hoµng anh · web viewvậy phải làm thế nào để cho ngôn ngữ báo chí có tính biểu...
TRANSCRIPT
HÀ NỘI – 2003MỤC LỤC
Lời tác giả.................................................................................................................3Trách nhiệm của nhà báo trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt...............4Các tính chất của ngôn ngữ báo chí...........................................................................8Sự đan xen khuôn mẫu và biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí..................................16Một số thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí.............21Việc sử dụng chất liệu văn học trong tác phẩm báo chí..........................................31Về cách sử dụng thành ngữ - tục ngữ trên báo chí..................................................36Chơi chữ trên báo chí..............................................................................................42Một số nét khác biệt cơ bản giữa ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học.............50Thử phân loại tiêu đề các văn bản báo chí..............................................................63Sapô trên báo chí.....................................................................................................68Sự hấp dẫn của ngôn ngữ phóng sự.........................................................................78Một số kiểu kết thúc cơ bản trong phóng sự...........................................................90Ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm báo chí..........................100Về ngôn ngữ báo phát thanh..................................................................................109Thử bàn về ngôn ngữ của người dẫn chương trình trò chơi trên truyền hình.......118Một số hạn chế về ngôn ngữ của quảng cáo trên truyền hình...............................123Thử bàn về những câu văn không phù hợp với lô gíc của tư duy trên báo chí.....129Những kiểu lỗi về chính tả thường gặp trên báo chí.............................................136Mấy kiểu lỗi về dùng từ trên báo chí.....................................................................142Những hạn chế trong việc đưa số liệu trên báo chí...............................................150Phụ lục...................................................................................................................155
Ngôn ngữ báo chí dưới góc nhìn của người biên tập.........................................155Tài liệu tham khảo.................................................................................................177
2
LỜI TÁC GIẢ
Cuốn sách này là tập hợp các bài viết của tác giả đã công bố trên các tạp
chí và các hội thảo khoa học chuyên ngành. Nó đề cập một số vấn đề khá bức
xúc nhưng chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức trong địa hạt
ngôn ngữ báo chí - một địa hạt vẫn còn hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Đó là các
vấn đề như: đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, sự kết hợp khuôn mẫu và biểu cảm
trong ngôn ngữ báo chí, cách thức tạo giá trị biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí,
sự khác biệt giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ nhân vật và
ngôn ngữ tác giả trong tác phẩm báo chí, phân loại tiêu đề các văn bản báo
chí, ... Vì đây mới chỉ là kết quả của những khảo sát bước đầu cho nên cuốn
sách không tránh khỏi có những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, tác giả vẫn hy
vọng là nó sẽ mang lại những điều bổ ích, dù chỉ nhỏ bé, cho các nhà báo, các
nhà nghiên cứu và giảng dạy về báo chí, cũng như tất cả những ai có liên quan.
Hà Nội, tháng 5 năm 2003
Tác giả
3
TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ BÁO TRONG VIỆC GIỮ GÌN SỰ TRONG
SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT
Các phương tiện thông tin đại chúng luôn có rất nhiều người sử dụng; thêm
vào đó, chúng vẫn thường được coi là mẫu mực trong việc dùng ngôn từ. Chính vì
thế các sai sót về mặt này của các phương tiện thông tin đại chúng rất nhanh
chóng trở thành sai sót chung của toàn xã hội. Và từ đây, nảy sinh một vấn đề khá
quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức: vấn đề trách nhiệm của nhà báo
trong việc nói đúng và viết đúng, nhằm góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt, và cũng có nghĩa là góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, mà
không ít nhà báo mới chỉ chú trọng phần nội dung chứ chưa để ý nhiều tới hình
thức diễn đạt thông tin. Bởi vậy, họ bỏ qua khá nhiều lỗi về ngôn từ ở mọi cấp độ:
từ, câu, đoạn văn, thậm chí ở cả bố cục toàn văn bản. Nếu điểm qua một vài tờ
báo, kể cả những tờ báo lớn, chắc hẳn chúng ta sẽ tháy rõ điều này. Không nói đâu
xa, ngay cả báo Văn nghệ, - cơ quan trung ương của Hội Nhà văn Việt Nam, diễn
đàn của các bậc thầy về sử dụng ngôn từ - cũng tương đối thường xuyên mắc phải
các lỗi như: chính tả thiếu chuẩn xác, câu thiếu thành phần nòng cốt, từ dùng
không đúng nghĩa...1 Có lẽ, chẳng cần phải luận bàn, chúng ta cũng biết là những
sai sót như vậy sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng tới mức nào. Ít nhất, chúng
cũng làm cho hiệu quả tiếp nhận thông tin của người đọc bị giảm sút. Còn cao
hơn, chúng có thể làm cho người đọc không hiểu hoặc hiểu sai vấn đề. Song, vượt
lên trên tất cả là điều như chúng tôi đã nói ở trên: những sai sót này không bị phát
hiện ( nghĩa là được xem như đúng ) và chúng lan truyền trong cộng đồng như
một thứ dịch bệnh.
Vậy nhà báo phải làm gì đây để có thể hoàn thành được trách nhiệm nặng nề
của mình trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt? Về vấn đề này, chúng
tôi có vài ý kiến nhỏ như sau:
4
1. Nhà báo cần nắm chắc các tri thức cơ bản liên quan tới việc sử dụng
tiếng Việt thuộc 4 phương diện chính là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong
cách.
Để làm được điều đó, chắc chắn chúng ta phải học một cách bài bản, nghiêm
túc. Có thể học ở trường, lớp mà cũng có thể tự học. Song dù hình thức học có thế
nào đi chăng nữa thì kết quả cuối cùng đạt được phải đáp ứng yêu cầu: nói đúng,
viết đúng. Chưa nói đúng, viết đúng thì chưa thể kỳ vọng nói hay, viết hay được.
Có những điều tưởng như rất đơn giản, nhưng nếu chúng ta không học, chúng ta
vẫn có thể bị mắc lỗi. Chẳng hạn, quan hệ ngữ đoạn trong ngôn ngữ là một vấn đề
hoàn toàn không khó, nhưng do không được trang bị kiến thức cần thiết, nhiều
nhà báo thường xuyên ngắt đoạn sai khi nói, khi đọc. Ấy là còn chưa kể đến
những mảng đầy " gai góc " thuộc phần ngữ pháp mà nếu không đầu tư thời gian
và công sức để nghiên cứu và rèn luyện, chúng ta khó có thể làm chủ được hoạt
động ngôn từ của mình.
Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Việt đúng với chuẩn mực không đồng nghĩa
với sự phủ nhận hoàn toàn những sáng tạo riêng của cá nhân. Có điều, những sáng
tạo ấy phải tuân thủ những quy luật nhất định, nghĩa là có cơ sở khoa học. Chẳng
hạn, khi tạo ra từ mới, người ta phải dựa vào những từ đã có sẵn nào đó mà có
quan hệ trực tiếp với nó về phương diện âm thanh hay ý nghĩa.
2. Nhà báo nên hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước ngoài
Có thể nói, chưa bao giờ các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài lại xuát
hiện trên báo chí tiếng Việt với mật độ dày như hiện nay. Người ta sử dụng chúng
khá tuỳ tiện, bất chấp người đọc, người nghe có hiểu được hay không. Thật phi lý
khi nhà báo là người Việt Nam, mà để hiểu được ngôn từ của họ, nhiều lúc chúng
ta phải mở từ điển song ngữ ra tra cứu. Phải chăng tiếng Việt của chúng ta nghèo
nàn tới mức phải vay mượn tràn lan như vậy? Hoàn toàn ngược lại! Tiếng Việt
của chúng ta vô cùng phong phú, và trong tuyệt đại đa số các trường hợp, có thể
tìm thấy các từ tương đương với các từ vay mượn từ tiếng nước ngoài ( thậm chí
nhiều từ tiếng Việt còn có khả năng diễn đạt khái niệm tinh tế hơn, rõ ràng hơn ).
Sở dĩ một số nhà báo không dùng từ tiếng Việt vì có lẽ họ muốn làm phong phú
5
thêm ngôn từ của mình hoặc muốn tăng cường tính biểu cảm. Đây là dự định tốt
nhưng cách làm chưa hợp lý. Sự phong phú của một chỉnh thể không thể được tạo
bởi các thành tố mới lạ nhưng lại phá vỡ tính thống nhất của nó. Tương tự, tính
biểu cảm không thể được tạo bởi các phương tiện cản trở quá trình nhận thức.
Các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài càng trở nên khó chấp nhận hơn
khi bị dùng sai, do người dùng chưa hiểu thấu đáo ý nghĩa cũng như cách đọc,
cách viết chúng. Vì lúc này chúng không chỉ gây nên những hậu quả như: làm
giảm sút hiệu quả tiếp nhận tác phẩm, tuyên truyền cho cái sai; mà còn hạ thấp uy
tín của tác giả ( người đọc, người nghe khó tránh khỏi có ấn tượng rằng anh ta là
người " sính chữ ngoại " )và bằng việc đó, hạ thấp uy tín của chính cơ quan báo
chí là nơi tác giả làm việc.
Vậy nên chỉ còn cách là hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước ngoài.
Không phải tình cờ mà Bác Hồ của chúng ta đã dặn: " Những từ không dịch được
thì phải mượn tiếng của các nước. Nhưng chỉ mượn khi thật cần thiết, và đã mượn
thì phải mượn cho đúng "2.
3. Nhà báo cần có một trình độ ngoại ngữ nhất định
Trình độ ngoại ngữ của nhà báo càng cao càng tốt. Nó mang đến cho nhà
báo rất nhiều lợi ích, nhất là trong thời kỳ đa phương hoá, toàn cầu hoá như hiện
nay. Tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ bàn đến một lợi ích trong số đó, ấy là ngoại
ngữ giúp nhà báo hiểu rõ hơn tiếng mẹ đẻ của mình, để rồi trên cơ sở ấy, có cách
ứng xử thích hợp đối với nó.
Trong thực tế, sau khi học xong một ngoại ngữ nào đó, dù muốn hay không,
chúng ta thường có sự liên hệ nhất định với tiếng Việt. Và dựa vào sự đối
chiếu ,so sánh, nhà báo có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng tiếng Việt của
chúng ta giàu đẹp chẳng kém bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Và từ đây, anh ta
sẽ có tình cảm yêu quý và thái độ trân trọng hơn đối với tiếng mẹ để của mình.
Những tình cảm và thái độ ấy, nếu được vun đắp thường xuyên, dần dần sẽ trở
thành những phẩm chất văn hoá, thành những giá trị đạo đức của nhà báo, giúp họ
trở thành những nhân tố tích cực trong cuộc đấu tranh chống những biểu hiện xem
thường, coi khinh tiếng nói và chữ viết của dân tộc.
6
Song, bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận các giá trị của ngôn
ngữ nước ngoài, mà ngược lại, phải biết tiếp thu chúng để hoàn thiện thêm cho
tiếng mẹ đẻ. Chẳng hạn, tính khoa học và tính chính xác cao của các ngôn ngữ Ấn
- Âu ( như Anh, Pháp, Nga,...) sẽ giúp cho nhà báo sử dụng tiếng Việt một cách
khúc chiết, mạch lạc, gãy gọn, tránh được sự dài dòng, cầu kỳ không cần thiết.
Như vậy, rõ ràng là hiểu biết về tiếng nước ngoài cũng góp phần quan trọng
vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Từ xưa đến nay, người ta vẫn luôn quan niệm rằng trong việc sử dụng ngôn
ngữ của một dân tộc bao giờ cũng bộc lộ tầm vóc văn hoá của nó. Mà báo chí lại
là môi trường rộng lớn nhất và được xem là mẫu mực nhất để ngôn ngữ dân tộc
hành chức. Vì thế, khẳng định trách nhiệm của nhà báo chúng ta trong công cuộc
bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiéng Việt, đồng thời đề xuất những giải pháp
để họ hoàn thành trách nhiệm ấy, là việc làm cần thiết. Hy vọng, với bài viết này,
chúng tôi sẽ nhận được nhiều ý kiến quý báu liên quan tới vấn đề trên.
Chú thích
1. Nguyễn Văn Nở, Đôi điều mong muốn về tiếng Việt trên báo Văn Nghệ,
Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 10 / 1998, tr. 11 - 14.
2. Một số ý kiến của Hồ Chủ tịch về chữ quốc ngữ và tiếng Việt, Tạp chí
Ngôn ngữ, 1970, số 3, tr.38.
( Bài in trong: Báo chí- những điểm nhìn từ thực tiễn, NXB. Văn hoá -
Thông tin, H., 2000, tập 1 ).
7
CÁC TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Hiện nay, ngôn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là một phong cách chức
năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng " phong cách là những khuôn mẫu
trong hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói quen sử dụng ngôn ngữ có
tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn bản tiêu biểu
" 1, người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ thuyết phục khác nhau, để
khẳng định là ngôn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó có vị thế ngang
hàng với các phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như phong cách khoa
học, phong cách hành chính - công vụ, phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong
cách chính luận.
Vậy đâu là các nét đặc thù của phong cách báo chí? Các nhà nghiên cứu đã có ý
kiến không thống nhất khi trả lời câu hỏi này.
Đinh Trọng Lạc, sau khi nêu rõ các đặc trưng của phong cách báo chí ( như tính
chiến đấu, tính thời sự, tính hấp dẫn ), đã chỉ ra các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí
thuộc các phương diện như từ vựng, cú pháp, kết cấu2. Theo chúng tôi, đây phần
lớn mới chỉ là các đặc điểm của một vài thể loại báo chí cụ thể, vì thế chúng chưa
đủ tầm khái quát để có thể khắc hoạ diện mạo của cả một phong cách ngôn ngữ
trong sự đối sánh với các phong cách ngôn ngữ khác.
Còn tác giả Hữu Đạt cho rằng các đặc điểm về ngôn ngữ của phong cách báo chí
bao gồm: 1. Chức năng thông báo, 2. Chức năng hướng dẫn dư luận, 3.Chức năng
tập hợp và tổ chức quần chúng, 4. Tính chiến đấu mạnh mẽ, 5. Tính thẩm mỹ và
giáo dục, 6. Tính hấp dẫn và thuyết phục, 7. Tính ngắn gọn và biểu cảm, 8. đặc
điểm về cách dùng từ ngữ ( gồm cách dùng từ ngữ và cách dùng các khuôn biểu
cảm )3. Dễ dàng nhận thấy là Hữu đạt không có sự phân định rõ ràng giữa các đặc
điểm về chức năng của thông tin báo chí và các đặc điểm về ngôn ngữ như là
phương tiện chuyển tải thông tin ấy. Chính vì thế, 8 đặc điểm mà ông đưa ra không
đồng loại, chỉ có các đặc điểm thứ sáu và thứ bảy là có vẻ xác đáng hơn cả.
Tuy nhiên, các quan niệm nêu trên của Đinh Trọng Lạc cũng như Hữu Đạt 4 cho
thấy, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, họ đều xuất phát từ góc độ
8
chức năng của nó. Đây là hướng đi hợp lý, vì chính chức năng chứ không phải bất
cứ yếu tố nào khác, quy định các phương thức biểu đạt có tính đặc thù của từng
loại hình sáng tạo.
Như chúng ta đều biết, chức năng cơ bản, có vai trò quan trọng hàng đầu của
báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập các sự kiện.
Không có sự kiện thì không thể có tin tức báo chí. Do vậy, theo chúng tôi, nét đặc
trưng bao trùm của ngôn ngữ báo chí là có tính sự kiện.
Chính tính sự kiện đã tạo nên cho ngôn ngữ báo chí một loạt các tính chất cụ thể
như:
1. Tính chính xác
Ngôn ngữ của bất kỳ phong cách nào cũng phải bảo đảm tính chính xác. Nhưng
với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì báo chí có
chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù nhỏ nhất về ngôn từ
cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin, nghĩa là có thể gây ra
những gây hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được. Chẳng hạn, sau
chuyến tháp tùng một quan chức cao cấp sang thăm trung quốc, một nhà báo đã
viết một bài phóng sự, trong đó có câu: " Chúng tôi đã chia tay với tình hữu nghị
dạt dào của hai nước Việt - Trung ". Rõ ràng, từ " với " ở đây là không thể chấp
nhận được (vì cụm từ " chia tay với..." biểu đạt ý nghĩa " từ bỏ, từ giã "), cần phải
thay nó bằng từ "trong" .
Muốn sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tuân thủ ít nhất 2 yêu
cầu. Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm vững ngữ pháp; có
vốn từ vựng rộng, chắc, và không ngừng được trau dồi; thành thạo về ngữ âm; hiểu
biết về phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự kiện có thực và nguyên dạng để
phản ánh, không tưởng tượng, thêm bớt. Hai yêu cầu này có quan hệ qua lại hết
sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà xa rời hiện thực thì ngôn ngữ có thể " kêu " những
rỗng tuếch, thiếu hơi thở ấm nóng của cuộc sống vốn là thứ có sức chinh phục
mạnh mẽ đối với độc giả. Ngược lại, biết rõ hiện thực nhưng kém về ngôn từ thì
cũng không thể chuyển tải thông tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí
đôi khi còn mắc lỗi tới mức gây hại cho người khác hoặc xã hội.
9
Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác, nhà báo không chỉ đạt hiệu
quả giao tiếp cao, mà còn góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản phẩm của báo chi đông tới mức
không xác định được và họ ( nhất là trẻ em ) lại luôn xem các cơ quan báo chí là "
ngọn đèn chỉ dẫn " trong việc dùng ngôn từ, cho nên ngôn ngữ báo chí càng hoàn
thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.
2. Tính cụ thể
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng hiện thực
được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể, phải cặn kẽ tới từng chi tiết nhỏ. Có
như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là người trong cuộc, đang
trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong tác phẩm của mình. Đoạn
trích sau đây trong phóng sự " Hai giờ dưới lòng đất " của nhà báo Huỳnh Dũng
Nhân là một minh chứng:
"...Tôi cố nén sự tự ái, ưỡn ngực tiến tới. Xì, lò thế này mà ngán gì. Đi như hầm
địa đạo Củ Chi là cùng. Nhưng... sâu dần, đen dần. Rồi tất cả biến mất. Tôi lọ mọ
đi. Hai tay sờ soạng tứ tung. Cốp! Lùn tịt như tôi mà cũng còn va đàu vào đá. Tôi
nghĩ bụng và bắt đầu đi lom khom. Mẹ ơi, chỉ còn mình tôi thôi sao? Tống, Lực
đâu rồi. Đã hết lom khom được. Phải nằm xuống, bò. Có tiếng nước róc rách.
Đường lò ướt nhẹp. Tôi vớ phải một sợi dây cáp ở đầu một cái dốc. " Bám vào -
ngửa người ra, tụt xuống! ". Một mênh lệnh vang lên. A! Tống, Lực đây rồi. Thì ra
hai anh vẫn đi sát tôi, như có vẻ cố tình thử thách nhau một tý " cho nhà báo có
thêm thực tế ". Thấy tôi thở phì phò, thợ lò bảo: " Đây là lò ngắn nhất và dễ nhất
mỏ Mông Dương đấy! Dễ nhất! Tôi suýt la lên. Cả tiếng đồng hồ mới lấy được vài
xe goòng than đá. Dễ nhất mà thợ lò phải bò như những con rắn mối trong hang".
Một bức tranh chân thực và sinh động đã được tạo dựng nhờ sự miêu tả một loạt
các hành động, các cảm giác cụ thể của tác giả. Khi đọc đoạn văn trên, độc giả
thấy mình như cũng đang trải qua một cuộc hành trình đầy gian nan, vất vả dưới
lòng đất. Và đây chính là khởi nguồn của niềm cảm thông sâu sắc với nỗi cực nhọc
trong côngviệc của những người thợ lò.
10
Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí còn nằm ở việc tạo ra sự xác định
cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện được đề cập trong
tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với một không gian, thời gian xác định; với
những con người cũng xác định ( có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính... cụ
thể ). Đây là cội nguồn của sự thuyết phục, vì nhờ những yếu tố đó người đọc có
thể kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngôn ngữ báo chí nên
hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ, cấu trúc không xác định hay có ý nghĩa mơ hồ
kiểu như " một người nào đó ", " ở một nơi nào đó ", " vào khoảng ", " hình như " ,
v. v...
3. Tính đại chúng
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội,
không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi, giới
tính..., đều là đối tượng phục vụ của báo chí: đây vừa là nơi họ tiếp nhận thông tin,
vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì thế, ngôn ngữ báo chí phải là
thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập rộng rãi. Tuy
nhiên, phổ cập rộng rãi không có nghĩa là dễ dãi, thấp kém. Vì, nói như nhà nghiên
cứu ngôn ngữ báo chí nổi tiếng người Nga V. G. Kostomarov: " Ngôn ngữ báo chí
phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức
uyên thâm nhất cũng không cảm thấy chán và một em bé có trình độ còn non nớt
cũng không thấy khó hiểu "5.
Với ngôn ngữ không có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho một đối tượng hạn
hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện được chức năng tác động vào mọi tầng
lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý do khiến cho
trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên ngành hẹp, các từ
ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài.
4. Tính ngắn gọn
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng có thể làm loãng thông
tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm vào đó, nó
còn làm tốn thời gian vô ích cho cả hai bên: cho người viết, vì anh ta sẽ không đáp
ứng được yêu cầu truyền tin nhanh chóng, kịp thời; cho người đọc ( người nghe ),
11
vì trong thời đại bùng nổ thông tin, người ta luôn cố gắng thu được càng nhiều
thông tin trong một đơn vị thời gian càng tốt. Đấy là còn chưa kể đến việc viết dài
dễ mắc nhiều dạng lỗi khác nhau, nhất là các lỗi về sử dụng ngôn từ ( thực tế khảo
sát của chúng tôi cho thấy một tỉ lệ khá lớn các câu sai về ngữ pháp trong các tác
phẩm báo chí có liên quan tới việc nhà báo quá ham mở rộng các thành phần phụ
mà quên mất các thành phần chính của câu ).
Câu nói nổi tiếng của đại văn hào Nga A. P. Chekhov có lẽ chính xác hơn cả với
phong cách ngôn ngữ báo chí: " Ngắn gọn là chị của thành công "6.
5. Tính định lượng
Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngôn từ vì chúng thường bị giới hạn
trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, việc lựa chọn và
sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh được đầy đủ
lượng sự kiện mà không vượt quá khung cho phép vè không gian và thời gian.
Hiện tại, không ít báo yêu cầu phóng viên, cộng tác viên khi viết bài không được
phép vượt quá một lượng chữ nhất định. Đối với những bài " không đặt trước "
biên tập viên buộc phải chỉnh lý, cắt xén cho thích ứng với việc công bố. Rồi ngay
trong số các cơ sở đào tạo nhà báo cũng có không ít nơi, khi tuyển sinh, đòi hỏi đối
tượng dự thi phải thử nghiệm khả năng định lượng của mình thông qua việc viết
một hay một số văn bản với độ dài cho sẵn.
Tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp cho nhà báo rèn luyện được thói
quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm. Nhờ đó, họ có thể dễ dàng thích nghi
với mọi điều kiện thời gian cũng như không gian được dành cho việc công bố
chúng.
6. Tính bình giá
Các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các sự kiện, mà còn phải thể
hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thông qua sự bình giá ( có lẽ
trong các thể loại báo chí chỉ có tin vắn, tin ngắn là không có tính bình giá, tức là
tác giả thể hiên sắc thái biểu cảm trung tính ). Sự bình giá này có thể là tích cực mà
cũng có thể là tiêu cực, song trong bất kỳ tình huống nào nó cũng được biểu đạt
trực tiếp qua ngôn từ.
12
Chẳng hạn, có nhiều bài báo đã bộc lộ rõ thái độ, cảm xúc của tác giả ngay từ
tiêu đề như: " Góc tối ở thành phố cảng ", " Bông hoa Thủ đô giữa núi rừng Tây
Bắc ", " Lặng lẽ quá ... liên hoan phim ", " Giai điệu buồn của một đêm nhạc trẻ ",
" Đó cũng là một cách sống đẹp "...Còn trong các phần khác ( cả mở đầu, triển khai
lẫn kết thúc ) những câu văn mang sắc thái đánh giá của người viết còn gặp thường
xuyên hơn, nhất là ở các thể loại như bình luận, xã luận, phóng sự, ghi chép, ký...
7. Tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ, lối
nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó sinh động hấp dẫn hay
ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả. Ví dụ:
" Ở những " cua " cấp tốc, chuyện thầy viết lia lịa lời giải ở trên, trò cắm cổ
chép như chép chính tả ở dưới vì không có thời gian giảng là " chuyện thường
ngày ở huyện ". ( Hà Nội mới cuối tuần, 18 / 4 / 1998 );
" Sông Tô mà không lịch ". ( Văn hoá, 17 / 5 /1999 ).
Nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí là vô cùng phong phú và đa
dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao..., là sự vay mượn các
hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ thuật, là lối chơi chữ,
nói lái, dùng ẩn dụ, v. v...hay chỉ đơn giản là việc thể hiện sự bình giá có tính chất
cá nhân7.
Nếu ngôn ngữ báo chí không có tính biểu cảm, những thông tin khô khan mà nó
chuyển tải khó có thể được công chúng tiếp nhận như mong muốn, vì chúng mới
chỉ tác động vào lý trí của họ. Chính tính biểu cảm vốn là hiện thân của cái hay, cái
hấp dẫn mới là nhân tố tác động mạnh mẽ tới tâm hồn của người nghe, người đọc,
làm cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định, để rồi từ đó thực hiện
những hành động mà người viết vẫn chờ đợi.
8. Tính khuôn mẫu
Trước hết, cần phải làm rõ khái niệm " khuôn mẫu ". Đó là những công thức
ngôn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hoá quy trình thông tin,
làm cho nó trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn
nghĩa và mang sắc thái biểu cảm trung tính. Chúng bao gồm nhiều loại và có mặt
13
trong nhiều phong cách chức năng của ngôn ngữ. Chẳng hạn trong văn phong báo
chí, khi viết các mẩu tin, người ta thường dùng các khuôn mẫu như:
- Theo AFP, ngày...tại...trong cuộc gặp gỡ...Tổng Bí thư...đã kêu gọi...
- TTXVN, ngày...người phát ngôn Bộ Ngoại giao... cho biết...
Giao tiếp báo chí không thể thiếu khuôn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và công
sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức thời.
Song, khác với khuôn mẫu trong văn bản hành chính và văn bản khoa học,
khuôn mẫu báo chí không cứng nhắc, bất di bất dịch mà rất linh hoạt, uyển chuyển.
Chẳng hạn, một thông tin trên báo về nguyên tắc phải thoả mãn 6 câu hỏi: Ai? Cái
gì? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao? nhưng thứ tự trả lời cho các câu hỏi đó
có thể được sắp xếp khác nhau tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Bên cạnh đó, các thành tố khuôn mẫu trong ngôn ngữ báo chí lại luôn kết hợp
hài hoà với các thành tố biểu cảm cho nên ngôn ngữ báo chí thường rất mềm mại,
hấp dẫn chứ không khô khan như ngôn ngữ trong văn bản khoa học và văn bản
hành chính, là nơi người ta chỉ sử dụng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà
thôi.
Trên đây là một số tính chất cơ bản của ngôn ngữ báo chí. Với những tính chất
đặc thù như vậy, ngôn ngữ báo chí hoàn toàn có đủ tư cách để được xem là một
phong cách chức năng trong ngôn ngữ.
Chú thích
1. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt, NXB. Giáo dục, H., 1997, tr.19.
2. Đinh Trọng Lạc, Sđd., tr. 98 - 111.
3. Hữu Đạt, Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt, NXB.
Văn hoá - Thông tin, H., 2000, tr. 224 - 248.
4. Khi bài viết này được công bố, cuốn " Ngôn ngữ báo chí " của nhà nghiên cứu
Vũ Quang Hào còn chưa được xuất bản. Tác giả cuốn sách đó cho rằng đặc điểm
nổi bật nhất của ngôn ngữ báo chí có khả năng chế định phong cách của nhà báo là
sự " chệch chuẩn ". Không xem ngôn ngữ báo chí là một phong cách chức năng
14
riêng, ông đi sâu vào khảo sát 3 phong cách chức năng, mà theo ông, báo chí
thường sử dụng là: phong cách chính luận, phong cách khoa học và phong cách
hành chính.
Xem: Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB. Đại học quốc gia, H., 2001.
5. Kostomarov V. G., Tiếng Nga trên trang báo, M., 1978, tr. 62 ( bằng tiếng
Nga ).
6. Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX, M., 1984, tr. 287 ( bằng tiếng Nga).
7. Vấn đề này chúng tôi trình bày khá cụ thể trong bài " Những thủ pháp nhằm
tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí ".
( Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 3 / 2001 )
15
SỰ ĐAN XEN KHUÔN MẪU VÀ BIỂU CẢM TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Việc trình bày hay lập mã thông tin được thực hiện khác nhau trong các lĩnh
vực giao tiếp khác nhau. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sản xuất - công nghệ người ta
thường dùng lối miêu tả kê khai: Tên gọi ... Đặc điểm... Trọng lượng .... Chức năng
... Người sản xuất...
Dưới đây là những dòng chữ được ghi trong một giấy chứng nhận sáng chế:
" Chiếc đèn nháy điện tử có tên gọi là " Electron " do nhà máy điện quang
Washington sản xuất là một dụng cụ có trọng lượng 250 g, có khả năng phát sáng
với công suất 20 j và làm việc nhờ hệ thống ắc qui ".
Song, vẫn thông tin nói trên, khi được đưa trên một tờ báo, lại có dạng thức như
sau:
" Một trong những nhà máy điện quang của Washington đã tạo nên một sự bất
ngờ thú vị cho những người yêu thích chụp ảnh. Ngọn đèn nháy điện tử " Electron
" nặng chỉ vẻn vẹn có 250 g. Tia chớp xinh xắn này làm việc nhờ hệ thống ắc qui
có thể nạp được điện từ những ổ cắm thông thường ".
Dễ dàng nhận thấy là thông tin trên báo sinh động và hấp dẫn hơn nhiều so với
những gì được ghi trên giấy chứng nhận sáng chế.
Nguyên nhân thật đơn giản: Trong ngôn ngữ báo chí, người ta đã đan xen một
cách hài hoà các thành tố khuôn mẫu với các thành tố biểu cảm; còn trong ngôn
ngữ có tính chất kê khai của một giấy chứng nhận sáng chế, người ta chỉ dùng
thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi.
Nếu so sánh các phong cách chức năng trong ngôn ngữ về phương diện quan hệ
giữa khuôn mẫu và biểu cảm, chúng ta nhận thấy: Trong phong cách hành chính -
công vụ và phong cách khoa học, tính khuôn mẫu của cách thức diễn đạt đạt tới
mức tối đa, nghĩa là không còn chỗ cho các thành tố biểu cảm. Trong phong cách
văn học nghệ thuật, tính biểu cảm chiếm ưu thế so với tính khuôn mẫu; đặc biệt,
trong một số tác phẩm thơ, tính biểu cảm có thể đạt tới mức tối đa. Riêng trong
16
phong cách báo chí - chính luận, tính khuôn mẫu và tính biểu cảm của ngôn từ nằm
trong quan hệ tương đối hài hoà, cân bằng.
Các trường hợp đan xen khuôn mẫu và biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí, nhìn
chung, có thể chia thành 3 kiểu chính như sau:
1. Đan xen trong phạm vi câu
Đây là sự đan xen ( chủ yếu là giữa các từ ) trong nội tại câu. Ví dụ:
"Không giống như nhiều tập đoàn khác bỏ hàng núi tiền để giành một suất
quảng cáo trên truyền hình hay các phương tiện thông tin đại chúng, Piaggio chơi
kiểu khác " độc " hơn và " cao tay " hơn: Đổ tiền vào sản xuất các bộ phim hay và
khéo léo lồng thương hiẹu của mình vào. Sau khi bộ phim " Kỳ nghỉ thành Rôma "
được trình chiếu ( 1954 ) với hai ngôi sao Gregorg và Herburrn luồn lách ngang
dọc trên các đường phố Rôma cùng con ong xinh xắn ( Vespa - tiếng ý có nghĩa là
con ong ), thì Vespa trở thành biểu tượng của nước ý ". ( Tuổi trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh, 10 / 7 /2001 );
" Nhưng “chảo dầu sôi " trên sân Vinh với gần 3 vạn khán giả cuối cùng cũng
"nấu chín " đội Công an Hà Nội ". ( Lao động, 31 / 3 /2000 );
" Công - coóc từ trước đến nay vẫn được coi là phi cơ quý tộc vì những tiện
nghi và các ưu thế kỹ thuật " độc nhất vô nhị " của nó. ( Quân đội nhân dân, 3 / 9 /
2000 );
" Faustino asprila, " mũi tên đen " hay gây tranh cãi của Clombia mới đây thổ lộ
rằng... anh sẵn sàng từ chối một bản hợp đồng hàng triệu đô la tại một vương quốc
dầu lửa và muốn kết thúc sự nghiệp của mình tại đội " thường thường bậc trung "
Tutu của thành phố quê hương ". ( Thể thao và Văn hoá, 12 / 9 / 2000 );
" Lành mạnh " nhất trong các chiêu lôi kéo khách của những quán cà phê kiểu "
tục " là cho tiếp viên ... khoe " của ". ( Người lao động, 16 / 8 /2000 ).
2. Đan xen trong phạm vi đoạn văn
Đay là sự đan xen giữa các câu với nhau. Ví dụ:
" Trước hết, nợ của Chính phủ Nhật Bản rất cao, khoảng 9,3 % GDP hàng năm.
Đây là một quả bom nổ chậm đang ẩn trong nền kinh tế Nhật ". ( Hà Nội mới cuối
tuần, 21 / 12 / 1998 );
17
" Đảo đèn Long Châu đã dược phong danh hiệu anh hùng năm 1972. Người ta
gọi nó là " con mắt ngọc " của biển Đông ". ( Lao động, 11 / 4 /1998 );
" Hầu hết các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng và các Phó Giám đốc, Trưởng
và các Phó ban đều làm việc chính tại Hà Nội. Đầu tuần, tất cả đều xuống Quảng
Ninh họp giao ban với một xe tuyến và gần hai chục xe con dành riêng cho các "
sếp ". ( Văn nghệ trẻ, 20 / 8 /2000 );
" Tuy nhiên, theo các nhà quan sát, mọi sự nói vậy mà không hẳn đã là vậy.
Trong chương trình làm việc mới được đưa ra kèm theo khoản viện trợ cả gói cho
kế hoạch " Cô - lum - bi - a ", Oa - sinh -tơn thực chất đã thay đổi một cách căn
bản nguyên tắc phối thuộc cùng Bô - gô - ta trong cuộc đấu tranh chống lại nạn
buôn bán ma tuý. Từ nay trở đi, người Mỹ không chỉ đứng đằng sau quân đội Cô -
lum - bi -a, mà với vai trò cố vấn huấn luyện, sẽ thực sự và trực tiếp nhúng tay vào
công việc nội bộ của Cô - lum - bi -a ". ( Quân đội nhân dân , 10 / 9 /2000 )...
3. Đan xen trong phạm vi kết cấu toàn văn bản
Ở đây, các thành tố biểu cảm được sử dụng để xây dựng những mảng màu đối
lập ở bậc kiến trúc của toàn bài. Đó có thể là:
a, Đối lập giữa tiêu đề với nội dung, ví dụ:
Nắm người có tóc
Trong vòng vài ngày qua, Đà Nẵng gần như chấm dứt hẳn nạn ùn tắc giao
thông vào các giờ tan học, tan tầm. Hiệu lực chỉ thị nghiêm cấm học sinh không
được đi học bằng xe gắn máy, mô tô của chính quyền, nhằm vãn hồi trật tự giao
thông trên đường phố có tác dụng thấy rõ. Gần chục ngàn học sinh của 7 trường
phổ thông trung học đã tự giác đến trường bằng xe đạp thay vì xe máy như trước
đây. Có thể nói đây là hiện tượng tích cực mà mà Đà Nẵng là một trong số rất ít
đô thị trong cả nước hiện nay làm được nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông đang
có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ trên khắp các địa phương trong cả nước... ( Lao
động, 13 / 1 / 2003 ).
18
Khôn ngoan chẳng lọ thật thà
Hai vợ chồng giàu có vào bậc nhất phố tôi, dạo này buồn rười rượi, rất năng
đi chùa lễ Phật. Hàng xóm thạo tin kháo nhau: Nhà ấy phất nhờ đánh hàng lậu
biên giới, vừa bại quả lớn, may mà không phải vào tù. Trời có mắt cả, được cái
này mất cái kia, lắm tiền " đen ' nên thằng con đầu đi xe máy ngã, cưa mất một
chân, thằng thứ hai, nghiện hút đang đi cai... ( Hà Nội ngày nay, số 8 / 1999 ).
b, Đối lập giữa phần mở đầu và phần triển khai, ví dụ:
" Lại nói Tôn Sách là con Tôn Kiên muốn nối chí cha xưng hùng xưng bá ở
Giang Đông, nhưng hiềm một nỗi là không có binh mã. Thủ hạ của Sách hiến kế
rằng: " Tướng quan nên đem ngọc tỷ của Tôn Phụ để lại, thế chấp cho Viên Thuật,
lấy quân mà thu phục Giang Đông ". Sách nghe theo. Viên Thuật giao cho Sách
3000 quân và 500 ngựa chiến để đổi lấy ngọc tỷ truyền quốc. Có quân mã trong
tay, lại được Chu Du giúp mẹo mực, chẳng bao lâu Tôn Sách đã làm chủ cả một
vùng Giang Đông rộng lớn ".
Nay trở lại quy chế lên bán chuyên nghiệp do LĐBĐVN đề ra cho các đội bóng
muốn tham dự.." ( Lao động, 21 / 7 /2000 ).
c, Đối lập giữa phần triển khai và phần kết thúc, ví dụ:
" Thiết nghĩ, Kodak là một công ty lớn, việc kinh doanh đã có uy tín, thương
hiệu sản phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới, nhưng qua kiểu làm ăn " đánh trống
rồi... cất luôn dùi với VAFACO như vừa nêu gây thiệt hại cho đối tác hàng chục tỷ
đồng, đã tự hạ uy tín của mình và chứng tỏ " ông chủ lớn " đôi khi chỉ vì muốn thu
lợi cho nhiều mà tính toán rất " nhỏ "...
Rõ là:
" kinh doanh có ba, bảy đường
Anh chơi kiểu ấy khó lường về sau
Nên lấy chữ tín làm đầu
Giữa đường phản phé thì mau... sụp hầm ". ( Công an Thành phố Hồ
Chí Minh, 26 / 8 / 2000 ).
Thực tế khảo sát cho thấy, hầu hết các tác phẩm báo chí ( cho dù chúng có
thuộc về bất cứ thể loại nào ) đều sử dụng sự đan xen khuôn mẫu và biểu cảm như
19
là nguyên tắc cấu tạo về ngôn ngữ, song, tất nhiên là với mức độ và cách thức
không giống nhau. Chỉ trong một số dạng tin thời sự phản ánh các sự kiện chính trị
- xã hội quan trọng ( hoạt động của các nhà lãnh đạo, các cơ quan quyền lực cao
cấp của đất nước ) là có vẻ thiếu vắng các thành tố biểu cảm. Tuy nhiên, theo
chúng tôi thì ở ngay các tin kiểu này cũng không nên phủ nhận hoàn toàn vai trò
của việc đan xen khuôn mẫu và biểu cảm, mà ngược lại, phải biết hướng tới nó,
biết vận dụng nó một cách mềm mại, sao cho vừa không làm phương hại đến tính
khách quan của thông tin, vừa giúp cho độc giả phần nào bớt được cảm giác là
mình đang phải đọc một thông báo khô khan. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó khi
đọc các tờ báo lớn, thu hút được một lượng độc giả đông đảo, của nước ngoài.
Vậy phải làm thế nào để cho ngôn ngữ báo chí có tính biểu cảm? Hay nói cụ
thể hơn, là làm thế nào để tăng cường giá trị biểu cảm cho các thành tố ngôn ngữ
được dùng trong tác phẩm của anh? Bài viết tiếp sau của chúng tôi sẽ phần nào giải
đáp cho câu hỏi không dễ dàng này.
( Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 6 / 2000 )
20
MỘT SỐ THỦ PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG TÍNH BIỂU CẢM
TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Như chúng ta đều biết, chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí là thông tin.
Nhưng nếu trong ngôn ngữ báo chí người viết chỉ dùng các từ ngữ, cách diễn đạt
có tính chất khuôn mẫu để phản ánh các sự việc, hiện tượng, vấn đề,... thì thông tin
khó tránh khỏi khô cứng, đơn điệu, thậm chí tẻ nhạt. Để khắc phục các nhược điểm
này, các tác giả đã sử dụng khá nhiều những thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu
cảm khác nhau; và nhờ đó, thông tin của họ trở nên sinh động, hấp dẫn, dễ đọc và
dễ tiếp thu hơn đối với độc giả. Qua khảo sát sơ bộ, các thủ pháp nhằm tăng cường
tính biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí có thể chia thành một số loại chính như sau:
1. Dùng từ ngữ hội thoại
Từ " hội thoại " ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là nó không chỉ bao hàm
các từ thuộc vốn từ vựng của ngôn ngữ văn hoá được dùng đặc biệt trong lời nói
miệng, trong sinh hoạt hàng ngày, mà còn gồm cả một số từ thông tục và từ lóng,
vì những từ thuộc hai loại sau này cũng chỉ được chuyên dùng trong khẩu ngữ. Ví
dụ:
" Bằng cấp đầy người, anh vẫn chỉ là một nhân viên quèn ". ( Hà Nội mới chủ
nhật, 22 / 11 /1998 );
" Đã qua ngày rằm mà nhiều công sở vẫn còn vắng hoe. Điện thoại réo mệt nghỉ
vẫn không có ai trả lời ". ( Nhà báo và Công luận, số 10 / 1998 );
" Vòng đấu thứ 17 là vòng đấu " bốc mùi " nhất kể từ đầu giải. Những quan sát
viên khẳng định rằng cách mà Thừa Thiên - Huế " chết " trên sân Hà Nội còn " thô
" hơn so với cách mà Công an Hà Nội đã " nằm " trên sân Tự Do - trận đấu mà
BTC giải đã lôi hai đội ra " chém ", và bị dư luận phản ứng về cách " chém " nửa
vời ". ( Lao động, 25 / 5 /2001 );
21
" Thực tế thì Tú chẳng có xu gỉ nào để góp vốn ". ( An ninh thế giới, 6 / 3 /
1998 );
" Tôi... vội nháy anh bạn đồng nghiệp uống một hơi hết cốc cà phê đen, hấp tấp
nổ xe máy, dông thẳng ". ( lao động, 4 / 3 /1998 )...
Hiện nay, xu hướng chung trên thế giới là hội thoại hoá ngôn ngữ báo chí để nó
đơn giản hơn, gần gũi hơn với cuộc sống thường ngày. Chính vì thế, từ ngữ ( và
thậm chí cả cú pháp ) của ngôn ngữ hội thoại được dùng để tăng cường tính biểu
cảm trong các bài viết ngày càng phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên, hội thoại hoá ngôn ngữ báo chí không có nghĩa là chúng ta được
phép bê nguyên xi ngôn ngữ đời thường với tất cả cái dáng vẻ thô ráp, xù xì, gai
góc của nó vào trong tác phẩm báo chí. Vì dù thế nào đi chăng nữa, ngôn ngữ trên
trang báo phải là một thứ ngôn ngữ đã được gọt giũa, được trải qua sự nhào nặn
của tác giả và phải đạt tới một sự chuẩn mực nhất định về văn hoá. Vì thế, tình
trạng lạm dụng quá mức các từ ngữ thuộc tiếng lóng hay các từ ngữ thô tục đang
diễn ra ở một số nhà báo và ở một số tờ báo ( nhất là các tờ báo dành cho thiếu
niên nhi đồng ) là rất đáng lo ngại, cần được quan tâm đúng mức và không chậm
trễ1.
2. Dùng từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài
Những từ ngữ dược vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu có thể được giữ nguyên
dạng hay phiên âm. Ví dụ:
" Hơn một chút... họ sẽ là " Speaker " ( văn hoá, 18 / 1 /1998 );
" Tôi thấy không ít người giản dị mang những bộ đồ rát đẹp nhưng quả thực dó
không phải là cái đẹp modern hiện đại mà một nét đẹp rất riêng, cái đẹp của một
phong cách giản dị ... " ( Văn hoá- Tết 1999 );
" ... Ông ta không làm cho một tờ báo cụ thể nào mà chỉ hợp tác làm những
chuyên san về đời tư nghệ sỹ, thậm chí còn bới móc hay lăng xê vô tội vạ cho một
ai đó với mục đích chỉ là để ... có tiền " ( Tiền Phong, 21 / 5 / 2002 );
" Tôi vốn không thích táo nhưng thấy táo ngon mua vài quả dùng làm đét xe
cho bữa cơm chiều " ( Lao động, Xuân Mậu Dần, 1998 )...
22
Trong số các từ được vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu, có khá nhiều từ đã
phần nào thích nghi với chuẩn mực của tiếng Việt cho nên được sử dụng khá rộng
rãi. Tuy nhiên, người ta vẫn dẽ dàng nhận thấy cái nguồn gốc ngoại loại của
chúng, chẳng hạn như: apphe, xêmina, makettinh, kiôt...
Còn các từ Hán - Việt thì được dùng quá phổ cập và đã trở thành một bộ phận
không thể thiếu của tiếng Việt. Song, không vì thế mà người ta không nhận thấy
khả năng tăng cường tính biểu cảm của chúng. Ví dụ:
" Quý hồ tinh bất quý hồ đa " ( Văn hoá, 25 / 2 /1998 );
" Về phía chủ quan, cũng nên thẳng thắn nhìn nhận những yếu kém, bất cập của
ta trong lĩnh vực này ..." ( Tuổi trẻ Thủ đô, số 6 / 1998 )...
Việc sử dụng các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài cần có chừng mực để
tránh gây phản cảm cho người đọc, vì sự xuất hiện quá nhiều các từ không thuần
Việt trong một văn bản báo chí không chỉ làm cho ngôn ngữ của nó có vẻ không
trong sáng mà còn tạo ấn tượng rằng người viết muốn " khoe chữ ". Bên cạnh đó,
những từ ngữ được lựa chọn phải có những ưu thế thật sự nổi trội so với các từ
hoặc những cách diễn đạt tương đương trong tiếng Việt ( Chẳng hạn như diễn đạt
khái niệm rõ ràng, đầy đủ, chính xác hơn; hoặc có vỏ âm thanh nghe gợi cảm
hơn ) và đồng thời phải tương đối quen thuộc đối với công chúng ( tức được dùng
thường xuyên trong giao tiếp ) để không gây cản trở gì đáng kể cho quá trình nhận
thức của độc giả.
3. Dùng thuật ngữ
Các thuật ngữ, xét theo tự thân, là những từ trung tính, tức không mang sắc thái
biểu cảm. Thế nhưng, khi được kết hợp hài hoà với các từ khuôn mẫu, chúng lại
có khả năng tăng cường tính biểu cảm rất đáng kể. Ví dụ:
" Với biểu tượng về sức mạnh vô song, hổ là hình ảnh để nói sự đứng đầu xuất
chúng: chúa sơn lâm. Bằng tư duy, bằng hành động thực tiễn, con người luôn văn
hoá hoá thế giới xung quanh" ( Ngôn ngữ và Đời sống, số 2 / 1998 );
" Sự thành công của những hạng mục đầu tiên sẽ tạo nên sự hấp dẫn, thu hút các
nhà đầu tư vào liên doanh, liên kết để có thể triển khai dự án " ( Nhân dân hằng
tháng, số 5 / 1998 );
23
" Ít thích lý luận trừu tượng, tự biện, kinh viện, giàu óc thực tế, nắm bắt nhanh
kỹ thuật, gắn lý luận với tình cảm, về gần cái chân chất, bình dị...đó cũng là nét
khu biệt của văn hoá Nam Bộ " ( Thể thao và Văn hoá, Xuân Mậu Dần / 1998 );
" Đây là một bước ngoặt vì từ trước đến nay đảng LDP cầm quyền vẫn chủ
trương cắt giảm thâm thủng ngân sách bằng mọi giá " ( Hà Nội mới cuối tuần, 21 /
2 /1998 )...
Hiện nay, do khoa học kỹthuật phát triển mạnh, nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới
ra đời, cho nên số lượng thuật ngữ gia tăng nhanh chóng và chúng xuất hiện với
mật độ ngày càng dày trên các báo.
4. Dùng từ ngữ địa phương
Các từ ngữ địa phương luôn mang đậm dấu ấn riêng về lời ăn tiếng nói của một
cộng đồng người gắn liền với một vùng đất, vì thế chúng làm cho câu văn có sắc
thái mới lạ, đôi khi khá giàu sức gợi.
Các từ ngữ địa phương có thể gặp trong ngôn ngữ của tác giả cũng như trong
ngôn ngữ nhân vật. Ví dụ:
"Ước mong sao đến đâu ta cũng gặp những cái chạnh ( xóm, tiếng Nghệ An -
H A.) như ở Liên Trì, bắt gặp những con người từ chạnh ra đi " ( Lao động, 4 / 4 /
2002 );
" Huế ơi, biết về mô bây chừ? " ( Gia đình, số 5 / 2000 );
" Bà Ngô Thị Của ( 67 tuổi ) - Hội trưởng Hội Phụ nữ làng cố giấu sự xấu hổ":
" Đúng là có chuyện đó thiệt, cũng là do đời sống mà ra cả. Nói mô xa, chỉ nhìn
sang mấy làng bên tê núi là đêm nằm tủi thân muốn khóc hết nước mắt. Nhưng nói
gì thì nói, mấy chục năm giải phóng lên, làng Cổ Dù đã thay đổi nhiều lắm rồi.
Trước phần vì đói, phải ăn độn, phần vì uống nước đục, gái trai, già trẻ làng ni đều
bụng phình to như bụng chửa, mặt bủng, da chì " ( Lao động, 20 / 3 / 2003 );...
Dễ dàng nhận thấy là trong ngôn ngữ nhân vật, từ ngữ địa phương xuất hiện
một cách tự nhiên như là sự phản ánh chân xác lời ăn tiếng nói của họ, vì thế tính
biểu cảm của chúng có vẻ như không được cao bằng so với các từ ngữ địa phương
được chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi phương diện trong ngôn ngữ tác giả.
5. Sử dụng chất liệu văn học
24
Các chất liệu văn học có mặt rộng rãi trong hầu hết các thể loại báo chí, theo
nhiều cách thức khác nhau. Nhưng những cách thức thường gặp nhất là vay mượn
cốt truyện, hình ảnh hay từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học2. Ví dụ:
" Trong tiểu thuyết " Đất vỡ hoang " của nhà văn Xô Viết Sôlôkhôp có miêu tả
một ông chủ tịch nông trang Nagunôp không chịu được tiếng gáy của con gà nhà
một mụ hàng xóm. Cứ đúng lúc ông ngủ say thì phải bừng thức vì con gà nhà nọ
cất tiếng gáy. Nó gáy mới oai vệ, mới thách thức, mới trêu ngươi. Không chịu nổi
tiếng con gà, ông chủ tịch mới dùng quyền hành tìm đến nhà nọ bóp chết con gà.
Với ông bạn tôi thì lại khác, ông lại mang con gà nhà mình đến gáy ở thiên hạ.
Thói đời vẫn vậy, con gà tức nhau tiếng gáy tất sinh lắm chuyện, trước hết là
chuyện sĩ diện, sau đến hao tiền tốn của. Ông bạn tôi là chủ một công ty nhỏ.
Người ta tán ông nên đưa hàng đi triển lãm quốc gia, hàng của ông phải nổi tiếng
cả nước. Nổi tiếng trong nhà coi như vứt, như áo gấm đi đêm..." ( Nông nghiệp
Việt Nam, 10 / 4 / 2002 );
" Cảng Sài Gòn: Đâu là gót chân A-sin? ( Tuổi trẻ TP HCM 27 / 5 /2001 );
" Bản quyền âm nhạc: - cuộc chiến của chàng Đôn kihôtê chống lại cối xay gió (
Gia đình và Xã hội, số 34 / 2002 );
" Ngày 15 / 5 Leverkusen sẽ chơi trận chung kết tranh cúp Đức với Schaltre 04
trước khi gặp Real Madrid trong trận tranh cúp C1. Không biết câu lạc bộ này thi
đấu ra sao. Cầu chúc cho ước mơ ban đầu của học không trở thành " miếng da lừa
" ( Tiền phong, 12 / 5 /2002 );
" Buồn vui cũng một hội này chùa Hương "; " Lời vui có một khúc này " ( Hà
Nội mới cuối tuần, 21 / 2 /1998 );
" Nghề chơi cũng lắm công phu " ( Đầu tư, 9/ 3 /1998 );
" Điều lệ bảo hiểm có những quy định theo kiểu " sống chết mặc bay " ( Gia
đình và Xã hội , số 68 / 2001 );
...Với đội bóng Liverpool : Không có nơi nào đẹp như Rôma " ( Thể thao và
văn hoá, 20 / 2 /2001 )...
6. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn... cùng các biến thể của chúng
25
Các phương tiện ngôn ngữ này thường có ý nghĩa rõ ràng, dễ hiểu, lại xuất hiện
với tần số cao trong hoạt động giao tiếp thường ngày ( nhất là thành ngữ, tục
ngữ )3, cho nên việc sử dụng chúng rất thuận lợi đối với cả người viết lẫn người
đọc.Ví dụ:
" Giận cá chém thớt " ( Lao động, 14 /5 /2001 );
" Nhất cận thị, nhị cận giang " ( Nhân dân hằng tháng, tháng 5 / 1998 );
"Cái nết đánh chết không chừa " ( Thanh niên, 15 / 3 /1998 );
" Làm vua chơi lan, làm quan chơi trà " ( Tuổi trẻ TP HCM, 22 / 1 / 2001 );
" Đầu xuôi, đuôi chưa lọt " ( Nhà báo và Công luận, số 10 /1998 );
" Tên cướp Nguyễn Văn Thi đã từng hai lần vào tù vì tội " cưỡng đoạt tài sản
công dân " nay vừa ra tù được vài tháng, mặc dù có sức khoẻ nhưng vẫn không
chịu lao động kiếm sống một cách lương thiện mà vẫn mắc chứng " ngựa quen
đường cũ " ( Tiền phong, 21 / 5 /2001 );
" Xung quanh vấn đề nhà đất này, cả cán bộ nhà nước và nhân dân đều kêu khổ,
kêu cực vì còn những kẻ cơ hội " đục nước béo cò ", lợi dụng các kẽ hở mà làm ăn
bất chính " ( Tuổi trẻ TP HCM, 20 / 1 /2002 );
" Thế đấy, mua danh ba vạn nhưng bán danh chỉ cần năm bảy năm tổ chức lễ hội
không ra gì " ( Thể thao và Văn hoá, số 18 / 2001 );
" Hãy nói cho tôi biết, bạn yêu như thế nào, tôi sẽ nói bạn là người ra sao " ( Thế
giới trẻ, số 34 /1997 );
" Có một danh nhân đã nói, đại ý rằng: " Hạnh phúc là một thứ nước hoa mà khi
ban phát cho người khác vẫn con vương lại vài giọt " ( Thanh niên, 16 / 10 /
2000 );...
Khảo sát cho thấy, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ đang là thủ pháp tăng cường
giá trị biểu cảm được ưa dùng nhất hiện nay trên nhiều tờ báo.
7. Chơi chữ
Các trường hợp chơi chữ gặp không nhiều trong các tác phẩm báo chí. Vì so với
các thủ pháp tạo giá trị biểu cảm khác, việc chơi chữ khó khăn hơn, đòi hỏi người
viết nhiều phải có sự tìm tòi, khám phá công phu hơn. Ví dụ:
" Pháp Mỹ hợp tác hay hợp tát ? ( Nhân dân, số 73 / 1972 );
26
" Ẩn hoạ văn hoá " ( Hà Nội mới, Tết Nhâm Ngọ, 2002 );
" Gặp nhau đuối ... dần " ( Đầu tư, 12 / 1 /2002 );
" Nhiều người ngại đấu tranh vì họ biết rằng hậu quả họ sẽ phải gánh chịu là "
tránh đâu "... " ( Lao động, 15 / 3 /1998 );
" ... Cậu phải chịu ít nhất một lần tiếng chửi thề vì cán phải chân đứa đi bên
cạnh khi dừng đèn đỏ để đến cái lớp Anh văn đàm thoại; nhưng " thoại hoài mà
vẫn cứ bị loại " ( Áo trắng, số 7 / 2000 )...
Thực tế khảo sát cho thấy, trong báo chí cách mạng Việt Nam, người chơi chữ
thường xuyên, hiệu quả và tạo nên hẳn một phong cách riêng, là Chủ tịch Hồ Chí
Minh.4 Còn ở các tác giả khác, việc chơi chữ thường được dùng rất hạn chế, mang
nặng tính ngẫu hứng.
8. Dùng dấu câu
Các dấu câu cũng là những phương tiện đắc dụng trong việc tạo nên giá trị biểu
cảm cho ngôn ngữ báo chí. Song ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến dấu ngoặc kép và
dấu chấm lửng ( dấu ba chấm ) như là hai loại dấu câu nổi bật hơn cả về phương
diện này.
Dấu ngoặc kép: Có giá trị biểu cảm cao khi báo hiệu rằng những từ ngữ nào đó
được dùng không phải với ý nghĩa hay phong cách thông dụng của chúng. Nó
mang đến cho câu văn sắc thái dí dỏm, hài hước hoặc mỉa mai, châm biếm. Ví dụ:
" Khán giả đã quá " no " với những gì được thưởng thức và đang tìm một "
món ăn " khác hợp khẩu vị hơn " ( Gia đình và Xã hội, số 100 / 2001 );
" Trong đêm xứ Lạng giá rét, chúng tôi tình cờ gặp tốp 4, 5 cô gái " tóc xù mỳ "
kiểu Hàn Quốc đứng trước quán Karaoke trên đường Đông Kinh " phát ngôn " với
những lời lẽ, thô tục..." ( Tiền phong, 9 / 1 /2002 );
" ... Tuy vậy, không phải cứ sắm máy rồi muốn bơm lúc nào thì bơm, mà còn
phải theo sự phân phối của " trưởng dãy " . Bắt đầu vào hè năm nay, ông Thắng,
trưởng khu nhà, đã " lên lịch " phân phối như sau [...]. Còn một hộ không được
bơm nhưng ngày nào cũng được " đặc quyền " dùng xô múc nước đủ dùng trong
ngày. Phân phối như thế hoá ra anh ta lại " bở " nhất. Cái bể công cộng suốt ngày
khô như rắn ráo " ( Nông nghiệp Việt Nam, 19 / 3 /2002 );
27
" Cũng có nghĩa rằng, dù đã rất cố gắng nhưng một lần nữa, Công an và Viện
Kiểm sát quận Kiến An lại " ôm nhầm " một văn bản không có giá trị pháp lý ( Lao
động, 24 /5 /2001 );
" 61% lưu học sinh Việt Nam " bốc hơi " sau khi tốt nghiệp. Họ đi đâu ? " ( Thể
thao và Văn hoá, số 12 /2001 )...
Dấu chấm lửng: tăng cường đáng kể tính biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí khi
nó thực hiện chức năng làm giãn nhịp câu văn, báo hiệu sự bất ngờ hoặc gợi mở
các định hướng suy nghĩ khác nhau cho người đọc. Ví dụ:
" Các nam ca sỹ ngày càng ... đẹp gái " ( Thể thao và Văn hoá, 17 / 6 / 2001);
" Về thành phố mua ... cỏ " ( Lao động, 24 /5 / 2002 );
" Lời hứa cũng ... ô nhiễm " ( Lao động, 21 / 5 / 2001 );
" Tôi đi mua ... vợ " ( Gia đình và Xã hội, số 4 / 2001 );
" Nhưng đến một nơi như Kalona, làng truyền thống ở Iowa, một thành phố
miền Trung nước Mỹ mà còn dùng hàng Trung Quốc thì... " ( Tiền phong, 15 / 4 /
2002 );
" Tôi rời làng, đứng trên đồi cao nhìn xuống thấy Cam nghĩa và Cam Chính có
thân hình còng ngoặt như một dấu hỏi lớn. Dấu hỏi gieo vào giữa trời, đất, vào biết
bao nhiêu thân phận ở làng và khóc nghẹn không có câu trả lời... " ( Lao động, 29 /
3 /2001 )...
9. Dùng ẩn dụ
Ẩn dụ trong ngôn ngữ báo chí thường mang tính chất văn cảnh. Nó là sáng tạo
riêng của người viết và in đậm dấu ấn cá nhân. Ví dụ:
" Các tân binh với nỗi lo muôn thuở: trụ hạng " ( nhà báo và Công luận, số 11
/1998 );
" Bóng đá Đức tăng quân trong cuộc chiến vùng vịnh " ( Hà Nội mới chủ nhật,
22 /2 /1998 );
" Những sáng kiến này có thể giúp Việt Nam loại bỏ những ổ gà trên con đường
trở thành " điểm đến của thiên niên kỷ mới " ( Gia đình và Xã hội, số 37 / 2002 );
'" Ở Trường sa, tình yêu của một lính đảo lặng sóng là anh em cả phòng đều vui
" ( Tiền phong, 7 / 3/ 2002 );
28
" Vàng trắng lên ngôi " ( Lao động, 19 / 2 / 2002 )...
Có thể nói, không theo đuổi mục đích khám phá và phản ánh thế giới một cách
hình ảnh như trong văn học nghệ thuật, nhà báo sử dụng ẩn dụ như một phương
tiện đối lập với khuôn mẫu, một phương tiện nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của
độc giả nhưng lại gây được ấn tượng lớn.
10. Nói dựa, trích dẫn
Ở đây, tác giả chỉ ra nguồn gốc, xuất xứ của những cách diễn đạt gợi cảm nào đó
mà anh ta vay mượn nhằm thông báo cho độc giả biết rằng: anh ta chỉ đồng tình
với những kiểu nói ấy chứ không phải chịu trách nhiệm về chất lượng của sự gợi
cảm trong chúng. Và chính cái thủ pháp nói dựa, trích dẫn như vậy đã làm cho
giọng điệu câu văn bớt đi cái sắc thái chủ quan, trở nên mềm mại, nhẹ nhàng, và
thông tin hàm chứa trong nó cũng có độ xác thực cao hơn. Ví dụ:
" Giai tầng như tôi, mua cái xe làm phương tiện bươn chải ( nói như ông Gorki,
về vai trò của văn học dân gian ) là để " cho lao động được nhẹ nhàng hơn " thì... "
( Lao động, 4/ 3 /1998 );
" Nói theo cách của nhà thơ Evgheni Evtushenko, không nên hạ thấp phụ nữ
xuống bằng ... đàn ông! " ( Văn hoá, 8 / 3 /1998 );
" Dân chúng gọi hồ là biển, lâu ngày thành quen nên gọi là Biển Hồ " ( Nhà báo
và Công luận, số 13 /1998 );
" Người đàn bà ấy tuy còn chút nhan sắc, nhưng nói theo ngôn ngữ của giới trẻ,
cũng thuộc loại quá " đát " rồi " (Tuổi trẻ Thủ đô, 12 / 3 / 2000 )...
" Tôi đi tìm mua cho con gái một chiếc đàn Organ Yamaha " made in Japan "
chính hiệu, tại một Duty Free Shop ( cửa hàng miễn thuế ) trên phố " điện tử " (
theo cách gọi của những người Việt ở đây " ( Lao động, 24 / 6 1998 )...
Khi sử dụng bất kỳ thủ pháp nào nhằm tăng cường tính biểu cảm cho ngôn ngữ
báo chí ( mà những cái kể trên chỉ là một số tiêu biểu ), người viết phải lưu ý tới
một loạt các yêu cầu như: đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng ( không phải với thể
29
loại báo chí nào cũng có thể vận dụng chúng; và với các thể loại có thể vận dụng
thì mức độ vận dụng cũng khác nhau )...nhưng có lẽ yêu cầu đang được đặt ra bức
thiết hơn cả là phải thể hiện sự độc lập, sáng tạo. Chính sự tìm tòi, sáng tạo sẽ sản
sinh ra sự mới mẻ vốn là cội nguồn của sự hấp dẫn.Thực tế cho thấy, nếu người
viết chỉ biết lặp lại người khác một cách máy móc thì các hình thức biểu cảm mà
anh ta đưa ra không chỉ mất đi dấu ấn cá nhân mà còn mất đi cả tính hiệu quả.
Chức năng biểu cảm của chúng bị vô hiệu hoá và chúng dần dần trở thành khuôn
mẫu. Trong thực tế chúng ta đã gặp không ít trường hợp như vậy. Chẳng hạn, từ
câu hát " Em ơi ,Hà Nội phố " người ta đã " tái bản " thành tiêu đề của một loạt các
bài báo khác nhau: nào là " Em ơi, Hà Nội ... mũ ", nào là " Em ơi, Hà Nội ... shop
", rồi thì " Em ơi , Hà ... lội nước ", v . v.; rồi từ tiêu đề truyện ngắn " Có một đêm
như thế " của Nguyễn Thị Minh Thư người ta đã cải biên thành " Có một tập thể
như thế ", " Có một lò võ như thế ", " Có một kiểu đào tạo cán bộ như thế "...Đối
với các trường hợp kiểu này, chỉ có vay mượn lần đầu tiên là được người đọc
hưởng ứng, vì nó độc đáo và mới lạ. Còn sự lặp lại lần thứ hai, lần thứ ba...rất dễ
gây cảm giác nhàm chán.
Chú thích
1. Nguyễn Thị Thanh Hương, Một vài suy nghĩ về " tiếng Hà Nội " ngày nay
trong báo chí viết cho thanh thiếu niên, trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: " Tiếng
Hà Nội trong mối quan hệ với tiếng Việt và văn hoá Việt Nam ", H., 2002.
2. Xem bài " Việc sử dụng chất liệu văn học trong tác phẩm báo chí ".
3. Xem bài " Việc sử dụng thành ngữ - tục ngữ trong tác phẩm báo chí ".
4. Viện Ngôn ngữ học, Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh,
NXB Khoa học xã hội, H., 1980.
( Bài đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống , số 7 / 1998 )
30
VIỆC SỬ DỤNG CHẤT LIỆU VĂN HỌC TRONG TÁC PHẨM
BÁO CHÍ
Khi nói về mối quan hệ qua lại hết sức mật thiết giữa văn học và báo chí, không
thể bỏ qua một khía cạnh rằng: văn học chính là nguồn chất liệu dồi dào và quí giá
cho việc sáng tạo tác phẩm báo chí.
Thực vậy, trong các tác phẩm báo chí thuộc nhiều thể loại khác nhau, chúng ta
thường xuyên bắt gặp vô số các chất liệu văn học. Các chất liệu này, nếu được
dùng đúng chỗ và đúng liều lượng, luôn mang lại giá trị to lớn: đó là làm cho bài
báo trở nên sinh động, hấp dẫn, dễ lĩnh hội, hay nói một cách ngắn gọn là đạt hiệu
quả giao tiếp cao hơn.
Khảo sát sơ bộ cho thấy, việc sử dụng chất liệu văn học trong báo chí thường
được thực hiện theo một số kiểu cơ bản sau đây:
1. Mượn cốt truyện hoặc tình tiết từ tác phẩm văn học.
Ở đây, xảy ra hai khuynh hướng:
a, Kể lại ( thường là ở dạng tóm tắt ) toàn bộ cốt truyện hay chỉ là một tình
tiết của tác phẩm văn học, để tạo cơ sở liên hệ, so sánh. Rồi từ đó, nói về một
vấn đề, một sự kiện hiện tại có những nét tương tự. Ví dụ:
" Lại nói Quan Công trên đường trở về với Lưu Bị, qua 4 cửa ải đã giết 5 tướng
Tào. Bây giờ đang đi đến cửa sông Hoàng Hà, Tân Kỳ ra chặn đường .Quan Công
bảo:" Ta đã giết những đứa ngăn trở ta giữa đường, mi có biết không? ". Kỳ đáp:
" Mi chỉ giết được các tướng hèn, vô danh, chứ mi dám đụng đến ta à? ". Quan
Công hỏi: "Mày đã bằng Nhan Lương, Văn Sú chưa? ". Tân Kỳ cả giận, tế ngựa
lại đánh. Chưa được một hiệp, đao Quan Công vừa giơ lên, đầu Tân Kỳ đã rơi
xuống lăn long lóc dưới mặt đất. .....
31
Nay trở lại với VCK U. 16 Châu Á vừa kết thúc tại Đà Nẵng. Tuyển U. 16 Việt
Nam đã vượt qua các cửa ải của bảng A để lọt vào vòng bán kết gặp Iran. Nhưng
hỡi ôi!..."
( Lao động , 22 / 9 / 2000 )
Trong các bài viết thuộc loại này, chính sự chuyển đổi bất ngờ từ quá khứ sang
hiện tại và sắc màu tương phản giữa cổ và kim đã tạo nên sự thú vị cho độc giả. Họ
vừa được "gợi nhắc " về tích cũ, vừa được tiếp nhận thông tin mới liên quan tới
một vấn đề bức xúc nào đó trong xã hội.
b, Đưa vào cốt truyện ( chủ yếu là của các tác phẩm văn học cổ ) những tình
tiết, dữ liệu hiện đại.
Nói cách khác, trên cái khung của cốt truyện cổ người ta đã đắp vào những
mảng hiện thực thời nay. Ví dụ:
" Roãn Tháu lúc nhỏ học ông Trịnh Duân, cốt là theo nghề khoa cử. Khoa
thi nọ, đến bộ môn văn đầu bài ra câu luận " Chu Nguyên Hựu chư thần ", tức là
luận về sự giết bầy tôi đời Nguyên Hựu, ý sâu xa là muốn nâng cao vai trò của ông
vua lúc đó là Tịnh Khang lên, dìm đời vua trước đã lâu là Triết Tôn xuống.
Roãn Tháu đỗ điểm cao, loanh quanh được bổ về làm giám đốc một nông
trường.
Tự dưng có mấy gia đình nghèo từ xa đến khai phá đất hoang ở cạnh nông
trường của Roãn Tháu, loanh quanh chỉ mấy năm mà vùng đất hoang vu, khô cằn
nọ trở nên xanh tốt. Thấy vậy, Roãn Tháu nổi tà tâm, mang bản đồ đến doạ những
người ít chữ, bảo là họ đã chiếm đất của nông trường, mấy người dân cày không
biết hư thật đành dọn đến vùng hoang vu gần đó. Roãn Tháu chiếm vườn tược của
họ làm đất riêng của mình.
Như cái kim trong bọc, đến ngày nọ nó phải lòi ra..."
( Lao động, 29 / 9 / 2000 )
Ở bài viết kiểu trên, sự đan xen giữa tích cũ và chuyện mới không chỉ làm gia
tăng sức biểu cảm của ngôn từ, mà còn làm cho sự phê phán hay mỉa mai, châm
biếm trở nên thâm thuý mà vẫn nhẹ nhàng, dễ tiếp nhận hơn...
32
Nhìn chung, việc mượn cốt truyện hay tình tiết từ tác phẩm văn học thường
được dùng trong các dạng bài như bình luận, phóng sự, ghi chép, bút ký và tiểu
phẩm.
2, Mượn hình ảnh các nhân vật văn học
Đây là hình ảnh của các nhân vật văn học vốn từ lâu đã trở nên quen thuộc,
gần gũi với quảng đại quần chúng, tới mức người viết báo có thể viện dẫn chúng
như là biểu tượng của những đặc điểm, tính chất nào đó mà không cần chú giải.
Chẳng hạn: Sở Khanh là hiện thân của sự lừa lọc, xảo trá trong tình yêu; Chí Phèo
tiêu biểu cho những kẻ lưu manh, côn đồ, luôn sẵn sàng "gào làng ăn vạ "; Tú Bà
là tên gọi chung cho những kẻ buôn bán thân xác phụ nữ....
Ví dụ:
- " Người đàn ông ấy,nổi tiếng là một Don Juan (Đông Gioăng), đã cưới vợ
tới lần thứ ba, và cũng như tổ tiên ông ta, có một hậu cung chứa toàn gái đẹp
trong lâu đài của mình ở Bom bay ".
( An ninh thế giới, 7/ 9/ 2000)
" Nhưng cứ sống như cô bé 22 tuổi đầu người Sơn La, bị mụ Hoạn Thư
người Nam Định thuê người tạt axit đến mù một mắt, rúm ró khuôn mặt cũng cầm
bằng như đã chết ".
(Văn nghệ trẻ, 8 / 6 / 2000)
" Làng tôi thay đổi nhanh quá. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Kiến An như con cá vàng người làng tôi vừa bắt được ".
(Văn nghệ, 16 / 9 / 2000)
...Keegan cũng có thể gọi trở lại Lesaux, tiền vệ trái đang hồi phục phong
độ của Chelsea, để quán xuyến hành lang bên trái vốn là "gót chân A sin " của đội
tuyển Anh.
(Gia đình và Xã hội, số 89 / 2000)
- " Má già " mafia.
(Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh, 11 / 1 / 2001)
-Cái chết của " con nai vàng "17 tuổi.
(An ninh Thủ đô, 6 / 6 / 1999)
33
Những trường hợp vay mượn kiểu này không chỉ gặp trong các bài viết
thuộc thể ký và bình luận, mà còn có mặt ở cả thể loại tin. Chúng giúp tác giả kiệm
lời tới mức tối đa mà vẫn khắc hoạ được chân xác và đầy gợi cảm một con ngươì
hay một sự việc nào đó.
3. Mượn từ ngữ, lối nói từ các tác phẩm văn học
Các chất liệu văn học thuộc loại này được sử dụng hết sức rộng rãi và linh
hoạt. Chúng có thể đứng ở bất kỳ chỗ nào trong kết cấu của bài viết, từ tiêu đề cho
đến các câu trong đoạn văn.
Ở tiêu đề, ví dụ: " Hôm qua em đi tỉnh về..."( Công an Thành phố HCM. , 26
/1 2 / 2000) ; " Quê hương nếu ai không nhớ..."(Hà Nội mới, Tết Mậu Dần ); "
Tình trong như đã.. " (Gia đình, số 5 / 2001); " Hai nửa vầng trăng " ( Lao động, 5
/ 12 / 2000 ); " Càng ngắm càng say " (Nhân dân hàng tháng, số11 / 1998)...Ở các
vị trí khác, ví dụ: " Mải miết đi hoài, ngoảnh trông lại, bất giác đoạn " Đà Giang
độc bắc lư u " vụt hiện ra ngang tầm mắt, ấy là lúc chúng tôi gặp bản người Dao
lấp ló trên các sườn đồi " (Quân đội Nhân dân, 5/ 3 / 2000); " Về Đông Hồ bây giờ
thấy Phà Hồ nhộn nhạo, những " cát trắng phẳng lì " của thi sĩ Hoàng Cầm xưa đã
bị đào bới bởi đội quân gánh cát thuê " (Văn nghệ trẻ, 6 / 1 / 2000); "...vườn tược
là một khái niệm xa xỉ ở "mảnh đất lắm người nhiều xe " này..." ( Sinh viên, số17/
2000); "Bên cạnh đó, căn bệnh "thương nhớ đồng quê "của người xa xứ cũng đã
len lỏi vào bảng hiệu, hàng loạt nhà hàng, quán bar có những cái tên như: Miền
quê, Mái lá, Làng tôi, Tao ngộ..." (Phụ nữ TP. Hồ Chí Minh, số90/ 2000); "...Thuê
nhà có nghĩa là chỉ ăn tạm ở nhờ một thời gian nhất định nào đó, làm gì cần tình
làng nghĩa xóm dài lâu, vì thế quân " đạo chích " nhiều khi ở ngay sát vách nhưng
người thuê cũng không biết mặt và dù " liền dậu mùng tơi " thì chúng cũng chẳng
kiêng nể gì..." ( Phóng sự Thái Minh Châu, NXB Lao động, Hà Nội, 1999)...
Các từ ngữ, lối nói được vay mượn từ các tác phẩm văn học, như đã thấy, có
thể là thơ mà cũng có thể là văn xuôi ( và tuỳ từng tình huống cụ thể mà chúng
được giữ nguyên dạng hoặc cải biên chút ít ). Tuy nhiên, thơ có vẻ chiếm ưu thế, vì
giữa những dòng chữ khô khan bề bộn thông tin, sự xuất hiện của những vần thơ
34
làm cho giọng văn trở nên mềm mại, nhẹ nhàng và có sức truyền cảm lớn hơn so
với văn xuôi.
Giá trị của thơ còn được bộc lộ rõ nét và đầy đủ hơn, khi trong một số tác
phẩm ( đặc biệt là phóng sự , ghi chép ) có những tác giả đã trích dẫn không phải
chỉ một câu thơ ( hay từ ngữ nằm trong phạm vi một câu thơ ), mà hẳn cả một đoạn
thơ. Ví dụ:
" Hàng ngày trên các tuyến đường sắt nước ta, có bao nhiêu " thương gia tí
hon ", những thương gia chân chính đang làm ăn bằng đạo lý nghề nghiệp như
thằng Nam?...Nghĩ về các em, lại thấy những câu thơ xưa của Tế Hanh chưa cũ:
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Nghìn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương vấn trong hơi máy
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau..."
(Thương mại, số 1, 2 / 1992)
" Côn Sơn ngút ngàn trong sương khói mưa bay và trùng điệp núi non đầy
chất thơ, cái chất thơ đầy ngọt ngào sâu lắng lãng mạn của Côn Sơn đã làm một
Nguyễn Trãi mê đắm:
Côn Sơn có suối nước trong
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm
Côn Sơn có đá tần vần
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi
Côn Sơn thông tốt ngất trời
Ngả nghiêng dưới bóng ta thời tự do..."
( Phóng sự Thái Minh Châu, Hà Nội, 1999)
Những đoạn thơ trên nhờ khả năng biểu cảm của mình, đã minh hoạ một
cách sống động và hình ảnh các ý tưởng của tác giả. Thêm vào đó, chúng lại chiếm
những vị trí độc lập trong bố cục của bài viết, cho nên đã tạo điều kiện cho độc giả
được nghỉ ngơi thư giãn, giải toả bớt căng thẳng trong quá trình đọc, và điều này
có nghĩa là hiệu quả tiếp nhận thông tin sẽ cao hơn.
35
Như vậy là chúng ta đã điểm qua đôi nét về việc sử dụng chất liệu văn học
trên báo chí. Ở đây, tất nhiên, còn có thể bàn đến cả những hiện tượng dùng bút
pháp văn học khi viết báo. Nhưng do khuôn khổ bài viết có hạn, mà vấn đề này lại
quá lớn, nên chúng tôi tạm thời gác lại. Hy vọng, nó sẽ là chủ đề của một bài viết
riêng sau này. ( Bài đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 7 / 2001 )
VỀ CÁCH SỬ DỤNG THÀNH NGỮ - TỤC NGỮ TRÊN BÁO CHÍ
Hiện nay, trong số các thủ pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí,
việc sử dụng thành ngữ tục ngữ đang được xem là thủ pháp phổ cập nhất và cũng
hiệu quả nhất. Nguyên do là bởi thành ngữ - tục ngữ có những ưu thế nổi trội như:
phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức; giàu hình ảnh, dễ sử dụng; và đặc
biệt là có một số lượng lớn tới hàng ngàn đơn vị ( con số 12.000 thành ngữ - tục
ngữ trong cuốn " Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt Nam " của Vũ Thuý Anh, Vũ
Quang Hào- công trình sưu tập được xem là lớn nhất từ trước tới nay, chưa hẳn đã
là con số cuối cùng )1...
Nhìn chung, thành ngữ - tục ngữ trong các tác phẩm báo chí được dùng dưới hai
hình thức cơ bản sau đây:I. GIỮ NGUYÊN DẠNG
Ở đây các thành ngữ - tục ngữ được dùng nguyên vẹn cả cấu trúc như chúng vốn
có, không bị thêm hoặc bớt các thành tố nào đó, ví dụ:
" Nguyên tắc " buôn có bạn, bán có phường " được tôn trọng sẽ là nền tảng cho
sự phát triển bền vững và cùng có lợi trong thế giới cạnh tranh sôi động này "
( Sinh viên Việt Nam, 14 / 8 / 2001 );
" Nói tóm lại, chuyện đội mũ bảo hiểm hoá ra không đơn giản chút nào. Cả nước
xôn xao bàn chuyện mũ... Vì sao các nước họ cũng quy định đội mũ bảo hiểm mà
chẳng gây ra dư luận gì mạnh lắm nhỉ ? Thì ra " mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi
cảnh ". Nước người đi mô tô chỉ loáng thoáng... Còn ở ta, xe máy như ốc bươu
vàng " ( Lao động, 15 / 5 / 2001 );
36
" Chính vì vậy mà hàng loạt ca sĩ Hà Nội đã khăn gói quả mướp vào Nam lập
nghiệp với lý do " đất lành chim đậu " để mong kiếm danh lợi ". ( Hà Nội mới, Tết
2002 );
" Nghĩ con trai như cái nơm, bạ đâu úp đó, chỉ tội con gái mình, lỡ duyên hết
phận. Mặc dù hết sức buồn và nhục, nhưng máu chảy ruột mềm, không thể đẩy con
ra đường" ( Nông nghiệp Việt Nam, 25 / 4 / 2002 );
" Thế là tình trạng " trống đánh xuôi, kèn thổi ngược " diễn ra, khiến nhiều cặp
vợ chồng ẩu đả liên tục " ( Thế giới phụ nữ ", 21 / 7 /2001 );
" Với một bản di chúc lằng nhằng như của ông Thiệp thì giải quyết giỏi đến thế
nào cũng chỉ là cách... " giật gấu vá vai " mà thôi ( Tiếp thị và Gia đình , 4 / 4 /
2002 );
" Chỉ những kẻ bẻ cong chân lý mới " cố đấm ăn xôi " dựng nên những trò bịp
bợm ( Nhân dân, 6 / 2 / 2002 );
" Chi gần như là nữ tài xế " độc nhất vô nhị " khi có hai bằng đại học ( An ninh
thế giới, 3 / 2002 ).
Thực tế khảo sát cho thấy, những thành ngữ được giữ nguyên dạng chủ yếu là
thành ngữ 4 hoặc 6 yếu tố.II. KHÔNG GIỮ NGUYÊN DẠNG
Việc không giữ nguyên dạng thành ngữ - tục ngữ thường diễn ra theo một số
kiểu sau đây:
1. Hoán đổi vị trí các yếu tố
Đây là những trường hợp mà số lượng các yếu tố trong thành ngữ vẫn được giữ
nguyên, chỉ có vị trí của chúng trong cấu trúc bị sắp xếp lại. Ví dụ:
" Do ngày càng " của khó người khôn " nên Minh đã không tìm ra được công
việc như chị muốn " ( An ninh thế giới cuối tháng, 3 / 2 /2002 );
( Nguyên dạng là " người khôn của khó " ).
" Những lời dặn dò như vậy, chắc chắn anh ta phải " khắc cốt ghi xương " chú
làm sao quên được ( Hà Nội ngày nay, số 5 / 2000 );
( Nguyên dạng là " ghi xương khắc cốt " ).
37
" Vùng quê nghèo xơ xác xưa kia giờ đã " thay thịt đổi da " khiến chúng tôi ngỡ
mình bị lạc ( Gia đình, số 4 / 2002 ).
( Nguyên dạng là " thay da đổi thịt " ).
Sự hoán đổi vị trí các yếu tố thường chỉ gặp trong các thành ngữ 4 yếu tố có cấu
trúc đối ngẫu cặp đôi ( tức là có hai vế tương ứng ). Đó có thể sự hoán đổi vị trí
của các cặp yếu tố ( người khôn / của khó > của khó / người khôn; ghi xương /
khắc cốt > khắc cốt ghi xương ), mà cũng có thể là sự hoán đổi vị trí của từng yếu
tố đơn lẻ như thay da / đổi thịt > thay thịt / đổi da, tuy nhiên, trường hợp đầu hay
gặp hơn trong thực tế.
2. Cải biên các yếu tố
Người ta thường cải biên các yếu tố trong thành ngữ - tục ngữ theo hai cách
chính như sau:
a. Mở rộng cấu trúc
Tức là trên cơ sở giữ lại tất cả các yếu tố gốc, tác giả cho thêm vào cấu trúc
thành ngữ - tục ngữ các yếu tố mới nhằm nêu rõ chủ đề tác phẩm hoặc hoặc các ý
tưởng mình định thể hiện. Ví dụ:
" Thuốc đắng liệu có dã tật? " ( Quốc tế, số 29 / 2002 );
" Mang con bỏ giữa chợ đời " ( Nhân dân, 15 / 1 / 1998 );
" Cái khó không bó cái khôn " ( Hà Nội mới, 12 / 5 / 2000 );
" Con hát mẹ đừng vội khen hay " ( Hà Nội mới, 3 / 4 / 2001 );
" Trước sau... không như một " ( Lao động, 23 / 5 /2001 ).
Các yếu tố mới có thể nằm ở các vị trí khác nhau xét theo quan hệ với thành ngữ
gốc, nhưng chủ yếu là trong nội tại cấu trúc của nó với vai trò chêm xen.
b. Thay yếu tố cũ bằng yếu tố mới
Đây là những trường hợp mà trong thành ngữ - tục ngữ nguyên gốc sẽ có một
hoặc một số yếu tố nào đó bị thay bằng các yếu tố mới do tác giả tự nghĩ ra. Ví dụ:
" Bình mới, rượu quá đát! ( Pháp luật, 17 / 5 /2002 );
" Phép nước thua... lệ trường " ( An ninh thế giới, 12 / 9 / 2001 );
" Để mọi người được vui xuân với tinh thần " lá rách ít đùm lá rách nhiều..."
( Công an nhân dân, 15 / 3 / 2002 );
38
" Cháy nhà mới ra mặt... tham nhũng " ( lao động, 19 / 2 / 2001 );
" Vừa đốt nhà vừa la hàng xóm " ( Nhân dân, 17 / 8 /2 2001 );
" Con sâu làm rầu... rừng thôn g " ( Lao động, 12 / 9 / 2002 );
" Tay ông run run rót cốc nước mời tôi và ông nói trong mỏi mệt: " Chú ơi, tre
già, măng gãy " ( Nông nghiệp Việt Nam, 25 / 4 / 2002 );
" Nói có... tài liệu, mách lại có... hình ảnh " ( Tiền phong, 12 / 4 / 2002 ).
Các ví dụ trên cho thấy, việc thay thế không nhất thiết phải theo quan hệ 1 - 1,
mà nó có thể được thực hiện đồng thời với sự mở rộng, tức là các yếu tố mới được
đưa vào nhiều hơn các yếu tố cũ bị cắt đi.
c. Tách các yếu tố ra khỏi cấu trúc
Nếu trong hai cách cải biên nói trên, bất chấp mọi sự thay đổi, thêm bớt, cấu trúc
nguyên gốc của thành ngữ - tục ngữ vẫn giữ vai trò hạt nhân, thì ở trong trường
hợp thứ ba này cấu trúc ấy đã bị phá vỡ: các yếu tố ( hay các vế ) của nó trở thành
những bộ phận riêng rẽ, chỉ đóng vai trò phụ trợ trong câu văn. Ví dụ:
" Người ta cứ thấy " của rẻ " là ham mà không biết rằng nhiều khi đó còn là "
của ôi " nữa ( Lao động, 1 / 2 / 2001 );
" Sau một thời gian dài " lên voi ", hắn không thể nghĩ là có lúc mình lại phải "
xuống chó " như thế này ( An ninh Thủ đô, 17 / 3 /1999 );
" Sở dĩ có tình trạng " béo cò " hết sức phi lý như trên là bởi thời gian qua, trong
lĩnh vực sử dụng nhà đất, các cơ quan chức năng đã thường xuyên làm " đục nước
" bằng việc buông lỏng quản lý hay phối hợp với nhau không đồng bộ " ( Gia đình,
số 6 / 2001 )...
Dễ dàng nhận thấy, các thành ngữ - tục ngữ bị cải biên hầu như bao giờ cũng
mang sắc thái đánh giá tiêu cực. Thông qua chúng, tác giả thể hiện thái độ phê
phán hay của mình ( đôi khi núp dưới cái vỏ hài hước, châm biếm ) trước các sự
việc hiện tượng nào đó trong xã hội.
1. Lược bớt các yếu tố
Có lẽ, đây cũng là một dạng của cải biên. Chỉ có điều, tác giả không đưa thêm
bất kỳ yếu tố mới nào vào trong cấu trúc gốc, mà ngược lại, còn bớt đi một bộ
phận ( thường là một vế ) của nó. Ví dụ:
39
" Vẫn biết là " thương cho roi cho vọt " nhưng khi tình thương này đến mức tổn
hại cả về thể chất và tinh thần thì nó trở thành mối quan tâm của toàn xã hội "
( Lao động, 7 / 3 /2002 );
" Nhưng " hoạ vô đơn chí ", bên cạnh những lời cáo buộc ấy còn có những lời
chỉ trích không kém phần gay gắt " ( Tuổi trẻ, 6 / 3 / 2001 );
" Đâu rồi dáng thầy cần cù sớm hôm, đâu rồi bảng đen phấn trắng, và bạn bè -
đứa nhút nhát, đứa tinh nghịch với những trò " nhất quỷ nhì ma ..." ( Áo trắng, 15 /
11 / 2001 );
" Bán tự vi sư... " ( Văn hoá, 7/ 3/ 2000 );
" Nước sạch - không thể cha chung " ( Hà Nội mới, 5 / 9 /2001 );
" Miệng nam mô... " ( Nhân dân, 29 / 5 /2001 )...
Hiện tượng lược bớt các yếu tố chủ yếu xảy ra đối với tục ngữ. Nguyên do là tục
ngữ thường gồm hai vế, mỗi vế là một cấu trúc khá trọn vẹn về cú pháp và diễn đạt
tương đối hoàn chỉnh một ý nghĩa nào đó, cho nên việc đưa ra một vế của tục ngữ
vào câu văn không cản trở quá trình nhận thức của người đọc, mà ngược lại, còn
giúp cho họ hiểu rõ hơn định hướng thông tin của người viết trong khi vẫn có
những liên tưởng nhất định về câu tục ngữ nguyên gốc. Còn với thành ngữ, nếu ta
lược bớt một bộ phận hay một vế nào đó, thì chỉnh thể của nó thường sẽ bị phá vỡ
cả về hình thức lẫn nội dung, và do vậy, cả giá trị thông tin, cả giá trị biểu cảm của
phần cònlại đều giảm sút đáng kể ( thậm chí không còn tính hình ảnh, hàm súc ) so
với nguyên gốc.
Nhân đây, cần phải nói rằng các thủ pháp cải biên hay lược bớt các yếu tố của
thành ngữ - tục ngữ nêu trên không phải lúc nào cũng được sử dụng riêng rẽ và
thuần nhất; có những tình huống chúng được kết hợp với nhau, chẳng hạn:
" Gần nhà đèn mà vẫn tối " ( Nhân dân, 30 / 3 /2001 ).
( Vừa lược bớt một vế " gần mực thì đen ", vừa cải biên vế còn lại bằng cách
thay các yếu tố cũ bằng các yếu tố mới: " đèn " thành " nhà đèn ", " thì sáng "
thành " mà vẫn tối " ).
40
" Nghĩ về thực trạng nền bóng đá Việt Nam hiện nay, chúng ta không khỏi
chạnh lòng: Tre thì đã già mà măng dường như lại đang chết yểu vì bệnh ngôi sao
" ( Thể thao và Văn hoá, 17 / 8 /2000 ).
( Vừa cải biên yếu tố " mọc " thành " chết yểu ", vùa thêm các yếu tố mới " thì
đã ", " dường như lại đang... " ).
Nư vậy, trong các tác phẩm báo chí, thành ngữ - tục ngữ được sử dụng dưới rất
nhiều các dạng thức khác nhau. Đây là kết quả sáng tạo của nhà báo trong các ngữ
cảnh cụ thể và ứng với các mục đích cụ thể. Tuy nhiên, để có sự sáng tạo ấy, nhà
báo cần phải phải hiểu biết sâu rộng về thành ngữ - tục ngữ. Và điều này cũng có
nghĩa là họ không được phép xem nhẹ việc thường xuyên nghiên cứu học hỏi
nhằm mở rộng thêm kiến thức về di sản văn hoá dân gian vô giá này.
Chú thích
1. Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào, Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt Nam, NXB.
Văn hoá - Thông tin, H., 2000.
2. Vũ Quang Hào, Về biến thể của thành ngữ, tục ngữ, Tạp chí " Văn hoá dân
gian ", H., 1992, số 1.
3. Nguyễn Văn Hằng, Thành ngữ bốn yếu tố trong tiếng Việt hiện đại, NXB.
Khoa học xã hội, H., 1999.
4. Nguyễn Thị Thanh Hương, Khai thác chất liệu văn học dân gian trong việc
đặt tên bài báo, Tạp chí " Nghề báo ", TP. HCM., 2003, số 1.
( Bài đăng trên Tạp chí Nghề báo, số 4 / 2002 )
41
CHƠI CHỮ TRÊN BÁO CHÍ
Chơi chữ, theo Từ điển tiếng Việt là "Dùng các hiện tượng đồng âm, đa nghĩa,
v. v. trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như bóng gió, châm biếm ,
hài hước...) trong lời nói".1 Đây là một thủ pháp tạo giá trị biểu cảm cho ngôn từ
khá hiệu quả; nhờ nó, lời nói của chủ thể phát ngôn trở nên sinh động, hấp dẫn và
sâu sắc hơn, để lại dấu ấn nhất định trong lòng người nghe, người đọc.
Trong báo chí, việc chơi chữ diễn ra dưới nhiều dạng thức khác nhau. Song,
nhìn chung, có thể khái quát chúng thành một số kiểu cơ bản như sau:
1. Bóc tách các thành tố của từ nguyên khối (thường là từ 2 âm tiết) thành
những từ độc lập. Ví dụ:
"Những kẻ chỉ đào mà không tạo" (Văn nghệ trẻ, 13 / 5 / 2001);
"Sông Tô mà chẳng lịch" (Phụ nữ Thủ đô, 17 / 6 / 1999);
"Hội ít mà thảo nhiều" (Văn hoá, 1/ 3 / 1998);
"... Thời " oanh" đã qua, nay tới thời "liệ " (Thế giới, 25 / 3 / 2002);
"Tín vượt... ngưỡng" (Hà Nội mới, Tết, 2202);
"Có "toà" mà chưa có "án" (Gia đình và Xã hội, số 47 / 2000);..
Thực tế khảo sát cho thấy, trong đa số các trường hợp, quan hệ về mặt ý nghĩa
giữa các thành tố bị bóc tách là quan hệ tương phản. Vì thế, giữa chúng thường có
sự hiện diện của những quan hệ từ như mà, nhưng. Còn kiểu bóc tách "không
tương phản" như sau rất hiếm khi gặp: "Những năm ở đưòng 7, sáng có quen biết
một tài xế người Bắc rồi hai người bén duyên nhau. đúng là anh "tài" đã "xế " vào
cuộc đời Sáng..." ( Tiền phong, 17 / 2 /2002 ).
42
Việc chơi chữ theo kiểu bóc tách có thể được khái quát hoá thành mô hình như
sau:
AB -> A cx B
Trong đó: A và B là hai âm tiết của từ nguyên khối, cx là bộ phận chêm xen.
Có lẽ ở đây cũng cần phải nói thêm rằng bộ phận chêm xen không nhất thiết lúc
nào cũng phải là từ ngữ; có khi nó được thể hiện bằng dấu câu, ví dụ:
"Những chuyến xe "hành"... khách" (Hà Nội mới cuối tuần, 28 / 5 / 1995).
2. Dùng các cấu trúc đối nhau về ý nghĩa. Ví dụ:
" Trường thọ đang ... giảm thọ" (Lao động, 14 / 5 /2001);
"Sinh nhật - sinh chuyện..." (Hà Nội mới chủ nhật, 22 / 2 /1998);
"Hoá đơn đỏ trên thị trường đen" (Thanh niên, 19/ 4 /1999);
"Sông Bé đã trở thành "sông lớn" ?(Thanh niên, 11 / 4 / 2000);
"Sầu riêng với nỗi buồn chung"... (Phụ nữ Việt Nam, 25 / 6 /1999);...
Để xây dựng các cấu trúc như vậy, người ta thường sử dụng các cặp từ trái
nghĩa (đỏ - đen, bé - lớn, riêng - chung,...). Trong mỗi ví dụ trên, cả hai thành tố
của cặp từ trái nghĩa đều có mặt; song cũng có những trường hợp chỉ có một thành
tố xuất hiện, chẳng hạn:
"Công ty vô trách nhiệm vô hạn" (Gia đình và Xã hội, số 33 / 2002).
"Công ty trách nhiệm hữu hạn" là cụm từ có tính phổ cập rất cao, vì thế khi
người đọc gặp cụm từ "Công ty vô trách nhiệm vô hạn" họ hiểu ngay rằng đây
chính là sản phẩm thu được nhờ sự cải biên cụm từ đầu.
Mô hình khái quát:
A ----- (- A)
Trong đó: (- A) là từ trái nghĩa với A.
Tuy nhiên ở đây cũng cần phải nói thêm là A và (- A) có thể là những từ trái
nghĩa hoàn toàn, mà cũng có thể là những từ chỉ trái nghĩa trong những ngữ cảnh
nhất định nào đó (Sinh nhật - sinh chuyện).
3. Sử dụng phép đồng âm giữa các từ
43
Đây là kiểu chơi chữ hết sức phổ cập. Có thể chia nó thành một số dạng chính
như sau:
a, Dùng các thành tố đồng âm hoàn toàn
Các thành tố này có thể biểu thị các từ khác nhau (đây là những từ đồng âm
khác nghĩa), ví dụ:
"Tiếng than từ vùng than" (Lao động, 12 / 3 / 2002);
"Từ màn bạc đến két bạc" (Tiền phong, 12 / 8 / 1998);
Bên cạnh đó, chúng cũng có thể biểu thị cùng một từ, nhưng trong các nét nghĩa
khác nhau, ví dụ:
"Gái nhảy" có tạo được bước "nhảy"? ( Người lao động, 6 / 2 / 2003) ;...
Mô hình khái quát:
A (y1) ----- A (y2)
Trong đó: A là vỏ âm thanh của từ, còn y1, y2 là hai ý nghĩa khác nhau của vỏ
âm thanh đó.
b, Dùng các từ (hay các âm tiết) có vỏ âm thanh gần giống nhau
Các từ ( hay các âm tiết ) này có thể :
- Chỉ khác nhau ở phụ âm cuối, ví dụ:
"Phong trào nuôi ốc hương ở Khánh Hoà đang đi từ "sốt" đến "sốc" (Lao động,
23 / 1 /2003);
- Chỉ khác nhau ở phụ âm cuối và ở phần vần, ví dụ:
"Hái lộc hay hái luật" (Văn hoá, 11/ 2 /1998);
- Chỉ khác nhau ở phần vần, ví dụ:
"Cheo leo Chalo" ( Tiền phong, 19 / 4 /2002);
- Chỉ khác nhau ở phụ âm đầu, ví dụ:
"Học đòi - học vòi - học chơi chòi..." (Hạnh phúc gia đình , 15 / 2 /2002);
- Chỉ khác nhau ở dấu thanh điệu, ví dụ:
"Ẩn hoạ văn hoá" (Hà Nội mới, Tết Nhâm Ngọ, 2002);
"Tìm hoa gặp hoạ" (Tuổi trẻ hạnh phúc, số 6/ 1999);
"Trường tư, đầu tư, từ đâu?" (Hà Nội mới, 14 / 3 /1999);...
44
Hai hình thức chơi chữ bằng cách dùng các từ đồng âm hay gần âm nêu trên
khá giàu sức gợi: Những âm thanh được lặp đi lặp lại cứ xoáy vào lòng người đọc,
gây nên một nỗi ám ảnh lâu bền. Tuy nhiên, nó lại tương đối phức tạp, vì đòi hỏi
người viết phải có sự lựa chọn công phu để tìm ra các từ vừa có ý nghĩa phù hợp
với tư tưởng và cảm xúc mà anh ta muốn thể hiện, lại vừa phải có vỏ âm thanh
giống nhau.
Mô hình khái quát:
A ---- A'----- A''
Trong đó: A, A', A'' là các từ có vỏ âm thanh gần giống nhau.
c, Thay thế một từ (hay một cụm từ) bằng một từ (hay một cụm từ) khác có
vỏ âm thanh gần giống với nó, ví dụ:
"Ngày xuân đi xem ... hại" (Hà Nội mới, Tết 2002);
(Từ "hại" ở đây xuất phát từ từ "hội");
"Trường lên đỉnh Olimpia " (Lao động, 21 / 3 /2002)
(Từ "trường" trong ví dụ này bắt nguồn từ từ "đường");
"Gặp nhau đuối ... dần" (Đầu tư, 12 / 1 /2002);
("Đuối dần" là cách nói nhại theo từ "cuối tuần");...
Mô hình khái quát:
A' / A
Trong đó: A' là từ xuất hiện thay thế cho A là từ có vỏ âm thanh gần giống với
nó.
d, Đảo ngược trật tự các thành tố trong cấu trúc, ví dụ:
"Lắc ai? Ai lắc?" (Tuổi trẻ, 11 / 5 / 2002); "Hồ Than Thở đang thở than" (Nông nghiệp Việt Nam, 9 / 4 /1999);...
Mô hình khái quát: AB ---> BA
Trong đó: A và B là các âm tiết trong một từ nguyên khối.
e, Phiên các âm tiết trong tên riêng nước ngoài thành các từ tiếng Việt có ý
nghĩa, ví dụ:
"Đại bại tướng Vét Mỡ Lợn (Wesmoreland) đã cút về nước mẹ Hoa Kỳ (Nhân
dân, 13 / 6 /1968);
45
"Khi ... Cá Bột Lọt (Cabotlodge) mời Zoon đến thăm Việt Nam, y hoa tay lia lịa
vì y sợ quân du kích hoan nghênh" (Nhân dân, 4 /11 /1966);...
Hình thức chơi chữ này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khai thác khá thường
xuyên trong các tiểu phẩm châm biếm của mình ở thời kỳ chiến tranh chống đế
quốc Mỹ.2
Mô hình khái quát:
ABC (+ y) / ABC (- y)
Trong đó: ABC (+ y) là các âm tiết trong tiếng Việt với ý nghĩa của chúng
được dùng để thay thế cho ABC (- y) là các âm tiết trong tiếng nước ngoài không
có ý nghĩa đó.
f, Gán cho âm tiết trong từ nước ngoài ý nghĩa của từ đồng âm với nó trong
tiếng Việt rồi xây dựng những kết cấu đối nhau. Ví dụ:
"Taylo rồi chân cũng lo" (Nhân dân, 20 / 7 /1964);
"Cô - ta sang Tây" ( Lao động, 11 / 3/ 1999);...
Mô hình khái quát:
AB (+ y) ----- (- A) hoặc (- B ) (+ y)
Trong đó: AB là các âm tiết trong tiếng nước ngoài được gán cho ý nghĩa của từ
đồng âm với nó trong tiếng Việt, (- A) và (- B) là các âm tiết tiếng Việt có ý nghĩa
đối lập với A và B, y là ý nghĩa.
g, Nói lái
Nói lái là một hình thức chơi chữ độc đáo. Chỉ bằng sự sắp xếp lại những bộ
phận cấu thành( phụ âm đầu, khuôn vần hay dấu thanh ) của các âm tiết nào đó,
người ta có thể tạo ra những âm tiết mới. Và trong nhiều trường hợp, các âm tiết
mới này không chỉ giống các âm tiết cũ về phương diện âm thanh mà còn có quan
hệ khăng khít với chúng về mặt ý nghĩa. ví dụ:
"... Cái gọi là "tình yêu hiện đại" có khi hiện đại quá hoá ra "hại điện", biến
thành bi kịch tình yêu " (Hạnh phúc gia đình, 28 / 12 / 2001);
"Xa đi, siđa!" (Lao động, 3 / 5 / 2002);
"Vấn đề " đầu tiên"..." (Lao động, 2 / 11 / 2002), v.v.
46
Các ví dụ trên đều là những trường hợp hợp chơi chữ thành công: Cái gọi là
"tình yêu hiện đại" rất có thể sẽ không chỉ làm phương hại đến thuần phong mỹ tục
của dân tộc mà còn làm tốn kém về vật chất của cá nhân và gia đình; vì thế từ "hại
điện" như là sản phẩm của sự nói lái được dùng rất chính xác. Căn bệnh thế kỷ
SIDA hiện chưa có thuốc chữa đang là nỗi ám ảnh kinh hoàng nhất của toàn nhân
loại, ai ai cũng cần phải tránh xa, cho nên phép nói lái Siđa thành "xa đi" là một sự
lựa chọn tinh tế. Rồi chuyện "tiền đâu?" luôn là vấn đề bức xúc và nan giải nhất ở
nhiều lĩnh vực hoạt động của cuộc sống, do đó nói lái " tiền đâu " thành "đầu tiên"
nhằm khẳng định vị thế quan trọng của đồng tiền trong việc thực hiện một kế
hoạch nào đó là hoàn toàn phù hợp với văn cảnh.
Ở đây cũng cần nói thêm rằng không phải sản phẩm nào của sự nói lái cũng đều
mang ý nghĩa, có những trường hợp chúng chỉ đơn giản nhằm mục đích tạo ra sự
mới lạ cho cách diễn đạt hay mang lại giá trị thẩm mỹ nhất định cho từ gốc vốn
biểu đạt một khái niệm không hay, không đẹp cho nên ít được dùng trong những
hoàn cảnh giao tiếp chính thức, trang trọng. Ví dụ:
“...Nghe thông tin từ ông Nguyễn lê- Phó Giám đốc Công ty thoát nước Hà Nội
- mà thấy rầu cả lòng. Theo ông Lê, với những trận mưa trên 50 mm trong 3 giờ thì
có thể có tới hơn 30 đường phố Hà Nội bị ngập úng trong mùa mưa 2002 này. Sực
nhớ, số điểm ngập úng cục bộ ở Hà Nội mùa mưa năm ngoái cũng là 30. 30 bằng
30. Và như vậy thì tình hình úng ngập năm nay đúng là "vũ như cẫn"...” (Lao
động, 15 / 5 /2002);
“Tuy truyền hình đến quay phim khá nhiều lần, nói là để phản ảnh nhưng mọi
thứ cứ " Nguyễn Y Vân " từ nhiều năm qua như thế” (Phóng sự Thái Minh Châu,
NXB. Lao động, 1999);
"Lại "cuổng trời"!" (Lao động, 21 / 4 / 2002);...
Nếu ta dùng các chữ cái A, B để biểu thị các chữ cái đứng đầu âm tiết, V - vần,
và T - thanh điệu, các trường hợp nói lái có thể được khái quát thành một số mô
hình cơ bản như sau:
A (V1 T1) B (V2 T2) -----> B (V2 T1) A (V1 T2): đấu tranh - tránh đâu;
A (V1 T) B (V2 T) ------> A (V2 T) B (V1 T): hiện đại - hại điện;
47
A (V1 T1) B (V2 T2) -----> A (V2 T1) B (V1 T2): cởi truồng - cuổng trời.
4. Dùng từ có thể đồng thời gợi ra nhiều ý nghĩa. Ví dụ:
"Làm thế nào cho lạc thêm vui?" (Nhân dân, 14 / 3 /1962)
"Những kẻ sống ... "lạc" (Gia đình, số 2 / 2003);...
Trong ví dụ thứ nhất, chính sự xuất hiện của từ "vui" đã khiến cho từ "lạc"
đồng thời biểu thị hai ý nghĩa: vừa là "củ lạc, hạt lạc" vừa là "vui sướng". Còn từ
"lạc" trong ví dụ thứ hai vừa có thể hiểu là "lầm lạc", vừa có thể hiểu là "khoái lạc"
(vì nội dung của bài phóng sự có tiêu đề như trên nói về những nam thanh niên
kiếm sống bằng nghề phục vụ chuyện chăn gối cho những phụ nữ đã luống tuổi,
thừa tiền nhưng lại thiếu tình).
Mô hình khái quát:
y1
A
y2
Trong đó: A là vỏ âm thanh, còn y1 và y2 là các ý nghĩa mà vỏ âm thanh đó biểu
thị.
Sau khi khảo sát việc chơi chữ trên báo chí, chúng tôi có một số nhận xét như
sau:
Thứ nhất, khái niệm về chơi chữ trong Từ điển tiếng Việt mà chúng tôi đã giới
thiệu ở phần đầu bài viết này cần được làm rõ hơn như sau:
Chơi chữ là một thủ pháp tạo giá trị biểu cảm cho lời nói, trong đó, trên cơ sở
những từ hay âm tiết nào đó, người ta sử dụng những từ hay âm tiết khác (có sẵn
hay vừa được tạo ra trong thời điểm giao tiếp) mà có nét tương đồng với chúng về
vỏ âm thanh hay có quan hệ nhất định với chúng về ý nghĩa, nhằm tạo ấn tượng
cho người nghe, người đọc.
Thứ hai, chơi chữ luôn mang tính bình giá nổi bật. Nói cách khác, nó luôn thể
hiện rõ ràng thái độ tình cảm của người viết đối với vấn đề, sự kiện, hiện tượng, ...
được phản ánh.
48
Thứ ba, việc chơi chữ, so với các thủ pháp tạo giá trị biểu cảm khác (như sử
dụng chất liệu văn học, dùng khẩu ngữ, vay mượn từ ngữ từ tiếng nước ngoài,
dùng ẩn dụ,...) ít được sử dụng hơn. Điều này là bởi những hoàn cảnh có khả năng
làm nảy sinh việc chơi chữ không nhiều; hơn nữa, để chơi chữ, người viết cần có
sự nhạy cảm nhất định trong việc xử lý ngôn từ.
Thứ tư, mang dấu ấn cá nhân rõ nét, việc chơi chữ luôn nổi bật và rất dễ dàng bị
nhận diện. Vì thế, không ít người xem chơi chữ như một con dao hai lưỡi: nếu sản
phẩm của sự chơi chữ là kết quả của một sự tìm tòi, khám phá tinh tế, phù hợp với
quy luật tự nhiên của ngôn ngữ thì hiệu quả tác động của nó sẽ rất to lớn; còn
ngược lại, nếu đó là kết quả của một kiểu tư duy áp đặt, khiên cưỡng, nó sẽ gây ra
sự phản cảm không thể xem thường đối với người đọc.
Chú thích
1. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt ( Hoàng Phê chủ biên ), NXB. Đà
Nẵng, 2001, tr. 172.
2. Viện Ngôn ngữ học, Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh,
NXB. Khoa học xã hội, H., 1980.
( Bài đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ, số 6/2003 )
49
MỘT SỐ NÉT KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
VÀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC
Nhà phê bình văn học thiên tài người Nga V.G. Bêlinski, khi phân tích cuốn
“Ai có lỗi? ” - một tập sách chính luận nổi tiếng của nhà văn, nhà tư tưởng lỗi lạc
Herxen, đã viết như sau:
"Sức mạnh chủ yếu của tác giả không phải ở trong sự sáng tạo, trong tính
nghệ thuật, mà ở tư tưởng - một tư tưởng được cảm nhận sâu sắc, mang tính ý thức
và phát triển cao. Tầm vóc lớn của tư tưởng đó chính là sức mạnh cơ bản của tài
năng tác giả ,còn phong cách nắm bắt các hiện tượng thực tiễn theo kiểu nghệ
thuật - chỉ là sức mạnh thứ yếu, mang tính bổ trợ của tài năng của ông ta” 1.
Những dòng chữ ngắn gọn này của Bêlinski, dù chỉ ở mức độ khái quát nhất,
đã khắc hoạ khá rõ sự khác biệt về phong cách biểu hiện trong báo chí và văn học
nghệ thuật.
Ai cũng biết rằng báo chí và văn học nghệ thuật đều dùng ngôn từ như là
thành tố số một trong việc xây dựng tác phẩm. Nhưng tính chất, đặc điểm và cách
thức sử dụng ngôn từ ở chúng lại khác xa nhau. Nguyên do là bởi báo chí và văn
học là hai hình thái ý thức xã hội hoàn toàn biệt lập đối với nhau.
Văn học có chức năng cơ bản là chức năng thẩm mỹ. Nó phản ánh thực tế
bằng những hình tượng nghệ thuật vốn thoát thai từ cuộc sống nhưng lại in đậm
dấu ấn riêng về quan niệm thẩm mỹ của tác giả. Nhà văn tiếp cận thực tiễn bằng
50
cách miêu tả cái cụ thể, cái cá nhân (các tính cách cá thể trong hoàn cảnh cá thể),
để rồi từ đó tạo dựng nên những hình ảnh điển hình (những tính cách điển hình
trong các hoàn cảnh điển hình).
Còn báo chí có chức năng chủ yếu là thông tin. Nó phản ánh hiện thực thông
qua việc đề cập các sư kiện nóng hổi, những vấn đề bức xúc có thực của ngày hôm
nay đang được đông đảo công chúng quan tâm, chờ đợi. Nhà báo tiếp cận thực tiễn
bằng cách khảo sát những cái chung, cái phổ biến của các nhóm người (thậm chí
của các giai tầng xã hội) có liên quan rồi trên cơ sở ấy khám phá ra bản chất của sư
việc, hiện tượng.
Chính các chức năng không giống nhau của văn học và báo chí đã khiến cho
phong cách biểu hiện về ngôn ngữ của chúng có một số nét khác biệt cơ bản dưới
đây:
1. Khác biệt về sự đánh giá
Sự đánh giá ở đây được hiểu là việc thể hiện thái độ, tình cảm của người viết
đối với những điều được phản ánh trong tác phẩm. Trong văn học và trong báo chí,
sự đánh giá khác nhau trước hết về phương tiện và cách thức biểu đạt.
Đối với văn chương, phạm trù đánh giá thường được bộc lộ dưới các hình
ảnh tràn đầy cảm xúc. Đó có thể là những hình ảnh gợi nỗi buồn tê tái, mà ẩn sâu
trong chúng là cái nhìn tiêu cực tràn đầy u uẩn, tuyệt vọng về thời cuộc:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới-mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
(Xuân Diệu)
Hoặc đó cũng có thể là những hình ảnh bi thương hàm chứa sức tố cáo mạnh
mẽ:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.
(Nguyễn Đình Thi)
v.v.
51
Còn trong báo chí, hoạt động đánh giá mang tính công khai, mạnh mẽ, bao
trùm.Trong quy trình sáng tạo của mình, báo chí liên tục tìm kiếm các phương tiện
biểu đạt giàu sắc thái đánh giá. Chính vì thế, kho tàng các phương tiện đánh giá
của nó phong phú và đa dạng hơn nhiều so với văn học .Trong ngôn ngữ báo chí,
chúng ta có thể gặp những nhóm từ vựng chuyên biệt chỉ phục vụ cho việc đánh
giá (những nhóm từ kiểu này thường được xem là của riêng văn phong báo chí,
còn nếu chúng xuất hiện ở các văn phong khác thì đó là kết quả của sự vay mượn).
Chẳng hạn, để thể hiện sự đánh giá tích cực, người ta lựa chọn những từ ngữ như:
có nhiều triển vọng, tín hiệu đáng mừng, chuyển biến tích cực, hợp tác hiệu quả,
thành tựu nổi bật, bàn thắng thuyết phục...; còn nếu muốn biểu lộ sự đánh giá tiêu
cực, người ta có thể lựa chọn các từ như: tiếp tay, câu kết, ngóc đầu, rùm beng, trả
đũa, dính líu... Bên cạnh đó, để phục vụ cho mục đích đánh giá, báo chí còn sử
dụng cả nhiều nhóm từ vựng khác như từ ngữ thông tục, từ ngữ hội thoại, từ ngữ
vay mượn từ tiếng nước ngoài, tiếng lóng, v,v.2 Rồi về mặt cú pháp, ngôn ngữ báo
chí cũng dùng một số kiểu câu có cấu tạo đặc biệt,ví dụ:
- Câu có đề ngữ: “Hà Nội: Còn đâu những khu phố cổ” (Lao động); “Lũ
đồng bằng sông Cửu Long: Sao chưa đến hẹn đã lên? ” (Báo An Giang); “Ma tuý:
Quằn quại những nẻo về” (Thương mại); “Bạn đọc trẻ: Bâng khuâng đứng
giữa....; Bạn viết trẻ :Những kẻ theo nghề bỏ cuộc chơi ” (Sinh viên Việt Nam),
v.v.
- Câu được đảo ngữ: “Nổi nênh nghiệp rối ” (Văn nghệ trẻ); “ Lặng lẽ quá...
liên hoan phim ” (Văn hoá); “Sôi nổi các cuộc tuyển quân” (Nhân dân); “Nhộn
nhịp đường lên biên giới “ (Lao động)...
Với những kiểu câu trên, thái độ của tác giả đối với sư kiện hay vấn đề trở
nên rõ ràng và ấn tượng hơn.
Song, có lẽ trong số các thủ pháp nhằm tạo sắc thái đánh giá cho ngôn ngữ
báo chí, nổi bật nhất vẫn là việc sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, hoán dụ, so
sánh, chơi chữ, nói lái, v.v., trong đó không thể không kể đến ẩn dụ như một
phương tiện đánh giá có tầm quan trọng đặc biệt bởi tính phổ cập rộng rãi và tính
hiệu quả cao của nó.
52
Ẩn dụ báo chí đặt ra mục đích hàng đầu không phải là tạo hình tượng mà là
đem lại hiệu quả đánh giá: khẳng định hay là phủ định (với các biểu hiện cụ thể
như: sự hứng khởi, sự long trọng, niềm đam mê...,về một phía; và sự lên án, sự chế
nhạo, sự khinh miệt..., về một phía khác). Chính vì lẽ đó mà cả nguồn gốc, cả đối
tượng của ẩn dụ báo chí đều có những đặc trưng riêng rõ nét. Như là nguyên tắc,
tham dự vào quá trình ẩn dụ hoá thường là những khái niệm được xem là quan
trọng hơn cả về mọi phương diện như tư tưởng, chính trị, kinh tế..., ví dụ: kim chỉ
nam, hòn đá tảng, ánh sáng chỉ đường, vàng trắng, vàng đen, vựa lúa, bội thu,
chảy máu chất xám, căn bệnh tham nhũng...Tương tự, nguồn gốc của ẩn dụ cũng
thường được lấy từ các lĩnh vực có uy tín xã hội cao, được nhiều người quan tâm,
và chỉ cần đề cập tới chúng đã tạo nên các hiệu quả đánh giá (chẳng hạn với các
thuật ngữ như: viêm, căn bệnh, thẻ vàng, thẻ đỏ, phục kích, dọn đường, quả bom
nổ chậm, bắn, oanh tạc, đầu ra, đầu vào, v.v, nếu đưa vào các ngữ cảnh nhất định
của giao tiếp báo chí sẽ trở thành các ẩn dụ rất sinh động, đậm chất bình giá).
Dưới đây là một số ví dụ khá điển hình về ẩn dụ báo chí:
- ...Ở VCK World Cup 2002 tới đây đương nhiên sẽ có các tiền đạo đi bóng
ngoằn ngoèo và các "tiều phu" của các hàng phòng ngự sẽ tìm cách đốn gục. Khi
ấy, "cầu thủ thứ 23" sẽ phải rất cẩn thận mà huýt còi, kẻo huýt sai sẽ khốn khổ với
búa rìu dư luận (Thiếu niên tiền phong, số 59 / 2002);
- Ngay trong 10 phút đầu tiên của trận đấu, những cơn lốc màu da cam đã
nhiều phen khiến cho khung thành đội tuyển Pháp chao đảo. (Lao động);
- Họ cần phải liên kết lại để xây đập ngăn chặn Lepen và phe cực hữu nắm
quyền lãnh đạo nước Pháp (Hà Nội mới, 16 / 5 / 2002);
- Cơn sốt giá gas đến bao giờ mới hạ? (Thanh niên );
- Đồng euro gây sóng gió tại Pháp ( Lao động, 24 / 5 /2001)...
Khảo cứu cho thấy, các ẩn dụ báo chí thường là sản phẩm sáng tạo của cá
nhân nên hay mang tính ngẫu hứng chủ quan và gắn liền với ngữ cảnh hẹp. Nếu bị
tách ra khỏi ngữ cảnh đó chúng chỉ còn là những từ ngữ thông thường biểu đạt các
ý nghĩa thông thường mà không còn mang sắc thái biểu cảm - đánh giá nữa.
53
Nếu so với ẩn dụ báo chí, ẩn dụ trong văn học nghệ thuật trước hết là các hình
tượng, ví dụ:
Phượng những tiếc cao, diều hay liệng
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi.
(Nguyễn Trãi)
-Rằng: Trong ngọc đá vàng thau
Mười phân ta đã tin nhau cả mười
(Nguyễn Du)
Nghe rào rạt mười bốn triệu miền Nam đang tỉnh giấc
Không! Ba mươi triệu kim cương của thiên hà Tổ quốc
Không ! Hàng nghìn triệu ngôi sao sáng anh em đang
chiếm lĩnh bầu trời...
(Chế Lan Viên)
Ẩn dụ trong văn học thường phản ánh cách nhìn của tập thể, xuất phát từ kiến
thức chung của tập thể cho nên chúng mang tính khách quan. Và ở mức độ nào đó,
cả tính tất yếu. Chẳng hạn những sự vật như hoa, vàng, ngọc, kim cương, v.v.,
trong nhận thức chung của xã hội là những thứ tốt đẹp, cao quý, vì thế chúng được
dùng làm ẩn dụ tu từ để chỉ cái tốt đẹp, cao quý.
Ẩn dụ trong văn học liên quan tới mọi lĩnh vực và mọi đối tượng (chứ không chỉ
dành cho một địa hạt hay một nhóm đối tượng được "ưu tiên" nào đó như trong
báo chí ). Môi trường hành chức của chúng thường là ngữ cảnh lớn, không hiếm
khi là toàn bộ tác phẩm như một chỉnh thể nguyên vẹn. Nếu chúng ta đã từng đọc
“Thép đã tôi thế đấy” (N. Ôtxtrôpxki), “Đôi mắt” (Nam Cao), “Cái lạt ” (Vũ Thị
Thường) chắc hẳn đều nhận thấy rằng chỉ có thể hiểu được một cách đầy đủ ý
nghĩa ẩn dụ của các từ “thép”, “tôi”, “đôi mắt”, “cái lạt” trong đầu đề của các tác
phẩm này sau khi đã đọc xong chúng. “Thép đã tôi thế đấy” hoàn toàn không viết
về chuyện luyện gang thép mà miêu tả chặng đường đấu tranh gian khổ, sự tôi
luyện “chất thép” của thế hệ trẻ Xô Viết anh hùng trong chiến đấu và lao động,
trong lò lửa của cách mạng. " Đôi mắt " không phải là chuyện kể về đôi mắt của
một con người cụ thể nào mà là sự thể hiện quan niệm sống và sáng tác của người
54
nghệ sĩ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Còn “Cái lạt” được dùng theo nghĩa
hình tượng, nghĩa bổ sung (lạt mềm buộc chặt); đó chính là những thứ ơn huệ có
khả năng trói buộc người ta, làm cho người ta dễ bị sa vào lối sống “dĩ hoà vi quý”,
không còn can đảm đấu tranh với cái xấu, cái tiêu cực 3 .
Qua phân tích các ví dụ có thể nói, ẩn dụ trong văn học không nhất thiết phải
mang sắc thái đánh giá tích cực hay tiêu cực rõ nét như ẩn dụ báo chí vì nhiệm vụ
quan trọng nhất mà chúng phải hoàn thành là tạo hình tượng.
Không chỉ khác nhau về cách thức và phương tiện biểu đạt, sự đánh giá
trong ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học còn khác nhau cả về tính chất quan
hệ của chủ thể sáng tạo đối với chính sự đánh giá ấy.
Sư đánh giá trong ngôn ngữ báo chí, cho dù nó được biểu hiện qua ẩn dụ hay
bất kì phương tiện nào khác, luôn mang tính xã hội sâu sắc. Vì theo quan niệm của
chủ thể phát ngôn, ý nghĩa xã hội của ngôn từ trong ngôn ngữ báo chí thể hiện ở
chỗ nó không chỉ thuộc về riêng tác giả mà còn thuộc về cả một nhóm xã hội, tổ
chức, liên minh, đảng phái, giai cấp mà có tư tưởng, đường lối, chính sách được tờ
báo truyền bá với tư cách “nhà tuyên truyền và cổ động tập thể”. Bất kì một từ
ngữ báo chí nào dường như cũng được “thiêng liêng hoá” nhờ uy tín của tập thể
(đảng phái hay liên minh) là cơ quan xuất bản hay biên tập ấn phẩm báo chí . Đây
chính là một trong những cội nguồn của sức mạnh và sự xác đáng của ngôn từ trên
trang báo.
Còn sự đánh giá trong ngôn ngữ văn học luôn gắn liền với chủ thể sáng tạo
ra tác phẩm, nghĩa là nó mang tính cá thể rõ nét. Vì lao động nhà văn là lao động
đơn lẻ, và cũng chỉ có anh ta là người phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của
mình. Ngay cả trong trường hợp nhà văn đứng trên lập trường của một nhóm hay
một tổ chức xã hội nào đó thì cũng không thể coi tác phẩm của anh ta là tiếng nói
chính thức của nhóm hay tổ chức xã hội ấy.
2. Khác biệt về vai trò cái tôi tác giả
55
Như chúng ta đều biết, trong hoạt động giao tiếp lời nói nào cũng là sản
phẩm của người phát hướng về người nhận với mục đích nhất định. Vì thế việc
phân tích lời nói còn có thể tiến hành từ các góc độ của hai loại đối tượng này.
Nếu so sánh các phong cách của người phát (tức là “cái tôi” tác giả) trong
ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học ta sẽ thấy chúng có nhiều điểm khác biệt
quan trọng.
Nguyên tắc cơ bản của ngôn ngữ báo chí, đồng thời cũng là cơ sở và đặc điểm
cấu trúc của nó là sự công khai, sự biểu đạt trực tiếp và thẳng thắn “cái tôi” của tác
giả. Đây có thể xem là nét khác biệt khá nổi bật giữa báo chí và văn học, là nơi tác
giả không bao giờ giao tiếp trực diện với độc giả. Trong phong cách báo chí, “cái
tôi” đích thực của tác giả luôn đàm thoại trực tiếp với độc giả. Ở đây, mọi sự đánh
giá, mọi niềm xúc cảm đều của chính “cái tôi” này, (tất nhiên, suy cho cùng, thì
những sự đánh giá, những niềm cảm xúc ấy sẽ phải mang tính xã hội, vì tác giả của
tác phẩm báo chí bao giờ cũng đại diện cho một nhóm xã hội, một tổ chức đảng
hay một giai cấp; thế nhưng trước hết chúng vẫn phải đích thực là của chính tác
giả, là sản phẩm của trái tim và khối óc của anh ta, bởi nếu không, anh ta chỉ là
công cụ phát ngôn cho kẻ khác và không thể nào chinh phục được độc giả). Do vậy
kết cấu về ngôn từ trong báo chí thường in đậm chất xúc cảm cá nhân. Dĩ nhiên,
trong các thể loại khác nhau thì mức độ tham dự của “cái tôi" tác giả cũng khác
nhau. Có những loại thể báo chí mà ở đó chúng ta hầu như không thấy sự hiện diện
của tính cá thể (như thông báo tin tức, tin vắn, tin thời sự,..).Thế nhưng nói chung,
vai trò của “cái tôi” tác giả trong việc hình thành kết cấu ngôn ngữ báo chí đáng kể
tới mức có thể coi nó là cơ sở để phân loại các tác phẩm báo chí.
Trong khi đó thì ngôn ngữ văn học lại thiên về tính ước lệ. Cái thế giới do nhà
văn sáng tạo nên là thế giới tưởng tượng, thế giới được cải biến và đầy chất ước lệ.
Tác giả, như là nguyên tắc, không đưa ra những lời đánh giá trưc tiếp, thẳng thắn
đối với các nhân vật cũng như đối với ngôn từ và các hành vi của họ. Anh ta cứ từ
từ đưa độc giả tới những đánh giá mà anh ta chờ đợi một cách gián tiếp. Sự can
thiệp trực tiếp của tác giả vào văn bản, mặc dù là có thể, nhưng không điển hình
56
cho phong cách văn học nghệ thuật. Nó có thể là một thủ pháp cố ý (và độc giả dễ
dàng nhận thấy điều đó), hoặc giả là biểu hiện của sư non yếu về bút pháp của tác
giả. Tác phẩm báo chí luôn cảm thấy mình khác lạ, “khó ở” nếu phải khoác cái áo
của văn xuôi nghệ thuật.
Ngôn ngữ báo chí hoàn toàn không có tính ước lệ vốn đặc trưng cho văn xuôi
nghệ thuật. Trong phong cách chức năng này, “cái tôi” tác giả thường thể hiện
công khai (mức độ công khai ấy, như đã nói ở trên, đương nhiên còn phụ thuộc vào
thể loại và giọng điệu trần thuật), nó không tách ra khỏi độc giả, không bị khách
quan hoá như trong văn học nghệ thuật là nơi nhân vật phải sống một cuộc sống
độc lập, không dính líu tới tác giả. Vì lẽ đó mà trong báo chí, tính cá nhân cũng
như cái nét riêng biệt của tác giả cùng sự phong phú về tư tưởng và tình cảm của
anh ta có ý nghĩa hết sức to lớn.
Có thể nói, chính vị thế của tác giả xác định sự khác biệt cốt lõi, mang tính
nguyên tắc, giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí. Ngôn ngữ báo chí đậm
chất của chủ quan, giàu tính đánh giá (định danh và đánh giá), nó thường đơn diện,
đơn thanh, còn ngôn ngữ văn học thường bị khách quan hoá, đa diện, đa thanh.
Trong văn học nghệ thuật có thể xảy ra sự đan xen một số tầng ngôn ngữ: ngôn
ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ các nhân vật; chúng tác động
tương hỗ lẫn nhau một cách phức tạp, đa dạng và tạo nên một phông ngôn từ
phong phú , nhiều sắc màu xét trên phương diện phong cách.
Còn trong báo chí chủ thể đích thực của lời nói lại thường trùng với “cái tôi”
của tác giả. Vì thế trong ngôn ngữ báo chí chúng ta hầu như chỉ bắt gặp một tầng
phong cách, đó là lời nói của tác giả, còn lời nói đích thực của nhân vật rất ít khi
xuất hiện trừ một số ít loại thể trên phát thanh và truyền hình.
Thế nhưng tính đơn diện, đơn thanh của ngôn ngữ báo chí tuyệt đối không
phải là dấu hiệu của sư nghèo nàn. Ngược lại, chính trong đặc điểm này đã bộc lộ
nét đặc thù không trộn lẫn của nó: tính biểu cảm và khả năng tác động. Và cũng
chính nhờ đặc điểm nói trên mà phong cách báo chí đã được sử dụng trong văn học
nghệ thuật. Việc sử dụng ấy gắn liền với sự thể hiện một cách trưc tiếp, không giấu
57
giếm quan điểm của tác giả. Phong cách báo trong trường hợp này là hình thức đặc
biệt về đưa tư liệu, là nguyên lý đặc biệt của việc xây dựng hình ảnh tác giả, nó mở
đường cho sự can thiệp trực tiếp của giọng điệu tác giả cũng như tạo điều kiện cho
sự xuất hiện các suy luận của anh ta.
Nếu như với văn học nghệ thuật, sự can thiệp trực tiếp của tác giả vào diễn biến
các sư kiện được phản ánh thường được xem như là sư lệch chuẩn hoặc là một thủ
pháp cố ý (ngoài lề báo chí-chính luận), thì đối với phong cách báo chí - đây là quy
luật tất yếu, là đặc điểm cơ bản của cấu trúc lời nói vốn làm nên đặc thù, sức mạnh
cũng như sự biểu cảm của nó. Dù chủ thể sáng tạo của tác phẩm báo chí có nói về
điều gì đi chăng nữa, thì trong cấu trúc ngôn từ của nó anh ta phải thể hiện trực tiếp
“giọng điệu”, những đánh giá, cảm xúc, diễn biến tư tưởng, sự say mê, sự bức xúc
của mình trước đề tài và đối tượng mà bài viết đề cập. Và thực tế cho thấy là chất
báo chí luôn tỏ ra tỉ lệ thuận một cách trực tiếp với cảm xúc và thái độ của tác giả
trước điều anh ta phản ánh. Có thể nói, chính sự công khai, thẳng thắn và tích cực
trong quan điểm của tác giả đã làm cho báo chí (nhất là chính luận) trở thành
phương tiện tác động có sức mạnh ghê gớm, nhiều khi vượt qua cả sức mạnh của
văn học nghệ thuật.
Nói tóm lại, trong phong cách văn học nghệ thuật, “cái tôi” tác giả luôn lẩn
khuất, không lộ diện, còn “cái tôi” xuất hiện chỉ là hình tượng nghệ thuật - “cái
tôi” thẩm mỹ của nhân vật là người dẫn chuyện; trong khi đó thì ở phong cách báo
chí "cái tôi" tác giả bao giờ cũng được biểu đạt công khai, trực tiếp, và do vậy, nó
trở thành nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thuyết phục độc giả tin
vào tính xác thực của thông tin.
3. Khác biệt về tính chất khuôn mẫu
Khi nói về các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, không thể nào không đề cập tới
tính khuôn mẫu khó trộn lẫn của nó. Theo nhà nghiên cứu hàng đầu của Nga hiện
nay về ngôn ngữ báo chí M. Shostac thì khuynh hướng thiên về việc lựa chọn các
phương tiện ngữ pháp, rồi các điều kiện văn hoá - xã hội đặc biệt mà tờ báo đang
tồn tại trong đó (chẳng hạn như phải dành cho một lượng độc giả đông tới mức
58
không xác định được, và đồng thời phải thích ứng với những thói quen, những
phong cách sử dụng ngôn từ đa dạng nhất của mọi tầng lớp trong xã hội) đã khiến
cho các kiểu thông tin cơ bản thường gặp của báo chí như phỏng vấn, tin vắn...
được xây dựng theo những hình mẫu có sẵn, được chế định bởi những khuôn ngôn
từ hình thành trong quá trình sản xuất tờ báo.4
Dưới đây là một số khuôn thường được dùng để viết các mẩu tin:
- Ngày...Bộ Ngoại giao Nga đã ra tuyên bố bác bỏ tin nói rằng...
-TTXVN. Ngày...tại...Thủ tướng Chính phủ đã kêu gọi...
-Hôm qua...tại...đã khai mạc...
-Theo các nguồn tin...trong cuộc gặp...Tổng thống đã khẳng định...
Đúng là báo chí không thể thiếu khuôn mẫu, nhưng sẽ là sai lầm nếu cho
rằng sự rập khuôn chỉ xảy ra trong địa hạt của ngôn ngữ báo chí. Cần phải khẳng
định: hiện tượng này có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của ngôn ngữ nói chung.
Tạo ra khuôn mẫu về ngôn từ, hay nói cách khác, xây dựng các công thức ngôn từ
có sẵn, nhằm làm cho hoạt động giao tiếp trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn là
một quá trình tự nhiên, khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội cũng
như của ngôn ngữ. Thực tế cho thấy là tính uyển chuyển, linh hoạt và phát triển
cao của ngôn ngữ văn hoá (ngôn ngữ chuẩn mực) được xác định chủ yếu là bằng
mức độ qui chuẩn nó, tức là bằng số lượng nhiều hay ít các công thức, các khuôn
mẫu dành cho các tình huống giao tiếp với các mục đích khác nhau. Nếu thiếu
vắng những cái khuôn như vậy, hoạt động giao tiếp sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều,
nó buộc người ta phải tự tạo ra những lối nói, những công thức ngôn từ cho từng
điều kiện giao tiếp cụ thể, mà điều này là bằng chứng không thể phủ nhận về sự
chưa hoàn chỉnh của các phong cách ngôn ngữ.
Rập khuôn phản ánh cái xu hướng có bề sâu trong ngôn ngữ là tự động hoá,
lặp lại, và ổn định các phương tiện biểu đạt, nhằm tạo ra một phương thức định
danh và đánh giá quen thuộc và bền vững về mặt xã hội.
Những điều kiện bên ngoài thúc đẩy sự rập khuôn hoá ngôn ngữ báo chí là
tính chất tức thời của hoạt động báo chí, sự lặp lại thường xuyên và tính định kỳ
59
của các đề tài, tình huống, v.v. Đặc trưng của sự rập khuôn hoá ngôn ngữ báo chí
trước hết nằm trong tính đánh giá xã hội của nó. Chính nguyên tắc đánh giá (vốn
được xem là cơ bản trong phong cách báo chí -chính luận) đã qui định không chỉ
phương hướng mà còn cả tính chất sự rập khuôn hoá lời nói trong ngôn ngữ báo
chí. Khảo cứu cho thấy, tuyệt đại đa số các khuôn mẫu (từ, ngữ, kiểu nói...) đều
mang sắc thái đánh giá: hoặc là tích cực, hoặc là tiêu cực. Ví dụ, một bên là: với
lòng nhiệt tình cháy bỏng, tích cực thi đua, khơi dậy phong trào, đánh dấu những
cái mốc mới, gánh vác những trách nhiệm cao cả, v, v; còn một bên là: với sự phẫn
nộ sâu sắc, phải trả giá đắt, thất bại ê chề, cực lực lên án, v.v. Còn các khuôn mẫu
không mang sắc thái đánh giá chỉ chiếm một dung lượng rất nhỏ; đó là các từ, ngữ
thuộc về kiểu thông tin chính thức hay các tin vắn như: theo thông báo, trong
không khí, theo nguồn tin, dẫn lời, v.v.
Ngôn ngữ văn học cũng không hề xa lạ đối với tính khuôn mẫu. Nhưng tính
chất và phương hướng của sự rập khuôn ở đó bị chi phối trước hết bởi một hoàn
cảnh là: Ngôn ngữ của văn học nghệ thuật kỳ vọng vào sự tiếp nhận của mỗi cá
nhân và xuất phát từ sự sản xuất ngôn từ cũng mang tính cá nhân. Cả báo chí, cả
văn học đều hướng về độc giả đại chúng, nhưng báo chí thì hướng về quần chúng
(hoặc các nhóm xã hội, các giai cấp biệt lập nào đó) nói chung. Còn văn học lại
hướng tới từng độc giả cụ thể, và qua anh ta, tới tất cả mọi người. Tính cá thể hoá
ngôn ngữ (cả về phương diện người phát, cả về phương diện người nhận), rồi sự cụ
thể hoá theo kiểu hình tượng nghệ thuật đã tạo nên phẩm chất đặc thù riêng của
văn chương nghệ thuật. Nhưng tính cá thể hoá ngôn ngữ lại hoàn toàn không loại
trừ sự rập khuôn hoá, chỉ có điều sự rập khuôn ở đây phải tiếp nhận một hình thái
phức tạp hơn. Dễ dàng nhận thấy, trong ngôn ngữ văn học nghệ thuật cái bị rập
khuôn hoá không phải là hình thức ngôn từ, mà là thủ pháp, phương thức, phong
cách diễn đạt. Tính cá thể hoá (tức là không rập khuôn) đạt được là nhờ sự phục
hồi, thay đổi các khuôn mẫu, bằng sự cải biến chúng một cách mạnh dạn và sáng
tạo. Mặc dù khuôn mẫu trong ngôn ngữ văn học không rõ nét như trong ngôn ngữ
báo chí, nhưng nó vẫn là phần cốt lõi của toàn bộ phông ngôn từ. Mỗi nhà văn tài
năng, khi xây dựng một phong cách riêng của mình (gồm tổng thể các thủ pháp,
60
các phương thức sử dụng ngôn từ) về thực chất, đã tạo nên một hệ thống các khuôn
mẫu cá nhân (dành cho riêng mình), mà sau đó, chúng có thể trở thành khuôn mẫu
cho người khác nếu nằm dưới ngòi bút của những người mô phỏng, bắt chước
thiếu sáng tạo.
Trong văn học Việt Nam có không ít những khuôn mẫu về sử dụng ngôn từ của
cá nhân đáng được lưu danh hậu thế. Đó là khuôn mẫu Hồ Xuân Hương, thể hiện
trong việc khai thác những từ tượng thanh, tượng hình “lắt léo” và ấn tượng,
những cách nói lái, chơi chữ tài tình. Đó là khuôn mẫu Tú Xương, nằm ở sự vận
dụng những nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa chính xác nhất của ngôn ngữ sinh hoạt
hàng ngày. Đó là khuôn mẫu Tố Hữu, gắn liền với việc dùng những hình ảnh
tượng trưng vừa hiện thưc lại vừa lãng mạn. Đó là khuôn mẫu Chế Lan Viên, hình
thành từ sự hay dùng khả năng diễn đạt của nhiều tầng nghĩa sâu xa của ngôn từ.
Và còn nhiều nữa, những khuôn mẫu của Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Tuân...
Như vậy sự rập khuôn trong ngôn ngữ báo chí có khuynh hướng đánh giá và
giao tiếp toàn xã hội, còn sự rập khuôn trong ngôn ngữ văn học nghệ thuật chỉ
mang tính giao tiếp cá nhân. Một tờ báo, trong không ít các thể loại bài của mình,
công khai định hướng vào các khuôn mẫu có tính chất tuyên truyền, cổ động, đánh
giá, được kỳ vọng là sẽ còn lặp lại nhiều lần (tái sử dụng) và có sức tác động lớn
tới cảm xúc. Khuôn mẫu của ngôn ngữ văn học trong trường hợp lý tưởng chỉ dành
cho một lần sử dụng và thời gian tồn tại của nó so với khuôn mẫu báo chí ngắn hơn
nhiều, chịu sự “hao mòn vô hình” nhanh hơn. Có lẽ đây chính là lý do khiến cho
khuôn mẫu báo chí dễ bị nhận biết hơn và có vai trò nổi bật hơn trong việc xây
dựng tác phẩm.
Như vậy là chúng ta đã điểm qua một số nét khác biệt cơ bản giữa ngôn ngữ
báo chí và ngôn ngữ văn học ở ba phương diện: sự đánh giá, vai trò “cái tôi” tác
giả và tính khuôn mẫu. Việc chỉ ra những nét khác biệt như vậy xuất phát từ mục
đích góp phần khảng định vị thế độc lập của báo chí và văn học với tư cách là
những loại hình sáng tạo có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cuộc sống con
61
người; đồng thời giúp cho các chủ thể sáng tạo, khi viết tác phẩm, nhận thức được
rõ ràng và chuẩn xác hơn cái phong cách ngôn ngữ mà mình đang thể hiện, để rồi
từ đó, sử dụng ngôn từ một cách chủ động và có hiệu quả. Tuy nhiên, do đây là vấn
đề còn mới mẻ cho nên những điều chúng tôi trình bày ở trên, vốn mới chỉ là kết
quả của những khảo sát bước đầu, chắc chắn còn nhiều khía cạnh cần được chỉnh
lý, bổ sung.
Chú thích
1. Bêlinski V.G., Toàn tập, M., 1948, tập 3, tr.804-805 ( bằng tiếng Nga).
2. Hoàng Anh, Một số thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm trong ngôn
ngữ báo chí, Tạp chí " Ngôn ngữ và Đời sống ", số 7, 1998.
3. Đinh Trọng Lạc ( chủ biên ), Phong cách học tiếng Việt, NXB. Giáo dục,
H., 1997, tr.151.
4. Shostak M., Ngôn ngữ một số phương tiện thông tin đại chúng, M., 1993,
tr.77 ( bằng tiếng Nga).
( Bài in trong Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp Bộ: " Mối quan hệ giữa văn học và báo
chí ở Việt Nam từ khi báo chí ra đời đến nay ", H., 2001. )
62
THỬ PHÂN LOẠI TIÊU ĐỀ CÁC VĂN BẢN BÁO CHÍ
Tiêu đề các văn bản báo chí hết sức đa dạng cả về hình thức cũng như nội dung,
vì thế việc tìm ra một tiêu chí chung để phân loại chúng rất không đơn giản. Tuy
nhiên, xuất phát từ một góc nhìn tổng thể về các phương diện ý nghĩa - chức năng,
chúng ta vẫn có thể chia chúng thành một số kiểu cơ bản dưới đây:
1. Tiêu đề xác nhận
Đúng như tên gọi, tiêu đề loại này chỉ có nhiệm vụ đơn giản là xác nhận sự tồn
tại của các sự kiện, hiện tượng, hoàn cảnh,... nào đó trong thực tế khách quan. Đối
với thể loại tin, nhất là các tin ngắn, tin vắn, tiêu đề xác nhận thường là một thông
báo trọn vẹn và khá cụ thể, chẳng hạn: " Xuất bản quốc doanh trung Quốc thua lỗ
" ( Hà Nội mới cuối tuần, 17 / 4 / 1999 ); " Việt Nam có hơn 45 nghìn máy vi tính
không tương thích với năm 2000 " ( Lao động, 19 / 4 / 1999 ); " 8000 người hồi
hương được học nghề miễn phí " ( Văn hoá, 18 / 4 / 1999 ); " 87.000 lượt khách du
lịch tới Vũng Tàu trong 5 ngày Tết " ( Người lao động,6 / 2 / 2003 );... Ở đây, tác
giả chỉ nêu sự kiện với một thái độ điềm đạm khách quan, nhường mọi sự bàn
luận, đánh giá cho độc giả. Còn đối với các bài viết lớn dưới dạng bút ký, ghi chép,
phóng sự,... tiêu đề xác nhận thường chỉ dừng lại ở sự gọi tên cảnh huống, đối
tượng,... Ví dụ: " Trong đêm giao thừa " ( Hà Nội mới chủ nhật, 19 / 2 /1999 ); "
Qua Kẻ Noi " ( Lao động, 22 / 2 / 1999 ); " Bức tranh kinh tế thế giới năm 1998 "
( An ninh thế giới, 28 / 1 / 1999 ); " Đoàn bay Việt Nam " ( Lao động, 28 / 4
63
/1999 ); " Tết Hà Nội " ( Lao động Thủ đô, Tết Quý Mùi 2003 ); " Đêm cuối năm ở
cuối tuyến săn sóc đặc biệt " ( Người lao động, 6 / 2 / 2003 );... Những tiêu đề như
vậy mới đủ sức gợi và tầm khái quát, phù hợp với tầm vóc của tác phẩm lớn.
2. Tiêu đề câu hỏi
Các tiêu đề câu hỏi được sử dụng với mật độ khá dày trên các báo. Chúng vừa
gợi sự phán đoán của độc giả về một vấn đề bức xúc, đáng được quan tâm nào đó,
vừa hứa hẹn câu trả lời thoả đáng ở phía dưới, và điều này có nghĩa là chúng đáp
ứng được nhu cầu tâm lý phổ biến của con người là muốn tìm tòi, khám phá hiện
thực cuộc sống xung quanh. Chính vì lý do đó mà tiêu đề - câu hỏi thường thu hút
được sự chú ý không nhỏ của độc giả.
Ví dụ: " Nguyễn Duy - ly thân hay tiếp thị thơ? " ( Lao động, 4 /3 / 1998 ); "
Ảnh viện - đẹp hay không đẹp " ( Hà Nội mới cuối tuần, 28 / 2 / 1998 ); " Giám thị
cũng có phong bì? " ( Tiền phong, 9 / 7 / 1998 ); " Đủ sức đóng tàu, sao vẫn đi
mua tàu ở nước ngoài ? " ( Nhân dân, 14 / 3 / 1999 ); " Vì sao các ca sỹ Huế đi lập
nghiệp ở nơi xa ? " ( Văn hoá, 9 / 5 /1999 ); " Vì sao năm nay không thi " người
đẹp vùng quan họ? " ( Thể thao và Văn hoá, 11 / 2 / 2003 );...
3. Tiêu đề kêu gọi
Thực chất , các tiêu đề kêu gọi là những câu cầu khiến. Chúng kêu gọi độc giả
hãy hướng tới một suy nghĩ, một hành động,.. cần thiết ( theo quan điẻm của người
viết ) nào đó. Do các tiêu đề loại này luôn thể hiện một cảm xúc khá tha thiết và
chân thành của tác giả nên chúng có tác động không nhỏ tới tâm tư, tình cảm của
người đọc, để rồi từ đó, trong lòng họ nảy sinh ý muốn đọc toàn bộ văn bản nhằm
chia sẻ các nỗi niềm cùng tác giả.
Ví dụ: " Xin đừng vội quên! " ( Hà Nội mới chủ nhật, 9 / 8 /1998 ); " Không nên
phấn đấu học nghị quyết " vượt kế hoạch!" ( Nhân dân, 4 /1 / 1999 ); " Hãy giúp
những người bệnh này kéo dài thêm sự sống! " ( Lao động, 8/ 2 / 1999 ); " Hãy bảo
vệ di sản văn hoá Nam Tư " ( Văn hoá, 9 / 5 / 1999 ); " Hãy cứu những con bò
rừng cuối cùng " ( Lao động, 20 / 2 /2003 ); " Đừng để chuyện xưa lặp lại " ( Gia
đình, số 9 /2002 );...
4. Tiêu đề trích dẫn
64
Ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến các tiêu đề là lời trích dẫn trực tiếp. Còn các tiêu
đề trích dẫn gián tiếp nằm trong phạm vi của loại tiêu đề xác nhận.
Tiêu đề - trích dẫn tạo cảm giác rằng nguồn tin của tác giả là hoàn toàn chính
xác, đáng tin cậy. Nói cách khác, đây là những bài nói về những con người, những
sự việc có thật mà chính tác giả dược chứng kiến. Chủ thể của những lời nói được
trích dẫn thường là các nhân vật nổi tiếng, được nhiều người quan tâm nên các tiêu
đề loại này cũng có hiệu quả tâm lý khá cao vì chúng tạo điều kiên cho độc giả
được tiếp xúc với họ một cách gián tiếp và thu nhận được thêm những thông tin
mới về họ. Ví dụ:
" Nhà văn Bùi Ngọc Tấn: " Không viết văn, tôi biết làm gì? " ( Lao động, 27 /
3 / 1999 ); " Ngọc Châu: " Hồn truyền thống hoà vào đời sống của tôi " ( Tuổi trẻ
và hạnh phúc, số 9 / 1999 ); " Nhà thơ Trần đăng Khoa: " Tháng 10 này tôi sẽ cưới
vợ " ( Lao động Thủ đô, 22 / 5 /1999 );" Tổng thống Saddam Hussein: " Nhân dân
Iraq không muốn chiến tranh " ( Người lao động, 6 / 2 /2003 ); " Eriksson: "
Rooney là Pele của tôi " ( Thể thao và văn hoá, 11 / 2 /2003 )...
Bên cạnh đó, cũng càn phải nói thêm rằng, trong một số trường hợp chủ thể của
lời nói được trích dẫn không xuất hiện ở tiêu đề. Bằng cách này, tác giả bài viết đã
kích thích một cách khá hiệu quả trí tò mò của độc giả, khiến họ phải đọc tiếp ngay
xem đối tượng đó là ai. Ví dụ:
" Nếu thất bại, tôi sẽ rút lui " ( An ninh thế giới, 24 / 7 / 1998 ); " Nhiều người
Việt Nam giữ vai trò quan trọng... " ( Nhân dân, 7 / 3 /1999 ); " Hãy cứu lấy Harry
Potter... " ( Thế giới, số 9 / 2001 );
Nhìn chung, các tiêu đề - trích dẫn được dùng chủ yếu trong các bài phỏng vấn.
5. Tiêu đề bình luận
Đây là loại tiêu đề mà ở đó, tác giả bộc lộ nhận xét, đánh giá của mình về con
người hay sự việc nào đó. Ví dụ:
" Xứng đáng là một giải " độc nhất vô nhị " ( Văn hoá, 18 / 4 /1999 ); Vẫn là
bệnh nóng vội " ( Lao động, 26 / 5 / 1999 ); " Bông hoa Thủ đô giữa núi rừng Tây
Bắc " ( Nhân dân, 17 / 7 / 1998 ); " Những dấu hiệu buồn cho một miền đất học "
( Tiền phong, 17 / 6 /1999 ); " Lại thêm một sai lầm nữa của NATO " ( Lao động,
65
24 / 4 / 1999 );" Đốm sáng giữa bóng đêm " ( Thể thao và Văn hoá, 11 / 2 /2003 );
" Một cái Tết được xem là an toàn, nhưng... " ( Người lao động, 6 / 2 / 2003 ); " Lễ
hội cầu trâu - nét đặc sắc văn hoá vùng Đất Tổ " ( Hà Nội mới, 22 / 2 /2003 );...
Thực tế khảo sát cho thấy, trong các tiêu đề bình luận, thành tố ngôn ngữ chủ
chốt thường là tính từ mang sắc thái đánh giá ( độc nhất vô nhị, nóng vội, buồn,
đặc sắc,... ). Song, cũng có không ít trường hợp thành tố " hạt nhân " là các loại từ
khác, chẳng hạn như danh từ hoặc danh ngữ ( bông hoa, sai lầm, đốm sáng,... ).
6. Tiêu đề giật gân
Các tiêu đề giật gân dược dùng để khêu gợi sự chú ý của độc giả. Chúng rất
hiệu quả trong việc tạo ra những cảm hứng ban đầu khiến cho độc giả phải đọc
toàn bộ bài báo nhằm thoả mãn tính hiếu kỳ của mình, cho dù nội dung của nó thực
ra chưa hẳn đã là thú vị.
Có thể chia các tiêu đề giật gân thành hai nhóm chính. Nhóm thứ nhất gồm các
tiêu đề nêu đích danh sự việc giật gân, ví dụ: Thi hành án tử hình bằng... phạt cười
", " Cụ già 92 tuổi mọc... răng khôn " ( An ninh thế giới, 25 / 9 /1998 ); " Vì hút
thuốc - có thể bị ngồi tù " ( Văn hoá, 15 / 4 /1998 ); " Các nam ca sỹ ngày càng
đẹp ... gái " ( Thể thao và Văn hoá, 17 / 6 /2001 ); " Nữ sinh lớp 7 làm mẹ nhi đồng
" ( Nông nghiệp Việt Nam, 25 / 4 / 20021 ); " Về thành phố ... mua cỏ " ( Lao
động, 24 / 5 /2002 ); " Cô bé 2 tuổi cắn chết rắn hổ mang; " Cháu nội đại văn hào
Tsekhov không biết nói tiếng Nga ", " Bán đấu giá đất trên mặt Trăng " ( Tạp chí
Nhà báo, Nga, số 6 /1996 );... Nhóm thứ hai quy tụ các tiêu đề cung cấp tín hiệu về
sự việc giật gân còn chư được gọi tên cụ thể, ví dụ: " Thật quá sức tưởng tượng! ",
" Chuyện thật như bịa! ";... Rõ ràng, các tiêu đề thuộc nhóm thứ hai, bằng cách
diễn đạt của mình, đã báo trước cho độc giả rằng bài báo mà anh ta sắp đọc sẽ liên
quan tới một chuyện khó tin, bất ngờ, và do vậy, rất lý thú.
7. Tiêu đề gợi cảm
Các tiêu đề loại này được tạo lập bởi những cách diễn đạt, lối nói mới lạ, độc
đáo, giàu hình ảnh, vì thế rất sinh động và hấp dẫn. Ví dụ:
" Nâng niu tất cả chỉ quên mình " ( Nhân dân hằng tháng, số tháng 5 / 1998 );
Quýt là, cam chịu " ( Hà Nội mới chủ nhật, 21 / 6 / 1998 ); " Tinh thần thể dục "
66
( Văn hoá, 11 / 2 / 1998 ); " Ai về chợ Cạn xem tuồng " ( Tuổi trẻ chủ nhật, số 16 /
1999 ); " Đoạn trường ai có... đi tàu mới hay " ( An ninh thế giới, 28 / 1 / 1999 ); "
Lửa đã cháy... và rừng đã chết... ai có ngủ không? " ( Gia đình và Xã hội, số 34 /
2002 ); " Trẻ cậy cha, già cậy ai? " ( Giáo dục và Thời đại " (11/ 2 / 2001 ); "
Những điều trông thấy mà ... ( Thể thao và Văn hoá, 12 / 5 / 1198 );... Nguồn gốc
của sự gợi cảm trong các tiêu đề nói trên là vô cùng phong phú, đa dạng. Đó có thể
là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca...; là sự vay mượn từ ngữ, cách
diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ thuật; là lối chơi chữ hay dùng ẩn dụ;...
Nếu so sánh các tiêu đề gợi cảm với các tiêu đề bình luận, dễ dàng nhận thấy là
giữa chúng có mối quan hệ khá mật thiết: không ít tiêu đề có chức năng gợi cảm lại
mang ý nghĩa bình luận và ngược lại. Ví dụ:
" WTO - như rắn không đầu " ( Văn hoá, 9 / 5 /1999 ); " Tuyển lao động theo
kiểu " đem con bỏ chợ " ( Lao động, 7 / 5 /1999 ); " Nghề cá Bình Thuận : Buồm
chưa thuận, gió chưa xuôi " ( Lao động, 22 / 5 /1999 ); " Đèn gas : đầu Ngô, mình
Sở " ( Gia đình và Xã hội, số 100 / 2001 );...
Như vậy là có khá nhiều cách đặt tiêu đề khác nhau cho các văn bản báo chí.
Tuy nhiên, việc lựa chọn cách này hay cách khác lại phụ thuộc vào từng tình
huống, từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Song, dù thế nào đi chăng nữa, mỗi tiêu đề
nên vừa nêu được thần thái của bài viết, vừa khêu gợi được trí tò mò của người
đọc. Không phải tình cờ, một trong những chuyên gia nghiên cứu báo chí hàng đầu
của Nga, Phó giáo sư Marina Shostak đã ví tiêu đề của bài báo tựa như cổng vào
một nơi nào đó dành cho công chúng. Cổng được trang hoàng đẹp đẽ, hấp dẫn sẽ
khiến du khách muốn vào thưởng ngoạn cảnh vật ở sâu bên trong. Còn những
chiếc cổng tầm thường, thiếu thẩm mỹ sẽ rất dễ bị bỏ qua...1
1 Shostak M., Tiêu đề tác phẩm báo chí, Tạp chí Nhà báo, Nga, số 5, 6 / 1996.
( Bài đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống , số 9 / 1999 )
67
SAPÔ TRÊN BÁO CHÍ
1. Khái niệm sapô
Sapô (chapeau) trong tiếng Pháp có nghĩa là “cái mũ”. Quả thực, sapô có
phần nào đó giống như cái mũ của bài báo: nó nằm ở phía trên và tạo cho bài báo
sự chỉn chu khi xuất hiện trước công chúng.
Lời mào đầu đứng sau tiêu đề và đứng trước phần nội dung của bài báo. Nó là
một văn bản hoàn chỉnh, có thể bao gồm một câu, vài câu hoặc nhiều câu. Song độ
quan trọng của lời mào đầu không phụ thuộc vào độ dài của nó. Trong báo chí hiện
đại, lời mào đầu thường có xu hướng càng ngắn gọn càng tốt (tất nhiên, ngắn gọn
phải đi kèm với dễ hiểu).
2. Chức năng của sapô
Khẳng định vai trò, ý nghĩa của sapô, Loic Hervouet, Tổng Giám đốc trường
Đại học Báo chí Lille (Pháp) đã viết: “Giúp đỡ người đọc. Xác định chủ đề và góc
độ. Cung cấp các thông tin chính. Gợi ý về dàn bài. Làm cho độc giả muốn đọc”.1
Đây cũng chính là các chức năng cơ bản của sapô mà dưới đây chúng ta sẽ làm rõ
hơn.
2.1. Xác định chủ đề của bài báo
Đây là chức năng quan trọng hàng đầu của sapô. Trước hết, sapô phải mang đến
cho người độc giả khái niệm chung về đề tài của bài viết. Thời đại ngày nay là thời
đại bùng nổ thông tin. Và người đọc trở nên thực dụng hơn bao giờ hết. Trong
cùng một đơn vị thời gian họ muốn thu nhận được càng nhiều thông tin càng tốt.
Vì thế họ sẵn sàng bỏ qua bài báo của bạn nếu không tìm thấy ở phần lời dẫn một
điều gì đó có ý nghĩa, đáng được quan tâm khiến họ phải đọc nó cho đến hết.
68
2.2. Chứng minh tính thời sự của bài báo
Quy luật nghiệt ngã của báo chí là một bài báo thường được viết trong vài giờ,
được đọc trong vài phút và bị quên đi trong vòng 24 giờ sau đó. Một vấn đề, một
sự kiện chỉ có ý nghĩa đích thực khi nó liên quan trực tiếp đến ngày hôm nay, đến
hiện tại. Độc giả thường chỉ quan tâm đến những gì nóng hổi, nằm trong tâm điểm
sự chú ý của công luận và có thể ảnh hưởng tới cuộc sống đang diễn ra của họ. Vì
thế, ngay từ phần lời dẫn, cần nhấn mạnh tính thời sự của các thông tin sẽ được
phản ánh trong bài viết. Đây chính là lý do vì sao ở sapô chúng ta thường gặp
những từ ngữ chỉ thời điểm hiện tại như: "đang”, "hôm nay", "gần đây”, "tháng
này” "vừa mới” hay tương lai gần “sắp” “đang đến gần”, v.v. rồi những cấu trúc có
chức năng gắn kết quá khứ với hiện tại: “tưởng chừng như chuyện đã qua nhưng
giờ đây nó vẫn còn...”, “cho tới thời điểm này”,...
2.3. Nêu những ý chính
Không chỉ dừng lại ở việc gọi tên đề tài, trong nhiều trường hợp sapô còn phải
nêu được các ý chính, tức là khung nội dung cơ bản của bài viết. Điều này giúp
cho độc giả, dù không đọc phần còn lại của tác phẩm vì một lý do nào đó (như
thiếu thời gian chẳng hạn), cũng có thể nắm bắt được thông tin khái quát về vấn đề
hay sự việc mà nhà báo phản ánh.
Tuy nhiên, đây không phải là yêu cầu bắt buộc. Bởi lẽ việc nêu các ý chính
nhiều khi có thể làm cho sapô trở nên khuôn sáo và dài dòng. Hơn nữa, nếu sapô
làm cho độc giả thoả mãn về mặt thông tin tới mức không cần phải đọc tiếp tác
phẩm thì có lẽ nó chưa đạt hiệu quả giao tiếp như mong đợi.
2.4. Thu hút sự chú ý của người đọc
Nếu như tít báo nhóm lên đốm lửa đầu tiên của sự đam mê trong lòng người
đọc, thì sapô phải thổi bùng đốm lửa ấy thành một ngọn lửa. Tức là sapô cần tạo ra
một thứ ma lực khiến cho người đọc không thể cưỡng lại ý muốn phải đọc toàn bộ
tác phẩm. Muốn vậy, nó phải được viết một cách ấn tượng, hấp dẫn, thể hiện được
thần thái của vấn đề hay sự kiện.
3. Phân loại sapô
69
Căn cứ vào ý nghĩa, mục đích của các sapô, chúng ta có thể chia chúng thành
một số kiểu cơ bản sau đây:
3.1. Sapô gọi tên
Kiểu sapô này chỉ dừng lại ở việc gọi tên vấn đề, sự việc hay hiện tượng sẽ
được trình bày trong bài viết. Kèm theo nó thường là lời bình luận ngắn gọn của
tác giả. Ví dụ:
Khi Ánh Tuyết cất lên “Thiên thai", "Suối Mơ", “Sông Lô", “Ô mê ly"... thì
ngay lập tức chúng ta bị mê hoặc. Thế nhưng mới đây khi ca sĩ này làm Giám đốc
một công ty xây dựng thì không ít người đã bất ngờ về kiểu “hành nghề" “tréo
ngoe" này.
(Bài: Tôi không hề đá lộn sân, Pháp luật và Đời sống, 20/9/2005);
Cuối tuần qua, Minh Nhí đã có quyết định được phép trở lại biểu diễn sau hơn
6 tháng phải ngừng diễn. Minh Nhí trao đổi với TT & VH.
(Bài: Minh Nhí làm live show để...xin lỗi khán giả, Thể thao và Văn hoá,
20/9/2005);
Hai tai nạn nổ máy bay đã liên tiếp xảy ra trong ngày 3.3 tại Mỹ và Thái lan,
trở thành nỗi ám ảnh đối với ngành hàng không quốc tế.
(Bài: Tai nạn máy bay tại Mỹ và Thái Lan, Lao động, 5/3/2001).
3.2. Sapô tóm tắt
Đọc sapô loại này, chúng ta có thể nắm được những thông tin cốt lõi nhất liên
quan tới nội dung của tác phẩm, từ đó có cái nhìn khái quát về vấn đề hay sự kiện
được phản ánh. Ví dụ:
Người có nhu cầu mua bán nhà ở Hà Nội rất lớn. Mỗi năm có hàng trăm căn
hộ lớn nhỏ được sang tên đổi chủ. Phần nhiều đều phải thông qua người dắt mối
mà người ta thường gọi là “cò” nhà đất. Chính vì thế mà “cò" nhà đất tự nhiên
trở thành một nghề. Một nghề không cần vốn liếng mà tiền lãi thu về thì bất kể, ít
một vài chỉ mà nhiều tới hàng cây vàng.
(Bài: “Cò" nhà đất, trong: Phóng sự Thái Minh Châu, NXB. Lao động, 1999);
Có lẽ không nghề nào truân chuyên bằng bác sĩ trẻ lập nghiệp. Sau 6 năm “tu
luyện" tại trường đại học, đã nhiều hơn các trường khác đến hai năm, họ còn phải
70
học nghề" dài hạn tại các bệnh viện cho đến khi kí được hợp đồng lao động hoặc
nhận vào biên chế mới thôi. Kẻ “học" ít thì vài tháng, người nhiều thì hai, ba năm,
thậm chí bốn năm. Lẽ tất nhiên, trong thời gian đó, các bác sĩ trẻ này chỉ còn nước
cậy nhờ mẹ cha.
(Bài: Thầy thuốc không lương, Lao động, 27/2/2001 );
Thời gian gần đây, trên địa bàn quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh liên tiếp xảy
ra nhiều vụ đột tử khá lạ lùng: chết khi...đang ngủ. Điều khó hiểu hơn là hầu hết
những nạn nhân xấu số đều còn trong độ tuổi còn rất trẻ, lại là những thanh niên
khoẻ mạnh, trước đó chẳng hề có biểu hiện bệnh hoạn gì. Những cái chết bất ngờ
đầy bí ẩn, không rõ nguyên nhân đã gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong cộng
đồng dân cư.
(Bài: Bí ẩn những vụ đột tử ở Bình Tân, Công an TP. Hồ Chí Minh, 27/9/2005);
Chưa đầy 24 giờ đồng hồ sau khi xuất hiện vết nứt, 17 giờ 45 phút ngày 6/12,
một vạt đất ven sông thuộc khóm Long Thị “C", thị trấn Tân Châu, huyện Tân
Châu (An Giang) đã đổ nhào xuống sông làm vỡ nát công viên trung tâm của
huyện và 15 hộ dân gần đó phải tháo chạy tán loạn...
(Bài: Trước hiểm hoạ sạt lở, Lao động, 12/12/2001).
3.3. Sapô nêu sự việc dẫn đường
Những sapô kiểu này kể về các sự việc đã thúc đẩy tác giả viết nên bài báo. Có
thể gọi chúng là sapô-nguyên cớ.
Ví dụ:
Một buổi sáng, ông cán bộ Hội Chữ thập đỏ Việt Nam tìm đến toà soạn cố kìm
nước mắt đưa cho tôi bức thư của kẻ tật nguyền có cái tên khó đoán định giới tính:
Phạm Quốc Hương, nhà ở khu 8 Hồng Thao, xã Xuân Quang, huyện Tam Nông,
tỉnh Phú Thọ. Mười hai năm nay nằm liệt giường vì một cơn bạo bệnh, gia cảnh
quá neo nghèo, Hương đã khóc quá nhiều, đã vắt cả da thịt mình thành nước mắt,
giờ còn da bọc xương, Hương muốn tìm một người con gái khiếm thị để được dâng
đôi mắt to, đẹp của mình cho cô ấy...
(Bài: Người tình nguyện mù, trong cuốn: 27 phóng sự xã hội của Đỗ Doãn
Hoàng, NXB. Lao động, 2004);
71
Trung tuần tháng 2/2001, chúng tôi nhận đuợc đơn khiếu nại và tố cáo về việc
xí nghiệp cát, đá, sỏi Minh Hưng (gọi tắt là XN. Minh Hưng) khai thác cát trái
phép trên sông Sài Gòn nhưng lại được chính quyền xã bao che. Đứng tên trong
đơn là 43 người thuộc 2 ấp Bùng Binh và Sóc Lào xã Đôn Thuận, huyện Tràng
Bảng, tỉnh Tây Ninh, nơi XN. Minh Hưng đóng trụ sở và hoạt động. Chiều
13/2/2001 chúng tôi về tận nơi để tìm hiểu vụ việc.
(Bài: Thủ phạm khai thác cát trái phép trên sông Sài Gòn là ai?, Pháp luật,
11/3/2001).
Khảo sát cho thấy, phần mở đầu các sapô nói trên thường đề cập cuộc tiếp xúc
giữa tác giả với những đối tượng trực tiếp liên quan tới vấn đề, sự việc hay hiện
tượng được phản ánh trong bài viết. Điều này vừa làm nổi bật ý nghĩa xã hội vừa
làm gia tăng tính xác thực và khách quan của tác phẩm báo chí.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp mà nguyên cớ khiến tác giả viết bài chỉ là một
sự việc hoàn toàn ngẫu nhiên ngẫu nhiên nào đó.
Ví dụ:
Một buổi chiều mưa buồn, nhâm nhi chén rượu quán cóc, gã bạn đồng nghiệp
của tôi bỗng thở dài thườn thượt, chép miệng: Làm cái nghề bán chữ này nhọc
quá, suýt chục năm trong nghề mà tôi chưa sắm nổi mươi mét nhà để tậu cô vợ.
“Thì ông bảo, trừ khi có chức quyền để tham nhũng, chứ làm công ăn lương ở đất
nước mình bao giờ mới khá được". “Ai bảo ông thế, mấy em người mẫu, hoa hậu,
chức quyền gì mà có cả bạc tỷ. Tôi chỉ ước kiếp sau giời có cho làm người thì
đừng bắt làm nhà báo mà cho làm...gái đẹp.
(Bài: Hồng nhan bạc...tỷ, Hà Nội ngàn năm, số 6/2005).
3.4. Sapô chân dung
Ở loại sapô này, người viết phác thảo những nét chân dung nào đó của nhân vật
chính trong tác phẩm.
Đó có thể là những nét ngoại hình, tính cách, ví dụ:
“Quen biết Trần Hiếu Ngân từ lâu..., mỗi khi gặp nụ cười duyên dáng và đôi
mắt luôn nhìn thẳng và rất tự tin của Ngân, tôi thường liên tưởng đến những cú ra
72
đòn quyết liệt, dứt khoát của cô bé hiền hậu, dễ thương và đôi khi cũng rất e lệ
này”.
(Bài: Võ sĩ xuất sắc và người con hiếu thảo, Lao động, 4/10/2000).
Đó có thể là những nét về sở thích, ví dụ:
Say đắm thơ Hàn Mặc Tử, anh dựng lều nhỏ sống bên cạnh mộ nhà thơ.
Ngày qua ngày trầm lặng cặm cụi với cây bút lửa anh vẽ tranh, chép thơ trên gỗ
thông thơm và nhiệt tình giới thiệu với khách về thân thế sự nghiệp của nhà thơ.
Anh là Dzũ Kha.
(Bài: Người giữ lửa hồn thơ Hàn Mặc Tử, Khoa học và Đời sống,
24/3/2006)
Đó có thể là những nét về thân thế, sự nghiệp, ví dụ:
Trong những chiếc Boeing từ thế hệ cũ đến thế hệ mới nhất đang bay khắp thế
giới có đóng góp của anh- một người Việt. Anh cũng đã góp phần đưa hai người
khổng lồ công nghệ cao của Mỹ là Boeing và Microsoft đến Việt Nam.
(Bài: Con cá hồi Việt Nam ở Seattle, Lao động, Xuân Bính Tuất 2006);
Hoặc đó cũng có có thể là sự pha trộn nhiều khía cạnh của một chân dung, ví
dụ:
Nhanh nhẹn, vui vẻ, hoà nhã là cảm nhận đầu tiên của chúng tôi về cô bạn
Nguyễn Thị Phương Dung (lớp K.9, cử nhân tài năng vật lý Trường Đại học Khoa
học tự nhiên - Đại học quốc gia Hà Nội), gương mặt nữ duy nhất trong 10 gương
mặt tiêu biểu 2005 do Trung ương Đoàn bình chọn.
(Bài: Lớn lên với những câu hỏi, Tuổi trẻ, 11/3/2006).
3.5. Sapô tả cảnh (ảnh)
Đọc những sapô kiểu này, chúng ta như được xem những bức tranh sống động
có đủ âm thanh, màu sắc, ánh sáng. Giọng văn có thể nhẹ nhàng hay mạnh mẽ
nhưng những hình ảnh được miêu tả thường khá ấn tượng, có khả năng gợi cảm
xúc hoặc tạo ra nỗi ám ảnh đối với độc giả.
Ví dụ:
Trong đêm ấy, người dân ở ấp Long Thị C, thị trấn Tân Châu ( An Giang) thất
thần chạy tán loạn trong tiếng khóc gào, tiếng đổ vụn của xi măng, cốt thép, tiếng
73
dậy sóng của dòng sông ngầu bọt. Trẻ nhỏ thảng thốt tìm cha, gọi mẹ như bầy
chim mất tổ, nhiều người ngất xỉu khi nhìn gia sản mấy đời gây dựng phút chốc
chìm biến trong dòng nước.
(Bài: Tân Châu - 0 giờ ngày 4..., Lao động, 9/1/2001);
Tây Thiên. Trời mưa rả rích. Những lều quán lụp xụp tựa lưng vào ngách núi.
Trong cái cảnh ảm đạm của một khu du lịch chưa đúng mùa, chúng tôi lần theo
những tảng đá to bổ chảng nằm chểnh ểnh theo dọc con suối. Anh bạn đi cùng
bảo: đi đường suối thì mới gặp được loài động vật quý hiếm mà chỉ Tây Thiên mới
có, đó là loài cá cóc...
(Bài: Kiểm lâm buông, dân bắt, Lao động thủ đô, 9/3/2006).
3.6. Sapô nêu luận cứ
Ở loại sapô này, tác giả đưa ra các con số hay dữ kiện ấn tượng có khả năng thu
hút sự chú ý của người đọc. Những con số hay dữ kiện như vậy thường nằm trong
quan hệ nhân quả với vấn đề hoặc sự kiện được phản ánh.
Ví dụ:
Tính đến cuối tháng 8 năm 2000, có 654 con gấu bị nuôi nhốt trên địa bàn
thành phố Hà Nội. Cả nội ngoại thành có tới 191 trại gấu lớn nhỏ. Những trại lớn
có trên dưới tám chục con gấu, còn những hộ nuôi lẻ thì 2,3 con. Gấu được nuôi
giữa khu dân cư đông đúc, và thậm chí trên tầng tư, tầng năm.
(Bài: Mật gấu vào mùa, Lao động, ngày 1/ 11/2000);
Khoảng hơn bảy chục người đã mất tích sáng sớm hôm 5/3 khi ba chiếc ô tô bị
rơi xuống sông do cầu bị sập.
( Bài: Sập cầu ở phía bắc Bồ Đào Nha, Lao động, 6/3/2001);
Năm 2005, trên địa bàn Thành phố xảy ra 352 vụ cháy làm 11 người chết, 64
người bị thương, thiệt hại tài sản 70 tỷ đồng; trong đó cháy rụi 78 căn nhà, 14 nhà
xưởng, 12 kho chứa hàng, 14 cửa hàng...
( Bài: Cháy nổ - nỗi lo lại đến, Công an Tp. HCM., 16/3/2006).
3.7. Sapô kể chuyện
Những sapô này khiến người đọc có cảm giác đang được nghe tác giả kể những
câu chuyện nào đó.
74
Ví dụ:
Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên được gương mặt của anh thanh niên ấy. Gương
mặt tái nhợt, tuyệt vọng và khẩn cầu. Anh ta cởi trần, hai tay thu trước ngực cho
đỡ lạnh. Đôi mắt nhìn tôi như trách móc, dại đi trong cơn mưa tầm tã. Trên xuồng
còn 3 đứa nhỏ nữa, chắc là con anh. Đứa nhỏ nhất đưa cả hai tay về phía ghe
chúng tôi cầu xin. Tôi phải quay đi để để khỏi nhìn thấy những đôi mắt và những
đôi tay ấy ... Đoàn cứu trợ đang trên đường về, chẳng còn gì để cho họ cả. Chỉ có
một quãng sông mà hàng trăm cái xuồng chèo ra đón đầu để xin hàng cứu trợ như
thế.
(Bài: Vàm Cỏ Tây, một nhánh sông buồn, Lao động, 12/10/2000);
Eo Mây tiễn người con gái đẹp nhất làng ra trận vào những ngày bom đạn đầy
trời. Sáu năm sau, cô gái ấy trở về. Vẫn đẹp như xưa, lại có phần dịu dàng, đằm
thắm hơn. Ngày cô đi lấy chồng, bao trai làng ngẩn ngơ tiếc nuối. Không ngờ, chỉ
một năm sau, cô lại về Eo Mây. Kể từ đó cuộc đời cô rẽ sang một ngả khác. Đau
buồn, thương tâm...
( Bài: Eo Mây có người đàn bà, Lao động, 23/10/2000).
Chính cái giọng điệu đặc trưng của văn kể chuyện đã làm cho thông tin hàm
chứa trong sapô trở nên nhẹ nhàng mà thấm thía.
3.8. Sapô nêu cảm xúc và những suy tư riêng của tác giả
Ví dụ:
Không biết, có bao giờ Công Vinh-Quả bóng vàng năm 2004-tự hỏi ta đang ở
đâu sau những tháng ngày vinh quang và kiêu hãnh. Phải chăng, xung quanh anh
không còn những ánh hào quang, những lời ca tụng, mà nó là khoảng trống không
thấy có những lời hứa hẹn, không có những cơ hội dành sẵn cho anh?
(Bài: Lê Công Vinh: Bên kia bờ vinh quang, Thể thao và Văn hoá, 20/9/2005);
Một bản án khách quan, đúng pháp luật không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của những người trong cuộc mà còn góp phần vào sự ổn định của xã
hội. Nhưng bản án đã tuyên có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành sẽ chi
phối rất nhiều cuộc sống của những người trong cuộc. Trong nhiều trường hợp chỉ
vì một bản án oan sai của Toà án mà tài sản nhiều khi cả đời mới có được của
75
những người trong cuộc bị mất trắng, thậm chí chính họ bị đẩy ra đường. Phải
chăng với những bản án rơi vào trường hợp này, mọi việc đã an bài?
(Bài: Án oan sai quá hạn giám đốc thẩm: Phải chăng đã hết thuốc chữa?, Pháp
luật, 11/3/2001);
Cánh diều vàng 2005 lại một lần nữa làm những người hâm mộ điện ảnh thất
vọng. Mờ nhạt, lộn xộn, kém hấp dẫn...Cánh diều vàng 2005 khép lại trong nỗi băn
khoăn của nhiều người.
(Bài: Mờ nhạt và thiếu hấp dẫn, Khoa học và Đời sống, 24/3/2006)
Những nhận xét, đánh giá in đậm dấu ấn của "cái tôi" tác giả như vậy có khả
năng khơi gợi cảm xúc hay suy nghĩ của người đọc theo những định hướng đã
được vạch sẵn nào đó. Tuy nhiên, nếu lập luận thiếu chặt chẽ và tình cảm của
người viết không đủ sự chân thành thì sapô kiểu này có thể làm lụi tàn đốm lửa
(nếu có) mà tiêu đề đã thắp lên.
3.9. Sapô tiếp nối tiêu đề
Sapô loại này không phải là tiểu văn bản tồn tại độc lập mà là bộ phận được
viết tiếp theo tiêu đề và phụ thuộc vào nó cả về mặt hình thức lẫn nội dung. Ví dụ: MỘT GÓI THẦU, CHIA CHÁC HƠN 1 TRIỆU ĐÔLA!
Đó là số tiền Nguyễn Quang Thường (nguyên Phó Tổng Giám đốc Tổng
Công ty Dầu khí Việt Nam) và đồng phạm đã biển thủ trong phi vụ xây dựng
nhà ở cho một tổ hợp công nghệ thuộc vòm Nam mỏ Bạch Hổ.
(Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh, 6/10/2005); NGƯỜI HÀ NỘI MÙ CHỮ
Khi đọc tiêu đề này, hẳn nhiều người Tràng An thanh lịch sẽ phải thốt lên:
“Làm gì có chuyện đó!”. Nhưng nó lại có thật, một sự thật hiển hiện trước
chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, trong giao tiếp, quan hệ, buôn bán., v.v.
(Phóng sự Thái Minh Châu, NXB. Lao động, H., 1999).
Sapô tiếp nối thường được dùng sau các tiêu đề nêu những sự việc bất thường
(nằm ngoài sự chờ đợi của độc giả) và có nhiệm vụ làm rõ hơn thông tin chứa
trong đó. Người viết khá kiệm lời khiến độc giả phải đọc tiếp ngay phần bài viết
phía dưới để biết thêm thông tin.
76
4. Kết luận
Trong quá trình khảo sát sapô trên báo chí, chúng tôi rút ra một số kết luận như
sau:
- Sapô ngày càng khẳng định được vai trò và ý nghĩa to lớn của mình trong bố
cục một tác phẩm báo chí.
- Một sapô tốt phải nêu được những thông tin cốt lõi trong một hình thức thể
hiện ấn tượng, với một dung lượng câu chữ ngắn gọn.
- Sapô trên báo chí rất đa dạng về mọi phương diện. Và các kiểu sapô mà
chúng tôi đã phân loại trong bài viết này chủ yếu căn cứ vào tính trội của một đặc
điểm nào đó trong cách thức tiếp cận và phản ánh thông tin.
- Xuất hiện với tần số cao nhất là sapô gọi tên hay giới thiệu vấn đề.
- Nhiều sapô chưa có chất lượng như mong muốn. Những nhược điểm cơ
bản mà chúng thường mắc phải là: khuôn mẫu cứng nhắc gây nhàm chán; dài
dòng lan man; thông tin thiếu chọn lọc, không đủ sức lôi cuốn.
- Cần bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng viết sapô cho các nhà báo.
Chú thích:1 Loic Hervouet, Viết cho độc giả, bản tiếng Việt (Lê Hồng Quang dịch), Hội
Nhà báo Việt Nam, H., 1999, Tr. 83.
Tài liệu tham khảo
1. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, Nxb. Đại học quốc gia, H., 2001.
2. Khoa Báo chí - Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Báo chí - những điểm
nhìn từ thực tiễn, Nxb. Văn hoá - Thông tin, H., 2000, T.1.
3. Khoa Báo chí - Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Nhà báo - bí quyết kỹ
năng nghề nghiệp, Nxb. Lao động, 1998.
77
4. Loic Hervouet, Viết cho độc giả, bản tiếng Việt ( Lê Hồng Quang dịch), Hội
Nhà báo Việt Nam, H., 1999.
SỰ HẤP DẪN CỦA NGÔN NGỮ PHÓNG SỰ
Nói đến báo chí hiện đại, không thể không nhắc đến phóng sự. Bởi đây là
một thể loại, với những ưu thế riêng của mình, có sức hút đặc biệt đối với công
chúng, và ở mức độ nào đó, có thể tạo nên bản sắc của cả một tờ báo.
Sự thành công của một tác phẩm phóng sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Song, theo chúng tôi, yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu chính là hình thức thể
hiện của nó, mà nói một cách cụ thể, là cách sử dụng ngôn ngữ ở đó.
Khảo sát cho thấy, ngôn ngữ phóng sự có những đặc điểm cơ bản dưới đây:
1. Giàu tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí nói chung, ngôn ngữ phóng sự nói
riêng, gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ, lối nói giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá
nhân, vì thế sinh động, hấp dẫn hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với người
đọc, người nghe.
Ví dụ:
"Chung cư 3 cũ ở Hà Nội bây giờ nói một cách văn hoa đang ở trong trạng
thái "toan về già", nhưng xem ra còn "càng già càng dai" hơn những khu nhà tái
định cư được thi công theo kiểu rút ruột 50% thép tại Kim Giang - Hạ Đình vừa
qua"
(Lam Nguyên, Sống ở chung cư cũ - những nỗi buồn vắt qua hai thế kỷ, Đại
đoàn kết, 24/4/2005);
"Các chủ quán bia tôi cũng có quen vài người (để ký sổ khi hết tiền). Họ lạc
quan lắm “Trăm năm bia đá cũng mòn. Ngàn năm bia rượu vẫn còn trơ trơ" mà!"
78
(Huỳnh Dũng Nhân, Con đường bia bọt, trong: Tôi đi bán tôi, Nxb. Tổng
hợp TP. Hồ Chí Minh, 2004);
“Đi cùng N. là một “đội” bốn nam, hai nữ, trong đó có một chip-boy mặt
búng ra sữa.” “Chỉ có hai nàng cave là cười tủm tỉm.”(Tiên Huyền, Vào casino Đồ
Sơn đánh bạc, Tuổi trẻ, 9/3/2004);
"Riêng Hạnh không liều, trước khi nhận làm Hạnh đã nghiên cứu đủ "đô"
và sau đó mới dám "thân gái dặm trường".
(Hồ Thư - Nguyễn Bay, Việc làm không tên, Tuổi trẻ, 9/4/2005);
"Gia đình nhà Hương thì còn nghèo hơn thế, xóm 8 nằm thấp thểnh ở sát
mép con sông Hồng đỏng đảnh, muốn từ UBND xã ra nhà Hương phải bỏ xe máy
mà... lội bùn "(Đỗ Doãn Hoàng, Người tình nguyện mù, trong: "27 phóng sự xã
hội, Nxb. Lao động, 2003);
"Sông Lam vẫn rứa, vẫn xanh rứa, vẫn yên ả rứa và cả cây cầu Bến Thuỷ
kia nữa, lực lưỡng vắt qua dòng sông..."
(Nguyễn Quang Vinh, Phận gái đời sông, Lao động,
27/8/2002).
Như đã thấy, nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ phóng sự là vô
cùng phóng phú, đa dạng. Đó có thể là việc sử dụng các từ ngữ đặc trưng cho
phong cách hội thoại ( khẩu ngữ tự nhiên ), rồi các thành ngữ, tục ngữ, ca dao..., là
sự vay mượn những hình ảnh, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ thuật, là
lối chơi chữ, nói lái, dùng ẩn dụ, v. v.
Chính những thành tố biểu cảm nêu trên đã làm cho ngôn ngữ phóng sự vừa
gần gũi với đời thường, lại vừa thể hiện rõ nét thái độ, tình cảm của tác giả trước
những con người hay sự việc nào đó. Và do vậy, người đọc dễ dàng bị cuốn vào
dòng chảy của những thông tin được phản ánh trong tác phẩm.
2. Là sự kết hợp nhuần nhuyễn các bút pháp tả - thuật - bình
2.1 Nghệ thuật miêu tả
Tác phẩm phóng sự không chỉ phản ánh thực tế khách quan mà còn thể hiện
sự nhận thức thế giới với một quan niệm thẩm mỹ riêng của người viết. Nếu nhà
báo tái tạo bức tranh hiện thực chỉ đơn thuần bằng những sự kiện, con số khô cứng
79
thì sẽ khó tạo ra được niềm hứng thú cho độc giả. Để khắc phục điều này, nhà báo
cần biết cách miêu tả thật sống động, sao cho bức tranh hiện thực ấy trở nên có
hồn, với đầy đủ các cung bậc của âm thanh, sắc màu và ánh sáng.
Ví dụ:
“Nơi đây có một thác nước bạc óng ánh tuôn xuống dòng suối bạc lung
linh, huyền ảo. Cũng tại nơi này có rất nhiều chiếc chậu tắm, bồn tắm được “tạo
tác” bằng các sắc màu của nhũ đá và dát xung quanh muôn vàn những viên ngọc
châu với những nét hoa văn độc đáo, chạm khắc tinh xảo diệu kỳ của thiên nhiên.
Ngước mắt nhìn lên vòm trần cung vua Thuỷ Tề là những nhũ đá thạch anh long
lanh như được dát bạc, những hình người, những con vật với nhiều thế đứng,
nhiều dáng vẻ khác nhau làm cho nơi này trở nên sống động.” (Anh Tuấn, Sửng
sốt Tiên Sơn, Lao động, 16/2/2004).
Dưới ngòi bút miêu tả của tác giả, phong cảnh một góc nhỏ Tiên Sơn hiện
ra thật lung linh huyền ảo. Người đọc được dẫn vào một chốn thần tiên với những
thác nước bạc, nhũ đá,... đầy quyến rũ. Cảnh vật dường như được bàn tay người
thợ tài hoa chạm trổ, xây đắp nên mới có hình khối, hoa văn vô cùng tinh xảo đến
vậy.
Còn đây là bức tranh về phong cảnh thiên nhiên khoáng đạt, đời sống sản
xuất nhộn nhịp ở một vùng đất thuộc Hải Phòng:
“Tôi đến Lập Lễ vào đúng lễ Vu Lan, trời ngăn ngắt xanh và ồ ạt gió. Cảng
Mắt Rồng của xã vừa kè đá, khơi luồng, ken đặc hàng trăm tàu, thuyền dập dềnh
với sóng triều dâng lên từ cửa lạch. Tàu nào cũng treo 20 – 30 bóng điện gắn pha
trắng như mắt cú mèo gặp nắng. Trên bờ là những “bộ xương”, mũi, sườn…tàu
bằng gỗ đỏ au, trắng bạch đang được hàng chục tay thợ gấp gáp hoàn thiện.”
(Quang Thiện, Những phú ông trên biển, Tuổi trẻ, 4/3/2004 );
Những kiểu miêu tả đầy hình ảnh như vậy vừa giải toả nhu cầu thẩm mỹ của
người đọc, vừa khiến cho họ có cảm giác mình là người trong cuộc: tất cả mọi thứ
đang diễn ra ngay trước mặt mình.
2.2 Nghệ thuật kể (thuật)
80
Một trong những yêu cầu để có bài phóng sự hay là nhà báo phải sử dụng
nhiều chi tiết, nhiều dẫn chứng nhằm thuyết phục người đọc tin vào tính chân thật,
khách quan của sự kiện. Những chi tiết, dẫn chứng này thường xuất hiện thông qua
ngòi bút trần thuật của nhà báo. Với tư cách là một nhân chứng, trên cơ sở trực tiếp
chứng kiến sự kiện, trực tiếp gặp gỡ nhân vật,... nhà báo tường thuật lại những điều
mắt thấy, tai nghe để người đọc nắm được vấn đề. Tuy nhiên, kể như thế nào cũng
là cả một nghệ thuật. Vì nó vừa phải hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, lại vừa phải bảo
đảm tính chân thực, khách quan của thông tin, sự kiện.
Ví dụ:
“Khoảng 15 phút ngồi chờ thì hai cô gái đầu tiên được chở đến. Hai
cô tự giới thiệu là đào của mẹ Nguyên, một cô quê Bạc Liêu, một cô quê Cần Thơ
mới lên đây được hai tuần. Thấy ông Long tỏ ý không vừa lòng, Dũng lẹ miệng:
“Thôi các em cứ về, anh sẽ gọi lại sau”. Tất cả diễn ra không đến hai phút. Một
tốp bốn cô khác lại đến, không vừa lòng khách lại quay ra. Mỗi lần có một tốp đến,
Dũng lại hỏi “đào của ai?” rồi ghi lên giấy. Càng về sau, các cô đến càng đông.
Đến tốp thứ sáu, tức khoảng 25 cô đã trình diện, thì Long tỏ ra quan tâm đến một
cô có nước da trắng, theo cô tự giới thiệu: cao 1,63m, quê An Giang. Thấy vậy
Dũng hỏi tên cô, đào của ai? Cô gái giới thiệu tên là Huỳnh Thị Kim So, 26 tuổi,
lên đây được khoảng một tháng.” (Võ Hồng Quỳnh & Minh Toán, Theo các đường
dây môi giới lấy chồng ngoại, Tuổi trẻ, 21/4/2004).
Chỉ bằng vài câu văn, ngòi bút trần thuật của tác giả đã ghi lại được những
chi tiết đắt giá của màn "chọn vợ cho các ông chồng ngoại quốc": các cô gái - "ứng
cử viên" bị xem xét, định giá, chọn lựa chẳng khác nào những món hàng. Cả
người viết và người đọc đều có chung cảm giác buồn đau và tủi hổ.
“Một thanh niên cầm chiếc gậy sắt chọc vào con gấu chuồng bên để nó
không king động khi thấy cảnh đồng loại bị hành hạ. Người còn lại lắp “tên lửa
mê” vào ống nhựa, ngậm đầu kia vào mồm rồi hướng về phía con gấu mà phồng
má thổi. Xilanh bắn cắm vào thịt gấu. Những chiếc xilanh cắm vắt vẻo vào con gấu
làm nó lồng chạy hồng hộc. Khoảng 10 phút sau, con gấu không còn chạy được và
đứng đung đưa như kẻ say rượu. Hai thanh niên bật cửa đạp con gấu đổ vật xuống
81
nền. Một người chọc xilanh bơm hai mũi thuốc mê vào đùi gấu rồi rút dây dù
chằng chân tay con vật vào nan sắt. Chiếc máy siêu âm cắm điện, bật màn hình.
Người trong lồng sắt một tay cầm xilanh to như cái điếu cày, mũi kim tiêm dài hơn
chục phân; tay kia cầm máy soi gí sát vào ngực gấu. Anh ta rê đi rê lại chừng hai
phút, khi màn hình xuất hiện một vệt đen đen thì anh ta bặm môi đâm sụt chiếc kim
vào ngực gấu. Con vật hộc lên từng hồi giãy giụa yếu ớt.” (Quang Thịên, Lần theo
mùi mật gấu, Tuổi trẻ, 15/4/2004).
Cảnh hành hình con gấu tội nghiệp để lấy mật đã được kể lại thật chi tiết và
sinh động. Nó găm vào tâm khảm người đọc nỗi xót thương xen lẫn niềm căm
giận: Con người, với lòng tham lam và sự ích kỷ vô độ của mình, sẵn sàng có
những hành động đáng bị lên án với các loài sinh vật khác để thu lợi nhuận.
2.3 Nghệ thuật bình
Một trong những yếu tố làm nên sự hấp dẫn của phóng sự là nó cho phép –
và thậm chí khuyến khích - người viết bộc lộ "cái tôi" cá nhân của mình. Nhà báo
không cần phải che giấu những cảm giác, suy nghĩ của bản thân. Có nghĩa là, trong
phóng sự, tác giả có thể biểu hiện quan điểm, lập trường của mình thông qua
những lời bình luận chính xác, khéo léo. Đọc phóng sự chúng ta thường thấy quan
điểm của tác giả trước hiện thực được trình bày. Như vậy, tính chủ quan – cái tôi
tác giả là một đặc trưng của phóng sự. Nhưng, đó hoàn toàn không phải là sự chủ
quan duy ý chí, lại càng không phải là một cái "tôi" cảm tính, thiên lệch. Trên cơ
sở một thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, với tư thế của một người bảo công lý,
bảo vệ lẽ phải, phóng viên bày tỏ thái độ bất bình hoặc ủng hộ của mình trước hiện
thực để hướng dẫn dư luận.
Ví dụ:
“Nhóm thanh niên người làng Phú Túc đi phát păm (làm cỏ rừng trồng)
nhiệt tình chỉ đường: “Các anh quay lại một đoạn, đến khu dân cư có nhiều nhà
mới xây là làng đó. có nhiều người tên Năm nhưng chắc các anh tìm bà Năm phụ
nữ?” Chẳng lẽ những bà Năm khác có “vấn đề”? Buồn cười. Nhưng chúng tôi
82
không tiện hỏi bởi khuôn mặt của các chàng thanh niên không có gì biểu hiện đùa
cợt.” (Thanh Hải, Bà Năm phụ nữ, Lao động, 28/3/2004).
Lời bình “Chẳng lẽ những bà Năm khác có “vấn đề”?” thật hóm hỉnh.
Những chàng trai người dân tộc thật thà khi nói “bà Năm” rồi còn phải gắn thêm
giới tính “phụ nữ”, phải chăng là họ “ngốc nghếch”? Câu trả lời là không phải họ
ngốc mà là vì đối với người dân Cà Tu, cái tên bà Năm đã gắn liền với những hoạt
động trong công tác phụ nữ của bà, người dân đã ghi nhận công lao đó và đã gắn
tên bà với lĩnh vực bà hoạt động. Vậy nên cái tên Bà Năm phụ nữ đã được gọi lên
thật âu yếm.
“Với những lý do không rõ ràng, Bắc Kinh đã bưng bít thông tin và đã
phải trả giá đắt chính vì hành động đó. Một cái giá quá đắt về thông tin trong một
thế giới ngày càng rộng mở. TQ bị đóng cửa với thế giới bên ngoài .” và “Sau bảy
ngày “cưỡi ngựa xem … hậu SARS” trên chuyến bay về Việt Nam, nỗi buồn bỗng
ập đến. Chúng tôi nhớ đến những mẩu chuyện đầy bức xúc của ông Tổng lãnh sự
VN tại Quảng Châu, khi mô tả cái gọi là quảng bá tiếp thị hết sức bôi bác của
ngành du lịch VN tại một hội chợ quốc tế tại đây. Chúng tôi nhớ sự ngạc nhiên của
bà Cục phó Cục Du lịch Bắc Kinh Phùng Ngọc Mai về sự vắng mặt của VN tại
cuộc gặp gỡ chín nước và vùng lãnh thổ châu Á nhằm bàn thảo và ký kết một thoả
ước về du lịch khu vực thời “hậu SARS”. “Các địa điểm du lịch VN sẽ được giới
thiệu trên CNN”, đó là tựa đề bản tin vừa đọc được cách đây vài hôm. Vẫn là
“sẽ”. Cho đến ngày 30/7 vừa rồi, 12 bệnh nhân cuối cùng của TQ mới được tuyên
bố hoàn toàn khỏi bệnh. Còn VN? Chúng ta ra khỏi SARS từ lâu rồi nhưng thời cơ
du lịch đang dần trôi qua nhanh chóng, vì một từ thôi: “sẽ”.”( Bùi Thanh, Trung
Quốc sau cơn bão SARS, Tuổi trẻ, 26/4/2004).
Cơn bão SARS đã gây thiệt hại nặng nề châu Á, và Trung Quốc là đất nước
phải gánh chịu chịu nhiều hậu quả hơn cả. Song, khác với chúng ta, mặc dù ra khỏi
cơn bão muộn nhất nhưng TQ lại sớm phục hồi hơn nhiều nước trong khu vực
(như VN). Những chính sách tích cực của TQ, đặc biệt trong ngành du lịch, khiến
chúng ta phải suy nghĩ về sự trễ nải và kém hiệu quả của ngành du lịch nước nhà.
3. Có giọng điệu gần gũi với văn kể chuyện
83
Sở dĩ nói phóng sự có giọng điệu gần gũi với văn học là bởi hầu như mỗi bài
phóng sự đều mang dáng dấp một câu chuyện (hoặc tập hợp các câu chuyện) có
biến cố, nhân vật với đầy đủ lời nói, suy nghĩ, hành động…do tác giả kể lại từ đại
từ nhân xưng ngôi thứ nhất "tôi". Hơn thế nữa, một số tác phẩm phóng sự còn vận
dụng cả các thủ pháp của nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong văn học để trình
bày diễn biến của sự kiện: có thắt nút, có cao trào, có mở nút. Chính vì thế, phóng
sự rất dễ đọc, dễ đi vào lòng người và dễ được ghi nhớ. Đọc xong một phóng sự,
người ta có thể kể lại nội dung của nó cho người khác nghe không mấy khó khăn.
Giọng văn của phóng sự, khi thủ thỉ tâm tình, khi mạnh mẽ dữ dội tuỳ thuộc
vào vấn đề, sự việc mà tác phẩm phản ánh.
Ví dụ:
“Chuyện bắt đầu từ một gia đình thương binh nghèo ở ấp Thanh Điền, xã
Hưng Khánh Trung (Chợ Lách, Bến Tre). Hoà bình về, anh Nguyễn Văn Ty –
người chiến sĩ thuộc đại đội địa phương quân trở lại quê nhà, với thân thể đầy
thương tích và một mảnh đạn còn sót lại trong đầu.” ( Nguyễn Bảy, "Vườn tình
thương” cho cựu binh, Lao động, 12/2/2004).
Câu chuyện cứ thế tiếp tục, với một giọng điệu thật nhẹ nhàng, tự nhiên và
cuốn hút. Nó gợi cho ta nhớ tới những câu chuyện cổ tích mà ta đã được nghe bà
kể khi còn ấu thơ.
Bằng phóng sự “Chặn quái xế ẩn hiện”, nhà báo Cù Mai Công như “Hiệu
báo dừng xe của CSGT – TT Q. Phú Nhuận không làm giảm tốc độ chiếc Suzuki
125cc màu xám bạc đang phóng với tốc độ cao dọc bờ kè hướng từ Phú Nhuận ra
Bình Thạnh. Một môtô trắng phóng theo, một chiếc khác vòng qua đường tắt chặn
đầu. Chỉ một loáng, hai quái xế trên chiếc xe phân khối lớn “căm dính niền” ấy đã
bị “vịn”cách đó gần trăm mét để đưa về một chốt mai phục…” (Cù Mai Công,
Chặn quái xế ẩn hiện, Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh, 11/2/2004)
Tiết tấu nhanh, mạnh của mạch văn đã đưa người đọc vào một cuộc rượt
đuổi nghẹt thở, đầy gay cấn giữa cảnh sát giao thông với những " yêng hùng xa
lộ". Giọng điệu của đoạn trích làm ta liên tưởng tới những màn điều tra, phá án
trong các tác phẩm trinh thám.
84
4. Đa tầng, đa thanh
Ngôn ngữ phóng sự, nếu xét theo góc độ chủ thể phát ngôn, tồn tại dưới hai
dạng chính là ngôn ngữ mang " cái tôi " trần thuật của tác giả và ngôn ngữ nhân
vật.
4.1. Ngôn ngữ mang "cái tôi" trần thuật của tác giả
"Cái tôi " trần thuật trong phóng sự chính là "cái tôi" tác giả- nhân chứng
khách quan, người đóng vai trò dẫn chuyện, kể lại những điều "mắt thấy, tai nghe",
người trình bày, lý giải, phân tích, xâu chuỗi các sự kiện rời rạc thành một chỉnh
thể hoàn chỉnh, tạo ra một văn bản có nghĩa khiến cho công chúng luôn tin tưởng
rằng họ đang được tiếp xúc với sự thật. Và trên cơ sở của niềm tin như thế, họ sẽ
có những chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm như người viết mong đợi.
Ví dụ:
"Khi chúng tôi đang "đọc" báo điện tử thì một gã "mù" bước vào. Gã không
biết có người lạ đột nhập vào phòng vi tính của trung tâm. Gã oang oang tuôn một
tràng tiếng Anh là tên các chương trình tiếng Anh trên Internet mà gã đang vào
nhưng đang bị tắc do dịch vụ cung cấp theo gã là quá chán. Tôi có ấn tượng ngay
khi gã nói câu tiếng Anh đầu tiên. Gã phát âm cực chuẩn, theo tôi chỉ những người
học thật nghiêm túc và rèn luyện công phu mới đạt được trình độ nói tiếng Anh
điêu luyện như vậy ".
(Lê Thanh Phong, Hiệp sỹ mù, Lao động, 9/6/2004);
Chính việc đàm thoại trực tiếp với độc giả từ danh tính của "cái tôi" cá nhân
đầy cụ thể đã giúp cho nhà báo thể hiện một cách tự do thái độ, tình cảm của mình.
Vì lẽ đó, ngôn ngữ mang "cái tôi" trần thuật trong phóng sự luôn ngập tràn cảm
xúc cá nhân.
4.2. Ngôn ngữ nhân vật
Đây là ngôn ngữ của những đối tượng khác ngoài tác giả. Căn cứ vào hình
thức thể hiện, có thể chia ngôn ngữ nhân vật thành hai loại là ngôn ngữ nhân vật
trực tiếp và ngôn ngữ nhân vật gián tiếp.
Ngôn ngữ nhân vật trực tiếp là những lời nói được trích dẫn trực tiếp, xuất
hiện trong những tình huống đàm thoại, phỏng vấn.
85
Ví dụ:
- Hai anh đi không?
- Đi đâu, đâu có quen đâu mà đi.
- Xì, cái mặt gặp hoài mà làm bộ. Đi đi khách quen bớt giá.
- Tiền đâu mà đi?
- Thôi đi cha. Nhất tóc muối tiêu, nhì Việt kiều, thấy hai cha
biết là ngon rồi....
(Huỳnh Dũng Nhân, Theo dấu "bướm đêm ", trong:"Tôi đi bán tôi", Nxb.
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 1994);
“Hoan thủ thỉ: “Em ngu quá, ngày ở bãi đá đỏ dây vào “của nợ” vài lần thế
là “chết” luôn. Về nhà (ở xã Kim Phú) em đã cố gắng nhưng không thoát được.
Trước khi vào đây, vợ và hai đứa con đang học đại học của em đều nói: cứ tập
trung lao động cai nghiện cho dứt điểm, ở nhà lo được mà!…” (Nguyễn Trọng
Hùng, Mái trường 06, Lao động, 19/2/2004).
Về nguyên tắc, ngôn ngữ nhân vật trực tiếp thường mang dấu ấn cá nhân rất
rõ nét. Nó thể hiện khá đầy đủ các đặc điểm của chủ thể phát ngôn: từ giới tính,
tuổi tác, quê quán cho đến trình độ, nghề nghiệp, tính cách,... Tất nhiên, khi xuất
hiện trên báo in, rất có thể ngôn ngữ nhân vật đã mất đi cái dáng vẻ nguyên sơ như
nó vốn có trong đời thực vì nó đã trải qua sự nhào nặn dưới ngòi bút tác giả hoặc
biên tập viên. Còn ngôn ngữ nhân vật trên truyền hình hay phát thanh là bức tranh
rất chân thực về con người của anh ta, vì nó đến với người nghe một cách trực tiếp,
không qua trung gian cho nên vẫn giữ được nguyên vẹn các sắc vẻ cá nhân của
người nói.
Kết quả khảo sát cho thấy, ngôn ngữ nhân vật trực tiếp, nếu được tác giả tái
hiện một cách trung thành (tất nhiên không vượt quá giới hạn mà sự chuẩn mực
cho phép) so với nguyên gốc, luôn mang những đặc trưng rất rõ nét của phong
cách khẩu ngữ.
Còn ngôn ngữ nhân vật gián tiếp chúng ta gặp trong trường hợp tác giả
dùng lời của mình để diễn đạt lại nội dung các phát ngôn của nhân vật.
Ví dụ:
86
"...Dẫu sao giữ hai tấm ảnh của con, bây giờ, chị cũng nguôi ngoai rồi, cốt
là con vẫn khoẻ, chứ có cần gì nhiều nhặn đâu. Hôm nọ chị vừa đọc cho bé Thảo
(con cả của chị, sinh năm 1991, đã phải bỏ học) viết hộ một lá thư, ra bưu điện
Tiên Du, chị gửi trực tiếp sang Pháp mất ba mấy nghìn tiền cước. Chị đang ngong
ngóng chờ thư, trong khi anh Đăng vẫn lổm lổm chửi cái thằng Chiến môi giới
đểu...
...Đến bây giờ, anh chị vẫn chưa hiểu: nếu chị không làm ẫm ĩ thì thư bị vứt
đi đâu? Tại làm sao mà thư và cả ảnh của con chị lại bị người ta giữ rịt lấy một
cách mờ ám như thế? Liệu có phải, trước đấy, có những tin gì về cháu mà họ ỉm đi
vì có những chuyện lập lờ, lừa lọc mà chị không bao giờ được phép biết không...?
(Đỗ Doãn Hoàng, Nước mắt của một người đàn bà bị ép " bán con",
trong: Lạc lối dưới chân Bù Chồng Cha, Nxb. Thanh niên, 2003).
Ngôn ngữ nhân vật gián tiếp một mặt làm cho giọng điệu của tác phẩm
phóng sự trở nên đa dạng, linh hoạt hơn; mặt khác, thể hiện vai trò tổ chức các
thành tố nội dung của tác giả rõ nét hơn. Vì như chúng ta đều biết, nếu những bài
phóng sự có quá nhiều ngôn ngữ nhân vật trực tiếp thì chúng vừa khô cứng, đơn
điệu (giống như diễn đàn để nhân vật làm công việc phát ngôn thuần tuý) lại vừa
làm lu mờ dấu ấn sáng tạo của tác giả ( tác giả chỉ biết chép lại lời người khác).
Bên cạnh đó, ngôn ngữ nhân vật gián tiếp còn tạo điều kiện cho tác giả bộ lộ thái
độ, tình cảm của mình đối với sự việc, hiện tượng được nói tới một cách rõ ràng,
công khai.
5. sử dụng câu văn thuộc mọi kiểu loại, cấu trúc
Câu văn trong phóng sự rất đa dạng, phong phú chứ không đơn điệu, rập
khuôn như trong một số thể loại khác. Chẳng hạn, nếu trong tin người ta chỉ gặp
duy nhất một kiểu câu trần thuật thì trong phóng sự có mặt tất cả các kiểu câu chia
theo mục đích phát ngôn: câu trần thuật, câu hỏi, câu cầu khiến và câu cảm thán.
Ví dụ:
Họ có thể là dân Hà thành chính gốc hoặc dân ngoại tỉnh về Hà Nội học.
Song đều có một điểm chung là hầu bao luôn đầy vì được gia đình là "đại gia" lắm
tiền nhiều của chu cấp.
87
(Minh Tiến, Khi quý tử phiêu linh, An ninh thế giới, 30/3/2005);
Theo quy định của liên bộ Tài chính - Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
kinh phí cho người tham gia giữ rừng là 1 người/ 500.000 đ/1000 ha rừng. Với mức
chi như thế, làm sao có thể giữ được rừng trong điều kiện khó khăn này?
(Trần Minh Trường, Rừng U Minh Hạ: " Cuộc chiến nóng bỏng ", Sài Gòn
giải phóng, 6/4/2005);
"Lớp học có một không hai!"
(Vũ Ngọc Lâm, Hội hoạ của người " nhìn bằng tay ", Lao động, 22/4/2005);
"Đừng tưởng ở đất Hà thành thanh lịch này, chỉ người nghèo mới mù chữ.
Xin mời bạn theo bước chân tôi, rồi bạn sẽ thấy nhận xét trên là đúng".
(Thái Minh Châu, Người Hà Nội mù chữ, trong: Phóng sự Thái Minh Châu,
Nxb. Lao động, 1999);
Bên cạnh đó, ngôn ngữ phóng sự còn sử dụng tất cả các cấu trúc, các mô
hình câu đang tồn tại trong hoạt động giao tiếp. Ở đây không chỉ có câu đầy đủ
thành phần nòng cốt mà còn có những câu đặc biệt, không chỉ có câu với trật tự
thuận ( chủ ngữ trước, vị ngữ sau ) mà còn có câu với trật tự ngược ( đảo ngữ ), đặc
biệt, ở đây còn hiện diện cả những câu bị tỉnh lược thành phần cũng như những câu
có đề ngữ vốn rất ít gặp trong các thể loại khác.
Ví dụ:
"Đậu xuống vai ai vô tình nguyên hình một chiếc lá, nhưng là một chiếc lá
chết, nó đã hoá thân vào lửa, đen đủi như một lời khẩn cầu, một lời kêu cứu của
rừng về một thảm hoạ đang xảy ra! "
(Hà Nguyên Huyền, Cháy rừng ở Than Uyên - Lai Châu, Văn nghệ trẻ,
10/4/2005);
"Đèn đỏ. Tôi dừng lại trước vạch sơn thì bỗng nghe thấy giọng thỏ thẻ ngay
sát bên..."
(Thái Minh Châu, SOS: Gái mại dâm di động, trong: Phóng sự Thái Minh
Châu, Nxb. Lao động, 1999);
88
"Cuối cùng. Với những người cắm bản xa xôi của tôi, tôi đã từng nghĩ về
họ... rằng là, với họ chỉ có bao dung, bao dung và bao dung. Chỉ có hy sinh thầm
lặng."
(Đỗ Doãn Hoàng, Phía sau núi cao và mây mù, trong: Ký sự đồng rừng,
Nxb. Thanh niên, 2005);
"Ở đây, tôi đã gặp những người phụ nữ với dằng dặc nỗi buồn."
(Nguyễn An Khánh, Dấu vết thời gian trên những cặp vai gầy, Phụ nữ Thủ
đô, 14/7/2001)
Chính sự đa dạng, phong phú vể kiểu câu, mô hình câu đã làm cho ngôn
ngữ phóng sự rất khoáng đạt, uyển chuyển, linh hoạt, giúp người viết khám phá
hiện thực một cách đa diện và sâu sắc.
Như vậy, có thể khẳng định, ngôn ngữ phóng sự hết sức đa dạng và phong
phú về hình thức thể hiện. Nói một cách hình ảnh, nó giống như một bức tranh
rộng lớn, phức tạp về bố cục với muôn vàn các chi tiết và vô số những sắc màu. Và
bài viết của chúng tôi trên đây, cũng như một số các bài viết đơn lẻ có liên quan
của các nhà nghiên cứu khác, thực sự mới chỉ là những chấm phá bước đầu trên
nền của bức tranh ấy. Hy vọng, trong một tương lại gần, về ngôn ngữ phóng sự sẽ
xuất hiện những công trình có tầm vóc xứng đáng.
89
MỘT SỐ KIỂU KẾT THÚC CƠ BẢN TRONG PHÓNG SỰ
Có người ví: Một phóng sự có kết thúc dở cũng giống như một bát cơm có dính
mấy hạt sạn phía dưới đáy. Những hạt sạn này sẽ làm tan vỡ cái cảm giác ngon
lành, thích thú đã từng có trước đó. Vẫn biết rằng mọi sự so sánh đều khập khiễng,
song sự so sánh trên không phải là không có lý. Không thể có một phóng sự hay
với phần kết thúc dở. Nếu chúng ta viết phần kết thúc của một phóng sự quá qua
loa, đại khái, chắc chắn sẽ tạo nên sự "khập khiễng", thiếu cân xứng giữa nó với
các phần phía trên, và điều này sẽ để lại ấn tượng không tốt trong lòng người đọc,
làm cho hiệu quả tiếp nhận của họ đối với tác phẩm không cao. Ngược lại, nếu
chúng ta đầu tư cho phần kết thúc một cách thoả đáng cả về thời gian và công sức,
nó có thể sẽ trở thành nhân tố khắc sâu vào tâm khảm người đọc những vấn đề, sự
việc, hiện tượng,.. đã được phản ánh trong phần triển khai, khiến cho họ có bị tác
động mạnh mẽ hơn, có những định hướng về cảm xúc cũng như hành động rõ
ràng, phù hợp với mong muốn của người viết hơn.
Với vai trò quan trọng như vậy, phần kết thúc phóng sự cần được khảo cứu một
cách toàn diện, theo nhiều vấn đề, từ nhiều góc độ. Tuy nhiên, trong phạm vi bài
viết này, do hạn chế về nhiều mặt, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc phân loại những
cách thức (thủ pháp) mà người ta thường dùng để kết thúc các bài phóng sự trên
báo in.
1. Kết thúc đưa ra nhận xét, đánh giá
90
Đây là kiểu kết thúc mà ở đó, tác giả đưa ra lời bình giá về các vấn đề, sự việc,
hiện tượng, v.v. đã được bàn tới trong phần triển khai. Sự bình giá này có thể là
tích cực, mà cũng có thể là tiêu cực. Ví dụ:
Cuối cùng ba ngày nghỉ lễ rồi cũng trôi qua. Tôi ra Biển Đá, ngồi nhớ lại
những kỷ niệm yêu dấu ngọt ngào ngày nào. Từ đây nhìn ra con đường nườm
nượp du khách đang đổ ra biển, tôi hiểu và tin một điều rằng cho dù có những
khuyết điểm nhất định thì địa danh Hòn Rơm, Mũi Né vẫn là một điểm du lịch hấp
dẫn du khách. Và đó cũng là lý do vì sao bây giờ người ta đã nhắc đến du lịch
Phan Thiết nhiều hơn là nước mắm Phan Thiết.
(Huỳnh Dũng Nhân, Không đi không biết Hòn Rơm, Lao động, 25/3/2002);
Sài Gòn là một phố nhậu khổng lồ. Có người giàu lên vì kinh doanh nhậu,
nhưng cũng không ít người nghèo đi vì nhậu. Và hàng trăm dịch vụ ăn theo như
những “ca sỹ", "ban nhạc" vừa nêu trên đây bên quán nhậu cũng nở rộ. Nhưng
tương lai của họ cũng mịt mù y như những kẻ đang ngồi nhậu triền miên kia, thật
buồn!
(Vũ trọng Thịnh, Ca sỹ vỉa hè, Tiền Phong, 16/ 4/2002).
Sự đánh giá đôi lúc có thể không dành cho vấn đề chính đã được bàn tới trong
tác phẩm, mà cho một vấn đề khác có liên quan trực tiếp đến nó, xuất phát từ nó.
Điều này làm cho ý tưởng của tác giả vượt ra ngoài nội dung của bài phóng sự và
phạm vi tác động của tác phẩm trở nên rộng hơn. Ví dụ:
Một vụ án lớn như thế này, đáng ra Nghệ An nên tận dụng các cơ quan thông
tin đại chúng để tuyên truyền, qua đó góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn mua
bán ma tuý, nhưng tỉnh lại đề ra các quy định quá chặt chẽ, làm cho các nhà báo
vất vả, ít có lượng thông tin để kịp thời phối hợp đấu tranh có hiệu quả.
(Hải Hưng, Trùm ma tuý Nguyễn Đức Lượng, Quân đội nhân dân, 3/2/ 2002).
2. Kết thúc nêu nguyện vọng, mong muốn
Nội dung của những mong muốn ở đây rất đa dạng: một vấn đề nào đó đuợc
giải quyết, một hoàn cảnh nào đó được cải thiện, một tình trạng nào đó được chấm
dứt, một nét đẹp nào đó được giữ gìn, v.v. Ví dụ:
91
Thiết nghĩ, bất kỳ ở đâu, nông thôn hay thành thị, gia đình nào cũng có một lối
nhỏ đi về. Sẽ là hạnh phúc biết bao khi sự bình yên được bắt đầu từ đây cho mỗi
nhà, mỗi người, cho triệu triệu người. Làng đẹp giàu là nước đẹp giàu. Chả thế
mà từ xưa các cụ đã dạy ta nói "làng - nước" đó sao. Trong làng có chạnh, chạnh
là gương mặt của làng, làng là gương mặt của nước. Ước mong sao đến đâu ta
cũng đều bắt gặp những cái chạnh như ở Liêu Trì, bắt gặp những con người từ
chạnh ra đi.
(Phan Thế Phiệt, "Chạnh" của làng, Lao động, 4/4/2002 );
Giáo sư Đỗ Xuân Hợp, danh nhân Đỗ Xuân Hợp đã đi vào cõi vĩnh hằng
nhưng bao nhiêu nguời còn khắc khoải nhớ về ông, đau đáu một nỗi buồn và ước
nguyện: giá như con đường 70 năm đi qua Học viện Quân y - nơi ông đã gắn bó
gần như cả cuộc đời được mang tên Đỗ Xuân Hợp. Và Hà Nội , nơi ông sinh ra,
lớn lên trở thành danh nhân đất nước, Hà Nội còn có nhiều nhà không số, phố
không tên, Hà Nội đã có phố Trần Đắc Di, phố Tôn Thất Tùng, phố Phạm Ngọc
Thạch... Giá như lại có một phố, hoặc một con đường không tên ở Hà Nội được
đặt tên ông: phố Đỗ Xuân Hợp hoặc đường Đỗ Xuân Hợp!
(Sương Nguyệt Minh, Đỗ Xuân Hợp - Nhà giải phẫu học đầu tiên của Việt Nam,
Quân đội nhân dân, 9/1/2002).
Thực tế khảo sát cho thấy, trong tuyệt đại đa số các trường hợp, kết thúc thể
hiện nguyện vọng của tác giả chính là lời yêu cầu, đề nghị (trực tiếp hay gián tiếp)
đối với các cơ quan chức năng - những nơi có trách nhiệm hoặc có đủ khả năng để
biến nguyện vọng đó thành hiện thực. Còn trong một số ít các trường hợp khác,
kiểu kết thúc này là lời cầu chúc cho các đối tượng nào đó gặp được những điều
kiện thuận lợi (về tự nhiên cũng như về xã hội) trong công việc và cuộc sống, hoặc
vượt qua được những khó khăn, thử thách nhất định nhờ các nỗ lực của chính bản
thân mình.
3. Kết thúc đề xuất kiến nghị, giải pháp
92
Nơi nhận những đề xuất ở đây không thể là gì khác ngoài các cơ quan chức
năng có liên quan trực tiếp tới vấn đề được phản ánh trong tác phẩm. Giọng điệu
của chúng có thể mềm dẻo hoặc cương quyết tuỳ thuộc vào từng tình huống cụ thể.
Tuy nhiên, do những đề xuất nói trên thực ra chỉ là những lời gợi ý cho nên giọng
điệu mềm dẻo có vẻ chiếm ưu thế, vì nó không gây cho người đọc cảm giác là họ
đang bị áp đặt ý tưởng của tác giả. Và trong việc tạo nên sự mềm mại, nhẹ nhàng
cho giọng điệu như vậy, có đóng góp rất lớn của những từ ngữ biểu thị sự không
xác định hoặc không chắc chắn như "có lẽ", "nên chăng", "thiết nghĩ"... Ví dụ:
Để xây chung cư cao tầng chỉ cần vài năm và mấy chục tỉ đồng là xong, nhưng
để có một ngôi làng cổ với nhiều giá trị văn hoá như làng cổ Hoà Mục thì phải trải
qua hàng trăm năm mới có được. Nên chăng Thành phố Hà Nội có sự điều chỉnh
quy hoạch để giữ lại ngôi làng cổ đang lưu giữ nhiều giá trị lịch sử văn hoá này...
(Nguyễn Thiêm, Lời cầu khẩn từ ngôi làng cổ ngàn năm tuổi, An ninh thế giới,
3/ 4/ 2003);
Đã đến lúc chính quyền các cấp của thành phố cần có biện pháp cụ thể để quy
hoạch và quản lý một "làng nghề" tự phát sinh cho có trật tự, thống nhất, tránh
tình trạng buông lỏng, thả nổi vô tổ chức như hiện nay, nên sắp xếp và có quy
định về quyền hạn và nghĩa vụ của người làm nghề, đồng thời có thể bố trí địa
điểm phù hợp tại địa bàn các phường, dễ dàng, thuận lợi trong việc phục vụ
người dân lao động. Có như vậy mới có thể cấp đăng ký kinh doanh cho họ yên
tâm hành nghề ổn định. Nhà nước sẽ thu được khoản thuế thu nhập không nhỏ từ
"làng nghề" độc đáo này.
(Thái Minh Châu, Cắt tóc vỉa hè - một vốn mười lời, Trong cuốn: Phóng sự
Thái Minh Châu, NXB. Lao động, 1999);
Giải pháp đưa họ khỏi "nghề" này trước hết là các cấp chính quyền tạo điều
kiện để họ lên bờ hoặc hồi hương tìm công ăn việc làm mới. Giải pháp tháo gỡ bế
tắc bao giờ cũng khó khăn nhưng không phải không làm được!
(Chí Tùng- Anh Xuân, Kiếm cơm bằng máu, Lao động, 8/ 4/ 2002).
4. Kết thúc kêu gọi
93
Những lời kêu gọi thường mang những cảm xúc chân thành, bị dồn nén của tác
giả. Chúng đánh thức lòng trắc ẩn, khơi dậy tinh thần trách nhiệm, thôi thúc, giục
giã người đọc hướng tới những hành động cần thiết nhằm thay đổi một thực tế nào
đó theo chiều hướng tốt đẹp hoặc giải quyết một vấn đề nào đó một cách vẹn toàn.
Trong hành trình làm người, việc kiếm sống bao giờ cũng đầy cực nhọc. Nó
không chỉ được tính bằng mồ hôi, nước mắt và đôi khi bằng cả tính mạng của
mình. Nhất là với trẻ em, những sinh linh bé bỏng, ngây thơ, non nớt... cái con
đường mưu sinh luôn đầm đẫm nỗi đau. Trên đây chỉ là một số nghề trong số
hàng trăm nghề lương thiện nhưng đầy nước mắt của các em thơ. Đây không chỉ
là nỗi đau của các em mà chính là sự hổ thẹn của người lớn. Xin hãy ngăn bớt
dòng mồ hôi và những giọt nước mắt trên gò má các em.
(Bùi Hoàng Tám, Trẻ thơ kiếm sống và hành trình nước mắt, Nhà báo và Công
luận, 5/11/ 2001);
Nếu trước đây khi voi rừng giết người, Chính phủ đã chỉ đạo không được có
thêm bất cứ một người dân nào bị giết chết nữa, thì bây giờ thiết nghĩ cũng cần
kêu gọi: Không được để thêm một chú voi nào bị chết trong đợt di dời này nữa.
(Lê Thanh Phong - Hồ Tuỳ Hoà, Đã chết con voi thứ hai, Lao động, 15/11/ 2001).
5. Kết thúc miêu tả, kể chuyện
Tác giả đóng vai người kể chuyện thuần tuý, không luận bàn, đánh giá, kêu gọi,
v.v. chỉ miêu tả những chi tiết, những hình ảnh giàu sức gợi có liên quan tới chủ đề
của tác phẩm để người đọc tự suy ngẫm và có những kết luận cần thiết. Ví dụ:
Tôi nhẩn nha đi cả ngày dọc ngang khắp làng lụa. Mắt tôi sáng lên, lòng khấp
khởi mừng khi gặp một bà cụ như mình vẫn tưởng tượng. Hiếm hoi và quý hoá
quá. Cụ như bước ra từ huyền thoại làng xưa, như thể quanh bà đâu đó váng vất
khói sương dĩ vãng. Tóc bà điểm bạc, chiếc sa quay và cuộn tơ óng ánh trắng.
Chúng tôi đứng lặng, tần ngần. Tiếng máy dệt ầm ào gào thét bên tai. Cụ nhìn tôi.
Tôi nhìn cụ. Không thể nói được một lời. Chỉ cười. Ai đó thét vào tai tôi rằng: "Bà
ấy làm thuê ở đây đấy!", rằng: “Tham quan nơi này phải mất tiền cơ đấy!". Tôi rời
làng lụa trong một chiều trái gió.
94
(Đỗ Doãn Hoàng, Tơ vương làng lụa, trong tập phóng sự Trần gian còn một thứ
nghề, NXB. Thanh niên, 2000);
Chúng tôi quay về Gò Công Đông, vẫn bằng chiếc xe hơi gắn còi xe lửa. Những
đứa bé thôn dã ngẩn tò te nhìn. Mấy chú chó liều mình đuổi theo xe và sủa quyết
liệt. Hàng đoàn người đạp xe chở nhau vẫn lũ lượt hướng về phía biển nghêu, vừa
đi vừa nhẩm tính số tiền sẽ kiếm được đêm nay và dự tính những món phải chi tiêu
sắp tới.
(Huỳnh Dũng Nhân, May mà có nghêu, trong: Ăn tết trong rừng chó sói, NXB.
Lao động, 1994).
Kiểu kết thúc miêu tả, kể chuyện làm cho mạch tư duy của độc giả vẫn giữ
được độ căng cần thiết, không bị chùng xuống ngay cả khi đã đọc xong tác phẩm.
Và do vậy dư âm của nó có sức lan toả rất lớn.
6. Kết thúc cung cấp thông tin bổ sung
Thoạt nghe, cứ tưởng đây chỉ là chuyện ngoài lề, có tính chất để tham khảo,
nhưng thực ra nó lại có sức nặng đặc biệt. Thông tin này làm cho tất cả những điều
đã nói ở phía trên trở nên thuyết phục hơn, thu hút được sự chú ý hơn, nghĩa là thể
hiện được chủ đề bài báo ở một tầm cao và một chiều sâu mới. Ví dụ:
Thị trấn Thanh Sơn có rất nhiều con nghiện và ít nhất 25 đối tượng nhiễm HIV
đang chờ chết!
(Đỗ Doãn Hoàng, Nỗi đau trẫm dưới sông Vàng, An ninh thế giới, 25/4/ 2002);
Được biết, cho đến nay toàn tỉnh Lai Châu đã có 8500 người bị nghiện các chất
ma tuý, khoảng 250 người bị nhiễm HIV / AIDS được phát hiện. Nhưng trên thực
tế thì con số này còn gấp nhiều lần.
(Hiếu Minh Văn, Chợ tình Điện Biên Phủ, Gia đình, số 2/2003);
Khi kết thúc phóng sự này tôi chợt nhớ đến chiếc bánh gatô trong buổi sinh
nhật của Mai. Trong số 28 ngọn nến, có những ngọn nến thẳng và có những ngọn
nến cong, nhưng khi thắp lên chúng đều lung linh toả sáng.
(Quang Thương, Thắp sáng những ngọn nến cong, Lao động, 15/3/2002 ).
95
Những kết thúc kiểu này thường rất ngắn gọn nhưng đầy sức ám ảnh đối với
người đọc.
7. Kết thúc - trích dẫn
Đây là cách tác giả mượn lời người khác để thể hiện suy nghĩ, cảm xúc của
mình.
Đối tượng được trích dẫn có thể là nhân vật đã được đề cập trong tác phẩm, mà
cũng có thể là một nhân vật khác có uy tín cao trong xã hội và câu nói của người
đó có liên quan trực tiếp tới chủ đề của tác phẩm. Ví dụ:
Trong lễ khai giảng năm học 2001 - 2002, tại Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nhắc nhở: Cần chăm lo khuyến khích các tài
năng trẻ ngay từ những ngày trong nhà trường, giúp đỡ những sinh viên có hoàn
cảnh khó khăn trong đời sống, để mọi thanh niên có ý chí và năng khiếu ở mọi
vùng của đất nước, thuộc mọi dân tộc đều có thể thành đạt trên con đường đạt tới
học vấn bậc cao…". Mọi bình luận, xem ra không cần thiết.
(Hoàng Quảng Uyên, Lên hang luyện văn, Lao động, 17/9/2001 );
Rời chợ khi trời chưa sáng rõ, nhớ lại hình ảnh người phụ nữ còng lưng kéo,
đẩy chất ngất chục tạ cam quýt, tôi xót xa nghĩ đến câu đùa của chị Hoa, bán hàng
nước ở đây: "Đấy 8. 3 của chị em chợ Long Biên chúng tôi là thế đấy!".
(Phạm Lan, Nữ cửu vạn, Văn hoá chủ nhật, 9/3/ 2003);
Chúng tôi đi giữa những vườn cam trồng mới vừa cho trái chiếng, tàn lá xanh
um, hứa hẹn một ngày mai tươi tốt. Một nông dân đang móc đất bồi những liếp
cam, nói: “Sự vươn dậy của các vườn cam hôm nay, công đầu thuộc về Chủ tịch
Huyện Tam Bình Cao Thành Chí, một chủ tịch vì lợi ích của người dân, dám nghĩ,
dám làm. Ông đã mạnh dạn chỉ đạo các ngành liên quan cho dân vay vốn để khôi
phục lại các vườn cam. Nhờ ông mà cam Tam Bình có được thương hiệu, khẳng
định vị trí của mình trên thị trường. Đó không chỉ là niềm mong mỏi bấy lâu của
người sống nhờ trái cam, mà còn là niềm vinh dự của của xứ sở có trái cam sành
nổi tiếng".
(Nguyễn Tường Lộc, Ai về xứ sở cam sành..., Sài Gòn giải phóng, 13/3/ 2003).
96
Kết thúc - trích dẫn làm cho ý tưởng tác giả gửi gắm trong đó trở nên khách
quan hơn, và ở mức độ nào đó, có tính thuyết phục cao hơn. Tuy nhiên, do ngôn từ
ở đây không phải (hoặc không hoàn toàn) là của tác giả cho nên đôi khi chúng còn
thiếu sự gọt giũa, chắt lọc cần thiết để đạt tới sự sinh động, hấp dẫn; thậm chí có
lúc giọng điệu của nó còn không phù hợp lắm với giọng điệu chung của toàn tác
phẩm. Đây là những điều các tác giả phóng sự nên lưu ý khi sử dụng kiểu kết thúc
này.
8. Kết thúc - câu hỏi
Đây thường là những câu hỏi tu từ, chúng có nhiệm vụ gợi cho người đọc suy
nghĩ theo những định hướng nhất định của tác giả.
Xét về mặt chức năng, các câu hỏi trong kiểu kết thúc này có thể chia thành
mấy dạng chính dưới đây:
a, Câu hỏi giữ vai trò là yêu cầu trực diện, lời nhắc nhở thẳng thắn đối với các
cơ quan chức năng. Ví dụ:
Trong canh bạc với giời ấy, tôi cứ thầm trách mấy ông chính quyền, mấy ông
ngân hàng mãi. Nếu họ không đồng ý đặt tiền triệu, tiền tỷ vào tay những con
người bạt mạng và mạo hiểm kia, thì làm gì có nỗi đau ngày hôm nay? Tất nhiên
chả ai sung sướng gì trong những canh bạc này. Và hẳn "ông giời" cũng chẳng
phải là người mong thắng cuộc đỏ đen kia. Nhưng chẳng lẽ sống chết mặc bay,
chính quyền đoàn thể không để mắt tới ư? Có thể coi đây là một bài học đau lòng
trong quản lý, hướng nghiệp giúp đỡ trong kiếm kế sinh nhai.
(Đỗ Doãn Hoàng, Canh bạc với giời, trong tập phóng sự Trần gian còn một thứ
nghề, NXB. Thanh niên, H., 2000);
Bảo vệ rừng mà không dựa vào dân thì bao nhiêu kiểm lâm cho đủ?
(Trần Minh, Miền Trung động rừng, Đại đoàn kết, 10/5/2002);
Từ đám cháy của cánh rừng bước ra, mắt thâm quầng đỏ ngầu, mặt mũi nhem
nhuốc bụi than, ông Trương Quốc Tuấn- chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang cho biết
ông đã viết bản tự kiểm điểm trách nhiệm của mình về việc để xảy ra cháy rừng
gửi về Chính phủ. Còn Cà Mau, dư luận cũng đang chờ đợi câu trả lời một cách
nghiêm túc về trách nhiệm trước sự tổn thất của rừng U Minh Hạ. Bao giờ?
97
(Ngô Chí Tùng, Cháy rừng U Minh, Lao động, 18/4/2002).
b, Câu hỏi thể hiện những nỗi niềm trăn trở, day dứt của tác giả trước một mảng
hiện thực có sắc màu thiếu tươi sáng nào đó. Ví dụ:
Có lẽ, tôi cũng sẽ như anh thanh niên nọ, im lặng đăm chiêu nhìn vào cánh
rừng Bình Châu xơ xác với những thân cây đổ ngổn ngang và cháy xém. Xuyên
mộc còn đâu những cánh rừng già cây lớn mấy người ôm mà 17 năm trước tôi
từng chứng kiến? Để bây giờ là một chiến dịch bảo vệ môi trường lớn và quy mô
đến mức con người phải tự nhìn lại mình. Rừng cấm quốc gia mà tiêu điều trơ trụi
như thế kia là tại vì đâu?
(Huỳnh Dũng Nhân, Voi ơi ta bảo voi này, trong: Ăn tết trong rừng chó sói,
NXB. Lao động, H., 1994);
Thanh minh nghĩa là trong sáng, làm thế nào để tình người trong ngày thanh
minh chỉ còn lại toàn nét trong sáng?
(Thái Sinh, Thanh minh trong tiết tháng ba, Nông nghiệp Việt Nam, 4/4
/2002 );
Khi tôi đang viết những dòng này thì hay tin: Ở An Giang có trên 80 nghìn trẻ
em dưới 16 tuổi chưa có khai sinh; ở Vĩnh Long, Cà Mau... cũng có. Và còn ở
những đâu nữa trên cái vựa lúa mênh mông sông nước này, trẻ em không có khai
sinh? Người ta nói, thế kỷ 21 là thế kỷ của tăng tốc và văn minh. Tôi cũng cho là
vậy. Nhưng trẻ em của quê tôi và xóm Chành Bà Te của Vĩnh Long, An Giang...
lên đến hàng chục vạn không khai sinh, không hộ khẩu, liệu có bị bỏ quên bên lề
cuộc tăng tốc?
( Diễm Hà, Những người không có căn cước, Lao động, 12/1/2001 ).
c, câu hỏi mang ý nghĩa khẳng định, tức là tự thân nó nó đã hàm chứa câu trả
lời của tác giả. Ví dụ:
Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với một cán bộ của Vụ Công tác chính trị Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Khi chúng tôi đặt câu hỏi về tình hình an ninh trật tự trong
và ngoài các ký túc xá sinh viên cũng như sự nổi cộm đầy nhức nhối về tình trạng
98
sinh viên phạm tội mà các phương tiện thông tin đại chúng đã phản ánh, ông tỏ ra
lạc quan:
"Vấn đề an ninh không có gì lớn, có một số vụ việc xảy ra nhưng không đáng
kể, theo đánh giá chung về sinh viên không có gì lộn xộn...". Nhận định này đã sát
với thực tế chưa, khi mà Công an Thành phố Hà Nội vừa cung cấp cho chúng tôi
thông tin mới nhất là trên địa bàn thành phố đã có tới 6 sinh viên phạm trọng tội
giết người?
(Thái Minh Châu, Chuyện thường ngày của sinh viên, trong: Phóng sự Thái
Minh Châu, NXB. Lao động, H., 1999).
Kiểu kết thúc bằng câu hỏi khá phổ biến trong các bài phóng sự.
Trên đây là một số kiểu kết thúc cơ bản khá thường gặp trong phóng sự. Trong
quá trình khảo sát chúng, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, các kiểu kết thúc phóng sự mà chúng tôi đã phân loại trên đây chỉ có
tính chất tương đối. Vì mỗi kiểu kết thúc như vậy không phải lúc nào cũng tồn tại
riêng rẽ, độc lập, mà nhiều khi tồn tại trong sự phối hợp, đan xen với những kiểu
khác. Điều này có nghĩa là: một kết thúc phóng sự có thể đồng thời biểu đạt nhiều
ý nghĩa, thực hiện nhiều chức năng; và cái ý nghĩa, cái chức năng được chúng tôi
lấy làm căn cứ để xếp nó vào kiều này hay kiểu khác, thực ra chỉ mang tính "trội"
mà thôi.
Thứ hai, không nhất thiết tất cả các bài phóng sự đều phải có phần kết thúc.
Nếu mọi vấn đề đã được giải quyết ổn thoả (tất nhiên là theo quan điểm của người
viết), mọi ý tưởng, cảm xúc đã được nói rõ trong phần nội dung thì phần két thúc
có vẻ như là thừa. Ngoài ra, có những trường hợp tác giả cố tình không viết kết
thúc nhằm tăng sức gợi cho tác phẩm, tạo dư ba trong lòng bạn đọc.
Thứ ba, phần kết thúc phóng sự có thể ngắn hay dài tuỳ theo từng tình huống cụ
thể, nhưng nhìn chung, nó thường chỉ từ 100 chữ trở xuống. Câu chữ ở đây thường
được viết khá cẩn thận, gọt giũa để vừa hấp dẫn độc giả, vừa giúp họ tiếp nhận và
lĩnh hội thông tin một cách dễ dàng.
99
NGÔN NGỮ TÁC GIẢ VÀ NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM
BÁO CHÍ
Ngôn ngữ báo chí, nếu xét từ góc độ chủ thể phát ngôn, tồn tại dưới
hai dạng chính. Đó là ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật.I. NGÔN NGỮ TÁC GIẢ
Ngôn ngữ tác giả chính là ngôn ngữ của người viết, của chủ thể sáng
tạo ra tác phẩm. Nó bao gồm hai kiểu dưới đây:
1. Ngôn ngữ mang "cái tôi" trần thuật của tác giả
Ở kiểu ngôn ngữ này, tác giả xưng "tôi" khi trình bày hay bàn luận về
các vấn đề, sự kiện, hiện tượng,... được đề cập trong tác phẩm. "Cái tôi" này
thường là "cái tôi" nhân chứng cho nên nó có tác dụng làm tăng độ xác thực, độ tin
cậy của thông tin.
Chính việc đàm thoại trực tiếp với độc giả từ danh tính của "cái tôi"
cá nhân đầy cụ thể đã giúp cho tác giả thể hiện một cách tự do thái độ, tình cảm
của mình. Vì lẽ đó, ngôn ngữ mang "cái tôi" trần thuật luôn ngập tràn cảm xúc cá
nhân.
Ví dụ:
"Thấy tôi chưa tâm phục khẩu phục, H. kéo tôi lên xe để đi thực tế.
Đêm Cà Mau nhộn nhịp quá. Nam thanh nữ tú dập dìu bên nhau trên những chiếc
xe bóng loáng. Nếu không nhờ H. chở tôi dọc quanh "đường đèn vàng" có lẽ giờ
này tôi đang "cày trên bàn viết" mà không cảm nhận được cuộc sống tất bật nơi
thành phố cuối miền cực Nam của Tổ quốc... Hai bên đường, quán nối quán, xe
100
xếp chật cả đường, âm thanh hỗn loạn từ trong quán vọng ra, nhạc não tình có,
nhạc Pop - Rap cũng có,...cứ thi nhau mở hết công suất làm kẻ "Hai Lúa" như tôi
phải đinh tai nhức óc." (Văn hoá chủ nhật, 7 / 10 / 2001);
"Người tôi được nhuộm bụi đỏ sau một ngày lặn lội trên đường. Bù
lại, tôi cũng gặp được nhân vật mà mình cần. Phóng sự "ông già mù bên dốc Cổng
Trời" ra đời từ đó. Chuyện nếu chỉ có vậy thì chẳng còn gì để nói. Đối với nhà
báo, viết được một bài như thế là đã sướng lắm rồi. Nhưng với riêng tôi, tôi luôn
chờ một tiếng vọng sau những bài như thế." (Lao động, 11 / 10 / 2001).
Ngôn ngữ mang cái tôi trần thuật của tác giả thường giàu tính biểu
cảm nên rất sinh động, dễ đi vào lòng người. Nó có thể gặp trong nhiều thể loại,
nhưng phổ biến hơn cả là phóng sự, bút ký, ghi chép, v.v.
2. Ngôn ngữ không mang "cái tôi" trần thuật của tác giả
Kiểu ngôn ngữ này, đến lượt mình, lại được thể hiện dưới hai hình
thức sau:
a. Ngôn ngữ sự kiện
Ở đây, tác giả chỉ cố gắng miêu tả, tường thuật các sự kiện một
cách khách quan như chúng vốn có trong thực tiễn, không để lộ rõ thái độ, tình
cảm của mình. (Chúng tôi dùng từ "cố gắng" vì không thể có sự khách quan tuyệt
đối, dù đó có là tác phẩm báo chí thuộc thể loại nào đi chăng nữa. Chỉ cần tác giả
có một động thái đơn giản là sắp xếp các thành tố ngôn ngữ theo một trật tự nào
đó, là vô hình trung anh ta đã tạo ra những điểm nhấn khác nhau, và bằng việc
này, đã thể hiện một thái độ nhất định của mình đối với sự kiện . Có lẽ, do sắc thái
biểu cảm trung tính của kiểu ngôn ngữ này mà nó được nhiều người gọi là "ngôn
ngữ sự kiện".
Ví dụ:
"Sáng 5. 10. tại Trung tâm Triển lãm Hội chợ Việt Nam (Giảng Võ,
Hà Nội) khai mạc Hội chợ Thương mại Hà Nội 2001. Hội chợ trưng bày, giới thiệu
những thành tựu kinh tế, văn hoá, xã hội, các hoạt động thương mại, quy hoạch
phát triển kinh tế, các dự án đầu tư của thành phố. 130 doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế của thành phố Hà Nội và hai nước Trung Quốc, Cộng hoà
101
Pháp tham gia giới thiệu các sản phẩm cơ khí, điện tử, điện lạnh, da giầy, dệt may,
hoá được, thủ công mỹ nghệ, công nghệ thực phẩm, nông sản chế biến, hàng tiêu
dùng...Trong thời gian diễn ra hội chợ, có các hoạt động biểu diễn văn hoá, nghệ
thuật, trình diễn, thời trang và hội thảo. Ban tổ chức bình xét, tặng thưởng Huy
chương vàng cho những sản phẩm chất lượng cao, được người tiêu dùng tín
nhiệm. Hội chợ mở đến hết ngày 11. 10 . " (Nhân dân, 6 / 10 / 2001);
"Chính phủ Pháp vừa quyết định triển khai một khoản viện trợ khẩn
cấp trị giá 150.000 Phơ-răng (22.000 Ơ-rô) dành cho những người dân bị lũ lụt tại
Đồng bằng sông Cửu Long.
Khoản viện trợ này được triển khai qua Hội Chữ thập đỏ sẽ giúp mua
gạo ngay để gửi tới nhân dân vùng bị thiên tai, nhất là những gia đình đặc biệt khó
khăn." (Hà Nội mới, 5 / 10 / 2001).
Dễ dàng nhận thấy, ngôn ngữ sự kiện khá "khô khan", vì thế, nó chủ
yếu gặp trong thể loại tin, là nơi sự hấp dẫn nằm ở ngay trong sự kiện chứ không
phải ở cách thức biểu đạt bằng ngôn từ.
b.Ngôn ngữ bình giá
Kiểu ngôn ngữ này thường gặp trong các dạng bài như bình luận,
phiếm luận, tiểu phẩm, ....Ở đó, tác giả không xưng "tôi" khi phân tích, bình luận
các vấn đề, sự kiện, hiện tượng,...Chính hình thức vô nhân xưng như vậy đã làm
cho các suy nghĩ, cảm xúc của anh ta trở nên khách quan hơn, bởi lẽ độc giả có
cảm giác rằng chủ thể của các suy nghĩ, cảm xúc ấy không chỉ thuộc về một các
nhân đơn lẻ nào đó, mà thuộc về cả một tập thể, một cộng đồng, thậm chí cả một
xã hội.
Ví dụ:
Đòn ngoại giao
Trong khi Mỹ hùng hổ giáng đòn quân sự chống khủng bố ở Ap - ga -
ni - xtan thì trên mặt trận ngoại giao, họ liên tiếp bị hai phản đòn.
Ngày 8. 10, khi tiếp đặc phái viên Mỹ tại Ma - xê - đô - ni - a, Giêm
Pa - điu, Thủ tướng Ma - xê - đô - ni - a L. Giooc - ghi - ep - xki đã gọi Mỹ là " tên
102
khủng bố lớn nhất thế giới ", Thủ tướng còn nhờ ông Pa - điu chuyển tới Tổng
thống G. Bu - sơ nguyên văn lời nhận xét này. Quá đỗi ngạc nhiên, ông Pa - điu
ngay lập tức đã rời văn phòng của Thủ tướng Giooc - ghi -ep - xki (tin Hãng
BETA).
Cùng ngày 8.10, Xy - ri đã giành một ghế trong Hội đồng Bảo an Liên
hiệp quốc với sự ủng hộ rộng rãi từ các quốc gia trên thế giới (160 trong số 178
nước tham gia ), bất chấp việc Mỹ liệt nước này vào danh sách các quốc gia " bảo
trợ khủng bố" (tin Hãng AP).
Ngoại giao thật là thiên biến vạn hoá và lịch sử có khi người ta không
nói ra sự thật, có khi lại nói toạc móng heo mà không kiêng nể gì. Để bày tỏ thái
độ, có khi người ta nói bằng lời, có khi lại bằng lá phiếu mà lá phiếu thì thường
thật hơn lời nói . " (Nhân dân, 13 / 10 /2001).
Nhân đây, có lẽ cũng cần phải nói thêm rằng, thảng hoặc, trong các
bài viết có tính chất bình luận, nếu có đại từ nhân xưng, thì đó thường là đại từ số
nhiều "chúng ta" - một đại từ có nhiệm vụ khách quan hoá "cái tôi" chủ quan của
tác giả.
Ví dụ:
"... Chúng ta không quên quá khứ với những tội ác của đế quốc Mỹ đã
chồng chất trên đất nước ta. Khồng quên nhưng chúng ta vẫn có thể tạm gác lại để
hướng tới tương lai vì lợi ích của cả hai nước. Chúng ta có cả nhiều nghìn năm
lịch sử mà không cần đến Mỹ, có cả nhiều chục năm chiến đấu và chiến thắng Mỹ
cho nên hiện nay càng có đủ bản lĩnh, trí tuệ và tiềm lực để mở cửa, hội nhập, làm
đối tác tin cậy với tất cả các nước, trong đó có Mỹ.
Chúng ta tin rằng, những chính sách ngang ngược và phi lý, trắng
trợn và thâm độc của chính quyền Mỹ đối với tất cả các nước, trong đó có Việt
Nam, sẽ chỉ gây bất lợi và tổn hại cho nước Mỹ và nhân dân Mỹ. " (Nhà báo và
Công luận, số 38 / 2001).II. NGÔN NGỮ NHÂN VẬT
Ngôn ngữ nhân vật là ngôn ngữ của những đối tượng khác ngoài tác
giả. Nó gồm hai kiểu chính dưới đây:
103
1. Ngôn ngữ nhân vật trực tiếp
Đó là những lời nói được trích dẫn trực tiếp, xuất hiện trong những
tình huống đàm thoại, phỏng vấn. Xét theo hình thức xuất hiện, có thể chia ngôn
ngữ nhân vật trực tiếp thành hai dạng:
a. Ngôn ngữ nhân vật là thành tố của cuộc đối thoại
Đây là cuộc đối thoại trực tiếp giữa nhân vật với tác giả, nó thể hiện
vai trò của tác giả như một người trong cuộc, một nhân chứng đáng tin cậy của sự
việc.
Trong trường hợp này, lời nhân vật là phản ứng đáp lại đối với phát
ngôn trước đó của tác giả, vì thế đương nhiên nó sẽ bị phát ngôn này ràng buộc cả
về hình thức lẫn nội dung.
Ví dụ:
"Tôi thở dài, ôm thằng bé 4 tuổi vào lòng:
- Thế chị cho cháu đi thật sao?
- Không! Chị nghĩ lại rồi, riêng thằng này, chị để nó lại".
(An ninh thế giới cuối tháng, số 7 /2003)
b. Ngôn ngữ nhân vật là lời độc thoại
Ở đây, nhân vật đóng vai người kể chuyện. Về mặt biểu hiện, phát
ngôn của anh ta không phải là thành tố của một cuộc đối thoại (dù rằng trong thực
tế, nó hoàn toàn có thể là phản ứng đáp lại trước một phát ngôn nào đó của tác giả,
nói cách khác, nó có thể chỉ là phần nổi của một cuộc đối thoại có những thành tố
bị lược bớt, bị "chìm"). Hình thức độc thoại như vậy có tác dụng nhấn mạnh tính
khách quan của lời kể và tính chủ động của nhân vật. Bên cạnh đó, nó cũng góp
phần trừu tượng hoá vai trò của cái "tôi" tác giả, gợi cảm giác là tác giả không can
thiệp vào hoạt động ngôn từ của nhân vật nhằm định hướng nó đi theo những ý đồ
nào đó.
Thông tin, nhờ thế, đạt tới độ khách quan, xác thực cao nhất.
Ví dụ:
"Chị Lê Thị Gần không giấu được niềm vui khi việc sản xuất của làng
hương được êm chèo mát mái giữa mùa đông: "... Nghề hương có cái trắc tréo khó
104
chịu lắm: suốt mùa đông cho đến giữa mùa xuân là khoảng thời gian bán chạy
hàng, rứa mà giữa lúc mình cần làm mạnh, cần nắng để phơi hương thì ông trời
lại mưa miết nên làm ra cây hương khổ nhọc lắm. Năm nay ông trời thuận cho
người làm hương, làm răng mình không vui được”.
(Sài Gòn giải phóng, số 11/10/2003)
Về nguyên tắc, ngôn ngữ nhân vật trực tiếp thường mang dấu ấn cá
nhân rất rõ nét. Nó thể hiện khá đầy đủ các đặc điểm của chủ thể phát ngôn: từ giới
tính, tuổi tác, quê quán cho đến trình độ, nghề nghiệp, tính cách,... Tất nhiên, khi
xuất hiện trên báo in, rất có thể ngôn ngữ nhân vật đã mất đi cái dáng vẻ nguyên sơ
như nó vốn có trong đời thực vì nó đã trải qua sự nhào nặn dưới ngòi bút tác giả
hoặc biên tập viên. Còn ngôn ngữ nhân vật trên truyền hình hay phát thanh là bức
tranh rất chân thực về con người của anh ta, vì nó đến với người nghe một cách
trực tiếp, không qua trung gian cho nên vẫn giữ được nguyên vẹn các sắc vẻ cá
nhân của người nói.
Ví dụ:
"Đối diện với chúng tôi là một phụ nữ chừng 60 tuổi, tóc đốm bạc, da
trắng xanh cớm nắng, khuôn mặt tròn, chiếc kính đen trễ nải để lộ con mắt trái
khép kín. Mắt phải chỉ còn he hé không thấy biểu hiện phản xạ ánh sáng. Chị cười
buồn:
- Răng biết tui ở đây mà nhà báo tìm đến? - Không đợi câu trả lời, chị
tiếp - Người ta nói "giàu hai con mắt", rứa mà bên ni (chỉ mắt trái) đã hai mươi
năm nay tối hẳn. Còn bên phải mỗi ngày mỗi mờ, vài năm nay cũng nỏ thấy chi
nữa." (Lao động, 4 / 10 / 2001);
"PV: - Tại sao vài năm nay ông không đóng phim?
NSND Trịnh Thịnh: - Tôi từ chối rất nhiều, cả phim truyền hình lẫn
quảng cáo. 75 tuổi, vẫn nhiều người mời đóng, quý quá chứ, nhưng vì hai lẽ: thứ
nhất là chất lượng kịch bản không vừa ý, thứ hai là sức khoẻ (tôi bị huyết áp cao
và thận), không thể đua theo tốc độ làm phim chóng mặt bây giờ. Xưa, mình làm
phim nhựa, đóng vài tháng mới xong, quen rồi. Giờ nhanh quá, có khi lại ẩu,
chẳng có thời gian nghiên cứu nhân vật, chọn cách diễn, chỗ nhấn nhá để cho nó
105
có sức sống. Mà khi nhân vật trong kịch bản lại mờ nhạt, thì tôi cũng không thể
"gột" nó lên. Biết không như ý, thì thà không nhận còn hơn. Dừng lại đúng lúc có
cái hay của nó." (Thể thao và Văn hoá, 2 / 10 / 2001).
Rõ ràng là ngôn ngữ nhân vật trực tiếp, nếu được tác giả tái hiện một
cách trung thành (tất nhiên không vượt quá giới hạn mà sự chuẩn mực cho phép)
so với nguyên gốc, luôn mang những đặc trưng rất rõ nét của phong cách khẩu
ngữ.
2. Ngôn ngữ nhân vật gián tiếp
Đây là trường hợp tác giả dùng lời của mình để diễn đạt lại nội dung
các phát ngôn của nhân vật.
Ví dụ:
"Ktam đang học lớp 7 trường PT Dân tộc nội trú Lạc Dương thì bố
mẹ bắt ở nhà để nhà gái đến cưới. Không nỡ bỏ trường, xa bạn bè thầy cô thân
thương và quan trọng hơn Ktam muốn có cái chữ để sau này cuộc sống may ra đỡ
vất vả hơn. Sau nhiều ngày đấu tranh tư tưởng, nếu không chịu vâng lời bố mẹ thì
nhà gái sẽ phạt, mà mức phạt không "bèo" chút nào: 2 con trâu mập và 3 cái ché,
tính ra cũng mất vài chục triệu chứ có ít đâu..."
(Chuyện dưới chân núi Langbiang - SGGP, ngày 29/8/2003)
"...Về nhà, thằng Ha Klãi được canh giữ cẩn thận vì hễ nhìn thấy
người là nó khóc rú lên. Mãi đến hơn một tháng sau nó mới quen trở lại "kiểu sống
con người". Nó kể rằng: hôm đó nó đang chơi với ông nội phía sau nhà thì "con
ma" từ trong rừng sâu hiện ra và dẫn nó đi. Vào rừng, nó được một cặp "vợ
chồng" vượn già hái trái cây cho ăn và bẻ lá cho nó nằm ngủ vào ban đêm...Cứ
như thế cho đến ngày nó bị dân làng phát hiện và bắt về..."
(Lao Động, 25/11/2003)
Ngôn ngữ nhân vật gián tiếp gặp chủ yếu trong phóng sự, bút ký, ghi
chép,..Nó một mặt làm cho giọng điệu của tác phẩm báo chí trở nên đa dạng, linh
hoạt hơn; mặt khác, thể hiện vai trò tổ chức các thành tố nội dung của tác giả rõ nét
hơn. Vì như chúng ta đều biết, nếu những bài viết thuộc các thể loại trên có quá
nhiều ngôn ngữ nhân vật trực tiếp thì chúng vừa khô cứng, đơn điệu (giống như
106
diễn đàn để nhân vật làm công việc phát ngôn thuần tuý) lại vừa làm lu mờ dấu ấn
sáng tạo của tác giả (tác giả chỉ biết chép lại lời người khác). Bên cạnh đó, ngôn
ngữ nhân vật gián tiếp còn tạo đièu kiện cho tác giả bộ lộ thái độ, tình cảm của
mình đối với sự việc, hiện tượng được nói tới một cách rõ ràng, công khai.
Ngôn ngữ nhân vật có mặt trong nhiều thể loại như phỏng vấn, đối
thoại, phóng sự, bút ký, chi chép,...Với mỗi thể loại, nó có vai trò và vị trí riêng, và
điều này thể hiện rõ nét ngay trong "liều lượng" sử dụng. Chẳng hạn, ở phỏng vấn,
ngôn ngữ nhân vật, do tính chất đặc thù của thể loại, luôn giữ vai trò chủ đạo, lấn
át hoàn toàn ngôn ngữ tác giả; còn trong phóng sự, ngược lại, do ngôn ngữ nhân
vật chỉ có chức năng làm tăng độ xác thực của thông tin và tạo sự sinh động cho
văn phong của tác giả, cho nên nó thường chiếm một dung lượng nhỏ hơn nhiều so
với ngôn ngữ tác giả.1
Nhìn chung, về nguyên tắc, trong các tác phẩm báo chí, giữa ngôn
ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật luôn có sự tách bạch và người ta có thể nhận diện
chúng không mấy khó khăn. Song bên cạnh đó, cũng có không ít trường hợp ranh
giới giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật bị xoá nhoà. Ấy là khi tác giả vận
dụng tính ước lệ vốn đặc trưng cho bút pháp văn học để xây dựng tác phẩm. Có thể
xem tiểu phẩm "Lời cầu xin của rắn" của Trần Mạnh Hảo là một ví dụ điển hình:
"Em là một con rắn hổ mang đực vừa mới lấy vợ được năm phút, thì
thưưong thay, vợ em bị phường bắt rắn đến bắt sống cho vào bao tải xuất khẩu
sang Trung Quốc. Vì cố giữ lấy giống nòi, em mới chạy thục mạng, xin tị nạn tại
khu nuôi rắn Tư Dược Quân khu 9. Giờ đây, em chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là
cung cấp nọc độc cho các bác làm thuốc cứu người. Em xin thay mặt cho hàng
triệu con rắn đang chết đuối trong các hũ rượu, hàng nghìn bạn bè đang bị cắt tiết
pha rượu trong tiệc nhậu, hoặc đang bị xẻ thịt xào lăn, cho hàng tạ, hàng tạ con
rắn mẹ trong các bao tải kìn kìn chở ra biên giới cầu xin các bác đừng huỷ diệt
loài rắn chúng em. Nhân mùa xuân con rắn, em xin được có nhời tâm sự như
sau..." (An ninh thế giới, Xuân Tân tỵ, 2001).
107
Trong tiểu phẩm trên, từ đầu đến cuối chỉ có lời kể của một con rắn
xưng ở ngôi thứ nhất "em". Dễ dàng nhận thấy về hình thức, đây là ngôn ngữ nhân
vật, nhưng về bản chất, đó lại là ngôn ngữ tác giả. Vì tác giả đã hoá thân vào nhân
vật, nói về những điều mà nhân vật đang trăn trở, suy tư nhưng khó nói hoặc không
thể nói (với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ này). Và chính cái kiểu "đóng vai"
như vậy đã giúp cho bài viết, dù đề cập những vấn đề lớn, vẫn có một giọng điệu
nhẹ nhàng và một dáng vẻ sinh động, hấp dẫn.
Trên đây là một số suy nghĩ của chúng tôi về ngôn ngữ tác giả và
ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm báo chí. Hy vọng, chúng sẽ phần nào giúp cho
những ai quan tâm có một cái nhìn khái quát nhất về vấn đề khá quan trọng và thú
vị nhưng chưa được đầu tư nghiên cứu đúng mức này.
-------------------------
Chú thích:1 Trong thực tế, vẫn có phóng sự mà ở đó ngôn ngữ tác giả bị ngôn
ngữ nhân vật lấn át. Chẳng hạn trong phóng sự "Gặp ông hai chấm mở ngoặc kép"
của Nguyễn Quang Vinh đăng trên báo Lao động ngày 17 / 2 / 2003 hầu như chỉ có
ngôn ngữ nhân vật. Tuy nhiên, những trường hợp như vậy rất hiếm.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Đức Dũng, Sáng tạo tác phẩm báo chí, Nxb. Văn hoá -
Thông tin, 2001.
2. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, Nxb. Đại học quốc gia, H.,
2001.
3. Nguyễn Tri Niên, Ngôn ngữ báo chí, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai,
2003.
4. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền - Khoa Báo chí, Báo chí -
những điểm nhìn từ thực tiễn, T. 1, 2, Nxb. Văn hoá - Thông tin, H., 2001.
108
5. Viện Ngôn ngữ học, Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ
Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, H., 1980.
Bài đã đăng trên tạp chí “Ngôn ngữ”, số 12/2005
VỀ NGÔN NGỮ BÁO PHÁT THANH
I. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ PHÁT THANH
Ngôn ngữ báo phát thanh, lẽ đương nhiên, mang trong mình tất cả các tính chất
của ngôn ngữ báo chí nói chung. Song, bên cạnh đó, nó còn có một số nét riêng
biệt sau đây:
1. Ngôn ngữ phát thanh là ngôn ngữ nói ( ngôn ngữ âm thanh )
Đây là một phẩm chất vô cùng quý giá, vì ngôn ngữ nói hướng tới thính giác -
một hệ thống tri giác hoàn hảo nhất của con người. Theo các chuyên gia thì dung
lượng thông tin mà con người chuyển tải hay tiếp nhận được nhờ thính giác và
ngôn ngữ nói lớn gấp ba lần so với lượng thông tin mà anh ta chuyển tải hay tiếp
nhận bằng con đường thị giác - đọc hoặc viết. Nguyên do là bởi ngôn ngữ nói,
ngoài thông tin nằm trong ý nghĩa của ngôn từ, còn mang trong mình một thông
tin bổ trợ đáng kể khác được thể hiện qua chất giọng, qua ngữ điệu, qua âm lượng.
Nói là " bổ trợ " nhưng thực ra thông tin này có vai trò quan trọng không kém
thông tin chính. Và trong không ít trường hợp, chính nó là nhân tố quyết định mức
độ hiệu quả của việc tiếp nhận thông tin. Một bài viết trung bình nhưng do một
người có chất giọng tốt và biết sử dụng ngữ điệu hợp lý, linh hoạt truyền đạt sẽ có
sức tác động lớn hơn nhiều so với một bài viết hay nhưng do một người có chất
giọng tồi và thường xuyên xử lý sai ngữ điệu trình bày. Không phải ngẫu nhiên
mà nhà nghiên cứu ngôn ngữ phát thanh nổi tiếng người Mỹ W. Hofman đã nhận
định: " Nội dung của từ ngữ làm người ta xúc động tới mức nào, thì âm thanh của
tiếng nói cũng có thể làm người ta rung cảm tới chừng ấy "1.
109
2. Ngôn ngữ phát thanh thiên về hình thức độc thoại tuy có sử dụng nhiều
phương tiện của đối thoại
Có lẽ trước hết chúng ta nên tìm hiểu về hai khái niệm " độc thoại " và " đối
thoại ".
" Độc thoại " là sản phẩm ngôn ngữ của một cá nhân trong hoàn cảnh giao tiếp
chỉ có anh ta là người nói. Theo nhà ngôn ngữ học L. V. Serba ( Nga ) " đây là hệ
thống có tổ chức cao của các ý tưởng được biểu đạt qua ngôn từ, nhằm tác động
có chủ đích tới những người xung quanh "2.
Còn đối thoại là một chuỗi những lời hồi đáp với tư cách là những phản ứng
qua lại giữa ít nhất hai cá thể nào đó.
Nhưng ở đây cần bổ sung thêm ngay rằng những lời hồi đáp có dung lượng quá
lớn ( gồm nhiều câu và thể hiện trọn vẹn một chủ đề nào đó ) cũng được xem là
độc thoại. Điều này có nghĩa là độc thoại có thể tồn tại ngay trong đối thoại.
Với cách hiểu như trên của ngôn ngữ học về " độc thoại " và " đối thoại ",
chúng ta thấy ngôn ngữ phát thanh có khuynh hướng độc thoại rất rõ nét. Phần lớn
các thể loại của báo phát thanh như bình luận phóng sự, phản ánh, câu chuyện
phóng viên, điểm tin, tiểu phẩm,.. đều mang tính chất độc thoại. Rồi ngay cả một
số ít thể loại vốn được coi là thuộc kiểu đối thoại như phỏng vấn, đàm thoại bàn
tròn thực ra cũng không thuần chất chỉ là đối thoại. Bởi vì trong chúng có không ít
những lời hồi đáp mang tính chất độc thoại.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận là độc thoại trên báo phát
thanh ngày càng dùng nhiều hơn các phương tiện của đối thoại.. Chẳng hạn, trước
khi bắt đầu độc thoại về một vấn đề, sự kiện hay hiện tượng nào đó, người ta có
thể xây dựng một tình huống đối thoại giữa hai người nhằm tạo sự sinh động để
thu hút sự chú ý. Rồi trong quá trình độc thoại, người ta thường xuyên sử dụng
các từ ngữ, cách diễn đạt,... đặc trưng cho ngôn ngữ đối thoại để người nghe thấy
gần gũi, có cảm giác là nhà báo đang trò chuyện trực tiếp với mình, và do vậy,
hiệu quả tiếp nhận thông tin sẽ cao hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện
của đối thoại chỉ là thủ pháp tăng cường giá trị biểu cảm cho ngôn từ chứ không
thể làm thay đổi bản chất của độc thoại, khiến nó trở thành đối thoại.
110
3. Ngôn ngữ phát thanh luôn mang dấu ấn cá nhân rõ nét của người nói
hay người đọc
Mức độ của nó tuỳ thuộc vào từng thể loại, từng tình huống giao tiếp cụ thể.
Khi người truyền tin là phát thanh viên, dấu ấn cá nhân có vẻ như bị hạn chế tới
mức thấp nhất, song người ta vẫn nhận thấy thái độ cảm xúc của anh ta đối với bài
viết thông qua giọng điệu. Còn nếu như người truyền tin là tác giả bài viết ( phóng
viên, biên tập viên ) thì dấu ấn cá nhân rõ nét hơn nhiều. Khảo cứu cho thấy, lời
nói của những người chưa từng qua các khoá đầo tạo đặc biệt về đọc, nói, luyện
giọng ( tức là họ không phải là phát thanh viên hay nhà hùng biện chuyên nghiệp )
thường là công cụ biểu đạt hết sức tinh tế trạng thái tâm lý đích thực cũng như
nhiều đặc điểm của người phát ngôn. Có lẽ đây là lý do khiến cho nhiều đài phát
thanh trên thế giới thường xuyên yêu cầu các chủ thể sáng tạo trình bày ngay chính
tác phẩm của họ trước micrô. Bởi điều này tạo điều kiện cho thính giả giải toả
được nhu cầu: khám phá một cá thể mới với những nét riêng tư trong đời sống nội
tâm của anh ta. Đây là một nhu cầu hết sức tự nhiên và nhân bản, nó luôn mang
tính cấp thiết trong bất cứ thời đại nào, đúng như Hecxen viết: " Con người luôn
muốn xâm nhập vào cá thể khác, muốn chạm tới từng thớ mạch li ti của trái tim
người khác để lắng nghe nhịp đập của nó. Anh ta so sánh, kiểm chứng, tìm kiếm sự
khẳng định, sự đồng cảm, sự biện hộ "3.
4. Ngôn ngữ phát thanh không có khả năng được minh hoạ bằng hình ảnh
Đây là mặt khác biệt, đồng thời cũng là mặt hạn chế của nó so với truyền hình
và báo in. Tuy nhiên, ngôn ngữ phát thanh đã tìm thấy sự minh hoạ cho mình ở các
nguồn khác cũng nằm trong chính thế giới của âm thanh. Đó là các băng ghi âm tư
liệu, là tiếng động, là âm nhạc, và đặc biệt là các đặc tính vật chất và hình tượng
của ngôn từ cất thành tiếng. Có thể nói, nhà báo phát thanh phải vẽ nên hình ảnh
bằng âm thanh. Thực tế cho thấy là các tác phẩm báo phát thanh hay, có sức tác
động lớn bao giờ cũng có ngôn ngữ hết sức sống động, giàu hình ảnh, có tính trực
quan cao, chắp cánh cho sự tưởng tượng của người nghe, khiến cho họ có cảm giác
đang được chứng kiến sự việc xảy ra ngay trước mặt mình; bên cạnh đó, nó còn
111
phải được trình bày bởi một chất giọng tốt, lên bổng xuống trầm, tăng giảm tốc độ
âm thanh một cách hợp lý.
Hiện nay, đang có nhiều ý kiến cho rằng hạn chế về phương diện hình ảnh của
báo phát thanh rất có thể lại trở thành ưu thế của nó, vấn đề là sử dụng ngôn ngữ
âm thanh như thế nào. Quả vậy, nếu biết sử dụng ngôn từ khéo léo và linh hoạt,
nhà báo phát thanh có khă năng kích thích tư duy sáng tạo của người nghe, làm cho
họ luôn đóng vai trò tích cực trong việc tiếp nhận thông tin. Trong khi đó thì ở
truyền hình, do được cung cấp quá đầy đủ thông tin ở cả hai bình diện hình ảnh lẫn
ngôn từ, khán giả ít phải tư duy hơn nên dần dần trở nên thụ động mỗi khi tham gia
vào kênh giao tiếp này.
5. Ngôn ngữ phát thanh, cũng như ngôn ngữ truyền hình, có tính hình
tuyến
Các tín hiệu của ngôn ngữ phát thanh xuất hiện lần lượt, cái này tiếp theo sau
cái kia, tạo thành dòng chảy liên tục, theo bề rộng một chiều của thời gian. Và
người nghe phải tiếp nhận chúng một cách tức thời cho nên họ không có khả năng
quay lại với điều chưa hiểu hoặc đầu tư thời gian để nghiền ngẫm thấu đáo điều đã
lĩnh hội được. Chính vì thế, bất cứ sai sót nào ( hay chỉ đơn giản là sự chưa quen
tai ) của ngôn ngữ phát thanh cũng khiến cho thính giả phải dừng lại để suy nghĩ,
tìm hiểu và có nghĩa là không còn tập trung tư tưởng để nghe các thông tin kế tiếp
nữa. Kết quả là cái thì đựoc hiểu mơ hồ, cái thì bị bỏ qua. Và như vậy thì tính hiệu
quả của chương trình bị giảm sút đáng kể. Xuất phát từ đây, yêu cầu đặt ra đối với
ngôn ngữ phát thanh là: Chính xác, đơn nghĩa, rõ ràng, dễ hiểu.
Nói đến tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ, không thể không nói đến quan
hệ ngữ đoạn như là hệ quả của nó. Theo quan hệ này, các đơn vị ngôn ngữ khi
đứng cạnh nhau sẽ quy định lẫn nhau và cho ta những kết hợp gọi là ngữ đoạn.
Trong ngôn ngữ phát thanh, biểu hiện nổi bật nhất của quan hệ ngữ đoạn là việc
ngắt đoạn khi nói, khi đọc. Do đó, đây là điều cần được các nhà báo phát thanh đặc
biệt quan tâm. Cùng một sản phẩm ngôn từ, nếu được ngắt đoạn ở những chỗ khác
nhau, sẽ biểu đạt các ý nghĩa khác nhau. Còn nếu ngắt đoạn sai thì tính chỉnh thể
112
về mặt kết cấu của sản phẩm ngôn từ đó bị phá vỡ, hậu quả là người nghe khó hiểu
được đúng nội dung của nó.II. MỘT SỐ GỢI Ý SỬ DỤNG NGÔN TỪ TRONG PHÁT THANH
1. Nên hạn chế sử dụng từ ngữ địa phương
Những từ ngữ này, ở mức độ nào đó, có khả năng tăng cường tính biểu cảm
của ngôn ngữ phát thanh. Thế nhưng, về phạm vi hành chức, chúng chỉ gắn liền
với một địa phương nhất định nào đó nên có thể gây khó khăn cho các thính giả là
người sống ở các khu vực khác.
2. Tránh lạm dụng việc vay mượn từ ngữ từ tiếng nước ngoài
Nếu nhất thiết phải vay mượn thì chỉ nên chọn những từ ngữ có tính phổ cập
rộng rãi, và cố gắng phát âm chuẩn xác theo chuẩn mực đã được thừa nhận. Vì
không ít trường hợp cho thấy, những từ ngữ được vay mượn từ tiếng nước ngoài,
nếu không thông dụng hoặc được phát âm không đúng, thường trở thành những "
hạt sạn " cản trở người nghe tiếp nhận thông tin.
3. Đối với các thuật ngữ chuyên ngành ít gặp hay mới mẻ, nên diễn đạt
bằng cách khác sao cho quảng đại quần chúng dễ hiểu
Đừng bao giờ bắt chước cách nói, cách dùng từ của các nhà chuyên môn mà chỉ
có người trong giới mới hiểu được.
4. Tránh đưa ra quá nhiều con số trong một văn bản phát thanh
Việc đưa ra các con số nên có liều lượng vừa phải, nếu không người nghe sẽ
thấy choáng ngợp, căng thẳng, không còn đủ sự tỉnh táo cũng như hứng thú để
nghe và lĩnh hội các thông tin khác; bên cạnh đó, các con số cũng cần được làm
tròn cho dễ nhớ.
5. Cố gắng đọc hoặc nói trước micrô thật diễn cảm ( tất nhiên là ở mức độ
mà khả năng cho phép )
Qua giọng điệu phải thật sự " thả hồn " của mình vào nội dung tác phẩm thì nó
mới có sức tác động lớn đối với người nghe. Còn kiểu nói hay đọc với âm điệu đều
đều, đơn điệu, tẻ nhạt dễ gây cảm giác là chính người chuyển tải thông tin cũng "
vô cảm " trước những gì mình đang trình bày. Và điều đó dễ dàng giết chết mọi
cảm xúc cũng như sự quan tâm của người nghe.
113
6. Cần tránh những câu văn có thể tạo nên nhiều cách hiểu
Vì sự " mơ hồ " về nghĩa như vậy của chúng dễ làm cho người nghe bị phân tán
tư tưởng hoặc hiểu sai, hiểu lệch chủ ý của tác giả.
Dưới đây là hai ví dụ về câu mơ hồ về nghĩa:
a, Điều đó thể hiện thái độ quyết tâm cao chống tệ nạn buôn lậu của Uỷ ban
Nhân dân ( UBND ).
b, Chống lây lan và sống chung với AIDS.
Các câu trên ít nhất có hai cách hiểu:
a, Thái độ quyết tâm cao của UBND.
- Tệ nạn buôn lậu của UBND.
b, Chống lây lan và chống sống chung với AIDS.
- Chống lây lan và nên sống chung với AIDS.
7. Cần hết sức kiệm lời
Trong báo phát thanh, người nghe, do phải lĩnh hội thông tin một cách tức thời,
chỉ có thể tập trung sự chú ý của mình trong một khoảng thời gian ngắn. Vì lẽ đó,
trong số các cách diễn đạt có thể với cùng một nội dung, nên chọn cách diễn đạt
ngắn gọn nhất mà vẫn chuyển tải được đầy đủ lượng thông tin cần thiết.
8. Nên chú ý khai thác các biện pháp tu từ ngữ âm để ngôn ngữ phát thanh
sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa sâu sắc hơn
Nhà báo phát thanh có thể vận dụng những biện pháp cơ bản dưới đây:
a, Biện pháp hoà phối thanh điệu: Là biện pháp lựa chọn và kết hợp các yếu tố
âm thanh sao cho hài hoà để các câu văn trở nên dễ nghe, dễ đọc hơn.
Trong văn xuôi, để tạo sự hài hoà về thanh điệu, người ta thường sử dụng sự
luân phiên thanh điệu thuộc hai nhóm bằng ( gồm thanh huyền và thanh ngang ) và
trắc ( gồm thanh hỏi, thanh ngã, thanh sắc và thanh nặng ) ở âm tiết của các câu
hợc thành phần câu. Ví dụ:
"... Chắc là rượu bổ ( T ). Có rẻ cũng phải ba bốn đồng ( B ). Ý tất người ta có
định lấy con mình ( B ) thì người ta mới chịu bỏ tiền mua rượu biếu chứ ( T ). Vả
lại, bây giờ hạng thông, ký, phán lấy vợ nhà quê kể cũng thường ( B ). ( Nam
Cao ).
114
" Được đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ chín ( T ), ông xúc động nói: "
Đảng đã sinh ra tôi lần thứ hai ( B ) ". ( Đài TNVN, 20 / 4 / 2001 ).
" 15 năm qua ( B ), văn hoá văn nghệ đã đạt được nhiều thành tựu ( T ) trong
các lĩnh vực, nghiên cứu, sáng tác, phê bình ( B ) ". ( Đài TNVN ).
Biện pháp hoà phối thanh điệu có tính phổ cập hết sức rộng rãi. Hầu hết các
biện pháp tu từ ngữ âm khác, khi được vận dụng, đều phải ở mức độ này hay mức
độ khác, kết hợp với nó.
b, Biện pháp lặp số lượng âm tiết: Là biện pháp sử dụng các câu văn có số
lượng âm tiết như nhau ở cạnh nhau để tạo nên âm hưởng của thơ ca. Ví dụ:
" Núi rừng vẫn ngút ngàn, rậm rạp. Đường đi tắt nhỏ teo hoang vu ". ( Hồ
Phương ).
" Trận lụt chưa rút. Nước vẫn mênh mông ". ( Nguyễn Sáng ).
c, Biện pháp lặp vần: Là biện pháp sử dụng các âm tiết có khuôn vần giống
nhau nhằm tạo nhạc tính cho câu văn. Ví dụ:
" Tre trông thanh cao giản dị, chí khí như người. Nhà thơ đã có lần ca ngợi:
Bóng tre trùm mát rượi ". ( Thép Mới ).
"... Dân làng thi nhau sắm thuyền bè đi tìm vàng trên khắp các lạch sông nguồn
suối. Ngót chục năm trôi qua, những người đàn ông cứ biền biệt ra đi. Vàng đâu
chẳng thấy, cái mà họ đem về chỉ là những con nghiện, những giọt nước mắt tàn tạ
và... cả một gánh nợ khó bề trả nổi ( ! ). Người ta bảo: Đó là một canh bạc với ông
Giời ". ( Đỗ Doãn Hoàng ).
d, Biện pháp tạo nhịp điệu: Là biện pháp dùng những hình thức cân đối, nhịp
nhàng của lời văn nhằm tạo nên một âm hưởng lôi cuốn, dễ đi vào lòng người.
Dưới đây là một số trường hợp diển hình về nhịp điệu:
- Dùng những từ phản nghĩa đối nhau, ví dụ:
" Trong Việt Minh, đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt gái,
trai, già, trẻ, lương giáo, giàu, nghèo. ( Hồ Chí Minh ).
- Dùng những cụm từ, những vế, những đoạn câu đối nhau, ví dụ:
" Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp,
115
cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước ". ( Hồ
Chí Minh ).
- Vận dụng sự cân đối, nhịp nhàng, khúc chiết của các bộ phận trong một câu
ghép ( thường được gọi là trường cú ), ví dụ:
" Nay, vì tình hình quốc tế, vì muốn tỏ lòng tin vào nước Pháp mới, và sự thành
thực của những người đại diện cho Chính phủ Pháp, và tin vào sự hoàn toàn độc
lập của tương lai nước nhà, tôi cùng Chính phủ ta ký bản hiệp định sơ bộ với
Chính phủ Pháp.( Hồ Chí Minh ).
Trong câu văn trên, về mặt tiết tấu, ngữ điệu có sự chia tách rõ rệt giữa hai bộ
phận: bộ phận thức nhất từ đầu đến từ " nhà ", bộ phận thứ hai từ từ " tôi " cho đến
hết.
Giọng nói được nâng cao dần ở bộ phận thứ nhất của câu, tạo ra một sự căng
thẳng chờ đợi. Sau khi đã lên cao đến đỉnh điểm thì đánh dấu bằng một nhịp ngừng
ngắt, tiếp theo đó hạ thấp rõ rệt ở bộ phận thứ hai, làm dịu đi sự căng thẳng chờ
đợi.
d, Biện pháp tạo âm hưởng chung: Là biện pháp phối hợp âm thanh, nhịp điệu
của câu văn không phải chỉ cốt tạo ra một sự cân đối nhịp nhàng, êm ái, du dương,
mà cao hơn thế, phải tạo ra được một âm hưởng hoà quyện với nội dung hình
tượng của cả đoạn văn, thậm chí toàn văn bản. Ví dụ: " Nước Việt Nam xanh muôn
ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc
nhất vẫn là tre nứa. Tre Đồng Nai, nứa Việt bắc, tre ngút ngàn Điện Biên, luỹ tre
thân mật làng tôi. Đâu đâu cũng có nứa tre làm bạn.
... Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng
đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh
để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động. Tre, anh hùng chiến đấu! ( Thép
Mới ).
Trong các đoạn văn trên, sự luân phiên thanh điệu bằng, trắc, sự thay đổi nhịp
điệu mau thưa, sự phối hợp câu dài với câu ngắn... đã tạo nên cái chất thơ, chất
116
nhạc hoàn toàn hoà quyện với nội dung trữ tình, với cảm xúc say sưa, mạnh mẽ
của tác giả đối với đất nước thông qua hình tượng cây tre.4
Thực tế cho thấy, các biện pháp tu từ ngữ âm nói trên hầu như không bao giờ
xuất hiện đơn lẻ: Mỗi biện pháp thường chỉ xuất hiện đồng thời với các biện pháp
khác. Chính vì vậy, chúng thường mang sức mạnh được cộng hưởng làm cho câu
văn vừa trở nên gợi cảm về mặt âm thanh, vừa được bổ sung thêm những khía
cạnh nhất định về mặt ý nghĩa.
Chú thích
1. W. Hoffman, Nghệ thuật hùng biện trên sóng phát thanh, L., 1965, tr. 69
( bằng tiếng Nga ). 2. L. V. Serba, Tiếng Nga văn học hiện đại, M., 1978, tr. 9 ( bằng tiếng Nga ). 3. A. I. Herxen, Quá khứ và suy tưởng, trong cuốn: " Các nhà văn Nga nói về
lao động văn chương", T. 2, L., 1955, tr. 81 ( bằng tiếng Nga ).
3. Đinh Trọng Lạc, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB. Giáo
dục, H., 1995, tr. 230.
( Bài in trong: Báo phát thanh, NXB. Văn hoá - Thông tin, H., 2002 )
117
THỬ BÀN VỀ NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH
TRÒ CHƠI TRÊN TRUYỀN HÌNH
Có thể nói, các chương trình trò chơi là một phần không thể thiếu của truyền
hình hiện đại. Với chủ đề đa dạng, nội dung phong phú, với hình thức biểu đạt sinh
động, hấp dẫn, chúng vừa giúp cho người xem có những phút giây thư giãn đầy
sảng khoái, vừa mang đến cho họ nhiều tri thức bổ ích về mọi lĩnh vực của cuộc
sống. Và có lẽ thật khó tìm ra một ai lại không hề hứng thú với bất cứ chương trình
trò chơi nào trên truyền hình.
Sự thành công của một chương trình trò chơi trên truyền hình phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Song trong đó, yếu tố có ý nghĩa quan trọng hàng đầu chính là ngôn
ngữ của người dẫn: Nó tạo nên sinh khí cho trò chơi, kích thích ý chí quyết tâm
của người trong cuộc, khơi dậy niềm háo hức say mê của hàng triệu công chúng
đang ngồi trước màn hình.Vì thế, đây sẽ là đối tượng khảo sát của bài viết này.
Ngôn ngữ của người dẫn chương trình trò chơi truyền hình, theo chúng tôi,
có các đặc điểm chính sau đây:
1. Là ngôn ngữ nói
Ngôn ngữ nói tồn tại đưới dạng thức âm thanh và ngữ điệu. Nó hướng tới
thính giác của người nghe. Vì thế, muốn đạt hiệu quả giao tiếp cao, trước hết người
dẫn chương trình trò chơi truyền hình phải có chất giọng tốt; phát âm rõ ràng,
chuẩn xác; sử dụng ngữ điệu tinh tế, hợp lý.
118
Bên cạnh đó, ngôn ngữ nói lại luôn được đi kèm theo dáng vẻ, cử chỉ, nét
mặt. Điều này giúp cho lời nói của người dẫn chương trình trò chơi truyền hình
vừa giàu tính biểu cảm lại vừa chuyển tải được lượng thông tin lớn hơn nhiều so
với những gì nằm trong ý nghĩa của ngôn từ, và do vậy, có khả năng tác động đặc
biệt mạnh mẽ. Tuy nhiên, dáng vẻ, cử chỉ đi kèm theo lời nói cần hết sức tự nhiên
và có "liều lượng” để không gây phản cảm cho khán giả hoặc khiến họ bị phân tán
tư tưởng (chỉ tập trung sự chú ý vào người dẫn mà sao nhãng nhiệm vụ chính là
theo dõi trò chơi).
2. Là sự kết hợp giữa ngôn ngữ được chuẩn bị trước và ngôn ngữ không
được chuẩn bị trước (ứng khẩu)
Ngôn ngữ được chuẩn bị trước phải rõ ràng, dễ hiểu và chặt chẽ, mạch lạc
(thường thuộc về văn phong viết). Có như vậy, nó mới bảo đảm được tính chính
xác và tính thuyết phục của các câu hỏi cũng như các đáp án trả lời được sử dụng
trong mỗi trò chơi. Còn ngôn ngữ không chuẩn bị trước (ngôn ngữ ứng khẩu) là
ngôn ngữ phát sinh trong những tình huống ngoài kịch bản không được dự liệu
trước (thực tế cho thấy là trò chơi càng hấp dẫn thì những tình huống như vậy càng
nhiều). Nó là nhân tố đặc biệt hữu hiệu trong việc “hâm nóng” bầu không khí hoặc
duy trì tính liên tục của cuộc chơi. Song cho dù có không được chuẩn bị trước thì
kiểu ngôn ngữ này cũng không được phép là một thứ khẩu ngữ tự nhiên mang
trong mình các yếu tố có tính chất suồng sã, tuỳ tiện (thậm chí thông tục), mà là
một thứ ngôn ngữ văn hoá được dùng trong những hoàn cảnh giao tiếp theo nghi
thức, tức là nó phải có tính chất đứng đắn, nghiêm túc, hoàn chỉnh, đáp ứng được
các chuẩn mực xã hội về giao tiếp, ứng xử.
3. Là ngôn ngữ thiên về hình thức đối thoại
Người dẫn chương trình trò chơi truyền hình thường xuyên phải khởi xướng
và tham gia vào các cuộc đối thoại (đối thoại với người chơi, đối thoại với khán
giả). Những cuộc đối thoại này, một mặt, làm cho ngôn ngữ của chương trình trở
nên đa tầng, đa thanh; mặt khác, kích thích tính chủ động tích cực của những người
có liên quan. Và nhờ thế, trò chơi sẽ sinh động, hấp dẫn hơn.
119
Khi tồn tại dưới hình thức đối thoại, ngôn ngữ của người dẫn chương trình
trò chơi truyền hình có những nét đặc trưng dễ nhận thấy sau đây:
a. Sử dụng nhiều tình thái từ với nhiều chức năng khác nhau. Chẳng hạn:
- Để thể hiện mục đích phát ngôn: à, chứ, chăng, không, nhỉ... (trong câu
hỏi, ví dụ: Như vậy đội có nơ có xứng đáng được nhận quà không các em nhỉ?); đi,
với, nhé, nào, thôi... (trong cầu cầu khiến, ví dụ: Các con hãy trở về chỗ bố mẹ đi
nào!);
- Để biểu thị cảm xúc: a, ôi, ồ...ví dụ: A! Thế là bạn Nam đã ném trúng rồi!
- Để gọi đáp: ơi, ạ, này, vâng, dạ, ừ...ví dụ: - Bác định đoán luôn hay là quay
tiếp ạ?...- Vâng, vâng, xin mời bác.
b. Có nhiều yếu tố dư hoặc tỉnh lược
Những lời đối thoại của người dẫn chương trình trò chơi trên truyền hình
xuát hiện trong một bối cảnh giao tiếp đặc biệt, ở đó chủ thể phát ngôn luôn phải
chịu sức ép từ nhiều phía: bầu không khí trong trường quay, thái độ và phản ứng
của người đối thoại, sự bị thẩm định ngay lập tức của mỗi sản phẩm ngôn từ,...Do
vậy, chúng dù có được chuẩn bị trước cũng không tránh khỏi mang trong mình
những thành tố dư (lặp thừa). Còn nếu lời đối thoại của người dẫn có tính ngẫu
phát (vừa nói vừa nghĩ) thì hiện tượng lặp thừa lại càng phổ biến.
Ví dụ:
- Đọc sách báo thì... đọc sách báo thì chị thích đọc những loại sách nào ạ?
- Thế chị... có thể đọc một câu thơ ngăn ngắn... mà nói lên được...mà toát
lên được cái cảnh đẹp của quê hương chị được không ạ?
Ngoài ra, trong ngôn ngữ đối thoại, xuất phát từ nguyên tắc kiệm lời, người
ta cũng hay sử dụng thủ pháp lược bớt một số yếu tố được xem là đã xác định và
việc nhắc chúng lại là không cần thiết. Việc lược bớt như vậy không hề làm cản trở
sự tiếp nhận của người nghe, mà ngược lại, còn làm nổi rõ trọng tâm thông tin,
đồng thời giúp cho cuộc đối thoại có tiết tấu nhanh hơn, sôi nổi hơn.
Ví dụ:
- Tôi đoán chữ y.
- Y dài hay i ngắn ạ? (Câu đầy đủ là: Anh đoán y dài hay i ngắn ạ?).
120
Bên cạnh đó, để tránh hiện tượng lặp đi lặp lại cùng một câu hỏi trong
những thời điểm gần nhau, người ta cũng có thể dùng thủ pháp lược bớt. Ví dụ:
- Và bây giờ thì...? (Câu đầy đủ là: Và bây giờ thì chị đoán hay là chị quay
tiếp ?).
c. Có chỗ bị ngắt quãng, không liền mạch
Khi ứng khẩu, người dẫn chương trình trò chơi không thể nói trôi chảy như
trong hoàn cảnh được chuẩn bị trước. Anh ta vừa nói, vừa tư duy, vì thế sự vấp
váp, ngắt quãng là rất khó tránh khỏi. Biết vậy, khán giả sẵn sàng chấp nhận
chuyện đó (thậm chí có người còn cho rằng nó làm cho ngôn ngữ của anh ta trở
nên tự nhiên hơn, mang dấu ấn cá nhân rõ nét hơn). Ví dụ:
- Tôi thì...à rất...à thích chơi bóng. Nhưng tâng bóng thì...à...không thạo.
Tuy nhiên, mọi thứ đều có giới hạn: nếu sự ngắt quãng diễn ra thường xuyên
và với độ lớn vượt quá mức cho phép về thời gian, chắc chắn nó sẽ làm gián đoạn
quá trình tiếp nhận thông tin, gây khó chịu cho người nghe. Vì thế người dẫn
chương trình trò chơi cần thường xuyên rèn luyện kỹ năng nói để hạn chế tới mức
thấp nhất những va vấp không đáng có trong mọi thình huống.
Ngay cả phần ngôn ngữ độc thoại của người dẫn chương trình trò chơi trên
truyền hình cũng phải sử dụng nhiều phương tiện của đối thoại nhằm tạo nên sự
gầm gũi, thân mật với khán, thính giả, khiến cho họ có cảm giác là mình đang
được trực tiếp tham dự vào diễn biến của trò chơi.
4. Là ngôn ngữ giàu các thành tố gợi cảm
Các thành tố gợi cảm ở đây được hiểu là những từ ngữ, lối nói giàu hình ảnh
hoặc mới lạ, in đậm dấu ấn cá nhân. Đó có thể là thành ngữ- tục ngữ, chất liệu văn
học, hình ảnh so sánh, ví von... và thậm chí là cả từ ngữ được vay mượn từ tiếng
nước ngoài. Việc dùng chúng một cách chính xác và đúng thời điểm luôn mang lại
hiệu quả to lớn: vừa gia tăng giá trị thẩm mỹ cho lời nói ( khiến cho người nghe
thấy sinh động, hấp dẫn hơn ), vừa thể hiện được tầm vóc văn hoá của người dẫn
chương trình. Không phải tình cờ, trong cuốn sách "Dagestan của tôi” nhà văn
Liên Xô nổi tiếng Rasul Gamdatôv từng khẳng định: “Kẻ ngu làm kinh ngạc bởi
tiếng gào, người thông minh làm kinh ngạc bằng câu tục ngữ dẫn ra đúng chỗ”.
121
5. Là ngôn ngữ mang sắc thái trẻ trung, sôi nổi
Các trò chơi truyền hình thường diễn ra trong một bầu không khí sôi động,
náo nhiệt (thể hiện ở sự ganh đua căng thẳng trước hết về phương diện thời gian
giữa những người tham gia trò chơi và ở sự cổ vũ cuồng nhiệt của các khán giả có
mặt tại trường quay).Tương ứng với bầu không khí ấy chỉ có thể là một chất giọng
khoẻ khoắn, trẻ trung, sôi nổi, có khả năng “truyền lửa” không chỉ cho người chơi
mà cho tất cả những ai đang theo dõi trò chơi - kể cả những người ở trường quay
cũng như những người ngồi trước vô tuyến truyền hình.
Thực tế cho thấy, những người có chất giọng yếu, lại nói với âm điệu đều
đều, khó có thể dẫn thành công một trò chơi truyền hình.
6. Là ngôn ngữ không thể thiếu chất hài
Đối với các chương trình trò chơi trên truyền hình, tiếng cười có ý nghĩa rất
quan trọng. Nó giúp cho người chơi cũng như khán giả giải toả được tâm lý hồi
hộp, căng thẳng và trở nên gần gũi, thân thiện với nhau hơn. Chính vì lẽ đó, người
dẫn chương trình, trong những thời điểm thích hợp, phải biết tạo nên các tình
huống gây cười thông qua những câu nói dí dỏm, hài hước của mình. Chỉ có điều,
những câu nói đó không được vượt quá ngưỡng mà chuẩn mực về giao tiếp xã hội
cho phép.
Người xem khó có thể chấp nhận những câu nói đùa kiểu sau đây:
- Nếu anh là đạo diễn, anh sẽ mời bạn Vũ đóng Trư Bát Giới vì bạn Vũ có
cái mũi và cái mồm giống lão Trư . (Chương trình Vườn cổ tích, 12/5/2002);
- Bạn nói con trai thời nay rất ga-lăng...Thế các cụ nhà ta ngày xưa thì
không ga-lăng à? (Đuổi hình - Bắt chữ, 20/3/2004 ).
v.v.
Hiện nay, trên truyền hình (cả trung ương lẫn địa phương) có không ít người
dẫn các chương trình trò chơi; tuy nhiên, số người dẫn thực sự thành công, có khả
năng để lại dấu ấn trong lòng khán giả, vẫn còn quá ít. Điều này, theo chúng tôi,
chủ yếu là do chúng ta còn chưa có một quy trình đào tạo bài bản, mà ở đó, yếu tố
ngôn ngữ nhất định phải được coi trọng đúng mức.
122
MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ NGÔN NGỮ CỦA QUẢNG CÁO TRÊN
TRUYỀN HÌNH
Có thể nói, ngôn ngữ của nhiều quảng cáo trên truyền hình đã đạt tới mức
hay, hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng còn không ít quảng cáo mắc phải những hạn chế
nhất định ( thậm chí đôi lúc khó có thể chấp nhận được ) về sử dụng ngôn từ.
Những hạn chế này, theo chúng tôi, có thể chia thành 4 loại chính đuới đây:
1. Dài dòng, thiếu ấn tượng
Kiểu ngôn ngữ dài dòng thường gặp trong các quảng cáo do người Việt Nam
ta dàn dựng. Ví dụ:
Quảng cáo nước uống Number 1 : “ Cô ấy trẻ. Cô ấy là sinh viên. Cô ấy
thích thể thao. Cô ấy thích mua sắm. Cô ấy thích gặp gỡ bạn bè. Cũng như các
bạn, cô ấy uống Coca cola Number 1".
Quảng cáo cho dầu gội đầu Dove : “ Khi đi bay về, tóc mình thường rối bù à.
Và mình dùng Dove trong vòng 4 ngày. Khi xoa bọt lên tay thì nó bông, sau đó
mình xoa lên đầu. Gội xong, thấy nó mềm, nó mượt. Bạn trai của mình cứ vuốt tóc
mình hoài à. Anh ấy cứ vuốt ra đằng sau, như thế này này. Những lúc như vậy,
mình rất là thích, vì có cảm giác như mình đang được yêu đó! “...
Những lời kể lể vừa dài dòng vừa nhiều chất riêng tư như vậy thật khó đi
vào lòng người nghe. Đặc biệt, khi người tham gia diễn xuất trong quảng cáo có
chất giọng không hay, lại diễn đạt ý tưởng và xử lý ngữ điệu không tốt, thì ngôn từ
quảng cáo có thể gây phản cảm cho người tiếp nhận. Ấy là còn chưa kể đến những
123
trường hợp do quá dài dòng, phần lời được đọc với tốc độ quá nhanh khiến cho
người nghe không nắm bắt hết các thông tin liên quan tới sản phẩm.
Nếu so sánh quảng cáo của ta với quảng cáo nước ngoài, chúng ta dễ dàng
nhận thấy là phần lời trong quảng cáo nước ngoài thường ngắn gọn, rõ ràng ( vì các
thông tin chính yếu liên quan tới sản phẩm đã được thể hiện bằng hình ảnh ), bám
sát tính năng, công dụng của sản phẩm; đặc biệt các câu kết thúc được gọt giũa
công phu, chắt lọc kỹ lưỡng, nên rất ấn tượng, khắc sâu vào tâm khảm người ta.Ví
dụ:
Quảng cáo sữa tắm Lux mới: " Bước vào thế giới đặc biệt của Lux mới...
Một thế giới thơm ngát hương hoa, với những khoảnh khắc bay bổng của riêng
mình... Một làn da mịn màng quyến rũ... Lux mới - bí quyết làm đẹp của tôi và
cũng là của bạn".
Quảng cáo xe Ford escape: " Sang trọng, tinh tế, mạnh mẽ, quyến rũ. Đó
chính là xe Ford escape... Không chỉ là một chiếc xe, Ford escape còn sống cùng
bạn, sẵn sàng cùng bạn đến bất cứ nơi đâu...Ford escape - mạnh mẽ đầy quyến
rũ".
Có khi toàn bộ mà quảng cáo chỉ có một câu duy nhất: " Dầu gội dưỡng tóc
Double Rich - ấn tượng khó phai".
2. Chưa đáp ứng được yêu cầu về văn hoá - thẩm mỹ
Ở đây, chúng tôi muốn nói tới những câu chữ quảng cáo vi phạm các chuẩn
mực có tính truyền thống của dân tộc về văn hoá - thẩm mỹ.
Ví dụ 1:
Quảng cáo cho sữa tắm Dove : “ Da dẻ tụi mình cũng khác nhau. Da Hạnh
nhăn như da người già. Còn da Hà khô như da rắn. Bọn mình dùng Dove trong 7
ngày... Mình thấy nó mềm và không thô ráp như ngày xưa nữa. Da Hạnh mướt như
da trẻ con. Da Hà mềm như là da em bé...Không tin à? Sờ thử coi...”.
Lời giục giã “ Sờ thử coi” thật thiếu tế nhị ( nếu không nói là thô thiển ). Nó
hoàn toàn không phù hợp với phong thái kín đáo, ý nhị của người phụ nữ phương
Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Rồi ngay cả hai hình ảnh ví von “ Da
124
Hạnh nhăn như da người già. Còn da Hà khô như da rắn. “ cũng khá thiếu thẩm
mỹ, không thuận tai đối với khán giả truyền hình.
Ví dụ 2:
Quảng cáo cho xà phòng giặt Tide : “ Sau một kỳ nghỉ hè, các nữ sinh đến
trường với " thai " ( Tide ) mới “.
Nếu đây là câu văn bằng tiếng nước ngoài thì nó có thể đã là một lời quảng
cáo hay. Nhưng khi tồn tại ở dạng thức tiếng Việt như trên, lời quảng cáo này đã
khiến không ít người phải giật mình : do có sự tương đồng về âm thanh giữa từ “
Tide “ trong tiếng Anh và từ “ thai “ trong tiếng Việt, người ta ngay lập tức liên
tưởng tới một hiện tượng trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Và như vậy thì
quảng cáo kiểu này rõ ràng là phản tác dụng. ( Thật may là màn quảng cáo trên đây
chỉ xuất hiện trên sóng truyền hình trong một thời gian ngắn ).
Ví dụ 3 :
Quảng cáo cho kẹo Cool air : “ Được bao lâu? - Chừng vài phút ; - Khoảng
3 phút; - 5 phút, thế là xong “.
Cách nói mập mờ, không rõ ràng như vậy rất dễ gợi cho người ta nghĩ đến
những chuyện không hay, chẳng liên quan gì đến tính năng của sản phẩm đang
được quảng cáo.
Ví dụ 4 :
Quảng cáo cho cà phê sữa Vinacafe: " Bài hát thật hay, nhưng cà phê sữa
của Vinacafe còn ngon hơn nhiều! “.
Lời quảng cáo này làm cho ngời ta không thể không ngạc nhiên. Vì “ hay “
là cảm nhận về thính giác, còn “ ngon “ là cảm nhận về vị giác, vậy mà chúng lại
được so sánh với nhau như những khái niệm thuộc cùng một phạm trù. Có lẽ, sẽ là
hợp lý hơn nếu chữa thành : “ Bài hát thật hay nhưng vẫn không cuốn hút tôi bằng
hương vị của cà phê sữa Vinacafe “...
Đặc biệt, có không ít trường hợp phần lời của quảng cáo bị gò ép một cách
khiên cưỡng vào những điệu nhạc nào đó. Kết quả là khán giả bị buộc phải nghe
một số những " ca khúc " vừa không hề có hơi hướng nghệ thuật, vừa bóp méo cả
125
ngữ âm tiếng Việt ( như quảng cáo cho bột ngọt Vedan và băng vệ sinh Kotex
White ).
Như vậy là khi viết lời cho quảng cáo cũng như khi dịch lời quảng cáo từ
tiếng nước ngoài sang tiếng Việt cần hết sức lưu ý để không bị " phạm huý ", tức là
không gợi nhắc người nghe tới những cái không hay, không đẹp xét từ góc độ văn
hoá - thẩm mỹ.
3. Rập khuôn, sáo mòn
Phần lời của khá nhiều quảng cáo được tổ chức theo những mô hình trùng
lặp. Thường gặp hơn cả là mô hình đàm thoại ( theo kiểu trao đổi kinh nghiệm về
việc sử dụng một sản phẩm nào đó ) giữa hai hay một nhóm người.
Ví dụ:
Quảng cáo thuốc tẩy giun Quả núi :
“ - Em định tẩy giun cho cháu Hà, nhưng chưa biết chọn loại nào.
- Hãy dùng thuốc tẩy giun Quả núi xem. Cháu nhà tôi dùng thuốc giun Quả
núi, nay cháu ăn khoẻ và béo hẳn ra. Có thể dùng cho cả người lớn nữa.
- Vậy em sẽ dùng nó cho cả nhà".
Quảng cáo thuốc chữa cảm cúm Comizin:
" - Em bị cảm cúm khó chịu quá. Định dùng thuốc này nhưng lại sợ buồn
ngủ.
- Anh thường dùng Comizin, không thấy buồn ngủ...".
Bên cạnh đó, mô hình độc thoại của khách hàng về những tính năng ưu việt
của sản phẩm cũng được khai thác khá thường xuyên. Ví dụ:
Quảng cáo bột giặt Omo: " Là tiếp viên trưởng của hãng hàng không, luôn
xuất hiện trước nhiều hành khách. ..Quần áo có sạch sẽ, có sáng mình mới có thể
tự tin được. Trong một lần đi siêu thị, thấy bao bì mới của Omo rất là trẻ trung nên
mình mới mua về đấy...".
Quảng cáo nước rửa chén Sunlight: " Là người chuyên phải quản lý khách
sạn và phục vụ cho khách sạn, với một chồng bát đĩa nhiều như thế này làm sao có
thể tiết kiệm được thời gian và bảo vệ da tay. Vì vậy, tôi đã dùng Sunlight đậm
đặc...".
126
Những cấu trúc ngôn từ trùng lặp như vậy chắc chắn sẽ làm cho khán giả
nhàm chán, nhất là khi chúng được phát vào những thời điểm gần nhau. Vì thế, các
nhà làm quảng cáo cần cải tiến không ngừng để tạo ra sự khác biệt với những gì đã
có.
4. Quá cường điệu
Trong quảng cáo, công bằng mà nói, sự cường điệu là khó tránh khỏi. Tuy
nhiên, sự cường điệu chỉ nên dừng ở mức nhằm gây ấn tượng đối với khách hàng
tiềm năng. Còn cường điệu thái quá sẽ khiến họ nghi ngờ ( ngay cả khi còn chưa
dùng sản phẩm ), và mất niềm tin ( sau khi đã dùng sản phẩm).
Biểu hiện thường gặp hơn cả của sự cường điệu quá mức là việc sử dụng
( trực tiếp hoặc gián tiếp) các từ ngữ chỉ cấp độ so sánh cao nhất như duy nhất, số
một, hàng đầu, siêu... nhằm khẳng định rằng sản phẩm đang được quảng cáo vượt
lên trên tất cả các sản phẩm cùng loại. Ví dụ:
Quảng cáo kem đánh răng Colgate : " Kem đánh răng duy nhất, bảo vệ toàn
diện, lâu dài nhất ".
Bất kỳ ai cũng có thể nhận thấy đây chỉ là danh hiệu tự phong của kem đánh
răng Colgate.
Quảng cáo mì ăn liền Knorr: "... Nếu có mì nào ngon hơn Knor, thì em ( tức
ca sỹ Thu Phương ) sẽ thôi hát ".
Một tuyên bố quá đỗi chủ quan. Nói như vậy, vô hình trung Thu phương đã
khẳng định rằng Knorr là loại mì ăn liền số một thế giới trong hiện tại và trong cả
tương lai. Với điều này, liệu có mấy ai dám đồng tình?
Bên cạnh đó, để nhấn mạnh tính hiệu quả của sản phẩm, người ta còn sử
dụng cả những từ ngữ biểu thị các tính chất, đặc điểm không có trong thực tế của
những sự vật phải chịu sự tác động trực tiếp của sản phẩm. Ví dụ:
Quảng cáo kem đánh răng Close up mới: " Close up mới cho bạn hàm răng
trắng bóng và sáng chói ".
Hàm răng trắng tới mức phát sáng mạnh mẽ ( chói sáng ) thì thật khó tin!
127
Quảng cáo kem làm trắng da Hazeline:
“ A: - Mình vừa chụp ảnh Hương đấy.
B: - Ai? Hương hả? Cậu có biết biệt danh của cô ấy là gì không? " Hắc cô
nương" đấy !
(Hương xuất hiện)...
A: - Đừng gọi cô ấy là " Hắc cô nương" nữa nghe! " Bạch cô nương" đấy.
Một cô gái trước đây có làn da thẫm màu tới mức phải mang biệt danh là “
Hắc cô nương “, vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn sử dụng kem làm trắng da
Hazeline, cô ta đã trở thành " Bạch cô nương “ thì quả là có phép màu. Trong
trường hợp này, hoặc là từ “ hắc “, hoặc là từ “ bạch “ đã thể hiện sự phóng đại quá
mức.
Qua những hạn chế nêu trên về ngôn ngữ của quảng cáo trên truyền hình,
chúng ta có thể đi đến kết luận rằng: Việc dàn dựng quảng cáo ở Việt Nam còn
chưa được những người có liên quan đầu tư đúng mức, rồi việc tiếp nhận và cho
phát sóng trên các chương trình truyền hình cũng chưa được cân nhắc, xét duyệt
một cách kỹ càng. Hy vọng, trong một tương lai gần, người xem truyền hình sẽ
không còn muốn tắt máy hay chuyển kênh khi gặp một số màn quảng cáo như hiện
nay.
( Bài in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: " Tiếng Hà Nội trong mối quan hệ
với tiếng Việt và văn hoá Việt Nam ", Hà Nội, 12 / 2002 ).
128
THỬ BÀN VỀ NHỮNG CÂU VĂN KHÔNG PHÙ HỢP VỚI LÔ GÍC
CỦA TƯ DUY TRÊN BÁO CHÍ
Hiện nay, trên báo chí đang khá phổ biến một loại câu sai có thể gây ra trở
ngại không nhỏ đối với việc tiếp nhận và lĩnh hội thông tin, nhưng lại chưa được
những người cầm bút cũng như các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức. Đó là
những câu văn không phù hợp với lô gíc của tư duy.
Những câu văn không phù hợp với lô gíc của tư duy, theo cách hiểu của
chúng tôi, là những câu hoặc phản ánh không đúng thực tế khách quan, hoặc thể
hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận cấu thành câu.I. NHỮNG CÂU VĂN PHẢN ÁNH KHÔNG ĐÚNG THỰC TẾ KHÁCH QUAN
" Thực tế khách quan " ở đây là những điều nằm trong tầm hiểu biết chung
của xã hội, và người ta có thể kiểm chứng ngay độ xác thực của thông tin được
biểu đạt qua ngôn từ của nhà báo. Do đó, những câu văn sai thuộc nhóm này rất dễ
khiến cho công chúng có cảm giác là người viết có nền tảng kiến thức xã hội thiếu
vững vàng.
Ví dụ1:
" Tháng 5 thơm ngát mùi hương hoa sữa, rợp trời hoa phượng đỏ ".
Câu văn trên thật bóng bẩy, giàu hình ảnh. Tuy nhiên, nó bất ổn ở chỗ là
tháng 5 không thể nào có hoa sữa được.
Ví dụ 2:
" El Nino! Đó là tên một dòng nước nóng xuất hiện tại vùng ven biển Peru
( châu Phi ) ".
129
Một quốc gia ở Nam Mỹ đã bị chuyển sang châu Phi, liệu đây có phải là sơ
suất do in ấn?
Ví dụ 3:
" Quân Tây Sơn đã hạ đồn Ngọc Hồi chỉ trong 5 ngày đêm ".
Một cái đồn mà phải mất tới 5 ngày đêm mới hạ được thì đâu còn ý nghĩa của
cuộc hành quân thần tốc với thế mạnh như chẻ tre của quân Tây Sơn? Các tài liệu
về sử học cho thấy, việc hạ đồn Ngọc Hồi chỉ diễn ra trong vòng mấy tiếng đồng
hồ.
Ví dụ 4:
" Anh ta đóng của xe ô tô lại, ngồi vào trước vô lăng rồi nổ máy phóng đi ".
Trong câu văn này, " anh ta " là chủ thể của một loạt các hành động như "
đóng cửa xe ", " ngồi vào trước vô lăng ", '" nổ máy phóng đi ". Tuy nhiên, nếu
hành động " đóng cửa xe " diễn ra đầu tiên như trên thì nhân vật " anh ta " không
thể thực hiện tiếp các hành động sau được nữa. Do đó, cần xắp sếp lại trật tự của
các hành động như sau:
" Anh ta ngồi vào trước vô lăng, đóng của xe lại rồi nổ máy phóng đi ".
Trong thực tế, những câu văn phản ánh không đúng thực tế khách quan không
phải lúc nào cũng thuộc về lỗi của tác giả. Song dù đó có là lỗi của ai đi chăng nữa
thì tác giả cũng là người phải gánh chịu sự phán xử nặng nề nhất của độc giả. Vì
thế, cả tác giả, cả người biên tập ( và cả những ai có liên quan ) cần hết sức cẩn
trọng. Nếu có mảy may nghi ngờ thì nên tra cứu hoặc trao đổi với các chuyên gia.II. NHỮNG CÂU VĂN THỂ HIỆN SAI QUAN HỆ NGỮ NGHĨA GIỮA CÁC BỘ
PHẬN CẤU THÀNH CÂU
Các câu văn thuộc nhóm này có thể chia thành một số kiểu cơ bản như sau:
1. Câu vi phạm quan hệ đối lập
Đây là kiẻu lỗi mà ở đó, người ta đã tách một ( hay một nhóm ) cá thể ra khỏi
một tổng thể, trong khi ở tổng thể ấy không có cá thể nào khác đối lập với nó ( hay
chúng ).
Ví dụ 1:
" Năm nay, ngày 10 / 10 lại đến ".
130
Câu văn này khiến ta phải hiểu rằng việc " ngày 10 / 10 đến vào năm nay " là
một điều đặc biệt. Vậy phải chăng những năm khác thì không có ngày 10 / 10? Vì
thế, để tránh sự băn khoăn không đáng có cho người đọc, cần phải bỏ từ " năm nay
". Theo chúng tôi, nếu ở đây tác giả muốn thể hiện sự thảng thốt trước dòng chảy
quá nhanh của thời gian, anh ta có thể nói một cách đơn giản là:
" Mới đó thôi mà ngày 10 / 10 đã lại đến rồi ".
Ví dụ 2:
" Chiều 12 / 6 / 2002 ở Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh là một chiều nắng đẹp ".
Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh là một nơi quá nhỏ để có thể hàm chứa cả một
hiện tượng thiên nhiên có tính bao trùm rộng lớn như là nắng. Nếu nói như trên, vô
hình trung ta đã khẳng định rằng khi ở Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh có nắng thì ở
mấy khu phố xung quanh nó và ngang hàng với nó về mặt quy mô, có thể có mưa.
Nhưng trong thực tế điều này không thể xảy ra ( hoặc nếu có thì vô cùng hiếm ).
Nên sửa lại câu này theo các hướng:
- Chiều 12 / 6 / 2002, một chiều nắng đẹp, tại Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh đã
diễn ra...
- Chiều 12 / 6 / 2002, một chiều nắng đẹp, chúng tôi tới Viện Bảo tàng Hồ
Chí Minh....
Ví dụ 3:
" Với giới văn nghệ sỹ, Kim Lân là nhà văn cao tuổi nhất trong làng văn ".
Việc Kim Lân là nhà văn cao tuổi nhất trong làng văn là thực tế khách quan,
tất cả mọi người đều phải thừa nhận như nó vốn có. Vậy tại sao người viết lại cho
rằng cái thực tế ấy chỉ dành riêng cho giới văn nghệ sỹ? Rõ ràng cụm từ " với giới
văn nghệ sỹ " ở đầu câu là nguyên nhân của sự vi phạm quan hệ đối lập, nó nên bị
lược bớt.
2. Câu vi phạm quan hệ đối xứng
Trong câu văn kiểu này, các thành tố được đưa ra để đối chiếu so sánh không
đồng chức, đồng loại.
Ví dụ 1:
" Đội bóng thành Paris không chỉ tỏ ra kém cỏi mà còn dồn lên tấn công ".
131
Đứng sau " không chỉ " và đứng sau " mà còn " phải là những thành tố ngôn
ngữ đồng loại với nhau cả về hình thức lẫn nội dung. Ở ví dụ trên, sau " không chỉ
" là sự đánh giá tiêu cực, còn sau " mà còn " lại là sự đánh giá tích cực, như vậy là
bất hợp lý. Có thể sửa lại thành:
- Đội bóng thành Pari tuy chơi kém cỏi nhưng cũng có lúc dồn lên tấn công.
Hoặc:
- Đội bóng thành Paris nhìn chung là chơi kém cỏi, tuy cũng có lúc dồn lên
tấn công .
Ví dụ 2:
" Anh ấy đi lên rừng, còn thành phố đang chờ đợi chúng tôi ".
Trong câu này, các đối tượng được so sánh là " anh ấy " và " chúng tôi ".
Nhưng " anh ấy " lại là chủ ngữ trong câu trước, còn " chúng tôi " lại là bổ ngữ
trong câu sau. Vì thế, cần làm cho chúng có cùng một chức năng, chẳng hạn:
- Anh ấy đi lên rừng, còn chúng tôi trở về thành phố.
Ví dụ 3:
" Đó là một mẫu người thật lý tưởng, với làn da thật mịn màng, khác hẳn với
những cô gái nông trường khác thường cục mịch, sỗ sàng ".
Sự so sánh giữa một bên là ngoại hình và một bên là tính cách trong trường
hợp này rõ ràng là khập khiễng. Cần phải đưa ra tiêu chí so sánh thống nhất: hoặc
cùng theo ngoại hình, hoặc cùng theo tính cách. Chúng ta có hai phương án như
sau:
- Đó là một cô gái có làn da thật mịn màng, khác hẳn với những cô gái nông
trường khác thường có làn da thô rám.
- Đó là một cô gái thật tế nhị, dịu dàng, khác hẳn với những cô gái nông
trường khác thường cục mịch, sỗ sàng.
3. Câu sai quy chiếu
Đây là kiểu câu mà trong đó, khi tác giả định nói tới A, thì người đọc lại hiểu
là tác giả định nói tới B. Tức là cách diễn đạt của người viết đã khiến cho góc nhìn
của anh ta và góc nhìn của người đọc về cùng một vấn đề, sự việc, hiện tượng,...
trái ngược nhau.
132
Ví dụ 1:
" Là bạn đọc thường xuyên, những năm qua báo Nhân Dân đã cung cấp cho
tôi nhiều kiến thức bổ ích ".
Trong cấu tạo câu có một nguyên tắc là: chủ thể của hành động, trạng thái,
tính chất,... trong thành phần phụ bao giờ cũng là chủ thể được thể hiên qua chủ
ngữ trong câu chính. Ở câu văn trên, báo Nhân Dân là chủ ngữ trong câu chính,
như vậy nó cũng là chủ thể của tính chất trong câu phụ. Điều này phi lý, vì báo
Nhân Dân không thể là bạn đọc của chính nó.
Có thể chữa lại thành:
- Là bạn đọc thường xuyên, những năm qua tôi đã được báo Nhân Dân
cung cấp nhiều kiến thức bổ ích.
Hoặc:
- Tôi là bạn đọc thường xuyên của báo Nhân Dân. Những năm qua tôi đã
được báo này cung cấp nhiều kiến thức bổ ích.
Ví dụ 2:
" Cảm động trước cử chỉ nghĩa hiệp của người chồng, người cha hết sức có
trách nhiệm với gia đình, ông được toà xử cho nuôi cả hai đứa con ".
Tương tự như ví dụ trước, câu này muốn đúng, cần phải được sắp xếp lại.
Chẳng hạn:
- Cảm động trước cử chỉ nghĩa hiệp của người chồng, người cha hết sức có
trách nhiệm vvới gia đình, toà xử cho ông nuôi cả hai đứa con.
4. Câu dùng sai quan hệ từ
Trong kiểu câu này, quan hệ từ, do được dùng không đúng, đã khiến cho các
thành phần câu trở nên không ăn nhập, thậm chí mâu thuẫn nhau về mặt nội dung.
Ví dụ 1:
" Tuy rất xót thương đứa bé nhưng anh cũng vô cùng căm phẫn trước hành
động dã man của bọn buôn nguươì bất lương ".
Quan hệ từ " nhưng " luôn thể hiện sắc thái tương phản về ý nghĩa giữa các vế
đứng trước và sau nó ( Tuy trời có bão nhưng chúng tôi vẫn ra khơi ). Song, ở ví
dụ trên, hai vế câu " rất xót thương đứa bé " và " vô cùng căm phẫn trước hành
133
động dã man..." lại không hề tương phản, mà ngược lại, dung hoà nhau như hai
biểu hiện của cùng một trạng thái tình cảm hoặc cùng một thái độ. Sẽ là đúng nếu
ta dùng cặp từ quan hệ " càng... càng... ":
- Càng xót thương đứa bé, anh càng căm phẫn trước hành động dã man của
bọn buôn người bất lương.
Ví dụ 2:
" Có điện, có đường dây, nhưng Lục Ngạn chưa thực sự chinh phục, hấp dẫn
được nhiều người, nhờ có vải thiều ".
Người ta chỉ dùng từ " nhờ " khi muốn chỉ ra nguyên nhân của một sự việc có
ý nghĩa tích cực, được mong muốn nào đó. Thế nhưng, trong câu văn này, từ "
chưa " ở phía trước đã đã làm cho từ " nhờ " trở nên không thích ứng với văn
cảnh. Nếu thay " chưa " bằng " chỉ " ta sẽ có câu văn đúng:
- Có điện, có đường đây, nhưng Lục Ngạn chỉ thực sự chinh phục, hấp dẫn
được nhiều người, nhờ có vải thiều.
Ví dụ 3:
" Cuộc săn lùng ráo riết của cảnh sát với ba tên sát nhân đã diễn ra suốt 7
tháng qua, dưới áp lực thường xuyên của dư luận ".
Từ " với " trong câu văn trên có thể gây hiểu lầm: Cảnh sát phối hợp với ba
tên sát nhân để truy lùng ai đó. Nên viết lại cho rõ ý hơn như sau:
- Cảnh sát đã ráo riết săn lùng ba tên sát nhân suốt 7 tháng qua, dưới áp lực
thường xuyên của dư luận.
Hoặc:
- Cuộc săn lùng ráo riết ba tên sát nhân của cảnh sát đã diễn ra suốt 7 tháng
qua, dưới áp lực thường xuyên của dư luận.
5. Câu mâu thuẫn với các câu khác bên cạnh nó
Có những câu văn, khi tồn tại riêng lẻ thì đúng về mọi phương diện, nhưng
khi được xem xét trong quan hệ với các câu khác nằm bên cạnh thì lại sai.
Ví dụ 1:
" Nạn nhân của vụ nổ này là hai em bé và một người đàn ông chừng 35 tuổi.
Hàng chục người khác bị thương nặng ".
134
Câu đầu khẳng định là nạn nhân chỉ có 3 người. Nhưng câu sau lại đưa ra số
lượng lớn hơn. Rất có thể ý tác giả là: Vụ nổ này đã làm cho hai em bé và một
người đàn ông chừng 35 tuổi bị chết, hàng chục người khác bị thương nặng.
Ví dụ 2:
" Cô giáo bị H. dùng dao mổ lợn đâm chết ngay trên bục giảng. Cô được đưa
đi cấp cứu ở bệnh viện E, nhưng vì vết thương quá nặng, đã chết lúc 17 h 30' cùng
ngày ".
Cô giáo rõ ràng đã chết ở câu trước, nhưng trong câu sau ta lại thấy cô " sống
lại " để rồi chết thêm một lần nữa. Có lẽ phải thay cụm từ " đâm chết ngay " ở câu
đầu bằng cụm từ " đâm trọng thương " mới hợp lô gíc.
Ví dụ 3:
" Với bộ răng khoẻ cứng, loài nhện này có thể cắn thủng cả giầy da. Mọi biện
pháp chống lại chúng vẫn chưa có kết quả vì chúng sống sâu dưới mặt đất. Hiện
nay, người ta đang thử tìm cách bắt chúng để điều trị cho những người bị chúng
cắn ".
Sau khi đọc đoạn văn này, chúng ta có những nhận xét sau đây:
Thứ nhất, câu đầu chưa chỉ rõ là loài nhện được đề cập nguy hiểm như thế nào
cho nên câu thứ hai nói về việc chống lại chúng là không hợp lý.
Thứ hai, cụm từ " thử tìm cách bắt chúng " trong câu thứ ba mâu thuẫn với ý
được thể hiện trong câu thứ hai. Vì " mọi biện pháp chống lại chúng " đương nhiên
phải bao hàm cả việc " tìm cách bắt chúng ".
Có thể, ý tác giả cần được diễn đạt thế này:
- Với bộ răng khoẻ cứng, có thể cắn thủng cả giầy da, loài nhện độc này đặc
biệt nguy hiểm đối với những ai bị chúng tấn công. Thế nhưng việc chống lại
chúng luôn hết sức khó khăn do chúng sống sâu trong lòng đất. Đây là điều rất
đáng lo ngại, vì cho đến giờ người ta vẫn chưa tìm ra phương thuốc hữu hiệu để
điều trị cho những người bị loài nhện này cắn.
Còn có thể liệt kê nhiều ví dụ khác nữa về những câu văn không phù hợp với
lô gíc của tư duy mà chúng ta gặp trên các trang báo. Rồi sự phân loại chúng ở đây
chắc chắn còn những điều cần bổ sung. Song, chỉ vậy thôi cũng đủ để khẳng định
135
rằng: việc tạo ra một sản phẩm ngôn từ hoàn chỉnh là điều không đơn giản. Và hơn
ai hết, các nhà báo - những người được mệnh danh là " những viên hoa tiêu của
con tàu ngôn ngữ dân tộc " - phải có trách nhiệm vượt qua khó khăn này.
( Bài đăng trên Tạp chí Nghề báo, số 3 / 2002 )
NHỮNG KIỂU LỖI VỀ CHÍNH TẢ THƯỜNG GẶP TRÊN BÁO CHÍ
Các lỗi về chính tả trên báo chí rất đa dạng và phong phú. Nhưng nhìn chung,
có thể chia chúng thành một số kiểu cơ bản sau đây:
1.Viết sai các phụ âm hoặc nguyên âm
Thường gặp hơn cả là việc viết sai các phụ âm trong các cặp ( nhóm ) phụ âm
đầu tr / ch, s / x, r / gi / d. Chẳng hạn đáng ra phải viết là " chia sẻ " ( trong câu: " Anh
ấy chia sẻ cùng tôi mọi niềm vui nỗi buồn. " ), " bổ sung ", " vô hình trung ", bất trắc
", " giã biệt ", " di dời ' " xa rời "... thì người ta lại viết thành " chia xẻ ", " bổ xung ",
" vô hình chung ", " bất chắc ", " dã biệt ", " di rời ", " xa dời ". Đặc biệt, sự nhầm lẫn
giữa các từ xuất / suất và giành / dành xuất hiện với tần số khá cao trên các báo.
Thực ra việc phân biệt các cặp từ này không khó. Ta sẽ viết là suất nếu nói đến một
đại lượng nhận được nhờ sự phân chia một đại lượng khác lớn hơn ( năng suất, suất
ăn, công suất...), và sẽ viết là xuất nếu nói đến phương hướng đi ra ngoài ( xuất khẩu,
xuất cảnh, xuất giá...). Còn từ " giành " ta sẽ sử dụng khi viết về các thành tựu mà ai
đó đạt được nhờ sự nỗ lực phấn đấu của bản thân ( giành huy chương vàng, giành
nhiều điểm tốt, giành thắng lợi...), nó khác hẳn với từ " dành" có ý nghĩa là : " Giữ
lại để dùng về sau, để riêng cho ai hoặc cho việc gì " ( dành tình thương cho con cháu,
dành thời gian cho nghỉ ngơi, v. v. )1...
Với các nguyên âm thì lỗi về chính tả ít gặp hơn. Đây đó, thỉnh thoảng có trường
hợp viết sai khuôn vần như " tuềnh toàng " thành " tuyềnh toàng ", " trừu tượng "
thành " trìu tượng ", " tiêu chí " thành " tiu chí ", " con hươu " thành " con hiêu "...Để
khắc phục những lỗi này, có thể vận dụng mấy mẹo đơn giản: a, Khuôn vần uê chỉ có
thể đứng trước các phụ âm nh và ch ( huênh hoang, huếch hoác ), còn khuôn vần uyê
chỉ có thể đứng trước các phụ âm t và n ( tuyết , tuyến ); b, Các từ Hán - Việt chỉ viết
với ưu ( trừu tượng, hưu trí, lưu lạc, vĩnh cửu...) hoặc với iêu ( diễu hành, tiêu chí,
136
hiệu trưởng, quan liêu...) chứ không viết với iu; c, Vần ươu chỉ xuất hiện rất hạn chế
trong mấy từ như cái bướu, con hươu, con khướu, chai rượu, con tườu( có thể thuộc
ngay được ).
Theo chúng tôi, nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn đến những sự nhầm lẫn
như trên là bởi người ta phát âm không chuẩn xác ( chẳng hạn, s được phát âm cũng
như x, tr - như ch, r- như gi và d; rồi ươu được phát âm như iêu, iêu -như iu... tuỳ theo
các khu vực dân cư ). Vì chữ viết thực ra chỉ là hình thức ghi lại âm thanh bằng ký tự,
nếu nói sai thì viết cũng rất dễ sai theo. Vậy nên, để hạn chế chúng, một mặt chúng ta
phải phát âm đúng( lẽ đương nhiên, Đài Truyền hình Trung ương và Đài Tiếng nói
Việt Nam phải giữ vai trò tiên phong trong việc này ), mặt khác, chúng ta phải cố
gắng nhớ mặt chữ trong khi viết ( nếu có nghi ngờ nên tra cứu từ điển ).
2. Viết nhầm các dấu thanh điệu hỏi và ngã
Các lỗi thuộc kiểu này chủ yếu gặp trên các tờ báo ở các tỉnh miền Trung và miền
Nam. Chẳng hạn " kỹ năng " được viết thành " kỷ năng ", " vẩn vơ " - thành " vẫn vơ ",
" nghĩ " - thành " nghỉ ", v. v. Theo cuốn " Tiếng Việt thực hành " của Bùi Minh Toán
- Lê A - đỗ Việt Hùng thì có hai quy tắc giúp phân biệt các thanh hỏi và ngã như sau:
- Trong các từ láy âm tiếng Việt có quy luật bổng trầm: Nếu từ láy gồm hai tiếng
( chữ ) thì cả hai tiếng hoặc đều là bổng hoặc đều là trầm: không có tiếng bổng láy với
tiếng trầm và ngược lại. Hệ bổng gồm các thanh : không, hỏi, sắc: hệ trầm gồm các
thanh: huyền, nặng, ngã. Do vậy, khi gặp một tiếng mà ta không biết là phải viết với
thanh hỏi hay thanh ngã, ta hãy tạo ra một từ láy: nếu tiếng đó láy với tiếng bổng ta có
thanh hỏi, ngược lại, nếu láy với tiếng trầm, ta có thanh ngã. Chẳng hạn: trong "vẩn
vơ" thì vơ thuộc hệ bổng ( thanh không ) nên vẩn phải mang dấu hỏi cùng hệ; còn
trong " nghĩ ngợi " thì ngợi thuộc hệ trầm nên nghĩ phải mang dấu ngã cùng hệ.
( Số ngoại lệ của quy tắc này rất ít: ngoan ngoãn, vỏn vẹn, khe khẽ, se sẽ, trơ
trẽn, lam lũ ).
- Đối với các từ Hán - Việt ( trong trường hợp còn phân vân không biết viết với
thanh hỏi hay ngã ), nếu chúng được bắt đầu bằng một trong các phụ âm: M, N, NH,
V, L, D, NG ( mình nên nhớ viết là dấu ngã ) thì đánh dấu ngã: mẫn cảm, nỗ lực,
137
nhã nhặn, viễn thị, lễ độ, dũng mãnh, ngôn ngữ, v. v. Còn với những từ được bắt đầu
bằng các phụ âm khác, hoặc không có phụ âm đầu, thì đánh dấu hỏi.
( Quy tắc này có chừng hai mươi ngoại lệ như sau: Kỹ năng, bãi khoá, bĩ cực,
phẫu thuật, linh cữu, tống tiễn, thực tiễn, hoả tiễn, tiễu trừ, ấu trĩ, huyễn tưởng, tích
trữ,, hỗ trợ, hỗn chiến, hãm tài, phóng đãng, cùng quẫn, thư xã, hữu dụng, hữu phái,
trì hoãn, công quỹ, cưỡng đoạt, tuẫn nạn, kỹ nữ, thi sĩ... )2.
3. đánh sai vị trí dấu thanh điệu
Đây là dạng lỗi phổ biến ở nhiều báo trong cả nước. Chẳng hạn, đáng ra phải
viết là hoà, thuỷ ( dấu thanh điệu phải đánh vào a và y là các nguyên âm chính ) thì
không ít người lại viết thành hòa, thủy ( tức dấu thanh điệu được đánh vào các âm
đệm o và u ). Thậm chí, đây đó còn có trường hợp viết quí thành qúi, giả thành gỉa...
Có một số ý kiến tỏ ra xem nhẹ kiểu lỗi này vì cho rằng chúng chẳng ảnh
hưởng gì đến ý nghĩa của từ, đến việc tiếp nhận của người đọc. Nhưng theo chúng tôi
thì cách nghĩ như vậy là chưa thoả đáng. Chúng ta đang trong quá trình chuẩn hoá
ngôn ngữ, tức là đang hướng tới cái đúng. Mà cái đúng thì chỉ có một cho nên việc
đánh dấu thanh điệu một cách tự do như hiện nay đang tạo nên sự thiếu nhất quán về
chính tả, gây khó khăn cho việc học tập, nghiên cứu và làm ảnh hưởng tới giá trị thẩm
mỹ chung của chữ viết tiếng Việt.
Chúng tôi đề xuất một số quy tắc nhỏ có thể giúp đánh đúng vị trí dấu thanh
điệu như sau:
1, Nếu trong âm tiết chỉ có một ký hiệu ghi nguyên âm thì đương nhiên dấu
thanh điệu phải được đánh vào trên hoặc dưới ký hiệu ghi nguyên âm đó, ví dụ: bố,
mẹ, học hành, thẳng thắn...
2, Nếu trong âm tiết có từ hai ký hiệu ghi nguyên âm trở lên thì sẽ xảy ra các
tình huống sau:
- Trong âm tiết có ký hiệu ghi nguyên âm u. Khi đó u chỉ mang dấu thanh điệu khi
đứng trước các ký hiệu ghi nguyên âm i và a ( núi, mùi, lúa, lụa...), còn trong các
trường hợp khác nó không mang dấu thanh điệu ( thuở, tuỳ, khuỷu tay...). Ở đây cần
lưu ý là trong các âm tiết như quà, quí, mặc dù đứng trước a và i nhưng ký hiệu ghi
138
nguyên âm u vẫn không thể mang dấu thanh điệu vì nó chỉ là bộ phận của phụ âm q
( xét theo sự thể hiện về mặt chữ viết );
- Trong âm tiết có ký hiệu ghi nguyên âm o. Khi đó o chỉ mang dấu thanh điệu khi
đứng trước ký hiệu ghi nguyên âm i ( hỏi, nói, gọi...), còn trong các trường hợp khác o
không mang dấu thanh điệu ( hoà, hoè, xoá...);
- Đối với các tình huống còn lại ( trong âm tiết không có o mà cũng chẳng có u ),
dấu thanh điệu bao giờ cũng được đánh vào ký hiệu ghi nguyên âm nằm sát cuối, tức
là đằng sau nó còn một ký hiệu ghi nguyên âm hay một ký hiệu ghi phụ âm, ví dụ:
trường, cuốn, cười, miếng, v. v.3
4. Viết hoa không đúng quy cách
Hiện nay, trong giao tiếp, chúng ta cần vận dụng một số quy tắc viết hoa cơ
bản đã được thừa nhận và đang có tính phổ cập rộng rãi trong xã hội như sau:
a, Viết hoa tên người
Đối với tên người Việt Nam, chữ cái đầu của tất cả các âm tiết đều được viết
hoa, ví dụ : Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Ngô Tất tố, Xuân Diệu...
Đối với tên người nước ngoài, chỉ cần viết hoa chữ cái đầu ở mỗi bộ phận
của tên, ví dụ: Vladimir Putin, Bill Clinton, Victor Hugo...
Riêng tên người nước ngoài được phiên âm qua âm Hán - Việt thì viết hoa
như với tên người Việt nam, ví dụ: Tư Mã Thiên, Đỗ Phủ, Gia Cát Lượng, Bá Đa
Lộc, Thành Cát Tư Hãn...
b, Viết hoa tên địa lý
Tên địa lý được viết hoa giống như tên người, ví dụ:
Tên địa lý Việt Nam : Trường Sơn, Cửu Long, Hà Nội, Việt Bắc, Ba Đình...
Tên địa lý nước ngoài: Paris, Berlin, Washington, Moskva...
Tên địa lý nước ngoài được phiên qua âm Hán- Việt: Nhật Bản, Đài Bắc, Tây
Ban Nha, Ba Lan...
c, Viết hoa tên các cơ quan, tổ chức chính trị-xã hội
Với tên các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức chính trị-xã hội..., chúng ta viết
hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu tiên và các chữ cái đầu của các âm tiết đầu trong
các từ nêu lên tính chất riêng biệt của tên, ví dụ: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường
139
Đại học Sư phạm Hà Nội, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Sở Kế
hoạch và Đầu tư...
d, Viết hoa tu từ
Viết hoa tu từ là biện pháp dùng chữ hoa để riêng hoá các từ ngữ chung nhằm
thể hiện màu sắc biểu cảm trong văn bản. Nó thường mang đậm dấu ấn sáng tạo
riêng của người viết, nhất là trong các văn bản nghệ thuật. Tuy nhiên, đối với một
số trường hợp sau đây, việc viết hoa tu từ đang có xu thế trở thành chuẩn mực
chung:
- Thứ nhất, là những từ ngữ liên quan đến các đối tượng, sự kiện là niềm tự hào
của đất nước, của dân tộc, ví dụ: Người ( chỉ Bác Hồ ), Cách mạng Tháng Tám,
Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại thắng Mùa Xuân năm 1975...
- Thứ hai, là tên các chức vụ cao cấp của Đảng, Nhà nước, như: Tổng Bí thư,
Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ...
- Thứ ba, là các danh hiệu cao quý, như: Nhà giáo Nhân dân, Nghệ sỹ Ưu tú,
Anh hùng Lao động, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng...
- Thứ tư là các giải thưởng cao quý, như: Huy chương Kháng chiến, Giải
thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương Sao Vàng, Huân chương Độc lập hạng Nhất...
Trên báo chí, lỗi về viết hoa phần lớn tập trung ở các trường hợp viết tên cơ
quan, đoàn thể, tổ chức chính trị -xã hội, ví dụ: Sở Văn hoá thông tin ( phương án
đúng là Sở Văn hoá-Thông tin ), Hội nhà báo ( phải viết là Hội Nhà báo ), Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( ít nhất phải viết hoa thêm chữ " xã " thành: Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ), Uỷ ban Dân số và Kế hoạch hoá Gia đình ( âm
tiết " gia " trong từ " gia đình " không cần viết hoa vì từ này chỉ là thành tố phụ bổ
nghĩa cho từ " kế hoạch hoá " mà thôi )...Điều này có thể liên quan tới sự phức tạp
của quy tắc hướng dẫn việc viết hoa trong các trường hợp đó: đâu phải ai cũng có
khả năng nhận biết được các âm tiết biểu thị tính chất riêng biệt của tên. Còn với
việc viết hoa tu từ, lỗi ít gặp hơn( có lẽ là do các tình huống cần viết hoa tu từ
không xuất hiện nhiều trong giao tiếp ). Thảng hoặc có người viết Chủ tịch nước
( đúng ra là Chủ tịch Nước ), Mẹ Việt Nam anh hùng ( cần viết là Mẹ Việt Nam
140
Anh hùng )...Riêng trong việc viết tên riêng người và tên riêng địa lý, hầu như
không ai mắc lỗi ( bởi các quy tắc hướng dẫn quá rõ ràng và đơn giản ).
Trên đây là một số kiểu lỗi về chính tả thường gặp trong báo chí. Những kiểu
lỗi này, trong nhiều trường hợp, có khả năng làm phương hại đáng kể đến diện
mạo của tác phẩm, gây ấn tượng xấu đối với người đọc, và do vậy, làm giảm sút
hiệu quả tiếp nhận của họ. Vì thế, rất hy vọng rằng chúng sẽ được các nhà báo
quan tâm đúng mức.
Chú thích 1. Từ điển tiếng Việt ( Hoàng Phê chủ biên ), NXB. Đà Nẵng, 2001.
2. Bùi Minh Toán ( chủ biên ) - Lê A - Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành,
NXB. Giáo dục, H., 1997. 3. Hoàng Anh, Quy tắc nhỏ trong việc đánh dấu thanh điệu, Tạp chí Ngôn
ngữ và Đời sống, số 9 / 1998.
( Bài đăng trên Tạp chí Nghề báo, số 3 / 2003 )
141
MẤY KIỂU LỖI VỀ DÙNG TỪ TRÊN BÁO CHÍ
1. Lỗi về phong cách
Ở đây, chúng tôi muốn nói tới việc dùng từ không hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
Thông thường, hoàn cảnh giao tiếp được chia thành hai dạng chính là: hoàn cảnh
giao tiếp theo nghi thức và hoàn cảnh giao tiếp không theo nghi thức. Hoàn cảnh
giao tiếp theo nghi thức thức đòi hỏi ngôn ngữ được sử dụng trong đó phải trang
trọng, nghiêm túc, hoàn chỉnh, có tính gọt giũa; còn hoàn cảnh giao tiếp không
theo nghi thức ( còn gọi là hoàn cảnh giao tiếp thân mật, không mang tính chính
thức xã hội ) cho phép dùng ngôn từ tự do, thoải mái ( thậm chí tuỳ tiện ). Nếu
người nói, người viết không nắm vững điều đó, anh ta dễ dàng mắc lỗi về phong
cách. So với các kiểu lỗi khác, kiểu lỗi này nghiêm trọng hơn ở chỗ là nó ít nhất
cũng phá vỡ tính thống nhất trong giọng điệu chung của toàn văn bản. Ấy là còn
chưa kể đến những băn khoăn khó tránh khỏi của người đọc, người nghe về tầm
vóc văn hoá của chủ thể phát ngôn.
Dưới đây là một số ví dụ lỗi về phong cách lấy từ thực tiễn báo chí:
Ví dụ 1:
" Hàng ngày, cô bé học trò ấy ngoài việc tham gia các chương trình người mẫu
thời trang âm nhạc, còn đánh đàn pianô kiếm ăn ở khách sạn Ômni, Tân Thế Giới
".
Đây là câu văn được trích từ một bài báo có giọng điệu trang trọng ca ngợi tài
năng của một nữ nghệ sỹ dương cầm trẻ tuổi đầy triển vọng, vốn sinh ra và lớn lên
trong một gia đình khá giả và có điều kiện học hành đến nơi đến chốn. Vì thế từ "
kiếm ăn " - một từ thuộc phong cách khẩu ngữ chỉ dùng trong hoàn cảnh giao tiếp
suồng sã, thân mật - khó mà có thể chấp nhận được. Sẽ là hợp lý hơn nếu thay nó
142
bằng " để tăng thu nhập cho gia đình " hay " để có thu nhập riêng, giúp đỡ bố mẹ
"...
Ví dụ 2:
" Hy vọng rằng bài hát này sẽ gợi nhắc các anh nhớ tới những kỷ niệm trong
những ngày làm lính ".
Nếu đây là hoàn cảnh giao tiếp thân mật, gần gũi, trong một phạm vi hẹp, thì rất
có thể cụm từ " làm lính " sẽ chẳng làm ai phải bận tâm. Nhưng câu nói trên lại
thuộc về một người dẫn chương trình truyền hình trong buổi giao lưu giữa các
nghệ sỹ với các chiến sỹ hải quân, vì thế cần phải thay nó bằng một cụm từ khác
trang trọng hơn, chẳng hạn: " Hy vọng bài hát này sẽ gợi nhắc các anh nhớ về
những kỷ niệm của những ngày phục vụ trong quân ngũ ".
Ví dụ 3:
" Hàn Mặc Tử mặc dù bị hủi về thể xác nhưng tâm hồn dứt khoát không chịu
hủi cho ".
Khó có thể hình dung được rằng câu văn trên lại là câu văn mở đầu một bài báo
ca ngợi thân thế và sự nghiệp nhà thơ Hàn Mặc Tử nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày
sinh của ông. Từ " hủi " và cụm từ " tâm hồn dứt khoát không chịu hủi cho " đã tạo
cảm giác là tác giả đang giao tiếp trong một tình huống không mang tính chính
thức xã hội, và do vậy, sự ca ngợi đối với nhà thơ mang một sắc thái mỉa mai, bỡn
cợt. Theo chúng tôi, nên thay câu trên bằng " Hàn Mặc Tử mặc dù bị bệnh nặng về
thể xác nhưng tâm hồn ông vẫn luôn ngập tràn cảm hứng sáng tạo ".
Ví dụ 4:
" Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn nhắc nhở nhân dân Tỉnh Thái Bình phải
làm mạnh con tôm ".
Trong thực tế, ở một bầu không khí thân mật, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn
hoàn toàn có thể dùng cụm từ " làm mạnh con tôm ". Tuy nhiên, khi nhà báo đưa
lời của Phó Thủ tướng lên các phương tiện thông tin đại chúng ( cả báo viết, báo
nói, cũng như báo hình ) dưới hình thức trích dẫn gián tiếp, thì cụm từ đó chắc
chắn phải được thay thế bằng cụm từ khác sao cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp
143
chính thức. Một trong những phương án có thể lựa chọn là " đẩy mạnh hơn nữa
việc nuôi tôm ".
Ví dụ 5:
" Một chiến binh Taliban đã ném bom cảm tử vào một chiếc xe quân sự của Mỹ
làm 14 người bị chết, hai người bị thương ".
Cụm từ " ném bom cảm tử " hiện đang được dùng khá rộng rãi trên báo chí,
nhất là trên truyền hình. Chúng ta đều biết, " cảm tử " là một từ Hán - Việt, mang
sắc thái trang trọng; nó thể hiện sự ngợi ca của người viết ( hay người nói ) đối với
hành động hy sinh thân mình vì chính nghĩa của ai đó. Và như vậy, nếu dùng từ
này để nói về hành động ném bom của một chiến binh Taliban, vô hình trung
chúng ta đã khẳng định rằng mình đứng về phía anh ta, ủng hộ hành động của anh
ta. Điều này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng không lường trước được.
Tốt hơn hết, nên thay nó bằng những từ mang sắc thái biểu cảm trung tính như " tự
sát " hay " liều chết " - những từ giúp chúng ta phản ánh chính xác thực tế khách
quan mà không để lộ rõ thái độ của mình.
2. Lỗi về nghĩa của từ
Mỗi từ, khi được dùng, phải biểu đạt chính xác nội dung cần thể hiện, tức là
nghĩa của nó phải thích hợp nhất với điều định nói. Nếu người nói hay người viết
không đáp ứng được yêu cầu này, phát ngôn của họ sẽ trở nên khó hiểu hoặc bị
hiểu sai.
Nhìn chung, việc dùng từ không đúng nghĩa thường gặp trong một số các tình
huống cơ bản như: người nói ( người viết ) không nắm chắc nghĩa của từ, nhất là
các từ Hán - Việt, các thuật ngữ khoa học; hoặc giả anh ta nhầm lẫn các từ gần âm,
gần nghĩa với nhau.
Ví dụ 1:
" Thêm vào đó, phải ăn mặc theo đúng phong cách hiện hành thời phong kiến ".
Đã " hiện hành " ( tức đang lưu hành thời hiện tại )1 thì làm sao còn ở " thời
phong kiến " được? Chắc tác giả định nói: " thịnh hành ".
Ví dụ 2:
" Chiều thứ bảy vừa qua, khí hậu Sài Gòn khá mát mẻ ".
144
Khí hậu luôn có tính ổn định cao và gắn với một vùng địa lý rộng lớn, nó không
thể thay đổi theo ngày giờ và ở phạm vi một thành phố được. Từ đúng phải là "
thời tiết ".
Ví dụ 3:
" Hội diễn năm nay chẳng có gì thay đổi mấy, vẫn những vòng hoa tươi chất
đầy sân khấu ".
Từ " vòng hoa " ở đây khiến người ta phải liên tưởng tới một cái khác, hoàn
toàn trái ngược với không khí tưng bừng, náo nhiệt của hội diễn. Chính xác nhất có
lẽ là từ " lẵng hoa ".
Ví dụ 4:
" ... Nhưng dường như, ham chơi cổ vật đã trở thành một căn bệnh nghiền. Anh
không sao bỏ được. Chợ hoa Tết, tôi vẫn gặp anh lảng vảng bên các quầy đồ cũ,
để tìm mua những cái mình say sưa ".
Từ " lảng vảng " mang nghĩa xấu, thường dùng dể chỉ những hành dộng mờ ám,
lén lút của những đối tượng khả nghi nào đó, vì thế nó không phù hợp với nhân vật
được nói tới trong ví dụ trên. Nên thay nó bằng từ " quanh quẩn ".
Ví dụ 5:
" Dù còn vài khó khăn, ca sỹ, nghệ sỹ Việt kiều vẫn rầm rập kéo về, thậm chí
còn rủ rê nhau cùng về cho vui ".
" Rủ rê "có nghĩa là: " lôi kéo, rủ người khác làm việc xấu "2. Như vậy, trong
trường hợp trên nó không thể hiện đúng sắc thái đánh giá vốn mang tính chất tích
cực của tác giả trước tinh thần và khí thế hồi hương của các nghệ sỹ Việt kiều.
Theo chúng tôi, cần dùng từ " rủ ".
Khảo sát cho thấy, trong số các kiểu lỗi liên quan tới từ trên báo chí thì việc
dùng từ không đúng nghĩa chiếm tỉ lệ cao hơn cả. Và điều này khiến chúng ta
không thể không đặt câu hỏi: Phải chăng nhiều người cầm bút vẫn còn có thái độ
quá dễ dãi khi sử dụng những từ mà mình chưa hiểu một cách cặn kẽ?
3. Lỗi về kết hợp từ
Các từ, khi được dùng ở phạm vi câu cũng như phạm vi toàn văn bản, luôn nằm
trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa và ngữ pháp. Nói cách khác,
145
mỗi từ phải thích ứng với các từ khác đứng trước nó và đứng sau nó. Nếu người
viết không đáp ứng được yêu cầu này, anh ta có thể tạo ra những sự mâu thuẫn, phi
lô gic giữa các thành tố ngôn ngữ cấu thành câu hay văn bản.
Ví dụ 1:
" Nếu xem kỹ những tác phẩm được trưng bày trong triển lãm thì càng nhận ra
sự hụt hẫng trong hiểu biết, vốn sống của tác giả lồ lộ trên không ít tác phẩm được
coi là khoảnh khắc đẹp mang tính tiêu biểu cho trí tuệ của làng ảnh ".
Từ " xem kỹ " ( quan sát tường tận từng chi tiết )3 không phù hợp về nghĩa với
từ " lồ lộ " ( được hiện ra, phô bày ra rất rõ )4.
Chữa lại: " Nếu xem kỹ những tác phẩm được trưng bày trong triển lãm thì
càng nhận thấy rõ sự hụt hẫng trong hiểu biết, vốn sống của tác giả ở không ít tác
phẩm được coi là khoảnh khắc đẹp mang tính tiêu biểu cho trí tuệ của làng ảnh ".
Ví dụ 2:
" Giáo hoàng John Paul II cũng được đưa vào tờ bạc được đúc tại Vatican ".
" Tờ bạc " là một loại giấy cho nên không thể được " đúc " - một động từ chỉ
dùng với các vật rắn ( như kim loại, nhựa,... ). Để tránh vi phạm về quan hệ kết
hợp, nên thay từ " tờ " bằng từ " đồng ".
Ví dụ 3:
" Nếu ở huyện chỉ có 9 hội thi và hội diễn nghệ thuật, nhưng ở các thôn xã đã tổ
chức hơn 120 lượt biểu diễn văn nghệ ( hoàn toàn bằng kinh phí quyên góp ) ".
Trong tiếng Việt, quan hệ từ " nếu " luôn đi với quan hệ từ " thì " tạo thành một
cặp hô ứng. Còn nếu dùng quan hệ từ " nhưng " thì ở vế câu phía trước phải có
quan hệ từ cùng cặp với nó là " tuy ". Xét theo văn cảnh cụ thể của trường hợp
này, có thể đưa ra hai cách chữa như sau:
- Nếu ở huyện chỉ có 9 hội thi và hội diễn nghệ thuật, thì ở các thôn xã đã tổ
chức hơn 120 lượt biểu diễn văn nghệ.
- Trong khi ở huyện chỉ có 9 hội thi và hội diễn nghệ thuật, thì ở các thôn xã đã
tổ chức hơn 120 lượt biểu diễn văn nghệ.
Ví dụ 4:
" Ngày mai là mùa mưa ".
146
" Mùa mưa " là cả một quá trình dài, gồm nhiều ngày ( thậm chí nhiều tháng ),
trong khi đó " ngày mai " chỉ là một ngày ngắn ngủi thì làm sao có thể bao quát
được toàn bộ quá trình đó? Có thể chữa câu trên thành: " Sắp tới là mùa mưa "
hoặc " Ngày mai là bắt đầu mùa mưa ".
Ví dụ 5:
" Đây là một trong những tỉnh duy nhất nhìn thấy mặt trời lặn về phía biển ".
" Duy nhất " có nghĩa là chỉ có một, cho nên nó không thể kết hợp với từ "
những " vốn dùng để chỉ số nhiều. Cách chữa đơn giản là lược bớt cụm từ " một
trong những ":
" Đây là tỉnh duy nhất nhìn thấy mặt trời lặn về phía biển ".
4. Lỗi về lặp từ
Cần nói ngay rằng đây không phải là sự lặp từ có chủ ý nhằm liên kết câu hay
tăng cường tính biểu cảm, mà là sự lặp từ do tác giả có sơ suất hoặc chưa thực sự
làm chủ được ngòi bút của mình. Và sự lặp từ như vậy làm cho ngôn ngữ của tác
giả trở nên dài dòng tới mức dư thừa, gây cản trở cho sự tiếp nhận của người nghe,
người đọc.
Hay gặp hơn cả là những trường hợp sử dụng trong cùng một câu những từ
đồng nghĩa, gần nghĩa làm thành phần đồng chức.
Ví dụ 1:
" Những cuộc cải cách này tỏ ra có hiệu quả và tác dụng ".
" Hiệu quả " và " tác dụng " có ý nghĩa tương tự như nhau.
Ví dụ 2:
" Do Gorrila sống trên một trong những vùng đất màu mỡ nhất của châu Phi,
bị bao quanh bởi những làng mạc nơi có nhiều cư dân sinh sống, nên nhu cầu đòi
hỏi mở rộng diện tích canh tác ngày một tăng đã đã ảnh hưởng tác động đến cuộc
sống của loài động vật này ".
" Nhu cầu - đòi hỏi " và " ảnh hưởng - tác động " là hai cặp từ đồng nghĩa.
Ví dụ 3:
" Anh đã dũng cảm nhảy xuống dòng nước xiết cứu sống 4 em học sinh thoát
chết ".
147
" Sống " và " thoát chết " trong câu văn này cùng thể hiện một ý nghĩa.
Để chữa kiểu lỗi trên chỉ cần làm một động tác rất đơn giản là loại bỏ một trong
hai thành tố đồng nghĩa ( nếu các thành tố đồng nghĩa nhiều hơn hai, cũng chỉ giữ
lại một ).
Bên cạnh đó, chúng ta còn gặp cả những hiện tượng lặp đi lặp lại cùng một từ
( trong phạm vi câu cũng như trong phạm vi đoạn văn ).
Ví dụ 1:
"Nhưng có một điều ngạc nhiên, những đối tượng vẽ bậy lên các di tích không ít
người là người có văn hoá và có trình độ, nhưng lại thiếu ý thức".
Để tránh lặp lại từ " người "và làm cho ý tưởng tác giả trở nên rõ ràng hơn,
chúng ta nên viết lại câu văn trên như sau:
"Nhưng có điều đáng ngạc nhiên là: trong số những đối tượng vẽ bậy lên các di
tích, không ít người có trình độ, nhưng lại thiếu ý thức".
Ví dụ 2:
" Theo những kết quả nghiên cứu sơ bộ của một nghiên cứu lớn mới đây, việc
bổ sung vitamin A tiền sản sẽ góp phần làm giảm tổn thất to lớn này".
Từ " nghiên cứu " đầu tiên rõ ràng là thừa, cần được lược bớt.
Ví dụ 3:
" Năm ấy, Quang Dũng đọc cho Trần Lê Văn nghe mấy bài thơ vừa sáng tác
xong, Quang Dũng nói với Trần Lê Văn cho Quang Dũng mượn cuốn sổ tay để
ghi mấy bài thơ vào. Trần Lê văn vui vẻ chiều ý Quang Dũng... ".
Sự lặp đi lặp lại quá nhiều lần những cái tên riêng như trên, dù có xuất phát từ
chủ ý của người viết, vẫn gây cảm giác là anh ta có vốn từ vựng nghèo nàn. Theo
chúng tôi, nếu ở đoạn văn này tác giả không muốn dùng các đại từ để thay thế cho
tên riêng, thì ít nhất cũng nên cấu trúc lại câu cho ngắn gọn như sau:
"Năm ấy, sau khi đọc cho Trần Lê Văn nghe mấy bài thơ mình vừa sáng tác,
Quang Dũng nói với Trần lê Văn cho mượn cuốn sổ tay để ghi chúng vào. Trần
Lê văn vui vẻ chiều ý Quang Dũng".
148
Bàn về sự cần thiết phải sử dụng từ ngữ chính xác, nhà văn Mỹ nổi tiếng Mark
Twain viết: "Sự khác nhau giữa một từ chính xác và một từ gần chính xác cũng
giống như là sự khác nhau giữa tia chớp và con đom đóm"5 . Nếu thế thì sự khác
biệt về giá trị giữa một từ đúng và một từ sai còn to lớn hơn nhiều. Và điều này
cũng có nghĩa là hậu quả do việc dùng từ không đúng gây ra nhiều khi khó mà
hình dung nổi.Vậy nên mỗi người cầm bút cần luôn tỉnh táo và thận trọng để hạn
chế tối đa những hạt sạn không đáng có như chúng tôi vừa trình bày trên đây.
Chú thích
1, 2, 4. Từ điển tiếng Việt, ( Hoàng Phê chủ biên ), NXB. Đà Nẵng, 2001. 3. Nguyễn Như Ý ( chủ biên ), Đại từ điển tiếng Việt, NXB. Văn hoá - Thông
tin, H., 1999. 5. Dẫn theo: A. N. Voskoboinhicov và I. G. Yuriev, Nhà báo và thông tin, M.,
1993, tr. 195 ( bằng tiếng Nga ).
( Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 2 / 1999 )
149
NHỮNG HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐƯA SỐ LIỆU TRÊN BÁO CHÍ
Có thể nói, hiện nay số liệu đã trở thành một phần không thể thiếu của hầu
hết các tác phẩm báo chí. Sự hiện diện của những con số trong một bài viết vừa
giúp người đọc hình dung rõ ràng, cụ thể hơn về vấn đề, sự việc, hiện tượng,...
được đề cập lại vừa làm gia tăng độ xác thực và tính thuyết phục của thông tin:
chúng tạo cho độc giả cảm giác là người viết đã khảo sát những gì mình phản ánh
một cách kỹ lưỡng, công phu và tiếp xúc với những nguồn tin đáng tin cậy. Tuy
nhiên, việc sử dụng số liệu trên báo chí vẫn còn mắc phải không ít những hạn chế.
1. Hình thức thể hiện số liệu không nhất quán
Số liệu trên báo chí có thể tồn tại dưới hai dạng thức là con số và chữ. Riêng
con số lại bao gồm khá nhiều kiểu: số tương đối, số tuyệt đối, số thập phân, ...Và
chính cái sự đa dạng như vậy về mặt hình thức thể hiện của số liệu đã làm cho
không ít nhà báo mắc phải lỗi không nhất quán trong việc trình bày chúng. Chẳng
hạn, trong cùng một bối cảnh:
a, Khi thì dùng dạng chữ, khi thì dùng dạng số. Ví dụ:
" Như vậy, mỗi con chó nuôi kiểu " công nghiệp " cũng có thể lên tới mỗi tháng
4 kg, tính sơ sơ mỗi con lãi từ 40 - 60 ngàn đồng/ tháng. Gia đình ông N. H. Đ. ở
Cầu Khâu - Thanh Oai - Hà Tây có thu nhập 200.000 đ/ tháng mà rất nhàn... ";
" - Chị thu nhập một ngày được khoảng bao nhiêu?
- Khá được mươi ngàn, trung bình từ 5 - 7000 đồng...
- Giá lynon bao nhiêu một kg?
- Từ một ngàn tới một ngàn hai trăm đồng. ".
b, Đang dùng số tuyệt đối lại chuyển sang dùng số tương đối hay ngược
lại. Ví dụ:
150
" Ở Nhật Bản, phụ nữ dành thời gian cho những việc không tên, nhiều hơn
chín lần so với nam giới. ở I-ta-li-a, nhiều hơn 28%, Áo ( 12% ) và Pháp 11% ".
2. Đưa số liệu không chính xác
Dạng lỗi này có liên quan tới hai nguyên nhân cơ bản sau đây:
a, Nguồn cung cấp thông tin sai
Những trường hợp kiểu này gặp khá nhiều trong thực tiễn báo chí. Nhà báo
sau khi nhận được số liệu từ một nguồn nào đó, đã vội vã đưa ngay lên mặt báo mà
không tiến hành kiểm chứng một cách kỹ càng và chắc chắn độ tin cậy của nó. Và
đây là lý do khiến cho công chúng đôi lúc không biết định hướng lòng tin của mình
vào ai khi về cùng một sự việc, về cùng một đối tượng, mỗi báo đưa ra một số liệu
khác nhau ( chẳng hạn về thời điểm diễn ra một vụ hoả hoạn có báo viết là 14 giờ,
báo khác viết: 13 giờ 20 phút, báo thứ ba viết: 15 giờ; rồi về dân số Việt Nam năm
1997 có báo viết là 71 triệu người, báo khác viết: 74 triệu người, báo khác nữa lại
viết: 77 triệu người, v. v. ).
b, Nhà báo tính toán không đúng
Không ít số liệu được đưa lên mặt báo là kết quả của sự tính toán của chính
người cầm bút. Vì lẽ đó, chỉ cần anh ta thiếu cẩn trọng một chút hoặc không thông
thạo lắm các phép tính của toán học là số liệu đã có thể bị sai lệch so với thực tế.
Ví dụ:
" Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 1999, Phúc Tân đã bắt giữ 34 vụ với 48
đối tượng bán lẻ hêrôin. So với cùng kỳ năm trước con số này tăng lên 16 vụ và
bằng 400 % . "
Căn cứ vào các dữ kiện đã có sẵn thì rõ ràng số vụ buôn bán ma tuý mà Phúc
Tân bắt được vào năm trước là 18 vụ ( 34 - 16 ). Như vậy thì 34 vụ ( năm 1999 )
so với 18 vụ ( năm trước ) chỉ bằng xấp xỉ 190% chứ làm sao bằng được 400%
như tác giả tính toán?
" ... trong vòng 3 năm 3 tháng 9 ngày, người ta thống kê được tổng cộng 405
con thú rừng đã chết trước bàn tay ngoéo cò của ông. Bình quân mỗi tháng một
sinh linh của rừng phải nộp mạng cho ông. "
151
Một phép tính nhẩm cũng cho thấy ngay rằng 3 năm 3 tháng tương đương
với 39 tháng. Như thế thì mỗi tháng phải có hơn 10 con thú rừng bị chết trước mũi
súng của ông chứ không thể chỉ là 1 con.
Việc đưa số liệu không chính xác trong những tình huống nhất định có thể
gây ra những hậu quả nghiêm trọng vì sự thật khách quan đã bị bóp méo ( như về
doanh thu, lời lãi, thua lỗ của doanh nghiệp; hay về sự tham nhũng, đưa hối lộ,
nhận hối lộ của cán bộ, công chức,...). Do vậy, các nhà báo cần hết sức tỉnh táo và
thận trọng để hạn chế tới mức thấp nhất dạng lỗi này.
3. Lạm dụng số liệu
Số liệu là minh chứng đặc biệt quan trọng đối với lập luận trong tác phẩm
báo chí. Tuy nhiên, sự hiện diện của quá nhiều số liệu trong một ngữ đoạn dễ làm
cho người đọc có cảm giác nặng nề, khó tiếp nhận, nhất là khi chúng liên quan tới
những lĩnh vực mà họ không am tường hay quan tâm. Vì lẽ đó, nhà báo cần lựa
chọn kỹ càng để chỉ đưa ra một liều lượng vừa phải những con số tiêu biểu nhất, có
sức nặng hơn cả về mặt thông tin.
Dưới đây là hai ví dụ về việc lạm dụng số liệu:
" Đến nay, điện lưới quốc gia đã được đưa đến toàn bộ 61 tỉnh và thành
phố. 100% số huyện đã có điện ( trong đó 469/491 huyện có điện lưới, đạt tỉ lệ
95,5%, còn 13 huyện miền núi và 9 huyện đảo đều được lắp đặt các trạm đi-ê-den
hoặc thuỷ điện nhỏ); 6862/8894 xã có điện, đạt tỉ lệ 68,1%. Sản lượng điện sản
xuất bình quân đầu người năm 1999 đạt hơn 320 kw giờ. Tổng vốn đầu tư trong 5
năm qua đạt ước tính gần 40 nghìn tỉ đồng ".1
" Số liệu thống kê cho thấy sản lượng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long là 5
triệu tấn năm 1990, 4,5 triệu tấn năm 91. Trong năm 1994 chỉ còn 2,5 triệu tấn
giảm 50% so với năm 90. Khuynh hướng suy thoái đó cũng tương tự trong sản
xuất cà phê. Số liệu cho thấy năm 90 là 2 triệu tấn, năm 91 là 1,5 triệu tấn giảm
25% so với năm trước ...".2
Nếu như trong báo in việc sử dụng quá nhiều số liệu đã là không nên thì
trong báo phát thanh và truyền hình điều này lại càng cần phải tránh. Nguyên do là
bởi ở phát thanh và truyền hình người nghe phải tiếp nhận và lĩnh hội thông tin
152
một cách tức thời ( nghĩa là họ không có khả năng quay lại với những gì mình
nghe không rõ ), vì thế khi bị các con số làm phân tán tư tưởng họ rất dễ bỏ qua
các thông tin kế tiếp.
Khi số liệu trong bài viết đã nhiều mà chúng lại được đưa ra dưới dạng
chính xác tuyệt đối thì việc lĩnh hội thông tin của độc giả lại càng khó khăn. Có lẽ
ít ai lại không thấy ngại ngần khi phải đọc những con số kiểu 257. 365. 728. 000 đ;
126,745%, v. v. Tất nhiên, trong một số lĩnh vực như giá cả, tỉ lệ lãi suất ngân
hàng, ... sự chính xác như trên là cần thiết; song trong đại đa số các tình huống
giao tiếp khác, người đọc sẽ thấy dễ chịu hơn với những kiểu nói " làm tròn " vừa
hạn chế sự có mặt của các con số khô khan, vừa giúp họ dễ hình dung giá trị thực
của chúng, như: gần một nửa, khoảng 70%, xấp xỉ 2/3, ước chừng 250 tỉ, ...
4. Đưa số liệu mà không có căn cứ để so sánh
Số liệu chỉ có ý nghĩa đích thực khi được đặt trong sự đối chiếu, so sánh.
Còn nếu đứng một mình, chúng hầu như không có giá trị thông tin, thậm chí còn
gây cản trở cho quá trình nhận thức của đối tượng tiếp nhận.Trong một số trường
hợp, căn cứ để đối chiếu so sánh có thể do độc giả tự tìm ra. Chẳng hạn, những con
số như 100 nghìn đồng hay 10 triệu đồng sẽ được so với lương tháng hay các vật
dụng thường gặp trong gia đình ( xe máy, ti vi, tủ lạnh, đièu hoà không khí,..). Tuy
nhiên, trong đa phần các trường hợp khác, nếu người viết không trực tiếp đưa ra
căn cứ để so sánh thì số liệu của anh ta, cho dù có là kết quả của sự kiếm tìm công
phu đến mấy, vẫn rất dễ bị bỏ qua hoặc ít nhất cũng không có tác dụng như mong
muốn.
Ví dụ:
" Thành phố Hồ Chí Minh chi 15.000 tỉ đồng xây nhà cho người có thu nhập
thấp ".
Rõ ràng 15.000 tỉ đồng là một số tiền rất lớn. Nhưng thực chất nó là bao
nhiêu? Muốn làm nổi bật giá trị của số tiền này, trước hết cần phải chỉ rõ số căn
nhà, số mét vuông diện tích sẽ được xây dựng, và thậm chí cả số người có thể cư
trú ở đó; rồi trên cơ sở ấy, nêu ra tỷ lệ phần trăm những người thu nhập thấp có
nhu cầu về nhà ở sẽ được đáp ứng.
153
Tương tự, các con số trong những ví dụ sau đây cũng có rất ít giá trị thông
tin vì chúng không được đặt trong quan hệ đối chiếu so sánh:
" Ngành giao thông vận tải ứng thêm 2000 tỉ đồng để xây dựng các công
trình ";
" Năm qua, tỉnh Hoà Bình đã trồng mới được 150 ha rừng ".
Có lẽ, chỉ có các chuyên gia trong ngành xây dựng mới nhìn ra được giá trị
cụ thể của 2000 tỉ đồng và cũng chỉ có những người có liên quan trực tiếp tới
ngành lâm nghiệp mới cảm nhận được 150 ha rừng là con số nhỏ hay to.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là các số liệu được đưa ra để đối chiếu so sánh
phải nằm trong những hoàn cảnh giống nhau. Có thể so sánh lương của một vị bộ
trưởng và một vị giáo sư ở cùng một quốc gia, nhưng sẽ là vô nghĩa nếu so sánh
lương của một người quản lý nhà băng ở Nhật với đồng nghiệp của anh ta ở Thái
Lan mà không căn cứ vào điều kiện sống cụ thể ở hai nước này.
Như vậy, qua những điều đã trình bày trên đây, có thể khẳng định rằng việc
đưa số liệu trên báo chí không phải là vấn đề đơn giản như nhiều người vẫn nghĩ.
Muốn thật sự chinh phục được công chúng, những con số của nhà báo cần phải vừa
chính xác, vừa có tính thẩm mỹ lại vừa có giá trị thông tin cao.
------------------------------------------------
154
1 Dẫn theo Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB. Đại học Quốc gia, H.,
2001, tr. 159.
2 Dẫn theo Trần Ngọc Châu, 10 nguyên tắc trong viết tin kinh tế, trong: Báo chí
- những điểm nhìn từ thực tiễn, T. 2, NXB. Văn hoá - Thông tin, H., 2001, tr.142.
PHỤ LỤC
Trong phần Phụ lục, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chương
viết về ngôn ngữ báo chí trong cuốn " Nhà báo và Thông tin " của các tác giả A.
N. Voscoboinhicop và I. G. Yuriev do chúng tôi dịch từ nguyên bản tiếng Nga.
NGÔN NGỮ BÁO CHÍ DƯỚI GÓC NHÌN CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP
Ngôn ngữ của các tác phẩm báo chí phải mang được ý nghĩa của chúng tới cho
công chúng vô cùng đa dạng. Ranh giới của công chúng này trải dài từ cái mà
người ta gọi là sự biết chữ sơ đẳng cho đến việc thông thạo hoàn toàn và có nhận
thức tiếng mẹ đẻ với tất cả các sắc thái của nó. Nhiệm vụ của người biên tập là
phải làm cho ý nghĩa của các bài viết trở nên dễ hiểu trên tất cả các cấp độ đó. Nếu
chỉ có sự chính xác về sự kiện không thôi thì hãy còn chưa đủ, cần phải có thêm cả
phong cách trình bày rõ ràng, mạch lạc. Và về phương diện này thì cấu trúc không
chỉ của cả bài viết, mà còn của từng câu, rồi việc lựa chọn đúng từ là hết sức quan
trọng.
Vậy biên tập viên phải hiểu thấu đáo các chi tiết tỉ mỉ về ngữ pháp, cú pháp
và phong cách để trong trường hợp cần thiết có thể cải thiện ngôn ngữ văn bản của
tác giả. Anh ta phải có khả năng trong lúc vội vã vẫn tìm ra và sửa chữa được tất cả
các câu, từ kém chất lượng. Nếu xuất hiện những nghi ngờ nào đó về chính tả, anh
ta có thể dùng từ điển chính tả để tra cứu. Nhưng lại chẳng có sự chỉ dẫn nào nhằm
giúp người ta định hướng được trong ý nghĩa của bài viết. Vấn đề không chỉ ở chỗ
155
là ý nghĩa đó phải dễ hiểu đối với chính người biên tập, về mặt này, trước hết
chúng ta cần nói tới độc giả là người thường được trang bị kém cỏi hơn nhiều.
1. Tác giả muốn nói gì ?
Liệu tác giả có trình bày được những điều mình muốn nói một cách rành
mạch, rõ ràng? Hầu như lần này cũng vậy, mỗi khi biên tập viên nhận được một
tài liệu mới là câu hỏi đó lại xuất hiện trước anh ta. Rồi một lần khác, sau khi kết
thúc sự làm quen đầu tiên với bài viết, anh ta nghĩ ngợi: có vẻ như tất cả đều ổn,
nhưng có một cái gì đó còn gây nghi hoặc.
Người biên tập, nhất là người mới vào nghề, hiếm khi là chuyên gia về đề tài
của tất cả mọi tài liệu mà anh ta phải xử lý. Vì vậy, trong trường hợp nghi ngờ,
anh ta không phải lúc nào cũng có thể khẳng định một cách chắc chắn là tác giả đã
nhầm lẫn hay sai sót ở đâu và như thế nào. Thế nhưng, kể cả nếu tác giả là người
khá thông thạo mọi thứ, một thoáng nghi ngờ thường vẫn cứ là dấu hiệu rằng " ở
đây có một cái gì đó không ổn ". Còn nếu chính người biên tập lại không suy xét
nổi là có chuyện gì thì các độc giả đã phải đặt ra đủ thứ câu hỏi từ lâu.
Trong thực tế, chẳng cần phải là chuyên gia về một vấn đề nào cũng có thể
nhận thấy được tác giả đã trình bày nó có đạt hay không. Chẳng hạn như người
biên tập có thể tìm thấy những mâu thuân giữa các phần của nó, sự hơn trội của
những chỗ nói chung chung đối với những sự việc cụ thể, sự thiếu rành mạch về
diễn đạt hay thậm chí chỉ đơn giản là sự nhầm lẫn về từ ngữ. Đây đã đủ là những
dấu hiệu đáng lo ngại và anh ta cần phải bàn luận cùng tác giả về tất cả những chỗ
đáng ngờ.
Cuộc nói chuyện có khả năng hơn cả sẽ dẫn đến kết cục là bài viết được trả lại
cho tác giả để anh ta hoàn tất nó. Chính người biên tập cần phải tránh việc sửa
chữa những chỗ còn nghi ngờ. Chỉ trong trường hợp tuyệt đối tin tưởng vào sự
đúng đắn của mình và có chỗ dựa là những nguồn đáng tin cậy, anh ta mới có
quyền cho phép mình đưa vào văn bản những thay đổi nào đó. Nhưng ngay cả
trong trường hợp này cũng phải báo cho tác giả biết về những sửa đổi, bổ sung.
Đó là những nguyên tắc vỡ lòng mà trong các cuốn sách giáo khoa về báo chí ở
dạng này hay dạng khác người ta vẫn giới thiệu cho các biên tập viên mới vào
156
nghề. Nhưng những lời giới thiệu chỉ có giá trị nếu các tác giả viết " theo luật ",
tức là họ đã được làm quen với các yêu cầu của " sáu câu hỏi và hình tháp quay
ngược " và các bài " vỡ lòng " khác trong việc phát tin. Song cũng không phải là
do tình cờ mà người ta nói " phi ngoại lệ bất thành qui tắc ". Và với ý nghĩa như
vậy thì hầu như trong bất cứ một tài liệu nào cũng có những ngoại lệ của mình.
Vẫn những " bài học vỡ lòng " đó nói rằng, sự tuân thủ các qui tắc một cách mù
quáng có thể dẫn đến sự hạn chế hay triệt tiêu tính chất muôn màu muôn vẻ trong
việc đăng tải tin, bài của các tác giả khác nhau. Việc biên tập như vậy sẽ bóp chết
những nét nổi bật nhất trong phong cách cá nhân của mỗi tác giả ( nếu như chúng
có ) và dễ làm cho các trang báo thật đơn điệu buồn tẻ.
Như thế có nghĩa là sự phục tùng các qui tắc một cách thiếu cân nhắc, dẫu cho
các qui tắc đó có hợp lý nhất đi chăng nữa, không được phép trở thành mục đích
cuối cùng của công việc biên tập. Nhiệm vụ của người biên tập là giúp tác giả đưa
bài viết của mình đến một trạng thái " cần thiết ", nếu như nó có " một cái gì đó
chưa ổn ". Trong đa số các trường hợp, để làm điều này cần phải hết sức chú ý tới
các sự kiện trong tác phẩm: lôgic của việc chuyển tiếp là phải phát triển làm sao
để cho độc giả không có những câu hỏi thắc mắc, để trong quá trình đọc, anh ta
không phải gặp hàng đống những cách nói phức tạp hay những từ ngữ khó hiểu,
mà chỉ thấy một con đường thông suốt dẫn đến việc cảm thụ được ý nghĩa của cái
mà tác giả muốn nói.
Một bài viết rõ ràng về ý nghĩa và được viết đúng văn phạm là rất dễ đọc, nếu
trong một câu, chẳng hạn như là thời động từ bị viết sai, mà sau khi người biên tập
chữa nó đã trở nên đúng về mặt ngữ pháp, nhưng đồng thời cũng thành khó hiểu
hơn, thì rõ ràng là chưa được. Anh ta phải tìm ra cách nào đó để câu ấy vừa thể
hiện đúng ý tác giả, vừa đúng ngữ pháp, vừa dễ đọc. Có nghĩa là người biên tập
phải bảo đảm làm sao để cả ý nghĩa chung của tài liệu, cả các chi tiết của nó, được
trình bày một cách rõ ràng và được độc giả hiểu đúng.
Để cho việc diễn đạt trở nên rõ ràng hơn, và có ý nghĩa là để cho độc giả thuận
lợi hơn khi đọc, người ta hay dùng phụ đề. Chúng tựa như những cái mốc mà dựa
vào đó, người ta có thể đọc các văn bản dài dễ dàng hơn. Ở trong những cái mốc
157
này, người ta thường đánh dấu những phương hướng chính về ý nghĩa hay đề tài
trong nội dung thông tin.
Trong nhiều chỗ khác nhau của cuốn sách này, chúng tôi đã nói rằng tính chất
rõ ràng của việc trình bày phụ thuộc khá nhiều vào sự phân đoạn văn bản. Cái này
quan trọng hơn đối với tất cả các loại bài, nhưng đặc biệt lá đối với thông báo tin
tức, vì ở đó các đoạn văn dài rất bị kiêng kị. Các đoạn văn dài sẽ là hợp lý nếu
nằm trong các cuốn sách hay là tạp chí, là những thứ thường được người ta đọc
trong hoàn cảnh điềm tĩnh hơn. Nhưng ở trên trang báo, trông chúng thật cồng
kềnh, độc giả có thể bị nhầm lẫn trong một dãy câu dày đặc và thậm chí bị lạc mất
cái chỗ là nơi anh ta dừng lại và bị xao nhãng bởi một điều gì dó.
Ở đây chúng ta có thể đưa ra sự so sánh với dòng điện: cường độ dòng điện tỷ
lệ thuận với hiệu điện thế và tỷ lệ nghịch với điện trở mà nó gặp trên đường.
Trong bất kỳ tài liệu nào mà nhà báo chuẩn bị cho đăng, cần phải dọn sạch mọi
thứ “ điện trở “ gây khó khăn cho việc đọc. Một trong những điện trở như vậy
chính là những đoạn văn quá dài.
Người biên tập gặp không ít vấn đề cả với những thuật ngữ chuyên ngành -
chúng cũng có thể trở thành “ điện trở “. Nếu tác giả là người viết cho các báo đại
chúng thì anh ta phải hết sức thận trọng đối với chúng -phải nghĩ xem là một độc
giả “ tầm tầm bậc trung “ có thể hiểu nổi chúng hay không. Nếu như tác giả đã bỏ
qua khía cạnh này thì người biên tập cần phải lo để tìm ra những từ phù hợp mà có
thể thay thế cho thuật ngữ này hay thuật ngữ khác. Nếu việc thay thế không thể
làm nổi thì nhất thiết phải đưa ra lời giải thích ngắn gọn, dễ hiểu về ý nghĩa của
nó.
Các quan niệm của con người về sự " hư ảo " trong thế giới xung quanh họ phụ
thuộc không chỉ vào các dịnh hướng về cuộc sống, mà còn vào thông tin thực tế
mà họ nhận được. Mà thông tin đó đôi lúc lại hết sức mâu thuẫn vì nó đến từ các
nguồn khác nhau.
Chính vì vậy mà vai trò của những khả năng bao quát toàn diện là rất lớn -
thông tin như được " trải ra trên mặt bằng ", các sự việc cụ thể được tổng hợp lại
thành các khái niệm trừu tượng. Không có những sự khái quát như thế, con người
158
đơn giản là không thể nhận được bức tranh đầy đủ về cuộc sống của thế giới xung
quanh. Nhiệm vụ của người biên tập ở chỗ là làm sao để bảo đảm cho các bài báo
có sự cân bằng khả quan nhất giữa cái cụ thể và cái trừu tượng.
Néu tác giả không có khái niệm rõ ràng về cái mà anh ta muốn nói với độc giả,
anh ta thường cố nguỵ trang cho sự thiếu rõ ràng đó bằng một loạt những suy luận
chung chung theo khuôn mẫu có sẵn. Nhưng ngay cả trong trường hợp mà tác giả
hiểu thấu đáo cái anh ta định viết thì các ý tưởng của anh ta vẫn cứ được diễn đạt
dưới hình thức trừu tượng và bị phức tạp hoá tới mức độc giả không thể nào
chuyển được ý nghĩa của chúng vào phạm vi kinh nghiệm sống của chính bản thân
mình.
Việc xác định ý nghĩa của sự trừu tượng trong diễn đạt thông tin với những nội
dung đa dạng nhất đã được không ít các công trình nghiên cứu về lý thuyết và ứng
dụng đề cập tới. Nếu áp dụng vào báo chí, các kết quả của những công trình đó có
thể được trình bày một cách tóm tắt như sau:
Bất cứ một ý tưởng nào, không phụ thuộc vào việc chúng đơn giản hay phức
tạp, cũng sẽ được độc giả hiểu dễ dàng hơn nhiều nếu nó được đưa ra không phải
là qua các suy luận chung chung trừu tượng, mà là được chuyển vào bề mặt của
các kiến thức thực tế được đông đảo người biết hay các tình huống cụ thể của
cuộc sống: từ câu chuyện về những bận rộn hàng ngày của các thị trấn và những
người dân ở đó cho đến việc giải thích các sự kiện và vấn đề của đời sống quốc tế.
Ngôn ngữ trong tờ báo, nhất là trong thông báo tin tức, về mặt phong cách, rõ
ràng là phải gần với ngôn ngữ đàm thoại hơn là với ngôn ngữ viết. Nó có thể so
sánh với một cuộc đàm thoại thú vị của một người kể chuyện tài ba. Một nhà báo
có kinh nghiệm có thể kể về những sự việc phức tạp nhất bằng ngôn ngữ rất giản
đơn.
Dưới đây là một ví dụ về thông tin đề cập tới các vấn đề kinh tế của Ấn Độ ở
một thời không xa lắm, được trình bày khá thành công. Bài viết về đề tài này,
phóng viên của báo " New York Time " thường trú tại New Delhi bắt đầu như sau:
" Trên bàn làm việc của Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ có một chiếc cặp giấy
mỏng màu vàng. Đó là bản báo cáo đã được chuẩn bị kỹ càng mà như ông nói
159
trong cuộc đàm thoại với chúng tôi, Chính phủ không muốn sử dụng, nhưng vẫn
lo ngại là rồi sẽ phải làm điều đó. Ông T. T. Krisnamakhari, nhà hoạt động chính
trị và nhà doanh nghiệp nổi danh trong giới thương gia của đất nước, khi ngồi
trước chiếc bàn làm việc ấy, đã cầm chiếc cặp giấy lên tay như áng thử mức nặng
nhẹ của nó.
" Tôi đã chuẩn bị bản báo cáo đó suốt 3 tháng, ông nói tiếp. Đây là lần cuối tôi
nói với các đồng nghiệp của mình về những cái mà đất nước chúng tôi có thể làm
được cũng như không thể làm được, nếu như sắp tới nó không nhận được viện trợ
nước ngoài ".
Sau cái Lead này, cả bài báo được đưa ra cũng hết sức sống động, mặc dù nếu
rơi vào tay tác giả khác nó rất có thể đã trở thành một văn bản tẻ nhạt. Khi nhà
báo tìm thấy nhưng chi tiết nổi bật nhất của cái đang xảy ra, anh ta sẽ giúp cho
độc giả có được cảm giác là mình đang ở chỗ diễn ra sự kiện và hiểu rõ hơn ý
nghĩa của nó. Nói cách khác, trong thông báo tin tức luôn cần ưu cái cụ thể hơn là
cái trừu tượng.
2. Hãy chú ý tới từng từ một
Nhà văn Mark Twain có lần nhận xét: " Sự khác nhau giữa một từ chính xác và
một từ gần chính xác cũng giống như là sự khác nhau giữa tia chớp và con đom
đóm ". Thế nhưng vấn đề không chỉ ở trong tính chất biểu cảm của từ ngữ, mà còn
ở chỗ là nó khó hoặc dễ hiểu đến đâu, tức là đa số độc giả có thể đánh giá cái tính
chất biểu cảm đó đến mức nào. Có nghĩa là việc biết cách lựa chọn những từ, tập
hợp từ rồi kiểu nói thành công hơn cả để diễn tả các ý tưởng của mình một cách
chính xác và rõ ràng, cũng như để có một phong cách trình bày rành mạch và dễ
hiểu, đối với nhà báo có ý nghĩa quan trọng chẳng kém gì đối với nhà văn. Có bao
nhiêu từ cả thảy trong ngôn ngữ văn học? Trong cuốn từ điển chuẩn hiện đại của
tiếng Nga và tiếng Anh có chừg 50 - 60 nghìn từ. Đại văn hào Shakespeare trong
tất cả các tác phẩm của mình đã sử dụng hơn 10 nghìn từ. Lượng từ dự trữ của
một người có trình độ học vấn khá cao ít hơn nhiều. Bên cạnh đó, theo sự tính
toán của các chuyên gia, người ta chỉ sử dụng tích cực những từ mà họ biết và
hiểu, và những từ này chỉ chiếm khoảng 20% toàn bộ lượng từ dự trữ. Trong cuộc
160
sống hàng ngày, rất nhiều người, theo sự tính toán trên, chỉ dùng hết khoảng 2
nghìn từ.
Một từ càng gần với hiện thực quen thuộc của cuộc sống về mặt ý nghĩa, nó
càng dễ hiểu hơn và và được sử dụng nhiều hơn. đây chính là cơ sở chủ yếu để "
báo chí cho nhân dân " định hướng, còn trong các ấn phẩm cao cấp dành cho các
tầng lớp dân chúng có học vấn cao thì từ vựng, cả về mặt dung lượng, cả về mặt
đa dạng phong phú, lớn hơn nhiều. Như thế là đối với các loại độc giả khác nhau
đều cần có phong cách diễn đạt phù hợp với trình dộ của họ.
Trong một cuốn giáo trình thực hành về báo chí có nói rằng, người ta đã nhiều
lần thử soạn ra một lượng từ tối thiểu mà mà tất cả nhưng người đã tốt nghiệp phổ
thông đều biết. Chẳng hạn như ở đó có một từ rất ngắn là " ôm ". Thế nhung liệu
tất cả mọi người lớn mà tự cho mình là được học hành đến nơi đến chốn, giáo
trình bình luận, có đều nhớ rằng đó là đơn vị đo điện trở mà dòng điện gặp phải
trên đường đi của mình? Mỗi từ ít quen thuộc như vậy hay nói chung là khó hiểu
trong văn bản, có thể trở thành một loại " chướng ngại " gây khó khăn cho việc
đọc và hiểu.
Hãy thường xuyên xem từ điển, nhất là các cuốn từ điển về các từ đồng nghĩa,
giáo trình khuyên nhủ. Hãy để chúng trên bàn làm việc của mình và hãy sử dụng
chúng mỗi khi viết hay biên tập một cái gì đó. Chúng làm tăng khả năng sử dụng
từ của bạn tới hai, ba lần, và như vậy, bạn có thể chọn đúng được những từ mà về
mặt ý nghiã, chúng thể hiện các khía cạnh của các ý tưởng của bạn một cách chính
xác hơn cả. Trong mỗi câu, tất cả các từ phải tương xứng với nhau, và nhờ đó, tạo
ra nhịp điệu được phối hợp một cách hài hoà, làm cho văn bản dễ đọc và dễ hiểu
hơn.
Tấn nhiên, giáo trình tổng kết, tất cả những điều trên không phải lúc nào cũng
làm được dễ dàng - thậm chí đối với cả những nhà văn giàu kinh nghiệm. Nhưng
đó lại chính là cái mà độc giả có quyền chờ đợi ở bạn trong một bài phóng sự đơn
giản cũng như trong một bài báo nghiêm túc.
Tính hiệu quả của tác phẩm báo chí phụ thuộc nhiều vào sự giản đơn trong việc
trình bày thông tin. Vì vậy mà nguyện vọng của biên tập viên " tiết kiệm " không
161
chỉ về phương diện câu mà cả về phương diện từ, là điều hoàn toàn dễ hiểu.
Nhưng văn bản cũng không được phép bị dồn nén quá mức khiến cho trọng tải về
ý nghĩa của nó bị thuyên giảm hay là các phẩm chất về văn học của nó, nếu như
có, bị ảnh hưởng. Nhiệm vụ của người biên tập là giải thoát văn bản khỏi sự dài
dòng khiến cho người ta thêm khó hiểu cốt lõi của vấn đề, dù đó là trong chính trị
tầm cỡ hay trong đời thường.
Dưới đây là một tình huống khá điển hình, khi tác giả có " nhược điểm " là
thích quan trọng hoá mọi thông tin, kể cả những thông tin đơn giản nhất:
" Trường học Sheman đang có sự bức thiết về việc được sửa chữa ở quy mô
lớn. Trường học Flower - ngôi trường nằm ở phía bắc thành phố, có đầy đủ khả
nămg để tăng thêm số lượng học viên, mà như chúng tôi thấy, không kéo theo sự
cần thiết phải tăng thêm đội ngũ giáo viên, dù chỉ một người ".
Người biên tập dễ dàng lược bỏ khỏi cái đống những kiểu nói quan liêu naỳ
những từ ngữ không cần thiết, và kết quả là văn bản trở thành đơn giản và rõ ràng:
" Trường Sheman cần được tu sửa đáng kể. Trường Flower, nằm ở phía bắc
thành phố, có khả năng nhận thêm học sinh mà không cần phải tăng thêm giáo
viên ".
Rất nhiều khi, người biên tập phải chạm trán với sự thiên vị thái quá của tác giả
đối với việc sử dụng các cụm từ " quan trọng " khác nhau, nhằm " làm đẹp " cho
phong cách. Có thể là những cụm từ đó thích hợp với một bài bình luận chính trị,
nhưng chắc gì chúng đã thích hợp với những bản tin về thể thao, chẳng hạn như là
" cuộc gặp gỡ của các đội bóng ở cấp thượng đỉnh ", kể cả nếu cụm từ " ở cấp
thượng đỉnh " bạn có để trong ngoặc kép.
Nhiều sai sót về phong cách xuất hiện là do sử dụng từ không đúng, chẳng hạn
như là đưa những sự so sánh không phù hợp với ý nghĩa của từ. Sẽ là hợp lý nếu
nói về tiền cá cược trong câu sau: " Đảng Dân chủ trong cuộc đấu tranh nhằm
giành chính quyền trong cuộc bầu cử sắp tới đã một lần nữa tăng tiền đặt cược
sau khi đưa vào chương trình của mình những hứa hẹn mới ". Cuộc chạy đua
trước bầu cử thực tế là có thể so sánh với cuộc đua ngựa, là nơi người ta hay đặt
cược cho những người được sùng ái. Những vẫn chính từ đó lại trở thành bất hợp
162
lý trong tình huống thế này: " Ấn độ đang tăng tiền đặt cược cho cuộc chinh phục
đỉnh Everest ". Ở đây, Ấn độ chẳng có đặt cá cược gì sất, mà chỉ đơn giản là đưa
ra những nỗ lực mới nhằm chinh phục đỉnh núi cao nhất trên Trái đất này.
Những trường hợp sử dụng không đúng các từ mà có tính chất " hoàn toàn "
hay là ý nghĩa " tuyệt đối " kiểu như các từ " vâng " hoặc " không "cũng gây cho
người biên tập không ít phiền phức. Bởi vì không thể nào nói đựoc là " hơi có thai
" chẳng hạn. Những từ như thế không có các cấp so sánh tương đối cũng như
tuyệt đối. Ví dụ như từ " Optimalnyi " trong bản dịch từ tiếng Latinh có nghĩa là "
tốt nhất " tức là thuận lợi nhất hay phù hợp nhất. Thế nhưng trong các bài viết,
thậm chí cả bài của tác giả có trình độ, người ta vẫn gặp những cụm từ kiểu "
Samyi optimalnyi " ( dịch nguyên bản là" tốt nhất nhất " ) hay ngược lại "
Niedostatochno optimalyi " ( dịch nguyên bản là " chưa đủ tốt nhất " ).
Thuộc về phạm trù này còn có cấu trúc kiểu " Polnyi anshlag ". Mỗi tác giả,
nếu như anh ta không lười biếng trong việc xem từ điển, sẽ phải đọc thấy rằng từ "
anshlag " trong tiếng Đức có nghĩa là bản thông báo được treo ở chỗ dễ nhìn và
thường là ở quầy bán vé của nhà hát, với nội dung nói về việc toàn bộ số vé đã
bán hết. Vậy nên bổ sung thêm từ " polnyi " ( có nghĩa là " hoàn toàn " chẳng để
làm gì ).
Thêm một ví dụ nữa là từ gốc Latinh " Unique " - có nghĩa là có một không hai,
duy nhất, không lặp lại. Ấy thế mà hầu như ngày nào chúng ta cũng đọc hoặc
nghe thấy những cụm từ kiểu " pachti unicalnyi " ( dịch nguyên bản: gần như có
một không hai ) hay " naibôlee unicalnyi " ( dịch nguyên bản: có một không hai
nhất ). Mà thường thì trong những trường hợp như thế người ta nói không phải về
những hiện tượng có một không hai một cách đích thực, mà chỉ dơn giản là về
những cái gì đó đáng lưu ý.
Cụm từ " Vì kế hoạch còn chưa đuợc hoàn thành đủ mức, chúng tôi chưa nhận
được tiền đủ mức " nghe cũngchẳng kém phần lạ tai. Kết quả cuối cùng đã được
thể hiện rõ mà chẳng cần cái " đủ mức " mờ mịt đó. Rồi cả ví dụ sau đây đọc cũng
thấy khá mù mờ:
163
Do một cơn lũ lớn, toà nhà đã bị dịch chuyển ra khỏi vị trí của mình và nằm
gần như ngang bằng với mặt đất. Người ta lo ngại là nó sẽ bị phá huỷ hoàn toàn.
" Ngang bằng với mặt đất " diễn đạt tính triệt để của quá trình này. Theo thông
báo trên thì toà nhà " hầu như " đã bị tàn phá, song chưa phải là tất cả đã bị hư
hoại. Theo chúng tôi, thay vì " ngang bằng với mặt đất " nên viết là " bị hư hại
nghiêm trọng " - là câu thể hiện cái đã xảy ra chính xác hơn.
Cần chú ý đặc biệt tới những câu, từ sáo rỗng rập theo những cái khuôn có sẵn.
Nhiều cái trong chúng vẫn còn rất giàu sức sống và bám rễ vào trong ngôn ngữ
báo chí chắc tới mức một số tác giả hình như không viết nổi nếu thiếu chúng: "
Quan điểm của chúng tôi về vấn đề này là rõ ràng và mọi người đều biết " - và
tiếp đó là sự trình bày cụ thể cái quan điểm đó. Hoặc là " nguyên nhân từ chối
hiển nhiên tới mức chẳng cần có thêm bất cứ một lời bình luận nào " - ấy thế mà
ngay sau đó tác giả bắt đầu bình luận hết nguyên nhân này đến nguyên nhân khác.
Hoàn toàn có thể là cả về cái quan điểm mọi người đều biết và cả về các nguyên
nhân từ chối người ta đã thông báo nhiều lần trong báo chí, và bây giờ bỗng lại có
nhu cầu kể lại về những điều đó. Nếu vậy thì văn bản có thể bắt đầu như thế này
chẳng hạn: " Sẽ là đúng chỗ nếu nhắc lại hay đáng lưu ý là... ". đây cũng chính là
những khuôn mẫu hay được áp dụng, thế nhưng trong hoàn cảnh đó chúng còn
chứa đựng một chút lô gic nào đó. Tất nhiên là đối với các tài liệu như vậy còn có
thể có những kiểu " đột nhập " khác nữa nhằm thu hút sự chú ý của độc giả.
Một lần tờ " New York Time " đã đưa ra một bài viết của Ban biên tập với nhan
đề " Được nhiều người biết ra sao ? " mà trong đó họ chế nhạo những người
thường bắt đầu các bài viết của mình bằng những kiểu nói thô sơ như: Trong thực
tế, nói chung là viết làm gì về cái mà người ta đã biết rộng rãi? Sự hứng thú của
độc giả với thông tin sẽ bị thuyên giảm hay hoàn toàn mất đi chính vì cái kiểu "
đột nhập " như vậy.
Từ " rập khuôn " trong thời đại xếp chữ cho báo bằng tay được dùng để gọi các
cụm từ hay các kiểu nói mà hay gặp tới mức người ta phải chuẩn bị sẵn chúng để
tiết kiệm thời gian. Chúng được đúc vào kim loại theo từng dòng riêng biệt và lúc
cần thiết chỉ việc đưa vào bản sắp chữ. Người ta nói rằng cái được rập khuôn đầu
164
tiên là dòng chữ " một phụ nữ khả kính ". Từ bấy trở đi " những sự chuẩn bị sẵn "
kiểu như vậy bắt đầu có ý nghĩa là ngôn từ khuôn sáo, và nếu trước đây chúng
được sử dụng thường xuyên, thì bây giờ sự quan tâm người ta dành cho chúng "
phai nhạt " tới mức sự có mặt của chúng trong bài viết gây cho độc giả cảm giác
bực bội và mỉa mai nhiều hơn là thu hút được họ bằng một ý nghĩa thực nào đó.
Thế nhưng hầu như trong mỗi tờ báo vẫn còn các tác giả, mà nếu nói bằng
chính ngôn từ khuôn sáo của họ, với sự " bền bỉ đáng noi theo " đang nhìn vào các
từ rập khuôn bị phai nhạt bằng những " cặp mắt rộng mở " vì họ có "may mắn là
không được biết ", rằng cái lao động vinh quang đến vậy lại hoàn toàn không được
" cánh đồng báo chí " cần đến, mà điều này, " trước hết " , sẽ làm tổn hại đến uy
tín của chính các nhà báo. Vẫn nói bằng những ngôn từ khuôn sáo của họ thì "
phải nhấn mạnh một cách cương quyết ", rằng " những hành động rõ ràng không
chê vào đâu được " của người biên tập phải " chặn đứng một cách không thương
tiếc " bất cứ một biểu hiện nào của sự xâm phạm " không thể tha thứ như thế " tới
danh dự của một tờ báo mà biết giữ gìn, như " tất cả mọi người đều biết rõ ", sự
tôn trọng của độc giả.
Hoàn toàn có thể là có những cái nào đấy trong số các câu chữ rập khuôn được
liệt kê trên đây có giá trị nhất định trong một hoàn cảnh nào đó. Nhưng nếu chỉ
một từ rập khuôn mà được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh khác nhau thì cái giá trị
đó không tránh khỏi bị hạ thấp. " Sự trớ trêu số phận " của nhiều phát kiến khá
thành công của nhà báo chính ở chỗ, là sau khi đã trở thành " tài sản chung ",
chúng dần biến thành những từ rập khuôn bị quên lãng. Chúng " làm việc " một
thời gian nào đó, nhưng từ chỗ được sử dụng thường xuyên nhanh chóng bị già
cỗi và chết hẳn đối với độc giả.
Tất cả tai hoạ ở chỗ là các tác giả lười biếng hay bất tài lại vẫn tiếp tục sử dụng
những khuôn sáo như vậy để che đậy sự nghèo nàn về tư duy của mình và lợi
dụng các ý tưởng, khả năng quan sát cũng như sự uyên bác của người khác. Một
tác giả đã giận dữ thật sự khi người biên tập thường xuyên gạt bỏ trong bài viết
của anh ta những lối so sánh kiểu " như ánh nắng trong gọt sương ". Lần nào vị
tác giả đó cũng nóng nảy chứng minh rằng câu văn trên là " phát kiến " của riêng
165
anh ta, vì nó khác với câu đuợc thien hạ dùng quá nhiều là " như ánh nắng trong
giọt nước ".
Khi biên tập các bài viết dành cho giới độc giả đông đảo, cần lưu ý đặc biệt tới
các thuật ngữ và cấu trúc vốn dược dùng trong một phạm vi chuyên môn hẹp nào
đó. Không được phép có ảo tưởng rằng, tất cả mọi người sẽ hiểu được chúng. Ấy
thế mà một tạp chí khoa học thường thức của thanh niên đã viết:
Ngày nay, mỗi học sinh đều biết rằng hippotalamus ( não giữa ) - đó không chỉ
là một phần của bộ não mà còn là toà giám mục quan trọg nhất của hệ thống thần
kinh trung ương.
Việc sử dụng cấu trúc rập khuôn " mỗi học sinh đều biết " ở đây chưa hẳnh đã
là xác đáng - bởi hoàn toàn không phải mỗi học sinh mà chỉ là những người đã
từng nghiên cứu môn giải phẫu. Nhân tiện, tất cả chúng ta đều có một thời học
dưới mái trường phổ thông, nhưng liệu có mấy cái trong số những gì không có
quan hệ với cuộc sống thường ngày của chúng ta còn đọng lại trong trí nhớ ? Mà
ngay cả cụm từ " toà giám mục quan trọng nhất " trong bối cảnh trên cũng hoàn
toàn không đúng chỗ.
Như chúng ta thấy, thậm chí không phải tất cả những người theo đạo đều biết
được về sự khác nhau giữa các toà giám mục thuộc các cấp khác nhau - đối với họ
thì thái độ với nhà thờ và đời sống của nó ở đâu cũng như nhau cả. Và chắc gì họ
đã suy nghĩ rằng các toà giám mục là các địa hạt hành chính của nhà thờ, và cấp
bậc của chúng được thiết lập theo nguyên tắc làãnh thổ chứ không phải theo mức
độ quan trọng. Truớc Chúa, họ nói, tất cả đều bình đẳng ở bất cứ toà giám mục
nào.
Ví dụ trên thêm một lần nữa khẳng định rằng người biên tập không được phép
bỏ qua những từ ít gặp mà đôi khi tác giả " đẩy " cho anh ta. Nếu có mộ sự nghi
ngờ, dù là nhỏ nhất, đặc biệt là khi từ ấy có cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng thì tốt
hơn hết là xem từ điển chứ đừng quá tin tưởng vào sự thông thạo của tác giả.
Việc sử dụng thiếu cân nhắc các từ có nguồn gốc nước ngoài kiểu như "
optimalnyi ", " universalnyi ", " anshlag " đã được nói ở trên, có thể mang đến
không ít những điều khó chịu bât ngờ. Sau đây là một vài ví dụ kiểu như vậy:
166
Một số tác giả sử dụng từ " alibi " với ý nghĩa là sự thanh minh, mặc dù trong
bản dịch từ tiếng Latinh, từ đó có ý nghĩa là " ở chỗ khác ". Trong luật học từ đó
được dùng để nói rằng kẻ bị tình nghi không có mặt ở chỗ xảy ra tội ác, tức là "
alibi " được đưa ra như là bằng chứng về sự ngoại phạm, chứ không phải với tính
chất là sự thanh minh.
Một tờ báo rát đáng kính bỗng làm hết thảy mọi độcc giả ngạc nhiên bởi cấu
trúc " autodefe bằngván trượt tuyết ", vì trong bài báo đó có kể rằng một gã xuẩn
ngốc do cạn nghĩ đã đốt lên một đống lửa bằng những chiếc ván trượt tuyết vẫn có
thể dùng được. Thế nhưng, bất cứ một cuốn từ điển nào cũng cho thấy rằng từ "
autodefe " trong bản dịch từ tiếng Bồ Đào Nha là " hành động tín ngưỡng " mà ở
thời Trung cổ có nghĩa là sự tuyên bố và đưa vào thực hiện bản án của giáo hội -
trong đó có sự thiêu sống trên giàn lửa trước công chúng những kẻ dị giáo bị kết
án.
Trong đoạn kết của phần này xin có thêm một lời cảnh báo quan trọng về sử
dụng từ ngữ. Ngôn ngữ và các quy luật của nó nằm trong sự vận động và tiến triển
không ngừng. Vì vậy nhiều cái trong số những thứ mà mấy năm trước đây được
coi là có tính chất chuyên ngành hẹp hoặc chỉ dùng trong ngôn ngữ nói, hiện giờ
được chấp nhận vô điều kiện trong các báo. Tương tự, những cái ngày hôm nay
chưa được chấp nhận và bị những kẻ theo chủ nghĩa thuần nhất công kích kịch
liệt, có thể ngày mai sẽ đi vào ngôn ngữ thường dùng của các nhà báo một cách
vững chắc.
Nhà báo không được phép tụt hậu đối với những biến đổi như vậy trong ngôn
ngữ. Anh ta cần phải luôn hoà nhập với thời đại, phải đọc nhiều, phải mở rộng
lượng từ sử dụng tích cực của mình, lọt sâu hơn nữa vào ý nghĩa của những từ có
vẻ như khác thường nhất.
3. Sự tráo trở của những con số
Các dữ kiện về chữ số tự thân nó còn có thể hùng biện hơn dữ kiện khác.
Nhưng trong đa số các tình huống thì chiếm vị trí hàng đầu vẫn là sự cần thiết
phải diễn giải chúng - từ những phép tính số học đơn giản đến những lời giải qua
nhiều bước như là thống kê nhằm biểu thị tình trạng của nền kinh tế hay mức sống
167
của dân chúng. Độc giả chẳng khi nào lại dùng bút chì hay máy tính để kiểm tra
lại những con số, chính vì vậy mà anh ta tin vào báo hơn trong bất kỳ trường hợp
nào khác.
Bên cạnh đó các dữ kiện về các chữ số có thể ngầm " chơi xỏ " anh mà đôi lúc
anh chẳng thể nào ngờ được. Dưới đây là thông báo có lần được đăng trong một
tờ báo của thị trấn nhỏ của Mỹ có tên là Eston.
TĂNG GIÁ THỰC PHẨM HAI PHẦN TRĂM TRONG HAI TUẦN
Giá bán lẻ của các mặt hàng thực phẩm đã tăng tới 2% trong 2 tuần của cuối
tháng 11 - Văn phòng thống kê ở Washington đã thông báo ngày hôm nay. Việc
khảo sát 50 loại hàng thực phẩm trong 7 thành phố đã cho thấy: Chỉ số giá bán lẻ
ở cuối tháng 11 ở mức 215,7% so với chỉ số trung bình của cả mấy năm trước là
213,7%.
Ở đây có một sự nhầm lẫn sơ đẳng về số học. Thế mà nó lại từ Washington đến
mới kỳ. Vì ở đó người ta không thể nào lại không biết rằng chẳng lấy đâu ra cái sự
tăng trưởng tới 2%. Một phép tính đơn giản nhất cho thấy là sự tăng giá không
đến 1%, vì 215, 7% chỉ nhiều hơn 213, 7% có 0, 936% mà thôi. Người biên tập đã
tính ra tới 2% và đưa chúng ra không chỉ trong câu đầu tiên của Lead mà còn ở cả
Head - line, mặc dù điều này không hề được nói tới trong văn bản thông báo của
Văn phòng thống kê Washington.
Cuốn sách giáo khoa về báo chí của Mỹ, là nơi chúng tôi đã trích ra thí dụ này,
nhận xét trong lời bình luận của mình như sau: Trong văn bản của Văn phòng
thống kê " mọi thứ đều ổn cả ", chỉ có anh chàng biên tập sau này bỗng nhớ lại
rằng anh ta cảm thấy hết sức bất tiện vì cái " lỗ hổng " như vậy. Ngày hôm sau,
cuốn sách tiếp tục, là chủ nhật và người biên tập ở nhà. Sau khi nhận được tờ báo
của mình, anh ta nhìn thấy là người đồng nghiệp của anh ta trực ngày hôm đó đã
tiếp tục bản thông báo được đăng từ hôm trước bằng một đoạn tin như sau:
GIÁ CẢ CỦA CHÚNG TA TĂNG ÍT HƠN Ở CÁC THÀNH PHỐ KHÁC
Ngày hôm qua chúng tôi đã thông báo là theo tin từ Văn phòng thống kê
Washington, giá cả thực phẩm trong các thành phố họ khảo sát tăng tới 2% trong
168
hai tuần cuối tháng 11. Thế nhưng một số thương gia ở Eston nói rằng ở đây, họ
không hoà nhập với xu hướng như vậy. Theo họ, giá cả của chúng ta chỉ tăng
khoảng 1, 5% trong suốt cả tháng cuối cùng này.
Trong lời bình luận của mình, cuốn sách viết rằng hai bản tin trên đều là bằng
chứng minh hoạ cho thái độ khinh suất của những người biên tập đối với các dữ
kiện về chữ số. Một người thì kém về số học, người khác thì không biết rằng con
số 1, 5% là chẳng đáng tin cậy vì anh ta nhận được nó qua mấy cú điện thoại vội
vã vào buổi chiều thứ bảy.
Liệu các câu trả lời nhận được với 50 mặt hàng thực phẩm là cơ sở cho thông
báo từ Washington có trùng nhau? Liệu cách tính sự tăng giá có giống nhau? Và
cuối cùng, điều quan trọng nhất là nếu con số 1, 5% là chính xác thì sự tăng giá
bán lẻ ở Eston còn vượt quá sự tăng giá ở các thành phố khác. Vì ở đó nó chỉ
chiếm có 0, 936% thôi chứ không phải là những 2% như người ta đã chuyển từ
bản tin nọ sang bản tin kia. Và chỉ vì những người biên tập không muốn " đào xới
trong các con số ", mà độc giả của tờ báo thị trấn đã nhận được thông tin không
chính xác về một vấn đề quan trọng đối với họ.
Nhiều khi nguyên nhân của những chuyện bực mình là thái độ thiếu chú ý tới
những chỉ số bề ngoài có vẻ giống nhau. Đó có thể là những chỉ số tính theo phần
trăm hay tính theo đơn vị. Vậy nên cần có sự chính xác tuyệt đối để không xuyên
tạc ý nghĩa về thông tin của chúng. Một sai sót như vậy có thể nghiêm trọng tới
mức nào chúng ta sẽ thấy rõ qua ví dụ sau: Có một cái gì đó tăng tới 20% đơn vị -
chẳng hạn như là từ 10 đến 30%. Một phép tính số học cho thấy là " cái gì đó "
khởi đầu đã tăng lên không phải 20% mà là gấp 3 lần.
Dưới đây là hai ví dụ nữa cũng có sự giống nhau về bề ngoài của các dữ kiện
chữ số: Trong cả hai ví dụ này đều nói về sự tăng trưởng tới 200%:
Năm ngoái, trị giá bán lẻ ở bang tính theo Đôla đã đạt tới 200% so với mức độ
của 10 năm trước.
Trong 10 năm cuối này trị giá bán lẻ ở bang tính theo Đôla đã tăng tới 200%.
Liệu độc giả có hiểu đúng về bản chất số học trong từng thông báo nêu trên. Rõ
ràng là không thể tất cả; vậy nên tốt hơn hết là trong trường hợp đầu nói rằng việc
169
buôn bán đã tăng gấp đôi và trong trường hợp sau tăng gấp ba. Cách thức này dĩ
nhiên là rõ ràng hơn so với việc tính phần trăm. Nó giúp chúng ta dễ dàng vạch ra
được sự khác nhau trong những đánh giá về việc trị giá thương mại tăng 200%.
Như vậy nhiệm vụ của nhà báo là phải tìm ra những phương pháp đơn giản nhất
cho việc giải thích ý nghĩa của những dữ kiện về chữ số. Một chuyên gia sẽ hiểu
thực chất của vấn đề dù nó có được diễn đạt thế nào đi chăng nữa, nhưng còn một
người bình thường chắc sẽ chẳng thoải mái gì nếu phải đứng trước " những câu đố
về số học ".
Và trong phần kết xin có thêm một ý nghĩ thực dụng nữa. Trong một số đề tài,
các dữ kiện chữ số là những thành phần không thể thiếu được trong nội dung
chính của chúng, chẳng hạn như trong các bài bình luận linh hoạt và các bài báo
phân tích về sự phát triển kinh tế đất nước hay về các quan hệ kinh tế đối ngoại,
rồi trong các tin tức về thị trường chứng khoán thương mại, v. v. , cũng như trong
các tin vắn về thành tựu thể thao. Thế nhưng trong các dòng tin chung thường
ngày thì các dữ kiện về chữ số, thật kỳ lạ, lại có tỷ trọng khá khiêm tốn.
Trong bất cứ trường hợp nào cũng cần phải lưu ý cả tới việc một người " quen
đọc ở mức trung bình " sẽ tiếp thu các " liều " dữ kiện như vậy ra sao. Các
chuyên gia đã tính toán rằng anh ta có thể ngay trong lúc đọc, chẳng cần xem lại,
hiểu được và nhớ được thường không nhiều hơn 7 chữ số, mà phải là những chữ
số không phức tạp lắm - chẳng hạn như trong cái bảng liệt kê hàng hoá dài dằng
dặc, anh ta đã " lục " được cho mình giá cả của bảy loại hàng hoá mà anh ta thấy
thú vị nhất vì những lý do nào đó. Việc đọc và việc ghi nhớ sẽ trở nên đễ dàng
hơn nhều nếu các chữ số được đưa ra là tròn trăm.
Lẽ đương nhiên là không phải tất cả các tiêu chuẩn nói trên đều có thể được áp
dụng ở mức độ như nhau trong các tình huống khác nhau. Đối với nhà báo, cái
quan trọng nhất trong số chúng là nhắc nhở về sự cần thiết phải suy ngẫm kỹ càng
trước sự dồi dào các chữ số trong một bản tin bình thường. Còn chính sự linh hoạt
sẽ phải tỏ ra hiệu quả hơn bất cứ quy tắc nào trong việc gợi ý cho anh ta cái quyết
định khả quan nhất, nhằm bảo đảm cho các văn bản " tráo trở " có thể đọc được
một cách dễ dàng.
170
4. Các dạng rút ngắn khác nhau
Vị trí ở trên các trang báo luôn luôn là " vũ đài đấu tranh " giữa các bộ phận
biên tập chuẩn bị tài liệu về các đề tài khác nhau, và thậm chí giữa các thành viên
của mỗi bộ phận nhằm đòi ưu tiên cho tin này hay tin khác. Bên cạnh đó thì quảng
cáo mà người ta có đầy đủ cơ sở để gọi Là " bà vú em " của mọi tờ báo, cũng có kỳ
vọng giành một chỗ " hợp pháp " cho mình.
Cuộc đấu tranh vì " không gian sinh tồn " bắt đầu từ trên bàn làm việc của
những người biên tập, nhưng kết cục nó chỉ được quyết định vào phút cuối cùng,
ngay trước khi khoá sổ một số báo thuờng kỳ và gửi nó vào nhà in. Ở đó, chỉ có
một số các trường hợp ngoại lệ người ta mới dùng máy để đưa vào chỗ dự trữ một
cái gì đó cực kỳ quan trọng - mỗi tờ báo luôn nhớ đến người cạnh tranh với mình
là kẻ cũng chẳng hề ngủ gật trước những việc như thế.
Trên chặng đường từ tác giả đến độc giả, với bất cứ tài liệu nào cũng có thể xảy
ra những biến đổi đa dạng nhất. Trong một số báo đã gần như hoàn thành, người ta
có thể chuyển dịch nó từ trang đầu tới một chỗ đã không quan trọng bằng, lại còn
chật chội nữa. Thế là tài liệu bắt đầu bị lược bỏ hết dòng này đến dòng khác, hết
đoạn này đến đoạn khác, và đôi lúc nó chỉ còn lại mỗi đoạn Lead. Có nghĩa là
thông tin của một hãng nào đó chẳng hạn, có thể tuỳ theo hoàn cảnh mà được đăng
tải trên các báo ở những kiểu khác nhau về kích thước - từ mấy dòng cho đến mấy
cột.
Việc dưa tài liệu đến kích thước cần thiết phù hợp với tầm quan trọng của nó
hay với vị trí được giành cho nó là một công việc không đơn giản. Trong các bài
báo khác nhau đã hình thành những thuật ngữ khác nhau nhằm định nghĩa loại
công việc này.
Chẳng hạn, ở tờ " New York Time " người ta đã chấp thuận những thuật ngữ
như sau. " Trimming " - dịch từ nguyên bản tiếng Anh là " cắt, xén, lược bớt " - có
nghĩa là sự rút ngắn tài liệu mà không làm tổn hại đến ý nghĩa của nó, được thực
hiện chủ yếu bằng cách lược bỏ những từ không cần thiết và đơn giản hoá những
câu dài dòng. " Ninh nhừ " hay " đun sôi kỹ " diễn tả sự sửa đổi triệt để hơn của
người biên tập, thể hiện ở việc rút ngắn một cách đáng kể tài liệu bằng cách bỏ hết
171
các chi tiết cụ thể. " Cắt ngắn " hay " chặt bớt " có nghĩa là cắt bỏ hẳn cả những
đoạn văn mà nếu thiếu chúng thì cốt lõi của tài liệu cũng không bị ảnh hưởng gì
nghiêm trọng.
Việc rút ngắn tài liệu kiểu như vậy đương nhiên không phải là mục đích cuối
cùng. Nó cần thiết hoặc là cho việc cải tiến phong cách diễn đạt như chúng tôi đã
nói khá cụ thể ở trên, hoặc là cho việc tiết kiệm diện tích trên tờ báo. Vì vậy nên
người biên tập phải hết sức thận trọng đối với bất cứ kiểu rút ngắn nào, đẻ không
làm mất cái ý nghĩa mà vì nó người ta đăng tải một thông tin này hay một thông tin
khác.
Các yêu cầu đối với những sinh viên năm cuối và sinh viên đã tốt nghiệp cũng
giống như là các yêu cầu đối với những sinh viên còn lại, chỉ trừ một điều là họ
phải không lớn hơn 27 tuổi tính đến mùng một tháng bảy năm nay.
Việc đọc thông báo trên một cách kỹ càng sẽ cho thấy là ở đó không thể nào lại
" thu nhỏ " được một câu nào đó hay lược bỏ nó hoàn toàn, và người biên tập rõ
ràng đang đứng trước ba khả năng như sau:
- Không đưa tài liệu này ra nữa nếu trong tờ báo không còn chỗ cho nó, và
đành đợi đến số sau vậy.
- Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ đưa ra hai câu đầu và bỏ tất cả phần còn lại,
mặc dù ở các phần này có nhiều chi tiết quan trọng đối với độc giả.
- Tốt hơn hết là công bố toàn bộ tài liệu - tìm cho nó một chỗ thích hợp bằng
cách bớt đi một thông tin " vặt vãnh " không quan trọng nào đó.
Trong thông báo đó tất cả các câu đều bình đẳng về mặt ý nghĩa. Nhưng cũng
có những trường hợp mà tác giả đưa ra một sự liệt kê nào đó rồi đặt số thứ tự cho
các đoạn văn, song anh ta làm việc này chỉ đơn thuần là để tạo điều kiện thuận lợi
cho công việc của mình vì đã tập hợp lại được tất cả các chi tiết phụ. Dưới đây là
một bài phóng sự điển hình về một cuộc họp của Uỷ ban Trường học ở một thị trấn
nhở ở Mỹ.
Uỷ ban Trường học liên hiệp của hai trường chúng tôi đã thông qua những
nghị quyết quan trọng đối với các giáo viên làm việc ở đó - đã biểu quyết ủng hộ
việc tăng 5% lương cho các giáo viên trường Eston nhưng lại trì hoãn nghị quyết
172
về việc tăng lương cho các giáo viên trường Francun. Còn các vấn đề đang được
thảo luận khác, Uỷ ban đã có quyết định như sau:
- Cử thư ký Uỷ ban với tư cách là người đại diện của mình làm đại biểu tới dự
hội nghị của các trường học trong địa hạt, là nơi sẽ xem xét các nhu cầu của tất cả
mọi trường, và sẽ đài thọ cho anh ta toàn bộ chi phí về chuyến đi này.
- Các giám đốc của các trường phải có bổn phận bảo đảm an toàn cho học
sinh khi họ đi qua ngã tư.
- Thông qua bản thanh toán về các chi phí hiện thời của Uỷ ban trong mức
( nêu số lượng ) Đôla.
Trong tờ báo của thành phố, mỗi điểm trên có lẽ xứng đáng không chỉ được
nhắc tới một cách vắn tắt mà còn được bàn luận một cách nghiêm túc và cụ thể, vì
những vấn đề mà chúng tôi nêu lên rất thú vị đối với các độc giả là thầy, cô giáo và
phụ huynh các em học sinh. Nhưng nếu người biên tập vì sụ tiết kiệm chỗ mà phải
rút ngắn bài thì việc chia nó thành các câu đực đánh số thứ tự sẽ chẳg khiến cho
anh ta phải phiền lòng. Vì không có câu nào trong số chúng lại là sự phát triển hay
bổ sung của câu khác. Vậy nên người biên tập hoàn toàn thoải mái trong việc tiến
hành bất cứ cuộc " giải phẫu " nào đối với bản thông báo.
Các kiểu rút ngắn cần thiết không chỉ để cho bài viết có kích thước như ý, mà
chúng được thực hiện còn vì độc giả nữa: Khi mở tờ báo ra, anh ta sẽ chọn những
thông báo ngắn gọ đầu tiên, còn các bài báo dài thì anh ta chỉ đọc lúc có nhiều thời
gian rỗi. Việc sử dụng kiểu rút ngắn nào lại phụ thuộc vào tính chất của bài viết.
Nếu nó được viết theo các quy tắc của " hìnhtháp quay ngược " thì người biên tập
chẳng gặp phải khó khăn nào đặc biệt: có thể " cắt bỏ " hẳn cả những đoạn văn.
Thế nhưng thường hơn cả là người biên tập phải lưu ý tới từng câu văn, thậm
chí tới từng từ, có nghĩa là anh ta cần " cắt xén " hay " ninh nhừ " một tác phẩm
báo chí quá dài, nhất là nếu sự dài dòng hoàn toàn không cần thiết cho việc diễn
giải thực chất của vấn đề. Về điều này, " Cuốn sách về phong cách " của tờ báo Ấn
Độ có tên là " Patriot " đưa ra một lời khuyên khá hay - đừng bỏ qua những câu
kiểu như:
173
Còn đối với cuộc thảo luận diễn ra trong cuộc họp chiều hôm qua về tình
huống được hình thành trong tình hình hiện tại, thì tạm thời xét từ góc độ thực tế,
nó chỉ có tính chất tiêu cực.
Chỉ cần viết một cách hết sức đơn giản như sau cũng đã là hoàn toàn đầy đủ: "
Cuộc thảo luận ngày hôm qua là vô kết quả ". Chỉ có mấy từ thay thế cho mấy
chục từ, thế mà cốt lõi vẫn được giữ nguyên vẹn. Độc giả đỡ phải đau đầu, còn tờ
báo thì tiết kiệm được mấy dòng quý giá. Những kiểu khoa trương như vậy thường
xuất hiện dưới ngòi bút của những tác giả " chạy theo dòng ", với hy vọng là bài
viết càng dài thì nhuận bút càng lớn.
Nói đúng ra thì theo ý kiến chung là người ta đang chờ đợi việc xây dựng
chuồng bò mới sẽ hoàn thành vào khi mà hội chợ sẽ mỗi lúc một tiến gần hơn đến
ngày khai trương của mình vào đầu thu.
Dưới đây là một trong những cách có thể mà người biên tập đã dùng để chữa
câu trên. Trong đó anh ta không chỉ rút ngắn nó mà còn làm sáng tỏ hơn ý nghĩa
của nó:
Chuồng bò mới, như người ta chờ đợi, sẽ phải được xây dựng xong trước
ngày khai trương hội chợ vào đầu thu.
Nếu tập hợp tất cả các chỗ tiết kiệm được nhờ lược bỏ những từ thừa, thì
nhiều khi trong một số báo có thể tìm được đủ số dòng để đưa ra thêm một thông
báo nào đó - dù cho đó chỉ là một mẩu tin nho nhỏ.
Kho chứa đã cháy trụi trong vụ Cả kho đã cháy trụi.
hoả hoạn và bị huỷ hoại hoàn toàn
bởi ngọn lửa bạo tàn.
Cuộc họp được tổ chức Cuộc họp đã thảo luận vấn đề về...
với mục đích thảo luận vấn đề về...
Anh ta đã tỏ ra ít lời và nói với ý rằng... Anh ta nói rằng...
174
Đó là người mà tất cả mọi người Tên anh ta là... ( Người ta gọi anh
đều biết đến tên. ta là...)
Có đáng nói tới những hiệu đính sơ đẳng như vậy không? Tất nhiên là đáng.
Chỉ như thế người biên tập mới rèn luyện được thái độ phê phán chín đối với
những tài liệu, mà ở đó, thông tin cụ thể cần thiết cho độc giả phải chật vật mới
chọc thủng được " sương mù " của các lý luận chung chung hay cái lối nói dài
dòng. Nhưng trong mỗi trường hợp như vậy, người biên tập cần phải hết sức thận
trọng. Nói một cách hình ảnh là trong tay anh ta phải có con dao mổ chứ không
phải là chiếc rìu.
Người biên tập thường nhận được các tài liệu về tin tức mà tờ báo của anh ta
rất muốn đăng nhưng chúng lại không hợp về phong cách diễn đạt hay về cách
thức - chẳng hạn như một tài liệu chính thức quan trọng hay một bài báo đáng
được lưu ý từ một tạp chí lớn. Không thể áp dụng đối với chúng sự rút ngắn một
cách đơn giản hay những cách thức biên tập khác. Vì vậy nên buộc phải tìm đến sự
tu sửa một cách triệt để hơn là Digest hay Rewrite.
Digest - đó một là thuật ngữ báo chí lấy tên gọi từ một từ tiếng Anh có nghĩa
khá rộng. Một trong các ý nghĩa của từ nàycó thể dịch gần sát như sau: " Ninh nhừ
để tiêu hoá dễ và tốt ". Việc digest hoá có nghĩa là trình bày một cách cô đọng nội
dung của tài liệu với sự nhấn mạnh các ý tưởng, sự kiện và luận chứng chủ đạo,
lược bỏ tất cả những cái gì là thứ yếu, cắt bỏ những sự dài dòng vô bổ và rút ngắn
đến kích cỡ cần thiết, mô phỏng lại phong cách của nó cả về cấu trúc, cả về ngôn
ngữ để nó phù hợp với hoàn cảnh mà mình mong muốn.
Việc digest hoá cần phải có một quan điểm nhất định mà theo nó, người ta
trình bày tài liệu nhận được. Thế nhưng chỉ được phép đưa ra những lời bình luận
hết sức cân nhắc, mà cũng chỉ được nhằm mục đích là nhấn mạnh những thành tố
quan trọng và và thú vị nhất của nội dung. Nói cách khác, digest có thể định nghĩa
như là sự kể lại tài liệu đáng lưu ý một cách sinh động và ngắn gọn.
Rewrite - đó là một thuật ngữ báo chí tương đồng với digest về mặt ý nghĩa.
Trong bản dịch chính xác từ nguyên bản tiếng Anh nó có nghĩa là " viết lại, làm
175
lại, tu sửa lại ". Khác với digest, rewrite còn có ngụ ý là nguyên bản quá dàn trải
hoặc chỉ đơn giản là kém và cần phải tu chỉnh lại nó bằng cách đưa nó tới một
trạng thái cần thiết cả về nội dung, cả về phong cách và cả về kích thước.
Thế nhưng bằng phương pháp rewrite người ta còn tạo nên cả những tài liệu có
tính khái quát khác nhau - chẳng hạn như trong trường hợp mà Ban biên tập nhận
được từ các nguồn khác nhau nhiều bản thông báo về cùng một đề tài. Những tài
liệu đó thường hay có kèm theo những ý kiến bình luận ngắn trong quá trình trình
bày. Những thành tố làm nhiệm vụ phân tích này ở trong rewrite thường nhiều hơn
là ở trong digest, song lúc nào chúng cũng cần phảiđược cân nhắc kỹ. Và sự thật
thì cũng có những bài tổng kết được định hướng một cách không giấu giếm vào
một "đề tài cho sẵn " nào đó.
Trong thực tế hàng ngày của báo chí phương Tây, digest và rewrite được sử
dụng trong các tình huống đa dạng nhất, nhưng về những cái điển hình nhất, chúng
tôi sẽ bàn tới sau. Còn trong phần kết của chương này là những lời khuyên thực
dụng được lấy từ một cuốn giáo trình thực hành về biên tập:
1, Không được vội vã rút ngắn tài liệu, hãy đọc kỹ toàn bộ văn bản trước khi
cầm kéo và hồ dán.
2, Hãy rút ngắn thế nào để vẫn giữ được tất cả những sự kiện quan trọng nhất
và số lượng tối thiểu các chi tiết cần thiết mà có khả năng giải đáp cho các câu hỏi
quan trọng hay thú vị hơn cả đối với độc giả.
3, Cố gắng giữ âm điệu chung của tài liệu, màu sắc của nó cũng như các đặc
điểm khác của phong cách diễn đạt: Chớ cắt tóc cho các tác giả chỉ bằng một cái
lược.
4, Đọc lại cẩn thận bài viết ở dạng đã hoàn tất. Hãy xem lại những gì đã bị loại
bỏ, vì sự rút ngắn nhiều khi sản sinh ra những vấn đề mới, đôi lúc không lường
trước được.
5, Hãy quan tâm tới đoạn văn hay ở cuối cùng. Nếu không có nó thì hãy tự viết.
Cần luôn theo dõi chặt chẽ để nó không bị cắt đi vì những lý do nào đó.
176
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh, Quy tắc nhỏ trong việc đánh dấu thanh điệu, Tạp chí " Ngôn
ngữ và Đời sống ", số 9 / 1998.
2. Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào, Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt Nam, NXB.
Văn hoá - Thông tin, H., 2000.
3. Bêlinski V. G., Toàn tập, Tập 3, M., 1948.
4. Đức Dũng, Các thể ký báo chí, NXB. Văn hoá - Thông tin, H., 1998.
5. Hữu Đạt, Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt, NXB.
Văn hoá - Thông tin, H., 2000.
6. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB. Đại học quốc gia, H., 2001.
7. Vũ Quang Hào, Về biến thể của thành ngữ, tục ngữ, Tạp chí " Văn hoá dân
gian ", H., 1992, số 1.
8. Nguyễn Văn Hằng, Thành ngữ bốn yếu tố trong tiếng Việt hiện đại, NXB.
Khoa học xã hội, H., 1999.
9. Herxen A. I., Quá khứ và suy tưởng, trong: " Các nhà văn Nga nói về lao
động văn chương ", L., 1955, tập 2 ( bằng tiếng Nga ).
10. Nguyễn Thị Thanh Hương, Khai thác chất liệu văn học dân gian trong việc
đặt tên bài báo, Tạp chí " Nghề báo ", TP. HCM., 2003, số 1.
11. Nguyễn Thị Thanh Hương, Một vài suy nghĩ về " tiếng Hà Nội " ngày nay
trong báo chí viết cho thanh thiếu niên, trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Tiếng
Hà Nội trong mối quan hệ với tiếng Việt và văn hoá Việt Nam", H., 2003.
12. Đinh Trọng Lạc, 99 phương tiện và biệp pháp tu từ tiếng Việt, NXB. Giáo
dục, H., 1995.
13. Đinh Trọng Lạc ( chủ biên ), Phong cách học tiếng Việt, NXB. Giáo dục,
H., 1997.
14. Phan Ngọc, Thử xét văn hoá - văn học bằng ngôn ngữ học, NXB. Thanh
niên, H., 2000.
15. Nguyễn Văn Nở, Đôi điều mong muốn về tiếng Việt trên báo Văn nghệ,
Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 10, 11 / 1998.
177
16. Shostak M. I., Ngôn ngữ một số phương tiện thông tin đại chúng, M., 1993
(bằng tiếng Nga).
17. Shostak M. I., Tiêu đề tác phẩm báo chí, Tạp chí Nhà báo ( Nga ), số 5, 6 /
1996.
18. Nguyễn Minh Thuyết ( chủ biên ), Nguyễn Văn Hiệp, Tiếng Việt thực
hành, NXB. Giáo dục, H., 1997.
19. Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành, NXB. Giáo
dục, H., 1997.
20. Hoàng Tuệ, Ngôn ngữ và đời sống xã hội - văn hoá, NXB. Giáo dục, H.,
1996.
21. Voskoboinhicov A. N., Yuriev I. G., Nhà báo và Thông tin, M.,1993
(bằng tiếng Nga).
22. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, NXB. Văn hoá - Thông
tin, H., 1999.
23. Khoa Báo chí (Phân viện Báo chí và Tuyên truyền), Báo chí - những
điểm nhìn từ thực tiễn, Tập 1, NXB. Văn hoá - Thông tin, 2000.
24. Viện Ngôn ngữ học, Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí
Minh, NXB. Khoa học xã hội, H., 1980.
25. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, 2001.
178