1
A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
B. THỰC TRẠNG
I. Thuận lợi
II. Khó khăn
C. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. Cơ sở lí luận
II. Nội dung, biện pháp thực hiện
1. Chuẩn bị
Giáo viên
Học sinh
2. Thực hiện trên lớp:
7 hoạt động
3. Nhận xét
Ưu điểm
Hạn chế
4. Kiến nghị
D. KẾT LUẬN
C. KẾT LUẬN
2
A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, ngành
giáo dục đã có những bước tiến khả quan trong cải cách giáo dục, đổi mới
nội dung, phương pháp giảng dạy ở các cấp học phù hợp với mục tiêu giáo
dục, đào tạo. Thông qua các hội nghị chuyên đề môn Ngữ văn được tổ chức
hàng năm, chúng ta đã trao đổi, bàn luận, rút kinh nghiệm về đổi mới phương
pháp dạy học, về một số bài học khó trong chương trình. Một trong những
bài học khó của chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông là các văn bản văn
học như thơ ca, truyện kí và kịch. Trong khuôn khổ hạn hẹp, sách giáo khoa
không thể trích toàn bộ văn bản văn học mà có đôi chỗ lược bớt (hoặc mỗi
tác giả chỉ học một tác phẩm), chú thích đôi khi không đầy đủ. Điều đó có
khi gây khó khăn cho học sinh khi tiếp cận, tìm hiểu những văn bản văn học
ấy (hoặc phong cách sáng tác của tác giả). Trong bài viết này, chúng tôi xin
nêu ra một số ý kiến cùng trao đổi với quý đồng nghiệp về vấn đề hướng dẫn
học sinh đọc hiểu tác phẩm bút kí qua kết hợp đọc ngoại khoá, thuyết trình ,
thảo luận và ứng dụng công nghệ thông tin trong chương trình trung học phổ
thông
B. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Trước khi thực hiện đề tài, chúng tôi xin nêu một số thuận lợi và khó khăn
như sau:
I. Thuận lợi
- Những tác phẩm văn học hay, hấp dẫn, gần gũi trong cuộc sống được học
sinh quan tâm, có một số hiểu biết nên sẽ hứng thú khi tìm hiểu. Những
vấn đề trên có thể dễ dàng tìm tư liệu trên các phương tiện thông tin.
- Học sinh có ý thức học tập tốt, chăm ngoan, tích cực tìm hiểu bài học, soạn
bài, có nhiều điều kiện thuận lợi tìm tài liệu.
- Nhà trường có cơ sở vật chất, thiết bị dạy học tốt (thư viện, máy tính, máy
chiếu, wifi, phòng học, sách giáo khoa, sách giáo viên)
II. Khó khăn
3
- Tuy nhiên, có những tác phẩm văn học là những bài học mới trong chương
trình ngữ văn nên giáo viên chưa có điều kiện tìm hiểu sâu, chưa có nhiều
kinh nghiệm, tư liệu tham khảo nhiều nên cần chọn lọc
- Sách giáo khoa khi trích dẫn tác phẩm còn lược bớt một số chi tiết, một vài
đoạn văn, chú thích không đầy đủ. đôi khi gây khó hiểu cho học sinh khi
đọc và học tác phẩm, thiếu dẫn chứng khi làm văn.
- Thời gian tìm tư liệu, đọc ngoại khóa không có trong chương trình học
chính khóa
- Một số học sinh chưa quen phương pháp học mới, nhất là tự học, làm việc
theo nhóm, thảo luận, thuyết trình, tìm tư liệu ở các nguồn sách báo,
internet…một số học sinh còn thụ động, thiếu nhiệt tình trong những giờ
ngoại khoá, thuyết trình.
- Tác phẩm bút kí thường dài, nhiều vấn đề khó, học sinh sẽ khó khăn trong
việc tiếp thu bài, học bài và làm bài kiểm tra
Từ đó, chúng tôi có một vài suy nghĩ về cách hướng dẫn học sinh đọc hiểu
tác phẩm bút kí trong chương trình trung học phổ thông để tạo sự quan
tâm, hứng thú, tích cực học tập các bài học về văn bản này.
C. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. Cơ sở lí luận
- Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội
khóa X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục
tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông lần này là “Xây dựng nội
dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu
phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục
phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới”
- Văn bản đồng thời còn yêu cầu “Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của
các bậc học, cấp học quy định trong luật giáo dục; khắc phục những mặt
hạn chế của chương trình, sách giáo khoa; tăng cường tính thực tiễn, kĩ
năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và
nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù
hợp với khả năng tiếp thu của học sinh. Bảo đảm sự thống nhất, kế thừa và
phát triển của chương trình giáo dục”
- Xét thấy việc đổi mới nội dung, chương trình, sách giáo khoa, phương
pháp dạy và học phải thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp, đổi mới trang
thiết bị dạy học, đánh giá, thi cử. Đứng trước yêu cầu trên, chúng tôi giáo
viên môn ngữ văn suy nghĩ làm sao để giờ học phải thực sự hấp dẫn, học
sinh nắm vững bài học, thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tâm hồn, phát triển trí
tuệ của học sinh. Trên cơ sở đó, chúng tôi xin đưa ra một số ý kiến để
chúng ta cùng bàn bạc, trao đổi tìm ra phương hướng giải quyết vấn đề.
4
II. Nội dung, biện pháp thực hiện
1. Chuẩn bị
1.1 Giáo viên
Kế hoạch
Tìm hiểu, bổ sung bài học trong đọc ngoại khoá là giai đoạn
phát triển lôgic của học chính khoá nhằm tiếp tục tích cực hoá
hoạt động nhận thức và sáng tạo của học sinh, củng cố và mở
rộng những kiến thức văn học cơ bản, phát triển ở học sinh kĩ
năng đọc và phân tích tác phẩm văn học. Đọc ngoại khoá là
hình thức tự nghiên cứu tác phẩm văn học một cách có kế
hoạch, có định hướng của học sinh do giáo viên tổ chức, hướng
dẫn, theo dõi và kiểm tra.
Tuỳ theo điều kiện của từng địa phương, trường học, trình độ
của học sinh mà vào đầu năm học giáo viên soạn thảo kế hoạch
trong năm, giới thiệu chương trình, cung cấp danh mục các tác
phẩm cần chuẩn bị, cung cấp tư liệu, hướng dẫn địa chỉ tìm tư
liệu, phân công (hoặc cho xung phong) các cá nhân hoặc các
nhóm tìm tư liệu theo từng bài học.
Giáo viên cần lựa chọn các tác phẩm phù hợp, tập hợp theo chủ
đề, đặt ra các vấn đề cần thảo luận trong quá trình đọc, khái
quát, định hướng đề học sinh có thể tự đọc, tự tìm hiểu những
tác phẩm cùng đề tài một cách đúng đắn, nâng cao trình độ đọc
hiểu, không chỉ bổ sung kiến thức về tác giả, tác phẩm, một
giai đoạn, trào lưu văn học mà còn phát triển, điều chỉnh hứng
thú đọc của học sinh, góp phần hoàn thiện mục tiêu giáo dục
nhân văn trong nhà trường.
Thế giới bước vào kỷ nguyên mới nhờ tiến bộ nhanh chóng của
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lỉnh vực.
Trong giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin đã góp phần
hiện đại hóa phương tiện dạy học, thiết bị dạy học góp phần đổi
mới phương pháp dạy học. Theo quan điểm thông tin, học là
quá trình thu nhận thông tin có định hướng, có sự tái tạo và
phát triển thông tin; dạy là phát thông tin và giúp người học
thực hiện quá trình trên một cách có hiệu quả. Trong chương
trình Ngữ văn trung học phổ thông, giáo viên có thể ứng dụng
công nghệ thông tin ở một số bài học. Trong phạm vi bài viết
này chúng tôi xin trình bày một bài học về thể loại bút kí Ai đã
đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường (giáo viên
và học sinh cùng thực hiện) – chương trình Ngữ văn lớp 12, kết
hợp đọc ngoại khóa và ứng dụng công nghệ thông tin.
Chuẩn bị:
5
Giáo viên phân công 3 nhóm tìm tư liệu về bài học, soạn trên
powerpoint và thuyết trình:
Nhóm 1: Tìm hiểu vế tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và thể loại
bút kí (so sánh với tùy bút đã học trong bài Người lái đò sông Đà –
Nguyễn Tuân)
Nhóm 2: Tìm bổ sung đoạn đầu văn bản (văn bản trích trong sách
giáo khoa đã lược đoạn này). Tìm chú thích một số địa danh ở
Huế, nơi sông Hương chảy qua (trong đoạn trích mà sách giáo
khoa không chú thích)
Nhóm 3: Tìm chú thích một số câu ca dao, thơ được sử dụng trong
đoạn trích. Tìm bổ sung đoạn kết văn bản (văn bản trích trong sách
giáo khoa đã lược đoạn này)
* 3 nhóm tìm hình ảnh, phim minh họa trong phần phân công của
nhóm
* Mỗi cá nhân tìm tư liệu về bài học (ý kiến của các nhà nghiên
cứu, phân tích tác phẩm ..) Giáo viên sẽ cộng điểm khuyến khích
Cả lớp soạn bài theo 5 câu hỏi trong sách giáo khoa. Lưu ý: nắm bố
cục, phân tích thủy trình sông Hương (nghệ thuật, nội dung) tiếp cận
văn bản ở nhiều góc nhìn: địa lí, lịch sử, thơ ca, âm nhạc, hội họa …
Thời gian
Linh động về thời gian tiến hành, tùy theo điều kiện của trường,
lớp mà sắp xếp thời gian cho phù hợp.
Có thể tiến hành một buổi (1 đến 2 tiết) hoặc vào tiết cuối của
ngày mà lớp chỉ học bốn tiết, hoặc buổi chiều học sinh học thể
dục 2 tiết thì kết hợp 1 - 2 tiết sau để thực hiện.
Giáo viên phối hợp với cán sự bộ môn Văn của lớp để sắp xếp
thời gian và thông báo kịp thời cho học sinh chuẩn bị.
Trường chúng tôi mỗi tuần có tăng 2 tiết nên dự kiến: 1 tiết học
sinh thuyết trình ( mỗi nhóm 15 phút), 2 tiết học chính khóa, 1
tiết luyện tập.
1.2 Học sinh
Trưởng nhóm sẽ họp nhóm phân công các thành viên tìm tư liệu,
thảo luận, trình bày sáng kiến riêng của nhóm (chuẩn bị phim hoặc
tranh ảnh minh họa, photo nhiều bản hoặc soạn để trình chiếu)
Các nhóm hoàn thành công việc được giao theo đúng thời gian quy
định của giáo viên
Giáo viên xem qua phần chuẩn bị của các nhóm và góp ý trước khi
thực hện tại lớp.
2. Thực hiện trên lớp
6
Giáo viên lên kế hoạch thực hiện trước 2- 3 tuần và thông báo cụ thể
để các nhóm chuẩn bị tư liệu, giao công việc và những câu hỏi định
hướng cho từng cá nhân hoặc từng nhóm
Nếu có điều kiện thì nên sắp xếp bàn ghế theo hình chữ U, ngồi theo
ba nhóm để dễ trao đổi, thảo luận.
Cán sự bộ môn Văn của lớp sẽ điều khiển buổi học tăng tiết theo từng
hình thức mà các nhóm đã chuần bị : thuyết trình trên máy chiếu.
Tiến hành:
* Tiết 1 Hoạt động 1:
Giáo viên giới thiệu:
Hình ảnh quê hương được khắc sâu qua dòng sông với muôn màu vẻ
khác nhau, nhất là nhà thơ, nhà văn. Dòng sông trong tim Tế hanh là
hình ảnh Nước gương trong soi tóc những hàng tre … Trong Hoàng
Cầm là Xanh xanh bãi mía, bờ dâu … Một dòng sông vừa hung bạo,
vừa trữ tình và đẹp như một thiếu nữ kiều diễm của Nguyễn Tuân.
Thiền sư Thích Viên Thành, người sáng lập chùa Trà Am (Huế) có
một bài thơ nói về thành phố quê hương của mình:
Vầng trăng núi Ngự, nước sông Hương
Chưa đi tới đó hận muôn đường
Khi đã tới rồi không gì lạ
Vầng trăng núi Ngự, nước sông Hương
Hiểu theo ngôn ngữ Thiền, bài thơ này hàm ý rằng nếu nhìn nó như
một cá thể (đối chọi với những thành phố khác) thì Huế không có gì là
lạ và để nhận thức Huế, người ta cần nhìn thấy cá tính của nó.
Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường –
người con của xứ Huế - đi sâu khám phá cái cá tính Huế ấy từ một
dòng sông xứ Huế (giới thiệu vài hình ảnh về sông Hương)
Học sinh đọc văn bản
3 nhóm thuyết trình theo phân công.
Nhóm 1 trình bày vế tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và thể loại bút
kí
Nhóm 2 - 3 góp ý
Giáo viên nhận xét, bổ sung:
Tác giả:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn hiện đại tiêu
biểu của Huế, từng là giáo viên trường Quốc học Huế, bạn thân
của nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn. Ông tham gia văn nghệ giải
phóng thời chống Mĩ cùng Nguyễn Khoa Điềm. Vợ là nhà thơ
Lâm thị Mĩ Dạ quê Quảng Bình. Cả hai vợ chồng hiện nay sống ở
Huế và cùng được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học (2007).
Hoàng Phủ Ngọc Tường tự nhận là người ham chơi, ham đi, ham
học, ham kết giao bạn bè. Ông chuyên viết bút kí – tùy bút với
những tập kí đặc sắc …Nét đặc sắc trong kí của ông là có rất nhiều
7
ánh lửa (vua tùy bút Nguyễn Tuân từng ca ngợi) của tình yêu thiên
nhiên đất nước và con người Việt Nam; là ở sự kết hợp giữa trí tuệ
và trữ tình, nghị luận sắc bén và suy tư nhiều chiều, tổng hợp từ
vốn kiến thức sâu rộng; lời văn hướng nội, súc tích, trữ tình, mê
đắm và tài hoa.
Thể loại bút kí:
Đặc trưng của kí ( học sinh đã học trong Vũ trung tùy bút – Phạm
Đình Hổ; Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác …)
Tính xác thực: phản ánh hiện thực khách quan
In đậm dấu ấn hình tượng tác giả (trực tiếp viết ra những gì
mình chứng kiến, quan sát)
Ngôn từ nghệ thuật chủ yếu là ngôn ngữ trực tiếp của tác
giả
Các loại kí:
Tiểu loại: kí sự, bút kí, phòng sự, hồi kí, nhật kí, Tùy
bút…ngoài đặc trưng chung cón có đặc điểm riêng.
So sánh bút kí và tùy bút (Tùy bút Người lái đò sông Đà –
Nguyễn Tuân)
Bút kí: Tác già ghi chép các sự kiện, qua đó ghi lại cảm
xúc, suy nghĩ.
Tùy bút: giàu chất trữ tình, khá tự do trong quá trình
sáng tạo; ngôn từ giàu hình ảnh, chất thơ. Phản ánh sự
kiện nhưng đan xen với sự kiện là cảm xúc, suy ngẫm
của tác giả về con người, cuộc sống.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường
thuộc thể kí (nghiêng về tùy bút), giàu chất trữ tình, giàu
lượng thông tin.
Hoạt động 2
Nhóm 2 trình bày chú thích một số địa danh ở Huế, nơi sông Hương chảy
qua
Nhóm 3 trình bày chú thích một số câu ca dao, thơ được sử dụng trong
đoạn trích
Giáo viên nhận xét, bổ sung:
Kim Phụng: có tên là Thương Sơn, ngọn núi cao nhất ở phía tây nam
TP Huế
Châu Hóa: tên gọi cũ của Huế thời nhà Trần
Phú Xuân: tên gọi cũ của Huế thời nhà Nguyễn
Ngã ba Tuần: chỗ 2 nhánh sông Hương gặp nhau ở thương nguồn
Điện Hòn Chén: điện thờ thánh mẫu Thiên Y A Na
Nguyệt Biều, Lương Quán: tên 2 làng ở thượng lưu sông Hương,
ngoại ô TP Huế,nổi tiếng về giống cây thanh trà
Vạn niên: tên ngôi làng ở phía tây nam kinh thành Huế, gần lăng Tự
Đức
Vọng Cành, Tam Thai, lựu Bảo: tên những quả đồi phía tây nam kinh
thành Huế
8
Kim Long: vùng đất nổi tiếng ở Huế
Ngọc Trản: tên chữ của Hòn Chén, cồn nhỏ có hình cái chén úp, có
điện thờ thánh mẫu
Thiên Mụ: có tên chùa Linh Mụ, nổi tiếng ở Huế, được xây dựng trên
ngọn đồi tả ngạn sông Hương – Hương Trà. Chúa Nguyễn Hoàng xây
dựng 1601.
Cồn Giả Viên (bãi đất nổi trên sông Hương hướng tây nam) – cồn Hến
(bãi đất nổi trên sông Hương hướng đông bắc). 2 cồn này tạo cho kinh
thành Huế cái thế uy nghi, cân xứng “Tả thanh long. Hữu bạch hổ”
Cồn Hến: bãi đất nổi trên sông Hương, hướng đông bắc; hai cồn này
tạo cho kinh thành Huế thế uy nghi, cân xứng “Tả thanh long, Hữu
bạch hổ” (bên trái là rồng xanh, bên phải là hổ trắng)
Tứ đại cảnh: tên bản nhạc cổ tương truyền do vua Tự Đức sáng tác,
nguyên tên là Tứ đại (bốn cảnh lớn, cảnh bốn mùa…)
Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên.
Ca dao Huế nói về vẻ đẹp mơ màng của đất cố đô, vùng thượng lưu
sông Hương, nơi có nhiều lăng tẩm của các vua triều Nguyễn
Còn non, còn nước, còn dài,
còn về, còn nhớ …
Những câu hò Huế, nói về lòng thủy chung, gắn bó với quê hương xứ
sở
Dòng sông trắng, lá cây xanh: lấy từ câu thơ trong bài Chơi Huế - Tản
Đà (1921)
Quanh thành tám cửa, sông dài bọc quanh.
Lại bao phố xá ngoài thành
Trên cầu xe ngựa, ghe mành dưới sông
Đông Ba, Gia Hội càng đông
Dịp cầu nhẹ bước, xa trông càng tình
Dòng sông trắng, lá cây xanh
Xuân giang, xuân thụ, cho mình nhớ ai!
Như kiếm dựng trời xanh (Hiệu quá Hương giang – Cao Bá Quát)
Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền
Trường giang như kiếm lập thanh thiên
(Muôn dãy núi như chạy vòng quanh khu ruộng xanh mướt
Ngọn sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh)
Nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bãng lãng (Chiều hôm nhớ nhà
- Bà Huyện Thanh Quan)
Trời chiều bãng lãng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn …
Tác giả Từ ấy (Tiếng hát sông Hương – Tố Hữu) Viết về những kiếp
đời trôi nổi trên sông Hương, thấm đẫm chất nhân đạo
Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
9
……
Trăng lên trăng đứng trăng tàn
Đời em như chiếc thuyền nan xuôi dòng
* Tiết 2-3 Hoạt động 3
1. Đọc hiểu văn bản
I. Tiểu dẫn1. Tác giả
Trí thức yêu nước
Gắn bó sâu sắc
với xứ Huế
Chuyên viết bút kí:
trí tuệ + trữ tình,
liên tưởng mạnh
mẽ, hành văn mê
đắm, tài hoa
2. Xuất xứ
Viết tại Huế 04.01.1981
Bài kí có 2 phần:
Cảnh quan thiên nhiên
của sông Hương
Dòng sông của lịch sử
và thi ca
10
2. Chia bố cục đoạn trích:
Đầu… quê hương xứ sở: Vẻ đẹp sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên
Trong những dòng sông … núi Kim Phụng: Sông Hương ở
thượng nguồn
Phải nhiều thế kỉ… tiếng gà: Sông Hương về đồng bằng
Từ đây …xứ sở: Sông Hương vào thành phố Huế rồi ra biển
Hiển nhiên … dòng sông: Sông Hương với lịch sử, cuộc đời và thi ca
3. Tìm hiểu văn bản
Nhóm 2 đọc bổ sung đoạn đầu văn bản đã chuẩn bị và nêu cảm
nhận
Xuân hạ thu đông tôi vẫn thường lên thăm vườn An Hiên của chị Tùng
ở Kim Long. Khu vườn xưa cổ sầm uất, ùa nào cũng có những loài
hoa đang nở, những trái cây đang chín, nhưng luôn tỏa sáng thần thái
yên tĩnh và khoáng đạt, giống như một tự do nội tâm.
Ngày xưa, Nguyễn Du đã sống rất lâu ở vùng này, và bây giờ, trước
sân nhà bà Tùng vẫn tỏa bóng những cây cổ, giống hồng Tiên Điền
nổi tiếng mà chính cụ Nghè Mai, cháu nội cụ Nguyễn Du đã tặng cho
gia đình bà.Mùa thu tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc
cổng vòm quay mặt ra song, ăn những trái hồng ngọt và thanh đến
như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan thành dư vang của
một tiếng chim. Tôi đọc sách trong trạng thái vừa thích thú vừa lơ
đãng,miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc không
ngừng dưới ánh nắng và trong mùi hương trốn tìm của hoa trái trong
vườn. Chính trong hững phút bồng bềnh giữa cỏi thực và cõi thơ ấy,
11
tôi đã cảm nhận ra cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trên mỗi trang
truyện Kiều: dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng
vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của
hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết …
Một trăm năm mươi năm (rồi nữa ba trăm năm sau), nhà thơ đã qua
đời, mà vẫn trời ấy, đất ấy, cỏ hoa vẫn y nguyên quanh chỗ tôi ngồi.
Thiên nhiên của mảnh đất Kinh – xưa đã để lại một cái bóng mông
lung nhưng rất dễ nhận ra trong thơ Nguyễn Du. Ngược lại, chính
sông Hương và thành phố của nó vẫn gợi cho tôi, như một vang bóng
trong thời gian, hình tượng của cặp tình nhân lí tưởng của Truyện
Kiều: tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc, và
cả hai cùng gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở.
Các nhóm khác bổ sung
Giáo viên nhận xét, bổ sung:
Cảm hứng về vẻ đẹp sông Hương từ một khu vườn cổ và kí ức về
Nguyễn Du, Truyện Kiều: hoa trái của khu vườn cổ, những kí ức
về Nguyễn Du và Truyện Kiều gợi cảm xúc về một vùng đất có vẻ
đẹp sâu lắng, thanh khiết, cổ kính…Đoạn mở đầu này có tác dung
như khúc dạo đầu của một bản đàn hay bài ca trữ tình, thơ mộng
Hoạt động 4
Tìm hiểu phần 1
1. Vẻ đẹp sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên
Thảo luận nhóm: 10 phút
Nhóm 1: Sông Hương ở thượng nguồn – phân tích nghệ thuật
và nội dung
Nhóm 2: Sông Hương về đồng bằng – phân tích nghệ thuật và
nội dung
Nhóm 3: Sông Hương vào thành phố Huế rồi ra biển – phân
tích nghệ thuật và nội dung
Từng nhóm trình bày, tóm tắt vào bảng phụ
Sông Hương ở thượng nguồn
Nhóm 1 trình bày
Các nhóm khác bổ sung
12
Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho học sinh xem đoạn phim
sông Hương ở thượng nguồn có đọc thuyết minh bài kí của
Hoàng Phủ Ngọc Tường
II. Đọc hiểu1.Vẻ đẹp sông Hương qua cảnh sắc thiên
nhiêna. Sông Hương ở thượng lưu
a. Sông Hương ở thượng lưu
13
a. Sông Hương ở thượng lưu
Sức sống mãnh liệt
(trường ca) hùng tráng
- trữ tình ( dịu dàng, say
đắm)
Vẻ đẹp hoang dại, tình tứ
Nhân hóa con người có
cá tính, tâm hồn
Nhìn từ cội nguồn: có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: như
một “bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu trầm bổng.
- Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn > hùng tráng.
- Mãnh liệt vượt qua ghềnh thác > ào ạt.
- Cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu > dữ dội.
- Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên
rừng > nên thơ, tình tứ, mê đắm.
Biện pháp nhân hoá: Sông Hương như “cô gái Di - gan phóng khoáng
và man dại”, với “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” >
nữ tính, vừa dịu dàng vừa mãnh liệt hoang sơ > không chỉ ngắm nghía
“khuôn mặt kinh thành”, nhà văn còn khơi về nguồn cội để khám phá
vẻ đẹp tâm hồn thăm thẳm mà chính dòng sông cũng không muốn bộc
lộ.
Hé mở một phát hiện mới của tác giả về vẻ dẹp của Sông Hương:
Người ta hay nghe tới sông Hương gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn
trầm tư”, êm đềm, trong trẻo nay lại biết tới phần dữ dội, mê hoặc,
khó cưỡng của dòng sông.
Sông Hương về đồng bằng
Nhóm 2 trình bày
Các nhóm khác bổ sung
14
Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho học sinh xem đoạn phim sông
Hương về đồng bằng có đọc thuyết minh bài kí của Hoàng
Phủ Ngọc Tường
b. Sông Hương về đồng bằng
b. Sông Hương về đồng bằng
15
LĂNG GIA LONG
b. Sông Hương về đồng bằng
b. Sông Hương về đồng bằng
16
CHÙA THIÊN MỤ
b. Sông Hương về đồng bằng
TIẾNG CHUÔNG THIÊN MỤ
b. Sông Hương về đồng bằng
17
b. Sông Hương về đồng bằng
Vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ:
người mẹ phù sa tạo nên,
bảo tồn văn hóa xứ sở
Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình:
người con gái đẹp đến với
người tình mong đợi
Vẻ đẹp biến ảo,trầm mặc, cổ
thi
Sông Hương về đồng bằng
Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế
+ Quan hệ giữa sông Hương và có đô: “người tình mong đợi”
>hành trình về cố đô được hình dung như “một cuộc tìm kiếm có ý
thức” một người tình trong mộng của người con gái.
+ Hành trình về xuôi tìm “người tình mong đợi”
- Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại: là “cô gái đẹp ngủ mơ
màng” > gợi nhớ truyện cổ tích “Công chúa ngủ trong rừng” > vẻ
đẹp lãng mạn của câu chuyện cổ.
- Khi ra khỏi vùng núi: “chuyển dòng liên tục, vòng những khúc
quanh đột ngột’, “vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên
Mụ, vượt qua, đi giữa âm vang, trôi di giữa hai dãy đồi sừng sững
như thành quách, với những điểm cao đột ngột” > linh hoạt, rạo rực
sức trẻ và sự khao khát.
- Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo: “mềm như tấm lụa”
- Qua những dãy đồi tây nam thành phố: ánh lên “những mảng phản
quang nhiều màu sắc” “ sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
- Qua lăng tẩm đền đài: “vẻ đẹp trầm mặc nhất” “như triết lí, như
cổ thi” > so sánh độc đáo, giàu sức gợi > tả mặt nước phẳng lặng và
không gian bờ bãi u tịnh bằng liên tưởng tới triết học, thơ cổ > nổi
bật vẻ thâm nghiêm, bao nhiêu thăng trầm lịch sử, bao nhiêu dời đổi
của các triều đại đã tạo thành trầm tích văn hóa lặn vào vẻ đẹp ngàn
18
năm không suy xuyển của dòng nước > thấp thoáng hình ảnh một
“cái tôi” giàu suy tư.
- Khi gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ: tươi tắn và trẻ trung
Nhận xét:
• Sông Hương chảy qua nhiều địa danh khác nhau, mỗi địa danh mà
chỉ nhắc thôi ngưòi ta đã thấy bao tầng sâu văn hiến > nhiều dáng vẻ
Sông Hương được khám phá ở nhiều góc nhìn.
• Diện mạo: vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng.
• Bút pháp: kể và tả, sự liệt kê được thơ hoá bằng thụ cảm tài hoa,
tinh tế.
Sông Hương vào thành phố Huế rồi ra biển
Nhóm 3 trình bày
Các nhóm khác bổ sung
Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho học sinh xem đoạn phim sông
Hương vào thành phố có đọc thuyết minh bài kí của Hoàng
Phủ Ngọc Tường
C. Sông Hương vào thành phố - ra biển
19
C. Sông Hương vào thành phố - ra biển
C. Sông Hương vào thành phố - ra biển
20
C. Sông Hương vào thành phố - ra biển
C. Sông Hương vào thành phố - ra biển
21
C. Sông Hương vào thành phố - ra biển
C. Sông Hương vào thành phố - ra biển
Tâm trạng vui tươi gắn
bó tha thiết
Hội họa: vẻ đẹp cổ kính
của cố đô
Âm nhạc:
Điệu slow tình cảm giai
điệu chậm rãi, trữ tình
Tài nữ đánh đàn, nhạc cổ
điển Huế sinh thành
22
Ca Huế
23
Văn hóa: ánh hoa
đăng đêm rằm
Chuyển dòng
vương vấn của
người tình dịu dàng,
thủy chung
Vẻ đẹp đa dạng,
độc đáo
c. Sông Hương vào thành phố - ra biển
Sông Hương vào thành phố Huế rồi ra biển
- Giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long: Vui tươi hẳn lên >
tâm trạng của một người đi xa “tìm đúng đường về”, nao nức bồi hồi giữa bờ
bãi than thuộc của quê hương.
- Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn
Hến > làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra
của tình yêu > so sánh lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập
ngừng, ý vị, thiêng liêng trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm
mại nơi cánh cung của dòng sông > cái nhìn tình từ, thống nhất, đem lại cho
người đọc những khoái cảm thẩm mĩ độc đáo.
- Liên tưởng và suy tư của nghệ sĩ:
• So sánh sông Hương với sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét
> những tên sông đã trở thành linh hồn của thủ đô các nước, thành biểu
tượng văn hóa của quốc gia > ngầm thể hiện lòng tự hào về sông Hương và
kinh thành Huế. (Liên hệ với Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo”: đặt các
triều đại Việt Nam sánh ngang với các triều đại Trung Hoa)
• Liên tưởng khi từ khói lửa miền Nam tới Lê –nin-grát, đứng nhìn sông Nê-
va, lâu năm xa Huế:
o Sống dậy giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại: muốn hóa làm một con chim nhỏ
đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển.
o Cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho
24
lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo
> Hai nghìn năm trước: triết gia Hi Lạp “khóc suốt đời vì dòng sông trôi đi
quá nhanh”.
o Nhớ lại con sông Hương: “quý điệu chảy lững lờ của nó khi đi ngang
thành phố” > điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.
o Khám phá vả cảm nhận sâu sắc đặc trưng riêng của dòng sông khi chảy
qua kinh thành Huế: điệu chảy êm đềm, chậm mềm, lặng lẽ, như không
vương vấn chút nào cái xô bồ của thời gian, sự nuối tiếc của con người vì
mọi thứ một đi không trở lại > Sông Hương nguyên sơ, trăm năm không đổi
thay, như mang thần thái, quan niệm vũ trụ tuần hoàn của Phương Đông, như
điệu chảy thời gian bất di bất dịch trong thơ ca cổ điển Việt Nam và Trung
Hoa .
Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
(Thu Bồn)
> Sông Hương mang cảm nghiệm thời gian và niềm tự hào của nhà thơ.
- Sông Hương “trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước”: người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya > liên tưởng:
• Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông
này” > Sông Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đồi của Huế, là cái nôi hình
thành nền âm nhạc truyền thống > gợi nhắc đến sông Nile, sông Hắng, sông
Hoàng Hà – cũng là những cái nôi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế
giới > nhà văn cảm nhận dòng sông ở góc độ văn hóa.
• Nguyễn Du và Truyện Kiều > linh hồn, niềm tự hào của quốc văn Việt
Nam > dòng sông mang những thổn thức của cha ông, gắn bó với các giá trị
văn hóa, văn học kinh điển của dân tộc > là dòng chảy vắt từ quá khứ, mang
bao phù sa, trầm tích văn hóa hiện diện trong ngày hôm nay.
+ Nỗi lưu luyến khi rời khỏi kinh thành:
- Rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc.
- Sực nhớ điều gì chưa kịp nói > đột ngột đổi dòng dể gặp lại thành phố lần
cuối
- Liên tưởng:
• Rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây > nỗi vương vấn, chút
lẳng lơ kín đáo của tình yêu
• So sánh: sông Hương, kinh thành Huế - nàng Kiều, Kim Trọng > Tấm lòng
người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở
o Có 3 so sánh bắc cầu: sông Hương trong khúc ngoặt chia tay kinh thành
Huế -Thúy Kiều trong đêm tình tự gửi lời nguyện thề cùng Kim Trọng –
người Châu Hóa mãi thủy chung với xóm làng > từ dòng chảy khác lạ của
dòng sông liên tưởng tới mối tình kín đáo, e ấp, trước sau như nhất của Kim
– Kiều, so sánh với tình yêu quê hương xứ sở của người Huế > mượn tình
cảm riêng để khái quát mối tình chung, làm cho tình yêu đất, yêu nước không
chung chung, to tát mà mềm mại, ý vị, tinh tế, mà đằm thắm, thiêng liêng,
sâu sắc.
25
Hoạt động 5
2. Dòng sông của lịch sử, cuộc đời, thi ca
Giáo viên phát vấn
Học sinh trả lời, liên hệ đến phần chú thích đã bổ sung ở tiết 1
2. Dòng sông của lịch sử, cuộc đời, thi ca
Trong lịch sử: bản
hùng ca ghi dấu bao
chiến công oanh liệt
của dân tộc
Trong đời thường: vẻ
đẹp giản dị của người
con gái dịu dàng
Trong mối quan hệ với lịch sử:
- Điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỉ XV ở “Dư địa
chí” của Nguyễn Trãi, thế kỉ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn
Huệ, thế kí XIX với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của
cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển > tham gia,
trải nghiệm cùng những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc.
- Khái quát: Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang,
của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự
hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở vè với cuộc sống bình
thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.
o Nếu như ở đoạn 1 và 2, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề
rộng của không gian địa lí với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này,
sông Hương được bố cục theo chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những
chiến công, lặng khóc cho những hi sinh âm thầm, vùng lên quật khởi…>
giống như một tấm gương soi vào lịch sử. Sông Hương như biết bao
chiến sĩ vô danh trên dải đất hình chữ S. (Sinh ra không phải cầm súng
cầm mác nhưng kẻ thù buộc ta phải đấu tran. Khi bình yên, họ lại trở về
26
với cuộc sống bình thường, trở về bản tính tự nhiên muôn thủa , như sông
Hương “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”)
Dòng sông không
tự lặp lại mình,
mang vẻ đẹp mới
khơi nguồn cảm
hứng cho các văn
nghệ sĩ
2. Dòng sông của lịch sử, cuộc đời, thi ca
Trong mối quan hệ với thi ca:
- Có một dòng sông thi ca về sông Hương mà nước luôn đổi màu.(thơ Tản
Đà, Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan, Tố Hữu).
Hoạt động 6
Tìm hiểu ý nghĩa nhan đề
Nhóm 3 bổ sung đoạn kết đã chuẩn bị
Học sinh xung phong phát biểu
Giáo viên nhận xét, cho điểm khuyến khích, bổ sung
Bài bút ký kết thúc bằng cách lí giải tên của dòng sông: sông Hương,
sông thơm. Cách lí giải bằng một huyền thoại:
Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì
yêu quí con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của
trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi
mãi.Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi : ai đã đặt tên cho dòng sông
27
Sông Hương - sông
thơm sức gợi
Lí giải:
Bài kí
Huyền thoại khát
vọng, biết ơn
3.Nhan đề
Nhà thơ hỏi với trời, với đất: Ai đã đặt tên cho dòng sông?
• Đối tượng hỏi: đất, trời.
• Nội dung hỏi: ai đã đặt tên cho dòng sông? > câu hỏi dường như không thể
có một lời đáp cụ thể
• Mục đích:
o Không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thông thường mà
là một sự nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương.
o Gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghỉệm
văn hóa của bản thân.
o Tên riêng của một dòng sông có thể do một cá nhân nào đó đặt ra, qua
năm tháng, danh xưng của tác giả bị mai một, nó trở thành tài sản chung của
cộng đồng, Tuy nhiên, cái tên đích thực của dòng sông phải là danh từ gắn
với biểu tượng văn hóa, tinh thần, chiều sâu lịch sử của một dân tộc. Ở khía
cạnh này, chính những người dân bình thường – những người sáng tạo ra văn
hóa, văn học, lịch sử là những người “ đã đặt tên cho dòng sông”
Hoạt động 7
Tổng kết nội dung – nghệ thuật
o Học sinh phát biểu chủ đề - nghệ thuật, liên hệ đến bảo vệ môi
trường
o Giáo viên chốt ý
28
4.Chủ đề
Ngợi ca vẻ đẹp sông
Hương, thiên nhiên
và con người xứ
Huế.Từ đó thể hiện
tình yêu say đắm,
niềm tự hào về quê
hương đất nước
Sức liên tưởng kì diệu
Kiến thức phong phú
Ngôn ngữ uyển chuyển,
giàu hình ảnh, chất thơ
Kết hợp hài hòa cảm
xúc - trí tuệ, chủ quan -
khách quan
5.Nghệ thuật
+ Ngôn ngữ: phong phú, giàu hình ảnh, gợi cảm.
+ Liên tưởng phong phú, bất ngờ:
29
Liên tưởng dòng sông, thiên nhiên Huế với cảnh sắc trong
Truyện Kiều > cảm nhận tinh tế
Liên tưởng sông Hương với tính cách nàng Kiều
+ Hình ảnh: so sánh độc đáo bằng liên tưởng lãng mạn, đậm chất trữ tình.
+ Thủ pháp: nhân hóa > Sông Hương được cảm nhận như một sinh thể sống
động (là người con gái dịu dáng đằm thắm với tất cả các cung bậc cảm xúc)
> thuận lợi để đan cài những suy tưởng về văn hóa, lịch sử, về truyền thống
con người và đất nước Việt Nam.
+ Văn phong giàu chất thơ: toát ra từ thiên nhiên cảnh vật, từ tâm hồn con
người và từ huyền thoại nhà văn sử dụng đúng chỗ
Tiết 4
Luyện tập:
o Giáo viên gợi ý
o Học sinh xây dựng dàn ý
Đề 1: Phân tích hình tượng sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng
sông? ( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
+ Khái quát:
- Vị trí : hình tượng trung tâm, thể hiện những nét độc đáo về nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm.
- Mô tả tổng quát: Sông Hương qua cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường
hiện lên như một “cô gái Di-gan”: mãnh liệt, mê đắm nhưng không kém phần
dịu dàng, tình tứ, ý nhị.” Cô gái Huế”…
+ Phân tích:
- Vẻ đẹp của Sông Hương ở thượng nguồn.
- Vẻ đẹp của Sông Hương về đồng bằng
- Vẻ đẹp của Sông Hương khi chảy qua kinh thành Huế
- Vẻ đẹp hùng tráng trong lịch sử.
- Vẻ đẹp Sông Hương qua những áng thơ văn.
+ Đánh giá:
- Khám phá ra một Sông Hương độc đáo, đa sắc.
- Cơ sở:
• Quan sát tinh tế, sự suy ngẫm > đặt Sông Hương trong nhiều chiều (không
gian địa lí, thời gian lịch sử, tâm hồn thi ca, chiều sâu văn hóa, tâm linh…)
• Tài hoa, khả năng liên tưởng và vốn từ vựng phong phú.
- Qua miêu tả sông Hương thể hiện phong cách tùy bút Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
Đề 2: Cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Ai đã đặt tên cho dòng
sông?
30
+ Uyên bác (kiến thức về lịch sử, địa lí, văn hóa…)
+ Tinh tế, tài hoa (cảm nhận những khía cạnh khuất lấp của con sông:
nét hoang dại…; ngôn so sánh độc đáo, ngôn từ phong phú gợi
cảm…)
+ Giàu trí tưởng tượng, lãng mạn, bay bổng (tưởng tượng hành trình
tìm về cố đô như hành trình tìm về với “người tình mong đợi”…)
+ Gắn bó máu thịt và tự hào với cảnh vật và con người Huế (những
suy tưởng, đối sánh khi đứng trước sông Nê-va…).
Học sinh làm bài kết hợp với thảo luận hoặc tranh luận về những vấn
đề trong tác phẩm để bổ sung kiến thức, dựa trên cơ sở nghiên cứu và
so sánh các tác phẩm văn học tương đồng với nhau ở một mức độ nào
đó về đề tài, thể loại, phong cách…để tìm hiểu ý nghĩa chung. Sau khi
đã dựa vào cái chung để hiểu cái riêng, phải phát hiện và phân tích
những đặc sắc riêng của từng tác phẩm, phong cách tác giả, từ đó mà
tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của nó.
Giáo viên nhận xét, bổ sung, chốt ý…
3. Nhận xét
Qua việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm bút kí trong trường trung học
phổ thông, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
3.1. Ưu điểm:
Học sinh có nhiều thời gian tìm hiểu tác phẩm văn học hơn: vừa bổ sung
kiến thức, ôn lại, củng cố kiến thức đã biết vừa tìm hiểu, phát hiện kiến
thức mới. Các em tích cực phát biểu ý kiến, cách hiểu của bản thân đồng
thời tranh luận sôi nổi với bạn để tự rút ra ý nghĩa của vấn đề.
Chẳng những các em nắm vững bài học mà còn có những ý kiến rất phong
phú, sáng tạo đem lại sự thích thú, hào hứng trong giờ học. Từ những sáng
tạo của các em, giáo viên có thêm kinh nghiệm, bổ sung thêm kiến thức và
phương pháp giảng dạy vào giáo án.
Học sinh rèn luyện thói quen làm việc ở thư viện, tự lập được danh muc
các sách cần đọc theo điều kiện cụ thể của mình. Các em thường xuyên
ghi chép, trao đổi và tranh luận về tác phẩm văn học với bạn bè, biết tóm
tắt và kể lại ngắn gọn, đầy đủ nội dung tác phẩm đã đọc, nắm vững tác
phẩm văn học, từ đó làm bài văn nghị luận văn học tốt hơn.. Vì thế đọc
đầy đủ và tìm hiểu kĩ tác phẩm sẽ giúp học sinh hiểu rõ và nắm vững tác
phẩm, thấy được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm, cũng như bổ sung thêm dẫn chứng khi học chính khóa, khi làm văn,
kiểm tra, thi cử…Khi được hỏi ý kiến có thích học bằng công nghệ thông
tin kết hợp với tìm hiểu kĩ tác phẩm thì khoảng 94% các em đồng tình và
31
có hứng thú. Ví dụ: trong 3 lớp 12A1. 12A4, 12A5, chỉ có lớp 12A5,
12A4 học theo phương pháp trên, còn 2 lớp 12A1 học bình thường và có
luyện tập. Bài kiểm tra chung cả 3 lớp (15 phút): Phân tích vẻ đẹp sông
Hương khi vào thành phố Huế rồi ra biển. Kết quả:
SĨ SỐ XẾP LOẠI 12A1 12A4 12A5
47 KHÁ 13 24 25
47 T. BÌNH 25 21 21
47 YẾU 9 2 1
Qua việc kết hợp giữa đọc ngoại khóa và học chính khóa, luyên tập dần
dần các em mạnh dạn có những nhận xét, đánh giá về chủ đề tư tưởng và
nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, biết so sánh nhận xét, đánh giá của bản
thân với những nhận xét, đánh giá những người khác để rút ra những bài
học kinh nghiệm bổ ích.
Trao đổi, thảo luận theo nhóm:
o Việc chuẩn bị bài theo nhóm dưới sự điều khiển của nhóm trưởng
giúp các em có trách nhiệm, tinh thần tự giác và đoàn kết khi tham
gia bổ sung ý kiến của nhóm mình hoặc tranh luận với nhóm khác.
Từ đó, nâng cao khả năng tự lí giải vấn đề bằng lí lẽ, dẫn chứng cụ
thể, sát hợp, thuyết phục.
o Các em tập phát biểu ý kiến của mình bằng lời nói rõ ràng, dễ hiểu,
tự rèn luyện tư duy lôgic. Ngoài ra, còn sưu tầm thêm hình ảnh, bài
viết theo từng vấn đề để trao đổi với bạn.
Viết bài nghị luận văn học
o Các em biết vận dụng bài đã đọc thêm, đã học trong bài viết của
mình khá tốt.
o Biết nêu luận điểm và dẫn chứng đầy đủ, chính xác.
o Phân tích nghệ thuật tốt hơn và liên hệ mở rộng vấn đề.
o Bài viết có bố cục rõ ràng, mạch lạc, lời văn trong sáng.
3.2. Hạn chế:
Trong quá trình tự tìm hiểu đọc ngoại khóa và thảo luận, các em đưa ra
luận điểm chưa đủ lí lẽ, thiếu lôgic, thiếu dẫn chứng, chưa quen dựa vào
những chi tiết trong văn bản để suy luận, để làm chứng cứ nên sức thuyết
phục chưa cao.
Một số em còn nhút nhát, ngại nói sai nên thụ động, lúng túng, chưa mạnh
dạn phát biểu. Giáo viên khuyến khích, động viên các em tham gia đọc và
thảo luận bằng cách nêu câu hỏi từ dễ đến khó:
32
Với câu hỏi dễ, tái hiện kiến thức giáo viên sẽ mời những em còn rụt
rè, nhút nhát phát biểu.
Những câu hỏi khó hơn, đòi hỏi khả năng suy luận, phán đoán, tổng
hợp, phát hiện vấn đề, giáo viên sẽ mời những em giơ tay phát biểu, từ
từ sẽ chuyển dần sang mời những em ít phát biểu. Cho điểm khuyến
khích hoặc điểm 10 ở những câu hỏi khó, khích lệ và tạo hứng thú dể
học sinh tìm hiểu và phát biểu.
Giáo viên cần chuẩn bị những câu hỏi gợi ý cụ thể, dẫn dắt từ từ vào
vấn đề chính để giúp các em có cơ sở phát biểu đúng hướng và từ đó
phát huy sự sáng tạo riêng.
Qua những hoạt động trên, chúng tôi thấy rằng việc thực hiện phương pháp
này còn tùy thuộc vào yêu cầu từng tiết học, đặc trưng thể loại từng bài học,
đặc điểm học sinh từng lớp, từng vùng miền, địa phương khác nhau và sự
sáng tạo của giáo viên mà đề ra yêu cầu, cách thực hiện, phân bố thời gian
hợp lí, theo dõi, kiểm tra đánh giá, thường xuyên rút kinh nghiệm để đạt mục
tiêu và hiệu quả.
4. Kiến nghị:
Qua việc hướng dẫn học sinh đọc ngoại khóa văn bản văn học trong trường
trung học phổ thông, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Ban giám hiệu trường THPT có sự quan tâm, tạo đều kiện thuận lợi để
tổ bộ môn, cá nhân giáo viên thực hiện việc tổ chức ngoại khóa được
tốt hơn, như tổ chức câu lạc bộ văn học, đêm thơ, giới thiệu sách , bổ
sung sách tham khảo ở thư viện, trang bị wifi … cho học sinh toàn
trường.
Khi lên kế hoạch đọc ngoại khóa, giáo viên cần dự trù một thời khóa
biểu linh hoạt, phù hợp với kế hoạch đọc (theo chủ đề, thể loại, tiến độ
chương trình…), trình độ kiến thức, kĩ năng, thói quen, hứng thú đọc
và các hứng thú khác của học sinh. Riêng về hứng thú đọc sẽ không có
một hứng thú đọc đơn nhất cho mọi học sinh, có học sinh thích đọc tác
phẩm của nhà văn này mà không thích đọc tác phẩm của nhà văn khác,
có học sinh quan tâm đến thể loại văn học này mà không chú ý đến thể
loại văn học kia…Hơn nữa hứng thú đọc của học sinh không phải
được hình thành một cách tự nhiên, mà luôn biến động, phát triển dưới
ảnh hưởng của những điều kiện xã hội cụ thể. Trước thực tế đa dạng
đó, giáo viên cần có những hiểu biết nhất định về hứng thú đọc của
học sinh trong lớp để xây dựng một kế hoạch đọc và học chung tương
đối phù hợp với trình độ và hứng thú đọc của toàn lớp, xác định kế
hoạch riêng cho từng nhóm về trình độ và hứng thú đọc tương đối gần
nhau, từ đó có thể lên kế hoạch bồi dưỡng cho những học sinh khá,
giỏi một cách cụ thể, thiết thực.
Để tìm hiểu hứng thú đọc của học sinh, giáo viên sẽ lập phiếu điều tra
hướng tới các vấn đề chung như: các tác giả, tác phẩm, thể loại văn
học mà bạn yêu thích; sách trong cuộc sống của thanh niên ngày nay;
33
tủ sách của lớp bạn, gia đình bạn …Trong quá trình điều tra, giáo viên
khuyến khích học sinh tham gia nhiệt tình, trung thực trả lời một cách
khách quan. Giáo viên cần quan tâm và cân nhắc ý kiến của học sinh
khi lập kế hoạch và giảng dạy để việc làm này có nội dung và ý nghĩa
thiết thực hơn.
D. KẾT LUẬN
Trong phạm vi bài viết nhỏ này, chúng tôi thiết nghĩ những điều các em tự
phát hiện, khám phá trong quá trình học tập sẽ giúp các em rèn luyện tư duy,
khả năng phân tích, suy luận. Các em biết cách tiếp cận những văn bản cùng
thể loại, biết vận dụng kiến thức một cách sáng tạo, có cách kiến giải riêng,
quan điểm riêng, gắn văn học với đời sống. Từ đó tạo thói quen tự đọc, tự
nghiên cứu, liên hệ vấn đề được đặt ra trong tác phẩm văn học với cuộc sống
bản thân cũng như đời sống cộng đồng (từ cộng đồng nhỏ: tổ nhóm, lớp học,
gia đình, khối phố.. đến cộng đồng lớn: dân tộc, nhân loại) để rút ra kĩ năng
sống và bài học bổ ích cho bản thân. Các em có ý thức, có trách nhiệm hơn
trong việc tự đọc, tự học sau này. Vì nội dung mà văn bản văn học đặt ra rất
đa dạng nên các em có thể vận dụng kiến thức các môn học khác để làm sáng
tỏ những vấn đề đặt ra trong văn bản văn học và ngược lại. Những tích lũy
kiến thức ấy được góp nhặt từng chút một giúp các em hiểu rõ hơn vấn đề,
biết cách giải quyết vấn đề, làm bài kiểm tra, làm bài văn nghị luận văn học
sẽ tốt hơn.
Trên đây là những thực nghiệm bước đầu chúng tôi tiến hành qua một số tiết
học và đọc ngoại khóa văn học, tất nhiên còn nhiều thiếu sót rất mong sự
đóng góp quí báu của quý thầy cô.
Chúng tôi xin chân thành cám ơn!
Biên Hòa, ngày 20 tháng 03 năm 2012
Người thực hiện
Nguyễn Thị Kiều Nga