bẢn tin - ria1.org · bản tin viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản i, số 1 (quý i...
TRANSCRIPT
Địa chỉ: Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, Việt Nam Điện thoại: +84 3 827 3069; Fax: +84 3 827 3070 Email: [email protected] ; website: www.ria1.org
BẢN TIN
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN I
Hội nghị tổng kết công tác năm 2010 và kế hoạch năm 2011
Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống một số loài cá biển có giá trị kinh tế cao
Kết quả nghiên cứu sản xuất giống cá Chiên Bagarius rutilus (Ng & Kottelat,
2000) trong điều kiện nhân tạo
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 2
Giấy phép xuất bản số:37/GP-XBBT ngày 25/4/2011 của Cục Báo chí – Bộ Thông tin và Truyền thông
Bản quyền thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Cấm sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Ban biên tập Trưởng ban
Phan Thị Vân
Phó Trưởng ban
Nguyễn Hữu Ninh
Ủy viên
Nguyễn Hữu Nghĩa Mai Văn Tài Nguyễn Thị Thu Hiền Nguyễn Thị Diệu Phương Vũ Thị Ngọc Liên Hoàng Nhật Sơn Trần Thị Kim Chi Trần Anh Tuấn Chu Chí Thiết
Thư ký
Hoàng Thu Thủy
Trang bìa: Kỹ sư Đặng Văn Hoàn bắt cá Chiên thí nghiệm tại Trung tâm Quốc gia giống Thủy sản Nước ngọt miền Bắc
Ảnh: Trần Anh Tuấn
Trong số này
Thư ngỏ 4
Tin tức 5
Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống một số loài
cá biển có giá trị kinh tế cao 8
Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống và nuôi
thương phẩm Hầu Thái Bình Dương Crassostrea
gigas phục vụ xuất khẩu 9
Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ nuôi
thương phẩm cá Trắm đen Mylopharyngodon
piceus (Richardson, 1846) 10
Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất giống và
nuôi thương phẩm cá Chày mắt đỏ Squaliobarbus
curriculus (Richardson, 1846) 11
Kết quả nghiên cứu sản xuất giống cá Chiên
Bagarius rutilus (Ng & Kottelat, 2000) trong điều
kiện nhân tạo 12
Viện Nghiên cứu NTTS I - 15 năm tham gia kết
hợp với các Trường Đại học đào tạo cao học
chuyên ngành Nuôi trồng Thủy sản 14
Phát triển nuôi Nghêu nhằm cải thiện và đa dạng
sinh kế cho cộng đồng dân cư nghèo ven biển
miền Trung Việt Nam 15
Bảo tồn và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản
vùng cao 15
Tiến sỹ Henry Madsen tại Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản I 17
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 4
Thư ngỏ
Kính thưa quý độc giả,
Năm 2010 đã trôi qua, với
sự nỗ lực hết sức mình của
mỗi cán bộ công nhân viên,
Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản I đã đạt
được nhiều thành tích đáng
ghi nhận trong công tác
nghiên cứu và ứng dụng nghiên cứu khoa học
vào thực tiễn sản xuất. Trong bản tin số đầu tiên
của năm Tân Mão, quý độc giả sẽ tìm thấy
những kết quả nổi bật của các hoạt động trong
năm 2010 và những tin tức trong ba tháng đầu
năm 2011 của Viện.
Năm 2011 là năm có ảnh hưởng lớn đến tiến
trình phát triển của Viện. Đây là thời điểm mà
thế hệ đi trước sẽ chuyển giao trọng trách lãnh
đạo Viện cho thế hệ trẻ với yêu cầu không
những phải kế thừa được những thành tựu đã
đạt được mà còn phải định hướng được mục
tiêu và các hoạt động để đáp ứng được yêu cầu
của thời đại mới. Đó là, không chỉ duy trì những
lĩnh vực nghiên cứu thế mạnh của Viện cùng với
các lĩnh vực nghiên cứu được mở rộng và phát
triển trong thời gian gần đây mà còn đi vào
nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao; nghiên
cứu góp phần tăng sản lượng nuôi trồng thủy
sản và làm tăng giá trị kinh tế của cả chuỗi sản
xuất song song với đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm, bảo vệ môi trường, chủ động phòng
ngừa dịch bệnh và thích ứng với biến đổi khí
hậu; nghiên cứu nuôi trồng thủy sản phục vụ
xóa đói giảm nghèo, hướng tới làm giàu cho
người nuôi, doanh nghiệp và cả chính các nhà
khoa học. Ngoài ra, chúng ta cần phải kế thừa
giá trị tinh thần mà thế hệ đi trước để lại, đó là
một tập thể thống nhất và đoàn kết, luôn phát
huy sức mạnh tập thể cùng nhau vượt mọi khó
khăn để thành công. Tất cả những thành tựu đó
đã làm nên một Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản I Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi
mới và là niềm tự hào của ngành thủy sản nước
nhà.
Những nền tảng, động lực và kinh nghiệm của
thế hệ trước đang giúp chúng ta vững bước
hơn, đoàn kết hơn, hăng say học tập và nghiên
cứu để đối mặt với thách thức của thời đại, đưa
Viện lên tầm cao mới.
Kính chúc một năm làm việc hiệu quả cùng với
sức khỏe và hạnh phúc.
Trân trọng
Trưởng ban biên tập
Phan Thị Vân
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 5
Tin tức
Phó Viện trưởng Trần Đình Luân báo cáo tại Hội nghị (Ảnh Hoàng Thu Thủy)
Hội nghị tổng kết công tác năm 2010
và kế hoạch năm 2011
Ngày 07/01/2011, tại Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản I (Viện) đã diễn ra hội nghị cán
bộ viên chức, lao động để tổng kết công tác năm
2010 và bàn kế hoạch hoạt động năm 2011.
Chủ trì hội nghị có Viện trưởng – Tiến sỹ Lê
Thanh Lựu, Phó Viện trưởng – Tiến sỹ Trần
Đình Luân và Chánh Văn phòng Viện – ông
Nguyễn Tiến Sỹ.
Sau lễ khai mạc, đồng chí Phó Viện trưởng Trần
Đình Luân thay mặt Ban Lãnh đạo Viện trình
bày tóm tắt Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện
nhiệm vụ năm 2010 và kế hoạch năm 2011.
Hoạt động nghiên cứu phát triển khoa học công
nghệ của Viện được đánh giá là thành công
trong năm qua. Năm 2010 Viện đã thực hiện 56
đề tài (ĐT) khoa học công nghệ và dự án (DA)
trong nước và quốc tế (vượt mức so với kế
hoạch), trong đó có 18 ĐT, DA cấp Nhà nước,
đạt 128% kế hoạch; 17 ĐT, DA cấp Bộ và cơ
sở, đạt 100% kế hoạch; 06 nhiệm vụ khuyến
ngư, phát triển giống thuỷ sản, đạt 40%; 15 DA
quốc tế và các ĐT nhánh, cấp tỉnh và thành phố.
Các hoạt động khuyến ngư và chuyển giao công
nghệ; Công tác quản lý môi trường và bệnh thủy
sản; Hợp tác quốc tế - Đào tạo; Thông tin thư
viện; Xây dựng cơ bản, củng cố cơ sở hạ tầng;
Công tác quản lý, xây dựng tổ chức, xây dựng
các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh
niên, Nữ công, … cũng được đề cập trong báo
cáo.
Ban Lãnh đạo Viện đã nghe ý kiến phát biểu,
trao đổi kinh nghiệm của cán bộ viên chức - lao
động Viện về các vấn đề được trình bày trong
báo cáo tổng kết và đóng góp cho kế hoạch triển
khai năm 2011. Nhiều ý kiến quan tâm đến định
hướng, mục tiêu phát triển của Viện trong thời
gian tới, từng bước phấn đấu tự chủ về tài chính
nhằm xây dựng Viện ngày càng phát triển và
theo kịp với tình hình phát triển chung của đất
nước. Tiếp theo, ông Nguyễn Tiến Sỹ công bố
quyết định thi đua khen thưởng cho các Đề tài,
tập thể, phòng ban và các cá nhân có thành tích
xuất sắc của Viện trong năm qua.
Kết thúc hội nghị, Phó Viện trưởng Trần Đình
Luân tổng kết và ghi nhận những đóng góp của
các đại biểu và toàn thể cán bộ công nhân viên
trong Viện, đồng thời nhất trí với toàn thể cán bộ
viên chức lao động cùng xây dựng Viện ngày
càng vững mạnh và phát triển.
Hoàng Thu Thủy
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 6
Tin tức
Lễ công bố quyết định bổ nhiệm Phó
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản I
Ngày 15/02/2011, tại Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản I đã diễn ra lễ công bố Quyết
định bổ nhiệm Phó Viện trưởng cho Tiến sỹ
Phan Thị Vân. Thay mặt cho Bộ trưởng, ông
Nguyễn Văn Nam phó vụ trưởng Vụ tổ chức cán
bộ của Bộ đọc quyết định; ông Vũ Trọng Hà, Vụ
trưởng Vụ tổ chức cán bộ đã trao quyết định bổ
nhiệm và tặng hoa chúc mừng phó Viện trưởng
mới của Viện trước sự chứng kiến của Ban
Lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt của Viện. Tiến
sỹ Lê Thanh Lựu đã phát biểu chúc mừng và
giao trách nhiệm của phó Viện trưởng cho bà
Vân. Trong phát biểu của mình, Viện trưởng nói
toàn thể cán bộ của Viện rất phấn khởi và tự
hào vì đã có một nữ Tiến sỹ được bổ nhiệm vào
chức vụ Phó Viện trưởng đầu tiên của Viện.
Nhiều đồng nghiệp và các lãnh đạo Phân Viện,
Trung tâm, Phòng Ban trong Viện đã vui mừng
tặng hoa và chia sẻ những thành công mà bà
Vân đã đạt được cũng như nói lên những mong
muốn của họ về những đóng góp của nữ Phó
Viện trưởng trong tương lai. Bà Vân đã cảm ơn
lãnh đạo Bộ, Ban Lãnh đạo Viện cũng như tất cả
cán bộ trong Viện đã tin tưởng, ủng hộ và giúp
đỡ bà trong công tác để đạt được những thành
công trong thời gian qua cũng như nhưng bó
hoa tươi đẹp dành tặng bà trong buổi lễ. Trên
cương vị Phó Viện trưởng, Bà Vân hứa sẽ hết
sức cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
xứng đáng với niềm tin của Lãnh đạo Bộ, Ban
Lãnh đạo và tập thể cán bộ Viện. Bà Vân hứa sẽ
nỗ lực hết mình cùng các thành viên Ban Lãnh
đạo phát huy những thành tựu mà nhiều thế hệ
lãnh đạo đi trước đã tạo dựng để góp phần đưa
Viện ngày càng phát triển.
Hoàng Thu Thủy
Kỷ niệm 101 năm ngày Quốc tế Phụ
nữ
Nhân dịp kỷ niệm 101 năm ngày Quốc tế phụ nữ
và 1971 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hoà
chung không khí tưng bừng của cả nước, sáng
ngày 8/3/2011, BCH Công đoàn Viện đã tổ chức
mít tinh và giao lưu văn nghệ tại Hội trường lớn
của Viện. Đại diện Lãnh đạo Viện, Phó Viện
trưởng Nguyễn Hữu Ninh và Chủ tịch Công
đoàn Nguyễn Tiến Sỹ thay mặt các CBVC - LĐ
nam tặng hoa và gửi lời chúc mừng sâu sắc tới
toàn thể nữ CBVC - LĐ trong Viện. Chúc toàn
thể chị em phự nữ một ngày lễ tràn ngập niềm
vui, hạnh phúc.
Ông Vũ Trọng Hà Vụ trưởng Vụ TCCB trao quyết địnhcho bà Phan Thị Vân (Ảnh: Hoàng Thu Thủy)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 7
Tin tức
Lãnh đạo Viện cũng hy vọng chị em luôn phát
huy năng lực, sáng tạo để góp phần vào sự phát
triển của Viện. Trước sự quan tâm đó, thay mặt
nữ CBVC - LĐ, bà Nguyễn Thị Thiếu Anh gửi lời
cảm ơn tới sự quan tâm của Lãnh đạo Viện và
hứa sẽ cố gắng để hoàn thành tốt các công việc
mà Lãnh đạo Viện giao phó.
Hoàng Thu Thủy
Bổ nhiệm một số vị trí lãnh đạo đơn vị
trực thuộc Viện
Trong Quý I năm 2011, Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản I đã có quyết định đề bạt một số
cán bộ vào các vị trí chủ chốt của các đơn vị
trực thuộc.
Ông Trần Anh Tuấn được bổ nhiệm làm Giám
đốc Trung tâm Quốc gia giống Thuỷ sản Nước
ngọt miền Bắc. Ông Mai Văn Tài được bổ nhiệm
vào vị trí Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quan
trắc, Cảnh báo môi trường và Phòng ngừa dịch
bệnh thủy sản khu vực miền Bắc và ông Võ Văn
Bình giữ chức Phó Giám đốc của Trung tâm
này. Quyết định vị trí Trưởng phòng Di truyền -
Chọn giống được trao cho bà Trần Thị Thúy Hà.
Trung tâm Nghiên cứu Chọn giống cá Rô phi
Quảng Nam là trung tâm mới thành lập và ông
Nguyễn Công Dưỡng được giao giữ chức Giám
đốc.
Mai Văn Tài
Các hoạt động trong tháng Thanh niên
Trong tháng 3 này, đoàn thanh niên Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản I đã tổ chức các hoạt
động thể thao và văn nghệ để chào mừng kỷ
niệm 80 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh (26/3/1931-26/3/2011), kỷ niệm 52
năm ngày truyền thống ngành thủy sản Việt
Nam (1/4/1959 - 1/4/2011). Các trận đấu bóng
đá đã diễn ra đẹp mắt trong tháng với những
giây phút hồi hộp và vui vẻ. Các đơn vị trực
thuộc đã mang đến hội diễn 20 tiết mục văn
nghệ hấp dẫn, đặc sắc nhất ca ngợi Đảng, Bác
Hồ, tình yêu quê hương đất nước và ngành thủy
sản vào sáng 25/3. Hội thi đã thành công rực rỡ
và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả
trong viện, chuyên gia và sinh viên quốc tế.
Nguyễn Thị Hạnh Tiên
Phó Viện trưởng Nguyễn Hữu Ninh trao quyết định và tặng hoa cho ông Mai Văn Tài (Ảnh: Nguyễn Hữu Nghĩa)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 8
Khoa học và Công nghệ
Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống
một số loài cá biển có giá trị kinh tế
cao
Trong các loài cá rạn san hô, 3 loài cá Song
Chuột Cromileptes altivelis (Valencienes 1828),
Song Vằn Epinephelus fuscoguttatus (Forsskål,
1775), Song Da Báo Plectropomus leopadus
(Lacepède, 1802) là những loài cá qúy hiếm, có
giá trị kinh tế cao. Đặc biệt, cá Song Chuột có
giá bán tại thị trường Hồng Kông trong 5 năm
gần đây luôn dao động từ 60-70 USD/kg. Thông
tin thị trường tự do cho biết: tại Thành phố Hồ
Chí Minh, cá Song Chuột được bán với giá
>1.000.000 đồng/kg. Cá Song Chuột không
những là thực phẩm qúy hiếm mà còn được sử
dụng làm cá cảnh cho giới thượng lưu ở nhiều
nước Ả rập và Trung Đông. Cá Song Vằn (còn
gọi là cá mú hổ, mú cọp) có chiều dày cơ thể
lớn hơn một số loài cá song khác, thịt nhiều,
trắng và thơm ngon nên có giá từ 17-20
USD/kg. Cá Song Da Báo (còn gọi là mú sao) là
loài qúy hiếm, cơ thể luôn biến màu nhưng nổi
bật là màu đỏ với các chấm xanh màu lông cổ
vịt óng ánh, thịt trắng thơm ngon. Giá bán của
cá Song Da Báo dao động từ 25-30 USD/kg. Tại
thị trường Việt Nam, cá Song Vằn, Song Da Báo
được bán trong các nhà hàng sang trọng và
xuất khẩu tiểu ngạch đi Hồng Kông, Singapore,
Trung Quốc, Đài Loan với giá bán cá Song Vằn
là 400-450.000 đồng/kg, cá Song Da Báo
700.000 đồng/kg. Cả 3 loài cá trên đều là đối
tượng nuôi chủ yếu của nhiều nước nhiệt đới
đặc biệt là các nước châu Á, Đông Nam Á và
Việt Nam. Ngoài mục đích thực phẩm chất
lượng cao, phát triển nuôi các loài cá này còn có
giá trị bảo tồn các loài cá rạn san hô đang bị suy
giảm. Cá Song Chuột, Song Vằn, Song Da Báo
đều có phân bố tự nhiên ở biển Việt Nam nhưng
số lượng không đáng kể và ngày càng bị suy
giảm.
Nhận thức được tầm quan trọng, giá trị kinh tế
và nhu cầu của thị trường cũng như nhu cầu
bảo tồn các loài hải sản qúy hiếm, có giá trị kinh
tế cao, tháng 11/2007, Bộ Khoa học & Công
nghệ đã giao cho Viện nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản I thực hiện đề tài: “Nghiên cứu quy
Cá giống cá song chuột (Cromileptes altivelis)
(Ảnh: Lê Xân)
Cá song vằn (Epinephelus fuscoguttatus)
(Ảnh: Nguyễn Hữu Tích)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 9
Khoa học và Công nghệ
trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương
phẩm một số loài cá biển có giá trị kinh tế cao”.
Mục tiêu của đề tài là i) tạo ra quy trình công
nghệ sản xuất giống cá Song Chuột
Crommileptes altivelis, cá Song Vằn
Epinephelus fuscoguttatus, cá Song Da Báo
Plectropomus leopadus đạt tỷ lệ sống từ cá bột
lên cá giống: Cá Song Chuột: >3%; cá Song
Vằn:> 4%, cá Song Da Báo >1%; ii) Quy trình
công nghệ nuôi thương phẩm bằng lồng trên
biển: Đạt tỷ lệ sống 50%. Năng suất: cá Song
Chuột >5kg/m3.; Song Vằn > 10kg và Song Da
Báo >6kg/m3; iii) Xây dựng đàn cá bố mẹ và hậu
bị : cá Song Chuột bố mẹ 50 con, Song Da Báo
bố mẹ 50 con ,cá Song Vằn bố mẹ 100 con; Cá
hậu bị mỗi loài 200 con.
Sau 3 năm nghiên cứu, đề tài đã đạt được
những kết quả khả quan, có được thành công
nhất định, xây dựng được quy trình công nghệ
sản xuất giống cá với các chỉ tiêu kinh tế kỹ
thuật đạt mức tiên tiến so với các nước trong
khu vực, đưa Việt Nam gia nhập một số ít nước
thành công trong nghiên cứu công nghệ sản
xuất giống một số loài cá biển có giá trị kinh tế
đặc biệt cao. Lê Xân
Sản xuất giống và nuôi thương phẩm
Hầu Thái Bình Dương
Hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas
(Thunberg 1793) so với loài bản địa của Việt
Nam có những ưu thế kích thước, khối lượng cơ
thể lớn, tốc độ sinh trưởng nhanh, giá trị kinh tế
và xuất khẩu cao.
Trong điều kiện tự nhiên của vịnh Bái Tử Long
nói riêng và Việt Nam nói chung thì Hầu Thái
Bình Dương có thể sinh trưởng và phát triển tốt,
diện tích có thể nuôi hầu khoảng 54.800-
70.300ha chạy dọc từ Móng Cái (Quảng Ninh)
đến Kiên Giang, nhiệt độ nước biển trung bình
29,30C (cao nhất vào mùa hè không vượt 300C),
pH nằm trong khoảng từ 7,8 - 8,5, DO từ 6,05 -
6,71mg/l, độ mặn trung bình 28,4‰, Nguồn thức
ăn thực vật phù du rất đa dạng và phong phú về
thành phần và số lượng loài, rất phù hợp phát
triển đối tượng này.
Được sự hỗ trợ kinh phí của Chương trình
KC06 - Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản I đã triển khai đề tài
KC06.18/06-10: “Nghiên cứu công nghệ sản
xuất giống và nuôi thương phẩm Hầu Thái Bình
Dương Crasstrea gigas phục vụ xuất khẩu”, thời
gian thực hiện 32 tháng (từ tháng 4/2008 –
12/2010). Sau gần 3 năm nghiên cứu, đề tài đã
Hầu bố mẹ phục vụ sinh sản (Ảnh: Cao Trường Giang)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 10
Khoa học và Công nghệ
được nghiệm thu với kết quả thành công, đề tài
đã xây dựng được quy trình công nghệ sản xuất
giống Hầu Thái Bình Dương với các chỉ tiêu kinh
tế kỹ thuật đạt tiêu chuẩn, dễ dàng ứng dụng
vào thực tế sản xuất trong nước, đem lại hiệu
quả kinh tế cao góp phần tạo ra một số lượng
lớn con giống có chất lượng phục vụ cho nhu
cầu nuôi hầu thương phẩm đang phát triển
mạnh mẽ như hiện nay. Cao Trường Giang
Nghiên cứu xây dựng quy trình công
nghệ nuôi thương phẩm cá Trắm đen
Đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình công
nghệ nuôi thương phẩm cá Trắm đen
Mylopharyngodon piceus (Richardson, 1846)”
thuộc Hợp phần Hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy
sản bền vững (SUDA), Dự án Hỗ trợ chương
trình ngành Thủy sản giai đoạn II (FSPS II),
được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
phê duyệt và cho phép thực hiện từ tháng
1/2008 đến tháng 9/2010.
Qua 3 năm thực hiện, trên cơ sở các chỉ tiêu kỹ
thuật đạt được từ các nội dung nghiên cứu, đề
tài đã xây dựng được dự thảo quy trình công
nghệ nuôi thương phẩm cá Trắm đen cho năng
suất trên 7 tấn/ha. Quy trình nuôi gồm 2 giai
đoạn: nuôi cá giống lớn và nuôi thương phẩm.
Giai đoạn giống lớn, cá Trắm đen được nuôi với
mật độ 0,5 con/m2 bằng thức ăn viên hỗn hợp
có hàm lượng protein 41% và lipid 7% với khẩu
phần 3-5% khối lượng thân. Từ cỡ cá ban đầu
49 g/con, sau 11 tháng nuôi cá đạt khối lượng
trung bình 653,3 g/con. Hệ số thức ăn ở giai
đoạn giống lớn đạt 1,85 và tốc độ tăng trưởng
bình quân đạt 1,82 g/con/ngày, năng suất đạt
3,26 tấn/ha. Giai đoạn nuôi thương phẩm, cá
được nuôi với mật độ 0,25 con/m2 bằng thức ăn
viên hỗn hợp có hàm lượng protein 35% và lipid
7% với khẩu phần 3-4% khối lượng thân. Từ cỡ
cá ban đầu 795 g/con, sau 12 tháng nuôi cá đạt
khối lượng trung bình 4.180 g/con. Hệ số thức
ăn là 2,8 và tốc độ tăng trưởng đạt 9,59
g/con/ngày. Năng suất nuôi giai đoạn thương
phẩm đạt 7,08 tấn/ha. Tỷ lệ sống đạt 98,4%.
Quy trình nuôi thương phẩm cá Trắm đen đã
được kiểm chứng trong điều kiện sản xuất ở quy
mô nhỏ nên có tính ứng dụng cao. Đề tài đã
nghiên cứu thiết lập một số công thức thức ăn
và tổ chức sản xuất thành công thức ăn viên
hỗn hợp cho cá Trắm đen giai đoạn giống lớn và
giai đoạn nuôi thương phẩm. Qua thử nghiệm,
thức ăn có hàm lượng protein 41% và lipid 7%
phù hợp cho giai đoạn giống lớn; thức ăn chứa
35% protein và 7% lipid phù hợp với giai đoạn
Cá trắm đen thương phẩm (Ảnh: Nguyễn Văn Tiến)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 11
Khoa học và Công nghệ
nuôi thương phẩm. Mặc dù cá Trắm đen nuôi
bằng thức ăn viên hỗn hợp do đề tài sản xuất
sinh trưởng chậm hơn nuôi bằng ốc tươi song
hiệu quả kinh tế và tính ứng dụng cao hơn so
với nuôi bằng ốc.
Kết quả đề tài mở ra triển vọng phát triển nghề
nuôi cá Trắm đen thương phẩm bằng thức ăn
viên hỗn hợp ở Việt Nam. Nguyễn Văn Tiến
Nghiên cứu xây dựng quy trình sản
xuất giống và nuôi thương phẩm cá
Chày mắt đỏ
Cá Chày mắt đỏ Squaliobarbus curriculus
(Richardson, 1846) là loài cá quý có giá trị kinh
tế. Hiện nay loài cá này đang giảm sút về nguồn
lợi và có nguy cơ tuyệt chủng. Được sự hỗ trợ
của Hợp phần phát triển nuôi trồng thủy sản bền
vững (SUDA), Viện đã tiến hành thực hiện Đề
tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất
giống và nuôi thương phẩm cá Chày mắt đỏ
Squaliobarbus curriculus (Richardson, 1846)”
với các mục tiêu: i) Xây dựng quy trình sản xuất
giống nhân tạo cá Chày mắt đỏ; ii) Xây dựng
quy trình nuôi thương phẩm cá Chày mắt đỏ.
Sau 2 năm thực hiện, trên cơ sở kết quả thu
được, đề tài đã hoàn thành các nội dung nghiên
cứu như xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất
giống nhân tạo cá Chày mắt đỏ: Cá được nuôi
vỗ thành thục bằng thức ăn công nghiệp có hàm
lượng 26% Protein, tỷ lệ cá thành thục đạt
87,5%. Sử dụng thuốc LRH-a phối hợp với DOM
cho cá đẻ với liều lượng 40µg LRH-a và 3 mg
Dome tiêm cho 1 kg cá cái, liều lượng kích dục
tố cho cá đực bằng 1/5 so với liều lượng kích
dục tố cho cá cái, tỷ lệ cá đẻ đạt trung bình trên
80%. Giai đoạn ương nuôi từ cá bột lên cá
hương trong giai lưới và trong ao đất ở mật độ
nuôi 150 con/m2, dùng bột đỗ tương cho cá ăn,
cá có chỉ số tăng trưởng 4,48 cm, trọng lượng
cá thể đạt 0,64 g sau 30 ngày nuôi, tỷ lệ sống
đạt 64,9%. Giai đoạn ương từ cá hương lên cá
giống trong giai lưới và trong ao đất ở mật độ
nuôi 15 con/m2, dùng thức ăn có tỷ lệ Protein
26% cho cá ăn, cá có chỉ số tăng trưởng về
chiều dài 6,64 cm, khối lượng cá thể đạt trên
2,52g sau 30 ngày nuôi, tỷ lệ sống đạt 80,57%.
Quy trình nuôi cá thương phẩm với mật độ 2,0
con/m2, nuôi trong 12 tháng cá đạt 700g, tỷ lệ
sống đạt 90%, năng suất đạt 12 tấn/ha, hệ số
thức ăn là 2,7.
Kết quả của đề tài thu được từ những thí
nghiệm làm cơ sở cho việc xây dựng 2 quy trình
sản xuất giống nhân tạo và quy trình nuôi
thương phẩm cá Chày mắt đỏ, để áp dụng vào
thực tiễn, phát triển nuôi cá bản địa quý hiếm có
giá trị kinh tế trong các thủy vực nước ngọt.
Phạm Đức Lương
Cá Chày mắt đỏ (Squaliobarbus curriculus)
(Ảnh: Phạm Đức Lương)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 12
Khoa học và Công nghệ
Kết quả nghiên cứu sản xuất giống cá
Chiên Bagarius rutilus (Ng & Kottelat,
2000) trong điều kiện nhân tạo
Cá Chiên Bagarius rutilus (Ng & Kottelat, 2000)
là một trong số các loài cá quý hiếm, có giá trị
kinh tế cao được xếp vào dạng “ngũ quý” cùng
với cá Lăng chấm, cá Bỗng, cá Anh vũ, cá Rầm
xanh. Hiện nay, giá cá bán trên thị trường dao
động từ 350.000-450.000 đồng/kg. Những năm
gần đây do việc khai thác cá Chiên quá mức
bằng những phương tiện hủy diệt và dụng cụ
không đúng quy cách như xung điện, đánh bắt
cá bằng lưới mau, lưỡi câu nhỏ... đã dẫn đến
nguồn lợi cá Chiên suy giảm nghiêm trọng. Bên
cạnh đó, nuôi cá Chiên lồng trên các sông, hồ
chứa bằng nguồn giống đánh bắt từ tự nhiên và
mang tính mùa vụ càng làm cho nguồn lợi cá
Chiên tại các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Yên
Bái ... ngày càng cạn kiệt. Loài cá được coi là
đặc sản hàng đầu của hệ thống sông Hồng hiện
đang có nguy cơ tuyệt chủng và được xếp ở
mức nguy cấp bậc II.
Từ 2008 đến 2010, Trung tâm Quốc gia giống
thủy sản nước ngọt miền Bắc, Phú Tảo - Hải
Dương, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy
trình công nghệ sản xuất giống cá Chiên
Bargarius rutilus (Ng & Kottelat 2000)”. Đề tài đã
tiến hành thí nghiệm nuôi vỗ thành thục trong
điều kiện nhân tạo; thử nghiệm các phương
pháp kích thích sinh sản, thụ tinh và ấp nở; thử
nghiệm các loại thức ăn và mật độ khác nhau
giai đoạn ương nuôi từ cá bột lên cá giống.
Kết quả cho thấy, trong điều kiện nhân tạo cá
Chiên thành thục tốt và mùa vụ sinh sản bắt đầu
từ tháng 5 cho đến cuối tháng 7. Cá bố mẹ
được tuyển chọn tham gia sinh sản có khối
lượng >1,8 kg/con, tuổi thành thục > 3 tuổi.
Thức ăn phù hợp cho giai đoạn nuôi vỗ thành
thục của cá Chiên là cá tươi, thời gian nuôi vỗ
từ tháng 1 đến tháng 3, nhiệt độ nước dao động
từ 20,9 - 23,20C. Cá bố mẹ cho tỷ lệ thành thục
cao nhất khi nuôi vỗ trong bể nước chảy (đạt
86,7%). Hệ số thành thục dao động 3,24 -
4,24%; sức sinh sản tương đối dao động từ
3.225 - 12.925 trứng/kg cá cái; sức sinh sản
tuyệt đối từ 5,128 - 30,411 trứng/cá thể cái.
Sau khi kiểm tra cá bố mẹ đã thành thục và
chuẩn bị sinh sản, nghiên cứu sử dụng kích dục
tố để kích thích sinh sản nhân tạo đã được thực
hiện. Sử dụng hỗn hợp kích dục tố với liều
Cá Chiên giống (Ảnh: Trần Anh Tuấn)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 13
Khoa học và Công nghệ
lượng 35µgLRHa + 9mg DOM/kg để kích thích
sinh sản cho tỷ lệ cá đẻ đạt 83 -100%, thời gian
hiệu ứng thuốc từ 4 đến 6 giờ, nhiệt độ nước từ
24 - 26oC. Phương pháp thụ tinh khô cho tỷ lệ
thụ tinh cao nhất 66,6%. Mật độ ấp khoảng 30 -
50 trứng/lít, nhiệt độ ấp 23 - 240C cho tỷ lệ nở
đạt 46,71%.
Giai đoạn ương từ cá bột lên cá hương (3 - 4
cm) kéo dài trong khoảng 40 ngày, thức ăn sử
dụng trong 5 ngày đầu là lòng đỏ trứng gà và
động vật phù du, thời gian tiếp theo cho ăn động
vật phù du và giun trùn chỉ, cho ăn 5 lần/ngày,
mật độ ương 3000 com/m3 cho tỷ lệ sống cao
nhất (67%), chiều dài cá đạt 3,2 - 3,6cm/con. Khi
cá Chiên đạt kích cỡ cá hương chúng chuyển từ
hoạt động bơi lội tích cực sang tập tính sống
đáy, cá thường bám vào các mỏm đá nơi có
dòng nước chảy. Hoạt động bắt mồi chủ yếu
vào ban đêm. Giai đoạn ương từ cá hương lên
cá giống thức ăn sử dụng là giun trùn chỉ và cá
tươi xay nhỏ, với mật độ ương là 600 con/m2
cho tỷ lệ sống đạt 79%, sau 45 ngày ương nuôi
đạt cỡ 6,4 - 7,2cm/con, khối lượng đạt 2,1 - 2,8
g/con.
Thăm dò khả năng sử dụng thức ăn ương lên
cỡ cá giống lớn đã được thực hiện. Sau 60 ngày
thí nghiệm với thức ăn là cám công nghiệp
(hãng Tomboy, đạm tối thiểu 38%) cho tăng
trưởng cao nhất, kích cỡ cá trung bình đạt 10,1
cm/con, tỷ lệ sống đạt 90,0 - 93%; trong khi đó
thức ăn là cá tươi xay nhỏ chiều dài trung bình
chỉ đạt 8,2 cm/con. Kết quả nghiên cứu trên cho
thấy khả năng sử dụng đa dạng các loại thức ăn
khác nhau của cá Chiên. Việc thăm dò cá sử
dụng hiệu quả thức ăn công nghiệp sẽ thuận
tiện cho việc phát triển nuôi đối tượng này ở quy
mô lớn, hạn chế ảnh hưởng của việc sử dụng
thức ăn tươi sống đến môi trường, cũng như
ngăn ngừa khả năng lây lan mầm bệnh đối với
những hệ thống ương nuôi.
Sau 3 năm nghiên cứu, đề tài đã bước đầu xây
dựng được quy trình công nghệ sản xuất giống
cá Chiên, chủ động được nguồn con giống phục
vụ cho nghề nuôi thương phẩm nhằm mở rộng
và phát triển nuôi đối tượng cá có giá trị kinh tế,
góp phần xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc
làm, tăng thu nhập cho người dân. Ngoài ra, chủ
động sản xuất con giống sẽ dần hạn chế, đi đến
chấm dứt tình trạng khai thác cá Chiên giống
ngoài tự nhiên như hiện nay, góp phần bảo vệ
nguồn lợi và phát triển đa dạng sinh học. Nghiên
cứu thức ăn và quy trình công nghệ nuôi thương
phẩm cá Chiên rất cần được thực hiện nhằm
góp phần thúc đẩy phát triển bền vững nghề
nuôi đối tượng có giá trị kinh tế này.
Trần Anh Tuấn
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 14
Đào tạo – Tập huấn – Hợp tác Quốc tế
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I - 15 năm tham gia kết hợp với các Trường
Đại học đào tạo cao học chuyên ngành Nuôi trồng Thủy sản
Từ năm 1997, Chương trình đào tạo cao học
chuyên ngành Nuôi trồng Thuỷ sản (NTTS) bắt
đầu được triển khai tại Viện Nghiên cứu nuôi
trồng Thủy sản I trên cơ sở hợp tác giữa Viện
và các trường (Trường Đại học Thủy sản Nha
Trang, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội,
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội....). Năm 2001,
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội (ĐHNN)
chính thức hợp tác với Viện I trong công tác đào
tạo đại học và cao học chuyên ngành NTTS.
Mô hình đào tạo kết hợp giữa Viện Nghiên cứu
và các Trường Đại học có nhiều điểm thuận lợi,
phát huy được nhiều thế mạnh. Trường Đại học
có đội ngũ giảng viên kinh nghiệm giảng dạy
cũng như quản lý đào tạo; và các Viện Nghiên
cứu có đội ngũ các nhà nghiên cứu có kinh
nghiệm ứng dụng và thực hành, cũng như cơ sở
hạ tầng nghiên cứu,... . Mô hình này đã tạo cơ
hội cho nhà nghiên cứu và đào tạo kết hợp hài
hòa với nhau, sinh viên có được kỹ năng làm
việc tốt hơn và có thể tiếp cận các công nghệ
tiên tiến và hiện đại.
Trong mô hình hợp tác đào tạo đã và đang
được triển khai giữa Trường và Viện, Trường
ĐHNN chịu trách nhiệm quản lý, điều phối
chương trình đào tạo theo đúng các quy định
của Bộ Giáo dục & Đào tạo, là đơn vị cấp bằng
khi học viên kết thúc khóa học; Viện I là đơn vị
tổ chức triển khai khóa học. Học viên học tập,
ăn, ở tại Viện để thuận tiện cho việc tiến hành
thí nghiệm, thực hành/thực tế môn học. Học
viên được phép sử dụng thư viện, phòng máy,
phòng thí nghiệm…. cũng như được cập nhật
các thông tin về các Đề tài, các chương trình Dự
án của Viện và sự hỗ trợ từ các chương trình
này.
Trường ĐHNN và Viện tự hào đã và đang tổ
chức thành công chương trình đào tạo cao học
về lĩnh vực NTTS đóng góp một phần quan
trọng bổ sung nguồn nhân lực cho Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, các Sở, các
Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư và các
Trung tâm giống thủy sản các tỉnh.
Hoàng Thu Thủy
Lớp Cao học 11 đi thực tế môn học tại Trung tâm Quốc gia giống thuỷ sản miền Bắc (Ảnh: Trần Minh Hậu)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 15
Đào tạo – Tập huấn – Hợp tác Quốc tế
Phát triển nuôi Nghêu nhằm cải thiện
và đa dạng sinh kế cho cộng đồng dân
cư nghèo ven biển miền Trung Việt
Nam (CARD - 027/05/VIE)
Dự án CARD 027/05/VIE là dự án hơp tác
nghiên cứu và phát triển giữa Phân viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản Bắc Trung Bộ
(ARSINC) - Viện I và Viện Nghiên cứu & Phát
triển Nam Australia (SARDI) được triển khai tại
06 tỉnh Thừa Thiên Huế, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Nghệ An, Thanh Hóa và Ninh Bình.
Mục tiêu của Dự án là cải thiện sinh kế cho
người dân sinh sống ở ven biển thông qua sử
dụng nguồn lợi thủy sản hai mảnh vỏ như việc
nuôi Nghêu bằng cách sử dụng công nghệ chăn
nuôi/trại giống và nâng cao năng lực trong lĩnh
vực này.
Sau 3 năm hoạt động, DA đã đạt được một số
kết quả khả quan như i) bước đầu nghiên cứu
thành công quy trình sinh sản nhân tạo Nghêu
Bến Tre Meretrix lyrata làm cơ sở cho việc sản
xuất giống ở quy mô đại trà; ii) lần đầu tiên tại
Việt Nam, Nghêu được đặt vấn đề nghiên cứu
thử nghiệm nuôi thương phẩm trong ao kín,
không tuân theo chế độ thủy triều nhằm cải thiện
thu nhập trên một đơn vị diện tích và góp phần
cải thiện môi trường ao nuôi tôm.
Thành công của DA đã được chương trình
CARD đánh giá là 1 trong 5 dự án đạt kết quả
xuất sắc. Mục tiêu tổng quát của dự án, mục
đích và các hoạt động đã được xác định rõ ràng
và phù hợp. Nghiên cứu cơ sở dữ liệu đã nêu
bật tính thiết thực của dự án đối với ngư dân
nuôi trồng thủy sản tại các tỉnh tham gia trong
dự án và đặc biệt là nhu cầu phát triển các trại
giống và kỹ thuật nuôi Nghêu trong ao. Thành
quả của dự án sẽ mở đường cho ngành nuôi
Nghêu công nghiệp ở miền Trung Việt Nam.
Chu Chí Thiết
Bảo tồn và Phát triển bền vững nguồn
lợi thủy sản vùng cao
Môi trường càng suy thoái thì các cộng đồng và
người nghèo ở miền núi càng gặp nhiều khó
khăn. Sự biến động của tự nhiên và suy giảm
nguồn lợi thủy sản trong bối cảnh biến đổi khí
hậu toàn cầu dẫn đến cần phải nâng cao hiểu
biết về: (1) Mức độ quan trọng của đa dạng sinh
học và hiện trạng bảo tồn các hệ sinh thái miền
núi, sinh thái vùng và kinh tế xã hội khu vực;
Cán bộ Dự án làm việc với ngư dân xã Hải Hậu, Huyện Hải Lộc, Tỉnh Thanh Hóa (Ảnh: Lê Thanh Ghi)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 16
Đào tạo – Tập huấn – Hợp tác Quốc tế
(2) Thay đổi môi trường ở miền núi, ảnh hưởng
của sự thay đổi đó đến người sử dụng và phụ
thuộc vào nguồn lợi thủy sản.
Dự án Bảo tồn và Phát triển bền vững nguồn lợi
thủy sản vùng cao (EC, HighARCS, 2009-2012,
http://www.higharcs.org), có sự tham gia của
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 (Việt
Nam) cùng hợp tác với một số cơ quan nghiên
cứu quốc tế ở Châu Âu và Châu Á. Nghiên cứu
này nhằm hiểu sâu hơn làm thế nào để quản lý
bền vững và cân bằng lợi ích giữa các nhu cầu
sử dụng nguồn lợi thủy sản vùng cao.
Kết quả nghiên cứu sẽ ưu tiên nâng cao hiểu
biết về tầm quan trọng của nguồn lợi thủy sản
đối với sinh kế ở vùng cao thuộc khu vực Châu
Á, hiểu biết về hiện trạng chính sách ở các địa
phương liên quan tới bảo tồn nguồn lợi, xây
dựng kế hoạch thực hiện và thu hút sự quan
tâm của các bên liên quan về bảo tồn đa dạng
sinh học nhằm cải tiến, duy trì lợi ích sinh thái
bền vững.
Phương pháp tiếp cận: Nghiên cứu này kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, xây dựng quan hệ hợp
tác giữa các nhà nghiên cứu với cộng đồng
nghèo ở miền núi. Phương pháp có sự tham gia
của cộng đồng thông qua quá trình trao đổi
thông tin, nhận xét, phản ánh và chia sẻ trách
nhiệm; tổ chức hội thảo xây dựng năng lực cho
các nhóm đối tượng và kết hợp với phát triển
chính sách. Những khó khăn của địa phương sẽ
được truyền tải đến cơ quan lập kế hoạch và
triển khai ở các cấp khác nhau. Các kết quả
nghiên cứu được khuyến khích áp dụng trong
thực tế sau khi nghiên cứu kết thúc.
Kế hoạch tác động:
(1) Nâng cao nhận thức: Nhận thức của người
dân về giá trị của đa dạng sinh học và hệ sinh
thái sẽ được nâng cao, qua đó người dân thấy
được vai trò của họ trong việc bảo tồn và sử
dụng có hiệu quả nguồn lợi thủy sản. Kiến thức
và hiểu biết này là cơ sở cho việc điều chỉnh
hiện trạng ở những nơi đang mâu thuẫn trong
sử dụng nguồn lợi.
(2) Cải thiện thông tin: Thông tin mới từ các kết
quả nghiên cứu sẽ được truyền tải rộng rãi tới
các cấp các ngành và người dân ở trong nước
cũng như trên thế giới.
(3) Cải tiến chính sách: Chính sách sẽ được cải
tiến phù hợp dựa trên kết quả nghiên cứu có sự
tham gia của cộng đồng, những hiểu biết về hệ
sinh thái khu vực và các hoạt động nghiên cứu
về giới. Nguyễn Thị Diệu Phương
Khai thác nguồn lợi thủy sản ở vùng lòng hồ thủy điện,
tỉnh Sơn La (Ảnh: Nguyễn Thị Diệu Phương)
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 17
Gương mặt trong quý
Tập huấn về Nuôi trồng thủy sản giữa
các nước ASEAN tại Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thuỷ sản I
Trong khuôn khổ Chương trình hợp tác giữa
Nhật Bản với ASEAN, Vụ Hợp tác Quốc tế, Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I (Bộ Nông
nghiệp và PTNT) phối hợp với Ban thư ký
ASEAN tổ chức lớp Tập huấn về Nuôi trồng thủy
sản từ ngày 20/3 đến 2/4/2011 tại Viện Nghiên
cứu NTTS I. Đại biểu tham dự tới từ 10 nước
trong khu vực ASEAN hiện đang công tác trong
Viện và cơ quan của Chính phủ các nước, các
nhóm ngư dân hoặc hợp tác xã nông
nghiệp/nuôi trồng thủy sản. Mục tiêu của lớp tập
huấn là tạo ra một diễn đàn cho các nước thành
viên nhằm trao đổi thông tin về hiện trạng nuôi
trồng thủy sản thông qua việc học và trao đổi
những phương pháp kỹ thuật trong phát triển
nuôi trồng thủy sản của mỗi nước.
Hoàng Thu Thủy
Tiến sỹ Henry
Madsen tại Viện
Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản I
Tiến sỹ Henry Madsen,
chuyên gia nghiên cứu về
ốc nước ngọt là người Đan Mạch. Bài viết dưới
đây viết về những cảm nhận của ông trong
những năm tháng sống và làm việc tại Việt Nam.
Có lẽ hầu hết các bạn đã biết tôi tại RIA1, một
vài trong số các bạn đã làm “xe ôm” miễn phí
cho tôi từ ngoài cổng RIA1 vào hay ngược lại.
Tôi đã làm việc cho dự án FIBOZOPA từ năm
2004, thời gian đầu chỉ là những dịp công tác
ngắn hạn, nhưng từ 2 năm trở lại đây tôi đã
sống tại Hà Nội và làm việc cho FIBOZOPA và
cũng tham gia vào 2 dự án khác do Danida tài
trợ. Công việc của tôi là quản lý dữ liệu cho các
dự án và giúp các nghiên cứu sinh về phân tích
dữ liệu và thống kê. Tôi say mê phân tích thống
kê mặc dù tôi không được đào tạo là một nhà
thống kê, tôi đã từng giảng dạy về thống kê ở
nhiều cấp độ khác nhau tuy nhiên tôi vẫn đang
cố gắng củng cố kỹ năng qua các khóa học; 2
năm trước tôi đã tham gia 2 khóa học từ xa
(online) về phân tích thông kê nâng cao. Tại Đại
học Copenhagen, là một nghiên cứu viên chính
với chuyên nghành về sinh học nước ngọt tôi đã
nghiên cứu về ốc nước ngọt trong suốt những
năm qua (đến nay là 32 năm). Tôi học Thạc sỹ
tại Danish Bilharziasis Laboratory (Đan Mạch)
Tiến sỹ Nguyễn Hữu Ninh đang thảo luận với các
học viên. Ảnh: Trần Minh Hậu
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 1 (Quý I năm 2011) 18
Gương mặt trong quý
bắt đầu nghiên cứu về sinh học của ốc nước
ngọt là vật chủ trung gian của Sán máng, giống
Schistosoma. Danish Bilharziasis Laboratory
nay đã được đổi tên thành Trung tâm nghiên
cứu và phát triển DBL và là một phần của Đại
học Copenhagen vào năm 2007.
Tôi làm việc ở Châu Phi từ năm 1979; tổng thời
gian khoảng 8 năm nếu tính tất cả các đợt công
tác Châu Phi. Chuyến thăm Việt Nam đầu tiên
của tôi vào năm 2002 khi tham gia Hội thảo về
sán lá truyền qua thực phẩm tại Khách sạn
Melia, Hà Nội. Ngay lập tức, tôi cảm thấy rất
thích thú bởi đất nước, con người và cả những
các món ẩm thực Việt Nam, tôi thực sự vui
mừng khi được tham gia vào dự án FIBOZOPA
năm 2004, bởi thế tôi có thể thường xuyên đến
Việt Nam. Khi được đào tạo là nhà sinh học tôi
đã mơ ước được làm về cá, nhưng thời gian đó
không có cơ hội và vì vậy tôi đã làm đề tài Thạc
sỹ của mình về ốc, tôi quyết định làm điều đó và
chưa bao giờ hối tiếc. Năm 1992, tôi bảo vệ luận
án Tiến sỹ về vấn đề kiểm soát sinh học đối với
ốc. Tại Châu Phi, tôi đã thực hiện một số nghiên
cứu trong đó có sử dụng cá để kiểm soát ốc và
trong dự án FIBOZOPA tôi cũng được tham gia
các công việc có liên quan đến cá. Như vậy các
bạn có thể nói rằng mơ ước của tôi được nghiên
cứu về cá đã thành hiện thực. Một năm vừa
qua, tôi đã hướng dẫn Nghiên cứu sinh, anh
Nguyễn Mạnh Hùng, thuộc Viện Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật Việt Nam, anh cũng là nhân
viên của dự án FIBOZOPA, anh nghiên cứu sử
dụng cá Trắm đen để kiểm soát ốc. Hiện nay
anh đang triển khai các thí nghiệm trong các ao
được thuê từ RIA1. Khi tôi nói với mọi người về
công việc của mình, tôi luôn nói với họ rằng, tôi
có một ao cá của riêng mình tại Việt Nam. Dù
sao mọi cái chúng tôi có được từ RIA1 thật tuyệt
vời, tôi ấn tượng cái cách mà nó đang vận hành.
Một trong những ý tưởng của tôi cho các dự án
ở Châu Phi đó là NTTS cần được phát triển hơn
nữa và chúng ta nên gắn kết mọi lỗ lực và cố
gắng làm điều gì đó ở Châu Phi. Một trong số
những khó khăn tồn tại cho NTTS ở Châu Phi là
tình trạng lây truyền bệnh sán máng
schistosomiasis ngày một tăng lên. Với chuyên
môn về ốc của bản thân, về cá và NTTS của
RIA1 có lẽ chúng ta có thể thiết lập NTTS tại
Châu Phi bền vững hơn và con người ở đó sẽ
không bị nhiễm bệnh sán máng schistosomiasis.
Tôi rất hạnh phúc được làm việc ở RIA1 và hy
vọng rằng chúng ta có thể mở rộng các dự án
hợp tác bởi tôi thấy được tính chuyên nghiệp
của tất cả các nhân viên của RIA1 ở các cấp độ
khác nhau.
Henry Madsen, người dịch: Bùi Ngọc Thanh