c ngh thu t 1.1- c dân gian - dostquangtri.gov.vndostquangtri.gov.vn/upload/diachiquangtri/phan 4...

119
1 CHƯƠNG XVIII VĂN HỌC NGHTHUT 1- VĂN HỌC 1.1-Văn học dân gian: Qung Trlà vùng đất tuy chưa phải lâu đời so vi lch sdựng nước ca dân tộc nhưng lại là nơi chứng kiến bao skin trọng đại của đất nước. Tsau đám cưới công chúa Huyn Trân, Qung Trtrthành nơi hội ttinh hoa văn hoá truyền thng ca dân tc nói chung và c a các vùng min trong cnước nói riêng. Văn học là cách thsng của con người trong quá trình thích ng vi tnhiên và ci biến tnhiên ấy, đồng thi hoàn thin các mi quan hgia người với người trong nhng cấp độ khác nhau trong cơ cấu cộng đồng. Nói khác đi, sự vận động muôn hình muôn vca chính bn thân cuc sng con người cũng chính là sự vận động của đời sống văn học. Đứng chân trên một “ngã ba đường”, từng chng kiến bao tiến trình phân - hp, hp - phân ca các cộng đồng tộc người trong khu vực, đồng thời cũng là nơi gặp gca nhiu nền văn hóa cổ (Đông sơn, Hoa Hạ, n Độ, Chămpa)… và cũng là nơi diễn ra cuc giáp mt gia hai nền văn hóa Đông Tây trong những bi cnh bi hùng ca thi cận đại, hiện đại… Những yếu tlch s- địa lý đặc trưng ấy của vùng đất Qung Trdưới giác độ nghiên cứu văn hóa học và folklore hc, bc tranh hay din mạo văn hóa dân gian người Vit trên vùng đất mới khai phá chưa lâu thì những yếu tgc, tc nền văn hóa dân gian ngàn đời của người Vit tvùng đất sinh tlâu đời ca mình là châu thsông Hồng, sông Mã, vùng đồng bng Bc btuy đã hóa thân, biến đổi trên vùng quê mới nhưng vẫn giđược nhng “mẫu schung” của nền văn học dân gian dân tc Việt đồng thi vn ta sáng nhng sắc thái dân gian đặc thù của thiên nhiên và đặc bit là nhng ngôi làng người Vit tiu nông, trồng luá nước nơi ở mi. Vcơ bản nó vn là bn sao ca xóm làng min Bc, được bao bọc trong các lũy tre làng. Một quy lut phquát là những lưu dân Việt dù đã mang theo những vn li ếng tinh thn và nhng truyn thống văn hóa cội ngun bn vững đến đâu thì khi quần cư ở nơi ở mi, nht là giao tiếp vi nhng cộng đồng cư dân bản địa thì phi hòa nhp, tái to nên nếp sng mi, phong tc tp quán mi và các giá trvăn học nghthut dân gian mi. Nói chung là tái to nền văn hóa mi ca mình phù hp vi hoàn cnh lch svà sinh thái t nhiên, cthnơi vùng đất sinh tmi. Vùng đất cát trng gió Lào vi bao khc nghit ca

Upload: others

Post on 31-Aug-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

CHƯƠNG XVIII

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

1- VĂN HỌC

1.1-Văn học dân gian:

Quảng Trị là vùng đất tuy chưa phải lâu đời so với lịch sử dựng nước

của dân tộc nhưng lại là nơi chứng kiến bao sự kiện trọng đại của đất nước.

Từ sau đám cưới công chúa Huyền Trân, Quảng Trị trở thành nơi hội tụ tinh

hoa văn hoá truyền thống của dân tộc nói chung và của các vùng miền trong

cả nước nói riêng.

Văn học là cách thể sống của con người trong quá trình thích ứng với

tự nhiên và cải biến tự nhiên ấy, đồng thời hoàn thiện các mối quan hệ giữa

người với người trong những cấp độ khác nhau trong cơ cấu cộng đồng. Nói

khác đi, sự vận động muôn hình muôn vẻ của chính bản thân cuộc sống con

người cũng chính là sự vận động của đời sống văn học.

Đứng chân trên một “ngã ba đường”, từng chứng kiến bao tiến trình

phân - hợp, hợp - phân của các cộng đồng tộc người trong khu vực, đồng

thời cũng là nơi gặp gỡ của nhiều nền văn hóa cổ (Đông sơn, Hoa Hạ, Ấn

Độ, Chămpa)… và cũng là nơi diễn ra cuộc giáp mặt giữa hai nền văn hóa

Đông Tây trong những bối cảnh bi hùng của thời cận đại, hiện đại… Những

yếu tố lịch sử - địa lý đặc trưng ấy của vùng đất Quảng Trị dưới giác độ

nghiên cứu văn hóa học và folklore học, bức tranh hay diện mạo văn hóa dân

gian người Việt trên vùng đất mới khai phá chưa lâu thì những yếu tố gốc,

tức nền văn hóa dân gian ngàn đời của người Việt từ vùng đất sinh tụ lâu đời

của mình là châu thổ sông Hồng, sông Mã, vùng đồng bằng Bắc bộ tuy đã

hóa thân, biến đổi trên vùng quê mới nhưng vẫn giữ được những “mẫu số

chung” của nền văn học dân gian dân tộc Việt đồng thời vẫn tỏa sáng những

sắc thái dân gian đặc thù của thiên nhiên và đặc biệt là những ngôi làng

người Việt tiểu nông, trồng luá nước ở nơi ở mới. Về cơ bản nó vẫn là bản

sao của xóm làng miền Bắc, được bao bọc trong các lũy tre làng. Một quy

luật phổ quát là những lưu dân Việt dù đã mang theo những vốn liếng tinh

thần và những truyền thống văn hóa cội nguồn bền vững đến đâu thì khi

quần cư ở nơi ở mới, nhất là giao tiếp với những cộng đồng cư dân bản địa

thì phải hòa nhập, tái tạo nên nếp sống mới, phong tục tập quán mới và các

giá trị văn học nghệ thuật dân gian mới. Nói chung là tái tạo nền văn hóa

mới của mình phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và sinh thái tự nhiên, cụ thể nơi

vùng đất sinh tụ mới. Vùng đất cát trắng gió Lào với bao khắc nghiệt của

2

thiên tai địch họa nên con người ở đây trở nên rắn rỏi, cương nghị, dẻo dai,

đạp bằng mọi khó khăn để tồn tại, để tạo dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Những con người mang vác sứ mệnh thiêng liêng của dân tộc mang gươm đi

mở cõi, đứng chân nơi “đầu sóng ngọn gió” là những con người can trường,

trọng nghĩa khí, nhân hậu, thủy chung, cởi mở, bao dung, độ lượng.

Có thể nói, văn học dân gian người Việt Quảng Trị vẫn bảo lưu, tích

cực hóa và phong phú hóa không ngừng những đặc điểm phổ quát và vững

bền của văn học dân gian người Việt cổ. Điểm lại văn học dân gian Quảng

Trị, rất dễ nhận thấy nó có đầy đủ các thể loại vốn có trong văn học dân gian

của dân tộc song độ dày mỏng thì chênh, rất không đồng đều.

1.1.1- Các thể loại tự sự:

Ở thể loại tự sự phần thần thoại hầu như vắng bóng. Lịch sử một

đi không trở lai! Việc sáng tạo các thể loại thần thoại và sử thi không thể nào

trở lại với lưu dân Việt ở nơi ở mới cũng là điều dễ hiểu. Quảng Trị không

phải là vùng đất cổ, chỉ mới được sáp nhập vào đất nước ta vào đầu thế kỷ

XIV, sau đám cưới Huyền Trân công chúa. Vì vậy, “để giải thích nguồn gốc

sự vật và ca ngợi những lực lượng thiên nhiên như biển, núi, nước, đất, cây

cỏ, chim muông, gió, mưa, bão, sấm sét, mặt trời, mặt trăng… loại thần thoại

này thấm sâu vào sinh hoạt tinh thần của người Lạc Viêt…”[1] đã không còn

chỗ đứng trên vùng đất mới. Truyện kể “Sự tích đảo Cồn Cỏ và động Lòi

Reng” là một mẫu truyện hiếm hoi có hơi hướng thần thoại, kể về một người

rất khoẻ tên là Thồ Lồ. Ông có nhiệm vụ đào đất, đắp núi. Có lần gánh một

gánh đất quá nặng, đòn gánh bị gãy, hai sọt đất văng ra hai phía. Sọt văng về

phía núi thành động Lòi Reng, sọt văng về phía biển thành đảo Cồn Cỏ, cái

đòn gánh văng lên trời thành cái mống... Hình ảnh ông Thồ Lồ gợi cho ta

liên tưởng đến những nhân vật thần trong thần thoại Việt Nam, những vị

thần khổng lồ lần đầu tiên xuất hiện trên trái đất, có nhiệm vụ đào sông, đắp

núi cho con người sinh sống. Song mảnh vỡ gần như duy nhất ấy không khỏa

lấp được khoảng trống là thần thoại trong hệ thống. Ngược lại, vốn truyện

thần thoại Việt cổ còn lưu giữ trong ký ức những lưu dân đi mở cõi sẽ được

phát huy, nó vẫn chiếm giữ một phần quan trọng trong hành trang mang theo

như là những nền tảng tinh thần cho cốt cách tư duy của họ, góp phần tạo

nên tiền đề cho sự sáng tạo nhiều truyện kể dân gian mới, đặc biệt là truyền

thuyết, tức các truyện kể suy nguyên về các nhân vật anh hùng văn hóa và

anh hùng giữ nước trên con đường đấu tranh với thiên nhiên và xã hội không

kém phần cam go.

3

So với thần thoại thì truyền thuyết phong phú hơn nhiều. Công việc

khai phá là sự chen lẫn giữa cái lạ và cái quen. Phương thức canh tác vẫn là

nghề trồng lúa nước đã quen thuộc từ đời ông cha, song thiên nhiên, núi non,

sông nước thì lại khá lạ lùng. Câu ca dao cổ sau điển hình cho tâm trạng của

nhiều lớp cư dân đặt chân lên vùng đất mới: “Đất chi đất lạ đất lùng/Nghe

con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng run!”. Truyền thuyết dân gian

trên vùng đất mới đã ghi lại những cuộc thử thách lớn lao này. Truyền thuyết

kể trực tiếp về một số các nhân vật anh hùng của thời mở đất, những nhân

vật tiền hiền, hậu hiền có khi có danh tánh cụ thể của các vùng đất, những vị

anh hùng hảo hán có sức mạnh phi thường, những con người “phá sơn lâm,

đâm Hà Bá”, săn bắt cọp, thuần dưỡng voi; những con người giàu nghĩa khí,

can trường, đứng lên chống áp bức bất công và chống giặc ngoại xâm luôn là

đối tượng được truyền thuyết xưng tụng, tôn vinh.

Người dân Quảng Trị cho đến hôm nay vẫn truyền nhau những truyền

thuyết vốn được lưu truyền từ bao đời nay, như: “Nguồn gốc Câu Nhi”;

“Nguồn gốc Như Lệ”; “Sự tích phủ Toàn Thắng”; “Sự tích Miếu Quán”; “Sự

tích tháp Dương Lệ, tháp Trung Đơn”; “Sự tích Trảo Trảo phu nhân” làng Ái

Tử; “Sự tích đền Thanh Tương Hầu”; “Sự tích Ông Dời ông Cụt” làng Nhan

Biều; “Sự tích chùa Phật Lồi”; “Sự tích miếu hai danh tướng họ Trần”; “Sự

tích chùa Như Phước”; “Chuyện tượng Nghè”; “Sự tích bàu Voi”; “Sự tích

Thần Đá làng Phương Sơn”; “Sự tích các vị thần làng An Lợi; “Sự tích

Thành hoàng làng An Mô”… đều là những truyền thuyết tiêu biểu, khá phổ

biến trong dân gian cốt lưu lại cho người đời sau hiểu được nguồn gốc,

những sự việc của những người đầu tiên khai phá dựng nên làng mạc. Những

truyền thuyết sáng tạo văn hóa, gắn với việc lý giải các địa danh ấy là những

minh chứng về một vùng đất thiêng, nơi tổ tiên của họ đã sống và chiến đấu

với thiên tai địch hoạ để xây dựng nên xóm nên làng. Qua các truyền thuyết,

người ta còn thấy toát lên niềm tự hào về non sông đất nước, về địa linh nhân

kiệt, về sức mạnh, chí khí và phẩm chất của con người Quảng Trị. Ngoài

truyền thuyết, nhiều anh hùng khai phá nơi vùng đất mới thường đi vào tín

ngưỡng thờ phụng các tiền hiền, hậu hiền nơi đình làng. Đó là một cơ chế

tinh thần nhằm củng cố sức mạnh cố kết cộng đồng làng/xã. Sức mạnh xã

hội và thẫm mỹ của hiện tượng xã hội này quan trọng tới mức về sau Nhà

nước phong kiến phải dùng cách sắc phong cho các vị đó là Thành hoàng để

cài đặt uy tín của các vương triều vào đời sống làng/xã.

Truyện cổ tích lưu hành ở Quảng Trị rất phong phú bởi các nguồn chủ

chốt sau. Đó là các truyện cổ tích hàng đầu của văn hóa Việt cổ như Tấm

4

Cám, Trầu cau, Cây khế, Cây tre trăm đốt, Sọ Dừa, Sự tích ông Táo… ra đời

từ rất xa xưa đã được “mang vác” theo và lưu hành rộng rãi nơi vùng đất

mới. Bên cạnh kho tàng truyện cổ tích của người Việt cổ “mang vác” theo

như đã nói, ở nơi ở mới nhiều thế hệ con dân Quảng Trị còn sáng tạo thêm

hoặc “chế biến”, lưu truyền một số truyện cổ tích cùng chủ đề trên thông qua

sự giao lưu, tiếp biến văn hóa đa dạng, lâu dài trong khu vực. Nội dung

truyện cổ nhìn chung vẫn là những môtíp trong kho tàng truyện cổ Việt

Nam, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của con người, đề cập những tình cảm

riêng tư trong sinh hoạt cá nhân, gia đình và xã hội; đề cao đạo nghĩa, lòng

nhân ái, yêu chính nghĩa, ghét gian tà, lên án cái ác, hẹp hòi ích kỷ, tôn vinh

cái cao thượng. Nhiều truyện nêu bật các đức tính chung thuỷ, hiền hậu, đảm

đang, siêng năng, cần kiệm. Hệ tư tưởng nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc

trong các truyện cổ nay có thêm các yếu tố triết lý Phật giáo được dân gian

hóa cao độ theo quan điểm nhân văn của dân chúng.

Truyện “Vác mía tìm dâu” kể chuyện ông già đi tìm dâu thảo bằng việc

thử tài là nhờ cô gái nấu cơm mà chỉ có gạo và bó mía. Với sáng kiến dùng

bả mía thay củi để thổi chín cơm, cô đã trở thành nàng dâu giỏi có đủ khả

năng để cảm hoá được người chồng vốn ăn chơi lêu lỏng. Câu chuyện khiến

người nghe cảm động về cái sự đảm đang khôn khéo và bản lĩnh của nàng

dâu trong việc chăm sóc và xây dựng giang san nhà chồng. Truyện “Vợ

ngoan làm quan cho chồng” cũng là một minh chứng về việc ca ngợi sự lanh

lợi, khôn ngoan của người phụ nữ, truyện có khuynh hướng đạo lý. Truyện

“Ông lão và người con trai” đề cao lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ.

Sự thành thực, hiếu đễ của hai người con trai đã cảm ứng đến trời đất, kết

quả là hai anh em đều được trời giúp và trở lại sống hạnh phúc bên cha già

trong lúc những kẻ dã tâm phải đền tội. Truyện “Cây đa bến cộ” ca ngợi

lòng thuỷ chung son sắt của cô lái đò với chàng khoá sinh xứ lạ. Truyện

“Kén rể” ca ngợi chàng trai gốc gác nông dân chất phác, nhờ siêng năng mà

lấy được vợ. Trong khi thi tài với một anh giỏi bắn cung và một anh giỏi làm

thơ, anh chỉ dựa vào sức khỏe và chạy nhanh vác chiếc trống đồng băng qua

một quãng đường dài về đến đích trong khi thơ của anh kia chưa làm xong,

mũi tên của anh nọ cũng chưa bắn hết. Truyện “Ba cô gái nhà giàu và anh

ngọng” lại là dạng truyện chống phong kiến cường hào, chống thói hợm hỉnh

của bọn nhà giàu. Ba cô con nhà giàu có thói kiêu ngạo, học thói trưởng giả

đã bị đám trai tráng trong làng sập mưu nên đành phải ngủ chung với anh nói

ngọng, khi biết ra, lão nhà giàu một phen xấu hổ trước dân làng…

5

So với truyện cổ dân tộc Kinh thì truyện cổ miền núi Quảng Trị phong

phú, đa dạng hơn. Một số truyện cổ tích ở đây có tính chất suy nguyên luận

như “Sự tích sao hôm, sao mai “(Pakô), “Tình nghĩa gà vịt” (Bru - Vân

Kiều). Các truyện “Vợ chồng Ta-năng” (Bru - Vân Kiều), “Prơ-nhia học

khôn” (Pakô) phản ánh sinh hoạt xã hội, có mục đích khuyến giáo đạo lý làm

người, đề cao sự chung thuỷ, phê phán những hạng người xảo trá, lừa đảo

trong quan hệ gia đình, xã hội. Truyện “Dàng A Lịch” là câu chuyện người

đội lốt lợn có nội dung như những truyện cổ người đội lốt thú vật gớm ghiếc,

xấu xí của dân tộc Kinh. Chính những hình thù quái dị ấy là một phương

cách để thử lòng chung thuỷ, kiên trinh của người bạn đời của mình, thể hiện

nhân sinh quan của người miền núi, rằng đừng nên đánh giá nhân cách con

người qua bộ dạng bên ngoài...

Truyện cổ thần kỳ miền núi khá hấp dẫn ở những yếu tố người thần,

vật thần. Truyện “Con voi thần” hấp dẫn ở nội dung độc đáo, thể hiện sự

chất phác cùng sự dung dị trong nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc miền núi. Tư

tưởng bao trùm lên các truyện cổ là điều thiện thắng điều ác, tình yêu chung

thuỷ, trong sáng luôn được đề cao, những kẻ thống trị tàn bạo luôn bị lên án,

cuối cùng bị trừng phạt. Nghệ thuật xây dựng truyện được cấu trúc trên hai

tuyến nhân vật chính diện và phản diện, từ đó truyện bộc lộ chủ đề. Biện

pháp gây hấp dẫn không chỉ là nêu bật những mâu thuẫn đối kháng giữa hai

tuyến nhân vật mà còn nằm trong các tình tiết nhằm phục vụ cho ý đồ trên.

Truyện cổ Pakô mượt mà hơn ở những lời hát thay lời đối thoại. Những lời

hát ấy biểu lộ nội tâm phong phú, thầm kín của những con người ở núi rừng

hoang dã: Ôi! Akay ơi!/ Buổi sáng em ra rẫy/Lấy lá môn múc nước suối

trong/Em đứng soi bóng mình/Sao thấy cả bóng anh (Cây bầu Pút).

Nhìn chung, truyện cổ tích đã phản ánh được ước mơ, lý tưởng cũng

như đạo lý, nhận thức và tình cảm của con người trước thiên nhiên và xã hội.

Đó là việc đề cao vai trò của con người, đề cao đạo lý làm người, ước mong

một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc và mọi người thương yêu nhau, cùng

nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Trong kho tàng truyện kể dân gian Quảng Trị, dòng văn học trào

phúng (truyện cười và chuyện trạng) là thể loại phát triển đa dạng phong phú

nhất. Nó khôi hài, thâm thuý, hóm hỉnh, sâu sắc và phân bố đều khắp trên

trên các thể loại nhưng nổi bật nhất vẫn là ở thể loại tự sự. Chúng được sử

dụng như là một thứ vũ khí sắc bén chống lại giai tầng ăn trên ngồi tróc, bất

tài, tham lam, gian ác; phê phán dí dỏm hoặc mỉa mai chua chát những thói

hư tật xấu trong dân chúng; và mĩm cười khôi hài nhẹ nhàng, chua xót trước

6

những nghịch lý thường gặp trong đời sống thường ngày như là một

“phương pháp tinh thần hiệu nghiệm để chữa trị, sửa sang phong hóa cộng

đồng”, từ đó mà giữ được tinh thần lạc quan và lòng tin yêu cuộc sống.

Truyện Chủ tớ đối đáp, kể về ông chủ giàu có nhưng keo kiệt, bắt đầy

tớ đi mua rượu mà không đưa tiền, đầy tớ hỏi chủ đáp: “Không tiền mua

được rượu mới tài, có tiền ai mua mà chẳng được!”. Anh đầy tớ kia mang

chai đi hồi lâu rồi kẹp chai không về, chủ hỏi đầy tớ đáp lại: “Chai không r-

ượu uống được mới tài, có rượu thì ai mà chẳng uống được!”… Chủ tớ đối

đáp” hay “Còn dài ngày ăn” đều là những truyện cười đả kích châm biếm

thói hà tiện của giai cấp bóc lột. Phần lớn truyện cười tập trung vào việc phê

phán những thói hư tật xấu của người nông dân; nụ cười châm biếm ở đây

nhẹ nhàng, thấm thía. Răng giỗ không bay sang? là một trong những môtip

truyện như thế. Ở làng nọ một hôm, ông hàng xóm nọ có giỗ mà cố tình

không mời ông hàng xóm kia chỉ vì có tật tham ăn. Thấy cỗ bàn nhà bên

soạn ra linh đình, chờ mãi không thấy ai sang mời, máu tham ăn nổi lên ông

quyết định châm lửa đốt chuồng lợn của mình. Nhà hàng xóm có giỗ sợ cháy

lan chạy ra can ngăn: “Bác đốt vậy tàn lửa bay sang cháy lây nhà tui thì

sao?” Ông kia tỉnh bơ đáp: “Tàn lửa răng mà bay sang được! Tàn bay sang

được răng giỗ nhà bác không bay sang nhà tui?..”.

Truyện Xì xẹt thể hiện sự nhanh nhạy trong ứng xử của người nông

dân. Truyện kể một ngày trước đám cưới, chàng rể kia đến thăm nhà vợ. Đến

nơi anh thấy một người mặc yếm đang lúi cúi cho lợn ăn, tưởng là vợ chưa

cưới của mình nên vỗ vỗ vào mông và nói: “Tối mai hai đứa mình xì xẹt

hè!”… Người kia đứng lên, té ra đó là bà mẹ vợ, chàng rể sợ quá bỏ chạy về

nhà, dứt khoát không cưới vợ nữa. Gạn hỏi mãi, ông chú mới biết sự tình vội

chạy sang nhà bà xu lễ phép thưa: “Sáng nay bên nhà có bảo cháu sang thưa

chuyện với ông bà là cưới cháu nhà có sắm thêm mấy phong pháo đốt xì xẹt

cho vui. Không biết cháu qua thưa chuyện có rõ ràng chi không nên tôi qua

để thưa lại với ông bà…”. Bà xu liền nghĩ chắc mình nặng tai không nghe rõ

bỏ qua, đám cưới diễn ra suôn sẻ.

Truyện “Cha vợ làm gì rể làm nấy” lại có ý chê trách sự ngớ ngẩn khù

khờ của chàng rể và cũng là cách phê phán tục tảo hôn. Truyện “Anh chàng

hai vợ” lại thể hiện thái độ châm biếm tục đa thê. Có anh chàng hai vợ, tối

nào anh cũng bị nhốt ở phòng trong, trong khi vợ bé ngủ ở nhà dưới mà bà

vợ cả kê giường nằm ngay ở cửa phòng canh gác. Chị vợ bé mong chờ

chồng đến với mình mãi không được, buồn tình chị hát: Thuyền ơi có nhớ

bến không/Bến đây đêm đợi ngày mong thuyền hoài… Nghe vậy anh chồng

7

cũng bồn chồn: Thuyền đây nhớ bến luôn luôn/Muốn qua thăm bến sợ giới

đồn cấm nghiêm. Nghe hai người đối đáp bà vợ cả gợi ý: Thuyền đà nhớ bến

luôn luôn/Ưa sang thăm bến thì vô đóng thuế đồn rồi sang. Anh chồng cáu

tiết đáp trả: Thuyền đây vốn liếng bao nhiêu/Ghé vô đóng thuế e xiêu cột

buồm!... Các truyện “Lợn đực hết”, “Xèo xẹt”, “Ba nẹt tre được vợ”,

“Phương thuốc hiệu nghiệm”, “Khoai từ khoai tía”, “Làm dọi”, “Ở với

ông”... đều là những truyện “cười ra nước mắt” trong kho tàng truyện kể dân

gian Quảng Trị.

Giai thoại cũng là mảng đề tài rất phong phú. Giai thoại hay và được

nhiều người nhớ là những câu chuyện về những con người tài trí thông minh

trong các cuộc hò đối đáp. Họ là những người bình dân, làm ruộng, làm thợ

nhưng thông minh, lịch lãm và xứng đáng là những nghệ nhân dân gian ưu

tú. Ví như tài nghệ của ông thợ Bài trong tình huống bị thách hò một câu mà

nội dung phải có đủ các con vật như con gà, con chó và có cả vầng trăng

cùng một cặp nam nữ yêu nhau. Hò được thì được thưởng tiền nhưng không

phải vì tiền mà thợ Bài hò ngay: Lắng tai nghe kê minh khuyển phệ/Vầng

trăng tỏ rõ đã vội xế đêm đông/Anh ra về rồi em có nhớ nghĩa anh

không/Giấc mơ hồ điệp nhớ nghĩa vợ chồng mô đây? Hoặc câu hò đối đáp

giữa bà Tùng và Cửu Hoãn. Bà Tùng tỏ ý coi thường ông Cữu Hoãn người

làng Tân Trúc nên chơi chữ: Trai Tân Trúc trồng tre thở hoi hóp! Ông Hoãn

cũng không vừa vặn gì: Gái Điếu Ngao xúc hến hát nghêu ngao! trước sự

thán phục của công chúng. Thợ Thiềm cũng là một tay hò đối đáp nổi tiếng

thông minh nhanh nhẹn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian nhưng nhiều

lúc cũng phải sa cơ, phải chịu thua trước những gương mặt nữ nhi sáng giá.

Là giai thoại nhưng nhân dân ta rất tự hào, lưu truyền từ đời này qua đời

khác thành một kho tàng văn nghệ dân gian gắn với những con người thông

minh trí lự như là niềm tự hào của nhân dân về những người con xứ sở.

Có những giai thoại tập trung vào một vài nhân vật như ông Tuyn,

làng Bích Giang xã Cam Hiếu, Cam Lộ; Xạ Trạch làng Ninh Xá, huyện Gio

Linh và cụ Đoan làng Võ Thuận, Triệu Phong. Họ là những nhân vật tiếu

lâm ngoại hạng cùng thời, mỗi người mỗi phong cách không ai giống ai. Các

cụ chưa ai gặp ai bao giờ nhưng đã bổ trợ cho nhau, gặp gỡ nhau nhau trên

cái tinh thần tự do chủ nghĩa, coi trời bằng vung, ngông nghênh ngang ngạnh

từ thuở lọt lòng cho đến lúc xuôi tay nhắm mắt nên đã lưu lại trong dân gian

một kho tàng giai thoại trào phúng thông minh đồ sộ. Cái tài của những nghệ

nhân sáng tạo nên hệ thống truyện kể hóm hỉnh và lôi cuốn này ở Quảng Trị

thời cận, hiện đại là ở chỗ họ đã cống hiến cho người nghe nhiều tình huống

8

phóng đại biết rõ mười mươi là vô lý rồi mà vẫn háo hức nghe và tin. Đặc

trưng chung của hệ thống chuyện trạng chính là nhân vật trung tâm, tức

người sáng tạo ra truyện đồng thời cũng là người kể truyện. Chìa khóa chính

là ở điểm này. Để thưởng thức trọn vẹn cái duyên, cái hay, cái đặc sắc của

chuyện trạng thì phải nghe trực tiếp các nghệ nhân, tức các nhân vật trung

tâm ấy kể, làm khác đi truyện sẽ trở nên… nhạt thếch! Dưới đây đơn cử

trường hợp cụ Tuyn.

Cụ Tuyn, họ tên đầy đủ là Nguyễn Tuyn (1911-1968), cụ ít học song

thuộc lớp tân thời. Thời trai tráng ông cụ đi lính Pháp sang Lào. Thời chống

Pháp cụ về sinh sống ở làng, hành nghề thầy cúng, năng đi đây đi đó cũng vì

bản tính thích ngao du. Bù lại Bích Giang là ngôi làng cổ kính, phong hóa.

Làng có sáu họ, họ Hoàng là họ tiền khai khẩn đến Nguyễn nhất, Phan,

Nguyễn tư, Nguyễn năm và Nguyễn sáu. Cụ là trưởng họ Nguyễn sáu nên ở

làng quen gọi cụ bằng cái tên Trưởng Sáu. Quê hương cụ Tuyn tuy là vùng

đất nông nghiệp, bán sơn địa nghèo nàn sỏi đá song đa số người dân nơi đây

đều có đầu óc trào phúng. Ngoài truyện cười, một thứ đặc sản tinh thần đặc

sệt phong vị dân gian của vùng đất, thì tiếng cười ở đây còn tiềm ẩn dồi dào

phong phú từ trong ca dao, hò vè, truyện kể dân gian; nó bộc lộ tinh thần lạc

quan và trí lự của vùng đất. Đâu phải dư ăn dư mặc mới cười, nghèo mà vẫn

cứ cười mới lạ! Có điều người nghèo thì giàu cái cười châm biếm, đã kích.

Họ đã kích cái thói hà tiện của quan lại phong kiến; châm chích ngay cả thói

hư tật xấu của chính mình là người nông dân tay lấm chân bùn. Tất cả đều

được cụ Tuyn tiếp nhận và nâng cao, xin được dẫn một vài mô-típ phổ biến

trong kho tàng hàng trăm giai thoại ấy.

Việc cụ thường xuyên chống đối quan lại, trong dân gian có rất nhiều

câu chuyện, ví như “Quan huyện mắc mưu ông hội tề” là một ví dụ. Quá

nhiều lần quan huyện huy động các làng nộp tre làm hàng rào, cụ Tuyn bấy

giờ làm hội tề muốn giúp dân làng mình ngầm chủ trương không nộp. Khi

kiểm tra sổ thu thấy các làng trong xã đã nộp xong trừ Bích Giang chưa nộp

cây nào, quan huyện gọi hội tề lên quát: - Tại sao Bích Giang không nộp tre?

Ông cụ thản nhiên: - Dạ tui nộp rồi! Không những nộp đủ mà còn đánh dấu

đỏ vào từng bó nữa, mời quan ra coi. Nói rồi ông cụ dẫn quan huyện ra sân

chỉ vào những bó tre ngày hôm trước đã phết sơn đỏ vào và ghi tắt hai chữ

B.G. tên làng cụ... Quan huyện chịu thua. Cả làng Bích Giang không những

thoát nạn mà còn hả hê cười cho đến tận bây giờ!

Đặc biệt là những câu chuyện cụ phản kháng cái trật tự gọi là "manh

chiếu giữa làng", như chuyện “Có văn rồi yết!”. Lệ thường mỗi khi tế lễ ở

9

đình Trung, đầu hôm làng có bài văn gọi là “túc yết” mời thần linh, ông bà

về dự. Sáng sớm hôm sau vào lễ chính, làng có bài văn “đọc chúc”, tất cả

đều phải viết ra trên sớ. Đêm ấy ông hội chủ, trưởng các họ tộc cùng ông văn

lễ bày các chiếu cờ ra đánh, ham cờ mà bỏ qua việc viết sớ đọc chúc, thay

bằng việc khấn trầm. Cụ Tuyn biết mà làm thinh. Đợi khi vào lễ, đại cổ, tiểu

cổ vừa khởi động xong, ông hội chủ quỳ xuống khấn trầm, cụ lên tiếng: -

Thưa làng, phải đình tế lễ lại ngay! Cớ răng (vì sao) đầu hôm lễ túc yết có

văn sớ mà sáng nay lễ chính không có văn?.. Ông hội chủ quay lại hội ý lần

nữa, thống nhất khấn trầm nhưng cụ Yuyn vẫn cứ cứng đầu: - Thưa chú bác,

thưa làng! Ông hội chủ khấn trầm giữa đình Trung chú bác có ai nghe ông

khấn như thế nào không? Vừa rồi giữa tui và ông có điều thắc mắc nên thưa

làng, biết đâu ông hội chủ lấy việc khấn trầm để chưởi ông bà tôi thì làng

biết tai hại như thế nào không?... Trước lý lẽ thẳng băng của cụ làng buộc

phải đình lễ, có văn rồi yết!.

“Người mất hai đồng, kẻ mất ba!” cũng là giai thoại cụ chơi khăm bà

bán hàng sành sứ chén đọi ngoa ngược chợ Phiên Cam Lộ. Vào chợ, cụ cầm

cái bình đất lên săm soi tỳ vết khá kỹ càng rồi hỏi: - Bình ni mấy tiền? O bán

hàng: - Năm đồng! Cụ dợm giá: - Hai đồng được không? O bán hàng chanh

chua, chì chiết: - Hai đồng! Mới được cái vòi!.. Cụ Tuyn “ngây ngô” đồng ý,

rút trả hai đồng, bẻ ngay cái vòi rồi trả lại o bán hàng cái bình sứt. Giữa chợ,

o kia lồng lên, bắt ông cụ vào ủy ban xã Cam Thái (cạnh chợ Phiên) xét xử.

Cụ đồng ý: - Ờ thì đi!.. Gặp cụ, Ủy ban xã biết ngay là đã gặp một “khách

hàng” tinh quái, cao thủ đành xử hòa. Coi như trong vụ mua bán này người

mất hai đồng, kẻ mất ba!..

Ở thời đại nào, lứa tuổi nào thì việc chọc ghẹo phụ nữ cũng là đề tài

trung tâm, nhất là đối với những con người tài năng và hóm hỉnh. Ở làng

Quật Xá có một cái giếng dành riêng cho phụ nữ tắm truồng vào những buổi

chiều tà, những đêm trăng thanh gió mát. Qua lại trong vùng cụ biết, quyết

đùa phen chơi. Bẻ cành cây bên đường làm gậy, đội cái nón trụp mặt, cụ ông

đi đứng như một lão mù, lần mò tới giếng. Đám con gái í ới: - Có ông nào bị

mù đi lạc đường bay ơi!.. - Dạ thưa, tui đi đường xa đang khát, tai nghe có

tiếng gàu múc nước lần đến, xin mấy o miếng nước. Đám con gái tin cụ mù

thật, khúc khích cười, múc nước đưa ông. Tay bưng gàu nước, uống vài ba

ngụm cụ khà..., tỏ ra khoái trá rồi khen: - Chà cha, nước giếng làng này mát

quá, uống vào tui thấy sáng mắt ra… Đoạn ông mở mắt ra hỏi tỉnh queo: -

Thì ra các bà các cô tắm truồng đấy à!.. Đám con gái bỏ chạy tóa lỏa… Theo

bước chân cụ ra đường, lại bắt gặp vô số giai thoại khác. Hàng trăm giai

10

thoại kiểu như: “Thôi thì cho mày tất”, “Chơi khăm bốt cảnh sát Đông Hà”,

“Cho tui xin lên Cam Hiếu”, “Cho tui xuống xe”, “Giả mù được đãi chầu

rượu”, “Quỵt bà chủ quán”, “Không nội không ngoại gì nữa sất”, “Che bụ

(vú) được thưởng”, “Tui bị đau răng”, “Móc dù”, “Xẩm xẩm rấm ai?”, “Dà

mạ” (nhà mẹ) cũng cháy nữa là “dà con” (dạ con)!", “Cắt tóc kiểu hết trơn”

v.v… đều là những câu chuyện cười ra nước mắt.

Không ai khác, các cụ là những con người bình dị, bình thường như

những nông dân khác nhưng luôn ẩn chứa trong mình một sự bùng nổ. Ở

những con người này luôn thường trực, chứa đựng nội hàm của động từ

"phá", phá cái xiềng xích cũ thay vào đó cái mới. Thông qua những trò đùa

dai dẳng như vậy, rõ ràng cụ đã công khai cười nhạo thói tục đạo đức quy

chuẩn gò bó của xã hội đương thời. Không phải là con người như thế, không

thể với những cái chức vị nhỏ nhoi như là trưởng xâu (cái chân sai vặt),

“Trưởng sáu” (trưởng cái họ cuối cùng ở làng) hoặc cao như hội tề (trưởng

làng) hay đi lính sang tận bên Lào (cũng là một thứ đánh thuê)… mà cụ dám

chống đối, phản kháng lại cái trật tự hủ lậu của quan lại thực dân phong kiến

ở những manh chiếu giữa làng theo kiểu ấy được. Suy cho cùng, ở bất kỳ thời

đại nào thì lịch sử cũng tìm cách sinh ra những con người ưu tú (ngày nay gọi

là nghệ nhân ưu tú), những con người tài hoa đại diện cho thời đại của mình.

Một khi đó là trí khôn, là sự lựa chọn của lịch sử thì không ai cưỡng lại được.

Vài trăm năm sau chưa dễ đã xuất hiện thêm một một vài người kiểu như cụ

Tuyn, thợ Thiềm, cụ Xạ Trạch, cụ Đoan… vì những con người sinh ra để

mang vác cái sứ mệnh sản sinh ra một thứ đặc sản tinh thần của vùng đất như

thế thường xưa nay hiếm. Bây giờ trình bày thêm về chuyện trạng Vĩnh

Hoàng.

Vĩnh Hoàng là ngôi làng cổ có tên trong Ô Châu cận lục ra đời cách

đây hơn 500 năm, sau cuộc “Nam phạt” của nhà Lý. Gia phả họ Huỳnh

(Hoàng) lưu giữ ở làng cho biết, trong dòng người phía Bắc đi mở cõi có ông

Huỳnh Đại La người xứ Hoan Châu cùng con trai đã dừng chân ở nơi này;

một nơi chốn bấy giờ hoang sơ nhưng đất đai phì nhiêu, non sông cẩm tú,

chim chóc muông thú ngập tràn. Sau đó, các dòng họ khác như Trần,

Nguyễn, Tạ… lần lượt đến đây gây dựng nên làng quê trù phú. Tên làng

Huỳnh Công ghi nhận công lao khai phá đầu tiên của họ Huỳnh nói trên

không có gì là lạ. Từ làng Huỳnh Công ban đầu, ranh giới làng dần dà được

mở rộng về các hướng, hình thành thêm mười tám thôn khác nhau tạo nên

một xã Vĩnh Hoàng mênh mông. Đến năm 1955, Ủy ban hành chính Khu

vực Vĩnh Linh tách Vĩnh Hoàng thành bốn xã Vĩnh Tú, Vĩnh Thái, Vĩnh

11

Trung, Vĩnh Nam như bây giờ. Địa danh “làng Vĩnh Hoàng” thực chất là

làng Huỳnh Công (gồm ba thôn Huỳnh Công Tây, Huỳnh Công Đông và

Huỳnh Công Nam) thuộc xã Vĩnh Tú ngày nay. Có điều lạ là trong cái địa

phương rộng lớn này thì chỉ có mỗi làng Huỳnh Công có ngón nghề kể

chuyện trạng nên gọi chuyện trạng Vĩnh Hoàng hay chuyện trạng Huỳnh

Công thực chất cũng chỉ là một mà thôi. Nhưng do thói quen ban đầu gọi là

trạng Vĩnh Hoàng nên cứ định danh là Vĩnh Hoàng, không cần biết rằng trên

bản đồ hành chính cái tên “Vĩnh Hoàng” đã giải thể, mất đi từ năm 1955.

Lại nói về xã Vĩnh Tú, nơi có chuyện trạng Vĩnh Hoàng có nhiều đặc

sản. Trước tiên là dưa, thứ dưa đặc trưng, “đen trùi trũi, to vật vã, vỏ cứng

như đá nhưng ruột đỏ tươi”, mềm và ngọt thì “ríu cuống lưỡi”. Thứ đến có

bàu Thủy Ứ. Đây là một bàu nước tự nhiên, đồn là sâu không có đáy, quanh

năm không bao giờ cạn. Bàu Thủy Ứ còn là một kho cá tôm bất tận, đến bây

giờ vẫn có những cá thể to ngoài sức tưởng tượng, dân làng gọi bằng “cụ”:

“cụ Đô”, “cụ Chép”, “cụ Rô”… , có “cụ” còn biết “gáy oang oác như gà”. Ở

đây cái sự nghèo cũng biến thành đặc sản nổi tiếng. Kiểu như “ăn cơm bữa

diếp”, “đói rạ mắt”, “quần chó táp đứng” hay câu ca phận nghèo “Áo rách

chi lắm áo ơi/Áo rách trăm chỗ không nơi rận nằm” cũng chính là từ mảnh

đất này sinh ra.

Đối mặt với cuộc sống khắc nghiệt thiếu thốn trăm bề, thay vì mang

tâm lý bi quan tuyệt vọng thì người dân Vĩnh Hoàng lại có một phong cách

sống khí khái, tự tin sôi nổi, lạc quan yêu đời thông qua những kỹ năng trào

lộng bậc thầy. Qua đầu óc hài hước và sự liên tưởng thú vị, họ đã biến những

khó khăn thành những câu chuyện cười. Dẫu đã bị phóng đại hàng trăm hàng

ngàn lần, hoặc sẽ không bao giờ xảy ra, hoặc không bao giờ con người có

khả năng làm được nhưng nghe vẫn thấy thật có lý, biết là trạng mà cứ thấy

chân thật. Bao câu chuyện li kỳ trong kho tàng chuyện trạng Vĩnh Hoàng đều

được bắt nguồn thiên nhiên và con người Vĩnh Hoàng hiện ra quê mùa, dân

dã, chất phác và hồn nhiên, tươi đẹp. Từ những trảng dưa, từ củ sắn, củ

khoai, trái ớt, con cá, con tôm, đực chép, đực tràu, đực rô, đực trâu, đực

cọp… tất cả đều sinh chuyện, đều có thể phát sinh ra nhiều câu chuyện hài

hước, độc đáo, thú vị, bất ngờ. Tuy có biến đổi qua thời gian, kho tàng

chuyện trạng Vĩnh Hoàng vẫn định hình ở ba loại hình cơ bản. Đó là những

câu chuyện trạng liên quan đến quá trình lao động, sản xuất, sinh hoạt

thường ngày từ khi mới lập làng; chuyện trong kháng chiến chống Pháp,

chống Mỹ; chuyện xảy ra ở thời kỳ đổi mới, thậm chí vừa xảy ra ở thì hiện

tại.

12

Có rất nhiều câu chuyện tiêu biểu trong kho tàng chuyện trạng Vĩnh

Hoàng kể không bao giờ hết. Bọ đi cày ruộng khuya, nhập nhèm sáng tối bọ

cải luôn ông cọp với con bò cày đôi. Gần về sáng thấy có sự lạ, không biết

răng hôm ni đôi bò trở chứng lồng dữ ri? Bọ tới tháo cày, cho đôi bò ăn cỏ

sớm, rứa là đực cọp cong đuôi chạy bán sống bán chết vô rú (chuyện Cải cọp

cày). Đi cắt tranh về lợp nhà, khi đem phơi “chộ” mấy cái đuôi cọp lẫn lộn

trong mấy bó tranh, “máu me một vằn hai vện trông mà gớm ghiếc, ròi lằng

(ruồi, nhặng) bu đen” (Bứt tranh bứt nhầm đuôi cọp). Quả dưa đỏ to đến nỗi

đàn quạ khoét vỏ chui vô ăn, bọ ngồi bên, cứ thò tay vô “bắt bọp, bắt bọp”

(giết) mỏi cả tay, từ sáng đến tối vẫn không hết quạ (Bắt bọp). Một bụi khoai

lang quá tươi tốt, khi thu hoạch người dân lần theo ngọn của nó. Đi hết buổi,

cuối cùng mới biết mình đã ra đến đất Quảng Bình (Ngọn khoai lang bò hai

tỉnh). Ấn tượng nhất trong môtip các câu chuyện về đặc sản quê nhà này vẫn

là câu chuyện Cá đô bảy món, xin chép lại nguyên văn để bạn đọc cảm nhận

được sự hóm hỉnh, tếu táo, lôgic; không lôgic không thành chuyện trạng[2]:

Rảnh rỗi, bọ xách cần câu ra bàu Thủy Ứ kiếm chút cá cải thiện. Bọ

móc mồi lấy đà quăng cần một phát, ai dè chạc (dây) câu chạy ro ro, không

xuống bàu mà qua tận bên rú Hàn. Đang nghĩ, lỡ hắn mắc cột cây thì ai qua

gỡ cho, thì ở mô một lạo chuốc chuốc (chim cuốc) đã lao ra đớp mồi chạy,

chưa được mấy bước thì một ả chồn chắc rình rập nãy giờ, chộp luôn. Bọ

xâm mắt nhưng cũng mừng thầm, không câu được cá thì có chuốc chuốc với

chồn rồi. Rứa là bọ bình tĩnh, trặc (giật) cần câu, lôi cả hai con xuống bàu.

Mới được một đoạn thì, oa chà, từ dưới bàu, một đực tràu đại chang (to lớn),

trốôc (đầu) nổi lên đen thui như cái nồi bung, lao lên ngoạm luôn ả chồn lặn

mất tăm. Hoảng quá, bọ trặc cần, vật chắc với đực tràu. Hắn kéo, bọ trì, thi

gan rứa, từ sáng đến chiều. Chạc cước câu căng như dây đờn (đàn), gió thổi

qua kêu tửng từng tưng. Cuối cùng đực tràu đoạ, bọ lôi lên bờ, kéo về nhà,

bọ lấy cuốc xợt (chắn) vảy, cho mỗi người trong xóm một cái làm quạt… Bọ

mổ bụng đực tràu lôi ra ả chồn, mổ bụng ả chồn lôi ra lạo chuốc chuốc, mổ

bụng lạo chuốc chuốc thì ôi thôi lủ khủ là cá, tôm, tép... cả rổ. Vị chi hôm đó

nhà bọ mần được bảy món: tép rang, cá rán, lòng xào sả, chồn giả cầy, thịt

hong, cháo lòng và lẩu (Cá đô bảy món). Kể xong câu chuyện, tác giả còn

bình thêm: “Rõ ràng trên thực tế, chim cuốc thường ăn cá, ăn tôm, chồn ăn

chim, ăn chuột,… nhưng không thể có sự ngẫu nhiên kỳ lạ để cùng một lúc

bọ tóm được nhiều đến vậy. Chưa kể đến chuyện không thể có “đực tràu”

nào to như thế (nuốt cả con chồn) và khoẻ như thế (vật nhau với người). Thế

nhưng cả câu chuyện, qua lời bọ kể, lại là một sự hợp lý hợp tình nghe thật…

sướng lỗ tai”[2].

13

Chuyện trạng thời chống Pháp chống Mỹ có rất nhiều, truyện nào cũng

thăng hoa, cũng tràn đầy tinh thần lạc quan, xem việc đánh giặc, đối đầu với

thằng giặc cũng nhẹ nhàng như đi làm đồng. Ấy là chuyện một hôm bọ ra

đồng, thấy “đực” trực thăng “vè vè liệng liệng” sát rạt trên đầu, tức máu, bọ

dùng… cuốc khoèo cẹng (cánh) nó xuống, giằng co một hồi, bọ mệt, thả

cuốc, máy bay mất đà, bổ chúi vô độông cát, tởn đến tra (già) cũng không

dám mò tới nữa (Vít cổ tàu bay). Dân quân làng Huỳnh Công đào địa đạo,

Khu đội Vĩnh Linh gọi lên báo cáo kết quả, họ bảo không biết bao nhiêu mà

kể, chỉ biết rằng khi đào xong thì gặp mấy anh to cao râu ria xồm xoàm, nói

xì xồ xì xà. Hỏi ra mới biết là gặp con cháu của… Fidel Castro, nghĩa là đào

đến đất nước Cu Ba rồi (Địa đạo xuyên lục địa). Vợ chồng nọ đi trực dân

quân, tranh thủ ghé về hầm coi mấy đứa con nhỏ ngủ ngáy thế nào. Lần lượt

sờ đầu thấy ba đứa con đều mát mẻ, riêng đứa ngoài cùng, không biết con cái

nhà ai lại lạc vô nằm chung đang sốt nóng hầm hập. Bật đèn lên coi thì hoá

ra là… một quả bom khoan máy bay Mỹ vừa thả xuống, không biết cách chi

lại chui tọt vô hầm ngoan ngoãn nằm với mấy đứa trẻ. Vậy là hai vợ chồng

lặng lẽ khiêng “đứa con dư” ra vứt ngoài vũng trâu nằm (Đứa con dư)…

Tương tự, những câu chuyện sáng tác vào thời kỳ đổi mới, vừa xảy ra

ở thì hiện tại cũng không kém phần ly kỳ. Kể về cây cao su, một thế mạnh về

phát triển cây công nghiệp của xã, có chuyện anh cán bộ xã lên huyện họp,

giữa đường bị bể ruột xe máy, liền nhấc cả bánh xe nhúng vô chén mủ cao su

trong vườn, “rứa là chạy ngon ơ ra Hồ Xá, vèng mấy vòng quanh xã nữa mà

nỏ chộ (không thấy) hư hỏng chi thêm”. Chuyện thằng cu con khuya đi đổ

mủ cao su, sáng về nửa người phía dưới trắng bạch, nửa người trên thì đen.

Hỏi vì răng, bảo mủ chảy nhiều quá, đầy cả vườn, lội vô ngập ngang lưng

quần mới ra ri đây… Cuối cùng, một vấn đề vừa thuộc về nội dung vừa là

thủ pháp nghệ thuật ít được các nhà nghiên cứu để ý tới cần lưu ý. Khác với

tiếng cười đả kích, phê phán hoặc chê bai (cái ngu dốt trọc phú của bọn tham

quan ô lại hay những thói hư tật xấu trong nội bộ của người nông dân) như

chuyện cười ở các nơi khác, xuyên suốt nội dung toàn bộ kho tàng chuyện

trạng Vĩnh Hoàng thuần túy chỉ biết ca ngợi những điều thật bình dị của

cuộc sống hàng ngày, không hề có nhân vật phản diện, không có cái xấu cái

ác cần lên án, đả kích. “Đực” cọp nó đe dọa đời sống dân làng; “lạo” giặc lái,

phi công Mỹ tàn ác hung hãn như thế khi gặp người dân Vĩnh Hoàng, đã

được cái tinh thần lạc quan yêu đời của làng trạng quy phục một cách rất tự

nhiên. Có thể nói, chuyện trạng Vĩnh Hoàng là một loại hình văn hóa hòa

hợp, thích nghi với tự nhiên; là “thiên nhiên thứ hai” do làng nói trạng sản

sinh ra.

14

Nói về cách dựng chuyện, kể chuyện và dẫn dụ người nghe, tức là

những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc của chuyện trạng Vĩnh Hoàng, Trần

Thanh Hải chỉ ra hai phương thức không thể thiếu, đó là phương thức phóng

đại và việc sử dụng phương ngữ. 1- “Người nông dân luôn sử dụng phương

thức phóng đại đối với mọi chi tiết, sự vật; không sử dụng phép so sánh trực

tiếp, mà lại sử dụng phương thức phóng đại gián tiếp, nên luôn đặt người

nghe vào sự liên tưởng, để hiểu cái chất “trạng” ẩn trong đó. “Bọ nói về quả

dưa đỏ bọ trồng được, to lắm, nhưng gián tiếp bằng hình ảnh đạn bắn vào

mắc kẹt không ra được, thằng cu ăn dưa bị gãy mấy cái răng vì nhai phải

đầu vỏ đạn; Bọ nói về những quả ớt khổng lồ, gặp gió đung đưa rổn rảng,

nên khi đi thăm đồng từ xa bọ tưởng… bầy voi vô phá, khua ngà lung tung.

Một củ sắn để lâu ngày quên đào lên, con trâu bờm của bọ dẫm phải sụp vô

trong ruột, mắc kẹt luôn, thế là từ trâu đen thành trâu trắng vì bột sắn phủ

lên kín người… 2- “Một điều kỳ lạ nữa trong cách kể chuyện trạng Vĩnh

Hoàng là mọi vật đều bị bọ biến thành đực hết: “đực rạ” (cây rựa), đực bò,

đực trâu, đực tràu (con cá lóc), đực coọc (con cọp, hổ), đực nhà, đực tàu bay

Mỹ, đực trốôc cúi (cái đầu gối), thậm chí là đực… mệ (người phụ nữ lớn

tuổi); mà thực ra những thứ này phải gọi là cái, là con. Thế nhưng cái từ

“đực” nặng trình trịch và không lấy gì làm tế nhị ấy khi đặt trong câu chuyện

và cách kể của bọ lại nghe rất thích thú, rất đặc trưng. Đó chính là những nét

đặc biệt riêng có của chuyện trạng Vĩnh Hoàng… Giọng nói của người dân

Vĩnh Hoàng rất nặng, cách phát âm luôn mất thanh ngã, chỉ sử dụng thanh

hỏi (?), ngữ điệu thay đổi nhanh ở đầu câu, kéo dài ở cuối câu, kết thúc mỗi

câu luôn sử dụng các thán từ: hấy, há, ui dà, đó nơ, đó tê… nhấn nhá rất đặc

trưng, âm điệu trầm bổng theo từng tình tiết câu chuyện, cùng với thái độ, sự

biểu cảm trên nét mặt, kết hợp các cử động về chân tay, cách di chuyển, dáng

điệu… tạo nên sự tổng hoà của những câu chuyện trạng thật ngộ nghĩnh, dân

dã với sức hút kỳ lạ lôi cuốn người nghe… Chuyện của bọ nhất quyết phải

có những eng, ả, đực, lạo, hấy há, răng, rứa, mô, tê, ri, cấy dông (vợ chồng),

cơn (cây), cươi (sân), rọng (ruộng), đàng (đường), nác (nước), lả (lửa), đòn

triêng (đòn gánh), keng (canh), trốc (đầu), rọt (ruột), cẳng (chân), mẹng

(miệng), trốc cúi (đầu gối), cùn (quần), đùi, lẻ (gậy), lịp cời (nón), giăng nạp

(bờ rào), bạng chắc (đánh nhau), chạc (dây), lái (lưới), ló (lúa), bù (bầu), bín

(bí), chứa (quả thơm, dứa), bầy choa (chúng tao), lộ mô (chỗ mô), ròi (ruồi),

lằng (nhặng), tắn (rắn), trùn (giun), ếc (ếch), náng (nướng), lọc (luộc), tra

(già), nậy (lớn), chộ (thấy), côi (trên), đưới (dưới), đọa (mệt)… bày ra tràng

giang đại hải mới thực sự đánh đố người nghe. Những đoàn khách ngoại tỉnh

đến Vĩnh Linh luôn muốn nghe chuyện trạng Vĩnh Hoàng. Khi về hỏi họ hay

15

không? Quá hay. Vui không? Quá vui, nhưng… chẳng hiểu gì hết. Có bấy

nhiêu tiêu chí, có thể nói là ngặt nghèo dành riêng cho các nghệ nhân kể

chuyện trạng, nên không phải ai ở làng Huỳnh Công cũng có thể kể được

chuyện trạng. Cách đây vài chục năm đã hiếm, nay chỉ dăm bảy bọ (người).

Kể chuyện trạng hay phải là “bọ” chính hiệu sinh ra và lớn lên nơi này, với

chất giọng ồ ồ khàn khàn vì nước chè đặc và thuốc vấn sâu kèn, với cách sử

dụng ngôn ngữ địa phương nhuần nhuyễn và la liệt trong câu chuyện. Bắt

được thằng phi công Mỹ nhảy dù, bọ dân quân hô to: Cổi lịp cời! Bỏ ốông

chối xuống!, thằng Mỹ lắc đầu lia lịa, bọ quát tiếp: Mi vèng côi trời có chộ

bầy choa mần chi đưới ni khôông? Thằng Mỹ ngẩn tò te. Bó tay. Bọ hỏi thế

thì đến bố nó sống lại cũng không hiểu nổi! (Tạm dịch: Cởi mũ, bỏ điện đàm

xuống! Mày bay trên trời có thấy chúng tao làm gì dưới này không?) Nhưng

phương ngữ đặc trưng của người Vĩnh Hoàng và của chuyện trạng Vĩnh

Hoàng là phải vậy, càng đậm đặc ngôn ngữ địa phương càng hay” [2].

Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất, trạng Vĩnh Hoàng là báu

vật sống, là hòn ngọc quý hiếm có một không hai trong kho tàng văn hóa dân

gian cả nước. Cần có các giải pháp căn cơ hơn để bảo tồn và phát huy giá trị

hòn ngọc quý hiếm này.

Trong thể loại tự sự còn có Vè. Khi nói đến Vè, người ta thường nghĩ

đến lối đọc thơ bốn chữ có nhịp, hơn một chút là có kèm theo một chiếc

phách gõ vào đầu nhịp một cách đều đặn. Ví dụ: Ve vẻ vè ve/Nghe vè con

gái/Chân tay mềm mại…(những chữ gạch dưới biểu thị nhịp đầu phách). Lối

kể Vè trên phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhưng từ sông Gianh trở vào,

Vè được phân chia thành hai loại là Vè bốn chữ và Vè song thất lục bát. Vè

bốn chữ gọi là kể vè hay nói vè; vè song thất lục bát gọi là hát vè (ở đây chỉ

trình bày phần kể vè; riêng hát vè trình bày ở mục các loại hình diễn xướng

dân ca).

Có thể phân loại nội dung của vè ra thành các nhóm cơ bản sau:

Vè ca ngợi sự phong phú của sản vật, thổ sản địa phương như các bài

vè trái cây, bánh trái, tôm cá, vè con kiến… mà tiêu biểu nhất là bản tổng kết

có tính phương ngữ dài nhất nước về những đặc sản mang dấu ấn, hương vị

mộc mạc của quê nhà Quảng Trị: Nem chợ Sãi, Vải La Vang, Lựu Thượng

Phước, Nước độc Kim Giao, Gạo Phước Điền, Chuông Sắc Tứ, Khoai từ Trà

Bát, Quạt chợ Sòng, Cá bống Bích La, Gà Trà Lộc, Môn độn An Đôn, Tôm

đồng Mai Lĩnh, Bánh ít Đạo Đầu, Trầu nguồn Khe Gió, Cỗ Trung Đơn,

Thơm Bồ Bản, Nghệ vàng An Lộng, Xôi thống Hải Thành, Gạch Trí Bưu, Lựu

Triệu Phước…

16

Đúng như tên gọi, vè sinh hoạt xã hội có một phạm vi phản ánh khá

rộng lớn, trở thành một hệ thống gương soi từ cung cách làm ăn (Vè tính

ruộng, Vè giữ trâu, Vè đốt than, Vè chăn vịt, Vè đám cưới, Vè con kiến, Vè

chơi Tết… …), về đạo lý, trường học làm người (Vè dạy vợ, Vè dạy con gái,

Vè khuyên con đừng đánh bạc, Vè con gái, Vè làm vợ nhỏ, Vè ve gái, Vè mụ

nhác, Vè ăn hàng, Vè chửa hoang...). Ngoài ra còn có các bài vè nói ngược,

ở đó sự thông thái dân gian được thể hiện sắc nét trong nơi chân lý được

thông báo dưới dạng nghịch đảo và khi tiếp nhận bao giờ cũng kèm theo nụ

cười khi được giải mã… Nội dung những bài vè thế sự thường mang tính xã

hội sâu sắc. Thử nghe đoạn vè ăn hàng: Ve vẻ vè ve/Nghe vè ăn nợ/Đàn bà đi

chợ/Bắt dông trả hoài./Bánh ít giun khoai/Bánh xoài giun đậu/Bán hai tiền

cấu/Bới ba mươi đồng./Mua hai đồng lòng/Một đồng bánh tráng/Miệng hỏi

sang sảng/Bún bán đầu mô./Bún bán đầu hồ/Chỏ vào bánh gói/Vừa đi vừa

nói/Mua về cho con/Mở ra chộ ngon/Mở họng ra ních... Đoạn vè làm vợ

nhỏ: Ve vẻ vè ve/ Nghe vè con gái/Mặt thắm má hồng/Không đặng đời

chồng/làm tôi vợ mọn./Ở ngoài nói rứa thì thôi/Làm tôi vợ mọn không biết

ngồi chỗ mô./Phần bán phần mua/Anh chẳng dám nhủ./Phần lo gia sự/Anh

nỏ dám quyền:/Ăn rồi gánh nước cho liên/Đem về nấu nướng, trăm phần ấm

no/Chị xem như đứa ở mùa... Kết cục là sự ra đi không hề tiếc nuối “chồng

chị trả chị, tôi về tay không” và bài học cũng thật bạc bẽo, bẻ bàng “có tiền

xin chị một đồng, tôi sang tôi trả cho ông đưa đò”...

Ở nhóm thứ ba là vè tố cáo tội ác phong kiến thực dân và nỗi khổ dân

đen như vè bắt lính, vè chống Pháp, vè kháng chiến và vè địch vận. Hàng

trăm bài vè kháng chiến phản ánh nỗi khổ của người dân trong các cuộc

chiến tranh xâm lược và nêu bật tinh thần chiến đấu ngoan cường của người

dân ở một vùng đất có truyền thống đấu tranh như Quảng Trị là tài sản quý

giá ông cha ta trả giá bằng xương máu và tù đày còn được nhiều người ghi

nhớ như Vè cu-li, Vè Quảng Trị, Vè đi lính đánh thuê... nói lên những cảnh

ngộ điêu đứng, khổ cực lầm than của người dân Quảng Trị vấp phải cảnh đi

làm cu-li, đi làm đồn điền thân như nô lệ, đi lính đánh thuê bỏ xác ở các trời

Âu… và kêu gọi con cháu lầm đường lạc lối trở về.

Tiêu biểu, nổi bật nhất trong các bài vè tố cáo tội ác phong kiến thực

dân và nỗi khổ dân đen là vè “Mẹ Hẹ”, một sáng tác độc đáo, hình thức sáng

tác theo lối thoại kịch với lời đối đáp của hai nhân vật là cô Hẹ (Mẹ Hẹ) và

quan huyện. Nội dung bài vè kể lại câu chuyện cô Hẹ vào tuổi xuân tình phơi

phới đã bị quan huyện phỉnh phờ, chiếm đoạt. Khi cô Hẹ mang bầu, tên quan

huyện ấy tàn nhẫn đuổi cô ra khỏi nhà. Cô Hẹ nuốt hận trở về nhà mẹ.

17

Chuyện không dừng lại ở đó vì sau khi sinh nở, cô Hẹ ngày càng xuân sắc,

quan huyện lại giở trò phỉnh phờ tán tỉnh. Cô đã vạch trần thói sở khanh, bạc

tình bạc nghĩa của tên quan huyện bằng một ngôn ngữ cay chua, đậm đà sắc

thái địa phương mà không phải bài vè nào cũng thể hiện được:

“Mẹ Hẹ: - Tui ở ngoài nong ngoài nia, ngoài Sòng, ngoài Sãi, ông

Hương ông Xã, ông đi nói tui, ông kia nói tui có giá bạc triệu... mà tui nỏ có

ưng. Vì nghe lời cụ nói tiếng to, tiếng nhỏ, giọng kèn giọng quyển, tù tu tù

tít, tù tít tù ti, nên chi tui mới về với cụ. Chao ơi! Tui có mần hư, mần hao,

mần đổ, mần bể chi mô có mà cụ đánh sấp, đánh ngửa cho thẹn thùng thân

tui. Tui đã biết trước: sá chi tui đây ba thước vải thưa, có mô mà dám sánh

với cụ. Cụ có cái áo sê tra nút vàng... Đó hàng dinh liễu, đây tui phường thú

quê.

Huyện: - Đứa mô mà dấn dá, dấn dỏi... trước cửa công đường giống

tiếng con mẹ Hẹ rứa hử mẹ Hẹ?

Mẹ Hẹ: - Thưa với cụ, trình với cụ, vậy mà tui đây.

Huyện: - Phú đỏa cả kiếp mày! Bữa hôm qua tau bảo qua nhà mà nhàn

ca, mày không qua, mày nói lý, mày nói lẽ, mày làm bẽ mặt tao rứa hử Hẹ,

hử hử Hẹ?...”.

Vè “Mẹ Hẹ” là điểm nổi bật, là một trong số các bài vè chống lại các

thế lực phong kiến thường gọi là “người trên ở chẳng chính ngôi, khiến cho

kẻ dưới chúng tôi hỗn hào”. Người dân đánh tới tấp vào các bậc chức sắc

trong làng, trong xã, trong huyện cũng chỉ vì trong xã hội có quá nhiều “điêu

hào”. Một ông quan nhà thơ là Nguyễn Công Trứ vào năm 1828 đã có Sớ

điều trần tâu lên vua triều Nguyễn: “Quan lại nhũng tệ chỉ hai, ba phần; còn

điêu hào làm hại tới bảy, tám phần, cướp của giết người, hiếp vợ cướp con,

mà trên vẫn không biết đến”[3]. Gậy ông đập lưng ông, đây chính là cái gậy

cho người nghệ sĩ dân gian vịn vào đó để đứng lên phát biểu quan điểm xã

hội và thẩm mỹ của mình nhằm vun đắp cho người dân lao động phải sống

như thế nào cho xứng đáng với đạo lý của làng nước, từ đó mà thấm nhuần

tinh thần nhân văn chủ nghĩa sâu sắc.

Nhóm thứ tư là loại vè giải trí nghe có vẻ vô thưởng vô phạt, mục đích

cốt để giải trí, nhưng ẩn chứa đằng sau trò chơi này là những “mẹo mực”, là

cách mà người lớn gieo vào tư duy con trẻ những hiện tượng, những nghịch

lý, những câu hỏi chứa đựng sẵn những mầm móng như những bài “toán đố”

cần giải mã. Nhắc đến những bài vè giải trí làm chúng ta nhớ đến trước

những năm 1954, lớp trẻ lớn lên ở các vùng quê Quảng Trị nhất là Triệu

18

Phong thường nghe mẹ và chị hát đố hoặc có khi đem ra hát ru nhiều câu hò

có nội dung kiểu vừa nêu. Nghe xong các bài toán bằng thơ ca hò vè ấy,

nhiều câu hỏi phái sinh thôi thúc lời giải đáp. Bài dễ giải ngay được, bài khó

phải mất mấy ngày; bài không giải được, đem đi hỏi nhau khiến mỗi ngày

mỗi phổ biến thêm sâu rộng. Người đặt những câu hò và ca dao toán ấy là

ông Thượng Đại Hòa, làm quan đến chức Thượng thư, giỏi chữ nghĩa đã

đành, còn nổi tiếng giỏi về toán pháp và lịch học nữa đã có một dụng ý rất

tốt là đưa toán vào cuộc sống, khơi gợi ý thức khoa học trong quần chúng

nhân dân, điều mà trước đó cha ông ta từng làm trong các bài vè, tục ngữ,

câu đố.

Hãy nghe lại bài “Vè nói láo” để thấy cái hóm hĩnh, ngộ nghĩnh của

con người Quảng Trị trong nghèo khổ, vất vả gian lao nhưng vẫn lạc quan

tin yêu cuộc sống, nhất là tinh thần “thực học” như vừa nói:

“Ngồi buồn nói chuyện láo thiên/Hồi nhỏ tui có lên khiêng ông

trời./Ra đồng thấy muỗi bắt dơi/Bọ hung làm giỗ đi mời ông voi./Nhà tui có

một củ khoai/Cắt năm thúng lớn hẳn hòi còn dư./Nhà tui có bụi khoai từ/Bới

lên một củ lăn hư cả vườn./Tui vừa câu được con lươn/Lấy thịt quết chả, lấy

xương đẽo chày./Nhà tui có cái giàng xay/Đầu cong bịt bạc, đầu ngay bịt

vàng./Nhà tui có một cái ang/Đổ lúa bảy làng thêm nước còn lưng./Nhà tui

có một bụi gừng/Bới lên một củ ước chừng đòn xeo./Nhà tui có một con

mèo/Bữa mô thèm thịt lên đèo bắt nai./Nhà tui có một cái chai/Đựng tám

thùng mắm thêm hai thùng dầu./Ông già tui có bộ râu/Bứt lấy một sợi đem

câu cá chình./Nói ra chị em chớ khinh/Thiên hạ nói láo chớ mình chi tui!”

Qua Vè, người Quảng Trị nói chung đã thể hiện quan niệm, nhận thức

về những hiện tượng có trong tự nhiên, thiên nhiên, về đất nước con người,

về đạo lý ở đời, về nhân tình thế thái, về kháng chiến gian lao anh dũng, về

truyền thống đấu tranh anh hùng bất khuất, về mọi khía cạnh sinh hoạt đời

thường và vui chơi giải trí. Lời văn chất phác, cấu trúc thô sơ nhưng tình

nghĩa và trí lự. Qua vè, người đọc nhận chân ra tính cách con người Quảng

Trị khá rõ nét.

1.1.2- Các thể loại suy lý:

Tục ngữ và câu đố là hai thể loại suy lý phổ biến rộng rãi. Cũng là

hành trang mang theo từ “cố hương”, tục ngữ là kho tàng tri thức và kinh

nghiệm thực tế về của nhân dân về thời tiết, về lao động sản xuất nói chung

và về đời sống xã hội. Có điều khác với cố quận là kho tàng kinh nghiệm

thực tế này đã được thay thế bởi môi trường lao động ở nơi ở mới.

19

Tục ngữ phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết, về các

hiện tượng tự nhiên:

- Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền một trộ

- Sấm Đầu Mầu không cầu cũng đến

- He vàng thì gió he đỏ thì mưa

- Cò ăn ruộng sâu thì nắng, cò ăn ruộng cạn thì mưa

- Cu cú tắm thì ráo, Trảo Trảo tắm thì mưa

- Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa

- Ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa

- Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa

- Rét tháng ba bà già chết cóng

- Trời nắng mau trưa, trời mưa mau tối

- Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng

- Ngày tháng mười chưa cười đã tối

- Gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão

- Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa

- Kiến cánh vỗ tổ bay ra

Bão táp, mưa sa gần tới

- Tháng bảy kiến đàn, đại hàn gần tới

- Kiến đen tha trứng lên cao

Thế nào cũng có mưa rào rất to

- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì

râm

- Sấm tháng mười, cấy giữa cươi (sân) cũng có lúa v.v…

Về kinh nghiệm sản xuất, kiểu xem thời tiết trong năm phục vụ

cho việc sản xuất, cách chọn giống má để gieo trồng lẫn kinh nghiệm chọn

giống gia súc gia cầm:

- Làm mùa tháng năm xem rằm tháng tám

- Đậu mười hai, khoai mười một

- Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ

20

- Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen

- Tỏ trăng mười bốn được tằm

Tỏ trăng hôm Rằm thì được lúa Chiêm

- Mồng Chín tháng Chín không mưa

Thì con bán cả cày bừa đi buôn

- Đói thì ăn môn ăn khoai, chớ thấy ló ( lúa) lổ giêng hai mà

mừng

- Năm trước được mùa cau, năm sau đau mùa lúa

- Miệng mỏ dài, tai lá mít

- Sừng khít tai, bốn cẳng giò nai

- Xoáy đóng ngang vai

Cày hôm cày mai

Cày hoài không xuể (chọn giống trâu tốt).

- Nuôi gà phải chọn giống gà

Gà gì bé giống nhưng mà đẻ mau

Nhất to là giống gà nâu

Lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều (chọn giống gà) v.v…

Những bài học được đúc kết từ thực tế cuộc sống về đời sống xã hội:

- Chữ nghĩa bề bề cũng thua nghề trong tay

- Chạy lóc xóc không bằng góc vườn

- Nhiều nghề cá trê húp nác (nước)

- Có đức mặc sức mà ăn

- Cái nết đánh chết cái đẹp

- Con ơi, ta bảo con này

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan

- Dâu dữ mất họ, chó dữ mất xóm giềng

- Cưới vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông

- Chồng giận thì vợ bớt lời

Cơm sôi bớt lửa một đời không khê v.v…

21

Về hình thức nghệ thuật, các câu tục ngữ ở Quảng Trị thường hợp vần

theo lối vần lưng và vần ôm. Ví như bài vè dài giới thiệu sản vật tiêu biểu

của từng địa phương từ Nem chợ Sãi, vải La Vang... đến Nắng Đông Hà/Đàn

bà Hội Yên thì đã giới thiệu quá chuẩn về miền gái đẹp và nắng gió Quảng

Trị rồi. Chính nhờ vần lưng, vần ôm này mà những câu tục ngữ ngắn gọn

này chúng ta hiểu bao quát hơn và sâu sắc hơn văn hoá vật chất lẫn văn hóa

tinh thần của vùng đất Quảng Trị.

Tương tự, người miền núi cũng bày tỏ kinh nghiệm của họ:

- Đừng mau phai như hoa Toang-a-rát

- Đừng chóng bạc như vôi

- Xách bầu phải xem quai

- Địu con phải xem vải buộc

- Làm cỏ phải xem cán nắm...

Câu đố ở Quảng Trị cũng là thể loại phong phú, đủ mọi chủng loại từ

những họat động lẫn các bộ phận cơ thể con người, về các con vật, các loại

cây trái và vô vàn các sự vật hiện tượng khác trong tự nhiên. Nó như một

pho sách độc đáo về nhận thức thực tế khách quan, đồng thời cũng là pho tài

liệu xã hội học sâu sắc về đấu tranh xã hội chứa đựng trong những ẩn ngữ

hai mặt hết sức thông minh và hiểm hóc góp phần rất hiệu quả vào cuộc đấu

tranh xã hội của nhân dân lao động.

Phương thức cơ bản để tạo ra câu đố là phương pháp ẩn dụ. Bằng lối

cấu tạo ngôn ngữ hết sức mềm dẻo, uyển chuyển để ghép những hiện tượng

rất khác nhau lại với nhau, tao ra những trường nghĩa đa dạng mà vẫn giữ

được tính hợp lý đủ để tồn tại. Tính ngụ ý, ước lệ của của lối cấu tạo ẩn dụ

ngôn từ này đặt cơ sở hợp lý cho phương pháp so sánh trong cấu tạo câu đố.

Với cách thức này, nhân dân ta đã sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ thiên biến vạn

hóa tạo nên nhiều câu đố mà cấu tạo đặc trưng của nó là “những ẩn ngữ hai

mặt”. Nó có khả năng châm chích, bêu rếu, đả kích hoặc đề cao các hiện

tượng xã hội một cách thú vị và hiểm hóc. Nó thể hiện trí tuệ tập thể vô cùng

thông minh, lợi dụng triệt để đặc trưng của câu đố là nói những chuyện nhỏ

nhặt như miếng trầu, cái cày, cây tre... để tỏ thái độ, quan điểm của chính

mình với sự đời. Ở đó, những nét đặc trưng của sự vật/sự việc mỗi lần đem

ra đoán đố cũng là quá trình lặp đi lặp lại câu đố, đay đi đay lại những lời ca

ngợi hoặc tố cáo, phỉ báng. Đó cũng là quá trình diễn xướng để cái vỏ ngôn

ngữ câu đố phát huy tác dụng (từ những câu đố náu mình trong những nụ

22

cười vô tư lự có tính cách tiêu khiển đến dạng câu đố tham gia vào cuộc đấu

tranh xã hội thâm trầm, tinh tế, kín đáo, giàu sức chiến đấu).

Ở cấp độ đầu tiên thường mang tính chất ngợi ca:

- Khen ai nho nhỏ

Mắt tỏ như gương

Tối trời như mực

Biết người thương ra chào. (Câu đố về con chó giữ nhà).

- Đầu rồng, đuôi phụng cánh tiên

Ngày năm bảy mụ tối ngủ riêng một mình. (Con gà trống).

- Hai cây cao đã nên cao

Một người dưới rào xa đã nên xa

Ba người họp lại một nhà

Kết duyên phu phụ duyên đà mặn duyên! (Cau, trầu, vôi)

- Da non mà bọc lấy xương

Lửa cháy trên đầu chúa chẳng thương

Đêm năm canh tiêu hao mình thiếp

Nghĩ đến đoạn trường nước mắt nhỏ sa (Cây đèn sáp).

- Một mẹ sinh đặng ngàn con

Trai có gái có, tài khôn rõ ràng

Mặt trời đã xế vàng vàng

Con xa ngái mẹ lại càng thương thay

Cách nhau đã bốn năm ngày

Con lại gặp mẹ mừng thay là mừng. (Chợ Phiên Cam Lộ).

- Bốn ông đập đất

Một ông phất cờ

Một ông vơ cỏ

Một ông bỏ phân? (Con trâu). Con trâu là đầu cơ nghiệp nên ở

câu đố trên con trâu được các nghệ nhân dân gian hết lời ca ngợi, đặt nó

trong một khung cảnh lao động rộn ràng, đến cả việc con trâu đi ỉa cũng

23

không bị chê bai dung tục mà ngược lại còn được mỹ lệ hóa một cách rất

hóm hỉnh.

Đố tục giảng thanh cũng là một thủ pháp sáng tác câu đố mà ở đó

những nghệ nhân dân gian vận dụng tối đa tính ngụ ý, ước lệ của của lối cấu

tạo ẩn dụ ngôn từ với sự liên tưởng:

- Trên lông dưới cũng lông

Đến đêm thì lại nằm chồng lên nhau. (Hai mí con mắt).

- Ông nằm dưới bà nằm trên

Ông xỏ c... lên bà rên hừ hừ. (Cái cối xay).

- Trong da ngoài cũng da

Đút vô thì cứng rút ra thì mềm. (Đôi giày).

- Trong hang trong hóc

Lốc nhốc bò ra

Cả huyện cùng nha

Chẳng ai bắt được?... (Là cái gì trong hang hóc, lốc nhốc bò ra

rành rành mà tất cả các quan nha đều bó tay không bắt được? Lời giải câu đố

là “Cái rắm”!). Cái bất ngờ của lời giải đáp như quả bom giáng một đòn trí

mạng không phải không nguy hiểm đối với bọn quan lại ăn hại đớn hèn. Một

câu đố hết sức bình dân nhưng vô cùng mẫn tiệp, thể hiện trí tuệ lẫn tâm hồn

giàu có của những người dân lao động chân lấm tay bùn.

Ở cấp độ cao hơn là đấu tranh xã hội, câu đố trở nên thâm trầm,

tinh tế và giàu sức chiến đấu hơn:

Mình mặc áo thâm

Cổ quàng khăn trắng

Hễ mở miệng ra

Cả làng la mắng.

Là câu đố về loài quạ báo hiệu cái chết khi được giải mã. Nhưng

toàn bộ ngôn từ lẫn hình bóng không ai không nghĩ đến một vị chức sắc nào

đó vênh vênh váo váo ở ngay làng xã của mình! Bằng cách cấu tạo như thế,

nhiều câu đố đã đi vào nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc đấu tranh xã hội.

Gom tất cả các câu đố loại này chúng ta sẽ có được một pho tài liệu xã hội

24

học đặc sắc phản ánh cuộc chiến đấu không trực diện nhưng độc đáo và sâu

sắc của người dân lao động. Ví như:

- Cha truyền con nối

Hành tội người ta

Chẳng đậu thủ khoa

Đậu đầu thiên hạ.

Là con chấy, là lũ chấy rận nhưng với lối lập ngôn như thế này

không ai không liên tưởng đến tội ác của bọn áp bức dốt cường hào. Hoặc:

- Chồng đi trước phá cửa phá nhà

Vợ đi sau bắt cả già lẫn trẻ.

Là cái lược sưa và lược dày nhưng sao nó giống đám quân cướp

ngày đến lạ!

- Một cái xương sống

Một đống xương sườn. Là cái mái nhà tranh, cái cơ thể sống cơ

cực của người nông dân chân lấm tay bùn!

- Con đóng khố, bố cởi truồng. Là măng và cây tre, cả hai cùng

cảnh ngộ khố rách áo ôm!

- Không vay mà trả” là ‘sưu thuế” bất công; là cướp bóc, “cướp

ngày” vô tội vạ nhưng không thể không nộp!

- Bằng một bước mà bước không qua. Là nói về cái bóng của con

người ta. Câu đố tả thực ở chỗ, cái bóng bao giờ cũng lẻo đẻo theo ta, chỉ cần

bước rán lên một bước nữa thôi sẽ vượt lên khỏi cái bóng. Vậy mà trên thực

tế, con người ta mãi mãi không bước qua nổi cái bóng của mình! Đó mới chỉ

là phần nghĩa đen. Cái bóng trong trường hợp này còn có một ý nghĩa ẩn kín,

trớ trêu của thân phận người. Cái khổ cái nghèo sao cứ đeo đẳng mãi người

ta như hình với bóng, cố dấn lên một bước để rủ bỏ cái nghèo mà bó tay,

hoàn toàn bất lực. Quả là khi giải xong câu đố này không biết nên cười hay

nên khóc!

Một vật dụng quen thuộc khác nữa cũng được đem ra đố:

Bộ tịch quan anh xấu lạ lùng

Khom lưng uốn gối cả đời cong

Lưỡi to mà sức ăn ra khoét

25

Cái kiếp theo đuôi có thẹn không?”.

Là người nông dân ra đố cái cày. Ở đây tác giả câu đố chỉ lẫy, vẻ

ra hình dáng lẫn vài đặc điểm cơ bản của cái cày, nhưng ngôn từ chữ nghĩa,

nhất là sự phóng đại một cách có ý thức đã đẩy trường liên tưởng người nghe

hướng về một kênh khác, đó chính là chân dung những “quan anh”, những vị

tai to mặt lớn. và khi câu đố có lời giải đơn giản là cái cày thì màn hạ, nút

thắt được mở, cao trào nổ ra bằng những tràng cười thì các nhân vật “tai to

mặt lớn” đồng thời cũng đã bị hạ bệ đích đáng.

Vật đố thường là những sự vật, những hiện tượng bình thường

trong cuộc sống, trong thiên nhiên song tác giả câu đố đã dụng ý dụng công,

bao giờ cũng chứa đựng, ẩn dấu những ám chỉ sâu kín, mẹo mực, vi diệu.

Những người tham gia vào trò chơi này phải dụng công, phải suy nghĩ thật

sâu xa mới nắm bắt được những ẩn ý, mới thấm thía cái sự thâm trầm và

phần nào hiểu được tính cách con người ở vùng đất nghèo khó nhưng những

tư chất như thông minh, hài hước và khôn khéo luôn luôn có thừa.

1.1. 3- Các thể loại trữ tình:

Trong các thể loại văn học dân gian, ca dao là thể loại trữ tình có trữ

lượng lớn, lưu truyền rộng rãi và nội dung của nó cũng đa dạng, phong phú

hơn bất cứ thể loại nào. Ca dao là tiếng nói trữ tình dào dạt và sâu lắng nhất,

gói gém bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ, những lời hẹn ước thề nguyền đôi

lứa, động viên nhau vượt qua mọi trở lực khó khăn trong cuộc sống. Đồng

thời ca dao cũng hàm chứa những lời lẽ phê phán thâm hậu về lẽ đời, tình

người, về việc đối nhân xử thế. Kể cả việc phản ánh kịp thời những tâm tư

tình cảm sâu lắng của người dân đối với công cuộc kháng chiến kiến quốc,

với Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Nó là tấm gương phản chiếu đậm nét tính cách,

tâm hồn của người dân Quảng Trị qua những bước thăng trầm lịch sử. Thử

tìm hiểu một vài câu ca dao rất quen thuộc ở một số lãnh vực vừa nêu:

- Măng giang nấu cá ngạnh nguồn

Đến đây nên phải bán buồn mua vui.

Một số vị thức giả cũ ở Quảng Trị cho rằng, câu ca này ra đời từ sau

ngày chúa tiên Nguyễn Hoàng vào trấn ở Thuận Hóa, đóng dinh ở Ái Tử. Để

xây dựng trấn phủ, hàng ngày quân lính vốn là người xứ Thanh - Nghệ phải

vào các khu rừng hai bên bờ sông Thạch Hãn chặt tre đốn gỗ. Lúc mới bắt

đầu cuộc sống trên quê mới lòng họ tuy nhớ về quê cũ nhưng không thể

không “bán” đi nỗi nhớ mà “mua” từng tí chút niềm vui trong cuộc sống

mới. Tình cảm mà cũng phải mặc cả bán mua, bớt một thêm hai! Nhưng trên

26

hết đó là những lời động viên nhau vượt qua mọi trở lực, khó khăn để xây

dựng cuộc sống trên quê hương mới.

- Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều

Tôi không có ý phân tích câu ca dao trên, chỉ nêu lên vài câu hỏi: Ai

đứng ngõ sau? Tại sao đứng ngõ sau mà không đứng ngõ trước? Sao lại

chiều chiều mà không tối tối? Tại sao lại ngó về quê mẹ mà không ngó về

quê cha? Và vì sao lại chín chiều? Hoài cố nhân chăng?... Câu trả lời chính

là sự cảm nhận của mỗi người nhưng cái âm hưởng thắm đượm tình cảm của

nó đã vượt qua cõi duy lý hằn vào tâm khảm làm cho chúng ta không thể

ngoại trừ đây là nỗi lòng của nhiều thế hệ cư dân “đi mở cõi” nhớ về vùng

đất nguồn cội lâu đời của mình bên kia đèo Ngang xa vời vô vọng!..

- Không thơm cũng thể hương đàn

Không trong cũng thể nước nguồn Hàn chảy ra.

Câu ca trên có thể hiểu thô rằng, (lòng chúng tôi) nếu không thơm

ngát thì cũng là hương, hương bạch đàn; nếu không trong ngần thì cũng là

nước nguồn Hàn chảy ra, chảy xuống. Câu ca của người dân Quảng Trị

không chỉ tự hào về phẩm chất của con nước dòng sông Thạch Hãn, mà còn

để nhắc nhở con em mình mai này lớn lên đi đâu ở đâu, làm gì phải luôn giữ

gìn cái tâm cho trong và thơm như nước dòng sông quê mẹ. Nhà thơ Lương

An cho rằng, có hiểu tấm lòng của nhân dân ta đối với dòng sông quê hương

trong câu ca dao mới quý trọng cái chất sắt đá (thiết thạch) rèn luyện nên tính

cách con người Quảng Trị trong những tên làng ven sông như Trinh Thạch,

Đá Đứng, Như Lệ (vững chắc như đá mài, đá cứng; không phải lệ là nước

mắt), Lập Thạch… và cái chất liêm khiết như ước vọng muôn đời đọng lại

trong những tên làng không xa dòng nước như Thanh Liêm, Giáo Liêm (dạy

dỗ điều liêm), Vệ Nghĩa (bảo vệ điều nghĩa), Trọng Đức (coi trọng đạo

đức)… Quả là một câu ca dao vàng ngọc!

- Trăm năm dầu lỗi hẹn hò

Cây đa bễn cũ con đò khác đưa

Cây đa bến cũ còn lưa

Con đò đã thác năm xưa kia rồi.

Lại là thiên tình sử thấm đẫm nước mắt của cô lái đò trên bến Ô

Lâu với một thầy khóa thi đỗ đã quên lời thề hẹn ước năm xưa… Và bao

27

nhiêu câu ca dao khác nữa đều là những viên ngọc quý hiếm về tình yêu quê

hương đất nước, tình yêu lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, những câu ca dao

sáng tác trong quá trình khai phá, xây dựng và bảo vệ quê hương trên đất

mới, những thành quả lao động được tạo dựng nên bằng mồ hôi, công sức, cả

máu xương của nhiều thế hệ cha ông vẫn còn tỏ ra sức sống bền vững của

nó.

Bên cạnh cuộc sống lao động vất vả với bao lo toan, con người

thường dành một phần lớn cuộc đời cho tình cảm. Ca dao về tình yêu đôi lứa

vốn là loại hình có dung lượng lớn nhất trong thể loại trữ tình này. Trong

tình yêu, người Việt nói chung là trọng thuỷ chung, cao thượng, ghét dối trá,

lên án sự bội bạc. Những tình cảm ấy được bộc lộ chân chất, lãng mạn, tình

tứ và sâu kín trong ca dao nhưng cũng không kém phần mãnh liệt. Nỗi lòng

của một người đang yêu:

Ai đi đường tắt một mình

Phất phơ chéo áo như hình người thương.

Gặp nhau với bao hân hoan, mừng rỡ:

Bấy lâu ni chàng lênh đênh bốn biển, thiếp lận đận non cao

Nay chừ thấy mặt mừng sao hỡi mừng!

Vượt qua mọi trở lực gian khó, đùm bọc lo toan:

Thân phụ người ta giàu, người ta nhờ thân phụ

Thân phụ mình nghèo thì thân lại lập thân

Em thì buôn tảo bán tần

Anh cày sâu cuốc bẫm lần lần nuôi nhau.

Hoặc chê trách:

Chàng ràng như con cá nọ quanh nơm,

Nhiều con anh rạng biết chơm con nào!

Oán hờn:

- Đêm năm canh em nằm không ngủ,

Ngày sáu khắc rục rũ không tươi.

Khóc lên thì sợ bạn cười,

Bầm gan mà chịu với người người ơi!..

28

- Em gặp anh đây há lẽ không chào,

Chừ nghiêng vành nón nước mắt dào như mưa!..

Ai đã đi qua một thời yêu đương hẳn biết tình cảm bị dồn nén

mãnh liệt, sâu xa như thế nào. Con người ta dù thầm kín, kín đáo đến đâu

cũng không thể không bộc lộ mạnh mẽ ra bên ngoài khi tan vỡ. Chỉ đọc lại

một câu ca dao này thôi vẫn còn nghe đau nhói:

Em đương vút nếp hông xôi

Nghe anh lấy vợ thúng trôi nếp chìm…

Có rất nhiều nỗi niềm, tâm trạng điển hình như thế trong ca dao

là chất liệu dồi dào cho hát đối đáp, hò đâm bắt, các làn điệu dân ca, điệu lý,

hát vè, ca cảnh… (sẽ trình bày thêm ở phần nghệ thuật diễn xướng).

Cũng như văn chương bác học, văn học dân gian từ khi có Đảng,

có Bác Hồ chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đã chuyển hướng, tập

trung vào phản ánh công cuộc kháng chiến kiến quốc. Thơ ca dân gian trong

hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ lẫn thời bình ở Quảng Trị đã

phản ánh kịp thời, sinh động những tâm trạng điển hình như thi đua yêu

nước, tăng gia sản xuất, nhập ngũ tòng quân, tiếp lương tải đạn, ca ngợi

chiến công, công ơn Đảng và Bác Hồ; là khátvọng thống nhất non sông chứa

chan tình cảm đoàn tụ dân tộc đến công tác địch vận, đấu trí với kẻ thù, phê

phán cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ, quan liêu trong hai cuộc kháng chiến. Đây

là bước ngoặt có tính đặc thù và mới lạ của kho tàng văn học dân gian từ khi

có Đảng rất đáng được biểu dương, ghi nhận. Một vài ví dụ:

Thi đua tòng quân giệt giặc:

Sông sâu còn lấy thước đo

Tấm lòng yêu nước biết đo bằng gì

Đầu quân giết giặc khó chi

Trai đi cứu nước còn gì vinh hơn.

Tăng gia sản xuất:

- Công anh gác giặc đầu thôn

Công em gặt vội dấu chôn kỹ càng

Công anh đuổi giặc khỏi làng

Công em gánh thóc quân lương lên rừng

29

Đo công biết lấy chi lường

Một mười một chín ta mừng cả hai.

Xóa mù chữ:

- Đói cơm dốt chữ lo chung

Dân khôn giặc sợ, dân no giặc gờm.

- Ai về trên chợ Thủy cần

Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa

Đánh vần năm ngoái năm xưa

Năm nay quên hết là chưa thuộc bài v.v…

Ca dao hò vè địch vận chính là tiếng lòng yêu quê hương dân tộc,

có sức lay động, khêu gợi tình cảm sâu kín của mỗi con người. Thông qua

thơ ca dân gian, tiếng hò như một lời phân giải chính tà cho những ai còn

lầm đương lạc lối hãy mau trở về với dân tộc:

Các anh ơi, một giọt máu đào hơn ao nước lạnh

Anh nghe ai mà bàn lạnh hương tàn

Mẹ già vô thở ra than

Chẳng may con đã theo Việt gian thiệt đau lòng.

Từ ẩn ức, các chị mở lòng, khuyên nhủ, bằng gương người thực

việc thực:

- Anh nghe chi lời ngoa huyền của giặc

Nghe chi lời xuyên tạc của lũ chó săn

Cụ Hồ rộng lượng ai bằng

Anh coi tỉnh mình vừa rồi phóng thích

Cả trăm tên lính ngụy cho về làng với vợ con.

- Anh không nhớ sống một giờ thì thêm một tội

Anh chừ đang phản lại với kháng chiến giống nòi

Bỏ súng Tây mà về đi anh, lòng thành chờ đợi

Bỏ súng Tây về đi anh, thắng lợi hưởng chung

Về đây Chính phủ khoan hồng

Mẹ già, con dại đêm trông ngày chờ.

30

Mưa dầm thấm đất, kẻ lầm đường lạc lối từ lo lắng đến giải bày

tâm sự:

Anh lỡ bước theo Tây cũng biết thân này lưu lạc

Nghe Tây thất bại ở thượng Lào, thấy trúc tàu ở Mỹ Chánh

Mà lo không biết mất xác khi mô!..

Từ truyền thống nhân đạo bao dung, đánh kẻ chạy đi không ai

đánh kẻ chạy lại của cả dân tộc, các mẹ các chị thúc giục:

Anh ơi chớ có hững hờ

Phản công sắp tới còn chờ đợi chi

Bỏ con bỏ vợ ra đi

Mấy năm theo giặc được gì hả anh?

Em đây mang lấy ô danh

Mẹ già thương nhớ như cành cây khô

Anh ơi theo lệnh Cụ Hồ

Trở gươm quay súng diệt đầu thực dân

Trở lại ghi sổ tòng quân

Xứng danh Nam Việt tinh thần nêu cao.

Bước đường từ giác ngộ đến hạ quyết tâm buông bỏ vũ khí, bỏ

hàng ngũ giặc quay về chỉ còn trong gang tấc.

Trên hết vẫn là tấm lòng tôn kính, son sắt thủy chung của người

dân Quảng Trị đối với Đảng, với Bác Hồ kính yêu. Có thể nói, hình ảnh Bác

Hồ trong văn học dân gian Quảng Trị có sự gặp gỡ, tương tác, chồng khít lên

rất nhiều phẩm chất, từ tư tưởng, đạo đức đến cốt cách của Hồ Chí Minh vĩ

đại. Đó là tư tưởng yêu nước thương nòi, khát vọng cao cả cháy bỏng giành

lại tự do độc lập cho dân tộc:

Từ nhà Rồng Bác đã ra đi

Bốn biển năm châu “tìm hình của nước”

Ba mươi tư năm chỉ một điều mong ước

Dân ấm no, nước độc lập hòa bình.

Là lòng nhân ái thương yêu con người, coi trọng nhân phẩm, vì

sự phát triển tự do và cơm ăn áo mặc cho mọi người:

31

Bác đi khắp mọi nẻo đường

Cùng dân tát nước lội mương thăm đồng

Bác về dân được ấm lòng

Tặng già vải lụa, nhi đồng áo hoa

Hàng tiêu, vườn chuối, luống cà

Có tình Bác đến nở hoa bốn mùa…

Một lòng một dạ sắt son với Đảng, với Bác Hồ. Đây là niềm tin

sắt đá của các bà mẹ miền Nam:

Bấm tay mạ nhớ ngọn ngành

Hai mùa lúa chín con mình về đây

Đêm đêm mạ nhớ tỏ tường

Ngàn năm mạ nhớ công ơn Bác Hồ

Tuổi cao mắt mạ có mờ

Dằn lòng son sắt mạ chờ Bác vô

Đêm đêm nhẩm đọc i tờ

Cầu sao viết được chữ Hồ Chí Minh

Nêu lên lá phiếu đinh ninh

Khắc sâu trong dạ mối tình Bắc Nam.

Là tấm lòng của những người vợ bờ Nam có chồng tập kết:

Lòng lại dặn lòng dù non mòn biển cạn

Dạ lại dặn dạ dù đá nát vàng phai

Dù cho trúc mọc thành mai

Em đây quyết một lòng một dạ không theo ai mà chỉ theo Cụ

Hồ.

Khi đất nước bị chia cắt, câu hò cũng mang nặng nỗi đau chung

của dân tộc:

- Xa nhau nửa tấc gang thôi

Vì ai không nói được nửa lời với nhau ?

- Chỉ một dòng sông mà đó trông đây nhớ

32

Chỉ có bảy nhịp cầu mà duyên nợ xa nhau

Thương nhau phải nhớ lời nhau

Thương nhau chất nặng hờn sâu kẻ thù.

Ngày bác đi xa, nỗi đau thương như “sét đánh lưng trời” và

“Chiều Rú Lịnh mây giăng buồn ủ rủ/Biển Cửa Tùng rầu rầu con sóng

vỗ/Nước Hiền Lương đau đớn ngập ngừng trôi!”… Nhưng tư tưởng, tình

cảm và những phẩm chất tốt đẹp của Người luôn luôn hiện hữu trong nếp

nghĩ, cuộc sống thường nhật của người dân, gần gụi thiết thân đến nỗi chính

họ nghi ngờ cả cái sự “đi xa” rồi của Bác:

- Ai bảo rằng Bác đã đi xa

Dưới bầu trời tháng tám Bác đội mưa đi chống lụt

Dưới nắng hè tháng tư Bác chống hạn đào mương…

- Ai bảo rằng Bác đã đi xa

Suốt đời ta chẳng khi nào vắng Bác

Bác có mặt giữa trang văn ta đọc

Bác ở trong khung ảnh ta thờ

Trong câu lý mười thương và giọng hát ầu ơ…

Và còn bao nhiêu bài học quý giá khác mà vị cha già dân tộc đã

nêu gương, nay nhân dân ta nhắc nhủ nhau học tập và làm theo theo cách

riêng của mình. Bài học đại đoàn kết:

- Dễ trăm lần không dân cũng chịu

Khó vạn lần dân liệu cũng xong

Lời Bác tạc dạ ghi lòng

Ý Đảng lòng dân mà hợp lại thì lấp biển dời non cũng thành.

Bài học cần, kiệm, liêm, chính:

Đảng viên phải Cần, nhân dân phải Kiệm

Cán bộ Liêm Chính là việc phải làm

Quyết tâm quyét sạch lũ tham

Để cho dân giàu nước mạnh an khang mọi nhà…

33

Gần một thế kỷ qua, thơ ca dân gian Quảng Trị đã có những đóng

góp nặng tình nặng nghĩa với dân tộc, với Đảng và Bác Hồ. Mạch nguồn ấy

đích thực, tự nhiên như sông về với biển:

Sáu mươi năm nước độc lập tự do

Công ơn Bác đời đời tạc dạ

Tròn một hội dân ấm no hạnh phúc

Nghĩa tình Đảng mãi mãi ghi lòng…

Bằng cái nhìn đồng đại và lịch đại cho phép ta có cái nhìn thấy

“cây” và thấy cả “rừng”, thấu tới được vẻ đẹp tâm cảm và tâm hồn ở một số

thể loại văn học dân gian vùng đất Quảng Trị trong đời sống văn hóa dân

tộc. Có thể thâu tóm đôi dòng về những giá trị tư tưởng và triết lý, về sức

sống và sức sáng tạo văn hóa từ kho tàng văn học dân gian Quảng Trị như

sau:

Như đã nói, văn học dân gian Quảng Trị là sự hội tụ tinh hoa văn

học dân tộc, nó đủ sắc thái, đủ thể loại, đủ hình thức thể hiện với tất cả tình

cảm chân chất, sâu kín của con người ở một vùng đất trải bao gian khó vì

thiên tai địch họa, chiến tranh ly tán. Câu hò tiếng hát, truyện kể của con ng-

ười nơi đây dù không ra ngoài mạch cảm xúc, triết lý và nhân sinh quan

chung của dân tộc nhưng vẫn mang sắc thái, đặc trưng của một vùng đất. Nó

đề cao những đức tính như nghị lực phi thường, tài năng lao động sáng tạo,

trí khôn, đạo đức cao đẹp của những nhân vật có công lớn đối với cộng đồng

trong công cuộc chinh phục tự nhiên nhằm xây dựng một “thiên nhiên thứ

hai” trên vùng đất mới. Tất cả đều được thể hiện bằng sự hồn nhiên chân

chất của tâm hồn; sự mộc mạc giản dị của lời ăn tiếng nói; sự rạch ròi dứt

khoát giữa cái cao thượng và hẹp hòi, giữa cái thiện và ác, chính nghĩa và phi

nghĩa, giữa trung hậu thủy chung và gian trá phản trắc.

Nông thôn Quảng Trị dưới ách áp bức bóc lột của giai cấp địa

chủ phong kiến và hệ thống quan liêu của chúng đã được phản ánh vào tất cả

các loại hình văn học dân gian dưới những dạng uyển chuyển, phù hợp với

đặc trưng của mỗi thể loại. Đó là lời giận dữ, là tiếng nỉ non trong ca dao dân

ca, những bài vè; đó là điều răn dạy mang tính triết lý và thực tiễn trong tục

ngữ; và đó cũng là tiếng cười thâm thúy sâu cay giàu tính triết lý và trí tuệ

trong câu đố, hò vè…

Tính tập thể và tính bền vững kết tinh trong các thể loại văn học

dân gian là một trong những bằng chứng kiểu mẫu về sức sống và sức sáng

34

tạo văn hóa bất diệt của nhân dân lao động. Những hoạt động sáng tạo của

hàng ngàn nghệ sĩ dân gian đúc kết trong kinh nghiệm nghệ thuật của họ là

ngọn nguồn vô tận (nhà thơ Xuân Diệu gọi là “văn nghệ Mẹ”) đã tiếp sức

cho sự sáng tạo của các tài năng văn học dân tộc xuyên suốt trong tiến trình

lịch sử. Vấn đề đang được đặt ra là làm sao giữ được vốn văn hoá quý giá ấy,

đừng để những di sản của ngàn năm ấy bị quên lãng, bị mất mát, bị phai mờ

hoặc hoà tan trong xu thế hội nhập. Những cơ quan chức năng, những nhà

văn hoá hãy ra sức bảo vệ phát huy vốn văn hoá quý giá mà cha ông đã dày

công sáng tạo.

1.2- Văn học viết:

1.2.1- Văn học trung cận đại

So với các tỉnh vùng đồng bằng bắc bộ thì Quảng Trị là một vùng

đất mới. Văn học dân gian Quảng Trị có từ rất sớm nhưng văn học viết thì

xuất hiện muộn hơn và có thể không phong phú bằng. Nếu như văn học Việt

Nam thời kỳ trung đại bắt đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX thì Quảng Trị phải

đến thế XVI mới có tác phẩm văn học thành văn đầu tiên với sự xuất hiện

của Bùi Dục Tài, tiến sĩ khai khoa cho xứ Đàng Trong. Thời kỳ cận đại từ

đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng Tám 1945. Đây là một thời kỳ rất quan

trọng trong lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử văn học nói riêng. Giai đoạn

này ở Quảng Trị được bắt đầu với các tên tuổi như Phan Văn Dật và Chế Lan

Viên trong phong trào thơ mới. Cố nhiên đây cũng chỉ là sự phân chia có

tính chất ước lệ mà thôi.

1.2.1.1- Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII

Từ sau đám cưới Huyền Trân công chúa vùng đất Quảng Trị

thuộc xứ “Ô Châu ác địa”. Mãi cho đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn Ái Tử

(1558) thì Quảng Trị mới là thủ phủ của xứ Đàng Trong. Như vậy trong một

thời gian dài (1376 - 1558) Quảng Trị là vùng đất phên dậu, dân cư thưa thớt

so với các tỉnh từ đèo Ngang trở ra, nhất là đối với vùng đất sinh tụ lâu đời

của mình là châu thổ sông Hồng. Công việc chính ở vùng đất mới là khai

hoang lập ấp xây dựng xóm làng, kinh tế được ưu tiên đặt lên hàng đầu nên

đời sống văn hóa chậm phát triển cũng là điều dễ hiểu. Mặc dù dinh Cát Ái

Tử (sau này dời đến Trà Bát, Cổ Thành) là hành dinh của chúa tiên Nguyễn

Hoàng và nhiều đời chúa kế vị nhưng đó cũng mới chỉ là trung tâm chính trị

quân sự. Khi đời sống người dân xứ Đàng Trong ổn định; kinh tế, văn hóa

phát triển lên tầm cao mới thì các chúa Nguyễn có nhu cầu dịch chuyển hành

dinh vào Phú Xuân. Quảng Trị không còn là thủ phủ, là trung tâm chính trị -

35

văn hóa, tất yếu sẽ mất đi điều kiện để phát triển. Nhìn chung, ở thời kỳ này

văn học thành văn cả xứ Đàng Trong vẫn còn rất thưa thớt, không riêng gì

Quảng Trị. Ở giai đoạn này Quảng Trị có vài tác giả làm thơ văn, chủ yếu là

thơ chữ Hán được người đời sau lưu truyền:

- Đặng Dung (? – 1414), người huyện Hải Lăng, danh tướng dưới

thời Hậu Trần, chức Bình Chương sự, đã cùng cha là Đặng Tất phù rập nhà

Trần đánh giặc Minh cứu nước. Bị giặc bắt ông đã nhảy xuống sông tuẩn

tiết. Tác phẩm hiện chỉ còn lưu hành mỗi bài thơ Cảm hoài, thể hiện rõ khí

phách của người anh hùng, trong đó có hai câu thật hay được người đời

truyền tụng: Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.

(Dịch: Quốc thù chưa báo đầu đã bạc/Mấy độ mài gươm dưới nguyệt rồi...).

- Bùi Dục Tài (1477-1518) có hiệu là Minh Triết tiên sinh.

Năm Tân Dậu (1501) Bùi Dục Tài vác lều chõng đi thi Hương.

Thuở ấy, cả nước chia làm 13 xứ, trường thi Hương xứ Thuận Hoá đặt ở đâu

không thấy sử sách chép lại, chỉ thấy Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến

chương loại chí”(Khoa mục chí) cho biết ông Bùi Dục Tài đỗ Hương tiến

trong số hạn định 30 hương tiến mà trường thi Thuận Hoá được phép lấy từ

hàng ngàn sĩ tử. Mùa xuân năm sau, tháng 2 năm Nhâm Tuất (1502) Bùi Dục

Tài lặn lội từ Hải Lăng ra đến Thăng Long thi Hội, thử thách văn tài với năm

ngàn cống sĩ trong cả nước, những kẻ đã từng trải qua trường văn trận bút. Ở

khoa thi Hội này có 61 người được lấy đỗ (82 người lấy một người), trong đó

có Bùi Dục Tài 25 tuổi ở xứ Thuận Hoá xa xôi cách trở.

Thi Đình thực chất là xếp hạng những người đã được chọn lọc

qua kỳ thi Hội. 61 người trúng cách Bộ Lại tâu lên được dẫn đến sân điện

Kính Thiên.Vua Lê Hiến Tông đích thân ra đề văn sách hỏi về công việc đế

vương trị nước. Người đỗ trạng nguyên khoa ấy là ông Lê Ích Mộc người xã

Thanh Lãng, huyện Thanh Đường, Hải Phòng. Trong 24 người ở bảng đệ nhị

giáp tiến sĩ, có tên ông Bùi Dục Tài (tức Hoàng Giáp), 34 người còn lại đều

đạt học vị đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Bùi Dục Tài và các vị tân khoa

được mời vào sân rồng dự lễ xướng danh, được ban yến, ban mũ áo, cờ biển

mang chữ “Đệ nhị giáp tiến sĩ” và “Sắc tứ vinh quy”, được khắc tên vào bia

đá ở Văn Miếu, được phong trật tòng thất phẩm. Người đỗ đại khoa như ông

được cả một huyện đi rước, long trọng gấp bội lần vinh quy năm trước. Thử

hỏi trong tám ngàn xã (đơn vị hành chính tương đương lúc ấy) đã có mấy nơi

vinh dự như làng Câu Nhi xứ Thuận Hoá.

36

Ông Bùi Dục Tài ra làm quan lúc 25 tuổi, trải 15 năm, sử cũ chép

rất vắn tắt: “Ông nổi tiếng văn học, làm quan trải các chức Hàn lâm Hiệu lý

(1502). Tham chính đạo Thanh Hoa. Năm Hồng Thuận I, đời Lê Tương

Dực (1509) ông được thăng chức Lại bộ Tả Thị Lang. Dưới thời Lê Chiêu

Tông, niên hiệu Quang Thiệu (1546-1522), ông giữ chức Tham tướng. Khi

trở về kinh lý ở xứ Thuận Hoá bị gian đảng sát hại”[4]. Gia phả họ Bùi ở

Câu Nhi nói rõ hơn về cái chết của ông. Năm 1518, đời vua Lê Chiêu Tông,

niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 có bọn Đô Kiềm, Đô Chức nổi lên làm loạn

nhiễu hại quân dân, triều đình giao cho ông kiêm chức Tham tướng đem

quân đi dẹp loạn. Ông giết được tên Đô Kiềm còn Đô Chức chạy thoát nuôi

chí báo thù. Khi mang quân trở về Thăng Long, ngang địa phận Bàu Đá,

huyện Võ Xương (nay thuộc làng Cẩm Thạch, xã Cam Giang, huyện Cam

Lộ, Quảng Trị) là nơi hoang vắng, gặp quân Đô Chức xuất trận bất ngờ. Biết

bị mai phục vẫn dũng cảm đánh quân phản nghịch đến hơi thở cuối cùng.

Nhân dân làng Cẩm Thạch dựng miếu lớn thờ ông tại chỗ. Là người tiết

nghĩa trung quân ông được vua Lê Chiêu Tông truy tặng chức Lễ Bộ Thượng

thư. Làng rước sắc phong và cả thi hài của ông đưa về chôn cất ở cồn cát

Yên Biều, Câu Nhi, hưởng thọ 41 tuổi. Làng Câu Nhi dựng miếu thờ ông

trong khuôn viên chùa lớn của làng. Năm Tự Đức thứ 11(1858) nhân triều

đình kiểm kê khen thưởng những người có công với nước, làng chép sự tích

của ông nộp lên, được truy phong Tuấn lương tôn thần.

Từ thi Hội đến thi Đình, ông nghè Câu Nhi đều được khen ngợi

về văn ứng chế, nổi tiếng học vấn uyên bác. Bùi Dục Tài đã đem về cho quê

hương Câu Nhi, cho xứ Thuận Hoá danh hiệu vẻ vang “Tiến sĩ khai khoa”,

dựng mốc son học vấn khoa cử cho cả xứ Đàng Trong. Sự kiện này, về sau

tác giả Dương Văn An ghi nhận: “Đặng Tất thắng trận Bô Cô quân uy lừng

lẫy, Bùi Dục Tài đỗ Tiến sĩ khai khoa cho một địa phương danh tiếng tuyệt

vời… Cái tài văn chương chính sự của Bùi Dục Tài thật là người giỏi của cả

nước chứ không phải là người giỏi của xứ Ô Châu” hoặc Lê Quý Đôn ca

ngợi: “Văn mạch một phương dằng dặc không dứt”... Chỉ tiếc rằng sự nghiệp

văn chương ấy hiện nay còn lưu lại độc nhất một bài là bài biện Chế Đinh dĩ

thát Tần Sở biện (Bài biện về việc làm ra chiếc gậy để đánh Tần Sở), viết

chung với Hoàng giáp đồng khoa là Hạ Ngọc Chúc (người huyện Chương

Đức, nay là tỉnh Hà Tây).

Đây là tác phẩm phát triển tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu

nước yêu dân, chống ngoại xâm rất sâu sắc. Ông là đại biểu xứng đáng một

thời cho tư tưởng nhân nghĩa Đại Việt: “Lúc bấy giờ, mặc dù đã hơn 70 năm

37

đã qua từ khi bọn xâm lược ở phía Bắc bị đánh bại, nhưng trong tình hình

chế độ phong kiến Đại Việt đang bắt đầu xuống dốc, nhà vua luôn thấp thỏm

trước một cuộc xâm lăng mới nên thường hỏi kế chống của triều thần. Chủ

đề “làm chiếc gậy để đánh Tần Sở” rút từ sách Mạnh tử, lúc Lương Huệ

Vương hỏi về cách chống lại sự thôn tính của hai nước lớn, chính là được đặt

ra từ tâm trạng ấy của vua tôi nhà Lê. Dựa vào tư tưởng nhân nghĩa của họ

Mạnh, hai ông đã phát triển tư tưởng “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí

nhân thay cường bạo” của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, để thuyết phục nhà vua thi

hành một chính sách dựa vào dân, lấy dân làm gốc mới có thể dựng được

nước và giữ được nước. Bài biện viết: Vững nước đâu phải do thành trì hiểm

cố, khoan dân đâu phải do hào lũy vững bền, đè thiên hạ đâu phải do giáo

gươm thừa thải. Người có đạo thì đông người phù trợ, kẻ vô đạo thì ít ai ngó

tới. Đông người phù trợ thì thiên hạ thuận theo, ít ai ngó tới thì thân thích

cũng bội phản. Đem người mà thiên hạ thuận theo đánh kẻ mà thiên hạ bội

phản, không đánh thì thôi, đánh là tất thắng. Và hai ông cùng đem cái thực

tế Lê Lợi lấy đức trung hậu, dấy đội quân nhân nghĩa, quét sạch khỏi đất

nước trăm vạn quân cường Minh… để chứng minh cho luận điểm của mình.

Viết như vậy, bởi hai ông, từ một tấm lòng thiết tha yêu nước, đã nhận thấy

triều đình đang thực thi một chính sách xa dần chính sách nhân nghĩa và cần

phải được nhắc nhở lại để tránh nguy cơ một sự đổ vỡ hoàn toàn. Song tiếc

rằng, sau Lê Hiến Tông, các ông vua nối nghiệp đã mỗi ngày một thêm kiêu

căng, xa xỉ, hoang dâm, khiến đất nước cũng mỗi ngày một thêm rối loạn về

chính trị và tuột dốc về kinh tế”[5].

- Lê Tri Huyện, người Vũ Xương, sống vào thế kỷ XVI, xuất

thân là một giám sinh được làm quan. Giữa lúc xã hội nhiễu nhương, bọn

nghịch đảng quấy rối, ông từ quan ẩn cư tại gia, lấy thơ văn làm niềm vui.

Tác giả sách “Phủ biên tạp lục” đánh giá thơ Lê Tri Huyện thể hiện rõ cốt

cách của một người chính trực thanh liêm:

“Tâm ngụ kinh luân đô thị phú

Gia truyền thanh bạch vị vi bàn

Tố hành tự ngã duy an mệnh

Huyền ngọc y thuỳ uổng mỵ nhân

Tạm dịch: Kinh luân để dạ bao là của/Thanh bạch gia truyền

chẳng phải nghèo/Nghĩa vụ ta làm theo vận mệnh/Mặc ai xu phụ, luống gieo

neo.

38

- Trần Duy Trung, người Đăng Xương (Triệu Phong), sống vào

thế kỷ XVIII, là một thầy đồ dạy học ở Ái Tử, có tiếng giỏi thơ văn. Sách Ô

Châu cận lục ghi, nhân sự việc tướng Hoàng Ngũ Phúc cầm quân đi đánh

giặc ở Phương Nam, Trần Duy Trung làm bài thơ dâng tặng, lời lẽ ý tứ súc

tích, thể hiện cái nhìn của một người có chí lớn:

Lâm phong chỉnh chỉnh hướng Nam Kỳ

Hạp cảnh mao nghê uỷ sở tư

Bạt thế yếm khan Tần pháp độ

Bách niên phục đổ Hán uy nghi

Cùng tuyền đống trập oanh lôi dạ

Mãn địa khô miêu đắc vũ thì

Nguyệt chỉ Phú Xuân thôi tiến phát

Binh cơ quy tốc bất nghi trì.

Tạm dịch: Giong cờ phơi phới thẳng vào Nam/Già trẻ cả miền

thảy hả tâm/Tám chúa chán xem Tần pháp độ/Trăm năm lại thấy Hán uy

nghi/Sâu co gặp sấm vừa vang tiếng/Lúa héo chờ mưa đã được thì/Xin thẳng

Phú Xuân mà bước tới/Việc binh nên chóng chớ nên chờ.

- Nguyễn Hữu Thận (1757- 1831), tự Chân Nguyên, hiệu Ý Trai,

quê ở làng Đại Hòa, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong. Chín năm làm quan

dưới triều Tây Sơn đến chức Hữu thị lang bộ Hộ. Năm 1801, Nguyễn Phúc

Ánh chiếm lại Phú Xuân, ông phải ra “hiệu thuận”, tức là thuận theo triều đại

mới và làm việc hết sức để “chuộc lỗi”. Sau những năm giữ chân Chế cáo ở

Viện Hàn lâm, làm Thiên sự ở bộ Lại và cai bạ ở Quảng Nghĩa, ông được rút

về làm Hữu tham tri bộ Lại, rồi Chánh sứ phái bộ tuế cống sang Trung Quốc

(1809), Hộ Tào Bắc thành, Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Hộ, Hiệp trấn

Bắc thành, Thượng thư bộ Binh. Con đường hoạn lộ tuy được thăng tiến

chức nhưng năm 59 tuổi (1816) ông lấy lý do sức khỏe sa sút xin về hưu trí ở

quê nhà, làm công việc cả đời ông ham thích là biên soạn sách.

Nguyễn Hữu Thận là một nhà Nho, một ông quan tiêu biểu của

chế độ phong kiến nhưng trong con người nhà Nho ấy, còn có một con người

khác khiến ông đã vượt lên thời đại của mình: “Đó là một con người say mê

khoa học nhiều hơn sách vở thánh hiền, có tinh thần thực học nhiều hơn tâm

học, có ý thức cách tân hơn là bằng lòng với những gì đã có, muốn đạt đến

39

chân lý trong thực tại cuộc sống hơn là trong những giá trị đạo đức đơn

thuần”.

Là nhà thiên văn và lịch học ông đã có công trong việc biên soạn

lịch Hiệp kỷ thay lịch Vạn toàn, giúp cho nông dân cày cấy kịp thời vụ; là

nhà toán học ông để lại bộ sách Ý trai toán pháp nhất đắc lục… Về văn học,

ông là dịch giả cuốn sách Tam thiên tự lịch đại văn chú (ba nghìn chữ chú

giải văn chương các đời của Từ Côn Ngọc, Trung Quốc), quyển sách dạy

nhập môn chữ Hán qua những lời giáo huấn, những điển tích trong kinh sử,

dịch thành câu có vần. Ngoài ra ông còn tham gia biên tập bộ sách Bách ty

chúc tế của triều đình nhà Nguyễn và là tác giả một số bài thơ dưới hình thức

ca dao do ông làm ra để cấy tinh thần khoa học vào cuộc sống được người

dân truyền tụng cho đến bây giờ:

Anh đi thì lý chưa trồng

Anh về, lý đã đâm bông trăm ngành

Mỗi ngành mười tám bông xanh

Ba bông bốn trự đố anh mấy tiền?

Đây chỉ là bài toán đố, đươc viết ra có vần có điệu, dễ thuộc dễ

nhớ nhưng do âm vận trong sáng, tiết tấu nhịp nhàng, trữ tình tươi đậm nên

chị em thường đem ra hát ru con. Các vị thức giả và người dân quanh vùng

chợ Thuận đều cho đó là câu hát của nhà toán học kiêm nhà thơ bình dân

Nguyễn Hữu Thận.

- Nguyễn Công Tiệp (? - 1829), người huyện Hải Lăng, làm

quan đời Tây Sơn, sau được Gia Long lưu dụng, lúc mất được tặng hàm

Tham tri. Tác phẩm: Sĩ hoạn tu tri lục (ghi chép những người ra làm quan

cần biết). Sách gồm 6 quyển nói về cương vực từng vùng, số làng xã, đình

điền, thuế lệ, đường sá, quán trạm, quan chế... Ở phần phụ lục sách có một

số bài thơ Nôm vịnh cảnh vật.

Ngoài thơ của những tác giả quê ở Quảng Trị còn có thơ của các

tác giả ngoại tỉnh. Phần lớn là thơ đề tặng những nhân vật lịch sử hoặc danh

nhân Quảng Trị. Đó là thơ của nhiều nho sĩ ở kinh thành Thăng Long phúng

điếu Hoàng Bôi (quê làng Câu Nhi, Hải Lăng, Quảng Trị), làm quan đời nhà

Mạc, lúc lâm trận gặp nguy nan không đầu hàng giặc, anh dũng hi sinh.

Hoặc như thơ của chúa Nguyễn Phúc Chu (thế kỷ XVII) tặng Trần Đình Ân,

nhà khoa bảng nổi tiếng hưu trí tại làng Hà Trung (Gio Linh):

Tính khí ôn hoà giữ mực trung

40

Bốn triều giúp việc biết bao công

Thành công mới chán mà thao tía

Mộ đạo nên xa chốn bụi hồng

Thương hạo bạc phơ hai mái tóc

Hán thần vui thú một tơ đồng

Chuyến này về xứ làm chi đó

Nước biếc non xanh thoả tấm lòng.

Bài thơ này hiện còn khắc tại bia mộ của Trần Đình Ân tại quê

nhà.

Về văn xuôi chữ Hán ở thời kỳ này không lưu giữ được nhiều,

hiện chỉ còn bài Văn bia của Trần Đình Ân khắc trên đá tại chùa Bảo Đông ở

làng Hà Trung là đáng giá. Trần Đình Ân sống vào thế kỷ XVII, quê Gio

Linh, là nhà khoa bảng làm quan qua bốn triều đại từ Lê Thần Tông đến Lê

Hy Tông, cuối cùng giữ chức Tham chính Chánh đoan sự thời chúa Nguyễn

Phúc Chu. Trần Đình Ân giỏi thơ văn, sáng tác nhiều nhưng đáng tiếc chỉ

còn lưu lại bài văn bia vừa nêu. Nội dung bài văn bia ghi lại sự nghiệp phục

vụ “tứ triều quốc chính” và ý nguyện “sùng đạo hiếu thiện” của tác giả.

Ngoài văn xuôi của các tác giả quê ở Quảng Trị còn có văn xuôi

của các tác giả ngoại tỉnh. Tác giả các đầu sách “Ô châu cận lục” (Dương

Văn An) và “Phủ biên tạp lục” (Lê Quý Đôn) là những tác phẩm văn xuôi

tiêu biểu viết về Quảng Trị. Dương Văn An và Lê Quý Đôn tuy là hai nhà

văn ngoại tỉnh, sống vào hai giai đoạn lịch sử cách xa nhau (một người vào

giữa thế kỷ XVI và một người vào cuối thế kỷ XVIII), nhưng do hiểu biết

sâu sắc về mảnh đất này nên đã có những chương sách ghi chép, miêu tả tỉ

mỉ, chính xác về cảnh quan, địa lý, sông ngòi, sản vật, chợ búa, danh nhân,

phong tục tập quán của các huyện Hải Lăng, Vũ Xương, Minh Linh (Vĩnh

Linh) và một số địa phương khác của Quảng Trị. Ngoài giá trị văn chương,

“Ô Châu cận lục” và “Phủ biên tạp lục” còn là nguồn sử liệu quý báu và

hiếm hoi giúp chúng ta tìm hiểu nhiều mặt về đời sống kinh tế - xã hội của

tỉnh nhà trong gần ba thế kỷ.

1.2.1.2- Giai đoạn từ đầu thế kỷ XIX đến năm 1945

Ở thời kỳ này Quảng Trị là một tỉnh của một nước Việt Nam

thống nhất. Do ở gần kinh đô Huế nên đời sống văn hoá có điều kiện phát

triển hơn. Trong thế kỷ XIX sự học ở các làng xã được khuyến khích, trường

41

học mở mang, nhiều người tham dự các kỳ thi Hương, thi Hội ở kinh thành

Huế, rất nhiều người đỗ đại khoa. So với nhiều tỉnh thành trong cả nước

Quảng Trị được xếp vào vùng đất khoa bảng. Vào những năm 20 của thế kỷ

XX khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ thì phong trào học chữ quốc ngữ

được đẩy mạnh. Nhiều người đã theo học trong các trường Pháp Việt ở

Quảng Trị hoặc ở Huế. Cuối giai đoạn này có các phong trào yêu nước phát

triển mạnh ở Quảng Trị. Trong điều kiện như vậy, văn học thành văn của

Quảng Trị phát triển mạnh hơn, đa dạng hơn giai đoạn trước. Dưới đây là

một số tác giả, một số hiện tượng văn học tiêu biểu:

a- Văn học chữ Hán, chữ Nôm:

Bộ phận văn học này phát triển mạnh trong thế kỷ XIX đến

những năm đầu thế kỷ XX. Lực lượng sáng tác là các nhà nho đang làm quan

hoặc làm nghề dạy học, thầy thuốc. Văn tự sáng tác là chữ Hán, chữ Nôm

với các thể loại chính như thơ đường luật, văn bia, câu đối, văn tế và một vài

thể loại khác[6].

- Nguyễn Cửu Trường (1806 - 1803), gốc người Gia Miêu, Thanh

Hoá, nhập tịch làng Huỳnh Công, nay thuộc xã Vĩnh Tú huyện Vĩnh Linh.

Đỗ Hoàng giáp năm 1838, làm quan đến chức Tuần phủ tỉnh Biên Hoà.

Tác phẩm: Lịch đại sử luận (luận về lịch sử các triều đại Trung

Quốc), bàn về các sự kiện lịch sử, các nhân vật từ đời Thái Tổ đến đời nhà

Thanh (viết chung với Nguyễn Bá Nghi, người huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi

và Vũ Phạm Khải, người huyện Yên Mô, Ninh Bình), cùng làm việc vào

cuối đời Thiệu Trị.

- Nguyễn Văn Hiển (1827 -18650, Tự Doãn Trai, người làng Mỹ

Chánh, nay thuộc xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng. Đỗ Hoàng giáp năm 1847,

làm quan đến chức Tuyên phù sứ, đạo Phú Yên.

Tác phẩm: Đồ bàn thành ký (ghi chép về thành Đồ Bàn, kinh đô

Chămpa cũ ở Bình Định), ghi chép tên gọi, địa giới, lịch sử và một số bài ký,

truyền thuyết về Thiên y tiên nữ, Liệt phụ Nguyễn Thị...

- Trần Đình Túc (1809 - 1892), tự Trọng Cung (có tài liệu ghi là

Cung Trọng), hiệu Hy Lỗ, người làng Hà Trung, huyện Gio Linh, đỗ Cử

nhân năm 1842. Làm quan dưới triều nhà Nguyễn, từ chủ sự bộ Hộ, Tri phủ

Vĩnh Tường, Tổng đốc Hà Nội đến Thượng thư. Ông đã cùng với Tuần phủ

Nguyễn Trọng Hợp, Án sát Trương Gia Hội thương ước với phái viên Pháp

trong việc lấy lại thành Hà Nội. Có công trong việc doanh điền sứ, chiêu mộ

42

dân khai hoang lập ấp ở Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và việc xin khai thông

con sông Vĩnh Định.

Trần Đình Túc là một tác gia lớn. Trước tác có tập thơ Tiên sơn

thi tập, tập thơ núi Cồn Tiên này gồm 230 bài thơ văn. Về thơ chủ yếu là thơ

Đường luật và một ít thơ Cổ phong [7]. Là thơ xướng họa hoặc viết về mối

quan hệ bạn bè thân hữu là những nhà thơ tên tuổi đương thời như “Đề thơ

lên vách tường điện Vân Quán của Tùng Quốc công” (tức Tùng Thiện

vương), “Tiễn Phạm Phú Thứ về an dưỡng”, “Họa thơ Đặng Huy Trứ”... Thơ

vịnh cảnh như “Biệt núi Nùng”, “Qua biển Đá Nhảy”, “Thôn cư ngẫu

hứng”... Thơ vịnh việc như “Trung thu hứng tác”, “Nghe quan quân Hà Nội

thu được thắng lợi”... Thơ tự vịnh về bản thân, gia đình mình và một số bài

có tính chất suy nghiệm, triết lý về lối sống của một ông quan nhà nho. Rất

tiếc cho đến nay chúng ta chưa có điều kiện dịch thuật toàn bộ tập thơ văn và

xuất bản để giới thiệu rộng rãi trong công chúng.

Ngoài ra, ông còn có một số bài thơ khác chép chung trong tập

Du Hương Tích sơn thi tập và nhiều câu đối có giá trị như câu đối điếu

Hoàng Diệu, Trần Thiện Chánh.

- Phan Văn Huy (không rõ năm sinh năm mất), người làng Đạo

Đầu nay thuộc xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong. Cháu nội ngài Hậu quân

Phan Văn Thuý.

Tác phẩm: Cai dư kỳ thực (ghi chép sự việc lúc rãnh rỗi dưới bậc

thềm), ghi chép về cuộc đời của mẹ ông là bà An Thường công chúa. Sách

có lời đề tựa của quốc công Miên Ký viết năm 1881.

- Hoàng Hữu Xứng (1831 - 1905), tự Bình Như (có sách ghi Bình

Chi), hiệu Song Bích, người làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu

Phong. Đỗ Cử nhân năm1852, làm quan đến chức Thượng thư.

Tác phẩm: Đại Nam quốc cương giới vựng biên (biên chép tổng

hợp về bờ cõi và biên giới nước Đại Nam) và một số bài thơ khác.

- Nguyễn Như Khuê (chưa rõ năm sinh năm mất), người làng

Phúc Lâm, nay thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Linh. Đỗ cử nhân năm

1864, làm quan đến chức Tri phủ Cam Lộ.

Tác phẩm: Như Khuê thị học ngữ tập (tập học đòi về ngôn ngữ

của Như Khuê). Tập có hai phần, phần đầu là thơ ngâm vịnh về Thuý Kiều

như thăm mả Đạm Tiên, gặp Kim Trọng, khóc Từ Hải..., phần sau một số

43

thơ chữ Hán vịnh cảnh vật, một số bài văn phổ khuyến, ca khúc và văn chầu

bằng quốc âm.

- Nguyễn Trừng (chưa rõ năm sinh năm mất), Người làng Diên

Khánh, nay thuộc xã Hải Dương, huyện Hải Lăng. Đỗ cử nhân năm 1878.

Tác phẩm: Kỷ sửu như Tây nhật ký, tác giả ghi chép lại các sự

việc trong chuyến đi sang Pháp cùng với Miên Triện, Vũ Văn Báo năm

1889.

- Lê Đăng Trinh (1850-1909), Tự Hàm Chương, hiệu Bích

Phong, người làng Bích La Đông, Triệu Đông, Triệu Phong. Đỗ Phó bảng

năm 1875, làm quan đến chức Thượng thư.

Tác phẩm: Bích Phong thi thảo, phần lớn trong tập là thơ đề từ,

xướng hoạ và một số bài nói lên nỗi lòng của tác giả trước vận mệnh đất

nước.

- Nguyễn Tự Như, người huyện Gio Linh, sống vào nửa cuối thế

kỷ XIX, đỗ tiến sĩ thời vua Thành Thái. Ông sáng tác nhiều thơ văn nhưng

nay đã bị thất truyền. Hiện còn lưu lại bài văn tế bằng chữ Hán do ông soạn,

thường được đọc trong những lần làng tế lễ ở quê hương ông.

- Nguyễn Hữu Bài (1863-1935), hiệu Vĩnh Cao, người làng Cao

Xá, nay thuộc xã Trung Giang, huyện Gio Linh (trước thuộc huyện Vĩnh

Linh). Giỏi tiếng Pháp, làm quan đến chức Thượng thư. Năm 1902 được cử

làm sứ bộ qua Pháp và năm 1922 làm hộ giá đại thần đưa vua Khải Định

sang Pháp yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả Bắc kỳ cho triều đình nhà

Nguyễn. Năm 1932 khi Bảo Đại về nước chấp chính, ông xin về hưu nhưng

không được chấp thuận. Vua Bảo Đại tấn phong cho ông là Phước Môn

Quận công, năm 1933 mới về hưu trí tại Phước Môn (nay xã Hải Lệ, thị xã

Quảng Trị) với chức vụ Cố vấn nguyên lão.

Ông là người sáng lập ra Hội “Như tây du học bảo trợ” vào năm

1926 giúp cho nhiều sinh viên qua Pháp du học. Có công trong việc khai

khẩn, trưng đất hoang lập ra ngũ môn từ Phước Sơn, Phước Sa (Vĩnh Linh),

Phước Môn (thị xã Quảng Trị) đến Phước Tín, Phước Xuyên (Truồi, Thừa

Thiên-Huế) chiêu mộ dân nghèo đến ở, giúp cho họ có cơ hội làm ăn sinh

sống. Ông là người có đầu óc cách tân, tiêu biểu cho hàng ngũ quan lại

Quảng Trị về tư duy kinh tế. Ông cũng là con người thẳng thắn trung trực.

Cũng như quan Thượng Ngô Đình Khả không chịu phế vua, việc ông chống

lại Khâm sứ Pháp đòi đào lăng vua Tự Đức lấy vàng bạc châu báu vào năm

44

1908 được người đời xưng tụng trong câu ngạn ngữ “Phế vua không Khả,

đào mả không Bài”.

Tác phẩm: - Thơ Nôm Phước Môn do Viện Đại học Huế xuất

bản, hầu hết là thơ vịnh cảnh, tức sự, thù tạc, thể hiện một tình cảm quê

hương đằm thắm, ví như “Khai bút năm Mậu Ngọ”, “Đêm nằm không ngủ”,

“Giếng nước trời sinh”, “Vịnh cây hoa trước cửa”, “Vịnh cái cầu tre”, “Vịnh

bình phong”, “Khuyên người đời”,“Vịnh cảnh Cùa”... và Lại An thi thảo, tập

thơ chữ Hán, gồm thơ vịnh cảnh trong thời gian tác giả đi theo người Pháp

hoạch định biên giới giữa Bắc kỳ và Trung Quốc trước năm 1896 và thời

gian đi Pháp năm 1902. Ở tập thơ này có một số bài hé lộ tinh thần dân tộc

của tác giả ở một giai đoạn lịch sử nhiều biến động và rối ren của đất nước.

- Hoàng Hữu Kiệt (1885-1940), tự Châu Thần, hiệu Phúc Khê,

người làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Đỗ cử nhân năm

1915, đang làm tri huyện nhưng không thừa hành ý chỉ quan trên nên buộc

thôi chức.

Tác phẩm: Phúc Khê thi tập, gồm gần 200 bài thơ chữ Hán và

quốc âm vịnh cảnh vật, thù tạc, nhiều bài thể hiện chính kiến, tinh thần dân

tộc của tác giả trước thời cuộc.

- Phan Văn Hy (1890-1970), tự Kỉnh Chỉ, người làng Nhan Biều,

xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong. Tốt nghiệp y sĩ Đông Dương (sau

chuyển thành bác sĩ), là thầy thuốc Tây y nổi tiếng ở Quảng Trị. Từng giữ

chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị trong chính phủ thân Nhật của Trần

Trọng Kim. Khi vua Bảo Đại thoái vị, ông liên lạc với Ủy ban Dân tộc giải

phóng Triệu Phong giao lại chính quyền, đưa cả gia đình lên chiến khu Ba

Lòng, tiếp tục hành nghề bác sĩ. Trận càn cuối năm 1947, thực dân Pháp bắt

ông đưa về thị xã Quảng Trị. Cuối đời ông đưa cả gia đình vào Sài Gòn mở

phòng mạch tư và mất tại đó.

Tác phẩm: Thơ Kỉnh Chỉ (thơ quốc âm đường luật). Phần lớn

trong tập là thơ vịnh cảnh, thù tạc, tức sự, một số bài có tư tưởng xã hội ví

như “Chơi Cửa Tùng” là bài thơ giàu cảm xúc, thắm đượm tình quê hương

và ít nhiều mang một nỗi buồn hoài cổ được nhiều người nhắc đến:

Qua Cửa Tùng chơi bóng đã chiều

Cảnh Thừa lương trước gió buồn thiu

Năm xưa bến Ngự đôi ghềnh đá

Dấu cũ sân chầu mấy cụm rêu

45

Quyên gọi luống đau lòng cố quốc

Tùng reo như nhắc chuyện tiền triều

Cuộc đời dâu bể nhìn thêm ngán

Nhớ chúa thương ai ruột chín chiều.

Ngoài ra ông còn có thơ in chung trong tuyển “Hương Bình thi

phẩm” của Hoàng Trọng Thược và một số thơ bằng chữ Hán ở dạng bản

thảo.

Nói đến văn thơ chữ Hán, chữ Nôm ở Quảng Trị cần chú ý đến

những bài văn bia, những bản hương ước, hối ước, các bài văn tế và câu đối

hiện còn lưu giữ lại ở nhiều địa phương trong tỉnh. Trong các thể loại này có

những bài có giá trị như bài văn bia ở làng Hà Trung do Trần Đình Phác

soạn, hoặc bài văn bia “Đề phụ lữ phần bia” do Trương Khắc Hịch soạn ở

làng Mai Xá. Bài hội ước “Hội đình quan hàm phương danh” ở làng Câu

Hoan. Thể văn tế viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm có nội dung hết sức đa

dạng: “Văn tế các vị khai khẩn của làng”, “Văn tế cha mẹ”, “văn tế vợ

chồng”, “Văn tế cầu an”, “Văn tế thập loại cô hồn”... Tương tự, câu đối cũng

chiếm một khối lượng đồ sộ, vừa bằng chữ Hán, vừa bằng chữ Nôm hiện

đang được lưu giữ, thờ phụng tại các đình chùa, lăng miếu, nhà thờ họ lẫn

các tư gia chưa được nghiên cứu, giới thiệu một cách đầy đủ, có hệ thống.

Các thể văn này vừa là di sản văn học và văn hoá hết sức quý giá. Về văn

học, nó phản ánh tình cảm, suy nghĩ của người Quảng Trị đối với quê hương,

đất nước. Về văn hoá, nó chứa đựng trong đó lịch sử, truyền thống, học vấn

và phong tục tập quán của vùng đất.

b- Văn học chữ quốc ngữ:

Bộ phận văn học này phát triển chủ yếu từ sau năm 1920 khi ở

Quảng Trị có một lớp trí thức mới theo học ở các trường Pháp Việt, chịu ảnh

hưởng của văn hoá phương Tây hoặc tham gia các phong trào yêu nước và

cách mạng. Có thể khẳng định, đại diện cho bộ phận văn học giai đoạn này

là Phan Văn Dật, Chế Lan Viên trong phong trào Thơ mới và nhiều chí sĩ

cách mạng yêu nước. Riêng phần thơ văn của các chí sĩ cách mạng xin được

trình bày theo tuổi tác, năm sinh năm mất:

- Lê Thế Tiết (1900-1940), người làng Tường Vân, xã Triệu Vân,

huyện Triệu Phong. Học ở Huế, năm 1925 ra làm Thừa phái ở Diễn Châu,

Nghệ An, tham gia Hội Phục Việt (1926), là thành viên nhóm cộng sản đầu

tiên ở Tích Tường, Cam Lộ. Tháng 4/1930, cùng với đồng chí Trần Hữu Dực

46

và Nguyễn Hữu Mão, ông đã thành lập tỉnh Đảng bộ Quảng Trị và được cử

làm Bí thư Tỉnh uỷ đầu tiên của tỉnh Quảng Trị. Năm 1940 ông bị địch tra

tấn dã man, hi sinh tại nhà đày Lao Bảo lúc tuổi đời mới ở bốn mươi.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, nhiều vị tiền bối

cách mạng ở Quảng Trị trong đó có đồng chí Lê Thế Tiết sáng tác nhiều thơ

văn. Nó là vũ khí đấu tranh và tuyên truyền cách mạng, song vì lý do hoạt

động bí mật và bị tù đày mà thất lạc đi nhiều. Tác phẩm:

- Diêm phù thạch ký - “Truyện tảng san hô muối”, tập tiểu thuyết

bằng chữ quốc ngữ với nhân vật chính là một phụ nữ có học thức, lúc đi cứu

cha bị giam cầm thấy được bao nhiêu người bị áp bức bóc lột tàn tệ nên đã

giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng.

- Thằng Cu Chim, là truyện vừa kể chuyện một em bé nhà nghèo

từ cuộc sống gian khổ của mình mà giác ngộ cách mạng (Cả hai tác phẩm

văn xuôi nói trên ghi theo lời con gái của ông là bà Lê Thị Diệu Muội, theo

đó thì bản thảo đã thất lạc từ trước năm 1945).

Hai bài thơ “Tự vịnh”, “Nhớ làng quê” là số ít trong những bài

thơ của Lê Thế Tiết may mắn được các đồng chí trong tù nhớ lại. Bài thơ

“Tạm biệt” là bài ông làm để chia tay lúc từ chức Thừa phái ở phủ Diễn đi

làm cách mạng (gia đình còn lưu giữ được). Một phần tư tưởng, tình cảm,

cốt cách và văn phong của ông thể hiện khá rõ qua bài thơ này:

Trong thiên hạ biết ai ai biết

Tương phùng tương đắc hóa tương thân

Đã quen nhau xa cũng như gần

Duyên bèo nước mà nhiều phần gắn bó

Chật một nhà: học sinh, quan nho, tú cử

Mái tây hiên hách chủ ân cần

Mà nay ngày một xa dần

Đoái cảnh vật khôn tan mộng tưởng

Khái hậu Diễn thành lưu biệt hận

Tư lai tùng kính các kinh phi

Trăng Hồng Lam khi có hỏi nhau gì

Nhờ thưa lại khách về nhưng có dặn

47

Nước còn, non hẳn

Hội tương phùng còn có lúc về sau

Mà xem con tạo cơ cầu.

- Nguyễn Vức (1906 - 1971), người làng Đại Áng, phường Đông

Lương, Tp. Đông Hà. Tham gia cách mạng rất sớm, từ tổ chức Ái hữu dân

đoàn sau hợp nhất thành Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Bí thư chi bộ

Đại Áng, một trong 16 chi bộ đầu tiên ở Quảng Trị do đồng chí Trần Hữu

Dực thành lập giữa tháng 3/1930 [8]. “Được bầu vào Ban chấp hành Tỉnh

Đảng bộ tháng 6 - 1937. Khi đồng chí Trần Mạnh Quỳ bị bắt (9-1939), đồng

chí Nguyễn Vức được Tỉnh ủy Quảng Trị bầu làm Bí thư” [9]. Nhưng cũng

có nguồn tư liệu đáng tin cậy khác cho biết: “Tháng 8 - 1937, đồng chí

Nguyễn Vức (Đại Áng) được cử vào Tỉnh ủy và đến tháng 10 - 1938, làm Bí

thư thay đồng chí Hoàng Hữu Chấp bị bắt…”[10].

Do hoàn cảnh hoạt động thời tiền khởi nghĩa, về căn bản dựa trên

nguyên tắc bí mật nên khó xác minh đầy đủ về cuộc đời hoạt động cách

mạng của ông. Nhất là giai đoạn sau 1954, ông ở lại hoạt động bí mật ở

miền Nam mà theo ông Lê Hoạch cho biết là theo chỉ thị của đồng chí

Trương Công Kinh, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị lúc bấy giờ. Từ 1954 - 1971,

ông thường xuyên bị địch bắt giam, quản thúc; chỉ có chi bộ bí mật ở địa

phương nắm rõ hoạt động của ông thời kỳ này. Năm 1971 bị địch tra tấn dã

man, ông lâm trọng bệnh, về nhà chưa đầy tháng sau thì mất, đã được truy

tặng liệt sỹ.

Sinh thời ông làm rất nhiều thơ phú, câu đối lúc ở trong tù và

hoạt động trong lòng địch. Cũng một phần vì thơ phú bày tỏ chí khí, tâm

huyết của mình mà ông bị tù tội. Nhân tết đến xuân về, ông dán ở cổng nhà

mình câu đối: “Ngày Tết như ngày thường, chẳng có của ngon vật lạ/Chơi

xuân không chơi lắm, chớ quên cuốc bẩm cày sâu”. Chiều ba mươi Tết đang

cày ruộng giữa đồng, ông bị tên Tháo cảnh sát về bắt cho rằng làm câu đối

bôi nhọ chế độ. Vào quận Triệu Phong, ông đấu lý với tên Quận trưởng Ngô

Đình Hoàng, con nuôi Ngô Đình Diệm: “Thưa ông Quận, hôm ni tui bị bắt

vô đây lần thứ ba. Lần thứ nhất họ nói tui làm sai, họ bắt (ý nói làm cách

mạng). Lần thứ hai họ nói tui đi sai, họ bắt (ông bị quản thúc không được ra

khỏi địa phương). Lần thứ ba họ nói tui nói sai, họ bắt”… Sau hồi đấu lý

Quận Hoàng đuổi khéo: “Thôi ông về đi”…, ông còn lấy cớ trời tối, phải bố

trí chỗ ở lại qua đêm giao thừa “ăn tết” ở quận sáng hôm sau mới về. Bài thơ

sau cũng do ông làm: “Vận nước trăm khe chảy về HỒ/Qua cầu không khéo

48

bổ trúc NGÔ/Bổ trúc ngô cũng nhờ người CỌNG/Người cọng vững vàng khó

mà XÔ”. (Hồ: ám chỉ Cụ Hồ, Ngô: gia đình họ Ngô. Cọng: Tiếng địa phương

là cõng nhưng hàm ý Trung cộng, cũng như Xô, ám chỉ Liên Xô). Ông bộ

Thúy đem bài thơ này phổ biến, cả hai đều bị bắt. Về sau bài thơ này cũng

như bài “Đồng khô hồ cạn” vượt tuyến ra đến Vĩnh Linh, nhiều người biết.

Cũng như câu đối ghi ở đình chợ Thạch Hãn (chợ Tỉnh) mới tu sửa sau khi

cướp chính quyền, có người cho là của ông Nguyễn Vức: “Bán mỡ, bán dầu

đừng bán nước/ Buôn ngàn buôn vạn chớ buôn dân”...

Năm 1999, khi làm Tuyển tập “Non Mai sông Hãn”-100 năm

Thơ văn Quảng Trị, tôi may mắn gặp ông Nguyễn Trưng, một sĩ quan quân

đội nghỉ hưu ở Lập Thạch cho xem bài văn tế bằng bút tích của ông Nguyễn

Vức viết vào ngày 26 tháng tư năm Giáp Ngọ (tháng 5-1954), do ông Vức

đọc công khai trong lễ truy điệu mẹ ông Nguyễn Trưng. Ông Vức là chỗ bà

con, khóc người đang mất bằng cô (tiếng địa phương gọi o, và mụ là gọi thay

con). Bà có năm con trai tập kết. Khi bà mất, năm người con đều đang chiến

đấu ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Một chút lai lịch, hoàn cảnh ra đời như thế

để thấy lý tưởng mà ông gọi là “tấm lòng đỏ” lẫn khí phách cũng như tài

nghệ văn chương của ông Nguyễn Vức bàng bạc trong một bài văn tế:

“... Hỡi ôi!

Luật tiến hóa cớ sao chẳng chuyển, giống da vàng chưa khỏi bước

gian nan,

Cuộc tuần hoàn lắm nỗi đau thương, đám mây bạc trông xa chừng vò

vọ.

Sáo ngã thuyền vừa lướt đập, trách ông xanh chi mà khéo vô tình,

Cóc kêu trời nỏ thấu cho, tấm lòng đỏ biết cùng ai bày tỏ .

Trên đời ai khỏi kiếp tồn vong,

Nháy mắt đã chia người kim cổ.

Nhớ O xưa:

Ngôn hạnh có thừa, công dung sẵn đủ.

Lối xã giao, đường xử thế, dưới trên đều hiểu lẽ thị phi,

Tình bác ái, nghĩa tương thân, ăn ở cũng vào hàng quy cũ.

Đóa hoa thơm nở miền Đại lãnh, chữ vu quy vịnh khúc đào yêu,

49

Chiếc thuyền tình ghé bãi Thạch Giang, hoa cỏ rước (?) làm đôi ông

mụ.

Hai mốt tuổi kết duyên cầm sắt, đạo tề gia cũng đúng bậc khuê nghi,

Năm mươi năm xây dựng tảo tần, tiếng khen ngợi đã vẻ vang làng họ.

Cũng lắm lúc thức khuya dậy sớm, giúp gia nương nở mặt nở mày,

Đã nhiều phen tay lấm chân bùn, dựng gia thất nên giàu nên có.

Phận chính thứ trên hòa dưới thuận, lòng thương yêu rất đúng mực

phân minh,

Bảo các con xử thế tùy thời, gương gia huấn cũng nên trang tiến bộ.

Dạy ba gái làm nghề canh cửi, phận nữ nhi khuya sớm ân cần,

Khuyên năm trai lo việc học hành, thân nam tử làm tròn nghĩa vụ.

Những ước: O là vàng mười đúng chữ, nấu nung nào sợ lửa than,

Ai ngờ: Mụ như trái chín trên cây, bỗng chốc rơi theo mưa gió.

Đoái là tiếc: Ba năm khói lửa O không gắng thêm vài ba tháng, hòa

bình trở lại mạ gặp con, O thấy cháu, gia đình đầm ấm vẻ vinh quang,

Luống thương cho: Mấy đoạn gian nan Mụ không chờ đợi bấy nhiêu

ngày, chiến tranh chấm dứt, người đi Bắc, kẻ về Nam, tranh đấu đập tan cơn

giông tố.

Hay là O thấy chuyện đời rắc rối, quyết riêng mình vui thú tự do,

Hay là Mụ ghét cuộc thế bất công, mong lánh bước tìm phương tế độ.

Thôi thôi!

Sao lặn mây tan, trăng mờ tuyết ủ,

Hạc lánh non tiên, châu về Hiệp phố

Nghĩ lại càng buồn nói ra thêm khổ.

Cảm là cảm: Ông Huynh trưởng da đồi mồi tóc bạc, việc gia đình còn

mong thế cậy em,

Thương vì thương: Mấy em dại còn tuổi trẻ đầu xanh, đường sự

nghiệp vẫn nương nhờ bóng Mụ.

Mai sáng trông ra đường cái, thiếu tiếng O mà tấc dạ ngậm ngùi,

50

Buổi chiều xem bến đò ngang, vắng bóng Mụ lụy càng rơi lổ đổ.

Bữa nay: Các cháu từ tha hương đi xuống thăm O, bâng khuâng

tưởng tình cốt nhục, ôm quan tài mà năn nỉ với hòm săng,

Ngày mai: Mấy em ngoài quan ải trở về viếng Mụ, lạnh lùng nhớ đức

cù lao, ngắm mộ địa mà thở than cùng cây cỏ…

- Phan Văn Dật (1909-1987), quê làng Đạo Đầu, xã Triệu

Trung, Triệu Phong. Học trường Quốc học Huế, vì gia cảnh nên đậu bằng

Thành chung ông thôi học đi làm trước bạ tại Đà Nẵng vào năm 1927, đổi ra

Huế năm 1939. Năm 1951 du học ở Pháp, tại trường Trước bạ Quốc gia

Lyon. Về nước ông làm Chủ sự Trước bạ Huế và dạy văn ở các trường Quốc

học, Đồng Khánh, Bách Khoa, Bình Dân. Từ năm 1959 chuyển sang giảng

dạy ở Viện Đại học Huế...

Viết văn từ năm 1924, đến năm 1927 có thơ đăng ở Nam Phong,

Thần Kinh, Rạng Đông, Tràng An... dưới các bút danh Tiêu Lang, Thường

Nga Phố. Đặc biệt thơ ông đã được tuyển vào “Thi nhân Việt Nam” của

Hoài Thanh - Hoài Chân và “Việt Nam thi nhân tiền chiến” của Nguyễn Tấn

Long. Trước tác: “Diễm hương trang” (Tiểu thuyết - 1935); “Bâng khuâng”

(Thơ - 1936) và “Những ngày vàng lụa”, thi phẩm chưa xuất bản.

Phan Văn Dật là một tác gia lớn, cùng với Chế Lan Viên, là một

trong những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Nếu như thành

công nhất của Chế Lan Viên trước năm 1945 là đổi mới thơ ca (nói như Hoài

Thanh: “Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như

một niềm kinh dị”) thì ngược lại “Phan Văn Dật với tập Bâng khuâng đã

nhìn cảnh vật ngày nay sau bức màn một tâm hồn xưa... Giữa lúc một luồng

không khí mới thúc giục người ta thoát ly gia đình, Phan Văn Dật đã dám ca

tụng cái tình anh em, cha con... Giữa cuộc đời náo động, người ngoảnh mặt

làm ngơ và tự tạo cho mình một thế giới riêng, một thế giới lặng lẽ đầy mơ

mộng” (Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam tiền chiến). Thế giới

ấy trong thơ Phan Văn Dật được nhắc đến một cách nâng niu, âu yếm. Đó là

những mối tình xưa, những cảm hoài thời thơ ấu:

Vào buổi bình minh, năm ấy xưa

Trong vườn đào lý, phủ sương mờ

Dắt tay hai trẻ tìm hoa rụng

Mơ chuyện thần tiên, nghĩ vẩn vơ...

51

Có thể nói, Phan văn Dật và Chế Lan Viên là hai nhà thơ tiêu

biểu người Quảng Trị trong phong trào Thơ mới. Nhưng Chế Lan Viên đồng

thời cũng là nhà thơ đại diện cho sự bế tắc của một thế hệ không tìm được lý

tưởng sống. Ông đã khắc phục những yếu điểm này của thời đại để chiếm

lĩnh những đỉnh cao trong các giai đoạn sau năm 1945 và sau 1975 (nhà thơ

Chế Lan Viên sẽ trình bày ở phần sau).

- Trần Hữu Dực (1910-1993), quê ở làng Dương Lệ Đông, xã

Triệu Thuận, huyện Triệu Phong. Tham gia cách mạng từ 1925, lúc ông 15

tuổi. Thời tiền khởi nghĩa, bốn lần ông bị kết án tù, ba lần vào tù, tổng cộng

13 năm. Từng giữ những chức vụ quan trọng: Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị năm

1930-1931; Chủ tich UBHCKC Trung Bộ sau cách mạng tháng Tám; Bộ

trưởng Bộ Nông nghiệp; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng; Phó Thủ tướng Chính

phủ.

Tác phẩm đã xuất bản: Hồi ký “Bước qua đầu thù”, “Những năm

tuổi trẻ” và nhiều bài thơ viết trong lao tù thực dân thời tiền khởi nghĩa.

Trong bộ phận văn học chữ quốc ngữ, có thể còn rất nhiều người

dù chưa phải là nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp nhưng tác phẩm của họ thực

sự có giá trị và có tác dụng tốt đối với phong trào yêu nước và hoạt động

cách mạng thời bấy giờ. Đó là tên tuổi của các bậc cách mạng tiền bối như

Lê Thế Hiếu với bài thơ “Kêu gọi quốc dân”; Nguyễn Xuân Luyện với bài

“Tức cảm”... Thơ của các tác giả này thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, tố

cáo tội các của thực dân phong kiến, giãi bày những tình cảm riêng tư về tình

mẫu tử, về tình bạn, tình đồng chí, tình cảm thiên nhiên với những xúc cảm

sâu lắng và bằng một nghệ thuật rất thuần thục, vừa sử dụng những yếu tố thi

pháp truyền thống, vừa có những cách tân tìm tòi mới mẻ của phong trào thơ

mới.

Sáng tác của các tác giả này góp một phần quan trọng vào dòng

văn học yêu nước và cách mạng phát triển mạnh mẽ trước năm 1945.

2. Văn học hiện đại

2 .1- Lớp nhà văn trưởng thành từ thời chống Pháp

Sau cách mạng tháng tám, thực dân Pháp gây chiến hòng tiêu diệt

nước cộng hoà non trẻ của ta và nhằm áp đặt trở lại chế độ thống trị thuộc

địa. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Quảng Trị

cùng cả nước thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Nằm trong địa bàn chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, cuộc kháng chiến

của nhân dân Quảng Trị vô cùng gian khổ nhưng hết sức hào hùng được cả

52

nước quan tâm, động viên cổ vũ. Chín năm kháng chiến chống Pháp ở

Quảng Trị có chiến khu Ba Lòng, có cơ quan “Văn nghệ nguồn Hàn” là nơi

tập hợp đông đảo văn nghệ sĩ địa phương và cả nước chi viện cho mặt trận

Trị Thiên. Từ đây đã sản sinh ra nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi. Hiệp định

Giơ-ne-vơ ký kết, đất nước chia cắt, con sông Hiền Lương - Bến Hải trở

thành con sông tuyến, chiến trường Quảng Trị trở thành nơi đọ sức giữa hai

thế lực cách mạng và phản cách mạng, là nơi hủy diệt tàn khốc nhất trong

cuộc chống Mỹ cứu nước. Cả nước chia lửa, tăng cường lực lượng cho chiến

trường Quảng Trị, trong đó có đông đảo các văn nghệ sĩ - chiến sĩ. Sáng tác

của họ là một rừng hoa muôn sắc, từ văn học đến kịch bản sân khấu, điện

ảnh, ca khúc... đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong

bối cảnh chung đó, Quảng Trị có nhiều nhà văn, nhà thơ, văn nghệ sĩ tiêu

biểu trưởng thành trong 2 cuộc kháng chiến vệ quốc thần thánh của dân tộc.

Để giới thiệu một cách khái quát về đội ngũ và chân dung cụ thể của từng

nhà văn nhà thơ đông đảo này người viết áp dụng một tiêu chí dung hòa, đó

là ưu tiên hàng đầu các tác giả là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, kế đến là

những tác giả đã định hình và nhất là lớp trẻ có triển vọng.

- Chế Lan Viên (1920-1989). Nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình.

Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

Tên thật Phan Ngọc Hoan, quê quán ở xã Cam Giang, Cam Lộ,

Quảng Trị. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, năm bảy tuổi gia đình

chuyển vào Bình Định, ông học tại Quy Nhơn. Tại đây ông sáng tác những

bài thơ đầu tiên để gia nhập vào làng văn Việt Nam nên ông coi Bình Định

như là quê hương thứ hai của mình. Học xong trung học ông đi dạy tư khắp

các tỉnh miền trung và thành phố Huế.

Năm 1937, lúc ông tròn 17 tuổi đang học năm thứ 3 trung học

Quy Nhơn, Chế Lan Viên đã cho in tập thơ Điêu tàn. Ngay lập tức được

công luận và người yêu thơ chú ý, sớm trở thành một trong những nhà thơ

nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Điêu tàn là một sự phủ định thực tại, quay

về với thế giới ảo mộng, kỳ quái của những giấc mơ. Cùng với nhóm thơ

Hàn Mạc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, Chế Lan Viên đã nói lên sự bế tắc của

mình trước cuộc sống thực tại. Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội, sau vào Sài

Gòn làm báo rồi lại về Xứ Thanh dạy học. Năm 1942, Chế Lan Viên cho ra

tập Vàng sao, tiến một bước xa hơn vào thế giới siêu huyền bí, thể hiện sự bế

tắc về nhân sinh và nghệ thuật thần bí, bi quan. Cách mạng tháng Tám thành

công là bước ngoặt thức tỉnh và đổi đời cho nhiều nhà thơ nhà văn tiền chiến

trong đó có Chế Lan Viên. Ông tham gia cách mạng tại Quy Nhơn rồi ra Huế

53

cùng Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh tham gia Đoàn xây dựng,

cộng tác với báo Quyết thắng của Mặt trận Việt Minh Trung Bộ. Trong cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp ông làm công tác báo chí ở liên khu IV lúc

ở Thanh - Nghệ - Tĩnh lúc vào Bình - Trị - Thiên.

Trong chiến dịch Tà Cơn - Đường 9 Nam Lào, ông được kết nạp

vào Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 7 năm 1949). Có thể nói từ đây Chế

Lan Viên thực sự trở về với cội nguồn dân tộc, đất nước, vứt bỏ mọi ảo

tưởng siêu hình trước đây. Tập thơ Gửi các anh (1955) là những bài thơ sáng

tác trong những năm kháng chiến chống Pháp thể hiện bước tìm tòi con

đường nghệ thuật cách mạng của ông nhưng chưa thật ổn thỏa về tư tưởng.

Phải đợi đến sau ngày hòa bình lập lại, trở về Hà Nội cho đến cuối cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chế Lan Viên cho ra đời bốn tập thơ Ánh

sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), Những bài

thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), những tác phẩm đánh dấu bước

phát triển mới của ông trên hành trình thơ cách mạng. Đó là một chặng

đường “phấn đấu của một tâm hồn để giữ gìn cái ánh sáng của tư tưởng

Đảng: tinh thần lạc quan tự vượt mình để nghĩ đến mọi người” (Xuân Diệu).

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ông từng tham gia trong ban

lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam (Ủy viên Thường vụ), nhiều lần là “đại sứ

văn hóa” Việt Nam tham dự các diễn đàn văn hóa quốc tế ở Liên Xô, Ấn Độ,

Pháp, Na Uy, Thụy Điển... Là đại biểu Quốc hội các khóa 4, 5, 6 và 7, Ủy

viên Ban Thống nhất của Quốc hội khóa 4 và 5. Sau ngày đất nước thống

nhất, ông về sống ở Tp. Hồ Chí Minh. Ở đây, tuổi cao sức yếu, ông vẫn chạy

đua với thời gian để cho ra đời những tập thơ văn đích thực. Chế Lan Viên

mất ngày 19-6-1989, sau một cơn đau nặng tại bệnh viện Thống nhất thành

phố Hồ Chí Minh. Ba năm sau khi ông qua đời, tập Di cảo thơ I gồm hàng

trăm bài thơ phần lớn chưa được công bố của ông ra mắt bạn đọc. Năm

1993, Di cảo thơ II tiếp tục được phát hành và là tác phẩm độc nhất được

giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1994. Ông được tặng giải

thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 năm 1996. Giải A giải

thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 (tập thơ Hoa trên đá)…

Tác phẩm chính:

Về thơ: Điêu tàn (1937), Gửi các anh (thơ, NXB Hội Nhà văn,

1955), Ánh sáng và phù sa (thơ, NXB Văn học, 1960), Hoa ngày thường -

Chim báo bão thơ, NXB Văn học, 1967), Những bài thơ đánh giặc (thơ,

NXB Thanh niên, 1972), Đối thoại mới (thơ, NXB Văn học, 1973), Ngày vĩ

đại (thơ, NXB Thanh niên, 1976), Dải đất vùng trời (thơ, NXB Quảng Bình,

54

1976), Hát theo mùa (thơ, NXB Tác phẩm mới, 1986), Hoa trên đá (thơ,

NXB Văn học, 1984), Ta gửi cho mình (thơ, NXB Tác phẩm mới, 1986), Di

cảo I (thơ, NXB Thuận Hóa, 1992), Di cảo thơ II (thơ, NXB Thuận Hóa,

1993).

Thơ tuyển: Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (Văn học, tập I, 1985),

Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (Văn học, tập II, 1990), Tuyển tập thơ chọn lọc

(Nghĩa Bình), Nàng và tôi (Tuyển thơ tình, Văn học 1992), Thơ Chế Lan

Viên (thơ tuyển Giáo dục, 1993).

Về văn xuôi: Vàng sao (1942), Thăm Trung Quốc (bút ký, NXB

Văn học, 1963), Những ngày nổi giận (bút ký, NXB Văn học, 1966), Bác về

quê ta (tập văn, NXB Nghệ An, 1972), Bay theo đường dân tộc (Văn nghệ,

Giải phóng, 1976), Giờ của đô thành (bút ký, NXB Lao động, 1977), Nàng

tiên trên mặt đất (NXB Kim Đồng, 1985).

Tiểu luận phê bình: Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (Thép mới,

1952), Phê bình văn học (NXB Văn học, 1962), Suy nghĩ và bình luận (

NXB Văn học, 1971), Nghĩ cạnh dòng thơ (NXB Văn học, 1981), Từ gác

Khuê Văn các đến quán Trung Tân NXB Tác phẩm mới, 1981), Nói chuyện

thơ văn (Chàng văn, NXB Văn học, 1960), Vào nghề (Chàng văn, NXB Văn

học, 1962), Ngoại vi thơ (NXB Thuận Hóa, 1987).

Nhận định về Chế Lan Viên, Hoài Thanh tác giả Thi nhân Việt

Nam đã tiên lượng: “Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ

Việt Nam như một niềm kinh dị”. Điều đó không chỉ đúng và trúng đối với

“Điêu tàn” mà đúng và trúng đối với toàn bộ tác phẩm của ông. Đã có hàng

trăm đầu sách, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ … tức hàng vạn trang sách của các

nhà phê bình văn học trong và ngoài nước viết về ông và sẽ còn nhiều trang

viết nữa. Tác phẩm của ông đề cập đến nhiều vấn đề, trên nhiều bình diện

khác nhau, đặc biệt ở lĩnh vực nào ông cũng thành công. “Chế Lan Viên viết

vì cái lớn, cũng viết vì những cái nhỏ, viết về Tổ quốc, chiến tranh, cách

mạng, thời đại, cũng viết về tình yêu hoa cỏ, nỗi đau riêng. Anh viết thơ

chính luận trường thiên ghi tạc tâm tình và biến thiên lịch sử cũng rất thành

công trong thơ tuyệt cú…” (Mai Quốc Liên).

Chế Lan Viên là nhà văn hóa, nhà thơ lớn, là cây đại thụ trong

làng thơ Việt Nam, vượt ra ngoài cái khuôn khổ chật hẹp của một địa

phương như là Quảng Trị. Để ghi nhận công lao to lớn của ông, từ năm 2015

UBND tỉnh Quảng Trị đã chính thức lấy tên ông đặt tên cho một giải thưởng

văn học nghệ thuật của tỉnh gọi là “Giải thưởng Chế Lan Viên”, năm năm

55

trao thưởng một lần. Hiện tỉnh nhà cũng đang xúc tiến việc xây dựng Khu

lăng mộ và nhà lưu niệm Chế Lan Viên trên quê nhà của ông.

- Hồng Chương (1921-1989), tên thật Trần Hồng Chương, quê ở

làng Phương Sơn, xã triệu Sơn, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn

Việt Nam (1957). Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuở nhỏ ông

học ở trường làng, sau vào học ở Huế. Năm 1937, Hồng Chương đã tham gia

phong trào Dân chủ ở Huế, vào Đoàn Thanh niên Dân chủ, năm 1940 gia

nhập Đoàn Thanh niên phản đế. Phụ trách báo Cứu quốc của Tỉnh ủy Quảng

Trị năm 1940, xuất bản bí mật. Hai lần bị thực dân Pháp bắt giam. Lần thứ

nhất bị bắt ở Huế (1939) và lần thứ hai đi đày ở nhà tù Buôn Ma Thuột

(1941). Sau khi phát xít Nhật đảo chính Pháp năm 1945, ông thoát ngục về

quê tham gia hoạt động chuẩn bị Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở

Quảng Trị. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp chủ yếu ông làm

công tác tuyên huấn thuộc Khu ủy Khu IV, tham gia Chi hội Văn nghệ Bình

Trị Thiên.

Sau ngày hòa bình lập lại, ông ra Hà Nội công tác. Năm 1956 ông

làm việc ở Ban biên tập tạp chí Học tập (nay là tạp chí Cộng sản), là Phó

tổng và Tổng biên tập tạp chí Cộng sản và là Tổng thư ký Hội Nhà báo Việt

Nam cho đến khi nghỉ hưu, mất tại Hà Nội.

Tác phẩm chính: Máu lửa đồng quê (tập thơ, 1948), Ngược

đường số 9 (truyện, 1958), Một luồng gió mới (tiểu thuyết, 1959), Phương

pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật (lý luận phê bình, 1962), Văn nghệ

cách mạng và cách mạng không ngừng (lý luận phê bình, 1959), Mấy vấn đề

về lý luận và phê bình văn nghệ (lý luận phê bình, 1965), Mãi mãi đi theo

đường lối văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (lý luận phê bình, 1971).

Trong những năm tháng tham gia cách mạng hoạt động bí mật,

đặc biệt là thời kỳ bị tù đày tại các nhà lao Thừa Phủ, nhà tù Buôn Ma Thuột,

ông sáng tác khá nhiều thơ. Các bài thơ như Cái đầu gối, Cục đường, Bão

tố… phổ biến khá rộng rãi. Một số bài thơ có tiếng vang, trở nên quen thuộc

với công chúng và đông đảo chiến sĩ cách mạng ở Khu IV vào những năm

1947 là bài Tráng sĩ hành sau đổi tên lại là Đội biệt động đường số 9. Bài

thơ ca ngợi tinh thần dũng cảm chiến đấu của quân và dân vùng Chợ Cạn về

sau được đặt tên cho tập thơ Máu lửa đồng quê. Về văn xuôi, bạn đọc quan

tâm nhiều đến cuốn tiểu thuyết “Một luồng gió mới”. Ở đó, ông tập trung

miêu tả phong trào cách mạng của quần chúng ngày càng dâng cao, và các

hoạt động công khai hoặc bí mật của những người Cộng sản ở Huế trong thời

kỳ Mặt trận Dân chủ. Thành công nhất của Hồng Chương chủ yếu trên lĩnh

56

vực lý luận phê bình. Nhiều tiểu luận của ông thể hiện một thái độ kiên định

trên những vấn đề nguyên tắc và có tính chiến đấu sắc sảo khi đánh địch, đấu

tranh với những luận điệu sai trái.

- Vĩnh Mai (1918-1981). Nhà thơ, bút danh khác: Búa Tạ. Tên

thật Nguvễn Hoàng, quê làng An Tiêm, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong.

Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

Thuở nhỏ, Vĩnh Mai học ở trường huyện, sau đó vào Huế học ở

trường Phú Môn, đỗ bằng Thành chung. Ông là một thanh niên trí thức giàu

lòng yêu nước, sớm giác ngộ cách mạnh. Từ năm 1936, ông đã tham gia hoạt

động trong phong trào Thanh niên học sinh Dân chủ ở Huế. Năm 1939, ông

được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng 9-1940, ông bị

thực dân Pháp bắt giam tại nhà tù Buôn Ma Thuột cho đến tháng 3-1945.

Sau khi ra tù, ông tham gia phong trào Mặt trận Việt Minh tỉnh Phú Yên, là

Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời huyện Tuy Hòa, Trưởng ty

Thông tin Tuyên truyền tỉnh Phú Yên.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Vĩnh Mai đã từng

kinh qua các chức vụ: Bí thư Thành ủy thành phố Huế (1946-1949); Phó bí

thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị (1947-1949); Ủy viên Liên khu IV, phụ trách

Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Liên khu IV từ 1949-1954. Từ 1955 là cán

bộ Ban tuyên giáo, Ủy viên Ban Chấp hành Chi hội văn nghệ Liên khu IV.

Từ năm 1955-1956 Chánh văn phòng của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật

Việt Nam. Từ 1956 trở đi là cán bộ biên tập tuần báo Văn nghệ, phụ trách tổ

thơ của báo.

Tác phẩm chính: Khóc Hoài (thơ, 1946); Người dân quân xã

(thơ, 1947), Tiếng hát hòa bình (thơ, 1954), Đôn và Thanh (truyện thơ,

1955), Lên đường (thơ, 1962), Tiếng hát (thơ, 1978), Đất đen và hoa thắm

(thơ, 1982), Từ mùa xuân ấy (thơ, 1984); Chàng trai ấy (thơ tuyển, 1992).

Thơ của Vĩnh Mai chân thành, đôn hậu, cởi mở nhất là đối với

những bài thơ viết về quê hương, bạn bè, đồng chí, lời thơ mộc mạc, nhưng

xiết bao đau xót bởi đất nước và con người bị chiến tranh và kẻ thù tàn phá.

Với tư cách là người cùng thời, nhạc sĩ Trần Hoàn có một nhận định chân

phương và lý thú: “Thơ Vĩnh Mai không nhiều, nhưng đậm. Đậm một chất

“chè Thái”, càng đắng càng ngọt, uống ít nhớ lâu, hương vị cứ bám mãi đầu

lưỡi… Xuất hiện trước những nhà thơ khác lúc bấy giờ, với những kiểu cách

bay bướm, mượt mà giàu âm điệu ví như những tấm lụa nhiều màu sắc óng

ánh, thơ Vĩnh Mai như tấm áo vải ta, bền và dày, đậm đà trong màu nâu giản

57

dị, thô ráp, nhưng lại hồn nhiên như một đóa hoa rừng...” (“Nhớ Vĩnh Mai”,

Tuần báo Văn nghệ ngày 17-2-2001).

- Nguyễn Khắc Thứ (1921-1990), quê ở làng An Cư, xã Triệu

Phước, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

Nguyễn Khắc Thứ thuộc thế hệ những nhà văn thời chống Pháp,

từng là cán bộ trong quân đội. Cũng như bao thanh niên trai tráng cùng lứa

tuổi, ông hăm hở tham gia cách mạng từ khởi nghĩa tháng Tám 1945, khi học

xong trung học được vài năm, được bổ sung làm trưởng hỏa xa miền Trung.

Say mê văn chương từ thở học trò, ngay từ những ngày đó ông đã viết nhiều

truyện ngắn, truyện dài và thơ nhưng chưa có dịp xuất bản hoặc đăng tải trên

báo chí. Năm 1948, khi giặc Pháp càn quét đến quê ông, toàn bộ sách vở,

trong đó có nhiều tác phẩm, truyện ngắn, thơ ca dưới dạng bản thảo đã bị đốt

thành tro bụi.

Nguyễn Khắc Thứ là phóng viên quân đội ở mặt trận Bình Trị

Thiên. Ngoài việc đi chiến dịch lấy tin tức, ông còn đảm nhiệm việc in ấn

xuất bản tờ báo quân đội ở chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa. Toàn bộ

tâm huyết của nhà văn Nguyễn Khắc Thứ được ký thác và sẽ đọng lại lâu

bền trong ký sự“Trận Thanh Hương”, ra đời năm 1955 nhưng đã được ấp ủ

nhiều năm trước đó. Trận Thanh Hương đã đi vào lịch sử như một trận vận

động chiến quan trọng ở chiến trường Bình Trị Thiên, không chỉ quân dân

Bình Trị Thiên mà cả nước phấn chấn vì ta có thể đánh địch “giữa ban

ngày”, mặt giáp mặt, súng đọ súng. Ta bắt hàng trăm tên tù binh giải đi thành

hàng qua nhiều xóm làng để chuyển lên vùng chiến khu, khác với trước đó ta

chỉ đánh những trận nhỏ có tính chất du kích thuộc chiến lược cầm cự. Với

“Trận Thanh Hương”, tài năng và tên tuổi của Nguyễn Khắc Thứ đã được

khẳng định, vượt ra khỏi Bình trị Thiên để đến với văn đàn cả nước.

Hòa bình lập lại, Đại đoàn 325 tập kết ra Bắc Đóng ở Quảng

Bình. Vừa lúc Tổng cục Chính trị mở trại viết về anh hùng. Nguyễn Khắc

Thứ được điều ra dự Trại trại sáng tác của Tổng cục Chính trị viết về các anh

hùng quân đội. Tiểu thuyết “Đất chuyển” ra đời ở thời điểm này ít nhiều gây

được tiếng vang.“Đất chuyển” kể lại một câu chuyện có thực, với những

nhân vật có tình người và chiều sâu tâm hồn. Chỉ mấy tháng sau khi xuất

bản, “Đất chuyển” được một nhà văn Trung Quốc dịch ra Hoa ngữ với tên

gọi “Thổ địa hồi gia”; là một trong những tác phẩm văn học Việt Nam sớm

được dịch ra tiếng nước ngoài. Dù vậy, trước sau Nguyễn Khắc Thứ vẫn là

con người “phận mỏng cánh chuồn”, có thể nói là sự nghiệp văn chương

giữa đường đứt gánh chỉ vì “yêu đương tiểu tư sản”.

58

Sau này nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh tiếc nuối: “Về Hà Nội là một

dịp may. Lao được một ván cầu sang bến mà mở đường đi tiếp nữa. Oái ăm

thay, với Nguyễn Khắc Thứ là nút thắt của một bi kịch. Bi kịch sau cùng của

đời người”. Anh Trương Quang Đệ trong bài viết “Đôi chút kỷ niệm về nhà

văn Nguyễn Khắc Thứ” đăng trên Văn nghệ cho biết, trong những năm tháng

bị “Hạ phóng” xuống tham gia lao động ở một nông trường quân đội, rồi

được điều về phụ trách kho sách của thư viện quân đội, Nguyễn Khắc Thứ

đã hoàn thành một bộ truyện dài nhan đề “Khói lửa” vào giữa những năm

80. Tuy vậy ông vẫn chưa cho xuất bản, có lẽ ông cảm thấy có điều gì đó

chưa ổn? Trước đó vào những năm 70, ông còn viết cuốn truyện dài lấy tên

“Ngày cuối thu” nói về mối tình đầu của ông mà ông thương nhớ suốt đời.

Nhưng đáng tiếc những tác phẩm đó chưa được xuất bản thì đã thất lạc đâu

đó!.. Tác phẩm cuối cùng của Nguyễn Khắc Thứ là truyện ngắn “Hẹn hò”,

ra mắt bạn đọc năm 1966 và sau đó người ta không thấy ông xuất hiện trên

văn đàn nữa. Ngay cả những đồng nghiệp cùng thời và những người bạn

chiến đấu vào sinh ra tử với ông cũng rất ít khi liên lạc được với ông kể từ

sau ngày Hẹn hò ra đời.

Tác phẩm chính: Trận Thanh Hương (truyện ký, 1955), Đất

chuyển (tiểu thuyết, 1958) và ba truyện: Bản án tử hình, Phá kho bom Tân

Sơn Nhất, Hẹn hò (xuất bản, 1966).

Là người bạn thân từng được xem rất nhiều bản thảo của nhà văn

Nguyễn Khắc Thứ, Trương Quang Đệ khẳng định: “... Có thể nói không

ngoa rằng những gì sót lại chỉ là phần nổi của tảng băng khá lớn. Phần chìm

của tảng băng có nguy cơ không bao giờ biết nữa...”.

- Lương An (1920-2004), tên khai sinh là Nguyễn Lương An,

bút danh khác là Thạch nam, Nguyễn Lương Tài. Quê làng Tài Lương, xã

Triệu Tài, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1971).

Trước tháng Tám, học trường Quốc học Huế, tốt nghiệp Thành

chung, sau đó học tiếp Ban tú tài. Cán bộ tiền khởi nghĩa hoạt động từ tháng

5 đến tháng 8 năm 1945 trong Thành bộ Việt Minh Huế; cán bộ tại Uỷ ban

hành chính Trung bộ, Uỷ ban hành chính tỉnh Quảng Trị.

Từ 1949 trở đi hoạt động văn hóa - văn nghệ trong Tỉnh uỷ, mặt

trận Liên Việt tỉnh Quảng Trị, Liên khu IV, ban tuyên giáo Bình Trị Thiên

cũ.

Tập kết ra Bắc, từ 1958-1972 làm Trưởng ban biên tập văn hoá

văn nghệ báo Sinh hoạt văn hoá và báo Thống nhất (Hà Nội).

59

Năm 1973: Phó Trưởng ty Văn hóa Quảng Trị. Năm 1983: Ủy

viên thường trực Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên. Năm 1984 nghỉ hưu và mất

tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Tác phẩm đã xuất bản: Nắng Hiền Lương (tập thơ); Vè chống

Pháp (tập nghiên cứu văn học dân gian Bình Trị Thiên); Thơ Tùng Thiện

Vương Miên Thẩm (giới thiệu và nghiên cứu); Thơ Mai Am và Huệ Phố

(tuyển chọn và dịch); Giọt máu chung (trường ca); Tuyển tập Lương An

(2004).

Kể từ những sáng tác đầu tay đăng trên báo Tràng An (Huế)

trước Cách mạng tháng Tám đến nay, nhà thơ Lương An đã hoạt động trên

lãnh vực văn nghệ hơn 60 năm. Do tham gia cách mạng rất sớm, trong hơn

nửa thế kỷ đó, ông phải làm nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo phong trào văn hoá

văn nghệ, thời gian dành cho việc nghiên cứu và sáng tác không bao nhiêu.

Đông đảo bạn đọc thường nhớ đến ông với bài thơ Cô lái đò in trong nhiều

Tuyển tập. Ông cũng khiêm tốn tự nhận rằng “tôi thấy bề dày về sáng tác và

nghiên cứu của mình chẳng là bao” (Tự bạch trong cuốn “Nhà văn Việt Nam

hiện đại). Bạn đọc ít biết đến ông một phần do ông rất cẩn trọng và cầu toàn

trong việc công bố tác phẩm. Sự nghiệp sáng tác của ông tuy không dày dặn

nhưng khá phong phú.

Đọc “Tuyển tập Lương An” do Nxb Thuận Hoá - Huế xuất bản

năm 2004, ngoài tập thơ Nắng Hiền Lương đã xuất bản năm 1962, chúng ta

còn được biết đến một Lương An rất tươi trẻ với những bài thơ viết trước

cách mạng tháng Tám mà tác giả cũng chỉ nhớ được số ít bài. Nhiều bài thơ

ông sáng tác từ năm 1962-1984 chưa có dịp công bố và truyện thơ Giọt máu

chung dài hơn một nghìn câu viết về cuộc chiến đấu ở Tây nguyên. Một

phần quan trọng trong tuyển tập là những bài nghiên cứu phê bình giới thiệu

các tác phẩm, các danh nhân và các địa chỉ văn hoá phần lớn thuộc địa phận

Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và công phu

thật đáng kính trọng của ông trong quá trình sưu tập tư liệu, dịch thuật và

xây dựng tác phẩm.

Sự nghiệp của nhà thơ Lương An xứng đáng được bạn đọc vinh

danh và Nhà nước truy tặng Giải thưởng cao quý.

- Lê Tri Kỷ (1924-1993). Tên khai sinh: Nguyễn Duy Hinh, quê

ở làng Lưỡng Kim, xã Triệu An, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn

Việt Nam.

60

Sau Cách mạng Tháng Tám, công tác ở ủy ban xã. Năm 1946 làm

bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Gio Linh. Nhiều năm công tác trong

ngành công an ở các tỉnh và Trung ương. Đại tá Phó giám đốc NXB Công an

nhân dân cho đến lúc nghỉ hưu.

Tác phẩm chính: Thủ phạm vụ án Ôn Như Hầu (ký sự, 1960);

Cây đa xanh (truyện, 1961); Phố vắng (tập truyện ký,1965); Một người

không nổi tiếng (truyện ký, 1970); Đất lạ (kịch bản điện ảnh, 1971); Biển

động ngày hè (kịch bản sân khấu, 1976); Những tiếng nói thầm (truyện ký,

1978); Thung lũng không tên (kịch bản điện ảnh, 1971); Sống chìm (tập

truyện ngắn, 1984); Câu lạc bộ chính khách (tiểu thuyết 2 tập, 1986); Không

thiện không ác (tập truyện 1988); Cuộc tình thế kỷ (tập truyện 1992, tái bản

1994); Truyện ngắn Lê Tri Kỷ (tuyển tập, 1995)…

Giải thưởng văn học: Giải A của Hội đồng văn học về chiến tranh

cách mạng và lực lượng vũ trang Hội Nhà văn Việt Nam 1994, tập truyện

Cuộc tình thế kỷ. Giải A của Bộ Nôi vụ và Hội Nhà văn Việt Nam 1995, tập

truyện Không thiện không ác.

Nhiều năm công tác trong ngành công an nên các trang văn của

ông đầy ắp các sự kiện xảy ra trong ngành an ninh, công an với một giọng

văn súc tích, nội dung cuốn hút được đông đảo công chúng mến mộ. Khi trao

giải thưởng văn học của Bộ Nội vụ cho ông, Ban Tổ chức sáng tác của Hội

Nhà văn Việt Nam đã có những đánh giá xác đáng: “... Nhà văn Lê Tri Kỷ

chủ yếu viết về ngành công an bằng nhiều thể loại, nhưng thành công hơn cả

là thể truyện ngắn... Truyện của ông vừa gợi được sự sáng suốt trong lý trí,

vừa tạo được sự rung động đầy tính nhân văn thiết tha hướng thiện. Chiến sĩ

công an trước hết cũng là con người, cũng đau đớn, buồn vui, hờn giận yêu

ghét như mọi người, khiến ta cảm thông và gần gũi...”.

- Dương Tường (1926-1953). Nhà thơ, quê làng Cương Gián, xã

Trung Giang, huyện Gio Linh. Hội viên Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1952.

Nhà thơ Dương Tường tham gia cách mạng lúc 18 tuổi. Cách

mạng tháng Tám bùng nổ, ông rời nhà trường, tham gia công tác vận động

thanh niên. Ngày quân Pháp kéo ra Quảng Trị, ông lên chiến khu Ba Lòng

làm các bộ Tỉnh đoàn thanh niên cứu quốc. Năm 1948, ông được cử đi dự

lớp văn hoá kháng chiến Liên khu IV, học xong trở về công tác ở tỉnh nhà.

Tháng 3-1949 nhóm Văn nghệ Nguồn Hàn (tổ chức đầu tiên của văn nghệ sĩ

tỉnh Quảng Trị) thành lập, ông được cử vào ban phụ trách. Năm 1951, khi

nhóm chuyển thành Phân hội Văn nghệ tỉnh Quảng Trị, ông được bầu làm

61

Phân hội trưởng. Năm 1952, ông được kết nạp vào Hội văn nghệ Việt Nam,

chuyển công tác về Ty Tuyên truyền và văn nghệ tỉnh kiêm Biên tập viên

báo Tháng Tám cơ quan của Mặt trận Liên Việt. Ngày 24.6.1953, trên đường

công tác ông đã hy sinh năm 26 tuổi, giữa lúc tư tưởng và tình cảm đang ở

độ phát triển, thơ anh đang ở đà chín, giữ lúc cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp đang tiến gần đến thắng lợi mở ra chân trời rộng lớn cho thơ ca.

Anh được Nhà nước suy tôn liệt sĩ nhưng đã bỏ dở một sự nghiệp thơ ca

đang tràn đầy hứa hẹn.

Đọc lại thơ những sáng tác trong vòng năm năm (từ 1948-1953)

với khoảng 30 bài thơ cho thấy Dương Tường là một “hiện tượng thơ”, một

tài năng thơ phát lộ rất sớm trong nhóm văn nghệ Nguồn Hàn. Nhà thơ sớm

biết chắt lọc chất thơ từ mọi mặt sinh hoạt, chiến đấu và sản xuất của nhân

dân để làm giàu nội dung thơ mình. Cái chất tươi mát, trữ tình, cách thể hiện

mới mẻ, gia công tìm tòi và chọn lọc hình tượng, tìm ý và lời sáng tạo, tránh

đường mòn trong thể hiện là phong cách, là những đóng góp nổi bật của

Dương Tường vốn không có nhiều trong khuynh hướng “đại chúng hoá” của

thơ Khu IV lúc bấy giờ. Những bài như “Vá lưới”, “Cây bí dân quân”, “Về

làng”, “Tiếng cây dương Mỹ Thủy”, “Ai hay chừ tết anh về”… là những bài

thơ thuộc nằm lòng của quân dân khu IV và người dân Quảng Trị cho đến

tận bây giờ. Điều đó chứng tỏ thơ Dương Tường vẫn sống, có những bước đi

buổi đầu nhưng vững chắc, đóng góp không nhỏ vào sự hình thành của thơ

ca Bình Trị Thiên và Khu IV thời chống Pháp.

Khi mất, một số rất ít bài thơ của Dương Tường đã được đưa vào

Tuyển thơ của Hội nhà văn Việt Nam. Chỉ tiếc một điều là chiến tranh, ly

tán, đất nước vừa thống nhất thì nhập, tách tỉnh. Không ai, không một tổ

chức nào kịp đứng ra sưu tầm một cách đầy đủ tác phẩm của nhà thơ từng

“vang bóng” mà “yểu mệnh”, trong khi những bạn thơ văn của ông trong

nhóm Văn nghệ Nguồn Hàn như Trường Sinh (Lê Chưởng), Hồng Chương,

Vĩnh Mai, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Lê Tri Kỷ… chẳng còn ai ở lại trên

đời để có cơ may sưu tầm, hiệu đính, xuất bản cho Dương Tường tập thơ lưu

lại hậu thế.

- Phan Quang, sinh năm 1928, quê làng Thượng Xá, xã Hải

Thượng, huyện Hải Lăng. Tên khai sinh: Phan Quang Diêu. Bút danh khác:

Hoàng Tùng, Vị Hoàng, Yên Thanh, Hoàng Xá. Hội viên Hội Nhà văn Việt

Nam (1980).

Nhà văn Phan Quang tham gia cách mạng từ tháng 7 năm 1945.

Làm báo chuyên nghiệp từ năm 1948. Từng làm phóng viên báo Cứu quốc,

62

Ủy viên Ban biên tập báo Nhân dân 1976-7982. Vụ trưởng Vụ báo chí 1982-

1987, Tổng biên tập tạp chí Người làm báo 1985-1987, Thứ trưởng Thông

tin 1987-1988, Tổng giám đốc, Tổng biên tập Đài tiếng nói Việt Nam 1989-

2000. Đại biểu Quốc hội, Phó chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội

nhiệm kỳ VIII, IX và X (1987-2002).

Tác phẩm chính: Đất rừng (truyện, 1955); Hẹn cưới (truyện,

1956); Mùa xuân (truyện, 1956); Đất nước một dải (ký, 1975); Lâm Đồng -

Đà Lạt (ký, 1978); Hạt lúa bông hoa (ký, 1978); Đồng bằng sông Cửu Long

(ký, 1981); Một mình giữa đại dương (truyện, 1984); Chinh Phục Himalaya

(truyện, 1978); Người và đất (ký, 1988); Theo dòng thời cuộc (tiểu luận,

1995); Quê hương (ký, 2000); Về diện mạo báo chí Việt Nam (tiểu luận,

2001); Thơ thẩn Paris (ký, 2002); Những người tôi quý mến (chân dung,

2002); Phác thảo chân dung (2004); Bên mộ vua Tần (ký, 2004); Tuyển tập

Phan Quang (ba tập, NXB Văn học, 1999); Quê hương (tập ký, NXB Trẻ,

2000). Ngoài ra còn nhiều tập in chung.

Về dịch thuật: Hoa lạ (truyện ngắn các nước Á Phi, NXB Thanh

Niên, 1957); Hội chợ bán người (tập truyện ngắn các nước Á Phi, 1961);

Những ngôi sao ban ngày (tập ký Nga, NXB Văn học, 1963); Nghìn lẻ một

đêm (bốn tập, NXB Văn học, 1981-1982, tái bản nhiều lần); Trở lại với đời

(tiểu thuyết Bỉ, NXB Tác phẩm mới, 1985); Mười hai sử thi huyền thoại

(2004); Trà thư (2009)…

Trong lời tự bạch, ông tâm sự rằng “Ước mơ thời trai trẻ của tôi

là làm văn học, song tổ chức phân công làm báo và thỉnh thoảng lại bước

sang vườn văn”. Và rồi ông nhận ra rằng, báo chí và văn học là hai anh em

sinh ra từ một mẹ ngôn từ. Báo hay văn đều lấy ngôn tự làm gốc… Nội dung

và phương thức diễn đạt dù khác nhau, nhưng sự nghiệp một đời người

chung quy thể hiện cùng một nhân cách. Là lời tự bạch nhưng đó cũng là bút

pháp và văn phong của Phan Quang.

“... Ngòi bút của Phan Quang đã mở ra được dòng bút ký vừa

giàu chất hiện thực vừa trữ tình gợi giữa hai bờ báo chí và văn học... Phan

Quang luôn biết dựa vào kiến thức dân gian bù đắp với kiến thức sách vở.

Và cuối cùng là sự quan sát trực tiếp, tự mình đánh giá và rút ra những nhận

xét.” (Hà Minh Đức, Lời giới thiệu“Tuyển tập Phan Quang”). Nhà văn Ngô

Thảo cũng có nhận xét: “Những bút ký ở tập I Tuyển tập như một chuyên

luận khám phá về địa lý - lịch sử - tài nguyên - con người ở những vùng đất

tác giả có dịp khảo sát trong nhiều thời kỳ khác nhau...”. Lê Phú Khải chỉ ra

những yếu tố làm trang văn của Phan Quang sống động, cuốn hút người đọc:

63

“Điều thú vị nhất là ta tái hiện được trong đầu mình hình ảnh của đất nước

quê hương Bình Trị Thiên khói lửa, áo vá, cơm khoai mà dốc lòng đánh giặc

từ những ngày đầu đánh Pháp. Đó là những con người chân đất, những con

người Việt Nam bình thường, nhưng dám làm những việc phi thường, đứng

lên đánh bại những đế quốc sừng sỏ nhất loài người. Nhà báo Phan Quang

mà sự nghiệp báo chí của ông đậm đà chất văn, ông là một nhà báo có tầm

cỡ, được người cùng nghề đánh giá cao và còn là một nhà văn nhạy bén, một

thư ký của đời, ghi chép, sáng tạo điển hình đẹp về con người của thời đại

Hồ Chí Minh”(Đọc Tuyển tập Phan Quang).

Về phương diện chứng nhân, là thư ký thời đại - thế mạnh của nhà

báo, nhà văn Phan Quang, Chế Lan Viên đúc kết: “Bốn mươi năm làm báo.

Phan Quang chịu khó bỏ sức, bỏ công, như thế sách của Phan Quang như là

một tập sử biên niên...”.

- Hồ Sĩ Vịnh. Nhà lý luận phê bình văn học. Bút danh khác: Hiếu

Giang, Đông Thanh. Sinh năm 1933, quê làng Nghĩa An, Phường Đông

Thanh, Tp. Đông Hà. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (1990).

Năm 1947-1950: quân báo viên tại huyện đội Gio Linh (Quảng

Trị). Từ năm 1953-1955: học trung học phổ thông tại Quảng Trị và Hà Tĩnh.

Năm 1956-1959: học Đại học Tổng hợp Hà Nội. 1959-1963: Nghiên cứu

sinh tại Đại học Tổng hợp Lômônôxốp (Matxcơva); 1963-1971: Nghiên cứu

viên Viện Văn học; 1972-1984: Cán bộ Nghiên cứu sinh tại Đại học

Lômônôxốp, bảo vệ Tiến sĩ Ngữ văn (1985); 1990: Nghiên cứu viên cao cấp;

1990-1991 Thực tập sinh cao cấp tại Liên bang Nga; 1986-1996: Tổng biên

tập tạp chí Văn hóa nghệ thuật; 2000-2006: Tổng biên tập tạp chí Văn hiến

Việt Nam; 2002- đến nay: Viện trưởng Viện giáo dục hướng nghiệp Đông

Nam Á (tổ chức phi chính phủ). Viện sĩ Viện Hàn lâm nghệ thuật phương

Đông (Matxcơva, 2002)…

Tác phẩm chính: A.Puxkin (bút ký, chân dung, 1983); V.I. Lênin

và sự hình thành người nghệ sĩ kiểu mới (1985); M. Gorki về văn nghệ dân

gian (1986); Nghệ thuật và phong tục mùa xuân (chủ biên, 1987); Tư duy

mới và phẩm chất văn nghệ sĩ (1989); Sự hình thành người nghệ sĩ kiểu mới

trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa (tiếng Nga, 1985); Tìm về bản sắc

dân tộc trong văn hóa (chủ biên, 1993); Văn hóa, văn học - Một hướng tiếp

cận (1998); Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới (1999).

Hồ Sĩ Vịnh đã đi qua một chặng đường học thuật 35 năm, với

những thành tựu khá rực rỡ được giới lý luận phê bình và công chúng văn

64

học ghi nhận. Đúng như Hồ Tôn Trinh nhận định: “Hồ Sĩ Vịnh là nhà

nghiên cứu lâu năm, có những hiểu biết rộng, thường xuyên bám sát thực

tiễn đời sống và thực tiễn vận động của văn hóa ở trong nước và ở nước

ngoài. Anh đã vận dụng khá sắc sảo nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác để

xử lý những vấn đề do anh chủ động nêu ra, xuất phát từ nhu cầu đời sống xã

hội và nhu cầu học thuật.” (Lời giới thiệu tập sách Văn hóa, văn học - Một

hướng tiếp cận).

Ngoài lý luận văn học, Viện sĩ Hồ Sĩ Vịnh còn có những đóng

góp tích cực khác trong các chuyên luận chuyên sâu về văn hóa rất đáng

được ghi nhận như bản sắc dân tộc trong văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam

trong tiến trình đổi mới và hội nhập.

- Trần Công Tấn (1933), các bút danh khác: Tân Sắc, Trần Diệu

Phong, Xombuon, Vanatha. Quê làng Thượng Trạch, xã Triệu Sơn, huyện

Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1969).

Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Trần Công Tấn nhập ngũ.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông chiến đấu ở chiến trường

Bình Trị Thiên và chiến trường Lào. Nhiều năm là lính trinh sát, tình báo và

chỉ huy chiến đấu. Về sau ông làm công tác tuyên huấn, phụ trách công tác

điện ảnh, chiếu bóng. Cùng với đơn vị ông có một thời gian dài là quân tình

nguyện chiến đấu ở Lào và Campuchia.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông hoạt động ở

Hội văn nghệ Quảng Bình, trải qua những năm tháng đầy hy sinh gian khổ

với các đơn vị vũ trang Quảng Bình và đất thép Vĩnh Linh rồi vào hoạt động

ở chiến trường Bình Trị Thiên. Sau ngày đất nước thống nhất 1975, ông

công tác ở Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế. Năm 1980, ông về

công tác ở Tổng Cục Cao su, làm Tổng biên tập báo Cao su, rồi Vụ trưởng

Vụ văn thể. Gần đây ông là phóng viên báo Đại đoàn kết thuộc ủy ban Trung

ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Tác phẩm chính:“Con ngựa của tôi” (tác phẩm đầu tay in trên

báo Quân đội địa phương năm 1948, NXB Kim Đồng in lại năm 1985, và

NXB Văn học tái bản năm 1972); Thần voi và voi thần (tập truyện ngắn,

1958); Cô pháo thủ (truyện ký, 1966); Đường ra biển rộng (truyện ký,

1967); Tiếng nói dưới dòng sông (truyện ký, 1968); Dòng suối mát (tập

truyện ngắn, bút ký, 1969); Chớp biển (truyện ký, 1970); Những bông cỏ mặt

trời (truyện phim, 1971); Chỗ gặp nhau (tập truyện ngắn, 1972); Suối trong

rừng (tiểu thuyết, 1980); Đa Ra nơi đâu (tiểu thuyết, 1980); Hoa Lục bình

65

trôi (tập truyện ngắn, 1982); Mối tình tan vỡ (1988); Hoàng thân

Souphanouvong và đất nước Triệu Voi (dịch thuật, truyện ngắn, bút ký,

1985); Thương thương (tiểu thuyết, 1997); Ba đời chồng (tập truyện ngắn,

NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2002).

Giải thưởng văn học: Giải chính thức “Kỷ niệm sâu sắc trong đời

bộ đội” do Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam trao cho tác

phẩm “Thần voi và voi thần”; Giải tạp chí Văn nghệ Quân đội cho tác phẩm

“Họp tổ Đảng”; Tặng thưởng của Hội phụ nữ Việt Nam và Hội Nhà văn

Việt Nam cho tác phẩm “Những người thay áo cho rừng”; Giải thưởng của

Tổng cục Lâm nghiệp và Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm “Chỗ gặp

nhau”; Giải thưởng của báo Văn nghệ Giải phóng cho tác phẩm “Tàu ta kéo

còi qua sông Bến Hải”; Giải thưởng về đề tài 27 tháng 7 năm 1973 của Hội

Nhà văn và Bộ Nội vụ.

Trần Công Tấn viết văn khá sớm. Lý giải việc trở thành nhà văn,

Trần Công Tấn cho rằng chính là nhờ cuộc sống ở chiến trường và quân đội:

“Những người yêu thương, đùm bọc cùng đồng cam cộng khổ với tôi là đồng

đội, là nhân dân, chủ yếu là các mẹ, các chị khắp trên ba nước Việt Nam,

Lào và Campuchia. Bởi vậy những trang viết của tôi đều thuộc về đề tài phụ

nữ và người lính...”. Song ông cũng đánh giá rằng những gì “ông đã viết ra

hãy còn vô cùng nhỏ nhoi so với sự tích anh hùng của quân dân ta”. Và tự

dằn vặt bởi chưa hoàn thành trách nhiệm, thiên chức của người cầm bút:

“Cuộc đời cầm bút còn lại của tôi là sự day dứt, trăn trở luôn canh cánh bên

lòng về món nợ đối với đồng đội, với nhân dân mà mình chưa trả xong”...

- Vân Thảo, tên thật Phạm Thảo Nguyên, sinh năm 1936 tại thị

xã Quảng Trị. Quê gốc xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Hiện nay sống ở Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997).

Từ năm 1953, Vân Thảo đã tham gia bộ đội. Năm 1954, ông tập

kết ra Bắc. Từ năm 1957 đến 1967 là diễn viên thanh nhạc đoàn nghệ thuật

Tổng cục Chính trị, sau chuyển sang làm trợ lý âm nhạc Phòng Văn nghệ

Quân đội, Cục Tuyên huấn. Từ năm 1973 là trợ lý Văn nghệ Binh chủng Đặc

công. Năm 1990, nghỉ hưu mang quân hàm Trung tá.

Tác phẩm chính: Những người báo bão (tiểu thuyết, 1983); Đêm

màu tím (tiểu thuyết, 1987); Dòng xoáy cuộc đời (tiểu thuyết, 1990); Mưa

trái mùa (tiểu thuyết, 1991); Những chiến sĩ thầm lặng (kịch bản phim,

1984); Huyền thoại mẹ (kịch bản phim, 1996); Ngọn sóng đầu đời (kịch bản

phim, 1996); Hào quang đám mây (truyện ngắn, 2000).

66

Giải thưởng văn học: Giải Ba cuộc thi truyện ngắn do báo Văn

nghệ tổ chức năm 1979-1980 với truyện ngắn “Chiến sĩ của mình”.

Nhà văn Vân Thảo tâm sự về nghề: ‘Tôi yêu văn học và tập cầm

bút khá sớm. Nhưng thành công thì lại khá muộn mằn. Thuở còn đi học tôi

mê đọc sách nhiều khi quên cả ăn và làm bài tập. Tập kết ra Bắc hết làm

nhiệm vụ chống cưỡng ép di cư ở các vùng công giáo, lại tham gia chống

đói, chống hạn, sửa sai cải cách ruộng đất và huấn luyện quân sự... Cuộc

sống đa dạng cộng với các cuộc thi “Viết về đời sống bộ đội trong thời

bình”, “Kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội” thúc giục tôi cầm bút sáng tác.

Truyện viết xong tôi gửi cho tạp chí Văn nghệ Quân đội, tuần báo Thống

nhất... nhưng chẳng có cái nào được đăng. Cuộc chiến đấu chống Mỹ tôi lại

đi, lại ghi chép và viết rồi gửi đi cũng cùng số phận với những truyện tôi viết

ở giai đoạn 1956 và đầu những năm 1960. Truyện gửi đi rồi tôi khắc khoải

chờ đợi. Thỉnh thoảng nhận được hồi âm bằng lá thư kèm theo lời nhận xét:

Đề tài cũ, viết còn sơ lược... Tuy không được in nhưng những lá thư đó đã

trở thành niềm phấn khích giúp tôi kiên nhẫn thực hiện ước mơ cầm bút của

mình. Thành bại của người cầm bút có lẽ là chuyện bình thường. Miễn sao

cái tâm của mình đừng thay đổi. Tôi thường nghĩ văn là người, nhưng văn

cũng là đạo. Tài năng có thể khác nhau nhưng đạo cầm bút chỉ có một. Đạo

bộc lộ qua tâm. Tâm hiện lên trong tác phẩm. Tâm thế nào thì tác phẩm hiện

ra thế ấy”.

Và còn nguyên món nợ: "Tôi còn món nợ lớn đối với đồng đội

của mình là chưa viết được cái gì ra hồn về niềm vui, nỗi buồn của họ. Vậy

mà hình như có xu hướng khai thác cái bi của chiến tranh và người lính hơn

là nét đẹp của họ. Người ta đang sợ "tô hồng" hơn là "bôi đen". Nợ của

những người cầm bút đối với sự hy sinh của người lính chưa trả được bao

nhiêu mà quay ngoắt lại phủ nhận sự hy sinh đó. Coi sự hy sinh của họ như

một sự cuồng tín mê muội, làm cho món nợ ấy chỉ có nặng thêm lên. Tôi

nghĩ rằng đạo lý của người cầm bút viết về chiến tranh và người lính lúc này

cần hơn lúc nào hết... ”.

Văn học kháng chiến ở Quảng Trị giai đoạn 1945-1975 là một di

sản hết sức quý báu. Trước hết nó phản ánh khá trung thực bộ mặt tinh thần

của nhân dân Quảng Trị trong hai cuộc kháng chiến. Mặt khác, nó góp phần

tạo nên sức sống của một nền văn học mới của nhân dân, với sự nghiệp cách

mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại nhưng

đất nước bị phân đôi. Trong gần mười năm (1955-1964), ở các tỉnh khác trên

67

hai miền tạm thời có hoà bình thì ngược lại ở Quảng Trị, đặc biệt là vùng

giới tuyến luôn luôn là mảnh đất nóng bỏng, nơi diễn ra từng giờ, từng phút

cuộc đụng đầu giữa dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa thực dân mới. Mười năm

tiếp theo (1965-1975) cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước thì Quảng Trị trở thành chiến trường ác liệt nhất. Do đặc điểm tình

hình như vậy mà trong thời gian từ 1955-1975, Quảng Trị không hình thành

một đời sống văn học với tư cách là một bộ phận riêng trong đời sống văn

học chung của cả nước như thời kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954,

một vấn đề nóng bỏng đối với cả nước nói chung và nhân dân Quảng Trị nói

riêng là vấn đề đấu tranh thống nhất nước nhà. Nó trở thành một chủ đề lớn

của văn học, thu hút nhiều nhà văn, nhà thơ của cả nước viết về chiến tranh

và cách mạng ở chiến trường Quảng Trị nói chung và vùng giới tuyến nói

riêng.

Về văn xuôi, đặc biệt là thể loại ký với đặc trưng phản ánh kịp

thời, giàu chất liệu cuộc sống, được công chúng đón nhận một cách thích

thú. Có lẽ nhà văn Nguyễn Tuân là người đã quan tâm và thành công nhất

khi viết về con sông tuyến. Từ sau 1954 cho tới khi nổ ra cuộc chiến tranh

phá hoại của Mỹ nhiều lần ông rời Hà Nội để vào thăm con sông Bến Hải.

Kết qủa là ông có nhiều bút ký xuất sắc như: “Cắm cột mốc biên giới”,

“Cầu ma”, “Đò tuyến”, “Giữa chiến tranh và hoà bình là một bãi biển Cửa

Tùng”... Nhiều nhà văn từng gắn bó với tuyến lửa Vĩnh Linh cũng đã để lại

nhiều tác phẩm ký thuộc loại xuất sắc: “Họ sống và chiến đấu” của Nguyễn

Khải, “Chúng tôi ở Cồn Cỏ”, “Dải đất hẹp” của Trần Lai Nam, đặc biệt là

“Miền đất lửa” của Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh. Ký sự “Miền đất lửa” xuất

hiện ít năm sau cuộc kháng chiến đã hoàn toàn thắng lợi nhưng nó nằm trong

loạt ký viết về Cồn Cỏ, Vĩnh Linh được thai nghén chuẩn bị trước khi chiến

tranh kết thúc.

Viết về Quảng Trị có lẽ thơ là thể loại phong phú nhất. Nhiều tác

giả có thơ viết về Bến Hải, Cửa Tùng mà tiêu biểu là thơ của các nhà thơ nổi

tiếng như Lưu Trọng Lư (Sóng vỗ Cửa Tùng), Tế Hanh (Nói chuyện với Hiền

Lương), Hoàng Trung Thông (Cửa Tùng), Phan Xuân Hạt (Có những xóm

làng), Nguyễn Bao (Nghe trong tiếng sóng)... Nổi bật về thơ ở Quảng Trị

thời kỳ này là sáng tác của một số nhà thơ mà một phần đời sống và một

phần đời thơ đã gắn bó máu thịt với quê hương Quảng Trị. Đó là những nhà

thơ như Cảnh Trà với hai tập thơ “Nơi giáp mặt” và “Cành mận trắng”,

Phạm Ngọc Cảnh với tập thơ “ Đêm Quảng Trị”... Những sáng tác nêu trên

tập trung nói lên nỗi đau chia cắt đất nước, nỗi niềm mong nhớ của người

68

dân đôi bờ, lòng căm giận kẻ thù độc ác và khẳng định niềm tin Tổ quốc nhất

định thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà.

Từ năm 1965, khi toàn bộ mảnh đất Quảng Trị trở thành chiến

trường nóng bỏng, thì các nhà văn, nhà thơ với sự nhạy cảm nghề nghiệp và

trách nhiệm công dân của người cầm bút đã tìm thấy ở đây những vấn đề lớn

của nhân dân, của dân tộc và thời đại. Nhiều cuốn tiểu thuyết có giá trị văn

học cách mạng thời chống Mỹ được viết ra trên cơ sở khái quát hiện thực đời

sống ở chiến trường Quảng Trị: “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh

Châu viết về chiến trường Khe Sanh năm 1967. “Dưới đám mây màu cánh

vạc” của Thu Bồn viết về đội du kích làng Mỹ Thuỷ và anh hùng Trần Thị

Tâm. “Chiến sĩ” của Nguyễn Khải viết về chiến dịch đường 9 nam Lào năm

1971... Các nhà viết kịch cũng lấy đề tài từ hiện thực chiến đấu ở Quảng Trị

mà thành công tiêu biểu là một số vở kịch của tác giả Đào Hồng Cẩm như

“Đại đội trưởng của tôi”, “Tổ quốc”, “Tiếng hát”...

Trong thời kỳ 1955-1975, ngoài văn học cách mạng phát triển

trên miền Bắc và các vùng giải phóng, còn có một bộ phận văn học khác

phát triển tương đối mạnh mẽ ở các đô thị miền Nam. Trong bộ phận văn

học này có nhiều khuynh hướng khác nhau. Loại trừ khuynh hướng nô dịch

và chống cộng, còn tất cả các khuynh hướng khác đều nằm trong khuôn khổ

nền văn học dân tộc. Làm nên chân dung bộ phận văn học này là sáng tác

của nhiều thế hệ nhà văn. Và trong các thế hệ ấy có những người quê ở

Quảng Trị và sáng tác của họ cũng là một phần làm nên diện mạo đời sống

văn học tỉnh nhà. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu:

- Thích Nữ Thể Quán (1908-1983), quê ở làng Tri Lễ, xã Quy

Thiện, huyện Hải Lăng. Tu sĩ Phật giáo. Sư bà Thể Quán là cây bút văn xuôi,

nữ tính, giàu tình thương yêu cuộc sống và con người. Trước khi mất tại

chùa Hồng Ân Tp. Huế, bà đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị như

“Bóng hạnh phúc”, “Thiên địa vạn hóa”, “Hai lần ơn mẹ”, “Nét đẹp Đông

phương”, “Em mơ người hoang đảo”, “Hoàng Y Lan”, Để lại cho vui” và

di cảo nhiều tác phẩm khác chưa xuất bản.

- Nguyễn Thị Hoàng, sinh năm 1939, quê ở làng Quảng Điền,

xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong.

Nữ sinh Đồng Khánh (Huế), vào Nha Trang học tiếp Trung học

rồi Đại học Văn khoa Sài Gòn. Lên dạy học ở Đà Lạt chị mới viết văn, làm

thơ, viết báo.

69

Tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng từng gây nhiều dư luận sôi nổi

trước năm 1975: “Vòng tay học trò”, “Tuổi Sài Gòn”, “Ngày qua bóng tối”,

“Thành lũy hư vô”. Sau gần 15 năm im lặng, năm 1980 chị xuất bản cùng

lúc 2 tiểu thuyết mới: “Nhật ký của im lặng” và “Trầm tư mới của hoàng

hôn”.

Nguyễn Thị Hoàng là hiện tượng văn học độc đáo ở các đô thị

miền Nam trước ngày giải phóng. Đọc một số tác phẩm trước và sau ngày

giải phóng, chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận được một lối viết rất riêng của

nhà văn này. Vận dụng khái niệm và lý thuyết của chủ nghĩa hiện sinh, phân

tâm học, hiện tượng luận vào việc mô tả phân tích, nhà văn đã vẽ ra một số

tâm trạng cá biệt với những ẩn ức, những ham muốn vô thức, những biểu

hiện hư vô sống gấp, những nhân vật có cuộc sống mỏi mệt, tinh thần khủng

hoảng, lúc thì nổi loạn siêu hình, lúc buông thả an phận. Tóm lại, đó là

những con người vô tích sự, xa thực tiễn, phản ứng gay gắt với cuộc sống tù

đọng, nhỏ hẹp và vô nghĩa. Nhân vật của Nguyễn Thị Hoàng là một sản

phẩm của lối sống thác loạn ở các đô thị miền Nam vào những năm 60-70.

Có thể có nhiều người không thích thứ văn chương xa rời những

vấn đề trung tâm của đời sống xã hội, những vấn đề lớn như chiến tranh,

cách mạng, đời sống dân tộc... song về mặt bút pháp, cách tiếp cận những

phương thức biểu hiện mới của văn học, chúng ta có thể thấy được những giá

trị đáng kể trong tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng. Đó là sự cảm nhận trực

giác, sự miêu tả trực tiếp ý thức, trộn lẫn thực và ảo, hay việc diễn tả thế giới

tâm linh đầy bí ẩn của con người.

- Phan Phụng Thạch (1942-1973), tên thật: Phan Ngọc Thạch.

Quê ở làng Đạo Đầu, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong.

Học tiểu học ở trường làng, hết bậc Trung học ở trường Nguyễn

Hoàng thị xã Quảng Trị ông vào học trường Đại học Văn khoa Huế (Khoa

Sử Địa). Tốt nghiệp trở về trường cũ Nguyễn Hoàng làm quản thủ thư viện

và dạy môn Sử Địa. Tham gia hoạt động xã hội, từ thiện và viết báo, làm thơ

từ thập kỷ 60.

Có nhiều thơ đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa, Nghệ Thuật

dưới bút danh Phan Phụng Thạch, Phan Thu Hạ... Tập thơ “Lưu bút mùa hạ”

là tập thơ đầu tay của anh được Nhà sách Hạnh Nhơn xuất bản. Nhiều bài

thơ hay trong tập còn đọng mãi trong lòng những người đương thời. Thơ

Anh dịu dàng, đắn đót, bàng bạc, ray rứt bởi tình cảm thầy trò, quê hương

trước sự tàn phá của chiến tranh ngày càng khốc liệt. “Trong nỗi lạc loài” là

70

bài thơ mang âm hưởng chung của dòng thơ Phan Phụng Thạch: Quê mẹ đó

làm sao con về được/Bởi bây giờ bom đạn đã chia ngăn/Ngày giỗ cha con

ngậm ngùi phương lạ/Những đau buồn trong ý nghĩ xa xăm.../Người nằm

xuống từ năm đầu kháng chiến/Sao bây giờ đất nước vẫn tang thương/Thôi,

thưa mẹ, thắp giùm con ngọn nến/Khấn hồn cha, tha thứ một thằng con/...

Rồi một mai con theo cha nằm xuống/Rất âm thầm và rất đổi cô đơn/Đứa em

nhỏ lớn lên cùng tiếng súng/Sẽ nghĩ gì về cuộc chiến quê hương.

- Ngụy Ngữ, sinh năm 1947, quê tại làng Mỹ Chánh, xã Hải

Chánh, huyện Hải Lăng.

Làm báo, viết văn ở miền Nam. Trước năm 1975 đăng nhiều trên

các báo tiến bộ chống lại chế độ Sài Gòn như Đối diện, Vấn đề. Là cây bút

văn xuôi trực diện chống chế độ cũ, được giới trí thức, sinh viên học sinh và

bạn đọc yêu mến. Nhiều truyện ngắn của ông như “Con thú tật nguyền” được

in trong Tuyển tập truyện ngắn yêu nước, tiến bộ ở miền Nam từ 1954 -

1975 có tên “Mùa chim én bay về” do NXB Cửu Long xuất bản năm 1986.

Sau giải phóng ông chuyển qua làm điện ảnh, công tác tại Xưởng

phim Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.

- Đỗ Tư Nghĩa, sinh năm 1948. Quê làng Quảng Điền, xã Triệu

Đại, huyện Triệu Phong. Tốt nghiệp Cử nhân Triết, Đại học Văn khoa Huế,

có thơ in rất sớm trên các báo tiến bộ ở miền Nam. Sau giải phóng tiếp tục

dạy học và làm thơ ở Lâm Đồng...

- Triệu Phong (1942- ), tên khai sinh: Đặng Sĩ Tịnh, tên thường

dùng: Đặng Triệu Phong. Quê ở làng Ái tử, xã Triệu Ái, Huyện Triệu Phong.

Trước 1975 có thơ đăng trên các tờ báo tiến bộ miền Nam, có mặt trong

“Tiếng hát những người đi tới”, tuyển tập thơ văn phong trào sinh viên học

sinh đấu tranh chống Mỹ do NXB Trẻ xuất bản năm 1995. Sau giải phóng

1975, công tác tại Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hòa. Tiếp tục sáng tác thơ,

các phẩm đã xuất bản: “Khúc ru sợi khói” (in chung), “Giấc ngủ nửa vầng

trăng” (tập thơ, NXB Hội Nhà văn 1994), “Qua vùng cỏ lau” (thơ, NXB

Văn hóa dân tộc, 1999)...

Nguyễn Thị Hoàng và nhóm năm tác giả nêu trên có thể chưa

đánh giá một cách đầy đủ cho một bộ phận quan trọng của văn học dân tộc

(trong đó có một phần nhỏ của Quảng Trị) phát triển trong hai thập kỷ tại các

đô thị miền Nam. Đó là một vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta thực sự

muốn dựng lại đầy đủ chân dung đời sống văn học trong một giai đoạn lịch

71

sử đặc biệt của dân tộc - đất nước bị chia thành hai lãnh thổ có hai thể chế

chính trị khác biệt nhau.

2.2- Lớp nhà văn trưởng thành thời chống Mỹ đến nay

Như đã nói, việc phân kỳ, chia ra các giai đoạn văn học chỉ có

tính tương đối. Mười nhà văn, nhà thơ chúng tôi chọn lọc ở trên (giai đoạn

1945-1975) sau 1975 họ vẫn tiếp tục đóng góp thêm nhiều tác phẩm văn học

có giá trị khác, song về cơ bản họ đã đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp sáng

tác của mình. Lớp nhà văn kế tiếp như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Đức,

Ngô Thảo, Thy Sảnh, Châu La Việt… đều đã có tác phẩm, đã bắt đầu sự

nghiệp của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng đồng thời họ

cũng là thế hệ “bắc cầu” sang giai đoạn sau năm 1975. Việc xếp họ vào giai

đoạn sau năm 1975 cũng là xét ở cái mốc các tác giả này đã đạt tới đỉnh cao

trong sự nghiệp sáng tác của mỗi người. Nó mang tính ước lệ nhưng quan

trọng hơn là tính kế thừa và phát triển liên tục trong dòng chảy văn học tỉnh

nhà.

- Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh năm 1937, quê làng Bích Khê,

xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1978).

Năm 1960, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn (khóa I), ban

Việt Hán và Cử nhân triết học Đại học Văn khoa Huế. Từng là giáo viên dạy

văn, siêu hình học trường Quốc học Huế. Từng "xuống đường" đấu tranh

trong phong trào sinh viên, học sinh, giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập,

thống nhất Tổ quốc, và “lên xanh” kháng chiến. Từng là Trưởng ty Văn hóa

Thông tin tỉnh Quảng Trị (thời Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa

miền Nam Việt Nam), Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Chủ tịch

Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng Biên tập Tạp chí Cửa Việt.

Tác phẩm chính:

Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện trên văn đàn không sớm

nhưng chưa phải là muộn. Có thể lấy tác phẩm đầu tay Ngôi sao trên đỉnh

Phu Văn Lâu, tập bút ký được Nxb Giải phóng xuất bản năm 1972 làm cái

mốc khởi nghiệp. Năm ấy Hoàng Phủ Ngọc Tường tròn 35 tuổi. 35 năm qua,

ông đã lần lượt trình làng 16 tác phẩm, trong đó có hai tập thơ: Những dấu

chân qua thành phố (1976); Người hái phù dung (1995); ba tập nhàn đàm:

Nhàn đàm (1977); Người ham chơi (1998); Miền gái đẹp (2001); mười một

tập bút ký (bao gồm cả truyện ký và bút ký chính luận): Ngôi sao trên đỉnh

Phu Văn Lâu (1972); Rất nhiều ánh lửa (1979); Ai đã đặt tên cho dòng sông

(1984); Bản di chúc của cỏ lau (1984); Hoa trái quanh tôi (1995); Huế - di

72

tích và con người (1996); Ngọn núi ảo ảnh (2000); Trong mắt tôi (2001);

Rượu hồng đào (2001); Trịnh Công Sơn - Cây đàn lya của Hoàng tử bé

(2005); Miền cỏ thơm (2007); “Lời tạ từ một dòng sông (2015) và Tuyển tập

Hoàng Phủ Ngọc Tường (4 tập, 2002).

Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980,

tập ký Rất nhiều ánh lửa. Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội

Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1999 với tập bút ký Ngọn núi ảo ảnh và

năm 2007 với tập bút ký Miền cỏ thơm. Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố

Đô (1999-2004) tập bút ký Ngọn núi ảo ảnh; giải thưởng Cố Đô lần IV

(2005-2009) tác phẩm Miền cỏ thơm. Giải thưởng Chế Lan Viên lần I (2015-

2020) Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường. Giải thưởng Nhà nước về Văn học

nghệ thuật năm 2007.

Ngần ấy tác phẩm xuất bản trong vòng ba mươi lăm năm, không

nhiều nhưng cũng không phải là ít. Trong số không nhiều nhà văn đã dành

gần như toàn bộ lao động nghệ thuật của mình cho thể ký, Hoàng Phủ Ngọc

Tường là một cây bút đặc sắc, có một phong cách viết bút ký văn học riêng

hẵn của ông. Nhà văn tự bạch: “ Tôi lớn lên trong một bối cảnh đặc biệt của

lịch sử, ở đó mọi sự kiện đều mang sẵn một vẻ đẹp văn học. Vì thế tôi cho

rằng văn xuôi phải đáp ứng một nhu cầu sinh đôi của thời đại: a- Nó phải là

một sự kiện mang tính thẩm mỹ; b- Nó được bảo đảm là có thực trong thực

tế cuộc sống; còn thực tế đến đâu thì đó là tùy tài năng vận dụng của người

viết để tất cả thành nhất quán”. Điều đó đã khiến ông chọn “bút ký là thể loại

văn xuôi tiêu biểu; dần dần nó trở thành duy nhất và không thể thay thế

được”. Mới đây, khi ra mắt tập bút ký Lời tạ từ một dòng sông (Nxb Trẻ,

2015) Hoàng Phủ Ngọc Tường chính thức gửi thông điệp của chính tác giả,

rằng đây là tập sách cuối cùng, nhà văn sẽ không còn viết nữa sau 20 tập bút

ký và thơ xuyên suốt đời văn của mình. Ở đề từ cho tác phẩm cuối cùng này,

lần nữa ông nhắc lại tôn chỉ của mình: “Ai biết nước sông Lam khi mô trong

khi mô đục. Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh. Tôi viết sách lòng

chỉ mong học theo người Nghệ để đi cho hết cái trong đục của đời người.

Cuốn sách nhỏ này có thể xem là lời tạ từ…”. Và về lý do không viết nữa:

“Tôi không viết nữa đơn giản tôi đâu còn cơ hội để đi nữa đâu…(bệnh xuất

huyết não từ 1996). Đi chuyển dịch là niềm đam mê và năng lượng cuộc

sống của mình, tách biệt cắt đứt nó chẳng khác gì mình đoạn tuyệt với hơi

thở hiện tại. Không viết nữa tôi buồn và chán lắm nhưng mình không thể

ngồi tưởng tượng mà viết. Lâu nay từ ngày lâm bệnh đến giờ có bao nhiêu

tích lũy của những chuyến đi thực tế ký ức trí nhớ thì tôi đã lôi ra hết rồi giờ

73

thì không còn năng lượng nữa có viết cũng là một điều không thật với bạn

đọc điều ấy không nên…”.

Với ý thức trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút như vậy

nên ông thường viết chậm, song không ai đem tiêu chí ít hay nhiều để xác

định tầm vóc của một nhà văn. Cái chính là những giá trị mới mẻ, đích thực

mà nhà văn đã góp vào để làm nên diện mạo đời sống văn học của thời đại

mình. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định những thành tựu, những đóng

góp mới từ những trang bút ký “rất nhiều ánh lửa” (chữ dùng của Nguyễn

Tuân) của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Hoàng Phủ Ngọc Tường có một trí nhớ phi phàm chứa đựng một

khối lượng tri thức khổng lồ về triết học, văn học, lịch sử và văn hóa sâu

rộng. Cuộc đời ông lăn lộn suốt chiều dài đất nước. Đụng đến vấn đề gì, ở

thời điểm nào và ở đâu, “chất ký và con người của ký trong ông lắng đọng

lại sự hiểu biết như trầm tích ủ dưới lớp than hồng”, chứa đựng những kiến

giải phong phú về mọi mặt của xã hội, thế thái nhân tình, nhất là các biến cố,

biến thiên của lịch sử dân tộc như là những phát kiến văn hoá. Văn chương

của ông bình dị nhưng sang trọng, sắc sảo, sâu lắng. Đọc nó ta thấy ta được

giàu có lên về tâm hồn và trí tuệ.

Một cuộc đời lăn lộn với nghề nghiệp, đóng góp trọn vẹn nhiệt

huyết cho đất nước; một cuộc đời giản dị, yêu mến nhân dân, thuỷ chung với

đồng chí đồng nghiệp. Có thể nói, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đến với cuộc

đời này bằng cả cái tâm của một con người đạt đạo. Đời văn của Anh, đúng

như nhà văn Nguyên Ngọc đã viết: “…Đối với anh Tường chẳng việc gì phải

giới thiệu. Tên tuổi anh, người đọc cả nước đều biết rõ, đọc giả ngoài nước

cũng nhiều người biết và hâm mộ. Anh là một trong mấy nhà văn viết ký hay

nhất của văn học ta hiện nay…”.

- Ngô Thảo, nhà lý luận phê bình. Bút danh: Song Nguyện,

Vĩnh Hoàng. Sinh năm 1941, quê ở xã Vĩnh Nam, huyện Vĩnh Linh, tỉnh

Quảng Trị. Hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn

Việt Nam (1977).

Tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1964,

về công tác tại Viện Văn học. Từ 1965-1985 vào bộ đội, từ binh nhì lên

Thiếu tá. Chiến đấu trong binh chủng pháo binh ở chiến trường Trị Thiên.

Trung đội trưởng trinh sát, Chính trị viên Đại đội, trợ lý tuyên huấn Trung

đoàn 368. Năm 1971 học ở Học viện Chính trị rồi về tạp chí Văn nghệ quân

đội, phụ trách phần bình luận văn nghệ. Năm 1986 chuyển về Hội nghệ sĩ

74

sân khấu Việt Nam. Từ 1989, là Ủy viên Ban thư ký (khóa 3). Từ 1994-

2004, Phó Tổng thư ký thường trực Hội khóa 4 và 5. Đảng ủy viên khối cơ

quan trung ương về công tác tư tưởng, ủy viên Đảng đoàn Hội. Từ 2001

kiêm Tổng biên tập tạp chí Sân khấu, giám đốc Nxb Sân khấu. Về hưu 2005.

Cố vấn nghệ thuật hãng phim Việt - Công ty BHD.

Phê bình tiểu luận đã xuất bản: Từ cuộc đời chiến sĩ (1978); Nhà

văn bàn về nghề văn (Biên soạn, 1980); Năm tháng chưa xa (Sưu tầm, biên

soạn, 1985); Một tài năng, một đời người (viết chung, 1988); Toàn tập

Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi (Sưu tầm, tuyển chọn 1996); Như cuộc đời

(Những bài viết về văn hóa, nghệ thuật, sân khấu, 1995); Tuyển tập truyện

và ký Đoàn Giỏi (1999); Đời văn - đời người (2000); Chiến trường sống và

viết (Biên soạn, sưu tầm, 2 tập, 1995); Đời văn - đời người (Tiểu luận phê

bình, 2000); Văn học với cuộc sống - đời sống văn học (2000); Mấy vấn đề

của sân khấu Việt Nam trong cơ chế thị trường (2000); Văn học về người

lính (2002, 2003); Mây bay về núi (2007); Thao thức với phần đời chiến trận

(2009); Tiểu luận phê bình văn học (2010). Ngoài ra còn có một số công

trình in chung khác.

Giải thưởng văn học: Giải thưởng tác phẩm năm 1995 của Hội

nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, tác phẩm Như cuộc đời. Giải thưởng của Hội

Nhà văn Việt Nam năm 2002, tác phẩm Văn học về người lính. Giải thưởng

Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2012.

Nhà văn Ngô Thảo nghĩ về nghề: “Đi qua gần trọn một kiếp trần

gian, tôi thấy biết ơn vô cùng bậc sáng thế đã tạo ra một dạng thức sáng tạo

tinh thần là Văn học. Trong những cuốn sách không phải bao giờ cũng đồ sộ,

loài người đã truyền lại cho nhau bao nhiêu tư tưởng, tình cảm lớn lao từ trải

nghiệm sống của những kiếp người.

Thế hệ chúng tôi vượt qua thế kỷ XX trong bom đạn, đói rét,

khốn khó để tồn tại một phần quan trọng nhờ lời mách bảo đầy bí ẩn mà hấp

dẫn từ nhiều, rất nhiều tác phẩm văn học, mặc dầu không phải đều là tuyệt

tác.

Chính vì vậy, trong phê bình văn học, bao giờ tôi cũng thể hiện

lòng biết ơn đối với các tác giả bằng cả đời mình đã tạo nên những tác phẩm

như thế”.

Nhà văn đã chọn cho mình lối đi riêng: “Giữa bao biến động

trong lý luận, phê bình văn học mà nhiệt độ, hướng đi luôn luôn thay đổi, tôi

chọn con đường làm tư liệu: Giữ lại những tư liệu văn học về một thời kỳ

75

lịch sử không thể quên”. Và ông khẳng định “Bởi tự tin ở sự ngay thẳng,

trung thực, dù bao lần bị phê phán. May cho tôi là khi nhìn lại, trong đó

không có những đồng đội xưa của mình, và hôm nay, nếu được chọn lại, tôi

sẽ lại chọn con đường đã đi tới bất cứ nơi đâu Tổ quốc cần”.

Đó là chọn lựa bản lĩnh và khôn ngoan đúng như Nguyên An đúc

kết: “Ngô Thảo đã có cả một loạt bài viết về những nhà văn chiến sĩ đã hy

sinh như Nguyễn Đình Lạp, Trần Đăng, Thôi Hữu, Nguyễn Thi... Không có

công tìm tòi tra cứu xuất phát từ lòng ngưỡng mộ và tiếc thương cho những

tài năng “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” thì khó mà viết được như thế...

Điều đáng ghi nhận là ở hàng trăm trang viết của ông vẫn thường thấm đượm

một khát khao góp phần phân tích, mổ xẻ tiến trình văn học đương đại, cùng

rút ra những kinh nghiệm và bài học để xây dựng một nền văn nghệ vững

mạnh hơn, giàu tính nhân dân - nhân bản (và cũng là tính Đảng) hơn, xứng

đáng với những hy sinh anh dũng của dân tộc, suốt bao nhiêu năm ròng,

tranh đấu vì nền độc lập tư do của Tổ quốc...”.

- Xuân Đức, sinh năm 1947. Họ và tên khai sinh: Nguyễn Xuân

Đức. Sinh năm 1947, quê ở xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh. Vào Hội Nhà

văn (1982).

Xuất thân trong gia đình nông thôn. Học xong phổ thông trung học

vào bộ đội, chiến đấu ở vùng sâu Quảng Trị. Năm 1976 được điều về trại

sáng tác của Tổng cục Chính trị, sau đó học Trường Viết văn Nguyễn Du

(khóa I). Tốt nghiệp, về Đoàn kịch nói quân đội, trước khi chuyển ngành là

Trung tá. Nguyên là Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin, Tổng

thư ký Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị, Tổng Biên tập Tạp chí Cửa

Việt.

Tác phẩm chính đã xuất bản: Cửa gió (tiểu thuyết, 1980); Người

không mang họ (tiểu thuyết, 1984); Hồ sơ một con người (tiểu thuyết, 1985);

Những mảnh làng (tiểu thuyết, 1987); Tượng đồng đen một chân (tiểu

thuyết, 1987); Bến đò xưa lặng lẽ (tiểu thuyết, 2005); và nhiều kịch bản sân

khấu, trong đó có Tổ quốc, Chứng chỉ thời gian, Đám cưới ly biệt, Ám ảnh,

Cái chết chẳng dễ dàng gì, Đợi đến bao giờ, Chuyện dài thế kỷ...

Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1982,

tiểu thuyết Cửa gió. Giải thưởng Bộ Nội vụ năm 1995, tiểu thuyết Người

không mang họ. Hai lần Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng (1990, 1995).

Giải thưởng Hội nghệ sĩ sân khấu năm 1995, vở kịch Cuộc chơi. Giải thưởng

Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, tập kịch Chứng chỉ

76

thời gian. Giải A cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam, tiểu thuyết

Bến đò xưa lặng lẽ. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.

Xuân Đức thuộc thế hệ nhà văn cùng trang lứa với Hữu Thỉnh,

Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Chu, Trần Đăng Khoa, Khuất Quang Thuỵ,

Lâm Thị Mỹ Dạ... được đào tạo và trưởng thành trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ. Trước khi cầm bút, ông là người cầm súng khi đang học năm

cuối trường cấp III Vĩnh Linh. Là một trong những người lính đầu tiên của

Trung đoàn 270 bảo vệ giới tuyến (thành lập 1/5/1965), ông đã cùng đồng

đội tham gia nhiều trận đánh ở các chiến trường nóng bỏng đạn bom ở

Đường 9, Gio Linh, Cam Lộ... Tiểu đoàn 47 của ông trong cuộc tổng tiến

công tết Mậu Thân 1968 đánh địch dọc tuyến bờ Bắc sông Hiếu từ Cửa Việt

đến Đông Hà hy sinh hơn một nửa quân số. Những tháng năm ấy đã để lại

trong trái tim đa cảm nhà văn ngập tràn cảm xúc về tinh thần chiến đấu, hy

sinh, vượt qua mọi gian nguy, ác liệt. Vì thế khi cầm bút Xuân Đức không

viết cái gì khác hơn ngoài đề tài chiến tranh cách mạng.

Thoạt đầu là những vở kịch mà ở đó ngay từ những sáng tác đầu tiên

đã gây ấn tượng. Các vở “Trận địa”, “Tiếng chim tapar”, “Tổ quốc” (viết

chung với Đào Hồng Cẩm) được viết vào quãng từ năm 1969 - 1976. Sau

này vở “Tổ quốc” do NSND Đình Nghi đạo diễn được chọn phục vụ Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ IV. Sau thành công của các vở kịch đầu tay, ông

chuyển qua một thể loại khác là tiểu thuyết và với nhà văn áo lính đề tài vẫn

là chiến tranh cách mạng. Một loạt tiểu thuyết như “Người không mang họ”,

“Tượng đồng đen một chân”, “Những mảnh làng”, “Cửa gió” (hai tập), “Bến

đò xưa lặng lẽ” và gần đây nhất là tiểu thuyết “Kẻ song sinh” lần lượt ra đời,

gắn liền với mảnh đất dữ dội đôi bờ Hiền Lương - con sông lịch sử quê

hương nhà văn.

Cùng với tiểu thuyết, khi ra quân nhà văn đã trở lại với thể loại kịch

bản sân khấu. Một loạt tác phẩm ra đời: “Chuyện đời thường vớ vẩn”, “Ám

ảnh”, “Cái chết chẳng dễ dàng gì”, “Chứng chỉ thời gian”, “Chuyện ấy

không phải cổ tích”, “Cuộc chơi”, “Nhật thực”, “Chuyện dài thế kỷ” đều lấy

đề tài chiến tranh cách mạng làm phương tiện ngợi ca chủ nghĩa anh hùng

cách mạng của quân và dân ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Cũng đề

tài trên, khi nghỉ hưu ông lần lượt cho ra đời các vở “Nhiệm vụ hoàn thành”

(viết về cố đại tướng Võ Nguyên Giáp) và “Thành phố lúc bình minh” (viết

về cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đều là những nhân vật cống hiến trọn đời

mình cho hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó,

ông còn thành công trong một loạt phim truyền hình. “Đối mặt”, “Đời như

77

tiệc”, “Hương trầm gió”, kể cả “Bến đò xưa lặng lẽ” chuyển thể từ tiểu

thuyết cùng tên…

Phải thừa nhận rằng, một đời văn Xuân Đức từ trai trẻ nay đã bảy

mươi đều nặng lòng với đề tài chiến tranh cách mạng. Nhà văn đã để lại cho

đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ về chiến tranh; ở thể loại nào, thời kỳ nào

tác phẩm cũng đều đạt tới đỉnh cao, để lại những dấu ấn sâu đậm. Cũng đề

tài chiến tranh, hiện ông đang viết thêm một cuốn tiểu thuyết nữa,. Sự viết

theo ông, giờ đây khá nhọc nhằn, bởi cuộc sống bây giờ cũng nặng nhọc lắm,

nhưng ông biết cách vượt qua chính mình, vượt qua sự nặng nhọc ấy để tiến

lên phía trước. Với nhà văn Xuân Đức, có thể nói tác phẩm và đi kèm là giải

thưởng, tất cả đang còn ở phía trước.

- Thi Sảnh, sinh năm 1942. Tên thật Nguyễn Thanh Sỹ, quê ở làng

Cẩm Phổ, xã Gio Mỹ, Gio Linh, Quảng Trị. Hội viên Hội Nhà văn Việt

Nam năm 2011.

Năm 1954 khi đất nước bị chia cắt, mới 13 tuổi nhưng Thi Sảnh đã kịp

xin bố mẹ vượt sông Hiền Lương giới tuyến để ra Bắc tiếp tục học tập. Cũng

như những học sinh miền Nam thuộc diện vượt tuyến khác, được Đảng và

Nhà nước và nhân dân miền Bắc thương yêu đùm bọc, quan tâm chăm sóc,

Thi Sảnh lần lượt học xong cấp II phổ thông tại khu vực Vĩnh Linh, cấp III

tại Hà Tĩnh và đại học tại Hà Nội. Năm 1964, sau khi tốt nghiệp khoa Sử

trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, anh về nhận công tác tại Sở Văn hóa và

Thông tin Quảng Ninh. Trải mấy mươi năm, từ một cán bộ Bảo tàng, anh trở

thành Giám đốc Sở Văn hóa và Thông tin, Chủ tịch Hội Sử học, trong nhiều

khóa là Ủy viên Thường vụ Hội văn nghệ Quảng Ninh cho đến khi về hưu

năm 2002.

Tác phẩm đã xuất bản:

- Về Thơ: Đã có 15 tập thơ được xuất bản, gồm Gương mặt bè bạn

(1981), Điều ước (1981), Liên tưởng (1983), Đợi và tìm (1985), Bài thơ bên

vách núi (1996), Cõi thiêng (2000), Ngọn nguồn câu hát (2002), Thức với

dòng sông (2004), Hình bóng xưa (2005), Thơ Thi Sảnh (2006), Đồng Điệu

(2008), Khi ta hát (2010), Bóng mình (2011), Cứ tự nhiên phát sáng (2013),

Những vì sao bầu bạn (2014); đã có thơ in trong 15 Tuyển tập thơ Việt Nam,

trong đó có những tập tiêu biểu như Ngàn năm thơ Việt, Thơ Việt Nam thế kỷ

XX, Hồ Chí Minh hợp tuyển thơ, Nguyễn Trãi tổng tập thơ, Ngàn năm

thương nhớ, Nước non một dải, Nửa thế kỷ thơ, Biển gọi…

78

- Về ký: Đã có 11 tập ký được xuất bản, trong đó có những tập gây

được sự chú ý như Đất nước ngàn năm (5 tập in chung), NXB Kim Đồng,

Quảng Ninh miền đất những trầm tích, NXB Trẻ, Vịnh Hạ Long hành trình

một kỳ quan, NXB Hội Nhà văn, với lượng phát hành lên đến vài vạn bản …

- Tiểu thuyết: Chân trời ám ảnh, NXB Hội Nhà văn; Âm vang

dòng sông, NXB Văn học; Cứu cánh, NXB Văn học.

Giải thưởng: Giải Nhất (chùm thơ) cuộc vận động sáng tác văn

học về đề tài Tự hào Than - Khoáng sản Việt Nam do Hội Nhà văn Việt

Nam và Tập đoàn Than - Khoáng sản tổ chức nhân kỷ niệm 80 năm Ngày

Hội Truyền thống công nhân mỏ (1936 - 2016). Giải Ba (mười bài thơ) tham

gia cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài Giao thông vận tải do Hội Nhà

văn Việt Nam và Bộ Giao thông vận tổ chức nhân kỷ niệm 70 năm Ngày

Truyền thống Giao thông vận tải Việt Nam (28/8/1945 - 28/8/2015). Giải Ba

(chùm thơ) tham gia cuộc vận động sáng tác văn học đề tài Than - Khoáng

sản Việt Nam do Hội Nhà văn Việt Nam và Tập đoàn Than - Khoáng sản

Việt Nam tổ chức nhân kỷ niệm 75 năm Truyền thống công nhân mỏ (1936 -

2011). Giải Khuyến khích Chọn 100 câu thơ hay do báo Văn Nghệ tổ chức

và 10 được tặng Giải thưởng về thơ ở Quảng Ninh, trong đó có 2 giải Nhất.

Thi Sảnh bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng sáng tác

thơ. Thơ đối với anh là chỗ dựa, là mạch sống, là thước đo tâm hồn của mình

trước cuộc sống muôn màu, theo anh suốt những năm dài công tác. Với một

giọng thơ tài hoa, hồn hậu, thấm đẫm nỗi buồn chiến tranh, đạn bom, chia

cắt, ly tán nhưng đằm thắm, ân tình. Trong Lời tựa viết cho tập Cõi thiêng,

nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã nhận xét về thơ Thi Sảnh như sau: “Có thể

nói, Thi Sảnh là người chép hồn mình bằng thơ. Và từ cuốn sử tâm hồn riêng

lẻ ấy, ta nhận ra một thời anh đang sống. Có thể nói, Thi Sảnh là người yêu

cuộc sống mà trở thành thi sĩ”.

Rồi do yêu cầu công tác, anh viết nhiều tập ký giới thiệu lịch sử,

những nét đặc sắc danh lam thắng cảnh Quảng Ninh như Hạ Long, Yên Tử,

góp nhiều công sức và tư liệu cho những điạ chỉ này được công nhận là

thắng cảnh quốc gia và quốc tế.

Ngỡ là công thành danh toại, vậy mà cuối đời anh bắt tay vào

viết cuốn tiểu thuyết Âm vang dòng sông (Nxb Văn học, 2016, 550 trang)

viết về một địa bàn rất xa nơi anh đang sống và công tác hơn nửa thế kỷ qua.

Dòng sông ám ảnh và âm vang đó là là sông Hiền Lương, nơi từng là ranh

giới thực tế chia cắt đất nước 21 năm ròng. Dòng sông chảy qua quê gốc của

79

anh và đắng lòng hơn là gia đình anh ở phía Nam, nằm dưới sự kiểm soát

của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Đó là những năm tháng mà những

người yêu nước tham gia kháng chiến cũ bị bắt bớ, giam cầm, truy bức, tàn

sát. Nhà văn, nhà phê bình Ngô Thảo trong bài Nặng tình với dòng sông

(Tạp chí Cửa Việt, số 271) giới thiệu nội dung cuốn tiểu thuyết như sau:

“ Bằng kỹ năng của một nhà Sử học, tiểu thuyết viết như một

cuốn sử biên niên ghi chép lại theo tuyến tính thời gian những sự kiện xảy ra

trên một vùng đất hẹp làng Cẩm là địa bàn chính. Hứng chịu những biến

động lớn diễn ra trên đất nước 50 năm giữa thế kỷ XX, cái làng quê có lịch

sử lâu đời, vốn bình yên đó bị cuốn vào vòng xoáy phân tranh không chỉ

quyền lực, quyền lợi trước mắt, mà còn vì đó là tuyến đầu đối diện với miền

Bắc. Trai tráng hai phe thì đã vậy, mà vợ chồng, con cái, người già, trẻ con,

các quan hệ dòng tộc, thông gia bị cuốn vào vòng chiến rối rắm, bức xúc, sự

tin cậy an lành bị biến mất, chỉ còn âm mưu rình rập, truy đuổi và tận diệt.

Ông Tác thuộc trong số may mắn sống sót để có ngày trở về vì được tỏ chức

cho thoát ly địa phương vào đúng thời điểm ác liệt. Được ra Vĩnh Linh ở

phía Bắc, được phân công công tác mới, nhưng chặng đời hoạt động ở quê

nhà vẫn đeo bám ông trên nhiều phương diện. Biết ông chỉ huy công trường

làm con đê ngăn mặn cho cánh đồng Bắc Hiền Lương, kẻ địch bắc loa bịa

đặt nói xấu ông nhiều chuyện để làm mất uy tín và niềm in của tổ chức. Số

phận và đường đời những đồng chí, những người gần gũi, ruột thịt dệt nên

bức tranh sống động của một làng quê, hòa trong dòng chảy của đất nước

mấy mươi năm chia cắt và chiến tranh, có rất ít niềm vui, mà nhiều hơn là

mất mát, đau thương, chia ly, thù hận và cả niềm hối hận. Chiến tranh đẩy họ

dạt về hai phía, chạy vào Nam, bám trụ quê làng, tản cư ra Bắc với nhiều ngã

lối, thời điểm khác nhau…”

Mấy chục năm chiến tranh, cả nước đều từng là mặt trận. Nhưng

chắc chắn không có một vùng quê nào đi vào văn học nghệ thuật kháng

chiến nhiều như Quảng Trị. Cùng với các tác giả có tiểu thuyết tên tuổi khác

viết về Quảng Trị như Thu Bồn, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân

Đức… Âm vang dòng sông của Thi Sảnh vừa mới xuất bản góp phằn làm

giàu thêm kho tàng kỹ ức chiến tranh trên quê hương Quảng Trị anh hùng.

- Lê Thị Mây, tên khai sinh: Phạm Thị Tuyết Bông. Sinh năm

1949, quê làng An Mô, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Bút danh khác:

Phạm Tuyết Hoa. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1982).

Học hết phổ thông, tham gia Thanh niên xung phong chống Mỹ.

Học lớp bồi dưỡng viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam khóa 6 (1973-

80

1974). Học Trường viết văn Nguyễn Du khóa I (1979-1982). Cử nhân báo

chí. Nhiều năm làm báo và làm biên tập văn học của tạp chí Sông Hương.

Phó Tổng biên tập tạp chí Văn hóa Quảng Trị, Tổng biên tập tạp chí Cửa

Việt. Chuyên viên cao cấp Ban Tư tưởng Văn hóa TW, hiện nghỉ hưu tại Hà

Nội.

Tác phẩm đã xuất bản: Dịu dàng (thơ, 1987); Một mình (thơ,

1990); Tuổi mười ba (thơ, 1990); Tặng riêng một người (thơ, 1990); Du ca

cây lưu tình (thơ, 1996); Giấc mơ thiếu phụ (thơ, 1996); Khúc hát buổi tối

(thơ, 1999); Thời trẻ của anh (thơ, 2001); Lửa mùa hong áo (trường ca,

2003); Thơ Lê Thị Mây (2003); Những mùa trăng chờ (tuyển thơ chọc lọc,

2002); Tình yêu dài suốt cuộc đời (tuyển thơ chọn lọc, 2004); Thương nhớ

một ngày (thơ, 2006); Tự khúc ánh sáng (thơ, 2006); Trăng trên cát (truyện

ngắn, 1987); Mưa ngâu (bút ký, 1994); Phố còn hoa cưới (tập truyện, 1992);

Bìa cây gió thắm (tập truyện, 2000); Bến bờ hạnh phúc (thơ, 2008); Thơ và

trường ca Lê Thị Mây (2009).

Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm

1990, tập thơ Tặng riêng một người. Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt

Nam năm 1998, truyện

dài Huyết ngọc. Tặng thưởng Bộ Quốc phòng năm 2000, tập truyện

Bìa cây gió thắm. Giải B Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội Văn học Nghệ

thuật Việt Nam năm 2003, trường ca Lửa mùa hong áo. Giải thưởng Nhà

nước năm 2012.

Con đường thơ của Lê Thị Mây khá nhọc nhằn. Những tác phẩm

đầu tiên ấy của chị là tiếng nói phản ánh cuộc sống của những gương mặt

non trẻ là nam nữ thanh niên xung phong, những đồng đội cùng chị ngày

đêm bám trụ. Đó là mồ hôi nước mắt và những cái chết đau thương của

những “người lính không cầm súng” trên những công trường trọng điểm. Vì

thế thơ chị là tiếng lòng sâu lắng, trữ tình, đằm thắm, không khách sáo ồn ào;

là niềm vui ngọt ngào được chắt lọc qua cuộc đời của chị và được thoát ra từ

trái tim nữ tính nhân hậu. Đúng như tâm sự của chị, “Thơ là nỗi buồn thầm

kín của tôi, đã cất tiếng khóc khi còn lại một mình”.

Nhận định về thi pháp của Lê Thị Mây, nhà thơ Vũ Quần Phương

viết: “thơ chị thiên về khái quát... chị miêu tả con cá ngủ lơ mơ rất ít chi tiết

của tín hiệu thứ nhất (hình ảnh cụ thể, ở đây là mềm mại) và chuyển nhanh

sang khái niệm (tín hiệu thứ hai) không còn hình ảnh mà chỉ còn bản chất sự

vật. Vì vậy con cá được ví với cái đinh vốn không mềm mại chút nào, không

81

có gì giống con cá sinh động đang bơi dưới nước cả... Lê Thị Mây tâm đắc

với loại thơ mà mọi chất liệu cụ thể chỉ là cái cớ, cái phương tiện. Ngay cả

những vấn đề xã hội chính trị cũng phải dẫn đến những niềm sâu kín thuộc

vào phần vĩnh cửu của tâm hồn con người...”.

Khi tái bản Những mùa trăng mong chờ, nhà thơ Hoàng Cát có

thêm nhận xét: “Thơ Lê Thị Mây không chi tiết về chiến tranh, không chi tiết

về người mẹ, về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước - hầu như Lê

Thị Mây chạm tới mọi đề tài, mọi nỗi niềm mà mỗi người bình thường

chúng ta hằng quan tâm thường trực trong lòng. Và ở đề tài nào, thơ chị cũng

có những mặt rất được... Thơ chị giàu tâm trạng, với một phong cách ngôn

ngữ thơ không giống nhiều người khác, nghiêng về gợi mở hơn là biểu cảm

trực diện, cụ thể trong từng câu chữ, trong từng chi tiết”…

Thiết nghĩ, đó chính là những đóng góp xứng đáng của chị cho

nền thơ Việt hiện đại về mặt bút pháp và giọng điệu.

- Tạ Nghi Lễ (1951-2008). Tên khai sinh: Tạ Lễ. Quê làng Lâm

Xuân, xã Gio Mai, huyện Gio Linh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997).

Cựu học sinh Nguyễn Hoàng, theo học trường Đại học Luật

khoa, Văn khoa ở Huế năm 1970-1972, Trường Quốc gia hành chánh Sài

Gòn năm 1973-1975. Sinh sống ở Trảng Bom I, Đồng Nai từ năm 1975-

1996.

Tác phẩm chính:

Các tập truyện: Yêu một người làm thơ (1990, 1993, 1996); Nàng

Hải Sư và tôi (1992, 1998); Những mãnh đời khác nhau (1994, 1995); Một

ngày của một nhà văn (1997).

Thơ: Những khoảng trời trong sáng (1995); Quê mình (2004).

Kịch bản phim: Đi qua lời nguyền (1997); Ngày về (1999).

Sinh thời, nhà thơ Tạ Nghi Lễ tâm niệm về nghề như sau: “Dù

bây giờ văn hóa đọc lùi lại phía sau để nhường cho văn hóa nghe nhìn lên

ngôi nhưng tôi vẫn viết. Vì chữ nghĩa trong các trang văn, trang thơ là của

chính mình. Người đọc bây giờ ít hơn nhưng không vì thế mà không viết.

Tôi còn nợ với quê hương, đồng bào, bạn bè, anh em nhiều lắm. Phải trải

lòng ra mà viết”.

Là nguyện ước chân thành từ tốn nhưng trời đã không chiều lòng

nhà thơ. Anh đã từ biệt cõi đời ở tuổi 57 sau một cơn tai biến.

82

- Châu La Việt, bút danh khác: Triệu Phong, Trương Nguyên

Việt. Sinh năm 1952, quê nội ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu

Phong; quê ngoại ở làng Mai Xá, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, Quảng Trị.

Vào hội Nhà văn Việt Nam năm 2015.

Ông là con trai đầu của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và NSƯT Tân

Nhân, nữ danh ca nổi tiếng với bài hát Xa khơi ngày đất nước còn chia cắt

hai miền. Châu La Việt có cuộc đời mà bi kịch thân phận chính là bi kịch của

đất nước ngày Bắc Nam đôi ngả. Mẹ anh mang bầu anh với nhạc sĩ Hoàng

Thi Thơ khi ông đã vào Sài Gòn. Trên miền Bắc, anh lớn lên trong vòng tay

người mẹ và cha dượng là nhà báo, nhà hoạt động cách mạng Lê Khánh Căn,

nguyên thư ký của đồng chí Tố Hữu (từ nhỏ ông sống với mẹ với tên khai

sinh là Lê Khánh Hoài; gần đây có thêm tên mới lấy họ nội là Hoàng Hữu

Thi Hoài).... Năm 17 tuổi đã làm đơn tình nguyện ra trận, nguyên là bộ đội

Trường Sơn và mặt trận Lào góp phần vào việc rút ngắn ngày Bắc Nam sum

họp.

Thừa hưởng dòng máu nghệ sĩ của cha mẹ, Châu La Việt đam mê

nghệ thuật từ lúc ấy. Còn nhớ những năm đầu thập kỷ 70 thế kỷ XX, vở “

Người mẹ trường Sơn” của Trương Nguyên Việt gây tiếng vang bởi tình

cảm của tác giả dồn nén vào vở kịch chính là tình mẫu tử giữa người mẹ ca

sĩ và đứa con là người lính trẻ có lúc lỗi lầm. Trước đó, anh từng có những

vở kịch “Tình em trao anh”, “Mạch ngầm” viết về đề tài chiến tranh... Rời

quân ngũ, anh đi làm báo, nhiều năm làm ở báo Thanh Niên, Thanh Niên -

Thời đại, Văn nghệ Trẻ, rong ruổi từ Nam ra Bắc... Nhưng hình như cuộc đời

với quá nhiều biến cố và sự kiện ấy đã mách bảo anh đi tìm một lối sống

riêng, lối sống ẩn mình giữa ồn ào náo động và dồn hết tâm huyết vào những

trang văn. Tuy muộn mằn nhưng hình như anh đã chắt máu tim mình ra

thành chữ!

Tác phẩm đã xuất bản: Những bạn trẻ của tôi (Nxb Quân Đội);

Chiếc khăn màu lửa cháy (Nxb Trẻ.TPHCM); Ngọc Tân - ngày biển gọi

(Chủ biên - Nxb Văn hóa Thông Tin); 5 bài thơ và 5 chuyện kể về người

lính (Nxb Lao Động); Nơi không có mùa đông (Nxb Lao Động); Mai Pi

Muôn - Thơ, Truyện (Nxb Văn học) .

Nói như nhà thơ Hữu Thỉnh thì “Châu La Việt cầm bút từ khá

sớm, mặc áo lính càng sớm hơn. Những năm tháng ở chiến trường, anh đã tự

thể nghiệm ở khá nhiều thể loại, nhưng say đắm nhất là thơ. Với thế hệ cầm

bút của tôi, cái tên Châu La Việt đã trở nên khá thân thuộc từ những năm

chống Mỹ. Với Châu La Việt, thơ với đời, đời với thơ là sự kết hợp nhuần

83

nhuyễn giữa văn chương và đời lính, hiện thực và mộng mơ…”. Và bây giờ

với “5 bài thơ và 5 chuyện kể về người lính” là dấu ấn đẹp đẽ và tinh khôi về

một chặng đời không bao giờ phai của Châu La Việt. Lấp lánh phía sau trang

chữ là một cuộc đời lính, một tâm hồn lính, một tính cách lính với những

rung động nội tâm sâu đằm và thuần phác. Đó là một thứ của tin mà tác giả

đã gặt hái được qua những năm tháng đẹp nhất của đời mình”.

Nhà văn Đỗ Chu cũng đã đã có những dự báo sâu sắc rằng, “Con

nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Châu La Việt đúng là con nhà

nòi. Đã mang trong mình nết thư hương thì không thể khác được. Tôi hình

dung sắp đến với anh sẽ là những năm tháng nhiều vất vả, kiêu hãnh. Nếu

đợi sự dễ dàng thì đã chả chọn lối đi (viết văn) này. Hãy viết như mẹ anh đã

từng hát. Ngậm từng chữ, nhả từng câu, đau như lòng tằm và qúy phái như

tấm lụa tơ tằm...".

- Cao Hạnh (1953-2017). Quê làng Linh Hải, xã Vĩnh Thủy,

huyện Vĩnh Linh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2001).

Từ năm 1960-1973 học hết bậc phổ thông; rồi lao động ở Hợp tác

xã. 1974-1977 học lớp đạo diễn trường trung cấp Lý luận nghiệp vụ Bộ Văn

hóa. Cuối 1977-1989, cán bộ ở phòng Văn hóa thông tin huyện Bến Hải, giữ

chức vụ Phó Giám đốc nhà Văn hóa thông tin, Giám đốc Trung tâm Văn hóa

thông tin huyện. Năm 1989-1992 là Phó phòng VHTT kiêm Giám đốc Trung

tâm Văn hóa thông tin huyện Vĩnh Linh. Từ năm 1993 chuyển công tác vào

Đông Hà, lần lượt giữ các chức vụ: Phó phòng Nghiệp vụ Sở Văn hóa thông

tin Quảng Trị từ năm 1993-1995. Phó Giám đốc Trung tâm văn hóa Quảng

Trị từ năm 1995-1996. Phó Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt. Phó Chủ tịch

Thường trực Hội VHNT Quảng Trị kiêm Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt từ

năm 1997 đến lúc nghỉ hưu năm 2014.

Tác phẩm đã xuất bản: Bồ câu xám (truyện ngắn, 2008); Huyền

thoại tình yêu (truyện ngắn, 2008); Vú cát (truyện ngắn, 2009); Giấc mơ màu

cỏ (tập thơ, 2010).

Giải thưởng văn học: Giải nhất kịch ngắn toàn quốc năm 2005.

Giải nhì cuộc thi truyện ngắn tạp chí Xứ Thanh. Giải thưởng Chế Lan Viên

năm 2015 (Giải C, chuyên ngành Sân khấu).

Khởi nghiệp văn chương bằng sự đam mê, Cao Hạnh đã khẳng

định mình trên nhiều lĩnh vực: sáng tác kịch bản sân khấu, đạo diễn sân

khấu, viết truyện ngắn, làm thơ... Lĩnh vực nào Cao Hạnh cũng gặt hái được

84

nhiều thành công, để lại những dấu ấn, những thành công đáng kể. Ở đâu

cũng bắt gặp cái tình đời, tình người và sự xáo trộn những chuẩn mực xã hội

trong nhiều trang viết của ông.

“Vú cát” là tập truyện ngắn được bạn đọc và bạn viết đánh giá

cao, có thể xem là tác phẩm đỉnh cao của nhà văn Cao Hạnh (tập truyện ngắn

lọt vào vòng chung khảo của giải thưởng Hội Nhà văn năm 2008). Phần lớn

nhân vật trung tâm trong “Vú cát” là những phụ nữ bất hạnh, có cuộc sống

khắc nghiệt, chứa đầy nghịch lý vừa thực vừa ảo. Đó là nỗi đau về thể xác và

tinh thần của bà mẹ có hai đứa con ở hai chiến tuyến tạo nên tấn bi kịch đầy

lòng trắc ẩn của người mẹ (Vú cát). Tương tự những câu văn đẹp, những chi

tiết đắt, những dụng từ lạ và những tình huống bất ngờ làm người đọc giật

mình, xót xa thay cho số phận những người phụ nữ trong Sự tích chùa Trinh

nữ, Người đàn bà lội sương, Chiếc khăn che mặt… và nhiều truyện ngắn viết

về thời hậu chiến như Năm cây hoa gạo, Người thắp hương trên cánh diều...

thực sự ám ảnh người đọc.

Có người thích Cao Hạnh nhà thơ hơn nhà văn bởi ông có những

câu thơ ghim vào lòng người đọc bằng những hình ảnh đẹp đến ngỡ ngàng:

Hàng ngày mặt trời bay lên

theo nhát cuốc của cha tôi

Những buổi sớm kéo bình minh vào đất

mẹ đi cấy khảm buồn vui vào nước

Bao xuân xanh rút xuống để nuôi đồng.

Hay:

Tôi con người xứ cỏ

Giấc mơ nào cũng xót quê hương...

Mai tôi chết hãy đưa tôi về đó

Để được gần bên mẹ cha tôi

Cho tôi xin làng nhát cỏ làng ơi...

Có lẽ cái khốn khó của đời sống trên mảnh đất gió Lào cát trắng

đã tôi luyện nên những con người gồng mình lên để sống. Nhà văn chắt chiu

từng con chữ để làm nên trang văn như cái cây trên cát cũng dốc mình xanh

cho đời. Điều đó khiến chúng ta hiểu thêm về những nổ lực của nhà văn

85

trong những tháng ngày ốm đau bệnh tật cuối đời vẫn dốc sức cho cuốn tiểu

thuyết “Đôi bờ lau trắng”. Cuốn tiểu thuyết mà Cao Hạnh dồn tâm huyết của

cả đời viết về chiến tranh cách mạng ngay tại quê nhà vẫn còn dang dở. Và

những suy nghĩ về nghề hết sức khiêm tốn ghi trong Kỷ yếu Hội nhà văn

Việt Nam: “Trước lúc làm văn tôi làm rất nhiều nghề. Những nghề đó càng

làm tôi càng thấy mình có tài, riêng nghề văn càng làm tôi càng thấy mình

Vô tài”.

- Văn Xương, sinh năm 1959. Tên khai sinh: Nguyễn Văn Bốn.

Quê ở thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh. Hội viên Hội

Nhà văn Việt Nam (2008).

Tốt nghiệp bằng Cử nhân kinh tế. Nhiều năm công tác tại Văn

phòng UBND tỉnh Quảng Trị, hiện đang giữ chức vụ Chánh Văn phòng. Hội

viên hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị năm 1999. Có nhiều bài viết được

đăng tải trên các Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Cửa Việt, Non Nước, Nhật Lệ,

Ninh Bình, Bắc Cạn và nhiều tác phẩm được các báo, tạp chí trung ương và

địa phương đăng tải.

Tác phẩm đã xuất bản: Hoa gạo đỏ bên sông (tập truyện ngắn,

2006); Hồn trầm (tập truyện ngắn, 2008).

Giải thưởng văn học: Giải ba cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Cửa

Việt, năm 2004-2005. Giải B Văn học Nghệ thuật Quảng Trị 2006. Giải B

Văn học nghệ thuật Quảng Trị 2009.

Văn Xương (Nguyễn Văn Bốn) là con người của công việc,

không có nhiều thời gian đầu tư cho “nghiệp văn” nhưng rất nghiêm túc với

nghề. Trong cuốn “Nhà văn Việt nam hiện đại” (NXB Hội Nhà văn, 2010)

anh tâm sự về nghề văn như sau:

“Nghề văn là nghề mà người viết văn phải chấp nhận dấn thân

trên con đường đầy chông gai, nghiệt ngã. Ở đó chất chứa biết bao niềm vui,

nỗi buồn, thành công và thất bại. Là cuộc vật lộn, lao động miệt mài, nhiệt

huyết, thực sự của trí não và thể xác. Nghề phải đọc, phải học, phải trau dồi,

rèn luyện suốt đời; và phải luôn khát vọng vươn tới đích giá trị Chân - Thiện

- Mỹ”.

Sự nghiệp văn chương của Văn Xương còn dài, tất cả có thể nói,

đang còn ở phía trước.

86

- Phan Thị Vàng Anh, sinh năm 1968. Quê ở huyện Cam Lộ,

tỉnh Quảng Trị. Hiện sống ở Tp. Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn Việt

Nam (1996).

Là con gái nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Vũ Thị Thường. Tốt

nghiệp Đại học Y khoa thành phố Hồ Chí Minh năm 1993. Là cây bút mà

ngay từ những tác phẩm đầu tay đã thể hiện một phong cách riêng, được bạn

đọc hâm mộ. Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VII

(2005-2010), Trưởng ban Nhà văn trẻ, Trưởng Ban Nhà văn nữ.

Tác phẩm đã xuất bản: Khi người ta trẻ (tập truyện, 1993); Ở nhà

(truyện vừa, 1994); Hội chợ (tập truyện, 1995); Nhân trường hợp chị thỏ

bông (tản văn, 2004); Gửi VB (thơ, 2006).

Giải thưởng văn học: Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam

năm 1994 cho tập truyện Khi người ta trẻ.

Phan Thị Vàng Anh từng là “hiện tượng” là cây bút nữ xuất sắc

trên văn đàn cả nước khi còn rất trẻ. Vài năm trở lại đây ít thấy chị công bố

tác phẩm nhưng sự nghiệp văn chương của chị có thể nói đang còn ở phía

trước.

- Trần Thanh Hà, sinh năm 1971. Bút danh: Mai Hạ. Quê Vĩnh

Linh, Quảng Trị. Hiện thường trú tại Tp. Hồ chí Minh. Hội viên Hội Nhà

văn Việt Nam (1999).

Tốt nghiệp Đại học sư phạm Huế năm 1992. Dạy học. Thạc sĩ

văn học. Biên tập viên NXB Công an nhân dân. Viết văn từ 1993.

Tác phẩm đã xuất bản: Gió của mùa sau (tập truyện ngắn); Ơi đò

Ca Cút (tập truyện ngắn); Biển hồ lai láng (tập truyện ngắn); Mỏ hồ quyến

rủ (tập truyện ngắn); Đường về thành phố (truyện ký).

Giải thưởng văn học: Giải A cuộc vận động sáng tác văn học cho

tuổi trẻ của NXB Thanh Niên 1994-1996. Giải nhất cuộc thi truyện ngắn tạp

chí Văn nghệ quân đội 1996. Giải ba cuộc thi tiểu thuyết và ký về đề tài “Vì

bình yên cuộc sống” của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam (1999-

2002); Giải C Giải thưởng văn học 10 năm lần thứ 2 (1995-2005) của Bộ

Công an.

Trần Thanh Hà từng là “hiện tượng” nhà văn trẻ, cây bút nữ viết

truyện ngắn xuất sắc trên văn đàn cả nước những năm 1995-2005 với nhiều

giải thưởng danh giá. Mười năm trở lại đây, Trần Thanh Hà gần như “ở ẩn”,

87

ít thấy chị công bố tác phẩm. Sự nghiệp văn chương của Trần Thanh Hà vì

vậy có thể nói là còn dài, đang còn ở phía trước.

Sau năm 1975, Quảng Trị không còn sự chia cắt thì có chủ

trương nhập tỉnh, hoà nhập vào tỉnh lớn Bình Trị Thiên của một nước Việt

Nam cho đến năm 1989. Xét về yêu cầu xây dựng một đời sống văn học

riêng của Quảng Trị thì đó là một điều bất lợi. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có

một đời sống văn học Quảng Trị khá phong phú trong đời sống văn học Bình

Trị Thiên cũng như trong đời sống văn học chung của cả nước. Làm nên đời

sống văn học Quảng Trị sau 1975, trước hết là những sáng tác của các tác giả

quê hương Quảng Trị mà chủ yếu là thế hệ nhà văn xuất hiện và trưởng

thành ở cuối thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tiêu biểu cho thế hệ này là:

Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Đức, Ngô Thảo, Lê Thị Mây, Tạ Nghi Lễ...

Trong các nhà văn này có người sống và viết trên quê hương, nhưng cũng có

người sống và công tác ở các địa bàn khác. Nét chung của thế hệ nhà văn này

là họ có nhiều tài năng, năng lực sáng tạo. Đội ngũ tuy mỏng song các nhà

văn này vẫn tạo ra được một bộ mặt văn học phong phú, đa dạng và hấp dẫn.

Đáng chú ý là sau ngày thành lập lại tỉnh, trong vòng một phần tư thế

kỷ đất nước và quê nhà đổi mới đã hình thành nên một đội ngũ viết văn làm

thơ đông đảo đang sinh sống trên địa bàn tỉnh và các vùng miền trên cả

nước. Sáng tác của họ chiếm một phần quan trọng trên các tờ báo của tỉnh và

trung ương có nội dung phản ánh trực tiếp nhiều mặt đời sống nhân dân

Quảng Trị. Họ khá đông đảo, sung sức, trẻ. Nhiều gương mặt đã khẳng định

được sở trường, tài năng. Thơ có khá nhiều gương mặt tiêu biểu như Phan

Văn Quang, Võ văn Luyến, Hoài Quang Phương, Từ Dạ Thảo, Phan Bùi Bảo

Thi, Trần Xuân An, Nguyễn Văn Dùng, Đức Tiên, Trần Đình Thành... và

gần 20 tác giả thơ khác đã xuất bản từ hai đến ba tập thơ đang sinh hoạt

trong Hội VHNT Quảng Trị. Chưa kể một số tác giả đã mất như Hồ Chư,

Nguyễn Tiến Đạt, Hàn Nguyệt hoặc Nguyễn Hữu Quý chuyển ra Hà Nội...

Về văn xuôi, mạnh nhất là đội ngũ viết ký, ký văn học lẫn ký báo chí. Những

tác giả viết ký tiếp bước được các thế hệ đàn anh như Y Thi, Lê Đức Dục,

Đào Tâm Thanh, Lâm Chí Công, Nguyễn Hoàn, Đinh Như Hoan, Lê Xuân

Lãm, Nguyễn Bội Nhiên, Ngô Nguyên Phước, Lê Nguyên Hồng... Truyện

ngắn có các tác giả tiêu biểu như Thái Đào, Hàn Vũ Hùng (đã mất), Hàn

Nguyệt (đã mất), Phạm Xuân Hùng, Hoàng Hải Lâm, Hoàng Công Danh,

Nguyễn Ngọc Chiến, Diệu Ái, Đặng Nguyên Sơn, Ngô Diệu Hằng... và

nhiều tác giả truyện ngắn khác đang sinh hoạt trong hội Văn học nghệ thuật

88

tỉnh. Họ là những gương mặt đã định hình hoặc mới xuất hiện, trong số họ đã

có những người đạt đến mặt bằng chung của cả nước và hiện tại họ đang là

lực lượng chủ chốt của văn học tỉnh nhà.

Như vậy, văn học Quảng Trị từ sau ngày đất nước đổi mới đang ở

thời kỳ định hình và phát triển. Những thành công và những dấu hiệu khởi

sắc cho phép chúng ta tin nó sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian

tới.

2- NGHỆ THUẬT

2.1- Nghệ thuật dân gian của người Kinh

Có nhiều cách phân loại về nghệ thuật ngữ văn dân gian. Hiện

nhiều nhà nghiên cứu Folclor đang xếp các loại hình truyện kể dân gian, các

loại hình diễn xướng dân ca và diễn xướng dân gian nửa sân khấu được xếp

vào trong phạm trù nghệ thuật ngữ văn dân gian. Các loại hình truyện kể dân

gian chúng tôi đã trình bày (ở đầu chương XVIII, mục 1.1), nay tiếp tục các

loại hình diễn xướng dân ca và diễn xướng dân gian nửa sân khấu.

Dân ca Việt Nam nói chung, miền Trung và Quảng Trị nói riêng

rất phong phú, đa dạng, nổi trội nhất là tính chất vùng miền, sắc thái địa

phương. Tùy theo tập quán sinh hoạt, giọng nói mà nhạc tính từng vùng mà

có sự khác biệt, song nhìn chung, nó vẫn là những bài hát sinh ra từ những

làng quê mộc mạc, giản dị. Tất cả những bài ca do giới bình dân sáng tác

(không thuộc dòng nhạc cung đình, thính phòng, tôn giáo) truyền khẩu, diễn

xướng từ thế hệ này sang thế hệ khác dính liền với đời sống hàng ngày của

người dân quê, từ hát ru đến đồng dao, nhất là các loại hát nảy nở trong lao

động lao động sản xuất và trong lễ hội được xếp vào loại hình dân ca.

Các loại hình diễn xướng (dân ca và nửa sân khấu) nói chung là

những khúc hát được hình thành trong quá trình thực hành xã hội của mỗi

con người, mỗi cộng đồng bằng phương thức sáng tác tại chỗ, kẻ hô, người

ứng mà thành. So với các loại hình tự sự, các loại hình diễn xướng dân gian

gắn chặt hơn rất nhiều với đời sống lao động sản xuất, với giao tiếp và vui

chơi, với các lễ nghi diễn ra trong đời sống cộng đồng và mỗi thành viên

trong cộng đồng dân cư. Ca hát, diễn xướng dân gian dường như được nảy

nở xuất thần và giao lưu tại chỗ giữa người với người, giữa người với thế

giới tự nhiên, vừa quen, vừa lạ nhưng cởi mở, chân thành, phóng khoáng.

Có thể nói trước những năm 1945, Quảng Trị là xứ sở đàn hát

dân ca, của những nghệ sĩ dân gian chân lấm tay bùn. Khi mà trình độ dân trí

chưa cao, các phương tiện truyền thông chưa có gì thì các sinh hoạt diễn

89

xướng dân ca và sân khấu dân gian rất được ái mộ. Người ta kể vào mùa cấy,

trên những cánh đồng Quảng Trị có không biết cơ man nào là “bạn cấy” đổi

công. Trong mỗi bạn cấy chừng hai chục con người thế nào cũng có vài ba

nghệ nhân có tài hò xuất sắc. Một người xướng, có nhiều người xô. Toàn bộ

thi tứ của buổi hò này sang buổi hò khác trên đồng ruộng được buông bắt,

đối đáp sống động hồn nhiên, chất phác đi liền với ca từ hơn là với dàn nhạc

và nhạc khí. Từ bạn cấy, bạn gặt đến hò xay lúa, hò giã gạo, hò nện, hò kéo

gỗ, hò sông nước mái nhì, mái đẩy… nhiều cặp trai gái gặp nhau, thử tài

nhau rồi mến phục nhau trở thành đôi lứa.

Dân ca nói chung được trình bày theo trình tự một đời người.

Nghĩa là bắt đầu bằng các bài hát ru em khi đứa trẻ chào đời đến khi trưởng

thành và chết đi, sẽ có những bài hát liên hệ đến từng giai đoạn của một đời

người.

Như đã nói ở trên, so với các loại hình tự sự, các loại hình diễn

xướng dân ca và nửa sân khấu ở Quảng Trị gắn chặt với sinh hoạt sản xuất,

với nếp giao tiếp và vui chơi, với lễ nghi diễn ra trong các thời điểm đặc biệt

của sinh hoạt cộng đồng. Nếu tạm bằng lòng với một hệ thống phân loại có

tính chất bao quát và tương đối, có thể xếp các loại hình diễn xướng dân gian

người Việt Quảng Trị thành 2 cụm, đó là: 1- Các dạng sinh hoạt diễn xướng

dân ca; 2- Các dạng diễn xướng có tính chất nửa sân khấu gắn với các sinh

hoạt lễ nghi. Cả hai dạng sinh hoạt diễn xướng nói trên đều thuộc phạm trù

nghệ thuật biểu hiện, triển khai chủ yếu theo chiều thời gian, trong đó ngôn

ngữ đóng vai trò thông báo, truyền cảm và giao lưu là chủ yếu. Ngoài ra còn

có các nhân tố quan trọng khác trong diễn xướng dân gian như thang âm,

điệu thức, các trình thức điệu bộ, các cách thức phối hợp đối/đáp, xướng/xô,

đố/giải, gài/gỡ v.v…

2.1.1- Các loại hình diễn xướng dân ca:

Để có một cái nhìn tổng quát, có thể kể ra ba loại hình diễn

xướng chủ yếu của người Việt Quảng Trị, đó là Hát, Hò và Lý.

2.1.1.1- Về hát: Về hát có các loại hát ru con, hát đồng dao và

hát vè.

Hát ru con

Hát ru là điệu ru đầu đời của những người mẹ, người chị, của bà và

người thân dành cho con trẻ như một đòi hỏi tinh thần, nó cần cho trẻ như

những giọt sữa để thể xác và hình hài trẻ khôn lớn vậy. Thường đứa trẻ được

ôm bồng, nẫng nịu trực tiếp trong vòng tay có cả bầu vú mẹ, hoặc bềnh bồng

90

trong tiếng tao nôi, tiếng võng tre kẻo kẹt trưa hè. Ðó là một hình thức diễn

xướng dân gian trong một phạm vi hạn hẹp là gia đình, nhân rộng ra ở hầu

khắp các gia đình thành ra tài sản của mỗi vùng miền, mỗi dân tộc. Có hàng

trăm, hàng ngàn câu hát ru dựa trên lời ca dao. Người mẹ đã nhỏ từng giọt

tình thương và công đức của ông bà (một cách vô thức đối với trẻ nhưng đầy

ý thức với lớp anh chị nó, cũng đều là những tâm hồn và trí tuệ non nớt)

bằng một âm điệu yêu thương da diết với những lời ru mộc mạc "bên ướt mẹ

nằm, bên ráo con lăn"... Và không chỉ có vậy, mẹ ru về tình làng nghĩa làng

xóm, tình nghĩa vợ chồng, tình cảm đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước.

Cứ thế, lời ru "ủ mầm", lớn dần lên theo năm tháng để thành người.

Loại hát này ở miền Bắc được gọi là hát ru, miền Trung ru con, miền

Nam hát đưa em, ầu ơ ví dầu. Ở miền Bắc, hát ru dựa vào thang âm ngũ

cung (do-ré-fa-sol-la-do). Miền Trung sử dụng âm giai tứ cung (do-fa-sol-si-

do), và miền Nam thì chọn âm giai ngũ cung (do-mi-fa-la-do). Nhà nghiên

cứu âm nhạc Đặng Nguyễn có so sánh về hát ru con Quảng Trị: “Điệu ru của

đồng bằng Bắc Bộ với câu dẫn vào bài dài thuộc cung bắc, giai điệu sáng và

yên tĩnh, khởi đầu bằng những lưu từ à ơi… à ơi từ quãng 4 về quãng 3

xuống quãng 2 lên quãng 4 một cách tương đối đều đặn, thì hát ru Quảng Trị

hoàn toàn ngược lại. Hát ru Quảng Trị thuộc cung nam, khởi đầu giai điệu

bằng câu dẫn ngắn vút lên như ngưng đọng ở quãng 7 rồi trượt xuống quãng

2, âm nhạc nhanh chóng đưa người nghe nhập vào một nỗi buồn man mác”.

Về hình thức, một câu hát ru, một bài hát ru bao giờ cũng được mở

đầu bằng giai điệu với hai tiếng "À ơi...", " Ru em...", điển hình là "Ru hời...

ru hỡi... là ru...":

- À ơi... Ði mô đem thiếp đi cùng/ Ðói no thiếp chịu, lạnh lùng

thiếp theo...

- Chàng ơi phụ thiếp làm chi/ Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng/Ðói

lòng lên đôộng ăn sim/Xuống khe uống nước đi tìm người thương.

- Mẹ thương con ngồi cầu Ái Tử/Gái trông chồng đứng núi

Vọng Phu/Chiều chiều bóng xế trăng lu/Ve kêu mùa hạ mấy thu gặp chàng.

- Ru em, em théc (ngủ) cho muồi/Ðể mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu/Mua

vôi chợ Quán chợ Cầu/Mua cau Ðơn Duệ mua trầu chợ Do.

- Ru em cho tới nhà Hồ/Em mua trái mít, em bồ trái thơm/Trái thơm là

trái thơm non/Ðem về làm mắm, ăn chon (giòn) như dừa.

91

- Ru hời ru hỡi là ru.../Bên cạn thì chống, bên su thì chèo/Chắc

(mình) em vừa chống vừa chèo/Không ai tát nước đợ (đỡ) nghèo em ra.

- Gánh cực mà chạy lên non/Cong lưng mà chạy cực còn chạy theo…

- Chồng chèo vợ lại buông câu/Lân la sông Vịnh, nuôi nhau tháng

ngày v.v….

Bất kể dân tộc, vùng miền nào hát ru con cũng luôn là bài hát có chức

năng kép, ru cho trẻ ngủ và ru cho nỗi lòng của mẹ. Từ nổi vui buồn của

lòng mẹ/của người ru, những khúc hát ru (dựa trên ca dao) nhanh chóng

thẩm thấu, đưa người nghe nhập vào một nổi buồn man mác. Ở đó, nói như

nhà văn Xuân Ðức, giai điệu buồn, lời thơ buồn, không gian buồn, cái khối

buồn man mác ấy được cất lên nơi làng quê, ở đó có không gian hiu quạnh,

trầm mặc, có cuộc sống heo hút, ít giao lưu. Ở đó, tiết tấu đời sống chậm

chạp, tâm lí con người tế nhị, ứng xử xã hội lấy đạo lý làm gốc. Bởi nếu

không phải vậy thì không sao có được sự ngọt ngào êm dịu, man mác buồn

của điệu ru.

Hát đồng dao

Có người cho rằng hát ru và đồng dao là một thứ “sách giáo khoa” dễ

học mà thú vị, thấm thía nhất do trường đời cung cấp cho đứa trẻ từ khi còn

nằm nôi cho tới khi lớn dần lên háo hức muốn tìm biết vạn vật quanh mình.

Đồng dao là những khúc hát được sinh ra ngay trong khi trẻ thơ chơi các trò

chơi do chúng nghĩ ra. Nó dễ học, dễ chơi mà thú vị bởi những câu chữ

tưởng như ngô nghê, trò chơi đơn giản nhưng là những bài học đầu đời.

Cũng có khi đồng dao là những khúc hát do người lớn bày ra cho trẻ, nhưng

khi tiếp nhận ngay lập tức sẽ bị đồng hoá thành đồng dao của lứa tuổi thơ.

Ðồng dao thường đi kèm với các trò chơi dân gian. Về mặt âm nhạc,

những khúc hát đồng dao chỉ chú trọng đến nhịp điệu, tiết tấu có tính chu kỳ,

phù hợp với ngữ âm, thổ ngữ từng vùng. Do yếu tố mang tính đặc thù là thổ

âm/thổ ngữ này mà Quảng Trị có rất nhiều dạng hát đồng dao kèm trò chơi

khác nhau như Ðếm sao, Mèo cụt, mụt kèo, Cá đối, cối đá, Cam tươi, cươi

tau, Bằm măng, xắt măng... Ðơn cử 3 trò chơi từ dễ đến khó. Trò chơi 1: "Cá

đối, cối đá"; lời bài hát đồng dao như sau:

Một con cá đối, nằm trong cối đá

Hai con cá đối, nằm trong cối đá

Hai con cá đối, nằm trong cối đá

Ba con cá đối, nằm trong cối đá

92

Bốn...

Năm...

Những đứa trẻ đua nhau lấy hơi cho tốt, nói và hát mãi một bài đồng

dao 2 câu nói trên càng nhanh càng tốt, miễn nói cho tròn vành, rõ chữ,

không nhầm, không lắp, không ngọng nghịu là được. Ai đếm được nhiều

trong một hơi tròn vành, rõ chữ người đó thắng.

Trò chơi 2: "Ðụa mụ, đụa tui" (có nghĩa đũa bà, đũa tôi), có lời như

sau:

Ðụa mụ đụa tui

Ðụa mụ đầu mui

Ðụa tui đầu lái

Ðùa đi đùa lại

Cũng tại đụa tui...

Lời bài hát này chứa đựng 16/16 từ địa phương. Trò chơi yêu cầu

nói/hát nhanh nên rất khó phát âm, đứa trẻ không nhanh trí, thông minh rất

dễ nhầm lẫn và nói lắp. Ai nói được nhanh, dài mà không lắp, không ngọng,

không nhầm là người đó thắng.

Trò chơi thứ 3: "Trải chiếu". Lời bài hát đồng dao như sau:

Trải chiếu ra đôi ta nằm với

Ðôi ta không nằm lại cuốn chiếu đi

Lạy cha ba lạy một quỳ

Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng.

Trong trường hợp này người chơi ôm chiếc chiếu cuộn tròn, vừa hát

lời bài đồng dao nói trên vừa làm một loạt động tác trong lời: trải chiếu,

nằm, vùng dậy cuốn chiếu, quỳ lạy bố mẹ... Tất cả gói gọn trong một hơi,

nửa hơi thậm chí 1/3 hơi quả thật là khó. Song ai làm được mới là người tài

giỏi, vô địch.

Trước cách mạng tháng Tám 1945, quê nhà chưa có những bộ môn

nghệ thuật như kịch, phim ảnh, phát thanh truyền hình bây giờ. Vậy mà tự

con trẻ (trong đó có việc sắp đặt của người lớn) đã tạo ra trò hát đồng dao để

rèn luyện cho mình nhiều kỹ năng. Ðó là việc vận dụng và phát huy nhanh,

tái tạo gấp những nhận thức đầu đời dù rất ngây thơ vào những trò chơi. Đặc

biệt là rèn luyện và thao tác nhiều kỹ năng về mặt ngôn ngữ như nói cho tròn

93

vành rõ chữ, nói thật dài hơi, nói không lắp, không ngọng nghịu, nói thật

hoạt bát trong mọi tư thế sinh hoạt và lao động cho người khác nghe được,

hiểu được. Cái câu thành ngữ "Học ăn, học nói, học gói, học mở" không phải

chỉ có nghĩa bóng mà cả nghĩa đen, nên tìm cách phục hồi lại lối hát đồng

dao phong phú, đa dạng và bổ ích này cho con trẻ.

Thuở ấy, cứ đến mùa trăng là những đêm vui nhất để trẻ tụ tập, tái tạo

những công việc, những khúc hát, những sinh hoạt của người lớn vào trò hát

đồng dao. Những bài học lịch sử, biến động xã hội, trẻ em có trò: Chi chi

chành chành/Ba vương ngũ đế…. Người lớn đi tìm thầy thuốc, trẻ em có trò:

Rồng rắn lên mây/Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không?... Người lớn hát

dao duyên, trẻ em có trò: Ngồi đu đưa/Giày mo nang/Gái qua đàng/Gặp

chàng cưỡi ngựa… Chỉ vậy thôi cũng đã thấy trẻ em bị ảnh hưởng từ sinh

hoạt, tư cách, công việc của người lớn đến đâu. Và người lớn, khi nghe trẻ

hát đồng dao cũng là cách cảnh tỉnh đến sinh hoạt của mình.

Hát Vè

Có người cho vè là một dạng “báo nói” do dân gian sáng tác và truyền

khẩu nhằm phản ánh kịp thời các sự kiện nóng bỏng, điển hình trong đời

sống sinh hoạt của làng xã, của địa phương, dân tộc. Nó là kho tàng chứa

đựng những tri thức dân gian về tự nhiên và xã hội, dưới hình thức bắt vần

để đưa về các khuôn dạng ổn định, dễ nhớ, dễ thuộc. Kể vè có hai dạng là kể

vè và hát vè (riêng phần kể vè đã trình bày trước ở mục Tự sự dân gian, nay

trình bày thêm phần hát vè). Về mặt hình thức ca từ có vè bốn chữ và vè

song thất lục bát. Ca từ bốn chữ xếp vào loại nói vè hay kể vè; song thất lục

bát thì gọi là hát vè. Nó rất được trẻ con và người dân lao động gắn bó, ưa

chuộng bởi tiết tấu giản đơn nhưng không phải không kém phần hấp dẫn bởi

cốt truyện của nó.

Kể vè, nói vè chỉ dựa vào hai tiếng phách được gõ đều đặn gọi là

phách trường. Người kể vè cứ thế mà diễn xướng: “Ve vẻ vè ve/ Nghe vè

thằng Bợm/ Nấu ăn cho sớm/ Ra tắm biển Ðông/ Ðạp nhằm xương rồng/ Lôi

lên chín khúc/ Ðạp nhầm ông núc/ Trúc cổ xuống cầu/ Gặp mệ bán dầu/ Dầu

trơn lây lẩy/ Gặp mệ bán giấy/ Giấy mỏng tanh tanh/ Gặp mệ bán chanh/

Chanh chua léc léc...”. Với một cốt truyện kể hấp dẫn dẫn dắt, lối kể vè bốn

chữ cứ thế lôi cuốn người nghe. Trong khi hát vè đã có sự thay đổi lớn về kết

cấu ca từ lẫn tiết tấu, nghĩa là về mặt âm nhạc đã được nâng lên ở một trình

độ nghệ thuật cao hơn. Hát vè có phần hát dẫn, thường là câu thơ lục bát có

thắt - mở, tự do luyến láy nhưng đến chữ thứ sáu, câu tám người hát xi -

nhan, ngân lên dài ngắn để dàn nhạc vào đúng phách nhịp. Ở phần thân, hát

94

vè luôn biến tấu âm hình đan xen giữa những âm hình đơn giản với những

âm hình phức tạp. Bao giờ câu kết cũng hấp dẫn người nghe nhất bởi đột

ngột thay đổi giai điệu mà theo nhà nghiên cứu âm nhạc Ðặng Nguyễn là lối

"láy giàng xay", lối láy 4 nốt - nốt thứ tư trở lại nốt cao độ khởi đầu. Với lối

hát vè, đã có sự tham gia của các loại nhạc cụ như đàn nhị, đàn bầu, cặp

sanh, hai chiếc chén con, người đánh vừa giữ nhịp vừa lắc rây tạo ra một thứ

âm thanh vui nhộn.

Có thể nói, nhờ vào sự tham gia của dàn nhạc, sự thay đổi tiết tấu của

bộ gõ, những âm hình phức tạp mà hát vè trở thành lối hát được nhân dân ưa

chuộng. Một thể loại âm nhạc dân gian song thường xuyên có mặt trên các

sân khấu chuyên nghiệp. Và gần đây ở Việt Nam, có nhiều nhóm nhạc trẻ đã

chuyển hát vè thành nhạc Rap rất được ưa thích.

2.1.1.2- Về các điệu hò:

Có người cho rằng, hò là do từ chữ “hô” mà ra, có nghĩa là làm cho

giọng mình mạnh hơn. Do đó, hò thường đi đôi với lao động, với những

công việc nặng nhọc. Ở Quảng Trị trước 1945 có nhiều điệu hò đặc sắc, với

lối ca hát tự nhiên và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng. Ra đồng ruộng có

Hò Ðập đất, Hò Cấy lúa; lên rừng có Hò Ðẵn gỗ, Hò Kéo gỗ; ra sông có Hò

Mái nhì, Hò Mái đẩy; vào trong làng mạc thôn xóm có Hò Xay lúa, Hò Hụi,

Hò Giã gạo... Ngoài ra, còn có hò trong lễ hội, trong tang ma. Người hò

chính gọi là “hò cái” hát kể một đoạn gọi là xướng thì toàn thể những người

phụ họa (gọi là “hò con”) hát xô "là hụ là khoan" để làm tăng sức mạnh khi

làm việc và hướng sự tập trung của những người tham gia lao động vào sự

nhịp nhàng của tay chèo, vồ đập đất hay chày giã gạo. Lớp trống hay vế kể

thì do một người hát, còn lớp mái hay vế xô thì do toàn thể phụ họa. Người

xướng là người có tài ứng khẩu, bẻ làn, dẫn dắt cuộc hò thật sáng tạo, linh

hoạt hấp dẫn. Trước những năm 1945, ở Quảng Trị có nhiều nghệ nhân hò

ưu tú mà ông Thợ Thiềm là một nghệ nhân có tài ứng tác và bẻ điệu điêu

luyện trong hò đối đáp. Những đêm hò giã gạo ở Triệu Phong, Đông Hà

muốn được hay, hấp dẫn phải lên Cùa đón ông về tham gia. Cuộc hò nào có

ông dự phần vào cũng sôi nổi, hấp dẫn và để lại nhiều giai thoại, nhiều

“ngón nghề” kinh điển.

Miền Trung là nơi tập trung của nhiều loại hò và nhiều giai điệu hơn

hai miền Nam, Bắc. Trong khi chèo thuyền, chúng ta còn được nghe các loại

hò mái xấp, hò mái nhì, hò mái đẩy. Có giả thuyết cho rằng “mái” có nghĩa

là mái chèo, và còn có giả thuyết khác nữa cho rằng “mái” là đàn bà đối với

trống là đàn ông. Còn “xấp” có nghĩa là mau hơn, “nhì” có nghĩa là đôi, là

95

phải hát hai lần, còn “đẩy” có nghĩa là làm cho thuyền đi tới. Ở Trị - Thiên

còn có hò mái ba nghĩa là phải hát ba lần.

Hầu hết các điệu hò kể trên đều là hò lao động. Chức năng lao động

biểu hiện rõ nét ở nhịp điệu các điệu hò là luôn hướng sự tập trung của người

tham gia lao động vào sự rập ràng của thao tác (sự nhịp nhàng của tay chèo,

tay vồ đập đất, tay chày giã gạo...). Hò đối đáp (đâm bắt) thường là hò đối

giữa trai gái có tính cách đùa giỡn, chọc ghẹo, tỏ tình; là sự giao cảm nam,

nữ trong quá trình làm cho người ta quên đi những thời khắc nặng nhọc của

công việc. Nó gây sự hứng khởi mạnh mẽ trong sáng tác và phút hứng khởi

đó là phút thăng hoa mang tính tập thể trong sáng tạo các điệu hò. Các điệu

hò lao động đều có tiết tấu sôi nổi, nhịp hai/ nhịp tư và thường là điệu thức

Bắc, Xuân, Nam (không thấy có điệu thức Ai hoặc Oán). Tiêu biểu cho các

điệu hò vùng Quảng Trị là Hò Giã gạo. Nói tiêu biểu là vì trình thức sinh

hoạt của lối Hò giã gạo mang tính chương trình, thể hiện qua 3 hoặc 4 chặng

sau: Chặng 1: Hò chào, hò hỏi (thường ngắn, có tính chất mở đầu, chức năng

chỉ là cầu nối) - Chặng 2: Hò đối đáp, Hò đố, Hò đâm bắt (sôi nổi, say sưa,

cao trào/ tái hiện lại không khí lao động của các tay hò) - Chặng 3: Hò ân

tình (đằm thắm, sâu lắng, thiết tha/ biểu hiện chức năng giao duyên nam nữ)

- Chặng 4 (kết thúc): Hò giã bạn (hát tiễn/ không dài nhưng quyến luyến, bịn

rịn, ray rứt đến xót xa). Nhờ vậy mà các điệu hò Quảng Trị có giai điệu hay,

lối ca hát tự nhiên và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng.

Một trong những sinh hoạt diễn xướng mới phôi thai, tức còn dựa vào

chất liệu là ca dao nói về tình cảm đôi lứa gọi là hò đối đáp (đâm bắt) dưới

đây là một hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian trữ tình độc đáo của người

dân Quảng Trị . Vào những đêm trăng thanh bình, trai gái sau một ngày làm

lụng, tối đến gái hoặc giã gạo, hoặc dệt vải, trai làng đến chơi là thành một

cuộc hò đối đáp. Mở đầu cuộc hò thường là những câu hò chào mời của mấy

cô thôn nữ, ví như:

Chập choạng bóng trăng em xem chưa rõ,

Chập choạng bóng đèn em ngó chưa tường,

Dáng ai như dáng người thương,

Không vô đây phân giải một đôi đường cho em hay.

Sau thủ tục chào mời là họ bước vào cuộc hò đối đáp. Hò đối

đáp nam nữ thể hiện tài ứng đối lẹ làng, thông minh và sắc sảo của con ngư-

ời vùng đất này. Những câu hò vừa dân dã mà trí tuệ, vừa mộc mạc mà vẫn

đủ tích truyện chữ nghĩa chẳng kém gì anh khoá anh đồ, có khi căng thẳng

96

đến mức không thiếu phần xấc xược, kiêu bạc, cũng có khi láu lỉnh thông tục

nhưng rất tinh tế:

- Anh mất chi một tiếng chào,

Chào qua trước được ngộ có xa nhau cũng đành.

- Bởi mối manh chưa rõ,

Thầy mẹ đứng đó anh nỏ dám chào,

Thuyền quyên chớ vội trách anh hào vô tâm.

Rồi họ hỏi tuổi tác của nhau:

- Hỏi em mấy tuổi nói ra,

Đừng bắt anh đi bói đi khoa tốn tiền.

- Bông hoa thơm iếng iếng nhị vàng,

Non Đoài tắt lả, sông Giang đỏ đèn.

(Câu cuối có nghĩa là lúc hoàng hôn, tức giờ Dậu, suy ra cô gái tuổi

Dậu, cung Đoài, mạng Hoả). Ai dám nói thôn nữ ít học, không thông minh?

Buổi hát đã dài mà như chưa đạt kết quả, cô gái mới khiêu

khích:

- Lui về mà ngủ kẻo khuya,

Xấu chuôm cá nỏ vô đìa thì thôi.

- Xấu chuôm anh bỏ chuôm thêm,

Ban ngày anh bắt, ban đêm anh mò.

- Mò thì mò hến mò ngao,

Đừng mò bọp bọp nước xao vô mồm.

- Nước xao thì mược nước xao,

Hai chân anh chọi, đòn sào anh đâm...

Chàng trai cũng đã cao tay ấn, không ngờ cô gái lại vận dụng

thủ thuật “nói lái” vào vế đối, đẩy cuộc hò lên cao trào:

- Con mang lên côi rừng con mang chết đói,

Con mang xuống đưới(dưới) hói nỏ biết ăn chi,

Nam nhơn chàng đối đặng thiếp thưởng bì rượu ngon!...

- Con mang lên côi rừng con mang “đạn rú”,

97

Con mang về hạ thú con mang “trốn lùm”

Nam nhơn đà đối đặng, sướng vô cùng thiếp ơi !..

Không ngờ chàng trai lại quá ranh mãnh, nhanh nhẹn hơn cả ng-

ười ra vế đối, vậy mà cô gái vẫn chưa tha:

- Thiếp với chàng không giận nỏ thù sâu,

Cớ răng chàng cứ lắt bí hái bầu của em?

- Thiếp không nghe: mất cơm thì ngờ đứa đói,

Mất mói (muối) thì ngờ đứa lạt,

Thiếp nói chạc rạc chàng nỏ biết chuyện chi,

Ví chàng có trộm bầu hái bí, răng không bắt cho đặng

cái khi đang trèo?...

Chưa chịu lùi bước, cô gái còn đưa ra một chi tiết để bắt chẹt

đối phương:

- Anh đà có vợ có con,

Đừng đem lòng tơ tởng mụt măng non cuối mùa.

- Anh đây đà có vợ có con,

Nàng thương anh cũng kiếm tí cho giòn,

Rậm người hơn rậm của chớ anh có bỏ vợ con mô nờ!...

Cố ý gài và ra sức gỡ bao giờ cũng là lực hút của cuộc hò.

Nhiều câu hò ác hiểm, vừa ngạo vừa có ý tục mà kín đáo vô cùng. Ví như cô

gái nọ ghẹo anh thợ mộc:

- Anh làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo,

Đóng bức đố xéo xéo tài đã ra chi tài,

Răng không giơ cái lưỡi chàng ra chắn mộng

để thè lè ra ngoài rứa anh?...

- Anh tính giơ cái lưỡi chàng ra chắn mộng,

Mà thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan,

Nói để khi về móc áo, lỡ gác giàn treo khăn...

Không khí hò đối đáp càng về cuối càng sôi động, có khi người

ta không cần phải giữ ý tứ trong câu hò nữa, nhưng điều đáng nói là sau mỗi

98

câu hò tục, hò xấc, người ta không hề giận hờn hay để bụng mà ngược lại họ

cảm phục tài nhau, trân trọng sự thông minh mẫn tiệp của nhau. Vì vậy, cuối

cuộc hò, họ thường quyến luyến, dặn dò nhau rất tình tứ:

Chàng về thiếp dặn thêm câu,

Ai kêu đừng đứng lại, ai trao trầu đừng ăn.

Trong thực tế, nhiều cặp hò đối đáp về sau đã nên vợ chồng, họ

yêu nhau rồi lấy nhau vì phục tài nhau, thuỷ chung với câu hò mà họ đã nghĩ

ra, đã cất lên với tất cả tâm tình. Trong cuộc đời thực họ cũng khát khao một

cuộc sống hạnh phúc, chứa chan tình cảm và thanh bình như câu hò của họ.

Cũng cần nói thêm về một trong những thuộc tính khu biệt, có

thể nói là thế mạnh về nghệ thuật biểu diễn của hò Quảng Trị là trong một

không gian lao động hoặc một môi trường sinh hoạt nhất định, những nghệ

nhân hò vừa diễn đạt nỗi niềm vừa đi tìm sự cảm thông, chia sẻ, giao lưu một

của đối tượng đã nhìn thấy, hoặc một đối tượng “tiềm năng” luôn được chờ

mong. Trong các dạng hò đối đáp hay đâm bắt, bao giờ lời buông ra cũng

được mong chờ được đáp, được bắt; cố sức gài để được gỡ; ra sức đố ác

hiểm để được chờ lời giải thông minh. Trong những sinh hoạt hò đối đáp dù

đã được “trình thức hóa”, ổn định trong ba chặng hò được biết từ trước, song

ở chặng nào cũng hứa hẹn những bất ngờ. Bất ngờ vì ý nhã lời hay khi dò

hỏi nhau phút chào mời; bất ngờ vì hồi hộp gay cấn do bị đố, bị gài; bất ngờ

vì những tình ý bâng khuâng, vương vấn lúc sắp chia tay, giã bạn.

Rất tiếc là trong tiến trình đô thị hóa, môi trường lao động cũng như

sân khấu của các điệu hò nói trên không còn “đất” để tồn tại. Vài thập niên

trở lại đây, ngành Văn hóa-TT-DL có chủ trương phục hồi trong các chương

trình "Làng vui chơi, làng ca hát" song không thể nào sinh động và phong

phú bằng ngày xưa được.

2.1.1.3- Về các điệu lý:

Dân ca Bắc Bộ không có hình thức hát gọi là Lý. Lý chỉ tập

trung nhiều và khởi nguồn từ vùng Quảng Trị vào tới Nam Bộ. Nếu nói xứ

Huế xưa là vùng đất từ Đèo Ngang đến Hải Vân thì vùng phía Bắc tức

Quảng Bình ngày nay không có Lý, Lý chỉ có từ Quảng Trị trở vào. Có

người đặt vấn đề, phải chăng lý ra đời từ khi Nguyễn Hoàng đóng dinh thự ở

Quảng Trị? Hiện chưa đủ chứng cứ để lý giải về nguồn gốc lý nhưng có một

điều chắc chắn Lý có mặt trong lòng người Quảng Trị từ rất lâu đời.

99

Lý trong diễn xướng dân ca nói chung là loại hình gồm những bài bản

nhỏ gọn, đề cập một cách súc tích, hồn nhiên, ngẫu hứng và nên thơ về một

hiện tượng nào đó (sự vật, cảnh trí xung quanh…) mà mở rộng ra các vấn đề

nhân sinh, với một giọng điệu kín đáo, nhiều ẩn ý, uẩn khúc. Người ta

thường “lý” những câu ca dao (lý dùng như một động từ) vốn đã được tách

ra tương đối độc lập từ sinh hoạt dân ca và trau giũa thêm cho đẹp đẽ hài

hòa, nhất là về khúc thức. Tất cả các điệu Lý (Lý chiều chiều, Lý hoài nam,

Lý năm canh, Lý tiểu khúc, Lý hành vân, Lý chuồn chuồn, Lý qua đèo, Lý

tình tang, Lý giao duyên vv…) đều là những câu ca dao lục bát, người hát lý

dùng nó để giải bày với người nghe những uẩn khúc nhất trong lòng mình.

Một vài ví dụ:

- Chuồn chuồn mắc phải nhện vương

Đã chót dan díu thì thương nhau cùng (Lý Chuồn chuồn)

- Ai đưa con sáo sang sông

Để cho con sáo sổ lồng bay xa… (Lý con sáo)

- Canh một thơ thẩn vào ra

Chờ trăng trăng xế, chờ hoa hoa tàn…(Lý Năm canh)

- Chiều chiều dắt bạn qua đèo

Chim kêu bên nớ, vượn trèo bên ni(Lý qua đèo);

- Ðố ai quét sạch lá vàng

Giang tay đón gió, gió đừng rung cây (Lý tình tang) v.v…

Tất cả các điệu Lý đều là khúc hát của niềm thương, nỗi nhớ, là

khúc hát nhân ái, tình cảm chắt lọc nhất của người dân Quảng Trị nên Đặng

Nguyễn đã xếp lý vào loại hát tự sự, rất giống chức năng 2 của hát ru là hát

cho mình và hát để bộc bạch nỗi niềm của riêng mình. Về cấu trúc, Lý

thường được hát trên các thể thơ lục bát hoặc tứ tuyệt. Lý thường có lối tiết

tấu đều đặn nằm ở nhịp hai, nhịp tư, với giai điệu đẹp, đượm một nét buồn

mênh mang ở điệu thức Nam và Ai.

Lý thực sự đã đạt được thứ bậc cao trong ca hát dân gian. Lý là tác

phẩm âm nhạc dân gian khắc họa rõ nét nhất chiều sâu thẳm tâm hồn của

mỗi cá nhân trong cuộc sống cộng đồng. Cùng với hát ru, hát đồng dao, hát

vè và các điệu hò, lý là những viên ngọc được nhân dân mài giũa trong quá

trình sống, lao động và sáng tạo.

2.1.2- Loại hình diễn xướng dân gian (nửa sân khấu):

100

Đã từng có một đoàn tuồng Chợ Cạn và gánh hát trùm Bá là

những loại hình diễn xướng dân gian nửa sân khấu tồn tại ở Quảng Trị.

Tuồng Chợ Cạn và gánh hát trùm Bá trong quá trình trưởng thành từng thâu

thái nhiều yếu tố dân gian và mở rộng vùng ảnh hưởng nhưng vì hậu quả

nặng nề của chiến tranh, ly tán, hủy diệt nên cũng đã lụi tàn.

Tuồng chợ Cạn

Trong Đề án có tên “Nghiên cứu, bảo tồn và khôi phục nghệ

thuật tuồng chợ Cạn” (bản vi tính, 1996) TS. Nguyễn Bình có nêu ra ba giả

thiết: “Có ý kiến cho rằng Tuồng chợ Cạn được hình thành dưới thời các

chúa Nguyễn. Quảng Trị là điểm dừng chân đầu tiên của chúa Nguyễn, Thủ

phủ Ái Tử (1558-1570) đến Thủ phủ Trà Bát (1570-1600) và Dinh Cát

(1600-1626). Trong 68 năm tồn tại trên đất Quảng Trị trước khi thiên di vào

Phú Xuân, những lớp người đầu tiên đã mang nghệ thuật dân gian tuồng ở

Bắc vào để tự diễn cho nhau xem, để làm khuây khỏa vơi đi nỗi nhớ về cố

hương, lối diễn sơ khai này có thể là Tuồng đồ (như là một thứ hát bộ, sau

dần nâng lên Tuồng pho và Tuồng thầy). Có người cho rằng tuồng chợ Cạn

được hình thành dưới triều Vua Tự Đức (1848-1883) một ông vua giỏi văn

chương và mê các loại hình nghệ thuật đặc biệt là tuồng. Cũng có nhiều ý

kiến cho rằng tuồng chợ Cạn Quảng Trị xuất hiện khá muộn vào những năm

đầu thế kỷ XX mà cụ thể là dưới thời vua Khải Định (1916 - 1925)”.

Theo lời kể của nghệ sĩ Xuân Lư và công chúng lớn tuổi trong

vùng thì địa bàn hoạt động của tuồng chợ Cạn trước hết dựa vào lợi thế

những phiên chợ Cạn mười ngày nhóm họp một lần. Khi có công chúng tập

trung tấp nập đông đúc thì đoàn tổ chức biểu diễn. Về sau lưu diễn ở các

đình chợ trong tỉnh như đình làng Câu Nhi (Huyện Hải Lăng), Chợ Phiên

(Cam Lộ), Chợ đình Bích La (Triệu Phong), chợ đình Mai Xá (Gio Linh)...

Có năm đoàn tuồng chợ Cạn ra tới Quảng Bình, đặc biệt hơn là những

chuyến được mời vào Huế diễn. Lúc cụ Thất Luận làm trưởng đoàn tuồng

chợ Cạn thì số diễn viên và việc phân bổ các vai diễn như sau. Vai kép: Ông

Thất Luận (tên thật là Trần Thất Luận ở làng Thượng Trạch, xã Triệu Sơn)

vừa là trưởng đoàn kiêm đạo diễn, diễn viên; ông Kiểm Ứng (tức là Trần

Ứng làng An Phó); ông Trần Hùng; ông Trần Công Đốc; ông Huỳnh Tỵ; ông

Trần Lạng (tức Bát Lạng ); ông Lê Trong; ông Lê Thẻ (Cửu Thẻ ); ông Trần

Dục ( làng An Lưu vai hề ); cụ Thiệp... là những nghệ sĩ, diễn viên chủ chốt

của đoàn. Vai Đào: Cô Trần Thị Huế (con ông Trần Công Đốc); cô Trần Thị

Kiến; bà Đốc (vợ ông Trần Công Đốc); cô Lê Thị Huế; cô Trần Thị Liễu, bà

Trần Thị Nậy... là những nữ nghệ sĩ, diễn viên chủ chốt của đoàn. Nhắc

101

tuồng: Ông Diệu Sâm. Ngoài ra còn có thành phần chạy hiệu và đặc biệt là

các nghệ sĩ, đào kép các nơi khác được đoàn mời về tham gia.

Trong những năm hoạt động sôi nổi, đoàn đã để lại những ấn tượng

sâu đậm trong quần chúng nhờ những vai diễn đặc sắc. Phần lớn các vỡ diễn

này rút từ tích tuồng dân gian như “Thạch Sanh Lý Thông”, “Thoại Khanh

Châu Tuấn”, “Phạm Công Cúc Hoa”, “Lâm Sanh Xuân Nương”… bên cạnh

một số tích truyện phổ biến của Trung Quốc như “Mạnh Lệ Quân”, “Tam Hạ

Nam Đường”, “Tam Quốc”, “Tây Du”… Một số vỡ bi hùng khác lấy đề tài

từ trong những cuộc tranh chấp, chính tà để giành ngôi báu rất thích hợp với

khán giả đương thời như “Đào Phi Phụng”, “Tam Nữ Đồ Vương”... Đặc biệt

vỡ tuồng “Sơn Hậu” là vỡ tuồng đặc sắc của đoàn tuồng Chợ Cạn. Các nghệ

nhân thủ vai chính trong vỡ này vẫn được quần chúng truyền tụng và nhắc

đến với lòng ngưỡng vọng, đó là nghệ sĩ Thất Luận (vai Phân Định Công);

nghệ sĩ Kiểm Ưng (vai Tạ Ôn Đình); nghệ sĩ Trần Dục (vai Khương Linh

Tá); nghệ sĩ Trần Hùng (vai Đổng Kim Lân)...

Nhà hát tuồng chợ Cạn (còn gọi là ca trường) được xây dựng theo

kiểu nhà hát dân gian truyền thống gần giống với trường hát Đồng Xuân Lâu

ở Huế. Trang trí sân khấu được thể hiện đẹp đẽ công phu nhưng thường chỉ

vẽ một cảnh, không thay đổi và không có các loại phông màn khác. Nhạc cụ

đoàn tuồng Chợ Cạn thường được sử dụng là hai trống chầu đặt hai đầu,

trong những lần biểu diễn người cầm chầu là một khán giả thạo tuồng được

đoàn mời, chủ yếu là đánh trống thưởng (thưởng có tiền thì giục một hồi,

khen nghệ thuật diễn thì điểm một trống). Trống chầu được đặt trên chòi,

ngoài ra nhạc cụ còn có thanh la, đàn bầu kèm sanh sứa (sứa làm bằng sừng

trâu kêu rất trong tiếng). Về điệu thức, chủ yếu sử dụng các làn điệu

như Nam, Khách, Tẩu mã. Nam có Nam thương, Nam bình, Nam ai... tùy

theo tâm trạng mà dùng; Khách là làn điệu vương trượng, sang trọng thường

dùng cho tướng lĩnh, vua chúa; Tẩu mã là làn điệu dùng khi ra trận, chinh

chiến, theo tiếng vó ngựa...

Đoàn tuồng chợ Cạn nổi tiếng nên nhiều lần được mời vào kinh đô

biểu diễn; nhiều nghệ sĩ là diễn viên đoàn tuồng chợ Cạn đã được triều đình

Huế phong tặng phẩm hàm; và cá nhân nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Trần Văn

Luận nhiều lần được mời vào kinh đô không phải làm mỗi việc biểu diễn mà

còn dạy tuồng hay nghệ sĩ Trần Xuân Dục cũng được mời vào làm trưởng

đoàn múa hát cung đình Huế là đoàn Ba Vũ. Cho dù một thời gian dài, chịu

sự chi phối, cuốn hút mạnh mẽ vào của kinh đô cũng không thể làm cho cái

102

nôi của tuồng chợ Cạn vốn nổi tiếng phân tán, hòa tan. Chỉ có chiến tranh, ly

tán mới làm thay đổi.

Gánh hát trùm Bá

Người dân làng Tùng Luật bao đời vẫn tự hào bởi làng yên vị

trên thế đất “Phụng hàm thơ”, nghĩa là con chim Phụng Hoàng ngậm thơ

trong miệng; thế đất sinh anh hào, tài tử, giai nhân. Từ trước đến nay Tùng

Luật vốn đã là cái nôi văn nghệ dân gian mà đàn hát dân ca, hát sắc bùa, hò

bá trạo từng đã nổi tiếng trong vùng. Vào những năm cuối của thế kỷ XIX,

Tùng Luật du nhập thêm nghề hát bội, sản sinh ra nhiều thế hệ nghệ sĩ tài

danh từ khi có “gánh hát trùm Bá”.

Đã từng có một gánh hát trùm Bá vừa đạt tới đỉnh cao thì chiến

tranh và ly tán cũng đã xóa tên vào những năm kháng chiến chống Pháp.

Theo tác giả Trần Biên thì gánh hát và đội chèo Cạn làng Tùng

ra đời trong khoảng những năm cuối thế kỷ XIX, do cụ Nguyễn Hữu Bá

(sinh năm 1840) hành nghề bốc thuốc chữa bệnh là người hay ra vào kinh đô

Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, có lúc vào tận lục tỉnh

Nam kỳ sáng lập ra. Trong các cuộc chu du ấy, ông Bá được xem tuồng của

các gánh hát từ Quảng Nam trở vào. Từ xem đến say, từ say đến mê, từ mê

đến lần mò học hỏi, một vài năm sau ông nắm bắt được bí quyết của nghệ

thuật tuồng. Trở về quê tiếp tục làm nghề thuốc bắc nhưng ông Bá vẫn dành

thời gian truyền nghề hát cho con em trong gia đình, họ tộc và làng mạc.

Những nghệ nhân đầu tiên của gánh hát trùm Bá có các ông

Nguyễn Như Tính (đánh trống, thổi kèn), Nguyễn Như Giản (sử dụng thành

thạo năm loại nhạc cụ cổ truyền) và các bà Nguyễn Thị Hòa, Nguyễn Thị

Hạnh (trong đó ông Giản, bà Hạnh, bà Hòa là con đẻ của ông Bá). Bà Hạnh

mất sớm, bà Hòa về sau lấy chồng ở Quảng Ngãi có con gái đầu lòng là

NSND Lệ Thi. Ngoài con em trong nhà, ông Bá còn chọn thêm những người

có năng khiếu đờn ca trong làng như các ông Trần Duyến (sau 1954 là nhạc

công chương trình ca Huế Đài tiếng nói Việt Nam), Lê Não, Võ Cháu, Ba

Mè (bố của NSƯT Châu Loan sau này), Nguyễn Khê, Phùng Đấu, Bát Đẩu,

Trần Nóng, Lê Nãi. Gánh hát đầu tiên ấy có 14 diễn viên được lập ra vào lúc

ông Bá bốn mươi tuổi, tức vào năm 1880. Gia tài của gánh hát ban đầu lèo

tèo dăm bảy bộ quần áo, hia, mão và nhạc cụ đựng vừa vặn trong đôi bồ con

và mấy vỡ diễn như Phạm Công Cúc Hoa, Lục Vân Tiên, Tạ Ngọc Lân lăn

lửa, Giả dại qua đèo v.v…

103

Cứ mỗi độ xuân về nếu như hai phủ Vĩnh Linh, Gio Linh không

có làng nào tới rước gánh hát ông Bá về diễn thì họ lại dắt díu quẩy bồ cuốc

bộ ra Lệ Thủy, Quảng Bình hoặc xuôi đò dọc vào tận Thừa Thiên - Huế diễn

ở các làng, các rạp hát kiếm tiền. Đến lúc tiếng chim tu hú lảnh lót gọi bầy ở

các vườn nội, lúa chiêm uốn câu ngã màu vàng nhạt ngoài đồng, các nghệ

nhân lại khăn gói trở về bến Tân Sài (là làng Tân Trại ngày nay); trở về với

đồng ruộng, lưới chài, nương vườn để rồi mùa xuân năm sau lại từ đây lên

đường lưu diễn chuyến khác… Từ những chuyến lưu diễn mà nghệ nhân

được mở rộng tầm mắt bấy lâu bị giam hãm sau lũy tre làng, nay có dịp tiếp

xúc, học hỏi thêm các làn điệu dân ca, nhất là các điệu lý và hò. Lớp nghệ

nhân này không những tự học hỏi, trau dồi nghề nghiệp mà còn truyền dạy

cho con cháu của mình…

Tiếng tăm của gánh hát trùm Bá lan tỏa trong vùng nên được

vua quan triều đình nhà Nguyễn mời vào thưởng ngoạn. Ông Đổng là nhạc

công của gánh hát có tài nghệ thổi sáo được vua ban thưởng hàm “bát

phẩm”. Chỉ tính riêng gia đình cụ trùm Bá đã có một người em, ba người con

là nghệ nhân ưu tú, năm cháu nội ngoại là nghệ sĩ, bốn chắt nội ngoại là

những ca sĩ và nhạc công, tổng cộng có mười bốn người theo đuổi sự nghiệp

do cụ sáng lập. Chưa kể gia đình các cụ Ba Mè, Võ Cháu, Trần Duyến,

Nguyễn Nghê... phần lớn con cháu của họ đều được dìu dắt để trở thành

những nghệ sĩ tài năng. Riêng gánh hát trùm Bá, tuy không còn phiên chế để

hoạt động chính thức nhưng trong vòng 30 năm (1954 - 1984), từ “cái nôi”

này đã cung cấp đào tạo cho các đoàn Nghệ thuật Trung ương và các tỉnh

thành 42 diễn viên ca Huế, dân ca và nhạc công. Trong đó có nghiều nghệ sĩ

đạt tới đỉnh cao nghệ thuật được Nhà nước phong tặng danh hiệu như cố

NSƯT Châu Loan, cố NSND Lệ Thi, NSND Kim Quý, NSƯT Sĩ Cừ, NSƯT

Kim Phú, cố NNƯT Ái Chủng, và nhiều nghệ sĩ tài danh khác như Trần

Duyến, Châu Dinh, Châu Phụng, Bích Nồng, Thu Sen... Không ít người

trong số họ từng được vinh hạnh vào Phủ Chủ tịch hát những làn điệu dân ca

miền Trung cho Bác Hồ nghe, được Bác khen ngợi... Nhưng đó cũng đã là

những vinh quang của một thời vàng son quá vãng.

Cũng không trách cứ chi chiến tranh, vì ngay trong thời bình

nhiều bộ môn nghệ thuật trình diễn dân gian nửa sân khấu như hát sắc bùa,

chèo Cạn (hát bá trạo) cũng đã mai một mà bóng hình của nó còn lưu lại ít ỏi

ở bài hò đưa linh.

Chèo cạn và hò đưa linh

104

Có một hình thức diễn xướng nửa sân khấu phục vụ nghi lễ

đám tang mang đậm tính dân gian là hò đưa linh. Bản thân các sinh hoạt nửa

sân khấu ấy đã thu hút, vận dụng, nhào nặn nhiều nội dung, làn điệu, quy

cách xướng - xô của dân ca để đưa chúng vào thể thức diễn xướng nghi lễ

theo một trình thức ổn định nhưng trong quá trình diễn xướng vẫn có hàng

loạt các sáng tác dân gian do ứng tác hoặc hứng tác linh hoạt ùa vào.

Hò đưa linh là hình thức diễn xướng tổng hợp, bao gồm hò, hát, múa

tuồng, múa võ và tấu nhạc. Hò đưa linh có kết cấu theo kiểu lý, là loại kết

cấu nhạc tự sự rất thuận lợi đế ứng dụng phương pháp sân khấu kể chuyện

dân gian. Ở Quảng Trị hiện còn các đội nhạc cổ truyền phục vụ đám tang gọi

là hát Bá trạo (bá: nắm, trạo: chèo đò) hay Chèo cạn (chèo ở trên cạn) ở

Tùng Luật (gọi Chèo cạn làng Tùng), Mai Xá (gọi Chèo cạn làng Mai). Do

diễn xướng trên cạn nên đội hình của các bá trạo được sắp xếp đúng chiếc

thuyền cách điệu và được trình diễn trên một phạm vi rộng lớn là sân đình.

Phiên chế mội chèo cạn gồm có 15 người (1 ông lái, 1 ông mũi, 1 ông tát

nước, 12 ba trạo). Các nghệ nhân người cầm chịch, người cầm chèo, người

tát nước, người đứng mũi vừa làm điệu bộ chèo vừa nhịp nhàng hát theo

những bè cao, bè thấp nhằm mô phỏng lại những chuyến đi biển của ngư

dân. Người cầm chịch trong các đội chèo cạn bắt buộc phải hát thành thạo tất

cả các điệu hò sông nước lẫn trên cạn. Ở đội chèo cạn làng Tùng còn giữ

được nét đặc trưng như tay chèo của 12 bá trạo phải có ngoắc tay làm cho

động tác chèo trở nên mạnh mẽ hơn nhằm tái hiện lại hình ảnh những người

đi biển vượt qua sóng biển một cách sinh động nhất. Đồng thời chèo cạn ở

đây còn kết hợp với hò lý ngư, hò mái đẩy để cho bá trạo lấy hơi. Trong

phần hội lễ hội Cầu ngư, cầu mong cho dân làng thuận chèo mát mái, được

mùa cá tôm ở Tùng Luật vào Rằm tháng hai hằng năm, ngoài hát tuồng, hò

khoan, còn có một hình thức múa hát đặc trưng là múa hát bá trạo diễn tả

tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong một con thuyền, vượt qua sóng

to gió cả, mang về một mùa bội thu cho ngư dân. Những câu hát diễn xướng

trong lễ cầu ngư thông qua điệu hò mái nhì như “Cần câu trúc, ống câu trắc,

lưỡi câu bạc mà chạc câu tơ/Tôi móc miếng mồi tôm bạc thả xuống, con cá

nọ hắn vẫn làm ngơ/Huống chi bên tê/ Cần câu tre với chạc vải, thì ngồi

chờ, ơ hơ hơ…. công với uổng ơ công…”.

Ngoài lễ hội Cầu ngư, các đội Chèo cạn còn phục vụ trong các đám

tang dưới hình thức hò đưa linh. Chèo cạn đưa linh rất có ý nghĩa trong các

đám hiếu, bởi sự tinh tế trong vận dụng một loại hình sinh hoạt văn hóa có

tính lễ hội vào trong đám tang. Với nhịp điệu đều đặn, kết cấu vuông vắn

105

theo nhịp tư, giai điệu buồn, kể lể của người hò cái với những câu kiểu như

“Vấn vương cái nghĩa cái tình/Thương người đã khuất nên mình lệ rơi/ Nhớ

khi vào lộng ra khơi/ Chén sóng bữa gió lưng phơi nắng trời...” và đặc biệt

là 12 bá trạo vừa chèo vừa nhắc lại điệp khúc:“Hò là hò, đưa linh, đưa linh

phản hồi…”. Minh họa cho lời hát là điệu bộ đau đớn của người hò cái từ

lúc ở nhà, lúc chèo thuyền đưa linh trên sông đến lúc nện đất lấp mồ bên

những người chèo thuyền vừa chèo thuyền vừa hát câu điệp khúc “Hò là hò,

đưa linh, đưa linh phản hồi…” làm cho con cháu, họ hàng người thân càng

đau đớn xót thương hơn trước công đức cao dày của người đã khuất đối với

những người ở lại. Các tay chèo đều đặn lên xuống tạo ra cảm giác của chiếc

thuyền bồng bềnh trên sông nước đưa linh hồn người quá cố đi xa, xa lắm về

cõi vĩnh hằng.

Con người ta vào đời bằng tiếng hát ru dịu dàng của mẹ để lớn

lên thành người có lòng vị tha như chính tiếng ru ấy thì lúc lìa xa cõi đời,

cũng ra đi trong nỗi niềm thương cảm của điệu thức ai oán mà người đời gọi

là Hò đưa linh, khúc hát khép lại một đời người. Hò đưa linh, một khúc hát,

một điệu hò khép lại một đời người đã góp vào kho tàng âm nhạc dân gian

Quảng Trị một tiếng nói nhân văn sâu lắng.

2.1.3- Âm nhạc cổ truyền và các loại nhạc cụ

Từ thế kỷ XIV- XV trên vùng đất Quảng Trị, những nhóm lưu dân ra

đi từ đất Bắc đến vùng đất mới trong những buổi đầu dựng nghiệp do phải

đối mặt với thiên tai địch hoạ luôn phải sống trong tâm trạng hoang mang, lo

sợ: “Đến đây đất nước lạ lùng/Nghe con chim kêu cũng sợ, nghe con cá vẫy

vùng cũng run”. Tâm trạng đó thể hiện và lưu dấu lại trong các làn điệu ca

dao, dân ca cổ.

Trong bối cảnh lao động xây dựng quê hương trên vùng đất mới như

thế, các thế hệ tổ tiên người Việt Quảng Trị ngoài việc giữ gìn dòng âm

nhạc cổ truyền mang theo từ vùng đất sinh tụ lâu đời trên đất Bắc đã biết

cách tiếp nhận, giao lưu với dòng nhạc của người Chăm bản địa để làm

phong phú hơn cho nền văn hóa của mình. Sự cộng hưởng ấy, vô hình trung

đã tạo ra một dòng nhạc dân gian mới, dòng âm nhạc dân gian Quảng Trị,

sau này là âm nhạc cổ truyền Trị - Thiên, là âm nhạc cung đình Huế…

Tuy đời sống của người dân Quảng Trị xưa không hẳn là sung

túc, nhưng trong đời sống sinh hoạt thường ngày, âm nhạc dân gian giữ một

vai trò cần thiết. Từ miền ngược cho đến miền xuôi, hầu hết các làng bản đều

vang vọng các làn điệu âm nhạc dân gian với các nhạc khí cổ truyền trong

106

các dịp hội hè, đình đám. Chủ nhân của nền âm nhạc dân gian ấy chủ yếu là

thường dân, ít có điều kiện hiểu biết về nhạc lý, chưa có trình độ thẩm âm

cao nhưng vẫn có trực cảm hay dở, và hầu hết đều say mê thưởng thức, sáng

tạo. Nhờ vậy mà hầu khắp trên các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, Gio Linh,

Vĩnh Linh, Tp. Đông Hà là những địa bàn còn lưu giữ các sinh hoạt âm nhạc

và nghệ thuật dân gian cổ truyền đậm đặc. Về đời sống âm nhạc còn lưu

hành song song hai dòng âm nhạc đan xen nhau là dòng âm nhạc dân gian

và âm nhạc chuyên nghiệp cổ truyền.

Âm nhạc dân gian là sáng tạo tập thể, nó được sáng tác ngay

trong quá trình lao động, người trình diễn, sáng tác đồng thời là người

thưởng thức nghệ thuật. Như đã nói, những người Việt đi xây dựng miền đất

mới, với bao khó khăn chồng chất trong cuộc sống, buộc họ phải hợp quần,

đoàn kết nhau trong cộng đồng đa sắc tộc ở vùng đất mình cư trú. Quá trình

sinh sống và lao động cũng là quá trình hoà trộn các dòng âm nhạc nơi quê

cha đất tổ với các dòng âm nhạc thành dòng âm nhạc dân gian mới - dòng

âm nhạc dân gian Quảng Trị. Âm nhạc cổ truyền chuyên nghiệp là sáng tạo

cá nhân, thường dựa trên nền dòng nhạc dân gian đã nói. Người sáng tác,

biểu diễn có khi là hai cũng có khi là một, trực tiếp biểu cảm nội tâm của

mình đến người nghe. Nhà nghiên cứu Đặng Nguyễn cho rằng, người sáng

tác âm nhạc cổ truyền chuyên nghiệp phải là người am hiểu âm luật, phải là

người có tri thức văn hóa. Để học được âm nhạc cổ truyền chuyên nghiệp,

các nghệ nhân xưa phải theo thầy nhiều năm và phải chịu sự giáo dục rất

nghiêm khắc trong học nghề cũng như trong cuộc sống. Tuy nhiên âm nhạc

cổ truyền tự bản thân nó cũng còn mang nặng tính dân gian, thể hiện rõ trong

cách dạy truyền ngón, truyền khẩu và các sinh hoạt mang tính “thời vụ” của

người hành nghề. Vì truyền ngón, truyền khẩu nên tính dị bản vẫn còn cao

mặc dù họ cố bám chắc lấy cái gọi là lòng bản. Nhưng không vì thế mà đánh

đồng hai dòng nhạc này với nhau.

Những nghiên cứu gần đây cho thấy, ở Quảng Trị hiện còn rất

nhiều gia tộc, dòng họ hành nghề âm nhạc. Ở Phú Hải, có một dàn nhạc rất

nhiều nhạc cụ, với nhiều bài bản cổ truyền biểu diễn trong tế lễ. Kiểm kê có

28 bài có tên gọi sau: 1- Chiêu, phát, hiệp 2- Thoắt được, thoắt vặt 3- Phần

hoá 4- Kèn bạn 5- Nhịp ba bảy, 6- Chạm, chịu 7- Bình bán 8- Xàng xê 9-

Tây mai 10- Đăng đàn đơn 11- Đăng đàn kép 12- Long âm 13- Phú lục 14-

Nam sáp 15- Nam linh 16- Hát nam 17- Tam thiên 18- Mã vũ 19- Kim chiêu

20- Kim đàn 21- Tấn 22- Tán 23- Đờn hạ 24- Cung bường 25- Cung dựng

107

26- Hò mái nhì 27- Hò mái sắp 28- Hò lui thuyền. Tất cả những bản nhạc

này đều được diễn tấu rất điêu luyện.

Tiêu biểu nhất là ở làng Điếu Ngao, phường 2, Tp. Đông Hà. Hiện gia

đình cụ Hoàng Ân còn giữ được cuốn Phả nhạc của dòng họ Hoàng. Phả

nhạc là cuốn sách thiêng, do cụ tổ nghề truyền dạy cho dòng họ và con cháu

hành nghề âm nhạc. Đời này sang đời khác, họ Hoàng vẫn dùng sách này

dạy cho con cháu đúng theo tổ nghề. Phả nhạc là cuốn Ký nhạc, với ba cách

ký nhạc cho 3 nhóm nhạc là ký nhạc cho đàn và hát, cho bộ gõ và cho kèn

dưới hình thức Hán tự. Hán tự ghi hát và đàn nhằm biểu hiện cao độ của dàn

nhạc. Hán tự ghi trống là tự biểu hiện âm sắc nhạc cụ. Hán tự ghi kèn là biểu

hiện cả hai mặt âm sắc và cao độ. Các bài bản được phân chia làm ba loại:

Thi nhạc (tức các bản hát và đàn thính phòng), Thiền nhạc (tức âm nhạc nhà

Phật), Lễ nhạc (những bản nhạc hành lễ) trình bày rất mạch lạc. Toàn bộ

cuốn Phả nhạc gồm 34 bài, chia làm 3 loại:

Thi nhạc gồm các bài Lưu thủy, Long âm (quen gọi là Long ngâm),

Đăng đàn, Đăng đàn đơn, Đăng đàn kép, Đăng đàn lớp, Phú lục đơn, Phú

lục kép, Nam bình, Cổ bản, Hành vân, Phẩm tuyết bình bán, Tây mai, Xuân

phong, Long hổ.

Thiền nhạc gồm: Kèn chiến, Tẩu mã, Xàng xê, Trống quân,

Công ai, Bài phát, Bài hiệp.

Lễ nhạc gồm những bản nhạc hành lễ.

Có thể nói, bài bản chính, tiêu biểu nhất của đội nhạc cổ Điếu

Ngao là “Trống quân”, hoà tấu theo kỳ âm ba khúc thức: quân đại, quân tiểu

và mở cờ. Biên chế của đội hoà tấu gồm số nghệ nhân kèn tương ứng với số

nghệ nhân trống, có thể từ tối thiểu là 1 kèn + 1 trống lên đến trên dưới mười

nghệ nhân. Trang phục truyền thống của nhạc công tróng là quần áo chẽn

nón chóp đỏ như sắc phục lính xưa. Nhạc công kèn khoác áo dài đen, quần

trắng, thắt lưng đỏ, chít khăn tím. Người đánh xập xoã mặc áo bà ba thắt

lưng đen hay áo dài.

Mở đầu buổi hoà tấu là một hồi trống đồng loạt vang lên, từng tiếng

một, từ chậm rãi đến nhanh dần và dồn dập ở đoạn cuối. Rồi 3 tiếng đỉnh đạc

hoà với tiếng xập xoã. Nối tiếp, giàn kèn hoà vào giai điệu. Cuộc hoà tấu kèn

trống lúc trầm hùng, lúc dõng dạc, khi rộn rã khi khoan thai, dưới sự chủ

xướng của xập xoã theo một quy trình khúc thức chặt chẽ. Toàn bộ khúc

thức trống có 7 biến tấu mà trong nghề gọi là 7 giá. Tiết tấu mỗi giá biến đổi

khác nhau, với tên gọi từ giá 1 đến giá 7. Các giá lễ đều là không có tiêu đề,

108

giá 2 là quân đại tiết tấu nhanh, rộn rã, giá 4 là quân tiểu, tiết điệu nhanh sôi

nổi; giá 6 là mở cờ cấp tập, tưng bừng. Đến giá 7 thì 4 câu đầu nhanh, 4 câu

sau khoan thai rồi chậm dần và kết thúc là nhịp trống hồi. Kỹ thuật biểu diễn

của nghệ nhân trống linh hoạt. Lúc đầu chỉ đánh vào mặt trống, sau đánh cả

vào tang trống, có khi chặn tay vào cả mặt trống để đánh, tạo ra âm thanh

biến đổi.

Ngoài khúc thức hoà tấu “Trống quân” này, tất nhiên các đội cổ

nhạc còn có thể hoà tấu những khúc thức cổ truyền khác, phối hợp với đàn

nhị như Đăng đàn, Long âm, Long hổ, lớp lai kinh, lớp tấn trạo, lớp linh, lớp

sám, lớp phân hoá... trong cổ nhạc nghi lễ của dân gian, hoặc các bài bản ca

Huế như Phú lục, Hành vân, Lưu thuỷ, Nam ai, Nam thương, Nam xuân...

Xưa nay, ở Quảng Trị tất cả các lễ hội từ hội làng đến ma chay

đình đám, phần lễ bao giờ cũng được thực hiện nghiêm túc. Những cuộc

hành lễ như vậy, âm nhạc thường đóng góp một tiếng nói hết sức quan trọng,

nó làm cho không khí trang nghiêm, làm cho cái ồn ã thực tại lắng xuống để

giao cảm, nhập vào cái thiêng liêng của cuộc lễ. Làng nào cũng có đình làng,

nhà thờ các họ tộc kèm với việc tế lễ, ma chay nhưng không phải làng nào

cũng có ban nhạc cho riêng làng mình. Từ nhu cầu thực tế mà hình thành nên

các đội nhạc hay phường nhạc thính phòng, lấy đó làm một nghề để mưu

sinh. Tuỳ các làng xóm hay tư gia yêu cầu, đón rước, họ đến tận nơi để hoà

tấu phục vụ cho các nghi lễ cúng tế, đưa đám ma, ăn mừng hay lạc thành an

vị. Cá biệt có một số người thuộc tầng lớp trung lưu trở lên, có điều kiện tập

dượt một số nhạc khí truyền thống, dùng để tiêu khiển lúc buồn vui, khi trà

dư tửu hậu, khi tụ họp bạn bè. Nếu như dàn nhạc thính phòng chỉ có các

nhạc cụ như Ty, Trúc thì dàn nhạc tế lễ đã có sự góp mặt của các nhạc cụ gõ

và kèn hơi cùng nhạc cụ Ty, Trúc. Khảo sát dàn nhạc cụ của ba phường

nhạc tiêu biểu ở ba vùng đất khác nhau là Gio Linh, Điếu Ngao và Phú Hải

cho thấy: Phường nhạc Gio Linh gồm các nhạc cụ: Sáo nhị; Kèn tiểu, Não

bạt, trống chiến, trống to (trống cái). Điếu Ngao: Sáo nhị; Kèn tiểu, kèn đại;

Não bạt, phách, hai trống chiến, một trống to. Phú Hải: Sáo nhị; Kèn tiểu,

kèn đại; Chiêng, vu sắt, hai trống chiến, một trống to. Như vậy về cấu tạo ba

dàn nhạc Gio Linh, Điếu Ngao, Phú Hải có cấu tạo dàn nhạc như nhau, cùng

có ba nhóm nhạc cụ Ty, Trúc, Kèn như nhau và đặc biệt cùng có số lượng

nhạc gõ áp đảo. Bộ gõ là cụm nhạc cụ có cường độ âm thanh lớn, nó chế ngự

được sự ồn ã của đám đông, tạo ra không khí rộn rã ngày hội bằng âm thanh

và tiết tấu của mình. Nó đóng vai trò chủ đạo trong hiệu lệnh bái và đồng tế;

là thứ ngôn ngữ giao cảm đặc thù giữa ý nguyện con người với cõi linh

109

thiêng. Đồng thời nó cầm chịch trong phần hội như múa, hát, thi đấu các trò

thể thao dân tộc như đua thuyền, đánh vật, chơi đu… Có sự khác biệt giữa

dàn nhạc lễ và thính phòng này là do nhu cầu thực tế của các lễ hội sinh ra.

Từ đời sống âm nhạc trình bày trên mà người Việt Quảng Trị có

các loại nhạc cụ cổ truyền tương ứng sau đây:

Nhạc khí bộ gõ:

Cũng như nhiều vùng khác, người Kinh ở Quảng Trị xử dụng nhạc khí

bộ gõ như chiêng, kẻng lệnh, phèng la, xập xoã, các loại chuông, tang, mõ,

trống và sênh phách...

- Chiêng: được xem như chủ xướng trong lễ hội dân gian. Nó đóng vai

trò “khởi lệnh” trong các lễ hội cúng tế, sau đó trống mới hoà theo. Do đó

người đánh chiêng phải là nhân vật vai vế sau chủ tế và bồi tế. Chiêng

thường được treo trên giá đứng, trong lễ rước thần thì do hai người khiêng.

- Kẻng lệnh: Một số lễ cúng trong phạm vi tư gia, có thể thay thế

chiêng bằng kẻng lệnh, cũng đúc bằng đồng nhưng hình tròn dẹt, đường kính

khoảng 20cm.

- Phèng la: hay thanh la được dùng để báo hiệu lệnh triệu tập dân làng,

được đánh giọng ba để cổ vũ trong các hội đua tài, cướp cầu hoặc để cầm

nhịp cho đôị âm công khi động quan.

- Xập xoã: gồm hai chiếc đánh vào nhau, phối hợp và điều tiết trong

các khúc thức hoà tấu trống kèn.

- Chuông: hầu như dùng phổ biến trong nhạc lễ Phật giáo, gồm có đại

hồng chung phối hợp với trống đại khi hoà tấu chuông trống bát nhã mở đầu

các nghi lễ lớn, hoặc đánh đơn một hồi dài 108 tiếng vào lúc 8 - 9 giờ đêm

và 3 - 4 giờ sáng ở các nhà chùa.

Loại vừa, hình tròn là chuông gia tài dùng phối hợp với mõ trong khi

tụng kinh.

Nhỏ nhất là chuông lắc, còn gọi là cái linh, dùng như chiếc tang trong

các điệu tán, tụng của nhạc lễ Phật giáo.

- Tang: trong lễ nhạc Phật giáo còn có tang (miền Bắc gọi là cảnh)

bằng đồng; kích bằng cái đĩa nhỏ, hình tròn dẹt. Vòng trong là nơi gõ, với

loại dùi là một que tre vót nhỏ uốn thẳng góc ở đầu mút tạo nên thanh âm

cheng cheng. Vòng ngoài là vành tang có ba lỗ nhỏ xỏ dây để mắc vào một

110

khung tròn bằng thép có cán để cầm. Tang có âm vang thanh tao dùng để hoà

theo giọng tán, tụng cao vút, thỉnh thoảng điểm tiếng chuông mõ trầm lắng.

- Mõ: thường bằng gỗ mít tạc thành hình tròn khoét rỗng, dùng trong

khi kinh hay xướng, tán với nhiều kích cỡ khác nhau. Nếu dùng để báo hiệu

tập hợp hay báo động cấp cứu, dân gian lại dùng mõ đẽo từ gốc tre, hay mõ

dài khoét từ thân cây mít.

- Trống: phổ biến ở Quảng Trị là trống cái và trống con. Trống cái là

loại trống lớn nhất treo trên giá đứng, dùng để phối hợp với chiêng trong

nghi lễ cúng tế ở làng xóm. Cũng còn thường dùng để báo hiệu tập hợp, giải

tán hay đánh giọng ba để cổ vũ kích thích trong các cuộc đua tài.

Trống con: thường dùng cho đội cổ nhạc, kích cỡ vừa cho một người

đeo qua vai, vừa đánh với hai dùi nhỏ, hoặc có thể để trên một giá ba chân.

Trống con thường dùng hoà tấu với kèn bóp, đàn nhị hay xập xoã trong

những khúc âm nhạc nghi lễ cúng tế, tang ma hay hội hè.

Cũng loại bộ gõ còn có sanh hay sênh thường làm bằng gỗ trắc, gõ vào

nhau để tạo âm thanh. Loại lớn dùng cho các ông cai chỉ huy phường âm

công gánh đám, ra hiệu cho các đô tuỳ. Loại nhỏ dùng đệm trong các cuộc

hoà tấu của đội nhạc cổ, đặc biệt trong diễn xướng nói vè.

Nhạc khí bộ hơi:

Gồm có ống sáo, ống tiêu hay ống địch phụ hoạ khi ngâm thơ hay diễn

xướng dân ca và phổ biến nhất là loại kèn bóp.

Kèn bóp: có miệng kèn như ống loa, thân kèn nhỏ được xoi lỗ, chuôi

kèn như một chuỗi xâu kèn có đính lưới gà để tạo nên âm thanh. Người thổi,

miệng ngậm chuôi kèn, hít hơi bằng mũi, phình má để thổi, điều tiết liều

lượng hơi và bấm các lỗ thoát hơi để tạo nên âm vực cao, thấp. Kèn được

dùng hoà tấu với trống con, đàn nhị trong các lễ hội đình đám.

Nhạc khí bộ dây:

Thông thường có đàn nhị, đàn nguyệt, cá biệt còn có các loại đàn khác

như đàn bầu, đàn tranh...

- Đàn nhị: là một loại nhạc khí xuất phát từ Mông Cổ, truyền sang

Trung Hoa và vào Việt Nam, gọi là đàn nhị vì có hai dây. Cấu trúc gồm có

thùng đàn, cần, ngựa và dây. Ở dạng dân dã nhất, thùng đàn là một cái gáo

dừa xói 2 lỗ, tra vào một cái cần. Miệng gáo được bọc bằng bong bóng trâu

hay da, ở đầu cần khét hai lỗ, tra hai cái trục để buộc 2 dây đàn. Giữa cần

đàn có con ngựa để kê 2 dây. Chặng giữa dây có một cái khuyết cột vào cần

111

đàn, di chuyển lên xuống đều được. Nơi miệng gáo gần lỗ tra cần gắn một

khối nhựa thông (bạch tùng du). Khi đàn, tay trái cầm cần nhấn lên dây điều

khiển tiết điệu, tay mặt cầm cung bằng tre buộc đuôi lông ngựa (mã vĩ) kéo

qua kéo lại, lông đuôi ngựa đính bột nhựa thông cọ với dây đàn tạo nên âm

thanh. Người khá giả có thể dùng gỗ trắc làm cần đàn và thùng đàn, hoặc

đóng bằng ngà và bịt mặt bằng da kỳ đà hay da trăn.

- Đàn nguyệt: Thùng đàn hình tròn, cần đàn dài hơn 5 tấc, gồm có 4

dây 8 phím; về sau chỉ dùng 2 dây.

- Đàn bầu: Còn gọi là đàn độc huyền vì chỉ có một dây. Gọi là đàn bầu

vì ở cần đàn có tra một cái bầu để khuếch đại âm thanh. Đàn này vốn phát

xuất từ miền Bắc. Cấu trúc gồm một hình khối chữ nhật, 2 đầu đóng bít, cần

đàn gắn vào đầu bên trái so với người đàn. Giữa cần tra một cái bầu, buộc

một sợi dây đồng căng thẳng vào trục vặn ở gần đầu kia. Khi đàn dùng một

mảnh tre vót nhọn hay một phím ngà mà gảy.

- Đàn tranh: Xuất xứ từ Trung Hoa, lúc đầu chỉ có 12 dây, về sau cải

tiến thành 16 dây nên còn gọi là thập lục huyền cầm. Cấu trúc gồm một

thùng đàn bằng gỗ đục rỗng, mặt trên gỗ tượng cho trời, mặt dưới bằng

tượng cho đất. Trên mặt thùng đàn gắn 16 dây đồng dựa trên 16 trụ. Khi đàn

dùng đầu ngón tay có đeo phím kim loại để gảy, tay trái nhấn trên dây để

điều hoà tiết điệu.

Hầu hết các nhạc khí cổ truyền trên đây đều dược dùng để hoà

tấu các khúc thức âm nhạc phục vụ nhiều mặt sinh hoạt của người dân từ lễ

hội đến sân khấu tuồng và đàn hát dân ca. Âm nhạc cổ truyền và các loại

nhạc cụ là các thành tố quan trọng đã góp một tiếng nói nghệ thuật vào bức

tranh văn hóa chung trong đời sống nhân dân Quảng Trị. Duy trì và phát

triển nó, làm cho nó sống trong lòng xã hội đương đại là rất cần thiết, không

thể coi nhẹ.

2.2-Nghệ thuật dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số

2.2.1- Các loại hình dân ca:

Nhìn chung về hát, múa cả hai dân tộc Bru - Vân Kiều và Pakô

không mấy cách biệt và lấy làm phong phú.

Về múa, cả hai dân tộc đều múa rất tự do, không có bài bản,

không có tên gọi. Một vài động tác múa ở người Bru - Vân Kiều gọi là Ajưn

Bru - Vân Kiều và múa ở người Pakô gọi là Ajưn Pakô thường do thanh

niên, trung niên và các ông già múa trong lễ hội đâm trâu, mừng lúa mới,

112

trong đám ma. Nữ giới không tham gia múa. Thường trong đám ma, mọi

người đến chia buồn và hát điệu nhảy A-roai. La đám ma nhưng tiết tấu âm

nhạc trong lễ hội này rất đa dạng, khi trầm buồn xúc động khi sôi nổi rộn

ràng. Đặc biệt về hình tượng múa có những động tác vô cùng độc đáo. Hai

người quay lưng lại với nhau, hướng mặt theo hai ngọn đuốc đi đầu và đi

cuối thể hiện tâm trạng của người chết. Một phần không muốn rời bỏ ngôi

nhà nơi mình sinh ra; một phần cũng muốn được đến với cõi âm là ngôi nhà

mồ.

Mỗi dân tộc sử dụng riêng một vài làn điệu dân ca cho dân tộc

mình, tên gọi có thể khác nhau nhưng chức năng thì giống nhau nếu không

nói cũng chỉ là một. Tà-oái và Xà-nớt là những làn điệu được người

Bru - Vân Kiều sử dụng phổ biến nhất. Tà-oái là hát giao duyên và Xà-nớt là

kể thơ. Con trai, con gái người Bru - Vân Kiều đến tuổi trưởng thành đều

biết hát giao duyên. Vào những mùa trăng, mùa đi sim từng tốp thanh niên

nam nữ thường rũ nhau ra chòi giữ rẫy, ven bờ suối tâm tình, vừa thổi kèn

vừa hát giao duyên rất tình tứ. Cũng gần như hát giao duyên của người Kinh,

thoạt đầu những cô gái ướm hỏi nhẹ nhàng kín đáo: Nghe tin anh đến lòng

em mãi đợi/Nge tin anh đến lòng em mong chờ/Thuốc lá ngon, trầu cau để

sẵn/Đón chờ anh đến chiều nay/Em đón đầu đường, em chờ đầu ngõ/Anh

đến … mừng khôn xiết, bối rối khôn chừng… Và người con trai đón nhận,

tâm tình: Lời nói qua lòng anh xao xuyến/ Đừng găm thành nỗi nhớ trong

anh/Anh chỉ là người yếu vía/ Đừng để anh như kẻ mất hồn… Nó mang tính

tự sự kể lể, đầy ngẫu hứng như lối kể thơ gọi là Xà-nớt.

Dân ca của người Pakô có các làn điệu Cha-chấp, Cà-lơi, Tà-

chấp và điệu hát Xiêng. Săm-bẹ. Điệu hát Cha-chấp của người Pakô là một

điệu hò mang tính tự do, ngẫu hứng. Thường được sử dụng trong việc tỏ tình

giữa trai gái và trong các lễ hội, gần như kiểu hò đối đáp của người Kinh hay

Tà-oái của người Bru - Vân Kiều. Trong khi làn điệu Cà-lơi là làn điệu hát

chào mừng, thăm hỏi nhau của người Pakô trước khi mở tiệc uống rượu cần.

Làn điệu Tà-chấp là điệu hát kể (kể lại cuộc đời, cuộc tình hay một sự việc)

như hát Xà-nớt của người Bru - Vân Kiều. Đặc biệt người Pakô có điệu hát

Xiêng là làn điệu dân ca mới, nội dung thường mang tính thời sự, đương đại.

Có cấu trúc âm nhạc khá chặt chẽ với những tiết nhạc, câu nhạc rõ ràng. Xét

về mặt âm nhạc, đây là một làn điệu dân ca hoàn chỉnh của người Pakô.

Trong khi A-roai là điệu khóc và kể lể về cuộc đời của người

chết trong đám tang, thường chỉ a-roai cho thủ lĩnh, những người cao tuổi

(trẻ con và dân thường không a-roai). Trong một đám ma, thường có từ 5-6

113

người a-roai, tùy theo hiểu biết của người kể về người đã quá cố và tài ứng

tác mà có nội dung dài hay ngắn, hay dở khác nhau. Vì vậy người biết a-roai

thường rất ít. Về làn điệu a-roai giữa người Bru - Vân Kiều và Pakô giống

nhau, chỉ khác nhau ở nội dung và ngôn ngữ khóc, kể. Và Adên cũng đều là

lối hát đối đáp, tâm sự chung của hai dân tộc. Khi thì kể lể để tìm lại lai lịch

dòng họ, khi thì hòa giải những điều xích mích, thậm chí đòi nợ… Có thể

xếp Adên là làn điệu dân nhạc cổ xưa nhất mà các dân tộc miền Tây Quảng

Trị còn lưu giữ được.

2.2.2- Các loại nhạc cụ:

Có thể nói, âm nhạc dân gian của các dân tộc thiểu số ở miền

núi có tính chất cộng đồng hơn ở miền xuôi. Hầu như mọi người, ai ai cũng

đã tắm mình trong đời sống âm nhạc cộng đồng; đã tự mình gõ thanh la,

chiêng, xập xoã, đánh trống, thổi kèn, gảy đàn trong các lễ hội và các sinh

hoạt khác.

Như đã trình bày ở tập tục đi sim, Oát và Xà nớt là hai làn điệu

dân ca được người Bru- Vân Kiều sử dụng phổ biến nhất và có những loại

nhạc cụ hỗ trợ tương ứng. Tương tự lễ tế thần linh, lễ tang phải có thanh la,

chiêng, trống; mừng lúa mơi phải có nhạc cụ xa-rờ; lễ cúng cầu hồn phải có

sáo pi... Nhìn chung nhạc khí của 2 dân tộc này phần lớn tương tự nhau và có

một số lượng phong phú trên 20 loại. Để tiện nắm bắt, xin được trình bày

các loại nhạc cụ dùng chung, nhạc cụ nào sử dụng riêng cho từng dân tộc sẽ

kèm chú thích.

Bộ gõ nhạc khí: Gồm các loại chiêng cồng, thanh la và trống.

- Chiêng (cuông): Nguyên liệu để chế tác chiêng và thanh la là

kim loại đồng. Các sản phẩm này hầu như họ đặt mua tại các làng nghề đúc

đồng truyền thống của người Việt hoặc do những tư thương người Việt đưa

lên, người Lào đưa sang buôn bán trao đổi. Có nhiều loại chiêng, loại nhỏ

gọi là môông, loại lớn gọi là xuâng hay koòng làm bằng chất liệu đồng với

nhiều tỷ lệ pha chế hợp kim khác nhau: koòng mút bằng đồng đen, koòng

talor bằng đồng pha bạc, koòng taras bằng đồng đỏ. Cồng và chiêng là các

nhạc cụ dùng chung cho hai dân tộc.

- Thanh la (pờ ra-na): cũng nhiều loại, có loại lớn nhưng cũng có

loại nhỏ chỉ nhích hơn chiếc đĩa. Thanh la được dùng trong lễ cưới, đám ma,

cúng tế và cũng có thể gõ suông mỗi sáng cho vui. Tuỳ tỷ lệ pha chế đồng và

kích cỡ mà thanh la được chia làm thành nhiều loại: tre, mát, kidol, tau,

prao... Thanh la là loại nhạc cụ dùng chung cho hai dân tộc, dùng trong các

114

lễ hội đâm trâu, lễ cúng thần linh, đám ma. Nếu đánh trong nhà thì chỉ đánh

riêng, không được đánh cùng với chiêng và trống.

Cũng như các tộc người sống ở trường sơn Tây nguyên, các nghệ nhân

Bru - Vân Kiều và Pakô khi có trong tay những chiếc cồng chiêng đồng họ

tự lên dây chiêng để sử dụng theo mục đích riêng của mình. Chiêng thường

dùng riêng từng chiếc chứ không phối âm với nhau trong bất cứ lễ hội nào.

Riêng người sử dụng thanh la có thể linh hoạt dùng bàn tay, ngón tay

gõ vào tạo nên những cung bậc âm thanh phong phú để biểu tỏ tình cảm.

Thanh la còn được dùng như một thứ ngôn ngữ hoà giải xích mích. Khi có

chuyện xích mích giữa các nhà, già làng cầm thanh la đến mỗi nhà gõ lên

thành một điệu nhạc. Nếu gia chủ chưa nguôi giận thì gõ lên thanh la mình

để biểu tỏ tình ý, già làng tiếp thu và sang gõ lại y như thế cho nhà bên kia

nghe. Nếu giải hòa thì cùng gõ lên một tiết điệu như nhau, biểu thị sự nhất trí

giải hòa.

- Trống (xầng cơ-rờ): Được chế tác từ thân cây gỗ rêệc đục

ruột tạo tang trống như một thân cây khóet rỗng. Có hai loại trống: Trống to

bịt bằng da bò, da trâu hay da voi, chỉ dùng trong các lễ hội lớn. Trống dài

nhỏ mặt, bịt bằng da hoẵng, da nai hay da bò để làm mặt trống, dùng khi

múa hát trong các ngày lễ hội có làm thịt một con dê trở lên. Khi trong bản

có người qua đời mới được làm trống và chỉ sử dụng trống cũng như thanh la

(pờ ra-na), chiêng (cuông) trong lễ tang, lễ đâm trâu, lễ tế thần linh, lễ cúng

cho người đau ốm khi có mời thầy cúng. Trống là các nhạc cụ dùng chung

cho hai dân tộc, chỉ được dùng trong các lễ lớn, không được phép sử dụng

bừa bãi.

Ngoài ra, còn có một loại nhạc cụ độc đáo khác gọi là Xa-rờ có

thể xếp vào bộ gõ, sử dụng trong lễ hội đâm trâu và mừng lúa mới. Xa-rờ là

một cây tre vừa tay cầm dài khoảng 2,5m đến 2,8m, phần trên là hai nẹp tre

được uốn hình vòng cung, nối qua hai sợi dây gai buộc chéo đối xứng nhau.

Chính giữa là một ống kim loại (thay ống gỗ trước đây) bên trong là những

lục lạc bằng gỗ cứng, sao cho khi vận động thanh xa-rờ thì nơi đó phát ra

những âm thanh lóc cóc tạo cho không khí lễ hội thêm phần nhộn nhịp.

Nhạc khí bộ hơi:

Gồm các loại kèn dùng để biểu lộ tình cảm, cá biệt có loại dùng để

dạy voi, có thể mô tả tóm tắt như sau:

- Kèn Amam: là một loại sáo thân được làm bằng cây Arêng,

loại tre rừng thường dùng để làm cần rượu cần. Một đầu có lưỡi gà, gần đó

115

có chừa một lỗ thoát hơi, đầu kia rỗng đầu là đầu kèn, thổi dọc, khi thổi phát

ra tiếng dài trầm ấm. Kèn Amam thường dành riêng cho những đôi nam nữ

giao duyên, do người con gái giữ. Tối tối khi người con gái đã trưởng thành

ra ngủ riêng ở nhà xu thường thổi kèn này để gọi bạn. Nếu người con trai

được cô vừa ý, anh ta được cho thổi kèn amam và hát. Khi thổi hai người

ngồi kẹp chéo chân nhau, người thổi thì tự tình như nói, người nghe thì ngậm

đầu rỗng kia vào miệng, phùng má. Vòm họng lúc này có chức năng cộng

hưởng như hộp đàn. Cái hay của kèn Amam và trình độ của người sử dụng

loại nhạc cụ này là nỗi niềm tâm sự của đôi nam nữ, (kể cả những cụ ông cụ

bà xa cách mấy mươi năm bây giờ gặp lại) đều được biểu lộ tuôn trào, khiến

người nghe ai ai cũng đều xúc động. Amam là nhạc cụ dùng chung cho hai

dân tộc.

- Kèn ta-ri-al: Cũng là một ống trúc, dài hơn gang tay, có dùi 5

lỗ tạo nên 6 thanh, dùng để thổi những điệu hát vui. Thường cứ mỗi tối, trai

bản cầm kèn này sang bản có con gái để tìm hiểu. Họ kéo thành đoàn đi

quanh bản rồi kéo đến nhà xu. Anh nào có người yêu thì được thổi kèn

amam, anh nào không thì thổi kèn ta-ri-al cho đến khuya rồi về nhà bạn ngủ.

Kèn này còn thổi trong các hội vui cũng dùng cho người đi làm ăn xa trở về

thổi ở đầu bản báo cho bà con biết và dùng để dụ voi hay điều khiển voi

(Nhạc cụ riêng của người Bru - Vân Kiều).

- Sáo khui: Thân được làm bằng ống nứa lóng dài, loại tre rừng

có tên là alia. Một đầu ống sáo có sử dụng mắt tre, trên thân tre khóet 4 lỗ

chính và 6 lỗ phụ để thoát hơi. Cao độ chủ yếu do 4 lỗ chính. Sáo khui được

thổi dọc, với âm điệu 6 cung trầm buồn, ngân dài, trầm bổng khác nhau.

Nhạc cụ này sử dụng làm nhạc đệm cho người hát Xà-nớt, biểu thị lòng yêu

thương kính trọng nhau hoặc ghi nhận công lao của những người có công với

mình hay với dân bản (Nhạc cụ riêng của người Bru - Vân Kiều).

- Sáo Pi: Thân là ống tre nhỏ, dài khoảng 80cm, đường kính

1,5cm có lưỡi gà bằng đồng hoặc bằng bạc cũ. Mặt trên sáo Pi có 4 lỗ và 1 lỗ

ở mặt dưới. Sáo Pi thường được sử dụng trong lễ cầu hồn, cúng người ốm;

không thổi trong đám ma (Nhạc cụ riêng của người Bru - Vân Kiều).

- Sáo Tà-ring: Còn có tên gọi Tà-reng, sáo thổi dọc, có hai loại

ngắn dài. Loại ngắn chiều dài 16cm, có 4 lỗ. Đây là loại sáo hay được thổi

vào ban đêm lúc một mình giữ rẫy. Tiếng sáo bấy giờ có tác dụng vừa giải

buồn vừa đuổi thú. Tà- ring loại dài cũng chỉ 16cm, được thổi trong những

dịp đông người, nữ hát nam thổi và mọi người cùng vỗ tay bắt nhịp (Nhạc cụ

riêng của người Bru - Vân Kiều).

116

- Kờng: Gần như Amam, Kờng cũng là loại sáo dài khoảng

20cm, có lưỡi gà nằm giữa thân. Khi thổi dùng tay luyến láy ở hai đầu ống

sáo. Kờng dùng trong hát hò giao duyên nhưng tính chất thì cực kỳ riêng lẻ,

chỉ một một người thổi một người nghe mà thôi (Nhạc cụ riêng của người

Bru - Vân Kiều).

- Tù và: Tù và (tăng-koi) làm bằng sừng trâu, được dùng khi có

việc hệ trọng, thường để tập hợp bộ tộc. Giai điệu tù và đơn gian nhưng âm

hưởng vang xa xuyên các khu rừng, âm sắc phát ra trầm hùng, lạnh lẽo,

thiêng liêng. Nó chỉ được dùng trong các lễ hội của làng, do già làng thổi.

Trước khi sử dụng phải làm lễ cúng lớn, thường con dê hoặc trâu bò (Chung

cho cả hai dân tộc).

Nhạc khí bộ dây:

Gồm có đàn Pơlửa, đàn tinh- ông, đàn abel, đàn achung

- Đàn Pơ-lửa (prẩy): cấu trúc giống đàn nhị nhưng lại có từ 4-7 dây,

thân làm bằng ống tre lồ ô, một loại tre gọi là aho. Đàn có 2 dây cách nhau

một quảng 2 trưởng, có thể kéo bằng dây cung, hay dùng ngón tay gảy. Dây

đàn là một thứ dây rừng rất bền có tên gọi Tờroa, kéo bằng một thanh nứa

nhỏ, bôi trơn bằng nhựa thông, thường dùng đệm cho các bài hát đi sim của

nam nữ thanh niên (Nhạc cụ riêng của người Bru - Vân Kiều).

- Đàn tinh-tông (Ta-lư): Đàn Ta lư được làm bằng gỗ mớc, cấu

trúc gần giống đàn măng-đô-lin, nhưng bầu đàn nhỏ, cần đàn dài hơn và có

từ 2 - 4 dây. Kích cỡ cần đàn, thùng đàn không ấn định rõ ràng mà hoàn toàn

tùy thuộc vào người làm. Thường to thì âm thanh ấm hơn. Dây đàn được làm

bằng dây Tơroa vừa bền, sử dụng lâu ngày càng săn chắc. Cây đàn Ta-lư

truyền thống chỉ có hai dây và cách nhau một quãng 5 đúng. Trong thời kỳ

chống Mỹ, đàn Ta-lư được cải tiến rất nhiều dạng, thậm chí thêm vào nhiều

dây song để có âm hưởng chủ đạo của tiếng đàn Ta-lư thì phải là chiếc đàn

truyền thống 2 dây như đã mô tả. Đàn Ta-lư thường dành cho thanh niên và

trẻ em thường chơi với những giai điệu vui nhộn, trẻ trung, rộn ràng. (Nhạc

cụ ban đầu của người Pakô, nay phổ biến chung cả hai dân tộc).

- Đàn Abel: Là loại đàn kéo như cây đàn nhị ở người Kinh.

Thân dài khoảng 40cm bằng tre ala. Đàn có một dây làm bằng dây đoát, từ

sợi dây đoát đã cột sẵn vào thân đàn có nối thêm một sợi dây thứ hai bằng

dây đay, đầu sợi dây có gắn miếng vảy trút để ngậm vào miệng. Đàn được

kéo bằng một cần tre nhỏ, bôi trơn bởi nhựa thông. Abel khi đàn, người chơi

xử lý cao độ tuỳ theo tiết điệu mà tăng hay giảm độ chùng của sợi dây bằng

117

vỏ trút ngậm ở miệng, sau đó là xử lý ngón. Như vậy cao hay thấp là do chủ

quan người đánh điều khiển.

Abel không sử dụng chốn đông người. Nó là loại nhạc cụ bày tỏ

tâm sự nỗi niềm, thường vào ban đêm hoặc tờ mờ sáng. (Nhạc cụ riêng của

dân tộc Pakô).

- Đàn achung: Cũng là một loại đàn nhưng làm bằng một ống tre

tươi, là một loại nhạc cụ thô sơ, tạm thời. Đàn có 2 dây được tách ra từ vỏ

ống tre, căng lên bằng 2 phím ngựa, gảy vào dây tạo ra âm thanh đơn sơ,

dùng để đệm khi hát. (Nhạc cụ riêng của người Bru - Vân Kiều).

Ngoài ra, các dân tộc ở miền tây còn dùng toòng, là hai thanh tre gọt

mỏng để đánh khi đi giữ rẫy; mõ, atôốc cùng xập xoã, lục lạc...

Nhìn chung, cuộc sống ngày thường cần cơm ăn áo mặc thì

trong đời sống tinh thần người Bru - Vân Kiều và Pakô cũng cần những làn

điệu dân ca và âm thanh của núi rừng trong tâm hồn của họ. Các làn điệu dân

ca, các loại nhạc cụ vừa giới thiệu trên đây tuy chưa phong phú và kỹ thuật

chế tác chưa cao nhưng nó đã giúp cho các dân tộc rung cảm chân thành, tạo

cho họ sức sống trường tồn từ thế hệ này sang thế hệ khác.

118

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, tr.21.

[2] Trần Thanh Hải, Chuyện trạng Vĩnh Hoàng - Báu vật sống trong

đời sống văn hóa Vĩnh Linh, Tạp chí Cửa Việt số 239, 2014.

[3] Nguyễn Công Trứ, Sớ điều trần, Lịch sử chế độ phong kiến Việt

Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà nội 1960, tr.436.

[4] Dương văn An, Ô châu cận lục, tr.269.

[5]- Lương An, Bùi Dục tài và chiếc gậy đánh Tần Sở, Tạp chí Văn

hóa, số 2, tr. 31-32.

[6]- Lương An, Những tác giả cũ trước năm 1945, Tuyển tập Lương

An, Xxb Thuận Hóa-Huế, 2004.

[7]- Tập thơ ở dạng chép tay, giấy bản khổ 20x10cm, viết bằng chữ

Hán (chữ thảo) gồm 132 trang. Hiện lưu trữ ở Thư viện Hán Nôm Hà Nội,

ký hiệu VHv 1425.

[8]- Theo hồi ký Bước qua đầu thù,Trần Hữu Dực, Tập1, tr.106.

[9]- Thanh Sơn, Biên niên các Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, Tạp chí Văn

hóa Quảng Trị, số 17.

[10]- Theo “Sơ thảo lịch sử Đảng thôn Lập Thạch” do tập thể tác giả

Trần Hữu Dực, Lê Thị Diệu Muội, Hoàng Thị Ái, Lê Hoạch, Nguyễn Xuân

Trâm biên soạn.

119