hỘi dÒng xitÔ thÁnh gia viỆt nam hỌc viỆ Ế Ọchoidongxitothanhgia.com/upload/file/tieu...
TRANSCRIPT
Page | 1
HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM
HỌC VIỆN TRIẾT HỌC
NIÊN KHÓA 2010 – 2012
LUẬN VĂN CUỐI KHÓA
GIÁO SƯ HƯỚNG DẪN
LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH
SINH VIÊN THỰC HIỆN
ANTÔN NGUYỄN KHÁNH NHỰT
CỘNG ĐOÀN SCALABRINI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tháng 5/2012
Page | 2
Con xin chân thành ghi ơn nguyên viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền, giám đốc học viện và cha phó giám đốc Théophane Phạm Hữu Ái đã tạo điều kiện thuận lợi cho con trong suốt hai năm theo học triết tại Học Viện Hội Dòng Xitô Thánh Gia.
Cách riêng, con xin hết lòng tri ân cha Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh đã tận tình hướng dẫn, đồng hành cùng con trong suốt thời gian làm bài tiểu luận này.
Bên cạnh đó, con xin cảm tạ tri ân tất cả các Giáo sư đã hy sinh rất nhiều trong việc truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho con, nhằm giúp con truy tìm chân lý và hoàn thiện bản thân.
Đồng thời, em xin chân thành cám ơn tất cả các huynh đệ đồng môn thuộc Hội Dòng Xitô và Dòng Đức Mẹ Người Nghèo đã cùng em học tập trong suốt hai năm qua. Quý anh em đã nâng đỡ, sẻ chia với em những khó khăn và thử thách trong học tập cũng như trong đời sống ơn gọi.
Cách đặc biệt, con xin hết lòng ghi khắc công ơn Cha bề trên Dòng Scalabrini, Reinaldo Vassoler, cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Định cùng toàn thể anh em trong Dòng, đã ưu tiên nâng đỡ con nhiều mặt: về tâm linh, tinh thần và vật chất, thời gian và công việc... vv. Tất cả đã tạo điều kiện thuận lợi cho con hoàn thành chặng đường học tại Học Viện Hội Dòng Xitô. Bên cạnh đó, em cũng không thể không gửi lời cám ơn anh Gioan Baotixita Nguyễn Văn Tâm là huynh đệ đồng môn, người đã đồng hành, hướng dẫn nâng đỡ, giải thích và giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này.
Một lần nữa, con chân thành cám ơn tất cả quý vị. Nhờ sự giáo huấn, trợ giúp về tri thức, đạo đức, tinh thần và vật chất của toàn thể quý vị mà con mới đạt được thành quả như ngày hôm nay. Nguyện xin Chúa Kitô trả công bội hậu cho toàn thể quý vị. Kính chúc quý vị dồi dào sức khỏe và ơn bình bình an của Chúa Kitô.
Page | 3
Lời nhận xét của Giáo Sư
Thầy Antôn thân mến,
Sau những ngày suy tư chọn lựa đề tài, tìm tài liệu, đọc sách, nghiên cứu, và biên soạn, cuối cùng thầy cũng hoàn thành tiểu luận này để kết thúc chương trình triết học.
«Tri thức» và «đức hạnh» gắn liền với cuộc sống con người. Con người sinh ra là để sống. Sống là để biết và biết là để sống. Nói khác đi, «tri» và «hành» đi đôi với nhau; «tài» và «đức» song hành bên nhau. Chỉ có con người mới có tri thức và đạo đức. Con vật thì không cần biết đến tri và hành, cũng chẳng cần có tài và đức, vì nó chỉ sống theo bản năng. Nhưng là người và làm người thì cần phải «biết đúng» và «hành động» đúng để đạt đến hạnh phúc đích thực hay chân, thiện, mỹ. Đó cũng là mục đích tối hậu mà triết lý hay triết học nhắm đến.
Vì thế, đề tài thầy chọn thật là thú vị và ý nghĩa không những cho một sinh viên khoa triết mà còn cho tất cả mọi người, vì nó rất thực tế và gắn liền với cuộc sống con người mọi thời và mọi nơi. Đặc biệt là hữu ích cho những ai bước theo chân Thầy Giêsu Chí Thánh, Đấng tự xưng là «đường, là sự thật và là sự sống» (Ga 14,6).
Xét về hình thức, thầy đã thực hiện đúng theo phương pháp nghiên cứu và biên soạn. Thầy đã có công đọc sách, biết phân tích và tổng hợp kiến thức tốt. Đồng thời cũng có những suy tư và thao thức cá nhân. Bài viết có lập luận chặt chẽ, văn phong đơn sơ, rõ ràng và dễ hiểu. Thầy cũng có khả năng viết lách và diễn tả tư tưởng tốt. Dĩ nhiên, có vài điểm hạn chế mà bất cứ sinh viên nào cũng không tránh khỏi trong quá trình nghiên cứu và biên soạn. Điều hạn chế đó thầy cũng đã khiêm tốn nhìn nhận ở trong chương I rồi, vì thế tôi không kể ra ở đây.
Xét về nội dung, tôi không dám khen hay chê, cũng không dám phê bình hay hoặc dở. Nhưng việc thầy dám đụng chạm đến hai yêu tố căn bản của triết lý là «tri thức» và «đức hạnh» đã là một việc làm táo bạo và đáng trân trọng rồi.
Ước mong rằng tri thức và đức hạnh, tài và đức, tri và hành luôn song hành trong cuộc sống của Thầy. Thành Phố Hồ Chí Minh,
Ngày 25 tháng 05 năm 2012
Lm. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH
Page | 4
MỤC LỤC
Chương I: Giới thiệu tổng quát................................................................................................ 01
1. Dẫn nhập...................................................................................................................... 01 2. Lý do chọn đề tài....................................................................................................... 03 3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................. 05 4. Nội dung bài viết......................................................................................................... 06 5. Giới hạn đề tài............................................................................................................. 08
Chương II: Tri thức và đức hạnh qua lăng kính triết học.......................................................... 09
1. Tri thức......................................................................................................................... 09 2. Đức hạnh........................................................................................................................ 11
Chương III: Vài khuynh hướng truy tìm tri thức trước Socrates.............................................. 14
1. Nhóm vũ trụ luận......................................................................................................... 14 2. Nhóm ngụy biện............................................................................................................ 17
Chương IV: Socrates, con người tri thức và đức hạnh............................................................. 21
1. Sơ lược tiểu sử Socrates.............................................................................................. 21 2. Tri thức theo Socrates................................................................................................. 22
a. Vũ trụ quan............................................................................................................ 26 b. Quan điểm của Socrates về luân lý........................................................................ 27 c. Quan điểm của Socrates về thần linh..................................................................... 29
3. Đức hạnh theo Socrates................................................................................................ 31 ● Các khía cạnh nhân bản............................................................................................. 33
Chương V: Mối liên hệ giữa tri thức và đức hạnh..................................................................... 39
1. Socrates – Tri thức là đức hạnh...................................................................................... 39 2. Vài quan điểm khác về tri thức và đức hạnh.................................................................. 43 3. Mặt trái của việc đồng hóa tri thức và đức hạnh............................................................ 47
Chương VI: Luận về tri thức và đức hạnh................................................................................. 50
1. Những khuynh hướng tách rời của con người ngày nay................................................. 50 2. Mặt trái của tri thức khoa học......................................................................................... 51 3. Tôn giáo là một khoa học về sự thiện............................................................................ 54
Kết Luận :.................................................................................................................................... 57
Thư mục tham khảo …………………………………………………………………………… 62
Page | 5
Chương I
Giới Thiệu Tổng Quát
1. Dẫn nhập
Tri thức và đức hạnh là hai yếu tố cần phải có để con người hoàn thiện chính
mình. Từ xa xưa con người đã biết gắn kết chữ tài với đức: “đèn sách đọc thi thư, tu tâm
đức hạnh”1. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất ngày một nâng
cao thì nhiều người nghĩ rằng tri thức là điều kiện đầu tiên quyết định mọi sự. Những tòa
nhà chọc trời, các máy móc hiện đại lần lượt được phát minh, hệ thống Internet, khám
phá vũ trụ... Đó là những thành quả của quá trình lao động và sáng tạo của con người, tất
cả đều in hằn bóng dáng tri thức và trí tuệ con người. Nhờ những giá trị vật chất đó mà
đời sống con người được nâng cao hơn, thoải mái hơn. Nhìn chung, con người rất hãnh
diện về những thành tựu mình đạt được mà không ngần ngại đưa tri thức lên trên hết.
Dĩ nhiên, khi con người nhầm tưởng tri thức là tất cả thì những giá trị nhân bản
khác sẽ bị lãng quên. Người ta quên rằng mục tiêu cần hướng đến của con người không
chỉ là những giá trị vật chất chóng qua mà là bình an và hạnh phúc. Ngay cả khi con
người tưởng chừng mình đang sống bình an hạnh phúc đó cũng chỉ là cái bóng mờ không
hơn không kém. Đời sống vật chất ngày càng cao, nhu cầu về công việc ngày càng nhiều,
con người càng phải quần quật làm việc như một cái máy. Người ta tiếp xúc với máy móc
nhiều hơn là tiếp xúc lẫn nhau. Họ không còn thời gian gần gũi nhau, chia sẻ cho nhau
những điều cần thiết. Con người trở nên khô khan tình người nếu chỉ sống theo vòng
xoáy của tri thức.
Người ta nghĩ rằng có tri thức, có tài năng thì có thể đội đá vá trời, tự làm chủ bản
thân và xã hội, nắm trọn hạnh phúc trong tay. Từ suy nghĩ đó, con người bỏ quên đạo
đức, xem nhẹ giá trị đạo đức, không quan tâm trau dồi những phẩm chất mà một con
người cần phải có. Một khi con người mải chạy theo những lý tưởng ngông cuồng để rồi 1 Trích lược từ lời bài hát trong phim Tam Quốc Chí của La Quán Trung. Bài hát nhấn mạnh rằng là người quân tử thì phải mạnh cả hai mặt tài – tức tài năng, tri thức và tâm là rèn luyện nhân đức của mình đó là đức hạnh.
Page | 6
làm xã hội nghiêng ngửa đảo điên. Càng có tài năng gây ra nhiều tác hại một khi tài năng
đó không được sử dụng vào mục đích có ích cho mình và cho xã hội. Một người có đầu
óc sắc sảo nắm giữ vị trí quan trọng trong xã hội mà không có đạo đức thì nguy hiểm biết
chừng nào. Một kẻ hành nghề trộm cướp còn không đáng sợ, tác hại không lớn bằng một
ông giám đốc tham lam của công và ưa ăn hối lộ, hay một kẻ nắm quyền cầm cân nảy
mực mà không công chính nghiêm minh. Nói như thế không có nghĩa là xem nhẹ tri thức
hay tài năng; trái lại, tài phải đi đôi với đức, tri thức và đức hạnh phải được kết hợp chặt
chẽ với nhau, đi đôi với nhau. Người không có trình độ hiểu biết, không có tri thức thì
không giúp ích được gì cho bản thân và xã hội, làm việc gì cũng chẳng xong; trái lại,
những mưu toan và hành động của họ cũng rất nguy hiểm cho xã hội.
Một người tri thức hay tài năng chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy họ biểu lộ qua
cuộc sống. Chẳng hạn anh A học giỏi, cô B hát hay.... Tuy nhiên, đức hạnh của mỗi
người thì không dễ để ta nhìn thấy vì nó không lộ ra ngoài như tài năng. Tài năng là mặt
nổi, đức hạnh là mặt chìm. Cũng chính vì cái bên trong không ai nhìn thấy nên người ta
dễ dàng lãng quên hay bỏ mặc nó, không quan tâm trau dồi các phẩm chất đạo đức của
mình.
Tri thức và đức hạnh là hai vấn đề nổi lên từ thời xa xưa ở cả Đông và Tây. Đông
Phương tin vào vạn vật đồng nhất thể, tin vào sự hài hòa của vạn vật. Sự hài hòa đó được
thể hiện trong chính quan niệm Tri và Hành; biết là nhân đức, biết là tin, và biết là sống
điều mình biết. Trong văn hóa Việt Nam cái tài, cái đức phải đi đôi với nhau, nếu tách
riêng hoặc phát triển không cân đối thì đó là con người thiếu hoàn chỉnh, hữu văn vô
hạnh có sự khập khiễng nào đó. Tương tự, tri thức và đức hạnh của Tây Phương là hai
yếu tố không thể tách rời. Socrates còn nhấn mạnh hơn và cho rằng: “tri thức và đức
hạnh là một – Người ta biết điều tốt sẽ làm điều tốt, họ làm điều xấu chỉ vì không biết
điều đó là xấu...”2. Tuy nhiên, cũng có nhiều người cho rằng tri thức và nhân đức không
thể là một, và mặt trái của sự thống nhất đó vẫn còn những lủng củng chưa giải quyết
được. 2 X. Lê Tôn Nghiêm, Socrates, Ca dao, tr.39.
Page | 7
Giữa các nhà hiền triết xưa nay, Socrates – triết gia Hy lạp Cổ đại, là một trong
những nhân vật lớn, được coi ngang hàng với Khổng Tử, Phật Thích Ca. Mặc dù Socrates
không phải là đấng sáng lập hay ảnh hưởng nhiều đến tôn giáo, nhưng với đời sống đơn
sơ gương mẫu, nhất là cái chết anh dũng quân tử của một triết gia, ông đã ghi sâu trong
ký ức nhiều người hình ảnh của một con người đáng sống. Socrates là một tấm gương lớn
về người tri thức sống đức hạnh mà người viết sẽ nói đến nhiều trong bài này. Ông được
nhiều triết gia, nhiều học giả cả Đông lẫn Tây không ngớt lời ca tụng và nghiên cứu
những tư tưởng cao sâu của ông. Với ông, tri thức và nhân đức là một thể thống nhất
không thể tách rời, “người ta không thể làm điều ác, nếu có tri thức đúng đắn”3. Văn hóa
Việt Nam cũng thường đề cao Tài – Đức song song với nhau. Vì có tài mà không có đức
sẽ dễ rơi vào độc tài, nham hiểm. Ngược lại, có đức mà không có tài thì không giúp ích gì
cho xã hội.
Thế giới ngày nay phát triển quá mạnh về tri thức khoa học mà dường như những
phẩm chất đạo đức đang dần mất đi. Đời sống luân lý, đức hạnh, văn hóa truyền thống
trong xã hội thực dụng đang bị tách ra từng mảng, cái biết và sống không còn đi với nhau
mà khốn thay cái biết phá hủy đạo đức con người hoặc cướp đi những công việc thiêng
liêng của Thượng Đế như nạn phá thai hay nhân bản vô tính... Chúng ta có thể nghiên
cứu khía cạnh trên trong tư tưởng triết học Socrates nhằm tìm ra chân lý cho chính mình,
cũng như tìm ra những nguyên nhân của sự khập khiễng giữa tri thức và nhân đức, giữa
tri-hành, tài-đức để trở thành một con người phát triển toàn diện.
2. Lý do chọn đề tài
Sống trong thế kỷ XXI, chúng ta được chứng kiến biết bao thành công của khoa
học kỹ thuật. Nhìn chung, nhờ vào sự phát triển đó mà đời sống con người ngày càng
được nâng cao cả về chất và lượng. Sở dĩ có được những bước phát triển vượt bậc đó là
nhờ vào tài năng, vào tri thức, trí tuệ của con người. Con người không ngừng phát minh
ra vô số những thứ cần thiết để đáp ứng nhu cầu cho mình. Tuy nhiên, lòng tham của con
3 X. Ibid., tr. 39.
Page | 8
người hình như vô đáy, không gì có thể lấp đầy được. Dù sống trong một thế giới văn
minh, con người vẫn đối xử tệ bạc với nhau. Chiến tranh, hận thù, áp bức, chia rẽ vẫn tồn
tại quanh ta như những vết nứt không thể hàn gắn. Đó là kết quả của việc con người chỉ
tập trung học tập nâng cao tri thức mà quên đi những giá trị nhân bản và tâm linh khác.
Vì một khi con người được rèn luyện về mặt tri thức mà không quan tâm đến việc tu
luyện đạo đức thì con người dễ dàng sử dụng tri thức như là công cụ để thống trị kẻ khác.
Thời gian gần đây, qua các phương tiện truyền thống đại chúng, chúng ta thấy
nhiều hình thức bạo lực xảy ra như: bạo lực học đường, bạn bè đánh đập nhau, trò đánh
thầy, thầy “lợi dụng” học trò, gian lận thi cử ... Những người có quyền thì ức hiếp nhân
dân, nhận hối lộ, tham ô của công, mua quan bán chức ... Nhìn chung ở bất kỳ bộ phận
nào trong xã hội cũng nhan nhản những việc làm trái lương tâm. Không thể nói rằng
những tầng lớp nói trên là những người vô học hay không tri thức, đúng hơn phải nói tri
thức của họ bị biến chất vì thiếu đức hạnh nuôi dưỡng và bao bọc. Xã hội đang bị đảo
lộn, đang quay cuồng và đang tan vỡ thành từng mảng vì không được xây dựng trên nền
tảng là nhân đức.
Mặt khác, khởi đi từ những tư tưởng của Socrates: “tri thức là đức hạnh”, “người
ta biết điều tốt sẽ làm điều tốt”, “con người làm điều xấu vì họ không biết điều đó là xấu,
nếu được giáo dục chu đáo con người sẽ làm điều tốt”4. Những phát biểu của ông làm
cho người viết phân vân đặt ra nhiều câu hỏi và nhận ra rằng trong thực tế không hoàn
toàn như Socrates đặt ra, có lẽ ông đã quá lý tưởng khi cho rằng tri thức và đức hạnh là
một. Nếu tri thức và đức hạnh là đồng nhất với nhau thì có lẽ người ta không phải chứng
kiến hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu trong thế kỷ XX, nạn diệt chủng Hiller, Khơ-
me-đỏ... Không thể nói rằng những đối tượng thực hiện các cuộc chiến tranh trên vì họ
không biết, họ làm vì thiếu tri thức. Đúng hơn phải nói tri thức của họ vượt quá những gì
ta tưởng tượng và tri thức đó bị biến chất và không được xây dựng trên nền tảng là đức
hạnh nên con người đã gây ra biết bao đau khổ cho nhau.
4 X. Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy, Nxb Lao Động, 2004, tr. 31.
Page | 9
Như thế, nhìn thẳng vào thực trạng giá trị nhân bản đáng báo động của xã hội ngày
nay, qua nghiên cứu này, người viết muốn nhắc nhở chính mình luôn ý thức về giá trị của
tri thức và đạo đức để trao dồi. Với tư cách là tu sỹ trẻ đang được thụ huấn tại dòng
Scalabrini, chắc chắn rằng tương lai, tôi sẽ được sai đi để sống, để cộng tác và phục vụ
tha nhân. Muốn phục vụ tha nhân phải trau dồi tri thức. Tuy nhiên, nếu có tri thức mà
thiếu đức hạnh thì chưa phải là muối là men đích thực mà thế giới này đang cần. Vậy làm
sao để tri thức và đức hạnh triển nở đầy đủ trong tôi, giúp tôi trở thành người tu sỹ lý
tưởng? Đó là những thao thức làm động lực giúp tôi cất công tìm hiểu đề tài này với hy
vọng qua học tập không những tri thức của bản thân được nâng cao mà nhân đức cũng
được cải thiện.
Cuối cùng, tiểu luận này không chỉ dành riêng cho tôi hay cho những đọc giả triết
học, mà là tất cả mọi người đều có thể đọc để có cái nhìn tổng quát về tri thức và đức
hạnh, nhờ đó có thể rút ra những kinh nghiệm sống cho chính mình. Vì vậy, ngôn từ sử
dụng trong bài viết sẽ đơn giản, phổ thông dễ hiểu, tư tưởng không quá trừu tượng
chuyên sâu. Mong rằng qua bài viết bản thân và những người có dịp đọc đều có thể giữ
lại cho mình chút dư âm khắc khoải về tri thức và đức hạnh để cùng nhau tìm lời giải đáp
cho riêng mình trong đời thường.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chúng ta biết rằng Socrates không để lại tác phẩm triết học nào. Những gì ta biết
về ông chủ yếu qua các tác phẩm của Platon và một số đồ đệ khác để lại. Chính vì vậy,
muốn tìm hiểu về Socrates phải dùng phương pháp tổng hợp, thu thập tài liệu từ nhiều
nguồn khác nhau. Đọc và nghiên cứu tài liệu, sau đó thông diễn theo cách hiểu bản thân
sao cho phù hợp với tư tưởng và ngôn từ của ngày hôm nay.
Như thế, bài này sẽ được trình bày theo phương pháp tổng hợp và phân tích. Ngoài
việc sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích, người viết còn sử dụng những suy tư và
cảm nghiệm cá nhân. Qua đó, người viết mong muốn có được sự hiểu biết chính xác và
Page | 10
sâu sắc hơn về tri thức và đức hạnh, cũng như tầm quan trọng và mối tương quan giữa
chúng.
4. Nội dung bài viết
Bố cục toàn bài sẽ được phân chia như sau:
Chương I là phần giới thiệu đề tài, giới thiệu chung phần tri thức và đức hạnh. Nêu lên những vấn đề liên quan đến tri thức và đức hạnh, những điểm nóng trong xã hội ngày nay – một xã hội quá chú tâm đến tri thức mà quên đi các giá trị nhân văn khác. Đồng thời, trong phần này người viết giới thiệu phương pháp nghiên cứu cũng như mục tiêu của bài viết, tức là điểm đến của toàn bài.
Chương II là phần bàn về tri thức và đức hạnh dưới nhãn quan triết học. Đây cũng
là phần giúp nắm bắt cách tổng quát khái niệm về tri thức và đức hạnh là gì trước khi đi
sâu vào bài.
Tiếp chương III là phần chuẩn bị dọn đường để người đọc đi vào trọng tâm của bài
ở những chương tiếp theo. Chương này sẽ bàn về các khuynh hướng truy tìm tri thức
khác nhau của một số trường phái triết học trước Socrates. Đặc biệt là sự tìm kiếm tri
thức của các nhà Ngụy biện. Cách chung, trường phái Ngụy biện là những người buôn
bán tri thức. Họ dạy người khác các kỹ năng nhằm thu phục lòng người, cốt yếu thu lợi
cho bản thân bất chấp cách thức hay phương tiện thực hiện thế nào, dạy thuật tu từ hùng
biện... Tuy nhiên, nếu không chú tâm trau dồi các nhân đức nhân bản thì khi đạt được tri
thức lòng người vẫn trở nên khô khan chai đá. Sự chai sạn đó là hậu quả của việc miệt
mài truy tìm tri thức để thỏa mãn khát vọng hiểu biết của con người mà thiếu đi đức hạnh
làm nền tảng xây dựng tri thức. Để giải gỡ những bế tắc đó người viết sẽ trình bày trong
chương IV.
Trong chương này hình ảnh Socrates được đề cập như mẫu mực của người tri thức
sống đức hạnh. Ông đã dành trọn cuộc đời cho suy tư triết học. Không những thế, ông
sẵn sàng chết để bảo vệ cho chân lý, cho lý tưởng mà ông suốt đời theo đuổi. Chính vì
Page | 11
thế, Socrates đã đồng hóa tri thức với đức hạnh - “người ta biết điều tốt sẽ làm điều tốt”.
Có lẽ ông đã quá lạc quan về điều này vì trong đời thường mọi việc không đơn giản như
ông nghĩ. Tuy vậy, ông đã có những suy nghĩ lạc quan về con người, về bản chất hướng
thiện của con người và nhất là về giáo dục. Dẫu sao thì tư tưởng của ông cũng trở thành
đề tài gây chú ý cho bao thế hệ đi sau, đặt nghi vấn cho hậu thế tìm lời giải đáp bài toán
tri thức và nhân đức cuộc đời.
Chương V đề cập đến mối tương quan hai chiều giữa tri thức và đức hạnh. Trong
tri thức phải có đức hạnh, trái lại, trong đức hạnh có tri thức đi kèm. Con người là tập hợp
bao gồm cả tri thức và đức hạnh. Thiếu một trong hai con người sẽ phát triển không cân
đối hoặc sẽ bị “khiếm khuyết” về tri thức hoặc về đức hạnh. Đời sống con người chỉ đạt
được giá trị đích thực khi biết kết hợp hài hòa giữa hai phía tài và tâm, tri thức và đức
hạnh. Hơn nữa, đôi khi còn phải đặt chữ “tâm” ở trên chữ tài. Bởi vì: “chữ Tài liền với
chữ tai một vần”... và “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”5.
Chương VI là một vài suy nghĩ khác liên quan đến tri thức và đức hạnh. Con
người ngày thường có khuynh hướng tách rời tri thức và đức hạnh để dễ dàng chiều theo
bản năng hưởng thụ của mình. Đây là vấn đề nổi cộm trong xã hội hiện đại. Bên cạnh đó,
nếu xuyên suốt toàn bài bàn đến tri thức và đức hạnh là một thì trong phần này sẽ đề cập
đến những mặt trái của tri thức khoa học – Những tri thức đã bị con người bóp méo để
phục vụ cái tôi ích kỷ của mình.
Phần cuối của bài tiểu luận mang nặng tính cách suy tư của người viết. Lối suy tư
khởi hứng từ cuộc sống hiện tại về tri thức và đức hạnh. Liệu rằng với tầm mức phát triển
nhanh chóng của khoa học kỹ thuật như thời đại ngày nay thì những giá trị đạo đức nhân
văn sẽ đi về đâu. Phải chăng như Socrates phát biểu : tri thức là đức hạnh... người ta biết
điều tốt sẽ làm điều tốt”? Nếu quá đúng như thế thì chỉ cần được giáo dục đàng hoàng
nghiêm chỉnh người ta sẽ không làm những việc xấu xa nữa. Lý thuyết là thế nhưng tiếc
thay thực tế lại khác, tội ác không chỉ xuất phát từ những thành phần ít học hay dốt nát
5 Nguyễn Du, Truyện Kiều, câu 3252.
Page | 12
trong xã hội; trái lại, càng học cao, càng có tri thức, có quyền hành thì người ta lại càng
lạm dụng quyền hành đó để gây ra bao điều ác cho nhau.
5. Giới hạn đề tài
Với lý do chọn đề tài, phương pháp nghiên cứu, và nội dung bài viết được giới
thiệu trên đây, người viết sẽ giới hạn đề tài vào việc khai triển hai khái niệm tri thức và
đức hạnh dựa theo quan niệm của Socrates và một số triết gia, chứ không có tham vọng
đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng của các triết qua các thời đại đã nói về đề tài này.
Vì giới hạn về ngôn ngữ và nguồn tài liệu, nên người viết không thể trình bày tư
tưởng của Socrates bằng bản văn gốc (tiếng Hy lạp) mà chỉ tìm hiểu qua các bản dịch
bằng Việt ngữ...
Một số giới hạn khác: giới hạn đề tài trong lãnh vực triết học chứ không trình bày
nhiều về khía cạnh luân lý hay tu đức.
Page | 13
Chương II
Tri Thức và Đức Hạnh Qua Lăng Kính Triết Học
1. Tri thức6
Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về sự vật, là toàn bộ di sản văn hóa, khoa
học, đạo đức của nhân loại trải qua lịch sử các nền văn minh. Dưới cái nhìn của triết học
thì tri thức là sự tiếp nhận đối tượng nhờ giác quan hay nhận thức do trí năng nảy sinh từ
những ý niệm, rồi tinh luyện và đồng hóa với chính mình. Tri thức là cuộc gặp gỡ giữa
chủ thể và đối tượng, chẳng hạn khi con người nhìn vào vũ trụ, suy nghĩ, tìm kiếm tư duy
về nó, khi đó con người đã tri thức về đối tượng rồi7. Đối với Socrates, khi con người
nhìn về chính mình, suy nghĩ tìm kiếm nơi mình thì đó là tri thức. Tri thức mà Socrates
nhắm đến nằm ở trong chính con người chứ không phải tìm kiếm bên ngoài chủ thể như
khuynh hướng tìm tòi của các nhà vũ trụ luận thời bấy giờ vẫn thường làm.
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu
sống. Nhằm trả lời thắc mắc của con người về thế giới, và vai trò của con người tồn tại
trong thế giới này. Như thế, tri thức triết học đề ra những vấn đề liên quan đến con người
như: sống để làm gì? Tại sao con người luôn gắn liền với sự đau khổ và sự chết? Sau khi
chết con người sẽ đi về đâu? Hạnh phúc là gì? Cuộc đời này có ý nghĩa gì không?...
Chính vì vậy, tri thức triết học luôn xem xét những nhận thức của con người để phân biệt
chân giá trị của nó nhằm tránh những thành kiến, những cố chấp của niềm tin, mê tín hay
6 Tri thức có vai trò như là một từ của một ngôn ngữ. Đồng thời, tri thức cũng có vai trò là sự diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các mối quan hệ của sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Dưới phương diện là một từ của một ngôn ngữ, Tri thức có thể được hiểu một cách rất dễ dàng. Ví dụ trong từ điển tiếng Anh Oxford, Tri thức (Knowledge) được giải thích là: "Tri thức là những gì mà bạn đã học. Tri thức tổng quát (General Knowledge) là hiểu biết về nhiều thứ khác nhau". Nói tóm lại, "Tri thức" nhìn dưới góc độ ngôn ngữ học là một khái niệm rõ ràng và dễ hiểu. 7 X. Nguyễn Hồng Giáo, Triết Học Nhập Môn, tr. 20.
Page | 14
những tín điều của một số tôn giáo lệch lạc. Không những thế, tri thức triết học còn đặt
lại những vấn đề, những phát minh khoa học nhằm tìm giải đáp sâu xa nhất của thực tại.
Trong sinh hoạt triết học con người luôn đặt ra các câu hỏi trên rồi cất công đi tìm
lời giải đáp. Khi đã tìm được lời giải đáp người ta sẽ có lối sống hợp lý, tương ứng cho
những lời giải đáp đó – triết gia Socrates là một ví dụ rõ nhất trong trường hợp này. Thực
ra ai cũng cố tìm cho mình một câu châm ngôn hay một triết lý để sống. Thậm chí ngay
cả những kẻ sống bất cần đời hay buông mình trôi theo dòng chảy cuộc đời, đến đâu hay
đến đó cũng đều có một quan niệm triết lý riêng của họ. Tuy nhiên, tri thức triết học hoàn
toàn không phải như thế. Trái lại, tri thức triết học là một khoa học hợp lý hơn bởi các
triết gia suy tư có phương pháp và có những lập trường đưa tới một chân lý phổ quát mà
ai cũng công nhận. Đó là giá trị của tri thức triết học.
Mặt khác, triết học hay khoa học đều cố gắng giải đáp các thắc mắc. Mỗi giải pháp
suy tư đều có thể đúng, có thể sai hoặc chỉ nhìn vấn đề theo một khía cạnh nào đó không
thể giống nhau. Tri thức triết học khao khát tìm kiếm chân lý, còn tri thức khoa học ghi
nhận và giải thích những vấn đề của cuộc sống, truyền đạt cũng như bảo vệ một chân lý,
chân lý khoa học. Tri thức khoa học nhìn thực tại như nó là nó, không phụ thuộc bối
cảnh, công dụng, quan điểm của sự vật. Tri thức triết học lại nhìn sự vật và đi vào nội tâm
con người, suy tư lý lẽ để tìm ra những nguyên nhân phát xuất của sự vật. Như thế, cái
biết của triết học không chỉ là biết cách hời hợt, mà là biết uyên thâm tại sao và tìm
nguyên nhân để giải thích nhằm thấu suốt thực tại sâu xa nhất của sự vật.
Chính nhờ cái biết uyên thâm mà làm cho tri thức triết học có giá trị lớn lao, có
tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con người và xã hội. Quốc gia nào cũng xây dựng hệ
thống chính trị trên một học thuyết triết học nào đó mà họ cho là phù hợp với con người
và bối cảnh xã hội của họ. Một học thuyết được đưa ra có thể làm thay đổi cục diện của
thế giới. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử nhân loại.
Như thế, tri thức mang tính triết học rất quan trọng trong đời sống con người. Nếu
chúng ta biết vận dụng tri thức mang tính chất triết học, chúng ta sẽ gặt hái được nhiều
Page | 15
thành công nhất định trong cuộc sống. Vì nó sẽ khai mở tận căn, mọi vấn đề liên quan
đến con người, nhờ đó chúng ta có thể thâu nhận được nhiều giá trị thực tiễn. Hơn nữa, tri
thức triết học còn đặt nền tảng nhằm xây dựng các mảng tri thức khoa học khác nhau
nhằm giúp con người gặt hái được các giá trị thực tiễn phục vụ cuộc sống. Đó là điều
khẳng định vai trò cũng như giá trị của tri thức triết học. Tuy nhiên, con người không chỉ
được xây dựng nhờ vào các giá trị của tri thức mà còn phải nhờ đức hạnh nuôi dưỡng. Vì
con người nếu thiếu đạo đức nhân bản sẽ chẳng khác nào như cây không sinh hoa kết
quả.
2. Đức hạnh
Trước hết, đức hạnh được biết đến như là những thói quen tốt và bền vững giúp ta
đạt đến điều thiện và hành động theo những điều thiện đó8. Đức hạnh có thể điều khiển
đời sống con người theo những nguyên tắc của lý trí và của niềm tin. Chỉ có con người có
lý trí, có tự do vì thế đức hạnh buộc con người phát huy những giá trị phù hợp với bản
tính riêng của mình. Triết học đề cao con người vì con người là một “nhân vị” không thể
thay thế. Còn Kitô giáo đề cao phẩm giá con người, vì chúng ta được tạo dựng giống hình
ảnh của chính Thiên Chúa. Với Socrates, đức hạnh ở đây cũng chính là đạo đức, là đời
sống nhân bản, vì linh hồn quyết định mọi hành vi của con người. Đức hạnh không chỉ là
những hành vi hướng về Thượng Đế mà là một khoa học về sự thiện. Đức hạnh hay đạo
đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, qui định hành vi tương quan
giữa con người với nhau trong trật tự xã hội. Nhưng, vì sao vấn đề đạo đức lại được đặt ra
cho con người?
Bởi con người có tính xã hội, sinh ra và lớn lên trong xã hội nên yêu cầu về đạo
đức mới được đặt ra. Nói cách khác, luân lý đạo đức đặt nặng về mối tương quan qua lại
cũng như phong tục tập quán trong xã hội. Như thế, đức hạnh vừa là một giá trị, vừa là
một yêu cầu. Giá trị vừa mang tính cách tự thân vừa mang tính cách đối đãi, so sánh, và
yêu cầu chủ yếu là tương quan đối đãi nhưng cũng vừa mang giá trị tự thân. Cũng có thể
8 X. TSLS. Võ Hưng Thanh, Từ Thực Tại Vũ Trụ Đến Triết Học, Nxb Tp HCM, 2002, tr. 91.
Page | 16
nói ý nghĩa đức hạnh vừa mang tính cách hướng ngoại vừa mang tính hướng nội. Môi
trường của đạo đức hay đức hạnh là đời sống cộng đồng, xã hội, nhưng ý nghĩa của đức
hạnh lại là tính cách chủ thể của cá nhân9. Tuy nhiên, đâu là cơ sở làm nền tảng để xây
dựng đức hạnh?
Thiết nghĩ cơ sở của đức hạnh được xây dựng trên yếu tố lý trí và tình cảm. Tình
cảm phát huy lý trí và lý trí xây dựng cơ sở cho tình cảm. Tuy nhiên, ý nghĩa của đạo đức
không những cần giá trị chân chính mà còn cần ý nghĩa chân thực. Thiếu ý nghĩa chân
thực đức hạnh hay đạo đức không còn giá trị bó buộc, không có sự chân thành thì đạo
đức đó trở thành đạo đức giả. Đạo đức luôn phát sinh từ khả năng phán đoán của lý trí và
ý nghĩa của lương tâm.10 Một nguyên tắc căn bản của đạo đức đó là “làm điều lành, tránh
điều dữ”
Điều gì ta thành thật cho là tốt thì điều ấy không trái với giá trị đạo đức, song đạo
đức đó chỉ mới là đạo đức chủ quan. Cho nên đạo đức khách quan là đạo đức phải phù
hợp theo yêu cầu của xã hội. Điều gì ta nhận thức khách quan là tốt với xã hội và nhất
thiết không đi ngược lại, đó là đạo đức xã hội. Đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội là làm
điều tốt cho bản thân mình và cho xã hội. Kinh Thánh chép rằng: “điều gì các con không
muốn kẻ khác làm cho mình thì cũng đừng bao giờ làm cho kẻ khác” (Mt 7,12). Đó là
tiêu chuẩn đạo đức chung giúp ta hành động hài hòa giữa lợi ích cá nhân và xã hội.11
Mặt khác, ta biết rằng tự bản thân từ “triết học” – philosophia có nghĩa là “yêu
mên khôn ngoan”, đi tìm sự khôn ngoan. Con người học tập nâng cao tri thức cho mình
và luyện tập đức hạnh thì chính con người cũng đang thực hành triết học. Do đó, tự bản
chất tri thức và đức hạnh nằm trong lĩnh vực triết học. Không những thế, chữ sophia
trong tiếng Hy Lạp còn có ý nghĩa thứ hai là: nghệ thuật sống luân lý, giúp ta tránh được
sai lầm và đương đầu với những khó khăn một cách sáng suốt. Như vậy, theo nguyên lý
về tinh thần của người Hy Lạp, một người khôn ngoan vừa là một hiền nhân sống tốt vừa
9 X. TSLS,. Võ Hưng Thanh, Từ Thực Tại Vũ Trụ Đến Triết Học, Nxb Tp HCM, 2002, tr. 92. 10 X. Ibid., tr. 92. 11 Ts.Ls., Võ Hưng Thanh, Từ Thực Tại Vũ Trụ Đến Triết Học. Nxb Tp HCM, 2001, tr. 92.
Page | 17
là một nhà bác học có kiến thức uyên thâm. Hiền nhân và bác học là một. Người khôn
ngoan vừa biết sống cho hợp lý vừa hiểu biết ngọn nguồn của mọi sự12. Đây cũng chính
là quan điểm tri thức và nhân đức là một của Socrates. Chính quan điểm này đã khơi dậy
mầm mống cái thiện nằm sâu trong thâm tâm mỗi người chúng ta.
Như thế, việc tìm về với chính mình, tìm về với cái thiện là việc làm rất quan
trọng của mỗi người chúng ta. Thế nhưng, đối với triết học Hy Lạp ba thế kỷ đầu, các
triết gia chỉ chú tâm vào việc tìm hiểu vũ trụ bên ngoài, đề cao khía cạnh “tri”. Kể từ
Socrates về sau yếu tố “hành” được đưa lên vị trí hàng đầu. Triết học quay về với con
người và những vấn đề nhân sinh. Tri thức chỉ là phương tiện, là con đường, còn nhân
đức, cái hành, sống đúng, sống hạnh phúc mới là mục đích. Triết gia muốn hiểu, muốn
biết thì phải sống trong chân lý sự thiện. Đối với Socrates, triết học phải phục vụ con
người, đi từ cái biết của lý trí đưa đến hành động đúng. Đó cũng là đức hạnh thấm đượm
tinh thần triết học của Socrates.
12 X. Nguyễn Trọng Viễn, Trăm Năm Trong Cõi Người Ta, tr.33.
Page | 18
Chương III
Một Số Khuynh Hướng Truy Tìm Tri Thức Trước Socrates
Triết học giai đoạn Socrates là thời kỳ phân ranh quan trọng của triết học Cổ đại.
Trước ông gồm hai luồng tư tưởng chính đó là nhóm Vũ trụ luận và nhóm Ngụy biện.
Trong chương III này người viết cố gắng đi vào tìm hiểu cách thức truy tìm tri thức của
họ như thế nào, đặc biệt là họ gặp phải những khó khăn gì trong đời sống khi chỉ nhấn
mạnh việc tìm kiếm tri thức bên ngoài vũ trụ mà quên đi các giá trị khác trong đời sống
hằng ngày.
1. Nhóm vũ trụ luận
Có thể nói rằng, vạn vật đều có lý do sinh ra và hiện hữu, tồn tại và mất đi trong
không gian và thời gian. Đó là quy luật của trời đất, của vũ trụ mà vạn vật đã được định
đoạt hay lập trình theo một kế hoạch như thế. Trong khi đó, các nhà Vũ trụ luận luôn
khắc khoải bận tâm đi tìm những lý do đó, tìm chân lý phổ quát cho vạn vật trong trời
đất. Bên cạnh đó, họ còn tìm cách giải thích vũ trụ và các hiện tượng một cách minh
bạch. Nhóm này gồm các nhà Siêu hình học, Thiên văn học và các nhà Khoa học tự
nhiên; mỗi trường phái có những phương pháp riêng nhưng tất cả đều nhằm giải đáp
những vấn đề về bản chất, nguồn gốc và số phận của sinh vật, của con người và vũ trụ.
Để giải thích cho việc hình thành vũ trụ này Theles13 chủ trương rằng vạn vật trong vũ trụ đều bắt nguồn bởi nước. Nước là nguyên nhân chất thể của vạn vật. Nơi nào có sự sống, nơi đó có nước. Nước tồn tại bên trong vạn vật. Nước có sức mạnh khủng khiếp, có thể lan tỏa đến mọi hang động vực thẳm. Nước có thể mặc lấy bất kỳ hình dạng
13 Thales: Sinh tại Mi-lê, sống vào khoảng năm 640 tới năm 548. Triết gia nổi tiếng năm 585, và đã tiên đoán được nhật thực, là một hiện tượng lạ lùng đối với người thời đó. Thales chú ý đến những hiện tượng sinh vật và động vật như : sinh tử, sản xuất, tiêu diệt. Ông chủ trương rằng: phải có một nòng cốt, Substratum nào đó, để nâng đỡ và giải thích các hiện tượng ấy. Thales quan niệm đó là NƯỚC.
Page | 19
nào. Không sinh vật nào tồn tại mà không nhờ nước. Từ nước có thể sản sinh ra muôn loài muôn vật.... Bên cạnh đó, ông cũng cho rằng vạn vật chứa đầy thần thánh từ nội tại và chứa thần thánh cho mọi sự. Thần thánh đó chính là linh hồn của vạn vật.
Không giống như Thales, Anaximander14 hoàn toàn phủ nhận tư tưởng này. Ông
cho rằng nguyên lý của mọi loài không thể hữu hạn như nước được. Vì khi một sự vật đã
là chính nó thì không thể là nguyên nhân tác thành vạn vật được. Nếu A đã là A thì A đã
được cái gì đó khác A sinh ra A. Tương tự nước đã là nước, nghĩa là ta đã chỉ định được
nước, thì phải có cái gì đó tồn tại khác nước sinh ra nước, vì thế không thể nói nước là
nguyên nhân của vạn vật. Nguyên nhân tác thành vạn vật chính nó phải là vô hạn, vô định
và mọi vật đều bởi đó mà ra rồi lại trở về vô hạn, kể cả nước.
Đối với Anaximennes15, nguyên chất căn bản tác thành vạn vật là khí. Khí cũng là
sự tồn tại của vật chất và cũng là sự hiện diện của thần thánh. Mọi sự đều biến tan trong
khí, hồn chúng ta cũng bởi khí mà ra và bao bọc chúng ta. Ngoài ra, khí bao bọc toàn vũ
trụ.
Thuyết Pythagoras16 chủ trương, nguyên tố tối hậu của vạn vật không phải là yếu
tố vật chất mà là những con số. Vạn vật quanh ta đều được ấn định bởi các con số toán
học. Con số là thực tại, là nguồn giải thích cả vũ trụ. Pythagoras đi đến quan điểm này
bởi ông khám phá ra rằng mỗi nốt nhạc và cấu trúc trong âm nhạc đều có thể lý giải như
những tỷ lệ. Điều này gợi hứng cho ông rằng mọi hiện tượng tự nhiên đều có tính toán
14 Anaximander: Sinh năm 610. Ông đã thiết lập một bản đồ phân ranh giới biển và lục địa. Ông đã bác bỏ Thales như sau: “ nếu Nước thật là căn nguyên vũ trụ, làm sao nước có thể biến thành mọi vật được, vì nước là vật nhất định” ? Căn nguyên của mọi vật phải là một vật gì vô định, có thể thu nhận thiên hình vạn trạng. Theo ông, yếu tố tối hậu và căn bản chỉ có thể là một vật gì hay nguyên tố vô định. Quan niệm về Thượng Đế cũng đáng được chú ý. Ông đã đồng hóa nguyên lý và nguyên tố của sự vật với vô hạn thể, một danh từ tiến gần đến danh từ Thượng Đế. 15 Anaximennes: Triết gia là nhà thiên văn học, nổi tiếng năm 546. Ông quan niệm rằng KHÍ là nguyên lý của mọi sự.“Anaximennes thành Mi-lê quả quyết rằng nguyên lý của mọi sự là khí ; vì bắt đầu từ đó mà mọi sự phát sinh và mọi sự đều biến ta trong khí, cũng như theo lời ông nói, hồn chúng ta bởi khí mà ra và bao bọc chúng ta, khí bao bọc và chứa đựng toàn thể vũ trụ”. Quan niệm về nguyên lý bao bọc và chứa đựng mọi sự, chính Anaximander đã lưu ý rồi. Nhưng triết gia Anaxime đã bổ túc hai điểm :Nguyên lý của mọi sự ở trong trạng thái biến chuyển không ngừng. Thales cũng đã nghĩ tới, nhưng Anaxime đã đem áp dụng cho nguyên lý của sự vật cách đặc biệt. 16 Pythagoras: Đây là nhà toán học trứ danh nhất, theo tục truyền, là tác giả bản cửu chương và một định lý hình học cơ bản. Quê quán ông là hải đảo Samos thuộc xứ Ionia. Sinh năm 540. Vì muốn tránh một nhà độc tài tên Polyerbe, nên tự ý vượt biển sang mạn Nam Ý và định cư tại Crotone. Qua đời tại thành Metaponte (Ý).
Page | 20
học. Tuy vậy, quan điểm của ông vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục người khác, bởi lẽ thật
khó giải thích rằng mây trời, cây cối, sóng biển... bằng toán học.
Pythagoras cũng nhận thấy toán học là độc lập với thế giới có thể quan sát – thế
giới dựa trên kinh nghiệm. Ta không thể nhìn thấy tính tam giác hay con số 48 hiện thực.
Toán học là thuần túy và vô nhiễm. Nghiên cứu toán học giúp ta thoát khỏi sự thiếu nhất
quán của thế giới vật chất. Với trường phái này, các con số là phổ quát, không thể biến
chất và vĩnh viễn đúng; chân lý của chúng chỉ có thể được phát lộ thông qua lý tính17.
Ngoài ra trường phái này còn đem lòng sùng kính các con số, và đã khoác cho các con số
tính chất tôn giáo mang tính huyền bí.
Trong khi đó, Heraclitus lại quan niệm vũ trụ này luôn thay đổi. Biến dịch là
nguyên nhân của vạn vật. Mọi sự vật đều biến động như một dòng sông. “Không ai tắm
hai lần trong một dòng sông”18. Tất cả đều luôn luôn thay đổi.
Tóm lại, cách giải đáp về vũ trụ vạn vật của các triết gia thời này rất bạo dạn và
độc đáo. Nhưng xét cho cùng những suy tư đó vẫn đang nằm trong khuôn khổ tâm thức
dân tộc, niềm tin tôn giáo, phong tục, tập quán.... Chính vì thế, những giải đáp về vũ trụ
của họ cũng không thể nào vượt ra khỏi tâm thức dân tộc mà chúng đã ăn sâu vào trong
tư tưởng của họ. Như thế, tri thức vẫn đang trong vòng luẩn quẩn chưa có lối thoát.
Sở dĩ những gì họ hiểu biết vẫn đang bị đóng khung trong vòng luẩn quẩn đó vì
con người không dễ dàng nắm bắt thực tại của vạn vật. Điều có vẻ dễ hiểu đối với con
người thời nay là vũ trụ thiên nhiên thì thật ra cũng không phải là đơn giản trừ khi ta đơn
giản hóa nó một cách thô bạo. Cũng thế, các triết gia buổi đầu đã mổ xẻ, phân tích và
tưởng chừng mình biết, nhưng thực chất đó chỉ là sự nhận thức lẻ tẻ, vụn vặt, rời rạc nên
những giải đáp đó không thể thỏa mãn khát vọng hiểu biết sâu xa của con người.
17 X. Dave Robinson và Judy Groves. Nhập Môn Plato, dịch giả, Trần Tiến Cao Đăng, Bùi Văn Nam Sơn, Nxb. Trẻ, tr. 18-19. 18 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr. 39.
Page | 21
Nhìn chung, các nhà vũ trụ luận buổi đầu tìm cách giải thích các hiện tượng trong
thiên nhiên, trong trời đất bằng lý trý của mình. Thực sự họ đã bước một bước mạo hiểm
đó là đi từ thế giới đời thường vào thế giới huyền bí. Các nhà Vũ trụ luận buổi đầu đã có
ý thức vượt lên chính mình để khám phá thế giới siêu vượt, thế giới của các thần minh.
Mặt khác, khi nói về thực tại vũ trụ họ cũng bất đồng quan điểm với nhau. Với việc cậy
vào lý trí để truy tìm tri thức bên ngoài bản thân như các nhà Vũ trụ luận chủ trương thực
tế đã rơi vào những nẻo đường bế tắc cho con người; nó không những không quan tâm
đến việc con người phải sống đức hạnh thế nào mà ngay cả mặt tri thức họ cũng không
thể thỏa mãn khát vọng hiểu biết của con người. Trước những điểm yếu đó các nhà Ngụy
biện xuất hiện và không ngừng chỉ trích.
2. Nhóm ngụy biện
Nhìn chung, hầu hết các nhà Ngụy biện đều không tán thành với nhóm Vũ trụ luận
về cách thức họ giải thích các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ. Họ không thành công
trong việc đạt tới một quan niệm đồng nhất nào về vũ trụ. Họ đã đưa ra những lối giải
thích thiếu nhất quán về tự nhiên, và hình như không có cách nào dung hòa những lối giải
thích đó19. Ví dụ: Heraclitus nói: “tự nhiên luôn thay đổi”; trong khi đó, Parmenides có
quan điểm ngược lại khi nói rằng: “tất cả đều bất di bất dịch”.
Sự bất đồng cơ bản này đã tạo nên một não trạng hoài nghi về tri thức con người
và về khả năng khám phá chân lý của các triết gia tiền Socrates. Từ đó nhóm Ngụy biện
quay về với con người nhằm khám tìm kiếm tri thức mà họ cho là thực tế hơn, thiết thực
và hữu ích cho đời sống con người.
Phải nói rằng, các nhà Ngụy biện trước hết là những con người thực tiễn. Họ đi
nhiều nơi để giảng dạy. Chính vì thế, họ nắm bắt được nhiều thông tin, nhiều phong tục
tập quán khác nhau, quan niệm xã hội khác nhau, nhiều tôn giáo và đặc biệt là các chuẩn
mực đạo đức và lề lối cũng có sự khác nhau.
19 X. Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy, Nxb Lao Động, 2004, tr. 31.
Page | 22
Qua đó, họ buộc người Athens có suy tư phải trả lời các câu hỏi là, phải chăng nền
văn hóa Hi Lạp dựa trên những quy luật do con người đặt ra, hay dựa trên tự nhiên, phải
chăng những bộ luật tôn giáo và đạo đức của họ là những quy ước, và vì thế có thể thay
đổi hay chúng là những quy luật tự nhiên, và vì thế chúng cố định. Các nhà Ngụy biện đã
dựng diễn đàn cho một suy tư có cân nhắc cẩn thận về tri thức và đức hạnh của con
người20.
Đối với các nhà Ngụy biện tri thức của họ được liệt kê vào loại mètis – cái để diễn
tả trí khôn tinh xảo của con người. Họ coi đây là loại tri thức thực tiễn được ứng dụng
vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Với họ tri thức không chỉ là những hiểu
biết thông thường mà bao hàm tất cả mọi kỹ thuật từ lời nói, cử chỉ, thái độ, nét mặt, kinh
nghiệm... Họ cố gắng tận dụng tất cả mọi khả năng và kỹ năng có thể để thuyết phục
người khác tin theo. Chính vì thế, thái độ của họ trong các lĩnh vực triết học và tôn giáo
lại càng gây công phẫn cho người khác vì nhận thấy có nhiều học thuyết khiếm khuyết,
họ không ngần ngại nhấn mạnh đến những điểm mâu thuẫn của các triết gia đương thời
một cách quá trớn và vội vàng kết luận rằng: những cố gắng tìm kiếm tri thức của nhóm
Vũ trụ luận không đi đến đâu, không có tính thực tiễn. Đó là một thái độ hoài nghi rõ
rệt21.
Các triết gia có khát vọng truy tìm tri thức, thao thức tìm kiếm chân lý thực sự hầu
hết bác bỏ sự khôn ngoan thông thái theo kiểu mètis. Họ chỉ thực sự trung thành với khôn
ngoan sophia – nó không ảo ảnh, không lừa bịp, nhưng dựa trên chân lý khoa học chắc
chắn. Trái lại, khôn ngoan mètis chỉ được áp dụng trong cuộc sống đa tạp nhưng lại bị
loại bỏ trong triết học đích thực. Nhiều triết gia cho rằng tri thức mètis vẫn chưa đi vào
chân lý, nó vẫn nằm ngoài sự khôn ngoan sophia.
Mặt khác, nếu nghệ thuật tu từ dùng để thuyết phục kẻ khác nhằm mục đích truy
tìm chân lý thì không có lý do để chống lại các nhà Ngụy biện. Nhưng vấn đề bị kết án là
họ coi chân lý là sự bịa đặt của một số người nào đó. Ví dụ Thrasymacchus nói rằng: 20 X. Ibid., tr. 22. 21X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Thời thượng cổ, tr. 116 –118.
Page | 23
“chân lý thuộc về kẻ mạnh”, hoặc họ coi chân lý chỉ mang tính chất tương đối, nghĩa là
nó luôn có mặt nên người ta có thể nói thế nào cũng được. Như vậy hệ lụy cho lý thuyết
này sẽ làm hư hỏng thanh niên, vì một vấn đề luôn mang hai mặt nên họ có thể đổi đen
thành trắng, Ngụy biện cho kẻ trọng tội trở thành vô tội, hay biến sự bất công trở thành
hợp pháp. Đây là vấn đề bị Socrates kịch liệt lên án. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này ở
chương tiếp theo.
Một điểm khác đáng phê bình ở nhóm Ngụy biện là dường như những cố gắng tìm
kiếm tri thức của họ chỉ nhằm mục đích dạy lại cho giới trẻ để thâu lợi nhuận. Chính vì
thế, họ bị Platon nặng lời chỉ trích: “các nhà Ngụy biện là thợ săn để nhận lương bổng từ
nhà giàu” hay “Ngụy biện là thương gia đưa tri thức linh hồn ra bán”22. Bên cạnh đó, một
số triết gia đương thời xếp ông vào hàng ngũ của các triết gia phá hoại chân lý vì chính
thuyết tương đối của ông – tất cả đều mọi sự đều tương đối.
Protagoras chủ trương đồng nhất với cảm giác, ông cho rằng: “con người là thước
đo của vạn vật, chỉ duy con người có quyền quyết định điều gì có là có, điều gì không là
không”23. Rõ ràng khi nói con người là thước đo của mọi sự thì cũng bao hàm tri thức
của một người có thể đạt được bị giới hạn trong khả năng con người của họ. Về vấn đề tri
thức ông kết luận tri thức tương đối theo mỗi người. Đồng thời, ông cũng gạt bỏ mọi
quan niệm về thần thánh. Ông cho rằng: “Về các thần tôi không biết họ tồn tại hay
không, cũng không biết hình dáng họ thế nào; vì có nhiều yếu tố ngăn cản tri thức của
con người”24. Với ông, có lẽ thần thánh cũng do ý niệm của con người tạo ra. Đây là một
mệnh đề quá táo bạo và cũng hàm hồ.
Một gương mặt khác nổi danh trong nhóm Ngụy biện là Giorgias. Ông có một
quan điểm cực đoan về chân lý đến độ đã từ bỏ triết học để quay sang giảng dạy tu từ
học. Quan niệm cực đoan của ông ở chỗ, trong khi Protagoras nói rằng mọi sự đều là
chân lý, rằng chân lý thì đúng tùy theo từng người và từng hoàn cảnh, thì Giorgias phủ 22 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr. 179. 23 X. Ibid., tr. 123. 24 Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy, Nxb Lao Động, 2004, tr. 33.
Page | 24
nhận mọi chân lý. Ông lý luận rằng: “Không có gì hiện hữu. Nếu có gì hiện hữu thì cũng
không thể hiểu được. Cho dù có thể hiều được cũng không thể truyền đạt được.”
Tuy vậy, thiết nghĩ công bằng hơn ta nên lật lại vấn đề để xem xét một số công
trạng mà các nhà Ngụy biện đóng góp cho xã hội nói chung và cho triết học nói riêng.
Nhìn chung, khuynh hướng truy tìm chân lý của các triết gia buổi đầu tập trung vào thiên nhiên; các nhà Ngụy biện và Socrates chuyển mối quan tâm triết học sang lĩnh vực con người. Thay vì hỏi những câu hỏi lớn về nguyên lý cuối cùng của sự vật trong vũ trụ, triết học giờ đây quan tâm tới những vấn đề liên quan trực tiếp tới hành vi con người. Mặt khác, có thể nói rằng thái độ hoài nghi là phương pháp của các nhà Ngụy biện. Nhưng chính não trạng hoài nghi này đã tạo động lực cho triết học có một hướng đi mới, vì chính chủ nghĩa hoài nghi đã trở thành chủ đề của một sự quan tâm nghiêm túc của các triết gia trên con đường truy tìm chân lý.
Ban đầu, các nhà Ngụy biện rất có danh tiếng. Họ góp phần đào tạo giới trẻ biết trình bày ý niệm của mình một cách mạch lạc và thuyết phục. Với bối cảnh chính trị xã hội của Athens lúc bấy giờ thì khả năng hùng biện tốt là rất cần thiết trong các cuộc đại hội để thuyết phục người khác. Khả năng ăn nói lưu loát thuyết phục giúp người ta có nhiều cơ hội để thăng tiến bản thân trong xã hội lúc bấy giờ.
Các nhà Ngụy biện cũng có công khi lôi kéo những người đương thời chú tâm đến con người và những vấn đề nhân sinh. Nhưng xem ra chính họ cũng chẳng ý thức về công trạng đó. Thực ra những tiến bộ trong suy tư triết học họ có được là do những phản ứng trước lập trường của họ. Tới đây bầu trời triết học cổ Hy Lạp đã le lói mầu hồng của hừng đông nhưng vẫn còn tăm tối, mãi cho tới Socrates, vấn đề đạo đức nhân sinh sẽ được bừng sáng. Và từ đây triết học chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ con người được đề cao và con người trở thành chính đối tượng của triết học.
Page | 25
Chương IV
Socrates, Con Người Tri Thức Và Đức Hạnh
1. Sơ lược tiểu sử Socrates25
Socrates sinh vào khoảng năm 470 B.C, ở ngoại ô thành Athens. Thân phụ là
Sophronisque làm nghề điêu khắc, thân mẫu là bà Phénarete làm nghề sản phụ. Socrates
có vợ và ba người con. Ông sống nghèo, thanh bạch, giản dị, không ham mê chức quyền
lợi lộc.
Socrates có một khuôn mặt xấu xí, đầu hói, trán nhô, mũi tẹt, thân hình nhỏ, bụng
to. Đây là điều làm cho người dân Athens luôn thắc mắc, tại sao một người xấu xí vẻ bề
ngoài như ông mà lại có một tâm hồn cao đẹp được? Vì theo quan niệm người Hy Lạp,
nét đẹp bên ngoài là những yếu tố bộc lộ cái đẹp trong tâm hồn. Ở điểm này Socrates
không bằng học trò của mình là Platon vì ông này cao lớn và có thân hình lý tưởng hơn
Socrates.
Giống như tiên tri Hôsê trong Kinh Thánh Cựu Ước cưới phải bà vợ bất trung.
Socrates cũng có vợ rất khó tính, nổi tiếng là gắt gỏng nhưng ông vẫn kiên nhẫn chịu
đựng và trung thành với vợ. Ông còn lạc quan biện minh rằng: “nếu lấy vợ hiền thì được
25 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr. 142.
Page | 26
hạnh phúc, còn lấy phải vợ khó tính thì dễ trở thành triết gia”26. Điều đó đã ứng nghiệm
cho chính thân phận của ông.
Lối giáo dục của Socrates giống như các nhà truyền giáo thời Trung cổ, không có
trường lớp quy củ mà lớp học là đường phố, sân vận động, xó chợ.... Hàng ngày ông ra
những nơi đó gặp ai ông cũng bắt chuyện, đặt vấn đề, suy tư thắc mắc giúp họ tìm ra chân
lý và lẽ sống. Tuy có thân hình xấu xí nhỏ bé nhưng ông lại có một sức cuốn hút lạ
thường đặc biệt là thu hút sự chú ý của giới thanh thiếu niên thời đó. Ngoài ra, Socrates
sống đời sống tôn giáo gương mẫu, ông luôn giữ những tục lệ trong dân, dâng cúng thần
thánh, tôn kính tổ tiên.
Có lẽ, cũng như các thánh tử đạo của Kitô giáo, cái chết của Socrates là do ảnh
hưởng thời cuộc của xã hội tạo nên. Một xã hội bị dằng co giữa quyền lực và chân lý sự
sống. Song Socrates bị tố cáo vì ba tội. (1) Không tin tưởng vào tôn giáo của thành bang.
(2) Tuyên truyền việc sùng bái những vị thần mới. (3) Làm hư hỏng thanh niên.
Với những tội này ông bị kết án tử hình và phải uống thuốc độc sau khi thi hành
án. Bạn bè tìm cách để ông có thể trốn thoát nhưng ông từ chối vì phải giữ luật quốc gia
và không muốn làm gương xấu cho thanh niên vì nếu lời ông giảng dạy không đi đôi với
hành động thì giới trẻ sẽ mất niềm tin vào công lý.
Tuy nhiên, cũng chính vì cá tính và sự tự hào triết lý mà ông phải đánh đổi bằng
cả mạng sống mình. Ông có thể được cứu nhưng chính ông lại từ chối. Tuy nhiên
Socrates đã trở thành người bất tử qua những dòng tư tưởng triết lý ông để lại cho đời
sau, đặc biệt cái chết của ông là lời chứng sống động cho những chân lý đó.
2. Tri thức theo Socrates
Khởi đi từ những khám phá trái ngược nhau của các nhà Vũ trụ luận trong lối giải
thích nguyên lý tối hậu của vũ trụ, Socrates và các nhà Ngụy biện xoay chiều triết học 26X. Ibid. tr.
Page | 27
quan tâm trực tiếp đến tri thức con người. Các nhà Ngụy biện hoài nghi về khả năng con
người có thể đạt đến tri thức đáng tin cậy. Họ táo bạo kết luận rằng mọi tri thức của con
người chỉ là tương đối. Trái lại, Socrates cho rằng con người có thể đạt được tri thức đáng
tin cậy. Nền tảng vững chắc để xây dựng tri thức không phải ở bên ngoài mà ở ngay bên
trong con người. Ông cho rằng, đời sống nội tâm là trung tâm sinh hoạt tri thức, từ sinh
hoạt này dẫn đến hành động thực tiễn.
Để mô tả sinh hoạt tri thức, Socrates đã tạo ra khái niệm về hồn – Psyche . Hồn là
khả năng của trí thông minh và tính khí; nó là tính cách có ý thức của một con người.
Ông nói chi tiết hơn về hồn như sau: “cái ở trong chúng ta mà nhờ đó chúng ta được xem
là người khôn hay dại, tốt hay xấu”27.
Socrates tin rằng người ta có thể đạt được tri thức chắc chắn và đáng tin cậy. Tuy
nhiên, muốn đạt được tri thức này trước hết là phải làm sáng tỏ chính mình. Để làm sáng
tỏ một vấn đề thì việc đầu tiên là nêu lên các câu hỏi có phương pháp về vấn đề đó.
Phương pháp mà ông sử dụng được gọi là hộ sản trí tuệ, một phương pháp biện chứng.
Nhờ việc đặt câu hỏi xoay quanh vấn đề tranh luận mà những người tham gia có thể hiểu
rõ hơn vấn đề đó và làm sáng tỏ ý niệm của mình.
Điểm đến của các cuộc đối thoại với Socrates thường rơi vào sự bế tắc. Nói cách
khác, người đối thoại với Socrates đã khám phá ra tính chất vô bổ của những tri thức mà
họ đang có. Mớ kiến thức mà họ tự hào sẽ chẳng ăn thua gì trước những chất vấn của
Socrates. Như thế, người đối thoại cũng đồng thời nhận ra rằng mình dốt nát, nhận ra sự
thật về chính bản thân mình. Từ vấn đề đối thoại bây giờ người đối thoại đã chuyển vấn
đề đó sang chính bản thân mình – nhận biết mình. Một số người vì ganh tức vì không tìm
đâu được điểm sai hay không có khả năng biện luận cho mình cho bằng Socrates nên đã
có những phản ứng chống lại Socrates, nhưng rồi cũng chịu thua vì không lấy đâu lý do
để bắt bẻ Socrates. Một trong những phản ứng thời danh là của Hippias sau đây đối với
27 X. Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy, Nxb Lao Động, 2004, tr. 37.
Page | 28
Socrates. Hippias nói: “Ông,(Socrates) chỉ muốn xâu xé người khác bằng những câu hỏi
và đẩy họ vào chân tường. Còn ông không bao giờ ông cho ai là có lý cả, cũng không
bao giờ cho ý kiến của ông. Tôi không muốn bị ông chọc tức như thế nữa” (Xénophon)28.
Như vậy, Socrates dẫn đưa những người đàm thoại tới chỗ tự kiểm điểm bản thân,
ý thức về chính bản thân mình. Người đối thoại chẳng biết do đâu và vì sao mình sống và
hành động. Người đối thoại nhận ra được những mâu thuẫn trong lời lẽ của mình và đó
cũng chính là mâu thuẫn trong chính nội tâm của họ. Như thế, họ hoài nghi về chính họ
dẫn đến việc họ bắt đầu biết rằng họ không biết gì cả. Chính đây là thái độ cần thiết giúp
người ta đạt được những tri thức chắc chắn hơn trong tiến trình truy tìm chân lý.
Ông cho rằng nhờ sửa sai dần dần các khái niệm không đầy đủ hay thiếu chính
xác, người ta có thể dẫn dụ được sự thật từ một người nào đó. Công việc này được dựa
trên cơ cấu vĩnh hằng của linh hồn. Chính nhờ cơ cấu vĩnh hằng này mà người ta có khả
năng biết và phát hiện những mâu thuẫn tiềm tàng trong chính con người của họ. Đó cũng
chính là cái biết theo cách nhìn của Socrates. Ông còn cho rằng vấn đề đích thực không
phải là biết điều này điều kia nhưng là biết hiện hữu thế nào, biết sống thế nào.
“Tôi chẳng màng chi tới những điều mà đại đa số dân chúng không ngừng lo toan,
những vụ việc tiền bạc, quản trị tài sản, việc đảm trách chiến lược, những thành
quả diễn thuyết nơi công cộng, áo mũ cân đai, những khối liên minh, những đảng
phái chính trị. Tôi đã không dấn thân vào con đường ấy (...) nhưng vào con đường
mà, đối với từng người một trong quý vị, tôi sẽ mang lại phần phúc lợi tối đa bằng
cách cố gắng khuyến dụ từng người một để mỗi người không lo biết điều này việc
kia cho bằng lo sống và hiện hữu sao cho ngày một hoàn hảo hơn, ngày một hợp
lý hơn trong mức độ có thể”29.
28 X. Lê Tôn Nghiêm, Socrates, Ca dao, tr. 31. 29 Apologie, 36c.
Page | 29
Lời ông mời gọi sống và hiện hữu, Socrates không chỉ rao truyền bằng những lời
chất vấn, bằng thái độ mỉa mai châm biếm, nhưng còn bằng những phong cách, bằng
chính con người của ông nữa.
Đối với Socrates, kiến thức hay những hiểu biết không phải là một khối mệnh đề hay công thức đã thành khuôn đâu vào đó để rồi người ta mặc sức viết ra, truyền đạt, đem bán. Ngay từ đầu tác phẩm bữa tiệc chúng ta thấy rằng suy niệm, để bắt trí óc phải tập trung vào chính bản thân mình. Sau khi vào nhà Agathon năn nỉ được ngồi bên cạnh Socrates để, theo lời Agathon: “ Nhờ chạm sát vào bác, tôi may ra được hưởng nhờ phần nào những khám phá khôn ngoan.” Socrates trả lời “nếu như kiến thức là cái gì đó đầy tràn hơn và do đó có thể chảy vào một cái gì đó hao vơi hơn thì quả là hạnh phúc biết mấy”30.
Câu trả lời của Socrates ngụ ý rằng kiến thức hay sự hiểu biết không phải là một
đồ vật đã được chế tạo, những gì đã được tích lũy hẳn hoi, khả dĩ truyền đạt được bằng
sách vở hoặc bằng bất cứ lời lẽ nào. Về mặt tri thức, ông khẳng định điều mình biết duy
nhất “tôi biết tôi không biết gì cả”. Như vậy, cách gián tiếp ông đã từ chối quan niệm cổ
truyền về kiến thức và sự hiểu biết. Phương pháp triết học của ông do đó sẽ không nhắm
truyền đạt kiến thức. Theo Socrates, không có vấn đề chờ để nhận kiến thức và chân lý
như thể đó là những món ăn nấu sẵn, kiến thức và chân lý cần phải được cá nhân tự mình
sản sinh ra31.
Socrates khẳng định rằng, trong vấn đề truy tìm tri thức ông chỉ là người hộ sản.
Như thế, hình ảnh “cưu mang và sinh hạ” giúp chúng ta hiểu rằng tri thức là những gì
chất chứa trong chính tâm hồn mà từng cá nhân có bổn phận khám phá ra, sau khi nhờ
người hộ sản giúp nhận ra sự trống rỗng của cái mà mình ngỡ là kiến thức. Nhưng vấn đề
được đặt ra, làm sao chúng ta có thể có được tri thức trong thâm tâm mỗi người chúng ta,
và làm sao biết được nguồn tri thức đó là chắc chắn? Ngang qua Plato, chúng ta có thể
hiểu được vấn đề; Plato cũng diễn tả cùng một ý tưởng này nhưng dưới dạng huyền thoại,
bằng cách cho rằng mọi nhận thức đều là một cuộc hồi tưởng của linh hồn về một thị kiến
30 Paul Vicaire, Platon Le Banquet, dịch giả, Đậu Văn Hồng, Nxb, Les belles Lettres, 1995, tr. 10. 31 X. Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, 2004, tr. 35.
Page | 30
mà linh hồn đã có được trong kiếp trước, vì thế cần phải luyện tập để có thể hồi tưởng, tự
mình nhớ lại. Đó là nền tảng tri thức vững chắc của mỗi người chúng ta. Tri thức đó khởi
đi từ linh hồn bất tử.
Đối với Socrates, những vấn đề ông quan tâm và được đề cập đến rất nhiều trong
các cuộc đối thoại đó là: đạo đức, công bằng, cái đẹp, cái thiện.... Nhìn chung, các vấn đề
ông truy vấn tập trung xoay quanh nhân bản của con người. Tri thức liên quan đến đạo
đức và nhân bản - “tri thức là đức hạnh”. Có thể nói rằng, đây là chủ đề xuyên suốt trong
mọi tác phẩm viết về Socrates.
Tuy nhiên, trước khi đào sâu tìm hiều vấn đề tri thức gắn liền với đức hạnh chúng
ta điểm qua một số lĩnh vực khác để thấy được lập trường triết học của Socrates.
a. Vũ trụ quan
Đối với Socrates, ông không đưa ra quan điểm riêng về vũ trụ mà phản bác nhà Vũ
trụ luận. Dù rằng các triết gia trước ông có công khai mở con đường triết học; tuy vậy,
Socrates cho rằng đó mới chỉ là những ý tưởng, trực giác gợi ý mà chưa thể đáp ứng
những thắc mắc của con người. Với ông, những vấn đề liên quan đến con người và nhiệm
vụ của con người sống trong vũ trụ phải được ưu tiên hàng đầu trong suy tư triết học.
Nghiên cứu vũ trụ ngoại tại chỉ là những lối suy luận xa lạ đối với con người. Qua đó,
ông chỉ ra những khuyết điểm của các triết gia đi trước như sau.
Ông cho rằng việc con người dùng lý trí để truy tìm căn nguyên vũ trụ vạn vật là
không thể. Vì đây là lĩnh vực xem ra vượt trên nhận thức của con người. Hơn nữa, việc
suy tư triết học theo khuynh hướng ngoại thì không hữu ích cho đời sống con người nhất
là ở khía cạnh đạo đức. Với ông, vũ trụ vạn vật chứa đựng nhiều điều huyền bí. Thế giới
huyền bí đó được các Thần dựng nên; các Thần đã giấu kín nó nên việc con người cất
công khám phá là việc làm bất tín và phạm thượng32.
32 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, tr. 144.
Page | 31
Socrates cho rằng khám phá vũ trụ là đụng đến công việc của Thần thánh. Con
người không thể khai thác, tìm tòi những gì Thần thánh đã tạo dựng và an bài. Quan điểm
này giống với chủ trương của một vài tôn giáo; tuy vậy, trong bài này người viết không
muốn mổ xẻ để tìm hiểu đúng sai, nhưng qua quan điểm này ta nhận ra rằng Socrates là
người có lòng tôn kính Thần thánh một cách đặc biệt. Ông chủ trương rằng: “loài người
không thể khám phá được các bí mật ấy và nếu người ta dò xét những bí hiểm mà thần
thánh không hạ cố làm tỏ rạng cho chúng ta, thì người ta sẽ làm thất ý các thần thánh”33.
Trở về với chính mình để thấy rằng lý trí hướng dẫn con người bằng hành vi tốt đẹp. Để
hiểu biết, con người cần phải học và bắt đầu từ chính thái độ không biết. Socrates trải qua
nhiều kinh nghiệm suy tư để cuối cùng thốt lên một lời khiêm tốn “tôi biết, tôi không biết
gì cả”.
Theo quan điểm của Socrates về mặt tri thức, ông cho rằng thiên hạ có ba hạng
người. Hạng người dốt mà không biết mình dốt. Hạng người dốt mà biết mình dốt. Cuối
cùng là dạng người biết mình biết. Một cách khiêm tốn ông tự xếp mình vào hạng người
thứ hai – người dốt mà biết mình dốt, để từ đó biết mình mà vươn lên. Thông thường,
người ta dốt mà không biết mình dốt lại còn sinh kiêu căng hoặc biết một mà tưởng biết
mười. Trái lại, Socrates ý thức về mình và luôn khiêm tốn; sự khiêm tốn của ông cũng
như quan niệm của Khổng Tử khi nói về cái biết: “biết thì nói là biết, không biết thì nói
là không biết, ấy là biết vậy”34. Cách nào đó có thể nói rằng, khởi đi từ chính sự khiêm
tốn mà các nhân đức luân lý trong con người Socrates có cơ hội triển nở.
b. Quan điểm của Socrates về luân lý
Cách chung, nhân đức chính là sự hoàn thiện của con người để đạt được hạnh
phúc – cứu cánh đời người. Socrates quan niệm rằng theo lý trí tự nhiên “không có người
nào cố ý hành động xấu”, trong con người đạo đức đã có sẵn. Điều này giống với tư
tưởng Mạnh Tử “nhân tri sơ tính bản thiện”. Còn đối với xã hội, đạo đức là một khoa
33X. Ibid., tr. 145. 34 X. Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử, Nxb Văn Hóa, 1992, tr.219.
Page | 32
học, khoa học của cái thiện giúp con người tìm đến hạnh phúc, tìm đến sự khôn ngoan
đích thực là chân, thiện, mỹ. Đạo đức trở thành khoa học để hoàn thiện phẩm chất con
người. Muốn hoàn thiện mình không có cách gì khác ngoài việc quay về với bản thân.
Cũng như quan điểm của Mạnh Tử cái thiện tiềm ẩn trong mỗi con người; chính vì vậy,
Socrates chủ trương trở về với chính mình để khám phá chân lý hiện diện trong đó.
Với quan niệm đó Socrates đã chọn câu châm ngôn được ghi trên cửa đền
Delphes: hãy biết mình làm hướng đi. Như thế, chính thái độ khước từ vũ trụ quan để
nhìn lại chính mình đã là một sự “biết” rồi. Ông đã trả lại Thượng Đế những gì thuộc về
thiên giới mà không phải bận tâm khai thác nữa. Như thế, hãy biết mình chính là ý tưởng
nền tảng và lập trường nhân bản của Socrates. Nó đã ảnh hưởng đến tất cả các tư tưởng
nhân sinh quan sau này. Đây quả thực là một dấu ấn, một bước ngoặt lớn trong lịch sử
triết học Tây phương.
Trong quá trình tìm về với chính mình để nhận biết mình Socrates đã thốt lên: “tôi
biết tôi không biết gì cả”. Đây chính là thái độ khiêm tốn của ông. Không biết gì không
có nghĩa là ngu dốt mà chính là cái “biết” của những con người khôn ngoan. “Biết” mình
không biết gì cũng có nghĩa là biết tất cả con người mình, nắm biết được mình là ai, và
như thế chỉ còn lại cái biết là mình phải hiểu, học hỏi.
Thông thường, cái nguy hiểm của tri thức ở chỗ người ta dốt chỉ vì người ta biết ít
hoặc chẳng biết gì mà cứ tưởng là mình biết. Vì thế, họ không chịu học hỏi, tìm hiểu vấn
đề đến nơi đến chốn. Trong khi đó, với Socrates, không biết gì cũng là một sự tín thác để
ông biết cậy dựa vào Thần Linh, dẫu rằng ông không chủ trương tìm hiểu về thế giới
Thần linh. Trong khi đó ở tại đền thờ Delphes khi Chaerophone xin lời Sấm để biết có
người nào hiện đang sống thông thái hơn Socrates không. Sấm trả lời rằng “không”. Từ
đó ông ý thức sứ vụ, ý thức con đường khai mở chân lý và truyền đạt sự khôn ngoan. Ông
cho rằng sở dĩ ông là người khôn ngoan thông thái nhất chính là vì thái độ không biết gì
của ông.
Page | 33
Ông cũng cho rằng: “Không ai cố tình hướng về cái xấu hoặc cái họ cho là xấu,
nhưng là đi tìm cái tốt. Khi người ta tưởng cái gì là xấu thì họ không hướng về nó và
không chọn nó một cách hữu ý” 35. Điều này cũng được chứng minh trong cuộc sống đời
thường. Không ai muốn mình hay con cái mình sinh ra trở thành người xấu. Có lẽ trên
đời không cha mẹ nào muốn con mình trở thành những người xấu xa đê tiện, trộm cắp,
nghiện ngập.... Ngay chính kẻ được coi là xấu nhất trên đời cũng luôn mong ước con
mình không đi theo vết chân của họ. Như thế, cái thiện từ lúc nào đó đã có sẵn trong
lương tâm con người và khi họ làm trái tiếng nói lương tâm là một điều chẳng ai muốn.
Trong thực tế những thói hư nết xấu của con người là do ảnh hưởng từ môi trường xã hội.
Hãy biết mình là trở về với chính mình để tìm gặp chân lý tiềm ẩn trong nội tâm
sâu thẳm của mình, chứ không phải quay về với mình để sống khép kín cô đơn. Tìm về
chính mình tưởng chừng như một sự trở về lẻ loi đơn phương nhưng qua con đường lẻ loi
đó con người có thể tìm thấy tất cả chân lý ẩn tàng trong đó. Một người tội lỗi biết ăn năn
sám hối trở về với con người thật của mình chính là trở về cội nguồn lương thiện của con
người. Khôn ngoan chính là kinh nghiệm trở về để biết mình là ai.
Biết mình là biết thân phận con người, yếu tính của mình. Biết mình là ai, từ đâu
tới và sẽ đi về đâu, mình sống trên trần gian này để làm gì. Vì có biết ta mới định hướng
cho mình một lối sống, lối đi chính xác, một đường hướng cụ thể dẫn dắt cuộc đời. Biết
mình là một sự khôn ngoan tri thức. Người khôn ngoan đích thực là người có khả năng tự
mình phản tỉnh. Vì vậy họ biết cách sống vượt lên trên mọi khó khăn gian khó, dư luận,
tội lỗi.... Họ sống nhưng không bị những áp lực bên ngoài chi phối, sống an vui, thanh
thản, không phụ thuộc hay sợ dư luận. Mặt khác, cái khổ của con người là không biết
mình có mặt để làm gì, sống cũng được mà không sống cũng được, hoặc tiêu cực hơn
chẳng muốn sống mà nhiều lúc muốn chết, muốn chết nhưng lại sợ chết. Biết bao nhiêu
giằng co mà con người khó chọn lựa dứt khoát giữa cuộc đời này. Sống mà không xác
định mục đích thì cuộc sống chỉ là bất hạnh. Và đó cũng chính là đau khổ của kiếp người.
35 X. Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy, Nxb Lao Động, 2004, tr. 37.
Page | 34
c. Quan điểm về thần linh
Ta biết rằng Socrates là triết gia hữu thần, vì thế ông luôn tin rằng có một vị thần
hộ mệnh, vị thần ấy biến đổi cuộc đời ông, giúp ông tránh được những chuyện sai lầm.
Thêm vào đó, ông cho rằng: “trong con người phần chính yếu và căn bản nhất là linh
hồn, mà linh hồn có bản chất linh thiêng giống thần minh và bất tử như họ. Vì vậy tác vụ
đặc biệt của linh hồn là suy lý như một lý trí”36.
Mặt khác, nếu như truyền thống Hy-lạp định nghĩa triết học là yêu mến sự thông
thái thì Socrates nhấn mạnh thêm triết học như yêu mến sự thông thái Thần Linh. Tri
thức có tính chất Thần Linh và chỉ có nó mới làm cho con người nên gần ngang bằng
Thần Linh. Ông tin ở một vị Thần hộ mệnh nên dễ dàng đón nhận những nghịch cảnh của
cuộc đời.
Hơn nữa, chính Thần thánh đã uỷ nhiệm cho ông một sứ mệnh quan tâm đến vấn
đề tri thức và đức hạnh của người dân Athens, giúp họ khám phá ra chân lý trong chính
con người của họ. Ý thức được sứ vụ đó ông đã hết lòng sống những gì ông giảng dạy và
giảng dạy những gì ông sống. Để làm chứng cho ngôn từ, ông can đảm đón nhận cái chết
như một anh hùng, một kẻ khôn ngoan. Với ông nguồn gốc của sự khôn ngoan không
xuất từ con người nhưng đến từ Thần thánh. Vậy đức khôn ngoan của ông không phải bởi
loài người mà là khôn ngoan do tin tưởng vào Thần thánh.
Như thế, xét theo lĩnh vực nào chăng nữa thì mọi khuynh hướng truy tìm tri thức
của Socrates luôn xoay quanh con người lấy nhân bản làm gốc và tri thức luôn hướng đến
hạnh phúc, hướng đến đức hạnh. Muốn sống tốt, sống đức hạnh thì phải có tri thức; vì
ông quan niệm rằng người ta không thể làm điều thiện nếu không biết điều thiện là gì.
Tương tự, nếu người ta biết được chân lý, thì đương nhiên người ta sẽ thi hành nó; đó là ý
nghĩa thực của câu nói: “ không ai cố ý làm điều xấu.”
36 X. Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương II, Nxb, Tp. HCM, tr. 14.
Page | 35
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về lập trường của Socrates theo tiến trình lý
luận sau: Con người muốn hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực ở nơi đức hạnh. Muốn có đức
hạnh để được hạnh phúc cần phải có tri thức đúng đắn. Như thế, không ai cố tình làm
điều xấu vì không ai muốn tự mình đánh mất hạnh phúc của mình. Và vì đường lối đi tìm
đức hạnh nhất thiết bao gồm sự hiểu biết thế nào là hạnh phúc; nếu không biết rõ thế nào
là hạnh phúc người ta dễ rơi vào tình trạng nô lệ cho những thú vui vô bổ mà người ta
tưởng chừng đó là hạnh phúc. Sự nhầm tưởng này là vì thiếu tri thức đúng đắn thế nào là
hạnh phúc đích thực. Chính vì thế dẫn đến kết luận để sống tốt phải có tri thức, tri thức là
đức hạnh.
3. Đức hạnh theo Socrates
Socrates dường như thừa nhận rằng mọi người đều được phú bẩm lòng khao khát
điều thiện. Chính lòng khao khát này là lý do giải thích vai trò hộ sản của Socrates. Một
vai trò chỉ dừng lại ở chỗ khơi dậy thiện căn tiềm ẩn nơi mỗi người. Trên nguyên tắc đó,
chúng ta có thể hiểu được câu: “không ai độc ác một cách cố tình”, hoặc: “nhân đức
chính là tri thức”. Như thế, vai trò của Socrates là tạo cơ hội cho người đối thoại thể hiện
điều thiện nào là chân thật nhất tương ứng với giá trị nào là chính đáng nhất. Như thế, nơi
nền móng tri thức của Socrates có chất chứa lòng yêu mến điều thiện.
Theo Socrates, tri thức và đức hạnh là một. Nếu đức hạnh liên quan tới việc lo cho
linh hồn đến mức nhiều nhất có thể, thì điều cần thiết trước hết là phải biết cái gì làm cho
linh hồn trở nên tốt. Vì thế, cái thiện và tri thức có tương quan mật thiết với nhau. Không
những thế, Socrates còn đồng hóa tri thức với đức hạnh. Như thế, khi đồng hóa tri thức
với đức hạnh ông cũng muốn nói rằng thói xấu hay cái ác là vì thiếu vắng tri thức. Cách
thức lý luận này dẫn đến hệ quả rằng không ai làm điều ác một cách cố ý, người ta làm
điều xấu là do vô tình hay thiếu vắng tri thức.
Như thế, khi đồng hóa tri thức với đức hạnh, Socrates nghĩ tới một quan niệm cụ
thể về đức hạnh. Theo ông đức hạnh là việc hoàn thành chức năng của mình. Vậy con
người xét như một hữu thể có lý trí thì việc hoàn thành chức năng nghĩa là cư xử theo lý
Page | 36
trí. Đồng thời mọi người đều có khát vọng không thể chối cãi về hạnh phúc hay sự tốt
lành của linh hồn mình. Như thế, có thể nói, theo Socrates việc đạt đến đức hạnh là công
việc mà mỗi người phải làm cho linh hồn tốt đến mức nhiều nhất có thể. Chúng ta luôn
khát khao có được hạnh phúc. Vì thế, chúng ta chọn những hành vi mà chúng ta nghĩ
rằng chúng mang lại hạnh phúc cho ta. Tuy nhiên, những hành vi nào hay cách thức cư
xử nào mang lại hạnh phúc? Ông cho rằng một số hành vi có vẻ mang lại hạnh phúc,
nhưng thực tế lại không. Ví dụ, chúng ta theo đuổi của cải vật chất, quyền lực, thú vui thể
xác vì nghĩ rằng đó là nền tảng hạnh phúc, và chúng ta đã nhầm vì thực sự đó chỉ là
những biểu tượng hay bóng mờ của hạnh phúc mà thôi.
Mặt khác, hệ quả rút ra về sự đồng nhất thói xấu với sự ngu dốt không đến nỗi
mâu thuẫn với nhận thức thông thường, vì sự ngu dốt ở đây không nhằm ám chỉ đến hành
vi ngu dốt hay một người đần độn, mà là ám chỉ về khả năng nó mang lại hạnh phúc, về
cái nó cần để làm cho linh hồn đạt đến mức tốt nhất có thể. Vì thế hành động xấu là hệ
quả của sự đánh giá thiếu chính xác về những cách xử sự. Hành động xấu là sản phẩm
của sự ngu dốt đơn giản vì nó được làm với hy vọng sẽ làm được điều nó không thể làm.
Sự ngu dốt nằm ở chỗ không biết rằng một hành vi nào đó không thể tạo ra hạnh phúc.
Chúng ta phải có nhận thức đúng đắn về chính con người chúng ta để biết được điều gì
cần cho hạnh phúc của mình. Tóm lại, cần nhận thức đúng để có thể phân biệt giữa điều
có vẻ tạo ra hạnh phúc và điều thực sự tạo ra hạnh phúc.
Quả thật, không ai cố tình chọn cách làm thiệt hại hay phá hủy chính bản tính con
người của mình. Ngay cả khi con người muốn sự đau khổ thì họ cũng hy vọng sự đau khổ
sẽ dẫn đưa họ đi trên con đường đức hạnh, dẫn đến sự hoàn thiện bản thân mình vì bản
tính con người luôn đi tìm sự tốt lành cho chính mình. Thậm chí một người có ý định tự
tử thì họ cũng nghĩ rằng qua việc họ làm sẽ giúp họ vượt qua những đau khổ những rào
cản trong cuộc đời không còn lối thoát. Ở đây người viết không đề cập đến hành động
đúng hoặc sai nhưng muốn nói rằng mọi việc người ta làm đều muốn có được cái gì đó
tốt đẹp hơn.
Page | 37
Với Socrates, ông cho rằng người ta luôn nghĩ mình hành động đúng, nhưng các
hành động của họ có đúng thật hay không còn tùy theo chúng có hòa hợp với bản tính
đích thực của con người hay không, và đây là vấn đề nhận thức. Hơn nữa, vì Socrates tin
rằng cơ cấu nền tảng của bản tính con người là vĩnh hằng. Có thể xuất phát từ nền tảng
này mà con người có được tri thức chắc chắn. Đây cũng là cơ sở để ông chiến thắng chủ
nghĩa hoài nghi của các nhà Ngụy biện.
Đó là những tư tưởng chủ đạo về đức hạnh theo quan niệm của Socrates. Tuy
nhiên, để nắm bắt rõ hơn về vấn đề đức hạnh người viết xin đi sâu vào các khía cạnh
nhân bản khác nhau ngang qua cách thức thực hành của Socrates.
Các khía cạnh nhân bản của Sorates
Có thể nói rằng, sự khôn ngoan triết học chính là mực thước luân lý để con người
sống hạnh phúc. Đối với Socrates thì “đức hạnh chính là khoa học”, khoa học về cái
thiện, tri thức về nhân đức. Cho dù cái khoa học của Socrates mang nặng tính duy tâm
nhưng không vì thế mà nó chỉ thuần tuý những điều ảo tưởng nhưng là con đường triết lý
tư duy đầy tính khoa học. Khôn ngoan là đức hạnh bao gồm tất cả các nhân đức, khôn
ngoan đưa đến hạnh phúc và những phương tiện để đạt được hạnh phúc. Bên cạnh sự
khôn ngoan Socrates còn biết đến như một mẫu người sống mẫu mực và tiết độ.
Cũng như các nhà hiền triết Đông Phương, cái tiết độ của Socrates là một nghệ
thuật chứ không phải một cái ách ràng buộc nặng nề. Con người thường bị lôi cuốn bởi
những ham muốn vô tận, chúng ta đi từ ham muốn này đến ham muốn khác mà không
bao giờ thoả mãn, không bao giờ đủ. Ước muốn của con người như chiếc thùng không
đáy biết bao nhiêu cho vừa. Mà muốn vừa thì chỉ có đức tiết độ là đáy ngăn giữ sức chứa
ham muốn ở một mức độ nào. Một người biết tiết độ làm chủ ham muốn thì họ cảm thấy
hạnh phúc vì những thứ họ có, họ đón nhận như là vật qúy và như vậy là đủ. Cuộc sống
con người nhu cầu là cần thiết, nhưng chỉ ở mức độ vừa và đủ. Nhu cầu không thể loại
trừ nhưng có thể điều hoà và tiết độ trong phạm vi cần thiết của con người. Nhờ các kỷ
luật và ý thức trưởng thành nhân bản để hạn chế hay giảm bớt những ham muốn tới mức
Page | 38
tối thiểu. Tiết độ chính là nghệ thuật để chỉ cần đến rất ít thứ. Nghệ thuật như một bức
tranh càng đơn giản càng dễ tìm thấy những nét độc đáo.“Cuộc sống con người như chiếc
đồng hồ, loại đơn giản là loại ít bị hư nhất”37.
Nghệ thuật để gìn giữ sức khoẻ, để có thể thưởng thức hết những nhu cầu một
cách thoả mãn. Đa số người ta đau khổ vì họ là nạn nhân của các ham muốn vô hạn từ
chính mình. Quan niệm về giàu nghèo, hạnh phúc và đau khổ thì mỗi người một tiêu
chuẩn. Tiết độ không phải là một hình thức khổ tu, ráng chịu mà phải tìm ra niềm vui
trong đó. Đói thì ăn thấy ngon, khát uống thấy no thoả. Cái ngon, cái no thoả là kết quả
của sự tiết độ ban đầu.
Socrates thấu hiểu tất cả mọi giá trị ẩn chứa sau lối sống tiết độ. Ông không chải
chuốt vẻ bề ngoài – đi chân trần, ăn mặc xuề xòa. Đó là những biểu hiện của một triết gia
sống quên mình vì chân lý, truy tìm chân lý một cách say sưa. Ông không bận tâm tới của
cải vật chất. Có lẽ không ai phủ nhận giá trị của vật chất vì nhờ nó mà chúng ta tồn tại.
Tuy nhiên, với Socrates, việc sống chừng mực tiết độ trong sinh hoạt thường ngày để lưu
tâm tìm kiếm chân lý được nhấn mạnh nhiều hơn. Việc sống tiết độ của Socrates cũng
được coi như một sự can đảm mà người đời sau cần noi gương.
Socrates không những có lối sống tiết độ mà còn là một triết gia đầy can đảm. Ông
là người coi thường cái chết nếu không muốn nói là còn vui khi nghĩ đến cái chết, một
tâm hồn lạc quan, cũng như cái lạc quan của tôn giáo. Đối với Socrates “cái chết không
có gì đáng sợ, linh hồn là bạn của các thực tại thường hằng bất biến, siêu việt. Chết là
trở về với thế giới vĩnh cửu chân thật, nơi đó con người phát xuất ra. Triết gia là người
sống mà như đã chết và làm triết lý là học cho biết chết đi”38.
Nếu chết là sự tiêu diệt ham muốn, là sự yên tĩnh vĩnh hằng tuyệt đối thì đó là điều
hay. Ở đời này mấy ai có được một lòng kiên nghị như Socrates, ai chẳng sợ chết. Hay
khi mang lấy thân xác yếu đuối ai cũng sợ mình phải chết, ai cũng lo mình phải chấm dứt
37 Danh Ngôn Thế Giới. 38 X. Các Triết Gia Suy Tư, Sách Tham Khảo, tr. 20.
Page | 39
trên cõi đời này. Thế nhưng đối với Socrates, chết là trở về với cái thế giới vĩnh cửu,
bước vào đời sống mới, gặp lại người thân, thật khó mà hiểu hết tinh thần lạc quan của
một triết gia. Tinh thần ấy chỉ tìm thấy nơi tư tưởng tôn giáo hay vì một lý tưởng siêu
việt nào khác mà con người có thể đón nhận cái chết một cách thanh thoát như vậy. Nếu
như tri thức và nhân đức là một thì ở đây tri thức triết học và niềm tin cùng một quan
điểm về cái chết. Đó là những quan niệm sống và suy tư triết học đầy can đảm.
Trong tác phẩm Apologie, khi gợi lại lời bắt bẻ của một số người rằng “ông không
xấu hổ về một cuộc sống đã đưa ông vào một mối hiểm họa phải chết ngày hôm nay
sao?” Socrates trả lời: “Thật là nói năng không phải lẽ nếu cứ tưởng tượng một con
người có giá trị, cho dầu ít ỏi, buộc phải tính toán những cơ may sinh tử, thay vì tìm cách
để ý xem, khi người ấy hoạt động, điều người ấy làm có ngay chính hay không, người ấy
xử sự tốt hay xấu”. Như vậy, trong bối cảnh này, thái độ sợ hãi trước cái chết xem ra là
thái độ của kẻ vô tri39.
Nếu can đảm là nhân đức đáng giá của con người thì thiết nghĩ nên tìm hiểu thêm
đôi điều về can đảm. Can đảm là đức hạnh khiến ta kiềm chế được những ham muốn cá
nhân, những dục vọng, tham lam vô lý. Can đảm là khép mình trong kỷ luật và tìm thấy
những niềm vui một cách lý thú. Kỷ luật giúp ta tự luyện tập để đạt được những nhân
đức, những thói quen ta cần đạt tới. Can đảm giúp ta vượt qua những khó khăn trắc trở
của cuộc sống, biết bình tĩnh giải quyết những khúc mắc bất ngờ trong đời sống thường
ngày. Can đảm không phải là hàm hồ liều lĩnh với thái độ “chết thì thôi” mà là sự hiểu
biết đối tượng, hiểu biết chính mình nhờ lý trí soi dẫn. Biết đối tượng để hiểu nó là nguy
hiểm hay an toàn. Một đứa trẻ dám đụng vào lửa mà không thấy sợ vì không biết đến hậu
quả sẽ xảy đến. Một người tâm thần dám uống thuốc độc mà không nghĩ mình có thể
chết, các bạn trẻ kích động đua xe không cần phanh..., thì đó không phải là can đảm. Can
đảm cần có sự hiểu biết của lý trí hiểu biết sáng suốt nếu không đó chỉ là sự hèn nhát
hoặc liều lĩnh.
39 X. Đậu Văn Hồng, Lịch Sử Triết Học Tây Phương Thời Thượng Cổ, 2004, tr. 43.
Page | 40
Quay lại vấn đề, từ cái chết của Socrates chúng ta thấy rất rõ sự can đảm phi
thường của một con người cả đời đấu tranh cho chính nghĩa. Ông bình tĩnh đón nhận cái
án tử bất công trước mặt đông đảo cử tọa thiên vị. Socrates đã uống cạn chén thuốc độc
mà tên nô lệ trao cho trước sự thương khóc của những bạn hữu và môn đệ chân thành. Đó
là một sự can đảm phi thường đáng trân trọng trong việc bảo vệ chân lý. Một mẫu người
sống điều mình nói và nói điều mình sống. Dám lấy mạng sống của chính mình làm minh
chứng cho sự thật.
Như thế, hơn ai hết, ông là người ý thức được giá trị của hành động luân lý và ý
hướng luân lý, vì những giá trị đó là do chính ông lựa chọn. Cũng như tri thức, cái nhân
đức theo tinh thần Socrates ở đây không phải là một mớ lý thuyết trừu tượng nhưng là
một thái độ dứt khoát, vững chắc trước một sự lựa chọn – chọn để được giải thoát khỏi
ngục tù hay chọn cái chết để bảo vệ lẽ phải. Cái biết ở đây không phải là biết suông mà là
biết ưu tiên lựa chọn, nghĩa là biết sống cho đúng nghĩa; và chỉ có tri thức thực sự nếu có
cuộc khám phá nội tâm cá nhân. Vận dụng tri thức khám phá nội tâm cá nhân sẽ nghe
được tiếng nói lương tâm ẩn tàng trong đó. Kẻ làm theo tiếng nói lương tâm một cách
ngay thẳng là kẻ sống đức hạnh. Như thế ta thấy rằng trên con đường nhận biết và thực
hành đức hạnh có sự chi phối của lý trí, của tri thức.
Ở khía cạnh khác, lòng nhân hậu cũng được thể hiện nơi Socrates một cách đáng
trân trọng. Điều này được chứng tỏ trước cái chết hiên ngang của ông mà chính viên cai
ngục đã thốt lên “trong số những người đến đây từ trước tới giờ, duy có ông là người cao
thượng nhất”40. Lòng cảm phục của viên cai ngục đối với ông được cụ thể hóa bằng
chính những dòng lệ mến thương trong khi thi hành bản án.
Socrates cũng là người nhiệt thành với sứ mệnh và sống thiết tha với sứ mệnh dìu
dắt thanh thiếu niên trên đường đạo lý. Sứ mệnh ấy chính ông đã đón nhận từ vị Thần,
khi thần Apollon cho biết “không ai khôn ngoan hơn Socrates” thì đây là biến cố vĩ đại
cho ông cảm thấy sâu xa sứ mệnh phải làm gì. Lời Sấm tư ấy đã lái cả cuộc đời ông theo
40 X. Đinh Văn Trung, Khổng Tử và Socrates, tr. 165.
Page | 41
một hướng đi mới, nó có một sức quyến rũ vô biên mà không bao giờ ông rời xa nó. Sứ
mệnh ông lãnh nhận có tính cách thánh thiêng vì đây là lời của thần phán với ông nơi đền
thờ.
Ý thức được sứ mệnh đó, ông không chỉ chăm lo cho bản thân mà còn chăm lo
cho những người khác. Ông cho rằng: “Nếu chỉ một thân một mình thì người ta không thể
sống công bằng và ngay chính, vì khi sống công chính một mình, người ta sẽ chẳng còn
gọi là công chính nữa”. Tất cả lẽ sống Socrates chính là chăm lo cho bản thân và cho
người khác. Như thế, ông như một sứ giả, như tiếng chuông phản tỉnh cho nhân loại,
nhưng chính ông cũng rất bình dân và thái độ cư xử cũng hết sức bình dị, không phân biệt
giàu nghèo sang hèn. Điều đó được ông khẳng định như sau:
“Tôi sẵn sàng tiếp cận người giàu cũng như người nghèo mà không phân biệt
(...) Tôi là một con người mà thần thánh trao tặng cho đô thị: Quý vị thử nghĩ
xem, nếu cứ dựa vào sức phàm hỏi có ai có thể xem thường hết mọi lợi lộc cá
nhân như tôi không?(...) Từ bao nhiêu năm rồi, tôi chỉ chăm lo cho quý vị, thúc
bách từng người trong quý vị sống tốt hơn”41.
Socrates trung thành với bản chất và mục tiêu chân lý của ngôn từ, ông cho rằng
ngôn từ là cái đối lập với bạo lực. Khi không trung thành với chính nó, ngôn từ thoái hóa
thành một thứ nghệ thuật hình thức, hùng biện, khoa trương hoặc biến chất thành một kỹ
thuật thuyết phục, một thứ vũ khí trong các quan hệ sức mạnh. Chính ông đã phải chịu
hậu quả và phải trả giá bằng mạng sống do những chứng gian của ngôn từ. Ngôn từ vu
khống có thể thuyết phục các thẩm phán, làm cho kẻ vô tội bị kết án và bị giết. Trước cái
chết nơi toà án, ông không xin tha và trở thành một anh hùng, một chứng nhân cho ngôn
từ. Giống như các ngôn sứ, các vị tử đạo cũng là những nhân chứng của ngôn từ, của
“lời” mà các ngài đã hy sinh tất cả để bảo vệ chân lý.
41 X. Apologie 32b.
Page | 42
Socrates và học trò Plato đều phản đối nhóm Ngụy biện vì khả năng ăn nói của
con người bị họ giản lược thành kỹ nghệ thuyết phục. Sự thật không phải là chân lý tự
thân mà chỉ là sáo ngữ trống rỗng hay thứ hùng biện mang tính kịch nghệ. Đối với
Socrates “lời” phải là cách biểu lộ sự thật. Ông chỉ ra cho học trò của mình là: “nói chẳng
qua chỉ là cách dùng ngôn ngữ”, và người nói với việc dùng ngôn ngữ không phải là một.
Cũng như người thợ gặt với cái liềm họ dùng không phải là một mà là hai. Đối với các
nhà Ngụy biện, chân lý của ngôn từ chỉ phụ thuộc vào truyền thống, phong tục tập quán,
thuần phong mỹ tục, sự khen chê mà thôi. Ngày nay, người ta đã quá ngán với những tư
duy hình thức như vậy. Liệu chân lý có phải là truyền thống tập quán, thuần phong mỹ
tục…? Điều này rất quan trọng trong việc giảng thuyết cũng như rao truyền bằng chữ
viết. Socrates và Plato cùng quan niệm, cái gì làm cho nó là chân lý phổ quát, đức hạnh
thì phải rõ ràng. Tại sao hành động đó là tốt là đúng? Cái giả hình của Ngụy biện mà
ngày nay vẫn có đó là: “Sống công chính nhưng có vẻ công chính thì tốt hơn là công
chính”. Socrates thì ngược lại: “Thà lộ ra là bất chính mà là công chính thì tốt hơn”. Cái
khôn ngoan của Tin Mừng cũng cho ta biết rõ điều này, nếu chỉ sống bề ngoài thì chẳng
khác nào “mồ mả tô vôi” còn sự thật thì ghê tởm.
Mặt khác, quan niệm của Socrates về giáo dục cũng được đặt nền như sau: sống là
thực hiện cái biết của mình. Lý thuyết ông truyền lại cho học trò chính là đời sống của
chính ông. Điều ông dạy không phải là mớ kiến thức suông mà chính cuộc đời là một
nhân chứng là chân lý cho lời dạy. Ông không giáo huấn để cầu lợi, không bán kiến thức
để tìm danh mà là ý thức nghĩa vụ ông đã lãnh nhận từ vị Thần. Socrates không giới hạn
việc giáo dục cho riêng hạng người nào mà là cho tất cả. Ông rất tôn trọng lý trí và tự do
cá nhân của học trò trong phương pháp giảng giải, bình đẳng trong giáo dục và khiêm tốn
truyền đạt. Tóm lại, hình thức giáo dục của ông không những được xã hội Cổ Đại đề cao
mà ngay cả trong thời đại chúng ta đang sống mô hình này vẫn luôn hợp thời và được
nhiều người ưa chuộng.
Chúng ta vừa điểm lại một số nhân đức nhân bản của Socrates. Có thể nói rằng
ông là người mẫu mực, một con người tài đức vẹn toàn, con người tri thức sống đức
Page | 43
hạnh. Ở mọi góc nhìn ta đều thấy Socrates như tấm gương cho học trò noi theo. Một cách
ví von ta có thể nói rằng nơi con người Socrates ta có thể nhìn thấy nhiều đức tính tốt đẹp
như viên kim cương nhiều góc cạnh mà mọi người từ nhiều góc nhìn khác nhau vẫn thấy
được vẻ đẹp lấp lánh huyền diệu đáng quý của nó. Với ông thì việc sống nhân bản luôn
được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, muốn sống nhân bản một cách trọn vẹn thì con
người phải có tri thức đúng đắn để hiểu thế nào là nhân bản và đâu là con đường để giúp
ta đạt được cái nhân bản đó. Vì lẽ đó ông đã đồng hóa tri thức với đức hạnh làm một.
Page | 44
Chương V
Mối Liên Hệ Giữa Tri Thức và Đức Hạnh
1. Socrates – Tri thức là đức hạnh42
Đức Giêsu dạy rằng: “anh em hãy khôn như con rắn và hiền lành như chim bồ câu”.
(Mt 10,16). Sự khôn ngoan và hiền lành phải hội đủ và cùng song hành với nhau; nếu
khôn ngoan chỉ mang tính lanh lợi thì chưa đủ, hoặc hiền lành mà ủ rũ mãi như bồ câu thì
cũng không nên. Đối với triết học Socrates, cái khôn ngoan chính là tri thức và đức hạnh.
Học thuyết này không chỉ là lý thuyết suông mà nhằm hoàn thiện chính đời sống thực của
con người. Khái niệm nhân đức là chính, còn cái biết chỉ để đi đến cái thực hiện nhân đức
mà thôi. “Không ai cố tình làm điều xấu nếu họ biết điều tốt”. Cái biết phải được thực
hiện chứ không phải biết chỉ để biết, hay để dạy người khác hoặc để khoe mình biết.
Mặt khác, có lẽ do ảnh hưởng của tôn giáo nên đối với Socrates “tri thức là cái gì
bẩm sinh trong linh hồn mà nhiệm vụ con người phải khai triển tri thức ấy”. Quan niệm
về tri thức của Socrates mang nặng tính duy tâm, đặt nền tảng mọi vấn đề trên quan niệm
về Thượng Đế. Tri thức không chỉ hướng về Thượng Đế mà hướng về chính cái tâm con
người. Cũng giống như triết lý Đông Phương, Socrates có cùng quan điểm “nhân tri sơ
tính bản thiện” (Mạnh Tử). Con người khi sinh ra đã hướng đến cái thiện, cái đức hạnh,
và như vậy chân lý sự thiện tiềm ẩn ở nơi mỗi người. Cái nghề dạy học của Socrates được
ông ví như người hộ sinh. Người hộ sinh thì không sinh nhưng giúp cho thai phụ sinh nở
an toàn. Người ta cũng thế, trên bước đường tìm kiếm sự khôn ngoan cần có sự trợ lực
của người thầy, người bạn để phá thủng bức màn ngu dốt che khuất chân lý bẩm sinh, và
khi đó cái thiện ắt sẽ hiện ra. Với ông, người thầy không phải dạy, hay đưa cho họ một lố
kiến thức mà giúp họ khai thác chân lý trong chính họ đó mới là điều cốt yếu của việc tìm
kiếm chân lý.
42 Trong phần này người viết tham khảo từ sách: Lịch Sử Triết Học Tây Phương II, của tác giả Lê Tôn Nghiêm.
Page | 45
Tri thức là đức hạnh cũng có nghĩa là không tri thức cái gì khác ngoài cái thiện vì
chính cái thiện sẽ đưa con người tới hạnh phúc. Tri thức của con người cũng là biết cái
thiện và làm điều thiện. Với Socrates “con người không thể làm điều thiện nếu họ không
biết cái thiện là gì”43. Đức hạnh là một hành động, nhưng chỉ hành động được khi tri
thức thấu suốt điều mình hành động44. Đức hạnh phải xuất phát từ hiểu biết, cái biết của
lý trí. Ông còn khẳng định thêm rằng: “tri thức cái thiện cấu tạo nên tất cả mọi nhân
đức”45. Đức hạnh cũng là sự hoàn thiện đời sống của con người mà họ cần đạt tớt. Tri
thức và đức hạnh là một, phải hiểu theo tính duy lý của Socrates, nghĩa là “người khôn
ngoan là người tri thức cái gì hợp lý và cũng hành động theo cái gì hợp lý”. Cái “khôn”
và “ngoan”, “tri” và “hành” phải là những chân lý hợp nhất, được lớn lên trong một con
người. Cái biết để sống là phục vụ lợi ích đích thực của con người. Sự hoàn thiện là
hướng đến cái thiện tiềm tàng trong tâm hồn mà tâm hồn đó được soi dẫn bởi lý trí, cái
thiện đó cũng là cái thiện của linh hồn, của Thượng Đế. Tri thức cái thiện cũng chính là
minh triết, như vậy tất cả mọi nhân đức đều giả thiết là minh triết. Copleston nói rằng:
“người khôn ngoan là người tri thức cái gì hợp lý và cũng hành động theo cái hợp lý
đó”46. Tri thức cái hợp lý và hành động cái hợp lý đây cũng chính là chủ trương của
Socrates “không ai cố tình làm điều ác nếu người ta hiểu biết điều thiện”. “Người nào
có được tri thức họ luôn luôn hợp lý còn người nào chỉ có ý kiến đúng thì đôi khi
không”47. Tri thức của Socrates ở đây là: một hành động tốt tất nhiên phát sinh từ tri thức
cái thiện và ngược lại, tri thức cái thiện là điều kiện cho hành động tốt. Chỉ tri thức cái
thiện đã là đầy đủ để làm điều ấy tốt rồi. Theo Socrates, những ý niệm cái thiện hay đạo
đức của tôn giáo tự nó đã là điều tốt. Thượng Đế là tuyệt hảo vậy biết Thượng Đế là biết
một điều thiện hảo...., chỉ cần tri thức cái thiện là hành động theo cái thiện. Nếu người ta
biết chắc có thiên đàng và hoả ngục thì ai cũng chọn thiên đàng, chẳng ai khờ dại để
mình sa hoả ngục. Đây cũng chính là tính chất duy lý trong đạo đức Socrates.
43 X. Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương II, tr. 15. 44 X. Ibid. tr. 45 X. Ibid. tr. 46 X. Ibid. tr. 47 X. Thiên Phong Bửu Dưỡng, Vấn Đề Đau Khổ, tr. 128.
Page | 46
Quả thật, tri thức của Socrates gần với những vấn đề tôn giáo vì phát xuất từ linh
hồn và niềm tin nơi Thượng Đế. Ông còn quả quyết rằng một người đạo hạnh không thể
gặp điều ác nào, kể cả sau khi chết. Những may rủi phận người họ đón nhận như một
món quà và hiểu rằng đó là quy luật của kiếp nhân sinh. Nhân gian quan niệm ở hiền thì
gặp lành, hay phúc đức của ông bà để lại cho con cháu.... Cái phúc đó là gì nếu không
phải là một quan niệm sống về cái đức. Hơn nữa Socrates cũng cho rằng “Thượng Đế là
trọn hảo”, chính vì thế cái gì gần Thượng Đế thì cái đó hoàn hảo.
Thực vậy, như đã trình bày ở trên, với Socrates, sự hiểu biết đã có sẵn trong tâm
hồn con người vì thế nhiệm vụ của con người là khai triển tri thức ấy từ tiềm thể trở
thành hiện thể, từ cái đã có trong ý thức đem áp dụng vào cuộc sống. Cái minh nhiên ấy
phải là cái thiện phát xuất từ bản tính con người. Tư tưởng Socrates có phần nào giống
với quan niệm Phật giáo, giữ được cái tâm đúng là cái trí minh. Tri thức ở đây không
mâu thuẫn với những ngành khoa học tự nhiên bởi vì tri thức ấy là khoa học về chính con
người, và về những gì tốt hữu ích, tìm sự thiện, hạnh phúc cho con người. Sứ mệnh giảng
dạy của Socrates đề cao đạo đức và hướng con người đi tìm sự khôn ngoan nhân đức hơn
là tìm hiểu những lợi ích riêng như tiền tài, danh vọng. Điều này vượt xa các nhà Ngụy
biện khi nhìn nội tại con người. Mặc dù họ cũng có cùng quan điểm với Socrates là tri
thức phải lấy con người làm trung tâm chứ không phải vũ trụ bên ngoài, tuy nhiên cái
khôn ngoan ấy vẫn còn là khôn khéo, mánh lới chưa cụ thể đi vào chân lý sự thật của
nhân đức, vì sống như có vẻ là nhân đức thì chưa phải là nhân đức. Socrates đề cao sự
hiểu biết từ chính con người, và đây cũng là ý nghĩa của việc “hãy biết mình”. “Mỗi khi
nói gì hoặc làm gì phải căn cứ trên một tri thức hay một khoa học nền tảng. Khoa học ấy
phải là phổ quát, có tính chính xác, được mọi người công nhận và có giá trị trong mọi
hoàn cảnh”48. Như vậy con đường tri thức sự thiện cũng chính là một khoa học, khoa học
về sự thiện.
Muốn hiểu thế nào là nhân đức cần phải biết cái gì lợi ích cho con người, ngay cả
những gì thuộc thể xác như sức khỏe, sắc đẹp, của cải, hoặc những gì thuộc tinh thần như 48 X. Lê Tôn Nghiêm, Socrates, Ca Dao, tr. 125.
Page | 47
tiết độ, công chính, can đảm… đều ích lợi cho hạnh phúc con người. Vì thế đức hạnh
phải đi từ những sự thiện nhờ lý trí và ý chí đi kèm. Đức hạnh ấy cũng phát xuất từ chính
những khía cạnh nhân bản để đạt tới cái thiện. Từ đây Socrates rút ra một hệ luận quan
trọng: “liệu đức hạnh có thể đem ra giảng dạy như mọi môn khoa học khác không”? Thời
của Socrates, các nhà Ngụy biện đã giảng dạy đạo đức không như khoa học hay chân lý
sự thiện mà là một kỹ thuật, một nghệ thuật hùng biện, chưa sát thực với cuộc sống. Tuy
nhiên, cuối cùng Socrates cũng vẫn kết luận rằng nhân đức có thể đem ra giảng dạy được,
nhưng không giảng dạy như một mớ kiến thức lý thuyết suông, dùng ngôn ngữ như một
phương tiện truyền đạt. Bằng phương pháp sản ý, Socrates khơi lên trong ý thức con
người cái đã tiềm tàng, tức là đức hạnh.
Tri thức là nhân đức cũng có nghĩa là Socrates đã đồng hóa tri thức với hành động,
biết là làm. Nhân đức là tri thức không chỉ có nghĩa hành động tốt giả thiết tri thức sự
thiện mà hơn thế nữa ông muốn chủ trương hành động tốt tất nhiên phát xuất từ tri thức
sự thiện49. Chỉ tri thức sự thiện đã là điều kiện đầy đủ để làm điều tốt rồi. Điều này chỉ có
thể đón nhận nơi tôn giáo chứ thật khó hiểu và có lẽ khó xảy ra trong lĩnh vực triết học.
Tôn giáo lấy Thượng Đế làm cứu cánh cho mọi điều thiện hảo, và mọi hành động của con
người đều phải phát sinh từ niềm tin và lòng mến đối với Thượng Đế. Tri thức tôn giáo
có cái biết của niềm tin, có cái hiểu của lòng mến và tất nhiên cũng có cái biết bằng khả
giác tự nhiện. Nếu biết làm lành thì được hưởng phần thưởng thiên đàng hay giải thoát
khỏi những kiếp khổ lầm than, còn làm dữ thì sa hỏa ngục hoặc hoá kiếp vật hèn thì
chẳng ai dại gì mà chọn sự dữ.
Tri thức là tác động của linh hồn đến lý trí và nó cũng là lý thuyết vừa thực tiễn
vừa trừu tượng, hay nói khác đi nó chính là tác động của linh hồn và là sức mạnh của thể
xác. Vì thế, tri thức là chính con người và là sức mạnh của con người. Tri thức về sự
thiện cũng là con đường đi tìm hạnh phúc nơi thần minh và những gì phát xuất từ thần
thánh. Muốn sống hạnh phúc phải đi tìm sự thiện, còn sa lầy vào điều ác là lầm lạc không
biết sự thiện là gì. Vì thế “không ai có thể cố tình làm điều ác” là vậy. Chính ông cũng đã 49 X. Ibid., tr. 130.
Page | 48
quan niệm rằng “chỉ trong linh hồn tức là lý trí của ta mới khám phá ra được chân lý mà
chân lý cũng là sự thiện”50.
Nhiều người cho rằng quan niệm duy lý của Socrates bị ảnh hưởng bởi những kỹ
thuật thủ công và kinh nghiệm của người Hy Lạp. Trong các công việc thêu đan hay đóng
giầy phần lớn “tay nghề” phụ thuộc ở kinh nghiệm nghề nghiệp, làm là biết. Nếu có hiểu
biết được điều gì đã là thể hiện từ chính công việc làm rồi. Một người thợ thành thạo là
người thợ giỏi về chuyên môn và cũng là người có đạo đức tốt nữa, bởi vì họ là người
biết, mà biết thì không chỉ nghề nghiệp mà cả hiểu cái thiện. Biết đúng là làm đúng, điều
này chỉ hợp lý ở một phía bởi vì đây mới chỉ là tương quan trên bình diện kỹ thuật, biết
đúng ắt sẽ làm đúng, còn trên bình diện đạo đức thì phức tạp hơn nhiều.
2. Một vài quan niệm khác về tri thức và đức hạnh
Ở Đông Phương không có triết gia mà chỉ có có bậc hiền giả hay thi nhân. Vậy thử
hỏi các bậc thánh hiền đã quan niệm thế nào về tri thức và nhân đức, đúng hơn là tri -
hành. Quan niệm ấy cũng là một sự thống nhất bền chặt giữa biết và sống thực hành.
Sách cổ thư có lời rằng: “đức thắng tài vi quân tử, tài thắng đức vi tiểu nhân”51. Rõ ràng
quan niệm về cái đức được đề cao trong bậc thang giá trị con người, thuộc “hành”. Cái
đức ở đây là đức độ, nhân đức đã có sẵn trong mỗi con người. Cái tài có thể là tài sản,
của cải vật chất mà cũng có thể là tài năng nghề nghiệp, học thức, những gì thuộc “tri”.
Người quân tử phải thể hiện được cả hai nhưng cái đức quan trọng hơn. Người hiền vừa
có tài vừa có đức, học cao biết rộng nhưng lại cũng rất khoan nhượng trong đối nhân xử
thế, không lấy cái học, cái biết mà kiêu căng, hay khi làm lớn áp đặt người bé. Người
hiền luôn được kính trọng bởi họ biết đề cao và tôn trọng cái đức. Kẻ tiểu nhân chỉ dùng
cái trí, cái hiểu như phương tiện sống mà quên đi tương quan con người với nhau.
Nếu như khoa học sự thiện của Socrates là “hãy biết mình”, thì trong cái “vô vi”
của Lão Tử cũng có những nét giống như vậy. Người đời thường bảo biết người là trí, 50 Ibid., tr.160. 51 X. Trích từ tài liệu Hán Văn của thầy Nguyễn Gia Tường.
Page | 49
Lão Tử lại bảo “biết mình là sáng”. Người đời bảo thắng mình là có sức, ông bảo “thắng
mình là sức mạnh”. Biết người thắng người là hữu vi, biết mình thắng mình là vô vi52.
Biết mình là quan trọng bởi nó gói trọn cả cái biết sự thiện, và khi đã biết mình thì cũng
dễ biết người và đối xử theo sự hiểu biết ấy.
Khi Đông Phương bàn đến “tri hành” thì các nhà hiền triết Trung Quốc Cổ Đại
đề cao cái tâm và cũng giống như Socrates, mọi tri thức đều phát xuất từ cái tâm con
người. Ngày nay, trong xã hội Việt Nam cũng thế, cái tâm luôn được coi trọng. Đại thi
hào Nguyễn Du đã từng ví, “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (ĐTTT, câu 3250).
Lục Cửu Uyên cho rằng: Không có cái “lý” nào ngoài cái “tâm”. Cái tri thức về
qui luật khách quan của sự vật có trước trong ý thức của con người. Do vậy ông chủ
trương không phải nhọc công tìm kiếm chân lý bên ngoài thế giới vật chất, mà chỉ cần
phản tỉnh tìm kiếm bên trong là nhận thức được cái “lý”. Trở về cái tâm thanh tịnh sáng
suốt để nắm được cái “lý”53.
Cũng trong quan niệm triết học Trung Quốc Cổ Đại, Vương Thủ Nhân lại đặt tri
thức con người thuộc quyền “trời”: đối tượng nhận thức của con người không phải là sự
vật khách quan mà là trở về nhận thức cái lý “trời” phú ở trong “tâm” của con người.
Ông cho rằng cái biết “tri” đúng đắn là biết cái “lý” của trời. “biết” là căn bản, làm chỉ là
kết quả của biết54.
Còn Mạnh Tử thì đơn giản hơn “tất cả trong trời đất có đủ ở ta, quay về với bản
thân đến chỗ thành là nguồn lạc thú vô biên”55.
Trở lại với quan điểm của Socrates “hãy nhận thức chính mình” nó còn có nghĩa là
xây dựng những khái niệm chuẩn mực đạo đức chung của mọi người. Triết học là sự
nhận thức thế nào là cái thiện, cái ác. Vấn đề đặt ra là khái niệm tri thức được hiểu thế
52 X. Nguyễn Duy Cần, Lão Tử Tinh Hoa, Nxb, Tp. HCM, tr. 187. 53 X. Nguyễn Hữu Vui, Lịch Sử Triết Học, Nxb, Tp. HCM, tr. 97. 54 X. Ibid., tr.102. 55 X. Nguyễn Đăng Thục, Triết Lý Đối Chiếu, tr. 244.
Page | 50
nào trong hoạt động của con người. Đâu là tri thức phổ quát, tri thức phát xuất từ đâu và
để làm gì? Socrates coi tri thức là nền tảng của đức hạnh, “nền tảng và bản chất của nhân
đức là tri thức cái thiện”56. Của cải và danh tiếng chẳng mang lại lợi ích gì, ngược lại chỉ
mang đến những điều ngu xuẩn. Tài thắng đức chỉ là tiểu nhân ở chỗ đó.
“Mọi hành vi vô đạo đức đều là kết quả của dốt nát kém hiểu biết. Bởi lẽ nếu
người ta biết thế nào là tốt thì người ta không bao giờ làm điều xấu. Vì vậy con
đường đi đến tri thức cũng là con đường hoàn thiện nhân cách đạo đức và đó
cũng là đường đưa con người tới cái thiện và hạnh phúc”57.
Quan niệm “tri thức và nhân đức là một”, tri – hành hợp nhất không chỉ ở quan
niệm của các triết gia duy tâm mà ngay chính chủ nghĩa duy vật vô thần Marx cũng chủ
trương như vậy, tất nhiên hoàn toàn trên phương diện duy vật. Karl Marx cho rằng: chân
lý cần phải tìm cả tri lẫn hành. “Hành động không tri thức là hành động mù quáng, tri
thức xa hành động là tri thức vu vơ, vô căn cứ”58.
Trong truyền thống Kitô giáo cũng rất nhiều tư tưởng thống nhất giữa hiểu biết và
đạo đức cũng như tương quan giữa đạo đức và những hiểu biết siêu nhiên. Cái biết của
đức tin không giống như cái biết của lý trí, được tác động bởi các giác quan mà là cái biết
của tình yêu, niềm tin, và lòng mến.
Thánh Gioan cũng đề cao sự thống nhất giữa hiểu biết và thực hành cũng như tri
thức và nhân đức: “Căn cứ vào điều này chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên
Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà
không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối và sự thật không ở nơi người ấy.
Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa thực sự nên hoàn hảo” (1Ga
2, 3-5). Tất nhiên cái biết ở đây không phải là cái cảm giác vui buồn như của tình yêu con
người, mà là cái biết của niềm tin của sự giải thoát và ơn cứu độ.
56 X. Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương II, tr. 16. 57 X. Nguyễn Đăng Thục, Triết Lý Đối Chiếu, tr. 184. 58 X. Ibid., tr. 203.
Page | 51
Kinh nghiệm của thánh Augustin lại thực tế và gần với con người hơn “Cứ nhân
đức đi thì sẽ hiểu biết”, hoặc “yêu đi rồi làm gì thì làm”. Đây là quan niệm phát xuất từ ý
tưởng tôn giáo, lấy Thượng Đế làm mục đích cho mọi tri thức. Ở đây “hiểu biết và nhân
đức” là những khái niệm không thuộc lý trí mà gần như phụ thuộc ở cảm giác cũng như
chìm sâu trong lòng mến. Đối với thánh Augustin một lý trí hư hỏng đến độ thích sự dữ
vì chính sự dữ thì đó là con người đã mất sự kiểm soát của lý trí. Bởi vì bình thường thì
con người hướng đến cái thiện. Chính vì vậy, biết xấu mà vẫn cố tình làm điều xấu là
điều đáng lên án, nhưng làm điều xấu mà không còn coi đó là điều xấu nữa thì đáng sợ,
đáng lo hơn nhiều.
Tóm lại, có thể nói rằng tri thức và đức hạnh không chỉ riêng mình Socrates đề
cập nhưng có rất nhiều hiền triết, nhiều học giả cả Đông và Tây quan tâm. Nhìn chung
mọi người đều đề cao tri thức và nhân đức. Tuy nhiên, cái đức vẫn được coi trọng hơn.
Sở dĩ cái đức được nhấn mạnh vì nó gắn bó một cách sâu sắc và có tính bền vững, tính
nhân bản đối với con người. Nhiều người cho rằng, có đức mặc sức mà ăn, hay, chiến
thắng thiên hạ thì dùng tài, giữ lấy thiên hạ thì dùng đức. Cái tài cái đức phải song hành
với nhau, tuy nhiên cái đức nhất thiết phải được đặt lên trên cái tài.
Tri thức và đức hạnh là hai lĩnh vực cần phải luyện tập trong suốt cuộc đời của
mỗi người chúng ta. Vì chúng là đôi cánh giúp con người vươn lên trong cuộc sống. Con
người sẽ không viên mãn nếu thiếu đi tri thức và đức hạnh – ở đây không cố ý nhắm đến
những người có hoàn cảnh hay tình trạng đặc biệt về khả năng nhận thức và suy lý. Chính
vì thế ngay từ đầu bài tiểu luận, người viết đã đề cao nhiều khía cạnh tích cực của luận
điểm tri thức và đức hạnh là một. Tuy nhiên, để hiểu sâu xa hơn vấn đề này cần phải lật
lại để tìm ra những mặt trái của tư tưởng tri thức là đức hạnh, vì trong đời sống thực của
xã hội mọi vấn đề phức tạp hơn rất nhiều so với lý thuyết mà Socrates đưa ra.
3. Mặt trái của việc đồng hóa tri thức và đức hạnh
Có thể nói rằng, lý thuyết tri thức là đức hạnh mà ông đưa ra ẩn chứa những lý
tưởng cao đẹp của nó. Hơn nữa, nó càng cao đẹp hơn khi ông đã sống trọn vẹn cái lý
Page | 52
tưởng đó. Ông đã sống hết mình để làm chứng cho những gì ông dạy người khác làm
theo. Tuy nhiên, để hiểu được vấn đề ông đưa ra một cách khách quan hơn, trọn vẹn hơn
thì không thể không xem xét lại. Không những thế, việc đặt lại vấn đề cũng là cơ hội cho
người viết nhìn lại thực trạng xã hội cũng như chính bản thân.
Trước hết, nếu xét trên bình diện khoa học kỹ thuật thì việc biết đúng sẽ làm đúng
là điều hiển nhiên không ai chối cãi được. Ta biết quy luật vận hành của máy móc sẽ điều
khiển nó vận hành theo đúng quy trình và chức năng của nó. Tuy nhiên, nếu xét trên bình
diện đạo đức thì vấn đề phức tạp hơn nhiều. Không thể vội vàng kết luận tri thức và đức
hạnh là một; hay biết điều tốt sẽ làm điều tốt. Theo Socrates, “con người nếu biết đúng họ
sẽ sống đúng, làm đúng.” Cũng có nghĩa, chỉ cần trau dồi trí tuệ mở mang kiến thức và
có những kinh nghiệm thực tế là đủ. Ông cũng cho rằng “không ai phạm tội một cách cố
tình”, nghĩa là con người luôn hướng thiện. Họ làm điều ác chỉ vì họ sai lầm và không
biết sự thiện là gì.
Điều này xem ra quá lý tưởng và xa rời thực tế bởi lẽ chỉ biết đúng thì chưa đủ mà
người ta còn phải muốn và chọn lựa điều họ làm. Socrates quên rằng ngoài cái thiện,
trong con người cũng có những mặt trái của nó như: dục vọng, tham, sân, si, nó ảnh
hưởng trên hành động của con người. Có khi cái muốn, cái chọn lại phụ thuộc vào hoàn
cảnh, môi trường tác động khiến người ta chọn cái sai lầm. Người ta biết nghiện chích là
điều xấu, mãi dâm là điều không thể chấp nhận về mặt đạo đức, nhưng người ta vẫn chấp
nhận phiêu lưu. Con người có thể vì yếu đuối trước sự lôi kéo của tình dục của tham vọng
vô độ. Điều ấy cũng đã có sẵn trong con người. Không phải Thượng Đế ban điều xấu
nhưng trong con người có tự do cá nhân. Vì tự do cá nhân nên con người có thể chọn làm
điều xấu theo dục vọng của mình. Nếu theo đúng quan niệm Socrates thì thế giới này
không có kẻ nói dối hoặc man trá, vì không thể nói hoặc làm những gì ngược với lương
tâm họ. Tuy nhiên, trên thực tế lương tâm một đàng nhưng thực hành một nẻo. Chính
Page | 53
thánh Phaolô đã ý thức rằng: “Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, còn điều tôi không
muốn tôi lại cứ làm”59.
Có những cái người ta biết là xấu nhưng vẫn làm vì yếu đuối. Hoặc có những lúc
vì hoàn cảnh người ta làm điều ác nhưng trong thâm tâm vẫn yêu mến điều thiện, vẫn hối
hận về việc làm sai trái của mình. Vì vậy con người phạm tội và cần sám hối. Gioan Tẩy
giả đã làm chứng điều đó: Sự Sáng đã đến thế gian, nhưng thế gian không đón nhận Sự
Sáng, bởi vì họ đã quen sống trong tối tăm (x. Ga 1,6-11).
Socrates qủa quyết rằng: “lòng người luôn hướng về những điều thiện”. Người ta
ăn ở bất lương chỉ vì ngu si, không hiểu biết mà thôi, nếu được giáo dục để nhận thức thì
nhất thiết họ sẽ ăn ngay ở lành. Quan niệm này ảnh hưởng nhiều đến học trò của ông là
Plato khi hình thành một xã hội ý tưởng mà mãi tới nay nó còn là giấc mơ, con người vẫn
chưa làm được. Trong xã hội đó lấy nhân trị, tức là con người sống tự giác bằng một
lương tâm trong sáng được giáo dục thay vì một nền pháp trị. Ngày nay chúng ta càng
thấy rõ hơn thời xưa rằng một nền pháp trị bao giờ cũng tốt hơn một nền nhân trị. Plato
đã tin vào nền nhân trị, và ông cho rằng hễ dân học biết đường ngay lẽ phải thì dân sẽ
sống lương thiện. Chúng ta lại càng khó chấp nhận điều đó khi sống trong xã hội thực
dụng mà những thất thoát của chung lại phát xuất từ hiểu biết, từ những người có tri thức
có quyền lực trong tay. Ngay cả trên phương diện đạo đức cũng vậy, không phải cứ
người học cao biết rộng là họ sống tốt mà trái lại đôi khi chính vì sự khôn ngoan tinh xảo
của họ tạo điều kiện cho họ tìm ra những kẽ hở của lề luật, của cơ chế để lạm dụng. Tri
thức cũng có thể là con dao hai lưỡi mà tốt xấu là do người sử dụng nó. Đúng ra chúng ta
phải tin rằng, một nước hùng mạnh là một nước có pháp luật đầy đủ, chi phối từng sinh
hoạt của con người, và đó cũng thể hiện văn minh của một quốc gia.
Đối với xã hội, giáo dục vẫn phải giữ phần quan trọng là đào tạo những con
người, nhưng con người ấy phải vừa có đức vừa có tài. “Tri thức và nhân đức là một”
cũng có nghĩa là Socrates quá đề cao tri thức và như vậy đồng nghĩa với đề cao kẻ có học
59 Rm 7,15.
Page | 54
mà khinh dể, coi thường kẻ ít học. Chính do điểm này mà trong xã hội Plato khi kế thừa
tư tưởng của thầy mình, ông đã phân cấp rõ ràng người có học được coi là khôn ngoan và
những người không được học. Quyền hành cai trị và ngay cả việc truyền sinh duy trì nòi
giống cũng do những người tri thức, còn tầng lớp người ít học thì dần dần “diệt chủng”
trong xã hội Plato. Đây là mặt hạn chế mà ngày nay được xét như một tội ác liên quan
đến nhân phẩm con người.
Chính việc đồng hóa tri thức và đức hạnh là bài học có ảnh hưởng rất lớn đến
nhiều thế hệ. Những ảnh hưởng đó là minh chứng khẳng định phần nào chân lý xác thực
của nó. Tuy nhiên, một lý thuyết dù hay đến đâu, triết lý đến đâu cũng có những hạn chế
nhất định của nó. Hạn chế, đơn giản là vì những tư tưởng đó xuất phát từ con người giới
hạn. Ta biết rằng từ cái giới hạn không thể sản sinh ra cái vô hạn, cái tuyệt đối. Dù tư
tưởng của Socrates có uyên thâm đến mấy thì cũng chẳng phải là Kinh Thánh hay những
gì được đón nhận từ mặc khải. Lý thuyết đó chỉ đúng trong không gian và thời gian nhất
định. Nó không thể hoàn toàn phù hợp với tất cả mọi người ở mọi thời đại và nơi chốn
khác nhau. Mọi lý thuyết phải được con người áp dụng một cách đúng đắn phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy, nếu làm sai con người sẽ gây đau khổ cho nhau và cho chính
mình. Mọi mục đích khoa học phải nhằm phục vụ con người, đưa con người tới chân,
thiện, mỹ tới những giá trị không thể thay thế. Chỉ con người có lý trí, linh hồn, tự do,
nên không thể cư xử với nhau như những phương tiện. Ngay cả dùng khoa học để đạt đến
những ý định tốt như: Tạo ra nhiều nhân tài cho xã hội bằng việc nhân bản vô tính, hay
dùng phương pháp cấy phôi phục vụ y học trong công việc kéo dài sự sống; mà ở đây giá
trị con người phải được đề cao tuyệt đối. Tri thức và nhân đức là một cũng có nghĩa là
con người biết hài hoà giữa hiểu biết và ý chí, giữa tri thức và hành động, giữa tài và đức
để đạt tới sự khôn ngoan đích thực nhằm phục vụ lợi ích thăng tiến giá trị nhân bản của
con người.
Page | 55
Chương VI
Luận Về Tri Thức và Đức Hạnh
Khi nghiên cứu vấn đề tri thức và đức hạnh theo tư tưởng Socrates, người viết
nhận rằng tuy chỉ mấy từ gói gọn nhưng nó đã bao quát toàn bộ tri thức cũng như lẽ sống
con người. “Tri thức và nhân đức phải là một”, hoặc “người ta không thể sai lầm nếu
hiểu biết cho đủ”. Điều này khiến tôi phải suy nghĩ khi nhìn lại bản thân cũng như cục
diện những gì đang diễn ra trong đời sống xã hội hôm nay.
Nếu như tri thức và nhân đức phải là một thì điều trước hết chúng ta nói đến đó là:
những khuynh hướng tách rời của quan niệm tri thức và đức hạnh ngày nay, cũng như
những tri thức không phục vụ lợi ích con người. Đó là những vấn đề nổi cộm trong xã hội
đương thời.
1. Những khuynh hướng tách rời của con người ngày nay
Cuộc sống con người như dòng sông không ngừng chảy. Có lẽ vì thế mà nhiều giá
trị truyền thống tốt đẹp cũng trôi dần và biến mất. Ngày nay người ta chỉ còn biết chạy
đua đi tìm những lối sống thích ứng với thời đại, một thời đại đề cao khoa học kỹ thuật,
một thời đại kinh tế chiếm ưu thế và con người chỉ lo hưởng thụ. Nếu tri thức và nhân
đức là một thì những giá trị cuộc sống đạo lý của cha ông truyền lại đang tan dần ra từng
mảng. Chẳng hạn, hôn nhân được coi là một liên kết bền chặt và một ý nghĩa thiêng
liêng, hai người nam nữ đón nhận cách vô điều kiện để có thể sống với nhau cả đời, thì
ngày nay người ta có khuynh hướng tách tình yêu, tình bạn, hôn nhân và tình dục thành
từng mảng độc lập. Cái thiện không còn nằm trong quan niệm tinh túy cao đẹp của văn
hoá truyền thống, mà dường như tâm thức con người luôn chiều theo khuynh hướng quay
cuồng của thời đại. Tình yêu chỉ còn là cơ hội của những cảm giác lãng mạn tức thời, để
rồi lúc quen lúc bỏ, hay thử sống với nhau mà không vương vấn bởi một ràng buộc nào
của hôn nhân. Tình dục và hôn nhân tách rời để dễ dàng hưởng thụ, mua bán. Đó là
những khuynh hướng cho thấy rằng tri thức và đức hạnh lắm lúc không đi đôi với nhau.
Page | 56
Trong xã hội Việt Nam hiện tại có không ít người, nhất là giới trẻ, họ không cần tri thức
mà cũng chẳng quan tâm đến đức hạnh. Họ sống một cách vội vàng, chạy theo những nhu
cầu thực dụng hàng ngày; và đối với họ như thế là đủ.
Cái biết của khoa học là cái khó khi giữ gìn những giá trị đạo đức khi đem ra áp
dụng. Ngày nay thuốc ngừa thai được coi là tiêu chuẩn của một xã hội văn minh. Cái văn
minh đã cướp đi tính tự nhiên thiêng liêng mà Thượng Đế đặt nơi mỗi con người. Một
cách chủ quan, hình như con người đang cướp đi sự sáng tạo của Thượng Đế. Cũng vậy
trên các phương tiện thông tin, chúng ta rất dễ dàng nhận thấy mặt trái của quảng cáo phổ
biến những thành quả của khoa học kỹ thuật mà con người phát minh. Những hình ảnh
quảng cáo “tươi mát” vô tình cũng ghi vào tâm trí người trẻ những xao động về tâm sinh
lý, dẫn đến những hành động tiêu cực cho bản thân và xã hội. Đó là một vài thí dụ điển
hình trong vô vàn bộ mặt tiêu cực của tri thức khoa học. Cứ như vậy cái biết của khoa
học dễ dàng phá hủy những nếp sống lành mạnh, những truyền thống tinh túy của một
nền văn hoá. Làm sao có thể dung hoà giữa cái biết và sống, giữa tri thức khoa học và
truyền thống đạo đức không bị lấn át nhau. Đó là những vấn đề nan giải trong xã hội
chúng ta hôm nay.
2. Mặt trái của tri thức khoa học
Sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã gây kinh hoàng cho cả thế giới. Xét về
phương diện đạo đức thì đây quả là một tội ác lớn bởi nó cướp đi nhiều mạng sống con
người. Nhưng nếu đặt vấn đề trên phương diện tri thức khoa học kỹ thuật thì đây cũng là
kết quả huy hoàng của một tính toán đầy tri thức. Bài này không dám bàn đến sự đúng sai
về mặt chính trị. Nhưng nếu tri thức và đức hạnh đi đôi với nhau thì vấn đề phải nên xét
lại.
Trở lại với tinh thần Socrates “người ta không thể sai lầm nếu họ tri thức đúng về
sự thiện”. Khó có thể nói rằng kẻ gây ra khủng bố là người không tri thức nên đã sai lầm,
mà đúng hơn tri thức ấy còn vượt lên trên những gì người ta có thể nghĩ tới. Điều quan
trọng là tri thức về sự thiện ở đây đúng hay sai, và chân lý ấy phổ quát hay chỉ là quan
Page | 57
điểm cá nhân. Có thể họ cũng được soi dẫn bởi một chân lý siêu việt của tôn giáo, hoặc ý
định của họ là phù hợp với ý muốn của Thượng Đế. Điều này vượt ra khỏi mọi lý luận
thông thường của con người. Tới đây, ta lại thấy chân lý sự thiện cũng bị uốn cong giữa
quan niệm triết học, chính trị và tôn giáo. Thế nhưng, ta phân biệt đâu là chân lý tôn giáo
và sự quá khích và cuồng tín của một số người. Chân lý tôn giáo được soi dẫn bởi một
Đấng Siêu Việt, vượt không gian và thời gian, phải có một nền giáo lý vững chắc và
những sinh hoạt mang tính chất cộng đoàn nhằm xây dựng và phát triển nền chân lý một
cách minh bạch và hướng con người đến sự thiện. Ngược lại với chân lý tôn giáo đó là sự
quá khích và cuồng tín của một số người. Một số người cuồng tín và cho rằng Đấng siêu
việt của họ đã an bài và định liệu số mệnh của họ, họ tự hủy diệt chính bản thân bằng
cách ôm bom liều chết và còn kết liễu đời mình bằng nhiều hình thức khác, vì họ cho
rằng làm như thế mới đi đúng con đường của Đấng họ cho là vị Thánh của họ. Một số
người đã có những định hướng sai lầm và lôi kéo nhiều người đi theo con đường cuồng
tín ấy.
Một lĩnh vực khác, ngày nay mạng lưới Internet trải rộng toàn cầu và những công
dụng của nó rất hữu ích cho đời sống con người. Thế nhưng người ta cũng phải điên đầu
với việc chống chọi những sự cố có thể xẩy ra do chính con người gây nên. Nếu kẻ xấu
chủ ý cài đặt những con virus có sức phá hủy mạng lưới máy tính toàn cầu. Những hệ
thống điện tử bị tê liệt, ngành hàng không mất phương hướng, các phương tiện truyền
thông không còn tín hiệu nữa. Mỗi năm người ta phải mất bao nhiêu tiền của cho tri thức
lệch lạc của kẻ xấu. Đó chính là hậu quả của cái biết và mặt trái của tri thức khoa học,
của sự tách rời giữa tri thức và nhân đức không ăn khớp với nhau.
Chú cừu Dolly của nhà bác học Ian Wilmut là sản phẩm đầu tiên của phương pháp
nhân bản vô tính đã ra đời năm 1996, chết 2003 làm bàng hoàng các nhà đạo đức, khoa
học nhân văn, tôn giáo. Một lần nữa khi dùng khoa học trong sinh sản vô tính, con người
lại cướp đi cái quyền riêng của Thượng Đế. Dolly là một con vật được sinh ra trong ống
nghiệm bằng cách nhà khoa học lấy tế bào của một con cừu cái, dùng trứng của con cừu
cái khác bóc bỏ nhân rồi đem tế bào kia gắn vào trứng rỗng. Trứng có nhân đó phát triển
Page | 58
thành phôi và lại nhờ một con cừu cái khác mang thai đẻ dùm60. Như vậy cừu Dolly được
sinh ra một cách khác thường và hoàn toàn trái với qui luật tự nhiên. Kể từ khi cừu Dolly
ra đời các phòng thí nghiệm sinh học nhiều nơi trên thế giới không ngừng tìm tòi để đưa
ra một khám phá mới hữu hiệu hơn, và người ta đã dùng phương pháp này cho chính con
người. Ngay sau khi cừu Dolly ra đời không lâu thì tại Mỹ các nhà khoa học đã đưa ra
một phương pháp sản xuất người không đầu để thu hoạch các cơ phận và để thuyết phục
dân chúng thành công của một công trình khoa học61. Tuy mới chỉ trong phòng thí
nghiệm hoặc gắn vào những mục đích y học, thế nhưng các nhà đạo đức không khỏi băn
khoăn và mạnh mẽ lên tiếng phản đối, vì biết rằng giá trị đạo đức của con người sẽ không
đúng nghĩa nếu một người sinh ra không có cha mẹ.
Tương tự, nhà bác học Einstein, người đã phát minh ra lý thuyết đưa tới việc chế
tạo bom nguyên tử, đã rất hối hận khi hai quả bom nguyên tử được ném thẳng xuống
Hiroshima và Nagazaki của Nhật Bản, cướp đi hàng vạn sinh mạng.
Như thế, nếu đặt ra trường hợp một con người được nhân bản vô tính lớn lên sẽ
đến chất vấn Ian Wilmut rằng: Ai là cha mẹ của tôi, hạnh phúc của tôi ở đâu, tôi hiện
diện ở đời này để làm gì, tôi và chú cừu Dolly có khác gì nhau không? Không biết ai sẽ là
người đứng ra chịu trách nhiệm giải đáp những thắc mắc trên? Làm thế nào để bồi đắp
được những lỗ hổng tinh thần của những con người được sinh ra bởi phương pháp nhân
bản vô tính? Cũng thế, bài học của Einstein cho ta hiểu phần nào lương tâm của những
người làm tri thức khoa học, họ đã làm việc vì yêu mến khoa học nhưng khoa học ấy lại
đưa đến tội ác. Tất nhiên những hậu quả nguy hại không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các nhà
khoa học phát minh ra, mà vấn đề còn được quyết định bởi những trật tự khác của con
người. Nhất là tùy thuộc vào những ai sử dụng những thành quả phát minh của khoa học.
Nhưng dù sao tri thức của họ cũng gián tiếp dẫn đến sự đau khổ cho con người một cách
vô tình.
60 X. Nguyễn Hồng Giáo, Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 28, tr. 63. 61 X. bài, Từ chuột không đầu đến người không đầu, Kiến Thức Ngày Nay số 276, tr. 100.
Page | 59
Tóm lại, việc đồng hóa tri thức và đức hạnh là bài học có ảnh hưởng rất lớn đến
nhiều thế hệ. Những ảnh hưởng đó là minh chứng khẳng định phần nào chân lý xác thực
của nó. Vì vậy, nếu làm sai con người sẽ gây đau khổ cho nhau và cho chính mình. Mọi
mục đích khoa học phải nhằm phục vụ con người, đưa con người tới chân, thiện, mỹ tới
những giá trị không thể thay thế. Chỉ con người có lý trí, linh hồn, tự do, nên không thể
cư xử với nhau như những phương tiện. Ngay cả dùng khoa học để đạt đến những ý định
tốt như: Tạo ra nhiều nhân tài cho xã hội bằng việc nhân bản vô tính, hay dùng phương
pháp cấy phôi phục vụ y học trong công việc kéo dài sự sống; mà ở đây giá trị con người
phải được đề cao tuyệt đối. Tri thức và nhân đức là một cũng có nghĩa là con người biết
hài hoà giữa hiểu biết và ý chí, giữa tri thức và hành động, giữa tài và đức để đạt tới sự
khôn ngoan đích thực nhằm phục vụ lợi ích thăng tiến giá trị nhân bản của con người.
3. Tôn giáo là khoa học về sự thiện
Trong xã hội hiện nay, trước những vấn đề đang được đặt ra do tiến bộ khoa học
kỹ thuật, dường như người ta chỉ chú ý đến những vấn đề thuộc khoa học tự nhiên như
nguyên tử, di truyền học hoặc những nguyên tắc để đạt mục đích kinh tế, còn những vấn
đề đạo đức có thể bị coi thường. Ngay cả về mặt tổ chức xã hội cũng như những phương
pháp khoa học, giá trị con người chưa được đề cao cho đủ. Chẳng khác nào quan niệm
của các nhà Vũ trụ luận thời trước Socrates, họ chỉ lo tìm những tri thức bên ngoài mà
không nhìn đến bản chất con người. Các giá trị khoa học kỹ thuật đã lấn át giá trị khoa
học nhân văn như triết học hay đạo đức học. Có người nói rằng, chúng ta đang sống trong
một thời đại cần nhiều nhà bác học tài giỏi để xã hội được thăng tiến, nhưng cũng rất cần
đến các nhà hiền triết, bậc khôn ngoan, các nhà đạo đức để xã hội được hài hoà và phát
triển cân đối. Vậy, vai trò của tôn giáo ở chỗ nào? Có phải Thần thánh chỉ là những ngẫu
tượng do con người đặt ra nhằm ru ngủ như Marx quan niệm, hay tôn giáo chỉ là bước
đường cùng khiến người ta chấp nhận, ráng chịu những đau khổ ở đời này để được đền
bù phần thưởng mai sau? Tôn giáo giải thích cho chúng ta thế nào những vấn đề đau khổ,
Page | 60
hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống, con người từ đâu và đi về đâu. Chính ở điểm này mà tôn
giáo cũng có thể được coi như một khoa học – khoa học về cái thiện.
Xét trên phương diện tri thức - “tri” của Đông Phương – thì hình như các tôn
giáo đều có thể trả lời những vấn đề của cuộc sống một cách khoa học dựa trên các lý
luận triết học. Tôn giáo cũng có những phương pháp khoa học của đời sống tâm linh, có
những cơ cấu tổ chức về mặt xã hội. Xét trên phương diện nhân đức “hành” thì tôn giáo
luôn dạy con người sống sự thiện và thực hành những điều hiểu biết từ niềm tin, mà cụ
thể là những lời dạy luân lý của Đấng họ tin thờ. Tôn giáo nhắm trực tiếp vào nội tâm con
người, vì thế có lẽ nó còn hữu hiệu hơn xã hội rất nhiều trong việc chế ngự cái xấu, cổ vũ
cái tốt. Có lẽ người ta không sợ dư luận hay luật pháp vì có thể che dấu hay luồn lách
được, nhưng lại e ngại sự phán xét của lương tâm khi đối diện với Đấng họ tôn thờ. Cuộc
sống rất mong manh, vượt ra khỏi hành lang là điều nguy hiểm. Đi trong hành lang vừa
khó chịu nhưng lại vừa tự do.
Giống như triết học, tôn giáo là khoa học ở chỗ giúp cho con người tìm thấy ý
nghĩa của cuộc sống, nhận ra những giá trị trong thâm sâu con người, ý nghĩa đạo lý làm
người. Nhất là mục đích tối hậu của kiếp người. Một đôi vợ chồng có những xích mích
hoặc khó có thể sống với nhau, nếu hỏi các luật sư có thể họ sẽ tách rời mỗi người một
phương để tránh những phiền toái. Các nhà chuyên môn tư vấn về hôn nhân gia đình thì
phân tích những lý do, những khía cạnh tâm sinh lý để có thể đưa đến giải hòa hay phân
tán. Còn tôn giáo thì có qui luật luân lý làm nền tảng, vừa tôn trọng những giá trị tự
nhiên, vừa khai mở một chân lý đức tin. Mọi tri thức phát xuất từ Thượng Đế sẽ đưa họ
tới hạnh phúc.
Tôn giáo khai mở tri thức cái thiện không đâu xa ngay chính trong lương tâm con
người khi đối diện với chính mình và với Thượng Đế. Ở điểm này tôn giáo có cùng quan
điểm với Socrates “tri thức và nhân đức là một”. Đây không chỉ là một phương pháp lý
thuyết mà là một lời chứng sống động. Bởi vì có những con người đã dám sống hết mình
với một “tri thức tôn giáo”, tri thức hướng về cái thiện hoàn hảo của nhân đức. Người ta
Page | 61
đặt vấn đề liệu những tri thức được nghiên cứu trong các học viện, chủng viện, thiền viện
của các tôn giáo có gì khác tri thức khoa học nhân văn tự nhiên của những người không
có niềm tin? Tri thức tôn giáo không chỉ là một kho tàng kiến thức về sự thiện về mặt lý
thuyết mà là sống cái thiện đó. Vì vậy tri thức tôn giáo có những cái hiểu của niềm tin, có
những cái biết của lòng mến của con tim mà các khoa học khác không có được. Những
con người rao giảng tri thức sự thiện họ phải hiểu biết và sống sự thiện đó. Tức là tri thức
và nhân đức phải là một. Và đó cũng là nét đặc trưng của tri thức tôn giáo.
Tóm lại, về phương diện tâm lý: tôn giáo giúp con người trở về với chính mình,
đối diện trước Thượng Đế, để sống thanh thoát nhẹ nhàng. Về phương diện nhân bản: tôn
giáo luôn mời gọi con người sống đúng cương vị làm người, tôn trọng chính mình, tương
quan với tha nhân và với Thượng Đế. Còn về mặt triết học: tôn giáo có thể trả lời những
khao khát của kiếp người, con người sống để làm gì, được sinh ra từ đâu, chết rồi đi
đâu… cùng muôn vàn những huyền nhiệm khác mà ngay cả khoa học cũng không trả lời
được. Vậy tôn giáo cũng là một khoa học – khoa học về sự thiện, tri thức về đức hạnh.
Page | 62
Kết Luận
Để đúc kết các chi tiết dệt nên con người Socrates, chúng ta ghi nhận Socrates vừa
là con người ở trong thế giới, vừa ở ngoài thế giới. Ông siêu vượt trên hết mọi người và
mọi sự bởi những đòi buộc luân lý cũng như thái độ nhập cuộc và dấn thân; nhưng đồng
thời cũng hòa lẫn với mọi người và mọi sự, bởi triết học thực thụ chỉ có thể có trong đời
thường mà thôi. Trong suốt thời Thượng Cổ, dung mạo Socrates đã được lưu giữ như một
khuôn mẫu điển hình của triết gia lý tưởng, triết gia mà cuộc sống và cái chết cũng chính
là sự nghiệp triết học. Vào đầu thể kỷ thứ II, văn sỹ Plutarque đã viết về Socrates như
sau:
“Đa số người đời hễ nói tới triết học là nghĩ ngay tới một bộ môn ở học đường,
tới những giáo trình bàn về những bản văn. Họ hoàn toàn bỏ quên một điều, đó
là một triết học không ngừng nghỉ, ngày ngày được phô diễn một cách thường
tình và bình dị (...) Socrates đã không yêu cầu sửa soạn ghế ngồi cho các thính
giả. Ông đã không ngồi trên ghế cao của giáo sư, ông đã không có thời khóa
biểu nhất định dành cho các cuộc tranh luận hoặc đi dạo với các môn sinh. Một
đôi khi ông đùa cợt với các môn sinh, có khi cùng uống rượu với họ cùng với họ
đi tham gia chiến trận. Cuối cùng ông đi vào nhà tù và uống độc dược: đó chính
là thời điểm và những hình thức sinh hoạt triết học của ông. Ông là người đầu
tiên chứng tỏ cho chúng ta rằng, bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu, trong tất cả
những gì xảy đến với chúng ta và tất cả những gì chúng ta làm, chính đời sống
thường nhật tạo điều kiện và tạo cơ hội để chúng ta có thể suy tư triết học”62.
62 X. Đậu Văn Hồng, Lịch Sử Triết Học Tây Phương Thời Thượng Cổ, 2004, tr. 50.
Page | 63
Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, đã được chứng kiến biết bao thành công
của khoa học kỹ thuật. Nhìn chung, nhờ vào sự phát triển đó mà đời sống con người ngày
càng được nâng cao về cả chất và lượng. Sở dĩ có được những bước phát triển vượt bậc
đó là nhờ vào tài năng, vào tri thức và trí tuệ của con người. Con người không ngừng phát
minh ra vô số những thứ cần thiết để đáp ứng nhu cầu cho mình. Tuy nhiên, lòng tham
của con người hình như vô đáy, không gì có thể lấp đầy được. Dù sống trong một thế giới
văn minh, con người vẫn đối xử tệ bạc với nhau. Chiến tranh, hận thù, áp bức, chia rẽ, vô
cảm vẫn tồn tại quanh ta như những vết nứt không thể hàn gắn. Đó là kết quả của việc
con người chỉ tập trung học tập nâng cao tri thức mà quên đi những giá trị nhân bản khác;
vì một khi con người được rèn luyện về mặt tri thức mà không quan tâm đến việc tu
luyện đạo đức thì người ta dễ dàng sử dụng tri thức như là công cụ để thống trị kẻ khác.
Tự bản chất con người luôn khát khao tìm kiếm những điều mới lạ, nhằm tích lũy
cho mình kho tàng tri thức càng nhiều càng tốt. Điều đó không xấu, tuy nhiên dưới bất kỳ
xã hội nào, thời kỳ nào thì đức hạnh cũng luôn là yếu tố then chốt giúp con người lập
thân và xây dựng xã hội phồn vinh vững bền. Sở dĩ xã hội bị đảo lộn, quay cuồng và tan
vỡ ra thành từng mảng vì con người chỉ chú tâm truy tìm tri thức mà không quan tâm trau
dồi nhân đức cho chính mình. Nếu chúng ta biết cách cân bằng hài hòa giữa tri thức và
đức hạnh, biết nâng cao các giá trị đạo đức cho xứng tầm của nó thì mỗi người chúng ta
sẽ biết sống tốt cho mình, sống đẹp cho người; người người sống tốt với nhau sẽ đem đến
một xã hội phồn vinh bền vững.
Quay lại với Socrates, ông cho rằng “tri thức là đức hạnh”; để hiểu được vấn đề
thiết yếu phải quay ngược thời gian về thời Cổ Đại mới hiểu được hàm ý của nó. Mũi tên
này Socrates nhắm đến hai mục tiêu – trước hết ông nhắc nhở các nhà Vũ trụ luận hãy
tạm dừng những tranh luận trái ngược và vô bổ về vũ trụ bao la, về thần thánh. Hãy quay
về với chính bản thân mình, truy tìm chân lý trong sâu thẳm tâm hồn mình. Vì chỉ như
thế ta mới có cơ hội đánh thức chính mình nhằm thoát khỏi những u mê, những khát khao
trần tục cản trở chúng ta trên con đường truy tìm chân lý sự thiện. Thứ đến, ông nhắm
vào các nhà Ngụy biện vì đã biến tri thức thành công cụ sản xuất ra của cải vật chất cho
Page | 64
chính họ. Với họ tri thức chỉ mang tính tương đối tùy theo từng người và từng hoàn cảnh
xã hội khác nhau. Với Socrates, tri thức là đức hạnh, đức hạnh được đặt trên nền tảng
vững bền bất di bất dịch đó là linh hồn thuần túy mà mỗi người đều có. Vì lẽ đó, tri thức
không thể là công cụ để mua bán trục lợi như các nhà Ngụy biện vận dụng lúc bấy giờ.
Dĩ nhiên tri thức cũng dùng để phục vụ những nhu cầu thực tế của con người, nhưng
không thế lạm dụng nó một cách thái quá; vì như thế vô tình ta cao bằng tri thức với
những giá trị vật chất khác. Có lẽ vì lý do đó mà Socrates đã đồng hóa tri thức là đức
hạnh nhằm tách biệt tri thức ra khỏi quan niệm tầm thường của các nhà Ngụy biện.
Tuy nhiên, dù ý hướng của Socrates có tốt đến đâu cũng không thể che lấp được
nhược điểm trong phát biểu của ông “tri thức là đức hạnh”. Khuynh hướng chung của
con người thuộc mọi thời đại thường dùng lý trí để nhận diện và phân tích vấn đề. Như
thế, nếu dùng duy lý trí để mổ xẻ và phân tích vấn đề một cách tận căn không khoan
nhượng ta thấy Socrates đã quá táo bạo khi đưa ra luận điểm này. Ông đã quá lý tưởng
khi đồng hóa tri thức với đức hạnh. Con người biết điều tốt sẽ làm điều tốt. Điều này
không đúng, vì con người ngoài phần lý trí để phân biệt đúng sai còn có sự tham dự của
chính ý chí khi quyết định làm hay không làm một điều nào đó. Thông thường chúng ta
hay chiều theo những dục vọng tham, sân, si của mình để quyết định hành động. Như thế,
nếu được phép sửa lời của Socrates có lẽ ta nên viết – con người biết điều tốt sẽ làm điều
tốt nếu biết từ bỏ cái tôi của mình.
Vậy, dù vẫn còn nhiều hạn chế chưa giải quyết được nhưng tư tưởng và cũng là
ước muốn của Socrates “tri thức và nhân đức là một” vẫn là sứ điệp vang dội ngàn đời lý
tưởng khao khát chân lý của con người. Chân lý ấy cũng là khát vọng chung của bất kỳ
một tôn giáo nào bởi lẽ đây là nguồn mạch chính giữa “lý trí và đức tin”, giữa mạc khải
siêu nhiên và đời sống tự nhiên, “tri – hành” đạo. Sự phát triển khoa học kỹ thuật sẽ phủ
nhận hay làm tăng thêm vẻ đẹp của đức tin tôn giáo và của từng con người chúng ta. Điều
đó mỗi tri thức tôn giáo hay các ngành khoa học nhân văn phải trả lời cho từng thời đại.
Khi tiếp nhận tri thức khoa học, con người có thể chối từ giáo lý đức tin hay được tăng
thêm nghị lực để thực hành sống đạo. Chính vì thế tương quan giữa lý trí và đức tin phải
Page | 65
là một thống nhất hài hoà. Vậy con đường tìm kiếm, học thức đóng vai trò gì trong khoa
học tôn giáo? “Mất sự trợ lực của mạc khải, lý trí đã theo những con đường nhánh, liều
mình đánh mất đi cùng đích của cứu cánh. Thiếu lý trí, đức tin chỉ là những tình cảm ủy
mị, những liều thuốc ru ngủ. Một đức tin khi đối đầu với lý trí ốm yếu nó sẽ gặp nguy cơ
để trở thành thần thoại hay mê tín. Lý trí mà không có một đức tin trưởng thành thì
không thể sẵn sàng để theo đuổi điều mới lạ và căn tính của hữu thể”63.
Trong phần cuối này, người viết không thể đem đến cho quý vị những khám phá
nào lớn lao hơn những gì đã đề cập ở phần trên. Bởi lẽ đây là vấn đề lớn mà các bậc tiền
bối trong quá khứ cũng đã từng gặp nhiều khó khăn trong công việc kế thừa và triển khai
nó. Chính vì thế người viết chỉ khơi lại những tư tưởng chủ đạo, những vấn đề nổi cộm
để tất cả mọi người tiếp tục triển khai. Vì chân lý luôn sống động; nó không dừng lại ở
bất cứ ngòi bút nào, bài luận nào, ở không gian và thời gian nào nhất định trong dòng lịch
sử. Vì thế, đề tài này cũng mở ngỏ cho quý vị tiếp tục suy tư và khám phá chân lý cho
riêng mình. Tất nhiên chân lý ấy cần được cụ thể hóa vào chính đời sống của mỗi người
chúng ta. Tri thức là đức hạnh, tri – hành hợp nhất là ở chỗ đó.
63 X. Tông Huấn, Đức Tin và Lý Trí, số 48.