cƠ sỞ khoa hỌc vÀ thỰc tiỄn tƯ vẤn phẢn biỆn xà hỘi …
TRANSCRIPT
HỘI KIẾN TRÚC SƯ VIỆT NAM
VIỆN KIẾN TRÚC
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN TƯ VẤN PHẢN BIỆN XÃ HỘI VỀ KIẾN TRÚC
Nhóm nghiên cứu
Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Văn Dương
Đồng tham gia: KTS. Nguyễn Thúc Hoàng
Ths. KTS. Nguyễn Thị Kim Anh
Hà Nội, 2014
2
MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................ 4
PHẦN II. NỘI DUNG ................................................................................................................................... 6
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT TƯ VẤN PHẢN BIỆN XÃ HỘI VỀ KIẾN TRÚC ................................ 6
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM: 6
1.2. SỰ CẦN THIẾT TVPB VỀ KIẾN TRÚC 10
1.3. MỤC TIÊU CỦA TVPB VỀ KIẾN TRÚC 11
1.4. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG TVPB VỀ KIẾN TRÚC 12
1.5.THỰC HIỆN TVPB Ở NƯỚC TA VÀ TRONG LĨNH VỰC KIẾN TRÚC 14
Thực tiễn TVPB ở nước ta .................................................................................................................... 14
Thực tế hoạt động tư vấn phản biện về kiến trúc – quy hoạch xây dựng. ............................................. 21
Quản lý nhà nước đối với các hoạt động TVPB XH về kiến trúc ......................................................... 23
Nhìn nhận chung ................................................................................................................................... 24
CHƯƠNG II: CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CƠ BẢN LÀM NỀN TẢNG TVPB KIẾN TRÚC ........................................................................................................................................................... 27
2.1. CƠ SỞ CHUNG TVPB VỀ KIẾN TRÚC 29
Nhóm cơ sở về pháp lý ........................................................................................................................ 29
Nhóm cơ sở khoa học về chuyên môn .................................................................................................. 29
Nhóm cơ sở về thực tiễn ....................................................................................................................... 30
2.2. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CƠ SỞ 30
2.3. MỘT SỐ CƠ SỞ CHO ĐỐI TƯỢNG CỤ THỂ 31
Cơ sở TVPB đồ án quy hoạch xây dựng chung, đô thị ......................................................................... 31
Cơ sở TVPB đồ án thiết kế công trình kiến trúc ................................................................................... 32
Cơ sở TVPB tuyển chọn phương án thiết kế kiến trúc công trình ........................................................ 35
3
CHƯƠNG III: NGUYÊN TẮC VÀ HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG TVPB KIẾN TRÚC ...................... 38
3.1. NGUYÊN TẮC CHUNG 38
3.2. NGUYÊN TẮC RIÊNG 39
Đối với bên thực hiện TVPB ................................................................................................................. 39
Đối với bên yêu cầu TVPB ................................................................................................................... 40
3.3. CÁC HÌNH THỨC TVPB KIẾN TRÚC 40
Hình thức tư vấn phản biện kiến trúc chủ động ................................................................................... 40
Tư vấn phản biện kiến trúc theo cơ chế đặt hàng .................................................................................. 41
3.4. THIẾT CHẾ VÀ GIẢI PHÁP 42
CHƯƠNG IV. XÂY DỰNG QUY CHẾ TƯ VẤN PHẢN BIỆN XÃ HỘI VỀ KIẾN TRÚC ………. 47
ĐỀ XUẤT NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH DỰ THẢO QUY CH Ế TVPB XH VỀ KIẾN TRÚC CỦA HỘI KTSVN……………………………………………………………………………………………………..48
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................... ……….53
KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... ……….53
KIẾN NGHỊ .................................................................................................................................... ……….55
SỬ DỤNG KẾT QUẢ TVPB HIỆU QUẢ ................................................................................... ……….56
PHỤ LỤC 57
Tài liệu tham khảo 57
4
PHẦN I. MỞ ĐẦU
Có lẽ tất cả chúng ta đều đồng ý rằng phản biện là nhu cần lớn trong tư duy và
trong hành động, của cá nhân, của xã hội, và trong mội hoạt động của nhà nước.
Thiếu phản biện đương nhiên là chúng ta thiếu một phần tương đối quan trọng
trong một chỉnh thể thống nhất.
Các luật sư chuyên về tranh tụng hàng ngày sử dụng phương pháp chiến đấu lý
luận gọi là Devil’s Advocate (biện hộ cho Chúa Quỷ). Người devil’s advocate
đóng vai phe địch, tấn công phe ta, để phe ta tập đở đòn và phản công. Không có
devil’s advocate thì trăm trận trăm thua, vì khi lâm trận ta sẽ đụng quá nhiều bất
ngờ bí hiểm. Phản biện là tiến trình tự nhiên của sáng tạo. Không có sáng tạo, nếu
ta không có phản biện.
Mọi hoạt động, hành động của con người thường được bắt đầu từ tình cảm đến
lý trí đó là một quá trình từ cảm tính đến lý tính.
Về lĩnh vực kỹ thuật- KHCN thiên hướng nhiều từ lý trí, còn nghệ thuật Xã hội
Nhân văn phần lớn lại từ cảm xúc.
Kiến trúc bao hàm cả hai thiên hướng trên. Khi sử dụng tư duy, con người phải
đối mặt với 2 trạng thái, chủ quan và khách quan.
Tổ hợp “cân bằng” được trạng thái trên một cách đúng đắn và tối ưu, phụ thuộc
vào khả năng, trình độ, quan điểm của từng người, cũng như các tác động từ thực
tế khách quan đối với từng sự việc và cho kết quả khác nhau.
Để đảm bảo kết quả tốt và chính xác, đảm bảo giá tri về thực tiễn cũng như về
mặt tâm lý, cần có sự “thẩm định” lại, nhằm đánh giá khách quan, đồng thời đóng
góp thêm ý kiến để xử lý, hoàn thiện…. giúp cho chủ thể xem xét lại trước khi
quyết định. Hoạt động ấy được gọi là “Tư vấn phản biện” (TVPB).
5
TVPB được sử dụng không chỉ đối với lĩnh vực kiến trúc mà hầu như ở mọi
ngóc ngách cuộc sống đều cần thiết với đa dạng hình thức.
Tư vấn phản biện từ các vấn đề lớn thuộc chiến lược, các vấn đề lập pháp, hành
pháp, đến các giải pháp thực hiện cho từng đối tượng cụ thể.
Tư vấn phản biện đối với chuyên môn các lĩnh vực khoa học công nghệ, xã hội
nhân văn cho đến các hoạt động của các tổ chức các nhân trong cuộc sống … cũng
cần có các ý kiến khách quan – TVPB, tùy thuộc vấn đề mà có các mức độ tương
ứng.
Như vậy tư vấn phẩn biện xã hội nói chung, tư vấn phản biện xã hội về lĩnh vực
Quy hoạch – Kiến trúc đóng vai trò cấp thiết và quan trọng trong đời sống xã hội
của con người, xã hội ngày càng phát triển vai trò của tư vấn phản biện càng góp
phần vào quá trình phát triển đó.
6
II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT TƯ VẤN PHẢN BIỆN XÃ HỘI VỀ KIẾN TRÚC
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM:
- Phản biện xã hội
Trước hết khái niệm phản biện là gì? Phản biện là từ Hán Việt, theo triết tự thì
“phản biện” có nghĩa là bàn luận theo hướng hoặc theo cách ngược lại, hoặc là sự
tranh luận, tranh cãi.
Do đó, có thể hiểu phản biện là dùng chứng cứ, lập luận để bác bỏ chứng cứ,
lập luận đã được đưa ra trước đó. Theo đó, phản biện là sự tranh luận, tức là đưa ra
lập luận để làm rõ đúng – sai. Trong phản biện phải có các luận cứ để làm rõ cái
đúng, cái sai của vấn đề đang tranh luận.
Vì vậy, phản biện khác với góp ý kiến, kiến nghị không đòi hỏi phải có đủ căn
cứ khoa học, thực tiễn. Là sự tranh luận, phản biện bao hàm cả biện luận và phản
biện luận, chứ không chỉ là đồng tình, xuôi chiều. Trong phản biện không chỉ là
bác bỏ, phủ định, mà có thể có cả sự bổ sung, làm rõ hơn vấn đề từ các góc độ,
phương diện khác nhau. Do đó, phản biện không đồng nhất với phản bác, bài xích.
Phản biện có nội hàm rộng hơn phản bác. Phản bác chỉ là một khả năng, một tình
huống có thể có trong phản biện.
Trong khái niệm phản biện xã hội, chắc chắn có những nội dung của khái niệm
gốc- phản biện. Phản biện xã hội là sự phản biện của các thiết chế xã hội, lực lượng
xã hội, tức là sự biện luận, thẩm định, đánh giá của các lực lượng xã hội đối với
những chủ trương, chính sách, đề án, dự án phát triển kinh tế- xã hội của các đảng
7
phái, của Nhà nước liên quan đến quyền lợi và đời sống của mọi thành viên trong
xã hội.
Như vậy, phản biện xã hội không đồng nhất với góp ý, kiến nghị. Nói đến phản
biện là nói đến những lập luận có chứng cứ khoa học, thực tiễn nhằm phát hiện, bổ
sung, chứng minh, khẳng định hoặc bác bỏ, phủ định một chủ trương, chính sách
hay đề án phát triển kinh tế- xã hội.
Ở các nước dù có nói đến khái niệm phản biện xã hội hay không thì trong tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị, trong cơ chế vận hành của xã hội đều có
phản biện xã hội. Phản biện xã hội là một trong những động lực kích thích xã hội
phát triển. Đảng nào thất bại trong bầu cử thì trở thành đảng phản biện xã hội đối
với đảng đang cầm quyền.
Mục đích của phản biện xã hội để làm gì?
- Pbxh có mục đích là làm cho chính sách, dự án được xây dựng có căn cứ khoa
học hơn, phù hợp với lợi ích của nhân dân hơn; ngăn ngừa chính sách, dự án bị
quyết sai; ngăn ngừa chính sách, dự án được xây dựng chỉ nhằm phục vụ cho lợi
ích của một nhóm người trong xã hội.
Ai được phép phản biện xã hội, ai có thể phản biện xã hội? Ai tiếp thu phản
biện xã hội!
- Theo quy định ở Việt Nam (quy định của cả Đảng và Nhà nước) thì Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận, các cơ quan nhà nước, các viện
nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học được phản biện xã hội.
- Về tiếp thu Pbxh, ở mức độ chung nhất là Đảng và Nhà nước. Ở mức độ cụ
thể là các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ xây dựng dự thảo chính sách, dự
án.
8
Thực tế phản biện xã hội diễn ra ở VN trong thời gian gần đây thế nào? có diễn
đàn cho phản biện XH hay ko? Có giới hạn gì (vùng cấm) trong phản biện XH hiện
nay ko?
- Đã có khá nhiều. Chẳng hạn, đó là phản biện của Liên hiệp các hội khoa học
và kỹ thuật Việt Nam đối với dự án Thủy điện Sơn La, đối với Dự án đường Hồ
Chí Minh đi qua các vườn quốc gia… Có phản biện xã hội của nhiều nhà khoa học
và hoạt động xã hội đối với dự án xây dựng và phát triển kinh tế xã hội
- Diễn đàn cho phản biện xã hội hiện nay chưa rõ. Ở mức độ chung, có thể hiểu
ai muốn phản biện phải qua tổ chức mà mình là thành viên. Thường thì cơ quan, tổ
chức chủ quản của dự thảo chính sách, dự án đứng ra mời tổ chức, cá nhân phản
biện.
Phản biện xã hội là công trình nghiên cứu nghiêm túc nên đòi hỏi nhiều kinh
phí. Không có kinh phí để điều tra, khảo sát, đánh giá… thì chất lượng của phản
biện rất thấp.
- Có giới hạn của phản biện xã hội.
Đó là lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, khối
đại đoàn kết giữa các dân tộc, đạo đức xã hội.
Đối với phản biện về chuyên môn cần làm rõ thêm một số khái niệm cụ thể về
lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành.
Khái niệm về kiến trúc:
Kiến trúc là quá trình tạo lập môi trường không gian cho cuộc sống
và hoạt động của con người, bao gồm không gian bên trong (nội thất
công trình kiến trúc) và không gian bên ngoài (không gian ngoại thất
công trình, kiến trúc cảnh quan, không gian môi trường đô thị)
9
Kiến trúc là một bộ phận trong nền văn hóa vật chất của xã hội, thực
hiện nhiệm vụ công năng, bằng ngôn ngữ hình khối, kết cấu, thể hiện
ý thức xã hội (quan điểm triết học, tôn giáo, nghệ thuật của con
người, của thời đại).
Và như vậy kiến trúc là một cấu thành, không chỉ bó hẹp ở công trình mà là
một cấu thành chính trong môi trường cảnh quan, được xuất xứ và hiện thân từ quy
hoạch xây dựng, hàm chứa các yếu tố văn hóa, lịch sử, kinh tế xã hội…
- Tư vấn
Tư vấn là hoạt động trợ giúp về tri thức và kinh nghiệm bằng cách nghiên
cứu đề xuất một vấn đề chưa có (kể cả ở phần vĩ mô), về hướng phát triển,
về các giải pháp lớn có tính nguyên tắc, hay bằng cách trên cơ sở một số vấn
đề đã có phân tích, xử lý, cung cấp thông tin, đưa ra kiến nghị về hướng
hoặc giải pháp cụ thể để khắc phục, hoàn thiện mà đề xuất ấy có tiến bộ và
phù hợp hơn cái đã đề ra.
- Phản biện chuyên môn
Là hoạt động nghiên cứu, xem xét, đánh giá về mọi mặt yêu cầu như chất
lượng các giá trị, tính phù hợp….. của một vấn đề hay một đối tượng đã hiện
hữu so với yêu cầu đặt ra.
Phản biện có thể có phần phản bác, có thể có phần đồng tình để khẳng
định thêm mặt tích cực.
Phản biện thường kèm theo nội dung tư vấn các ý kiến đề xuất.
- Tiêu chí
Tiêu chí có thể hiểu là cô đọng các yêu cầu cả về nội dung và về mức độ
đối với một sự việc hay một đối tượng nhằm hoàn thiện vươn tới gọi là tiêu
chí phát triển, đồng thời cũng là “mốc”, chuẩn mực làm căn cứ đối chiếu so
sánh khi đánh giá kết quả hoàn thành gọi là tiêu chí đánh giá.
10
Tiêu chí phát triển có thể định trước được để hướng tới. Tiêu chí đánh giá
thường được xác lập sau căn cứ vào yêu cầu đề ra của pháp lý- nhiệm vụ
quy hoạch, nhiệm vụ thiết kế công trình, các quy chế thi tuyển….
- Giám định:
Là giám sát việc thực hiện
Giám định xã hội: Là giám sát của xã hội ngoài các tổ chức chức năng,
chuyên môn được phân công. Về việc thực hiện từ đường lối chính sách, kế
hoạch đề ra… đến một nhiệm vụ cụ thể của chính quyền ở góc độ tuân thủ luật
pháp, đảm bảo yêu cầu, chất lượng, các tác động ảnh hưởng đến quốc gia, cộng
đồng, môi trường….
Kết quả giám định được thông qua văn bản, phương tiện truyền thông…..
phản ánh cho các cấp liên quan theo quy định.
Giám định xã hội có thể chủ động phát hiện, đề xuất kiến nghị, cũng có thể
thông qua các đợt lấy ý kiến cộng đồng.
1.2. SỰ CẤN THIẾT TVPB XH VỀ KIẾN TRÚC
Kết quả của hoạt động xã hội, là kết quả của quá trình hoạt động sáng tạo của
con người thường được xuất phát từ tư duy, mà tư duy thì luôn ở 2 trạng thái: cảm
tính và lý tính mang tính chủ quan và khách quan . Tổ hợp trạng thái này được
“cân bằng” phụ thuộc vào khả năng, trình độ và xuất phát điểm từng người, cũng
như các tác động từ thực tế khách quan đối với từng sự việc và từ đó kết quả có thể
khác nhau.
Kiến trúc là hoạt động sáng tạo của con người nhằm phục vụ cuộc sống của
mình và chính qua thực tiễn cuộc sống của con người đã thẩm định giá trị sử dụng
cũng như giá trị thẩm mỹ của kiến trúc.
11
Vì vậy luôn cần có sự đánh giá nhận xét, tham gia ý kiến mang tính khách quan
của cộng đồng nhằm giúp cho chủ thể tham khảo và xem xét, kiểm nghiệm. Tư vấn
phản biện không riêng với kiến trúc, mà hầu hết các lĩnh vực hoạt động đều cần có
tư vấn phản biện.
Trong xã hội hiện nay, vấn đề phản biện, góp ý chính là sự tác động mang tính
khách quan, đa chiều nhằm giúp cho con người, sự việc, hoạt động sáng tạo của
con người có hiệu quả hơn trong đời sống xã hội.
Chính vì vậy, công việc tư vấn phản biện nói chung, việc nghiên cứu “ Cơ sở
khoa học, lý luận và thực tiễn tư vấn phản biện kiến trúc” là cần thiết.
Đây là bước nghiên cứu đầu tiên, để hướng tới nghiên cứu những cơ sở lý luận
cho lĩnh vực nghiên cứu phê bình kiến trúc
1.3. MỤC TIÊU CỦA TVPB XH VỀ KIẾN TRÚC
- Hoạt động TVPB xã hội về kiến trúc nếu có hiệu quả sẽ tác động và góp phần
đảm bảo sự đúng đắn trong việc hoạch định chiến lược, các đường lối chính sách,
pháp lý phục vụ cho quản lý cũng như cho phát triển kiến trúc – quy hoạch theo
hướng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Nghị quyết TW 5- khóa VIII) bảo vệ môi
trường, phát triển bền vững. Phục vụ cho chủ đầu tư trong việc nâng cao hiệu quả
đầu tư, chất lượng và các giá trị của kiến trúc.
- Đối với phía thực hiện TVPB
Khai thác được tiềm năng trí tuệ, kinh nghiệm của giới chuyên môn tham gia
vào việc quản lý nhà nước, vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng
nền kiến trúc nước nhà.
- Đối với xã hội nói chung
Thể hiện sự phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho giới chuyên môn, tổ chức
nghề nghiệp thực hiện chức năng TVPB và giám định xã hội của mình.
Giải quyết một vấn đề có được sự công khai, minh bạch, sẽ tăng thêm sự
đồng thuận của cộng đồng xã hội.
12
1.4. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG TVPB VỀ KIẾN TRÚC
Kiến trúc là lĩnh vực hoạt động nghề mang tính xã hội cao, nó được sinh ra từ
xã hội, phục vụ cuộc sống của con người trong xã hội, và được con người sáng tạo,
điều chỉnh cho ngày càng phù hợp với công năng cũng như nhu cầu sử dụng.
Mọi hoạt động của con người đều liên quan tới kiến trúc, liên đới tới nhiều
ngành lĩnh vực và hầu hết cộng đồng, do đó sự cần thiết TVPB và quan trọng.
Phạm vi giới hạn trong nghiên cứu này là hoạt động TVPB với nội dung đầy
đủ, có tổ chức, có nghiên cứu, khai thác trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều chuyên
gia, TVPB các đối tượng có tầm quốc gia, quy mô lớn ở địa phương, có tác động
rộng rãi đến cộng đồng, hay có tính chiến lược phát triển ngành- lĩnh vực….
Các vấn đề và đối tượng sau cần và có thể TVPB:
1.4.1.Các vấn đề liên quan đến pháp lý, quản lý nhà nước
Vấn đề thuộc đường lối chủ trương, định hướng chiến lược các chính sách liên
quan đến xây dựng và phát triển nền kiến trúc nước nhà
Ví dụ: Định hướng phát triển các đô thị Việt Nam, định hướng phát triển
kiến trúc Việt Nam, định hướng chiến lược xây dựng và phát triển công trình
xanh Việt Nam, các chính sách thúc đẩy khoa học trong kiến trúc- xây
dựng….
- Các văn bản pháp lý, quản lý nhà nước đối với kiến trúc- quản lý xây dựng,
quản lý hành nghề và hoạt động kiến trúc (các luật, nghị định, thông tư, quy
định, quy chế…).
13
Ví dụ: Luật xây dựng, luật quản lý đất đai, luật nhà ở, luật đầu tư, luật kiến
trúc, luật di sản, các nghị định về quản lý chất lượng quy hoạch, kiến trúc,
bảo tồn về môi trường, luật và xây dựng về bảo vệ quyền tác giả…
- Quy chuẩn, quy phạm kỹ thuật, một số tiêu chuẩn yêu cầu sử dụng bắt buộc,
một số điển hình thống kê yêu cầu áp dụng…. một số chương trình tính toán
của nước ngoài sử dụng cho Việt Nam cần thẩm định…
- Các vấn đề liên quan đến đào tạo kiến trúc sư, nâng cao kỹ năng hành nghề,
xét công nhận hành nghề
- Ví dụ: Định hướng phát triển đào tạo kiến trúc sư ở Việt Nam; chương trình
và phương pháp, phương thức đào tạo hợp xu thế hội nhập có đặc thù riêng
(thương hiệu Việt Nam, hay chính sách sử dụng kiến trúc sư…. Cấp chứng chỉ
chuyên môn.
- Các nghiên cứu lý luận kiến trúc, tổng kết đánh giá phát triển kiến trúc từ
thực tiễn, các nghiên cứu áp dụng thành thực tiễn của quốc tế cho Việt Nam…
1.4.2. - Các đề án, dự án, đồ án, các đề cương chương trình thuộc đầu tư, thiết
kế nghiên cứu quy hoạch ki ển trúc
Các nhiệm vụ quy hoạch, nhiệm vụ thiết kế công trình kiến trúc.
Các đồ án thiết kế quy hoạch xây dựng, quy hoạch chung, quy hoạch phân
khu đến quy hoạch chi tiết thiết kế đô thị.
Các đồ án thiết kế kiến trúc công trình có quy mô lớn, có ý nghĩa quốc gia
hàng đầu địa phương, công trình ở các vị trị địa điểm đặc thù…. Các công trình
bảo tồn tôn tạo di tích di sản.
- Các công trình thuộc lĩnh vực khác nhưng có liên quan đến kiến trúc
như: Công trình cảnh quan, du lịch, tháp, cầu trong đô thị, tượng đài….
14
1.4.3. Các vấn đề cụ thể hiện hữu
Xử lý hiện trạng kiến trúc, quy hoạch đô thị nông thôn
Vấn đề bảo tồn tôn tạo di tích, di sản
Môi trường cảnh quan
1.5. THỰC TIỄN TVPB Ở NƯỚC TA VÀ TRONG LINH VỰC KIẾN TRÚC
1.5.1. Thực tiễn TVPB ở nước ta.
Trước thời kỳ đất nước ta bước vào đổi mới, do nhiều nguyên nhân khác nhau
nên chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước chưa được chú trọng đúng mức trên cả bình diện nhận
thức lý luận cũng như chủ trương, chính sách.
Nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; dân chủ hoá đời sống xã hội được mở rộng và là một
đòi hỏi tất yếu thì nhìn chung, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội ngày càng được khẳng định; việc thực hiện chức năng phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc đã được nghiên cứu và đã có những kết quả bước
đầu trong tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, việc thực hiện
chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập và nhiều vấn đề đặt ra phải tiếp tục giải quyết.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã tích cực
tham gia thẩm định để góp ý, đề xuất, kiến nghị đối với dự thảo một số chính sách,
chương trình, dự án của Chính phủ và cơ quan hành chính nhà nước các cấp, các
dự án luật, pháp lệnh do các cơ quan có thẩm quyền soạn thảo, dự thảo các chủ
trương, đường lối của Đảng cũng như đề án nhân sự trước các kỳ đại hội của tổ
15
chức đảng các cấp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đã kiến nghị với các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền điều chỉnh một số chính sách, biện pháp liên quan trực tiếp
tới quyền và lợi ích của người dân nhưng chưa thật sát với thực tiễn.
Về cơ chế phản biện, bước đầu, Mặt trận Tổ quốc đã phát huy được vai trò
của các tổ chức thành viên, các Hội đồng tư vấn của Mặt trận và nhân dân trong
hoạt động phản biện xã hội; đã xác lập được mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc
các cấp với các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền giữa chủ thể phản biện và chủ thể
nhận sự phản biện. Một số cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoạch định chủ trương,
chính sách đã chủ động gửi dự thảo đề án tới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để tranh
thủ ý kiến, cung cấp thông tin liên quan tới đề án. Trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc
tiến hành thẩm định, phản hồi ý kiến tới các cơ quan, tổ chức có dự thảo đề án
được phản biện. Trong phản biện xã hội, các bên có liên quan đã đảm bảo thực
hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo tính đảng, tính nhân dân, trên
tinh thần xây dựng và đề cao lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.
Thông qua hoạt động thẩm định của mình, những ý kiến đóng góp, đánh giá,
kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có tác dụng bổ sung, điều chỉnh dự
thảo chủ trương, đường lối, đề án của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
trên một số mặt; nêu được quan điểm của Mặt trận và phản ánh được ý chí, nguyện
vọng của nhân dân đối với quá trình ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật
của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nói trên, có thể nói sự phối hợp
giữa các thành viên trong tổ chức Mặt trận thực hiện phản biện xã hội còn chưa
chặt chẽ, chưa được hướng dẫn cụ thể; chưa thu hút và phát huy đầy đủ vai trò hoạt
động của các Hội đồng tư vấn thuộc Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; chất lượng phản biện của Mặt trận còn thấp; trình độ chuyên môn, năng lực
16
nhìn nhận vấn đề, phân tích, đánh giá và kết luận trong quá trình phản biện của
Mặt trận còn có mặt bất cập; không ít nơi, Mặt trận Tổ quốc chưa mạnh dạn phản
biện nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân; vẫn còn
có biểu hiện phản biện theo kiểu “lựa chiều”, phản biện theo ý của người lãnh đạo
hay người có thẩm quyền, thậm chí không dám nói rõ chính kiến của mình do
nhiều nguyên nhân khác nhau.
Về chủ thể nhận sự phản biện, không ít tổ chức đảng và cơ quan nhà nước các
cấp vẫn chưa ý thức được một cách đầy đủ và đúng đắn về vai trò và tác dụng phản
biện xã hội của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
Việc tranh thủ ý kiến góp ý, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc đối với dự thảo chủ
trương, chính sách, pháp luật, chương trình, dự án của một số cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền còn hình thức; Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
đánh giá: “Công tác phối hợp trong xây dựng pháp luật, chính sách chưa đáp ứng
được yêu cầu, việc các cơ quan liên quan gửi dự thảo lấy ý kiến của Mặt trận
thường quá gấp, không đủ thời gian và cơ sở để góp ý”. Ngay cả khi có ý kiến
phản biện của Mặt trận Tổ quốc thì không ít nơi, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền
ban hành dự thảo vẫn chưa có thực sự lắng nghe những ý kiến khác nhau. Thái độ
thực sự cầu thị, tin tưởng, tiếp thu ý kiến phản biện đúng, dũng cảm nhận khuyết
điểm và sửa chữa sai lầm của chủ thể nhận sự phản biện còn yếu đã làm giảm hiệu
lực, hiệu quả phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Về đối tượng phản biện xã hội, nhiều chủ trương, chính sách, đề án quan trọng
liên quan tới quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân (nhất là cấp địa phương và
cơ sở) đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành mà chưa có sự tham gia phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam chưa bao quát hết các dự thảo chủ trương, chính sách, pháp luật, đề án
quan trọng trên các lĩnh vực thuộc phạm vi phản biện xã hội của Mặt trận.
17
Về cơ chế phản biện xã hội, cơ chế phối hợp giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
các cấp với các tổ chức thành viên trong thực hiện chức năng phản biện xã hội còn
chưa rõ; cơ chế phối hợp giữa chủ thể phản biện với các cơ quan, tổ chức với tư
cách bên nhận sự phản biện còn chưa được xác định đầy đủ; vì vậy, chưa xác định
thật rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của chủ thể phản biện cũng như quyền và nghĩa
vụ của chủ thể nhận sự phản biện. Vẫn chưa có chế tài đối với trường hợp các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành chủ trương, chính sách không qua sự phản
biện, hay chậm trễ trong việc chuyển đề án để Mặt trận Tổ quốc phản biện; cũng
chưa có chế tài về sự giải trình của chủ thể nhận sự phản biện về việc tiếp thu hay
không tiếp thu ý kiến phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Điều này nói lên
hai vấn đề: Cơ chế thực hiện phản biện xã hội trong tổ chức Mặt trận và cơ chế
pháp lý cho hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận còn nhiều hạn chế và bất cập.
Những hạn chế và bất cập nói trên dẫn đến hiệu quả, hiệu lực phản biện của
Mặt trận Tổ quốc còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu. Trên bình diện chung, bên
cạnh một số thành quả đã đạt được, tác dụng thực tế qua hoạt động phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để đưa đến sự điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh
dự án, đề án do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền soạn thảo còn nhiều hạn chế; phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay chủ yếu mới chỉ dừng lại ở
hình thức góp ý.
Nguyên nhân của tình trạng nói trên có nhiều, có cả chủ quan và khách quan,
chủ yếu là:
- Do nước ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội cũng
có nghĩa là bỏ qua dân chủ tư sản, nhân dân chưa có ý thức, năng lực và thói quen
thực hành dân chủ, chưa có nền văn hoá dân chủ ở mức cần thiết; không ít cán bộ
18
lãnh đạo chưa có thói quen thực hành phong cách lãnh đạo và quản lý một cách
dân chủ.
- Nhận thức của chúng ta về mối quan hệ của các thành tố trong hệ thống
chính trị, về chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức ở tầm khái quát là tương đối rõ,
nhưng đi vào xử lý những vấn đề cụ thể thì chậm được thể chế hoá nên đã tạo ra
những lúng túng nhất định trong thực hiện chức năng, nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (trong đó có chức năng và nhiệm vụ về giám sát và phản biện xã hội).
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện phản biện xã hội
đối với Đảng, Nhà nước, nhưng lại lệ thuộc về tổ chức, cán bộ và tài chính theo cơ
chế xin - cho là một khó khăn lớn.
- Hệ thống văn bản pháp luật quy định về hoạt động phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các Hội chính trị xã hội, các Hội
nghề chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Nội dung, phạm vi phản biện, cơ chế thực
hiện phản biện đối với dự thảo các chủ trương, chính sách, pháp luật do các tổ chức
có thẩm quyền ban hành như thế nào, còn chưa được xác định rõ. Đây là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến hiệu lực, hiệu quả phản biện xã hội của Mặt trận
còn hạn chế và bất cập.
- Công tác tổ chức và cán bộ của Mặt trận, của các tổ chức đoàn thể, các Họi
chính trị xã hội còn bộc lộ một số hạn chế. Điều kiện và trang thiết bị làm việc của
Mặt trận, nhất là trang thiết bị về thông tin phục vụ việc nắm bắt và xử lý thông tin
nhiều chiều phục vụ cho nhiệm vụ phản biện xã hội còn chưa được đầu tư đủ mức.
Mặt trận cũng chưa có cơ chế thích hợp nhằm phát huy vai trò của các tổ chức
thành viên, nhân sĩ, trí thức, các Hội đồng tư vấn thuộc Uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam vào hoạt động phản biện xã hội.
19
- Một số cấp uỷ đảng và chính quyền chưa thực sự tạo điều kiện và đòi hỏi
Mặt trận phải tư vấn, phản biện, kiểm tra, giám sát đối với tổ chức và hoạt động
của mình. Từ đó, cũng chưa tạo điều kiện đủ mức để Mặt trận Tổ quốc tham gia
phản biện. Tính công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạt động của không ít tổ
chức đảng, chính quyền còn thấp nên chưa tạo ra môi trường cần thiết cho sự kiểm
soát có hiệu quả từ phía xã hội đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức này
nói chung, hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói riêng.
- Trình độ, năng lực, văn hoá dân chủ của đội ngũ cán bộ, lãnh đạo (từ phía
chủ thể phản biện và chủ thể nhận sự phản biện) nhìn chung còn những bất cập
nhất định. Do nhiều nguyên nhân, nên không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa có
thói quen đối thoại dân chủ, chưa biết cách nghe, biết xử lý những ý kiến phản
biện; vẫn có xu hướng “độc quyền chân lý”, phong cách độc đoán, mệnh lệnh,
thích nghe một chiều, không muốn va chạm.
Từ thực tế công tác phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói
chung, các Hội chính trị xã hội, các hội nghề nói riêng chúng ta có thể rút ra một số
vấn đề sau:
Thứ nhất, để phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đi vào thực
chất và hiệu quả, cần có nhận thức thống nhất trong cả hệ thống chính trị về vai trò
và tác dụng phản biện của Mặt trận, cúa các Hội chính trị xã hội, các Hội nghề.
Nhưng hiện nay một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý vẫn chưa nhận thức đầy đủ
về vai trò, tác dụng phản biện xã hội của Mặt trận, họ cho rằng phản biện xã hội
của Mặt trận là “rách việc”, “mất thời gian”; từ đó đưa đến tính hình thức, chiếu lệ
trong việc tranh thủ ý kiến phản biện của Mặt trận.
Thứ hai, Mặt trận, các Hội chính trị xã hội, các Hội nghề không thể “đơn độc”
trong hoạt động phản biện xã hội, mà cần có sự cộng đồng trách nhiệm của Đảng,
20
Nhà nước. Vậy, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả phản
biện xã hội của Mặt trận là như thế nào và đến đâu? Để có điều kiện phản biện,
Mặt trận phải chủ động về mặt thông tin và đòi hỏi hoạt động của Đảng và Nhà
nước cần có sự dân chủ hóa, minh bạch và công khai ở mức cần thiết. Trong khi
đó, mức độ dân chủ, công khai và minh bạch trong hoạt động của chủ thể nhận
phản biện, nhìn chung, còn chưa đủ mức. Vậy Đảng và Nhà nước giải quyết vấn đề
như thế nào?
Thứ ba, phản biện là một hoạt động vừa mang tính xã hội, vừa mang tính khoa
học, ràng buộc quyền và trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình phản biện.
Thế nhưng hiện nay, chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
của các tổ chức đoàn thể, Hiệp hội mới dừng lại ở chủ trương của Đảng, mà chưa
được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, vì vậy cơ chế pháp lý cho hoạt động
phản biện của Mặt trận chưa được xác định một cách rõ ràng và đầy đủ. Vậy, cần
xây dựng khung pháp lý cho hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam như thế nào?
Thứ tư, để phản biện có chất lượng và hiệu quả, chủ thể phản biện phải mạnh,
có một cơ chế thực sự thích hợp; những người tham gia hoạt động phản biện phải
có trình độ chuyên môn, có năng lực nhìn nhận vấn đề, năng lực phân tích, đánh
giá và kết luận; đòi hỏi cao về bản lĩnh, tinh thần dũng cảm, táo bạo, đề cao trách
nhiệm đối với xã hội, với Đảng và tương lai của đất nước. Còn chủ thể nhận phản
biện phải đề cao trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, xã hội và vận mệnh đất
nước, phải thực sự cầu thị, “muốn nghe”, “dám nghe”, dũng cảm nhận khuyết
điểm, tiếp thu ý kiến phản biện đúng để sửa chữa sai lầm và vươn lên. Vậy, cần
làm gì để cả bên phản biện lẫn cả bên nhận phản biện có đủ phẩm chất, năng lực
nói trên?
21
Thứ năm, muốn phản biện được, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
đoàn thể, các Hội chính trị xã hội, các Hội nghề phải giữ được một vị thế như một
chủ thể giám sát và phản biện xã hội độc lập, trong khi hiện nay, Mặt trận còn chưa
thực sự có được vị trí tương đối độc lập, còn lệ thuộc nhiều vào Nhà nước về tổ
chức, cán bộ và tài chính.
- Các tổ chức nghề nghiệp có chức tư vấn phản biện về lĩnh vực chuyên môn
của mình.
Hoạt động tư vấn phản biện về quy hoạch, kiến trúc đã hiện diện trong xã hội
nước ta đang đần được các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các đơn vị hoạt
động tư vấn quy hoach – kiến trúc quan tâm và chú trọng.
1.5.2. Thực tế hoạt động tư vấn phản biện về kiến trúc – quy hoạch xây
dựng.
Thực tế hoạt động tư vấn, phản biệt trong lĩnh vực kiến trúc rất phong phú và
đa dạng đưới các hình thức khác nhau. Hoạt động đó có thể là thông qua các hội
nghị khoa học, các buổi tọa đàm về chuyên môn quy hoạch, kiến trúc, hay các hội
đồng khoa học chuyên ngành nhằm lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia để
hoàn thiện dự án, đò án , các phương án có tính khả thi và hiệu quả.
Hoạt động tư vấn phản biện về lĩnh vực quy hoạch, kiến trúc ở ở các cơ quan
quan lý chuyên ngành, các cơ quan hoạt động về lĩnh vực quy hoạch kiến trúc và ở
các cơ quan hoạnh động tư vấn , kinh doanh xây dựng, hay kinh doanh bất động
sản.
Thực trạng hoạt động tư vấn phản biện của Hội Kiến trúc sư Việt Nam vẫn
mang tính cầm chừng, thường theo yêu cầu của các cơ quan quản ý nhà nước như:
Chính phủ, Bộ Xây dựng, Sở Xây dựng các địa phương hay các Tổng công
ty…yêu cầu băng văn bản.
22
Hội KTSVN đã tiên phong cùng xã hội về hoạt động tư vấn phản biện với
những hình thức như: Tham gia các cuộc góp ý kiến của các Hội đồng chuyên
môn, nghiên cứu phản biện bằng văn bản đối với chủ trương, đường lối, chiến lược
phát triển của đất nước của tùng địa phương. Tư vấn phản biện về các văn bản
pháp lý quản lý, đánh giá nhận xét, góp ý cho một một đồ án quy hoạch, hay một
công trình kiến trúc cụ thể.
Tuy nhiên thực trạng hoạt động tư vấn phản biện về quy hoạch, kiến trúc của
Hội Kiến trúc sư Việt Nam vẫn mang tính thụ động, chưa có tính chủ động đề xuất
hay sáng tạo trong vấn đề hoạt động tư vấn phản biện.
Trong những năm qua Hoạt đọng tư vấn phản biện về quy hoạch kiến trúc cụ
thể như: Tư vấn phản biện quy hoạch các khu đô thi của các tỉnh thành trên toàn
quốc, quy hoạch Hà Nội mở rộng.. Về Kiến trúc tham gia tư vấn phản biện nhà
Quốc Hội., Trung tâm Thể Thao Mỹ Đình, Nhà Hát Thăng Long, Trung tâm Hội
Nghị quốc gia…. Bên cạnh đó Hội mở các hội nghị khoa học về các chuyên đề về
quy hoạch và kiến trúc.
Thực chất hoạt động tư ván phản biệt về quy hoạch, kiến trúc của Hội Kiến
trúc sư hiệu quả chưa cao, do vậy tư vấn phản biện của Hội Kiến trúc sư Việt Nam
cũng chỉ dừng ở mức tham khảo, chưa có sức nặng mang tính chất điều chỉnh hoặc.
mang tính áp dụng.
Tình trạng hoạt động tư vấn phản biện về quy hoạch, kiến trúc của Hội kiến
trúc sư Việt Nam nói riêng của toàn thể xã hội nói chung do nhưng nguyên nhân
khách quan, chủ quan.
- Chưa có quy chế quy định rõ ràng về hoạt động tư vấn phản biện
- Không có nguồn kinh phí cho họt động này
- Hoạt động này thường mang tính thụ động theo yêu cầu của bên đề nghị
có ý kiến phản biện, chưa có tính chủ động mang chiến lược và đề xuất.
23
- Tổ chức Hội nghề nghiệp, giới chuyên môn được tham gia trực tiếp vào các
hoạt động biên soạn, hoặc phản biện về các văn bản pháp lý quản lý ngành như:
Luật, Nghị định, Thông tư, quy định, quy chế… hoặc một số vấn đề thuộc định
hướng chiến lược phát triển kiến trúc, phát triển đô thị….
- Tham gia các Hội đồng thẩm định, Hội đồng kiến trúc – quy hoạch các cấp,
Hội đồng thi tuyển kiến trúc, Hội đồng xét cấp chứng chỉ hành nghề….
- Tổ chức hoặc tham gia các hội nghị, hội thảo chuyên đề liên quan ngành.
- Nhiều nhất có lẽ là tham gia TVPB cho các Đồ án kiến trúc- quy hoạch xây
dựng cụ thể của nhà nước, của đầu tư tư nhân trong và ngoài nước quy mô lớn,
có đặc thù, ở các vị trí quy hoạch quan trọng, có yêu cầu cao đối với kiến
trúc…..
- Hội Kiến trúc sư Việt Nam, ngoài các hình thức trên, Hội đã tư vấn cho nhà
nước về việc thành lập tổ chức nghiên cứu về kiến trúc của Việt Nam (trước
thuộc trường Đại học Kiến trúc Hà Nội sau phát triển thành Viện nghiên cứu
kiến trúc của Bộ Xây Dựng).
Là thành viên đắc lực của “Hội đồng tư vấn KT-QH của Thủ tướng Chính
phủ”.
Đề xuất quy chế TVPB về kiến trúc của Hội Kiến trúc sư Việt Nam nhằm hợp
pháp hóa chức năng và hoạt động này.
Đề xuất “hành lang pháp lý” cho hành nghề Kiến trúc sư : Luật về hành nghề
kiến trúc.
1.5.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động TVPB XH về Kiến trúc:
- Hoạt động TVPB nói chung đã được nhà nước nhận thức rõ lợi ích cũng
như trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội.
Trong Hiến pháp đã nêu: nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Mọi tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
thực hiện quyền làm chủ của mình, giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt
24
động của nhà nước, góp phần tham gia cùng chính quyền xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trong các văn bản pháp lý thuộc từng ngành lĩnh vực rải rác
đều có các điều khoản về hoạt động TVPB, khai thác trí tuệ của giới chuyên
môn.
- Đối với các tổ chức nghề nghiệp, Nghị định về tổ chức, hoạt động và quản
lý Hội (Nghị định số 88/2003 và Nghị định số 45/2010/NĐ-CP) cũng đã nêu
quyền được tham gia TVPB và giám định xã hội…. tham gia ý kiến vào các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của Hội…,
“ổ chức lấy ý kiến để hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về ngành,
lĩnh vực…
1.5.4. Nhìn nhận chung:
Khi xã hội phát triển (đặc biệt là về kinh tế) kiến trúc – xây dựng cũng phát
triển theo, chất lượng mọi mặt về kiến trúc xây dựng cáng đòi hỏi cao, công tác
quản lý (đối với hoạt động kiến trúc xây dựng cũng như chất lượng sản phẩm)
cũng phải đáp ứng. Từ đó hoạt động tư vấn phản biện được chú ý khai thác hơn.
ĐÁNH GIÁ CHUNG:
- Hoạt động TVPB về kiến trúc không đều , còn tự phát (ở khía cạnh thời
gian, không gian địa phương hay bộ ngành trung ương, vị trí quy hoạch, ở
tính chất quy mô của đối tượng, ở hình thức TVPB…)
Mặc dù phần nào đã nhận biết được lợi ích của hoạt động này
- Pháp lý cho hoạt động TVPB nói chung và TVPB về kiến trúc nói riêng
trong thực tế đã có ít nhiều, song còn rải rác chung chung (trong Hiến pháp
quy định chung cho công dân thong qua mặt trận tổ quốc, trong lĩnh vực
ngành được quy định trong một số điều của các luật và văn bản dưới luật)
Những yêu cầu này phần lớn chỉ về nguyên tắc.
25
Thiếu cơ chế rõ rang đặc biệt kém hiệu lực, không giám sát nên vận dụng
còn tùy nghi, thậm chí nhiều chủ thể tổ chức còn đối phó chiếu lệ (ví dụ hoạt
động của hội đồng kiến trúc quy hoạch các địa phương, tổ chức các hội đồng
thi tuyên phương án kiến trúc)
- Bên yêu cầu TVPB – các chủ đầu tư chưa thật tự nguyện trong vấn đề này,
một mặt ngại phiền hà (sợ ít kiến trái chiều) mặt khác do chủ quan kèm theo
quyết đoán của người đứng đầu các cấp nên xảy ra hiện tượng việc đã coi
như quyết rồi mới hỏi, hoặc hỏi cho đủ thủ tục nhưng vẫn quyết theo ý mình.
Từ đó hiệu quả TVPB hầu như rất ít giá trị tích cực và giảm tính khách quan.
- Bên thực hiên TVPB - tổ chức nghề nghiệp và chuyên gia.
Do chưa có quy chế cho việc vận hành hoạt động TVPB về kiến trúc
(chỉ mới có quy chế cho Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam) nên các
tổ chức nghề nghiệp cũng như các chuyên gia luôn ở thế bị động.
Gần đây đối với một số vấn đề lớn hội KTSVN có mạnh dạn chủ động
đề xuất, còn nói chung yếu tố chủ động trong hoạt động TVPB còn
yếu (kể cả bên yêu cầu, cả bên thực hiện TVPB)
Cũng do chưa có quy chế việc tổ chức TVPB còn tùy nghi mỗi nơi
một kiểu, mỗi thành viên một cách, còn xảy ra hiện tượng chủ quan
theo cảm tính, hay nói cách khác là thiếu tính chuyên nghiệp.
Về mặt chuyên môn các tổ chức các chuyên gia về chất lượng nghề
tuy phần lớn đều đáng tin cậy, xong chưa có những cơ sở khoa học
mang tính thống nhất (cả lý thuyết và thực tế) nên kết quả còn bị phân
tán, khó thuyết phục, và bên yêu cầu TVPB khó tiếp nhận.
26
Thường ý kiến thiên về lý thuyết chuyên môn, ít cân bằng được với
thực tiễn nên nhiều trường hợp khó xử lý, khó đi vào cuộc sống tác
dụng ngược lại gây ấn tượng ngáng trở phiền hà
- Các tổ chức, cá nhân ở cơ sở, đặc biệt những người làm công tác quản lý
mặc dù họ là những chuyên gia có trách nhiệm vận hành, song còn bị vướng
mắc khó nói nên không TVPB được cho lãnh đạo, không dám đề xuất những
vấn đề mang tính khoa học, thậm chí nhiều trường hợp còn làm theo sự chỉ
đạo mặc dù biết là không đúng, không hợp lý.
- Tóm lại nhìn nhận những hiệu quản mà TVPB đã đem lại càng thấy sự cần
thiết của hoạt động này. Đồng thời không ít trường hợp kiểm nghiệm do bỏ
qua TVPB mà gây bất cập tốn kém thời gian, hoa phí tiền của, kém chất
lượng thiếu thẩm mỹ … song chẳng quy trách nhiệm về ai mà cũng không ai
xem xét bảo lưu ý kiến của TVPB
27
CHƯƠNG II
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
CƠ BẢN LÀM NỀN TẢNG TVPB KIẾN TRÚC
Cơ sở khoa học cho một hoạt động thực tiễn có đa dạng nội dung, hình thức,
và đối tượng, trong một môi trường mà cơ chế TVPB có nhưng chưa đầy đủ, rõ
ràng, ý thức xã hội về vấn đề này còn mơ hồ, chưa “mặn mà”, quản lý nhà nước
còn lúng túng giữa của nhà nước và của tư nhân, giữa “thị trường và định hướng
XHCN” trong lĩnh vực kiến trúc- quy hoạch xây dựng và đầu tư…..
Vì vậy, cơ sở cho TVPB kiến trúc không những cần có tính lý luận khoa học
đồng thời cần tính đến các yếu tố thực tiễn trên.
Ở nước ta, việc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân, do một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo, thì việc phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cho dù ở giai đoạn
trước kia hay hiện nay, thì vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc vẫn đúng theo tinh
thần của Điều 9 Hiến pháp 1992, có chức năng là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp một cách tự nguyện, rộng rãi của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội,
các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cưz ở nước ngoài.
Vai trò chính trị của các tổ chức chính trị trong xã hội rất quan trọng trong
việc phản biện chủ trương đường lối và chính sách kinh tế xã hội cho sự phát triển
của quốc gia. Đây là một chức năng quan trọng nhất của các tổ chức chính trị xã
hội. Chính sách là những gì mà chính quyền cảm nhận được cần phải giải quyết
ngay, cũng như là định hướng mục tiêu của chính quyền. Chính sách cũng có khi
được thể hiện bằng các quy phạm pháp luật, hoặc cũng có khi không, mà thể hiện
28
bằng ẩn ý đằng sau của pháp luật. Pháp luật như là hình thức chứa đựng các nội
dung chính sách. Muốn có pháp luật đúng thì trước tiên phải có chính sách đúng.
Chính sách quyết định việc phân bổ thu và chi ngân sách. Muốn cho chính sách
không áp đặt, không phiến diện, thể hiện đúng quy luật khách quan, thì phải có ý
kiến của nhiều tổ chức, nhiều chủ thể khác nhau. Thậm chí muốn có một dự thảo
chính sách đúng cần phải có người phản biện có trách nhiệm. Phản biện có trách
nhiệm ở đây có nghĩa tìm ra sự đúng đắn, mà không phải là phủ nhận vấn đề.
Theo quy định của Hiến pháp và Luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thì các
tổ chức là thành viên của Mặt trận phải có trách nhiệm phản ánh những ý nguyện
đa dạng của tổ chức mình để Đảng Cộng sản có thể đưa những ý nguyện đó thành
những chính sách hoặc bổ khuyết cho những dự thảo chính sách còn phiến diện,
không phản ánh hết sự vận động khách quan của sự vật cùng quyền lợi chính đáng
của mọi tầng lớp nhân dân khác nhau trong xã hội. Khác với đảng cầm quyền và
chính phủ của đảng cầm quyền, Mặt trận có các tổ chức thành viên, có một tổ chức
các hiệp hội khoa học kỹ thuật, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội, các
dân tộc, tôn giáo, có rất nhiều người có trình độ tri thức, chuyên môn tương ứng
với từng ngành nghề, từng lĩnh vực, trong nước và ngoài nước. Cho nên có thể nói
rằng, mọi chính sách của Đảng và Nhà nước, tổ chức Mặt trận đều có khả năng
đóng góp một cách thiết thực. Sự ghi nhận như vậy cả về mặt con người lẫn cả về
mặt chính sách càng có thể khẳng định, Mặt trận Tổ quốc chính là sự bù đắp cho
những thiếu hụt của chế độ chính trị một đảng. Ngay cả những người chống đối
chế độ chính trị của chúng ta một cách quyết liệt trước đây cũng phải thừa nhận.
Từ lý luận và thực tiễn hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, có thể nhận
định rằng các cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát và phản biện của Mặt trận đối
với các hoạt động của chính quyền nhà nước là đã có. Những quy định này đã có
29
tác dụng nhất định trong việc phát huy được vai trò của Mặt trận, của các tổ chức
chính trị xã hội, các hội nghề trong công tác này.
2.1. CƠ SỞ CHUNG TVPB VỀ KIẾN TRÚC:
Tùy theo đối tượng hay vấn đề cần TVPB mà có các mức độ yêu cầu, nội dung
cơ sở làm căn cứ cho việc nhận xét đánh giá hay đề xuất thích ứng. Tuy nhiên quy
tụ vẫn có những cơ sở chung mang tính cơ bản làm nền tảng, bao gồm các nhóm
sau:
2.1.1. Nhóm cơ sở về pháp lý:
Là các vấn đề từ vĩ mô cho đến cụ thể, khi giải quyết phải tuân thủ làm căn cứ
để phù hợp .
a. Các đường lối chủ trương, định hướng chiến lược phát triển chung kinh tế xã
hội, cũng như phát triển ngành. Các văn bản quản lý ngành
b. Các yêu cầu cụ thể đặt ra (nếu có) như các đề cương hay đề án, các chương
trình, các nhiệm vụ (quy hoạch, thiết kế công trình, quy chế thi tuyển….)
c. .Các quy chuẩn , quy phạm kỹ thuật, các tiêu chuẩn quy định áp dụng thuộc
lĩnh vưc ngành và liên quan.
2.1.2. Nhóm cơ sở khoa học về chuyên môn
Là vấn đề thuộc về chuyên môn , trọng tâm của việc nghiên cứu TVPB, cơ sở
đảm bảo chất lượng
a. Cơ sở lý luận khoa học, các nguyên lý thiết kế, các tiến bộ kinh nghiệm được
áp dụng quốc tế cũng như trong nước (về quy hoạch xây dựng, kiến trúc, thẩm
mỹ, kỹ thuật, hiệu ứng xã hội …)
b. Các dự báo ( cả mặt tích cực, tiêu cực ) khả năng khắc phục.
Các xu hướng, xu thế mà Việt Nam có thể tiếp cận, khả năng đảm bảo phát
triển bền vững lâu dài.
30
2.1.3. Nhóm cở sở về thực tiễn:
Cơ sở đảm bảo khả năng thích nghi, phù hợpcác điều kiện thực tiễn, nâng cao
giá trị khả thi đi vào cuộc sống.
a. Các điều kiện về pháp lý (cơ chế chính sách hiện hành, khả năng kinh tế,
nguồn lực, trình độ khoa học công nghệ …)
b. Các điều kiện thực tiễn (đối với các đối tựng TVPB) như văn hóa, xã hội,
con người, thiên nhiên, đất đai, khí hậu, kiến trúc… hiện trạng.
2.2. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁC CƠ SỞ:
Muốn nhận xét, đánh giá kết quả của sự việc hay một giải pháp, trước hết cần
biết rõ ngọn ngành các khuyết điểm, các xuất phát điểm, các yêu cầu đặt ra,
những rang buộc dẫn tới các giải pháp để giải quyết.
Cơ sở về pháp lý
Là căn cứ để đối chiếu về sự tuân thủ, tính phdù hợp với các vấn đề vĩ mô
như định hướng, các đường nối chủ trương chính sách, chiến lược xã hội chung
cũng như của ngành, đến cụ thể như một pháp lý các yêu cầu đặt ra để sử lý như
các văn bản pháp lý về quản lý nhà nước, các quy chuẩn quy phạm kỹ thuật, các
nhiệm vụ cụ thể (quy hoạch thiết kế công trình, các đề cương đề án)
Cơ sở khoa học về chuyên môn
Là căn cứu xem xét để TVPB về nội dung cốt lõi nhằm đảm bảo chất lượng
nói chung, chất lượng về giá trị của sự việc hay về vấn đề cụ thể.
Một mặt đối chiếu về sự đúng đắn của sự việc hay giải pháp dựa trên các
nguyên lý cơ bản mang tính khoa học đang hiện hành. Mặt khác cần cập nhận
các thành tựu kinh nghiệm tiến bộ của thế giới có liên quan mà ta có thể tiếp
cận, phát triển theo xu thế chung phát triển bền vững. Đồng thời không thể
thiếu dự báo (về các yếu tố tích cực, yếu tố tiêu cực) đảm bảo thích ứng, Hạn
chế rủi ro
31
Cơ sở thực tiễn
Giải quyết một vấn đề hay giải pháp phải nhằm mục tiêu khả thi đi vào cuộc
sống xã hội, đạt hiệu quả.
Với một đất nước có đa dạng đặc thù (thiên nhiên, dân tộc, văn hóa, hoàn cảnh
kinh tế và đời sống còn thấp việc phù hợp với điều kiện thực tiễn càng quan
trọng, trong đó có các thực tiễn về thiên nhiên, con người về quản lý xã hội,
cũng như khả năng mọi mặt liên quan: kinh tế, nhân lực, khoa học công nghệ
…). Ý nghĩa thực tiến còn đảm bảo hiệu quả TVPB để xã hội dễ tiếp nhận
2.3. MỘT SỐ CƠ SỞ CHO ĐỐI TƯỢNG CỤ THỂ
2.3.1. Cơ sở TVPB đồ án quy hoạch xây dựng chung, đô thị:
Cơ sở cơ bản để làm căn cứ nền tảng cho TVPB 1 đồ án quy hoạch- xây dựng
chung đô thị (TW)
Cơ sở có tính chất pháp lý:
Định hướng phát triển bền vững Việt Nam
Điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến
2025, tầm nhìn 2050
Định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia
Quy hoạch vùng
Chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội- quốc phòng an
ninh
Quy hoạch các ngành trong phạm vi đô thị(có kết nối liên thông vùng)
Nhiệm vụ quy hoạch xây dựng đô thị (được duyệt) với các nội dung chủ
yếu:
Tính chất, vị thế
Tiềm năng, động lực phát triển
Hướng phát triển mở rộng (đất đai, dân số)
32
Hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị
Môi trường chiến lược….
Các pháp luật nói chung (từ Hiến pháp, các luật xã hội), pháp luật hiện
hành về quy hoạch xây dựng và liên quan như: Luật xây dựng, luật QHĐT
các văn bản dưới luật; luật đất đai, tài nguyên; luật thủy lợi đê điều, thủy
văn; luật di sản văn hóa; luật bảo vệ môi trường….
Các quy chuẩn, quy phạm kỹ thuật
Quy chuẩn về quy hoạch đô thị, quy hoạch ngành, các tiêu chuẩn, phương
pháp tính toán được quy định áp dụng.
Cơ sở khoa học về chuyên môn - “dự báo phát triển”
Phương pháp luận, nguyên lý thiết kế được vận dụng ý tưởng và các giai
pháp đề xuất cho mỗi vấn đề tầm nhìn quy hoạch.
Các thông tin cũng như tính toán dự báo (các yếu tố tiêu cực và tích cực,
quy luật bất biến và khả năng điều tiết).
Thành tựu và xu thế (tiến bộ mới) về cải tạo, xây dựng và phát triển đô thị
trên thế giới- định hướng và khả năng vận dụng cho Việt Nam
(Đô thị sinh thái xanh, đô thị kiểu mẫu môi trường…..)
Cơ sở thực tiễn
Cơ sở về hiện trạng (đô thị và khu phát triển mới)
Các bản đồ địa hình, hiện trạng các lĩnh vực các tài liệu, số liệu cấp về tự
nhiên, kinh tế xã hội cũng như chuyên ngành quy hoạch yêu cầu
Phân tích đánh giá hiện trạng khách quan và chủ quan của người thiết kế
Các đặc thù (nếu có)
2.3.2. Cơ sở TVPB đồ án thiết kế công trình kiến trúc
Cơ sở cơ bản làm căn cứ khi xem xét TVPB đồ án thiết kế kiến trúc công
trình
33
Cơ sở có tính chất “pháp lý”
Định hướng chiến lược phát triển kiến trúc Việt Nam đến 2020
Định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam (Nghị quyết TW 5/ khóa
VIII)
Các pháp lý về chủ trương đầu tư (tương ứng các cấp có thẩm quyền)
Quy hoạch chi tiết địa điểm (được duyệt)
Thiết kế đô thị riêng (nếu có)
Quy hoạch đô thị cấp trên hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn
Giấy phép quy hoạch (nếu chưa có quy hoạch xây dựng chi tiết, chưa có
thiết kế đô thị)
Quy hoạch quản lý theo đồ án quy hoạch đô thị- thiết kế đô thị
Nhiệm vụ lập dự án đô thị xây dựng hoặc dự án (được phép) đối với cụm
công trình
Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi- khả thi công trình
Nhiệm vụ thiết kế cụ thể cho công trình được duyệt
Với các nội dung chủ yếu: địa điểm, chức năng, tính chất công trình, cấp
công trình, quy mô, các yêu cầu về quy hoạch, kiến trúc, cảnh quan môi
trường, kỹ thuật an toàn, quy chuẩn, tiêu chuẩn áp dụng, dự kiến kinh phí
đầu tư
Quy chế thi tuyển thiết kế kiến trúc công trình (nếu TVPB cho cuộc thi).
Pháp luật hiện hành về quy hoạch- kiến trúc- xây dựng và liên quan: Luật
xây dựng, luật quy hoạch đô thị, luật nhà ở, luật di sản văn hóa, luật bảo vệ
môi trường…..
Một số nghị định: nghị định về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình,
nghị định về quản lý kiến trúc đô thị, nghị định về quản lý chất lượng đô thị,
thông tư hướng dẫn thi tuyển và tuyển chọn phương án thiết kế kiến trúc
công trình.
34
Hệ thống quy chuẩn xây dựng Việt Nam, quy chuẩn về kiến trúc công trình
Bộ tiêu chuẩn về thiết kế xây dựng, về chất lượng công trình xây dựng, về
chất lượng môi trường xây dựng….
Cụ thể như:
Quy chuẩn về số liệu, điều kiện tự nhiên dùng trong xây dựng
Quy chuẩn Việt Nam về phân cấp, phân loại công trình dân dụng,
công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật đô thị
Tiêu chuẩn Việt Nam về thiết kế công trình có tính động đất
Tiêu chuẩn Việt Nam về các thể loại công trình kiến trúc (cho đối
tượng tương ứng)
Quy định (147/ 1999/ QĐ- TTg) về tiêu chuẩn, định mức sử dụng, trụ
sở làm việc tại cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp (Quy định sửa đổi
bổ sung 260/2006)
Tiêu chuẩn Việt Nam về kỹ thuật công trình chiếu sáng nhân tạo, điện,
cấp thoát nước, điều hòa không khí và thông gió, âm thanh, thông tin
tín hiệu, an ninh, phòng cháy chữa cháy….
Quy chuẩn- tiêu chuẩn xây dựng về an toàn sinh mạng, sức khỏe, vật
liệu xây dựng, chất lượng không khí, vệ sinh xử lý chất thải….
Các tiêu chuẩn khác của nước ngoài được quy định áp dụng
Cơ sở khoa học về chuyên môn – dự báo phát triển:
Nguyên lý thiết kế đối với từng thể loại công trình tương ứng.
Quan điểm cơ bản, có tính định hướng đang áp dụng hoặc hướng tới.
Yêu cầu phát triển về quy mô (trong CT, khu CT, hoặc xây dựng theo giai
đoạn)
Khả năng thay đổi công nghệ- thiết bị công trình khi nâng cấp (ít phá vỡ
kiến trúc), công nghệ thiết bị chuyên môn (theo chức năng)
35
Các kinh nghiệm của công trình tương tự (trong, ngoài nước) và xu thế
phát triển chung, tiến bộ nên xem xét vận dụng (kiến trúc xanh, công trình
xanh).
Cơ sở thực tiễn
Hiện trạng đất đai, địa điểm công trìn)
Hiện trạng kiến trúc (cần giữ lại)
Điều kiện tự nhiên (điều kiện khí hậu, môi trường cảnh quan)
Điều kiện xã hội nhân văn (của MT, của đối tượng)
Khả năng đầu tư (kinh phí)
Khả năng kỹ thuật, khoa học công nghệ, xây dựng công trình
2.3.3. Cơ sở TVPB tuyển chọn phương án thiết kế kiến trúc công trình:
Cơ sở chấm tuyển trong các cuộc thi phương án kiến trúc (để lập dự án hoặc
chọn tư vấn). Giai đoạn này chủ yếu là xét “ý tưởng” hoặc các giải pháp chính
mang tính định hướng do đó mức độ các căn cứ khác nhau.
Cơ sở có tính chất “pháp lý”:
- Định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam (đến 2020)
Định hướng phát triển nền Văn hóa Việt Nam
Các pháp lý về chủ trương đầu tư (tương ứng các cấp có thẩm quyền,
tương ứng nguồn đầu tư khác nhau).
- Quy hoạch chi tiết địa điểm (được duyệt)
Thiết kế đô thị (nếu có)
Giấy phép quy hoạch (nếu nơi chưa có quy hoạch xây dựng chi tiết) chủ
yếu là các thông số khống chế của quốc hội được thỏa thuận
- Nhiệm vụ thiết kế (được duyệt)
Căn cứ mức độ, có cuộc thi mở tư vấn có thể đề xuất
36
Với các nội dung chủ yếu: Địa điểm, chức năng, tính chất công trình, cấp
công trình, quy mô, nội dung công trình (khu CT)
Các yêu cầu thiết kế về kiến trúc, cảnh quan môi trường, kỹ thuật, an
toàn….
Dự kiến kinh phí đầu tư (tham khảo)
- Quy chế thi tuyển thiết kế phương án kiến trúc công trình
Với các nội dung chủ yếu: các mục đích, yêu cầu, mức độ (về tổ chức, về
chuyên môn, về sử dụng kết quả).
Pháp luật hiện hành có mức độ, chủ yếu quan tâm đến vấn đề di tích di sản
(nếu có liên đới), bảo vệ môi trường, nghị định quản lý kiến trúc đô thị, thông
tư hướng dẫn thi tuyển kiến trúc, hệ thống quy chuẩn quy phạm kỹ thuật có mức
độ (chưa cần chi tiết cho giai đoạn này).
Cơ sở khoa học về chuyên môn - dự báo phát triển:
Các cơ sở khoa học đang vận dụng:
Nguyên lý thiết kế (cơ bản)
Các quan điểm định hướng đang áp dụng hoặc là xu hướng hướng tới phải
theo.
Các dự báo (tác động xấu đến công trình)
Các dự báo về khả năng phát triển (về quy mô, thay đổi chức năng, thay đổi
kỹ thuật công nghệ)…. để có kiến trúc thích nghi mềm dẻo.
Các kinh nghiệm của công trình tương tự (để tránh hoặc học tập)
Các xu thế tiến bộ, khuyến cáo áp dụng nếu có thể
Cơ sở thực tiễn:
Cơ sở hiện trạng
Hiện trạng đất đai (địa điểm công trình)
Hiện trạng kiến trúc (cần giữ lại, kể cả kiến trúc kế cận)
Điều kiện tự nhiên (khí hậu, môi trường cảnh quan)
37
Điều kiện (đặc thù) về xã hội nhân văn
Khả năng thực hiện công trình (đầu tư, vận hành sử dụng kỹ thuật
công nghiệp, thi công….) mức độ
Cơ sở chấm tuyển:
Hệ thống tiêu chí (dựa theo quy chế thi tuyển và nhiệm vụ thiết kế tiêu chí
hóa phù hợp yêu cầu chấm tuyển)
38
CHƯƠNG III
NGUYÊN TẮC VÀ HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG TVPB KIẾN TRÚC
3.1. NGUYÊN TẮC CHUNG
Trong cuộc sống chúng ta có thể thấy phản biện là một hoạt động diễn ra hàng
ngày. Phản biện là một nhu cầu của cuộc sống bởi nhờ có nó con người có thể loại
bỏ những yếu tố sai để tiệm cận tới sự hợp lý trong các quyết định, các hành vi của
mình. Trong khoa học, phản biện cũng là một trong những cách thức chủ yếu để
các nhà nghiên cứu tiệm cận tới các chân lý khoa học. Còn trong đời sống xã hội
phản biện là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân chủ. Phản
biện xã hội là một vấn đề hoàn toàn không mới, loài người đã làm quen với khái
niệm này từ rất sớm và biến nó trở thành công cụ hữu hiệu để tạo ra nền dân chủ,
tạo sự phát triển về chính trị của nhiều quốc gia tiên tiến. Trong thời đại ngày nay,
phản biện xã hội vẫn là một trong những vấn đề hệ trọng, là đối tượng cần nghiên
cứu, nhất là đối với các quốc gia đi sau, các quốc gia đang phấn đấu cho nền dân
chủ, khi thực hiện tư vấn phản biện nào thì cũng cần có các nguyên tắc chung làm
nền tảng.
Xuất phát từ bản chất của kiến trúc, để hoạt động TVPB đạt được các mục
tiêu và có hiệu quả, TVPB cần theo một số nguyên tắc chung sau đây:
- Tự nguyện:
Hoạt động TVPB là hoạt động tự nguyện, nhưng phải theo chiều hướng tích
cực của các bên, vì mục tiêu vươn tới và hiệu quả của vấn đề hay đối tượng xem
xét, trên cơ sở đa lợi ích trong đó lợi ích chung là trước hết.
- Khách quan, khoa học:
Khách quan là tính chất lõi của TVPB.
39
Khách quan từ phía yêu cầu cũng như từ phía cung cấp TVPB.
Khách quan lấy cơ sở khoa học làm nền tảng, đồng thời vận dụng điều
kiện thực tiễn để phù hợp.
- Cân bằng hài hòa để thích hợp, khả thi
Kiến trúc (trong đó có quy hoạch xây dựng) nặng yếu tố xã hội- nhân
văn.
TVPB kiến trúc không đơn thuần chỉ xuất phát từ chuyên môn mà rất cần
thiết xem xét, đối chiếu đến các yếu tố liên quan để phù hợp chung một cách tối
ưu nguyên tắc “cái riêng trong cái chung, cái đặc thù trong cái tổng thể” sẽ làm
cho kêt quả TVPB dễ thuyết phục, dễ chấp nhận, dễ đi vào cuộc sống.
3.2. NGUYÊN TẮC RIÊNG
Ngoài nguyên tắc chung nói trên, hoạt động TVPB đối với mỗi bên đều cần có
thêm một số nguyên tắc riêng, đó là quy luật của cuộc sống xã hội mang tính triết
học “ trong cái chung có cái riêng”.
3.2.1. Đối với bên thực hiện TVPB:
- Chủ động: đề xuất các vấn đề, đặc biệt các vấn đề lớn mang tính chiến
lược, vấn đề tổng thể, hay “nhạy cảm” đối với xã hội
Tính chủ động này chỉ có tác dụng đối với “tổ chức”, tổ chức nghề nghiệp,
các hội đồng
- Trung thực:
Thực hiện TVPB cần trung thực, trung thực với khoa học, trung thực với bản
thân (lương tâm nghề) không vì động cơ hay vì lợi ích riêng cho mình.
40
3.2.2. Đối với bên yêu cầu TVPB:
- Chủ động yêu cầu:
Nhận thức được sự cần thiết và mặt tích cực của TVPB, cần chủ động yêu
cầu và tổ chức hoạt động này.
Tùy theo bên yêu cầu là cơ quan nhà nước, là chủ đầu tư nhà nước, chủ đầu
tư tư nhân… và tùy tính chất của vấn đề hay đối tượng mà có hình thức và mức
độ TVPB tương ứng
- Cầu thị:
Chủ động yêu cầu TVPB đó chính là đã một phần cầu thị
Cầu thị là nguyên tắc đảm bảo hiệu quả của TVPB
Bảo thủ, chủ quan sẽ hạn chế khách quan và sự sáng suốt khi khai thác kết
quả TVPB (trước khi quyết định cuối cùng).
3.3. CÁC HÌNH THỨC TVPB KIẾN TRÚC:
TVPB về kiến trúc nếu hiểu rộng ra và trên tinh thần của nó, với mọi hoạt động
từ sự việc rất nhỏ đến các vấn đề mang tầm vĩ mô liên quan đến kiến trúc thì có rất
đa dạng hình thức và rất mềm dẻo vận dụng.
Tuy nhiên giới hạn trong nghiên cứu này phụ thuộc vào thể chế của ta…. do đó
hình thức TVPB có thể quy tụ ở một số dạng chính sau:
3.3.1. Hình thưc tư vấn phản biện kiến trúc chủ động:
Các tổ chức, cá nhân trong xã hội tùy theo sự việc hay đối tượng khi phát hiện có
vấn đề, có ý kiến với chủ thể sự việc là tổ chức hoặc cá nhân bằng cách chủ động
đề xuất kiến nghị dưới các hình thức như
- Bằng văn bản:
41
Hình thức này ở nước ta còn hiếm hoi, sự mặc cảm về “không ai khiến, mang
vạ vào thân” còn ảnh hưởng
- Bằng phương tiện thông tin đại chúng:
Thời gian gần đây thông tin truyền thông đã phát huy mặt tích cực trong nội
dung “phản biện và giám định xã hội”, trong đó các sự kiện về kiến trúc- quy
hoạch xây dựng, mà vấn đề chủ yếu là đầu tư và quản lý nhà nước.
Lợi thế của hình thức này phản biện là chính nên các chủ thể không thể thờ ơ,
im lặng hay chủ quan, từ đó chủ động hạn chế những ảnh hưởng xấu, nâng cao
chất lượng đối tượng phản biện.
3.3.2. Tư vấn phản biện kiến trúc theo cơ chế đặt hàng:
Hiểu “đặt hàng” ở đây là yêu cầu và đặt vấn đề chính thức đa phần hoạt động
theo cơ chế này là dạng “bị động”, vấn đề đã được hoạch định hay đã xong rồi mới
lấy ý kiến.
Cũng tùy theo vấn đề và đối tượng cụ thể mà yêu cầu cũng như hình thức triển
khai khác nhau
- Hình thức tổ chức các hội đồng
Thông qua các hội đồng cố định hoặc thành lập theo tường công việc cụ thể
để lấy ý kiến của các chuyên gia
Ví dụ: Hội đồng lý luận, hội đồng khoa học, hội đồng thẩm định, hội đồng tư
vấn kiến trúc- quy hoạch, hội đồng thi tuyển, tuyển chọn kiến trúc, hội đồng cấp
chứng chỉ hành nghề
- Hình thức tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề
42
Thăm dò, khai thác chính kiến kinh nghiệm, đề xuất của các nhà chuyên môn
một cách rộng rãi hơn, kể cả có nước ngoài về một vấn đề cần đặt ra.
- Hình thức mời TVPB trực tiếp
Mời hoặc yêu cầu TVPB một vấn đề hay đối tượng thông qua nghiên cứu,
tham gia ý kiến, phản biện đề xuất… và trả lời bằng văn bản chính.
Một số vấn đề lớn, quan trọng có thể thông qua hình thức “hợp đồng” để ràng
buộc trách nhiệm và đảm bảo chất lượng.
Hình thức này thường gặp ở các vấn đề lớn, thuộc văn bản nhà nước hay các
đối tượng đặc thù.
Ví dụ: Các luật, nghị định, thông tư, chiến lược phát triển kiến trúc, đào tạo
kiến trúc sư, quy hoạch chung Thủ đô, một số dự án nhạy cảm (Hồ Gươm, phố
cổ, bảo tồn di tích di sản, công trình quốc gia đặc biệt.
Đối tượng được mời TVPB phần lớn là các tổ chức nghề nghiệp liên quan
trực tiếp, có uy tín, có pháp nhân.
3.4. THIẾT CHẾ VÀ GIẢI PHÁP:
- Xã hội dân sự với vai trò phản biện và vai trò trọng tài
Xã hội dân sự là một xã hội tự cân bằng. Chính sự tự cân bằng của xã hội đã tạo
ra nhà nước và đặc biệt là tạo ra chức năng và nội dung của hoạt động nhà nước. Ở
mỗi một thời đại, mỗi một thể chế chính trị hoặc mỗi một trình độ phát triển, nội
dung của xã hội dân sự khác nhau. Gần đây, khi nói đến xã hội dân sự người ta vẫn
nói đến các tổ chức độc lập với nhà nước, tức là các tổ chức phi chính phủ. Các tổ
chức phi chính phủ chỉ là một biểu hiện của xã hội dân sự chứ không phải là toàn
bộ xã hội dân sự. Hội Kiến trúc sư Việt Nam là một tổ chức chính trị xã hội nghề
nghiệp cần phải phát huy vai trò trọng tài trong tư vấn phản biện về kiến trúc- Quy
hoạch.
43
- Xã hội dân sự là xã hội phi nhà nước
Xã hội dân sự tồn tại song song với nhà nước. Nó có các quy tắc văn hóa để hạn
chế tất cả sự cực đoan, tất cả những hành vi không phù hợp với lợi ích công cộng.
Trong đời sống dân sự hàng ngày con người ít cần đến nhà nước, con người có
những tổ chức phi chính phủ để thể hiện những loại hình ý chí khác nhau của cộng
đồng, họ thương thảo với nhau và tạo ra sự đồng thuận xã hội. Người Á Đông
chúng ta không quen với xã hội dân sự cho nên định nghĩa về xã hội dân sự của
chúng ta hiện nay vẫn không đúng. Xã hội dân sự mà chúng ta định nghĩa vẫn là
cái gì đó có tính chất tôn trọng nhân dân nhưng lại không tôn trọng quyền tự cân
bằng của xã hội. Ở một số quốc gia, nhà nước là tất cả, luôn luôn tồn tại nhà nước
để giải quyết một loạt các vấn đề mà nhà nước cho rằng xã hội dân sự không làm
được. Việc pháp luật không thừa nhận tình trạng không có nhà nước trong một loạt
các khu vực khác nhau của đời sống làm cho nó mất đi những điều kiện tồn tại của
xã hội dân sự.
Cần phải nhấn mạnh rằng, bản chất của xã hội dân sự là tính tự lập của xã hội,
tức là xã hội phải giải quyết các vấn đề của nó. Nhà nước là một bộ phận của xã
hội nhằm giải quyết những vấn đề có chất lượng chiến lược của đời sống chứ
không phải là người giải quyết tất cả các vấn đề của đời sống. Xã hội dân sự là một
xã hội tự quản lấy mình và đến một mức độ mà nó không có khả năng để tự quản
nữa thì phần còn lại đó rơi vào nhà nước chuyên nghiệp. Hay nói cách khác, nhà
nước chuyên nghiệp là bộ phận nối dài của xã hội dân sự để giải quyết những công
việc mà bản thân xã hội không tự giải quyết được.
Sẽ không thể có hoạt động phản biện xã hội nếu xã hội dân sự không được tôn
trọng hoặc không có được địa vị hợp pháp của nó. Bởi thứ nhất, phản biện là một
quyền tự nhiên, là tiếng nói của xã hội dân sự, xã hội không có địa vị hợp pháp thì
44
có nghĩa là quyền ấy cũng không hợp pháp. Vậy làm thế nào để xã hội thực hiện
quyền phản biện? Thứ hai, xã hội cũng chính là trọng tài của các cuộc phản biện,
hay nói đúng hơn là trọng tài giữa các khuynh hướng khác nhau tranh luận với
nhau thông qua phản biện, Sự đánh giá đúng sai được thể hiện bằng sự hoan hô của
xã hội đối với từng loại ý kiến, đối với từng mức độ chất lượng của ý kiến. Nếu xã
hội không được tôn trọng, xã hội không có địa vị hợp pháp thì liệu xã hội có thể tự
do thể hiện sự hoan hô của mình đối với những ý kiến có chất lượng không? Và
khi đó phản biện xã hội liệu có còn tác dụng? Cho nên, vấn đề ở đây là chúng ta
cần phải xác định rõ vai trò và địa vị của xã hội dân sự để có được quan niệm đúng
đắn về xã hội dân sự, dựa vào đó mà thức tỉnh xã hội về những quyền hợp pháp
của mình, đồng thời thức tỉnh nhà nước về việc tôn trọng địa vị hợp pháp của xã
hội dân sự.
Chính vì vậy Hội Kiến trúc sư Việt Nam cần được xác định rõ vai trò phản biện
về nghề một cách chính thống, rõ nét.
- Nhà nước với chức năng quản lý hoạt động phản biện
Như đã nói ở trên, phản biện là một đặc trưng của nền dân chủ. Chỉ có những
nhà nước mạnh mẽ thì mới thừa nhận một cách công khai và rõ ràng các quyền
tham gia vào đời sống chính trị của người dân. Nếu quyền tham gia vào đời sống
chính trị của người dân không được khẳng định một cách tự nhiên thì đó là biểu
hiện của sự bất lực hoặc sự ép của nhà nước. Tuy nhiên, khi nhà nước thừa nhận
cái quyền ấy mà xã hội vẫn không tham gia thì nó thể hiện tính chậm phát triển về
chính trị của xã hội. Trong tình trạng như vậy nếu nói là nhà nước không cho thì
không đúng vì nó không khoa học. Trong mọi trường hợp, chúng ta đều phải phân
tích một cách khoa học. Quyền tham gia một cách tự nhiên vào đời sống chính trị
phải được kiểm soát một cách an toàn bởi nhà nước, bởi vì nhà nước mà không
45
kiểm soát sự an toàn chính trị trong quá trình các lực lượng xã hội tham gia vào
quá trình ấy thì nhà nước không hoàn thành chức năng của nó là bảo vệ sự yên ổn
của xã hội.
Gần đây, trong xã hội chúng ta cũng xuất hiện nhiều tranh luận về vấn đề phản
biện xã hội. Về phía nhà nước cũng có những chính sách vĩ mô khuyến khích phản
biện xã hội, cụ thể là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được giao thực hiện phản biện
xã hội. Đấy là những dấu hiệu tích cực. Tuy nhiên có một vấn đề nên xem xét đó là
liệu có nên giao cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện một hoạt động vốn dĩ là
quyền tự nhiên của xã hội? Như đã phân tích, phản biện xã hội là hoạt động tự
nhiên của xã hội, nó thể hiện quyền tự nhiên của xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam không đủ cơ sở pháp lý cũng như khoa học để có thể thực hiện chức năng
phản biện. Nó có thể lãnh đạo hoạt động phản biện nhưng nó không phải là tổ chức
phản biện. Phản biện là xã hội nói tiếng nói của mình để những người đưa ra các
chính sách buộc phải uốn nắn lại chính sách của mình, buộc phải cân bằng lại
khuynh hướng của mình cho phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam không phải là một tổ chức làm được việc ấy và cũng không nên làm việc ấy.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức tập hợp các lực lượng quần chúng của xã
hội Việt Nam, có nghĩa là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức nối dài của
nhà nước trong đời sống quần chúng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bắt sâu rễ trong
đời sống xã hội, do đó, nó có điều kiện để nắm bắt nguyện vọng và tổ chức cho các
nguyện vọng khác nhau có tiếng nói. Cho nên, nếu nói rằng Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam hỗ trợ nhà nước trong việc tổ chức và lãnh đạo hoạt động phản biện thì mới
nhất quán với hệ thống chính trị hiện nay chúng ta đang thừa nhận.
Hội Kiến trúc sư Việt Nam là hội chính trị xã hội nghề nghiệp trong khối Liên
hiệp Văn Học nghệ thuật do việc thực hiện nhiệm vụ của mình và tuân thủ theo
46
hiến phâp và pháp luật và vai trò của quản lý nhà nước đối với công tác phản biện
mang tính chỉ đạo đường lối, chính sách.
Sự phát triển trong thời đại ngày nay đã trở thành động cơ của tất cả các nghiên
cứu khoa học. Chúng ta đi tìm các giải pháp khoa học để góp ý với cơ quan quyền
lực của nhà nước trong việc tìm kiếm sự phát triển, nhưng để cho giải pháp mà
chúng ta nghiên cứu trở thành giải pháp trong thực tế thì phải có giải pháp của giải
pháp. Nghiên cứu phản biện xã hội chính là nghiên cứu về quyền tự do ngôn luận,
một trong những quyền tự do cơ bản. Không có quyền này thì các quyền tự do
khác khó có thể trở thành hiện thực. Bởi vì như đã phân tích, ngôn luận chính là
quyền tự do lựa chọn và bày tỏ về sự lựa chọn của xã hội, nếu xã hội không có
quyền lựa chọn thì xã hội sẽ không có tự do. Do đó, trong quá trình tổ chức và rèn
luyện nền dân chủ phản biện xã hội cần phải được biến thành một quyền phổ biến.
Như đã phân tích ở những phần trên, xã hội phải có khả năng nói tiếng nói của
mình nhưng nhà nước với chức năng chủ yếu của nó là đảm bảo an ninh xã hội vẫn
cần có những hoạt động quản lý. Cho nên, vấn đề cần nghiên cứu là làm thế nào để
hoạt động quản lý của nhà nước không lấn át xã hội đến mức tạo ra nguy cơ đẩy xã
hội vào tình trạng bất hợp pháp hoặc mất năng lực phản biện.
47
CHƯƠNG IV.
XÂY DỰNG QUY CHẾ TƯ VẤN PHẢN BIỆN XÃ HỘI VỀ KIẾN TRÚC
4.1. Như trên đã nhận định, để cho xã hội nhận thức được một cách đúng đắn, đầy
đủ ý nghĩa và giá trị của TVPB cần có thời gian và sự thuyết phục bằng hiệu quả
thực tiễn. Nhưng để cho có hiệu quả thực tiễn ấy thì nhà nước cần vận hành trước:
- Có chủ trương về hoạt động này một cách rõ rang, hệ thống đồng bộ từ ban hành
các cơ sở về pháp lý, đến các chế độ chính sách cụ thể.
- Thể chế hóa về vai trò, trách nhiệm, quy trình hoạt động TVPB XH cho các tổ
chức các nhân tham gia.
- Vận động xã hội
4.2. Xây dưng “quy chế” về hoạt động TVPB XH kiến trúc của Hội KTSVN:
Để hợp thức hóa chức năng và tổ chức hoạt động TVPB kiến trúc của Hội
KTSVN, sau khi nhà nước đã ban hành “ quy chế” cho liên hiệp các hội khoa học
kỹ thuật Việt Nam (2002), Hội KTSVN đã triển khai nghiên cứu cùng với Văn
phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Xây dựng quy chế TVPB về kiến trúc trình chính
phủ (2003, 2004)
48
ĐỀ XUẤT NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH DỰ THẢO QUY CHẾ TVPBXH VỀ
KIẾN TRÚC CỦA HỘI KTSVN
Dự thảo Quy chế TVPB XH về kiến trúc của Hội KTSVN đã được đề xuất từ năm
2003 , 2004 do bốn cơ quant ham gia nhóm nghiên cứu ( từ Bộ Nội vụ, Bộ Xây
dựng, Văn phòng Chính phủ và Hội KTSVN) được chỉnh sửa 2005 nhưng đến nay
chưa được phê chuẩn.
Việc nghiên cứu tiếp Quy chế này còn phụ thuộc vào chủ trương của nhà nước đối
với việc quản lý ngành và nhu cầu thực tiễn cũng như xu thế chung.
Trong giới hạn đề tài nhóm nghiên cứu xin đề xuất một số vấn đề để khi nghiên
cứu Quy chế mới có thể tham khảo.
a. Làm rõ và tách bạch các đối tượng điều chỉnh (áp dung)
- Phía yêu cầu TVPB
Các cơ quan nhà nước (cơ quan hành chính và cơ quan quản lý nhà nước,
quản lý ngành)
Các chủ đầu tư nhà nước
Các chủ đầu tư thành phần kinh tế khác (trong và ngoài nước)
- Phía thực hiện nhiệm vụ TVPB XH
Các tổ chức nghề nghiệp (cụ thể là Hội KTSVN) ở Trung ương, ở các hội
KTS thành viên ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Các hội đồng kiến trúc quy hoạch được Hội thành lập hoặc tham gia
b. Làm rõ các đối tượng phải hoặc nên khai thác sử dụng TVPB XH thuộc lĩnh
vực kiến trúc. Giới hạn phạm vị và mức độ (có tính nguyên tắc)
Bổ sung và điều chỉnh theo phần đối tượng TVPB về kiến trúc của đề tài này
(phần liên quan đến quản lý nhà nước, phần về các đề án, đồ án, các đề tài
nghiên cứu, phần về kiến trúc hiện hữu)
c. Bổ sung mục hình thức TVPB (như đề tài):
Theo yêu cầu hoặc đặt hàng của cơ quan cá nhân chủ thể
49
Chủ động đề xuất của bên thực hiện TVPB
d. Trách nhiệm của hai phía cần bổ sung và phân rõ giới hạn mức độ
TVPBXH là tự nguyện, có tính chất tham khảo song cần tăng trách nhiệm
với nội dung: bảo lưu ý kiến TVPB, kiểm nghiệm kết quả so với ý kiến
TVPB để quy trách nhiệm đối với người quyết định khi xảy ra sự cố hay hậu
quả kém.
e. Về tài chính hoạt động TVPB về kiến trúc trên nguyên tắc phi lợi nhuận, để
cho hoạt động đạt hiệu quả tùy hình thức bên yêu cầu TVPB tạo mọi điều
kiện (theo thỏa thuận để bên thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ).
Nếu liên quan đến đặt hang, vấn đề tài chính sẽ được bộ tài chính chỉ đạo và
quy định chi tiết
50
CHÍNH PHỦ
_________
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
_________________________________
QUY CHẾ
VỀ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN PHẢN BIỆN VÀ GIÁM ĐỊNH XÃ HỘI TRONG LĨNH VỰC KIẾN TRÚC CỦA HỘI KIẾN TRÚC SƯ VIỆT NAM
VÀ HỘI KIẾN TRÚC SƯ CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
(Ban hành kèm theo Quyết định số: /2004/QĐ – TTg ngày / / 2004 của Thủ tướng Chính phủ)
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Quy chế này qui định về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong kĩnh vực kiến trúc của Hội kiến trúc của Hội Kiến trúc sư Việt Nam và Hội kiến trúc sư các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Điều 2. Giải thích từ ngữ
1. Tư vấn là hoạt động trợ giúp về tri thức, kinh nghiệm bằng cách cung cấp thông tin, tư liệu đưa ra các ý kiến phận tích, đánh giá, kiến nghị, giải pháp thực hiện đối với các dự án đầu tư xây dựng, các đồ án qui hoạch và đồ án xây dựng công trình.
2. Phản biện là đưa ra những lập luận đánh giá về tính khả thi, chất lượng của các dự án đầu tư xây dựng, các đồ án qui hoạch và đồ án xây dựng công trình.
3. Giám định xã hội là đưa ra ý kiến đánh giá về chất lượng tư vấn, phản biện và việc thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, các đồ án qui hoạch và đồ án xây dựng công trình.
51
Điều 3. Mục đích tư vấn, phản biện, giám định xã hội trong lĩnh vực kiến trúc
Hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội về kiến trúc của Hội Kiến trúc sư Việt nam là nhằm khai thác tài năng, trí tuệ của giới kiến trúc sư để tham gia vào cùng cơ quan quản lý Nhà nước, các chủ đầu tư nâng cao hiệu quả đầu tư, bảo vệ môi trường và cảnh quan góp phần xây dựng nền kiến trúc Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc.
Điều 4. Đối tượng tư vấn, phản biện, giám định xã hội trong lĩnh vực kiến trúc
1. Các đồ án qui hoạch xây dựng vùng; đồ án qui hoạch chung xây dựng đô thị; đồ án qui hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn; đồ án qui hoạch chi tiết xây dựng đô thị, thiết kế đô thị;
2. Các dự án đầu tư xây dựng; các đồ án thiết kế mới, cải tạo, mở rộng công trình quan trọng;
3. Các dự án trùng tu, tôn tạo các di tích đã được Nhà nước xếp hạng; các danh lam thắng cảnh;
4. Các dự thảo văn bản pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước, qui hoạch; quản lý kiến trúc sư;
5. Các nội dung, chương trình đào tạo kiến trúc sư; 6. Thi tuyển kiến trúc; 7. những vấn đề khác có lien quan đến kiến trúc.
Điều 5. Bên yêu cầu và bên thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong lĩnh vực kiến trúc
1. Bên yêu cầu là các cơ quan Nhà nước các cấp và các chủ đầu tư có yêu cầu tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong lĩnh vực kiến trúc đối với công trình xây dựng;
2. Bên thực hiện là Hội Kiến trúc sư Việt Nam và Hội Kiến trúc sư các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3. Bên yêu cầu có thể thực hiện một, hai hoặc tất cả các công việc sau: Tư vấn; Phản biện; Giám định xã hội trong lĩnh vực kiến trúc đối với các dự án đầu tư xây dựng, các đồ án qui hoạch và đồ án xây dựng công trình.
Điều 6. Nhiệm vụ của các bên
52
1. Nhiệm vụ bên yêu cầu: a. Cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu có liên quan đến nội
dung tư vấn, phản biện và giám định xã hội; b. Thực hiện với các nội dung đã thỏa thuận với bên thực hiện;
2. Nhiệm vụ bên thực hiện a. Tập hợp các chuyên gia kiến trúc để thực hiện tư vấn, phản biện và giám
định xã hội trong lĩnh vực kiến trúc; b. Chịu trách nhiệm về ý kiến tư vấn, phản biện và giám định xã hội; c. Thực hiện với các nội dung đã thỏa thuận với bên yêu cầu.
Điều 7. Trình tự thực hiện
1. Căn cứ điều 4 Quy chế này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thong báo cho các chủ đầu tư, các chủ sở hữu dự án đầu tư xây dựng để lấy ý kiến tư vấn, phản biện và giám định xã hội lĩnh vực kiến trúc của Hội Kiến trúc sư.
2. Ý kiến tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong lĩnh vực kiến trúc của Hội Kiến trúc sư là căn cứ để có thẩm quyền hoặc chủ đầu tư xem xét, quyết định.
Điều 8. Kinh phí thực hiện Bộ trưởng Bộ tài chính qui định nguồn kinh phí, mức chi cụ thể cho hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong lĩnh vực kiến trúc.
Điều 9. Trách nhiệm thi hành
1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan, tổ chức có liên quan chịu trách nhiệm thực hiện Qui chế này.
2. Bộ Xây dựng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc thực hiện Quy chế này.
THỦ TƯỞNG CHÍNH PHỦ
PHAN VĂN KHẢI
53
III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Hoạt động TVPB nói chung, TVPB về kiến trúc nói riêng đã hiện diện trong
đời sống xã hội lâu nay.
Xã hội càng phát triển, đặc biệt là về kinh tế, tất yếu cơ sở hạ tầng - kiến tr úc
xây dựng cũng phát triển theo. Đòi hỏi chất về lượng kiến trúc xây dựng ngày càng
cao, công tác quản lý cũng phải đáp ứng và tăng phần trách nhiệm, từ đó hoạt động
TVPB được chú ý khai thác.
- Mặc dù về pháp lý, từ hiến pháp cho đến các luật xã hội, luật chuyên
ngành, các văn bản pháp lý khác đã có nội dung về TVPB XH song còn
lẻ tẻ chưa thành hệ thống, và đặc biệt còn chung chung chưa có các quy
chế cụ thể, tính hiệu lực thấp thiếu kiểm tra nên hiệu quả còn tùy nghi tự
phát không đồng đều (thời gian ko gian địa phương bộ ngành đối tượng,
hình thức)
Mặc dù nhận biết được lợi ích của TVPB nhưng hoạt động này chưa thật
tự nguyện, vẫn còn nhiều trường hợp đối phó kể cả các đối tượng kiến
trúc thuộc nhà nước sở hữu quản lý.
- Luật pháp cho phép trách nhiệm thuộc về người quyết định, thực tế nhiều
quyết định nếu kiểm nghiệm lại còn bất cập, gây tốn kém thời gian tiền
của hoặc chất lượng có vấn đề nhưng không được xử lý về trách nhiệm.
Sự chủ quan, quyết đoán, chưa quen sử dụng tư vấn (cố vấn như các
nước phát triển) làm cho tiếp tục hoạt động TVPB ít được triển khai,
hoặc nếu có thì sự tiếp nhận nó hiệu quả thấp ít giá trị tích cực, hạn chế
tính khách quan.
- Về phía thực hiện TVPB do chưa có các quy chế cụ thể về vận hành hoạt
động này, nên giới chuyên môn luôn ở thế bị động.
54
Mặt khác tuy hoạt động TVPBXH về kiến trúc vừa qua đã đóng góp
được khá hiệu quả ở các đối tượng và các hình thức, tuy nhiên nhìn
chung chưa có tính chuyên nghiệp, từ việc tổ chức cơ sở khoa học về
chuyên môn và nghiệp vụ, thiếu thực tiễn nên hiệu quả TVPB có trường
hợp chất lượng chưa cao, ít thuyết phục khó tiếp nhận.
Thêm nữa chưa có cơ chế bảo lưu nên khó kiểm chứng, làm cho kết quả
TVPB bị nghi ngờ gây ấn tượng phiền hà ngáng trở.
TVPB về kiến trúc rất cấn thiết đóng vai trò quan trọng trong quá trình
xây dựng đất nước theo con đường CNH – H ĐH tạo dựng cơ sở vật chất
CNXH, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kiến trúc
nước nhà theo định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam của Đảng
“hiện đại, tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc” đồng thời phù hợp với xu thế
chung phát triển bền vững.
Để cho hoạt động này dần đi vào cuộc sống xã hội rộng rãi, tự nguyện,
cần phải có thời gian để hiểu và kiểm nghiệm thực tế sẽ là yếu tố thuyết
phục xã hội.
Kiến trúc liên quan đến đầu tư, nghĩa là động chạm đến lợi ích vật chất
nên lệ thuộc vào chủ thể. Chủ thể nhà nước nên đi đầu trong hoạt động
này để làm gương cho các thành phần kinh tế khác.
Hoạt động TVPB rất cần môi trường trong đó có môi trường về pháp lý,
và không thể không kể đến môi trường văn hóa văn minh con người.
Hoạt động TVPBXH nói chung thong qua mặt trận tổ quốc, hoạt động
TVPB về kiến trúc – quy hoạch xây dựng nói riêng qua các cơ quan quản
lý nhà nước, cơ quan thong tin truyền thong dư luận xã hội, qua các tổ
chức nghề nghiệp đang dần rõ nét và có hiệu quả.
55
Với sự bắt đầu và xu hướng phát triển ấy, hy vọng hoạt động TVPB về
kiến trúc ngày càng phát huy đa dạng, đa phương và mang tính khoa học,
tính chuyên nghiệp
KIẾN NGHỊ
- Ở các nước phát triển, đặc biệt phát triển về khoa học công nghệ trong đó có
kiến trúc- xây dựng, hoạt động TVPB được vận dụng ở nhiều phương thức, trong
đó có phương thức tư vấn (cố vấn chuyên gia).
Do đất nước phát triển nên người ta có nhiều gương mặt có hạng, tư vấn độc
lập cá thể có uy tín và chuyên nghiệp thậm chí có những vấn đề phải thuê chuyên
gia từ nước ngoài.
Ở nước ta, đất nước mới đang trên đà phát triển, kiến trúc xây dựng chưa có bề
dầy chưa có các gương mặt có tên tuổi được tôn vinh. Vì vậy cần phát triển hình
thức “Hội đồng” (tập thể chuyên gia tư vấn). Bên cạnh đó cần phát huy TVPB của
các tổ chức nghề nghiệp ở trung ương, ở các địa phương, các cơ quan bộ ngành.
- Tạo môi trường tốt để phát huy hoạt động TVPB trước hết là thể chế hóa có
tính pháp lý:
Thể chế hóa về sự cần thiết TVPB trong một chu trình công việc (bước đầu
có thể giới hạn đối tượng hay phạm vi)
Thể chế hóa về các điều kiện để thực hiện hoạt động TVPB.
Thể chế hóa về tổ chức, vai trò, trách nhiệm phía cung cấp TVPB (tổ chức
nghề nghiệp, với cá thể chuyên gia)
Cụ thể, trước tiên hoàn thiện và ban hành Quy chế TVPBXH về kiến trúc
của Hội KTSVN, đã đề xuất và dự thảo 2004, 2005
- Tuyên truyền rộng rãi về hoạt động TVPB (pháp lý, lợi ích, trách nhiệm) cho
toàn xã hội, vì kiến trúc quan hệ đến hầu hết cộng đồng (nhà quản lý các chủ đầu
tư các thành phần kinh tế trong ngoài nước, người sử dụng xã hội hưởng thụ)
56
SỬ DỤNG KẾT QUẢ TVPB HIỆU QUẢ
Mặc dù hoạt động TVPB có thể chế chăng nữa thì tính chất của nó cũng mang
tính “tự nguyện, tham khảo”, không mang tính pháp lý hoặc quyết định.
Việc sử dụng kết quả không cứng nhắc, bắt buộc. Tuy nhiên thực tế cho thấy,
có những kết quả TVPB (ý kiến phản bác, đề xuất) đúng và có giá trị, bị bỏ qua.
Sau đó cũng thực tế, xác nhận quyết định sai hoặc kém hơn so với TVPB nhưng
không được xác nhận lại, một mặt để minh chứng cho sự đúng đắn, mặt khác gắn
trách nhiệm cho người đã quyết định.
Vì vậy “bảo lưu” kết quả TVPB rất cần thiết (cho cả hai phía) không chỉ giải
quyết cho vấn đề cụ thể đó, mà còn để tham khảo cho các bước tiếp theo , cho vấn
đề tương tự.
57
PHỤ LỤC
Tài liệu tham khảo
[1 ] Hiến pháp nước CHXHCN VN năm 1992 và Dự thảo sửa đổi 2013
[2 ] Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
[3 ] Luật xây dựng 2003 và dự thảo sửa đổi 2013
[4 ] Luật quy hoạch đô thị 2009
[5 ] Nghị định 12/2009/ N Đ – CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
[6 ] Nghị định 29/2007/N Đ – CP ngày 27/2/2007 về quản lý kiến trúc đô thị
[7 ] Thông tư 8/2008/TT – BXD hướng dẫn tổ chức, hoạt động của Hội đồng Kiến trúc Quy hoạch cấp tỉnh, thành phố
[8 ] Thông tư 23/2009/TT – BXD ngày 16/7/2009 về hướng dẫn thi tuyển tuyển chọn phương án thiết kế kiến trúc công trình xây dựng.
[9 ] Quyết định của TTCP Q Đ22/2002/Q Đ – TTG ngày 30/01/2002 về hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội của liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam.
[1 0 ] Dự thảo Quy chế tư vấn phản biện và giám định xã hội trong lĩnh vực kiến trúc của Hội Kiến trúc sư Việt Nam (2004-2005)
[1 ] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
[2 ] Nhận thức và phản biện xã hội, Ths.Vũ Thị Như Hoa, Học Viện Chính trị-Hành chính quốc gia.
[3 ]Tư tưởng Hồ Chí Minh về phản bện xã hội, Tạp chí nhân lực số 3(29)/2012, Hà Thị Thủy Dương
[4 ] Thảo luận quy chế phản biện xã hội của MTTQVN tham gia phản biện xã hội. Tài liệu Hội thảo khoa học 25/9/2013.
[5 ] Tri thức và phản biện xã hội. Báo Việt Nam Net. 24/3/2012 Hồ Hồng Hải