NHỮNG DÂY VÔ HÌNH
Selma Lagerlöf
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
2B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Tên sách: NHỮNG DÂY VÔ HÌNHTác giả: Selma LagerlöfNguyên tác: Osynliga länkarDịch giả: Xuân TướcNhà xuất bản: Ngày MaiNăm xuất bản: 1966Số trang: 171Khổ sách: 13x19cmGiá bìa: -- đồng
Đánh máy: Tuyết Anh, Ley Nguyễn, Thanh HàKiểm tra: Thu DiệpChế bản ebook: Thảo ĐoànNgày thực hiện: 11/7/2011Making Ebook Project #156 – www.BookaholicClub.com
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
3B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU NỘI DUNG
Giới thiệu nữ văn hào
SELMA LAGERLÖF
Đại cương về nước
THỤY ĐIỂN
CÁC TRIỀU-ĐẠI Ở NA-UY
Nữ-hoàng của hòa-bình
TÌNH THƯƠNG
TỔ CHIM BÔNG LAU
BỨC ẢNH CỦA NGƯỜI MẸ
NHỮNG KẺ NGOẠI LUẬT
NGƯỜI KHÁCH ĐÊM GIÁNG SINH
NỮ HOÀNG ÁI–MỸ–LY
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
4B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
GIỚI THIỆU NỘI DUNG
Tôi có thể thấy hiển hiện ngay trước mắt mình thị trấn nhỏ bé ấy, thân quen như một ngôi nhà. Thị trấn nhỏ đến độ tôi biết rõ từng ổ gà và từng góc phố, tôi làm bạn với đám trẻ con và biết tên tất cả những chú chó nhỏ của chúng. Bất cứ ai đi dọc con phố đều biết đến ô cửa sổ nào anh ta sẽ phải nhướn mắt nhìn một khuôn mặt đáng yêu ở phía sau cánh cửa, và bất cứ ai tản bộ qua công viên của thị trấn đều biết rõ tới đâu thì anh ta nên đổi hướng bước chân mình để gặp được người anh ta mong được gặp. Người dân ở đây hãnh diện với vẻ đẹp của những bông hồng trong vườn nhà hàng xóm, cứ như thể chúng được trồng ngay trong vườn nhà mình. Nếu như có bất cứ lời nói khiếm nhã nào hay bất cứ việc gì xấu xa xảy ra, thì đó sẽ là một sự xấu hổ lớn với họ như thể những chuyện ấy đang diễn ra ngay trong gia đình mình. Nhưng ở ngoài chợ, nơi chốn có tính cạnh tranh nhỏ xíu, trong một cuộc tranh luận, người dân ở đây sẽ kiêu hãnh mà thốt lên rằng: "Cứnhìn thử thị trấn của chúng ta mà coi, thật tuyệt vời biết bao! Có nơi nào mà được như thế này không?"
Ở thị trấn quê hương tôi, không có bất cứ thứ gì thay đổi. Nếu như tôi có quay lại nơi đó một lần nữa, tôi sẽ vẫn thấy cũng những căn nhà đó, cũng những cửa hàng đó - những căn nhà, những cửa hàng xưa cũ; tôi vẫn sẽ thấy cũng những ổ gà đó ở trên...
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
5B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Giới thiệu nữ văn hào
SELMA LAGERLÖF
(20/1/1858 – 16/3/1940)
Giải Nobel văn học năm 1909
Mở đầu tập truyện Những dây vô hình, nhà văn André Bellessort, trong Hàn-lâm-
viện Pháp đã viết:
“Ở Jérusalem, lúc ấy là thời-kỳ khô-hạn. Các nông-dân Thuỵ-Điển đã tập hợp nơi
đây thành một nhóm người ngoan đạo, học kinh thánh và bàn bạc về các giếng nước của
vua Hiskia. Một người trong bọn nói to lên rằng: “Tôi không thấy thứ nước nào thiêng-
liêng và kỳ-diệu như thế, nhưng từ sớm đến chiều, tôi hằng mơ-ước một dòng sông êm
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
6B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
mát và trong vắt với một dòng nước trong sạch và chảy xuôi… Tôi nghĩ đến một dòng
sông tiếp-nhận nhiều lạch nước và rạch con từ nơi rừng sâu phát ra, mênh-mông và
phong-phú. Dòng nước trong xanh đến nỗi có thể nhìn thấy các sỏi đá chiếu sáng dưới
lòng sông. Không phải là một con sông khô cạn như sông Cédron, không phải là một
giấc mơ bình-thường như dòng nước Ezéchiel, cũng không phải một dòng sông không
thể nào tìm được như các ngòi nước của vua Hiskia… Mà chính là dòng sông xứ
Dalécarlie1 của chúng ta: “dòng sông Dalelt”. Tác-phẩm của Selma Lagerlöf, vừa được
giải thưởng Nobel, giống như nguồn sông không bao giờ khô-cạn, diệu-hòa và thực-tế,
mà mỗi khi nhớ đến là người dân Thuỵ-Điển ly-hương thấy lòng tràn-ngập một nỗi buồn
triền-miên, và khi tôi nói tác phẩm của bà tôi cũng nói đến cuộc đời của bà, vì nó lẫn
lộn với nhau, hay nói đúng hơn cuộc đời đã thấm sâu vào trong tác phẩm của bà. Bà
sống để kể lại, sáng tạo, để tập-hợp và trải rộng ra thành những tấm thảm trong-sáng và
tươi-mát, muôn nghìn đợt sóng của các vùng thung-lũng và cao-nguyên Thuỵ-Điển. Và
như dòng sông Dalelt, bà xuất-phát từ một khu rừng âm-u”.
Nữ văn-hào Selma Lagerlöf sinh-trưởng trong một tỉnh thơ-mộng nhất của Thuỵ-
Điển: tỉnh Vermland. Đó là làng Marbacka. Đây là một khu làng gần như biệt lập, xa
cách hẳn cái náo nhiệt của thị-thành. Nơi đây bao truyện tích đổ xô về, linh-động và kỳ-
diệu, đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm-hồn mở rộng của bà.
Từ nhỏ đến lớn, ngoài thì giờ làm việc nhà, bà thích làm thơ, viết truyện và viết kịch.
Và những tác phẩm bà đã viết mở rộng từ từ như một nguồn sông, tạo cho bà một sự-
nghiệp tương lai.
Năm 1888, lúc ấy bà đã 30 tuổi và dạy học ở Lanskrona, một hải càng nhỏ trên bờ bể
Scanie, nơi đây, mỗi ngày hai lần, có tàu chạy về Copenhague. Lúc ấy bà đang tìm một
khuynh-hướng sáng tác: Bà có thể tiếp nhận khuynh-hướng tả-thực thịnh-hành ở
Copenhague, ở Stockholm không? Nhưng rồi, vùng Vermland êm-đềm và kỳ-diệu kêu
gọi bà trở về…
1 Thuộc vùng trung tâm Thuỵ Điển.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
7B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Bà về đây để chứng kiến người ta bán ngôi nhà nơi bà sinh-trưởng! Tất cả đều bán
được, chỉ có những điều đã được nói ra, kể lại, những nguồn mơ-ước thân yêu trên mảnh
đất ấy, làm sao giữ lại được? Và bà đã quyết-định. Phải viết, phải ghi chép lại tất cả
những dấu vết, những kỷ-niệm chân-thành của nơi quê hương xứ sở…
Và như một dòng sông rộng mở chảy tuôn, bà cho ra đời quyển Truyện tích về
Gosta Berling.
Tác-phẩm của bà được dư-luận trong nước nhiệt liệt tán-thưởng. Bà được Chính-phủ
đài thọ cho hai cuộc du lịch ở Ý và Jérusalem. Sau đó, bà được Đại Học-Đường Upsal
trao tặng cấp bằng Tiến-sĩ và nhận được giải-thưởng quốc-tế Nobel vào năm 1909.
Bà trở về ở một nơi yên tĩnh trong vùng Dalécarlie để sáng-tác. Đó là thành phố
Falun. Nơi đây, hàng ngày bà nhìn thấy giáo đường của nữ-hoàng Christine và sự hoạt-
động của thợ thuyền trong vùng mỏ diêm sinh rộng lớn.
Nơi đây, bà tiếp-tục sáng-tác. Các tác-phẩm Jérusalem, Những truyện tích về Đức
Chúa Trời, Các Nữ-hoàng ở thành Kungahalla, lần lượt ra đời. Tập truyện Những
dây vô hình là một tuyển tập các truyện đặc-sắc trong số các tác-phẩm nói trên của bà.
*
Và để giới thiệu rõ hơn về nữ văn hào Selma Lagerlöf, chúng tôi xin trích dẫn thêm
vài lời xác-nhận của nhà văn André Bellessort:
“Không phải là một lý-do để xét rằng một nhà tiểu-thuyết vì có tinh-thần dân-tộc
thâm-thuý mà mất đi tính-chất nhân-đạo. Trái lại! Sự diễn-tả và các biểu-thức về tình-
cảm có thể thay-đổi ở nước này hay nước khác: nội-dung không thay-đổi. Selma
Lagerlöf đã mang lại cho những mối mâu-thuẫn thường-xuyên của tâm-hồn, cho những
mơ-ước xa-xưa và những nỗi đau-khổ xa-xưa hơn nữa của con người một hình-thức rất
cảm-kích, thường rất thú-vị và đôi khi thật mới… Trước tiên, bà diễn-tả một giai-đoạn
đặc-biệt trong cuộc sống nơi một tỉnh thành Thuỵ-Điển. Rồi theo con đường các truyện
tích và huyền thoại, đã đi qua cả thời-gian và không-gian, bà từ từ vươn cao lên đến sự
tiếp-nhận một nghệ-thuật tự-do hơn, và của sự thật vĩnh-cửu. Tôi không thấy có những
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
8B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
gì nhân-đạo hơn quyển tiểu-thuyết Jérusalem của bà, những gì nhân-đạo hơn đại đa số
các truyện ngắn của bà, cùng với truyện Jérusalem là tác-phẩm độc-đáo nhất của bà.
Những gì bà đã viết ra khiến cho ta yêu-mến nước Thuỵ-Điển, đồng thời đóng góp,
làm cho ta yêu-mến nhân-loại nhiều hơn. Trong phần thứ hai của truyện Jérusalem, một
người Thuỵ-Điển di-cư sang Palestine mất một đứa con gái. Anh ta không thể tưởng-
tượng rằng nó có thể tìm được sự yên-tĩnh, của ngôi mộ dưới lớp đất khô-cằn và nóng
chảy của phương Nam.
Đến lượt anh, trước khi chết, anh yêu cầu các anh em cải táng con anh và chôn dưới
một mảnh đất xanh.
“Và hãy chôn cả tôi dưới một mảnh đất xanh” đó là lời dặn của anh trước khi nhắm
mắt.
Tất cả tình yêu nơi quê-hương xứ-sở như thoát ra từ tiếng kêu bi-thảm ấy, tất cả
niềm thương mến mà con người phương Bắc 2 bao trùm lên cái khoảng xanh đã làm anh
thích mắt sau những ngày mùa đông dai-dẳng, và đối với anh như là một hứa-hẹn của
sự tái-sinh. Chúng ta không cần phải sống ở Thuỵ-Điển để thấu hiểu được anh! Tôi
muốn sắp đặt trước cho cái tính ngông của bà Selma Lagerlöf, và tôi tưởng-tượng đến
ngày tận-thế, bà tiến đến nơi an-vị của Đấng Tối Cao, chỉ còn giữ lại trong đoạn đường
đi qua cõi thế và nơi các tác-phẩm của bà một mảnh đất xanh bé nhỏ. Bà sẽ nói: “Đấy
là một mảnh đất Thuỵ-Điển” Và Đấng Tối Cao sẽ phán rằng: “Hỡi con, ta không biết
có còn những người Thuỵ-Điển, người Na-uy, người Pháp, người Anh, người Tây-Ban-
Nha hay người Nga nữa không? Ta chỉ biết có một điều là mảnh đất mà con mang lại
cho ta thật đúng là mảnh đất mà loài người đã sống, đã thấm nhuần mồ-hôi và nước mắt
và đối với họ, có khi tốt-đẹp, có khi thật đắng cay, nhưng lúc nào cũng rất thiêng-liêng.”
Nữ-sĩ Selma Lagerlöf mất năm 1940.
NGƯỜI DỊCH
2 Thuỵ-Điển ở phía Bắc, Palestine ở phía Nam.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
9B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Đại cương về nước
THỤY ĐIỂN
Thụy Điển là một quốc-gia ở miền Bắc Âu-châu, giữa nước Na-Uy và bể Baltique.
Diện-tích rộng 449.682 cây số vuông. Dân số độ 7.562.000 người.
1) Về mặt địa-lý, Thụy-Điển chia làm 3 vùng:
- Phía Bắc là vùng Norrland. Đây là một vùng đồi núi và đồng bằng bao quanh vịnh
Botnie. Vùng này có nhiều rừng thông và nguồn-lợi chính-yếu là mỏ sắt ở Kiruna.
- Miền Trung là vùng Dalécardie giàu về nông-nghiệp và các khu kỹ-nghệ (ở
Bergslag). Ngoài ra còn có khu vực đánh cá quanh Cattégat.
- Miền Nam gồm có các vùng Götaland là một vùng rừng núi và có mỏ than đá,
vùng Scanie với các nông trại lớn.
Các đô-thị và hải-cảng gồm có: Stockholm, Norrköping, Göteborg trên bờ bể
Cattégat, Malmö trên sông Sund, chính giữa là Jönköping. Các nguồn lợi lớn của Thụy-
Điển là: bột giấy, diêm quẹt, mỏ sắt…
2) Về mặt lịch-sử, nước Thụy-Điển được các giống dân miền Bắc cư trú trước nhất.
Mở đầu là triều-đại Ynglingar ở Upsal. Thiên-chúa giáo được đưa vào Thụy-Điển từ thế-
kỷ thứ IX. Năm 1060, triều-đại Upsal suy-tàn. Năm 1397, Thụy-Điển gia-nhập Liên-
Hiệp Xít-căn-đi-nao. Năm 1523, vua Gustave Vasa lập lại chế-độ quân-chủ và chuyển
qua Tân-giáo. Năm 1818, Bernadotte lên ngôi Thụy-Điển với niên hiệu Charles XIV.
Qua các triều đại Oscar đệ-nhất, Charles XV và Oscar II, nước Thụy Điển được thái-
bình và thịnh-vượng. Năm 1905, một cuộc khủng-hoảng nội-bộ tách rời Na-Uy khỏi
Thụy-Điển (kết hợp hồi năm 1814). Triều-đại Gustave V (1907 – 1950) đã đưa nước
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
10B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Thụy-Điển lên đường tiến bộ về mọi mặt. Vua Gustave VI Adolphe tiếp nối mọi công
cuộc phát-triển quốc-gia từ năm 1950.
Theo thông tục, giải thưởng Nobel về văn chương được Đức Vua và Hàn lâm viện
Thụy-Điển phát ra tại thủ-đô Stockholm.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
11B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
CÁC TRIỀU-ĐẠI Ở NA-UY
- Triều đại đầu tiên là triều vua Harald Harfager (860 – 933), gốc ở Upsal (Thụy-
Điển).
- Olav Tryvesson (995-1000) tiếp nhận đạo Thiên-Chúa.
- Olav II Haraldsson (Thánh-đế) (1016 – 1030)
- Olav II Kyrre (1066 – 1093)
- Olav IV Magnusson (1103 – 1115)
- Olav V (1380 – 1387)
- Haakon VII (1905)
Từ năm 1513 đến năm 1814, nước Na Uy ở trong tình-trạng chiến-tranh thường
xuyên với nước Thụy-Điển.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
12B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Nữ-hoàng của hòa-bình
Sau đây là những sự việc đã diễn ra khi Công chúa Cúc-Hoa3 người được mệnh danh
là Nữ hoàng của Hòa-Bình đến vùng Storgardsbyn thuộc xứ Vestrogothie phía dưới kinh
thành Kungahalla trên đường sang Na Uy để làm lễ thành hôn với Hoàng đế nước này4.
Những người đầu tiên từ trên một ngọn đồi đã trông thấy Công chúa là những bà cụ
già đi nhặt nấm trong rừng. Các cụ vứt ngay gánh nặng và chạy đi loan báo khắp trong
làng rằng có một hình ảnh gì trong sáng và dễ mến phi ngựa từ phía xa trên con đường
mòn trong rừng. Nhưng không ai chịu nghe các bà. Người ta kêu lên: “Thật đáng tội cho
những cặp mắt mờ ám của các bà. Các bà chỉ thấy sương mù của các vùng ao lầy nhảy
múa quanh thân những cây thông già xám mốc mà thôi.”
Tiếp theo các bà cụ là anh chàng La-Phủ, cậu bé đốt than chạy đến. Mắt cậu chói
ngời. Nó mệt lả đi đến nỗi khi vào làng nó chỉ còn nói chuyện được một cách khó khăn.
Nhưng vừa khi lấy lại được hơi, nó liền thét to lên: “Hãy sung sướng lên đi! Nữ hoàng
đã đến! Tôi đã thấy Nữ hoàng xinh đẹp từ trong các đám cây đi lần ra. Hãy sung sướng
lên đi!”
Cậu bé đốt than La-Phủ đứng đừng lại tại khu tam giác trong làng, nơi ba con đường
chạy chéo qua nhau. Vài nông dân ở đây đang thì thầm về việc chiến tranh không sớm
thì muộn sẽ bùng nổ với Na-Uy và khi nghe cậu La-Phủ kêu lên như thế, họ tưởng rằng
nó chế nhạo mình. Họ vung tay hăm dọa:
- Đồ ranh con, hãy câm đi nếu mà còn muốn sống! Mày không được nói thêm một
tiếng nào biết chưa, đồ chết xác!
Nhưng cậu La-Phủ có nín câm một cách dễ dàng đâu, cậu lại kêu to hơn:
3 Magarita Fredkulla.4 Vua Magnus Barfort.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
13B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
- Nữ hoàng đến. Những con chim im lặng trong rừng thông đã chào đón người bằng
giọng hót và muôn tiếng thì thầm. Nơi mà người đã đi qua, chú sóc đã tuột từ trên ngọn
cây cao xuống một cành thấp nhất và ngồi yên lặng, cái đuôi phùng ra và đôi mắt như
đốm than hồng, và chú gà rừng đã tung bay với tiếng động sấm sét.
Nghe đến đây bác thợ rèn Bá liền nhảy lại xách tai cậu bé. Hắn nghiến răng:
- Mày nói, mày nói mày đã trông thấy Nữ hoàng? Đó chỉ là Bà Chúa Rừng Xanh,
mày hiểu chưa? Nữ chúa rừng xanh! Xin chúa hãy thương yêu chúng ta, Nữ hoàng
không bao giờ đến!
Mặc dù không ai muốn tin là thật, nhưng tiếng đồn không vì thế mà không lan tràn
khắp làng, một khu làng khốn khổ mà chiến tranh từ những năm trước đây đã thiêu hủy,
mà người ta còn chưa dám xây dựng lại vì sợ những chiến cuộc sắp đến. Nhưng từ các
nhà hầm, các ngôi nhà đổ nát, các hốc đá làm nơi ẩn trú, người ta ló dần ra, thập thò, nét
mặt đau thương, áo quần tơi tả. Họ đến gần La-Phủ để nghe câu chuyện của họ.
Khi anh thợ rèn Bá thấy số người mỗi lúc một đông, hắn bấm vào tai thằng bé một
cái thật mạnh khiến cho nó phải kêu thét lên và cùng lúc ấy, hắn cũng dùng lời êm dịu để
bảo nó câm nín đi.
- Anh không được khinh thường chúng tôi, những người nông dân nghèo cực đang
sống ở miền biên giới này, những người đã phải chịu đựng bao nhiêu nỗi khốn khổ vì
chiến tranh do các vua miền Bắc gây ra. Chúng tôi là những con chiên bị tách khỏi đàn.
Bọn lang sói đang săn đuổi và xô đẩy chúng tôi đến vực thẳm. Mỗi ngày và mỗi phút
giây cái chết ác độc đã hiển hiện ra đấy và chúng tôi nhìn thẳng vào mắt tử thần.
Trong lúc anh thợ rèn đang nói, dân chúng tụ tập càng đông hơn. Trong số đó có một
anh chàng tên là Hạ-Hoa, hôm qua nghĩ rằng chiến tranh sẽ tái diễn, đã kéo lê ngoài
đường cái hòm tiền của anh ta và kêu gọi người qua lại ai muốn lấy gì cứ tự tiện. Cũng
có những người ở Vester-Garden đã vung tiền ra để đổi lấy những bữa ăn uống no say và
chờ đợi cái chết trong niềm kiêu hãnh của tội lỗi và cũng có những người làm rẫy trong
các nông trại về phía tận cao của khu làng, đã đốt hết các đồng cỏ dự trữ và hạ sát hết
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
14B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
các gia súc để cho tất cả không bị rơi vào tay người Na-Uy. Có những kẻ âm thầm và
trầm lặng, nhưng mắt ngời lửa hận; và anh thợ rèn sợ rằng, nếu làm cho những người
này hy vọng đến hòa bình, thì ý-tưởng này sẽ làm cho họ thoát khỏi nỗi tuyệt vọng.
- Mày không hiểu rằng đó là Bà Chúa Rừng Xanh à? - Hắn lặp lại thật to để cho ai
nấy đều nghe thấy. - Bà ta lảng vảng ở phía trên kia dưới bóng rừng và bà ta mỉm cười,
và bà ta rủ rỉ, và bà ta đưa những cái liếc nhìn êm dịu, và bà ta làm cho bà con choáng
mắt, bà con có biết không, hỡi các anh đốt than kia! Bà ta biết rằng, mùa hè vừa qua đức
vua Inge đã có một cuộc gặp gỡ tại Kungahalla với vua Magnus của xứ Na-Uy, và vì
biết rằng chúng ta mong đợi Nữ hoàng Hòa Bình, bà ta bắt chước và đầu độc cuộc đời
chúng ta và lấy làm vui thích mà lừa nạt, mà bỡn cợt chúng ta, con mụ Phù thủy ấy.
Cậu bé đốt than La-Phủ lặng nghe anh thợ rèn Bá nói; và khi anh này tin rằng đã
thuyết phục được nó bỏ đi, thì nó lại thét to hơn: “Nữ hoàng đến! Tôi đã thấy Nữ
hoàng”. Và để cho người ta tin nó, nó nói đến chiếc mũ miện giống như một đóa hoa
dưới ánh sương mai và nói đến chiếc lá phủ mông ngựa sáng chói như ánh ngời của
những tai nấm to.
Nhưng thình lình mụ vợ anh Sỷ-Lý xông vào giữa đám đông. Bà ta chụp lấy cây gậy
và kêu to: “Thằng nào bảo rằng Nữ hoàng đến? Tôi, tôi biết cái gì phải đến! Suốt cả một
mùa Đông dai dẳng, tôi đã ở một mình trong căn lều của tôi để nhìn khói, tỏa nơi ống
khói và, mỗi buổi chiều trong làn khói đã thấy bao nhiêu điềm báo trước. Làn khói đã
mang đến trước mắt tôi những hình ảnh mang giáp sắt và giáp nhọn và những hình ảnh
này báo hiệu cho bao nhiêu hình ảnh khác. Nó báo hiệu những hình ảnh mà trong đêm
tối, khi ta đang ngủ, đã len lỏi vào các gian lều. Chúng ta không hay nó đến, vì chúng ta
đang ngủ, nhưng chúng ta chợt tỉnh khi con gà trống đỏ bắt đầu gáy và hơi khói làm ta
ngạt thở, lúc ấy bọn người của vua xứ Na-Uy reo hò chiến thắng và tường vách của
chúng ta sập đổ”.
Những luồng kinh hãi chạy khắp mọi người, nhưng cậu bé đứng thẳng trước mặt bà
ta, trả lời:
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
15B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
- Tôi rất buồn cho những đám mây khói của bà! Tôi đã thấy Nữ hoàng. Nữ hoàng
chói ngời dưới chiếc mũ miện, dịu hiền và xinh đẹp.
Ngay lúc ấy, anh thợ rèn Bá chụp lấy nó, lôi nó đến gian lều, lò rèn của hắn, đẩy nó
vô và xô tảng đá lớn làm cánh cửa chận bít lối vào. Nhưng cậu bé La-Phủ vẫn cứ la to:
- Tôi đã thấy Nữ hoàng, tôi đã thấy! Và mọi người hãy vui mừng lên vì Nữ hoàng đã
đến!
Anh thợ rèn vừa xô tạt cậu bé đốt than thì một người, một người từ lâu đã sống biệt
lập trong rừng, đi về làng. Anh ta giống một con dã thú với bộ áo cầu và bộ râu dài rối
tung. Nhưng anh ta tươi cười, vừa đi vừa quơ trên đầu một cành cây xanh làm dấu hiệu
hòa bình. Anh ta đi xuyên qua làng và dừng lại trước những ngôi nhà đổ nát, những hốc
hang tăm tối, gào to lên: “Nữ hoàng đến! Tôi đã thấy Nữ hoàng!”
Khi anh ta đi đến trước nhà của lão Phồn và kêu to lên như thế, thì lão ta hiện ra lòm
còm và ảo não:
- An lành hãy đến với mày, thằng ngoại luật kia ơi! Mày không cần đến đây với
những điều láo khoét để được tha thứ. Tao sẽ phá vỡ án luật đè nặng lên đầu mày. Mày
không phải trở vào rừng nữa. Chúng ta, những người sống ngoài pháp luật, chúng ta
không thể bắt buộc một ai phải chịu lưu đày.
- Nhưng tại sao ông lại không tin tôi? - Anh chàng ngoại luật hỏi lại. - Ông quên
rằng vua Inge đã hứa gửi Nữ hoàng Hòa-Bình đến vào mùa Xuân?
Nghe đến đây, lão già ngước nhìn anh ta bằng một cái nhìn mệt nhọc và chán nản!
- Tôi thì tôi cần gì biết mùa Xuân. Thu hay Xuân cũng chỉ là một đối với chúng ta là
những nhà nông. Tuyết hãy đóng mãi trên những cánh đồng, nếu nó muốn! Chúng ta sẽ
không cày xới nữa. Mây đen hãy tan vỡ, và đổ mưa không ngừng, và hạt giống hãy thối
nát dưới đất! Chúng ta sẽ không gieo cũng không gặt nữa. Chúng ta không cựa quậy
nữa. Chúng ta chờ đợi sự tan nát và cái chết.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
16B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Nhưng lúc ấy, những bác thợ săn nghèo nàn và những kẻ nô lệ từng trốn lánh lại từ
phía khu rừng đi xuống và báo tin lành cho mọi người trong thôn xóm. Chỉ còn có mụ
Sỷ-Lý là ngồi yên, âm thầm và đau xót. Mụ lầm bầm:
- Đau thương hãy đến cho kẻ nào đã mơ ước trước khi đã thấy, chính mắt họ thấy Nữ
hoàng! Khi nào Nữ hoàng chói ngời ở ven rừng trên một con ngựa giát vàng, khi nào
chiếc mũ miện giát ngọc của Nữ hoàng chiếu sáng trên thung lũng, chừng ấy, chỉ lúc ấy
thôi, những nông dân vùng biên giới mới có thể bắt đầu hy vọng.
Mụ ta chưa nói hết lời, thì hai bà già đi nhặt rong trong rừng đã kêu lên: “Đức Mẹ
thiêng liêng hãy cứu rỗi chúng tôi”, và họ nhìn về phía ven rừng nơi con đường từ vùng
cây lá dày đặc chạy ra như dưới một cái vòm đen tối.
Và mọi người đồng kêu to “Hãy đến xem! Gì thế này? Hỡi Đức Mẹ thiêng liêng, hãy
giúp đỡ chúng tôi”.
- Hãy che tay trên mắt các người và nhìn ngay vào rừng. Hãy làm dấu thánh giá và
nhìn vào rừng! Có phải Nữ hoàng đã đến gần với một đoàn tùy tùng đẹp đẽ. Có phải là
bà Chúa Rừng Xanh không? Có phải là trò đùa của bọn Phù thủy? Có phải là Nữ hoàng
không?
Và tất cả những người hãi hùng và gần như man dại kia vừa kêu gọi vừa đưa tay lên
trời. Bỗng nhiên họ quì xuống và bắt đầu đọc những lời kinh cầu nguyện chân thành. Vài
người chạy bay đến gác chuông và giật chuông vang dội để tin chắc rằng Nữ hoàng
không phải thuộc về bọn ma quái mà chuông kia có thể làm cho sợ hãi và xua đuổi.
Nhưng khi mụ già Sỷ-Lý với đôi mắt cận thị, đã nhìn thấy người con gái cưỡi ngựa
từ trong rừng thẳm đi ra, mụ là người đầu tiên đã kêu to:
- Hỡi bông hoa tươi đẹp và êm dịu kia ơi! Hỡi ánh sao mai! Người không phải là Bà
Chúa Rừng Xanh, người thật quả là con vua, chúng ta chào mừng và ca ngợi người!
Người đã đến! Chính người, chính người đã đi xuống nơi thung lũng.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
17B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Và mụ giơ chiếc gậy lên cao khỏi đầu và với cả một đoàn người theo sau, mụ chạy
đón Nữ hoàng.
Và mọi người đồng thanh: “Hỡi ánh sao mai! Đóa hoa thân yêu và êm dịu!” Và khi
tất cả đến gần người, ai nấy đều ca ngợi: “Người chói sáng lung linh và tươi đẹp dưới
chiếc mũ miện! Hãy lấy tấm che mặt bằng lụa, hãy để cho chúng tôi được chiêm ngưỡng
người!”
Tất cả đổ xô đến bao quanh một con ngựa đen cao lớn đang nhịp bước uy nghiêm
trong bộ áo giáp hồng tươi, những chiếc lông phất phới bên tai và lông gáy được kết
bằng những băng vàng.
Nữ hoàng Cúc-Hoa được cả một đoàn kỵ mã và các bà quý phái hộ vệ, nhưng trước
con ngựa của người, một nông dân dẫn đầu, tay cầm một thanh gươm gãy, vừa đi vừa
thét luôn mồm: “Hãy đến xem Nữ hoàng của Hòa-Bình! Nữ hoàng Cúc-Hoa đã đến”.
Khắp các tỉnh vùng biên giới nơi mà Nữ hoàng đã đi qua, người đã thấy sự vui mừng
an lạc lan tràn trong dân chúng. Đâu đâu, nông dân cũng cắm sâu lưỡi cày xuống đất, và
các bà nội trợ đã căng những tấm vải thô ra giặt trắng, người ta đã đưa bầy thú ốm tong
ra đồng cỏ. Các cô gái mới dám mang nhẫn và vòng vàng. Những chiếc mũ sắt và gươm
bén đã được vứt vào hòm vũ khí.
Khắp nơi, những vùng mà Nữ hoàng đã đi qua, trẻ con và đàn bà đã đến quì trước
mặt người với những cành lá mùa xuân và từ phía trên kia, trong khu rừng to lớn, ông
lão đốt than man rợ đã chạy đến đưa người vào lều của lão và đem những chùm trái tươi
làm mứt lạnh ra khoản đãi.
Nhưng không nơi nào Nữ hoàng xinh đẹp được chào đón với tất cả sự vui mừng và
hào hứng bằng khu làng của La-Phủ và chàng Bá.
Hai người nắm lấy cương ngựa và dắt đi một cách thận trọng theo con đường xuống
dốc. Họ cầu nguyện:
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
18B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
- Chúa hãy phò hộ cho Người! Chúa hãy phò hộ cho gương mặt đẹp và hiền dịu của
Người!
Trong khi đoàn người cứ thế đi xuống làng, dân quê chạy theo bên cạnh Nữ hoàng,
vừa thở hổn hển vừa kể cho Người nghe họ đã đau khổ và chờ đợi như thế nào!
Khi đi đến giữa xóm, Nữ hoàng Cúc-Hoa kìm cương và giữ cho con ngựa đứng lại.
Chưa bao giờ Người thấy một cảnh khốn cùng đến thế. Mắt Người nhìn quanh những
vùng đất cháy, những nhà hoang vắng và những người ăn mặc rách rưới; và mắt Người
tràn ngập lệ. Nhưng những cô thôn nữ đến hôn tay Người và cho biết rằng họ không còn
đau buồn và khốn khổ nữa, bao nhiêu nỗi khổ của họ đều tiêu tan vì Nữ hoàng đã đến.
Không cần nghĩ đến chúng tôi nữa, Nữ hoàng ơi! Không cần phải khóc vì chúng tôi
nữa. Hãy nghĩ đến Đức Vua mà Người đã thuộc quyền. Hãy mỉm cười với tất cả cái dịu
hiền và duyên dáng của Người. Hãy mơn man trong trí Người mái tóc dài như tơ mịn
của Đức Vua.
Nhưng, ngồi yên trên lưng ngựa, Nữ hoàng vẫn khóc và mọi người tìm cách khuyên
lơn.
Không còn phải là thời kỳ nước mắt nữa, Nàng ơi! Hãy nhìn xem từ xa dòng sông
đang trôi chảy và trên bờ bên kia là xứ Na-Uy, là kinh thành Kungahalla, nơi giàu về
chiến thuyền mà vị hôn phu đang đợi nàng! Chúa hãy phù hộ cho Nàng! Chúa sẽ vui
sướng khi được ôm nàng trong cánh tay. Nhìn kìa, Nữ hoàng! Ai cũng biết rằng Người
đã đến. Những ánh lửa vui mừng chiếu sáng trên các ngọn đồi. Dân chúng qui tụ đến bên
bờ sông. Hãy lắng nghe: Họ đã tập thét lên: Hoan hô Cúc-Hoa, hoan hô! Người có nghe
chăng? Hãy nghe tiếng nói của họ đã vang xa trên mặt nước.
Nhưng Nữ hoàng không để cho họ khuyên lơn. Người vẫn cứ nhìn những con người
khốn nạn rách rưới, gầy đét, hốc hác, giơ xương và man rợ đến nỗi khó nhìn thấy ở họ
hình dáng của con người. Lúc ấy người đưa tay ra dấu mình muốn nói; mọi người im
lặng và mọi người, dân chúng trong làng cũng như viên chức cao cấp, các bà xinh đẹp
trong đoàn tùy tùng, nghe rõ những điều người nói. Người bảo:
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
19B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
- Hãy nhớ những điều mà ta đã hứa hẹn với các người trước Chúa Trời và các
Thánh. Khi nào lưỡi ta còn, lời nói và máu ta còn trong tim, thì ta nguyện làm việc cho
sự nghiệp Hòa-Bình.
Nàng im lặng; rồi như linh cảm được điều nguy hại gì trong lời hứa của mình, Người
nói tiếp:
- Tôi vẫn làm, mặc dù điều đó có thể làm tổn hại cả hạnh phúc và cuộc đời tôi.
Khi đã thốt ra những lời nói ấy, Người ngước nhìn lên với tia mắt đầy can đảm và
phấn khởi, và không khóc nữa. Người thúc ngựa theo con đường đi xuống dòng sông.
Bên vệ đường, cậu bé chăn chiên vẫn ngồi đấy! Nó cũng sung sướng như mọi người
và muốn dâng hiến cho Nữ hoàng những gì tốt đẹp nhất của nó. Nó bắt đầu cất tiếng hát
một bản tình ca của một vị vua miền Bắc theo đuổi con gái của một Hoàng đế Đông-
phương.
Nữ hoàng Cúc-Hoa lại dừng ngựa để nghe cậu bé hát. Nó hát bằng giọng cao và
trong trẻo:
“Chỉ có một người đàn bà có thể ràng buộc và bắt tôi thức suốt những đêm dài; chỉ
có một người đàn bà có thể ngăn cấm tôi theo đuổi các thú vui và các trò chơi; người ấy
là Nữ Đồng Trinh phương Đông đang tự mình trị vì thiên hạ, con hải âu chiến đấu với
tôi mắt đen và suối tóc láng ngời, đó là Mã-Thủy-Đa, con gái của Hoàng đế. Có gì đáng
quí cho gia đình bằng một người đàn bà kiêu hãnh và đẹp? Bây giờ nỗi buồn âm thầm
cứ theo đuổi tôi, ngoài đồng cũng như trong nhà. Khi tôi từ sông Ting trở về, nỗi buồn
cứ chập chờn trước mắt, buồn vì tôi không bao giờ chiếm được con gái của Hoàng đế!”
Nữ hoàng lắng nghe bài hát và mỉm cười. Người hỏi cậu bé chăn chiên ai đã đặt ra
bài ấy. Không một ai ở đó để cản ngăn nó, và lòng cao hứng, nó nói:
- Chính vua Magnus đã làm ra bài hát ấy để hiến tặng nàng Mã-Thủy-Đa, con gái
của Hoàng đế.
Nghe đến đấy, Nữ hoàng Hòa-Bình thấy lòng tan nát. Nàng thốt lên:
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
20B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
- Chính vua Magnus đã làm bài hát ấy! Nếu thế thì tôi còn cần gì đến với người nữa,
vì người đang thương tưởng đến con gái hoàng tộc Đông-phương? Người không làm bài
hát nào cho ta, một bài hát đi từ cửa miệng này đến cửa miệng khác. Người không có
một chút tình nào đối với ta trong tâm hồn.
Đám nông dân kinh hoàng, nghe nàng gọi đoàn tùy tùng:
- Xin quý vị và quí nương tử hãy theo tôi về nhà! Hãy thương xót dùm tôi, những kẻ
phục vụ trung thành cho cha tôi không nên đưa tôi đến gặp vua Magnus. Các ngài đã
nghe rõ bài hát. Không phải tôi là người mà ngài thương tưởng. Đức vua chỉ mơ ước Nữ
hoàng xinh đẹp.
Trong khi nàng nói như thế thì đoàn người đã tụ tập trên đường và hô to: “Cúc-Hoa!
Hoan hô! Hoan hô!”
Và hàng muôn người từ thành phố lớn Kungahalla chạy đến và lập lại như một tiếng
vang rền rĩ “Cúc-Hoa! Hoan hô! Hoan hô!”
Nhưng những người con gái vẫn tiếp tục rền rĩ và kêu oan:
- Hỡi quí vị và các vị nương tử, hãy đưa tôi trở lại! Chúng ta sẽ làm phiền cho nhà
vua. Tôi không muốn bắt buộc. Người phải phong cho tôi làm Hoàng hậu. Tôi chỉ muốn
trở về sống cạnh phụ thân.
Và mọi người tập hợp bên bờ sông đồng thông lặp lại: “Cúc-Hoa! Hoan hô! Hoan
hô!”
Lúc ấy Cúc Hoa mới bịt tai mình bằng hai bàn tay:
- Kìa, các người hãy nín đi! Các người gọi ta là Nữ hoàng của Hòa-Bình: nhưng vẫn
có thể có Hòa-Bình mà không cần có mặt ta nơi đó. Vua Magnus không gây lại chiến
tranh vì ta. Ta trở lại gia đình chỉ làm người vui thêm mà thôi!
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
21B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Con ngựa của nàng đã cất vó, và nàng thúc mạnh để nó đi tới. Và những người ở
cạnh nàng tự hỏi: “Nàng đi đâu?” Nhưng khi thấy nàng hướng về phía rừng, họ liền chạy
đuổi theo.
- Hãy nghe chúng tôi, Nữ hoàng! Hãy nghe những điều mụ già này nói với người!
- Đầu óc tôi đã ngất ngư vì tuổi tác chồng chất và vừa rồi chiến tranh đã cướp mất
đứa con trai của tôi.
- Nữ hoàng hãy nghe tôi! Tại sao Người lại bịt tai? Người phải nghe chúng tôi mới
được! Tất cả những cửa ngõ đều đóng lại. Người ta sẽ mở hầm vũ khí. Nhà nông sẽ nhổ
lưỡi cày ra khỏi lòng đất. Cúc-Hoa! Cúc-Hoa! Chúng ta không thể gieo mạ! Cúc-Hoa!
- Con gái ta năm nay sẽ không làm lễ cưới! Cúc-Hoa! Khi nông trại của chúng ta bị
thiêu hủy, các bà cụ già sẽ dựng lên trên mặt đất nám đen một tấm bia ghi tên Người!
Hãy nghĩ đến chúng tôi sẽ phải chết – Khi chúng tôi sắp làm những điều tàn bạo, hãy
nghĩ đến chúng tôi. Hãy nghĩ đến chúng tôi cũng như chúng tôi lúc nào cũng nghĩ đến
Người!
Và họ đổ xô đến trước Nàng:
- Hãy dẫm lên! Hãy dẫm lên cơ thể của chúng tôi! Chúng tôi không để cho Nàng trở
lại! Nàng có nhớ chăng những điều thề nguyện? Nàng có nghe chăng người ta còn ca
ngợi Nàng ở phía bên kia sông?
Kẻ này hôn tay nàng, người khác nắm lấy cương ngựa. Nàng thấy rằng họ hề động
đến Nàng.
Cả đến những người sống trong rừng và một vài chàng ngoại luật mả nàng đã hứa
dung tha, lúc ấy vì chán nản đã rút dao ra, rồi ôm lấy tấm áo Nàng mà hôn. Nàng đưa
cao ngọn roi và thét lên: “Hãy để ta đi qua!” Và đoàn nông phu giạt ra vì sợ hãi. Họ hiểu
nỗi buồn khổ của Nàng và không thể cầu xin nàng thương xót.
- Hãy như nguyện ý của Nàng, Nữ hoàng! Con đường của Nàng đã mở rộng.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
22B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
*
Yên lặng, người con gái nhìn với đôi mắt đậm buồn những dãy đồi phủ cây ở phía
chân trời. Nàng hình dung phía sau những dãy đồi ấy chốn gia đình mà Nàng muốn trốn
lánh, như một con thú bị thương đến nơi định trước. Nàng yên lặng như thế một lúc lâu,
mắt nhìn về phía chân trời, và đôi mắt nàng trở nên nóng bừng khi những dòng lệ từ từ
khô cạn. Thế rồi, nàng kéo cương thật nhẹ và thật chậm, rổi đổ xuống dòng sông. Không
ai bắt buộc nàng làm thế; nàng biết rằng người ta không mong đợi Nàng, nhưng trong
tim nàng đã có tình yêu Hòa Bình.
Nàng không tiến tới với cái hăng hái lúc nãy, Nàng đi từng bước. Dân chúng không
một lời, đi theo sau. Họ thì thầm bảo nhau nên để nàng yên và không một người nào mở
lời ca ngợi Nàng.
Khi nàng qua sông trên chiếc phà lớn, Nàng xuống ngựa và cúi xuống dòng nước
chảy. Nàng tự nói với mình: “Hãy nhìn dòng nước này; nó cứ cuộn chảy mãi ra bể
không ngừng. Sóng nước không được ngần ngại chút nào; nó phải đổ xô vào lòng bể
hùng vĩ mặc dù nó ngờ rằng đáng sợ và mặn đắng. Dòng sông không cần phải để ý đến
một cái vịnh êm đềm, phủ đầy lau lách, nó không thể dừng lại! Nó cũng không thể trở lại
nguồn êm ở trên cánh từng kia. Nó phải đi tới và mãi mãi. Đó là định mệnh. Hãy là làn
sóng rạt rào êm dịu đang bị thu hút vào cái ào ạt của dòng đời để xoa dịu những nỗi đắng
cay!”
Nhưng những chàng hiệp sĩ đã rời khỏi Kungahalla và đi thành hai hàng theo dòng
sông.
Hãy ngước nhìn lên, nàng Cúc-Hoa ơi! Hãy nhìn đức mua Magnus. Trên chiếc mũ
sắt của Người là một con sư tử vàng, biểu trưng của hoàng triều. Hình sư tử bay phất
phới trên những nếp tinh kỳ, chói ngời trên bộ y phục bằng lụa hồng. Chính người là con
sư tử miền Bắc. Hãy nhìn suối tóc màu nhạt chảy dài xuống vai Ngài và dáng điệu kiêu
hùng của ngài. Gió bụi cuộn tung trước mặt ngài. Ngài đi đến. Mặt đất rung lên và cái
bóng đen của Ngài phi hàng trong bóng hoàng-hôn, trải dài ra trên cánh đồng. Hãy nhìn
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
23B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
lên, hỡi Nữ Đồng Trinh, và mỉm cười với đức phu quân của Nàng. Đừng nghĩ rằng nàng
chỉ thích lao mình vào những móng ngựa phi nhanh kia và tìm lấy cái chết.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
24B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
TÌNH THƯƠNG
Ngày nay không còn ai để ý đến cây thập ác nhỏ ở một góc nghĩa địa Svartsio nữa.
Những kẻ đi nhà thờ có đi ngang qua đấy cũng chẳng ai buồn nhìn đến. Điều ấy không
lấy gì làm lạ vì cây thập ác thấp quá nên những cành hoa tam-diệp hay hoa phong-lệnh
sắc tím che khuất đến cái thanh ngang và cỏ dại còn vượt cao hơn nữa. Không còn ai
buồn đọc những dòng chữ trên cây thập ác. Những nét chữ trắng đã bị xóa nhòa vì mưa
gió và cũng không còn ai có ý muốn kết hợp lại thành dòng nữa. Thế mà cây thập ác bé
nhỏ ấy xưa kia đã từng gợi lên bao nhiêu sự tò mò, kinh ngạc. Đã có một thời mà người
vào nghĩa địa Svartsio không ai khỏi nhìn đến nó. Và cả đến ngày nay nữa, chỉ cần
những vị bô lão dừng chân tại đây giây phút, là cả một chuyện tích diễn hiện ra trước
mắt họ.
Họ lại thấy cả xóm làng đắm mình trong giấc ngủ mùa đông, bao phủ khắp nơi một
cách đồng đều bởi một lớp tuyết dày trắng xóa. Trên đất liền, người ta vẫn phải nhận
hướng bằng địa bàn y như trên mặt bể. Không còn có sự khác biệt, cũng bằng phẳng như
một vùng đất đã từng được cày bừa mùa này qua mùa khác. Những người đốt than mà
mái tranh nghèo đã được dựng lên bên bờ hồ rộng hay theo sườn đồi trơ trụi, có thể
tưởng rằng mình đang ngự trị một vùng đất rộng rãi như bao nhiêu chủ điền giàu có
khác. Những người đi đã tách rời nẻo cũ giữa các hàng rào xám xịt để tung tăng vươn
mình qua những cánh đồng hay những mặt nước đã đông đặc lại. Từ nhà này đến nhà
kia, người ta bỗng nhiên thấy rằng con đường đi lại giếng nước lại vượt qua hàng giậu
bao quanh một khu vườn trồng hoa hồng.
Nhưng không chỗ nào khó tìm lại những dấu vết bằng ở trong nghĩa địa. Bức tường
đá bao quanh đã biến mất, vì thế mà trông cánh đồng của người chết cũng giống như
cánh đồng của tu viện. Không một sự chênh lệch nào trên lớp tuyết để ta có thể nhận ra
được những gò đống thấp cao. Tuyết đã bao phủ tất cả. Những trái tim bằng sắt mỏng
manh mắc trên thập ác mà thường ngày gió thổi đong đưa, không còn cho ta được nghe
những tiếng reo nhỏ buồn bã nữa. Vài chiếc còn nhô lên được giữa những bụi hoa cà
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
25B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
hoang dại: Nhưng những cành cây ốm tong kia xuyên qua lớp tuyết trông giống hệt
nhau, không giúp thêm cho ta một triệu chứng nào để nhận ra được rõ hơn. Những bà cụ
già có thói quen cứ mỗi chúa nhựt đến nhìn một chút nấm mộ của những người quá cố
thân yêu, không còn có thể bước thêm vài bước nữa trên nếp đường chính giữa. Ở đó, họ
dừng lại và cố gắng ước định vị trí của ngôi mộ. Ở chỗ bụi cây này hay ở chỗ đám cây
kia? Và họ chỉ còn có thở dài, chờ mong đến ngày tuyết tan. Những người chết tự nhiên
như cách xa họ quá khi mà họ không còn trông thấy nơi chôn cất nữa. Đây đó, những
tảng đá nhô cao lên nhưng thật là thưa thớt, và những tấm áo tuyết phủ lên đều khắp
cũng không giúp ta phân biệt được tảng đá này với tảng đá kia. Chỉ còn một con đường
nhỏ dọn trống, đó là con đường đi đến ngôi nhà quàn nhỏ. Đây là nơi người ta đặt những
chiếc quan tài, nơi vị mục sư đọc lời vĩnh biệt và những lời thánh thi cuối cùng. Người ta
chưa có thể nghĩ đến việc chôn cất khi nào mùa đông còn kéo dài. Người ta đặt cả vào
nhà quàn chờ một ngày Thượng-đế phán lịnh cho tuyết tan và mặt đất có thể bới xới
bằng cuốc xuổng.
Nhưng thằng bé nhà bác phó rèn Săn-Đê lại chết đi giữa cái giá rét thâm xương của
mùa đông nơi khu làng Lerum nhỏ bé. Đấy là một lò rèn có tiếng trong vùng và bác phó
rèn là một con người có thể lực. Bác vừa cho xây cất xong một ngôi nhà mồ cho gia đình
mà dù cho tuyết phủ cũng không che lấp được dấu vết kỷ niệm trong đầu óc bác. Một
dãy tường bằng đá khối và một sợi xích sắt bao quanh nhà mộ, ở giữa dựng đứng lên
một khối đá hoa cương chỉ mang gọn một tên Săn-Đê trên mặt đá. Những nét chữ lớn
chiếu sáng khắp trong mộ địa.
Nhưng ngày nay đứa bé đã chết và người ta bàn đến việc chôn cất nó thì bác phó rèn
bảo ngay với vợ:
- Tôi không muốn thằng bé này được chôn vào ngôi mộ của tôi.
Lúc ấy là giờ ăn trưa. Bác ngồi ăn một mình theo thói quen, trong phòng ăn của bác
ở Lerum. Vợ bác, nàng Lê-Ba Săn-Đê, đứng bên cửa sổ nhìn ra phía trước mặt hồ và
những hòn đảo trồng cây bạch đường. Nàng khóc. Nhưng nghe những lời nói của chồng,
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
26B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
mắt nàng tự nhiên ráo hoảnh. Cái hình dáng bé nhỏ của nàng càng thu nhỏ lại hơn vì sợ
hãi; nàng run lên:
- Anh nói gì? Anh nói gì? - Giọng nàng nói như một người run rét.
- Việc ấy làm tôi thấy khó chịu lắm. Cha và mẹ nằm ở đấy. Tên nhà Săn-Đê khắc rõ
trên mặt đá. Tôi không muốn cho thằng bé vào đấy.
Giọng nàng càng run rét hơn lên:
- A, anh tìm được cách rồi đấy nhỉ? Tôi cũng thừa biết rằng anh còn đợi một ngày để
báo thù.
Bác phò rèn vứt chiếc khăn bàn, đứng lên sừng sững trước mặt nàng, người cao và
vai rộng. Không phải bác có ý muốn xác nhận ý định mình bằng nhiều lời lẽ. Nhưng khi
nhìn thái độ ấy tất nàng phải hiểu rằng bác không thể thay đổi ý định. Bác đã co mình lại
với cái lì lợm nặng nề và không lay chuyển được.
Bác vẫn giữ giọng bình thường:
- Tôi không hề có chút ý định báo thù nào. Nhưng tôi không thể nào chịu đựng được
việc ấy.
- Anh nói nghe thật dễ dàng, như chỉ là một việc thay đổi giường ngủ. Nó đã chết
rồi, thế nào cũng được. Nhưng tôi, tôi sẽ là một người đàn bà bỏ đi rồi!
- Tôi đã có nghĩ điều ấy; nhưng tôi không làm hơn được.
Những cặp vợ chồng đã sống chung từ lâu năm với nhau không cần phải đợi nhiều
lời lẽ mới hiểu nhau. Nàng biết rằng muốn lay chuyển ý định của chồng chỉ là điều vô
ích mà tôi. Nàng vừa bóp tay vừa nghiến răng, hỏi chồng.
- Thế tại sao anh lại tha thứ cho tôi? Tại sao anh còn để tôi lại đất Lerum này, làm vợ
anh?
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
27B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Người chồng không muốn làm phiền vợ chút nào. Nhưng bác không còn có thể
nhượng bộ nữa:
- Hãy viện một lý do để nói với hàng xóm. Cứ nói rằng trong mộ có nước hay hầm
mộ chỉ đủ chỗ cho hai chiếc quan tài của cha và mẹ, của tôi và mợ.
- Anh tưởng người ta có thể tin tôi à?
- Như vậy, mợ chỉ cần sắp đặt thế nào cho tiện thì thôi.
Bác không giận. Vợ bác cũng thấy như thế, nhưng khi chính bác đã nói ra điều ấy thì
thật là một điềm khó mà lay chuyển nổi.
Bác phó gái Lê-Ba ngã người lên chiếc ghế bành, hai tay chắp lại sau ót, nhìn chăm
chăm qua cửa kính. Có phải thật là khủng khiếp khi trên đời còn có những điều quá
mạnh hơn ý muốn của chúng ta không? Có phải tự nơi chúng ta đã vươn lên những sức
mạnh mà ta không sao điều khiển nổi? Điều ấy lại càng khủng khiếp hơn! Mối tình mà
nàng đã vương mang cách đây mấy năm khi nàng đã là một người con gái có chồng, một
người đàn bà đứng đắn. Mối tình ấy thật là say đắm khiến nàng không sao đè nén nổi.
Nhưng ngày nay có phải chồng nàng đã nhắm mắt tuân theo mãi cái ý muốn báo thù
nàng? Hắn chưa hề tỏ ra tức giận nàng. Vừa khi nàng đến thú tội với hắn, hắn đã tha thứ.
Hắn nói: “Em đã bị lạc-lõng và bị vứt ra ngoài vòng lương tri”. Thế rồi hắn để nàng cứ
tiếp tục cuộc đời làm vợ bên cạnh hắn. Nhưng nói lên lời tha thứ thì thật là khó hơn
nhiều lắm. Càng khó hơn nữa là đối với một tâm trạng cố chấp và trầm lặng không quên
điều gì mà cũng không để cho điều gì nổ bùng. Nàng lúc nào cũng nhận thấy thà là
chồng cứ nổi giận để rồi đánh đập nàng còn hơn. Như thế, hắn còn có thể trở nên tốt
được. Nhưng phải sống cạnh một con người ảo não và sâu kín, nàng đã bắt đầu học được
cái sợ. Nàng đi như một con ngựa giữa hai gọng xe. Phía sau nàng một người đang cầm
roi, tuy rằng hắn không dùng đến. Nhưng một khi hắn dùng đến, thì chỉ trong giây phút
nàng đã biến thành một người đàn bà bỏ đi rồi.
Người ta đã thuật lại rằng không còn có nỗi khổ nào như nỗi khổ của nàng. Nàng có
một vẻ dáng thật sững sờ… Mấy hôm trước ngày chôn cất, người ta không thể nghĩ rằng
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
28B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
nàng là người còn sống nữa. Nàng có nghe lời họ nói không? Nàng có nhận rõ ai đã nói
chuyện với nàng không? Nàng như không hề thấy đói. Nàng cứ phơi mình ra ngoài giá
rét mà không hay biết. Nhưng người ta đã nhầm: không phải sự đau khổ mà chính sự
kinh khủng đã làm nàng tê liệt. Nàng không buồn nghĩ đến việc giữ nhà hôm đám tang5
Nàng đi theo đến nghĩa địa. Nàng đi theo xe tang và mọi người đi đưa đám đều nghĩ
rằng người ta sẽ đưa người chết đến ngôi mộ của gia đình Săn-Đê. Và chắc chắn rằng
nàng sẽ ngã xỉu đi vì bao nhiêu cái nhìn kinh ngạc đã đè nặng lên người nàng, khi người
dẫn đường tách ra, hướng về phía huyệt mả tối tăm. Tuy rằng ở giữa ngay nghĩa địa,
tiếng thì thầm cũng chạy đi qua các hàng người: “Tại sao thằng bé lại không được đặt
vào ngôi mộ nhà họ Săn-Đê?” Người ta lại nhớ đến những dư luận mơ hồ lan tràn buổi
xưa kia. Người ta lại thì thầm: “Như vậy thì là sự thật rồi!” Và trước khi mọi người ra
về, nàng đã bị phán xét và lên án. Nhưng nàng phải có mặt ở đó, tuy còn ngờ vực, nhưng
đó là con đường giải thoát duy nhất của nàng. Nàng cần phải tỏ ra, cần phải có một nét
mặt lặng lẽ và một thái độ trầm tĩnh hơn. Như thế, người ta mới có thể tin được những
điều nàng phải giãi bày.
Người chồng, chính bác cũng đi đến nhà thờ. Bác đã sắp đặt tất cả rồi, bác đã mời
khách, đặt sẵn chiếc quan tài và chỉ định người phải đi khiêng. Bác không có vẻ gì
gượng gạo hoặc hung ác ngay trong lúc bác quyết định. Ngày chúa nhật, sau giờ truy
điệu, đoàn xa đám ma kết hợp trước nhà làng. Đạo tỳ mắc những vải băng trắng lên vai.
Những chức việc làng đều có mặt với một số khá đông người trong giáo khu. Trong khi
đoàn người chuẩn bị lên đường thì nàng Lê-Ba tự bảo rằng họ sắp mang một tên sát nhân
ra nơi hành quyết. Nàng muốn dọn đường trước cho họ, nhưng không một lời nào thoát
khỏi đôi môi. Nàng tự thấy bất lực, không thể nói một cách hợp lý hay trầm tĩnh. Tất cả
cái gì nàng có thể làm là phải kêu gào lên thật to. Nàng không dám mở miệng chỉ sợ một
tiếng kêu khủng khiếp thoát ra. Trên lầu, chuông đã đổ: đoàn đưa đám lên đường. Và
không một người nào nghi ngờ những điều sẽ đến! Tại sao nàng đã không nói gì cả? Nếu
nàng không dùng cả một sức cố gắng quyết liệt để đè nén tình cảm mình lúc ấy thì chắc
nàng đã bảo họ đừng nên đi đến nghĩa địa với người chết nữa. Thế nào là một người
chết? Có thể nào vì một người chết mà nàng phải trở thành một kẻ bỏ đi? Họ hãy đặt nó
5 Theo phong tục Thụy-Điển thì người mẹ phải ở nhà ngày đưa đám.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
29B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
ở đâu tùy ý, nhưng không ở trong nghĩa địa! Nhưng làm sao ngăn họ đi vào? Bao nhiêu
ý nghĩ không mạch lạc xuyên qua đầu óc nàng… Người ta đã nhận thấy trong ấy có dấu
chân chó sói. Vào đó người ta sẽ bị bệnh dịch… Nàng muốn nhát họ như đối với trẻ con.
Nàng không biết họ đã đào cái huyệt mả của thằng bé chỗ nào. Nhưng rồi nàng cũng
phải thấy…
Khi đoàn người đưa đám đi vào nghĩa địa, nàng rảo mắt nhìn quanh cánh đồng tuyết,
nhưng nàng không thấy một con đường, một ngôi mộ nào, toàn thể chỉ là một cánh đồng
trắng tinh, không dấu vết. Đoàn người đi về phía nhà quàn; tuyết phủ dày đặc và đoàn
người dừng lại đó. Không còn có vấn đề đi đến ngôi mộ nhà Săn-Đê nữa. Không một
người nào biết rằng thằng bé đã được cái diễm phúc ngủ giấc nghìn thu kia không bao
giờ được vào hầm mộ nhà mình. Nếu nàng Lê-Ba đã nghĩ đến điều ấy, nàng không bị
nỗi kinh ngạc hóa thành lơ đễnh, trong giây phút nàng cũng không còn thấy lo âu nữa.
Nàng tự nghĩ: “Qua mùa xuân, khi người ta đặt chiếc quan tài xuống đất thì lúc ấy chắc
chắn sẽ chỉ có mỗi một người đào huyệt ở đấy”. Và nàng thấy rằng mình đã được cứu
thoát, rồi bỗng nhiên bật lên tiếng khóc. Mọi người nhìn nàng, thương hại. Họ thầm bảo
nhau:
“Nỗi khổ ở lòng nàng thật là to lớn quá! Thật đáng sợ!” Nhưng riêng nàng, nàng chỉ
nhỏ những giọt nước mắt của một kẻ được trút vơi nỗi khổ và tai nạn của tử thần.
Vài ba ngày sau hôm đám tang, ngồi một mình nơi chỗ ngồi thường ngày trong
phòng ăn khi hoàng hôn từ từ xuống, nàng bỗng nhiên khao khát một điều gì. Đấy là giờ
mà thường ngày thằng bé chạy đến đùa giỡn bên chân nàng. Nàng Lê-Ba lắng tai như để
nghe những tiếng bước chân nhẹ nhàng của nó. Rồi bỗng nhiên nàng giật nẩy người và
tự bảo: “Nó đã chết rồi, chết rồi kia mà!...”
Ngày hôm sau giữa buổi hoàng hôn, ngồi nơi chỗ cũ, và cũng sự chờ đợi ấy đã bóp
chặt tim nàng. Và chiều lại chiều, nỗi khát vọng cũ lại đến, mỗi lúc làm nàng đau xót
hơn, rồi trải rộng ra như ánh sáng về mùa xuân, tự nó cứ hiển hiện mãi suốt ngày.
Lẽ tất nhiên là một đứa bé sinh ra trong hoàn cảnh như thế sẽ không được yêu hơn
dù còn sống hay chết. Trong lúc nó còn sống, mẹ nó chỉ còn biết tìm mọi cách để mua
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
30B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
chuộc lại cảm tình của chồng, và sự hiện diện của thằng bé không là điều thích mắt đối
với bác phó rèn. Vì thế mà phải tìm mọi cách để tách rời nó ra, và lắm khi thằng bé tự
cảm thấy thực là khó chịu. Người đàn bà đã phản bội bổn phận bây giờ đây muốn chứng
tỏ cho chồng thấy rằng mình cũng còn đôi chút giá trị, lại phải lăn mình vào công việc
bếp núc, vá may, canh cửi. Cứ như thế thì tìm đâu được một chỗ đứng cho thằng bé
trong cuộc sống này?
Bây giờ, nàng nhớ lại đôi mắt thiết tha cầu khẩn van xin của nó. Buổi chiều, nó xin
mẹ ở lại bên giường; nó bảo rằng nó sợ bóng tối; nhưng nàng đã bắt đầu nhận ra rằng đó
chỉ là sự giả đò để nàng ngồi lại với nó lâu hơn. Nàng nhớ lại nó đã chống chọi với giấc
ngủ như thế nào và nàng hiểu rằng như nó cố gắng tỉnh thức chỉ là để giữ được lâu hơn
bàn tay của mình trong đôi bàn tay bé nhỏ của nó. À, ra là bé nhỏ như thế, nó cũng lắm
mưu mẹo! Nó sử dụng hết trí khôn mà nó sẵn có để nhận được một chút tình của nàng.
Người ta rất đỗi ngạc nhiên mà thấy những đứa trẻ lại có thế yêu như thế. Nàng chưa hề
hiểu nó khi nó còn sống. Nói trắng ra, chỉ mới lúc này là nàng thấy chớm dậy tình mẫu
tử nơi lòng. Chỉ mới lúc này nàng mới thấy tự hào và sung sướng với cái đẹp của đứa
con trai. Nàng trải qua nhiều giờ mơ tưởng lại đôi mắt to và kỳ ảo. Nó không bao giờ
được hồng hào, mụ mẫm mà xanh xao và mảnh khảnh, nhưng đẹp một cái đẹp kỳ lạ, và
cứ mỗi ngày trôi qua là nàng lại thấy nó đẹp hơn. Trẻ con là cái gì quý báu nhất trên mặt
đất. Ta cũng thấy rằng có những con người bé nhỏ sẵn sàng đưa bàn tay nó vào cho mọi
người nắm lấy và nghĩ rằng người nào cũng tốt, những con người nhỏ bé không cần để
biết một gương mặt đẹp hay xấu, âu yếm mọi người già, trẻ, sang, hèn một cách đồng
đều, thế mà chúng vẫn là những con người.
Mỗi ngày, nàng thấy như được gần đứa bé hơn. Nàng rất mong nó sống lại. Nhưng
nàng tự hỏi: Như thế nàng có còn được gần nó như hiện nay không? Đôi khi, ý nghĩ cho
rằng nàng không để cho nó được sung sướng làm nàng thất vọng. Nàng tự nghĩ: “Nhưng
không thể vì thế mà nó phải được mang đi khỏi tay ta”. Nhưng nỗi buồn ở lòng nàng ít
khi biến chuyển đến một trạng thái thảm thương như thế. Nỗi buồn khổ mà xưa kia nàng
rất ghê sợ không phải điều nàng đã nghĩ đến. Nỗi buồn khổ, chính là phải sống và sống
lại với dĩ vãng. Nỗi buồn khổ, chính là phải đi sâu vào tâm khảm đứa bé đã mất, để rồi
sau cùng tìm hiểu được nó, và nỗi buồn khổ ấy là một nguồn lợi đối với nàng hiện nay.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
31B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Nhưng điều nàng lo sợ hơn cả là thời gian rồi sẽ mang hình ảnh của nó đi. Nàng
không giữ dược một bức ảnh nào của nó. Rất có thể hình dáng nó sẽ phai mờ dần trong
trí nhớ nàng. Mỗi ngày ngồi bên cửa sổ, nàng thử hình dung và tự hỏi: “Ta có thấy nó
không? Ta có thấy nó thật rõ không?” Và trong khi các tuần lễ đầu của mùa xuân lần
lượt trôi qua, thì nàng lại mơ ước đến mùa xuân. Mùa hè, người ta sẽ mang nó ra khỏi
nhà quàn, đặt nó xuống đất, mùa mà nàng có thể sẽ đến bên ngôi mộ và nói chuyện với
nó. Nó sẽ được đặt xuống về phía Tây nơi mà gió có phần ấm áp hơn. Nàng sẽ rắc bông
hường lên nấm mộ. Nàng muốn có một cái hàng rào và một chiếc băng nhỏ để có thể
ngồi đấy thật lâu.
Những người trong làng, những người không hay biết gì cả và cứ tưởng rằng nó đã
được đặt vào ngôi mộ gia đình sẽ lấy làm ngạc nhiên mà thấy nàng trang hoàng và săn
sóc một ngôi mộ xa lạ, lại ngồi ở đấy quá lâu. Phải nói với họ thế nào? Nàng có cần phải
trước tiên đi lại ngôi mộ lớn, đặt ở đó một bó hoa, dừng lại trong một giây, rồi chờ đợi
một cơ hội nào đó, lẻn về phía ngôi mộ nhỏ? Phải, đó chính là điều nàng phải làm. Đứa
bé chắc sẽ bằng lòng đóa hoa nhỏ bé mà nàng còn dành lại cho nó… Nhưng không phải
làm như thế mà nàng thông cảm được với đứa bé, đứa con yêu quý. Như thế nó sẽ biết
được rằng nàng sợ nhục vì nó. Nó sẽ hiểu rằng khi bước ra đời chính nó đã mang đến
cho nàng những điều ô nhục sâu sắc nhất và chính đó là điều mà nàng phải tránh hẳn cho
nó. Rất cần làm cho nó tin rằng nỗi sung sướng được có nó cao trội hơn tất cả.
oOo
Thế rồi mùa đông qua. Mùa xuân đã hiện ra. Dưới lớp tuyết đang tan, người ta trông
thấy mặt đất. Chỉ còn chờ đợi độ vài tuần nữa là tuyết tan đi hết; và đã đến lúc mà ai
cũng mong muốn người chết được sớm ra khỏi nhà quàn. Nàng Lê-Ba càng mong muốn
hơn nữa.
Nàng có còn thấy con nữa không? Gương mặt mà qua suốt đông còn trông rõ được,
qua đến mùa xuân đã trở nên mơ hồ. Mỗi ngày cứ gợi lại hình ảnh con là nàng càng
thêm tuyệt vọng. Nhưng dù phải thế nào đi nữa, nàng vẫn phải ngồi trước mộ con, để
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
32B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
gần gũi nó hơn, để nhìn thấy, để yêu quý nó hơn. Hỡi ôi! Bao giờ thì nó được vùi xuống
đất? Trong đời nàng chỉ có một người để thương yêu: Chính là nó. Nàng phải được thấy
nó và thấy nó luôn trong suốt đời nàng. Bao nhiêu ngần ngại, lơ sợ đều tiêu tan mất, bị
sự khát vọng trong lòng nàng mang đi tất cả. Nàng yêu và không thể sống không có nó
bên mình được. Nàng chỉ lưu tâm đến nó mà thôi.
Khi tuyết đã tan hết cả rồi, khi những ngôi mộ và những trái tim của nghĩa địa lại
xuất hiện, khi những trái tim của những chiếc thập ác bằng sắt lại reo lên, khi mặt đất
mở ra và nhận lấy chiếc quan tài nhỏ bé, thì một cây thập ác đã được dựng lên trước nấm
mồ. Chiếc thập ác màu đen và trên thanh ghi rõ bằng chữ trắng: “Nơi đây yên nghỉ đứa
con yêu quý của tôi”. Và phía dưới ghi rõ bốn chữ: Lê-Ba Săn-Đê. Nàng không còn bận
nghĩ đến dư luận của người đời, tất cả đều là hư ảo. Chỉ có một điều đáng kể: làm sao
nàng có thể không phải giấu giếm một ai, đến trút cả tình thương lên ngôi mộ con nàng.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
33B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
TỔ CHIM BÔNG LAU
Hải-Tố, vị tu sĩ, đang cầu nguyện Thượng đế trong sa mạc. Hôm ấy là một ngày
giông bão; bộ râu dài và mớ tóc rối bù bay tỏa xuống gương mặt lão như những đám cỏ
trên đỉnh cao của một nơi hoang tàn xa xưa. Nhưng lão Hải-Tố không có một cử động
nào để vén mớ tóc đang che khuất mặt lão, cũng không buộc lại bộ râu vào dải lưng vì
hai tay lão đang đưa thẳng lên trời. Từ rạng đông, lão đưa hai cánh tay nổi đầy gân và
đầy lông lá lên, không biết mệt nhọc là gì, như một thân cây vươn nhánh ra ngoài và lão
nhất định ngồi như thế cho đến xế chiều.
Lão là một người đã nhận biết được thế nào là sự hung bạo của con người. Tự lão,
lão cũng đã tăng cường sự ngược đãi và làm khổ kẻ khác, nhưng những sự khổ não và
hành hạ mà lão phải chịu đựng thật to lớn quá khiến lòng lão không sao chịu đựng nổi.
Vì thế lão về ẩn thân trên vùng hoang dã rộng lớn: Lão tự đào vào cát bên bờ đường
thành một cái hang, và ở đó lão trở thành một ông thánh đưa lời cầu nguyện lên tới
Thiên đình.
Hải-Tố, vị tu sĩ, cầu nguyện trước cái hang của lão, lời cầu nguyện to lớn nhứt đời
lão. Lão van xin Thượng đế cho xuất hiện ngày tận diệt trên toàn cõi đất đai khốn nạn
này. Lão kêu gọi các thiên thần mà điệu kèn vang dội sẽ trỗi lên báo hiện sự chấm dứt
của giai đoạn tội lỗi này. Lão kêu gọi những làn sóng máu dâng lên để đắm chìm những
sự bất công trên cõi thế. Lão kêu gọi dịch tả đến lấp đầy mộ địa.
Xung quanh người, dãy đất hoang vu mở rộng và cộc lốc. Và giông tố rít lên như
một lời đe dọa phi thường trên vùng đất trơ trụi. Nhưng ở phía trên một chút, cây liễu đã
mọc tự bao giờ. Thân cây cằn cỗi và ngắn, và kết lại ở phía trên thành một cái gút lớn, từ
đó cành lá tủa xanh dờn. Cứ mỗi mùa thu, dân đồng bằng đến tước hết lớp cành lá tươi
của nó đi. Rồi đến mùa xuân, cây lại mọc lên những mầm mới và mềm dịu. Trong những
ngày gió lộng, đám cành lá ấy rung chuyển lên như râu và tóc của lão Hải-Tố, nhà tu sĩ.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
34B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
*
Đôi chim bông lau thường đã quen làm tổ nơi này, hôm nay lại xây tổ. Nhưng giữa
đám cành lá đang quặt quà vào người chúng, đôi chim không tìm được một chút an toàn
nào. Chúng bay đến với những chiếc lá lau khô, những cọng rễ cây và cói của mùa hè
vừa qua, và chúng phải đi lại trong nhiều lượt. Thế rồi chúng đột nhiên trông thấy lão già
Hải-Tố đang cầu nguyện trời cho giông bão cứ tăng thêm và quét sạch hết cả, từ tổ ấm
của chú chim nhỏ đến chiếc tổ ấm của con chim ưng.
Thật người thời nay khó mà hình dung được vị tu sĩ già thời ấy đã trở nên gút mắt,
xạm đen và rêu phong đến bực nào và ít giống con người đến bực nào. Làn da căng
thẳng trên trán và trên má lão cho ta thấy cái hình dáng của một cái đầu người chết, mà
chỉ riêng trong hai lỗ mắt sâu còn hai đốm sáng nhỏ chứng tỏ sự sống. Những bắp thịt
khôn cằn đã mang đi hết cái tròn trị của chân tay lão; hai cánh tay bao phủ bởi một lớp
vỏ bằng thịt thô xám và nhăn nheo. Lão đội một chiếc mũ đen ôm sát vào đầu lão. Nắng
và bùn đất đã làm cho người lão thâm xám và xạm đen lại chỉ còn bộ tóc và râu lão là
những điểm sáng. Mưa và nắng đã tô cho râu tóc những màu xanh và xám giống như
màu mặt trái của lá liễu. Đôi chim đang tìm một chỗ để đặt tổ, nhận lầm lão Hải-Tố là
một cây liễu thứ hai cũng già cỗi, mà một nhát lưỡi hái đã chặn đứng sức vươn lên trời
cao. Chúng bay qua, bay lại, lượn vòng quanh lão, tìm chỗ đáp xuống. Chúng nhận thấy
không tiện lợi lắm, nhưng dòng sông bên cạnh với những đám lau sậy, kho lương thực
và dự trữ vật liệu, đã bắt chúng quyết định. Một con chim bông lau đâm thẳng vào bàn
tay giơ cao của lão Hải-Tố rồi đặt vào đó một cọng rễ cây.
Giông tố vẫn thổi mạnh: cọng rễ cây nhỏ bay đi, nhưng đôi chim bông lau trở lại và
muốn đặt những cọng khác làm nền tảng cho chiếc tổ của chúng vào giữa những ngón
tay chai cứng của vị tu sĩ già. Bỗng nhiên một tay cái lớn thô nhám đè lên những cọng
cỏ để giữ lại rồi bốn ngón tay cong vào làm thành một cái lòng trũng an ổn cho đôi chim
đó có thể làm làm tổ.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
35B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Và lão Hải-Tố vẫn tiếp tục cầu nguyện: “Lạy Thượng đế, những vầng mây khói lửa
đã đắm chìm thành Sodoine6 của người đâu? Bao giờ Người mới khai mở những ngọn
thác của thiên giới để đưa cả người lẫn vật lên đỉnh núi Ararat7?
Và trong đầu óc phấn khích của con người cô độc hiện lên hình ảnh của ngày tận thế.
Mặt đất rung chuyển, nền trời nhuộm đỏ… Nhưng khi mà những hình ảnh tang tóc ấy
đảo lộn tâm hồn lão thì đôi mắt lão bắt đầu theo dõi đôi chim bông lau đang bay đi bay
lại không ngừng và mỗi lần, với tiếng kêu thoải mái, củng cố thêm chiếc tổ của chúng
bằng một sợi cỏ mới. Lão không cử động chút nào, vì để cưỡng chế Thượng đế nhận lời
cầu xin của lão, lão đã phát thệ ngồi im mà cầu nguyện từ bình minh đến xế chiều. Và
mỗi khi sự mệt nhọc trong người lão tăng lên, những ảo mộng trong đầu óc lão càng
thêm sâu sắc. Lão nghe tiếng nhà gãy đổ; tiếng tường sập. Hằng hà những kẻ kinh hãi và
đang kêu la diễn ra trước mắt lão. Họ bị những ác thần có gương mặt tuyệt đẹp, mặc
giáp vàng và bạc, phi vút trên lưng những con hắc mã, tay cầm những ngọn roi sáng
chớp.
Đôi chim bông lau vẫn tiếp tục xây dựng và tô bồi không ngừng. Trên dãy đất hoang
vu mọc những bụi cây khô cằn và cạnh dòng sông đầy lau sậy bên bờ, vật liệu của chúng
không hề thiếu. Cả buổi trưa chúng cũng không nghỉ, và trước khi chiều đến, chúng đã
đạt đến chỗ cao độ của sự xây cất rồi. Nhưng trước khi chiều xuống, mắt lão Hải-Tố từ
nãy giờ đã theo dõi chúng, lão đã chú ý đến công việc của chúng. Lão phiền trách chúng
quá chậm chạp: lão tỏ ý bất bình những cơn gió đã làm chậm trễ công việc của chúng, và
bây giờ thì lão đã không muốn cho dừng nghỉ nữa. Nhưng mặt trời đã lặn và đôi chim đã
trở về với lau lách bên bờ sông.
*
Sáng hôm sau, điều mà đôi chim bông lau nghĩ đến trước tiên là những biến cố hôm
qua chỉ là một giấc mộng êm đềm. Chúng phí công tìm lại chỗ đáp xuống. Chúng bay
lên khắp hướng, thẳng vút lên nền trời, nhìn quanh quất qua khắp cái mênh mông của
6 Sodoine: Cựu thành xứ Palestine.7Ararat: Đỉnh núi lửa Anatolis nới chiến thuyền của ông Noé cập vào trong trận Đại-Hồng-Thủy (5.156m).
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
36B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
dãy đất hoang vu: chiếc tổ và thân cây đã biến đâu mất. Chúng đậu trên hai tảng đá nhô
lên, vung vẩy cái đầu bé nhỏ và lúc lắc cái đuôi dài. Nhưng mặt trời chưa lên cao được
một gang tay trên phía bờ bên kia thì thân cây của chúng lại trở về chỗ cũ hôm qua.
Đúng là thân cây ấy rồi, vẫn gút mắt, vân đen đúa và mang chiếc tổ của chúng trên một
thứ cành khô nhám và bị đẵn đầu. Và đôi chim bông lau trở lại với công việc, không tìm
hiểu lâu hơn để thấu đáo những điều huyền bí đầy rẫy trong vũ trụ.
Lão tu sĩ Hải-Tố, người đã xua đuổi trẻ con ra khỏi hang hốc và bảo cho chúng biết
điều tốt hơn cả là không bao giờ chúng nên ra đời, lão Hải-Tố mà bọn mục đồng kinh sợ
đôi mắt quái ác, lại để tâm, không bao giờ có một cử chỉ gì có thể làm cho đôi chim sợ
hãi hoặc trở ngại hoạt động của chúng. Lão biết rằng có những điều mà Thượng đế đã
dành cho vạn vật như những âm tiết trong những quyển Thánh kinh: mỗi âm tiết có một
ý nghĩa sâu kín và huyền bí. Và lão đã tìm hiểu được ý nghĩa của chiếc tổ đang khởi sự
trên bàn tay lão. Lão thấy như Thượng đế đã hứa với lão rằng nếu lão cứ ngồi cầu
nguyện như thế, đưa mãi hai cánh tay lên cho đến khi nào đôi chim sanh nở con cái, lời
cầu nguyện của lão được thực hiện và thế giới sẽ bị hủy diệt.
Tuy vậy, ngày ấy lão cũng bớt bị ám ảnh bởi những ảo tưởng kinh khủng. Mắt lão
hơi xa rời công việc của đôi chim. Lão thấy tổ chim hoàn thành, đôi kiến trúc sư bé nhỏ
đang nhìn ngắm; rồi để tô điểm thêm, chúng gắn vào phía bên ngoài một ít rêu xanh nhặt
ở cây liễu thật, rồi đến khi nghĩ đến việc bày biện bên trong và nằm ở đấy, chúng tìm
những lông tơ thật mịn ở các cây cối, và con chim mái còn tự rứt ra vài chiếc lông để
trang hoàng thêm phía bên trong gian nhà của nó.
Dân làng vì kinh sợ những mãnh lực thảm hại của những lời cầu nguyện của lão tu
sĩ, cố gắng làm dịu sự phẫn nộ của lão bằng cách mang đến cho lão bánh mì và sữa. Họ
thấy lão đứng thẳng, tay đưa cao và tổ chim nằm gọn trong tay. Họ reo lên: “Kìa xem,
con người cao quý kia yêu các chú chim nhỏ lắm nhỉ!” Và họ không còn sợ lão nữa, họ
nâng cao bình sữa lên đến miệng lão và đặt các miếng bánh mì vào giữa môi lão. Sau khi
lão Hải-Tố ăn uống xong, lão xua đuổi mọi người bằng những lời lẽ chua chát, nhưng họ
chỉ đáp lại sự nguyền rủa của lão bằng những nụ cười thân ái.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
37B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
Đã lâu rồi, thân lão làm nô lệ cho ý chí lão. Qua những sự hành hạ, nhịn ăn, sự quỳ
mọp suốt ngày, qua những sự mất ngủ cả tuần lễ, cơ thể lão đã chịu quy phục. Những
bắp thịt săn như sắt của lão giữ vững đôi cánh tay gan góc ngày này qua ngày khác: và
đến lúc con chim bông lau mái ấp trứng không rời tổ nữa, thì đến đêm lão cũng không về
hang ngủ nữa; lão ngủ tại chỗ, tay vẫn đưa thẳng lên trời. Đã từng có bao nhiêu tu sĩ
trong sa mạc làm khổ hạnh hơn thế nữa?!
Lão đã quen nhìn đôi mắt nhỏ, lấm lét nhìn lão qua vành tổ. Lão che chở chúng khỏi
bao nhiêu mưa gió.
Và bỗng một hôm con chim mái đứng lên nhảy liến thoắng trên chiếc vành tổ mỏng
manh, nó được con chim trống hoan hỉ tiếp đón. Cả hai bàn bạc, vui sướng, mặc dù
trong tổ vang lên những tiếng ríu rít tuyệt vọng. Một lúc sau, cả hai cùng tung ra bay đi
tìm bắt các muỗi mòng và vừa khi các muỗi mòng được mang về miệng tổ là tiếng ríu rít
lại vang lên to lớn đến nỗi làm xáo trộn cả lời cầu nguyện của lão tu sĩ nhiệt thành rồi, từ
từ, với những khớp xương từ lâu đã quên mất cái khả năng chuyển động, hai cánh tay
lão từ từ hạ xuống, và đôi mắt than hồng của lão nhìn sâu vào chiếc tổ đang xao động.
Thật rõ ràng! Từ trước đến nay lão chưa hề thấy cái gì xấu xí và khốn khổ hơn thế:
những chiếc thân bé nhỏ trần trụi, không có mắt, không có cánh, sáu cái mỏ rộng hả
hoác ra. Lão nhận được một cảm giác kỳ lạ; nhưng, tuy chúng như thế, lão vẫn dành cho
chúng sự cảm mến trong lòng. Từ đó, mỗi khi cầu nguyện Thượng đế cứu vãn thế giới
bằng sự hủy diệt, lão dành ra một ngoại trừ thầm lặng cho sáu sinh vật bé nhỏ không ai
che chở. Và khi những thôn nữ mang đến cho lão thức ăn, lão không cảm ơn họ bằng
những lời cầu mong sự chết chóc nữa. Lão bằng lòng nhận thấy người ta không bỏ lão
chết đói vì sự sống của lão cần thiết cho cả chim đang kêu chiêm chiếp trong tay lão.
*
Không bao lâu, sáu cái đầu tròn vươn lên suốt ngày trong miệng tổ. Và càng lúc
càng nhiều, cánh tay lão Hải-Tố đã hạ xuống ngang mặt lão, lão thấy những chiếc lông
xuyên qua mảnh da hồng, những đôi mắt mở ra và những chiếc thân bắt đầu tròn trịa. Và
từ môi lão, lời cầu nguyện vang lên một cách ngập ngừng hơn. Thượng đế chắc chắn đã
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
38B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
hứa, lão tin như thế, rằng sự hủy diệt sẽ nổ bùng ngày nào mà đàn chim bông lau bay
được, và bây giờ thì lão gần như muốn tìm những lối thoát, vì lão thấy rằng không thể
nào hy sinh những vật nhỏ bé mà lão từng bảo vệ cho sinh nở. Từ trước đến lúc ấy, lão
không có chút gì là thuộc riêng về lão; và tình yêu kẻ yếu đuối cũng như kẻ khốn nạn
thầm lẫn vào tim lão làm cho lão nghi hoặc. Có lúc lão cũng muốn quăng luôn cả tổ
chim xuống dòng sông. Còn gì sung sướng bằng được chết mà không phải biết đến đau
khổ và tội lỗi? Như thế lão cứu vãn được những sinh vật kia thoát hẳn bọn chim săn mồi,
thoát khỏi đói lạnh, khỏi bao nhiêu thử thách trong đời. Nhưng giữa lúc lão mơ tưởng
đến những điều ấy, thì một con chim cắt đâm đầu xuống tổ chim non khiến lão Hải-Tố
chỉ còn đủ thì giờ chụp lấy chân con chim tham mồi bằng bàn tay trái và vứt nó về phía
dòng sông.
Đã đến ngày mấy chú chim non tập sử dụng đôi cánh nhỏ. Con chim mái đứng trong
tổ gắng sức đẩy chúng ra miệng tổ. Con chim trống hay chập chờn như muốn bảo chúng
hãy thử xem. Nhưng các chú chim con sợ hãi nên tỏ ra cứng đầu. Bấy giờ đôi chim trống
mái phô diễn tất cả tài nghệ trước mắt đàn chim con. Chúng lượn vòng rồi xoay nhanh
lại trong một cái chuyển cánh, hay bắt chước bọn sơn ca, bay thẳng vút lên trời cao,
đứng im trong khoảng không, cánh run rẩy quyết liệt. Đàn con vẫn cứng cổ. Bây giờ lão
Hải-Tố không thể không xen vào việc chúng được nữa. Lão lấy ngón tay búng khẽ một
cái, thế là giải quyết được vấn đề. Ra khỏi tổ, đập vỗ không khí theo thể cách các chú
dơi, chúng bay một bên cánh trái, đảo lộn, rơi xuống, vươn lên và dùng hết những kiến
thức đầu tiên để bay về tổ mau chừng nào hay chừng ấy. Đôi chim trống mái bay đến,
kiêu hãnh và sung sướng, và lão Hải-Tố cùng mỉm cười trước niềm vui của chúng: lão tự
cảm thấy mình đã đóng góp được một phần nào!
Lão mỉm cười và tự hỏi một cách nghiêm khắc rằng Thượng đế còn có lối thoát nào
để hủy bỏ lời hứa đi… Ai biết? Thượng đế đã cầm sẵn quả đất này trong lòng bàn tay
mặt của người như một tổ chim to lớn, và có thể sau cùng, Người đã yêu mến tất cả
những người đã sống trên ấy! Và trong lúc hủy diệt họ, có lẽ Người cũng đã có một cảm
tưởng như con người cô độc của miền hoang dã đối với đàn chim. Và lão Hải-Tố hiểu
rằng Thượng đế đã dành sẵn một tấm lòng cho nhân loại.
Selma LagerlöfNHỮNG DÂY VÔ HÌNH
39B
OO
KA
HO
LIC
CL
UB
| M
ak
ing
Eb
oo
k P
roje
ct
*
Ngày hôm sau, tổ chim đã trống không và sự cay đắng của cô độc tràn ngập tâm hồn
lão. Từ từ cánh tay lão hạ xuống bên người; và lão thấy vạn vật nín thở chờ đợi sự phán
quyết cuối cùng. Nhưng trong lúc ấy, những con chim bông lau thân thiết bay đáp xuống
đầu và người lão. Và ánh sáng lóe lên trong khối óc xao động của nhà tu sĩ ẩn dật. Lão
xưa kia đã ngồi im, bấy giờ đã hạ cánh tay xuống. Tại sao lão lại không để ý đến? Mỗi
ngày lão hạ tay xuống để nhìn tổ chim. Đàn chìm bay quanh mình lão. Lão đứng thẳng
người lên, hất hàm nói với một người mà không ai thấy: “Người khỏi giữ lời hứa! Khỏi!
Ta đã không giữ lời hứa của ta, thì Người cũng không cần phải giữ lời hứa của Người!”
Và lúc ấy lão thấy như núi non không còn rung chuyển nữa, và con sông trôi qua với
dòng nước êm đềm, với một an toàn to rộng…