu tư cổ phiếu CTD và FCN.
Ngành Thép
Diễn biến ngành 2014:
Trong hoàn cảnh khá khó khăn
nhưng ngành thép tăng trưởng khá
với mức tăng khoảng 12% trong
năm 2014
Thị trường thép xây dựng:
Trong tháng 10/2014, sản lượng sản xuất và bán hàng của các thành viên trong Hiệp hội Thép
Việt Nam (VSA) đạt lần lượt 475.607 tấn (+27% yoy; + 10% mom) và 497.890 tấn (+24% yoy;
+12% mom). Lũy kế 10T2014, tổng sản lượng sản xuất đạt 4.193.678 tấn (+12% yoy) và sản
lượng bán hàng đạt 4.284.760 tấn (+13% yoy). Điều này cho thấy lượng thép tiêu thụ của các
doanh nghiệp trong nước đã nhiều hơn sản lượng sản xuất.
Dẫn đầu thị phần thép xây dựng vẫn là các DN lớn: Hòa Phát (18%), Pomina (15%), VNS (12%),
TISCO (9%) và Vinakyoei (8,5%). Năm DN lớn này chiếm tổng cộng 64% thị phần thép xây
dựng Việt Nam. Điều này khiến cho cạnh tranh giữa các DN thép xây dựng còn lại vẫn tiếp tục
gay gắt. Bên cạnh đó, tồn kho thép xây dựng vẫn tương đối lớn. Tồn kho thép xây dựng tại cuối
tháng 10.2014 đạt 367.667 tấn (tương đương với 87% sản lượng tiêu thụ trung bình mỗi tháng
trong năm 2014). Thêm vào đó, tổng lượng phôi thép tồn ở các công ty sản xuất thép cùng với
phôi thép sản xuất trong nước và nhập khẩu trong tháng 11.2014 đạt xấp xỉ 500.000 tấn, vẫn dư
thừa cho nhu cầu phôi của các nhà máy cán thép trong nước.
Cạnh tranh gay gắt về thị phần và tồn kho vẫn còn nhiều khiến cho giá bán thép xây dựng đến nay
đã giảm sâu, chỉ còn khoảng 12 triệu đồng/tấn. Nếu so với 6 tháng đầu năm 2014 thì giá bán thép
đã giảm khoảng 200 nghìn đồng/tấn, trong khi giá quặng sắt đầu vào vẫn đang trong xu hướng
giảm.
Sản lượng thép sản xuất
(đơn vị: nghìn tấn)
Sản lượng thép tiêu thụ
(đơn vị: nghìn tấn)
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 41
Nguồn: VSA, VCBS tổng hợp
Cập nhật thị trường thép ống:
Trong 10 tháng đầu năm 2014, cả sản xuất và bán hàng ống thép tăng trưởng cao so với cùng kỳ
năm 2013. Sản xuất đạt 900.296 tấn (+36% yoy), bán hàng đạt 912.486 tấn (+41% yoy). Lượng
ống thép hàn xuất khẩu đạt 128.535 tấn, chiếm 14% tổng lượng ống thép bán ra, giảm 15% yoy.
Lượng ống thép tiêu thụ trong nước đạt 783.951 tấn. Dẫn đầu thị phần vẫn là các DN lớn như
CTCP Tập đoàn Hoa Sen (18% thị phần), Hòa Phát (19% thị phần), SeAH Việt Nam (12% thị
phần), Minh Ngọc (9% thị phần) và Công ty 190 (8% thị phần). So với các mặt hàng thép khác thì
mặt hàng thép ống là sản phẩm tiêu thụ tương đối tốt, tồn kho ống thép tại cuối tháng 10 chỉ đạt
28.571 tấn (tương đương 36% sản lượng tiêu thụ trung bình hàng tháng trong năm 2014). Do đó,
giá bán ống thép nhìn chung ổn định và không có sự biến động mạnh.
Cập nhật thị trường tôn mạ:
Giá nguyên liệu đầu vào để sản xuất tiếp tục xu hướng giảm giá, thị trường vẫn giữ được đà tăng
trưởng tốt do những tháng cuối năm là mùa thuận lợi cho mùa xây dựng. Sản lượng tôn mạ kim
loại và sơn phủ màu trong 10 tháng đầu năm 2014 đạt 664.007 tấn (+48% yoy). Các sản phẩm tôn
mạ kim loại và sơn phủ màu vẫn tiếp tục là các mặt hàng có tỷ trọng xuất khẩu cao trong các mặt
hàng sắt thép bán ra.
Tình hình xuất khẩu - nhập khẩu:
Ngành thép tiếp tục nhập siêu hơn 10,8 triệu tấn trong 10T2014, trong đó phần lớn là nguyên liệu
để sản xuất thép trong nước như thép phế (2,5 triệu tấn) và thép cán nóng (3,3 triệu tấn). So với
cùng kỳ năm 2013, nhập khẩu tăng về lượng 5%. Trong đó, nhập khẩu: thép hợp kim tăng +82%
yoy, thép hình tăng +80% yoy, thép ống hàn tăng +19% yoy và thép mạ màu tăng +64% yoy.
Trung Quốc vẫn là nhà cung cấp thép lớn nhất cho Việt Nam, với 5,86 triệu tấntính đến hết tháng
11.2014(Nguồn: Bloomberg).
Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu vẫn khá hạn chế. Trong 9T2014, tổng sản lượng thép xuất
khẩu đạt 2,755 triệu tấn, với kim ngạch 2,1 tỷ USD. Trong đó, chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là thép
thành phẩm (70% tỷ trọng xuất khẩu).
Nhập siêu trong 9 tháng đầu năm 2014 đạt hơn 8 triệu tấn, tương ứng với thặng dư kinh ngạch
xuất khẩu 4,4 tỷ USD.
Tình hình sản xuất và bán hàng thép của các doanh nghiệp thép Việt Nam trong Q4 thường
cao hơn các quý còn lại do những tháng cuối năm thường là những tháng cao điểm của mùa xây
dựng, các công trình phải đẩy nhanh tiến độ hoàn thành xây dựng, giải ngân nguồn vốn cũng như
320
255
506 458 458 436
405 441 432
476
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 10
2013 2014
235
365
570
485
419 376
424 408 443
498
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 10
2013 2014
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 42
quyết toán, ghi nhận doanh thu, lợi nhuận.
Triển vọng ngành năm 2015:
Năm 2015 sẽ tiếp tục khó khăn đối
với các DN trong nước do dự báo
sản lượng vẫn vượt quá nhu cầu và
cạnh tranh mạnh mẽ từ thép nhập
khẩu giá rẻ từ Nga và Trung Quốc.
Dự báo trong năm 2015, ngành thép vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh những khó khăn
đang hiện hữu là: (1) tình trạng cung nhiều hơn cầu, (2) các nhà máy hoạt động chưa hết công
suất, (3) tồn kho lớn và (4) ảnh hưởng lớn từ các chính sách siết tải trọng ảnh hưởng tới tốc độ
tiêu thụ hàng; thì việc Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cũng sẽ ảnh hưởng
đến sự bảo hộ thép bằng thuế quan theo chiều hướng giảm, sản phẩm thép nhập khẩu từ Trung
Quốc, Nga vào Việt Nam sẽ gia tăng. Đặc biệt, xuất khẩu thép của Việt Nam ra nước ngoài
ngày càng phải đối mặt với nhiều vụ kiện chống bán phá giá của các nước nhập khẩu.
Cạnh tranh từ thép Nga:
Nga là quốc gia vốn có lợi thế về sản xuất thép, với tổng sản lượng đứng thứ 5 toàn cầu (hơn 70
triệu tấn/năm) với chi phí sản xuất thấp, nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú, công nghệ cao hơn
Việt Nam… Hiện nay, thép từ Nga vào Việt Nam chiếm khoảng 6% lượng thép nhập khẩu của
Việt Nam, nếu trong thời gian tới, thuế nhập khẩu thép từ Nga về Việt Nam giảm theo hiệp định
tự do thương mại Việt Nam - Liên minh thuế quan (VCUFTA) thì tỷ lệ này dự kiến tăng lên từ
10% - 12%. Cộng thêm vào đó, biến động mất giá của đồng tiền Nga (đồng rúp) khiến việc các
DN thép trong nước mất thêm thị phần vào thép Nga là điều có thể dự báo.
Cạnh tranh từ thép Trung Quốc:
Thép hợp kim giá rẻ chứa nguyên tố Bo từ Trung Quốc vào Việt Nam vẫn đang tăng đột biến,
ước cả năm 2014 có thể lên đến 550.000 – 600.000 tấn.Sau hơn 5 tháng thực hiện, việc thực hiện
thông tư 44 đối với việc nhập khẩu thép hợp kim giá rẻ chứa nguyên tố Bo chưa được thực thi
hiệu quả. Với chính sách của Chính phủ Trung Quốc về hoàn thuế VAT của mặt hàng thép hợp
kim xuất khẩu (từ 7 - 13%), có khả năng lượng thép dây cuộn chứa Bo nhập về Việt Nam vẫn sẽ
tăng trong những năm tới.Theo thống kê, trong 11 tháng đầu năm 2014, Việt Nam đã nhập khẩu
thép các loại lên đến 10,52 triệu tấn, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Cập nhật KQKD của DN tiêu
biểu trong ngành.
Khuyến nghị MUA HPG
Trong năm 2014, HPG là một trong số ít doanh nghiệp đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ, nhờ:
(1) chi phí sản xuất thấp nhất ngành nhờ quy mô lớn và quy trình sản xuất khép kín, (2) chính
sách bán hàng linh hoạt, mở rộng mạng lưới bán hàng ở các khu vực phía Nam và Nam Trung
Bộ, đẩy mạnh xuất khẩu, cân đối việc bán thép thành phẩm và phôi thép để đạt lợi nhuận tối đa,
(3) năng lực sản xuất tăng, nhà máy ống thép tại Đà Nẵng vừa đi vào hoạt động từ tháng 4/2014
nâng tổng công suất ống thép lên 236.000 tấn, và đang hoạt động 100% CSTK. Năm 2014, lượng
thép xây dựng của Hòa Phát tiêu thụ tăng 43%. Đây là lần đầu tiên Hòa Phát cán mốc bán hàng 1
triệu tấn thép xây dựng, vượt 11% kế hoạch cả năm.
Năm 2014 cũng là lần đầu tiên HPG xuất khẩu thép cuộn tròn trơn sang thị trường Úc. Dự kiến
trong năm 2015, Tập đoàn Hòa Phát sẽ hoàn thành giai đoạn 3 Khu Liên hợp gang thép với sản
lượng tiêu thụ 1,2 triệu tấn/năm.
Với kết quả 9T2014 đã công bố, EPS trailing của HPG đang đạt 6.558 đồng, tương đương với P/E
trailing đạt 7,9 lần – tương đối thấp so với P/E trung bình ngành thép (đang là 15 lần). Do đó,
chúng tôi khuyến nghị MUA đối với cổ phiếu HPG.
Ngành Xi măng
Diễn biến ngành 2014:
Tình hình tiêu thụ khả quan so với
cùng kỳ 2013 nhờ các chính sách
kích thích kinh tế nói chung và
Ngành xi măng đã phục hồi khả quan trong năm nay nhờ các chính sách vĩ mô hướng tới
ngành bất động sản và xây dựng hạ tầng. Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam, lũy kế đến hết
tháng 11.2014, tổng lượng xi măng tiêu thụ nội địa (TTNĐ) đạt 46,06 triệu tấn, tăng 12% yoy và
tương đương mức TTNĐ của cả năm 2013.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 43
nhắm tới thị trường bất động sản
nói riêng. Tỷ trọng thị phần theo khối doanh nghiệp Tỷ trọng thị phần theo vùng miền
Với tốc độ tiêu thụ như hiện tại, VICEM dự báo TTNĐ xi măng trong tháng 12.2014 đạt 4,59
triệu tấn, và cả năm 2014 đạt 50,65 triệu tấn, tăng 10% so với cùng kỳ 2013. Như vậy, lượng xi
măng TTNĐ tính trong tháng cuối cùng của năm 2014 sẽ khá cao và tương đương trong tháng 10
và 11 nhờ: (1) Thời điểm trước Tết Âm lịch luôn là thời kỳ cao điểm đối với ngành xây dựng; (2)
Giá xăng dầu giảm có thể khiến giá vận tải giảm mạnh, giúp lượng xi măng tiêu thụ tiếp tục được
duy trì ở mức cao.
Theo Cục quản lý Bộ Tài chính, giá bán lẻ xi măng tại thị trường trong nước trong năm 2014 khá
ổn định. Giá bán lẻ tại thị trường miền Bắc và miền Trung hiện ở mức 1.050.000 – 1.550.000
đồng/tấn, trong khi tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.460.000 – 1.850.000 đồng/tấn.
Trong năm 2014, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu xi măng để giải quyết nguồn cung dư thừa.
Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam, tổng lượng xi măng và clinker xuất khẩu của cả nước ước đạt
19,70 triệu tấn (xi măng đạt xấp xỉ 7 triệu tấn và clinker đạt xấp xỉ 12,7 triệu tấn), tương đương
kim ngạch đạt 796 triệu USD, tăng gần 30% so với cùng kỳ 2013 và vượt hơn 4 triệu tấn so với
kế hoạch. Mặc dù vậy, việc xuất khẩu xi măng và clinker không đem lại nhiều hiệu quả cho
doanh nghiệp nói riêng và toàn ngành nói chung do giá xuất khẩu ở mức rất thấp, trung bình chỉ
37 – 40 USD /tấn (giá bán nội địa trung bình đạt 60 – 70 USD/tấn), trong khi giá xuất khẩu của
Thái Lan, Singapore lên tới 70 – 80 USD/tấn. Giá xi măng xuất khẩu từ Việt Nam thấp hơn so với
các đối thủ cạnh tranh khác trên thế giới do: (1) Các doanh nghiệp trong nước bán hạ giá nhằm
cắt giảm tồn kho; (2) Doanh nghiệp sản xuất xi măng không mất thuế xuất khẩu, thuế giá trị gia
tăng (VAT) và chỉ chịu chi phí vận chuyển bởi VICEM là đơn vị thu mua xuất khẩu duy nhất.
Nhìn chung, đây chỉ là giải pháp nhằm giải quyết tình trạng sản xuất dư thừa và tồn kho lớn từ
35%
28%
37%
Khối VICEM
Khối liên doanh
Khối công ty vừa và nhỏ và trạm nghiền
39%
27%
34%
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
-
1,000
2,000
3,000
4,000
5,000
6,000
7,000
Ng
hìn
tấ
n
Tiêu thụ xi măng năm 2014
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam Xuất khẩu Cả nước
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 44
các năm trước.
Nhờ sức tiêu thụ tốt, hoạt động sản xuất xi măng trong năm 2014 của toàn ngành cũng được
cải thiện đáng kể so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp xi măng nội địa đã sản xuất 49,69 tấn xi
măng trong 11 tháng đầu năm, trong khi cả năm 2013 chỉ đạt xấp xỉ 49,20 triệu tấn. Tuy nhiên,
lượng xi măng sản xuất trên vẫn khá thấp so với tổng công suất tối đa đạt gần 77 triệu tấn/năm
của các dây chuyền xi măng nội địa. Tồn kho, tính đến hết tháng 11.2014, đạt 2,84 triệu tấn, trong
đó bao gồm 710.000 tấn xi măng (+24,56% ytd) và 2,13 triệu tấn clinker (+6,00% ytd).
Triển vọng ngành 2015:
Nhu cầu tiêu thụ xi măng toàn
ngành dự kiến tăng nhẹ so với năm
2014.
Trong năm 2015, Bộ Xây dựng tính toán sản lượng tiêu thụ xi măng toàn ngành đạt khoảng 71-73
triệu tấn, tăng nhẹ 1-4% so với cả năm 2014. Tiêu thụ nội địa và xuất khẩu dự kiến đạt lần lượt
52-53 triệu tấn và 19-20 triệu tấn. VCBS cho rằng, các ước lượng trên hợp lý do: (1) Tổng sản
lượng tiêu thụ trong năm 2014 ước đạt xấp xỉ 70,35 triệu tấn, tương đương 91,36% tổng công suất
sản xuất xi măng của các dây chuyền trong nước, trong khi các dự án xây nhà máy xi măng mới
bị hạn chế do quy hoạch của Chính phủ theo Quyết định 1488/2011/QĐ-TTG nhằm giải quyết
tình trạng dư cung của ngành xi măng; (2) Thị trường bất động sản sẽ tiếp tục phục hồi nhờ các
gói kích cầu của Chính phủ; (3) Ngành xây dựng công trình cũng sẽ ổn định như năm 2014 với
mảng hạ tầng là động lực dẫn dắt chính, đặc biệt khi hình thức hợp tác công - tư (PPP) được đẩy
mạnh nhằm thúc đẩy khối tư nhân và FDI tham gia các dự án hạ tầng tại Việt Nam.
Cập nhật KQKD của DN tiêu
biểu trong ngành:
Khuyến nghị MUA đối với BCC và
NẮM GIỮ với HT1
Khuyến nghị MUA BCC
Sau năm 2013 thua lỗ, BCC đã hồi phục mạnh mẽ trong năm 2014 với DTT và LNTT 9T2014 lần
lượt đạt 3.200 tỷ đồng (+13,43% yoy; 76,8%KH) và 65,95 tỷ đồng (+77% yoy; 41,22% KH). Sự
đột biến trong KQKD của công ty chủ yếu nhờ đồng EUR liên tục giảm giá kể từ Q2.2014 đến
hết Q3.2014, qua đó giúp BCC ghi nhận 60 tỷ đồng doanh thu tài chính (tăng 8,6 lần yoy). Theo
thống kê của Hiệp hội Xi măng Việt Nam, BCC đã TTNĐ hơn 3,03 triệu tấn xi măng tính tới
ngày 17.12.2014 (bằng cả năm 2013), tương đương 80% KH tiêu thụ xi măng trong năm 2014, và
chiếm 6% thị phần trong nước. VCBS dự phóng trong năm 2014, BCC sẽ hoàn thành KH DT, đạt
4.165 tỷ đồng, và LNST đạt gần 155 tỷ đồng với hai giả định: (1) BCC sẽ ghi nhận thêm 100,83
tỷ đồng doanh thu tài chính từ chênh lệch tỷ giá do xu hướng giảm giá của đồng EUR kể từ cuối
Q3.2014 đến hết năm 2014; (2) BCC sẽ phân bổ hết trong Q4.2014 24,4 tỷ đồng còn lại của
khoản lỗ chênh lệch tỷ giá trong giai đoạn xây dựng dây chuyền mới. EPS forward dự kiến đạt
1.615 đồng/CP, P/E đạt 10,34 lần, không quá cao so với các doanh nghiệp cùng ngành. Ngoài ra,
chúng tôi đánh giá cao tiềm năng lợi nhuận của BCC kể từ năm 2015 nhờ: (1) Tình trạng dư cung
của toàn ngành xi măng đã được cải thiện, (2) Thị trường bất động sản và xây dựng có dấu hiệu
ấm lên trong thời gian gần đây, (3) Trạm nghiền tại Quảng Ngãi chưa hoạt động hết công suất
500.000 tấn/năm trong khi nhu cầu tại thị trường miền trung và Tây Nguyên khá lớn, (4) BCC
khả năng sẽ hoàn thành phân bổ khoản lỗ tỷ giá từ hoạt động xây dựng cơ bản trong năm 2014.
Chúng tôi khuyến nghị MUA đối với cổ phiếu BCC cho mục tiêu dài hạn.
Khuyến nghị NẮM GIỮHT1
CTCP Xi măng Hà Tiên 1 (HT1) là đơn vị sản xuất xi măng lớn nhất cả nước với khoảng 9% thị
phần và chiếm lĩnh vị trí số 1 tại thị trường miền Nam. Mặc dù vậy, công ty đã gặp rất nhiều khó
khăn trong giai đoạn 2011-2013 do dư thừa nguồn cung của ngành xi măng Việt Nam. Bên cạnh
đó, công ty phải chịu chi phí tài chính rất lớn do vay nợ nhiều và lỗ chênh lệch tỷ giá. Bước ngoặt
của HT1 đến từ việc công ty phát hành 120 triệu cổ phiếu cho công ty mẹ VICEM để cấn trừ
công nợ trị giá 1.200 tỷ đồng thành vốn góp, qua đó giúp giảm áp lực lãi vay trong năm 2014 (chi
phí tài chính 9T2014 giảm 26% yoy). Bên cạnh đó, HT1 lãi chênh lệch tỷ giá gần 170 tỷ đồng
trong năm nay do tỷ giá EUR/VND giảm 8,91% kể từ cuối Q2.2014 đến hết năm 2014. Khoản lãi
này đã giúp công ty gần như hoàn thiện phân bổ khoản lỗ chênh lệch tỷ giá (208 tỷ đồng) từ hoạt
động xây dựng Nhà máy xi măng Bình Phước và Hà Tiên 2.2 (Còn 14,7 tỷ đồng sau Q3.2014).
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 45
VCBS dự phóng DTT và LNTT 2014 của HT1 lần lượt đạt 6.605 tỷ đồng (+3,7%yoy; 94%KH)
và 234,74 tỷ đồng (+4.263% yoy; 1.019% KH). LNST 2014 tương ứng đạt 183,10 tỷ đồng. EPS
forward đạt 576 đồng/CP, P/E forward đạt 32,47 lần, khá cao so với các doanh nghiệp cùng
ngành. Tuy nhiên, chúng tôi đánh giá cao tiềm năng của HT1 trong năm 2015 do: (1) Vị thế nhà
cung cấp xi măng có thị phần lớn nhất tại thị trường nội địa, trong khi tình trạng dư cung xi măng
trên cả nước đã được cải thiện rõ rệt; (2) Mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn dự kiến giảm
thêm từ 1-2% trong năm nay, giúp giảm bớt gánh nặng lãi vay của HT1; (3) Khoản lỗ chênh lệch
tỷ giá từ hoạt động xây dựng cơ bản đã được hoàn thiện trong năm 2014. Chúng tôi khuyến nghị
NẮM GIỮ đối với cổ phiếu HT1.
Ngành Vận tải biển
Diễn biến ngành năm 2014:
Nguồn cầu không có nhiều biến
động nhưng chi phí nhiên liệu giảm
mạnh trong các tháng cuối năm.
Nhu cầu vận chuyển hàng hóa bằng đường biển của Việt Nam trong năm 2014 tiếp tục duy
trì đà tăng trưởng cao. Tổng sản lượng hàng hóa qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 370,3
triệu tấn trong năm 2014, tăng 14% yoy và là mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2009. Trong
đó, hàng container đạt 10,3 triệu TEU, tăng 20% yoy, cao nhất từ sau cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2007.
Tuy nhiên, sản lượng hàng hóa vận chuyển đảm nhận bởi đội tàu biển Việt Nam trong năm
2014 chỉ tăng nhẹ 0,13% và đạt 98,5 triệu tấn. Mặc dù đội tàu biển Việt Nam đã đảm nhận gần
100% hàng hóa tuyến nội địa sau khi chính sách hạn chế hoạt động của tàu biển nước ngoài có
hiệu lực nhưng thị phần vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu chỉ đạt khoảng 10%-12% do sự
cạnh tranh cao từ các hãng tàu biển nước ngoài. Các doanh nghiệp vận tải biển của Việt Nam có
nhiều hạn chế từ cơ cấu đội tàu không hợp lý,thiếu liên kết giữa chủ tàu và doanh nghiệp xuất
nhập khẩu, kỹ thuật tàu yếu kém, năng lực quản lý chưa hiệu quả, theo đó, không có khả năng
tranh giành thị phần khi không có được sự bảo hộ của Nhà nước.
Sản lượng hàng hóa qua cảng Việt Nam Sản lượng vận tải của đội tàu Việt Nam
Nguồn: VCBS tổng hợp
Giá cước tàu biển hàng khô trong năm 2014 vẫn chưa có được sự cải thiện so với các năm
trước do nguồn cung tàu biển trên thế giới tiếp tục tăng lên hàng năm trong khi nền kinh tế toàn
cầu vẫn đang phục hồi chậm chạp.Chỉ số giá cước tàu biển hàng khô cỡ tàu nhỏ Handysize BHSI
(là loại tàu chính trong đội tàu hàng khô của Việt Nam) ở mức cao, gần 700 điểm thời điểm đầu
năm với dư địa tăng của nguồn cầu bắt đầu từ cuối năm 2013. Tuy nhiên chỉ số này liên tục giảm
sau đó và chạm đáy 355 điểm vào T7.2014, là mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Không
giống như năm trước, BHSI không thể vượt qua được ngưỡng 500 điểm trong các tháng cuối năm
khi nền công nghiệp sản xuất của Trung Quốc vẫn đang chững lại với nhu cầu nhập khẩu quặng
-
2
4
6
8
10
12
0
50
100
150
200
250
300
350
400
Triệ
u T
EU
Triệ
u t
ấn
Tổng sản lượng
Sản lượng hàng container (TEU)
81 89
96 101 98 99
-4%
-2%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
0
20
40
60
80
100
120
20
09
20
10
20
11
20
12
20
13
20
14
Triệ
u t
ấn
Sản lượng Tăng trưởng
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 46
sắt và than đá thấp hơn. Theo đó, doanh thu của các doanh nghiệp vận tải biển hàng khô như
VOS, VNA, VST chỉ ở mức tương đương so với năm 2013.
Trong khi đó, mặt bằng giá cước vận tải chở dầu thô năm nay cao hơn trung bình 15% so
với năm 2013, và tăng mạnh trong các tháng cuối năm nhờ nhu cầu mua, tích trữ và tiêu thụ xăng
dầu tăng lên để tận dụng giá nhiên liệu giảm, góp phần tăng sản lượng của ngành vận tải biển.
Tuy nhiên, đội tàu của các doanh nghiệp vận tải xăng dầu chính của Việt Nam như PVT, VIP,
VTO chủ yếu cho công ty mẹ thuê định hạn với giá cước không điều chỉnh thường xuyên. Theo
đó, xu hướng tăng giá cước trên thế giới không phản ánh nhiều vào doanh thu của các doanh
nghiệp này.
Giá nhiên liệu chạy tàu giảm mạnh: Nhờ giá dầu thô Brent và WTI trên thị trường giảm, giá
nhiên liệu chạy tàu cũng bắt đầu giảm sâu từ Q3.2014. Cụ thể, giá nhiên liệu IFO 380 tại
Singapore đã giảm từ 600 USD/tấn m3 trong tháng 8 xuống còn 322 USD/tấn m
3 thời điểm cuối
năm, tương đương với mức giảm 46% chỉ trong vòng 4 tháng. Do chi phí nhiên liệu chiếm tới
50%-60% tổng chi phí vận hành tàu biển, việc giảm giá nhiên liệu trong thời gian qua đã giúp cho
các doanh nghiệp vận tải biển chạy tàu theo hình thức chở chuyến cắt giảm được trung bình
khoảng 10% - 15% chi phí hoạt động.
Biến động giá cước tàu biển Biến động giá nhiên liệu
Nguồn: Lloyds List Intelligence Nguồn: Ship & Bunker
Chi phí lãi vay tiếp tục chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong cơ cấu chi phí. Các doanh nghiệp
vận tải biển thường vay vốn lớn để mua tàu biển trong giai đoạn tăng trưởng nóng trước năm
2008 với lãi suất cao. Chi phí lãi vay trong năm 2014 của các doanh nghiệp trong ngành vẫn
chiếm một tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu chi phí, thậm chí lớn hơn lợi nhuận gộp như trong
trường hợp của VOS, VNA và VFR do (1) KQKD của các doanh nghiệp hàng năm thua lỗ dẫn
đến dòng tiền không đủ để giảm dư nợ vay, (2) rủi ro tài chính được các ngân hàng đánh giá ở
mức cao nên lãi suất của các khoản vay cũ không được điều chỉnh khi mặt bằng lãi suất hạ nhiệt.
Tái cấu trúc mạnh mẽ đội tàu biển:Đứng trước sức ép về dòng tiền trả nợ vay và dư thừa nguồn
cung tàu biển, một giải pháp phổ biến được áp dụng là tái cấu trúc đội tàu bằng cách thanh lý dần
những tàu biển trọng tải nhỏ, tính năng không phù hợp, hiệu quả khai thác kém, đã hết khấu hao
và sắp lên đà sửa chữa lớn để bù lỗ. Trong năm 2014, một loạt các doanh nghiệp vận tải biển thực
hiện việc bán, chuyển nhượng tàu và các tài sản khác và ghi nhận lợi nhuận đột biến như TJC,
VIP, VOS, PVT, VTO... Ngoài ra, ngành vận tải biển tiếp tục xu hướng đầu tư vào tàu chở hàng
container theo xu hướng chung của thế giới, góp phần tăng số lượng tàu container vận tải nội địa
thêm 11 tàu lên 30 tàu trong năm nay.
Nhìn chung, hoạt động của ngành vận tải biển Việt Nam trong năm 2014 vẫn chưa có nhiều
350
450
550
650
750
850
950
1050
T1/1
3
T3/1
3
T5/1
3
T7/1
3
T9/1
3
T11/1
3
T1/1
4
T3/1
4
T5/1
4
T7/1
4
T9/1
4
T11/1
4
BHSI BDIY
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 47
điểm sáng khi sản lượng vận tải cũng như giá cước chỉ tương đương so với năm trước. Tuy
nhiên việc giá nhiên liệu giảm mạnh vào nửa cuối năm cộng với việc thanh lý dần tài sản
giúp cho một số doanh nghiệp ghi nhận lợi nhuận đột biến.
Triển vọng 2015:
KQKD khả quan hơn nhờ chi phí
giảm và giá cước tàu chở xăng dầu
cải thiện.
Trong năm 2015, tổng sản lượng hàng hóa qua hệ thống cảng biển Việt Nam mục tiêu đạt 407
triệu tấn, tăng 10% so với năm 2014. Tuy nhiên, sản lượng đảm nhận bởi đội tàu biển Việt
Nam được dự báo sẽ ở chỉ mức 91 triệu tấn, giảm 7,6% yoy (theo quy hoạch ngành vận tải
biển được phê duyệt vào T8.2014) do năng lực vận tải giảm. Trong năm 2015, ngành vận tải biển
Việt Nam tiếp tục thực hiện giảm trọng tải đội tàu biển xuống còn 5,2 triệu tấn (giảm 29%
so với năm 2013) thông qua việc thanh lý tàu nhằm cân bằng cung cầu thị trường và tạo cơ hội
thành lập một đội tàu biển mới có cơ cấu hợp lý với tuổi tàu trẻ và trọng tải trung bình lớn hơn.
Triển vọng giá cước vận tải biển thế giới được dự báo sẽ có sự khác biệt giữa các loại tàu biển.
Thị trường tàu hàng khô và container sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều thử thách trong
năm tới khi nền kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự tính. Trong T10.2014, IMF đã hạ dự báo
tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2015 từ 4,0% xuống còn 3,8% với triển vọng không khả
quan tại khu vực châu Âu và một số nước đang phát triển. Trong khi đó, trọng tải đội tàu
container ước tính sẽ tăng 7%-8% và tàu hàng khô tăng 5,2% trong năm 2015, cao hơn so với nhu
cầu. Trái lại, triển vọng giá cước của tàu chở xăng dầu sáng sủa hơn khi nhu cầu tiêu thụ và
tích trữ xăng dầu tăng để tận dụng mức giá nhiên liệu rẻ trong khi nguồn cung đội tàu giảm do
nhiều tàu được dùng để tích trữ dầu hơn là vận chuyển.
Chi phí nhiên liệu thấp tiếp tục được phản ánh vào KQKD 2015. Do nhiên liệu được mang
vào sử dụng có độ trễ 1-2 tháng từ khi mua hàng nên doanh nghiệp trong ngành sẽ tiếp tục được
hưởng lợi từ chi phí nhiên liệu thấp trong Q1. Ngoài ra,giá dầu thô Brent đang ở mức dưới 55
USD/thùng đối với các hợp đồng tương lai tới T5.2015 và dưới 60 USD/thùng đối với các hợp
đồng tới T12.2015, cho thấy kỳ vọng về giá dầu và giá nhiên liệu vận tải tàu biển tiếp tục duy trì
thấp trong 12 tháng tới. Theo đó, biên lợi nhuận của các doanh nghiệp có tàu hoạt động theo hình
thức chở chuyến như VOS, VNA, VST, TJC, GMD, PJT sẽ có được sự cải thiện.
Chúng tôi cho rằng các doanh nghiệp trong ngành sẽ có được kết quả kinh doanh khả quan
hơn trong năm 2015 nhờ chi phí nhiên liệu đầu vào giảm và xu hướng thanh lý đội tàu còn
tiếp diễn. Ngoài ra các doanh nghiệp vận tải xăng dầu có khả năng được hưởng lợi hơn từ
giá cước cải thiện.
Cập nhật KQKD của DN tiêu
biểu trong ngành.
Trong số các doanh nghiệp vận tải biển, chúng tôi khuyến nghị tiếp tục NẮM GIỮ đối với VOS
với nỗ lực thoát lỗ trong năm 2014 và triển vọng tích cực năm 2015.
Một số điểm nhấn tiêu biểu của VOS trong năm 2014 như:
(1) giá cước thuê tàu biển tăng khá trong các tháng đầu năm, thể hiện qua việc doanh thu 9 tháng
chỉ giảm 1% trong khi năng lực đội tàu giảm 4% sau khi bán 1 tàu Silver Star và bỏ 1 tàu Vĩnh
Hòa bị mắc cạn, đồng thời công ty cho thuê định hạn 3 tàu Supramax với doanh thu thấp hơn chở
chuyến.
(2) chi phí nhiên liệu đầu vào 9 tháng giảm 20% nhờ chi phí nhiên liệu các tàu cho thuê định hạn
được trả bởi người thuê, đồng thời giá nhiên liệu bắt đầu xu hướng giảm từ Q3.
(3) lợi nhuận bất thường tăng cao từ 2 thương vụ bán tàu Silver Star trị giá 5,1 triệu USD và tàu
Diamond Star trị giá 5,5 triệu USD, đồng thờighi nhận lợi nhuận gần 24 tỷ đồng từ bảo hiểm tàu
Vĩnh Hòa.
Theo đó, công ty đã có được lợi nhuận dương trong năm 2014, cải thiện hơn nhiều so với khoản
lỗ gần 200 tỷ đồng năm trước và tránh nguy cơ hủy niêm yết do 3 năm lỗ liên tiếp.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 48
Hoạt động của VOS trong năm 2015 được dự báo sẽ tích cực hơn khi được hỗ trợ bởi chi phí
nhiên liệu thấp. VOS phải trả chi phí nhiên liệu cho hoạt động của 16 tàu cho thuê chuyến trên
tổng cộng 19 tàu. Do chi phí nhiên liệu chiếm khoảng 40% tổng chi phí của VOS nên việc giá dầu
thô duy trì ở mức trên dưới 50 USD/thùng sẽ giúp cho công ty giảm được khoảng 20% chi phí
trong nửa đầu năm 2015. Đồng thời, có khả năng VOS sẽ tiếp tục thực hiện thanh lý một số tàu
già đã hết khấu hao theo chủ trương tái cấu trúc đội tàu của Vinalines nhằm cải thiện dòng tiền và
giảm chi phí hoạt động.
Ngành Điện
Diễn biến ngành năm 2014:
Sản lượng điện thương phẩm tiếp
tục gia tăng đều đặn trên 10% yoy.
Sản xuất điện:
Điện sản xuất của cả nước tháng 11 năm 2014 ước đạt 11,93 tỷ kWh, (+13% yoy). Luỹ kế
11T2014, điện sản xuất ước đạt 128,57 tỷ kWh, (+12,9% yoy), trong đó điện sản xuất của Tập
đoàn Điện lực Việt Nam ước đạt 57,55 tỷ kWh (+11,1% yoy).
Lũy kế 11 tháng năm 2014, điện thương phẩm ước đạt 117,636 tỷ kWh, (+11,31% yoy). Trong
đó, điện thương phẩm nội địa tăng 11,94% (miền Bắc tăng 15,23%, miền Trung tăng 11,03%,
miền Nam tăng 9,35%).
Nguồn: EVN
Nguồn: EVN
Biến động của giá điện: Trong đợt điều chỉnh cơ cấu giá điện lần này, mức giá bán lẻ điện bình
quân vẫn giữ nguyên ở mức 1.508,85 đồng/kWh (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng); tuy nhiên,
mức giá bán lẻ điện sinh hoạt cho hộ nghèo và thu nhập thấp (993 đồng/kWh) chính thức bị bãi
6
8
10
12
14
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11
Sản lượng điện 11T2014 (kWh)
54% 36%
5% 1% 4%
Công Nghiệp Quản Lý Tiêu Dùng
Thương Mại - Dịch Vụ Nông Nghiệp
Khác
Cơ cấu sử dụng điện
44%
31%
23%
2% 0,2%
Cơ cấu sản xuất điện
Thuỷ Điện Tua Bin Khí
Nhiệt Điện Than Mua Của TQ
Nhiệt Điện Dầu
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 49
bỏ.
KQKD các DN ngành điện 9T2014:
Nguồn: VCBS tổng hợp
Doanh thu của các nhà máy thuỷ điện được niêm yết nhìn chung không có tăng trưởng đột biến,
ngoại trừ trường hợp của SHP do công ty chính thức đưa vào hoạt động nhà máy Đa M’bri, chủ
yếu là do điều kiện thuỷ văn không ưu đãi trong năm 2014. LNST của các công ty thủy điện lại có
xu hướng giảm trừ trường hợp của SHP và SJD.
Nguồn: VCBS tổng hợp
Doanh thu của các công ty nhiệt điện niêm yết nói chung đều có sự tăng trưởng so với cùng kỳ,
tuy nhiên LNST có sự phân hoá rõ rệt. PPC có mức giảm lợi nhuận khoảng 78% so với cùng kỳ
2013 vì khoản lãi tỷ giá giảm mạnh do tỷ giá JPY/VND giảm ít hơn so với 2013. Trong khi đó
trong 9T2014, LNST của NT2 đạt trên 600 tỷ đồng (trong khi công ty phải ghi nhận khoản lỗ 87
tỷ đồng cùng kỳ năm 2013) chủ yếu là do khoản lãi chênh lệch tỷ giá do EUR giảm giá mạnh
trong năm 2014 và tăng giá bán điện với EVN. Đáng chú ý trong năm 2014, cả NT2 và PPC đều
giãn thời gian khấu hao. NT2 giãn từ 10 năm lên 14 năm nên LNST tăng 60,7 tỷ đồngvà PPC
giãn từ 2 năm lên 12 năm, tăng LNST thêm 390 tỷ đồng.
Nhìn chung, hoạt động của ngành trong 2104 không có thay đổi lớn so với năm 2013ngoài
việc một số doanh nghiệp thu được lợi nhuận đột biến do có thêm nhà máy hoạt động, lãi do
chênh lệch tỷ giá hoặc thay đổi phương pháp khấu hao tài sản.
0
100
200
300
400
500
CHP TMP VSH SJD TBC SHP
Doanh thu thuần
9T2013 9T2014-50
0
50
100
150
200
CHP TMP VSH SJD TBC SHP
Lợi nhuận sau thuế
9T2013 9T2014
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
NT2 PPC BTP NBP
Doanh thu thuần
9T2013 9T2014
-200
0
200
400
600
800
1000
NT2 PPC BTP NBP
Lợi nhuận sau thuế
9T2013 9T2014
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 50
Triển vọng ngành 2015:
Sản lượng sản xuất điện tiếp tục gia
tăng, đáp ứng được nhu cầu tiêu
thụ.
Sản lượng sản xuất điện tiếp tục gia tăng, đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ:Tổng công suất
nguồn điện cả nước đến hết năm 2014 là 31.240 MW, các nhà máy điện hoàn thành năm 2015
(tổng công suất 4.670MW) sẽ nâng tổng công suất lên 35.910 MW giúp cho lượng điện sản xuất
trong nước (điện sản xuất và mua nội địa của EVN) có thể đạt trên 170 tỷ kWh, đáp ứng nhu cầu
điện của năm 2015.
Với mục tiêu tăng trưởng GDP trong năm 2015 là 6 – 6,2%, nhu cầu điện thương phẩm tương
ứng sẽ là 139,1 tỷ kWh, tăng 10% so với ước thực hiện năm 2014. Sản xuất và mua điện năm
2015 ước vào khoảng 154,2 tỷ kWh, trong đó điện sản xuất của EVN là 68,1 tỷ kWh.
Các dự án nhà máy điện sắp đi vào hoạt động: Một số nhà máy nhiệt điện có công suất cao
như Formosa Hà Tĩnh (650 MW) và Vũng Áng 1 (1.200 MW) sẽ được đưa vào hoạt động trong
năm 2015 giúp tăng sản lượng điện cung cấp cho thị trường. Tuy nhiên,Tập đoàn điện lực VN
(EVN) cho biếtcác nguồn điện mới đi vào vận hành tập trung chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung,
thêm vào đó,một số nhà máy điện mới vẫn chưa thể đi vào hoạt động nên năm 2015, nguy cơ
thiếu điện tại các tỉnh phía Nam rất cao.EVN hiện đang phải triển khai một số dự án cấp bách để
tập trung thúc đẩy phát triển các nguồn điện khu vực miền Nam như dự án điện Vĩnh Tân 2, các
nhà máy điện Duyên Hải 1-3 mở rộng để bù khoảng 3.000 MW thiếu hụt.
Giá bán lẻ điện sẽ tăng: Theo quyết định mới ban hành của Thủ tướng Chính phủ, giá bán lẻ
điện tối đa đến 2015 là 1.835 đồng/kWh, cao hơn 21% so với mức 1.508,85 đồng/kWh hiện tại.
KQKD các DN tiêu biểu trong
ngành
Khuyến nghị MUA SHP, NT2
Khuyến nghị MUA SHP
Trong số các doanh nghiệp thuỷ điện đang niêm yết, SHPđáng chú ý do hoạt động sản xuất điện
được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt vào các năm tiếp theo. Do có nhà máy Đa M’bri có công
suất khá lớn (75MW) mới được đưa vào hoạt động đầu năm 2014 và điều kiện thuỷ văn ưu đãi
nên cho dù trong năm 2014, tổng nợ ngắn hạn của công ty là 283,361 tỷ đồng và chi phí lãi vay sẽ
là 114,58 tỷ đồng, lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2014 được
dự báo ở mức 448,84 tỷ đồng, sẽ đủ khả năng thanh toán các chi phí lãi vay, bảo đảm thanh
khoản của công ty.
Luỹ kế 11T2014, SHP đã sản xuất được 630,48 triệu kWh, đạt 126,6% kế hoạch năm 2014. Dự
tính đến hết năm 2014, SHP có thể sản xuất được 651 triệu kWh điện (130,8% KH) và đạt 530,08
tỷ đồng DTT (+173,1% yoy, 106,5% KH). LNST đạt 179,84 tỷ đồng (+72,56%yoy, 239,78%
KH) trong năm 2014.Năm 2015, SHP có thể đạt 546,61 tỷ đồng DTT (+3,1% yoy) và LNST đạt
khoảng 201,45 tỷ đồng (-8,14% yoy) chủ yếu do công ty bắt đầu phải trả gốc khoản vay của
VDB. P/E forward cho 2015 là vào khoảng 9,31 lần, vẫn thấp hơn trung bình ngành. Do giá bán
điện cho nhà máy Đa M’bri, nhà máy thuỷ điện lớn nhất của SHP, được kí ở mức 916,13
đồng/kWh trong 10 năm từ 2013, hứa hẹn mang lại nguồn doanh thu bền vững cho công ty. Với
dòng tiền được giữ ở mức ổn định và các khoản vay giảm dần theo năm, lợi nhuận của SHP sẽ có
mức tăng trưởng cao trong tương lai.Do vậy, chúng tôi khuyến nghị MUA SHP trên quan điểm
đầu tư dài hạn.
Khuyến nghị MUA NT2
NT2 hiện đang có những lợi thế nhất định so với một số doanh nghiệp ngành điện niêm yết trên
sàn như (1) thị trường miền Nam đang có nguồn cầu vượt cung, (2) vị trí địa lý thuận lợi và(3)
hợp đồng mua bán điện tốt hơn so với các công ty khác (ký dài hạn 10 năm, thanh toán bằng
USD, giá bán được điều chỉnh theo các yếu tố đầu vào).Thêm vào đó,với mô hình tập trung vào
hoạt động kinh doanh cốt lõi, không có các khoản đầu tư tài chính ngoài ngành; NT2 hiện có quy
mô công suất lớn thứ 2 trong các doanh nghiệp nhiệt điện niêm yết trên sàn (750MW).
Trong Q4.2014, NT2 sẽ sản xuất thêm 1,12 tỷ kWh. ớc tính trong năm 2014, NT2 sẽ sản xuất
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 51
được gần 4,6 tỷ kWh (115% KH, -1,5% yoy), DTT 2014 đạt 6.027 tỷ đồng (+2,5% yoy); LNST
đạt 936 tỷ đồng trong đó 608 tỷ đồng từ HĐSX kinh doanh cốt lõi; 328 tỷ đồng từ chênh lệch tỷ
giá và hồi tố 180 tỷ đồng DT. EPS 2014 ở mức 3.657 đồng (EPS từ HĐSX kinh doanh chính là
2.375 đồng).
NT2 đặt kế hoạch sản xuất 4,3 tỷ kwh trong năm 2015.Tuy nhiên, do không có hoạt động trùng tu
nhà máy như năm 2014 và nhu cầu tiêu thụ điện theo dự báo của Trung tâm điều động hệ thống
điện quốc gia theo phương án cơ sở sẽ tăng 11,6% so với năm 2014, thì sản lượng điện sản xuất
của NT2 dự kiến sẽ tăng nhẹ so với sản lượng sản xuất thực tế năm 2014. Bên cạnh đó, KQKD
của NT2 sẽ có tác động tích cực từ: (1) LNTT tăng thêm 346 tỷ đồng so với 2014 do tăng thời
gian khấu hao (286 tỷ đồng) và 60 tỷ đồng do chỉ hạch toán 66 tỷ đồng từ lỗ chênh lệch tỷ giá xây
dựng cơ bản thay vì 126 tỷ đồng như năm 2014; (2) hạch toán 620 tỷ đồng DT từ chênh lệch giá
điện chính thức và giá tạm tính. Hệ số EV/EBITDA 2014 ở mức 6,39 lần, thấp hơn so với trung
bình ngành ở mức 8,86 lần và so với PPC ở mức 11,92 lần. Định hướng cổ tức bằng tiền mặt ổn
định từ 15-20%/năm.Do đó, chúng tôi khuyến nghị MUA NT2 cho mục tiêu dài hạn.
Ngành Dệt may
Diễn biến ngành 2014:
Tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng
với kỳ vọng hưởng lợi từ các hiệp
định tự do thương mại đang được
đàm phán, ký kết.
Kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng mạnh: Dệt may được coi là một trong những điểm sáng
trong bức tranh xuất khẩu của Việt Nam năm 2014 với tốc độ tăng trưởng bình quân ấn tượngvà
ổn định ở mức 18,76% CAGR tính từ năm 2000 trở lại đây. Theo số liệu sơ bộ từ Tổng cục Hải
quan, giá trị xuất khẩu bình quân dệt may trong năm 2014 đạt 1,955 tỷ USD/tháng. Tính đến giữa
tháng 12 năm 2014, xuất khẩu hàng dệt may đã đạt 19,801 tỷ USD, tăng 16,6% so với cùng kỳ
năm ngoái. Nếu tính cả hàng xơ, sợi dệt và nguyên phụ kiện các loại, khả năng kim ngạch xuất
khẩu toàn ngành sẽ đạt mức 24,5 tỷ USD, vượt kế hoạch đề ra khoảng 0,5 đến 1 tỷ USD và có
khả năng mang lại giá trị thăng dư thương mại lên đến 12 tỷ USD.
Nguồn: Tổng cục Hải quan, VCBS tổng hợp
Trong năm vừa qua, giá nguyên liệu đầu vào của ngành dệt may giảm mạnh khiến giá trị đơn
hàng xuất khẩu theo đó cũng giảm, thấp hơn so với năm 2013. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu
lại tăng trưởng khá ấn tượng, đặc biệt tại các thị trường thuyền thống của Việt Nam. Cụ thể, thị
trường Hoa Kỳđạt 9,8 tỷ USD (+14,85% yoy); thị trường EUđạt 3,4 tỷ USD (+26% yoy); thị
trường Nhật Bản đạt 2,7 tỷ USD (+13,82% yoy); thị trường Hàn Quốc đạt 2,4 tỷ USD (+36%
yoy). Theo đó, tính riêng 4 thị trường này đã chiếm hơn 74% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
cả nước, đặc biệt là Hoa Kỳ chiếm tới 40%.
9,066 11,210
13,212 15,090
17,933 22,127
-
4,000
8,000
12,000
16,000
20,000
24,000
2009 2010 2011 2012 2013 2014E
Kim ngạch XK hàng dệt, may qua các năm
(triệu USD)
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 52
Nguồn: Bộ Công thương, VCBS tổng hợp
Bên cạnh đó, một số thị trường mới nổi cũng đóng góp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu của
ngành như thị trường Trung Quốc với kim ngạch ước đạt khoảng 2,2 tỷ USD; thị trường Canada
với kim ngạch ước đạt 800 triệu USD và thị trường Nga ước đạt 300 triệu USD.
Thị trường nội địa được mở rộng: Xu hướng sử dụng nguyên liệu dệt may trong nước đang có
chiều hướng tăng khi tăng trưởng nguyên liệu bán nội địa giữa các doanh nghiệp ngành may trong
nước với nhau trong 9T2014 đã tăng tới 18%. Đây là một động thái tích cực của ngành nhằm
giảm phụ thuộc nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong… cũng như chuẩn bị
đáp ứng các yêu cầu về xuất xứ của các hiệp định thương mại sắp được ký kết trong thời gian tới.
Nếu xét cả tình hình kinh doanh hàng dệt may thành phẩm trong nước, tổng kinh doanh nội địa
9T2014 cũng tăng 12% so cùng kỳ năm 2013. Các doanh nghiệp cũng đã chú ý hơn vào việc đầu
tư phát triển giá trị gia tăng cho các mặt hàng của mình, tập trung hơn vào khâu thiết kế sản phẩm
và bước đầu hướng tới các phương thức sản xuất ODM (Original Design Manufacturing) và
OBM (Original Brand Manufacturing).
Tập đoàn Dệt may Việt Nam IPO:Ngày 22/9/2014, Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) đã tổ
chức thành công việc bán cổ phần lần đầu ra công chúng với vốn điều lệ là 5.000 tỷ đồng, trong
đó Nhà nước giữ 51%. Việc này thể hiện quyết tâm đẩy mạnh cơ cấu ngành dệt may Việt Nam trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của Chính phủ, tạo điều kiện thu hút vốn FDI và tạo ảnh hưởng tích
cực tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty nội địa nói riêng và toàn ngành dệt may
Việt Nam nói chung khi tập đoàn Vinatex giữ vai trò nóng cốt của ngành dệt may Việt Nam với
lợi thế về quy mô và năng lực sản xuất.
Tương quan các doanh nghiệp trong ngành: Các doanh nghiệp dệt may đang niêm yết đều có
kết quả kinh doanh khả quan so với cùng kỳ 2013.
Mã LNST 9T2014
(tỷ đồng) % thay đổi yoy % hoàn thành kế hoạch lợi nhuận 2014
TCM 130 +37% 79%
GMC 56 +21% 100%
TNG 40 +120% 80%
KMR 17 +18% 70%
Hoa Kỳ
40.00%
EU
13.88%
Nhật Bản
11.02%
Hàn Quốc
9.80%
Khác
25.31%
Cơ cấu thị trường XK hàng dệt,
may năm 2014
86%
14%
Cơ cấu hàng xuất khẩu ngành dệt
may năm 2014
Hàng may mặc Xơ, sợi dệt các loại
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 53
Triển vọng 2015:
Tiếp tục thuận lợi nhờ các hiệp
định thương mại tự do và xu hướng
dịch chuyển đơn hàng từ Trung
Quốc về Việt Nam
Năm 2015 được đánh giá là năm thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam.
(1) Triển vọng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ngay tại các thị trường truyền thống của
ngành còn rất lớn. Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào
Hoa Kỳ luôn tăng 12-13%/năm, trong khi tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ
chỉ tăng 3%. Trong khi đó, dệt may Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 9% tỷ trọng nhập khẩu hàng
may mặc của Mỹ. Điều này cho thấy dư địa xuất khẩu dệt may tới thị trường Hoa Kỳ là rất tiềm
năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, sang năm 2015, dự
báo xuất khẩu dệt may năm 2015 của Việt nam sang Mỹ tiếp tục đạt tăng trưởng tốt, tăng 13% so
với năm 2014, đạt trên 11 tỷ USD.Ngoài ra, thị phần của hàng dệt may Việt Nam tại thị trường
EU và Nhật Bản cũng tăng rất khả quan. Dự báo tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam
trong năm 2015 sang EU có thể đạt trên 4 tỷ USD (+17% yoy) và Nhật Bản có thể đạt 2,9 tỷ
USD(+9% yoy).
(2) Kỳ vọng hưởng lợi về thuế suất từ các hiệp định tự do thương mại sẽ được ký kết trong
tương lai cũng là động lực lớn để ngành dệt may Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng và phát huy thế
mạnh về năng lực canh tranh trong cuộc đua với cácnước xuất khẩu dệt may lớn trên thế giới.
Ngoài hai Hiệp định đã được ký kết và chắc chắn đầu năm 2015 sẽ có giá trị về pháp lý là Hiệp
định FTA Việt Nam – Hàn Quốc và Liên minh Hải quan (Nga, Belarus, Kazakhstan), phải kể đến
các hiệp định mang giá trị kinh tế lớn đang đàm phán như:
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP): Sau vòng đám phán cấp trưởng đoàn
trong tại Washington, D.C., Hoa Kỳ tháng 12 vừa qua, các bên đã tập trung vào một số nội dung
tương đối phức tạp: doanh nghiệp Nhà nước, vấn đề môi trường, mở cửa thị trường hàng hóa, đặc
biệt là đàm phán về quy tắc xuất xứ và cũng đã đạt được những bước tiến nhất định. Dự kiến,
Hiệp định TPP sẽ được ký kết vào giữa năm 2015. Theo đó, khi TPP được ký kết sẽ là yếu tố
thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị phần tại thị trường Mỹ. Hàng dệt may Việt
Nam xuất khẩu vào Mỹ sẽ giảm dần xuống 0% so với mức hiện tại là 17-18%. Ngoài ra, TPP
cũng là cơ hội cho ngành khi các nhà đầu tư Nhật Bản, một trong những nước tham gia đàm phán,
đang tăng dần đầu tư vào vùng sản xuất nguyên phụ liệu dệt may tại Việt Nam. Điều này đã tạo
cho ngành dệt may Việt Nam cơ hội tận dụng được lợi thế về quy tắc xuất xứ và từng bước đáp
ứng được tiêu chuẩn về kỹ thuật và môi trường khi xuất khẩu sang Nhật Bản.
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU:Hiện tại, Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 1% tổng
giá trị nhập khẩu hàng dệt may của thị trường EU. Với kỳ vọng FTA Việt Nam - EU được ký kết,
thuế suất giảm từ 12% về 0% sẽ tạo ra sức cạnh tranh lớn cho hàng dệt may xuất khẩu vào thị
trường này.
(2) Thị trường nội địa tiềm năng còn nhiều dư địa để phát triển. Đặc biệt, xu hướng sử dụng
các sản phẩm made-in-Vietnam được ngày càng ưa chuộng.Chuỗi phân phối các mặt hàng may
sẵn nội địa cũng được nhân rộng cả về quy mô và số lượng. Trong 6 tháng đầu năm 2014, tính
riêng doanh thu nội địa của Tập đoàn dệt may lớn nhất cả nước Vinatex ước đạt 11.000 tỷ đồng,
tăng 10% so với cùng kỳ năm 2013.
(3) Xu hướng dịch chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam của các tập đoàn dệt may
quốc tế nhờ giá nhân công cạnh tranh. Trong đó phải kể đến TAL Group, một trong những
công ty sản xuất áo nam lớn nhất thế giới có trụ sở tại Hong Kong, đã quyết định đầu tư dự án
200 triệu USD vào Việt Nam nhằm tăng cơ cấu sản lượng của các nhà máy đặt tại Việt Nam từ
12-15% lên 25% tổng sản lượng của TAL Group trong vòng 2 năm tới. Ngoài ra, với quy mô nhỏ
hơn, tập đoàn E-Land hàng đầu Hàn Quốc cũng đang dần chuyển dịch đơn hàng của mình từ cơ
sở tại Trung Quốc và Ấn Độ sang Việt Nam.
Trong thời điểm kinh tế còn nhiều khó khăn như hiện nay, dệt may được đánh giá là một
trong số ít những ngành vẫn giữ được tăng trưởng dương và ổn định. Và qua các số liệu
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 54
thống kê của ngành cũng như chủ trương của Chính phủ, chúng tôi nhận thấy rằng tiềm năng phát
triển của ngành dệt may vẫn còn dư địa rất lớn. Theo đó, ngành dệt may đặt kế hoạch xuất
khẩu rất khả quan ở mức từ 28-28,5 tỉ USD.
Doanh nghiệp triển vọng:
Khuyến nghị MUA với TCM và
GMC
Các DN dệt may niêm yết mà VCBS đánh giá triển vọng tốt và khuyến nghị MUA trong
năm 2015 là TCM và GMC. Các nhà đầu tư dài hạn có thể cân nhắc để theo dõi, mua vào khi thị
trường điều chỉnh và giá cổ phiếu giảm về mức giá hợp lý.
TCMlà doanh nghiệp dệt may đầu ngành, có tốc độ tăng trưởng ổn định, năng lực sản xuất lớn;
ngoài ra TCM còn có lợi thế về chuỗi sản xuất khép kín rất phù hợp với các yêu cầu về xuất xứ
của các Hiệp định FTA mà Việt Nam sắp ký kết. DT ước tính cả năm 2014 sẽ ở mức 2.543 tỷ
đồng, tương đương mức năm 2013 vàhoàn thành 90% KH. Tuy nhiên với việc tiếp tục quản lý tốt
chi phí, LNST dự báo sẽ đạt được kế hoạch đã đặt ra, đạt mức 164 tỷ đồng (+32% yoy). Theo đó,
EPS forward cho năm 2014 là 3.340 đồng/CP, tương ứng P/E là 9,64 lần.
GMC là cổ phiếu dệt may có cơ bản khá tốt và luôn giữ mức tăng trưởng cao, ổn định trong 3
năm qua.Ngoài yếu tố thanh khoản thấp, GMC cũng là một cổ phiếu khá hấp dẫn cho các nhà đầu
tư dài hạn với tỷ lệ trả cổ tức cao (trung bình ở mức 20%), luôn hoàn thành kế hoạch kinh doanh
đã đặt ra và có bộ máy lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược dài hạn. Theo số liệu chưa kiểm toán đã
công bố của GMC, DT hợp nhất cả năm đạt 1.418 tỷ đồng (+15% yoy; 109,08% KH), LNST hợp
nhất đạt 74 tỷ đồng (+30% yoy; 110,45% KH). Hiện, EPS cả năm ở mức 6.357 đồng/CP, tương
đương với mức P/E là 5,82 lần.
Ngành Thực phẩm
Diễn biến ngành 2014:
Ngành thực phẩm tiếp tục diễn biến
khá ổn định. Tiêu điểm tập trung
vào các thương vụ M&A của các
tập đoàn thực phẩm lớn.
Năm 2014, ngành thực phẩm tiếp tục duy trì mức tăng ổn định về sản xuất và tiêu thụ. Theo
Tổng cục thống kê, chỉ số sản xuất chế biến thực phẩm năm 2014 ước tăng 5,1% so với năm
trước. Trong đó, ngoại trừ tháng 2 chỉ số này tăng mạnh nhất do ảnh hưởng của việc Tết sớm thì
hầu hết đều tăng nhẹ trong các quý còn lại, trung bình đạt 6% mỗi tháng. Xét tình hình tiêu thụ,
mức tăng cũng được duy trì khá đều đặn qua các tháng, trừ một số tháng đạt mức tăng thấp 1% -
3%, các tháng còn lại đều tăng khá từ 6-8%. Tình hình tồn kho có khuynh hướng tăng dần, đặc
biệt trong các tháng cuối năm dựa trên cơ sở dự báo nhu cầu của người dân sẽ tăng mạnh trong
dịp Tết trong bối cảnh nền kinh tế đã phục hồi và lạm phát được kiểm chế ở mức thấp.
Chỉ số sản xuất chế biến thực phẩm 2014 Chỉ số tiêu thụ và tồn kho thực phẩm 2014
(Nguồn: Tổng cục thổng kê, VCBS tổng hợp)
Xuất hiện làn sóng M&A mạnh mẽ trong lĩnh vực thực phẩm. Sự kiện đáng chú ý nhất trong
năm 2014 là việc Tập đoàn Mondelèz International mua mảng bánh kẹo của KDC. Sau khi bán
80% cổ phần của mảng bánh kẹo, KDC tấn công vào các mảng kinh doanh khác của ngành thực
phẩm như mỳ gói, cà phê, dầu ăn…với định vị trở thành một tập đoàn thực phẩm lớn và phát triển
-10%
0%
10%
20%
30%
Toàn ngành CN Chế biên, chế tạo
SX chế biến TP
0%
20%
40%
60%
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11
Tiêu thụ chế biến, chế tạo Tiêu thụ SX chế biến TP Tồn kho chế biến, chế tạo Tồn kho SX chế biến TP
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 55
đa ngành. Chiến lược này đã và đang được MSN thực hiện khá thành công. Trong năm nay,
Masan Consumer cũng đã chào mua công khai 49% cổ phần của Cholimex Food, với trị giá
thương vụ dự kiến khoảng 357 tỷ đồng. Mục tiêu của MSN dễ dàng nhận thấy khi với thương vụ
này, Masan Consumer không chỉ loại được đối thủ trực tiếp đối với mảng gia vị, thực phẩm mà
còn tận dụng được lợi thế của việc sáp nhập để gia tăng thị phần và sức cạnh tranh. Ngoài ra tái
cấu trúc ngành đường cũng đã dẫn tới việc M&A nhiều công ty lớn trong ngành, cụ thể là việc
BHS sáp nhập với NHS, SEC sáp nhập SBT cũng tạo ra diện mạo mới cho ngành. Sau khi sáp
nhâp, quy mô các công ty tăng lên, là cơ sở tốt để áp dụng cơ giới hóa đối với tất cả các khâu từ
trồng đến khi thu hoạch mía giúp các công ty nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản
phẩm.
Bên cạnh đó, thị trường cũng xuất hiện một số tên tuổi lớn khác lấn sâu hơn vào các lĩnh
vực thực phẩm. Việc HAG ký kết hợp tác với Nutifood và Vissan để cung ứng bò thịt và bò sữa
cho các đối tác được xem là tín hiệu vui cho thị trường thực phẩm trong nước khi giúp tăng lượng
cung chất lượng cao, và giá cả hợp lý. Theo kế hoạch do công ty đã công bố, sản phẩm thịt và sữa
của HAG có thể xuất hiện trên thị trường vào khoảng quý 1 năm 2015.
Phân ngành sữa tăng trưởng tốt và
tín hiệu lạc quan đối với nguồn
cung khi nhiều dự án phát triển đàn
bò sữa trong nước đang được triển
khai.
Diễn biến một số phân ngành chính
Phân ngành sữa:
Tình hình sản xuất và chế biến sữa khá ổn định. Chỉ số sản xuất chế biến sữa và các sản phẩm
sữa năm 2014 tăng khá đạt 8,7% yoy, chủ yếu là nhờ tăng mạnh trong mảng sản xuất sữa tươi
(+20.9% yoy) đạt 947,2 triệu lít trong khi mảng sữa bột có sự giảm nhẹ (-3,8% yoy) chỉ đạt được
81,4 nghìn tấn. Trong năm 2014, nhiều dự án phát triển đàn bò sữa của các doanh nghiệp lớn
trong nước liên tục được triển khai. Số lượng đàn bò sữa cả nước tăng khá cao 22,1% đạt 227,6
nghìn con (+22,1% yoy) tuy nhiên vẫn chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu trong nước và tỷ trọng
sữa nguyên liệu nhập khẩu vẫn chiếm tỷ lệ lớn khoảng hơn 70%. Theo Tổng cục Hải quan, tính
đến 15/10/2014, tổng giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa của Việt Nam là 1.05 tỷ USD. Ngoài
ra, quy định về áp trần giá sữa dành cho trẻ dưới 6 tuổi cũng đã mang lại một số kết quả tích cực
cho người tiêu dùng nhưng lại tác động đến KQKD của các DN trong ngành.
Dù chưa thoát khỏi những khó khăn
nội tại nhưng phần nào cho thấy tín
hiệu chạm đáy.
Phân ngành mía đường:
Thực trạng vẫn còn nhiều khó khăn khi tồn kho vẫn ở mức cao. Lượng đường tồn kho tại các
nhà máy đường khi kết thúc niên vụ mía đường 2013-2014 vào khoảng 415.000 tấn. Trong niên
vụ 2014- 2015, lượng đường dự kiến sản xuất vào khoảng 1,5 triệu tấn. Với lượng đường tồn kho,
cùng với 77.2 nghìn tấn nhập khẩu hạn ngạch tổng lượng đường năm 2015 vào khoảng 2 triệu
tấn, tương đương năm trước. Giá đường trong năm vẫn chưa phục hồi và đang duy trì ở mức thấp.
Giá đường bán buôn trên thị trường nội địa hiện nay ở mức từ 11.500 - 12.100 đồng/kg, giảm
khoảng 18% so với cùng kỳ năm trước.
Tăng trưởng ổn định, với thị phần
chính vẫn thuộc về doanh nghiệp
Việt Nam. KQKD của các doanh
nghiệp ảnh hưởng lớn bởi tính mùa
vụ
Phân ngành bánh kẹo:
Bánh kẹo Việt tiếp tục chiếm lĩnh thị trường trong nước. Theo thống kê, các DN bánh kẹo VN
đang cung cấp khoảng 80% cho nhu cầu thị trường nội địa, 20% còn lại là bánh kẹo nhập khẩu.
Tại hệ thống các siêu thị, tỉ lệ bánh kẹo Việt và ngoại trung bình là khoảng 60/40. Người tiêu
dùng ngày càng có khuynh hướng lựa chọn các sản phẩm bánh kẹo của Việt Nam sản xuất nhờ
chất lượng ngày càng nâng cao, hình ảnh bao bì mẫu mã được đầu tư bài bản đa dạng và hiện đại
trong khi giá cả phải chăng đặc biệt đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng đối với các sản
phẩm mang tính truyền thống.
Ngành bánh kẹo đặc trưng bởi tính mùa vụ. Vì bánh kẹo không thuộc mặt hàng thiết yếu nên
nhu cầu chủ yếu gia tăng vào các dịp lễ tết. Thông thường mùa Tết Trung thu và Tết Nguyên Đán
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 56
thường chiếm tỷ trọng lớn trong KQKD của các doanh nghiệp bánh kẹo. Do đó các doanh nghiệp
bánh kẹo lớn như KDC, BBC, Hữu Nghị đều đã chuẩn bị lượng hàng lớn cho dịp Tết Ất Mùi. Cụ
thể, KDC sẽ cung cấp 5.000 tấn bánh kẹo (+10% yoy) để đáp ứng mọi nhu cầu biếu tặng, thưởng
thức đa dạng của người tiêu dùng. Còn BBC dự kiến sản lượng Tết 2015 là 1.350 tấn bánh kẹo và
socola các loại, tăng 20% yoy. CTCP Thực phẩm Hữu Nghị cũng chuẩn bị lượng hàng hóa
khoảng 5.500 tấn bánh mứt kẹo các loại (+10% yoy).Tính đến ngày 25/12/2014, công ty đã đưa ra
thị trường được 45% sản lượng kế hoạch.
Triển vọng ngành 2015:
Kỳ vọng lạc quan về kinh tế vĩ
môvà tổng cầu cải thiện là nền tảng
tốt để ngành thực phẩm duy trì mức
tăng ổn định và bền vững.
Năm 2015, tăng trưởng kinh tế và sức mua được kỳ vọng phục hồi tạo tiền đề cho ngành
tiếp tục tăng trưởng ổn định. Đối với ngành thực phẩm, tiềm năng tăng trưởng doanh thu lớn
nhờ vào nhu cầu tiêu dùng dự báo gia tăng thông qua sự kết hợp của các yếu tố nhân khẩu học
thuận lợi, sự đô thị hóa mở rộng, mức gia tăng thu nhập khả dụng và tỷ lệ tiêu dùng. Sự có mặt
của ngày càng nhiều các tập đoàn lớn tại thị trường Việt Nam khẳng định cho tiềm năng tăng
trưởng của lĩnh vực này.
Đối với một số phân ngành chính, chúng tôi cho rằng ngành sữa sẽ tiếp tục duy trì tăng trưởng
khả quan ngay cả khi mặt bằng giá vẫn ở mức khá cao so với nhu nhập trung bình của người
dân.Trong khi đó, ngành bánh kẹo duy trì mức tăng ổn định song khó có đột biến. Mặc dù ngành
mía đường còn rất nhiều khó khăn, đặc biệt là năng suất nhưng chúng tôi kỳ vọng sau quá trình
tái cấu trúc, ngành mía đường sẽ cải thiện tốt hơn trong năm 2015. Đặc biệt với dư địa tăng
trưởng của ngành thực phẩm nói chung, chúng tôi cho rằng xu hướng M&A vẫn có thể tiếp tục
sôi động hơn trong năm tới để tranh thủ cơ hội thâm nhập vào thị trường Việt Nam.
Cập nhật KQKD của một số DN
lớn trong ngành:
Khuyến nghị NẮM GIỮ đối với
VNM, HAG. THEO DÕI đối với
MSN, KDC
VNM: Dự kiến KQKD Q4 sẽ cải thiện và khả năng hoàn thành kế hoạch khá cao. KQKD
9T2014 kém khả quan với lợi nhuận ròng giảm 14% yoy chỉ đạt 4.338 tỷ đồng (72% KH LN) do
ảnh hưởng bởi áp lực cạnh tranh khiến công ty phải tăng cường khuyến mãi quảng cáo để giữ thị
phần kết quả là CP bán hàng của công ty tăng mạnh 40% trong khi chi phí giá vốn hàng bán vẫn
duy trì ở mức cao khiến biên lợi nhuận suy giảm. Tuy nhiên với tình hình giá sữa nguyên liệu thế
giới đang có chiều hướng giảm khá mạnh kể từ quý 3 năm nay, chúng tôi kỳ vọng biên lợi nhuận
của VNM sẽ được cải thiện góp phần giúp KQKD của VNM có thể khả quan hơn trong quý cuối
năm. Bên cạnh một số quan ngại VNM đang phải đối mặt như (i) lợi nhuận tăng trưởng âm (ii)
biên lợi nhuận ròng suy giảm chủ do cạnh tranh và chi phí nguyên vật liệu tăng cao, chúng tôi vẫn
đánh giá cao vị thế và triển vọng của VNM trong năm tới. Ngoài ra khả năng hoàn thành kế
hoạch năm nay vẫn khả thi, theo đó EPS forward đạt khoảng 6.890 đồng/cp, và tương ứng P/E
forward của VNM khoảng 14x, là mức định giá khá hợp lý. Do đó chúng tôi tiếp tục khuyến
nghị NẮM GIỮ đối với VNM.
KDC: Nhờ đóng góp chính từ mảng bánh trung thu và kiểm soát chi phí hiệu quả, tỷ lệ
hoàn thành kế hoạch LN của KDC ở mức cao.KDC kết thúc thành công mùa bánh trung thu
năm nay khi hoàn thành 100% kế hoạch với việc cung cấp 2.800 tấn bánh ra thị trường, tăng 8%
so với thực hiện năm trướcgiúp lũy kế 9T2014, KDC đạt 543 tỷ đồng LNTT, hoàn thành 82% KH
lợi nhuận.Dự kiến Q2.2015, sau khi bán 80% mảng bánh kẹo cho Mondelez, số dư tiền mặt của
KDC sẽ lên đến 10.000 tỷ đồng. Công ty sẽ sử dụng 8.411 tỷ đồng phục vụ cho các thương vụ
M&A trong tương lai và 1.575 tỷ đồng đầu tư: 700 tỷ đồng vào dầu ăn, 300 tỷ đồng vào Kido,
325 tỷ đồng vào mì ăn liền và 250 tỷ đồng vào cà phê.Tổng hợp doanh thu từ dầu ăn, mì ăn liền,
kem sữa, ước tính KDC sẽ đạt từ 8.400 - 9.600 tỷ đồng trong vòng 3 năm tới, tương ứng tốc độ
tăng trưởng bình quân đạt 18% -24%/năm. Điều này cho thấy sự chuyển hướng trong chiến lược
của KDC thay vì việc tiết kiệm chi phí để tăng biên lợi nhuận, công ty đang hướng đến việc mở
rộng thị trường và tăng doanh thu. Chúng tôi đang quan ngại đối với khả năng bứt phá để đạt tăng
trưởng cao trong các lĩnh vực kinh doanh mới mà KDC dự kiến tham gia như dầu ăn (TSSL đang
khá thấp) và mì ăn liền (cạnh tranh đang gay gắt). Cân nhắc cơ hội và thách thức từ chiến lược
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 57
1.4
1.79 1.88 1.91
0.16 0.26 0.31 0.34
0
0.5
1
1.5
2
2.5
2011 2012 2013 2014
Giá trị NK thuốc (tỷ USD)
Giá trị NK nguyên phụ liêu dược phẩm (tỷ USD)
này, chúng tôi khuyến nghị THEO DÕI đối với KDC.
HAG: Nhiều dự án mang về doanh thu và dòng tiền tích cực kể từ năm 2015. Lợi nhuận Q3
tăng trưởng đột biến. LNST thuộc về cổ đông công ty mẹ đạt gần 950 tỷ đồng, tăng gấp 4 lần so
với cùng kỳ, chủ yếu nhờ ghi nhận lãi từ chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần. Hoạt động kinh
doanh chính tăng trưởng khá tốt. EBIT đạt 236,6 tỷ đồng trong Quý 3, tương đương tăng 74% so
với cùng kỳ. Biên lợi nhuận gộp giảm dần đều trong 3 quý nhưng nhờ tiết giảm chi phí BH và
QLDN giúp biên lợi nhuận hoạt động 9T2014 vẫn tăng nhẹ đạt 34%.Lũy kế 9T2014, LNST hợp
nhất đạt 1.653 tỷ đồng, tăng gấp 2,4 lần yoy và đã vượt 13% kế hoạch lợi nhuận năm nay (1.460
tỷ đồng). EPS dự phóng cho năm 2014 đạt khoảng 4.129 đồng/cp, P/E forward khoảng 5,4 lần là
mức định giá hấp dẫn. Bên cạnh đó, HAG sẽ có nhiều dự án sẽ mang về doanh thu và dòng tiền
tích cực kể từ năm 2015. Do đó chúng tôi tiếp tục khuyến nghị NẮM GIỮ cổ phiếu HAG xét
trên quan điểm đầu tư trung và dài hạn.
MSN:KQKD 9T2014 của MSN sụt giảm mạnh so với cùng kỳ. Lợi nhuận thuần chỉ đạt 188 tỷ
đồng (-69% yoy) và LNST thuộc về cổ đông công ty mẹ bị âm 305 tỷ đồng so với 251 tỷ đồng
của 9T2013. Mặc dù doanh thu tăng trưởng khá tốt nhờ đóng góp chính của mảng tiêu dùng, tuy
nhiên, doanh thu từ dự án Núi Pháo chưa đủ bù đắp cho chi phí trong giai đoạn đầu trong khi chi
phí phục vụ chiến lược phát triển và tái cơ cấu các dòng sản phẩm thuộc ngành hàng tiêu dùng
đang tăng mạnh. Chúng tôi kỳ vọng vào những kết quả khả quan hơn vào quý cuối năm. Masan
Group đang tiến hành tái cấu trúc bằng cách hợp nhất vào Masan Consumer Holdings các lợi ích
kinh tế trực tiếpvà gián tiếp của mình trong công ty Masan Consumer. Điều này sẽ giúp tập đoàn
cải thiện được phần lợi ích thuộc về cổ đông công ty mẹ, qua đó cải thiện chỉ số EPS so với hiện
tại. Do đó, vào thời điểm hiện nay chúng tôi khuyến nghị THEO DÕI đối với MSN.
Ngành Dược phẩm
Diễn biến ngành 2014
Ngành Dược phẩm vẫn giữ vững
mức tăng trưởng ổn định.
Kết thúc năm 2014, ngành Dược phẩm ghi nhận mức tăng trưởng khá tốt so với giai đoạn
2011-2013, trong đó các loại thuốc nhập khẩu vẫn đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu tiêu
thụ thuốc.
Nhu cầu sử dụng thuốc trong nước ước đạt 3,9 tỷ USD vào năm 2014; tuy nhiên, giá trị thuốc sản
xuất trong nước chỉ mới chiếm khoảng 46-50% tổng giá trị sử dụngthuốc và có xu hướng giảm
dần qua trong giai đoạn 2011-2013.
Nguồn: BMI
Năm 2014, kim ngạch nhập khẩu thuốc đạt 1,91 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm 2013. Trong đó,
thuốc từ Ấn Độ chiếm tỷ trọng lớn nhất (18,7%, +6,6% yoy), tiếp theo là Pháp (16,8%,-5,3%
yoy) và Đức (13,6%, +28,7% yoy).
2.4
2.8
3.3
3.9
0%
5%
10%
15%
20%
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
2011 2012 2013 2014
Giá trị sử dụng thuốc
Industry Growth (%)
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 58
57.4%
15.7%
5.0%
4.3%
4.1% 13.5%
Cơ cấu nhập khẩu nguyên liệu
dược phẩm
Trung Quốc Ấn Độ Bỉ Áo Tây Ban Nha Khác
Bên cạnh đó, tổng giá trị nguyên phụ liệu dược phẩm cũng ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng
15,7% trong năm 2014, đạt 338 triệu USD. Trung Quốc vẫn đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu
nhập khẩu nguyên liệu đầu vào với tỷ trọng tuyệt đối 57,4% (+37,13% yoy), gấp 3,5 lần so với
quốc gia thứ hai là Ấn Độ (16,4%, +16,22% yoy).
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
Các quy định về đấu thầu thuốc vào bệnh viện dựa trên thông tư 01/2012 và 36/2013 của Bộ Y Tế
(BYT)tiếp tục gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Tuy vậy, Bộ Y Tế
đang nỗ lực xây dựng các tiêu chuẩn đấu thầu mới phù hợp hơn, cụ thể là Bảng tiêu chuẩn mới
đánh giá kỹ thuật thuốc kèm theo Thông tư số 31/2014/TT-BYT ban hành ngày 26/09/2014, nhấn
mạnh nhiều hơn vào tiêu chí chất lượng hoạt chất điều trị và tương đương sinh học(+5 điểm so
với bảng tiêu chuẩn cũ), đồng thời gửi công văn khẩn đến tất cả các bệnh viện và doanh nghiệp
dược phẩm yêu cầu đóng góp ý kiến sửa đổi các đánh giá kỹ thuật hiện tại, tránh tình trạng thuốc
giá rẻ nhưng chất lượng kém trúng thầu vào các bệnh viện.
Kết quả kinh doanh 2014 của các
doanh nghiệp niêm yết vẫn khả
quan, đa phần đều hoàn thành kế
hoạch cả năm về doanh thu và lợi
nhuận.
Phần lớn doanh nghiệp dược niêm yết hoàn thành kế hoạch kinh doanh năm 2014 nhờ (1)
các công ty đã rất chủ động chuyển hướng sang kênh phân phối OTC nhằm bù đắp cho sự sụt
giảm DT từ kênh ETC; (2) cơ cấu lại danh mục sản phẩm, tập trung vào các loại thuốc có thương
hiệu và biên LN cao; (3) được hỗ trợ bởi các chính sách thuế như thuế suất TNDN giảm còn 22%,
trần chi phí quảng cáo được nâng lên 15% và được gỡ bỏ hoàn toàn từ năm 2015.Cụ thể:
DHG sau khi đưa nhà máy Non-Betalactam mới vào sản xuất đầu tháng 5/2014 giúp nâng gấp đôi
công suất sản xuất thuốc (9 tỷ đv/năm), công ty tiếp tục mở rộng hệ thống phân phối và đẩy mạnh
công tác xuất khẩu, đồng thời nâng thời gian khấu hao nhà máy lên 30 năm nên vẫn duy trì được
tốc độ tăng trưởng ở mức 12% (không tính thu nhập bất thường).
DCL với thế mạnh là sở hữu 1 trong số ít nhà máy sản xuất capsule (viên nang rỗng) tại Việt
Nam và hưởng lợi từ thông tư đấu thầu thuốc vốn ưu đãi các thuốc giá rẻ nên đã có kết quả vượt
trội.
DMC cơ cấu lại doanh mục thuốc và quản lý chặt chẽ chi phí bán hàng giúp LNnăm 2014 tăng
trưởng trên 20% so với năm 2013.
SPM tập trung vào hoạt động vào kinh doanh cốt lõi, dần thoái vốn các khoản đầu tư ngoài ngành
và mạnh dạn phát triển dòng thuốc đặc trị chữa ung thư, góp phần vào mức tăng trưởng vượt bậc
300% năm 2014.
Ngoài ra trong năm 2014, lãi suất cho vay giảm đáng kể (trung bình 3-4%) đã giúp các doanh
nghiệp giảm bớt được sức ép nợ vay, chi phí sản xuất kinh doanh tiết giảm nhờ hoạt động hiệu
quả hơn, giúp kết quả kinh doanh tốt hơn năm trước.
18.7%
16.8%
13.6% 11.0%
8.1%
7.4%
24.5%
Cơ cấu nhập khẩu dược phẩm
Ấn Độ Pháp Đức Hàn Quốc Ý Anh Khác
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 59
Triển vọng ngành 2015:
Khuyến nghị MUA DMC, SPM,
TRA và NẮM GIỮ với IMP, DHG.
Năm 2015, theo IMS, các quốc gia pharmerging sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là khu
vực Châu Á, ước tính tại tốc độ 10-12% nhờ các yếu tố gia tăng dân số, tuổi thọ trung bình và thu
nhập của người dân.
Q1 thường là thời gian cao điểm của đấu thầu thuốc nên các công ty có cơ cấu doanh thu nghiêng
về kênh ETC sẽ chứng kiến mức tăng trưởng tốt, ngược lại các công ty tập trung vào kênh không
kê toa (OTC) sẽ ghi nhận mức suy giảm doanh thu do dược phẩm trên kênh sơ cấp (công ty sản
xuất đến các đại lý) thường tiêu thụ khá chậm sau dịp nghỉ Tết âm lịch.
Khuyến nghị MUA DMC, TRA, SPM và NẮM GIỮ với IMP, DHG.Hiện tại, thị giá của nhóm
cổ phiếu ngành dược đã tăng đáng kể, khoảng 30-40% so với đầu năm, phần nào phản ánh được
giá trị và tiềm năng tăng trưởng ổn định của ngành trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế.
Đối với DMC, công ty đã cơ cấu lại doanh mục thuốc của mình và tập trung đẩy mạnh bán hàng
qua kênh OTC, đồng thời kiểm soát các loại chi phí bán hàng và QLDN tốt giúp cho DT và
LNST tăng trưởng trên 20% trong năm 2014. Do CFR mới bị Abbott thâu tóm cuối tháng 9.2014
nên dấu ấn của đối tác này lên hoạt động của Domesco trong năm 2014 không rõ nét. Cụ thể, các
dự án phát triển thuốc mới và xây dựng nhà máy mới chưa được thực hiện. Về dài hạn, DMC vẫn
sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ cổ đông chiến lược CFR thông qua việc tiếp cận với các công thuốc
đặc trị chưa phát triển tại Việt Nam và cơ hội phân phối thuốc cho Abbott. Công ty cũng định
hướng đưa nhà máy sản xuất thuốc Non-betalactam lên tiêu chuẩn PIC/S. Lũy kế 11T2014, DTT
đạt khoảng 1.352 tỷ đồng và LNTT đạt 143 tỷ đồng.
TRA tuy trải qua 2 quý đầu năm với KQKD khá thất vọng nhưng công ty đã kịp thời chỉnh đốn
lại chính sách bán hàng của mình, đồng thời tập trung hơn vào mảng bán lẻ và dịch vụ khách
hàng giúp lượng khách hàng trung thành tăng lên gấp đôi đến cuối Q2.2014. Đặc biệt trong 6
tháng cuối năm 2014, DTT và LNST tăng mạnh, tương ứng với 1.000 tỷ đồng (+38% so với
6T2014) và 100 tỷ đồng (+60% so với 6T2014). ớc tính năm 2014, TRA sẽ đạt hơn 150 tỷ đồng
LNST, tuy không hoàn thành kế hoạch năm, nhưng công ty vẫn tự tin đặt mục tiêu tăng trưởng
25% cho năm 2016.
SPM tập trung vào hoạt động cốt lõi sau 2 năm kinh doanh đa ngành. Hiện tại, SPM đã tất toán
gần hết các khoản đầu tư trái ngành. Công ty bị khóa vốn 122 tỷ đồng chủ yếu trong các dự án
BĐS Long Trường, các mỏ đá tại Hà Tĩnh và Yên Bái và khoản đầu tư vào ASV. Trong đó, việc
thoái vốn khỏi dự án BĐS có tính khả thi cao nhất (nếu thành công, SPM sẽ ghi nhận lãi gần 100
tỷ đồng tính theo giá thị trường hiện nay), còn các dự án khác sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Về hoạt
động kinh doanh dược phẩm của mình, SPM đặt kế hoạch tăng trưởng 18% vào năm sau dựa trên
chiến lược đẩy mạnh quảng cáo các thuốc thương hiệu của công ty (viên sủi, thuốc ho) và dần mở
rộng hệ thống kênh phân phối, bớt phụ thuộc vào đối tác Đô Thành. Ngoài ra, công ty cũng sẽ tập
trung bán các thuốc đặc trị tự nghiên cứu, được kỳ vọng sẽ đóng góp 10% DTT hàng năm kể từ
năm 2015. ớc tính năm 2014, LNST của SPM đạt 55 tỷ đồng (+314% yoy, 137% KH). Rủi ro
khi đầu tư vào SPM là thanh khoản cổ phiếu thấp và các khoản phải thu lớn từ Đô Thành (461,3
tỷ đồng, 39,6% TTS)
Với bản chất dòng tiền vào ngành khó có những tăng trưởng đột biến cũng như thanh khoản,
nhóm cổ phiếu ngành dược khá thấp chỉ thích hợp với nhà đầu tư mục tiêu trung và dài hạn. Do
đó, nhà đầu tư quan tâm có thể xem xét MUA đối với DMC, TRA và SPM và NẮM GIỮ đối với
IMP và DHG.
Ngành Thủy sản
Diễn biến ngành năm 2014
Mặc dù là một năm rất khó khăn
Tính đến 30.11.2014, tổng kim ngạch XK thủy sản đạt 7,3 tỷ USD (+ 16,9% yoy) theo đó XK
thủy sản cả năm 2014 dự kiến đạt 7,8 tỷ USD (vượt 11,43% KH). Tăng trưởng khả quan của XK
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 60
của ngành cá tra và cá ngừ, sự bứt
phá của ngành tôm đã giúp cho
thủy sản Việt Nam vượt 11,4% kế
hoạch đề ra, tương đương kim
ngạch XK năm 2014 dự kiến đạt
khoảng 7,8 tỷ USD.
thủy sản 11T2014 chủ yếu đến từ sự bứt phá của ngành tôm (đặc biệt là tôm thẻ chân trắng) với
mức tăng trưởng mạnh 31% yoy, đóng góp 50,5% kim ngạch (cùng kỳ 2013 đóng góp 45% kim
ngạch). Đối với ngành cá tra, do đối mặt với nhiều khó khăn trong năm 2014 nên kim ngạch 11
tháng đầu năm có phần chững lại, chỉ tăng nhẹ 0,6% yoy, đóng góp 22% tổng kim ngạch XK thủy
sản cả nước. Điểm qua tình hình một số lĩnh vực khác như sau: ngành cá ngừ (đóng góp 6,1%
tổng kim ngạch) ghi nhận sự sụt giảm khá mạnh khoảng 9% yoy chủ yếu do giá cá ngừ và nhu
cầu thế giới tiếp tục suy yếu; các loại cá khác (đóng góp 12,7% kim ngạch) tăng mạnh 19,6%
yoy; nhuyễn thể (đóng góp 7,1% kim ngạch) tăng trưởng 9,3% yoy; giáp xác (đóng góp 1,6%)
tăng trưởng mạnh 21,7% yoy.
Tổng quan 11T2014, mặc dù XK cá ngừ giảm khá mạnh (-9% yoy), ngành cá tra còn đối mặt với
nhiều khó khăn, nhưng ngành tôm với vị thế là mảng thủy sản XK lớn nhất của Việt Nam đã giúp
toàn ngành có một năm thành công khi mà XK tôm Việt Nam hưởng lợi lớn từ việc dịch bệnh
EMS hoành hành tại các quốc gia XK tôm chủ chốt của thế giới (Thái Lan, Malaysia, Trung
Quốc, Mexico).
Cơ cấu kim ngạch XK theo nhóm mặt
hàng 11T2013
Cơ cấu kim ngạch XK theo nhóm mặt
hàng 11T2014
Nguồn: Vasep, VCBS tổng hợp.
Thị trường XK thủy sản Việt Nam 11T2014 khộng có nhiều thay đổi so với cùng kỳ 2013 và chủ
yếu tập trung vào các thị trường lớn như Mỹ (22%), Nhật (15,3%), EU (18,1%), Hàn Quốc
(8,4%) và Trung Quốc (8%). Trong đó, Mỹ, Nhật và EU là các thị trường có giá bán tốt nhất cũng
như các tiêu chuẩn khắt khe nhất về chất lượng thủy sản XK.
Cơ cấu kim ngạch XKTS theo quốc gia
11T2013
Cơ cấu kim ngạch XKTS theo quốc gia
11T2014
45%
25.60
%
7.84%
12.5% 7.6% 1.6%
50.5%
22.0%
6.1%
12.7% 7.1% 1.6% Tôm
Cá tra
Cá ngừ
Cá khác
Nhuyễn thể
Giáp xác khác
22.2%
16.8%
17.2%
7.29%
8.31%
3.00%
5.70% 19.5% 22.0%
15.30%
18.10%
8.40%
8% 3.10%
5.70%
19.50%
Mỹ
Nhật Bản
EU
Hàn Quốc
Trung Quốc
Australia
ASEAN
Các thị trường
khác
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 61
Tổng quan ngành cá tra và tôm
năm 2014
Tổng quan ngành cá tra năm 2014:
Trong năm 2014, quá trình tái cấu trúc ngành vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Sự phân hóa thể hiện
rõ khi chỉ các doanh nghiệp có đủ nguồn lực tài chính và vùng nguyên liệu mới có thể giữ vững vị
trí và tiếp tục phát triển.Những doanh nghiệp không đáp ứng được các yêu cầu nói trên tiếp tục bị
đào thải khỏi ngành (trường hợp của thủy sản Việt An - AVF).Theo đó, Q3.2014 được cho là thời
điểm mà ngành cá tra đang ở đáy của cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử ngành.
Về nguồn cung, trong 9 tháng đầu năm 2014, sản lượng cá tra nuôi trồng đều giảm ở tất cả các
tỉnh chủ chốt gồm Vĩnh Long (-8,5% yoy), Đồng Tháp (-5,1% yoy), Cần Thơ (-6,8% yoy), Tiền
Giang (-5,1% yoy) và Bến Tre (-0,5%) (Nguồn: Vasep). Nguyên nhân của việc sụt giảm bên cạnh
việc do một số doanh nghiệp rời khỏi ngành, một phần cũng là do giá cá tra xuống thấp trong Q2
nên người nuôi và doanh nghiệp trì hoãn tiến độ thu hoạch.
Về thị trường xuất khẩu trong 8T2014, mặc dù XK sang thị trường Mỹ giảm mạnh 18,61% yoy
do phán quyết cuối cùng của DOC về thuế CBPG tại vòng POR9 trong tháng 4, cũng như phán
quyết sơ bộ tại vòng POR10 trong tháng 7, tổng sản lượng XK của toàn ngành trong giai đoạn
này tăng nhẹ 1,36% yoy. Việc sản lượng toàn ngành giảm cùng với nỗ lực vực dậy ngành cá tra
của chính phủ đã giúp cho ngành dần trở nên ổn định hơn.Ngoài ra, tình trạng khan hiếm đã dẫn
đến giá cá tra nguyên liệu trong Q3 tăng mạnh 14,3% so vớiQ2, theo đó, góp phần cải thiện giá
xuất khẩu của toàn ngành trong những tháng cuối năm. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ cá da trơn của
thế giới trong năm nhìn chung chưa cải thiện nhiều, mà hầu như dậm chân tại chỗ, thể hiện qua
kim ngạch XK toàn ngành hầu như chững lại trong 4 năm liên tiếp (Nguồn: Vasep, như hình
dưới).
Tổng quan năm 2014, chúng tôi cho rằng ngành cá tra vẫn còn rất khó khăn ở cả 2 khía
cạnh: (1) Nội lực bên trong ngành vẫn còn yếu khi quá trình tái cấu trúc toàn chuỗi giá trị vẫn
tiếp tục diễn ra, (2) Môi trường bên ngoài tiếp tục không thuận lợi khi mà nhu cầu tiêu thụ cá da
trơn thế giới có phần chững lại.
Kim ngạch XK cá tra 11.T 4 năm gần nhất (triệu
USD)
Nguồn: Vasep
Xu hướng giá cá tra nguyên liệu tại vùng ĐBSCL
(đồng/kg)
Nguồn: CSDL, AgroMonitor
Tổng quan ngành tôm năm 2014:
Về nguồn cung, tình hình dịch bệnh trên tôm, đặc biệt là bệnh EMS đã gây ra rất nhiều khó khăn
cho hoạt động nuôi trồng tại Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia và Mexico, trong khi sản lượng tuy
tăng khá mạnh tại các nước Việt Nam, Ecuador, Ấn Độ và Indonesia nhưng vẫn không thể bù đắp
tổng nguồn cung tôm toàn cầu bị thiếu hụt.
1600
1610
1620
1630
1640
1650
1660
1670
2011 2012 2013 2014
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 62
Ở các thị trường tiêu thụ chính, mặc dù nhu cầu tiêu thụ tại thị trường Nhật sụt giảm 20% yoy,
nhu cầu tiêu thụ tôm lại khá mạnh ở các thị trường Mỹ và EU, lần lượt tăng trưởng 26,4% yoy và
13% yoy, (Nguồn: NOAA, Vasep, Eurostat, 2014), góp phần thúc đẩy nhu cầu tôm thế giới tiếp
tục tăng trong năm 2014. Như vậy, do tổng cung bị thiếu hụt trong khi tổng nhu cầu tăng lên đã
dẫn đến giá tôm sú và tôm thẻ chân trắng tăng mạnh trong giai đoạn nửa đầu năm 2014, trước khi
đạt đỉnh trong tháng 7 (như hình dưới). Tận dụng cơ hội giá tôm thế giới tăng mạnh trong Q2 và
đầu Q3, Việt Nam với lợi thế vùng nguyên liệu và công nghệ chế biến vượt trội đã đẩy mạnh XK
sang các thị trường lớn như Mỹ, Nhật và EU. Theo đó, kim ngạch XK tôm 11T2014 đạt 3,68 tỷ
USD (+31,1% yoy), trong đó tăng trưởng mạnh nhất là tôm thẻ chân trắng với kim ngạch đạt 2,15
tỷ USD (+54,1% yoy), tôm sú đạt 1,29 tỷ USD (+5,4% yoy). Nhìn chung, 2014 là một năm thành
công lớn về tăng trưởng kim ngạch đối với ngành tôm nước lợ Việt Nam.Tuy nhiên chúng tôi
cho rằng sự tăng trưởng này chủ yếu đến từ thuận lợi của môi trường vĩ mô bên ngoài hơn
là lực nội tại bền vững của các doanh nghiệp trong ngành. Cụ thể, ngành tôm vẫn còn nhiều
vấn đề cần phải giải quyết bao gồm: (1) Dịch bệnh thủy sản vẫn còn diễn biến phức tạp, trong đó
nghiêm trọng nhất là bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm, (2) Chất lượng tôm giống và các yếu tố
đầu vào giảm sút, (3) Doanh nghiệp và người nuôi thiếu vốn sản xuất, trong khi tiếp cận vốn vay
ưu đãi từ ngân hàng còn nhiều khó khăn, (4) Công nghệ nuôi trồng chưa thể so sánh được với Ấn
Độ và Thái Lan, tình trạng khan hiếm tôm nguyên liệu ở một số thời điểm trong năm buộc các
doanh nghiệp phải nhập khẩu tôm Ấn Độ sau đó gia công xuất khẩu.
Kim ngạch XK tôm 11.T 4 năm gần nhất (triệu USD)
Nguồn: Vasep
Giá tôm sú và tôm thẻ chân trắng tại thị trường Mỹ
qua các năm
Nguồn: Urner Barry
Triển vọng ngành cá tra năm
2015.
Cho đến thời điểm cuối năm 2014, quá trình tái cấu trúc ngành cá tra vẫn còn đang tiếp diễn và
nhiều khả năng tiếp tục kéo dài cho đến năm 2015. Bên cạnh các yếu tố nội tại và cơ chế sắp xếp
lại ngành tự nhiên theo nền kinh tế thị trường, ngành cá tra còn nhận được sự hỗ trợ lớn từ các
yếu tố bên ngoài bao gồm: (1) Nghị định 36/2014/NĐ-CP hỗ trợ tái cấu trúc ngành cá tra, giúp
nâng cao chất lượng, tính cạnh tranh và thúc đẩy phát triển bền vững, (2) Lãi suất giảm mạnh
giúp cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp, (3) Quyết định số 3885/QĐ-BNN-TCTS của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc quy hoạch nuôi, chế biến cá tra vùng đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020, (4) Thông tư số 344/TB-VPCP về việc đồng ý giảm thuế VAT đối
với thức ăn chăn nuôi thủy sản từ mức 5% hiện nay xuống 0%, (5) Thông tư số 26/2014/TT-
NHNN của Ngân Hàng nhà nước quy định về việc NHNN tái cấp vốn đối với các tổ chức tín
dụng về chính sách tín dụng đối với người nuôi tôm và cá tra/basa.
Đối với triển vọng trong năm 2015, tuy nội lực ngành còn yếu nhưng nhìn chung sẽ dần cải
thiện hơn so với giai đoạn 2012-2014, tình trạng bán phá giá tiếp tục được kiểm soát khi các
doanh nghiệp tập trung xây dựng chiến lược kinh doanh, xây dựng mặt bằng giá cả và chất lượng
sản phẩm để đáp ứng từng phân khúc, từng thị trường mục tiêu của riêng mình. Tuy nhiên, do nhu
cầu tiêu thụ chưa có đột biến ở các thị trường tiêu thụ chính của cá tra Việt Nam (đặc biệt là Mỹ
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
2011 2012 2013 2014
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 63
và EU), cũng như các hàng rào bảo hộ, hàng rào chất lượng (vòng thuế CBPG POR10, luật Farm
Bill từ đầu 2015 của Hoa Kỳ) nên nhiều khả năng ngành chưa thể có tăng trưởng mạnh về tổng
kim ngạch trong năm 2015. Chúng tôi cho rằng trong bối cảnh tổng kim ngạch chung khó có đột
phá, việc các doanh nghiệp yếu kém tiếp tục bị đào thải sẽ giúp cho các doanh nghiệp lớn tăng
trưởng thị phần khi các đối thủ cạnh tranh suy yếu. Theo đó, sự phân hóa giữa các doanh nghiệp
trong ngành trong năm 2015 sẽ là tương đối rõ nét khi mà các doanh nghiệp đầu ngành như VHC,
HVG, ANV có cơ hội tiếp tục củng cố thị trường truyền thống và tìm kiếm cơ hội ở các thị
trường mới, những doanh nghiệp không đủ khả năng đáp ứng chuỗi giá trị ngành tiếp tục bị bỏ xa
lại phía sau.
Đánh giá triển vọng một số doanh nghiệp cá tra lớn trong năm 2015:
VHC: Tiếp tục là điểm sáng của ngành trong năm 2015. Theo chúng tôi dự phóng, Mỹ tiếp
tục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch của VHC trong 2015 (đóng góp gần 60%
tổng kim ngạch), sau đó là EU (20-21% kim ngạch). Với lợi thế thuế suất bằng 0% trong
vòng POR10, nhiều khả năng VHC sẽ tiếp tục giữ vị thế số 1 về XK cá tra tại thị trường Mỹ,
thị trường có biên lợi nhuận gộp cao nhất. Bên cạnh đó, cơ hội để gia tăng doanh số cá tra tại
thị trường Mỹ là rất lớn khi mà Việt Nam chiếm hơn 91% thị phần cá da trơn tại Hoa Kỳ (bỏ
xa quốc gia đứng thứ 2 là Trung Quốc) (Nguồn: Vasep). Ngoài ra, theo kế hoạch, VHC sẽ
xuất bán Collagen thành phẩm trong Q1.2015 và bắt đầu ghi nhận doanh thu từ mảng này.
Đối với năm 2014, chúng tôi dự phóng kim ngạch của VHC đạt 225 triệu USD, doanh thu
đạt 6.180 tỷ đồng, LNTT đạt 644 tỷ đồng, LNST đạt 508 tỷ đồng, tương đương EPS 2014 đạt
5.521 đồng/CP (sau khi đã tính pha loãng do đợt chia cổ phiếu thưởng tỷ lệ 2:1 chốt quyền
ngày 20.11). Với mức giá ngày 09/01 là 36,600 đồng/cp, P/E 2014 của VHC hiện ở mức 6,63
lần. Chúng tôi khuyến nghị MUA VHC trên quan điểm đầu tư dài hạn.
HVG: 2014 là một năm tương đối thành công khi HVG nhiều khả năng sẽ hoàn thành kế
hoạch doanh thu và lợi nhuận. Trong chiến lược 2015 của mình, HVG tập trung vào mảng
tôm chủ đạo với các lợi thế có sẵn từ vùng nguyên liệu, nhà máy chế biến, kho lạnh cũng như
các thị trường nhập khẩu. Tuy nhiên, do triển vọng ngành tôm năm 2015 sẽ khó có thể tăng
trưởng mạnh như 2014, nên mảng kinh doanh cá tra và thức ăn thủy sản nhiều khả năng vẫn
là những mảng kinh doanh lớn nhất của doanh nghiệp. Như vậy, trong năm 2015 doanh thu
của HVG sẽ đa dạng hóa ở 5 mảng lớn gồm: tôm, cá tra, thức ăn thủy sản, bánh dầu đậu nành
và phụ phẩm.Theo đó, rủi ro cho hoạt động kinh doanh cũng ít đi. Đối với mảng kinh doanh
lớn nhất là cá tra, rủi ro thị trường nhập khẩu (như thị trường Nga) là rất thấp khi doanh
nghiệp hiện đang đa dạng hóa ở mức độ cao với hơn 20 thị trường khác nhau. Cho cả năm
2014, chúng tôi dự phóng DTT của HVG đạt 14.355 tỷ đồng (+30% yoy, 102,5% KH),
LNTT và LNST lần lượt đạt 701 tỷ đồng (+154% yoy, 101% KH) và 631 tỷ đồng (+154%
yoy), LNST dành cho cổ đông công ty mẹ đạt 481 tỷ đồng. Theo đó, EPS năm 2014 đạt
3.644 đồng/CP. Với mức giá đóng cửa ngày 09/01 đạt 27.000 đồng/cp, HVG đang giao dịch
tại mức P/E 7,4 lần. Chúng tôi khuyến nghị NẮM GIỮ đối với HVG trên quan điểm đầu
tư dài hạn.
Triển vọng ngành tôm năm 2015 Do dịch bệnh EMS hoành hành tại Thái Lan (đối thủ chính của tôm Việt Nam), trong năm 2014,
Việt Nam đã đẩy mạnh XK và giành được vị thế chiến lược tại các thị trường nhập khẩu tôm quan
trọng của thế giới. Hiện tại, Việt Nam đang là quốc gia XK tôm có kim ngạch đứng thứ 1 tại thị
trường Nhật Bản, đứng thứ 2 tại Hàn Quốc, đứng thứ 5 tại EU và đứng thứ 5 tại Mỹ. Đây là thuận
lợi lớn cho các doanh nghiệp XK tôm Việt Nam tăng cường quảng bá thương hiệu, hợp tác hình
thành kênh phân phối tại các thị trường chủ chốt trong năm 2015. Tuy nhiên, trong năm 2015,
ngành cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức:
Những khó khăn từ môi trường bên ngoài bao gồm: (1) Thuế chống bán phá giá: tháng 9/2014,
tại vòng POR8, Mỹ công bố mức thuế CBPG cao nhất từ trước tới nay đối với tôm đông lạnh của
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 64
Việt Nam, trong đó Stapimex chịu mức cao nhất 9,75%, Minh Phú chịu mức thấp nhất 4,98% và
hơn 30 công ty bị đơn khác chịu mức 6,37%. Mặc dù Vasep đang chuẩn bị các bước để kiện lên
toàn án thương mại Hoa Kỳ, mức thuế này nhiều khả năng sẽ ảnh hưởng đến XK tôm sang Mỹ
trong Q1.2015, (2) Trong năm 2015, sản xuất tôm của một số nước chịu ảnh hưởng của EMS sẽ
tiếp tục được cải thiện, nhờ đó nguồn cung sẽ tăng lên và giá sẽ hạ dần (theo dự báo của
Rabobank), theo đó, biên lợi nhuận của các doanh nghiệp XK tôm cũng có xu hướng giảm so với
2014. Tuy nhiên mặc dù cho tới thời điểm hiện tại, giá tôm chân trắng đã giảm khá nhanh, giá
tôm sú vẫn không giảm (như hình trên), khi đó, một số doanh nghiệp chuyên về dòng sản phẩm
tôm sú sinh thái (SNC, CMX) sẽ tiếp tục hưởng lợi nhờ giá xuất cao.
Những khó khăn nội tại của ngành bao gồm: (1) Sự lệ thuộc nguyên liệu: việc phải nhập khẩu
lượng lớn tôm nguyên liệu từ Ấn Độ để chế biến trong thời gian qua có thể dẫn đến hệ quả mất
cân bằng giữa nuôi trồng và năng lực chế biến thủy sản trong nước, (2) Dư lượng hóa kháng sinh
trong sản phẩm vượt mức giới hạn tối đa cho phép bị phát hiện tại các lô hàng xuất đi các thị
trường quan trọng (Mỹ, Nhật, EU).Hiện tại, do Việt Nam chưa có mô hình nuôi tôm hoàn thiện
không có thuốc kháng sinh hay nuôi tôm sinh thái, dẫn đến các doanh nghiệp phải mua ngoài
trong khi việc sử dụng kháng sinh của hộ nông dân rất khó để kiểm soát, (3) Chất lượng tôm
giống, tình hình dịch bệnh tiếp tục là những vấn đề nổi cộm từ 2014 và nhiều khả năng kéo dài
đến 2015.
Đánh giá cơ hội ngành tôm năm 2015: Thực tế tăng trưởng mạnh mẽ về giá trị của ngành tôm
trong năm 2014 chủ yếu từ đột biến về giá đầu ra cộng với khối lượng tiêu thụ tăng khá mạnh tại
các thị trường nhập khẩu (Mỹ, EU). Sang đến năm 2015, khối lượng tiêu thụ sẽ khó có thể tăng
đột biến do đã tăng khá mạnh trong năm 2014 (tăng khoảng 11,8% yoy tại Mỹ và 3,5% yoy tại
EU) trong khi giá đầu ra lại có xu hướng sẽ giảm do nguồn cung toàn cầu phục hồi (Nguồn:
Rabobank). Kết hợp với những khó khăn từ môi trường bên trong và bên ngoài mà ngành tôm
đang đối mặt, rất khó có thể kỳ vọng năm 2015 tiếp tục ghi nhận tăng trưởng ấn tượng như
năm 2014 mà thay vào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ chậm hơn và dần ổn định ở xu thế đi ngang
trong dài hạn.
Nhập khẩu tôm vào Mỹ, 2008-2014 Nhập khẩu tôm vào EU, 2008-2014
Nguồn: NOAA, Eurostat, 2014
Đánh giá triển vọng một số doanh nghiệp lớn ngành tôm:
FMC: Trong năm 2015, chúng tôi đánh giá triển vọng XK của FMC tương đối khả quan do
doanh nghiệp có thế mạnh đặc biệt ở 2 thị trường có biên LN tốt nhất là Mỹ và Nhật Bản
(chiếm hơn 80% tổng doanh số tôm XK). Vấn đề khó khăn mà FMC phải đối mặt trong 2015
là việc tự chủ hoạt động nuôi trồng và giảm thiểu hao hụt khiến doanh nghiệp luôn phải trích
lập dự phòng, ngoài ra còn giúp tránh phụ thuộc quá nhiều vào lượng tôm nhập khẩu từ Ấn
Độ. Theo kế hoạch, ngay trong Q1.2014 HVG hoàn thành việc thâu tóm FMC, theo đó hoạt
động nuôi trồng nhiều khả năng sẽ được cải thiện đáng kể do sự hỗ trợ từ công ty mẹ. Với vị
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 65
thế nằm trong top 6 doanh nghiệp XK tôm lớn nhất Việt Nam năm 2014, có thị trường truyền
thống bền vững, công nghệ chế biến vượt trội và được sự hỗ trợ lớn trong khâu nuôi trồng từ
HVG mẹ trong 2015, chúng tôi đánh giá FMC là một cổ phiếu ngành tôm hấp dẫn chỉ sau
MPC. Cho cả năm 2014, chúng tôi dự báo kim ngạch đạt 140 triệu USD, tương đương sản
lượng 10.158 tấn, LNTT đạt 70 tỷ đồng, LNST đạt 54,6 tỷ đồng, tương đương EPS vào
khoảng 3.900 đồng/CP (dựa trên số cổ phiếu lưu hành bình quân năm 2014 sau khi đã tính
đợt phát hành thêm). Khuyến nghị MUA FMC trên quan điểm đầu tư dài hạn.
CMX: Tại thời điểm đầu 2015, giá tôm sú vẫn ở mức cao tạo ra lợi thế lớn cho Camimex khi
mà mặt hàng tôm sú công nghiệp và tôm sú sinh thái chiếm tới 70% kim ngạch của công ty.
Theo kế hoạch của CMX, kỳ vọng mảng tôm sinh thái sẽ đạt kim ngạch 20 triệu trong năm
2015 (chiếm 25-30% tổng kim ngạch dự kiến năm 2015) để giảm sự phụ thuộc vào mảng
tôm thẻ chân trắng vốn chịu nhiều tác động của các vấn đề dịch bệnh. Mặc dù CMX nhiều
khả năng sẽ phải tiếp tục trích lập dự phòng giảm giá tồn kho cho 2015, chúng tôi vẫn cho
rằng triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp vẫn rất khả quan do CMX là 1 trong 2 doanh
nghiệp có năng lực nuôi tôm quảng canh tại Việt Nam và đặc thù của dòng sản phẩm này có
biên LN gộp rất cao. Cho cả năm 2014, chúng tôi dự báo kim ngạch của CMX đạt 34,2 triệu
USD, tương đương doanh thu 963 tỷ đồng, LNTT và LNST lần lượt đạt 22,5 tỷ đồng và 18,3
tỷ đồng. Theo đó, EPS năm 2014 đạt 1.384 đồng/CP và P/E 2014 dựa trên giá đóng cửa ngày
09/01 đạt 5,8 lần. Chúng tôi khuyến nghị MUA cố phiếu CMX dựa trên quan điểm đầu
tư dài hạn.
VCBS | BÁO CÁO TRIỂN VỌNG 2015
14.01.2015 Trang | 66
CAM KẾT
Chúng tôi, bộ phận phân tích và nghiên cứu của Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS), cam kết rằng các thông tin đưa ra trong Báo cáo này được
xử lý một cách chân thực và chuẩn mực nhất.Chúng tôi cam kết tuân thủ đạo đức nghề nghiệp ở mức độ tối đa có thể đạt được.
ĐIỀU KHOẢN SỬ DỤNG
Báo cáo này được xây dựng bởi bộ phận phân tích và nghiên cứu của Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS) cùng/hoặc với sự hợp tác của một
hoặc một số bộ phận của VCBS nhằm cung cấp các thông tin cập nhật về kinh tế và thị trường.
Bản thân báo cáo này và/hoặc bất kỳ nhận định, thông tin nào trong báo cáo này không phải là các lời chào mua hay bán bất kỳ một sản phẩm tài chính,
chứng khoán nào được phân tích trong báo cáo và cũng không là sản phẩm tư vấn đầu tư hay ý kiến tư vấn đầu tư nào của VCBS hay các đơn vị/thành
viên liên quan đến VCBS. Do đó, nhà đầu tư chỉ nên coi báo cáo này là một nguồn tham khảo. VCBS không chịu bất kỳ trách nhiệm nào trước những
kết quả ngoài ý muốn khi quý khách sử dụng các thông tin trên để kinh doanh chứng khoán.
Tất cả những thông tin nêu trong báo cáo phân tích đều đã được thu thập, đánh giá với mức cẩn trọng tối đa có thể. Tuy nhiên, do các nguyên nhân chủ
quan và khách quan từ các nguồn thông tin công bố, VCBS không đảm bảo về tính xác thực của các thông tin được đề cập trong báo cáo phân tích cũng
như không có nghĩa vụ phải cập nhật những thông tin trong báo cáo sau thời điểm báo cáo này được phát hành.
Báo cáo này thuộc bản quyền của VCBS. Mọi hành động sao chép một phần hoặc toàn bộ nội dung báo cáo và/hoặc xuất bản mà không có sự cho phép
bằng văn bản của VCBS đều bị nghiêm cấm.
CÔNG TYCHỨNG KHOÁN VIETCOMBANK
Tầng 12,17 tòa nhà Vietcombank
198 Trần Quang Khải, Hà Nội
Tel: 84 – 4 – 39 366990
Fax: 84 - 4 - 39 360 262
http://www.vcbs.com.vn
Trụ sở chính Hà Nội : Tầng 12&17, Toà nhà Vietcombank, số 198 Trần Quang Khải, Quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội
ĐT: (84-4)-393675/18/19/20
Chi nhánh Hồ Chí Minh : Lầu 1 và 7, Tòa nhà Green Star, số 70 Phạm Ngọc Thạch, Phường 6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh
ĐT: (84-8)-38200799 - - Số máy lẻ: 104 -106
Chi nhánh Đà Nẵng : Tầng 12, số 135 Nguyễn Văn Linh, Phường Vĩnh Trung, Quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng
ĐT: (84-511)-33888991 - Số máy lẻ: 12/13
Chi nhánh Cần Thơ : Tầng 1, Tòa nhà Vietcombank Cần Thơ, số 7 Hòa Bình, Quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ
ĐT: (84-710)-3750888
Chi nhánh Vũng Tàu : Tầng trệt, số 27 Đường Lê Lợi, TP. Vũng Tàu, Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
ĐT: (84-64)-3513974/75/76/77/78
Phòng Giao dịch Phú Mỹ Hưng : Toà nhà Lawrence Sting, số 801 Nguyễn Lương Bằng, Khu đô thị Phú Mỹ Hưng, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh
ĐT: (84-8)-54136573
Văn phòng Đại diện An Giang : Tầng 6, Toà nhà Nguyễn Huệ, số 9/9 Trần Hưng Đạo, Phường Mỹ Xuyên, TP. Long Xuyên, Tỉnh An Giang
ĐT: (84-76)-3949841
Văn phòng Đại diện Đồng Nai : F240-F241 Đường Võ Thị Sáu, Khu phố 7, Phường Thống Nhất, TP. Biên Hoà, Tỉnh Đồng Nai
ĐT: (84-61)-3918812