tailieu.vncty.com su...

206
THÔNG TIN VLUN ÁN STHNG NHT VÀ MÂU THUN GIA TRUYN THNG VÀ HIN ĐẠI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIN VĂN HÓA CN THƠ Chuyên ngành: Chnghĩa duy vt bin chng và Chnghĩa duy vt lch sMã s: 62.22.80.05 Hvà tên nghiên cu sinh: Nguyn Văn Da Người hướng dn khoa hc: HD.1: PGS.TS. Trnh Doãn Chính HD.2: TS. Trn Hoàng Ho Cơ sđào to: Trường Đại hc Khoa hc Xã hi và Nhân văn Đại hc Quc gia Tp. HChí Minh Tóm tt ni dung lun án: Truyn thng và hin đại là nhng yếu tcó mt trong đời sng ca xã hi, trên mi lĩnh vc ca quá trình phát trin, trong đó có lĩnh vc văn hóa - nn tng tinh thn ca xã hi. Tuy nhiên, truyn thng và hin đại không bao gitn ti mt cách tĩnh ti, tách bit nhau mà luôn trong thế vn động, liên htác động ln nhau, va thng nht va mâu thun vi nhau, làm thành din mo văn hóa ca dân tc. Nếu không nhn dng và gii quyết tt sthng nht bin chng gia truyn thng và hin đại ca văn hóa, chúng ta không thphát huy đầy đủ vai trò ca văn hóa đối vi sphát trin xã hi. Vkhái ni m văn hóa, phân tích các cách ti ếp cn văn hóa phbi ến hi n nay, có thrút ra khái ni m văn hóa: văn hóa là mt hthng hu cơ các giá trvt cht và tinh thn do con người sáng t o ra và được con người tích l ũy qua quá trình hot động thc ti n; nhng giá trđó đáp ng được nhu cu ca ccng đồng, được cng đồng tha nhn và được l ưu truyn t thế hnày sang thế hkhác. Văn hóa là bi u hi n ca trình độ phát tri n xã hi trong t ng thi kl ch snht đị nh. Truyn thng, được hiu như là tp hp nhng tư tưởng và tình cm, nhng thói quen trong tư duy, li sng và ng xca mt cng đồng người nht định, được hình thành trong lch sđã trnên n định, được lưu truyn tthế hnày sang thế hkhác. Còn hin đại được hiu là nhng gì “thuc thi đại ngày nay”, là “cái đang din ra trước mt, tc là mi”. Hin đại gn lin vi phát trin, to ra nhng giá trmi hơn, có phm cht tt hơn ca cái quá kh. Truyn thng và hin đại trong sphát trin ca văn hóa có mi quan hbin chng vi nhau, tác động qua li ln nhau; đó là sthng nht và mâu thun gia truyn thng và hin đại. Vsthng nht gia truyn thng và hin đại ca văn hóa: truyn thng là cơ s, là tin đề ca hin đại và hin đại là skế tha, phát trin nâng cao truyn thng. Đồng thi, gia truyn thng và hin đại trong sphát trin ca văn hóa li có smâu thun, trong đó cái truyn thng do tính n định, tính bo thcn trsphát trin ca cái hin đại và ngược li có nhng cái hin đại không phù hp, mâu thun, xung đột vi cái truyn thng. Trong tiến trình lch s, nht là trong thi kđổi mi, cùng vi vic phát trin kinh tế, xã hi, Cn Thơ đặc bit quan tâm đến phát trin văn hóa; trong đó, vic kết hp bin chng gia truyn thng và hin đại luôn được chú trng và được xem như mt quy lut phát trin ca văn hóa. Nhđó mà văn hóa Cn Thơ đã đạt được nhng thành tu rt đáng thào. Tuy nhiên, bên cnh nhng kết quđã đạt được, văn hóa Cn Thơ còn nhiu mt hn chế, mâu thun: stt hu vnhn thc ca mt bphn cán b, đảng viên và nhân dân đối vi vai trò ca

Upload: tran-duc-anh

Post on 27-Jun-2015

327 views

Category:

Documents


5 download

DESCRIPTION

http://tailieu.vncty.com/index.php

TRANSCRIPT

Page 1: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN

SỰ THỐNG NHẤT VÀ MÂU THUẪN GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử

Mã số : 62.22.80.05 Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Văn Dựa Người hướng dẫn khoa học: HD.1: PGS.TS. Trịnh Doãn Chính HD.2: TS. Trần Hoàng Hảo Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh Tóm tắt nội dung luận án: Truyền thống và hiện đại là những yếu tố có mặt trong đời sống của xã hội, trên mọi lĩnh

vực của quá trình phát triển, trong đó có lĩnh vực văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, truyền thống và hiện đại không bao giờ tồn tại một cách tĩnh tại, tách biệt nhau mà luôn ở trong thế vận động, liên hệ tác động lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, làm thành diện mạo văn hóa của dân tộc. Nếu không nhận dạng và giải quyết tốt sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại của văn hóa, chúng ta không thể phát huy đầy đủ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội.

Về khái niệm văn hóa, phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay, có thể rút ra khái niệm văn hóa: văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và được con người tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn; những giá trị đó đáp ứng được nhu cầu của cả cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa là biểu hiện của trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

Truyền thống, được hiểu như là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định, được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Còn hiện đại được hiểu là những gì “thuộc thời đại ngày nay”, là “cái đang diễn ra trước mắt, tức là mới”. Hiện đại gắn liền với phát triển, tạo ra những giá trị mới hơn, có phẩm chất tốt hơn của cái quá khứ. Truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau; đó là sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại. Về sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại của văn hóa: truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại và hiện đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống. Đồng thời, giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa lại có sự mâu thuẫn, trong đó cái truyền thống do tính ổn định, tính bảo thủ cản trở sự phát triển của cái hiện đại và ngược lại có những cái hiện đại không phù hợp, mâu thuẫn, xung đột với cái truyền thống.

Trong tiến trình lịch sử, nhất là trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc phát triển kinh tế, xã hội, Cần Thơ đặc biệt quan tâm đến phát triển văn hóa; trong đó, việc kết hợp biện chứng giữa truyền thống và hiện đại luôn được chú trọng và được xem như một quy luật phát triển của văn hóa. Nhờ đó mà văn hóa Cần Thơ đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, văn hóa Cần Thơ còn nhiều mặt hạn chế, mâu thuẫn: sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với vai trò của

Page 2: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

2

văn hóa; các biểu hiện của phong tục tập quán, lạc hậu, lỗi thời làm cản trở sự phát triển xã hội mới;…Để khắc phục những hạn chế, mâu thuẫn đó, Cần Thơ cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm chuyển biến căn bản tâm lý của cán bộ, đảng viên và nhân dân sớm thích nghi với đời sống đô thị và nhận thức đúng đắn vai trò của văn hóa; nâng cao trình độ dân trí để nhân dân hưởng thụ và sáng tạo những giá trị văn hóa; tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa mới lành mạnh trong xã hội, đi đôi với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các tài năng văn hóa; khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo nhiều công trình văn hoá nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao; bảo tồn, phát huy các đặc điểm, giá trị văn hóa riêng có ở Cần Thơ.

Những kết quả mới của luận án: Một là, luận án đã phân tích làm rõ lý luận chung về văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn

giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ. Hai là, từ sự phân tích thực trạng văn hóa Cần Thơ, luận án đề xuất một số giải pháp có tính

định hướng góp phần vào phát triển văn hóa Cần Thơ trên cơ sở sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Khả năng ứng dụng của luận án: Luận án giúp người đọc hiểu rõ nội dung, giá trị của truyền thống và hiện đại trong văn

hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở Cần Thơ. Những ý nghĩa lịch sử mà luận án rút ra cũng như một số giải pháp có tính định hướng mà luận án đề xuất, có thể góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc của vùng đồng bằng sông nước, văn minh miệt vườn ở Cần Thơ. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Văn hóa học.

Xác nhận Tp.Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 02 năm 2011

của người hướng dẫn khoa học Nghiên cứu sinh

PGS.TS. Trịnh Doãn Chính Nguyễn Văn Dựa

Page 3: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cùng với sự hình thành

và phát triển đất nước, là sức sống mãnh liệt của dân tộc ta mà cội nguồn của

sức mạnh đó là nền văn hoá Việt Nam với sự thống nhất biện chứng giữa

truyền thống và hiện đại.

Truyền thống và hiện đại là những yếu tố có mặt trong đời sống của mỗi

quốc gia dân tộc, trên mọi lĩnh vực của quá trình phát triển, trong đó có lĩnh

vực văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, truyền thống và hiện đại

không bao giờ tồn tại một cách tĩnh tại, tách biệt nhau mà chúng luôn có sự

liên hệ, tác động lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, tạo thành

sự vận động, phát triển và làm thành diện mạo văn hóa của một dân tộc. Chính

vì vậy mà mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa đã trở

thành vấn đề hàng đầu ở mọi quốc gia, đặc biệt là ở những nước đang phát

triển, vốn mang trên mình sức nặng của truyền thống hình thành qua suốt chiều

dài của lịch sử và lại đứng trước một sự nghiệp hiện đại hóa to lớn. Nếu không

nhận dạng được sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình

phát triển của văn hóa, chúng ta không thể phát huy đầy đủ vai trò của văn hóa

đối với sự phát triển xã hội.

Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam

luôn coi trọng việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy những

giá trị truyền thống của dân tộc vì đó là bản sắc, là tâm hồn và trí tuệ, là đạo lý

và nhân cách của con người Việt Nam, là nền tảng tinh thần cho công cuộc

phục hưng dân tộc và cho sự phát triển bền vững của đất nước tiến lên văn

minh, hiện đại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã

xác định: “Phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” [32, 212] và đẩy

mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa đã được xác định trong Chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là “làm cho văn hóa thấm

Page 4: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

2

sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới

của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp

thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy,

độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội

và sinh hoạt của nhân dân…” [32, 212-213].

Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng ngàn năm lao động sáng tạo, kiên

cường đấu tranh dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Văn hóa Việt Nam cũng là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền

văn minh nhân loại để không ngừng phát triển. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc

nên tâm hồn, tính cách, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ

lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam đã hình thành những giá trị

truyền thống bền vững và bản sắc riêng. Trên nền tảng ấy mà ngày nay chúng

ta chủ trương xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới ngang tầm thời đại.

Nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng hiện nay là nền văn hóa tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc, với các đặc trưng dân tộc, hiện đại, nhân văn. Nước ta là

một quốc gia có nhiều dân tộc, việc nghiên cứu vấn đề kế thừa giá trị truyền

thống văn hóa dân tộc chẳng những có ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng

nền văn hóa chung của đất nước mà còn có tác dụng phát huy bản sắc văn hóa

của từng dân tộc trong sự phát triển văn hóa.

Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam hiện đứng trước tình

hình, một mặt phải tiếp tục chống chủ nghĩa đế quốc với âm mưu “diễn biến

hòa bình”, tấn công bằng sự xâm lăng văn hóa; mặt khác, phải bảo vệ nền văn

hóa dân tộc, coi đó là một tiềm lực để đi lên hiện đại hóa. Giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa của dân tộc không chỉ có ý nghĩa để cho dân tộc ta giữ được

cội nguồn phát triển mà còn có ý nghĩa bảo vệ những giá trị văn hóa tốt đẹp vì

sự phát triển của nhân loại. Cơ chế kinh tế thị trường đang phát huy tác động

toàn diện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có cả mặt tích cực

và tiêu cực, đã ảnh hưởng rất lớn đến việc kế thừa các giá trị truyền thống văn

hóa dân tộc để xây dựng nền văn hóa hiện nay.

Page 5: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

3

Đối với Cần Thơ, trong những năm qua, nhiều cấp uỷ Đảng, chính

quyền, đã nhận thức đúng đắn sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại

trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy văn hóa của Cần Thơ nói riêng

và đồng bằng sông Cửu Long nói chung...; đã đưa những nội dung này vào

nghị quyết các Đại hội, các hội nghị và chương trình hành động hàng năm của

các cấp, giúp thành phố Cần Thơ thu được những thành tựu và kinh nghiệm

quý báu trong quá trình đổi mới nói chung và lĩnh vực phát triển văn hóa - xã

hội nói riêng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền văn hóa mới được tạo dựng, quá

trình đổi mới tư duy về văn hóa, xã hội, xây dựng con người và nguồn nhân

lực có bước phát triển mới. Môi trường văn hóa, xã hội có những thuận lợi cho

việc phát huy nguồn nhân lực để xây dựng đất nước. Tình hình an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Cần Thơ ổn định, tạo điều kiện

cơ bản cho phát triển thành phố. Kinh tế phát triển liên tục, xu thế hội nhập

kinh tế quốc tế mở ra triển vọng mới cho sự phát triển kinh tế, tạo tiền đề giải

quyết các vấn đề xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, còn không ít cấp ủy đảng,

chính quyền và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ vai trò của văn hóa, chưa thấy

hết tầm quan trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện

đại trong quá trình phát triển văn hóa. Từ đó dẫn đến sự phát triển văn hóa

chưa đồng bộ và chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với

nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng; những tiêu cực xã hội không những

chưa được đẩy lùi mà còn có chiều hướng gia tăng; vai trò của văn hóa đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội chưa được phát huy đúng mức, chất lượng tăng

trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa được cải thiện nhiều; cơ cấu kinh

tế chuyển dịch chậm, các ngành công nghiệp, dịch vụ có giá trị gia tăng lớn

chưa khai thác đúng mức.

Ngày nay, cùng với cả nước Cần Thơ bước vào thời kỳ phát triển mới

trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng cũng có nhiều thách

thức gay gắt, nhất là trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Với vị trí quan

trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo,

Page 6: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

4

dịch vụ, thương mại của vùng, cùng với tiềm năng vật chất phong phú, thiên

nhiên ưu đãi, nguồn nhân lực dồi dào, lao động cần cù sáng tạo, biết vận dụng

khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, biết tận dụng khai thác mọi tiềm

năng, thế mạnh của mình, lại giàu truyền thống cách mạng trong kháng chiến

giải phóng dân tộc, Cần Thơ sẽ thực hiện tốt sự nghiệp xây dựng và phát triển

thành phố.

Để “Phấn đấu xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trở thành thành

phố văn minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của

cả vùng hạ lưu sông Mê Kông; là trung tâm công nghiệp, trung tâm thương

mại - dịch vụ, du lịch, trung tâm giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ,

trung tâm y tế và văn hóa của vùng đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước”

theo Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị, Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ

cần nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn nữa vị trí, vai trò của văn hóa, tầm quan

trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá

trình phát triển văn hóa. Tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng và phát triển nền

văn hóa Cần Thơ tiên tiến, mang đậm bản sắc của vùng đồng bằng sông nước,

văn minh miệt vườn; bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là

trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao

văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba

lĩnh vực này là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và

bền vững của thành phố Cần Thơ.

Từ những vấn đề vừa nêu trên, tác giả chọn đề tài “Sự thống nhất và

mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa

ở Cần Thơ” làm luận án Tiến sĩ Triết học của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu về văn hóa nói chung cũng như vấn đề truyền thống và

hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa đã được nhiều nhà khoa học xã hội

và nhân văn trong và ngoài nước quan tâm.

Page 7: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

5

Từ những năm 70 của thế kỷ XX, ở Liên Xô trước đây đã có những

công trình nghiên cứu lớn chuyên khảo về đề tài văn hóa của các nhà lý luận

mácxít. Đáng kể là những công trình lý luận văn hóa như: “Tính kế thừa trong

phát triển văn hóa” (1969) của Bale A.E, Mátxcơva; “Triết học văn hóa

(1975) của Migôlatep A.A, Mátxcơva; “Cơ sở lý luận văn hóa Mác-Lênin”

(1976) do Acnônđốp A.I chủ biên, Mátxcơva; “Một số vấn đề lý luận văn

hóa” (1977) của Actanốpxki S.N, Lêningrát; “Những vấn đề triết học của văn

hóa” (1984) của tập thể tác giả, Mátxcơva; “Tính kế thừa trong sự phát triển

văn hóa trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội” (1977) của Cairan V.I,

Mátxcơva;… Các công trình này, chủ yếu đề ra những nguyên tắc xây dựng

nền văn hóa chủ nghĩa xã hội. Trong đó, có những luận điểm khoa học có thể

kế thừa, nhưng cũng có những kết luận mà thực tiễn cuộc sống xã hội hiện đại

đòi hỏi phải được nghiên cứu, thảo luận thêm.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu lớn của các nhà lý luận mácxít

về văn hóa, ở phương Tây đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về văn

hóa với khuynh hướng chung là khẳng định vai trò quan trọng không thể

thiếu của văn hóa truyền thống trong phát triển như: “Tạo dựng nền văn minh

mới của làn sóng thứ ba” (1996) của Alvin Toffler và Heidi Toffler, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Sự va chạm của các nền văn minh” (2003) của

Samuel Huntingtong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;…

Ở các nước khu vực Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc, từ khi tiến hành

cải cách đến nay, đã có nhiều công trình lý luận khoa học nghiên cứu về vai

trò của văn hóa dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa như: “Cải cách thể chế

văn hóa” (1996) do Khang Thức Chiêu chủ biên; “Thử bàn về qui luật đặc

thù của phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường” (1997) của Lưu

Bôn; “Văn hóa trong sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở khu vực Đông Á”

(2000) của Kyong-Dong Kim (Hàn Quốc)…

Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu của các nhà lý luận mácxít ở

Liên Xô trước đây cũng như ở Trung Quốc và các quốc gia khác đều đưa ra

Page 8: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

6

những quan điểm cảnh báo sự suy thoái trong chiến lược xây dựng và phát

triển nền văn hoá của mỗi quốc gia, nếu việc đánh giá mọi sự hiện đại hóa

theo tiêu chuẩn của phương Tây, bằng việc chối bỏ mọi truyền thống của dân

tộc. Đây là những vấn đề đáng được chúng ta tham khảo, nghiên cứu và vận

dụng trong đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc.

Ở Việt Nam, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

được Đảng ta đặc biệt quan tâm và đã được thể hiện khá đầy đủ trong các văn

kiện của Đảng. Đồng thời, đã có những công trình được xuất bản thành sách

hay đăng trên các tạp chí lý luận, các cuộc hội thảo khoa học bàn về vai trò của

văn hóa đối với sự phát triển, trong đó phải kể đến những công trình như: “Giá trị

tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (1993) của GS. Trần Văn Giàu, Nxb.

TP. Hồ Chí Minh; “Sự hình thành về cơ bản hệ thống tư tưởng yêu nước Việt

Nam” (2000) của GS.Trần Văn Giàu, Nxb. TP. Hồ Chí Minh; “Văn hóa - mục tiêu

và động lực phát triển xã hội” (2000) của Trần Bạch Đằng, Nxb. TP. Hồ Chí Minh;

“Bản sắc văn hóa Việt Nam từ góc nhìn ngữ nghĩa học từ vựng tiếng Việt” (2000)

của GS. Đỗ Hữu Châu, Nxb. Khoa học Xã hội; “Vai trò của văn hóa trong đời

sống xã hội” (2001) của Thạc sĩ Trịnh Đình Bảy, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;

“Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam” của GS.TS. Lê Văn Quán;… là những

công trình nghiên cứu, chỉ ra nhiều vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển văn

hóa, làm cơ sở lý luận cho các nhà hoạch định chiến lược nước ta nghiên cứu xây

dựng đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc.

Ngoài ra, việc nghiên cứu vai trò của văn hóa, mối quan hệ biện chứng

giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa đối với sự phát triển cũng được

nhiều nhà khoa học quan tâm. Nhiều công trình có giá trị đã được công bố

như: “Văn hóa và đổi mới” (1994) của Phạm Văn Đồng, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới” (1996) do

GS.TS. Hoàng Vinh chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Tư tưởng

Page 9: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

7

Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam (1998) của nhiều tác giả, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Hiện đại hóa ở Việt Nam” (1997) của Nguyễn

Thế Nghĩa, Nxb. Khoa học xã hội; “Văn hóa Việt Nam – truyền thống và

hiện đại” (2000) do Viện Thông tin Khoa học xã hội tổng hợp và giới thiệu;

“Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ” (2001) do GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, TS. Phạm Văn Đức, TS.

Hồ Sĩ Quý (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Giá trị truyền

thống và những thách thức toàn cầu hóa” (2002) do GS.TS. Nguyễn Trọng

Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội; “Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận” (2001) do

GS.TSKH. Lê Ngọc Trà (Chủ biên), Nxb. Giáo dục;“Bản sắc văn hóa Việt

Nam” (1998) của Phan Ngọc, Nxb. Văn hóa thông tin; “Văn hóa và phát

triển trong bối cảnh toàn cầu hóa” (2006) của PGS.TS. Nguyễn Văn Dân,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; “Bản sắc dân tộc và hiện đại trong văn hóa”

(2000) của GS.VS. Hoàng Trinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Cơ sở

văn hóa Việt Nam” (2006) của Trần Quốc Vượng (chủ biên), Tô Ngọc

Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ Dung, Trần Thúy Anh, Nxb. Giáo dục, Hà

Nội; “Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam” (2000) của tập thể các nhà

nghiên cứu văn hóa: Trần Đình Nghiêm, Trần Hoàn, Nguyễn Phúc Khánh,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Văn hóa và thời đại” (2009) của Nguyễn

Chí Tình, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội;… Đây là những công trình của cá

nhân, tập thể các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu xoay quanh

vấn đề là làm thế nào để loại bỏ hay kế thừa những truyền thống văn hóa dân

tộc, vừa giữ gìn được bản sắc, nhưng cũng vừa thể hiện tính hiện đại của nền

văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong đó, có những tác

phẩm đề cập đến khuynh hướng vận động của nền văn hóa Việt Nam và

những giải pháp nhằm hoàn thiện văn hóa dân tộc trên một tầm cao mới.

Gần đây, những kết quả nghiên cứu mới của một số công trình dựa trên

cơ sở Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII được công bố như: “Xây dựng và

Page 10: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

8

phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thành tựu

và kinh nghiệm” (2004) do TS. Đỗ Minh Thúy chủ biên, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội; “Văn hóa và phát triển” (2005) của GS.TS. Đỗ Huy, Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội, nhằm đưa ra những định hướng xây dựng nền văn hóa

mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Có thể nói, trong nhiều năm qua, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa

truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa đã được rất nhiều

nhà khoa học nghiên cứu luận chứng và lý giải.

Ở đầu thế kỷ 21 này, bối cảnh mới của sự phát triển đang đặt văn học -

nghệ thuật Việt Nam trước yêu cầu phải giải quyết một số vấn đề lý luận - thực

tiễn mới. Hội thảo về tính dân tộc, tính hiện đại do Hội đồng lý luận, phê bình

văn học, nghệ thuật Trung ương mới tổ chức gần đây là một việc làm để đáp

ứng yêu cầu đó. Ðề dẫn của Hội thảo với chủ đề “Tính dân tộc và tính hiện đại

trong văn học - nghệ thuật Việt Nam hiện nay” được tổ chức vào hai ngày (04

và 05-8-2009), tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, đã viết: "Một cuộc xâm

nhập sâu rộng về văn hóa từ nhiều nguồn đang diễn ra dưới rất nhiều màu sắc,

thông qua hệ thống báo chí, dịch thuật, đầu tư, xuất nhập khẩu, du lịch, giao lưu,

hội thảo. Một số nước có cả những trung tâm văn hóa tại Hà Nội, đỡ đầu,

khuyến khích tập hợp khá đông đảo đội ngũ văn nghệ sĩ và công chúng văn

nghệ. Các thế lực thù địch không che giấu tham vọng biến văn hóa thành "đội

quân tiền trạm" hòng tác động, chuyển hóa tư tưởng, tình cảm, tâm lý, thói quen,

lẽ sống và cách sống của một bộ phận công chúng. Trong các hướng triển khai,

họ không quên chọn văn học - nghệ thuật làm mũi đột phá, vì đó là lĩnh vực

nhạy cảm nhất mà lại có ảnh hưởng xã hội rộng lớn”.

Những luận chứng và đề xuất khoa học về việc xây dựng nền văn hóa

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam nói chung và sự thống nhất và mâu

thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa nói riêng

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là những đóng góp quan trọng và rất

cần thiết đối với nhận thức và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc

Page 11: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

9

trong tiến trình đổi mới. Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu vai trò

của văn hóa đối với sự phát triển, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống

và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở tầm vĩ mô và khu vực, chưa có

công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này ở một địa phương cụ thể.

Ở Cần Thơ vấn đề văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền

thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa được đề cập trong các

văn kiện của Đảng và trong một số công trình khoa học như: công trình

nghiên cứu cấp Bộ của Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học

quốc gia Hồ Chí Minh: “Văn hóa Cần Thơ - Thực trạng và vấn đề giữ gìn,

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới

ở Việt Nam” (2001) do Thạc sĩ Thái Thị Thu Hương chủ nhiệm đề tài; Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XI, nhiệm kỳ 2005 - 2010;

“Chương trình xây dựng, phát triển văn hóa thông tin đến năm 2010 và định

hướng đến năm 2020” (2006) của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ; các

báo cáo chuyên đề, báo cáo tổng kết tình hình, thực trạng phát triển văn hóa ở

Cần Thơ các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009. Những công trình nghiên cứu

và những Nghị quyết, Chương trình, báo cáo này chỉ ra nhiều giải pháp có tính

định hướng cho phát triển văn hóa và sự bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa

ở Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề tài: “Sự thống nhất

và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn

hóa ở Cần Thơ” chỉ là một tiểu vùng của một tổng thể chung - vùng đồng bằng

sông Cửu Long.

Luận án sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống về tiến trình phát triển

biện chứng của văn hóa ở Cần Thơ dưới ánh sáng lý luận của chủ nghĩa Mác-

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận án cũng tiếp thu, hệ thống hóa quan

điểm của các công trình khoa học, các tác phẩm đã xuất bản quanh chủ đề

này và góp thêm một số suy nghĩ vào việc luận chứng trên bình diện triết học

cho quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà

Page 12: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

10

bản sắc dân tộc nói chung; sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và

hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

Mục đích của luận án là từ sự trình bày, phân tích lý luận chung về văn

hóa và những nội dung, đặc điểm của văn hóa ở Cần Thơ, luận án chỉ ra sự

thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại và đề ra những giải

pháp có tính định hướng trong sự phát triển văn hóa ở Cần Thơ.

Để đạt được mục đích đó, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ sau:

- Thứ nhất, trình bày, phân tích những vấn đề lý luận chung về văn

hóa, sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình

phát triển văn hóa.

- Thứ hai, trình bày, phân tích nội dung, đặc điểm của sự thống nhất và

mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở

Cần Thơ, đề xuất một số giải pháp phát triển văn hóa ở Cần Thơ trong sự

thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời còn sử dụng tổng hợp các phương

pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, diễn dịch và qui nạp, lôgich

và lịch sử, để nghiên cứu và trình bày luận án. Luận án được tiếp cận dưới góc

độ triết học văn hóa.

5. Cái mới của luận án

- Cái mới thứ nhất là, trên cơ sở lý luận chung về văn hóa, luận án

đã lý giải và phân tích rõ về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống

và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ.

- Cái mới thứ hai là, từ sự phân tích thực trạng văn hóa Cần Thơ,

luận án đề xuất một số giải pháp có tính định hướng góp phần vào phát

Page 13: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

11

triển văn hóa Cần Thơ trên cơ sở sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền

thống và hiện đại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án

Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần luận giải một cách hệ thống và

khoa học về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống với hiện đại trong

quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở Cần Thơ. Trên cơ sở đó, luận án góp

phần làm cho các cấp ủy đảng và chính quyền Cần Thơ nhận thức sâu sắc hơn,

đúng đắn hơn về vai trò của văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền

thống và hiện đại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Cần Thơ hiện nay.

Về thực tiễn, một số giải pháp có tính định hướng mà luận án đề xuất,

có thể góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề cơ bản trong quá trình

xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Cần

Thơ; bảo đảm văn hóa thật sự là một động lực tác động mạnh mẽ tới sự phát

triển kinh tế - xã hội.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham

khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn Triết học, Văn hóa học trong các

trường đại học và cao đẳng.

7. Kết cấu cơ bản của luận án

Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận án được kết cấu thành ba chương, sáu tiết.

Page 14: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

12

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA, SỰ THỐNG NHẤT VÀ

MÂU THUẪN GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA

1.1.1. Các quan điểm khác nhau về văn hóa

Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo nên, xuất hiện khá sớm

trong xã hội loài người. Phản ánh những giá trị văn hóa ấy trong lịch sử tư

tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm khác nhau. Ở Trung Quốc, từ “văn

hóa” có nguồn gốc từ chữ Hán, quẻ Bí trong Chu Dịch nói: “Quan sát dáng vẻ

con người để giáo hóa thiên hạ” (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ), nó

đã đề cập đến hai từ tố “văn” và “hóa”. Trong đó, “văn” với ý nghĩa là văn vẻ,

văn hoa, tốt đẹp; “hóa” là biến đổi, giáo hóa. Tổng hợp lại, văn hóa có ý nghĩa

là làm biến đổi, giáo hóa con người theo hướng tốt đẹp. Khổng Dĩnh Đạt trong

cuốn Chu Dịch chính nghĩa đã giải thích như sau: “Nói bậc thánh nhân quan

sát dáng vẻ con người, tức cái mà Thi, Thư, Lễ, Nhạc nói đến, theo cách dạy

đó để giáo hóa thiên hạ”. Lưu Hướng (khoảng năm 77 đến năm 6 TCN) đời

Tây Hán là người sử dụng từ “văn hóa” sớm nhất trong thiên Chỉ Vũ sách

Thuyết uyển viết: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức rồi sau mới

đến vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó với kẻ bất phục tùng; dùng văn

hóa không thay đổi được thì mới chinh phạt”. Ở đây văn hóa dùng như một

phương thức giáo hóa đối lập với chinh phạt; từ văn hóa gần nghĩa với giáo

hóa. Chung quy, theo cách hiểu trước kia, văn hóa là văn trị giáo hóa, là giáo

dục, cảm hóa bằng điển chương, lễ nhạc.

Trong Kinh Dịch người ta đã: (1) Ví văn hóa như ngón chân (bí kỳ chi),

là cơ sở, là điều kiện để con người đứng thẳng một cách tự tin. Từ đó, đầu

óc con người được giải phóng, mặc sức sáng tạo; bàn tay cũng được giải

Page 15: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

13

phóng trở thành công cụ để tái tạo ra thiên nhiên thứ hai - chính là văn hóa

vật thể. Đây là tiền đề lý luận để khẳng định rằng văn hóa là cơ sở, là nền

tảng của đời sống tinh thần. (2) Dựa theo quẻ Bí (Bí vi văn), ví văn hóa như

cái “râu”, râu chính là vật trang sức của con người. Văn hóa là sự biểu hiện

của thái cực sinh lưỡng nghi và coi đây là hình thức phát triển văn hóa. (3)

Quẻ Bí được biến từ quẻ Thái mà ra, quẻ Thái là cơ sở của sự phát triển và

trong công thức âm-dương chuyển hóa thì dương làm văn cho âm, khi âm

tới thì nó làm văn cho dương.

Do sự phát triển không ngừng và sự đa dạng của đời sống xã hội, tất yếu

làm cho nội dung của khái niệm văn hóa ngày càng phong phú, giúp cho các

nhà khoa học tiếp cận khái niệm văn hóa ở nhiều góc độ khác nhau.

Ở Trung Quốc, từ văn hóa được dùng hiện nay đã kế thừa hàm nghĩa

truyền thống nhưng lại cách tân theo hướng hiện đại. Theo các nhà nghiên cứu

Trung Quốc thì từ văn hóa hiện dùng là chuyển dịch qua tiếng Nhật từ thế kỷ

XIX. Người Nhật dịch chữ Culture, đọc là Bunka, người Trung Quốc căn cứ

theo cách hiểu truyền thống mà dịch là văn hóa.

Ở phương Tây, quan điểm của nhiều nhà khoa học, nhà nhân loại học,

dân tộc học thể hiện qua các công trình nghiên cứu phần lớn đều thống nhất

nhau ở chỗ: từ văn hóa đều bắt nguồn từ tiếng La-tinh, Cultura bao hàm ý

nghĩa trồng trọt, nuôi dưỡng, cư trú, luyện tập, lưu tâm… Từ đó mà có culture

(tiếng Anh, tiếng Pháp), kultur (tiếng Đức), kultura (tiếng Nga). Trong tiếng

Anh, Pháp, Đức, Nga hiện nay, từ culture vẫn giữ lại một số hàm nghĩa ban

đầu của tiếng La-tinh. Nhưng văn hóa là một thực thể năng động, luôn luôn

phát triển cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại. Dần dần hàm nghĩa

của nó được mở rộng và nó được chú ý như một đối tượng khoa học.

Khái niệm văn hóa được sử dụng phổ biến vào thế kỷ thứ XVIII, hiểu

như một thuật ngữ khoa học. Năm 1783, người ta chính thức đưa văn hóa vào

tự điển ở Đức. Người đầu tiên sử dụng khái niệm văn hóa là Puphenđooc: văn

hóa là toàn bộ những gì được đặt ra cho hoạt động xã hội, văn hóa là cái đối

Page 16: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

14

lập với trạng thái tự nhiên. Nhà triết học Đức Hécđơ (1744-1803), cho rằng

văn hóa là sự hình thành lần thứ hai của con người. Lần thứ nhất, con người

xuất hiện như một thực thể tự nhiên. Lần thứ hai, con người xuất hiện như một

thực thể xã hội, là một nhân cách văn hóa theo nghĩa trọn vẹn nhất của từ này.

Đến giữa thế kỷ XIX các ngành nhân loại học, dân tộc học phát triển

mạnh ở châu Âu và trên cơ sở đó học thuyết văn hóa, khoa văn hóa học ra đời.

Người đầu tiên đưa ra một định nghĩa về văn hóa như một đối tượng nghiên

cứu khoa học là nhà nhân loại học nước Anh E.B.Taylor trong cuốn Văn hóa

nguyên thủy (Primitive Culture) xuất bản năm 1871 ở Luân Đôn đã xem “Văn

hóa là một tổng thể phức tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo

đức, pháp luật, phong tục và cả những năng lực cũng như thói quen mà con

người đạt được với tư cách là một thành viên của xã hội” [63, tr.7].

Sau B.Taylo, khái niệm văn hóa được rất nhiều người đề cập đến. Năm

1885, với công trình Khoa học chung về văn hóa (2 tập) của Klemn người

Đức, trong đó ông trình bày sự phát sinh, phát triển toàn diện của loài người

như một lịch sử văn hóa, thì văn hóa mới thực sự trở thành đối tượng của một

khoa học riêng biệt. Còn thuật ngữ “Văn hóa học” (Kulturkunder tiếng Đức,

Culturology tiếng Anh) thì sau công trình The Science of Culture của L.White

xuất bản ở Mỹ năm 1949 mới trở thành phổ biến. Vào nửa đầu thế kỷ XX, các

nhà văn hóa học người Mỹ đã có nhiều cống hiến trong việc mở rộng đối

tượng và quy mô của văn hóa học. Năm 1952, người ta đưa ra công trình văn

hóa: “Tổng thuật phê phán các quan niệm về định nghĩa” - đó là Krôbơ và

Kluckhôn (người Mỹ) - phê phán tổng hợp 164 khái niệm văn hóa (157 định

nghĩa ra đời từ năm 1920-1950, 7 định nghĩa ra đời năm 1971). Cũng cần chú

ý các đóng góp của C.Lesvi-Strauss với cuốn Anthropologie Structural xuất

bản năm 1958 tại Paris, trong đó ông vận dụng phương pháp cấu trúc trong

ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu văn hóa. Sau đó, năm 1967 nhà văn hóa học

người Pháp là Môlesơ đưa ra 250 định nghĩa về văn hóa. Ở Việt Nam, năm

1994, GS. Phan Ngọc có công trình: “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận

Page 17: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

15

mới”, ông đưa ra tư liệu cho rằng một nhà dân tộc học người Mỹ đã thống kê

được có gần 400 định nghĩa về văn hóa. Từ năm 1970 trở đi, cách hiểu phổ

biến nhất về văn hóa là: văn hóa là bao gồm tất cả những gì làm cho một dân

tộc này khác với một dân tộc kia như tín ngưỡng, lối sống, hoạt động sản xuất

và hoạt động tinh thần.

Trong Bách khoa toàn thư của Pháp, văn hóa theo nghĩa rộng là tập tục,

tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, những hiểu biết kinh tế, kể

cả tổ chức con người. Đây chính là văn hóa vật chất, văn hóa vật chất bao

gồm: công cụ, nhà ở, sản phẩm công nghiệp. Văn hóa dùng để điều tiết những

quan hệ giữa con người với con người và xác định thái độ ứng xử của con

người đối với tự nhiên.

Vào năm 1982, trong Hội nghị thế giới về văn hóa, tại Mêhicô đã đưa ra

tuyên bố Mêhicô về chính sách văn hóa, lấy thập kỷ 90 là thập kỷ phát triển

văn hóa, đưa ra khái niệm về văn hóa theo nghĩa rộng: văn hóa là toàn bộ các

thuộc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một

xã hội hay một nhóm xã hội, chứ không phải chỉ bao gồm có nghệ thuật. Văn

hóa còn bao gồm lối sống, các quyền cơ bản của con người, các giá trị tín

ngưỡng, truyền thống của các dân tộc.

Sau đó tháng 4/1984, tại Thụy Điển, các nhà văn hóa nhắc lại định nghĩa

văn hóa Mêhicô 1982 và giải thích thêm lý do có nhiều cách tiếp cận các quan

niệm về văn hóa.

Văn hóa, theo R.W. Brislin, là nhân tố quan trọng bậc nhất của sự phát

triển con người và trở thành một khái niệm trung tâm của việc nghiên cứu xã

hội cũng như tâm lý học phát triển. Văn hóa là những giá trị tinh thần và vật

chất do con người tạo ra, là những gì mà con người bổ sung cho tự nhiên. Vì

thế, nó là một phần của môi trường sinh thái và luôn có ảnh hưởng, tác động

đến đạo đức và rộng hơn là nhân cách của cá nhân, đến sự phát triển của cộng

đồng và xã hội.

Page 18: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

16

Tổng Giám đốc UNESCO Federco Mayor đưa ra một định nghĩa về văn

hóa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt

của đời sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng

như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ

thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân

tộc tự khẳng định bản sắc của riêng mình” [68, tr.5-6].

Nhiều thập kỷ qua, trong tình hình kinh tế, xã hội phát triển mạnh, đã

xuất hiện những tác hại lớn do việc ít chú trọng xây dựng môi trường văn hóa;

do đó, văn hóa được đặc biệt coi trọng. Sự thực thì chính văn hóa mới là yếu tố

chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết sự phát triển của xã hội. Trước

nguy cơ môi trường văn hóa bị phá hoại và trước thực tế thất bại của các kế

hoạch phát triển kinh tế, xã hội mà không chú ý đến văn hóa, tháng 12 năm

1986, UNESCO (Tổ chức văn hóa giáo dục và khoa học Liên hiệp quốc) dưới

sự bảo trợ của Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã quyết định phát động Thập kỷ

phát triển văn hóa thế giới 1988 - 1997 với 4 mục tiêu:

1. Đảm bảo coi trọng đúng mức vai trò của văn hóa trong các kế hoạch,

chính sách và dự án phát triển.

2. Khẳng định và đề cao bản sắc văn hóa các dân tộc, khuyến khích tài

năng sáng tạo và cuộc sống có văn hóa.

3. Mở rộng việc huy động các nguồn lực và khả năng sáng tạo của cá

nhân và cộng đồng tham gia vào đời sống văn hóa.

4. Đẩy mạnh giao lưu và hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa.

Hưởng ứng Thập kỷ quốc tế văn hóa và phát triển do Liên hiệp quốc

phát động, Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia thập kỷ văn hóa và phát

triển. Điều đó chứng tỏ một tầm nhìn văn hóa, thể hiện cụ thể qua việc gắn sự

nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động đối với văn hóa: “Văn

hóa là đổi mới; Đổi mới là văn hóa” [33, 42-48].

Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam đã đặc biệt chú ý đến văn hóa và sáng tạo

văn hóa. Điều đó được thể hiện qua trống đồng Đông Sơn thời các vua Hùng

Page 19: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

17

với chức năng đánh giặc và tế lễ, với những bức tranh chạm khắc gợi lên một

cuộc sống đa dạng; thành Cổ Loa như một biểu tượng văn hóa… đã chứng tỏ

một tâm thức văn hóa của nước Âu Lạc. Trong thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc,

giá trị văn hóa Việt Nam biểu hiện cao nhất ở lòng yêu nước, ý chí độc lập tự

chủ được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí.

Cuối thời Bắc thuộc, sức quật cường của nền văn hóa Âu Lạc đã thôi thúc

hàng loạt cuộc nổi dậy quyết liệt của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Khúc Hạo,

Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh…dẫn đến việc thành lập nước

Đại Cồ Việt. Trong thời kỳ Bắc thuộc, chúng ta đã tiếp thu có chọn lọc kho

tàng văn hóa đồ sộ và phát triển đến trình độ cao của người Hán để tiếp biến

thành di sản văn hóa của chúng ta, trong đó có hai hiện tượng nổi bật nhất là

Nho giáo Việt Nam và chữ Nôm.

Cuối thế kỷ XIX, nước ta bị thực dân Pháp xâm lược gần một thế kỷ, nhưng

văn hóa Việt Nam chẳng những không bị đồng hóa mà còn thu nhận và tiếp biến

những tinh hoa văn hóa Tây Âu để làm giàu thêm hành trang văn hóa của mình.

Đến thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta vừa liên tục kháng chiến chống ngoại

xâm, vừa chống đói nghèo, dốt nát và lạc hậu, xây dựng một nền văn hóa tiên

tiến mang đậm màu sắc dân tộc. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí

Minh đã tố cáo sự áp bức văn hóa bên cạnh sự đô hộ về chính trị và bóc lột về

kinh tế của thực dân Pháp. Sau ngày độc lập, trong bộn bề công việc khẩn cấp,

Bác Hồ không quên công việc “chống giặc dốt” song song với “chống giặc

đói” và “giặc ngoại xâm”.

Chính từ tầm nhìn văn hóa ấy, năm 1943 Đảng Cộng sản Đông Dương

đã cho ra đời Đề cương văn hóa phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh, đã kịch liệt lên án các thứ văn hóa “nhắm

mắt theo Tàu”, “nhắm mắt theo Tây”, “lăm le theo Nhật”, xa rời truyền thống

dân tộc, xa rời cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Người đề ra ba nguyên tắc

lớn cho cuộc vận động Tân văn hóa đó là: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại

chúng hóa. Đây là một đóng góp quan trọng, là một cái mốc lịch sử đánh dấu

Page 20: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

18

sự nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa cũng như thuộc tính và chức năng

của văn hóa trong tiến trình giải phóng dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới.

Mặc dù Đề cương văn hóa đã có những đóng góp quan trọng trong việc

nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa, song ngành khoa học nghiên cứu về

văn hóa - văn hóa học cũng chỉ mới hình thành ở Việt Nam chưa bao lâu.

Ngay định nghĩa “văn hóa là gì?” cũng còn nhiều ý kiến khác nhau.

Sau khi Đề cương văn hóa ra đời, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học đi

sâu nghiên cứu những vấn đề về bản chất của văn hóa và đưa ra nhận định: nếu

coi văn hóa là đối tượng khoa học, nghĩa là đối tượng để phân tích, lý giải, thì

phải có một định nghĩa xác định rõ nội hàm và ngoại diên của khái niệm, cũng

đề cập được các thuộc tính và chức năng của đối tượng. Từ đó, có thể hiểu

định nghĩa văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được hình

thành, lưu truyền và phát triển qua quá trình sáng tạo của con người trong sự

tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội.

Định nghĩa này không đồng nhất văn hóa với hình thái ý thức xã hội,

mặc dù hình thái ý thức xã hội (chính trị, triết học, văn học, nghệ thuật…) là

một thành tố của văn hóa. Văn hóa không chỉ bao gồm giá trị văn hóa tinh thần

mà còn bao gồm cả giá trị văn hóa vật chất (văn vật, cảnh quan, kiến trúc…).

Văn hóa là sự thống nhất hữu cơ giữa giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa

tinh thần. Giá trị văn hóa vật chất là sự tổng hợp những tư liệu sản xuất và

những giá trị vật chất khác, tùy theo từng trình độ phát triển của xã hội. Khái

niệm giá trị văn hóa tinh thần bao gồm những thành tựu của xã hội trong lĩnh

vực khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, văn chương, lối sống, tập tục, tín ngưỡng

và những quyền cơ bản của con người, trong tổ chức đời sống và phương thức

hoạt động của nhà nước và xã hội, trong phong tục và pháp luật của từng thời

kỳ lịch sử. Văn hóa tinh thần phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất, nội dung

và tính chất của nó do chế độ kinh tế, xã hội quyết định. Trong xã hội có giai

cấp, văn hóa mang tính chất giai cấp, do đó giai cấp tiến bộ là người đại diện

cho văn hóa tiên tiến, là văn hóa vì con người. Cùng với sự ra đời và hình

Page 21: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

19

thành các dân tộc, văn hóa phát triển dưới các hình thức dân tộc. Nội dung của

văn hóa cũng rất phong phú, nhưng chung quy có thể xác định trong bốn mặt:

các thành tựu thuộc văn hóa vật chất, các thành tựu của văn hóa nhận thức

(nhân sinh quan, thế giới quan, triết học, mỹ học, văn học, nghệ thuật…), các

thành tựu của văn hóa ứng xử (bao gồm các thang giá trị trong cách ứng xử với

thiên nhiên và ứng xử với con người, với gia đình, với xã hội…), các thành tựu

của văn hóa tổ chức đời sống (bao gồm các thang giá trị trong cách tổ chức đời

sống gia đình, cộng đồng, xã hội…). Nội dung đó đã xác định nội hàm và

ngoại diên của khái niệm văn hóa. Không thể coi văn hóa là tất cả, văn hóa là

những thành tựu được thăng hoa thành vẻ đẹp (chữ văn có nghĩa gốc là vẻ

đẹp), cũng không thể hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp, ví dụ nâng cao trình độ văn

hóa, thường chỉ dùng để chỉ học vấn, kiến thức; ngành văn hóa thường chỉ

quản lý các thư viện, bảo tàng.

Định nghĩa văn hóa vừa nêu trên đã bao hàm bốn thuộc tính và đi liền

với nó là bốn chức năng cơ bản của văn hóa. Đó là: tính hệ thống với chức

năng tổ chức xã hội; tính giá trị với chức năng điều tiết xã hội; tính lịch sử với

chức năng giáo dục và tính nhân bản với chức năng giao tiếp [75, 14-15].

Tính hệ thống là thuộc tính hàng đầu của văn hóa. Hệ thống, được hiểu

là một tổ hợp hữu cơ, bao gồm nhiều thành tố có quan hệ khăng khít với nhau,

tương tác tương thành, chi phối và chế ước lẫn nhau. Ba nội dung cơ bản của

văn hóa là văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử (với tự nhiên và xã hội), văn hóa

tổ chức đời sống (gia đình, xã hội) kết hợp trong một hệ thống hữu cơ. Trong

đó, văn hóa nhận thức có vai trò chi phối, chế ước tất cả. Chính nhờ tính hệ

thống mà văn hóa thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Văn hóa làm tăng

thêm sự cố kết cộng đồng, tạo nên sự ổn định xã hội, cung cấp cách ứng xử

thích hợp đối với môi trường tự nhiên và xã hội.

Tính giá trị là thuộc tính thứ hai của văn hóa. Văn hóa không chỉ bao

gồm các giá trị đẹp hình thức. Nó còn là thước đo mức độ nhân bản của một

con người, một xã hội. Nó cho phép phân biệt văn hóa với phi văn hóa, phản

Page 22: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

20

văn hóa. Theo nghĩa đó, có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá

trị thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ thường dành riêng cho các sáng tạo trong các loại

hình nghệ thuật với ba tiêu chuẩn cơ bản: Chân (đúng, thật), thiện (tốt, lành),

mỹ (đẹp, hay). Theo thời gian có thể chia thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất

thời (và lỗi thời). Theo không gian có thể chia thành giá trị cục bộ (một vùng)

và giá trị phổ biến.

Căn cứ vào các thang giá trị mà xã hội thường xuyên chấp nhận, sàng

lọc, điều chỉnh để duy trì sự ổn định và không ngừng tự hoàn thiện. Đó chính

là chức năng điều chỉnh xã hội của văn hóa. Trong sự phát triển mạnh mẽ của

kinh tế, xã hội hiện nay, UNESCO đã cảnh tỉnh các nhà hoạch định “văn hóa

giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát triển”.

Tính lịch sử, đây là thuộc tính được xác định bởi bề dày và chiều sâu của

văn hóa. Một nền văn hóa bao giờ cũng được hình thành qua nhiều thế hệ trên

chiều dài lịch sử. Nó tạo nên truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là sự

tiếp nối không đứt đoạn của phép nước lệ làng, của các tín điều luân lý, của

phong tục tập quán, của các chuẩn mực giá trị… Nhưng văn hóa vốn là một

thực thể năng động, luôn luôn nằm trong trạng thái giao lưu. Nó không hề đóng

cửa từ chối những cái mới đến từ bên ngoài. Có điều quá trình tiếp nhận những

nhân tố ngoại lai thường là quá trình tiếp biến chứ không hề là tiếp thu thụ động.

Truyền thống văn hóa luôn luôn thực hiện chức năng giáo dục của mình

đối với con người. Bằng con đường giáo dục hữu thức và vô thức từ khi chào

đời cho đến khi trưởng thành, con người nhận được sự dạy bảo của truyền

thống văn hóa. Tư tưởng chiến lược “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích

trăm năm trồng người” của Hồ Chí Minh [51, 310] không chỉ đề cập đến vị trí

quan trọng của giáo dục theo nghĩa hẹp (sự dạy dỗ trong nhà trường) mà còn ý

thức đầy đủ đến chức năng và tác dụng của văn hóa trong việc hình thành nhân

cách con người.

Tính nhân bản là thuộc tính thứ tư của văn hóa. Văn hóa là thành quả

sáng tạo của con người. Thuộc tính này cho phép phân biệt văn hóa với những

Page 23: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

21

giá trị tự nhiên chưa qua bàn tay sáng tạo của con người (một đất nước có thể

giàu khoáng sản, dầu mỏ, nguồn lợi thiên nhiên nhưng chưa hẳn giàu có về văn

hóa). Thuộc tính này xác định thang giá trị của nền văn hóa, bởi vì xét cho

cùng, văn hóa do con người sáng tạo ra và nhằm phục vụ lợi ích của con

người. Các nền văn hóa tuy có những nét độc đáo mang sắc thái dân tộc riêng

nhưng vẫn có chung một đặc điểm là vì con người, vì cuộc sống con người.

Nhờ đặc điểm chung đó mà văn hóa thực hiện chức năng giao tiếp của nó giữa

con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc kia. Cho dù văn tự,

ngôn ngữ khác nhau, nhưng loài người vẫn cảm thông được với nhau. Đó

chính là nhờ văn hóa. Nếu ngôn ngữ là công cụ giao tiếp thì văn hóa chính là

nội dung của giao tiếp.

Trên đây là bốn thuộc tính gắn liền với bốn chức năng cơ bản của văn

hóa. Những thuộc tính của văn hóa giúp chúng ta phân biệt văn hóa với các khái

niệm văn minh, văn hiến, văn vật. Văn minh (civilization) là trình độ đạt được

trong phát triển văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của loài người trong từng

giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn: văn minh cổ đại, tiêu biểu là sự phát

triển rực rỡ của các quốc gia Ai Cập, Lưỡng Hà, Hi Lạp, La Mã… cổ đại; văn

minh hiện đại, gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp của chủ nghĩa tư bản.

Văn minh hiện đại còn được chia ra: văn minh công nghiệp, văn minh hậu công

nghiệp và văn minh tin học (còn gọi là nền văn minh thứ ba) - gắn liền với cuộc

cách mạng trong kỹ thuật điện tử và tin học hiện nay mà loài người đang đặt

những bước chân đầu tiên vào nhưỡng cửa của nó. Theo nghĩa thông thường,

văn minh đối lập với những gì lạc hậu, dã man, phản tiến bộ, phi nhân tính.

Trong sự phân kỳ xã hội loài người, người ta chia ra ba giai đoạn: mông muội,

dã man và văn minh. Như vậy, văn minh còn là một giai đoạn trong sự phát

triển nhân loại. Khi trong xã hội xuất hiện nhà nước thì loài người chuyển từ giai

đoạn dã man sang văn minh [78, 821]. Văn hóa giàu tính nhân bản, hướng tới

những giá trị muôn thuở, trong khi văn minh hướng tới sự hợp lý, sắp đặt cuộc

sống sao cho tiện lợi. Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử, trong

Page 24: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

22

khi văn hóa được xác định bởi bề dày và chiều sâu thì văn minh chỉ là mặt cắt

đồng đại; một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một truyền thống văn hóa lâu đời,

ngược lại một quốc gia văn minh có thể nghèo nàn về văn hóa. Còn văn hiến và

văn vật là những khái niệm có từ chữ Hán nhưng cách dùng trong tiếng Việt thì

đã được Việt hóa. Trong tiếng Hán, văn hiến chỉ có nghĩa là sách vở, điển tích

và chuyện về các bậc hiền minh. Trong tiếng Việt, văn hiến là truyền thống văn

hóa tốt đẹp và lâu đời (đất nước ngàn năm văn hiến), nguyên nghĩa là văn

chương, sách vở hay, bảo tồn truyền thống văn hóa lâu đời [78, 798]. Văn vật

trong tiếng Hán chỉ điển chương, lễ nhạc (sản phẩm cụ thể của văn hóa). Trong

tiếng Việt văn vật là một bộ phận của văn hóa. Văn là vẻ đẹp, vật là các sản

phẩm do con người sáng tạo ra có giá trị nghệ thuật và sức sống lâu dài. Văn vật

được biểu hiện dưới dạng vật thể như các công trình kiến trúc, di tích, hiện vật

quý hiếm có giá trị nghệ thuật và hàm lượng văn hóa cao [78, 826]. Chung quy,

văn minh, văn hiến, văn vật là những khái niệm phái sinh của văn hóa, cũng có

thể hiểu là khái niệm bộ phận của văn hóa, bởi vì văn hóa bao giờ cũng được

dùng với một hàm nghĩa bao quát hơn.

1.1.2. Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về văn hóa

Khi xây dựng nên những quan điểm và nguyên lý của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đi

đến kết luận rằng: sản xuất vật chất là cơ sở, là nền tảng, là cái quyết định sự

vận động và phát triển xã hội. Rằng, xét đến cùng, nguyên nhân sâu xa của mọi

sự vận động, biến đổi và phát triển của đời sống xã hội là những nhân tố thuộc

về đời sống vật chất, thuộc về nền sản xuất xã hội. Và khi thừa nhận vai trò

quyết định của đời sống vật chất xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gián tiếp

thừa nhận vai trò quyết định của văn hóa (văn hóa vật chất) đối với sự phát

triển xã hội. Bởi lẽ, trong quan niệm của các ông, văn hóa là toàn bộ những

thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người - hoạt

động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con người,

Page 25: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

23

C.Mác xem văn hóa là “thiên nhiên thứ hai” - thiên nhiên được con người cải

tiến, được nhân hóa, mang ý nghĩa và nội dung con người.

Thật vậy, cách đây hơn 150 năm, trong Bản thảo Kinh tế - Triết học

năm 1884, C.Mác đã viết: “Việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc

cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con người với tư cách là

một sinh vật có tính loài, có ý thức, nghĩa là sinh vật đối xử với loài như với

bản chất của chính mình, hoặc đối xử với bản thân mình như với một sinh vật

có tính loài… Cho nên chính trong việc cải biến thế giới vật thể, con người lần

đầu tiên thực sự khẳng định mình là một sinh vật có tính loài. Sự sản xuất đó là

đời sống có tính loài tích cực của con người. Nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên

biểu hiện ra là tác phẩm của nó (con người) và thực tại của nó” [12, 136 - 137).

Với tư cách là “Tác phẩm của con người”, là “thực tại” - “giới tự nhiên thứ

hai” của con người, văn hóa đã được C.Mác đồng nhất với phương thức hoạt

động sống đặc thù, phương thức hoạt động sống riêng có của con người -

phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo, hoạt động sản xuất vật

chất của mình để biến đổi và cải tạo giới tự nhiên xung quanh mình, cải tạo

hiện thực khách quan, và “xây dựng” hiện thực khách quan (“thực tại”) cho

mình, “tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” - “giới tự nhiên thứ hai”, giới tự

nhiên cho mình “theo quy luật của cái đẹp” [12, 137].

Từ quan điểm về văn hóa như trên, C.Mác coi văn hóa là cái phản ánh

tính đặc thù của hoạt động con người và sự tồn tại cũng với tính đặc thù như

vậy của con người trong thế giới. Rằng văn hóa chỉ xuất hiện khi con người ý

thức một cách rõ ràng về đời sống xã hội của họ, về hoạt động lao động sáng

tạo, hoạt động sản xuất vật chất để cải tạo và biến đổi tự nhiên vì sự tồn tại và

phát triển của chính họ, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn của họ. Nói cách

khác, trong quan điểm của C.Mác, văn hóa là cái phản ánh việc con người tự ý

thức về vai trò độc lập của mình, về khả năng và năng lực sáng tạo của mình

trong việc cải tạo và biến đổi tự nhiên.

Page 26: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

24

Về chủ thể của văn hóa, C.Mác cho rằng: chủ thể của văn hóa là con

người, văn hóa là văn hóa của con người, do con người tạo ra cho chính mình và

con người sử dụng cái do chính mình tạo ra là văn hóa để phát triển năng lực

bản chất của mình trong quá trình cải tạo và biến đổi tự nhiên. Bằng hoạt động

lao động sản xuất của mình, con người không chỉ cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội,

mà còn cải tạo chính bản thân mình. Trong quá trình cải tạo tự nhiên, cải tạo xã

hội và cải tạo chính mình, con người ngày càng ý thức một cách rõ ràng hơn sức

mạnh sản xuất xã hội của lao động con người và họ cũng ngày càng ý thức một

cách đầy đủ hơn khả năng, năng lực sáng tạo mang bản chất người - tái sản xuất

ra giới tự nhiên, “xây dựng” giới tự nhiên cho chính con người “theo quy luật

của cái đẹp”. Bằng cách đó, bằng hoạt động lao động sáng tạo đó và chính sự

tồn tại của mình trong thế giới hiện thực, con người đã tự xác định cho mình

ranh giới phân biệt phương thức hoạt động sống của họ với phương thức hoạt

động sinh tồn của loài vật. Và ranh giới đó chính là văn hóa.

Theo quan điểm của C.Mác, văn hóa là cái thể hiện sự giải phóng của

con người, sự tự giải phóng của con người khỏi những ràng buộc và sự thống

trị với một sức mạnh bí ẩn của thế giới tự nhiên và thế giới “Thần thánh” mà

con người tưởng tượng ra do sự bất lực của mình trước giới tự nhiên đầy bí ẩn.

Văn hóa là cái ghi nhận lĩnh vực hiện thực được quy định không phải bởi tính

thiết yếu tự nhiên và sự tiền định của Thượng đế hay một đấng sáng tạo nào

đó, mà bởi hoạt động lao động sáng tạo của con người với tư cách một thực thể

độc lập, có ý thức, có năng lực tư duy và khả năng, năng lực lao động sáng tạo.

Do vậy, khi nói tới văn hóa không phải là nói tới cái thế giới sự vật và các tư

tưởng tự nó, mà là nói tới con người đã tạo ra nó. Song, sự phát triển của con

người lại chính là kết quả của quá trình hoạt động có ý thức, lao động sáng tạo

của bản thân con người, và do vậy mà nói tới văn hóa là nói tới hoạt động có ý

thức, lao động sáng tạo của con người và kết quả của hoạt động lao động đó.

Cũng do vậy, qua hình thức văn hóa của vật thể, chúng ta có thể phán xét về

con người đã tạo ra những vật thể văn hóa đó, về những đặc trưng, tính chất

Page 27: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

25

của thời đại đã sản sinh ra chúng về trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm

mỹ của con người trong một thời đại lịch sử nào đó.

Quan điểm của C.Mác còn cho thấy, văn hóa là cái thể hiện sức mạnh xã

hội của hoạt động lao động sản xuất của con người. Và hoạt động lao động sản

xuất của con người - cái thể hiện năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo

ra toàn bộ sự phong phú, đa dạng cho tồn tại đích thực của con người, hình

thành mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên xung quanh và quan hệ

của con người với con người trong cộng đồng xã hội - chính là cội nguồn của

văn hóa. Song, nội dung của văn hóa không chỉ thể hiện ra ở đó, ở hoạt động

lao động sản xuất của con người, mà còn thể hiện ra ở sự phát triển của bản

thân con người trong toàn bộ tính đa dạng và toàn diện của sự tồn tại xã hội

của con người, ở sự phát triển và hoàn thiện của con người cả về thể xác lẫn

tâm hồn, cả về đạo đức lẫn năng lực trí tuệ của con người. Theo đó, văn hóa

với tư cách phương thức hoạt động sống đặc thù của con người cần phải được

hiểu là hoạt động đó không phải chỉ là hoạt động sản xuất nhằm tạo ra những

vật phẩm thiết yếu cho cuộc sống con người, mà còn là hoạt động tinh thần,

hoạt động giáo dục và khai sáng theo nghĩa rộng nhất của từ này để tạo nên

những sản phẩm tinh thần cho con người, cho thế giới con người, làm nên nền

tảng tinh thần của xã hội - cái ghi nhận tầm cao và chiều sâu phát triển của một

cộng đồng xã hội, tạo ra hệ các giá trị nhân đạo, nhân văn cho một cộng đồng

xã hội và là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với

người, với xã hội và với tự nhiên.

Khi coi văn hóa là phương thức hoạt động tinh thần của con người,

C.Mác coi văn hóa là lĩnh vực hoạt động tích cực của con người nhằm sản xuất

và tái sản xuất ra bản thân mình với tư cách một thực thể xã hội. Đó là hoạt

động của con người nhằm tạo ra một hệ thống những giá trị mang tính định

hướng cho sự phát triển ý thức con người và cho lối ứng xử của con người

trong cộng đồng xã hội. Với những hệ thống những giá trị định hướng này,

mỗi nền văn hóa trở thành một hệ thống những biểu tượng bao hàm trong đó

Page 28: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

26

các khuôn mẫu ứng xử xã hội của con người. Đó còn là hoạt động của con

người nhằm tạo ra một hệ thống những thể chế mà qua đó, những giá trị định

hướng được giữ gìn, lưu truyền và phổ biến trong cộng đồng xã hội, trở thành

tài sản của mỗi người, của tất cả mọi người trong cộng đồng xã hội ấy và làm

nên truyền thống văn hóa cho một cộng đồng xã hội.

Khái quát lại, trong quan điểm của C.Mác, hai phương thức hoạt động

sống mang tính nền tảng của con người, làm cho con người trở thành một thực

thể sinh học - xã hội, đưa con người “từ vương quốc của tất yếu sang vương

quốc của tự do”, đó là hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động sản xuất tinh

thần tồn tại không tách rời nhau mà thống nhất với nhau, tạo thành hoạt động

sản xuất xã hội - vật chất và tinh thần - sản xuất và tái sản xuất ra con người

trong hệ thống các quan hệ xã hội. Trong hoạt động sản xuất vật chất, con

người gián tiếp tạo ra chính mình với tư cách một thực thể sinh học, và đến

lượt mình, thực thể sinh học ấy phát triển và hoàn thiện các khả năng và sức

mạnh thân xác của nó. Trong hoạt động tinh thần, con người gián tiếp tạo ra

mình với tư cách một thực thể xã hội, và đến lượt mình, thực thể xã hội ấy phát

triển và hoàn thiện ý thức con người, sức mạnh trí tuệ, sức mạnh xã hội của nó.

Bằng hoạt động sản xuất xã hội ấy - hoạt động nền tảng của con người, con

người tạo ra nền văn hóa của mình, sống trong nền văn hóa đó và làm cho nền

văn hóa ấy ngày một phát triển, ngày một hoàn thiện vì cuộc sống ngày càng

cao đẹp của mình, vì một xã hội nhân đạo, nhân văn, công bằng, dân chủ, văn

minh. Đồng thời, thông qua kết quả của hoạt động nền tảng đó của mình, con

người phán xét toàn bộ lịch sử sinh thành và phát triển của nhân loại, thẩm

định hệ thống những giá trị con người, những giá trị định hướng cho hoạt động

con người, xác định cả nội hàm lẫn ngoại diên của hệ thống những giá trị ấy và

thể hiện chúng qua nền văn hóa của mình. Và theo đó, kết quả hoạt động của

con người trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học, v.v… cũng được

phản ánh trong nền văn hóa nhân loại và trở thành những yếu tố cấu thành nền

văn hóa ấy khi chúng mang ý nghĩa và nội dung con người.

Page 29: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

27

Trên tinh thần khoa học và nhân văn ấy, để tìm hiểu cội nguồn của văn

hóa, theo Ăngghen phải đặt nó trong quá trình hình thành loài người. Toàn bộ

ý kiến của Ph.Ăngghen về nguồn gốc loài người được trình bày trong bài Tác

dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người, là một

phần trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên. Tư tưởng chủ đạo trong bài viết

của ông là “lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”. Nhưng lao động ở

đây không chỉ là lao động chân tay thuần túy mà chủ yếu là lao động sáng tạo.

Ph.Ăngghen so sánh phương thức kiếm sống của loài vượn với lao động của xã

hội loài người: “Đàn vượn chỉ biết ăn hết sạch lương thực sẵn có trong khu vực

mà điều kiện địa lý hoặc là sự kháng cự của các đàn vượn bên cạnh đã hạn

định cho chúng” [13, 647]. Nói cách khác, loài vượn không biết tự tạo ra thức

ăn cho mình mà chỉ ăn những thứ có sẵn trong tự nhiên. Ph.Ăngghen gọi

phương thức kiếm ăn của loài vượn là “kinh tế cướp đoạt”. Ông nhận định,

“Nhưng tất cả những cái đó vẫn chưa phải là lao động, đúng theo ý nghĩa của

nó. Lao động bắt đầu cùng với việc chế tạo ra công cụ” [13, 648]. Như vậy,

chính lao động sáng tạo mới là động lực chính tác động vào quá trình chuyển

biến từ vượn thành người và đó cũng là cội nguồn của văn hóa, hay có thể nói,

lao động sáng tạo là bản chất của văn hóa.

Trong quá trình hoạt động cách mạng và xây dựng học thuyết khoa học

của mình, trong khi nhấn mạnh vai trò nguồn gốc, động lực, yếu tố quyết định

của kinh tế đối với sự phát triển xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn chú ý đến

vai trò quan trọng của yếu tố tinh thần, của văn hóa tinh thần đối với sự phát

triển kinh tế và văn hóa vật chất. Theo quan điểm của các ông, văn hóa không

chỉ tác động đến tiến trình lịch sử, mà còn “quyết định hình thức” của tiến trình

ấy; đồng thời, văn hóa còn định hướng và điều chỉnh toàn bộ hoạt động của

con người. Với ý nghĩa đó, văn hóa góp phần tạo nên nền tảng của sự phát

triển xã hội. Trong các tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen không dành

riêng một tác phẩm để trình bày hệ thống các quan điểm của mình về văn hóa,

Page 30: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

28

nhưng toàn bộ tư tưởng của các ông về vấn đề này được thể hiện rất sâu sắc

thông qua hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về con người và xã hội.

Kế thừa và phát triển quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về

văn hóa và vai trò của văn hóa trong công cuộc xây dựng xã hội mới, từ thực

tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã tiếp tục bổ

sung và phát triển những vấn đề lý luận về xây dựng nền văn hóa xã hội chủ

nghĩa, hình thành nên hệ thống lý luận về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi “Chính sách Cộng sản thời

chiến” được thay bằng “Chính sách kinh tế mới” (NEP) và trong bối cảnh

“buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội

đã thay đổi về căn bản”, V.I.Lênin đã chỉ rõ : “Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ

: Trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của

chúng ta vào đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính

quyền v.v… Ngày nay, trọng tâm ấy đã chuyển sang công tác hòa bình tổ chức

“văn hóa”.” [41, 428]. Vì vậy, tiến hành công tác văn hóa phải được coi là

nhiệm vụ trọng yếu, là một cuộc cách mạng thật sự trên quy mô toàn xã hội

trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Rõ ràng là, theo V.I.Lênin, ngay sau khi

giành được chính quyền, cùng với công cuộc xây dựng nền kinh tế mới, Đảng

và Nhà nước của giai cấp vô sản phải bắt tay ngay vào sự nghiệp xây dựng một

nền văn hóa mới bằng cách: chủ động, tích cực tiến hành công việc giáo dục,

không ngừng nâng cao trình độ học vấn, trình độ văn hóa, văn minh cho quần

chúng lao động; kế thừa và phát huy giá trị truyền thống dân tộc; đồng thời

tiếp thu có chọn lọc những thành tựu văn hóa, văn minh của nhân loại.

V.I.Lênin cho rằng, văn hóa là lĩnh vực mang tính khoa học và sáng

tạo. Để có thể xây dựng được nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, trước hết

cần phải kế thừa tất cả giá trị văn hóa được loài người làm ra trong lịch sử.

Ở đây, việc thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa hoàn toàn không đồng nhất

với việc xóa bỏ những giá trị văn hóa được con người tạo ra trong chế độ

ấy. Chính vì vậy, Người luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên và toàn bộ giai cấp

Page 31: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

29

vô sản “thấu hiểu” những điều ấy, phải tự mình biết “thu lượm” những giá

trị văn hóa trong quá khứ và biến nó thành nguồn năng lượng mới để xây

dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Ý thức rõ về thực trạng của nước Nga khi bước vào thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội vẫn còn là một nước tiểu nông, với nạn mù chữ phổ biến, với

“tình trạng thiếu văn hóa…”, V.I.Lênin luôn coi trọng những thành quả văn hóa,

văn minh nhân loại, nhất là những thành quả do chủ nghĩa tư bản đã tạo ra và

ông luôn trăn trở với nhiệm vụ : “Làm thế nào kết hợp được cách mạng vô sản

thắng lợi với văn hóa tư sản, với khoa học và kỹ thuật tư sản…” [42, 72]. Trên

cơ sở nền tảng tư tưởng, quan điểm của V.I.Lênin về văn hóa và con đường,

phương pháp xây dựng nền văn hóa mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội, những người cộng sản và nhân dân Xô viết đã xây dựng một quốc gia xã

hội chủ nghĩa hùng cường và một nền văn hóa, văn minh hàng đầu thế giới.

Như vậy, với tư cách là nhà lý luận và nhà hoạt động cách mạng,

ngay sau Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I. Lênin đã đưa ra và thực hiện

một kiểu mẫu về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa và phương pháp xây dựng

nó. Đó là nền văn hóa hiện đại, trong đó bao gồm những nhân tố cơ bản: 1-

Tính đảng vô sản gắn liền với tính khoa học và sáng tạo; 2- Tính dân tộc

và tính nhân dân sâu sắc yêu cầu phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc, đồng thời kế thừa những giá trị văn hóa được nhân loại sáng tạo ra

trong lịch sử; 3- Tính hiện đại của nền văn hóa đòi hỏi phải tiếp thu có

chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại.

Khái quát lại, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, bản chất

văn hóa là sáng tạo, là sự kết tinh năng lực bản chất con người. Văn hóa là

phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất con người gắn với

những hoạt động sống của họ, làm cho con người trở nên tốt đẹp hơn, hoàn

thiện hơn. Những nội dung đó cũng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hiểu

theo gốc độ này thì chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội mang những đặc trưng

của văn hóa, C.Mác khái quát mỗi bước con người tiến đến văn hóa là mỗi

Page 32: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

30

bước con người tiến đến tự do. Đến V.I.Lênin, tư tưởng đó đã được diễn đạt cụ

thể hơn khi ông đưa ra luận điểm về văn hóa xã hội chủ nghĩa do nhân dân lao

động xây dựng “Văn hóa vô sản = chủ nghĩa cộng sản”. Như vậy, xét trên

phương diện chung nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm bản chất văn hóa xã

hội chủ nghĩa chính là chủ nghĩa cộng sản, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ

nghĩa gắn liền với xây dựng xã hội cộng sản. Còn về phương diện lịch sử, nền

văn hóa xã hội chủ nghĩa ra đời là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất xã

hội chủ nghĩa đã hình thành. V.I.Lênin đã nói rằng: Văn hóa vô sản không phải

bỗng nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia

về văn hóa vô sản phát minh ra. Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy

luật của tổng số những kiến thức mà loài người tích lũy được dưới ách thống

trị của xã hôi tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu.

1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về văn hóa

Ngay sau khi nước ta độc lập, nhân dân ta bắt tay vào công cuộc xây

dựng xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định, để “biến một

xã hội dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao”, chúng ta phải phát

triển đồng thời cả kinh tế và văn hóa, lấy phát triển văn hóa làm cơ sở để

phát triển kinh tế.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, văn hóa là hoạt động sáng tạo và

toàn bộ sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người nhằm đáp ứng nhu cầu

tồn tại và phát triển của nhân loại, ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng

như mục đích cuộc sống, loài người sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ

viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công

cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ

những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [45, 431].

Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa là lối sống, là “phương thức” sống của

nhân loại được biểu hiện ở mỗi cộng đồng nhằm “thích ứng” với “yêu cầu đời

Page 33: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

31

sống”, yêu cầu sinh tồn của con người. Nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hóa

hay nói cách khác, văn hóa là kết quả sáng tạo của nhân dân. “Dứt khoát quần

chúng là người sáng tạo văn hóa”, “quần chúng là người sáng tạo, công nông

là người sáng tạo”. Văn hóa là lĩnh vực của các giá trị nhân văn, là trình độ

phát triển nhân tính ở con người. Cho nên nói đến văn hóa là nói đến việc nâng

cao năng lực nhân tính của các cá nhân và cộng đồng.

Quan điểm trên của Hồ Chí Minh phù hợp với quan niệm của thời đại ngày

nay. Hội nghị quốc tế Mêhicô do UNESCO tổ chức từ ngày 26 tháng 7 đến 06

tháng 8 năm 1982, có trên 100 nước tham dự, với trên 1.000 đại biểu đã chấp

nhận một quan niệm về văn hóa sau đây: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là

tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết

định tính cách của một số xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao

gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con

người, những hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Chính văn hóa đem

lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng

ta trở thành sinh vật đặc biệt, nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân

một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đoán được những giá trị

và thực thi những lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý

thức được bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên

những công trình vượt trội lên bản thân mình” [63, tr. 12-13].

Văn hóa là một bộ phận hợp thành của xã hội, một trong bốn thành tố

quan trọng, gắn chặt với đời sống xã hội: công cuộc kiến thiết nước nhà, có

bốn vấn đề cũng phải chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau: kinh tế,

chính trị, xã hội, văn hóa.

Trước đây, trong công cuộc đấu tranh của dân tộc, bảo vệ độc lập tự do,

Hồ Chí Minh coi “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận”, bên cạnh các mặt

trận chính trị, quân sự, ngoại giao, cũng trên tinh thần coi văn hóa là một bộ

phận của xã hội, Người nêu khẩu hiệu: “văn hóa hóa kháng chiến”, “kháng

chiến hóa văn hóa”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguồn gốc, bản chất xã

Page 34: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

32

hội của văn hóa khi gắn văn hóa với con người, với đời sống xã hội của con

người. Văn hóa là hoạt động sáng tạo các giá trị giúp con người vươn lên

“thích ứng với yêu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Văn hóa chính là

“mục đích cuộc sống” mà ngày nay chúng ta quan niệm là “mục tiêu của chủ

nghĩa xã hội”, mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Kế thừa, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, đặc biệt là quan điểm

của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác và tư tưởng của V.I.Lênin về văn hóa và

con đường, phương pháp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ năm 1943

trong “Đề cương văn hóa” Đảng ta đã khẳng định: Nền văn hóa nước ta mang

tính dân tộc, khoa học và đại chúng - đó là nền văn hóa vừa kế thừa, phát huy

bản sắc dân tộc vừa làm giàu cho mình bằng những tinh hoa văn hóa nhân loại.

Trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng

ta xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là

động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [29, 110-111]. Vì vậy, chúng

ta cần tập trung mọi nguồn lực để “xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo

đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh làm

cho sự phát triển xã hội” [29, 112].

Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: “ Văn hóa Việt Nam

là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc

Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhờ nền

tảng và sức mạnh văn hóa ấy mà dù có nhiều thời kỳ bị đô hộ, dân tộc ta

vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của mình, chẳng những không bị đồng

hóa, mà còn quật cường đứng dậy giành lại độc lập cho dân tộc, lấy sức ta

mà giải phóng cho ta” [31, 6]. Và: “Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa

mới, đặc biệt chú ý xây dựng quan hệ xã hội lành mạnh, khắc phục các

hiện tượng tiêu cực; giữ gìn và phát huy tinh thần dân chủ, nhân đạo, chủ

nghĩa anh hùng và những giá trị văn hóa khác của truyền thống dân tộc và

Page 35: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

33

cách mạng” [31, 20]. Không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được

văn học nghệ thuật trong việc xây dựng tính cách lành mạnh, tác động sâu

sắc vào việc đổi mới nếp suy nghĩ, lẽ sống của con người.

Tiếp tục phát triển và hoàn thiện các quan điểm, mục tiêu về văn hóa

của Đảng được thông qua tại các Đại hội trước, đặc biệt là trong Nghị

quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII),

Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương (khoá IX), Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã xác định: “Phát

triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” [32, 212] và “Đẩy mạnh việc

thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa đã được xác định trong Chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là “làm cho văn hóa thấm

sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị

mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc

và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn

hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế,

chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân…” [32, 212-213].

Đối với nước ta, văn hóa là mục tiêu, đồng thời là động lực của công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Văn hóa là hệ thống

những chuẩn mực giá trị tinh thần của dân tộc, thể hiện dưới những sắc

thái muôn hình muôn vẻ trên tất cả các lĩnh vực đời sống và hoạt động xã

hội. Những giá trị chuẩn mực đó được thể hiện trong nhiều lĩnh vực, nhiều

khía cạnh: (1) Lao động và sản xuất, ăn, ở, mặc, giao tiếp, hoạt động giới

tính; (2) Hệ thống các nhận thức, quan điểm và thể chế chính trị lưu hành

trong một chế độ và làm nền tảng chính trị cho chế độ đó; (3) Các tri thức

đại cương và chuyên ngành về tự nhiên và về xã hội con người tức học

vấn; (4) Các hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật; (5) Khoa học kỹ thuật

và công nghệ; (6) Nhu cầu và các hoạt động của thế giới tâm linh như tín

ngưỡng, tôn giáo, đức tin; (7) Đạo đức và nhân phẩm.

Page 36: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

34

Từ những nội dung đã được trình bày ở phần trên, có thể thấy rằng, có

nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo nghĩa thông dụng, văn hóa được

dùng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo

nghĩa chuyên biệt, văn hóa dùng để chỉ trình độ phát triển xã hội ở một giai

đoạn nào đó. Ví dụ: trong khai quật, có văn hóa Đông Sơn, Gò Mun, Đồng

Động, văn hóa thời đồ sắt, đồ đồng. Theo nghĩa rộng hơn, văn hóa bao gồm tất

cả từ những sản phẩm tinh thần cho đến sản phẩm vật chất do sự sáng tạo của

con người làm nên như: tín ngưỡng, phong tục, lối sống, cách thức lao động,

...Với cách hiểu rộng này, văn hóa mới là đối tượng đích thực của văn hóa học.

Tuy nhiên, theo nghĩa rộng này, trên thế giới cũng có hàng trăm định

nghĩa khác nhau về văn hóa. Cần lưu ý rằng, để định nghĩa một khái niệm nào

đó, trước hết cần xác định được những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là những

nét riêng biệt, tiêu biểu, “cần” và “đủ”. Cần tức là những cái gì mà thiếu nó thì

người ta không thể hiểu được. Ví dụ, nhận xét về một con người, phải xét quan

hệ trong gia đình và quan hệ ngoài xã hội. Đủ là những tiêu chuẩn, những

chuẩn mực để đánh giá về một sự vật, hiện tượng hay một con người. Ví dụ,

đánh giá một con người, theo quan niệm xưa “cái răng, cái tóc là góc con

người”, hoặc là qua cách ăn mặc…

Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay, có thể đưa ra

khái niệm văn hóa, theo quan điểm của tác giả: văn hóa là một hệ thống hữu

cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và được con

người tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn; những giá trị đó đáp ứng

được nhu cầu của cả cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận và được lưu

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa là biểu hiện của trình độ phát

triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

Về vị trí, vai trò của văn hóa cũng được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên

cứu, nhà văn hóa bàn luận, cơ bản đã thống nhất nhau ở những điểm: Văn hóa

là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như các phương thức tạo

ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ của loài người và sự

Page 37: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

35

truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hình thức khởi đầu và

nguồn gốc đầu tiên làm hình thành và phát triển văn hóa là lao động của con

người, phương thức thực hiện lao động và kết quả của lao động. Văn hóa được

chia thành hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.

Văn hóa vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được

thể hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra, từ các tư liệu sản xuất cho

đến các tư liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau

của xã hội thì các sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, phản ánh các giai

đoạn phát triển khác nhau của văn hóa.

Văn hóa tinh thần là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần, bao

gồm khoa học và mức độ áp dụng các thành tựu của khoa học vào sản xuất và

sinh hoạt, trình độ học vấn, tình trạng giáo dục, y tế, nghệ thuật, chuẩn mực

đạo đức trong hành vi của các thành viên xã hội, trình độ phát triển nhu cầu

của con người… Văn hóa tinh thần được ẩn chứa trong hình thức “vật thể”; tất

cả những cái đó sống và cộng tác với thế hệ hiện nay là bảo vật của toàn bộ sự

giàu có tinh thần con người. Văn hóa còn bao gồm cả những phong tục, tập

quán, những phương thức giao tiếp và ngôn ngữ. Ranh giới giữa văn hóa vật

chất và văn hóa tinh thần chỉ có tính chất tương đối.

Văn hóa, đó là thuộc tính bản chất, tộc loài của con người với các chức

năng: giáo dục, nhận thức, định hướng, đánh giá, xác định chuẩn mực của

hành vi, điều chỉnh các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song, cốt lõi trong các chức

năng của những giá trị văn hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức.

Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị (giá trị vật chất và giá trị tinh

thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Ngày nay, nền văn hóa nhân loại với tất cả tầm

vóc của nó gợi cho con người những điều tự hào cao cả và tinh thần trách

nhiệm; bên cạnh đó, con người không thể không lo lắng và thậm chí cả sợ hãi

trước vô số vấn đề của thế giới hiện đại.

Nói đến vai trò của văn hóa, trước hết nói đến tác động của các giá trị,

chuẩn mực văn hóa của một cộng đồng trong sự phát triển đời sống của toàn xã

Page 38: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

36

hội và của mỗi cá nhân. Giá trị văn hóa là các giá trị đạo đức, chính trị, xã hội,

thẩm mỹ… đáp ứng nhu cầu cơ bản của cả cộng đồng, được cộng đồng thừa

nhận như một lý tưởng, một khát vọng vươn tới. Chẳng hạn như lý tưởng “độc

lập”, “tự do” là khát vọng thiêng liêng của cả dân tộc ta “Không có gì quý hơn

độc lập, tự do”. Giá trị văn hóa cơ bản có vai trò như ngọn cờ vẫy gọi, tập hợp

cả cộng đồng phấn đấu cho mục đích chung của dân tộc. Nó là động lực tinh

thần thôi thúc người ta hành động vì mục tiêu chung. Văn hóa có vai trò “khai

sáng”, giáo dục, giáo hóa cho toàn xã hội. Nó thức tỉnh ý thức cộng đồng, soi

sáng con đường vươn tới hạnh phúc, củng cố niềm tin vào tương lai dân tộc.

Văn hóa có vai trò to lớn đối với sự hình thành nên mỗi con người, nó giữ vai

trò xã hội hóa cá nhân là “trồng người”, hay sinh thành nhân cách cá nhân.

Như đã trình bày ở phần trên, văn hóa theo nghĩa gốc phương Đông là

“hóa dân dịch tục”, đem cái văn mà giáo hóa con người, làm cho người ta

“hóa” ra có “văn”. Phương Tây coi “văn hóa” là “gieo trồng” trí tuệ, là giáo

dục con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp cả hai nền văn hóa Đông và Tây

để nói đến sự nghiệp trồng người của văn hóa. Văn hóa góp phần tích cực để

giải phóng con người (giác ngộ) khỏi cái ác, cái xấu trong cuộc “cách mạng

con người”, bằng giáo dục để khai mở những đức tính tốt đẹp của con người.

Đây chính là “thái độ cách mạng”, thông qua giáo dục mà tác động trực tiếp

vào tâm hồn con người bằng văn hóa. 1.2. SỰ THỐNG NHẤT VÀ MÂU THUẪN GIỮA TÍNH TRUYỀN THỐNG

VÀ HIỆN ĐẠI NHƯ MỘT QUY LUẬT PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HÓA

1.2.1. Khái niệm truyền thống trong văn hóa

Trước hết để làm rõ khái niệm về truyền thống văn hóa, cần làm rõ khái

niệm truyền thống. Từ “truyền thống” (tiếng La-tin là traditio, “hành vi lưu

truyền”) là từ động từ tradere, “chuyển sang cho người khác, giao, trao lại”.

Littré 1 đã phân biệt bốn nghĩa chính: (1) “Sự giao một cái gì đó cho một người

1. Littré - (Maximilien - Paul - Emile, 1801-1881), nhà ngôn ngữ học và nhà triết học thực chứng người Pháp, trong lĩnh vực ngôn ngữ học, tác phẩm nổi tiếng của ông là bộ Từ điển ngôn ngữ Pháp (Dictionnaire de langue franỗaise).

Page 39: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

37

nào đó”; (2) “Sự lưu truyền những sự kiện lịch sử, những thuyết tôn giáo,

những truyền thuyết, từ thế hệ này sang thế hệ nọ bằng con đường truyền khẩu

và không có bằng cớ chính thức và thành văn”; (3) “Đặc biệt, trong giáo hội

Giatô, sự lưu truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác sự hiểu biết những điều

thuộc về đạo và không hề có trong thánh thư”; (4) “Tất thảy những gì người

ta biết hoặc làm theo truyền thống, tức là bằng một sự lưu truyền từ thế hệ này

sang thế hệ nọ nhờ ở lời nói hay làm mẫu” (Từ vị ngôn ngữ Pháp). Các định

nghĩa do Littré đưa ra phù hợp với nghĩa đặc biệt, nghĩa pháp lý và lễ điển của

traditio trong bộ luật Lamã và trong một số sử dụng của luật xưa Pháp hoặc chỉ

hoàn giao các giáo chức, hoặc theo nghĩa chung của “sự lưu truyền”. Nhà tu từ

học Quintilien, trong cuốn Thể chế diễn thuyết 2 giải nghĩa traditio là “giáo

huấn” (enseignement). Về mặt ngữ nghĩa, cần tránh lẫn lộn giữa hai động từ

hàm ẩn trong khái niệm truyền thống: “trao” và “truyền” (remettre et

transmettre; tiếng latin: tradere và transmittere). Động từ thứ nhất phù hợp

với một vật được trao hay một vật được giao (chose remise ou objet livré) theo

quy ước hay khế ước giữa các bên. Động từ thứ hai đáp ứng chính hành vi

truyền cho nhau giữa các chủ thể, và chỉ định không những các nội dung mà cả

các quy trình và một chức năng có tầm phổ biến, bởi, cũng giống như sự phát

minh không thể quy giản vào sự miêu tả, vào lịch sử hay sự phân tích các đối

tượng được sáng tạo, truyền thống không thể quy giản vào sự miêu tả, vào lịch

sử hay sự phân tích các đối tượng được sáng tạo, truyền thống không thể quy

giản vào những “nội dung” được truyền (contemus transmis), mà đó là các sự

kiện, các phong tục, các học thuyết, các hệ ý thức hay thiết chế đặc biệt. Sự

thật, truyền thống không tự giới hạn ở sự bảo tồn cũng như ở sự truyền những

sở đắc trước đó: trên dòng đi của lịch sử, truyền thống tích hợp các hiện thể

2. Quintilien, nhà tu từ học La-tin ở thế kỷ thứ I, giáo sư tu từ học. Trong cuốn De institutione oatria (Thể chế diễn thuyết), ông chống lại xu hướng của những người đồng thời sử dụng tài hùng biện để làm nghề pháp luật học và nghề thầy cãi. Cuốn sách gồm những nghiên cứu đầy đủ để đào tạo một diễn giả và ở một số khía cạnh cũng là một chương trình giáo dục luân lý và văn học. Văn phong cuốn sách đẹp nổi tiếng và sự phê bình đúng đắn và xác đáng.

Page 40: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

38

mới (existants nouveaux) bằng cách thích nghi chúng với các hiện thể cũ. Bản

chất nó không chỉ có tính giáo dục, cũng không thuần túy mang tính tư tưởng:

nó còn hiện ra là có tính biện chứng và tính bản thể (ontologique). Truyền

thống làm thành mới cái đã là; nó không bị giới hạn ở làm cho biết một văn

hóa, bởi nó đồng nhất hóa với chính cuộc sống của một cộng đồng.

Còn theo Từ điển Hán Việt, truyền thống được định nghĩa là “Truyền

thống: đời nọ truyền xuống đời kia” [3, 505]. Từ điển của Trung Quốc, xuất

bản 1989: “Truyền thống là sức mạnh của tập quán xã hội được lưu truyền lại

từ lịch sử. Nó tồn tại ở các lĩnh vực, chế độ, tư tưởng, văn hóa, đạo đức.

Truyền thống có tác dụng khống chế vô hình đến hành vi xã hội của con

người. Truyền thống là biểu hiện tính kế thừa của lịch sử” [39, 10]. Theo Bách

khoa toàn thư Pháp: “Truyền thống, theo nghĩa tổng quát là tất cả những gì

người ta biết và thực hành bằng sự chuyển giao từ thế hệ này đến thế hệ khác,

thường là truyền miệng, hay bằng sự bảo tồn và noi theo những tập quán,

những cách ứng xử, những mẫu hình và tấm gương” [34, 15]. Từ điển chính trị

vắn tắt viết: “Truyền thống: di sản về xã hội và văn hóa được truyền từ thế hệ

này sang thế hệ khác và được duy trì trong suốt thời gian dài” [77, 41]. Theo

GS. Vũ Khiêu: “Truyền thống là những thói quen lâu đời đã được hình thành

trong nếp sống, nếp suy nghĩ và hành động của một dân tộc, một gia đình, một

dòng họ, một tập đoàn lịch sử” [40, 536]. Còn Phan Huy Lê thì cho rằng:

“Truyền thống là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những thói quen trong

tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định được hình

thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang

thế hệ khác” [43, 30].

Truyền thống văn hóa là khái niệm cơ bản về các yếu tố và các giá trị

văn hóa được chắt lọc, bảo tồn, lưu giữ truyền lại qua hoạt động thực tiễn của

các thế hệ thể hiện bản chất đặc thù của một cộng đồng người trong lịch sử.

Nói chung đó là mô hình cảm thụ, tư duy và hành động được thừa nhận nhiều

nhất trong đời sống mọi người, là tiêu chí của sự liên hệ và cảm thông lẫn nhau

Page 41: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

39

giữa cá nhân và xã hội. Truyền thống hình thành dần dần qua hoạt động lịch sử

của con người; sau khi hình thành nó có tính ổn định tương đối. Tuy truyền

thống bắt nguồn từ lịch sử nhưng không phải mọi thứ thuộc lịch sử đều là

truyền thống; chỉ có những gì được người ta chắt lọc, bảo tồn, kế thừa mới

được gọi là truyền thống. Vì vậy ở mọi dân tộc, khái niệm truyền thống thường

gắn liền với khái niệm bản sắc. Và đó cũng chính là tố chất cơ bản của truyền

thống mà ta rất chú ý đến ở đây.

Khi nói về truyền thống văn hóa, các nhà khoa học thường phân biệt hai

khái niệm văn hóa truyền thống và truyền thống văn hóa. Đây là hai khái niệm

không đồng nhất. Theo quan niệm của các nhà khoa học, văn hóa truyền thống

chỉ toàn bộ giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa tinh thần của một dân tộc

sáng tạo nên trong lịch sử, được kết tinh lại và tồn tại tương đối ổn định, là bản

sắc và cốt cách của dân tộc đó. Còn truyền thống văn hóa là tất cả những giá

trị văn hóa của một dân tộc được lưu truyền, kế thừa và phát triển liên tục

trong thực tiễn lịch sử, xã hội.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về truyền thống văn hóa, Hội

nghị Trung ương 5, khóa VIII của Đảng đã đúc kết ý kiến về các giá trị truyền

thống cơ bản của người Việt Nam để đưa ra một định nghĩa về bản sắc dân tộc

như sau: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của

cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm

đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự

cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình

- làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức

tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong

lối sống… bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu

hiện mang tính dân tộc độc đáo” [31, 56].

Cũng tất nhiên là các dân tộc khác nhau, với bối cảnh văn hóa khác nhau

sẽ có truyền thống văn hóa khác nhau. Cùng một dân tộc, trong các thời đại

khác nhau, hiểu về truyền thống văn hóa cũng không giống nhau: đây là ý

Page 42: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

40

nghĩa về một thực thể vận động như đã nói. Xét như vậy, truyền thống văn hóa

về thực chất chính là sự nhận thức, quan niệm giá trị, lựa chọn ứng xử và đồng

cảm của con người trong một thời đại cụ thể trước bước đi của lịch sử.

Từ đó, có thể rút ra khái niệm truyền thống văn hóa như sau: truyền

thống văn hóa là tổng thể những giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa

tinh thần của một cộng đồng người nhất định được sáng tạo ra trong lịch sử

và đã trở nên ổn định, là bản sắc, cốt cách của cộng đồng người hay dân

tộc đó, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó, truyền

thống bao giờ cũng mang ba đặc trưng cơ bản là: tính cộng đồng, tính ổn

định và tính lưu truyền. Tất nhiên, những đặc trưng đó chỉ có ý nghĩa

tương đối, vì bản thân truyền thống cũng có quá trình hình thành, phát

triển và biến đổi. Mỗi khi hoàn cảnh lịch sử, cơ sở kinh tế - xã hội và hệ tư

tưởng thay đổi thì truyền thống cũng có những biến đổi, vừa có mặt kế

thừa, phát triển, có mặt đào thải, loại bỏ, vừa có sự hình thành những

truyền thống mới. Ở một thời điểm lịch sử nhất định, di sản truyền thống

do lịch sử để lại bao giờ cũng hàm chứa những yếu tố tích cực và tiêu cực.

Trước hết, nói về những yếu tố tác động tích cực của giá trị truyền

thống văn hóa:

Cần khẳng định rằng những giá trị truyền thống cơ bản đã nêu vẫn có ý

nghĩa tác động tích cực đến việc xây dựng con người mới và nền văn hóa

đương đại. Lòng yêu nước không chỉ thể hiện ở tinh thần giữ nước, mà nó còn

hun đúc cho con người tinh thần quyết tâm xây dựng đất nước giàu đẹp. Lòng

tự cường dân tộc đã tiếp cho con người một sức mạnh để đưa đất nước nhập

vào dòng chảy phát triển của thế giới. Tinh thần cần cù sáng tạo đã giúp con

người và văn hóa đạt được những tiến bộ rất quan trọng. Cần cù sáng tạo được

thể hiện trong học tập, nghiên cứu và trong lao động sản xuất. Lòng khoan

dung cũng là một giá trị truyền thống quan trọng của dân tộc. Ở Việt Nam, xưa

ông cha ta có câu: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Cũng với

tinh thần khoan dung, chúng ta đang xây dựng một nền văn hóa có khả năng

Page 43: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

41

dung hợp các thành tựu tiến bộ của các nền văn hóa trên thế giới. Đức tính

giản dị cũng là một giá trị truyền thống văn hóa quan trọng của các dân tộc, đã

được Đảng và Bác Hồ nâng lên thành phương châm sống của con người mới

Việt Nam. Truyền thống thương người như thể thương thân cũng đang tạo cho

văn hóa Việt Nam một nét đẹp riêng và có tác động không nhỏ đến sự phát

triển con người và xã hội.

Tuy nhiên, nhiều người có thể nhận xét rằng, các giá trị văn hóa nói trên

thì cả thế giới đều có, vậy các giá trị đó có phải là bản sắc của riêng dân tộc ta

không? Điều này cũng đã có nhiều lý giải khác nhau, PGS. Hồ Sĩ Quý đưa ra

quan điểm về giá trị, tức là về vị trí khác nhau của các giá trị trong bảng giá trị

để phân biệt sự khác nhau giữa hệ thống giá trị phương Đông với hệ thống giá

trị phương Tây [67, 158]. GS. Nguyễn Trọng Chuẩn cho rằng “Dĩ nhiên, bất

cứ một dân tộc nào trên hành tinh này cũng đều có lòng yêu nước của họ. Lòng

yêu nước đó tuy một phần là tình cảm rất tự nhiên, nhưng mặt khác quan trọng

hơn, nó chính là sản phẩm của lịch sử, được hun đúc bởi chính lịch sử dân tộc”

[Nguyễn Trọng Chuẩn, Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu

phát triển,www.chungta.com, 18-11-2006].

Xét về góc độ khoa học, lòng yêu nước của một dân tộc hiển nhiên phải

được hình thành từ chính lịch sử của bản thân một dân tộc chứ không phải là

sự bắt chước dân tộc khác. Tình cảm yêu nước của một dân tộc xuất phát từ

tình cảm đối với mảnh đất đã sinh ra dân tộc đó, chứ không phải là người ta

yêu nước vì thấy dân tộc khác cũng yêu nước. Vì thế, tình cảm đó hiển nhiên

vẫn là bản sắc của một dân tộc, cho dù nó có thể giống với tình cảm của các

dân tộc khác. Như vậy, cần nhận thức bản sắc của một dân tộc không nhất thiết

phải là những đặc điểm của riêng của dân tộc đó, mà chỉ đơn giản nó là cái gốc

của dân tộc đó đúng với nghĩa của từ “bản sắc”. Cái gốc ấy nếu có giống

những cái gốc khác thì cũng là chuyện thường tình. Vấn đề là ở chỗ mỗi thế hệ

phải biết khai thác và phát huy cái gốc đó như thế nào để phát triển, chứ không

phải là cứ nhất thiết phải chứng minh và phân biệt sự hơn thua về bản sắc giữa

Page 44: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

42

các dân tộc. Đó mới chính là tinh thần cốt lõi của vấn đề phát huy truyền thống

để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Lịch sử của dân tộc Việt Nam có đặc điểm riêng, không giống bất cứ

dân tộc nào trên thế giới. Qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước là lịch sử

đấu tranh hết sức anh dũng để chống thù trong, giặc ngoài; một dân tộc nhỏ bé

phải chống lại những đế quốc hung hãn và hùng mạnh, có tiềm lực quân sự

hơn mình rất nhiều lần. Vì lẽ sinh tồn, kiên quyết không chịu mất nước, không

chịu làm nô lệ, với lòng yêu quê hương, Tổ quốc tha thiết, bằng ý chí kiên

cường và sức mạnh cố kết cộng đồng, bằng trí tuệ của mình, dân tộc Việt Nam

đã vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách viết nên những trang sử hào hùng

hiếm có. Trong suốt chiều dài lịch sử, tinh thần yêu nước của dân tộc Việt

Nam có sự phát triển về chất, được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước, bởi

tinh thần yêu nước được thể hiện thành hệ thống trên nhiều phương diện, từ tư

tưởng, triết lý, đến nghệ thuật quân sự, đến văn hóa nghệ thuật; từ trong quan

niệm nhân sinh đến lối sống, đến nhân cách; từ ý thức giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc để duy trì nòi giống về mặt tinh thần đến ý thức tiếp nhận

giá trị văn hóa nhân loại để phát triển dân tộc và con người. Giá trị sâu sắc, to

lớn của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử là các lực

lượng tiên tiến lãnh đạo đất nước, luôn luôn giương cao ngọn cờ đại nghĩa vì

nước, vì dân để tập hợp, đoàn kết dân tộc nhằm bảo vệ nền độc lập tự chủ của

Tổ quốc. Những giá trị của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không chỉ thể hiện

trong đời sống hiện thực, mà còn được định hình trong các công trình văn hóa

mang tính bác học, ở những nhân cách tiêu biểu của các anh hùng, danh nhân

dân tộc mà đỉnh cao là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đó là nguồn sức mạnh để

phục hưng dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị cốt lõi của văn hóa Việt

Nam, là giá trị hàng đầu của hệ giá trị văn hóa Việt Nam, nó liên kết các giá trị

để tạo ra nguồn sức mạnh, quyết định sự tồn tại và phát triển của dân tộc trong

tiến trình lịch sử, quá khứ, hiện tại cũng như tương lai. Đúng như V.I. Lênin

nói: Chủ nghĩa yêu nước nói chung là “một trong những tình cảm sâu sắc nhất,

Page 45: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

43

đã được củng cố qua hàng trăm, hàng nghìn năm của các dân tộc biệt lập”

[41,226]. Vì vậy, có thể khẳng định rằng tinh thần yêu nước - chủ nghĩa yêu

nước Việt Nam là bản sắc của dân tộc Việt Nam qua mấy ngàn năm dựng

nước và giữ nước.

Thứ hai, những yếu tố truyền thống tác động tiêu cực đến lối sống và

văn hóa được thể hiện trên các mặt:

Như đã nói ở phần trên, từ quan điểm lịch sử, không phải mọi truyền

thống văn hóa đều có những giá trị tích cực như nhau, thậm chí có những

truyền thống ở thời kỳ này có giá trị tích cực, nhưng ở giai đoạn khác lại có giá

trị tiêu cực. Cũng có truyền thống khi được phát huy theo quan điểm khoa học

và tiến bộ thì sẽ đem lại giá trị tích cực, còn khi được khai thác theo quan điểm

phản khoa học và phản tiến bộ thì sẽ có tác động tiêu cực.

Ở nước ta hiện nay, trong lĩnh vực văn hóa tập tục, nhiều yếu tố lạc hậu,

phản tiến bộ đã được hạn chế. Tuy nhiên, trong thời đại hội nhập quốc tế, giao

lưu văn hóa thì nhiều hủ tục khác lại đang có cơ hội được phục hồi trở lại với

nhiều mức độ khác nhau, hủ tục về ma chay cũng vẫn còn tồn tại khá nặng nề

ở một số nơi.

Trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thống “tôn sư trọng đạo” và

hiếu học của người phương Đông trước đây là một nét đẹp văn hóa. Còn bây

giờ do ảnh hưởng của mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự quan tâm giáo dục

của nhà trường, gia đình và xã hội chưa đồng bộ, chưa sâu sắc, kỷ cương trong

nhà trường bị buông lỏng dẫn đến tình trạng dạy thêm tràn lan, truyền thụ kiến

thức cho học sinh một cách máy móc; chỉ chú trọng dạy chữ, ít chú trong việc

dạy người nên trò không tôn trọng thầy… làm cho truyền thống tôn sư trọng

đạo vốn là truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam dần bị mai một,

điều này hiện nay đang bị dư luận xã hội lên tiếng phê phán.

Page 46: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

44

Trong lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng - tôn giáo3 cũng đang bị lợi dụng,

làm cho nạn mê tín dị đoan tăng lên. Lễ hội tràn lan. Lễ hội cũ được phục hồi,

lễ hội mới được sáng tạo thêm [đã có thống kê trong tháng Giêng, năm 2009 cả

nước đã có tới 1.000 lễ hội, trong đó có 65 lễ hội cấp quốc gia; còn tính cả năm

thì nước ta có khoảng 9.000 lễ hội thuộc đủ các loại và các cấp (Đài tiếng nói

Việt Nam đưa tin ngày 02-3-2009)]. Tất nhiên, vui chơi là một nhu cầu chính

đáng, nhưng vui chơi triền miên là một sự lãng phí tiền của và thời gian. Rõ

ràng, tập tục “Tháng Giêng là tháng ăn chơi; tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội

hè” đang tác động tiêu cực đến con người và văn hóa Việt Nam. Có thể nói,

hiện tượng lễ bái và tình trạng lễ hội tràn lan đang là một trong những vấn đề

nhức nhối của văn hóa Việt Nam. Tình trạng trên có cả nguyên nhân bên trong

lẫn nguyên nhân bên ngoài.

Nguyên nhân bên trong: (1) Tâm lý, con người tin rằng, có những sức

mạnh vô hình đang ngự trị; sau những tháng ngày lao động vất vả, con người

có xu hướng muốn nghỉ ngơi, giải tỏa các lo toan vướng bận trong cuộc sống.

Tất nhiên, tự thân nguyên nhân này không mang tính tiêu cực. Chỉ khi nào bị

lợi dụng và được kết hợp với các nguyên nhân khác thì nó mới tạo ra tác động

tiêu cực. (2) Trình độ dân trí chưa được cập nhật và nâng cao một cách có hệ

thống, chưa kế thừa đúng đắn truyền thống văn hóa.

Nguyên nhân bên ngoài: không thể không kể đến một nguyên nhân bên

ngoài rất quan trọng là tác động của toàn cầu hóa văn hóa dưới sự hậu thuẫn

của toàn cầu hóa kinh tế. Trong những ngày lễ, các nhà kinh doanh thực hiện

một chiến dịch quảng cáo rầm rộ để tiêu thụ các sản phẩm ăn theo. Còn các

phương tiện truyền thông thì tuyên truyền a dua thiếu chủ kiến, một kiểu tuyên

truyền theo đuôi quần chúng.

Trong số các nguyên nhân bên trong và bên ngoài đã nêu trên, thì

nguyên nhân về trình độ dân trí là quan trọng hơn cả. Sự kế thừa và tiếp nhận

3. Trong phạm vi luận án này, tác giả không đề cập đến hiện tượng lợi dụng tự do tín ngưỡng - tôn giáo để đạt mục đích ở ngoài tín ngưỡng - tôn giáo.

Page 47: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

45

các giá trị văn hóa có xu hướng về kinh tế - vật chất đã làm gia tăng phong trào

hội hè, lễ bái cầu may, cầu lợi mà không biết vô tình hay cố ý đã bỏ quên mất

một truyền thống rất đẹp của người Việt Nam cũng đã được thể hiện trong câu

ca dao từ bao đời nay: “Tháng Giêng chân bước đi cày - Tháng Hai vãi lúa

ngày ngày siêng năng”.

Từ đó, có thể kết luận rằng, những yếu tố tích cực, tiến bộ, phù hợp của

truyền thống văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giữ gìn bản

sắc dân tộc. Còn những yếu tố tiêu cực, lỗi thời là hiện thân của sự bảo thủ, trì

trệ, sức ì của quá khứ. Hai mặt mâu thuẫn đó cùng tồn tại trong di sản truyền

thống và có khi đan xen, chồng chéo lên nhau. Rõ ràng là, phát huy các giá trị

truyền thống văn hóa , khắc phục những hạn chế của một số tập quán truyền

thống lạc hậu là một công việc có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển trí

tuệ con người và xây dựng nền văn hóa mới.

1.2.2. Khái niệm hiện đại trong văn hóa

Trong những hoàn cảnh khác nhau, từ hiện đại có những cách hiểu khác

nhau. Nguyên nghĩa “hiện đại” có nghĩa là “thời đại hiện nay” (période

contemporaine; contemporary period hay present time). Hàng ngày chúng ta

vẫn thường nghe nói đến hai tiếng hiện đại. Trên báo chí, trong các văn kiện

chính trị, cụm từ “quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” hoặc “sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá” thường được nhắc lại với một nội dung xác

định. Hiện đại ở đây được hiểu là trình độ của những nước tiên tiến trên thế

giới, và hiện đại hoá là đưa sự phát triển của một đất nước lên một bước làm

cho đất nước đó có một trình độ tiến bộ theo kịp thời đại. Đây chính là nghĩa

thông thường nhất của hai chữ hiện đại.

Một nghĩa khác của từ hiện đại là nghĩa được dùng trong khoa học lịch

sử. Trong việc phân chia các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử: lịch sử thế giới cổ

đại; lịch sử thế giới trung đại (từ cách mạng tư sản Anh trở về trước); lịch sử

thế giới cận đại (từ cách mạng tư sản Anh tới công xã Pari 1871) và lịch sử thế

giới hiện đại (từ sau công xã Pari trở lại đây).

Page 48: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

46

Để hiểu đầy đủ về khái niệm hiện đại, cần phân biệt khái niệm hiện đại

và hiện đại hóa. Hiện đại và hiện đại hóa là hai khái niệm khác nhau nhưng có

sự tương tác lẫn nhau. Khái niệm hiện đại để chỉ trạng thái mang tính định

tính. Còn khái niệm hiện đại hóa là một tiến trình hoạt động nhằm làm cho một

cái gì đó gắn với chất của thời đại mới ngày càng phát triển. Tính hiện đại là

trạng thái mà tất cả mọi xã hội ngày nay đều muốn đạt đến, nhưng công cuộc

hiện đại hóa lại thuộc về mỗi kiểu xã hội hay mỗi lĩnh vực nhất định. Tính hiện

đại là mục tiêu chung, nhưng hiện đại hóa là tiến trình nhằm đạt đến sự hiện

đại. Do vậy, hiện đại hóa có nội dung rộng hơn so với hiện đại.

Khái niệm hiện đại được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, văn hóa

học, xã hội học luận giải trên nhiều bình diện khác nhau: có một số từ thoạt

nhìn tưởng như đơn giản, nhưng lại hóa ra phức tạp, chẳng hạn chữ "hiện đại".

Thời nào mà không "hiện đại" đối với người đang sống trong thời đại ấy?

Chẳng hạn như, bây giời chúng ta đang sống ở đây, chắc cũng thấy thời của

chúng ta là "hiện đại" so với thời của tổ tiên chúng ta. Nhưng, thật ra, để được

gọi là "hiện đại", không đơn giản như thế. Đó là lý do tại sao từ này mới chỉ ra

đời ở phương Tây vào đầu thế kỷ XIX, đó là vào năm 1800 khi Hêghen dùng

nó lần đầu tiên như một khái niệm để định nghĩa một thời đại: "thời đại mới"

(die "neue Zeit") là "thời hiện đại" (die "moderne Zeit"), tương ứng với chữ

tiếng Anh "modern times" và tiếng Pháp "temps modernes". Việc phát hiện ra

"tân thế giới", phong trào Phục Hưng và phong trào Cải cách (tôn giáo) [ba sự

kiện lớn vào khoảng năm 1500 về trước] lại tạo nên bước ngoặt thời đại giữa

thời Trung cổ và "thời đại mới". Thế còn thời Hêghen đang sống vào đầu thế

kỷ XIX là gì? ông gọi "thời đại của chúng ta" là "thời đại mới nhất" (die

neueste Zeit), nghĩa là "hiện đại nhất"! Rồi ông xác định cho nó một dấu mốc:

đại cách mạng Pháp, cao điểm của phong trào khai sáng: "Với buổi bình minh

rực rỡ này, chúng ta đi đến giai đoạn mới nhất của lịch sử, đi đến thế giới của

chúng ta, đi đến hiện tại của chúng ta". Có hai lý do cho các định nghĩa thời

đại mới: (1) Đối với phương Tây Kitô giáo, "thời đại mới” chưa đến, nó là của

Page 49: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

47

tương lai, còn phải chờ "ngày phán xét cuối cùng". (2) Trái lại, ở đây, "thời đại

mới" là khái niệm thế tục, khẳng định niềm tin rằng tương lai đã bắt đầu, và

đang ở trong tay ta. Nhận định về "hiện đại" đi liền với một sự phân tích về

thời đại đã qua". Ý thức lịch sử gắn liền với chữ "hiện đại" ấy của phương Tây

không gì khác hơn là: "Hiện đại có đủ sức và có ý chí để không cần vay mượn

những thước đo để định hướng cho mình từ những khuôn mẫu của một thời đại

khác nữa, trái lại, phải tự tạo ra tính chuẩn mực từ bản thân mình" (Habermas).

Bên cạnh các giá trị tinh thần nói trên của "hiện đại", tính từ "hiện đại"

(modern) còn nói lên mặt "vật chất" của nó nữa. "Tính hiện đại" [trái với "cổ hủ”

có nghĩa là các phương tiện giao thông mới (xe hơi, máy bay, tàu điện ngầm...)],

là các phương tiện truyền thông mới (phim ảnh, điện thoại, điện tín, máy ghi âm,

tia X...), các vật liệu mới (bê tông dự ứng lực, thép, chất dẻo, sợi nhân tạo...), các

nguồn năng lượng mới (dầu lửa, điện, nguyên tử...). Tất cả những công nghệ này

tạo nên một trải nghiệm mới về chất để nhận ra mình là "hiện đại".

Vào thập niên 50 của thế kỷ XX, từ "hiện đại hóa" mới được du nhập

như một thuật ngữ chuyên biệt để chỉ cao trào công nghiệp hóa lần thứ hai ở

phương Tây và từ đó, lan tỏa và trở nên sôi động trong bối cảnh phong trào

giải thực với sự trỗi dậy của các nước thuộc "thế giới thứ ba". Ở phương Tây,

"hiện đại hóa", hiểu theo nghĩa ấy, là muốn tách rời "Hiện đại ra khỏi các

nguồn gốc khai sáng của Châu Âu thời đại mới, vì thế, với nhiều người, các

tiền đề và các giá trị của khai sáng đã chết, chỉ còn phải xử lý những hậu quả

của nó”. Việc phê phán đối với hiện đại thực ra không mới: với tiềm lực phê

phán sẵn có, việc phê phán những khuyết tật của hiện đại vốn song hành với

hiện đại ngay từ đầu. Nhưng, sự phê phán lần này quyết liệt hơn. Một lần nữa,

người ta muốn đoạn tuyệt với quá khứ để bước vào một tâm thế mới, gọi là

"hậu hiện đại" hay "hậu lịch sử". Sự phê phán ấy chia thành hai hướng. Hướng

ôn hòa phê phán mạnh mẽ các chiến lược hiện đại hóa trước nay đã mang lại

nhiều thảm họa (chiến tranh, phá hủy môi trường, tiêu dùng vô độ ở các nước

giàu và nghèo đói ở phần còn lại của thế giới...) nhưng vẫn muốn tìm kiếm

Page 50: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

48

những chiến lược mới để bảo vệ và tiếp tục hiện thực hóa các giá trị đích thực

của hiện đại. Phái cực đoan muốn phủ nhận tất cả, nhất là tinh thần "duy lý"

(thực ra là "lý trí công cụ” và do đó, vừa gợi mở nhiều cách tiếp cận mới mẻ,

vừa dễ có nguy cơ bị các thế lực tân bảo thủ lợi dụng để ngụy trang sự phản

khai sáng dưới ngọn cờ của hậu khai sáng).

Ở các nước đang phát triển, "hiện đại hóa" - hiểu như một tiến trình phát

triển độc lập về không gian và thời gian - có sức hấp dẫn của một sự "đi tắt đón

đầu” để phồn vinh nhanh chóng và nhất là, một lần nữa, được giải phóng khỏi

ách thống trị tinh thần sau khi thoát khỏi ách thống trị hiện thực của thực dân

phương Tây. Và thế là, ở các nước này, các giá trị của "Hiện đại văn hóa" bị

xem là sản phẩm đặc thù của phương Tây và thậm chí, là cái gì đã lỗi thời. Ở

các xã hội ấy, không khó để nhận ra sự kết hợp khập khiễng giữa "công nghệ

cao" (High-Tech) (chứ không phải tinh thần khoa học) với các mô hình chính

trị, xã hội, văn hóa... tiền hiện đại, và có khi, cả phản hiện đại.

Nước ta đang đề ra nhiệm vụ "công nghiệp hóa và hiện đại hóa". Hai

nhiệm vụ song đôi nặng nề ấy cho thấy chúng không phải là một. Công nghiệp

hóa là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ cho hiện đại hóa. Và, hiện

đại hóa, hơn lúc nào hết, cũng cần được đặt ra một cách toàn diện và sâu sắc

cho phù hợp với nhận thức mới mẻ ngày nay. Để thế hệ này và thế hệ sau

không phải thở than như C.Mác trước hoàn cảnh đương thời của đất nước ông:

"Chúng ta là những người sống đồng thời về mặt triết học với hiện tại, nhưng

không phải là những người sống đồng thời về mặt lịch sử".

Hiện đại trong văn hóa, trên bình diện vĩ mô cũng như vi mô, cái hiện đại

của văn hóa là những yếu tố văn hóa nảy sinh cùng với những điều kiện kinh tế,

chính trị và xã hội mới. Đó có thể là những tư duy, cách nhìn nhận sự vật, quan

niệm về cuộc sống, biểu hiện nghệ thuật, các hình thức giải trí cho đến nếp ăn

nếp ở, sự đối xử giữa người và người, quan hệ giữa các thành viên trong gia

đình v.v… Những yếu tố văn hóa này, đến lượt chúng sẽ đóng vai trò là nền

tảng, là động lực để tạo nên những biến đổi kinh tế, chính trị, xã hội mới. Và ở

Page 51: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

49

đây nữa, cũng cần một cái nhìn năng động và biện chứng. Một hiện tượng được

gọi là hiện đại hay không cũng còn tùy hoàn cảnh của từng dân tộc, từng cộng

đồng. Có nhiều hành vi, nhiều tập quán ở xã hội này thì đã quá quen thuộc còn ở

xã hội khác lại là mới lạ, phải đợi thời gian mới được chấp nhận.

Từ những nét phác thảo như trên cho thấy, trong đời sống thế giới hiện

nay, cái truyền thống thường đi kèm với cái dân tộc và cái hiện đại thường đi

kèm với cái quốc tế. Điều này đặc biệt đúng với các nước Thế giới thứ ba,

những nước trong cả quá trình lịch sử lâu dài trước kia thường sống với những

nền văn hóa khép kín, tin rằng sự bảo vệ tốt nhất cho dân tộc là chống lại mọi

ảnh hưởng ngoại lai. Ngày nay, nhiều nước trên thế giới, khi nói về khuynh

hướng toàn cầu hóa thường nhấn mạnh ba yếu tố: một nền kinh tế không biên

giới, một xã hội thông tin, một nền văn hóa thế giới. Cũng trong bối cảnh của

những chuyển biến và giao lưu đó, sự xác định một yếu tố văn hóa là truyền

thống hay hiện đại cũng rất “động”. Với một dân tộc, ở một lúc nào đó, có

những yếu tố ngày hôm nay còn là hiện đại thì ngày mai, qua một quá trình

sàng lọc và hấp thụ, đã có thể trở thành truyền thống.

Trong văn học, nghệ thuật, tính hiện đại được hiểu là những xu hướng,

phẩm chất tiến bộ nhất, vượt qua các giá trị truyền thống, nhằm giải phóng tư

duy sáng tạo. Tính hiện đại bao gồm cả hình thức và nội dung, phương thức và

hiệu quả trong đó tinh thần nhân văn, dân chủ được đề cao như những giá trị

toàn nhân loại. Cũng có ý kiến cho rằng hiện đại là hợp lý hoá và chủ thể hoá.

Từ đó đề nghị, cơ sở để xây dựng xã hội hiện đại là xây dựng cá thể hoá văn

hoá. Có người lại cho hiện đại hoá là phương Tây hoá. Tính hiện đại chỉ có từ

phương Tây, chủ nghĩa duy lý và các giá trị dân chủ đưa phương Tây tới

những bước phát triển thần kỳ về kinh tế, khoa học, công nghệ nhưng đồng

thời cũng đang mắc phải những căn bệnh trầm kha. Họ đang tìm về phương

Đông để bổ sung và điều chỉnh. Trong khi đó thì tại phương Đông lại xuất hiện

làn sóng chạy theo phương Tây, lấy phương Tây làm chuẩn mực. Chạy theo

Tây, thích được đánh giá theo những tiêu chuẩn của phương Tây là một xu

Page 52: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

50

hướng đáng báo động. Tâm lý khá phổ biến hiện nay là lo tụt hậu với thế giới,

lo tụt hậu với dân tộc, tụt hậu với cuộc sống của đất nước. Biết bao truyền

thống, tinh hoa dân tộc không được nghiên cứu đến nơi đến chốn, dẫn đến

những cách hiểu hời hợt, méo mó về dân tộc, phê phán, vứt bỏ dân tộc.

Như vậy, hiện đại thường được hiểu là những gì “thuộc thời đại ngày

nay”, là “cái đang diễn ra trước mắt, tức là mới”. Theo nghĩa đó, hiện đại là

cái được bổ sung làm cho cái cũ, cái trước đây biến đổi để phù hợp với thời

đại hiện nay. Hiện đại gắn liền với phát triển, tạo ra những giá trị mới hơn, có

phẩm chất tốt hơn của cái quá khứ. Phạm trù hiện đại mang tính lịch sử, liên

quan đến tính thời gian và chất lượng. Nếu như truyền thống là cái phản ánh

trình độ phát triển của sự vận động lịch sử trong điều kiện và hoàn cảnh cũ, thì

hiện đại lại là cái phản ánh cho một trình độ phát triển của sự vận động lịch sử

trong những điều kiện, hoàn cảnh mới. Nội hàm của từ hiện đại luôn gắn liền

với không gian và thời gian cụ thể đang diễn ra.

1.2.3. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại

trong sự phát triển của văn hóa

Văn hóa của mỗi dân tộc luôn là một dòng chảy không ngừng và ở đó,

luôn có mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại. Do

đó, việc giải quyết hài hòa mối quan hệ này sẽ vừa giúp xác định tính chất,

diện mạo văn hóa của mỗi dân tộc, vừa góp phần tạo ra động lực cho phát

triển. Tuy nhiên, giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại như thế

nào lại là bài toán mà mỗi thời kỳ cần phải tìm ra lời giải. Bởi vì, trong tiến

trình phát triển, tính liên tục lịch sử của văn hóa luôn đặt ra những vấn đề mới

mà mỗi dân tộc phải giải quyết để phát triển nền văn hóa của mình.

Truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa có mối quan hệ

biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau vừa thống nhất vừa mâu thuẫn

với nhau.

Trước hết, về sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong sự

phát triển của văn hóa. Trong sự phát triển của văn hóa, cùng với sự phát triển

Page 53: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

51

của đời sống xã hội; truyền thống và hiện đại có mối liên hệ, tác động thống

nhất với nhau. Điều đó được biểu hiện:

Thứ nhất, truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại. Truyền thống

văn hóa là hệ thống giá trị văn hóa đã hình thành và luôn được bổ sung để trở

thành phẩm chất văn hóa một dân tộc, và tự thân đã là một khái niệm có tính

biện chứng, chuyển tải trong đó nội hàm là hành vi sáng tạo văn hóa của cộng

đồng. Truyền thống văn hóa là bộ mặt vật chất, tinh thần của một xã hội trong

những thời kỳ lịch sử nhất định. Nhìn vào truyền thống văn hóa, có thể nhận

biết các giá trị, phẩm chất các giá trị của một dân tộc. Văn hóa là một dòng

chảy liên tục, vì nguồn gốc sâu xa của động thái này là việc cộng đồng phải

đáp ứng tình trạng không ngừng gia tăng về chất lượng và số lượng của nhu

cầu văn hóa. Ðặc tính phát triển không ngừng của nhu cầu văn hóa quy định

bản chất của tính hiện đại, nghĩa là trên cơ sở truyền thống văn hóa, phải

thường xuyên bổ sung các yếu tố mới, để truyền thống văn hóa phù hợp với sự

phát triển của thời đại. Do đó, tính hiện đại của văn hóa có hai nguồn gốc: từ

hoạt động sáng tạo của chủ thể văn hóa dân tộc và từ việc tiếp thu qua các giao

lưu văn hóa ngoài dân tộc. Tính hiện đại không chỉ giúp truyền thống văn hóa

thích nghi với phát triển mà còn giúp văn hóa dân tộc có khả năng thỏa mãn tốt

nhất những nhu cầu văn hóa mới nảy sinh trong sinh hoạt xã hội.

Tuy nhiên, giá trị văn hóa hiện đại chỉ thích hợp với truyền thống văn

hóa khi đáp ứng được nhu cầu văn hóa chân chính, được thừa nhận của số

đông, trở thành thói quen trong tư duy và trong hành vi sáng tạo của mọi chủ

thể văn hóa. Mặt khác, không phải bất cứ giá trị văn hóa nào nảy sinh trong

thời đại cũng có thể tiếp thu, đây là tiếp thu có chọn lọc để giá trị tích cực có

thể cộng sinh cùng truyền thống văn hóa. Cho nên, truyền thống văn hóa chỉ

có thể phát triển khi nó không ngừng được bổ sung các giá trị tiên tiến của

thời đại, cũng tức là truyền thống văn hóa và tính hiện đại không tách rời

nhau. Chúng thống nhất hữu cơ trong một chỉnh thể, ở đó, truyền thống văn

hóa là nền tảng, tính hiện đại là sự bổ sung cho nền tảng ấy ngày càng bền

Page 54: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

52

vững, và sự thống nhất phải đạt đến mức tính hiện đại gia nhập, trở thành yếu

tố của truyền thống văn hóa. Chính vì thế, phát triển văn hóa trong thời đại

mới, chúng ta cần phải dựa trên nền tảng của truyền thống văn hóa, và truyền

thống ấy luôn phải được củng cố, bổ sung phù hợp với yêu cầu của sự phát

triển. Báo cáo phát triển con người năm 2004 của Chương trình phát triển

Liên hiệp quốc (UNDP) cũng cho rằng, phải nhìn nhận truyền thống từ hiện

tại và tương lai thì chúng ta mới thực hiện thành công công cuộc phát triển.

Đồng thời, UNDP cũng khuyến cáo: “Việc bảo vệ truyền thống bằng mọi giá

sẽ kéo lùi sự phát triển con người” [UNDP,Human Development Report,

2004 – http://hdr.undp.org/reports/2004, tr. 88-89]. Có nghĩa là, xét từ góc độ

hiện tại theo tinh thần lịch sử, không phải mọi truyền thống đều có giá trị như

nhau, không phải mọi truyền thống đều có tác động tích cực phục vụ công

cuộc phát triển. Vì thế, việc xác định giá trị truyền thống tích cực là một vấn

đề rất quan trọng.

Thứ hai, hiện đại bắt nguồn từ truyền thống trên cơ sở chắt lọc, kế thừa

và phát triển truyền thống. Truyền thống là những kinh nghiệm đấu tranh sinh

tồn của một dân tộc đã được đúc kết thành các giá trị và được truyền từ thế hệ

này sang thế hệ khác. Truyền thống bao gồm tất cả các lĩnh vực của xã hội,

nhưng tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực văn hóa. Trong cuộc đấu tranh sinh

tồn của một dân tộc, truyền thống có ý nghĩa vô cùng to lớn; vừa là nguồn

sống vừa là nguồn sáng tạo của dân tộc. Vì thế, truyền thống không phải là

những vật trưng bày chết cứng trong Viện bảo tàng, mà nó luôn tồn tại trong

mối quan hệ với hiện tại và tương lai. Ngược lại, hiện đại phải đưa ra được một

nội dung có ý nghĩa cho cuộc sống văn hóa tiên tiến, hiện đại phải làm giàu

thêm nội dung nhân bản của con người, có như vậy hiện đại mới bảo đảm được

tính liên tục, không thể trở nên “truyền thống” cho tương lai.

Vì vậy, việc nhận thức và đánh giá truyền thống phải luôn đứng trên quan

điểm phát triển, quan điểm lịch sử và biện chứng. Không nên tuyệt đối hóa

truyền thống, vì nếu tuyệt đối hóa, lý tưởng hóa các giá trị truyền thống sẽ dẫn

Page 55: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

53

đến ý thức phục cổ, bằng lòng với quá khứ và quay lưng với những trào lưu

tiến hóa của thời đại, cản trở công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước. Trái lại, không nên phủ định truyền thống, nếu phủ định

truyền thống, coi truyền thống chỉ là sản phẩm và nguyên nhân của tình trạng

nghèo nàn và lạc hậu của đất nước sẽ dẫn đến xu hướng hiện đại hóa bằng con

đường ngoại nhập mà hậu quả không tránh khỏi là đánh mất bản sắc dân tộc,

tự hủy hoại sức mạnh nội sinh, làm mất tính bền vững và ổn định của sự phát

triển. Cả hai khuynh hướng cực đoan trên đều không có cơ sở khoa học, xa lạ

với thực chất của truyền thống và đều đi đến những sai lầm trong nhận thức,

hành động, trong cách xử lý đối với di sản truyền thống.

Thứ ba, truyền thống được bảo tồn, phát triển một cách sinh động và

phong phú nhờ tính hiện đại. Trong những điều kiện tự nhiên cùng với vị trí,

môi trường sinh thái của đất nước, trải qua hàng chục vạn năm lịch sử kể từ khi

con người xuất hiện trên lãnh thổ Việt Nam và hàng nghìn năm xây dựng, bảo

vệ đất nước trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc, cộng đồng các dân tộc

Việt Nam đã tạo lập cho mình một di sản truyền thống tinh thần rất phong phú,

đa dạng trên các phương diện tư duy, tâm lý, lối sống, cách ứng xử… Trong

các giá trị truyền thống đó, nổi lên vị trí hàng đầu và được người Việt Nam coi

như chuẩn mực cao nhất của đạo lý dân tộc là tinh thần yêu nước, ý thức dân

tộc, ý chí tự lập tự cường; truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Bên cạnh

đó là truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, tính thích nghi và hội nhập để tồn

tại và phát triển, lối ứng xử mềm dẻo; truyền thống hiếu học, trọng học vấn,

trọng nghĩa khí, tính cộng đồng kết hợp với truyền thống tương trợ, giúp đỡ

nhau khi khó khăn hoạn nạn, tinh thần nhân ái, truyền thống khoan dung, trong

nhận thức coi trọng thực tế và kinh nghiệm, tư duy mang tính tổng hợp…

Trong các giá trị truyền thống văn hóa đó, những cái tiến bộ, phù hợp luôn

được bảo tồn, phát triển nâng cao sinh động, phong phú nhờ tính hiện đại; còn

những mặt tiêu cực và hạn chế không phù hợp với yêu cầu phát triển của xã

hội và thời đại, trở thành những lực cản và sức ỳ cần khắc phục.

Page 56: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

54

Hiện nay, công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước và mở rộng giao lưu quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đang tạo ra những

chuyển biến lớn lao, sâu sắc trên mọi lĩnh vực của xã hội, mở ra một bước

ngoặt trọng đại mới, đưa đất nước từ nền văn minh nông nghiệp truyền

thống tiến lên nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp hiện đại của

thế giới. Vì vậy, con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển,

vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Và dĩ nhiên, con người

đó, dù có ý thức hay không ý thức đều là sản phẩm của lịch sử, mang trong

mình những di sản truyền thống do lịch sử tạo nên.

Trước những chuyển biến đó, nhất là trong buổi đầu khi chuyển từ kinh

tế “tập trung”, “bao cấp” sang kinh tế thị trường và chính sách mở cửa, mối

quan hệ giữa truyền thống với con người trải qua những biến động dữ dội,

nhiều giá trị truyền thống bị chao đảo, nhiều mặt tiêu cực của truyền thống

được phục hồi một cách tự phát. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội lúc

bấy giờ, cũng diễn ra một cuộc khủng hoảng về thang giá trị và thước đo giá

trị: niềm tin và đạo lý bị xói mòn; nơi thì phục cổ, khôi phục cả những hủ tục,

những truyền thống lạc hậu…; nơi thì quay lưng với truyền thống, chạy theo

đồng tiền và lợi nhuận vô điều kiện, đua đòi lối sống bên ngoài với biết bao tệ

nạn, gây lo âu chính đáng cho nhiều người. Nhưng nhờ những thành tựu của

công cuộc đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, một

trật tự mới và thang giá trị mới đang dần dần hình thành. Kết quả điều tra xã

hội học trong thời gian gần đây cho thấy, những giá trị truyền thống cơ bản

tiêu biểu cho bản sắc và phẩm giá dân tộc được tuyệt đại đa số nhân dân ta tôn

trọng và tự hào, vẫn là những định hướng chủ đạo cho nhận thức, hành vi và

ứng xử của con người Việt Nam. Đó là một bảo đảm hết sức quan trọng cho sự

phát triển bền vững của đất nước trên con đường tiến lên văn minh, hiện đại,

mở cửa giao lưu và hội nhập với thế giới mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Do

Page 57: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

55

đó, trước yêu cầu mới của đất nước và thời đại, những giá trị truyền thống

cũng phải được kế thừa, phát huy theo hướng hiện đại hóa.

Qua những nội dung vừa trình bày ở phần trên, có thể khẳng định rằng,

trong quá trình sinh tồn và phát triển, Việt Nam đã phải vượt qua biết bao thử

thách hiểm nghèo của thiên tai và họa xâm lăng, đã phải đương đầu với nhiều

thế lực xâm lược hung hãn của những đế chế lớn mạnh thời cổ - trung đại,

những cường quốc đế quốc chủ nghĩa thời cận - hiện đại, đã phải vượt qua

những thời kỳ mất nước với mưu đồ đồng hóa kéo dài hàng chục, hàng trăm

năm, thậm chí có lúc trên 10 thế kỷ. Thế mà dân tộc Việt Nam vẫn tồn tại và

phát triển, biết tiếp nhận và dung hợp nhiều thành tựu văn hóa bên ngoài,

nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa của mình, vẫn tạo lập được những

thời kỳ phát triển văn hóa rực rỡ như thời kỳ văn minh sông Hồng, thời kỳ văn

minh Đại Việt. Thực tế lịch sử đó cho phép khẳng định sức sống bền bỉ của

dân tộc, tính ưu việt của những giá trị truyền thống Việt Nam.

Thứ tư, truyền thống và hiện đại phải được xác định trong tính lịch sử -

cụ thể. Truyền thống văn hóa là sự tiếp nối không đứt đoạn của phương thức

sinh hoạt, của văn học - nghệ thuật, của phong tục tập quán, của các chuẩn

mực giá trị... Phạm trù hiện đại mang tính lịch sử, liên quan đến tính thời gian

và chất lượng. Nếu như truyền thống là cái phản ánh trình độ phát triển của sự

vận động lịch sử trong điều kiện và hoàn cảnh cũ, thì hiện đại lại là cái phản

ánh cho một trình độ phát triển của sự vận động lịch sử trong những điều kiện,

hoàn cảnh mới. Nội hàm của từ hiện đại luôn gắn liền với không gian và thời

gian cụ thể đang diễn ra.

Nói đến truyền thống và hiện đại là nói đến sự cũ và mới trong sự phát

triển, và thường cái mới chiến thắng, thậm chí xóa bỏ cái cũ. Tuy nhiên, trong

sự phát triển, vấn đề truyền thống và hiện đại không tránh khỏi những mâu

thuẫn bởi đây đó truyền thống có thể không còn phù hợp với hoàn cảnh hiện

đại phát triển và ngay trong hiện đại vẫn hiện ra bản sắc dân tộc với những giá

trị truyền thống là mong muốn của toàn dân tộc. Không phải mọi điều cũ đều

Page 58: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

56

cần được giữ lại mới là truyền thống nhưng những giá trị được cha ông gìn giữ

từ đời này qua đời khác trở thành truyền thống sẽ được bảo tồn và phát huy

trong cuộc sống hôm nay ra sao. Những giá trị mới được sinh ra từ hôm nay

cũng có thể trở thành truyền thống sau thời gian dài để phong phú thêm những

giá trị văn hóa dân tộc. Bởi, văn hóa là dòng chảy liên tục có bổ sung và loại

trừ để xây dựng được diện mạo chung của một dân tộc.

Trong sự hội nhập và phát triển hiện nay, mục tiêu tăng trưởng kinh tế

với hiện đại hóa, công nghiệp hóa là một xu hướng phát triển tất yếu song

động lực của sự phát triển lại là văn hóa. Bởi, văn hóa với những giá trị truyền

thống là cốt lõi để dân tộc hòa nhập mà không hòa tan trong sự phát triển

chung của nhân loại. Đấy cũng là bệ phóng của bất cứ dân tộc nào muốn bay

đến tầm cao mới của thời đại. Vấn đề giao lưu văn hóa giữa các dân tộc là một

tất yếu, song giao lưu thế nào để tiếp thu được những tinh hoa văn hóa thế giới,

đồng thời ngăn chặn những cái phản văn hóa xâm nhập vào nước ta.

Đảng ta luôn luôn coi trọng việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, kế thừa

và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc vì đó là bản sắc, là tâm hồn

và trí tuệ, là đạo lý và nhân cách của con người Việt Nam, là nền tảng tinh thần

và đạo lý cho công cuộc phục hưng dân tộc và cho sự phát triển bền vững của

đất nước tiến lên văn minh, hiện đại. Một dân tộc trên con đường phát triển

phải luôn luôn gắn với cội nguồn, với truyền thống và bản sắc của mình. Vì

vậy, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phải trên nền tảng

nhân cách văn hóa Việt Nam, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh

hoa của nhân loại, hướng tới tầm cao của thời đại. Báo cáo chính trị tại Đại hội

VIII của Đảng khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng

giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa

dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự

hào dân tộc” [29, 111].

Giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại theo quan điểm

trên là phát huy tối đa sức mạnh nội sinh của dân tộc, vừa tiến lên văn minh,

Page 59: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

57

hiện đại, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, tạo lập con đường phát triển ổn định và

bền vững cho đất nước. Đó là phương thức từ truyền thống tiến lên hiện đại và

trên cơ sở hiện đại nâng cao truyền thống, làm phong phú truyền thống, không

ngừng tăng cường tiềm lực nội sinh của sự phát triển. Khi nghiên cứu sự thống

nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn

hóa, cũng cần chú ý đến những vấn đề đặt ra và những biểu hiện bất cập của sự

thống nhất này. Có thể là trong thời gian gần đây, vấn đề truyền thống và hiện

đại mới được đề cập một cách có hệ thống về mặt lý luận, với những tên gọi

đích thực, nhưng trên thực tế, vấn đề đã tồn tại từ lâu, và người ta đã xử lý mối

quan hệ truyền thống - hiện đại theo những quan điểm khác nhau, vì những

động cơ khác nhau. Hơn nữa, có nhiều trường hợp, tựa như người ta muốn bàn

đến những vấn đề rộng lớn hơn, phức tạp hơn, nhưng cuối cùng qui lại thì đó

chính là vấn đề truyền thống - hiện đại, hoặc là một khía cạnh, một biến tướng

của vấn đề đó. Tác giả rất tâm đắc với quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn

Chí Tình, trong cuốn “Văn hóa và thời đại”, nhà xuất bản Khoa học xã hội,

2009, khi nói về sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình

phát triển văn hóa [70, 63-70].

Thứ nhất, khoảng nửa thế kỷ trước đây, cuộc chiến tranh chống xâm

lược của Việt Nam giành thắng lợi, làm dấy lên phong trào đấu tranh giải

phóng dân tộc sôi động khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước châu Phi

vốn là thuộc địa của Pháp và Anh. Trong phong trào chính trị - xã hội, và có

lúc là vũ trang người ta đã nhận thức ra một vấn đề văn hóa: từ lâu bọn thực

dân đã cố tình tìm mọi cách làm cho nhân dân bản địa ở các nước thuộc địa

quên mất truyền thống văn hóa của mình, quên mất rằng mình có một bản sắc

văn hóa; và chỉ còn có thể hòa nhập, tan biến vào nền văn hóa do những kẻ

thống trị đem lại. Đúng như Neyre, nguyên Tổng thống Tanzania, vạch rõ:

“Tội ác tệ hại nhất của chủ nghĩa thực dân là mưu toan làm cho chúng ta tin

rằng chúng ta không có một nền văn hóa bản địa của riêng chúng ta hoặc giả

là cái văn hóa mà chúng ta có là chẳng chút giá trị gì” [Trích theo F.D.Bunda.

Page 60: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

58

Giá trị văn hóa, truyền thống và hiện đại. Trong cuốn Những vấn đề văn hóa

và giá trị văn hóa trong thế giới hiện đại [UNESCO xuất bản, 1985. tr.28-34].

Ở đây, ta càng thấy tầm quan trọng quyết định của văn hóa, và bọn thực dân

theo đuổi mục đích chính trị và kinh tế của mình, cũng cần hiểu điều đó một

cách sâu sắc: không có truyền thống và bản sắc văn hóa là không có cái gì cả.

Không ít những người lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu

Phi như Nehru, Senghor,… là những trí thức từng đi du học ở các nước

phương Tây và một điều nghịch lý là sau hàng chục năm trời được đào tạo

trong môi trường văn hóa phương Tây, thì chính họ nhận ra cái mưu đồ văn

hóa bất chính nơi đã đào tạo họ và lớn tiếng kêu gọi phá tan cái mưu đồ đó.

Như vậy mầm móng và thực trạng của sự coi nhẹ và thậm chí cắt đứt với

truyền thống văn hóa đã có từ trong chế độ thực dân ở những nước sau này sẽ

đứng vào hàng ngũ những nước hiện đại hóa muộn. Dễ dàng suy đoán rằng,

qua đêm dài thuộc địa, về mặt này, những kẻ thống trị ngoại bang đã làm được

những gì họ muốn, một khi họ có quyền lực, có những phương tiện văn hóa và

vật chất trong tay.

Thứ hai, từ những năm 60, về cơ bản, chủ nghĩa thực dân cũ đã sụp đổ.

Trên danh nghĩa và không chỉ hoàn toàn trên danh nghĩa, nhiều nước thuộc

Thế giới thứ ba thoát khỏi chế độ thuộc địa, đất nước được đặt dưới sự điều

hành của một chính quyền và tầng lớp lãnh đạo người bản địa, trong đó có sự

tham gia của khá nhiều trí thức yêu nước, nhà văn hóa. Tuy vậy, xét cho đến

cùng, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại cũng cho thấy nhiều khuyết

tật, nhiều điều bất ổn, thậm chí là trầm trọng. Sự đánh giá chưa đúng mức hay

cắt đứt ở các mức độ khác nhau, với truyền thống văn hóa của dân tộc đã diễn

ra với các khía cạnh khác nhau:

(1) Trong điều kiện hội nhập quốc tế, mở cửa để giao tiếp và trao đổi

những phương tiện nhằm hiện đại hóa đất nước với tư thế những người chủ

độc lập, thực ra ở một số nước người ta đã bị choáng ngợp trước cái gọi là

“văn minh phương Tây”, là “sức mạnh của thế giới hiện đại”. Từ bề sâu của

Page 61: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

59

nhận thức, người ta cho rằng tất cả những gì thuộc về truyền thống dân tộc là

nguyên nhân của tình trạng lạc hậu, kém cõi hiện thời, và lúc này mọi sản

phẩm văn hóa được du nhập từ nước ngoài đều là biểu hiện của tính ưu việt,

của một trình độ văn minh đáng mơ ước. Sự tiếp nhận này, tiếc thay, hiếm khi

được kèm theo một sự phân tích lý trí, kể cả những lĩnh vực tư duy phức tạp

hay ở những hoạt động cảm tính bề mặt. Chẳng hạn, về tư tưởng triết học,

người ta đọc Freud, nhưng lại chỉ biết nhấn mạnh đến khía cạnh tính dục và cái

vô thức; người ta tìm đến Nieztsche nhưng lại không hiểu đầy đủ cái gọi là

“triết lý sức mạnh” và “siêu nhân” của ông. Về văn học nghệ thuật cũng có

tình trạng nhân danh hiện đại để sản sinh ra loại thơ mông lung trừu tượng,…

Ở đây có một sự biện bạch đơn giản: văn hóa hiện đại là sản phẩm của văn

minh vật chất hiện đại, các dân tộc đi sau muốn tiến kịp thời đại thì phải

nhanh chóng đón lấy làm của mình. Ở một số nước như Philippin, Thái

Lan, ở Trung Cận Đông, các nhà quan sát nước ngoài bước vào các gia

đình thượng lưu và trung lưu, đã ngạc nhiên thấy những biểu hiện của văn

hóa hiện đại nước ngoài trùm lên tất cả, từ sách đọc, tranh treo tường, băng

nhạc, phim video, trong khi không hề thấy dấu vết của văn hóa truyền

thống. Có điều đáng trách là trong khi mải mê đi tìm cái mới lạ ở những

nền văn hóa xa xôi đeo “mác” hiện đại thì người ta lại quên rằng rất nhiều

giá trị còn lớn lao hơn, độc đáo hơn vẫn nằm trong kho tàng văn hóa

truyền thống, từ những ý tưởng sâu sắc của kinh Coran, của Luận ngữ cho

đến những truyền thuyết dân gian. Và điều này, thật là nghịch lý, lại được

chứng minh bởi những nhà nghiên cứu đến từ các xứ sở hiện đại.

(2) Ở một số nước khác, trong giai đoạn đầu của công cuộc “xây dựng

xã hội mới”, kể cả xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã nổi lên một quan niệm sai

lầm: muốn xây dựng cái mới thì phải phá bỏ cái cũ, kể cả văn hóa cũ. Theo

một lôgic thông thường, người ta nghĩ: truyền thống văn hóa, cho đến bây giờ

gắn liền với xã hội cũ, chế độ cũ, nghĩa là với cơ chế do giai cấp thống trị lập

nên. Chẳng có gì là tốt đẹp ở đây cả: thờ cúng là mê tín, tôn giáo là thuốc

Page 62: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

60

phiện, lễ nghi là trò phù phiếm của tầng lớp quý tộc; văn thơ, không loại trừ

những tác giả lớn, đều nhiễm đầy tư tưởng độc hại để ru ngủ nhân dân. Tất cả

những thứ ấy đều phải được đẩy lùi hẳn vào quá khứ - sự phá bỏ cái cũ càng

nhanh thì sự xây dựng cái mới càng nhanh. Tệ hơn nữa là về mặt đạo lý, người

ta tạo nên tâm lý coi thường người già cả - nhân chứng và kho tàng sống của

truyền thống, hầu như trong mọi nhận thức và quyết định của đời sống, người

già cả là biểu tượng của sự lạc hậu, của cái lỗi thời; còn thế hệ mới, bất kể là

có học hay vô học, bao giờ cũng được coi là tân tiến, là “dám nghĩ, dám làm”.

(3) Một hiện tượng nữa của sự cắt đứt truyền thống văn hóa lại diễn ra

ngoài ý muốn của những người trong cuộc, với cái đã từng được định danh là

“chủ nghĩa đế quốc văn hóa cuối thế kỷ XX”. Một khi phương án thực dân

kiểu cũ đã tỏ ra hết thời, những người xâm lược quân sự và cả chính trị thường

là lộ liễu, tốn kém và thất bại thì một số cường quốc tư bản phát triển, đứng

đầu là Mỹ, lại sử dụng phương án xâm thực văn hóa. Bằng sức mạnh vật chất,

bằng ưu thế khoa học - kỹ thuật thể hiện qua những phương tiện thông tin hiện

đại có mặt khắp nơi, đồng thời với những luận điệu mị dân kiểu “tự do” và

“nhân quyền”, người Mỹ đã cho sản phẩm văn hóa của họ tràn vào các nước

Thế giới thứ ba. Cùng với lợi nhuận kinh tế - xuất khẩu hàng hóa văn hóa - là

sự du nhập những tư tưởng ngoại lai, hiện đại theo kiểu Mỹ, và dĩ nhiên dẫn

đến hậu quả là sự chối bỏ truyền thống dân tộc bản địa. Đúng như lời nhà văn

hóa học James Petras đã vạch ra: “Chủ nghĩa đế quốc văn hóa đóng một vai trò

quan trọng để tách rời nhân dân khỏi cội rễ văn hóa và truyền thống đoàn kết

của họ, thay thế chúng bằng những cái gọi là “nhu cầu” do các phương tiện

thông tin đại chúng tạo ra, và những nhu cầu này cũng thay đổi theo từng chiến

dịch quảng cáo” [James Petras. Chủ nghĩa đế quốc văn hóa cuối thế kỷ XX.

Tạp chí Journal of contemporary Asia. 1993. Vol.23. No.2. Tr.19-20]. Và:

“Chủ nghĩa đế quốc văn hóa tìm cách phá hoại bản sắc dân tộc…khuyến

khích sự tôn thờ “tính hiện đại”, đúng với những biểu tượng bên ngoài”. Ở

đây, cần nhắc lại rằng các kế hoạch văn hóa đều kèm theo mưu đồ chính trị.

Page 63: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

61

Để nhận ra điều đó, đòi hỏi một tinh thần tỉnh táo, trước hết là của các trí thức

dân tộc, xuất phát từ ý thức dân tộc được nuôi dưỡng bằng một truyền thống

văn hóa ở ngay trong cộng đồng và trong bản thân từng người. Không ít

trường hợp khi người trong cuộc chợt tỉnh ra thì đã quá muộn.

Thứ ba, sau những năm 80, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông

Âu sụp đổ, người ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế

thị trường và thực hiện tư nhân hóa ồ ạt. Cùng với sự mở cửa kinh tế là sự mở

cửa về văn hóa. Văn hóa phẩm phương Tây tràn vào: phim ảnh, sách báo, băng

nhạc…Những gì trước đây bị lên án, bị cấm đoán thì ngày nay được phô bày,

trình diễn và đem bán rộng rãi. Thời kỳ này đã xuất hiện một quan niệm kỳ

quặc, ngay cả một số trí thức mới, đó là: phủ nhận truyền thống dân tộc, tôn

sùng hiện đại ngoại lai. Tất nhiên, ngay trên đất nước Nga, trước sự hoành

hành của văn hóa nhập ngoại và nguy cơ suy yếu của truyền thống văn hóa,

những người trí thức có lương tri đều nhất loạt phản đối.

Một điều cần phải nói thêm ở đây: nếu bàn đến truyền thống văn hóa,

thì các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, kể cả nước Nga, tuy thời gian tồn tại

của chủ nghĩa xã hội hiện thực so với lịch sử dân tộc không phải là dài,

nhưng nhân dân đã kịp xây dựng được những đặc điểm truyền thống văn hóa

dân tộc khắc họa vào tư tưởng và nhân cách của những thế hệ và những tầng

lớp người đông đảo: tinh thần theo đuổi một lý tưởng cao đẹp, ý thức hy sinh

về quyền lợi của tập thể, tình cảm quốc tế vượt qua biên giới…Tất cả thấm

nhuần trong xã hội thành những tiêu chí công khai để thẩm định giá trị con

người, và trong xã hội đó luôn luôn hiện diện những hoạt động văn hóa mang

đậm màu sắc dân tộc, một nền văn học có tính nhân văn sâu sắc. Tuy vậy, với

sự xuất hiện của cơ chế thị trường, sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai hào

nhoáng, người ta dễ dàng quên đi, hoặc giả làm như không biết đến những

truyền thống tốt đẹp đó.

Thứ tư, còn một khía cạnh bất cập khác trong mối quan hệ truyền thống

-hiện đại, tuy không trầm trọng bằng những khuynh hướng trên đây, nhưng

Page 64: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

62

cũng không thể bỏ qua, đó là: theo chiều ngược lại, trong một số nước, lại có

những người đề cao một chiều truyền thống văn hóa, một mực tin rằng nhất

nhất những gì thuộc truyền thống đều rất tốt đẹp, đều nên bảo vệ và đưa vào

cuộc sống mới, nền văn hóa mới. Chẳng hạn, trước tình hình đạo đức xuống

cấp và xã hội thiếu kỷ cương, ở những nước trước đây Nho giáo giữ địa vị

thống trị, người ta cho nguyên nhân quyết định là sự xa rời Nho giáo và đòi hỏi

sự phục hồi toàn diện của Nho giáo trong đời sống xã hội. Như ở Trung Quốc,

một số học giả đề xướng “Thuyết Tân Nho học phục hưng”, với tôn chỉ là làm

thế nào cho học thuyết Nho gia trở lại chiếm vị trí chủ đạo trong nền văn hóa

Trung Quốc. Ở các nước Trung - Cận Đông, sau một thời gian hiện đại hóa

theo kiểu phương Tây gặp thất bại, tiền bạc mang lại nhờ nguồn dầu lửa khổng

lồ và những hàng hóa nhập ồ ạt từ các nước Âu - Mỹ vẫn không tạo nên được

một diện mạo văn hóa sáng sủa, thì trong một số trí thức đã nảy ra khuynh

hướng đòi hỏi phục hồi những quan niệm và qui tắc sống hà khắc của đạo Hồi,

được coi như là truyền thống tốt đẹp nhất của quá khứ. Tình trạng xã hội tha

hóa, người ta giải thích, là sự trừng phạt của thánh Ala cho những ai đã từ bỏ

con đường sáng sủa mà thánh đã vạch ra, thậm chí những gì không được nói

đến trong kinh Coran, đều là tà thuyết. Sự phục hồi đạo Hồi không chỉ là một

hành vi tôn giáo mà còn mang ý nghĩa của sự bảo vệ không khoan nhượng cả

một truyền thống văn hóa.

Khuynh hướng đề cao một chiều truyền thống văn hóa, do sự khác biệt

với thế giới còn lại, đã kiên quyết thu mình trong những truyền thống lâu đời

và từ chối sự phát triển, đó là lời giải thích văn hóa về một trong những nguyên

nhân quan trọng hàng đầu cho tình trạng bi thảm kéo dài ở các nước theo

khuynh hướng này.

Thứ năm, trong thực tế cuộc sống và trong thực tế học thuật, mối quan

hệ truyền thống - hiện đại thường gắn liền với mối quan hệ giữa các nền văn

hóa, văn minh, cụ thể hơn giữa phương Đông và phương Tây. Ngược lại, có

nhiều tác giả khi bàn đến mối quan hệ giữa các nền văn hóa giữa phương Đông

Page 65: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

63

và phương Tây, thì về thực chất, dưới hình thức này hay hình thức khác, đều

đồng thời đề cập đến mối quan hệ truyền thống - hiện đại. Điều đó cũng dễ

hiểu, vì mỗi nền văn hóa được hình thành trên một truyền thống lịch sử lâu dài

để trở thành một thực thể với bản sắc và những đặc điểm riêng, và giờ đây,

trong quá trình hiện đại hóa đi đôi với toàn cầu hóa, sự gặp gỡ, giao lưu giữa

các nền văn hóa là điều tất nhiên. Trong cuộc gặp gỡ này, trước mặt các nước

Thế giới thứ ba, cái hiện đại thường xuất hiện trùng hợp với cái ngoại lai, từ

các nước công nghiệp phát triển mang nhãn hiệu văn hóa phương Tây. Xử lý

mối quan hệ này, trên một mức độ quan trọng, cũng là xử lý mối quan hệ

truyền thống và hiện đại.

Cho đến nay, trong một số học giả, đặc biệt là các học giả phương Tây

vẫn lưu hành một nhận định: trong các nền văn minh đang tồn tại thì nền văn

minh phương Tây là ưu việt hơn cả, có thể làm chuẩn mực cho cả trái đất, vì

vậy sự giải quyết con đường đi của nhân loại không thể là sự hòa giải theo kiểu

chia phần, mà là phải để cho ưu thế của nền văn minh phương Tây phát huy

sức mạnh của mình và được sự chấp nhận của thế giới.

Cùng với dòng tư tưởng tôn sùng đến mức độc tôn nền văn hóa phương

Tây đó, chính là quan niệm từng một thời ngự trị ở một số nước Thế giới thứ

ba, đặc biệt là các nước Trung - Cận Đông: hiện đại hóa đồng nghĩa với

phương Tây hóa. Với những người có quan niệm này, họ chợt thấy rằng, ở

ngay trên đất nước họ, cuộc gặp gỡ giữa hai nền văn hóa Đông - Tây chỉ có thể

là một cuộc đối đầu khủng khiếp và không có lối thoát. Truyền thống văn hóa

của họ, với tất cả bề dày của nó vẫn không đủ sức mạnh và phẩm chất để trụ

lại, càng không đủ để mở đường cho đất nước tiến lên. Vậy thì để cho đất nước

tiến lên, thành công trong hiện đại hóa, chỉ còn có con đường duy nhất là

phương Tây hóa.

Ngược lại với trào lưu “phương Tây hóa” trên đây và thật nghịch lý,

cũng do trào lưu đó kích thích, là tư tưởng không dung hòa hai nền văn hóa

Đông và Tây theo chiều hướng phủ nhận phương Tây đi đôi với tôn trọng và

Page 66: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

64

bảo vệ phương Đông. Trước tiên là tư duy của những người đã nhận ra và coi

“sự xâm lược của văn hóa phương Tây” như một hiểm họa. Để chống lại hiểm

họa đó, họ tỏ ra có phần cực đoan không tìm hiểu chính xác thực chất nền văn

hóa phương Tây, những yếu tố văn hóa đã góp phần làm nên sức mạnh kinh tế

và cả những bước lầm lỡ của nó, họ một mực “quay trở lại cội nguồn của

mình”. Ở miền Cận Đông đó là quá trình “tái Hồi giáo”, ở Ấn Độ là công cuộc

“Ấn Độ giáo hóa”, còn ở Nhật Bản là sự “quay về với châu Á”. Ở một phạm vi

hẹp hơn, nhưng có phần gay gắt hơn, là những khuynh hướng “truyền thống

chủ nghĩa” đi kèm theo “dân tộc chủ nghĩa”. Với những người theo khuynh

hướng này, nhãn quan văn hóa không bao giờ vượt quá biên giới dân tộc.

Trong quan niệm của họ, dân tộc có thể tiến lên trong thời hiện đại, trở thành

một dân tộc hiện đại, nhưng về văn hóa thì truyền thống là truyền thống, không

chấp nhận những thay đổi dựa theo phương Tây, “cho đó là những sự áp đặt từ

bên ngoài hoặc là những đồ trang sức phù phiếm của một nền văn minh vay

mượn” [Masakazu Yamazaki. Châu Á một nền văn minh đang hình thành. Tạp

chí Foreign Affairs. 1996, Tr.7. No.4, tháng 7-8/1996].

Thứ sáu, trong bất kỳ truyền thống văn hóa của dân tộc nào cũng đều có

sự hiện diện của tôn giáo và tôn giáo vẫn tiếp tục tồn tại trong những hoạt động

của thời đại khi xã hội bước vào giai đoạn hiện đại hóa. Căn cứ vào tình hình

tôn giáo trên thế giới hiện nay, có thể nêu lên mấy khía cạnh: (1) Xét ở bề sâu

và tìm về nguồn gốc, tôn giáo nào cũng xuất phát từ nhu cầu của con người,

trong cuộc sống nhiều khó khăn và bất trắc, đi tìm một lối thoát và một chỗ

dựa cho tâm hồn, đồng thời cũng xuất phát từ ước vọng của con người cải

thiện số phận của mình, vươn lên thế giới “bằng an” và hạnh phúc trọn vẹn,

trong đó không còn những khổ ải và bất công, không còn quỹ dữ. Xét về cơ

bản, những điều đó cũng nằm trong hy vọng và mục tiêu của con người khi lao

vào những dự án xây dựng và hiện đại hóa đất nước. Do đó, ta dễ dàng giải

thích tại sao hiện nay ở các nước đang đẩy mạnh tốc độ hiện đại hóa, không

thể nào gạt bỏ tôn giáo với tư cách là một truyền thống văn hóa, thậm chí tôn

Page 67: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

65

giáo còn nổi lên như một vấn đề cần được xem xét thích đáng trong đời sống

con người. Điều quan trọng là, không được quan niệm vấn đề một cách tĩnh

tại, mà phải hiểu rằng xã hội đang thay đổi với sự tiếp nhận những yếu tố hiện

đại thì tôn giáo, cái truyền thống văn hóa đó cũng phải thay đổi để thích nghi

vì thực ra nó không còn đầy đủ cho con người hiện đại, nhưng thay đổi như thế

nào không phải là một điều đơn giản. (2) Ở nhiều nước phương Tây hiện nay,

đạo Cơ Đốc - tôn giáo truyền thống đang ngày một sa sút số tín đồ, số người

thực hiện theo nghi lễ tôn giáo và số linh mục giảm đi rõ rệt. Nguyên nhân là

vì bản thân đạo Cơ Đốc, với tất cả giáo lý và những hình thức nghi lễ của nó

không còn đáp ứng được nhu cầu tâm linh của con người trong xã hội hiện

đại đang quay cuồng, trăn trở giữa hàng loạt vấn đề gay go của cuộc sống

hiện đại: việc làm, tiền đồ của thanh niên, bạo lực và các tệ nạn xã hội khác.

Bên cạnh đạo Cơ Đốc, người ta còn chú ý đến sự phát triển mạnh mẽ của đạo

Hồi ở các nước Tây Á và Trung - Cận Đông, đặc biệt một số nước thuộc Liên

Xô trước đây. Một mặt ở các nước đang hiện đại hóa, người ta muốn lấy đạo

Hồi làm một truyền thống văn hóa, coi như bản sắc văn hóa của dân tộc, để

chống lại mọi nguy cơ phương Tây hóa, mọi ý đồ xâm nhập của văn hóa

phương Tây. Còn hơn cả đạo Hồi, là sự phục hồi và phát triển của đạo Phật,

tuy rằng mang những màu sắc khác nhau ở các vùng đất khác nhau. Có lẽ

trong các tôn giáo - một bộ phận của truyền thống văn hóa - thì đạo Phật đáp

ứng được nhiều hơn cả những nhu cầu của con người hiện đại: sự tĩnh tâm

trước một thế giới ồn ào và tốc độ cao của khoa học - công nghệ hiện đại,

niềm an ủi trước những tai họa do con người và thiên nhiên gây ra, sự xa lánh

bạo lực, cảm giác trong lành trong một môi trường đầy những tranh cướp

quyền lợi khủng khiếp. Chính vì vậy mà đạo Phật được đón nhận ở các tầng

lớp người rất khác nhau về cương vị xã hội, người nghèo khổ, quan chức, trí

thức, người trung lưu. Để sang một bên một số nghi thức đã do chính con

người hiện đại làm cho phức tạp và không hề có trong kinh Phật thì sự tồn tại

hiện nay của đạo Phật cũng giúp chúng ta suy nghĩ về sức sống của những gì

Page 68: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

66

là cốt lõi đích thực của truyền thống văn hóa trước sự phát triển chung của

thế giới hiện đại. (3) Không kể những trường hợp đặc biệt, nhìn tình hình

chung của thế giới, hiện nay người ta nói đến “sự trở lại của tôn giáo”. Chúng

ta không phủ nhận nhận định này, nhưng cần chấp nhận và lý giải nó ở những

khía cạnh nào trên bình diện văn hóa, là điều phải đặt vấn đề, dù chỉ mới là

những ý kiến phác thảo ban đầu. Với những tài liệu có được hiện nay, ta thấy

một mặt với thực trạng chính trị - xã hội hiện nay, kể cả những biến động lớn

vừa qua, con người tỏ ra không hài lòng từ chủ nghĩa tư bản với sự sa sút về

nhân cách và bế tắc về tinh thần ngay cả khi khoa học - công nghệ phát triển

như chuyện thần kỳ, cho đến “chủ nghĩa xã hội hiện thực” đã sụp đổ nhanh

chóng dù cho có sự cổ vũ của những lý tưởng đẹp đẽ - con người phải tìm trở

lại chỗ dựa tinh thần đã có từ ngàn đời là tôn giáo, nơi có thể gởi gắm, cầu

xin và hy vọng. Nhưng cần lưu ý rằng sự tìm đến tôn giáo ngày nay không

còn cùng một dạng thức như ngày xưa, người ta bỏ đi nhiều những nghi lễ

phiền phức, những ràng buộc về sinh hoạt tôn giáo, nhất là cái phần mê tín,

mà chủ yếu đi sâu vào ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhất của giáo lý; cho nên số

người đến nhà thờ hay đi chùa chiền có thể bớt đi, nhưng số người tự đọc

kinh, tự nghiền ngẫm lời dạy của Chúa Trời hay Đức Phật lại tăng lên, họ có

thể rút ra trong đó những gì mình tâm đắc nhất [70, 82].

Rõ ràng những gì vừa nêu trên đây là một phần trong bức tranh về mối

quan hệ giữa những giá trị trong truyền thống văn hóa với những vấn đề của

thời đại và qua sự xử lý của con người hiện đại. Một bức tranh khá hỗn độn,

nhưng nhìn kỹ, bao giờ cũng có thể lần ra được những đường nét chính.

Trong sự phát triển của văn hóa, cùng với sự thống nhất, giữa

truyền thống và hiện đại cũng bao hàm sự mâu thuẫn với nhau. Điều đó

được biểu hiện ở những quan điểm chính như sau:

Một là, tính ổn định của truyền thống và một số yếu tố lạc hậu, bảo thủ

của truyền thống trở thành lực cản của hiện đại. Trong sự nghiệp đổi mới,

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, nhân dân ta đã

Page 69: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

67

xây dựng lối sống mới phù hợp với sự phát triển của xã hội công nghiệp, từng

bước xây dựng, phát triển kinh tế tri thức, hội nhập khu vực và quốc tế,

nhưng vẫn giữ gìn và phát huy được các giá trị tốt đẹp trong lối sống cổ

truyền của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị tốt đẹp của truyền

thống cần được bảo tồn, phát triển nâng cao, còn một số yếu tố lạc hậu, bảo

thủ của truyền thống trở thành lực cản của hiện đại, đó là lối làm ăn nhỏ,

manh mún, tản mạn, tác phong tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức

chấp hành pháp luật kém, tính cầu may, không biết lo xa và hạch toán kinh tế,

chưa tôn trọng tính chủ thể của cá nhân, tư duy phân tích, thực nghiệm và

luận lý yếu, khả năng hợp tác trong công việc hạn chế, thái độ "trọng nam,

khinh nữ", coi thường người trẻ, tính cục bộ, địa phương, tâm lý bình quân

chủ nghĩa gắn liền với thái độ “cào bằng”, ghen ghét đố kỵ những người trội

vượt hơn mình, v.v… Những mặt yếu kém này là sản phẩm tất yếu của kinh

tế tiểu nông, của thiết chế cộng đồng làng, xã và nền văn minh tiền công

nghiệp, là những đặc điểm của lối sống cổ truyền không còn phù hợp với thời

đại ngày nay. Vì vậy, cần khắc phục những thói quen và truyền thống đã tỏ ra

không còn phù hợp nhằm xây dựng lối sống mới văn minh, hiện đại.

Hai là, trong quá trình phát triển có những yếu tố của hiện đại không

phù hợp, mâu thuẫn, xung đột với truyền thống. Việc xây dựng lối sống mới

nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội hiện nay là một vấn đề bức thiết đối

với dân tộc. Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường đã được thiết lập và

bước đầu có sự phát triển tương đối đa dạng, phong phú và ngày càng năng

động hơn. Mức sống của người dân được nâng cao rõ rệt. Quá trình toàn cầu

hoá, hội nhập quốc tế mang lại cho người dân khá nhiều cái mới, cái hiện đại

từ phương Tây; đồng thời, nó cũng tạo ra những biến đổi theo chiều hướng

xấu trong nhận thức của một bộ phận nhân dân về các giá trị truyền thống, về

lối sống cá nhân và dân tộc. Biểu hiện rõ nét nhất là xu hướng coi thường,

thậm chí phủ nhận các giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc, đồng thời đề

cao quá mức các giá trị ngoại lai mà họ cho là "mới”, "hiện đại". Trong lĩnh

Page 70: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

68

vực âm nhạc, việc giữ gìn âm nhạc truyền thống với các làn điệu dân ca, các

điệu lý là đúng; nhưng, nếu thể loại đó không được cải biến, bổ sung và phát

triển, nâng lên thành cái mới, cái hiện đại thì sẽ làm cho người xem, người

nghe cảm thấy nhàm chán, buồn tẻ. Cho nên, nhiều người, đặc biệt là thế hệ

trẻ vốn năng động và luôn có xu hướng đi tìm cái mới, đã tiếp nhận một cách

vô tội vạ những nhạc phẩm Pop, Rap, Rock... mới, lạ của phương Tây. Đây là

vấn đề cần được suy nghĩ nghiêm túc.

Quá trình toàn cầu hoá hiện nay là một xu thế tất yếu, khách quan.

Trong phạm vi văn hoá, có sự lo ngại rằng, quá trình toàn cầu hoá sẽ dẫn

đến sự xâm nhập, bành trướng của văn hoá phương Tây, văn hoá Mỹ vào

nước ta sẽ đánh mất bản sắc văn hoá của mình. Sự ảnh hưởng của văn hoá

và lối sống phương Tây đến lối sống của nhân dân ta biểu hiện khá rõ. Giới

trẻ ngày nay chịu tác động quá nhiều từ lối sống phương Tây, một bộ phận

trong số họ chạy theo thứ văn hoá và lối sống "hiện đại” ấy, coi đó là "mô

hình chuẩn" để đánh giá so sánh với các nền văn hoá khác. Ai không theo

"mô hình chuẩn" đó thì được coi là không "sành điệu”, là lỗi thời, lạc hậu.

Họ thích chạy theo các mốt thời trang kiểu Tây, không phù hợp với thị hiếu

thẩm mỹ của dân tộc; thích uống rượu ngoại, ăn đồ ngoại hơn là sản phẩm

trong nước; thích xem phim bạo lực hoặc tình cảm "gợi dục" hơn là phim

tâm lý xã hội Việt Nam. Họ thực dụng, ít hoặc không quan tâm đến lý tưởng

chính trị xã hội; thích lối sống sòng phẳng hơn là nghĩa tình... Đó là những

biểu hiện xa rời lối sống truyền thống của dân tộc, xa rời bản sắc dân tộc,

chạy theo lối sống lai căng ngoại nhập vốn rất xa lạ với dân tộc ta. Rõ ràng

là, nội dung tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc về nhiều mặt chưa được định

hình rõ nét trong lối sống văn hoá, nếp sống văn hoá của nhân dân trong

thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm

bởi các tệ nạn xã hội; vẫn còn không ít các sản phẩm văn hoá, hoạt động

văn hoá lai căng, thấp kém, thậm chí độc hại.

Page 71: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

69

Sự phân tích trên đây cho thấy, trong quá trình xây dựng lối sống mới

của nhân dân hiện nay, đã xuất hiện mâu thuẫn giữa yêu cầu kế thừa và phát

huy các giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc với xu hướng trái ngược -

coi thường hoặc muốn phủ nhận các giá trị truyền thống văn hoá đó. Đây là

một trong những mâu thuẫn phức tạp mà những người lãnh đạo ngành văn

hóa phải nhận diện rõ để có hướng và biện pháp giải quyết kịp thời, có hiệu

quả nhằm xây dựng cho nhân dân một lối sống mới phù hợp với truyền thống

và hiện đại.

Như vậy, trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá vừa mang đến nhiều cơ

hội mới, giá trị mới, nhưng nó cũng đem lại cho chúng ta không ít thử thách

về kinh tế, chính trị và đặc biệt là về văn hoá, lối sống. Điều này đặt ra vấn đề

phải suy nghĩ là, làm thế nào để giữ gìn được các giá trị truyền thống văn hoá

của dân tộc trước xu hướng phương Tây hoá trong xây dựng lối sống? Đây là

một trong những mâu thuẫn đang đặt ra và cần được giải quyết ngay với kết

quả tốt nhất trong quá trình xây dựng lối sống mới hiện nay.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Từ những vấn đề vừa trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng: Văn

hóa là hoạt động sáng tạo và là hệ thống các giá trị do chính con người tạo

ra trong mỗi thời đại lịch sử. Trải qua hằng ngàn năm dựng nước và giữ

nước đã tạo cho Việt Nam có một truyền thống lâu đời, bền vững đó là

truyền thống lịch sử, truyền thống dân tộc. Cái hồn của truyền thống ấy là

văn hóa và bản lĩnh sáng tạo, sức sống của con người Việt Nam. Vì vậy, nó

phải được bảo tồn và phát huy, được kế thừa và phát triển trong những điều

kiện lịch sử mới.

Con người sản xuất và sáng tạo ra văn hóa đồng thời văn hóa đã phát

triển và hoàn thiện con người, định hình bản chất người và nhân tính của nó.

Văn hóa trong ý nghĩ sâu xa của nó là trình độ người trong phát triển, là tất

cả những gì chứng tỏ nhân tính vượt lên trên thú tính (bản năng của loài

Page 72: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

70

vật). Tiếp cận văn hóa từ hoạt động cho thấy, văn hóa gắn liền với chủ thể

hoạt động là con người, văn hóa là phương thức độc đáo của con người, chỉ

riêng có ở con người để biểu hiện và tự biểu hiện mình, để khẳng định và tự

khẳng định mình trong phát triển và tự phát triển. Với con người và loài

người, hoạt động căn bản quan trọng, quyết định nhất là hoạt động lao động

sản xuất ở trong thực tiễn đời sống, gắn liền xã hội với tự nhiên, như một

chỉnh thể. Con người không chỉ sản xuất ra văn hóa mà còn cảm thụ, tiêu

dùng văn hóa, cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Chỉ những hoạt

động sáng tạo, tích cực, hướng tới sự phát triển và tiến bộ mới được coi là

hoạt động văn hóa. Do đó, về phương diện giá trị, cái gọi là văn hóa phải đi

liền với những giá trị đích thực, những chân giá trị (chân - thiện - mỹ). Cần

phải khẳng định rằng, văn hóa chỉ dùng để nói về những gì tốt đẹp, đúng

đắn, hướng tới phát triển và hoàn thiện nhân tính. Những gì đối lập với nó

không thể gọi là văn hóa và giá trị văn hóa.

Truyền thống và hiện đại có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác

động qua lại lẫn nhau, trong đó, truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại,

còn hiện đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống. Mối quan hệ

giữa truyền thống và hiện đại thực chất là sự bảo tồn và phát huy các giá trị

văn hóa truyền thống trong điều kiện hiện đại hóa xã hội. Vì vậy việc bảo tồn

và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đòi hỏi phải thấm nhuần quan

điểm và phương pháp biện chứng về phát triển. Đây chính là xử lý mối quan

hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa kế thừa và phát triển các di sản, các giá trị

truyền thống. Trong thời hiện đại, trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, giá trị và

sức mạnh ấy cũng phải phát huy và đồng thời cũng cần khắc phục những hạn

chế của chính giá trị này, sao cho cố kết cộng đồng không bao giờ buông

lỏng mà tự do cá nhân cũng không thể xem thường. Chính vì vậy, việc bảo

tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống bao hàm cả xây dựng và cải

tạo, cả kế thừa và loại bỏ, đổi mới để phát triển. Cuộc đấu tranh giữa cái mới

tiên tiến với cái lạc hậu, bảo thủ là một cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài. Vì

Page 73: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

71

vậy, việc xây dựng quan niệm mới về giá trị, đổi mới nhận thức về giá trị văn

hóa truyền thống, chú trọng giáo dục văn hóa, đặc biệt là giáo dục giá trị để

hướng dẫn dư luận và thực hành trong lối sống, trong đời sống văn hóa là một

đòi hỏi bức xúc, cần thiết. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền

thống hướng tới phát triển có ý nghĩa như là hiện đại hóa truyền thống.

Truyền thống và những giá trị văn hóa truyền thống định hình ở dân

tộc này nhưng có thể có ở dân tộc khác, ở nhiều dân tộc khác. Có lẽ, để tồn

tại và phát triển, không dân tộc nào trong cộng đồng thế giới nhân loại lại

không hình thành nên tình cảm yêu nước, thương nòi, cần cù lao động, sáng

tạo trong việc cải biến tự nhiên và chống ngoại xâm. Cũng như vậy, trong

văn hóa của dân tộc mình, không dân tộc nào lại không xây dựng cho mình

những chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử, những thành tựu riêng thuộc

về tư tưởng hay ý thức hệ, về văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa và

đưa nó vào trong sinh hoạt tinh thần, thành tâm lý, phong tục, tập quán.

Không một quá khứ nào có thể giữ nguyên vẹn khi gia nhập vào đời sống

của hiện tại và đi tới tương lai. Đó là lẽ tự nhiên của phát triển. Bởi vậy, khi

xem xét văn hóa dân tộc với truyền thống và giá trị của nó như là “tấm căn

cước” của dân tộc để hội nhập vào thế giới, giúp cho sự nhận thức và đánh

giá dân tộc đó là gì và như thế nào trong sự hiểu biết và cảm thông của cộng

đồng nhân loại thì nhận diện những khác biệt là rất cần thiết và quan trọng.

Những khác biệt đó không chỉ là cái tốt, cái đẹp mà có cả những khiếm

khuyết, hạn chế. Cái mạnh của dân tộc này (về văn hóa) có thể là cái yếu

của dân tộc khác.

Để nỗ lực vươn tới phát triển và có đóng góp xứng đáng vào phát

triển chung, tính tự ý thức của dân tộc là điều không thể thiếu. Đó mới thực

là điều cần nhấn mạnh khi bàn về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa

truyền thống trong hội nhập quốc tế.

Page 74: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

72

Chương 2

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG

GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN

VĂN HÓA Ở CẦN THƠ

2.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ, CÁC LOẠI HÌNH

VĂN HÓA CHỦ YẾU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ

2.1.1. Những điều kiện hình thành và phát triển của văn hóa ở Cần Thơ

Khái quát điều kiện lịch sử Cần Thơ

Thời điểm lịch sử hình thành vùng đất Cần Thơ được khai mở và có mặt

trên dư đồ Việt Nam là từ năm 1739, với tên gọi Trấn Giang. Nếu tính xa hơn

nữa, thì vùng đất này đã xuất hiện và tồn tại trong quá trình hình thành vùng

Châu thổ sông Cửu Long từ trước Công nguyên. Đến ngày 23 tháng 2 năm

1876, sau khi đã chiếm trọn Nam kỳ lục tỉnh, thực dân Pháp mới ra nghị định

lấy huyện Phong Phú (Trấn Giang xưa) và một phần huyện An Xuyên và Tân

Thành thuộc tỉnh An Giang (thời vua Minh Mạng) để thành lập hạt Cần Thơ

(Arrondissement de Can Tho) [49, 21].

Bản đồ hành chính thành phố Cần Thơ

Page 75: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

73

Trên bản đồ Việt Nam, Cần Thơ hiện ra ở dải đất cực Nam của Tổ quốc,

nằm vào vị trí giữa các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Thủ sở Trấn Giang ở

phía Tây sông Hậu, lập ra từ năm Kỷ Vị 1739, do ông Mạc Thiên Tích và

được ông Nguyễn Cư Trinh đồng tâm xây dựng để làm hậu cứ cho mặt trận

Hà Tiên chống quân xâm lược từ phía Tây Nam, vừa là nơi phát triển kinh tế

mở mang bờ cõi. Nơi đây, một vùng đất mới nên thu hút người tứ phương

miệt Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau đổ về và người từ vùng Đồng Nai đổ xuống

để sinh cơ lập nghiệp, mà nguồn gốc cũng từ miền Bắc, miền Trung đi vào,

có cả người Khmer, người Hoa hội tụ về đây trở thành cộng đồng dân cư các

dân tộc làm ăn sinh sống hoà thuận, khiến cho vùng đất này ngày trở nên trù

phú, khởi sắc.

Trong sách Gia Định thành thông chí (1765 – 1825) của Trịnh Hoài

Đức mô tả: “Sông Cần Thơ phía Tây Hậu Giang, thủ sở đạo Trấn Giang chợ

phố trù mật, người mua bán hội tụ”. Thời Gia Long sách viết về Trấn Giang

còn nói rõ: “…mở mang đường sá, xây cất chợ búa, phố phường, việc mua

bán ngày càng phồn thịnh, dân tứ xứ kéo đến định cư, lập nghiệp ngày càng

đông đúc…”. Tỉnh Cần Thơ nói chung, thành phố Cần Thơ nói riêng4 được

tiếng tăm từ đó cho đến nay. Ngoài thành phố Sài Gòn (trên 300 năm) được

coi là “Hòn Ngọc Viễn Đông”, thì miền Tây Nam bộ có thành phố Cần Thơ

(trên 150 năm), không phải ngẫu nhiên mà từ lâu được mệnh danh là “Tây

Đô”, bởi những điều kiện riêng của nó.

Về tên gọi Cần Thơ, trong sử sách xưa nay, không có ghi chép xuất xứ

rõ ràng như tên gọi một số tỉnh khác, chỉ có những truyền thuyết do các bô

lão địa phương đời trước kể lại cho con cháu đời sau. Theo nhà nghiên cứu

Huỳnh Minh, trong quyển sách sưu khảo Cần Thơ xưa và nay xuất bản năm

1966 thì có hai truyền thuyết như sau:

Truyền thuyết thứ nhất, ngày xưa, khi chưa lên ngôi vua, chúa Nguyễn

Ánh vào Nam và đã đi qua nhiều nơi ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Một 4 Lúc bấy giờ, thành phố Cần Thơ là thành phố thuộc tỉnh Cần Thơ.

Page 76: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

74

hôm, đoàn thuyền của chúa đi theo sông Hậu vào địa phận thủ sở Trấn Giang

(Cần Thơ xưa). Đêm vừa xuống, thì đoàn thuyền cũng vừa đến Vàm sông

Cần Thơ 5. Đoàn thuyền đang lênh đênh trên mặt nước ở ngã ba sông này,

chúa nhìn vào phía trong thấy nhiều thuyền bè đậu dài theo hai bờ sông, đèn

đóm chiếu sáng lập loè. Giữa đêm trường canh vắng, vọng lại nhiều tiếng

ngâm thơ, hò hát, tiếng đàn, tiếng sáo hoà nhau nhịp nhàng. Chúa thầm khen

về một cảnh quan sông nước hữu tình. Chúa mới có cảm nghĩ ban cho con

sông này một cái tên đầy thơ mộng là Cầm thi giang tức là con sông của thi

ca đàn hát. Dần dần hai tiếng Cầm thi được lan rộng trong dân chúng và

nhiều người nói trại ra là Cần Thơ. Tên Cần Thơ nghe thấy hay và đẹp nên

được người trong vùng chấp nhận và cùng gọi sông Cần Thơ.

Truyền thuyết thứ hai, ở hai bên bờ sông Cần Thơ ngày xưa, người dân

trồng rất nhiều rau cần và rau thơm. Ghe thuyền chở nhiều rau cần, rau thơm

qua lại rao bán đông vui từ năm này sang năm khác. Vì vậy từ xa xưa, còn

truyền lại những câu ca dao:

“Rau cần, rau thơm xanh mướt,

mua mau kẻo hết

chậm bước không còn”.

“Rau cần lại với rau thơm

Phải chăng đất ấy rau thơm có nhiều”

Cũng có thể từ đó mà người địa phương lại gọi sông này là sông Cần

Thơm, nói trại là Cần Thơ. Hai truyền thuyết Cầm Thi và Cần Thơm chưa

biết cái nào là đúng nguồn gốc. Nhưng dù nói thế nào đi nữa, thì từ xa xưa,

người dân địa phương đã gọi là sông Cần Thơ.

Đến năm 1876, khi Pháp lấy huyện Phong phú, lập ra hạt mới thì đã

dùng tên sông Cần Thơ để đặt tên cho hạt Cần Thơ rồi sau đó là tỉnh Cần Thơ.

Về hai chữ Tây Đô, từ trước đến nay chưa có một văn bản Nhà nước nào

chính thức gọi Cần Thơ là Tây Đô (thủ đô miền Tây). Tuy nhiên, do vị trí địa 5 Bến Ninh Kiều ngày nay.

Page 77: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

75

lý thuận lợi về giao thông, thương mại, công kỹ nghệ và cả về quân sự đều ở

trung tâm khu vực châu thổ sông Cửu Long nên từ thời thực dân Pháp đô hộ

đến thời Mỹ xâm lược, cả phía ta và địch đều coi ở đây có vị trí trung tâm của

vùng. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, đi lên

chủ nghĩa xã hội thì thành phố Cần Thơ vẫn được Nhà nước ta xác định vị trí

là trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Như vậy, chính hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã

hội của tỉnh Cần Thơ đã từng tồn tại phát triển qua nhiều thời kỳ, tạo cơ sở,

để trước nay, không ai bảo ai, mà nhiều người ở nhiều nơi vẫn thường gọi

Cần Thơ là Tây Đô.

Về điều kiện tự nhiên, thành phố Cần Thơ nằm ở vị trí trung tâm của

đồng bằng sông Cửu Long, là tâm của vùng có bán kính 200 km, nằm trên bờ

Tây sông Hậu, nối với đường biển quốc tế theo luồng Định An (cách biển 75

km). Thành phố Cần Thơ còn là điểm giao nhau của các quốc lộ I, quốc lộ

80, 91, 61 và đường trục N2. Toạ độ địa lý 9°10’53”-10°19’17” độ vĩ Bắc và

105°14’13”- 106°15’57” độ kinh Đông. Địa giới hành chính tiếp giáp: Đông

giáp tỉnh Vĩnh Long; Tây giáp tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu; Bắc giáp tỉnh An

Giang, Đồng Tháp; Nam giáp tỉnh Sóc Trăng, Hậu Giang. Cần Thơ có 9 đơn

vị hành chánh (5 quận và 4 huyện), với 85 xã, phường, thị trấn6. Dân số

1.114.000 người [71, 20 - 36].

6. Tính đến cuối năm 2010, Cần Thơ có 85 xã, phường, thị trấn.

Page 78: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

76

Cầu Cần Thơ được khánh thành vào ngày 24-4-2010

Cần Thơ là nơi đầu mối hệ thống giao thông thuỷ, bộ đi toả các tỉnh

trong khu vực, nối với Sài Gòn ra cả nước và biển Đông, ngược lên Phnôm

Pênh (Campuchia) rất thuận lợi cho giao lưu về kinh tế, văn hoá. Về giáo dục

có trường Collège de Can Tho (1921) một trong những trường trung học sớm

nhất ở vùng Hậu Giang. Hiện nay, có nhiều trường trung học, không chỉ ở

thành phố Cần Thơ mà còn có cả ở các huyện, thị trong tỉnh. Có trường đại

học Cần Thơ lớn nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; ngoài ra còn có

các trường Cao đẳng sư phạm, trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề.

Về y tế, ngoài bệnh viện đa khoa của tỉnh (xây dựng trên 100 năm), bây giờ

có thêm nhiều bệnh viện, trung tâm y tế huyện, thị, thành v.v…

Với khí hậu ôn hoà, vùng đất đai phì nhiêu, màu mỡ nên thích hợp cho

việc thâm canh tăng vụ các loại cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây

công nghiệp nhiệt đới và cây hoa cảnh. Ngoài hệ thống giao thông đường

thuỷ, đường bộ khá thuận tiện trong việc giao lưu với các tỉnh trong vùng và

liên vận quốc tế, Cần Thơ còn có hệ thống sông ngòi chằng chịt rất thuận lợi

cho việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản. Là một vùng sông nước nên từ rất

sớm văn hoá Cần Thơ đã mang sắc thái văn minh nông nghiệp sông nước,

được thể hiện qua các loại hình Chợ nổi như Phụng Hiệp, Cái Răng, Phong

Page 79: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

77

Điền. Đồng thời đó cũng là nơi giao lưu văn hoá giữa các tỉnh trong vùng; đã

tạo ra cho những người dân nơi đây một phong cách sống đặc thù “trí tuệ,

năng động, nhân ái, hào hiệp”.

Điều kiện kinh tế - xã hội của Cần Thơ

Cần Thơ là một tỉnh thuần nông, với hơn 80% người dân sản xuất nông

nghiệp, là địa phương sản xuất khối lượng hàng hoá nông sản lớn trong vùng.

Trải qua các cuộc kháng chiến kháng chiến ác liệt chống thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ xâm lược, nông dân bám đất giữ làng, nhờ chính sách ruộng đất của

Đảng mà nhiều nông dân trở nên khá, giàu. Nhiều ngành nghề mới, mạng

lưới dịch vụ được hình thành và dần dần phát triển, tạo thành một lực lượng

sản xuất khá mạnh tạo tiền đề cho Cần Thơ phát triển.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất Tổ quốc, kinh tế

Cần Thơ vẫn là thuần nông. Với tình hình và nhiệm vụ mới, nông nghiệp

được xem là mặt trận hàng đầu, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Cần

Thơ đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, gắn phong trào làm thuỷ lợi

với hợp tác hoá nông nghiệp, đưa năng suất và sản lượng lương thực không

ngừng tăng lên, sản lượng lúa từ 524.000 tấn năm 1976 lên gần 800.000 tấn

năm 1986, chẳng những cân đối được lương thực trong tỉnh mà còn làm tốt

nghĩa vụ đối với cả nước 7.

Tuy nhiên, do nôn nóng, muốn đưa nhanh nông nghiệp lên sản xuất lớn

Xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương tiến hành cải tạo nông nghiệp, đưa nông

dân vào tập đoàn sản xuất và hợp tác xã trong khi điều kiện chưa chín muồi.

Tháng 6-1985, Hậu Giang (nay là Cần Thơ) tuyên bố đã hoàn thành cơ bản cải

tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp8. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp

có vai trò lịch sử nhất định trong bước đi ban đầu đi lên Chủ nghĩa xã hội ở

tỉnh Hậu Giang (nay là thành phố Cần Thơ). Tuy nhiên, quá trình cải tạo xã hội

chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở tỉnh cũng đã mắc phải những khuyết điểm, sai 7. Thời kỳ này thành phố Cần Thơ còn là tỉnh Hậu Giang, bao gồm: tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Hậu Giang. Theo báo cáo tổng kết năm 1986 của tỉnh ủy Hậu Giang (nay là thành phố Cần Thơ). 8. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo cải tạo nông nghiệp tỉnh Hậu Giang năm 1985.

Page 80: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

78

lầm nghiêm trọng, đã đặt lên vùng này một quan hệ sản xuất không phù hợp;

một cơ chế quản lý kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) với đường lối đổi mới toàn diện

và nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khoá VI), Nghị quyết 10 của Bộ Chính

trị (1988), nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) đều nhận rõ các sai

lầm của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp. Điểm mới đặc

biệt trong các nghị quyết này là việc khẳng định hộ xã viên, tập đoàn viên là

đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đã khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động rộng lớn

của nông dân Hậu Giang (nay là Cần Thơ), phát huy được thế mạnh của địa

phương. Kinh tế nông nghiệp dần dần được khôi phục và phát triển. Mặt

khác, trong thập niên 80, công tác thuỷ lợi được đẩy mạnh, nhiều công trình

thuỷ lợi ngăn mặn, rửa phèn được hoàn thành đã góp phần làm thay đổi cơ

cấu cây trồng, tốc độ thâm canh tăng nhanh, nhiều vùng trong tỉnh cơ cấu hai

vụ lúa, một vụ màu, có nơi ba vụ lúa trở thành phổ biến.

Ngoài cây lúa, vùng cây ăn trái nổi tiếng từ lâu như Phong Điền, Ô

Môn… được khôi phục và phát triển. Mô hình kinh tế gia đình VAC (vườn,

ao, chuồng) đã xuất hiện. Nhiều hộ nông dân khá lên nhanh chóng. Thực tiễn đó

cho thấy sự chuyển dịch nền kinh tế nông thôn là xu hướng tất yếu, mở lối cho

quá trình phát triển của một nền kinh tế nông nghiệp đi lên công nghiệp hóa.

Thời kỳ này, Đảng bộ và nhân dân Hậu Giang (nay là Cần Thơ) ý thức

rất rõ vai trò của khoa học - kỹ thuật. Chỉ có khoa học - kỹ thuật mới tạo ra

năng suất, sản lượng lương thực lớn; nhưng để sự phát triển bền vững phải có

vai trò động lực tác động đến nông dân và xã hội nông thôn. Điều đó cho thấy

trong phát triển không thể thiếu vai trò của khoa học xã hội và nhân văn. Do

nhu cầu phát triển, Cần Thơ đã hợp tác với một số Viện, trường Đại học thực

hiện các đề tài khoa học; trong đó, đề tài đáng chú ý là “Quản lý và phát triển

kinh tế - xã hội huyện Thốt Nốt”, do huyện uỷ Thốt Nốt hợp tác với Viện

Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, chủ đề của đề tài là tìm

mâu thuẫn: quan hệ sản xuất phù hợp hay không phù hợp với lực lượng sản

Page 81: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

79

xuất. Qua hội thảo đã đi đến kết luận: ở Thốt Nốt nông hộ là đơn vị kinh tế cơ

bản ở nông thôn, muốn phát triển phải tạo động lực và điều kiện cho kinh tế

nông hộ. Ứng dụng đề tài này, huyện Thốt Nốt đã xây dựng mô hình “Tạo điều

kiện cho nông hộ tăng năng suất vùng lúa nổi”; nhờ đó đã động viên nông dân

thâm canh, tăng vụ có hiệu quả, diện tích, năng suất và sản lượng không ngừng

tăng lên. Thực tiễn này góp phần vào việc hình thành nên chủ trương, nghị

quyết của Đảng, trong đó nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VI)

về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp là một điển hình.

Với đường lối đổi mới của Đảng, nhất là đổi mới tư duy kinh tế, đổi

mới cơ chế quản lý đã thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Hậu Giang (nay

là Cần Thơ) là một trong những tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long có sản

lượng lương thực cao. Nếu như năm 1976, Hậu Giang (nay là Cần Thơ) chỉ

đạt hơn nửa triệu tấn, thì năm 2000 đạt 2.037.830 tấn. Lương thực chẳng

những đủ ăn mà còn xuất khẩu trên 350 ngàn tấn/năm9.

Để kinh tế Hậu Giang (nay là Cần Thơ) phát triển nhanh và bền vững,

không thể chỉ đi lên bằng con đường nông nghiệp, mà phải có công nghiệp -

tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ…Vì vậy, đi đôi với phát triển nông

nghiệp, lãnh đạo tỉnh Hậu Giang (nay là thành phố Cần Thơ) tập trung đầu tư

xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn này, đặc biệt là công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.

Từ năm 1976 đến 1980 là thời kỳ khôi phục sản xuất công nghiệp, vừa

cải tạo vừa xây dựng phát triển mới các cơ sở công nghiệp, nổi bật nhất là

việc xây dựng Xí nghiệp liên hiệp dược Hậu Giang, xí nghiệp in tổng hợp

Hậu Giang, xí nghiệp cơ khí trung tâm và tiếp theo là xí nghiệp đóng tàu

thuỷ, xí nghiệp sửa chữa ô tô của ngành giao thông vận tải… Nhờ vậy, ngành

công nghiệp của tỉnh mỗi năm đều có bước tiến đáng kể.

Từ năm 1981 đến năm 1985, là thời kỳ tăng cường xây dựng cơ sở vật

chất, trong đó tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp phục vụ sản xuất 9. Theo báo cáo tổng kết năm 2000 của tỉnh ủy Cần Thơ.

Page 82: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

80

nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân

dân, đẩy nhanh sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Đã đầu tư xây dựng mới các xí

nghiệp: Xí nghiệp rau quả đông lạnh ở Trà Nóc, Xí nghiệp chế biến thuỷ hải sản

đông lạnh Cafatex chế biến tôm đông lạnh, các mặt hàng đóng gói xuất khẩu.

Ngành tiểu, thủ công nghiệp cũng phát triển phong phú đa dạng và

xuất hiện nhiều ngành nghề mới như dệt bao đay, thảm đay, mành trúc, thêu

đan, dệt chiếu, dệt vải, khăn tắm, sản xuất bột giặt, sườn xe đạp, xeo bột

giấy… Công nghiệp phát triển nhất là chế biến lúa gạo, chế biến đường.

Thời kỳ 1986 - 1990, các ngành sản xuất bắt đầu chịu ảnh hưởng nhiều

bởi việc chuyển đổi quản lý, từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao

cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội

chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa trong nước bị cạnh tranh gay gắt do hàng ngoại

nhập vào. Trong thời kỳ này, trừ một số xí nghiệp quốc doanh chủ lực của tỉnh

biết kịp thời trang thiết bị sản xuất, chuyển đổi kinh doanh thích hợp với cơ chế

thị trường, ngoài ra còn nhiều xí nghiệp khác lâm vào tình trạng sản xuất không

ổn định do hậu quả của thời kỳ bao cấp. Tuy nhiên, ngành công nghiệp toàn tỉnh

cũng đạt được một số kết quả nhất định, giá trị tăng thêm trong ngành công

nghiệp bình quân thời kỳ này là 6,62%.

Nhà máy nhiệt điện Trà Nóc, thành phố Cần Thơ

Page 83: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

81

Thời kỳ 1991 - 2000, Đại hội VII của Đảng khẳng định đường lối đổi mới của

Đảng là đúng đắn, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Cần Thơ

được củng cố chấn chỉnh sắp xếp lại: các xí nghiệp quốc doanh tập trung vốn

đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ sản xuất, tiếp tục mở

rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài. Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp cũng phát

triển đa dạng, đầu tư mở rộng sản xuất. Do đó, ngành công nghiệp của Cần Thơ

phát triển khá, đặc biệt là công nghiệp quốc doanh, tăng bình quân 17-18%/năm.

Do sự tác động của công nghiệp mà trình độ tay nghề của công nhân được nâng

lên, cơ cấu lao động đã có chuyển biến một bước đáng kể, giúp cho nông dân

tăng nguồn thu nhập phụ của nông nghiệp, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn

lao động, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển.

Đầu năm 2004, tỉnh Cần Thơ được chia tách thành hai đơn vị hành

chánh mới là thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang.

Thành phố Cần Thơ bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ công nghiệp hóa

- hiện đại hóa - trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng cũng có

nhiều thách thức gay gắt, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện

nay. Thời kỳ này, đòi hỏi sản phẩm hàng hoá mang hàm lượng tri thức cao,

sức cạnh tranh khốc liệt… Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ đã luôn phát huy

truyền thống yêu nước, đoàn kết; phát huy tốt các nguồn lực, khắc phục khó

khăn, giành được những kết quả quan trọng và tương đối toàn diện.

Đặc điểm dân cư và đời sống tác động đến văn hóa Cần Thơ

Thành phố Cần Thơ là một trong năm thành phố trực thuộc Trung

ương, là thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long, thường

được gọi là “vùng đất mới”, nhưng thực tế theo khảo cổ học thì nơi đây đã có

vết tích cư trú của con người từ đầu công nguyên. Tại ấp Nhơn Thành, xã

Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền, Bảo tàng thành phố và các cơ quan chuyên

môn đã phát hiện nhiều di vật của nền văn hóa Óc - Eo với một giai đoạn lịch

sử kéo dài từ thế kỷ I-VII.

Page 84: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

82

Chủ nhân văn hóa chính của thời kỳ khai hoang, mở đất là người Việt,

người Khmer và người Hoa. Vì đặc thù sông nước chi phối toàn bộ cuộc sống

cộng đồng trong vùng nên chúng ta có thể dùng cụm từ văn hóa sông nước và văn

minh miệt vườn để chỉ về những nét văn hóa đặc sắc của thành phố Cần Thơ.

Người Việt hiện sinh sống tại thành phố Cần Thơ khoảng 1,083 triệu

người, chiếm 96,57% dân số, có nguồn gốc từ miền Bắc, miền Trung đến

khai khẩn Nam bộ từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, XIX. Trong quá

trình di cư, người Việt đã mang theo những “hành trang văn hóa” từ vùng đất

tổ. Trong quá trình tiến hành công cuộc khai khẩn đồng bằng sông Cửu Long

thì hành trang văn hóa đó có sự giao lưu với các dân tộc Chăm, Hoa, Khmer,

sự hòa hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh sống, từ đó tạo nên một

tính cách Nam bộ - giản dị và phóng khoáng như hiện nay.

Người Việt ở Cần Thơ có truyền thống yêu thích ca hát. Kho tàng văn

hóa dân gian ở Cần Thơ rất phong phú. Ngoài các loại hình ca dao dân ca

phổ biến trong khu vực, người Việt ở Cần Thơ còn có điệu hò, lý rất riêng

như: lý thanh trục, hò Thới Lai, hò Cần Thơ.

Riêng đồng bào dân tộc Khmer cư trú tại thành phố Cần Thơ có khoảng

19.075 người, chiếm gần 1,68% dân số. So với một số tỉnh trong khu vực,

đồng bào Khmer ở Cần Thơ tương đối ít, không tập trung, sống rải rác xung

quanh 12 ngôi chùa Phật giáo Tiểu thừa ở các huyện Cờ Đỏ, quận Ô Môn và

quận Ninh Kiều.

Đặc điểm xã hội của đồng bào Khmer là nông dân hầu hết đều theo

Phật giáo hệ phái Nam tông. Việc tu theo Phật giáo Nam tông đòi hỏi tuân

thủ nhiều nghi thức như: sáng và trưa, sau 12 giờ trưa không được ăn gì cả;

về thờ phượng, chỉ thờ duy nhất Phật Thích Ca; trong giới tu chỉ có tăng,

không có ni (nữ giới). Tu sĩ gồm hai bậc là Sadi giữ 150 giới, tỳ khưu giữ

227 giới và đều phải tuân theo 10 giới chánh yếu của đức Phật: “không sát

sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không uống rượu, không

ăn chiều, không nghe đàn, không xem hát, không dùng mùi thơm và đồ trang

Page 85: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

83

sức, không ngồi chỗ cao đẹp, không cất giữ tiền bạc”; diệt trừ 5 điều chướng

ngại: trần tục, thù oán giận hờn, lười biếng, sự phóng tâm, sự hoài nghi. Sadi

muốn lên bậc tỳ kheo phải trên 20 tuổi, những người đi tu phải có vị Ôpachia

làm thầy tế độ… Các sinh hoạt tôn giáo và nghi lễ được tổ chức tại chùa -

trung tâm của Phật giáo trong cộng đồng dân tộc Khmer. Ở các phum, sóc có

đông đồng bào Khmer đã từ lâu đời đều xây dựng các ngôi chùa hoặc sala để

trở thành nơi sinh hoạt tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cộng đồng cư dân

người Khmer. Do chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật nên trong cuộc sống

cộng đồng người Khmer luôn thể hiện tinh thần nhân đạo và niềm tin vào

thiện ác, xem vấn đề luân hồi, nhân quả là một quan niệm nhân sinh.

Trong quá trình lao động sáng tạo, đấu tranh chinh phục thiên nhiên để

cải tạo cuộc sống, đồng bào Khmer đã xây dựng cho mình một nền văn hóa

phong phú và đa dạng với nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa, ca múa

nhạc sân khấu, thơ ca dân gian. Đặc biệt là các lễ hội mang đậm bản sắc dân

tộc gắn với lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội, gia đình, cộng đồng phum, sóc

và các sinh hoạt tôn giáo của người Khmer như: lễ dân tộc Bund Chool Chnăm

Thmây (lễ vào năm mới), Bund Sen Dôl Ta (lễ cúng ông bà), Bund Thvai Pră

Khe (lễ cúng trăng); lễ hội tôn giáo Bund Kathanh, Bund Visaka Bôchia (lễ Phật

đản)… Qua những nghi thức lễ bái và mục đích ý nghĩa của nó, các hoạt động lễ

hội thể hiện rõ tinh thần vị tha, tính nhân đạo cao cả, giáo dục sự đoàn kết trong

cộng đồng và nêu lên quan niệm về đạo đức nhằm giáo dục con người hướng

thiện, duy trì quan hệ tốt đẹp giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với

nhau trong xã hội, ở từng giai đoạn, từng cộng đồng phum, sóc.

Trong nền văn hóa đặc sắc của người Khmer, ngôn ngữ và chữ viết của

họ đã phát triển khá hoàn chỉnh, trong đó tiếng nói bản địa được bổ sung và

làm phong phú bởi tiếng Sancrít (qua Bàlamôn giáo); chữ viết tiếp thu từ chữ

Pramei do những người theo Bàlamôn giáo sáng tạo ra cũng ngày một hoàn

chỉnh. Tuy có lúc bị giai cấp thống trị cấm đoán, không cho sử dụng, giảng

dạy, học hành trong nhà chùa và trường công lập nhưng đồng bào và các vị

Page 86: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

84

sư sãi người Khmer vẫn đấu tranh để tổ chức giảng dạy và học tập nhằm bảo

tồn ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc Khmer trong các trường chùa.

Người Khmer yêu thích các loại hình um-tuk (hát ru con), à-day (hát

đối đáp), múa lâm-thôn, múa trống xa-dăm. Sinh hoạt văn hóa gắn liền với

các ngôi chùa Phật giáo tiểu thừa và các lễ hội lớn: Chool-Chnam-Thmây

(mừng năm mới), Đôl-ta (cúng ôn bà, cha mẹ), Óc-om-bóc (cúng trăng).

Người Hoa, hiện sống ở thành phố Cần Thơ khoảng 15.717 người,

chiếm gần 1,37% dân số. Người Hoa sống ở thành phố Cần Thơ luôn có mối

quan hệ mật thiết với người Hoa sống ở các vùng khác, nhất là thành phố Hồ

Chí Minh, còn bảo lưu nhiều nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng của mình

nhưng họ cũng lấy nơi đây làm quê hương thứ hai, sống hòa hợp với các tộc

người khác và góp phần phát triển kinh tế - xã hội chung.

Người Hoa trong sinh hoạt hàng ngày thích hát sơn - ca (giống như ca

dao - dân ca của người Việt). Hàng năm, họ tổ chức các lễ hội lớn: vía Quan

Công, vía bà Thiên Hậu, vía Ông Bổn… Trước đây, người Hoa còn thành lập

ra các nhóm Sơn Đông mãi võ, vừa biểu diễn võ thuật, xiếc, vừa bán thuốc

cao đơn hoàn tán ở các chợ thị tứ, thị trấn.

Cộng đồng người Việt, Khmer, Hoa của thành phố Cần Thơ nhìn

chung rất hòa thuận, có sự giao lưu, tiếp thu văn hóa lẫn nhau. Những giá trị

văn hóa ban đầu là của một tộc người, sau đã trở thành tài sản chung của các

tộc người. Một số phong tục, tập quán (ma chay, cưới xin, lễ hội…) và nghệ

thuật dân tộc ảnh hưởng nhau khá đậm trong cuộc sống.

2.1.2. Qúa trình phát triển và các loại hình văn hóa ở Cần Thơ

Quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ

Trong lĩnh vực lịch sử, văn hóa, vùng đất Cần Thơ nổi tiếng về bề dày

và chiều sâu bậc nhất của cả vùng Nam Bộ. Bằng chứng là qua các cuộc

nghiên cứu về khảo cổ đã phát hiện nơi đây trải qua một giai đoạn phát triển

rực rỡ của vương quốc Phù Nam và nền văn hóa Óc Eo kéo dài gần 600 năm

sau công nguyên. Công cuộc khai khẩn đất hoang, hội tụ dân cư lập nghiệp ở

Page 87: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

85

Cần Thơ được đẩy mạnh nhất là từ thế kỷ thứ 16, 17. Năm 1739, dưới thời

chúa Nguyễn đã hoàn tất việc tổ chức địa giới hành chính của 4 vùng đất mới

trong đó Cần Thơ được gọi tên là Trấn Giang, trung tâm “thủ sở” của cả vùng.

Văn hóa Cần Thơ đã có rất sớm, từ những cư dân đầu tiên đi mở đất, trong quá

trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ có thể chia làm ba giai đoạn:

Giai đoạn khai hoang mở đất (trước năm Cách mạng tháng 8/ 1945): cư

dân ở các vùng, miền khác nhau, các dân tộc khác nhau (Kinh, Khmer, Hoa,

Chăm) lưu tụ về đây để khai mở đất đai, thành lập thôn ấp đầu tiên trên vùng

đất Trấn Giang này, với hành trang có sẵn trong mình là những điệu hát, câu hò,

những phong tục, truyền thống văn hóa từ miền Bắc, miền Trung mang vào,

hình thành nên nền nông nghiệp lúa nước. Từ những đặc điểm văn hóa, những

phong tục, tập quán, lối sống của các vùng, miền khác nhau đó kết hợp với điều

kiện sống, những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của vùng đất mới, tạo

nên sự giao thoa và dung hợp văn hóa của vùng đồng bằng sông nước, hình

thành nên nền văn minh sông nước, miệt vườn đặc sắc. Các nghi lễ cúng đình,

thờ cúng Thần nông, các vị tiền hiền, hậu hiền có công với dân, với nước, lễ Ok

Ombok, Donta, Cholchnam Thmay (của người Khmer); những phong tục, tập

quán: cưới xin, ma chay, cùng với nó là các làn điệu dân ca, hò vè, đờn ca tài tử

mang đặc điểm văn hóa sông nước ca ngợi tấm lòng nhân hậu, nghĩa khí kiên

trung, yêu quê hương đất nước, tôn trọng lẽ phải cũng dần dần xuất hiện; trong

đó phải kể đến những câu ca dao mỗi khi nhắc đến ai cũng nhớ: “ Chèo ghe sợ

sấu cắn chưn. Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma”, hoặc những vầng thơ đanh

thép lên án kẻ thù cướp nước và bọn tay sai bán nước của Bùi Hữu Nghĩa:

“Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ. Lòng ta sắt đá há lung lay!”; các phương

thức sinh hoạt, tinh thần lao động cần cù với tính cách táo bạo, phóng khoáng,

thực tế, trọng tình nghĩa, đã tạo nên sự thống nhất và đa dạng của văn hóa Cần

Thơ. Các tài danh tiêu biểu được nhân dân yêu thích của giai đoạn này là Bùi

Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị (cử Trị), Lê Quang Chiểu, Nguyễn Thần Hiến, Mộc

Page 88: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

86

Quán - Nguyễn Trọng Quyền một trong những cây bút có tiếng của sân khấu

kịch nghệ thời bấy giờ....

Giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ giải phóng dân tộc (1945 –

1954): các loại hình văn hóa, nghệ thuật, những phong tục, tập quán, những giá trị

văn hóa truyền thống, lễ hội của giai đoạn trước được phát huy, hình thành nên

các loại hình văn hóa mới mang tính chất cách mạng, lòng yêu nước, tinh thần

bất khuất của dân tộc, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, tinh thần táo bạo

trong chiến đấu và sản xuất. Đồng thời, đã xuất hiện các loại hình văn hóa lớn,

đầu tiên phải kể đến là Đoàn văn công giải phóng, đội thông tin tuyên truyền lưu

động, cùng với các loại hình văn hóa đó là những làn điệu ca dao, dân ca kháng

chiến, chập cải lương, tấu hài…, đã đem lời ca tiếng hát, lời nhạc, ý thơ đến với

công chúng, ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và

dân Cần Thơ, động viên nhân dân tay súng, tay cày vừa chiến đấu đánh đuổi

ngoại xâm, vừa sản xuất xây dựng quê hương đất nước; đồng thời góp phần

ngăn chặn những loại văn hóa phẩm đồi trụy, những tệ nạn xã hội. Bên cạnh

những loại hình văn hóa mới, ở Cần Thơ đã hình thành các khu di tích lịch sử -

văn hóa lớn như: Khu căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, Hội linh Cổ Tự, Chùa Ông,

Nam Nhã Đường…; ngoài ra còn có di tích kiến trúc nghệ thuật: Long Quang

Cổ Tự, được lưu truyền đến ngày nay. Giai đoạn này xuất hiện các nhà văn hóa

lớn như: Lưu Hữu Phước, Võ Trọng Cảnh, nhóm Tao đàn Bát tiên Tây Đô (gồm

Lãng Ba, Dương Chi, Như Phong) [71, tr. 541-544] và một số nhà văn, nhà thơ

kháng chiến, với nhiều tác phẩm văn học, những tập thơ tiêu biểu như: “Nắng

mùa xuân”, truyện ngắn của Lê Vĩnh Hòa; “Tổ Quốc gọi nơi nào tôi có mặt”,

“Đường ra thành phố”, “Trăng về Cần Thơ”, các tập thơ của Nguyễn Bá; “Mận

hồng đào”, ký của Minh Thùy…

Giai đoạn hòa bình, thống nhất đất nước (từ sau 30-4-1975 đến nay): là

giai đoạn cải tạo và xây dựng đất nước. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, văn hóa Cần Thơ có bước phát triển mới: xây dựng đời sống

văn hóa mới gắn với nội dung mới, truyền thống văn hóa tiếp tục phát triển nhưng

Page 89: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

87

nó được bổ sung nâng lên phù hợp với nhiệm vụ mới, gắn với quá trình phát triển

văn hóa ở Cần Thơ; giáo dục đạo đức mới, lý tưởng sống, quan điểm chủ nghĩa

Mác-Lênin; duy trì các giá trị truyền thống về phong tục tập quán, lễ hội, cưới xin

và các quan hệ ứng xử với những đức tính tốt đẹp, nhưng vẫn giữ được thuần

phong mỹ tục với tính thật thà, chất phác, trọng tình nghĩa…; các làn điệu ca dao,

dân ca, hò vè cũng được nâng lên về chất để phản ánh chân thật đời sống của

người dân, ca ngợi quê hương đất nước trong thời kỳ đổi mới: “Cần Thơ gạo

trắng nước trong. Ai đi đến đó lòng không muốn về”; phát triển các hình thức văn

hóa mới: đoàn văn công giải phóng trước đây đã nâng lên thành Đoàn Cải lương

Tây Đô, phong trào đờn ca tài tử đã phát triển rộng khắp mọi nơi ở Cần Thơ; các

đội thông tin tuyên truyền tiếp tục được duy trì, phát triển; các thuyền văn hóa

được thành lập, các khu văn hóa, nhà văn hóa được xây dựng… hoạt động hiệu

quả; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư đi vào

chiều sâu, góp phần xây dựng nếp sống mới và hình thành nhân cách người Cần

Thơ “Trí tuệ - năng động - nhân ái - hào hiệp - thanh lịch”; các di tích lịch sử - văn

hóa, bảo tàng tiếp tục được trùng tu phát triển, được Bộ Văn hóa thông tin công

nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia như: mộ nhà thơ yêu nước Phan Văn

Trị, mộ cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, đền thờ Bác Hồ... để giáo dục truyền thống

cho nhân dân, nhất là giới trẻ. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập quốc tế văn hóa

ở Cần Thơ không sao tránh khỏi ảnh hưởng của văn hóa tiêu cực như: quan điểm

sống lệch lạc, phai nhạt lý tưởng, ảnh hưởng lối sống lai căng, thiếu lành mạnh,

chạy theo lợi ích vật chất có tính thực dụng, lễ nghi, tiệc tùng linh đình, làm xói

mòn văn hóa truyền thống. Đó là những tiêu cực mà trong quá trình phát triển,

Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ một mặt tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa, giá

trị văn hóa của nhân loại; mặt khác phải biết giữ gìn, bảo tồn những đặc điểm giá

trị riêng có của vùng đất Cần Thơ, góp phần vào việc thực hiện sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giai đoạn này xuất hiện những nhà văn hóa, với những

tác phẩm tiêu biểu như: “Giáp hạt”, Tập truyện của Hoàng Hà; “Nắng mùa xuân”,

Văn của nhiều tác giả; “Nhìn xa”, Thơ của Nguyễn Bá; “Nhớ lại cái Tết năm ấy”,

Page 90: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

88

Hồi ký của Nguyễn Thanh Bình [71, tr. 545-548]. Đặc biệt là, sau Đại hội VI

(1986) của Đảng, với đường lối đổi mới của Đảng trong sự nghiệp xây dựng

chủ nghĩa xã hội, đã xuất hiện nhiều nhà văn mới, với những tác phẩm mới, ca

ngợi các thành quả do công cuộc đổi mới mang lại như: “Rừng đất cháy”, Tiểu

thuyết của Nguyễn Linh; “Ngày của một đời”, Tiểu thuyết của Dạ Ngân; “Hoa

Quỳnh”, Tập thơ của Lê Chí; “Trở về”, Tiểu thuyết của Huỳnh Thế

Phương…[71, tr. 546-547].

Truyền thống văn hóa, nếp sống, phong tục tập quán, thi phú, hò vè,

hát dân gian…cùng với các di tích lịch sử và thiên nhiên sông nước, miệt

vườn là nền tảng vững chắc để Cần Thơ không những giữ vững và phát huy

“nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [31, 166]. Có thể nói, từ thế hệ

này sang thế hệ khác, bằng công sức, trí tuệ, mồ hôi và xương máu của mình,

người Cần Thơ đã khắc họa nên một bức tranh phong phú sinh động quá trình

lịch sử đấu tranh tạo dựng và bảo vệ, phản ánh đặc trưng sức sống đầy mãnh

liệt về vật chất và tinh thần của vùng đất Trấn Giang - Cần thơ mấy thế kỷ qua.

Các loại hình văn hóa ở Cần Thơ

Cùng với quá trình lao động và chinh phục thiên nhiên, người Cần Thơ

đã sáng tạo nên các loại hình nghệ thuật rất phong phú và đa dạng như: Văn

học dân gian, văn hóa - nghệ thuật, sân khấu, lễ hội, phong tục tập quán…

Văn học dân gian

Văn học dân gian Cần Thơ được nhân dân sáng tác từ khi đặt chân đến

đây khai thác vùng đất mới này đến nay suốt mấy thế kỷ qua và ngay từ ban

đầu đã mang sẵn trong mình cái vốn văn hóa ngàn đời của dân tộc. Họ đã

thuộc nằm lòng những điệu hát hò, những chuyện cổ tích, truyền thuyết, giai

thoại… từ miền Bắc và miền Trung mang vào. Vừa đến đây, đứng trước vùng

thiên nhiên mới lạ, kiểu sống mới lạ, người Nam bộ đã nhạy bén thể hiện

ngay cảm xúc của mình qua điệu ca dao:

Tới đây xứ sở lạ lùng

Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh

Page 91: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

89

Nằm trong bối cảnh ấy, nên về mặt thể loại, hễ văn học dân gian Nam

bộ, đồng bằng sông Cửu Long có gì là ở Cần Thơ có nấy, chỉ tuỳ mức độ

nhiều ít ở từng nơi. Về nội dung, bên cạnh những tác phẩm nói chung cho cả

vùng đất đồng bằng sông Cửu Long, văn học dân gian Cần Thơ có nhiều tác

phẩm dành riêng cho sắc thái của địa phương mình, góp phần phong phú cho

kho tàng văn học Việt Nam. Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long nói

chung, Cần Thơ nói riêng gồm có các thể loại văn xuôi dân gian và các thể loại

văn vần dân gian.

Về thể loại văn xuôi dân gian, có một số loại hình tiêu biểu:

Chuyện kể - chuyện kể Việt Nam bao gồm nhiều loại như chuyện cổ

tích, chuyện thần thoại, truyền thuyết, giai thoại, chuyện tiếu lâm v.v…

Nhưng ở Cần Thơ hầu như không có chuyện cổ tích, chuyện thần thoại anh

hùng ca riêng của địa phương. Các chuyện cổ tích, thần thoại được kể nhau

nghe ở đây chỉ là bản sao từ những chuyện nguyên thuỷ lấy từ miền Trung,

miền Bắc như: Tấm Cám, Nàng Út, Sơn Tinh Thuỷ Tinh… Chuyện kể phổ

biến rộng rãi, mang đậm màu sắc địa phương ở Cần Thơ, thể hiện rõ qua các

thể tài: truyền thuyết, giai thoại và chuyện vui cười.

Về văn vần dân gian có một số loại hình như:

Tục ngữ, là câu nói ngắn gọn có vần điệu lưu truyền trong dân gian, đúc

kết tri thức, kinh nghiệm thực tiễn của con người về tự nhiên, xã hội, cuộc sống,

đạo lý ở đời. Ở Cần Thơ, có những tục ngữ phổ biến qua các đề tài như sau:

Về thời tiết và lao động sản xuất:

Cóc nghiến răng, đang nắng thì mưa.

(Giai Xuân - thành phố Cần Thơ)

Về con người và đời sống:

Ở đời có bốn cái ngu,

Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.

(Tân Phú Thạnh - Châu Thành)

Page 92: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

90

Ca dao, là thể loại trữ tình căn bản của văn học dân gian nhằm ca ngợi

cảnh sắc giàu đẹp của quê hương, con người nhân hậu, tình yêu đôi lứa, tình

nghĩa vợ chồng, đạo lý ở đời, tình yêu nước, yêu đồng bào, căm thù giặc cướp

nước, phê phán thói hư, tật xấu v.v… Ca dao được sáng tác chủ yếu dựa theo

thể thơ lục bát, vần điệu xuôi tai, dễ thuộc lòng và được sử dụng gắn liền với các

hoạt động trong cuộc sống hàng ngày như đưa võng dỗ em, chèo xuồng, giã

gạo, đi cấy, cắm câu v.v… nên trở thành giai điệu phổ cập của người Cần Thơ.

“Cần Thơ gạo trắng nước trong

Ai đi đến đó lòng không muốn về”.

Có những câu ca dao tuy không có tên đất, tên người cụ thể nhưng vẫn

thể hiện đậm nét sắc thái của Cần Thơ, được nhiều người ưa thích như:

“Má ơi đừng gả con xa

Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu…”.

Vè, câu đố:

Vè, thơ rơi là thể loại văn vần truyền miệng được phổ biến rộng rãi

trong dân gian Cần Thơ trong thời cận đại và kéo dài trong kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ. Khác với ca dao là bất cứ người nào cũng có thể

thuộc và ngâm nga một mình, vè - thơ rơi luôn gắn liền với nghệ thuật diễn

xướng trước đám đông, trong các cuộc họp mặt, vui chơi, đám tiệc…

Câu đố là trò giải trí rất phổ biến trong xã hội thời xưa. Từ đơn giản

đến phức tạp, mỗi lần đố đều gây kích thích tò mò, động não đối với con

người, nhất là với tầng lớp nông dân nghèo khổ mở đất khai hoang, nên từ

trẻ tới già ai cũng thích.

Văn hóa - nghệ thuật

Văn hóa - nghệ thuật ở Cần Thơ đa dạng về loại hình và rất phong phú

về nội dung. Sau đây là một số loại hình văn hóa - nghệ thuật tiêu biểu:

Một là, dân ca - dân ca là tâm hồn của dân tộc, là sản phẩm tinh thần

của nhân dân lao động, là những khúc hát dân gian chứa đựng tâm tư, tình

cảm, cảnh sắc làng quê, phong tục tập quán, tình yêu thiên nhiên, yêu lao

Page 93: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

91

động, tình yêu trai gái được truyền từ đời này sang đời khác. Nó thể hiện tinh

thần đấu tranh bất khuất của con người với thiên nhiên, với kẻ thù xâm lược,

với áp bức bất công. Dân ca là những ca khúc không có tên tác giả, truyền

miệng, bất thành văn bản. Cũng như mọi miền, dân ca Cần Thơ là những ca

khúc được bắt nguồn từ những câu ca dao (thơ dân gian) mà ai đó đã ngân

nga thành giai điệu bằng năng khiếu âm nhạc bẩm sinh và cảm xúc lời thơ

(tức cảnh sinh tình). Dân ca Cần Thơ được hình thành từ chưa hoàn chỉnh

đến hoàn chỉnh. Chúng ta có thể bắt gặp những làn điệu dân ca hết sức độc

đáo ở khắp các làng quê xóm ấp của quê hương Cần Thơ, từ Thốt Nốt, Ô

Môn, … Những câu hò, điệu lý đó đã ăn sâu trong tiềm thức của mỗi người

dân mà suốt cả cuộc đời gắn bó với làng quê, ruộng vườn, sông nước Cần

Thơ yêu dấu! Dân ca Cần Thơ rất phong phú về thể loại như các điệu lý, hát

huê tình, hát đưa em, nói thơ, nói vè, đồng dao…

Hai là, hò Cần Thơ, theo sử sách ghi lại: ngày xưa, theo các dòng sông,

cánh đồng, con rạch, kinh xán, trên những chiếc xuồng bơi, ghe chèo xuôi

ngược, hay các thương thuyền xuôi theo dòng sông Ngã Năm - Ngã Bảy,

kinh xáng Xà No, Ô Môn v.v… vang lên những giọng hò lanh lảnh, man

mác, nhặt khoan hoà lẫn những tiếng rao hàng: bánh, trái cây trong những

sớm hừng đông, trưa hè êm ả hay những lúc hoàng hôn xa đưa tiếng bìm bịp

gọi buồn theo con nước ròng, nước lớn nghe sao mà mênh mang diệu vợi, sao

mà vừa lạ vừa quen, lúc rộn rã niềm vui, khi nỗi buồn chất chứa:

“Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi

Buôn bán không lời, chèo chống mải mê!...”.

Theo các nhà nghiên cứu, các giáo sư, nhạc sĩ tên tuổi Lưu Hữu Phước,

Trần Kiết Tường, Lư Nhất Vũ: qua các làn điệu dân ca Cần Thơ càng thấy rõ trí

thông minh, tâm hồn lãng mạn hoà cùng tình yêu nước, yêu lao động, tình yêu

lứa đôi và tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của người dân Cần Thơ qua

hàng mấy trăm năm đã cùng với cộng đồng người Việt - Hoa - Khmer khai phá

đất đai, quy dân lập ấp ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Để rồi, sau mấy trăm

Page 94: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

92

năm đó, cái tên gọi Cần Thơ - Tây Đô - trong đó hẳn gắn liền với “sự nghiệp thi

ca” dân dã của bao đời ông cha để lại, để bây giờ chúng ta có dịp suy gẫm hai

chữ mà người xưa đã đặt cho vùng đất này là “Cầm thi” (?!).

Sân khấu

Sân khấu ở Cần Thơ có các loại hình như: ca nhạc tài tử, hát bội, cải

lương, kịch nói…

Ca nhạc tài tử là người bạn đồng hành với loại hình nghệ thuật cải

lương, chơi đờn ca tài tử phải là nơi có phong cảnh hữu tình, gợi cảm, gần

với thiên nhiên, các tài tử thích chơi giữa cảnh cầu tre lắc lẻo - gập ghềnh khó

đi, cảnh trời trăng mây nước, rừng xanh nước biếc, đồng ruộng mênh mông

hay dưới bóng mát của lũy tre làng…; hay trên chiếc thuyền trôi xuôi êm ả

theo dòng nước lồng lộng trăng rằm, nên thơ tĩnh mịch, tiếng lá dừa nước hai

bên bờ rì rào dịu êm như tiếng nhạc, làm tăng vẻ hữu tình cho buổi đờn ca tài

tử trên sông.

Ở Cần Thơ, nơi đâu từ thành thị đến nông thôn đều có đờn ca tài tử,

thu hút đông đảo người tham gia, không phân biệt tuổi tác, thành phần.

Ngày nay, nếu chúng ta có dịp đến thành phố Cần Thơ, đi tới đâu chúng ta

cũng bắt gặp những tụ điểm “hát với nhau”, “đờn ca tài tử” ở từng khu

phố, phường, xã. Đặc biệt là vào ban đêm, những con thuyền văn hoá chạy

ngược xuôi trên dòng sông Hậu, với những bài ca vọng cổ đi vào lòng

người; trong những quán ăn bình dân, quán nào có “ca cổ” đều thu hút rất

đông thực khách. Có thể khẳng định rằng phong trào ca cổ, đờn ca tài tử, hát với

nhau có sức hấp dẫn, làm say mê lòng người, ai biết qua rồi khó lòng bỏ được.

Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật đặc sắc của thành phố Cần Thơ.

Hát bội, đến nay vẫn chưa có tài liệu nói về sân khấu hát bội được

hình thành (du nhập từ vùng ngoài vào) từ lúc nào, nhưng ở Cần Thơ đã xuất

hiện tác giả và kịch bản văn học về loại hình sân khấu này như Thủ khoa Bùi

Hữu Nghĩa với vở tuồng “Kim Thạch kỳ duyên” được ông Bùi Quang Nhơn

phiên âm đầu tiên từ nguyên bản chữ Nôm 1895. Năm 1934, được P. Miđanh

Page 95: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

93

dịch ra tiếng Pháp với nhan đề: “L’union merveilleuse de Kim et Thach”.

Gần đây nhất, nhà thơ, học giả Bảo Định Giang đã cải biên tuồng Kim Thạch

kỳ duyên với tựa đề “Duyên lạ” (Nhà xuất bản văn nghệ thành phố Hồ Chí

Minh phát hành 6-1999). Chứng tỏ đây là một tác phẩm sân khấu hát bội có

giá trị lịch sử cả trong và ngoài nước suốt hơn cả thế kỷ qua.

Tiếp đến, soạn giả Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền đã làm thơ và

viết tuồng bằng chữ Nôm trên giấy hoa tiên từ năm 1909 còn lưu giữ đến nay

với tựa đề “Trai bạch viên Diễn ca”. Ở Cần Thơ cũng sớm có những “gánh

hát bội” nổi tiếng như “gánh hát Bầu Bòn” (Bầu Bòn, quê ở Phụng Hiệp, Cần

Thơ), không chỉ nổi tiếng trong phạm vi tỉnh Cần Thơ mà ở khắp lục tỉnh

Nam kỳ. Khi mà nghệ thuật sân khấu cải lương chưa hình thành, nghệ thuật

hát bội còn đóng vai trò là loại hình sân khấu duy nhất ở vùng đất miền Tây

giao thông cách trở, sông ngòi chằng chịt thì những “ghe hát bội” đã trở

thành món ăn tinh thần thu hút hầu hết các tầng lớp dân cư ở xứ sở này.

Những gánh hát bội đi lưu diễn khắp vùng sông nước bằng những chiếc ghe

chèo, diễn ở những đình làng, nhà lồng chợ quê. Cho đến nay, mặc dù cải

lương đã trở thành loại hình sân khấu chiếm địa vị độc tôn gần suốt thế kỷ

qua, sân khấu hát bội gần như vắng bóng trên các sàn diễn từ thành thị đến

nông thôn, nhưng ở bất cứ ngôi đình nào đến mùa lễ kỳ yên đều phải rước

cho kỳ được đoàn hát bội về hát trong những ngày ấy. Ở Cần Thơ, mỗi năm

vào dịp tết nguyên đán, lễ kỳ yên là nhóm nghệ nhân hát bội tập hợp lại ôn

tập tuồng tích để đi hát chầu. Riêng các đình làng cũng phải chạy ngược,

chạy xuôi thậm chí lên Sài Gòn, qua các tỉnh bạn rước cho được các nhóm

đoàn hát dù lớn dù nhỏ gì cũng phải có để về biểu diễn trong những ngày lễ

hội đó, vừa để cúng thần, vừa là để bà con xem chơi, giả trí. Nếu lịch sử ghi

nhận Nam bộ là nơi đã đưa hát bội từ sân khấu cung đình trở thành sân khấu

dân dã do nhân dân lao động là người làm nên vở diễn phục vụ cho làng quê,

phố chợ thì lịch sử cũng chép rằng Cần Thơ tự hào đã góp vào thời hoàng

kim của hát bội nhiều đoàn hát, tác giả, tác phẩm và nghệ sĩ tên tuổi lớn.

Page 96: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

94

Cải lương, là loại hình nghệ thuật sân khấu độc đáo được hình thành

vào khoảng cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX. Ở Cần Thơ, xuất phát từ một

vùng đất có nhiều tài năng, tương đối nổi trội trong các loại hình nghệ thuật

tiền thân của sân khấu cải lương nên nơi đây, ngay từ buổi bình minh của loại

hình sân khấu này đã xuất hiện nhiều tác giả, danh ca, danh cầm, nghệ sĩ,

gánh hát đã trở thành một trong những cánh chim đầu đàn, những viên đá

tảng đặt nền móng cho loại hình nghệ thuật hết sức mới mẻ và đầy tính hấp

dẫn này như: soạn giả Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền; danh ca đệ nhất Út

Trà Ôn, cô Năm Cần Thơ; các danh cầm vang danh lục tỉnh, Sài Gòn…như:

gánh Trần Đắc (ông bầu Trần Đắc Nghĩa), gánh Nam Phương (bầu Bảy

Nhiêu) v.v…Từ những gánh hát, soạn giả, danh ca, nghệ sĩ, danh cầm này đã

truyền nghề lại cho con cháu, đào tạo học trò, tách lập gánh mới làm cho

nghệ thuật cải lương phát triển ở một nhịp độ chưa từng thấy ở đất Cần Thơ

cũng như vùng Nam bộ thời bấy giờ.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công không bao lâu, thực dân

Pháp đã trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Nam bộ rồi cả nước bước vào

cuộc kháng chiến chống Pháp, ngoài các hoạt động sân khấu cải lương vùng

địch tạm chiếm, vùng đô thị, trên quê hương Cần Thơ còn có một dòng sân

khấu cải lương cách mạng phục vụ vùng giải phóng, khu căn cứ, một số vùng

địch hậu. Các nghệ sĩ tay đàn, tay súng, đội bom đạn, chịu đựng gian khổ

hiểm nguy đem nhiệt tình, lòng yêu nước và nghệ thuật cách mạng phục vụ

nhân dân, bộ đội, cơ quan góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến

trường kỳ (9 năm) chống thực dân Pháp xâm lược. Sau Cách mạng tháng

Tám năm 1945 (9/1945), Đoàn tuyên truyền lưu động tỉnh Cần Thơ (nay là

thành phố Cần Thơ) được thành lập, vừa tuyên truyền, vừa diễn kịch với Vở

“Thiếu nhi thời loạn” của soạn giả Điêu Huyền, tiêu biểu cho giai đoạn này.

Rồi phong trào đờn ca tài tử cải lương trong các cơ quan, đơn vị bộ đội, trong

nhân dân phát triển rộng khắp. Những bài ca cổ, ca cảnh, chập cải lương ngắn

được sáng tác với nội dung ca ngợi gương chiến đấu anh dũng của bộ đội,

Page 97: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

95

nhân dân; vận động sản xuất nuôi quân; thanh niên tòng quân; đả kích địch

v.v…, đã phát triển loại hình nghệ thuật non trẻ này với sức sống mới, thể

hiện tinh thần yêu nước, căm thù giặc Pháp xâm lược. Điều mà cải lương

vùng đô thị không nói được như: gương anh hùng La Văn Cầu chặt cánh tay

mình, Phan Đình Giót lấp lỗ châu mai, Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng,

chiến thắng Tầm Vu, đội cảm tử Lê Bình… Tuy nhiên, nói đến dòng nghệ

thuật cải lương cách mạng trong giai đoạn chống Pháp, ở Nam bộ không ai có

thể quên, đã có giai đoạn loại hình nghệ thuật này bị cấm vì cho là uỷ mị, rên

rỉ, mất nước. Nhưng cũng từ sự sai lầm ấu trĩ ấy, chúng ta càng thấy sức sống

mãnh liệt của cải lương, nhất là bài vọng cổ đã ăn sâu vào tâm não của bộ

đội, nhân dân và cán bộ ta tới cỡ nào.

Đến năm 1959, Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra

đời, chuẩn bị Đồng khởi trong toàn miền Nam, đoàn văn công tỉnh Cần Thơ

(nay là thành phố Cần Thơ) được thành lập. Những cán bộ, nghệ sĩ trong

chống Pháp năm xưa được tập hợp vào đoàn văn công tỉnh Cần Thơ, làm

nòng cốt cùng với đội ngũ trẻ bước vào cuộc chiến đấu chống Mỹ quyết liệt

bằng tay đàn, tay súng “tiếng hát át tiếng bom”, góp phần giải phóng quê

hương. Đến năm 1965, vùng giải phóng càng mở rộng, đoàn phát triển rất

đông và do yêu cầu thưởng thức văn nghệ của nhân dân nên đoàn văn công

Cần Thơ được tách ra làm hai đoàn: Đoàn cải lương và đoàn ca múa. Sau khi

miền Nam hoàn toàn giải phóng 30-4-1975, Cần Thơ có 28 đoàn cải lương về

đăng ký hoạt động trên địa bàn. Từ chiến khu về, có đoàn văn công tỉnh Cần

Thơ và đoàn ca múa của khu Tây Nam bộ là tổ chức tiền thân của Đoàn cải

lương Tây Đô và Đoàn ca múa Cần Thơ hiện nay. Đoàn cải lương Tây Đô là

một trong những đoàn mạnh so với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và

Nam bộ. Đoàn đã đạt nhiều giải thưởng lớn qua các lần hội diễn sân khấu

chuyên nghiệp toàn quốc. Đoàn Cải lương Tây Đô luôn được nhân dân, cán

bộ trong và ngoài tỉnh khen ngợi.

Page 98: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

96

Cũng như các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, ở Cần Thơ bên cạnh hát

bội, kịch nói, cải lương vẫn là loại hình nghệ thuật sân khấu chủ lực luôn có

mặt trong đời sống tinh thần của nhân dân trong suốt thế kỷ qua.

Về kịch nói, đây là loại hình sân khấu có mặt rất sớm trên đất Cần

Thơ, trong các trường học, cơ quan (thời Pháp thuộc) cho đến các hoạt động

văn hoá - văn nghệ trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và sau năm

1975 đến nay, kịch nói luôn có mặt trên sân khấu. Trong kháng chiến chống

Pháp, phong trào diễn kịch nói rất sôi nổi ở các đoàn thể thanh niên, phụ nữ

và đến kháng chiến chống Mỹ lại tiếp tục được duy trì, nhất là trong đơn vị

bộ đội. Nhưng hình thức sân khấu này không tồn tại được lâu, mặc dù kịch

nói nghiêm túc, có tính nghệ thuật cao vẫn thu hút khán giả, nhất là với đối

tượng học sinh, sinh viên, bộ đội và đông đảo cán bộ.

Cho đến nay, ở Cần Thơ, diễn kịch ngắn đã trở thành phong trào mạnh

trong hoạt động văn nghệ quần chúng, thông tin cổ động, góp phần làm

phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân.

Lễ hội ở Cần Thơ có nền tảng chung là lễ nghi nông nghiệp của cư dân

trồng lúa nước. Các trò diễn xướng phổ biến trong lễ hội ở Cần Thơ là hát bội

(mang tính chính thống) và một số loại hình diễn xướng dân gian khác như

múa bóng rỗi, múa mâm vàng… gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.

Mật độ lễ hội tại Cần Thơ không dày. Lễ hội tiêu biểu của người Việt ở Cần

Thơ là cúng đình. Điển hình là đình Bình Thủy. Hàng năm, tại Đình Bình

Thủy, ngoài các lễ cúng tế vào ngày rằm mỗi tháng và Tết Nguyên Đán, đình

còn có 2 kỳ lễ hội lớn gắn liền dấu ấn sản xuất nông nhiệp, được tổ chức long

trọng: Lễ Hạ điền: Cúng đất đai bắt đầu vụ mùa mới (rằm tháng 4 Âm lịch).

Lễ Thượng điền: Tạ ơn và cúng ruộng đồng nghỉ ngơi (rằm tháng chạp Âm

lịch). Trong những ngày này, khách thập phương và dân làng tấp nập về dự lễ

cúng đình, tế lễ. Sau phần lễ gồm có việc rước sắc thần cầu cho Quốc thái

dân an, mùa màng tươi tốt bội thu. Sau đó là phần hội như: đua thuyền, đô

vật, hát bội, thi múa lân, hát xếp cho đến thâu đêm [nguồn Songcuulong.net].

Page 99: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

97

Tuy vậy, tại Cần Thơ tên gọi các lễ cúng đình cũng khác nhau. Nếu đình

Bình Thủy cúng Hạ điền thì đình Thới An Đông lại là cúng Thượng điền và

ngược lại, cho dù lễ cúng diễn ra cùng thời điểm.

Tục đón Xuân của Cần Thơ cũng rất hấp dẫn. Người ta thường chuẩn bị

đón Tết rất sớm. Mỗi gia đình nông dân thường dành một thửa ruộng đế cấy

giống nếp ngon dùng làm bánh trong những ngày Tết. Khi mùa màng thu hoạch

xong thì rộn lên những tiếng chày quết bánh phồng (phồng nếp, phồng mì).

Trong ngày Tết, cành mai là không thể thiếu trong mỗi gia đình ở Cần Thơ.

Ngày Tết thường có nhiều trò vui đặc biệt như: đá gà, đá cá lia thia… Những lễ

tục phiền toái, lãng phí, xa hoa, tốn kém thời giờ và tiền của hay mang tính chất

mê tính dị đoan theo thời gian đều được nhân dân tự giác loại bỏ.

Bên cạnh những lễ hội của người Việt, còn có các lễ hội của người

Khmer như: Lễ Cholchnam Thmay, Lễ Đonta, Lễ Ok Ombok ...

Lễ Cholchnam Thmay - lễ vào năm mới còn gọi “Lễ chịu tuổi”, tức là

Tết của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long ở Cần Thơ, được tổ chức

vào giữa tháng 3 âm lịch hàng năm. Đây cũng chính là lúc giao mùa giữa

mùa nắng và mùa mưa, thời điểm bắt đầu vụ sản xuất nông nghiệp theo nông

lịch cổ truyền của người Khmer.

Lễ Cholchnam Thmay kéo dài trong 3 ngày. Ngày thứ nhất gọi là ngày

“sangkran” tức là ngày “rước quyền Đại lịch” (Maha sangkran) với ý nghĩa

đón mừng năm mới mà nghi thức lễ gắn với thần thoại Thomabal và Kabil

Maha Prum (thần Bốn mặt). Ngày thứ hai được gọi là Viarawolpot, ngày

chính thức năm mới. Ngày thứ ba được gọi là ngày “Lơn sak” với các nghi

thức chính là cầu siêu và tắm tượng Phật.

Lễ Đonta - lễ cúng ông bà tổ tiên của người Khmer được tổ chức mỗi

năm 3 ngày, từ 29 tháng 8 đến 01 tháng 9 âm lịch hàng năm.

Lễ Ok Ombok - là một trong những lễ nông nghiệp rất tiêu biểu và

đặc thù của người Khmer. Lễ được tổ chức vào ngày trăng tròn tháng

Kađek, 15.10 âm lịch, nhằm tưởng nhớ đến công ơn của mặt trăng, vốn

Page 100: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

98

được người Khmer coi là một vị thần bảo hộ mùa màng. Thời điểm tổ chức

lễ Ok ombok là lúc giao mùa giữa mùa mưa và mùa khô và cũng là lúc

chuẩn bị cho mùa thu hoạch (các giống lúa mùa theo nông nghiệp cổ truyền

của người Khmer). Lễ được thực hiện với nhiều hoạt động vui chơi có tính cộng

đồng như đua ghe ngo, thả đèn…

Về phong tục tập quán, người Cần Thơ coi trọng việc cưới xin. Trong

đời sống tinh thần của người Việt (Kinh) nói chung, người Cần Thơ nói riêng

thì cưới là chuyện hệ trọng trong cuộc đời của mỗi con người. Dân gian Cần

Thơ cũng có câu: “Mua trâu, cưới vợ, làm nhà, Trong ba việc ấy thật là khó

thay”. Cưới là một phong tục có nghi lễ mang đậm nét bản sắc văn hoá vùng

miền tốn kém và phức tạp. Phần lớn các đám cưới cổ xưa của người Cần Thơ

thường được tổ chức theo một cuốn sách cổ gọi là Thọ mai gia lễ (cuốn sách

dạy người ta những việc về quan, hôn, tang, tế). Tuy vậy, tuỳ gia cảnh, tuỳ

đặc điểm địa lý dân cư mà về sau từng gia đình có cách tổ chức khác nhau.

Người Cần Thơ rất tôn trọng những yếu tố truyền thống cho nên các nghi

thức quan trọng như: mai mối (kén chọn), sơ vấn (giạm ngõ, chạm mặt), hỏi,

cưới, phản bái (lại mặt) luôn được thực hiện. Có thể nói, người Cần Thơ xưa

rất tôn trọng các nghi thức cổ truyền trong cưới xin. Tuy vậy, do những đặc

điểm lịch sử, địa lý riêng, người Cần Thơ đã giản lược nghi thức theo hướng

nghiêm trang nhưng tiện lợi. Điều này vô hình trung đã làm cách tân các nghi

thức cưới xin theo hướng hết sức tiến bộ.

Bên cạnh các loại hình nghệ thuật đặc sắc vừa nêu ở phần trên, còn

có các loại hình nghệ thuật như: Nhạc, múa, họa, nhiếp ảnh, điện ảnh,

v.v…và các hoạt động văn hóa: triển lãm, bảo tàng, thư viện, thông tin,

tuyên truyền, báo chí…đã góp phần tạo nên giá trị văn hoá chuẩn mực

của người dân Cần Thơ. Giá trị văn hóa đó là: giá trị đạo đức, chính trị,

xã hội, thẩm mỹ… đáp ứng nhu cầu cơ bản của cả cộng đồng, được cộng

đồng thừa nhận như một lý tưởng, một khát vọng vươn tới. Nó là động

lực tinh thần thôi thúc người ta hành động vì mục tiêu chung.

Page 101: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

99

2.1.3. Những đặc điểm cơ bản của văn hóa ở Cần Thơ

Từ sự trình bày và phân tích quá trình hình thành, phát triển và các loại

hình chủ yếu của văn hóa Cần Thơ, có thể khái quát lại, văn hóa Cần Thơ có

những đặc điểm cơ bản sau:

Một là, văn hóa sông nước và văn minh miệt vườn là nét văn hóa

đặc sắc của thành phố Cần Thơ

Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ một vùng nê trạch, nhiều đỉa, muỗi,

thú dữ, đất Cần Thơ từng bước được hình thành bằng mồ hôi xương máu của

nhiều lớp lưu dân qua nhiều thời kỳ và các thế hệ con cháu của họ đã đến

đây, gắn bó nhau trên tinh thần cởi mở, hòa hợp dân tộc trên cơ sở một nền

“văn minh sông nước” mang màu sắc hết sức đặc trưng.

Xét về thời khai hoang lập ấp, đường sông là mạch máu giao thông

chính của Cần Thơ, ghe xuồng trở nên quan trọng đến mức thiết yếu. Làng xã

luôn được hình thành trên các giồng đất trải dài theo sông, rạch và về sau là

kênh đào, kéo theo là việc hình thành nên chợ. Những khúc sông thuận lợi,

giáp nước, cửa vàm, ngã ba, ngã tư là tụ điểm giao thương và tất yếu trở

thành thị tứ - Trung tâm thương mại - văn hóa của một vùng, từ đó phát triển

mãi cho đến sau này. Do đó, nét độc đáo tự nhiên và kiến trúc đô thị của Cần

Thơ là mạng lưới kênh rạch. Kênh rạch cũng là "đường phố", nó mang vẻ đẹp

cho một đô thị lớn từng được mệnh danh là Tây Đô. Cần Thơ lại có vẻ đẹp

bình dị nên thơ của làng quê sông nước, dân cư tập trung đông đúc, làng xóm

trù phú núp dưới bóng dừa. Cần Thơ, ngoài những đặc sản nổi tiếng mang

đậm hương vị quê nhà, ăn cơm sốt dẻo nấu bằng gạo Tàu hương thơm phức

với mắm cá lóc, kèm bát canh cua đồng nấu với bông so đũa vàng ươm, còn

có những nét đẹp văn hoá truyền thống ít nơi nào có được:

Đó là đi du thuyền nghe đờn ca tài tử: Giữa không gian tĩnh mịch, sâu

thẳm của miệt vườn sông nước bỗng một điệu hò man mác ngân lên ngay

giữa khoang thuyền, kéo dài, quyện lẫn âm thanh xao xuyến của cây đàn cò,

đàn nguyệt. Những điệu dân ca ngọt ngào càng trở nên gần gũi, với lời ca

Page 102: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

100

mộc mạc, tha thiết, bởi các nghệ sĩ biểu diễn là người dân lao động, khởi lên

từ các phong trào văn nghệ quần chúng địa phương. “Cầm, thi, giang” (đàn,

thơ, sông) - cái nghĩa nguyên gốc của Cần Thơ xưa đã tự thân nói lên nhiều

điều về vùng văn hoá sông nước nơi này.

Khái niệm về “du lịch miệt vườn”, “du lịch trên sông” không phải chỉ

mới có ở những năm gần đây, mà nó đã xuất hiện hàng trăm năm về trước

như: Vườn Thầy Cầu, vườn thú Cả Lang, vườn Lan, bến Ninh Kiều… Ngày

nay, khách du lịch đến Cần Thơ không chỉ dừng lại ở một số tụ điểm nói trên,

mà còn nhiều nơi khác hấp dẫn khách tham quan như: chợ nổi Cái Răng,

Phong Điền ghe xuồng mua bán tấp nập trên sông; hay du khách xuôi theo

dòng sông Hậu sẽ thưởng thức cây trái miệt vườn ở cù lao Tân Lộc, cồn

Khương, cồn Sơn, cồn Ấu…

Cần Thơ được mệnh danh là Tây Đô, vẻ quyến rũ, mê hoặc chính là cảm

giác bồng bềnh trên sông Hậu ngắm bình minh, cảnh vật và con người vùng sông

nước Cửu Long. Sự lãng mạn này tồn tại cả trăm năm nay, tạo nên cái gọi là nền

“văn minh kinh xáng” (lời nhà văn Sơn Nam). Cùng với chợ nổi Cái Răng, phù sa

sông Hậu cũng bồi đắp cho Cần Thơ một vùng sinh thái miệt vườn vô cùng hấp

dẫn, mời gọi du khách tiếp tục với chuyến tham quan khám phá cuộc sống trên

vùng sông nước miền Tây.

Là đầu mối giao thông quan trọng về đường thủy giữa các tỉnh trong

khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ có hệ thống sông ngòi chằng

chịt, vườn cây ăn trái bạt ngàn, những cánh đồng lúa xanh mướt thẳng cánh

cò bay, các cù lao bồng bềnh trên sông Hậu hết sức độc đáo để phát triển loại

hình du lịch sông nước.

Cần Thơ đã trở thành điểm đến của du lịch sông nước miệt vườn Nam

Bộ và là điểm dừng chân của phần lớn các đoàn khách du lịch trước khi đi

Chùa Dơi - Sóc Trăng, vườn chim Bạc Liêu, Đất Mũi - Cà Mau, U Minh,

Hòn Đất, Hà Tiên, Phú Quốc…

Page 103: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

101

Nhìn chiếc xuồng 5 lá, hoặc chiếc ghe tam bản mũi bầu, mũi lá sen

phương tiện đi lại trên sông rạch, nay tuy có cải sửa đôi chút, nhưng dáng dấp

vẫn như xưa, hiểu ngay là ghe xuồng nhảy sóng của Cần Thơ. Với các điểm

du lịch nổi tiếng như cồn Cái Khế, cồn Khương, làng du lịch Mỹ Khánh…

xung quanh là vùng sông nước mênh mông, Cần Thơ đã thể hiện được vẻ đẹp

thiên nhiên của vùng sông nước bốn mùa cây trái sum suê bên cạnh các làng

nghề truyền thống mang đậm nét đặc trưng của vùng đất Tây Đô. Có thể nói

đây là mô hình thu nhỏ của sự văn minh sông nước - miệt vườn Nam bộ.

Hai là, văn hóa Cần Thơ có tính phong phú và đa dạng

Một trong những đặc trưng của nền văn hóa Cần Thơ là phong phú và đa

dạng. Các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer sống ở Cần Thơ đều có những giá trị và

sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong

phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ

vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em.

Các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer sống ở Cần Thơ đã trải qua quá trình

chung sống lâu dài, đoàn kết, giúp đỡ nhau vừa khai phá, vừa giữ gìn và phát

triển tỉnh Hậu Giang - tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ. Điều đó đưa đến

một sự tất yếu của giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Hoa, Khmer và với

người Việt cùng cộng cư. Quả thật, bên cạnh những nét văn hóa truyền thống,

những bản sắc của các dân tộc, văn hóa của mỗi dân tộc ở Cần Thơ còn được

làm phong phú thêm bởi sự học hỏi giao lưu văn hóa với các dân tộc khác.

Có lẽ cũng ít nơi trên nước ta có hiện tượng song ngữ, đa ngữ như ở đây.

Nhiều vùng dân cư hỗn hợp Việt, Khmer, Hoa ở Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà

Vinh đã thể hiện rõ quan hệ giao lưu văn hóa qua ngôn ngữ và nhiều mặt

khác như kỹ thuật canh tác nông nghiệp, trang phục, ẩm thực, tín ngưỡng, tôn

giáo v.v… Chiếc khăn rằn được dùng phổ biến ở vùng đất này, có tác giả

nghiên cứu cho rằng khăn rằn vốn là của người Khmer, nhưng bây giờ lại

được xem như biểu trưng cho văn hóa, con người Nam bộ.

Page 104: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

102

Cần thơ là một thành phố đa dân tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa: Văn

hóa người Việt, văn hóa người Hoa và văn hóa người Khmer.

Văn hóa Việt là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng

đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ

nước. Đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. “Nền văn hóa tiên

tiến là một nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi của nó là lý

tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, tất cả vì

tự do, hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện cho mỗi con người

trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên”

[31, 10]. Và đậm đà bản sắc dân tộc, “đó là lòng yêu nước nồng nàn; lòng tự

tôn, tự cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã -

Tổ quốc; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng

tạo trong lao động; là đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh

phúc của nhân dân; là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối sống” [31, 10].

Văn hóa của các dân tộc Hoa, Khmer là những dân tộc thiểu số đang

sinh sống ở Cần Thơ là kết quả một quá trình nhiều thế kỷ cùng chung sống,

cùng khai phá, phát triển vùng đất này. Đó là một vùng đất với thiên nhiên

hết sức phong phú, giàu tiềm năng nhưng cũng đầy cam go, vất vả. Con

người các dân tộc ở đây đã biết cách sống hòa hợp với thiên nhiên và chung

lưng đâu cật với nhau giữa các dân tộc. Các dân tộc đã tạo cho mình bản sắc

văn hóa và cũng tạo một nét riêng cho văn hóa vùng đất này.

Quá trình sống chung của ba dân tộc: Việt, Khmer, Hoa đã tạo nên

những phong tục tập quán cổ truyền vừa có những nét riêng vừa

mang những nét đặc sắc chung. Song song với các sinh hoạt tôn giáo, hầu

hết đồng bào có đạo cũng như không có đạo đều giữ tập quán thờ cúng tổ

tiên, ông bà, một tín ngưỡng dân gian truyền thống; một bộ phận khá đông

tham gia sinh hoạt lễ hội dân gian chứa đựng những yếu tố tín ngưỡng. Ngoài

các lễ hội mang tính quốc gia như: Tết Nguyên đán, Tết Trung thu, Thanh

Page 105: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

103

minh… ở Cần Thơ còn có rất nhiều các lễ hội riêng mang màu sắc của từng

dân tộc như lễ Cholchnam, lễ Đôn ta, lễ Ok Ombok của người Khmer và Vía

Quan Công, Vía Bà Thiên Hậu, vía ông Bổn của người Hoa.

Người Việt ở Cần Thơ cũng như ở Nam Bộ nói chung rất coi trọng

đình làng. Khi lưu dân đến khai phá đất đai, đã ổn định cuộc sống thì ngôi

đình mọc lên để thờ các vị Tiền hiền, Hậu hiền là những ân nhân sinh tiền có

công mở đất lập làng, ổn định cho cuộc sống dân cư ở địa phương. Đình là

nơi thờ các vị thần tín ngưỡng dân gian. Các ngôi đình ở Cần Thơ còn thờ các

vị có công với làng xã, đánh đuổi giặc ngoại xâm như đình Bình Thủy thờ

các ông: Trần Hưng Đạo, Bùi Hữu Nghĩa, Đinh Công Chánh; đình Thới Bình

- Tân An thờ ông Nguyễn Thành Trưng; đình Thường Thạnh thờ ông Nguyễn

Trung Trực v.v... Ngoài ra, các ngôi đình ở Cần Thơ còn thờ các vị thần theo

tín ngưỡng dân gian phổ biến là thần Hổ, thần Nông, thần Bạch Mã, thần Thổ

Địa, Táo quân. Riêng đình Thới Bình - Tân An còn thờ Ngũ hành, Nương

Nương, Bà Chúa Xứ, Quan Công v.v... Hằng năm, các ngôi đình ở Cần Thơ

thường có 2 kỳ lễ lớn: Thượng điền và Hạ điền và cứ 3 năm chọn ngày

Thượng điền hoặc Hạ điền làm lễ Kỳ Yên. Lễ Kỳ Yên có các nghi lễ thỉnh sắc

thần về đình, lễ mở sắc thần, lễ Túc Yết, lễ Chánh Tế, lễ Tế Tiên Hiền, Hậu

Hiền và các danh hữu công khác. Nếu lễ Kỳ Yên còn kiêm luôn lễ Thượng

điền hoặc Hạ điền thì có nghi thức tế thần Nông và thần Hổ. Đình làng nói

chung và đình ở Cần Thơ nói riêng là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng

của cộng đồng dân cư làng xã, thể hiện sự phong phú trong đời sống tâm linh

của người dân xứ này. Ngoài các lễ thức dân gian nói trên, người Việt ở Cần

Thơ còn cúng đất nước ông bà (hay ông bà tổ tiên hoặc Tổ quốc), cúng làm

nhà, cúng Tổ (mỗi ngành nghề có ngày cúng Tổ riêng), cúng cầu mưa, cúng

tống ôn, cúng chiến sĩ trận vong (kèm với các đám cúng giỗ, Tết), thờ cúng

ông Táo, Đất đai, Thổ địa, Thần Tài, Thần Hộ mạng v.v...

Bước vào thời kỳ mới - thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Cần

Thơ đã có nhiều thay đổi do bàn tay khai phá của con người, đã xuất hiện

Page 106: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

104

những xung đột giữa con người với thiên nhiên, vi phạm môi trường sống.

Cuộc sống của các dân tộc Hoa, Khmer có nhiều chuyển biến. Về góc độ văn

hóa, tộc người của các dân tộc này rõ ràng đang đứng trước nhiều thách thức

trong quá trình phát triển.

Trước hết, đó là mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Văn hóa

truyền thống của các dân tộc Hoa, Khmer ở Cần Thơ là một di sản quý giá, là

sự khẳng định bản sắc của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, văn hóa truyền thống

đang chịu nhiều áp lực trong xã hội hiện đại hôm nay, những giá trị nhân văn,

bản sắc văn hóa đang phải đối diện với những thay đổi nhanh chóng của cuộc

sống, trong cơ chế kinh tế thị trường. Rõ ràng một thế hệ trẻ, những người kế

thừa di sản văn hóa truyền thống đang sống trong những điều kiện khác trước

và nhận thức của họ cũng khác với các thế hệ tiền bối.

Văn hóa của các dân tộc Hoa, Khmer ở Cần Thơ là di sản quý báu

không chỉ của từng dân tộc này mà còn là của cả cộng đồng các dân tộc Việt

Nam. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, vấn đề bảo tồn văn hóa cần được đặt

trong quan hệ phát triển. Văn hóa mang yếu tố động, có sự chuyển đổi trong

sự phát triển chung của tiến trình các dân tộc.

Văn hóa các dân tộc Khmer, Hoa trong quá khứ và hiện tại có vai trò

quan trọng trong sự phát triển của bản thân các dân tộc cũng như của khu vực

đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Cần Thơ nói riêng. Mặt khác, cần

xem xét văn hóa các dân tộc Hoa, Khmer như là một trong những nguồn lực

phát triển khá quan trọng của thành phố Cần Thơ.

Để góp phần gìn giữ và phát triển văn hóa, đặc biệt là văn hóa truyền

thống của các dân tộc Khmer, Hoa, cần không ngừng nâng cao đời sống mọi

mặt của nhân dân thuộc các dân tộc vùng sâu, vùng xa ở Cần Thơ. Đời sống

của họ được cải thiện, được khá lên, họ mới có điều kiện hưởng thụ và sáng

tạo văn hóa. Nâng cao đời sống văn hóa còn phải gắn với việc nâng cao mặt

bằng dân trí, trong đó, việc nâng cao trình độ học vấn là hết sức cần thiết.

Đáp ứng nhu cầu văn hóa cho các dân tộc Khmer, Hoa cũng còn là quan tâm

Page 107: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

105

tạo điều kiện cho người dân tộc tiếp cận, giao lưu văn hóa với các dân tộc

khác, với văn minh thế giới.

Văn hóa của các dân tộc Khmer, Hoa ở Cần Thơ là một bộ phận của

văn hóa cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Văn hóa của các dân tộc thiểu số

ở đây có những giá trị thể hiện bản sắc và bản lĩnh riêng của con người các

dân tộc đó trong công cuộc mở đất và giữ đất ở Cần Thơ nói riêng và phương

Nam nói chung trước kia, đang làm nền tảng tinh thần cho quá trình bảo vệ

Tổ quốc cũng như sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Ba là, văn hóa Cần Thơ gắn với đời sống thực tiễn sinh động, giản

dị, phóng khoáng

Văn hóa Cần Thơ hình thành và phát triển cùng với những lưu dân đầu

tiên đặt chân lên khai phá vùng đất này và gắn liền với đời sống thực tiễn

sinh động, giản dị, phóng khoáng của người dân ở đây; được biểu hiện qua

các phương thức sinh hoạt, đời sống.

Lúc đầu, cư dân sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt và săn bắn. Điều

kiện sản xuất hầu như không có gì, tất cả hoàn toàn lệ thuộc vào thiên nhiên;

năm nào mưa thuận, gió hòa thì được mùa; ngược lại, năm nào khô hạn thì

xem như mùa màng bị thất bát. Vì sống lâu ngày trong môi trường thiên

nhiên hoang dã, con người đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản

xuất và đời sống. Nhìn vạn vật, muông thú, con người có thể nhận biết các

hiện tượng thời tiết trong từng thời gian, từng mùa để xuống giống vụ mùa

lúc nào có lợi nhất, chẳng hạn như: chim én - báo hiệu mùa xuân; con cóc

nghiến răng là sắp có mưa; con bìm bịp kêu là nước lớn hoặc nước ròng…

Dân gian có câu: “Cóc nghiến răng đang nắng thì mưa” hoặc “Bìm bịp kêu

nước lớn anh ơi. Buôn bán không lời chèo chống mãi mê”, v.v…

Ngày nay Cần Thơ là vùng đất phì nhiêu màu mỡ, mưa thuận gió hòa,

giàu lúa gạo, tôm cá. Chính vì đặc điểm này đã hình thành nên nét tính cách

riêng có của người Cần Thơ về ăn, mặc, ở, đi lại, phép đối xử với mọi người,

Page 108: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

106

cách chọn bạn giao du, chọn nghề, chọn việc và những kỹ xảo khéo tay trong

gia đình.

Trước hết, tính thực tế sinh động được biểu hiện trong văn hóa ẩm

thực. Người Cần Thơ có rất nhiều món ăn và cách ăn đa dạng. Cơm là món

ăn chủ yếu, các món ăn với cơm hàng ngày thông thường là cá, thịt chế biến

bằng cách nấu canh, xào, hấp, nướng, chiên, kho. Ngoài các món ăn căn bản

thường gặp hàng ngày, ở Cần Thơ còn có các món ăn bình dân với nhiều

cách chế biến khác, rất đơn giản, gần gũi với tự nhiên mà lại độc đáo, hấp dẫn

như: cá lóc nướng trui, nướng ốp bẹ chuối; gà vịt nắn đất sét; chuột úp nồi,

rắn nướng lèo… Người dân ở đây rất chú trọng văn hoá ẩm thực, trong bữa

ăn hàng ngày trong gia đình hay tham dự các buổi tiệc cưới, giỗ… người ta

luôn khuyên nhau nên “ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, “tham thực cực thân”,

“miếng ăn miếng nhục”…, người nhỏ tuổi hơn phải biết kính trên, nhường

dưới, không nên vì cái ăn làm ảnh hưởng đến uy tín con người.

Tính thực tế sinh động của văn hóa Cần Thơ còn biểu hiện trong cách ở và

mặc của người dân Cần Thơ. Chiếc áo dài là trang phục, lễ phục chính của giới

nữ ở Cần Thơ trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ, dùng mặc trong các cuộc lễ

hội, giao thiệp, tiếp khách, dạ hội v.v… Trải qua quá trình phát triển lâu dài cho

đến nay, dù được cải tiến nhiều lần nhưng áo dài trở thành trang phục mang đậm

màu sắc văn hoá dân tộc, biểu thị nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Đối với người Hoa, lúc đầu còn mặc kiểu áo cánh gài nút vải trong

ngày thường (người Việt gọi áo xá xẩu), các ngày lễ, tết, phụ nữ có mặc áo

dài kiểu Thượng Hải, Hồng Kông (xườn xám), nhưng dần về sau cũng theo

phong trào Âu hoá trong trang phục.

Người Khmer lúc ban đầu còn vận xà rông, xăm-pốt, phụ nữ có chiếc

áo vện (người Việt quen gọi áo bít bồng), vắt vai bằng khăn trắng (sen sầm

mặc – thơ). Đến nay, hầu như chỉ còn thấy những kiểu trang phục đó xuất

hiện rất ít trong những ngày lễ, tết Cholchnam Thmay, Óc-ombock… hoặc

trong các chương trình kịch nghệ trên sân khấu, truyền hình.

Page 109: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

107

Trong quá trình hội nhập quốc tế, với nhịp độ phát triển văn minh tăng

tốc hiện nay thì việc “mốt hoá” trong trang phục của cộng động người Việt -

Khmer - Hoa ở Cần Thơ đã vào thế hoà đồng. Người nào cũng mặc được áo

bà ba, mặc áo dài, đội nón lá. Người nào cũng mặc quần Tây, áo sơ mi, mặc

quần jean, áo pull, váy - áo đầm. Và việc mặc cũng không còn cách biệt

nhiều giữa thành thị với nông thôn. Dù có chưng diện như thế nào đi nữa,

nhưng mặc lịch sự được xem là “quy ước” của người dân Cần Thơ. Cộng

đồng dân tộc Việt, Khmer, Hoa luôn phê phán những ai mặc không lịch sự

mỗi khi ra đường và dự các lễ hội, tiệc tùng… Giữ vững đức tính của người

Cần Thơ “Trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”.

Về ở, thuở ban đầu, người ta quần tụ nhau trong các chòm xóm, chủ

yếu để hợp thành sức mạnh chống lại nghịch cảnh thiên nhiên và xã hội

(phong ba bão tố, thú rừng, trộm cướp, giặc giã…), giúp đỡ nhau trên bước

đường khai hoang mở đất. Trong những quần cư này, người ta chưa có quan

hệ huyết thống từ xưa, không có người cố cựu, cũng không phải cùng nghề

và có khi không cùng dân tộc (như người Khmer, người Hoa), nhưng họ thấy

cần ở gần, làm ăn, vui chơi với nhau thì đồng hè gom cụm lại, chọn vị trí

thuận lợi để lập thành chòm xóm “Bà con xa không bằng láng giềng gần”.

Trong quá trình chung đụng, nếu có điều xích mích xảy ra, người nào thấy

không thích thì tự do bồng bế vợ con xuống xuồng chống đi nơi khác, kiếm

chòm xóm khác định cư mà không có luật lệ nào ràng buộc.

Khi cuộc sống đã ổn định, chòm xóm mới được hình thành vững chắc

hơn. Qua các truyền thuyết dân gian và một số sách ghi chép cho thấy ở Cần

Thơ người ta lấy xóm làm đơn vị cơ sở của tổ chức quần cư xã hội lúc ban

đầu. Tiếng xóm thường đi liền với ấp như làng gắn liền với xã. Một xóm

thành một ấp hoặc vài xóm nhỏ hợp thành một ấp, nhưng thường mang tính

đồng nhất cao về đặc điểm địa dư, sắc thái tâm lý và sinh hoạt xã hội. Người

dân thường dựa vào các đặc điểm tự nhiên, nghề nghiệp, các giai thoại truyền

thuyết, di tích hoặc tên các nhân vật được nhiều người biết để đặt tên cho các

Page 110: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

108

xóm, như: Xóm Lung, xóm Cây Bàng, xóm Cây Gáo, xóm Bún, xóm Chài,

xóm Chòm mã, xóm Nhà Thờ… Sau khi có xóm (ấp), người dân lập làng

(xã) rồi lập chợ và kế đến xây dựng đình, miếu, chùa chiền. Những khu dân

cư đông đúc này thường tập trung ở các địa điểm đầu mối giao thông thuỷ bộ,

thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống. “Nhứt cận giang, nhì cận lộ” là câu ngạn

ngữ dạy cách chọn điểm định cư của người Việt ở Cần Thơ, mà vị trí của giao

thông đường thuỷ được đưa lên hàng đầu. Nơi “sông sâu nước chảy” vừa thuận

tiện cho việc giao thông liên lạc, vừa có không khí trong lành ít bệnh tật, lại

thuận lợi cho việc đào mương, lên liếp lập vườn để biến thành một trong những

nơi sớm phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp tiến bộ trong vùng, gọi là “văn

minh miệt vườn”.

Nhà ở, người Cần Thơ có hai cách xây nhà phổ biến: (1) Nhà xây cất

trên nền đất cao cặp theo hai bờ kinh xán, sông rạch, các khu vườn và các

đô thị. (2) Loại nhà sàn cao cẳng, một phần theo tập quán của người

Khmer, phần khác của người Việt hoặc Hoa sống ở các vùng thường bị

ngập trong mùa mưa như huyện Thốt Nốt, một phần của quận Ô Môn.

Cũng có loại nhà một nửa nằm trên nền đất, một nửa sàn de ra mé nước

các kinh rạch ở thành phố, thị xã, trục giao thông.

Nhà ở nông thôn hay thành thị, dù có nhiều kiểu cách trang trí khác

nhau, nhưng hầu hết đều được kết cấu theo kiểu nhà hai mái. Nhà hai mái

không chỉ dành riêng cho nhà lá, nhà sàn vách ván cột cây mà cả những ngôi

nhà vách tường, nhà lầu phố chợ.

Văn hóa Cần Thơ gắn với đặc tính tâm lý (tính cách) và điều kiện sống

của người dân ở đây

Nói đến tính cách của con người Cần Thơ, nó được thể hiện qua các mối

quan hệ trong xã hội. Thực ra, người Cần Thơ là một trong những bộ phận cấu

thành của dân tộc Việt Nam, do điều kiện nơi sống và nét văn hóa khác nhau

của từng vùng, từng miền mà tính cách của con người cũng khác nhau.

Page 111: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

109

Điều kiện về vị trí địa lý của Cần Thơ xưa, đã hình thành nên tính cách

“trọng nghĩa khinh tài” của người dân ở đây. Bởi họ ý thức được rằng: trước

điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nếu chia rẽ thì sẽ chết. Tinh thần đoàn kết,

sống với nhau vì nghĩa không chỉ giúp họ sẻ chia công việc với nhau, để giúp

đỡ nhau trong những lúc hoạn nạn, ốm đau mà còn hỗ trợ lẫn nhau cùng

chinh phục thiên nhiên, trừ thú dữ. Chính điều kiện hoàn cảnh khó khăn đó

đã tôi luyện con người Cần Thơ này thành một người “Hành hiệp trượng

nghĩa”. Họ sẵn sàng, thậm chí hy sinh tính mạng của mình để làm tròn đạo

nghĩa; đồng thời, đã xây dựng cho con người tính chăm chỉ, làm việc hết

mình, chơi thì cũng chơi “ tới bến”. Con người Cần Thơ luôn quan niệm

rằng: “ Nếu thấy việc nghĩa mà không ra tay làm thì không phải là anh hùng”.

Họ luôn tâm niệm: “tiền bạc có sá gì, nhân nghĩa mới là điều quan trọng”. Vì

vậy, những ai không có nhân nghĩa thì cũng đừng hòng họ đáp lại bằng nhân

nghĩa. Ngược lại, nếu sống có tình nghĩa thì khó khăn nào họ cũng chịu, gian

khổ mấy họ vẫn sẵn sàng chấp nhận. Và một đặc điểm nữa đi liền với tính

cách của người Cần Thơ là: họ nói một là một, hai là hai, không thay đổi, tình

cảm luôn rõ ràng, dứt khoát, nếu đã hứa thì phải làm dù cho sự thay đổi có

thể mang lại cho họ nhiều điều lợi nhưng họ vẫn “khăng khắng một lời quân

tử nhất ngôn”.

Người Cần Thơ không vì danh lợi mà làm những việc phi nghĩa, làm

trái với tinh thần nghĩa khí hào hiệp của mình. Họ chỉ nhận những gì tương

xứng với công sức mà họ bỏ ra. Nói về chuyện tình yêu nam nữ, họ sống và

thể hiện tình cảm cho nhau rất chân thành qua những lời lẽ mộc mạc. Thời xưa

họ thường dùng những câu đối, những câu hò trên những cánh đồng xanh tốt

để thể hiện tình cảm cho nhau.

Các giá trị văn hóa Cần Thơ được khái quát từ đời sống thực tiễn và

trở lại phục vụ đời sống người dân Cần Thơ

Trong quá trình khai hoang, mở đất và xây dựng Cần Thơ thành vùng

đất đầy tiềm năng như ngày hôm nay, văn hoá ứng xử với tự nhiên được hình

Page 112: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

110

thành. Chính vì vậy, thiên nhiên tuy là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng con

người nhưng lại là đối tượng tác động của con người. Mặt khác, do tự nhiên

luôn khắc nghiệt cho nên con người phải đối phó với tự nhiên. Trong hoàn

cảnh ấy, một mặt con người phải dựa vào nhau để sinh tồn, mặt khác con

người tin tưởng vào đấng siêu nhiên “Thần - Thánh” mỗi khi gặp khó khăn

hoạn nạn, tin tưởng vào điều thiện - ác, quả báu luân hồi. Cho nên con người

đã xây đình, chùa, miếu… để thờ những vị thần có công với dân với nước. Rõ

ràng là các giá trị văn hóa Cần Thơ được khái quát từ đời sống thực tiễn và đến

lượt mình văn hóa trở lại phục vụ đời sống con người Cần Thơ. Chính sự tác

động của các giá trị văn hóa làm nâng cao nhận thức, tình cảm của con người,

từng bước định hướng trong các tầng lớp nhân dân thực hiện nếp sống văn

minh, lành mạnh, mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với gia đình

và cộng đồng ngày càng tốt hơn. Quan hệ chòm xóm đoàn kết gắn bó hơn, tình

làng nghĩa xóm được chăm bồi, có ý thức giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Ý

thức trách nhiệm của công dân đối với xã hội, cộng đồng không ngừng được

nâng cao, đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội. Phong trào toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa đã góp phần phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo,

khuyến khích phong trào hợp tác sản xuất, kinh doanh, làm ăn, làm giàu chính

đáng. Nhiều địa phương còn gắn kết với tiến trình đô thị hóa, xu thế công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.

2.2. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI

TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ

2.2.1. Sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình

phát triển văn hóa ở Cần Thơ

Trong quá trình phát triển văn hóa, Cần Thơ luôn thể hiện nhất quán

quan điểm: hiện đại bắt nguồn từ truyền thống, lấy truyền thống làm nền tảng

trên cơ sở chắt lọc, kế thừa và phát triển truyền thống, đồng thời không phủ

định sạch trơn truyền thống và truyền thống văn hóa ở Cần Thơ được bảo tồn,

phát triển sinh động, phong phú qua tính hiện đại.

Page 113: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

111

Trong các giá trị truyền thống, nổi lên vị trí hàng đầu và được người

Cần Thơ coi như chuẩn mực cao nhất của đạo lý dân tộc là tinh thần yêu nước,

ý chí tự lực tự cường; ý thức cộng đồng, truyền thống đoàn kết dân tộc; truyền

thống lao động cần cù, sáng tạo, tính thích nghi và hội nhập để tồn tại và phát

triển; trọng nghĩa khí, kết hợp tinh thần nhân ái, tính khoan dung…

Hiện đại bắt nguồn từ truyền thống, lấy truyền thống làm nền tảng để

chắt lọc, kế thừa và phát triển của văn hóa ở Cần Thơ, trước hết, được thể

hiện ở lòng yêu nước, thương nòi. Chính từ lòng yêu nước mà những lưu dân

đầu tiên đặt chân lên đất Cần Thơ nắm bắt được quy luật của thiên nhiên,

chinh phục thiên nhiên để sinh tồn và lòng dũng cảm, ý chí bất khuất đã liên

tục đấu tranh chống kẻ thù xâm lược từ đời này sang đời khác để giữ vững quê

hương, đất nước. Khí phách ấy còn được khẳng định, tôn vinh bằng tên tuổi

của hàng loạt văn thân, sĩ phu yêu nước và những chiến sĩ cách mạng kiên

trung. Như vậy, lòng yêu nước là truyền thống tốt đẹp của nhân dân cả nước

nói chung và Cần Thơ nói riêng. Nó được bắt nguồn từ truyền thống qua mấy

ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí

Minh khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền

thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh

thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt

qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp

nước. Lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước

của dân ta" [50, tr. 171]. Rõ ràng là Hồ Chí Minh cũng chứng minh quan điểm:

Hiện đại bắt nguồn từ truyền thống trên cơ sở bảo tồn, kế thừa, phát huy truyền

thống. Nó bắt nguồn từ lịch sử Bà Trưng, Bà Triệu… đến Quang Trung. Rồi

đến những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống

Mỹ. Nó được biểu hiện sinh động ở mỗi thời đại khác nhau, gắn với điều kiện,

nhiệm vụ lịch sử xã hội khác nhau. Đó là sự thống nhất giữa truyền thống và

hiện đại trong văn hóa. Ngay cả tinh thần độc lập dân tộc, đó là truyền thống

văn hóa cao của dân tộc Việt Nam. Điều đó cũng được Hồ Chí Minh đề cập

Page 114: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

112

trong Tuyên ngôn độc lập và Hồ Chí Minh còn tiếp thu tinh thần độc lập cả

trong Tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền của Mỹ, của Pháp:

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ

những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền

được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong

bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý

nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào

cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm

1791 cũng nói: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn

luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Đó là những lẽ phải không ai chối

cãi được.

Bên cạnh việc tiếp thu truyền thống tinh thần độc lập dân tộc trong

“Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo” - ba dấu mốc đánh

dấu những chặng đường phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học

thượng kỳ trung đại. Điều đó càng chứng tỏ luận điểm: hiện đại bắt nguồn từ

truyền thống trên cơ sở chắt lọc, kế thừa, phát triển truyền thống và hiện đại

làm phong phú, sinh động, sâu sắc truyền thống.

Lòng yêu nước của nhân dân Cần Thơ trước đây đã được phát huy cao

độ trong chống ngoại xâm, ngày nay được nâng lên tầm hiện đại, tức là chuyển

sang nhiệm vụ xây dựng đất nước với ý thức coi nghèo nàn, lạc hậu cũng là

nỗi nhục không kém gì nhục mất nước. Thế hệ trước đã rửa được nỗi nhục nô

lệ cho dân tộc nên thế hệ hiện nay phải rửa nỗi nhục nghèo khổ, mở ra chương

sử mới rạng rỡ quê hương Cần Thơ nói riêng và cho non sông Việt Nam vinh

quang sánh vai cùng các dân tộc khác trên thế giới. Ngày nay, lòng yêu nước

gắn liền với độc lập tự chủ và ý chí tự lực tự cường, đây là một yêu cầu mang

tính biện chứng. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc

tế có hiệu quả; mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện

Page 115: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

113

cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tránh được sự lệ thuộc về

nhiều mặt vào các đối tác trong quá trình hội nhập.

Chống tham nhũng cũng là sự biểu hiện của lòng yêu nước, bởi chính

tham nhũng chính là một trong những kẻ thù vô cùng nguy hiểm, một quốc

nạn. Đối với cán bộ, đảng viên tuyệt đối không tham nhũng, xem tham nhũng

là một kẻ thù nguy hiểm cần loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Đối với chính

quyền các cấp ở thành phố Cần Thơ, cần có một cơ chế quản lý thích hợp,

đồng thời cũng cần có những biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những kẻ

tham nhũng. Đối với nhân dân, không tiếp tay hay tạo cơ hội cho việc tham

nhũng, mà cần phát hiện, tố cáo với các cơ quan hữu quan để xử lý kịp thời.

Các tố chức đảng cũng cần tăng cường công tác phê và tự phê bình một cách

có hiệu quả, tiến tới làm trong sạch hàng ngũ của Đảng để Đảng ta thực sự làm

tốt vai trò lãnh đạo của mình. Cần khắc phục tình trạng quan liêu, cửa quyền,

hách dịch đang xảy ra khá phổ biến trong một số cơ quan nhà nước hiện nay,

nhất là các sở, ban, ngành của thành phố để Nhà nước thực sự là Nhà nước của

dân, do dân và vì dân và để kế thừa tư tưởng yêu nước mà Nguyễn Trãi đã

từng khẳng định: yêu nước gắn liền với thương dân, lòng dân có yên đất nước

mới phát triển. Lòng yêu nước còn được biểu hiện ở chỗ: không sản xuất hàng

gian, hàng giả, không buôn lậu và kiên quyết chống buôn lậu, không trốn thuế,

lậu thuế, góp phần ổn định đời sống nhân dân và xây dựng đất nước.

Lòng yêu nước ngày nay còn được thể hiện qua ý thức bảo vệ môi

trường, xây dựng thành phố xanh, sạch, đẹp. Cần Thơ đang trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nên nạn ô nhiễm môi trường sống

ngày càng nặng hơn, đã bắt đầu xuất hiện tình trạng ách tắc giao thông, khói

bụi; sông hồ ô nhiễm, mưa lớn hoặc thủy triều lên (mùa nước nổi) thì phố ngập

nước; công viên, cây xanh luôn bị đe doạ lạm dụng chặt phá. Vì vậy vấn đề đặt

ra hiện nay là mỗi người dân phải ý thức được trách nhiệm bảo vệ môi trường

bằng hành động cụ thể, thiết thực như không chặt phá cây xanh, không vứt rác

bừa bãi, không hút thuốc nơi công cộng, các doanh nghiệp phải có hệ thống xử

Page 116: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

114

lý nước thải hoàn chỉnh… để xây dựng thành phố xanh, sạch, đẹp. Đồng thời,

thành phố Cần Thơ cần bổ sung quy hoạch về bảo vệ môi trường với tầm nhìn

30 năm, 50 năm tới.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lòng yêu nước của người

Cần Thơ được phát huy ở sự chung sức, chung lòng xây dựng thành phố văn

minh. Thành phố văn minh là nơi cư trú thân thiện, trao đổi hòa hợp cho cư

dân đa dạng, đa ngành, đa tầng bậc; họ chung sống và hỗ trợ nhau một cách tự

nguyện, bền vững. Thành phố văn minh - nơi có cơ hội thăng tiến cho tất cả

thành phần: công nghiệp, thủ công nghiệp, nông nghiệp, các cơ sở y tế, nghỉ

dưỡng, trung tâm đại học, dạy nghề; có vùng bảo tồn đô thị cổ, đô thị truyền

thống, di sản văn hoá lịch sử... nhưng có cả trung tâm công nghệ hiện đại, khu

công nghiệp với hệ thống giao thông thuận tiện. Các đô thị độc lập và liên hệ

với nhau bởi các phương tiện giao thông phù hợp. Một thành phố hiện đại

được ghi nhận bởi sức sống, tính cạnh tranh và nguồn tài chính vững chắc. Con

người Cần Thơ giàu lòng yêu nước và cách mạng, năng động, sáng tạo; được

Trung ương dành cho nhiều chính sách ưu đãi, Cần Thơ hội tụ đủ những điều

kiện xây dựng thành phố văn minh, hiện đại, môi trường hòa hợp với thiên

nhiên, là quyền có nhà cửa, có nơi ở thỏa đáng, có được sự di chuyển dễ dàng

từ nhà đến nơi làm việc với những phương tiện chuyên chở công cộng thuận

tiện, được sống một cách yên lành với gia đình, láng giềng và thân hữu. Tin

tưởng rằng trong tương lai không xa, Cần Thơ sẽ là một thành phố văn minh

đúng nghĩa của nó.

Hiện nay, nhân dân Cần Thơ tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước

trong việc xây dựng thành phố hiện đại. Cần Thơ đang trong quá trình triển

khai thực hiện quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết đã được Chính phủ

phê duyệt với quyết tâm biến vùng ngoại vi, phụ cận thành những khu trung

tâm mới về kinh tế, tài chính, thương mại, du lịch lớn cùng hệ thống kết cấu hạ

tầng, dịch vụ cao cho khu vực. Đặc biệt, thành phố sẽ chú trọng bảo tồn và

phát triển cảnh quan thiên nhiên giàu tính nhân văn, đa dạng hoá thảm thực

Page 117: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

115

vật, xác định một số khu bảo tồn thiên nhiên; kết hợp cải tạo chỉnh trang các

đô thị hiện hữu với đầu tư xây dựng các khu đô thị mới theo tiêu chí đô thị

đồng bằng cấp quốc gia văn minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, phản ánh đặc

trưng lịch sử - văn hoá vùng đồng bằng sông Cửu Long. Như vậy, trong tương

lai Cần Thơ bao gồm một chuỗi đô thị đa trung tâm; trong đó, hai quận Cái

Răng - Bình Thuỷ giữ vai trò đô thị công nghiệp - cảng, quận Ninh Kiều là đô

thị trung tâm hành chính - chính trị, quận Ô Môn giữ vai trò đô thị công nghệ

cao, huyện Phong Điền trở thành đô thị sinh thái, quận Thốt Nốt trở thành đô

thị dịch vụ đầu mối nông - thủy sản,... Có như vậy Cần Thơ mới thật sự là

thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ sẽ không

dẫm lên vết xe đổ của các đô thị tại các quốc gia mới ở chặng đầu phát triển (ô

nhiễm môi trường, dân cư quá tải, ùn tắc giao thông, ngập nước, sớm bị lạc

hậu…). Bản quy hoạch đã ưu tiên các yếu tố thiên nhiên cảnh quan, nâng cao

chất lượng đô thị; dành nhiều không gian cho sinh hoạt công cộng, diện tích

cây xanh - mặt nước. Mở rộng diện tích xanh cũng là dành diện tích cho phát

triển nông nghiệp đô thị: vùng cung cấp nông sản sạch - giá trị cao cho thành

phố và các tỉnh lân cận trong vùng. Vùng nông nghiệp đô thị còn là không gian

tái chế, tái sử dụng chất thải đô thị để sản xuất nông nghiệp, làm giàu dinh

dưỡng đất đai, tái tạo không khí và nước sạch.

Như vậy, truyền thống yêu nước trước đây được phát huy cao độ

trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, truyền

thống yêu nước đã nâng lên tầm hiện đại, được thể hiện: mọi cá nhân, tập

thể và cộng đồng dân tộc Kinh, Khmer, Hoa phải đem hết tinh thần và nghị

lực, sức mạnh và tài năng của mình xây dựng quê hương Cần Thơ giàu đẹp,

góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của Đảng là

xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng thể hiện quan điểm, hiện đại bắt nguồn

từ truyền thống, lấy truyền thống làm nền tảng để chắt lọc, kế thừa và phát

triển của văn hóa ở Cần Thơ.

Page 118: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

116

Truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại được thể hiện qua ý thức

cộng đồng, cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc, kết hợp với truyền thống tương

trợ, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn. Đoàn kết dân tộc là một trong

những truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân Cần Thơ. Ý thức cộng đồng

được cải biến và nâng cao trên một cơ cấu và quan niệm mới về mối quan hệ

giữa cá nhân với cộng đồng, gia đình và làng nước, trong đó con người phải

thực sự được thừa nhận và tôn trọng như là một thực thể trong sự phát triển

nhân cách, tài năng và những lợi ích chính đáng.

Ý thức cộng đồng, cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc không thể tách rời

tinh thần yêu nước. Bởi vì, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý

thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong

hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc, tạo

thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn

của mỗi con người Việt Nam nói chung và Cần Thơ nói riêng. Tinh thần, ý

thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của nhân dân Cần Thơ để chiến thắng

mọi thiên tai địch họa, làm cho Cần Thơ trường tồn, bản sắc văn hóa được giữ

vững. Đối với mỗi người dân Cần Thơ cũng như dân tộc Việt Nam nói chung,

yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng;

Thành một triết lý nhân sinh:

Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao;

Thành phép ứng xử và tư duy chính trị:

Tình làng, nghĩa nước; nước mất thì nhà tan; giặc đến nhà, đàn bà

phải đánh.

Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành

quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia và cũng trở thành sợi

dây liên kết các dân tộc, các giai tầng trong xã hội Cần Thơ.

Page 119: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

117

Ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã trở thành

một lẽ sống, một tâm cảm của mỗi người Cần Thơ. Đây là một ý thức nối kết

các thành viên của tộc người Việt từ ngàn xưa đến mai sau. Không giống xã

hội phương Tây, người ta đề cao, tôn vinh các giá trị cá nhân. Ở Cần Thơ cũng

như tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, cá nhân chỉ có ý nghĩa khi hòa

kết, hòa đồng với cộng động. Hòa kết, hòa hợp không có nghĩa là hòa tan. Mỗi

cá nhân tìm thấy chính mình trong sức mạnh, trong vẻ đẹp của cộng đồng. Mỗi

người không thể sống, không thể tồn tại và phát triển khi tách rời khỏi cộng

đồng: cộng đồng gia đình, cộng đồng làng xã, cộng đồng dân tộc.

Đồng sức, đồng lòng là một sức mạnh: " thuận vợ thuận chồng tát

biển Đông cũng cạn". Hòa kết giữa người và người, giữa người và cộng

đồng được thể hiện trong tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: " Đoàn

kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” [50,

350]. Niềm vui, hạnh phúc và cả nỗi đau, những bất hạnh của mỗi người

được cộng đồng quan tâm, chia sẻ: " Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ"

hay " lá lành đùm lá rách".

Hợp lực cộng đồng đã trở thành một lẽ sống và là một trong những

giá trị làm nên truyền thống tuyệt vời của văn hóa Cần Thơ. Ý thức cộng

đồng trở thành ý thức dân tộc sâu sắc trong suốt quá trình tồn tại và phát

triển của cộng đồng người Việt ở Cần Thơ.

Chính vì những giá trị (về lý luận và thực tiễn) to lớn của ý thức cộng

đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc, mà đảng bộ Cần Thơ luôn vận

động, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào Mặt trận và các đoàn thể

chính trị, xã hội phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Nhờ vậy

mà Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ đã giành được hết thắng lợi này tới thắng

lợi khác, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất

nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế đã chứng minh: đoàn kết trong

mặt trận Việt Minh, nhân dân Cần Thơ cùng nhân dân cả nước đã làm Cách

mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Page 120: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

118

Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân Cần Thơ cùng nhân dân cả nước

đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng

miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân Cần Thơ

cùng nhân dân cả nước đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục

kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội

ở miền Bắc…

Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà

nước và nhân dân ở Cần Thơ chưa thật bền chặt và đang đứng trước những

thách thức mới: (1) Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận

nhân dân chưa vững chắc, phần vì đời sống còn nhiều khó khăn, phần thì bất

bình trước những bất công xã hội và trước tình trạng tham nhũng, quan liêu,

lãng phí còn diễn ra ở nhiều nơi, kỷ cương, phép nước nhiều lúc, nhiều nơi

không nghiêm, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an toàn xã hội còn

phức tạp. (2) Các vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi rất

gay gắt. (3) Việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức

xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào có tôn giáo,

đồng bào dân tộc Khmer.

Trước thực trạng đó, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

hội nhập quốc tế, Cần Thơ đang trong quá trình đổi mới nội dung và phương

thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội cho phù

hợp tình hình mới theo hướng: thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật của

Nhà nước nhằm phát huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế

độ tự quản của cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội. Tổ chức

và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế

giỏi, phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hóa - xã hội; mỗi người, mỗi

hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước. Chăm lo và

bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội. Tôn trọng

và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín

Page 121: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

119

trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo. Đề cao truyền thống nhân

nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định

chính trị và đồng thuận xã hội.

Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc nói chung và nhân dân Cần

Thơ nói riêng, là công việc của mỗi người dân. Để nâng cao trách nhiệm của

người dân, Đảng bộ Cần Thơ phải xây dựng sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận

xã hội khác với tập trung dân chủ thường chỉ dùng cho các tổ chức có tính

thống nhất cao. Nguyên tắc đồng thuận xã hội đòi hỏi mọi thành viên hoặc đa

số đồng ý thỏa thuận đối với nguyên tắc chung và ý chí chung. Một quyết định

được thông qua phải là “mẫu số chung” cho mọi thành viên dù các thành viên

có thể có nhiều sự khác nhau. Sự đồng thuận xã hội, nhằm đạt tới sự cố kết xã

hội, chống lại sự phân liệt xã hội.

Truyền thống là nền tảng, cơ sở của hiện đại trong quá trình phát triển

văn hóa ở Cần Thơ, được thể hiện qua truyền thống lao động cần cù, sáng tạo,

ý chí tự lập tự cường; truyền thống trọng nghĩa khí, lòng nhân ái, khoan dung.

Trước khi chia tách tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang và thành phố

Cần Thơ trực thuộc trung ương - Đô thị loại I. Cần Thơ là một tỉnh nông

nghiệp với gần 80% dân số sống bằng nghề nông. Một trong những đức tính

tiêu biểu của người nông dân Cần Thơ là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao

động sản xuất.

Kế thừa đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động của ông cha từ thuở xa

xưa: mài đá, đúc đồng, đúc kim loại thành những công cụ hữu ích phục vụ đắc

lực cho việc mưu sinh. Cha ông ta trước đây với đôi bàn tay cần cù và tinh

thần năng động, sáng tạo trong công việc đã từng bước phá rừng, lấn biển, mở

rộng diện tích trồng trọt và tích cực lao động sản xuất theo suốt chiều dài lịch

sử của đất nước.

Đến thời gian những lưu dân đi mở cõi, khai phá đất phương Nam và

đặt chân lên Trấn Giang - Cần Thơ thì cũng chính từ lòng quyết tâm của người

đi khai phá đất hoang và đức tính cần cù sáng tạo trong lao động mà những

Page 122: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

120

người nông dân đã dần dần chinh phục được vùng đất đầy khắc nghiệt với

rừng rậm, đầm lầy và nhiều thú dữ. Họ đã biến vùng đất hoang hoá trước đó

trở thành một vùng đất phì nhiêu, màu mở với ruộng vườn tươi tốt và những

vụ mùa bội thu.

Nằm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, thuộc khu vực châu Á gió mùa,

nước ngọt quanh năm, được thiên nhiên ưu đãi với “Thiên thời - Địa lợi - Nhân

hòa”, song Cần Thơ cũng là một địa phương chịu nhiều ảnh hưởng của thiên

tai như giông bão, lụt lội, hạn hán, đôi khi bị nước mặn xâm nhập… uy hiếp

trực tiếp đến cuộc sống của người nông dân. Để có thể tồn tại và phát triển,

người nông dân Cần Thơ đã phải siêng năng bền bĩ, chịu khó đắp đê, đào kênh

để khắc phục những khó khăn, bất lợi do thiên tai gây nên.

Truyền thống cần cù, sáng tạo của người nông dân Cần Thơ còn được

phát huy mạnh mẽ sau ngày đất nước ta được hoà bình, thống nhất. Từ những

vùng đất bị tàn phá và thiệt hại nặng nề trong những năm kháng chiến chống

giặc ngoại xâm, bằng đức tính cần cù năng động, sáng tạo trong quá trình lao

động sản xuất mà người nông dân đã biến những “vùng đất chết”, “vùng đất

trắng” thành những vùng đất trù phú, phì nhiêu. Qua đó đã góp phần tích cực

nhất đưa sản lượng lương thực, thực phẩm nước ta không ngừng được nâng

cao theo từng năm.

Vào những năm của thập niên 80, hàng trăm lượt người đã hăng hái,

tích cực làm công tác thuỷ lợi. Khi công trình hoàn thành và được đưa vào

sử dụng, với việc chủ động được nguồn nước tưới tiêu, những người nông

dân Cần Thơ đã chí thú làm ăn, hăng say sản xuất. Bằng đôi bàn tay lao

động cần cù và ý chí tấn công trên mặt trận sản xuất, họ đã biến “vành đai

trắng” trong những năm còn chiến tranh trở thành một “vành đai xanh” với

những cánh đồng lúa oằn bông trĩu hạt; những ruộng đậu, ruộng bắp xanh

mướt, mượt mà cho năng suất cao; những vườn cây ăn trái sum suê trĩu

quả… Chính từ đức tính cần cù, chịu thương chịu khó của những người

nông dân Cần Thơ đã có sự thay đổi sâu sắc, diệu kỳ.

Page 123: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

121

Trong giai đoạn đất nước đang thực hiện tiến trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa thì người nông dân vẫn luôn cần cù, chịu khó tìm tòi, học hỏi, áp

dụng một cách sáng tạo các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất; năng

động sáng tạo những mô hình làm ăn mới đem lại những lợi ích thiết thực,

đem lại hiệu quả kinh tế cao để không ngừng nâng cao mức sống của gia đình,

đồng thời góp phần làm cho đất nước ngày càng đi lên giàu mạnh, văn minh.

Trong những năm gần đây với những đòi hỏi bức thiết của quá trình lao động

sản xuất, với tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, bằng sự cần cù

trong lao động, kiên trì chịu khó mày mò, thử nghiệm. Cuối cùng nhiều nông

dân cũng đã sáng chế thành công nhiều nông cụ phục vụ đầy hiệu quả cho sản

xuất nông nghiệp ở Cần Thơ.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành nhân

tố lớn làm thay đổi phương thức sống của người dân Cần Thơ. Từ một nền

kinh tế lạc hậu, sức cạnh tranh kém, tốc độ tăng trưởng thấp, bước sang một xã

hội với những cơ sở sản xuất hiện đại, với mạng lưới thương nghiệp và dịch vụ

rộng khắp. Từ chỗ chỉ sản xuất và tiêu dùng các hàng hóa đơn giản, chất lượng

thấp, người dân đã sản xuất và tiêu thụ nhiều sản phẩm hiện đại, đủ các chủng

loại. Quá trình đô thị hóa, mở rộng giao lưu quốc tế, luồng gió của toàn cầu

hóa và của nền kinh tế thị trường đã thổi tới mọi địa bàn cư dân, kể cả vùng

sâu, vùng xa của thành phố Cần Thơ, thông qua việc trao đổi hàng hóa, qua

công nghệ thông tin viễn thông, qua các hoạt động du lịch quốc tế, qua các dự

án và công trình có vốn đầu tư nước ngoài. Những biến động về kinh tế - xã

hội đó tác động trực tiếp tới đời sống vật chất của mỗi con người, mỗi gia đình

và qua đó, tác động tới đời sống tinh thần của toàn xã hội. Bước vào thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ở Cần Thơ có nhiều khu công nghiệp được hình

thành, lao động trong xã hội công nghiệp là lao động trực tiếp với máy móc và

công nghệ; đòi hỏi người lao động phải có kiến thức và kỹ năng cơ bản về

khoa học, công nghệ để làm chủ quá trình lao động. Trong một xã hội mà khoa

học và công nghệ luôn đổi mới, thì bản thân người lao động cũng phải được

Page 124: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

122

chuẩn bị về mọi mặt để đón nhận sự đổi mới đó. Ở đây không có chỗ đứng cho

tư duy cảm tính, chủ nghĩa kinh nghiệm, tâm lý an phận thủ thường, ngại đổi

mới. Lao động công nghiệp đòi hỏi cao về kỷ luật lao động, phải quan tâm

thường xuyên đến kết quả lao động. Vì vậy, thói lề mề, luộm thuộm, tùy tiện

phải dần bị loại bỏ. Con người buộc phải soát xét lại toàn bộ những hiểu biết

trước đây của mình, soát xét lại cách cảm nhận, cách suy nghĩ, cách sống,… cả

đến thói quen, tập quán, sở thích trước đây, để có thể thích nghi với điều kiện

tồn tại mới. Vì vậy, hiện đại hóa con người và văn hóa đã trở thành xu thế tất

yếu. Nền văn minh công nghiệp đòi hỏi con người Cần Thơ phải hội đủ những

phẩm chất cần thiết. Những phẩm chất đó là:

Về học vấn, người lao động phải có trình độ học vấn, tối thiểu là cấp

trung học phổ thông đối với vùng nông thôn và đại học đối với thành thị, để làm

chủ các phương tiện khoa học, công nghệ trong lao động và trong đời sống.

Ý thức và nhận thức chính trị, xã hội công nghiệp là xã hội công dân,

đòi hỏi mỗi người dân phải hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi công dân của

mình, nó khác xa với ý thức thần dân trong các xã hội tiền hiện đại.

Lối sống, trong xã hội hiện đại, khi cơ sở vật chất của xã hội đã phát

triển đủ điều kiện bảo đảm một đời sống trung lưu cho đa số người dân, khi

khoa học và công nghệ đã đi vào đời sống thường ngày của xã hội, thì việc

xây dựng một lối sống khoa học, lành mạnh phải được đặt ra. Những thói

quen, hủ tục có nguồn gốc từ sự nghèo đói và dốt nát trước đây, dần dần phải

được khắc phục; tư duy khoa học, tác phong công nghiệp dần dần được hình

thành, trước hết trong những người lao động.

Ý thức và tinh thần thực thi pháp luật, nhà nước pháp quyền là một đặc

trưng của xã hội hiện đại. Nó khác với các xã hội tiền hiện đại, khi mà con

người sống chỉ bằng dư luận, bằng các lệ làng và luật tục. Do sống lâu đời

trong xã hội nông nghiệp cổ truyền, nhân dân chưa có thói quen tôn trọng

pháp luật, thậm chí nhiều người còn xa lạ với các đạo luật đã ban hành. Trong

xã hội công dân, luật pháp là người bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của

Page 125: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

123

người dân, là người trọng tài phán xử những xung đột, mâu thuẫn giữa công

dân với nhau, giữa công dân với Nhà nước và các tổ chức xã hội khác.

Ý thức và trình độ thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ là nhu cầu thiết yếu của

con người. Trong xã hội hiện đại, do đời sống vật chất được nâng cao, điều

kiện và thời gian lao động được cải thiện, qua mạng lưới công nghệ thông tin

viễn thông, con người có dịp tiếp xúc nhiều với cái đẹp trong thiên nhiên và

trong nghệ thuật, năng lực và nhu cầu thẩm mỹ của người dân có điều kiện

phát triển. Sự phát triển các nhu cầu và năng lực thẩm mỹ trong mỗi con

người tạo điều kiện cho sự phát triển và hoàn thiện nhân cách - một dấu hiệu

quan trọng của sự phát triển xã hội.

Ý thức về sự bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, bước

vào văn minh công nghiệp, nhân loại đang chứng kiến một thảm họa: mối

quan hệ hài hòa giữa con người với xã hội, giữa con người với thiên nhiên bị

phá vỡ. Điều này xuất phát từ quan niệm sống có tính truyền thống của văn

minh phương Tây, coi con người là trung tâm của vũ trụ và chủ nghĩa cá

nhân trong lối sống. Các thiên tai và tệ nạn xã hội xuất hiện, đe dọa sự sống

trên trái đất. Bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội đang là khẩu

hiệu hành động của các quốc gia. Đó cũng là tiêu chí của con người hiện đại.

Có sức khỏe tốt, xã hội hiện đại đã giải phóng con người khỏi tình

trạng đói nghèo và dốt nát. Nguy cơ giảm thiểu tuổi thọ được khắc phục nhờ

điều kiện sống được cải thiện, các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe toàn dân

được mở rộng. Mặt khác, do trình độ học vấn được nâng cao, thời gian lao

động xã hội của người lao động được rút ngắn theo quy định của Nhà nước,

mỗi người đều có ý thức và trách nhiệm chăm sóc sức khỏe của bản thân. Các

hoạt động du lịch, giải trí, các buổi học tập theo chương trình dưỡng sinh, bảo

vệ môi trường… là các hoạt động ngày càng có nhiều người tham gia. Các

hoạt động đó ảnh hưởng tốt đến sức khỏe con người.

Những tiêu chí trên đã xuất hiện khá phổ biến trong đời sống cư dân ở

các quốc gia đã hiện đại hóa. Qua toàn cầu hóa, qua hội nhập kinh tế quốc tế,

Page 126: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

124

những tiêu chí đó đang tác động đến đời sống nhân dân ta nói chung và Cần

Thơ nói riêng. Đó là những tiêu chí cần thiết để phát triển con người, phát

triển văn hóa. Tuy vậy, vấn đề không dừng lại ở đó, quá trình hiện đại hóa

văn hóa và con người lại đang diễn ra một cách cực kỳ phức tạp. Ở đây, cái

tốt, cái xấu đan xen nhau. Trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế toàn cầu,

người dân Cần Thơ có điều kiện tiếp cận với nhiều giá trị về văn hóa, khoa

học, giáo dục, nghệ thuật, về tổ chức đời sống xã hội và cách quản lý các vấn

đề kinh tế - xã hội ở nhiều nước tiên tiến. Nhưng, cùng với những giá trị đó,

những cái phản giá trị là sản phẩm của mặt trái kinh tế thị trường cũng đang

thâm nhập vào Cần Thơ dưới rất nhiều hình thức. Đó là chủ nghĩa cá nhân

cực đoan, là chủ nghĩa tiêu dùng vật chất, là sự sùng bái các hàng hóa vật

chất mà coi nhẹ lý tưởng, khát vọng, là hàng loạt các tội phạm quốc tế,…

Trước tình hình đó, cùng với việc giáo dục những phẩm chất mới của

con người hiện đại, phê phán và khắc phục các tàn dư lỗi thời của quá khứ,

cần có kế hoạch thường xuyên quan tâm giáo dục và phát huy các giá trị

truyền thống của dân tộc, coi đó là giá đỡ tinh thần cho việc hiện đại hóa con

người và văn hóa Cần Thơ. Chúng ta có một may mắn lớn mà không phải

dân tộc nào cũng có được - đó là những giá trị văn hóa Hồ Chí Minh, tư

tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh - một biểu tượng rực rỡ của văn hóa tương

lai mà loài người tiến bộ đang vươn tới. Phải coi việc học tập và làm theo tấm

gương đạo đức của Người là biện pháp cực kỳ hữu hiệu để hiện đại hóa văn

hóa và con người Cần Thơ.

Tóm lại, cần cù, sáng tạo là một đức tính đã hình thành qua quá trình

hoạt động thực tiễn giữa con người với môi trường thiên nhiên, xã hội.

Đức tính này đã được hình thành từ rất sớm và không ngừng được vun đắp,

phát huy trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Đó là một truyền thông

tốt đẹp quí báu, là nét đặc trưng của con người Việt Nam nói chung và Cần

Thơ nói riêng.

Page 127: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

125

Bên cạnh truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; trọng đạo nghĩa, lòng

nhân ái, khoan dung là truyền thống tốt đẹp của người Cần Thơ. Người Cần

Thơ rất trọng những người có đức, có tài, có công khai phá để lập nên làng ấp.

Mỗi làng đều có đền thờ “thành hoàng”, vị tiền hiền. Đối với người sống thì

kính trọng người già, bậc cao niên.

Truyền thống văn hóa ở Cần Thơ phát triển sinh động, phong phú

qua tính hiện đại

Cần Thơ có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa, với các tộc người cư

trú gồm: Kinh, Khmer, Hoa, mỗi dân tộc đều có truyền thống lịch sử văn hóa

riêng; trong quá trình khai hoang, lập ấp, họ đã góp phần làm nên sắc thái văn

hóa Cần Thơ giàu hương sắc hòa cùng vườn hoa văn hóa các dân tộc Việt

Nam. Khắp các làng quê của người Việt ở Cần Thơ đều có những ngôi chùa,

đình cổ kính, oai nghiêm, những di tích lịch sử - văn hóa luôn in đậm trong

tâm thức của mỗi người về những chiến công, về những sự tích lẫy lừng của

những người anh hùng có tên và không tên mãi còn lưu truyền trong dân gian

và đọng lại ở những câu truyện cổ, trong ca dao, tục ngữ, truyền thuyết…

Người dân Cần Thơ luôn tự hào với vốn văn hóa dân gian đặc sắc của mình,

với hệ thống các loại hình truyền thống văn hóa phong phú, độc đáo, tiêu biểu

như: dân ca, hò, vè, thơ, đờn ca tài tử, cải lương… phản ánh tâm hồn yêu cuộc

sống của nhân dân. Những giá trị truyền thống lịch sử và văn hóa ấy cần được

bảo tồn, phát triển.

Trên cơ sở quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và

hiện đại, việc khôi phục, giữ gìn và bảo quản, tôn tạo những di sản văn hóa vật

thể ở Cần Thơ đã được bảo tồn, phát triển một cách sinh động và phong phú

nhờ tính hiện đại. Nhân dân Cần Thơ coi những di sản văn hóa là những của

quý, vô giá mà ông cha để lại. Có thể tìm trong đó trí tuệ và tài năng, tâm hồn

và khí phách của ông cha từ những đình, chùa, lăng miếu, những công cụ sản

xuất, sản phẩm lao động, những tác phẩm khoa học, văn học nghệ thuật. Có

thể tìm ở đó cả cuộc sống của ông cha qua trường kỳ lịch sử, có thể lắng nghe

Page 128: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

126

ở đây tiếng nói của ông cha, những bài học ứng xử, trong mọi hoàn cảnh đầy

gian nan thử thách. Chúng ta có thể khai thác từ trong đó một sức mạnh tinh

thần vô tận trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay.

Chùa Nam Nhã, là một ngôi chùa vừa trang nghiêm, cổ kính, mang một bề

dày lịch sử hào hùng của nhân dân Cần Thơ. Trong cuộc kháng chiến chống

Pháp, chùa Nam Nhã là cơ sở vững chắc cho phong trào Đông Du trong tỉnh (nay

là thành phố) do Nguyễn Thần Hiến lãnh đạo. Tháng 9 năm 1929, Đặc uỷ Hậu

Giang được thành lập do đồng chí Ung Văn Khiêm làm bí thư , đóng trụ sở tại

chợ Bình Thuỷ, chùa Nam Nhã được dùng làm nơi liên lạc giữa Đặc Uỷ Hậu

Giang và Xứ Uỷ Nam Kỳ. Ngoài ra, chùa còn là nơi lui tới của nhà cách mạng lỗi

lạc Ngô Gia Tự - Bí Thư cấp uỷ Lâm Thời Đảng Bộ Nam Kỳ. Trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ xâm lược, chùa Nam Nhã tiếp tục là chỗ dựa của các tổ chức yêu

nước, cách mạng. Chính vì vậy, Bộ Văn Hoá Thông tin đã ra quyết định công

nhận chùa Nam Nhã là di tích lịch sử cách mạng ngày 25/1/1991.

Xưa kia, chùa là nơi tu hành, là chỗ dựa tâm linh của những người theo

đạo Phật, cầu cho quốc thái, dân an, mưa thuận, gió hòa; luôn thể hiện tinh thần

nhân đạo và niềm tin vào thiện ác, xem vấn đề luân hồi, nhân quả là một quan

niệm nhân sinh. Ngày nay, bên cạnh việc tu hành, chùa còn là nơi sinh hoạt văn

hóa, thông qua các hoạt động văn hóa nhằm tuyên truyền, giáo dục, động viên tư

tưởng chính trị tín đồ và những người theo đạo, nhất là đồng bào Khmer, làm

cho mọi người thông hiểu và chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước; phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, tôn giáo, nêu

cao tinh thần vị tha, tính nhân đạo cao cả, nêu lên quan niệm về đạo đức nhằm

giáo dục con người hướng thiện, duy trì quan hệ tốt đẹp giữa con người với

thiên nhiên, giữa con người với nhau trong xã hội, ở từng giai đoạn lịch sử. Hiện

nay chùa Nam Nhã đã xuống cấp nghiêm trọng, cần đầu tư tôn tạo để chùa Nam

Nhã là nơi sinh hoạt tôn giáo và tổ chức nghi lễ của tín đồ Phật giáo.

Làng cổ Long Tuyền được coi là nơi hội tụ phong khí văn hóa, tượng

trưng cho vẻ đẹp sông nước miệt vườn. Một quần thể di tích từ đình Bình

Page 129: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

127

Thuỷ, các chùa Hội Linh, Nam Nhã, Long Quang, mộ Thủ khoa Bùi Hữu

Nghĩa tới trụ sở An Nam Cộng sản Đảng, căn cứ Vườn mận, vườn cây trái dọc

lộ Vòng Cung sẽ nối liền với chợ nổi Phong Điền, mộ cử nhân Phan Văn Trị,

vườn Mỹ Khánh, chợ nổi Cái Răng… tạo thành tuyến du lịch hấp dẫn. Địa

hình Long Tuyền như biểu tượng thu nhỏ của vùng đồng bằng sông nước bao

la, tạo nên nền “văn minh sông nước miệt vườn” như bức tranh cực đẹp, xóm

làng trù phú oằn sai cây trái với những nếp nhà bình dị dọc hai bờ sông Bình

Thủy. Làng cổ Long Tuyền là địa linh nhân kiệt, là đất học lâu đời, đã sản sinh

ra danh sĩ yêu nước Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa (1807- 1872). Sự nghiệp thi ca

Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa chứa chan lòng yêu xứ sở và chí khí chống ngoại

xâm, độc đáo hơn hết là sự cống hiến quý giá của ông đã cải biên nghệ thuật

tuồng cung đình đương thời thành tuồng của dân gian, của dân miệt vườn lam

lũ, giàu tình nghĩa, khẳng khái đấu tranh cho chính nghĩa.

Phong khí văn hóa Long Tuyền là sự hòa quyện của đất, nước và con

người nơi đây; là sự nở hoa của quá khứ trong lòng hiện tại; là sự giao thoa

giữa truyền thống và hiện đại. Long Tuyền tuy tiếp xúc với nhiều nền văn hóa

Đông - Tây nhưng vẫn tạo ra, giữ gìn được bản sắc "văn minh miệt vườn sông

nước" rất riêng, rất độc đáo và đó chính là nội lực, là cội nguồn sức mạnh giúp

Long Tuyền đứng vững, phát triển trên vùng đất mới đầy biến động. Đến Long

Tuyền dù chỉ một lần, chúng ta sẽ khó quên về miền sông nước nên thơ đầy

quyến rũ. Qua quá trình vận động phát triển hàng trăm năm, Long Tuyền cổ

kính còn có vinh dự góp phần tạo nên thành phố trung tâm cả vùng châu thổ

Nam bộ hôm nay. Vì vậy, làng cổ Long Tuyền là một trong những khu di tích

lịch sử, văn hóa cần được bảo tồn và phát triển.

Chợ nổi, về văn hóa sông nước, đặc trưng nhất vẫn là các chợ nổi Cần

Thơ. Trong các chợ nổi ở Cần Thơ, điển hình nhất là chợ nổi Cái Răng. Chợ nổi

Cái Răng được hình thành khá lâu đời. Nét độc đáo và đặc điểm chính của chợ

nổi Cái Răng là chuyên buôn bán các loại trái cây, đặc sản của vùng đồng bằng

sông Cửu Long. Chợ nổi hình thành được hình thành khá lâu đời - khi đường bộ

Page 130: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

128

và phương tiện giao thông đường bộ chưa phát triển, trong khi đó nhu cầu mua

bán, trao đổi hàng hóa, người ta tụ tập trên sông và bằng các phương tiện như

xuồng ghe, tắc ráng… Ngày nay, dù mạng lưới giao thông đường bộ đã phát triển

rộng khắp nhưng chợ nổi vẫn tồn tại và phát triển ngày một sầm uất hơn, vì đây là

nét văn hóa đặc sắc của Cần Thơ. Do nhu cầu của người đi chợ nên không chỉ có

các xuồng trái cây, nông sản phẩm mà còn có nhiều loại dịch vụ khác, các ghe

hàng di động len lỏi phục vụ khách đi chợ và cả khách tham quan. Nếu như dân

địa phương và các vùng lân cận thường sử dụng các ghe, xuồng trung bình chở

các mặt hàng nông sản đến đây tiêu thụ thì những ghe bầu lớn là của các thương

lái thu mua trái cây tỏa đi khắp nơi, sang tận Campuchia và Trung Quốc. Hòa

mình vào không khí nhộn nhịp của buổi chợ, chúng ta có thể quan sát, tìm hiểu

sinh hoạt của nhiều gia đình thương hồ với nhiều thế hệ chung sống trên ghe. Trải

qua biết bao biến cố lịch sử của vùng đất Cần Thơ, chợ nổi không những không

mất đi mà luôn đổi mới để thích nghi và tồn tại. Ngày nay, cùng với sự phát triển

kinh tế - xã hội, chợ nổi đã được đầu tư phương tiện, đổi mới phương thức hoạt

động theo hướng hiện đại để tương xứng với sự phát triển của thành phố loại I

trực thuộc Trung ương và thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu

Long. Chợ nổi Cái Răng không chỉ là một trong những điểm tham quan lý tưởng,

mà còn là một nét văn hóa rất đặc sắc của Cần Thơ, thu hút rất nhiều du khách,

đặc biệt là khách nước ngoài. Vì vậy, Chợ nổi Cái Răng, Cần Thơ đã đi vào thơ

ca dân gian:

Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng

Ta vẫn chìm từ giữa bữa hoàng hôn

Em treo bẹo Cái Răng Ba Láng

Ta thương hồ Vàm Xáng Cần Thơ

Page 131: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

129

Chợ nổi Cái Răng, thành phố Cần Thơ

Từ những đặc điểm của chợ nổi đã nêu trên, chợ nổi Cái Răng cần được

bảo tồn và phát triển để nổi rõ nét văn hóa đặc trưng của Cần Thơ là “văn hóa

sông nước và văn minh miệt vườn”.

Làng nghề truyền thống cũng là nét văn hóa độc đáo của Cần Thơ.

Được mệnh danh là vùng đất phì nhiêu màu mỡ, sông ngòi chằng chịt, Cần

Thơ mỗi năm sản xuất ra hàng triệu tấn lương thực, trong đó nghề trồng lúa

nước đã phát triển rất lâu đời, đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của

cư dân. Song hành với sự phát triển của nền văn minh lúa nước, việc hình

thành các làng nghề cũng bắt đầu từ những nghề thủ công, chỉ sản xuất ra các

vật dụng chủ yếu phục vụ cho cuộc mưu sinh. Qua thời gian thăng trầm, có

những làng nghề bị mai một dần ở nơi này, nhưng lại được khôi phục ở nơi

khác. Nét văn hóa của các làng nghề vẫn mãi tồn tại, cuốn theo dòng chảy của

cư dân để rồi định hình và không ngừng phát triển.

Nghề thủ công xưa kia của cư dân Cần Thơ ban đầu chưa định hình thành

những làng nghề, chỉ là những nghề phụ trong lúc nông nhàn, sản xuất ra các vật

dụng thiết yếu phục vụ cho đời sống, sinh hoạt hằng ngày, gắn với điều kiện tự

nhiên về địa lý, môi trường của từng nơi. Theo thời gian, những nghề phụ đã thể

hiện được vai trò to lớn của mình, mang lại lợi ích thiết thực, như các vật dụng

Page 132: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

130

từ mây, tre đan, nghề dệt vải, dệt chiếu, nghề chài lưới đánh bắt cá, tôm, nghề

nhào nặn đất sét để làm lò đun nấu, làm lu, khạp... phục vụ cho sinh hoạt hằng

ngày. Nghề rèn, đúc đồ sắt, đồ đồng sản xuất ra công cụ phục cho sản xuất, khai

hoang mở đất, dựng nhà cửa... Nghề phụ từ chỗ phục vụ nhu cầu riêng đã trở

thành hàng hóa mua bán, trao đổi, mang lại lợi ích kinh tế to lớn, đã làm thay

đổi tập quán sản xuất riêng lẻ; từ chỗ một vài gia đình làm, đến nhiều gia đình

khác cũng học làm theo, dần dần lan rộng, hình thành nên những làng nghề.

Cũng chính từ lợi ích kinh tế mang lại, cộng đồng dân cư từng bước xây dựng

nên những làng nghề chuyên sâu, sản xuất hàng hóa mang tính chuyên nghiệp

hơn, sản phẩm làm ra ngày càng tinh xảo mang nét đặc trưng, mà ngày nay nhìn

những sản phẩm ấy, ta có thể nhận biết được xuất xứ của chúng.

Hiện nay, Cần Thơ có hàng chục làng nghề nổi tiếng như Làng đan Lợp

Một làng nghề truyền thống ở Cần Thơ

Dì Tho, làng đan thúng, làng đan lưới Thơm Rơm, làng nắn lò đất sét Bà Rui,

làng làm bánh tráng Thuận Hưng,... với hàng vạn lao động có tay nghề cao,

trong đó có rất nhiều người được xem là nghệ nhân. Sản phẩm làm ra không

chỉ tiêu thụ nội địa, mà đã được khẳng định thị phần trên các thị trường quốc

tế. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm ra từ đôi tay của người thợ, đang được

khách nước ngoài rất ưa chuộng nhờ độ tinh xảo, tính thẩm mỹ... trên mỗi sản

Page 133: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

131

phẩm còn thể hiện nét văn hóa riêng của từng làng nghề. Thương hiệu của

những sản phẩm đang góp phần quảng bá cho du lịch Cần Thơ, một hướng đi

để xây dựng thương hiệu vững mạnh trong quá trình hội nhập, mở ra sự giao

lưu văn hóa với nhiều nước trên thế giới. Cho thấy sự bảo tồn và phát huy văn

hóa truyền thống đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ trên lĩnh vực

văn hóa mà còn mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn, giúp cho việc giải quyết việc

làm, tạo thêm thu nhập cho người thợ thủ công có đời sống ổn định, góp phần

vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, vươn lên khá, giàu... đang là những đòi hỏi

người nghệ nhân, người thợ, các nhà quản lý, cần có một tầm nhìn chiến lược,

“thổi hồn” cho những sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề, ngày càng

đa dạng về mẫu mã, phong phú về tạo hình... để vừa phát triển làng nghề gắn

với phát triển du lịch, một giải pháp tốt nhất để bảo tồn và phát huy năng lực

của các làng nghề truyền thống.

Làng nghề mang đậm nét bản sắc văn hóa của Cần Thơ, cần được bảo

tồn, phát huy mạnh mẽ hơn nữa để làng nghề vươn cao hơn, xa hơn. Làng

nghề cần được quan tâm nhiều hơn của Nhà nước trong xây dựng thương hiệu,

có chính sách quảng bá tốt, gắn với việc phát triển hài hòa giữa du lịch và sản

phẩm du lịch, trong đó bản sắc văn hóa truyền thống phải giữ một vai trò đặc

biệt quan trọng, không bị thương mại hóa. Khuyến khích sự hợp tác giữa các

vùng, giữa các nghệ nhân. Đặc biệt quan tâm đến việc dạy nghề cho đội ngũ

lao động trẻ nắm bắt các kỹ thuật sản xuất truyền thống... Một giá trị không thể

thiếu của các làng nghề.

Vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của Cần Thơ

hiện nay là, đi đôi với việc bảo tồn và phát huy năng lực của các làng nghề

truyền thống, cần gắn kết với việc xây dựng một số ngành sản xuất, dịch vụ trở

thành ngành kinh tế đặc trưng, nổi bật của thành phố có lợi thế cạnh tranh như:

công nghệ phần mềm, dịch vụ y tế, tài chính, ngân hàng, công nghiệp phụ

trợ… Đẩy mạnh chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu ngành nghề

Page 134: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

132

tạo sự phát triển vững chắc cho vùng ngoại thành; phát triển vùng nguyên liệu

tập trung phục vụ công nghiệp chế biến.

Trong hành vi ứng xử văn hóa, truyền thống của người Cần Thơ được

bảo tồn, phát triển một cách sinh động và phong phú nhờ tính hiện đại. Bước

vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, người dân Cần Thơ đang đối mặt

với nhiều khó khăn trong việc lựa chọn những giá trị mới vừa phù hợp truyền

thống của dân tộc vừa đáp ứng xu hướng phát triển của xã hội hiện đại, nhất là

việc lựa chọn hành vi ứng xử trong cuộc sống, trong học tập, công tác và các

mối quan hệ xã hội. Ứng xử như thế nào để được coi là người có văn hóa và

làm thế nào để hướng con người, nhất là giới trẻ tới ứng xử có văn hóa? Ðây là

vấn đề cấp thiết đặt ra, đòi hỏi người dân Cần Thơ cần có sự nhìn nhận nghiêm

túc và khách quan.

Theo quan điểm của nhiều nhà tâm lý học, văn học, ứng xử là một biểu

hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tác động của người

khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua thái độ, hành

vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ

giữa con người với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì bản chất của ứng xử

chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua thái độ, hành

vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những người chung quanh.

Hành vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con

người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con

người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong công việc và môi

trường hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên, hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá

nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và

trưởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội. Hành vi ứng xử văn hóa của con

người, nhất là của giới trẻ Cần Thơ hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau, cần

có cái nhìn khách quan khi đề cập về vấn đề này. Có thể nói, tuổi trẻ ngày nay

phần đông là những con người năng động, có kiến thức rộng, sống có hoài bão

và lý tưởng, thể hiện trách nhiệm với xã hội, với chính bản thân mình, không

Page 135: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

133

ngừng học hỏi vươn lên để dựng xây đất nước. Họ có những cách ứng xử tích

cực, phù hợp với truyền thống, đạo lý dân tộc. Trong nhiều kỳ thi Ô-lim-pích

các môn học, những giải thi đấu thể thao khu vực và quốc tế, nhiều bạn trẻ đã

nỗ lực vươn lên mang vinh quang về cho quê hương Cần Thơ.

Trái với hành vi ứng xử có văn hóa, hiện nay vẫn còn một bộ phận trong

giới trẻ ở Cần Thơ có những hành vi ứng xử thiếu văn hóa: không có ý chí

phấn đấu, sống buông thả, sa đà vào các tệ nạn xã hội: cờ bạc, ma túy, mại

dâm; hiện tượng các bạn trẻ, thậm chí là học sinh trung học phổ thông văng

tục, chửi thề; ngang nhiên vi phạm luật lệ giao thông; có thái độ không đúng

mực với người già; hành động thiếu văn hóa nơi công cộng... còn khá phổ

biến. Ðây hoàn toàn là những biểu hiện của nếp sống xa lạ, sai trái, đi ngược

với truyền thống văn hóa dân tộc. Vì vậy việc giáo dục hành vi ứng xử văn hóa

cho người dân Cần Thơ, nhất là giới trẻ cần được quan tâm đúng mức, với

những việc làm cụ thể và thiết thực để hướng giới trẻ có cách ứng xử văn hóa:

nêu gương những người tốt, việc tốt để làm chuyển biến nhận thức giới trẻ,

phát động các phong trào thi đua trong mọi lĩnh vực để hướng họ vào những

hành động có ích; ngoài ra còn sử dụng những tấm gương gần gũi như bạn bè,

người thân, những tấm gương điển hình cùng trang lứa để tác động lên nhận

thức, tình cảm và nhất là khơi gợi lòng tự trọng của họ; tổ chức các Diễn đàn

thanh niên nói về sống đẹp, sống có ích, sống có văn hóa... Đồng thời, cần có

sự quan tâm đúng mức, hướng dẫn, giúp đỡ và tháo gỡ những khó khăn từ gia

đình để điều chỉnh những hành vi ứng xử không đẹp nảy sinh trong quá trình

giới trẻ tham gia vào những quan hệ xã hội.

Các loại hình nghệ thuật, sân khấu ở Cần Thơ, tính truyền thống cũng

được bảo tồn, phát triển một cách sinh động và phong phú nhờ tính hiện đại

Cải lương ra đời cách đây gần một trăm năm. Ngay từ lúc mới ra

đời, cải lương đã chịu ảnh hưởng có tính chất quyết định của hai dòng sân

khấu: sân khấu tuồng truyền thống của Việt Nam và sân khấu kịch hiện đại

của Pháp. Sân khấu tuồng Việt Nam mang đặc trưng chung của sân khấu

Page 136: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

134

Châu Á là cấu trúc kịch bản, vở diễn theo kiểu tự sự và sân khấu kịch Pháp

mang đặc trưng chung của sân khấu Châu Á là cấu trúc kịch bản. Vì vậy, cải

lương cũng đã có hai kiểu vở diễn rất khác nhau, nhưng cả hai lại có chung

một nguồn âm nhạc. Các bài bản âm nhạc của cải lương đậm chất dân tộc, có

đầy đủ để thể hiện tâm trạng nhân vật với tất cả các trạng thái khác nhau, tạo

điều kiện cho diễn viên ca hát kết hợp với diễn xuất dù biểu diễn theo kiểu

tuồng Việt Nam hay theo kiểu kịch Pháp.

Trong quá trình phát triển, các bài bản cải lương đã được bổ sung thêm

từ nguồn dân ca, hò, lý Nam bộ. Và khi tiếp cận, giao lưu với sân khấu kịch

hát Quảng Đông (Trung Quốc) và tân nhạc của phương Tây, cải lương cũng

đã chọn lọc một số bài bản, dân tộc hóa để làm giàu thêm vốn âm nhạc sẵn

có. Cùng lúc bổ sung thêm các bài bản, dàn nhạc dân tộc của cải lương đã

biết cách tiếp nhận các nhạc cụ hiện đại. Những cây đàn vi-ô-lông, măng-đô-

lin, ghi-ta của phương Tây được các nghệ sĩ Việt Nam sáng tạo để khi chơi

đàn, cung bậc và giai điệu phù hợp với dàn nhạc dân tộc đã có sẵn. Cho tới

nay, cây đàn ghi-ta phím lõm là nhạc cụ chính của cải lương và đã trở thành

cây đàn dân tộc của Việt Nam.

Một thời gian khá dài, hai kiểu biểu diễn trong hai loại vở diễn của cải

lương tồn tại gần như độc lập nhau và cuộc đấu tranh giữa việc giữ gìn bản sắc

dân tộc với việc phát triển hiện đại diễn ra chủ yếu trong lĩnh vực âm nhạc.

Những bài bản sẵn có của cải lương khó về nhạc lý, một số bị trùng lắp

cho nên các nghệ sĩ đã thu ngắn, giảm dần khi sử dụng trên sân khấu, đồng

thời để bù đắp, một số sáng tác mới đã ra đời. Sáng tác mới của các nghệ sĩ ít

hiểu biết về âm nhạc dân tộc dần dần đã làm cho âm nhạc cải lương phai nhạt

bản sắc. Ban đầu còn "tân, cổ giao duyên" nhưng theo thời gian nhạc tân đã

hoàn toàn lấn át nhạc cổ. Không còn hồn nhạc dân tộc, chỉ biết chạy theo cái

mới, nhiều vở diễn cải lương đã bị lai căng, mất gốc.

Các bài bản có sẵn của cải lương chính là sự định hình về âm nhạc.

Trong quá trình tiếp cận cái mới, không thể không căn cứ vào cái đã định

Page 137: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

135

hình, cái đã tạo nên bản sắc dân tộc cho cải lương. Nhưng sự định hình này

không đồng nghĩa với sự cố định, bất di bất dịch vì cải lương đã chứng minh

rằng, các bài bản đó có thể thu ngắn, hoặc có thể từ đó phát triển thêm thành

những bài bản mới (như từ bài Dạ cổ hoài lang phát triển thành bài vọng cổ).

Và như vậy, âm nhạc cải lương đã tạo cho mình một khả năng đặc biệt. Đó là

vừa định hình, vừa phát triển. Nói cách khác, âm nhạc cải lương định hình để

phát triển và phát triển để định hình. Đó cũng chính là mối quan hệ giữa bản

sắc dân tộc và phát triển hiện đại của cải lương xét theo góc độ âm nhạc.

Không nhìn nhận và giải quyết mối quan hệ giữa định hình và phát triển của

âm nhạc, cải lương có tính biện chứng thì khó giữ được bản sắc dân tộc. Nếu

chỉ biết định hình cải lương không đáp ứng được với các yêu cầu mới của

thời đại và nếu chỉ biết phát triển hiện đại thì cải lương sẽ mất gốc, lai căng.

Từ những kinh nghiệm của âm nhạc cải lương đã nêu trên, những

người hoạt động sáng tạo cũng đã nhận ra mối quan hệ giữa truyền thống và

hiện đại khi viết kịch bản và xây dựng vở diễn cho loại hình cải lương. Kế

thừa sân khấu tuồng truyền thống Việt Nam, cải lương được cấu trúc kịch bản

theo kiểu tự sự, mở, thoáng. Trang trí, biểu diễn theo phong cách ước lệ,

tượng trưng tạo điều kiện để diễn viên phát huy tối đa các trình thức biểu diễn

kết hợp múa và hát.

Tiếp nhận sân khấu kịch Pháp, cải lương lại được cấu trúc kịch bản

theo kiểu khép, chặt. Trang trí, biểu diễn theo phong cách tả thực. Diễn viên

đi sâu vào khai thác nội tâm nhân vật phù hợp với các vai diễn khác trong hệ

thống hình tượng chung để làm rõ chủ đề của tác phẩm. Yếu tố múa không

được chú trọng ở dạng vở diễn này dù thể hiện đề tài cổ.

Ở hai kiểu cấu trúc tưởng chừng trái ngược nhau đó, cải lương lại tạo

được vùng giao thoa, tạo được cho mình một kiểu cấu trúc, mở thoáng của

tuồng cùng lúc với cấu trúc khép, chặt của kịch A-ri-xtốt. Được như vậy, vì

cải lương không chỉ kế thừa sân khấu tuồng truyền thống và tiếp nhận sân

khấu kịch hiện đại là hai thực thể độc lập như nhiều người đã làm, mà hai yếu

Page 138: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

136

tố này còn được nhìn nhận và giải quyết như là hai mặt đối lập, tồn tại thống

nhất, biện chứng trong một tác phẩm. Và sự thống nhất biện chứng giữa hai

yếu tố kế thừa truyền thống của sân khấu tuồng và yếu tố tiếp nhận hiện đại

của sân khấu kịch sẽ tạo điều kiện cho sân khấu kịch, sân khấu cải lương luôn

luôn phát triển hiện đại mà vẫn giữ trong nó bản sắc của sân khấu dân tộc.

Theo quan niệm này, trong một tác phẩm (kịch bản, vở diễn) cải lương

luôn bao gồm hai yếu tố truyền thống và hiện đại tồn tại trong sự thống nhất

biện chứng và trong một tác phẩm âm nhạc cải lương luôn bao gồm hai yếu

tố định hình và phát triển tồn tại trong sự thống nhất biện chứng.

Có như vậy, trong quá trình phát triển cả về biểu diễn và âm nhạc, cải

lương luôn giữ trong mình tố chất dân tộc với bản sắc riêng. Và bản sắc dân

tộc có được bao nhiêu tùy thuộc vào bản lĩnh những người sáng tạo giải quyết

các mối quan hệ biện chứng đã được đề cập trong từng tác phẩm.

Khái quát lại, cải lương ra đời cách nay khá lâu và xuất hiện khá sớm ở

Cần Thơ. Cái tên cải lương được bắt nguồn từ hai câu liễn: "Cải cách hát ca

theo tiến bộ, Lương truyền tuồng tích sánh văn minh" đã khẳng định được ý

chí quyết tâm đổi mới, niềm tự cường dân tộc, sự sáng tạo của những người

xây dựng nên môn nghệ thuật này. Cải lương hiện nay có sự kế thừa cải

lương trước đây, nó đổi mới, phong phú nhờ tính hiện đại. Trong quá trình

phát triển, các bài bản cải lương đã được bổ sung thêm từ nguồn dân ca, hò,

lý Nam bộ; từ chỗ chỉ có ca cổ phát triển lên thành tân cổ giao duyên. Nội

dung từ tuồng tích đơn thuần, mang tính nhân bản và giá trị nhân đạo hàm

chứa trong hình tượng những nhân vật điển hình cần cù và giàu đức hi sinh,

nhân ái, vị tha với bà con, đồng bào và quyết liệt, khẳng khái, dũng mãnh

trước kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc... Ngày nay nội dung tuồng tích gắn

với việc tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật

của Nhà nước, đã làm cho sắc điệu cải lương thêm gần gũi với cuộc sống

đương đại. Chính việc đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới phát sinh từ hiện

thực cuộc sống đã là động lực thúc đẩy việc phát triển, nâng cao trình độ sáng

Page 139: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

137

tạo của các nghệ sĩ và đương nhiên, mặt bằng thẩm mỹ của nghệ thuật cải

lương cũng ngày càng được nâng cao hơn.

Đờn ca tài tử, đến nay chưa có một công trình khoa học nào được

nghiên cứu chính thức để xác định loại hình ca nhạc tài tử bắt đầu hình thành

từ lúc nào, nơi đâu là vùng đất sản sinh ra nó mà chỉ qua một số tài liệu, sách

báo được biết là phong trào ca nhạc tài tử có từ khoảng đầu thế kỷ XX trên

vùng đất Bến Nghé, Đồng Nai và về sau này, phong trào ca nhạc tài tử tập

trung nở rộ ở vùng sông nước miền Tây Nam bộ nói chung và Cần Thơ nói

riêng. Rất nhiều các nghệ sĩ, nhạc sĩ sân khấu cải lương, các danh ca, danh

cầm trong làng cổ nhạc đến nay còn lưu danh đã xuất thân từ phong trào ca

nhạc tài tử ở vùng quê sông nước hữu tình này. Nhạc tài tử được kế thừa, cải

biên và phát triển trên cái nền của nhạc lễ cung đình, từ cơ cấu dàn nhạc

(nhạc cụ) cũng như việc sử dụng bài bản âm nhạc. Ngoài ra, trong quá trình

hình thành và phát triển đó, nhạc tài tử từng bước được bổ sung thêm nhạc cụ

cũng như bài bản mới càng làm phong phú, đa dạng và hấp dẫn hơn loại hình

ca nhạc mang đậm bản sắc của vùng đất trù phú thấm đượm mồ hôi, nghị lực

và tâm hồn của cộng đồng người Việt ở Cần Thơ.

Theo các bậc lão thành trong làng ca nhạc tài tử - cải lương kể lại, Cần

Thơ là nơi tập trung nhiều nghệ sĩ tên tuổi được xếp vào hàng đầu của những

danh ca, danh cầm mà trong giới mộ điệu tài tử, cải lương trong cả nước đều

biết tiếng. Đó là các nghệ sĩ, những con chim đầu đàn của nền nghệ thuật sân

khấu cải lương mà ngay từ lúc mới khai sinh, tên tuổi của họ đã sáng chói, hầu

hết đều xuất thân từ phong trào ca nhạc tài tử, như: nghệ sĩ Bảy Nhiêu, đệ nhất

danh ca Út Trà Ôn (Trà Ôn xưa thuộc tỉnh Cần Thơ) một danh hiệu mà ngót

một phần hai thế kỷ ông đã được người đời phong tặng. Ông cũng được Nhà

nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân…

Gần ngót thế kỷ trôi qua, từ những giọng hò, hát dân ca, hát lý huê tình

đến những giọng ca tài tử rồi thành nghệ sĩ sân khấu cải lương, đất Cần Thơ

Page 140: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

138

luôn là nơi xuất hiện nhiều nhân tài, các soạn giả, nhạc sĩ, danh ca, danh cầm

làm rạng danh truyền thống đất Tây Đô.

Đờn ca tài tử là bản sắc văn hóa của Cần Thơ

Ngay từ những ngày đầu mới hình thành phong trào ca nhạc tài tử đã

nhanh chóng phát triển rộng khắp đất Cần Thơ từ sông nước, ruộng đồng đến

vườn cây, bến chợ. Trong bối cảnh đất nước đắm chìm trong bóng đen nô lệ

dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, loại hình nghệ thuật dân tộc này

còn mang tính tự phát, dân hát để dân nghe. Các buổi ca nhạc tài tử thường

được tổ chức trong những đám tiệc: cưới, giỗ, mừng thọ, thỉnh thoảng trong cả

những đám tang… Khi khuya về, vắng khách, lúc công việc đám tiệc bộn bề

tạm xong chờ sáng… là đám đờn ca lại trỗi lên phục vụ mọi người. Hoặc sau

những ngày lao động đồng áng mệt nhọc, tối lại, họ tụ họp nhau đờn ca bên

tách trà, chung rượu. Thỉnh thoảng có việc hội hè đám tiệc lớn, các ban tài tử

các địa phương trong vùng hẹn hò nhau phối hợp đờn ca để trao đổi tay nghề,

đôi khi cũng ngầm ý so tài cao thấp trong ngón đàn, nhịp ca, bài nhiều, bản ít.

Những “cuộc chơi” như vậy thường thu hút đông đảo nhân dân đến xem, tán

thưởng! Sau những cuộc so tài, các nhóm trở về rèn luyện thêm tay đàn, giọng

hát chờ ngày gặp lại. Ngoài hình thức hoạt động kể trên, ca nhạc tài tử còn

được các nhà giàu, phú hộ, thầy thông, thầy phán, hội đồng gọi đến để đờn ca

phục vụ trong những cuộc dạ hội, liên hoan, thăng quan, tiến chức…

Page 141: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

139

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, loại hình ca nhạc

tài tử được tham gia vào công cuộc cách mạng như một binh chủng trên mặt

trận văn hoá, văn nghệ. Các bài ca được sáng tác mới theo các làn điệu nhạc tài

tử nhằm động viên tinh thần yêu nước, chí quật cường, truyền thống lịch sử oai

hùng, gương chiến đấu dũng cảm quên mình, hy sinh của đồng bào chiến sĩ

được trình diễn có tổ chức trong các cuộc mitting, các ngày lễ lớn trên sân

khấu…Và cũng từ trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại này, phong trào ca nhạc

tài tử đã trở thành “lò đào tạo” đội ngũ soạn giả, ca sĩ, nhạc sĩ cổ nhạc để bổ

sung cho sân khấu cải lương ngày càng hùng hậu, phong phú và đa dạng hơn.

Ngày nay, mỗi xã, mỗi ấp của vùng nông thôn Cần Thơ đều hình thành

các nhóm ca nhạc tài tử. Mỗi huyện đều có đội thông tin lưu động mà bộ môn

ca cổ luôn là ưu thế mũi nhọn để đưa nội dung các chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước đến với nhân dân một cách kịp thời. Đến thành phố Cần Thơ,

đi tới đâu chúng ta cũng bắt gặp những tụ điểm “hát với nhau”, “đờn ca tài tử”

ở từng khu phố, phường, xã; đặc biệt là vào ban đêm, những con thuyền văn

hoá chạy ngược xuôi trên dòng sông Hậu, với những bài ca vọng cổ đi vào

lòng người. Vì vậy, sân khấu cải lương, phong trào đờn ca tài tử là hoạt động

văn hóa hấp dẫn thu hút đông đảo người dân tham gia. Nếu như trước đây, nội

dung của bài ca tài tử được sáng tác nhằm động viên tinh thần yêu nước, chí

quật cường, truyền thống lịch sử oai hùng, gương chiến đấu dũng cảm quên

mình, hy sinh của đồng bào chiến sĩ; lên án bọn ngoại xâm, vạch mặt bọn tay

sai bán nước; thì ngày nay, loại hình đờn ca tài tử được hiện đại hóa, thông qua

những bài bản đờn cả tài tử nhằm tuyên truyền, giáo dục người dân chấp hành

tốt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, ca

ngợi tình yêu quê hương, đất nước, tuyên dương những gương người tốt, việc

tốt, phát động các phong trào hành động cách mạng ở địa phương; đồng thời

phê phán, lên án những cái xấu, cái tiêu cực trong đời sống xã hội, hướng con

người đến giá trị chân - thiện - mỹ.

Page 142: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

140

Có thể khẳng định rằng phong trào ca cổ, đờn ca tài tử, hát với nhau là

loại hình nghệ thuật đặc sắc không những của thành phố Cần Thơ mà của cả

vùng Tây Nam bộ cần được bảo tồn, phát triển.

Giáo sư Trần Văn Khê nhận xét: “... chân phương hoa lá trong bài vọng

cổ đã được áp dụng một cách thần tình. Hoa chẳng những đẹp mà còn thơm.

Lá chẳng những xanh mà còn tươi. Thành ra bản Vọng cổ có cái tươi mát, cái

đẹp đẽ, có cái phong phú, cái dồi dào mà sức sống, sức đóng góp của tất cả

những người nghệ sĩ, từ đứa con của bác Sáu Lầu sáng tạo, nuôi dưỡng cho nó

lớn lên mạnh mẽ, nó đẹp đẽ...”.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá địa

phương đang được dấy lên ở hầu hết các miền quê, phố chợ. Ca nhạc tài tử

cũng như nhiều loại hình văn nghệ truyền thống xưa của đất Tây Đô đang ngày

được nâng niu, chăm sóc để truyền lại cho các thế hệ mai sau, để tự hào, tự tôn

trong thời kỳ mở cửa giao lưu, hội nhập với văn hóa bên ngoài.

2.2.2. Sự mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình

phát triển văn hóa ở Cần Thơ

Theo quan điểm của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, mâu thuẫn

“truyền thống và hiện đại” phát sinh, một khi tính chính thống đưa đến bảo thủ,

trở thành hàng rào cảng, trở thành hủ hóa. Ngược lại nếu hiện đại không đưa ra

được một nội dung có ý nghĩa cho cuộc sống văn hóa tiên tiến, nếu hiện đại làm

nghèo nội dung nhân bản của con người, hiện đại sẽ bị đào thải và loại bỏ ra

ngoài tính liên tục, không thể trở nên “truyền thống” cho tương lai.

Nhìn từ khía cạnh tính liên tục và tính nhất thể, mâu thuẫn “truyền thống

và hiện đại” trước hết là mâu thuẫn giữa hai hay nhiều thế hệ. Làm thế nào để

thế hệ đi sau chấp nhận và kế tục truyền thống văn hóa của người đi trước, để

truyền thống ấy có một ý nghĩa hiện đại và đóng góp vào sự phát triển xã hội?

Mỗi chặng đường, mỗi thế hệ trong hiện tại sẽ trở thành quá khứ cho tương lai,

văn hóa sống động hôm nay sẽ trở thành hôm qua của ngày mai. “Truyền

thống” do đó bao gồm phương thức thực hiện cho được sự chuyển tiếp sức

Page 143: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

141

sống hiện đại cho thế hệ hiện tại và tương lai. Ðó là ý nghĩa sinh động của

truyền thống, chống lại mọi khuynh hướng rập khuôn, sao chép sáo rỗng cũng

như khuynh hướng bắt chước, lặp lại, tùy tiện sử dụng nhầm lẫn loại hàng phế

thải thay thế sản phẩm văn hóa đầu tay.

Mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn

hóa ở Cần Thơ được biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau:

Sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân

dân đối với vai trò của văn hóa, làm cản trở sự phát triển của cái mới, cái

hiện đại

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong quá trình đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Cần Thơ trở thành thành phố văn minh,

hiện đại, xanh, sạch, đẹp, là thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông

Cửu Long, nhiều cấp uỷ đảng từ thành phố đến cơ sở, ngành, đơn vị và nhân

dân đã nhận thức đúng vị trí, vai trò của văn hóa; từ đó đã tạo sự chuyển biến

mạnh mẽ, thường xuyên trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và quản lý nền văn

hóa trong thời kỳ mới. Nhận rõ tính phức tạp của hoạt động văn hóa trong điều

kiện cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế hiện nay, có nhiều chính

sách cụ thể, thiết thực để khuyến khích văn hóa phát triển. Nhờ vậy mà Cần

Thơ có nhiều đổi mới về mọi mặt, trong đó có việc xây dựng đời sống văn hóa.

Từ thành phố, quận, huyện đến các vùng nông thôn rộng lớn, đâu đâu cũng có

những hoạt động văn hóa sôi nổi, làm cho bộ mặt nông thôn không ngừng đổi

mới, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên.

Sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân

đối với vai trò của văn hóa, làm cản trở sự phát triển của cái mới, cái hiện đại,

được biểu hiện: còn không ít cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên,

trong đó có cả cán bộ lãnh đạo chưa nhận thức đúng vai trò của văn hóa đối

với phát triển, cho rằng văn hóa là lĩnh vực đứng ngoài kinh tế, văn hóa là lĩnh

vực không sinh lợi; chưa thật sự coi trọng các giá trị văn hóa, chưa thấy tính

cấp bách của công tác văn hóa trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới đất nước; công

Page 144: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

142

tác văn hóa còn xếp vào vị trí thứ yếu và chưa thật sự gắn kết hữu cơ với các

nhiệm vụ phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng, chỉnh

đốn đảng trên từng địa bàn. Thậm chí còn buông lỏng, khoán trắng cho ngành

văn hóa. Những biểu hiện hữu khuynh, cực đoan trong lãnh đạo, quản lý văn

hóa chưa được khắc phục. Từ đó làm cản trở sự phát triển của cái mới, cái hiện

đại, cản trở sự phát triển của thành phố, dẫn đến sự phát triển của văn hóa chưa

đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây

dựng và chỉnh đốn đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá

trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng đảng. Để khắc phục sự tụt hậu

này, đòi hỏi cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, cán bộ, đảng viên và nhân dân

Cần Thơ cần đổi mới nhận thức, cần nhận thức đúng đắn vai trò của văn hóa,

phải thật sự xem văn hóa là nguồn lực nội sinh của mọi sự phát triển, là cơ sở

cho sự phát triển lâu bền, toàn diện; văn hóa không chỉ gắn liền với kinh tế,

phát triển văn hóa không chỉ là điều kiện cho sự phát triển kinh tế, mà hơn thế,

phát triển văn hóa cùng với phát triển kinh tế đều phải hướng tới phát triển xã

hội, phát triển con người, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân

chủ công bằng, văn minh. Lịch sử phát triển xã hội chính là lịch sử hoạt động

của con người theo đuổi các mục đích của chính mình(C.Mác). Mục đích cao

nhất của loài người là xây dựng một xã hội văn hóa cao (Hồ Chí Minh). Văn

hóa là sức mạnh bản chất Người. Văn hóa vừa là những giá trị trừu tượng như

tinh hoa xã hội, tinh hoa dân tộc, thời đại, đồng thời nó cũng tồn tại cụ thể

trong mỗi con người, trong tập thể, trong một cộng đồng người. Mỗi cá nhân,

mỗi tập thể, mỗi cộng đồng là một chủ thể mang sức mạnh và tiềm năng văn

hoá. Cùng với hệ thống các giá trị phong phú, đa hình, đa dạng của văn hóa,

bằng trình độ và kỹ năng lao động sáng tạo của chính mình, các chủ thể mang

tiềm năng văn hóa đã và sẽ tạo ra các giá trị mới, làm nên sự giàu có mới cho

xã hội, thúc đẩy xã hội không ngừng đi lên.

Bản thân văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cộng đồng, dân

tộc được nâng lên thành các hệ giá trị truyền thống, thành chủ nghĩa yêu

Page 145: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

143

nước, thành tinh thần nhân văn, thành ý chí và niềm tin, tạo nên sức sống

bất diệt của dân tộc và trở thành sức mạnh phát triển bên trong bền vững

của dân tộc, của đất nước. Các giá trị văn hóa cũng được nâng lên thành

thế giới nghệ thuật, nơi chứa đựng tâm tư, tình cảm, lý tưởng, khát vọng và

ý chí, tài năng của loài người, vạch hướng cho con người phấn đấu vươn

tới xã hội cao đẹp. Toàn bộ những cái đó chính là sức mạnh văn hóa biến

thành công cụ, vũ khí chiếm lĩnh thiên nhiên, cải tạo xã hội, sáng tạo ra thế

giới mới; làm nên xã hội hiện đại, sáng tạo ra một thế giới của tương lai,

mà con người cần phải có [35, 342]. Văn hóa chung của một dân tộc hóa

thân thành văn hóa lao động, nâng cao hiệu quả lao động, tạo ra những sản

phẩm lao động có chất lượng tốt với hàm lượng trí tuệ cao.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) chỉ rõ năm quan điểm

chỉ đạo cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa nước

ta là: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động

lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nền văn hóa mà chúng ta đang xây

dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam

là nền văn hóa thống nhất, đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,

trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng. Văn hóa là một mặt trận;

xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi

phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng”.

Có đổi mới nhận thức về văn hóa, nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm

quan trọng của văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại

trong quá trình phát triển văn hóa, đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, các cấp

lãnh đạo của thành phố Cần Thơ mới đủ sức hoạch định đúng đắn đường lối

chiến lược phát triển thành phố, đề ra mục tiêu, phương hướng phát triển văn

hóa phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, với lý tưởng nhân văn, và

điều quan trọng hơn, nó là hiện thân của khoa học - nghệ thuật chính trị. Và

nếu chỉ dừng lại ở nhận thức thì chưa đủ, mà cần phải biến những nhận thức đó

Page 146: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

144

thành hành động cụ thể của các cấp lãnh đạo thành phố Cần Thơ, đưa nội dung

văn hóa (phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa) vào

nghị quyết các kỳ đại hội đảng bộ các cấp; chương trình, kế hoạch phát triển

văn hóa hàng năm; đồng thời đầu tư đúng mức cho phát triển văn hóa, bảo đảm

cho thành phố Cần Thơ phát triển nhanh và bền vững.

Mâu thuẫn giữa bộ máy tổ chức, quản lý, mô hình, nội dung, phương

thức và các thiết chế văn hóa cũ với yêu cầu phát triển nền văn hóa mới ở

Cần Thơ

Theo báo cáo của Cục Thống kê thành phố Cần Thơ, dự báo đến năm

2015 dân số toàn thành phố khoảng 1,3 triệu người, trong đó dân số nội thành

khoảng 700 ngàn người. Lối sống của một bộ phận nông dân ở các quận,

huyện vừa chuyển đổi đơn vị hành chính chậm hòa nhập vào đời sống đô thị.

Vì vậy, những mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong gia đình, cộng

đồng là vấn đề cần phải giải quyết “theo lý, theo tình”. Hiện nay, một vấn đề

bức xúc đặt ra cho Cần Thơ là: đôi khi kinh tế phát triển, lại phát sinh mâu

thuẫn với việc bảo tồn các giá trị truyền thống. Cho nên công tác bảo tồn, phát

huy các giá trị văn hóa dân tộc (vật thể hoặc phi vật thể) ở Cần Thơ càng phức

tạp hơn, khi nhiều “giá trị cũ” nhanh chóng được thay thế theo đà sự phát triển

của đô thị hiện đại.

Một số mô hình, nội dung, phương thức hoạt động văn hóa và phong

trào xây dựng đời sống văn hóa truyền thống hàng chục năm qua ở Cần Thơ sẽ

không còn phù hợp, đòi hỏi phải có sự sáng tạo, chuyển đổi nhịp nhàng với

trào lưu mới của một thành phố công nghiệp, thương mại, dịch vụ tiến dần đến

sự hội nhập vào nếp sống văn minh đô thị, đời sống thị dân, công nhân, trí

thức, doanh nhân...v.v.

Khi Việt Nam gia nhập WTO, ngành văn hóa thông tin của cả nước nói

chung và Cần Thơ nói riêng vừa có thêm những điều kiện thuận lợi mới, vừa

phải đối phó với những thách thức, khó khăn mới. Làm thế nào để văn hóa

cũng sẵn sàng hội nhập và theo kịp bước phát triển của kinh tế, nếu không sự

Page 147: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

145

phát triển sẽ mất cân đối, Cần Thơ sẽ không theo kịp đà phát triển chung của

cả nước và các nước trên thế giới.

Nhìn vào thực trạng ngành văn hóa thông tin thành phố Cần Thơ hiện

nay, các đơn vị sự nghiệp vẫn chưa đủ điều kiện và chưa sẵn sàng cho bước

chuyển đổi sang đơn vị cung ứng dịch vụ. Điều này phản ánh tư tưởng còn

nặng bao cấp, sự thụ động trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức của

ngành văn hóa thông tin Cần Thơ. Đối với đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp

duy nhất ở Cần Thơ là đoàn cải lương Tây Đô vẫn còn bế tắc trong phương

hướng bảo tồn và phát triển nghệ thuật cải lương. Hoạt động của đơn vị nghệ

thuật này thụ động, đơn điệu, thiếu tính sáng tạo nghệ thuật. Như vậy, trong

tương lai Cần Thơ xây dựng nhà hát nghệ thuật tổng hợp, nhất định khó khăn

sẽ nhiều hơn.

Theo Chương trình phát triển văn hóa đến năm 2015 của Sở Văn hóa -

Thể thao - Du lịch thành phố Cần Thơ, dự báo tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực

của ngành văn hóa thông tin hiện nay và khả năng trong một tương lai gần khó

đáp ứng nhu cầu phát triển sự nghiệp văn hóa của thành phố. Đáng chú ý là sự

thiếu hụt các dạng loại cán bộ, chuyên gia có tầm nhìn, có tư duy mới, có năng

lực tổ chức thực hiện, có trình độ phát hiện và tổng kết thực tiễn. Đây là những

loại cán bộ có tính đặc thù, chưa có trường nào đào tạo.

Hệ thống thiết chế văn hóa của thành phố còn nhiều bất cập, sau khi

chia tách tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ trực thuộc

Trung ương; nhiều quận, huyện mới ra đời nhưng thành phố chưa xây dựng

kịp thời cơ sở vật chất, trang thiết bị. Trong những năm qua, chỉ có 1/8 quận,

huyện có cơ sở “Trung tâm văn hóa”; 2/8 đơn vị có xe thông tin, 2 thuyền văn

hóa trước đây không còn sử dụng được. Mặt khác, dự án “trung tâm văn hóa

Tây Đô”, bao gồm cả các cơ sở mới như thư viện, nhà hát… đã triển khai

nhưng chưa thể bảo đảm thời gian nào sẽ xây dựng, hoàn thành. Trong khi đó,

thực tế tình hình đang đòi hỏi phải nhanh chóng mở rộng các hoạt động, đáp

ứng nhu cầu xã hội.

Page 148: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

146

Mâu thuẫn giữa một số phong tục tập quán và các hình thức sinh

hoạt văn hóa tinh thần (lễ hội, tôn giáo… ) lạc hậu, lỗi thời với yêu cầu phát

triển mới của nền văn hóa ở Cần Thơ. Sự mâu thuẫn giữa truyền thống và

hiện đại trong văn hóa chính là các biểu hiện của phong tục, tập quán lạc hậu,

lỗi thời làm cản trở sự phát triển xã hội mới.

Trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, nhờ sự kết hợp biện

chứng giữa truyền thống và hiện đại; trong đó truyền thống là cơ sở, là tiền đề,

của hiện đại; còn hiện đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống mà

văn hóa Cần Thơ đã đạt được những những kết quả đáng tự hào: các phong

trào hành động cách mạng đã được thực hiện tốt, nhận thức chính trị tư tưởng,

đạo đức và lối sống trong đảng và xã hội có những chuyển biến tích cực. Các

biểu hiện tiêu cực, yếu kém, thoái hoá, biến chất trong đảng được ngăn chặn;

những giá trị văn hoá, phẩm chất đạo đức mới được xã hội đề cao, thể hiện ở

bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật, niềm tin vào sự lãnh

đạo của đảng được củng cố; tâm trạng hoài nghi, bàng quan về chính trị bị đẩy

lùi; trong đó, những đức tính của con người Cần Thơ được chú ý xây dựng phù

hợp với những chuẩn mực xã hội trong thời kỳ mới, làm thay đổi những tập

quán lạc hậu lâu đời, hình thành nếp nghĩ, nếp sống có văn hóa hơn, chống lại

ảnh hưởng của văn hóa phẩm độc hại, lối sống lai căng, thực dụng; bảo vệ và

giữ gìn một cách tốt nhất các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, văn

hóa địa phương. Cán bộ, đảng viên năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,

gắn bó với dân và được dân tin tưởng, tín nhiệm.

Mâu thuẫn giữa một số phong tục tập quán và các hình thức sinh hoạt

văn hóa tinh thần (lễ hội, tôn giáo… ) lạc hậu, lỗi thời với yêu cầu phát triển

mới của nền văn hóa ở Cần Thơ được biểu hiện cụ thể trên các mặt: những tập

tục, những yếu tố lạc hậu, phản tiến bộ; tục lệ cưới xin, ăn uống linh đình đang

quay trở lại với nhiều mức độ khác nhau; hủ tục về ma chay còn tồn tại khá

nặng nề ở một số nơi. Trong lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng - tôn giáo cũng đang

bị lợi dụng, làm cho nạn mê tín dị đoan tăng lên, niềm tin và đạo lý bị xói mòn.

Page 149: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

147

Cần Thơ đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ thì những phố cổ, nhà cổ là

di sản văn hóa truyền thống và nếu hôm nay để mất đi, vài chục năm sau thế hệ

hậu sinh lại phải phục hồi như bài học của các nước phát triển đã từng mắc

phải. Thế nhưng từ góc độ người dân sống trong nhà cổ, phố cổ, việc giữ lại

nhà cổ của họ luôn mâu thuẫn với nguyện vọng được sống trong những ngôi

nhà cao tầng, rộng rãi, thoáng mát. Sự phát triển của đô thị chắc chắn dẫn đến

giảm đáng kể đất nông nghiệp, vậy “tình làng nghĩa xóm” của nông thôn xưa

sẽ có nhiều thay đổi khi xã thành phường, huyện thành quận, người nông dân

từ giã cày cuốc để thành thị dân. Trong văn hóa nghệ thuật cũng không ít ý

kiến bàn về truyền thống và hiện đại. Người bảo nên giữ những loại hình

truyền thống như đờn ca tài tử hoặc cải lương như một dạng bảo tàng và sân

khấu hiện đại chịu trách nhiệm những vấn đề phản ánh hiện tại.

Kinh tế Cần Thơ phát triển với tốc độ khá nhanh, đời sống nhân

dân ngày được nâng cao, nhưng văn hóa phát triển chưa tương xứng với

kinh tế; là thành phố trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long, nhưng

chưa có tác phẩm văn học nào đủ tầm cỡ để phản ánh hiện thực đầy sôi

động này. Những làng nghề truyền thống của Cần Thơ quả là niềm tự hào

của cả người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng nghề truyền

thống đang có nguy cơ mai một dần khi mà kinh tế thị trường với những

vật dụng làm ra từ máy móc hiện đại, giá rẻ có thể bóp chết hàng thủ

công được sinh ra trực tiếp từ bàn tay khéo léo của con người để mỗi sản

phẩm mang một dáng vẻ riêng (gốm mỹ nghệ, may thêu...). Rõ ràng là Cần

Thơ có rất nhiều mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong lĩnh vực văn

hóa cần giải quyết.

Thời gian qua, đã có nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm về mối quan hệ giữa

truyền thống và hiện đại, nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề liên quan đến truyền

thống văn hóa và hiện đại với những mâu thuẫn cần giải quyết, cần tiếp tục

thảo luận thêm. Chẳng hạn như quan hệ trong gia đình hiện nay như quan hệ

cha con, ông cháu, vợ chồng, dâu con cũng là quan hệ không đơn giản khi lớp

Page 150: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

148

trẻ, người phụ nữ hôm nay tham gia công tác xã hội nhiều hơn và quan niệm

ứng xử của các thành viên trong gia đình cũng khác trước. Giữ nguyên những

ứng xử truyền thống hay hiện đại, tiên tiến cho phù hợp với thời đại? Vấn đề

này cần được nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan: quá trình công

nghiệp hóa - hiện đại hóa đã và đang tạo ra những áp lực lớn đối với mưu sinh

và tồn tại của các tầng lớp dân cư. Nhu cầu làm giàu, nhu cầu phát triển công

việc là chính đáng, song nó cũng có mặt trái là làm thu hẹp quỹ thời gian cá

nhân, cuốn con người vào vòng xoáy của đồng tiền và lối sống thực dụng, làm

rạn nứt tình cảm gia đình, cộng đồng làng xã vốn được xem là những mối quan

hệ điển hình và đặc trưng của xã hội truyền thống Cần Thơ. Cường độ giao

tiếp của con người không còn bị giới hạn trong phạm vi gia đình mà hướng ra

ngoài xã hội với những biểu đồ quan hệ chằng chịt, phức tạp dựa trên chức

năng nghề nghiệp và vai trò xã hội. Trong điều kiện đó, việc giáo dục con cái

hiện nay không giống như trong xã hội truyền thống. Nhiều ý kiến cho rằng

giáo dục con cái bây giờ khó hơn trước đây nhiều. Trong một xã hội "mở" như

hiện nay, cha mẹ cần phải liên tục thích nghi để có phương pháp giáo dục con

cái phù hợp. Sự hỗ trợ của những dịch vụ xã hội và phát triển khoa học kỹ

thuật đã đem lại cho con người cuộc sống thoải mái và tiện nghi hơn nhưng

ảnh hưởng và tác động của nó trong việc suy giảm và tăng cường đời sống sinh

hoạt gia đình là không nhỏ. Quan hệ gia đình vốn được đặc trưng bởi quan hệ

tình cảm, trực tiếp nay đã và đang có xu hướng trở thành quan hệ gián tiếp và

lỏng lẻo hơn. Bên cạnh những tác động tích cực như nâng cao đời sống sinh

hoạt gia đình, giảm bớt gánh nặng cho người phụ nữ và tạo được sự độc lập, tự

chủ mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình thì sự eo hẹp về thời gian,

sự phát triển của các loại hình dịch vụ xã hội đang đe dọa những giá trị truyền

thống và ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của gia đình.

Như vậy, rõ ràng quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa không chỉ đơn

thuần là quá trình tăng trưởng về lượng mà cả một sự thay đổi về chất đang

diễn ra và tác động trực tiếp và gián tiếp đến đời sống sinh hoạt gia đình.

Page 151: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

149

Trong bối cảnh đó, mỗi thành viên trong gia đình cần có ý thức về thời gian

dành cho gia đình, đặc biệt là thời gian cha mẹ dành cho con cái.

Chuyện tâm linh cũng là một khía cạnh văn hóa. Nhiều người cho rằng

chuyện tâm linh là vớ vẩn khi khoa học kỹ thuật hôm nay có thể giải thích

được mọi hiện tượng, nhưng cũng có người cho rằng chưa biết thần thánh có

thật hay không nhưng khi con người biết sợ những đấng vô hình thì khi dù

không ai biết cũng không dám làm những việc trái với lương tâm, trái với đạo

lý, bởi người không biết nhưng trời biết, đất biết, và lưới trời lồng lộng, mọi

hành vi tội ác đều phải trả giá.

Ngoài các mâu thuẫn vừa nêu trên, truyền thống và hiện đại trong văn

hóa ở Cần Thơ còn có những mâu thuẫn sau:

Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng phổ biến và

mang đậm bản sắc dân tộc, là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa phi

vật thể, làm giàu và phát huy giá trị nền văn hóa dân tộc. Lễ hội phản ánh

những sinh hoạt, những khát vọng cùng tài năng của nhân dân về nhiều mặt

của đời sống, đồng thời thông qua lễ hội, trí tuệ, đạo lý, tình cảm, khuynh

hướng thẩm mỹ của nhân dân được nâng lên.

Những năm qua khi Cần Thơ chuyển mình mạnh mẽ trong tiến

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đời sống vật chất và

tinh thần của đại bộ phận nhân dân được nâng cao, do đó tham gia lễ hội đã trở

thành một nhu cầu chính đáng, có ý nghĩa lớn. Nhu cầu tổ chức lễ hội đã lan

tỏa ở hầu hết các địa phương trong thành phố như: năm du lịch quốc gia

Mêkong - Cần Thơ, với chủ đề “Miệt vườn sông nước Cửu Long; “Cần Thơ -

Đêm hội hoa đăng”; “Tuần văn hóa Việt Nam - Nhật Bản”; Festival thủy sản

Việt Nam - Cần Thơ. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội có nhiều chuyển biến

theo hướng tích cực: vừa giữ gìn, phát triển những nét đẹp văn hóa truyền

thống, vừa kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố hiện đại, phát huy được tác

dụng tích cực của lễ hội, nêu cao ý nghĩa giáo dục truyền thống. Lễ hội đáp

ứng một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân

Page 152: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

150

trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội, bảo tồn và phát huy

các giá trị văn hóa của các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer, tri ân công đức các anh

hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền bối đã có công dựng nước và

giữ nước, đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua sinh hoạt lễ hội nhân dân được

hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Việc tổ chức có hiệu quả các hoạt động lễ

hội còn có tác dụng khai thác tiềm năng du lịch, tạo nguồn thu lớn bổ sung cho

nguồn thu ngân sách thành phố. Lễ hội cũng góp phần tích cực trong việc giao

lưu với các nền văn hóa trong khu vực và thế giới.

Sự mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong lễ hội chính là sự

mâu thuẫn giữa những mặt tích cực vừa được trình bày ở phần trên và

những mặt tiêu cực của nó, đó là: không ít những hiện tượng thiếu lành

mạnh xuất hiện tại một số lễ hội như mua bán lấn chiếm lòng lề đường,

nâng giá dịch vụ tùy tiện, ăn xin, trộm cắp... và điều đáng lo ngại nhất là

sự phai mờ, xói mòn những giá trị, bản sắc của các lễ hội truyền thống. Ở

đây thách thức cơ bản không chỉ là những tác động tiêu cực của nền kinh

tế thị trường mà còn ở sự chuyển đổi các giá trị. Trong khi trước đây các

giá trị tinh thần và yêu cầu thực hiện nếp sống văn minh văn hóa trong lễ

hội được coi trọng thì hiện nay đã xuất hiện tư tưởng trục lợi, thương mại

hóa hoạt động dịch vụ phục vụ lễ hội, làm cho các giá trị vật chất lấn át giá

trị văn hóa truyền thống và đạo đức.

Việc phát triển loại hình lễ hội du lịch là một xu thế tất yếu, nhưng

do chưa dự báo kịp thời, chưa có sự quan tâm đúng mức, đầu tư đồng bộ

và thiếu tính toán khoa học dẫn đến phá vỡ cảnh quan thiên nhiên và các

giá trị vốn có của các di tích. Trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở

cơ sở hiện nay, kế thừa truyền thống tinh hoa văn hóa dân tộc là yêu cầu

tất yếu, song việc kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống phải có chọn

lọc, có phê phán và có sự sáng tạo riêng.

Do đó, việc bảo tồn, kế thừa và phát huy giá trị của lễ hội là một vấn đề

đặt ra mang tính cấp bách và có nhiều ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Ðể

Page 153: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

151

công tác tổ chức lễ hội ngày càng đạt được hiệu quả cao, cần chú trọng công

tác tuyên truyền các giá trị lịch sử văn hóa và tôn vinh công trạng của danh

nhân được thờ để nhân dân hiểu rõ giá trị của di tích cũng như những quy định

của pháp luật có liên quan, kịp thời uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, đẩy mạnh

tuyên truyền và thực hiện nếp sống văn hóa trong lễ hội, làm cho lễ hội ngày

càng văn minh, thật sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích

cực vào sự phát triển kinh tế - văn hóa của địa phương. Trước khi mở hội, phải

có sự tính toán cân nhắc kỹ lưỡng, có kế hoạch chi tiết, cụ thể. Mỗi lễ hội mới

cần xây dựng một kịch bản phù hợp gắn với chủ đề riêng của lễ hội.

Việc tổ chức lễ hội là vấn đề cần được khảo cứu và nghiên cứu kỹ lưỡng

và có các bước thể nghiệm để định hình được các nghi thức lễ và các hoạt

động hội. Chính quyền địa phương các cấp cần quản lý chặt chẽ việc quy

hoạch sắp xếp các hàng quán, dịch vụ vui chơi giải trí hợp lý, tạo điều kiện để

nhân dân địa phương có thêm thu nhập nhưng vẫn bảo đảm tính văn hóa trong

các hoạt động dịch vụ, không tạo kẽ hở nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, làm

mất đi bản sắc văn hóa và ý nghĩa, tốt đẹp của lễ hội.

Hoạt động Lễ hội ở thành phố Cần Thơ

Khai thác nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, đóng góp cho việc giữ gìn

di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể liên quan đến lễ hội; khuyến

khích sự sáng tạo của nhân dân trong các hoạt động văn hóa lễ hội. Khuyến

Page 154: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

152

khích các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, nhất là kiều

bào ta ở nước ngoài đầu tư tôn tạo các di tích và tham gia hoạt động tổ chức lễ

hội để hướng đồng bào về với nguồn cội, tổ tiên. Sử dụng nguồn thu từ lễ hội

đúng mục đích, phục vụ tốt công tác bảo tồn di tích và hoạt động lễ hội.

Cần chú ý bảo tồn có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc

trong lễ hội, loại bỏ dần các yếu tố lạc hậu, xây dựng thêm các tiêu chí văn hóa

mới phù hợp. Tiến hành rà soát phân loại lễ hội, tăng cường công tác quản lý,

nghiên cứu để việc tổ chức lễ hội, ngày càng khoa học, có ý nghĩa. Phục hồi

những trò chơi dân gian truyền thống, coi trọng tính đặc thù, độc đáo của mỗi

loại hình lễ hội, tránh cào bằng đồng loạt dẫn đến sự nhàm chán trong hoạt

động và sinh hoạt lễ hội. Khôi phục, giữ lại nét riêng của mỗi lễ hội, gắn với

truyền thống của mỗi địa phương trong thành phố.

Về tôn giáo, hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo,

Đảng bộ và chính quyền Cần Thơ đã xác định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của

một bộ phận nhân dân, trong tôn giáo có những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn

hóa và luôn tạo điều kiện cho tôn giáo hoạt động. Theo quan điểm của các

nhà khoa học, các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo đức nhân

bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức mới và nhân cách con người.

Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn

thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ. Tuy

nhiên, đạo đức tôn giáo cũng còn nhiều yếu tố tiêu cực, nó hướng con người

đến hạnh phúc hư ảo và làm mất tính chủ động, sáng tạo của con người. Vấn

đề đặt ra là, cần nhận điện đúng vai trò của đạo đức tôn giáo nhằm phát huy

những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn chế những tác động tiêu cực của nó

đối với việc hoàn thiện nhân cách con người hiện nay.

Mâu thuẫn trong tôn giáo được thể hiện ở tính tích cực và tiêu cực của

đạo đức tôn giáo đối với cuộc sống hiện thực.

Về những ảnh hưởng tích cực của đạo đức tôn giáo, do tôn giáo có sự

đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như một

Page 155: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

153

phần tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, lan truyền trên

bình điện thế giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con

người, mà còn có vai trò chuyển tải, hoà nhập văn hóa và văn minh, góp

phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời

sống tinh thần của con người. Với tư cách một bộ phận của ý thức hệ, tôn giáo

đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc

những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập

quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.

Điều dễ nhận thấy là, những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác

nhau về niềm tin, rất xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung

khuyên con người làm việc thiện thiện. Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức

tôn giáo là, ngoài những điều phù hợp với tình cảm đạo đức của nhân dân, nó

được thực hiện thông qua tình cảm tín ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do đó,

tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng

bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng.

Họat động hướng thiện của con người được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ

hơn, nhiệt thành hơn. Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới

hiện thực, tôn giáo đã góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ

những điều răn dạy về đạo đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng

xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết.

Đặc biệt, đạo đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái

siêu nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh Ala) và sau này, Đức Phật cũng được

thiêng hóa, nên các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện, tự giác.

Song, suy cho cùng, việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức ấy

cũng là để phục vụ cho niềm tin siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi,

giữa cái thực và cái thiêng đã mang lại cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín

đồ khá mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta thấy nhiều người hiến rất nhiều tiền

của vào việc xây dựng chùa chiền, làm từ thiện... vốn là những tín đồ tôn giáo.

Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích

Page 156: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

154

cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cập đến

tình yêu. Tinh thần "từ bi" trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người, mà

còn đến cả muôn vật, cỏ cây; Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và

bảo vệ sự sống. Đặc biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật

giáo muốn tình yêu thương ấy phải biến thành hành động "bố thí", cứu giúp

những người đau khổ hoặc "nhẫn nhục” để giữ gìn đoàn kết.

Muốn giải thóat khỏi đau khổ, con người phải tự hoàn thiện đạo đức

cá nhân, diệt trừ tham, sân, si, xoá bỏ vô minh, chặt đứt cây "nghiệp" để

vượt qua biển khổ luân hồi. Đạo đức của Kitô giáo cũng đề cập đến tình

yêu: yêu thương bản thân mình, yêu tha nhân và yêu thiên nhiên, trong đó,

yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm đạo đức về tình yêu. Những

chuẩn mực của đạo đức Kitô giáo giúp con người hoàn thiện đạo đức cá

nhân trong quan hệ với cộng đồng. Tình yêu tha nhân ở đây không đơn

thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho

kẻ rách mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh hoạn, khuyên can người lầm

lỗi... Tóm lại, đây là những hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi

trong xã hội còn nhiều cảnh khổ cần được cứu vớt, giúp đỡ.

Về những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức tôn giáo. Về bản chất, chúng

ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế giới quan tiêu cực. Một

khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và quần chúng

chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực,

đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích

thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý

sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính

làm điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên

đường của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời

là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy, những cái ác,

những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa

và trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa qủy dữ. Muốn chứng

Page 157: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

155

được Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn

dục vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý sống

đó cho thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn giáo.

Về mặt nào đó, đạo đức tôn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và

nhân sinh quan hư ảo, làm hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con

người. Đạo đức tôn giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, song đó là

thứ hạnh phúc hư ảo, hão huyền. Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra

thể hiện thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh. Nó tạo cho các tín đồ thái độ

bàng quan trước thế giới hiện thực, bằng lòng với số phận, không tích cực đấu

tranh chống lại những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin

rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu "quả báo" hoặc bị trừng trị ở kiếp sau. Chính

tâm lý đó đã ngăn cản con người đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi trần

thế. Thêm nữa, đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá

nhân nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với tính cách

một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá

trình phát sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con

người. Do vậy, muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân, không thể tách nó khỏi

những điều kiện sinh họat vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của con

người. C. Mác đã khẳng định rằng, "bản chất con người là tổng hoà những

quan hệ xã hội" và nhân cách con người cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong

các mối quan hệ xã hội ấy.

Như trên đã phân tích, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tích cực, phù hợp

với xã hội ta hiện nay. Song, cũng sẽ là không khoa học, nếu chúng ta tuyệt đối

hóa đạo đức tôn giáo, thổi phồng vai trò của nó. Ph.Ăngghen từng khẳng định

rằng: ngay cả một số yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ giống với

đạo đức mới của chúng ta về mặt hình thức mà thôi. Vì vậy, mặc dù tôn giáo

"là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực" nhưng rốt cuộc nó

vẫn chỉ là một sự phản kháng mang tính tiêu cực, thụ động của con người. Có

thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo để

Page 158: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

156

khẳng định một cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra

những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết.

Chúng ta hy vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực

đạo đức tiến bộ trong tôn giáo sẽ góp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức

của dân tộc và hữu ích trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

Từ những vấn đề vừa trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, trong

những chuyển biến hiện nay, những mặt tiêu cực và hạn chế trong di sản

truyền thống đang tồn tại trong cuộc sống và con người, trở thành những trở

lực cho bước đi lên của Cần Thơ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, dưới dạng những tư tưởng, tình cảm, thói quen, tập tục… lỗi

thời, bảo thủ. Cuộc đấu tranh để khắc phục, biến đổi, xóa bỏ những truyền

thống tiêu cực đó không đơn giản và chắc chắn là lâu dài.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Cần Thơ là vùng đất mới so với các vùng khác, nhưng Cần Thơ đã

trải qua một thời kỳ tồn tại và phát triển đã để lại cho người dân ở đây

những di sản văn hóa vô cùng quý giá. Ở đây có vấn đề bảo tồn di sản văn

hóa và khai thác di sản ấy. Đã có một thời kỳ mà người dân chưa thấy hết ý

nghĩa quan trọng của những di sản văn hóa này. Có rất nhiều đền, miếu, nhà

thờ, công trình kiến trúc bị coi thường, phó mặc cho sự huỷ diệt của thời

gian cũng như sự phá phách của những người thiếu văn hóa.

Đảng ta đã kịp thời chấn chỉnh những hiện tượng này. Tại Tây Đô,

trong vòng mấy thập kỷ gần đây, Đảng bộ và chính quyền thành phố đã luôn

luôn quan tâm hướng dẫn các cấp quận, phường trách nhiệm giữ gìn và tôn

tạo những di sản ấy, cả di sản vật thể và phi vật thể. Nhiều phong tục tập

quán tốt đẹp đã bị coi thường hoặc xóa bỏ, nay được khôi phục lại.

Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công nghiệp hóa

và hiện đại hóa gắn liền với đô thị hóa. Đô thị hóa là một sự chuyển biến

từ cuộc sống nông thôn sang cuộc sống đô thị. Trong xã hội nông nghiệp

Page 159: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

157

từ thời xưa, lối sống nông thôn và lối sống đô thị không khác nhau là bao

nhiêu. Từ ngày thực dân xâm chiếm nước ta, Cần Thơ cùng với cả nước

bước đầu biến đổi thích hợp với nhu cầu phát triển về công nghiệp và

thương nghiệp của chủ nghĩa thực dân. Nhà cửa, phương tiện đi lại được

xây dựng đã khiến cho cuộc sống ngày một khác biệt giữa nông thôn và

thành thị. Đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, kinh tế thị trường được phát

triển, lại càng nhanh chóng thay đổi bộ mặt của thành phố. Trong thập kỷ

qua, bao nhiêu ngôi nhà nhiều tầng được xây dựng đầy rẫy trong nội

thành và ngoại thành. Bao nhiêu người đã từ nông thôn ra làm ăn ở thành

phố, tiếp lối sống của thành phố. Ngược lại, sinh hoạt của thành phố cũng

dần dần lan tỏa ra nông thôn. Đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng ở cả

thành phố và ở cả nông thôn.

Ảnh hưởng qua lại giữa nông thôn và thành thị đã góp phần xóa bỏ

nhiều phong tục tập quán đã lỗi thời của nông thôn, nhưng lại làm nảy

sinh và phát triển những nhược điểm của văn hóa đô thị. Người nông dân

vào thành phố tiếp thu những cung cách sinh hoạt của thành phố trong

nhà ở, trong quần áo, trong ăn uống. Lối sống ở nông thôn với truyền

thống gắn bó giữa người và người, trong nhà, trong họ, trong thôn xóm và

làng xã đã từng có xu hướng mất dần đi trong hoàn cảnh sinh hoạt ở

thành phố, là nơi thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa người với người. Trước sự

tẻ nhạt dần trong quan hệ giữa người và người ở thành phố, mọi người

cảm thấy nhu cầu củng cố lại những quan hệ cần thiết giữa người và

người, những tập quán tốt đẹp trong phạm vi gia đình, trong sinh hoạt xã

hội như ngày giỗ, ngày Tết.

Khôi phục, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa càng là một yêu cầu

cấp thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Toàn cầu hóa đang là một

xu thế tất yếu của lịch sử. Nó đã tạo ra sự giao lưu và hòa nhập giữa các

dân tộc trên mọi mặt kinh tế, chính trị và văn hóa.

Page 160: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

158

Sự hòa nhập này vừa là một thuận lợi để nhân dân ta tiếp thu được

những nhân tố tích cực và tiến bộ từ những thành tựu mới của nhân loại,

đồng thời cũng tạo ra nguy cơ là bỏ mất những điều tốt đẹp trong di sản

văn hóa dân tộc và tiếp thu những nhân tố độc hại, phá vỡ bản sắc dân tộc

của chúng ta. Chính vì những lẽ trên mà thái độ khoa học, tiên tiến và

sáng suốt đối với di sản văn hóa dân tộc đang là một yêu cầu cấp thiết của

toàn thể nhân dân ta ở cả nước và ở Cần Thơ.

Page 161: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

159

Chương 3

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở

CẦN THƠ TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA,

THỰC TRẠNG VĂN HÓA Ở CẦN THƠ

3.1.1. Khái quát những đặc điểm chủ yếu của quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà

nước ta nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập

của nhân dân, tạo tiền đề để giải quyết các vấn đề chính trị và xã hội của đất

nước, đưa nước ta tiến lên văn minh, hiện đại, đến năm 2020 phấn đấu đưa nước

ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại. Đối với Cần Thơ, quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện trên các mặt như sau:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ là quá trình chuyển đổi căn

bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế,

xã hội từ sử dụng lao động thủ công sang lao động bằng máy móc, tạo ra

năng suất lao động xã hội cao

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Cần Thơ được tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực: nông nghiệp,

nông thôn, công nghiệp, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội. Quá trình đó đã làm

chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và

quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một

cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp

tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học

công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Kinh tế nông nghiệp, nông thôn

phát triển và đang từng bước chuyển dịch nhanh theo hướng nông nghiệp công

nghệ cao, hình thành vùng nguyên liệu sản xuất hàng hóa chất lượng cao. Đã có

Page 162: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

160

gần 60% diện tích đất nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu sản xuất; tỷ lệ áp dụng cơ

giới hóa trong nông nghiệp ngày càng tăng, việc ứng dụng công nghệ sinh học,

kỹ thuật canh tác tiến bộ… đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp

theo hướng sản xuất hàng hóa. Tính đến tháng 11/2010, giá trị sản xuất toàn

ngành ước đạt 4.107 tỷ đồng. Diện tích gieo trồng lúa cả năm 208.555 ha, sản

lượng ước đạt 1,213 triệu tấn, tăng 6,6% so với năm 2009. Diện tích nuôi trồng

thủy sản 12.550 ha, sản lượng thủy sản đạt 168.310 tấn10. (Giai đoạn 2005 -

2010, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 5,3%/năm; năng suất, chất

lượng, hiệu quả tăng gấp 2,5 lần so với năm 2005).

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn không

ngừng phát triển. Các doanh nghiệp đã đầu tư trang thiết bị hiện đại, cải tiến kỹ

thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhiều sản phẩm đủ sức cạnh tranh thị

trường trong và ngoài nước. Cần Thơ huy động được nhiều nguồn lực phát triển

công nghiệp, đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng của khu vực công nghiệp

ngoài nhà nước, tăng bình quân gần 20%/năm (giai đoạn 2005 - 2010). Các sản

phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, thu hút

nhiều lao động như: thủy, hải sản, gạo, hàng may mặc, giày da…

Trong lĩnh vực dịch vụ, Cần Thơ đã từng bước hình thành các loại dịch

vụ cao cấp như: tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin,

du lịch, thị trường bất động sản… Bên cạnh đó, mạng lưới cơ sở hạ tầng dịch vụ

thương mại được đầu tư phát triển, hệ thống siêu thị (Co-op mart, Metro

Cash…), các chợ nông thôn, trung tâm thương mại được mở rộng. Vận tải

đường thủy, đường bộ, hàng không bắt đầu nhộn nhịp, sân bay Cần Thơ, cầu

Cần Thơ, cảng Cái Cui… đưa vào sử dụng bước đầu phát huy hiệu quả.

Nhờ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa mà đến nay nền kinh tế Cần

Thơ có bước phát triển vượt bậc: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 15%

năm. Thu nhập bình quân đầu người 36,82 triệu đồng (theo giá thực tế), tương

đương 1.959 USD, tăng 1.575 USD so với năm 2005. Huy động các nguồn vốn 10. Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của thành ủy Cần Thơ.

Page 163: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

161

đầu tư toàn xã hội trên địa bàn đạt trên 85.000 tỷ đồng, tăng 4,5% so với giai

đoạn 2001 - 2005 (tốc độ tăng bình quân gần 30%/năm)11. Văn hóa - xã hội

chuyển biến tích cực, an sinh xã hội được đảm bảo, đào tạo nguồn nhân lực, xóa

đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ với mục đích xây dựng Cần

Thơ thành thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long

Những năm gần đây, nhất là từ khi trở thành thành phố trực thuộc

Trung ương, Cần Thơ tăng tốc xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, với nhiều

công trình, dự án chiến lược của thành phố và Trung ương đầu tư trên địa

bàn đã đưa vào sử dụng như: sân bay Cần Thơ (giai đoạn I), cầu Cần Thơ,

Quốc lộ IA, Trung tâm điện lực Ô Môn, khu đô thị mới Nam Cần thơ, xây

dựng bến cảng nước sâu Cái Cui, khu công nghiệp Hưng Phú I, II, đại lộ

Nam sông Hậu dự án nâng cấp đô thị giai đoạn I… Một số công trình, dự

án quan trọng khác đang trong quá trình hoàn tất như: nâng cấp trường đại

học Cần Thơ thành trường đại học trọng điểm quốc gia; nâng cấp, xây

dựng Trung tâm kỹ thuật - ứng dụng công nghệ; nâng cấp, xây dựng phòng

thí nghiệm công nghệ sinh học; nâng cấp, mở rộng cụm cảng Cần Thơ; nhà

máy lọc dầu công suất 02 triệu tấn/năm… là tiền đề tốt đẹp cho tương lai,

khẳng định tính chất “trung tâm khu vực”.

Cần Thơ tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng các khu, cụm, tuyến công

nghiệp. Trên địa bàn thành phố hiện có 04/08 khu công nghiệp tập trung,

với diện tích 775 ha. Đến nay, có 187 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng

ký trên 1,6 tỷ USD, tổng vốn thực hiện trên 540,68 triệu USD đạt 34% tổng

vốn đăng ký (trong đó, có 25 dự án FDI với vốn đầu tư 668,67 triệu USD);

có 138/187 dự án đưa vào hoạt động, chiếm 73,8% dự án đăng ký đầu tư,

thu hút 32.268 lao động. Các trung tâm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở

11. Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015.

Page 164: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

162

các quận, huyện tuy mới được triển khai nhưng đã thu hút nhiều doanh

nghiệp vừa và nhỏ đăng ký thuê đất đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh12.

Trường Đại học Cần Thơ, nơi đào tạo nguồn nhân lực cho thành phố Cần Thơ

và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

Với vai trò là trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Cần

Thơ quyết tâm dồn sức xây dựng nền công nghiệp của thành phố phát triển

theo cơ cấu mới, hình thành mạng lưới công nghiệp trên cơ sở đa dạng hóa

về quy mô và hình thức sở hữu; phát triển đồng bộ mạng lưới các khu, cụm

công nghiệp, khu công nghiệp công nghệ cao và kết cấu hạ tầng tầng có

liên quan. Các ngành, nghề sẽ được quy hoạch phát triển hợp lý, phân bố

phù hợp với nguồn lực, lợi thế và cơ hội thị trường nhằm nâng cao hàm

lượng khoa học, công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa hóa trong sản phẩm

công nghiệp. Đi đôi với việc xây dựng các cụm công nghiệp, khu công

nghiệp công nghệ cao, Cần Thơ chú trọng đầu tư dự án thoát nước và xử lý

nước thải với công nghệ tiên tiến để xử lý các chất thải đô thị (nước thải,

rác thải sinh hoạt, rác thải y tế…) và các chất thải công nghiệp để hạn chế

đến mức thấp nhất sự ô nhiễm môi trường, nhất là nguồn nước sông Hậu,

bảo đảm mọi điều kiện để Cần Thơ phát triển bền vững.

12. Trích Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015.

Page 165: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

163

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch

theo hướng tích cực

Cơ cấu kinh tế của Cần Thơ đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp

hóa - hiện đại hóa một cách rõ rệt. Khu vực I: 17,05% của năm 2006, giảm

xuống còn 10,71% năm 2010; khu vực II: 39,03% của năm 2006, tăng lên

44,03% năm 2010 và khu vực III: 43,92% của năm 2006, tăng lên 45,26%

năm 201013.

Cơ cấu kinh tế phát triển, kéo theo kết cấu xã hội biến đổi, tầng lớp

trung nông, tiểu chủ phát triển, đã trở thành lực lượng trung tâm ở nông

thôn và động lực thúc đẩy sự chuyển dịch nền kinh tế. Quan hệ sản xuất

được đổi mới một cách cơ bản theo hướng xây dựng nền nông nghiệp hàng

hóa với nhiều thành phần kinh tế tham gia, phát huy mạnh mẽ vai trò của

kinh tế hộ; đổi mới kinh tế hợp tác và hợp tác xã; doanh nghiệp nhà nước

chi phối những khâu then chốt; doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh trong

tất cả các lĩnh vực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Kết cấu

hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường góp phần thúc đẩy sản

xuất phát triển và nâng cao đời sống cho dân cư nông thôn. Đời sống đa số

nông dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị ở cơ sở từng bước được

tăng cường, dân chủ ở nông thôn được mở rộng và phát huy tốt hơn; an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng

xã hội

Trong suốt chiều dài lịch sử, Cần Thơ luôn đặt con người vào vị trí trung

tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu

của sự phát triển. Đề cao quyền con người và quyền làm chủ của nhân dân. Phát

huy nhân tố con người và phát triển nguồn nhân lực gắn với phát triển giáo dục

và đào tạo, khoa học và công nghệ. Tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung năm đức tính 13. Trích Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015. Khu vực I: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản; khu vực II: công nghiệp - xây dựng; khu vực III: thương mại - dịch vụ.

Page 166: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

164

của con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Thực hiện chiến lược quốc gia về

nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng con

người Cần Thơ.

Thực hiện nhất quán quan điểm đó, kinh tế và đời sống của nhân dân phát

triển, xã hội nông thôn không ngừng đổi mới, đời sống tinh thần của nhân dân

từng bước được nâng lên. Đến nay, thành phố Cần Thơ có gần 100% số hộ có

máy nghe nhìn; 100% xã, phường, thị trấn có mạng lưới điện quốc gia. Trường

học, trạm xá ngày một khang trang hơn, bảo đảm cho trẻ em trong độ tuổi đến

trường; công tác khám chữa bệnh, phòng chống dịch bệnh ngày một tốt hơn.

Giải quyết việc làm, giảm nghèo, thực hiện các chính sách an sinh xã hội đạt kết

quả tích cực: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 -

2010 lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm

được triển khai thực hiện khá tốt, (giải quyết việc làm tăng bình quân

10,8%/năm, đào tạo nghề tăng bình quân 3,3%/năm, nâng tỷ lệ lao động được

đào tạo nghề năm 2010 lên 42%), giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 10,46% năm 2005

xuống còn 4,7% vào năm 2010 (trên 16.500 hộ). Các hoạt động đền ơn đáp

nghĩa, hỗ trợ các gia đình chính sách, vùng bị thiên tai, bão, lũ được quan tâm

thực hiện (5 năm qua, xây dựng gần 700 căn nhà tình nghĩa, trên 5.200 căn nhà

tình thương cho các đối tượng chính sách và người nghèo). Phong trào toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu; đến

năm 2010, toàn thành phố có 38/85 xã, phường, thị trấn và 88% hộ gia đình đạt

tiêu chuẩn văn hóa14. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển đều

khắp trên địa bàn thành phố; tỷ lệ người tham gia tập luyện thể thao thường

xuyên đạt 24,2% dân số15. Đời sống kinh tế và dân trí phát triển từng bước tạo

công bằng và tiến bộ xã hội và là cơ sở vững chắc cho sự ổn định chính trị. Theo

đó, đời sống văn hóa ở nông thôn cũng có bước phát triển mới.

14 . Trích Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015. 15 . Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của thành ủy Cần Thơ.

Page 167: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

165

Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ có một số

vấn đề đặt ra, cần phải tập trung giải quyết như: biến đổi cơ cấu lao động nông

thôn, lực lượng lao động trong nông nghiệp, một số chuyển sang các ngành

công nghiệp, số còn lại dôi dư ngày càng nhiều, họ sẽ “tha phương cầu thực”,

một số đi vào con đường tội phạm, không ít người kết hôn với người nước

ngoài… nếu không có giải pháp mở rộng ngành nghề nông thôn, xã hội phải

gánh nặng hậu quả vô cùng lớn.

Sản lượng nông sản hàng hóa (lúa gạo, cây ăn quả, thuỷ sản) tăng nhanh,

nhưng sức tiêu thụ kém, giá cả bấp bênh, trong khi giá vật tư tăng vọt, làm cho

sản xuất nông nghiệp (cả chăn nuôi và trồng trọt) gặp khó khăn, kiềm hãm sự

phát triển của lực lượng sản xuất. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các

tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn ngày càng doãng ra; phần lớn các

hộ nghèo thuộc diện gia đình chính sách và dân tộc Khmer, vì đời sống khó

khăn nên con cái bị thất học. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề

xã hội, chính trị, vấn đề chính sách lớn ở nông thôn Cần Thơ hiện nay.

Vấn đề bức xúc hiện nay là tổ chức lại sản xuất, xây dựng hệ thống sản

xuất nông nghiệp ở nông thôn: kinh tế nông hộ - kinh tế hợp tác - kinh tế nhà

nước thành kết cấu, tạo điều kiện hình thành lực lượng sản xuất mới, cơ sở, vật

chất cho xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp và tiến bộ trong nông nghiệp. Đó là

cơ sở, điều kiện để xây dựng nền văn hóa mới ở nông thôn.

3.1.2. Thực trạng văn hóa ở Cần Thơ

Trong xu hướng phát triển mới, về khách quan, trong những năm qua các

lĩnh vực hoạt động văn hóa được sự quan tâm đầu tư nhiều hơn từ lãnh đạo

thành phố. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XI đề ra

mục tiêu xây dựng văn hóa là: “làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư,

từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế

thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài

người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn

hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hôi và sinh hoạt của nhân dân.…”.

Page 168: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

166

Đó là những “căn cứ chính trị” và “căn cứ pháp lý” hết sức quan trọng, chẳng

những tác động chung cho điều kiện đi lên của cả thành phố, mà còn làm chỗ

dựa vững chắc thúc đẩy sự nghiệp văn hóa phát triển trong tương lai.

Trên cơ sở những quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát

triển văn hóa của Đảng bộ thành phố Cần Thơ, trong những năm qua, nhiều

cấp uỷ từ thành phố đến cơ sở, ngành, đơn vị và nhân dân đã quán triệt và thực

hiện nghiêm túc 5 quan điểm chỉ đạo và 10 nhiệm vụ văn hóa, tạo sự chuyển

biến mạnh mẽ, thường xuyên trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và quản lý nền

văn hóa trong thời kỳ mới. Nhận rõ tính phức tạp của hoạt động văn hóa trong

điều kiện cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế hiện nay, có nhiều

chính sách cụ thể, thiết thực để khuyến khích văn hóa phát triển. Nhờ vậy mà

văn hóa Cần Thơ đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, thể hiện trên các

mặt như sau:

Về trình độ dân trí, những năm gần đây, trình độ dân trí của người

dân Cần Thơ được nâng lên một bước đáng kể. Ngành giáo dục không

ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, nội

dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội

hóa” giáo dục của thành phố. Với phương châm “nhà nước và nhân dân

cùng làm”, đã huy động được các tầng lớp nhân dân tham gia đầu tư xây

dựng, nâng cấp, sửa chữa cơ sở vật chất trường học và trang thiết bị phục vụ

cho dạy và học, cơ bản đã xoá được phòng học ca 3. Đã hoàn thành phổ cập

trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tỷ lệ huy động học sinh đến trường

trong độ tuổi đạt kế hoạch đã đề ra. Trật tự kỷ cương trong nhà trường có

nhiều chuyển biến tích cực; giáo dục đạo đức cho học sinh được tăng

cường, bước đầu ngăn chặn sự thâm nhập của các tệ nạn xã hội. Trình độ

dân trí, chuyên môn kỹ thuật được nâng lên rõ rệt; số công nhân kỹ thuật,

cán bộ có trình độ Cao đẳng và Đại học phát triển khá. Chủ trương xã hội

hoá giáo dục - đào tạo đạt kết quả bước đầu, biểu hiện rõ nhất là trong vận

Page 169: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

167

động học sinh đến trường, chống bỏ học, giúp đỡ học sinh nghèo, khuyến

khích tài năng, hỗ trợ kinh phí cho học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Mặt hạn chế về trình độ dân trí của thành phố Cần Thơ là: mặt bằng dân

trí của thành phố còn thấp; chỉ số phát triển giáo dục và đào tạo còn hạn chế, các

phong trào mũi nhọn thiếu tập trung và phát triển chậm. Chất lượng và hiệu quả

giáo dục và đào tạo còn bất cập giữa phổ thông, chuyên nghiệp dạy nghề; chất

lượng giáo dục chưa đồng đều giữa thành thị và nông thôn. Việc phân luồng học

sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở còn khó khăn, kết quả chưa đạt yêu cầu.

Còn không ít mặt yếu kém, bất cập trong quản lý việc dạy thêm và học thêm, tổ

chức thi cử, cấp bằng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học có chiều hướng

phát triển tốt nhưng chưa đáp ứng mục tiêu yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa;

nhiều trường chưa có nhà công vụ. Tình trạng học sinh bỏ học ở bậc trung học

khá nhiều là điều đáng quan tâm. Chưa khai thác đúng mức tiềm năng các

nguồn lực xã hội và còn khoảng cách so với định hướng, mục tiêu về đẩy mạnh

xã hội hóa giáo dục.

Xây dựng con người mới, việc xây dựng con người Cần Thơ theo tiêu

chuẩn nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương

(khoá VIII) là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh trong xã hội. Các

hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật đã có nhiều tiến bộ

trong việc thực hiện chức năng bồi dưỡng nhân tố con người.

Hầu hết các quận, huyện, xã, phường, các giới đều tiến hành cuộc vận

động xây dựng con người Cần Thơ hiện đại trong thời kỳ đổi mới là: trí tuệ -

năng động - nhân ái - hào hiệp - thanh lịch. Ngành giáo dục có phong trào “Thi

đua hai tốt”, “Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”; ngành y tế với phong trào

“Phục vụ nhân dân theo 12 điều y đức”; công an học tập “6 điều Bác Hồ dạy”;

người cao tuổi có “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”; thanh niên

có “Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước”; công nhân viên chức có “Lao

động giỏi - lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; phụ nữ có phong

trào “Người phụ nữ mới năng động, sáng tạo, tích cực hoạt động, quan tâm đến

Page 170: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

168

xã hội, cộng đồng”. Các cuộc vận động trên là một bộ phận trong phong trào

rộng lớn “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, đáp ứng nguyện vọng

của mọi tầng lớp nên được nhân dân đồng tình, tích cực tham gia.

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được khẳng định là

nền tảng tư tưởng của toàn xã hội. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc

được phát huy. Ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, chủ động vươn lên lập thân,

lập nghiệp, phấn đấu đưa bản thân, quê hương Cần Thơ từng bước thoát khỏi

nghèo nàn, lạc hậu được phát triển trong đại đa số quần chúng. Tính năng động

và tính tích cực xã hội của các công dân, năng lực cá nhân được khuyến khích

phát triển. Tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ dám làm ngày càng thể hiện rõ

hơn trong sản xuất, kinh doanh, nhất là trong thế hệ trẻ.

Một số vấn đề đáng quan tâm trong việc xây dựng con người mới ở Cần

Thơ là: tình trạng xuống cấp về lối sống, đạo đức của một số cá nhân ở mọi lứa

tuổi, mọi tầng lớp xã hội chưa được ngăn chặn có hiệu quả, nhiều mặt còn diễn

biến phức tạp và trầm trọng hơn, trở thành sự bức xúc, lo lắng, thậm chí bất bình

trong xã hội. Đặc biệt, một bộ phận người dân Cần Thơ chưa nhận thức đúng vị

trí, vai trò của giáo dục, từ đó không quan tâm đến việc học của con em mình,

tình trạng bỏ học của học sinh ngày càng gia tăng; từ đó dẫn đến trình độ dân trí

của thành phố thấp. Việc giáo dục lý tưởng, lẽ sống cho thanh niên chưa thường

xuyên, hiệu quả hạn chế. Còn lúng túng trong tiếp thu, kế thừa các giá trị tinh

hoa văn hóa dân tộc cũng như của thế giới trong việc giáo dục, bồi dưỡng con

người. Xu hướng thực dụng, chạy theo lối sống hưởng thụ có chiều hướng gia

tăng đang tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ và

nhân dân.

Về văn hóa pháp luật, một điều không thể phủ nhận, ngày nay đời sống

của các tầng lớp nhân dân Cần Thơ đang được nâng cao, đi cùng với nó là sự

nâng lên của trình độ tri thức, nhận thức nói chung và nhận thức pháp luật nói

riêng. Nhân dân ngày càng quan tâm hơn đến pháp luật, ý thức chấp hành, thực

hiện pháp luật có những tiến bộ rõ rệt. Họ đã tiếp thu khá nhiệt tình, tích cực sự

Page 171: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

169

tuyên truyền pháp luật từ phía các cơ quan, ban ngành cũng như hưởng ứng

nhiệt tình các cuộc vận động pháp luật. Vì vậy, nhân dân đã nhận thức sâu sắc

hơn hành vi của mình để có thể thực hiện tốt hơn những quy định của pháp luật.

Đây là nét đẹp văn hóa của người dân Cần Thơ.

Mặt hạn chế của văn hóa pháp luật là: trình độ nhận thức pháp luật, kiến

thức pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân, đặc biệt là

thanh thiếu niên còn thấp. Một số người tham gia pháp luật mà không biết những

quy định của pháp luật mặc dù nó rất gần gũi, phổ biến trong cuộc sống. Ví dụ,

trên địa bàn thành phố, số lượng phương tiện giao thông đang tăng nhanh, số

người tham gia giao thông đường bộ ngày càng nhiều, nhưng điều đáng buồn là

rất nhiều trong số đó không biết luật giao thông đường bộ quy định bao nhiêu tuổi

được phép điều khiển xe máy, khi tham gia giao thông bằng xe máy cần phải có

những giấy tờ gì… Từ đó dẫn đến số vụ vi phạm pháp luật của người dân Cần

Thơ vẫn còn nhiều. Các hành vi vi phạm pháp luật của nhân dân đa dạng: hình

sự, dân sự, hành chính… với các mức độ nặng nhẹ khác nhau, như các vụ tranh

chấp đất đai, kiện tụng, buôn lậu, trốn thuế, giết người… đặc biệt là các vụ vi

phạm luật giao thông. Về hình sự xảy ra nhiều vụ phạm tội, có những vụ rất

thương tâm và đau lòng. Có trường hợp giết người chỉ vì cần tiền hút chích, ăn

chơi hay để trả thù cá nhân. Ở một số quận, huyện hiện tượng thanh thiếu niên

bỏ học, bỏ nhà đi lang thang, ăn chơi sa đọa dẫn đến phạm pháp với các hành vi:

nghiện ngập, giết người, cướp của, trộm cắp… trở thành nỗi lo ngại cho gia đình

và xã hội. Tất cả những điều đó đã và đang giáng một tiếng chuông cảnh báo về

tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay ở Cần Thơ.

Những hạn chế về ý thức pháp luật của người dân Cần Thơ xuất phát từ

nhiều nguyên nhân. Trước hết đó là do trình độ dân trí của một bộ phận nhân

dân còn thấp, nhất là ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Công tác

tuyên truyền pháp luật trong quần chúng chưa toàn diện, chưa sâu rộng và chưa

hiệu quả. Những hành vi vi phạm pháp luật của người dân có thể do không nhận

thức được hành động của mình, có thể nhận thức được nhưng vẫn cố tình vi

Page 172: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

170

phạm vì mục đích cá nhân. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác như những

ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, sự tác động của tư tưởng, tâm lý

xã hội tiêu cực, lạc hậu…

Để hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng vi phạm pháp luật, đòi hỏi tất cả

cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác Nâng cao hiểu biết pháp luật. Cấp ủy

đảng, chính quyền các cấp không ngừng tăng cường giáo dục pháp luật, nhằm

nâng cao kiến thức pháp luật cho nhân dân, có thái độ đúng đắn, động cơ tích

cực trong thực hiện pháp luật và đấu tranh chống các biểu hiện vi phạm pháp

luật. Sống và làm việc theo pháp luật, xác định rõ vai trò to lớn của pháp luật

trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, đưa pháp luật vào cuộc sống con

người, xây dựng lối sống tốt đẹp, sống và làm việc theo pháp luật. Bên cạnh

việc đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật trong quần chúng, cần

Xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật. Để thực hiện tốt những giải pháp đó

cần sự phối hợp, tham gia tích cực của các ban ngành, đoàn thể, của toàn Đảng,

toàn dân, toàn xã hội.

Về đạo đức, đạo đức là phẩm chất nhân cách cơ bản của con người. Đạo

đức truyền thống là cốt lõi của đạo đức dân tộc. Nó phản ánh bộ mặt, nhân

cách, là điều kiện để con người phát triển bền vững, nhân tố tạo nên sự phát

triển của xã hội. Nhân dân Cần Thơ có rất nhiều truyền thống đạo đức tốt đẹp,

nổi lên hơn cả, sâu sắc hơn cả cần kế thừa, phát triển nâng cao là những truyền

thống: nhân nghĩa, yêu nước; kiên cường, dũng cảm; tự trọng, lạc quan, giàu

hoài bão; trung thực, cần cù, vượt khó; tôn sư, trọng đạo, hiếu học… được thể

hiện đầy đủ trong quan hệ giữa người với người, với sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Nhờ phát huy truyền thống tốt đẹp đó mà thế hệ này nối tiếp

thế hệ khác đã vượt qua muôn vàn khó khăn, vẫn giữ được bản sắc dân tộc,

xây dựng quê hương Cần Thơ phát triển như ngày nay.

Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh

những truyền thống đạo đức tốt đẹp đã được kế thừa, phát huy; những chuẩn

mực đạo đức của con người Cần Thơ đã được xác định và bổ sung theo những

Page 173: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

171

nội dung mới phù hợp theo 5 nhóm giá trị: về nhận thức tư tưởng chính trị, có tư

tưởng xã hội chủ nghĩa, yêu quê hương đất nước, tự cường và tự hào dân tộc

chính đáng, tin tưởng vào Đảng và đường lối đổi mới của Đảng; tự hoàn thiện

bản thân, tự trọng, tự tin, tin vào bản thân, tin vào sự phát triển của đất nước,

không ỷ lại, giản dị, tiết kiệm, trung thực, siêng năng, hướng thiện…; quan hệ

với người khác, nhân nghĩa, biết ơn tổ tiên, cha, mẹ, thầy cô, người có công với

dân, với nước, kính trọng người sinh thành, nuôi dưỡng, giúp đỡ, yêu thương,

khoan dung, vị tha, hợp tác, bình đẳng, lễ độ, lịch sự tế nhị, tôn trọng mọi người,

thủy chung, giữ chữ tín…; quan hệ với công việc, trách nhiệm cao, có lương

tâm, tôn trọng luật pháp, lẽ phải, dũng cảm, liêm khiết…; có ý thức và trách

nhiệm trong xây dựng môi trường tự nhiên, văn hóa, xă hội.

Những hạn chế về đạo đức đáng quan tâm là: một bộ phận nhân dân đang

dần đánh mất những chuẩn mực đạo đức căn bản, được biểu hiện: đạo đức y tế,

đạo đức giáo dục xuống cấp; nạn tham nhũng, thái độ quan liêu, cửa quyền của

cán bộ, công chức trong một số cơ quan, tổ chức vẫn còn xảy ra; hành xử thô

bạo giữa người với người, bạo lực học đường, các giá trị thiêng liêng bị xâm

hại; và các mối quan hệ xã hội, nhất là tình bạn, tình đồng chí ở một số nơi diễn

biến theo chiều hướng xấu… Ở nơi này, nơi khác xảy ra tình trạng tranh giành,

chen lấn, thiếu nhường nhịn, thiếu tử tế trong quan hệ giữa người và người; các

băng nhóm, các loại tội phạm, những kiểu đánh đập và giết người vô cớ; tình

trạng phóng xe lạng lách, bất chấp mạng sống của người đi đường... gia tăng đến

mức báo động. Đó là những biểu hiện của thói ích kỷ, ai cũng chỉ biết đến mình,

gia đình mình mà không hề hay biết gì đến những người xung quanh, dẫn đến

hành vi coi nhẹ và bất chấp lợi ích và hạnh phúc của người khác. Hình như ít ai

nghĩ rằng, trong móc xích nhân quả, làm hại người cũng là đang làm hại mình.

Nguyên nhân đưa đến sự suy thoái đạo đức trong đời sống cộng đồng hiện nay,

có nhiều ý kiến cho rằng: đó là hậu quả của việc xem nhẹ giáo dục đạo đức cho

học sinh, sinh viên ở nhà trường, các văn hoá ứng xử truyền thống không được

coi trọng; mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội còn lõng lẽo; xã hội

Page 174: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

172

chưa tạo ra được một nền tảng đạo đức văn hoá vững vàng cân bằng với sự phát

triển kinh tế, dẫn đến một đời sống hưởng thụ, ích kỷ; kỷ cương và giáo dục gia

đình không được chú trọng; một phần do ảnh hưởng sâu nặng lối sống thực

dụng của xã hội phương Tây…

Mục tiêu giáo dục đạo đức hiện nay và trong những năm sắp tới là trang

bị cho mọi người có nhận thức đúng và đầy đủ những giá trị truyền thống của

dân tộc và của thời đại, nhận thức đầy đủ bổn phận, trách nhiệm của cá nhân đối

với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần xây dựng một

xă hội công bằng, văn minh từ trong gia đình đến ngoài xã hội.

Về văn hóa môi trường, được xem xét đánh giá ở hai góc độ: môi trường

tự nhiên và môi trường văn hóa - xã hội.

Về môi trường tự nhiên, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

thành phố Cần Thơ đẩy mạnh xây dựng và phát triển các khu công nghiệp,

thương nghiệp, dịch vụ du lịch. Cùng với tiến trình phát triển đô thị, phát triển

kinh tế - xã hội, Cần Thơ đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện nhiều biện pháp

bảo vệ môi trường thực sự có hiệu quả, nổi bật nhất là thành phố chú trọng triển

khai xây dựng những dự án về môi trường ở đô thị cũng như môi trường nông

thôn. Cụ thể như Dự án thoát nước và xử lý nước thải được triển khai từ năm

2003, do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cấp thoát nước Cần Thơ làm chủ đầu

tư, tổng kinh phí thực hiện dự án trên 363 tỉ đồng. Mô hình sản xuất nông

nghiệp “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”... Một số doanh nghiệp sản xuất, chế

biến lương thực, thực phẩm đầu tư hệ thống xử lý chất thải, nhằm góp phần ổn

định sản xuất và bảo vệ môi trường xung quanh.

Vấn đề bức xúc về môi trường ở thành phố Cần Thơ hiện nay là: công tác

quản lý môi trường trên địa bàn vẫn còn nhiều hạn chế, đó là chất lượng các

thành phần môi trường nhất là môi trường nước mặt chưa được cải thiện. Việc

tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa

cao, nhiều doanh nghiệp chưa đầu tư xây dựng hệ thống xử lý hoặc xây dựng

các hệ thống xử lý chỉ mang tính chất đối phó, nhận thức của cộng đồng về môi

Page 175: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

173

trường được nâng lên nhưng chưa tạo được sự chuyển biến rõ rệt. Tiến độ triển

khai các dự án đầu tư về môi trường nhất là các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở kỹ

thuật như thoát nước và xử lý nước thải, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát

triển kinh tế - xã hội.

Trước tình hình đó, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ phối

hợp với các ngành, đoàn thể ký kết nghị quyết liên tịch về bảo vệ môi trường

song song với công tác tuyên truyền đến từng hộ dân, doanh nghiệp ở khu dân cư,

cụm công nghiệp các nội dung nâng cao nhận thức về môi trường và bảo vệ môi

trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Hiện nay, khắp nơi trong thành phố triển

khai thực hiện mô hình “Khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường”, lồng ghép trong

cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Mô

hình này thực hiện theo hình thức phát huy dân chủ, người dân tham gia thảo luận

đề xuất các tiêu chí và bổ sung nội dung bảo vệ môi trường vào quy ước, để cùng

thi đua thực hiện; cam kết mỗi nhà có giỏ đựng rác, đổ rác đúng qui định hoặc

chôn đốt rác; chăn nuôi gia súc, gia cầm có hố xử lý phân; sử dụng hóa chất,

thuốc bảo vệ thực vật đúng qui định, đảm bảo vệ sinh môi trường... Đội tự quản

bảo vệ môi trường của Khu dân cư thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở

nhân dân thực hiện tốt những điều cam kết.

Để tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý môi

trường, đáp ứng được mục tiêu đề ra, xây dựng thành phố Cần Thơ văn minh,

xanh, sạch đẹp. Các ngành, các cấp tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường nhằm tạo sự chuyển biến

trong nhận thức của cộng đồng, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, chủ đầu tư các

khu, cụm công nghiệp. Thông qua các hình thức như: Tổ chức các hoạt động

hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới 5-6, Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn

22-9... nhằm nhắc nhở, kêu gọi mọi người quan tâm đến vấn đề môi trường

xung quanh, hạn chế sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tự giác, tích cực tham

gia các hoạt động bảo vệ môi trường để hạn chế các tác động do biến đổi khí

hậu gây ra.

Page 176: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

174

Đối với các dự án, công trình liên quan đến môi trường cần chủ động

phòng ngừa ô nhiễm ngay từ khi thẩm định, phê duyệt dự án, bố trí các ngành

sản xuất công nghiệp trên địa bàn theo hướng đầu tư vào các khu, cụm công

nghiệp... Tăng cường công tác thanh tra về bảo vệ môi trường năm 2010, tập

trung kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các khu,

cụm công nghiệp và các nguồn thải lớn trên lưu vực sông Hậu trên địa bàn. Rõ

ràng, tác hại của việc hủy hoại môi trường rất đáng lo ngại, hậu quả khó lường.

Đã đến lúc mọi cấp, mọi ngành khác phải chung tay bảo vệ môi trường, vì một

môi trường sạch, an toàn, hướng đến con người, vì ngày mai.

Về môi trường văn hóa - xã hội, công tác xây dựng đời sống văn hóa ở

Cần Thơ tiếp tục được đẩy mạnh, gắn chặt với cuộc vận động “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa” theo hướng nâng cao chất lượng.

Giai đoạn 2005-2009, chính là mốc thời gian đánh dấu sự phát triển về

chất lượng trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Công tác xây

dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được lãnh đạo thành phố chỉ đạo gắn chặt với

phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và đang ngày càng

phát huy hiệu quả trong việc góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất lẫn

tinh thần cho nhân dân ở cơ sở.

Tính đến tháng 8-2009, thành phố Cần Thơ đã xây dựng, công nhận 34

xã, phường, Nông trường văn hóa; tỷ lệ hộ gia đình văn hóa hàng năm đạt trên

85,11% tổng số hộ, với 212.500 hộ gia đình; thành lập được 343 câu lạc bộ gia

đình văn hóa và 213 khu văn hóa gia đình16.

16. Theo báo cáo tổng kết năm 2009 của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch thành phố Cần Thơ.

Page 177: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

175

Lễ công nhận xã văn hoá ở Cần Thơ

Toàn thành phố hiện có 517/519 ấp (khu vực) có cán bộ phụ trách văn

hóa cơ sở; 67/67 đội thông tin văn nghệ xã, 33 Nhà văn hóa xã; 391/519 Nhà

thông tin ấp; 8/8 thư viện quận, huyện, 2 thư viện Nông trường, 5 thư viện xã;

51 phòng đọc sách xã, 21 tủ sách Bưu điện văn hóa xã và 12 tủ sách trong các

chùa Khmer.

Việc xây dựng các mô hình văn hóa ngày càng đi vào nền nếp, các tiêu

chuẩn công nhận ấp, xã văn hóa đều được nâng lên. Nhiều mô hình mới ra đời

và đang tiếp tục phát triển theo hướng đô thị hoá như: khu phố văn hóa, phường

văn hóa; cơ quan, đơn vị, trường học có đời sống văn hóa tốt; bến xe, bến tàu,

nhà trọ, chợ văn minh; tuyến đường sáng, xanh, sạch, đẹp, hẻm đẹp v.v… Các

phong trào xây dựng xóm, ấp, xã văn hóa, khu phố văn hóa, cơ quan, đơn vị văn

hóa, doanh nghiệp văn hóa, khu dân cư tiên tiến xuất sắc ngày càng khẳng định

sức mạnh sáng tạo văn hóa của các tầng lớp nhân dân.

Nhiều quận, huyện, xã, phường đã xây dựng và cải tiến các mô hình việc

cưới, việc tang hợp lý, lành mạnh, tiết kiệm, văn minh, phát huy những giá trị

tốt đẹp của văn hóa truyền thống, được nhân dân đồng tình. Cùng với việc khôi

phục, chọn lọc và phát huy các lễ hội cổ truyền, tạo sự đa dạng cho môi trường

văn hóa, đáp ứng nguyện vọng hướng về cội nguồn của nhân dân; nhiều địa

Page 178: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

176

phương, nhiều ngành trong thành phố đã xây dựng được những lễ hội mới gắn

với lịch sử cách mạng và kháng chiến, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.

Đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân được nâng lên tạo ra môi

trường xã hội lành mạnh, góp phần đáng kể vào việc hình thành nhân cách con

người mới. Người dân ngày càng có ý thức trong việc tham gia xây dựng đời

sống văn hóa ở cơ sở, tạo nên nếp sinh hoạt mới - một nếp sống theo trật tự kỷ

cương đô thị.

Trung tâm văn hóa làm tốt công tác chỉ đạo chuyên môn, hướng dẫn

phương pháp cho cơ sở, tổ chức hoạt động định kỳ tại nhà văn hóa có sự phối

hợp, hỗ trợ của các đội thông tin lưu động thành phố, quận, huyện, xã, phường.

Thành lập câu lạc bộ chủ nhiệm các xã văn hóa, câu lạc bộ giám đốc trung tâm

văn hóa các quận, huyện. Chỉ đạo và cử cán bộ hướng dẫn về phương pháp, hỗ

trợ trang thiết bị tổ chức các hội thi, hội diễn, các chương trình văn nghệ tạo

không khí sôi nổi đều khắp trên địa bàn.

Đã tổ chức hàng trăm lớp bồi dưỡng năng khiếu, tấp huấn nghiệp vụ

như: ca, múa, nhiếp ảnh, khiêu vũ, thời trang, nhạc ngũ âm hoặc kỹ năng biên

tập, dẫn chương trình, kiến thức về đờn ca tài tử, thẩm định tay nghề, cấp giấy

chứng nhận nghệ nhân cho nhạc công đờn, ca tài tử. Tổ chức và hoạt động Câu

lạc bộ - Nhà văn hóa… góp phần nâng cao năng lực, trình độ, khả năng tác

nghiệp của cán bộ cơ sở, bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền

thống của địa phương và nâng cao chất lượng của mạng lưới cộng tác viên của

toàn hệ thống.

Hoạt động câu lạc bộ, hệ thống trung tâm văn hóa Cần Thơ đã tổ chức

nhiều mô hình câu lạc bộ sở thích từ thành phố đến cơ sở. Hiện có 65 câu lạc bộ

đang sinh hoạt tại nhà văn hóa thành phố, quận, huyện; trên 816 câu lạc bộ tại

cơ sở và nhiều tổ, đội, nhóm trong các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể vừa thỏa

mãn nhu cầu của nhân dân, vừa tạo mạng lưới cộng tác viên cho hoạt động của

các trung tâm.

Page 179: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

177

Mặc dù xây dựng môi trường văn hóa của thành phố Cần Thơ có những

chuyển biến bước đầu đáng khích lệ, nhưng những tiến bộ đạt được chưa đồng

đều và vững chắc: môi trường văn hóa ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp nghiêm

trọng, nhất là sự gia tăng của mại dâm, ma tuý, cờ bạc, tội phạm, tai nạn giao

thông. Những tiêu cực trong hoạt động âm nhạc, phim ảnh, mỹ thuật, kiến trúc,

quảng cáo,… gây bức xúc trong dư luận. Tình trạng buông lỏng quản lý và thiếu

cơ chế phù hợp trong quản lý hoạt động kinh doanh văn hóa, nhất là băng đĩa

lậu, mạng tin điện tử (Internet), dịch vụ Karaoke không lành mạnh, nhà hàng

dịch vụ, báo chí… sai quy định còn để kéo dài. Bệnh hình thức còn khá phổ

biến ở một số ngành, địa phương, hạn chế hiệu quả các phong trào, các cuộc vận

động văn hóa.

Vai trò định hướng của hệ thống thông tin đại chúng, công tác thông tin

tuyên truyền bằng hệ thống các đội thông tin lưu động, in ấn, xuất bản, nhà văn

hóa, nhà thông tin, triển lãm, các đội chiếu bóng lưu động, phát hành sách báo,

tạp chí, phát thanh truyền hình… ở Cần Thơ luôn được xem trọng, loại hình

hoạt động ngày càng phong phú, đa dạng và mang lại hiệu quả thiết thực.

Các hoạt động thông tin tuyên truyền được tổ chức kịp thời, có tác dụng

tích cực trong việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà

nước, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương; phát hiện

và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham

nhũng, quan liêu, lãng phí và sự suy thoái đạo đức, lối sống. Đặc biệt là phục vụ

các ngày lễ lớn với nhiều hình thức sáng tạo, có tác dụng giáo dục truyền thống

yêu nước, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cổ vũ mọi người hăng hái

sản xuất, tham gia các phong trào hành động cách mạng, tạo bầu không khí phấn

khởi trong các tầng lớp nhân dân.

Chất lượng phục vụ các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ, kỷ niệm đã được

nâng lên trình độ mới. Nếu trước đây tổ chức phục vụ lễ, kỷ niệm còn đơn điệu,

thì ngày nay kể cả cấp quận, huyện cũng tổ chức được nhiều hình thức lễ hội,

Page 180: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

178

sân khấu hoá tạo nên hiệu quả tuyên truyền cao hơn, thu hút lượng người tham

gia ngày càng đông hơn.

Đặc trưng sông nước là trở ngại lớn cho việc tổ chức tuyên truyền đến

nhân dân ở những xã, ấp vùng ven. Do vậy, các địa phương đã có nhiều mô hình

sáng tạo trong hoạt động như: tổ chức thuyền văn hóa, xe thông tin lưu động, tổ

thông tin văn nghệ, nhóm đờn ca tài tử, nhà thông tin ấp, hệ thống truyền thanh

xã, phường và phương tiện thông tin của các chùa Khmer.

Bên cạnh việc tổ chức các lễ hội, hoạt động văn hóa - văn nghệ, nét mới

là đã xây dựng, sản xuất được nhiều công trình, sản phẩm văn hóa vừa đáp ứng

nhu cầu hưởng thụ cho công chúng, vừa có tác dụng tuyên truyền sâu hơn ý

nghĩa của các ngày kỷ niệm lớn, thiết thực chào mừng Đại hội Đảng các cấp và

Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố.

Công tác thông tin đại chúng, nhất là báo chí ở Cần Thơ đạt được

những kết quả đáng kể, nhưng vẫn còn nổi lên một số vấn đề đáng chú ý: có

xu hướng thương mại hoá công tác báo chí; thông tin về những thành tựu,

nhân tố mới, những gương sáng và giải pháp mới trong làm ăn, công tác

chưa trở thành mối quan tâm thường xuyên của báo chí, chưa có sức thuyết

phục cao; mặt trái xã hội đề cập quá nhiều và không thích đáng. Thông tin

trên các trang tin điện tử (Website) còn nhiều sơ hở, khai thác thông tin

nước ngoài thiếu chọn lọc, kiểm chứng.

Phát triển văn học và nghệ thuật, trong những năm gần đây, thành phố

Cần Thơ đã củng cố một bước tổ chức của các hội văn học nghệ thuật, xác định

rõ hơn tính chất “chính trị - xã hội - nghề nghiệp” của các hội nhằm tập hợp,

đoàn kết các văn nghệ sĩ; phát hiện, bồi dưỡng tài năng; tăng cường đầu tư sáng

tác và giới thiệu, truyền bá sáng tác mới. Trang cấp kinh phí cho các hội văn học

nghệ thuật về căn bản đảm bảo cho hoạt động của hội.

Bên cạnh các văn nghệ sĩ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến tiếp

tục giữ vị trí nòng cốt trong sáng tác, đã hình thành lực lượng nghiên cứu, phê

bình, sáng tác trẻ đông đảo, có triển vọng.

Page 181: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

179

Đoàn cải lương Tây đô, hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp của thành

phố Cần Thơ, chủ yếu ở 2 đoàn nghệ thuật: Ca múa kịch Cần Thơ17 và Cải

lương Tây đô.

Đoàn cải lương Tây Đô tiếp tục phát huy truyền thống, đội ngũ cán bộ

diễn viên tương đối vững tay nghề. Ngoài phục vụ nhiệm vụ chính trị, đoàn cố

gắng duy trì hoạt động ở vùng nông thôn. Thỉnh thoảng, các đài phát thanh -

truyền hình của khu vực, của thành phố mời đoàn tham gia chương trình thu,

phát hình kịch bản cải lương hoặc những bài ca lẻ. Hình thức biểu diễn của đoàn

ngày càng điều chỉnh theo hướng tổng hợp, tiết mục gọn nhẹ; chỉ diễn một

vài trích đoạn cải lương, thay vì nguyên vở như thời kỳ trước.

Trường trung học Văn hoá Nghệ thuật đã nâng cấp lên thành trường cao

đẳng văn hóa nghệ thuật, hàng năm trường đều có sự phát triển về quy mô và

số lượng lớp học, khoa đào tạo, số lượng học viên. Trường luôn chủ động phối

hợp, liên kết với Trường đại học Văn hoá Hà Nội, Trường đại học Văn hoá

thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thêm bậc học cao đẳng, đại học. Trường đang

bổ sung đội ngũ cán bộ, giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng chương

trình, giáo trình giảng dạy để lập đề án nâng lên bậc đại học đến năm 2020.

Xây dựng, phát triển các doanh nghiệp thuộc ngành văn hoá, thành phố

Cần Thơ có 03 doanh nghiệp văn hoá; đến năm 2006, cả 03 doanh nghiệp đã

chuyển sang cổ phần hoá với tên gọi: Công ty cổ phần sách và dịch vụ văn hoá

Tây Đô, Công ty cổ phần điện ảnh Cần Thơ, Công ty cổ phần in tổng hợp Cần

Thơ. Quá trình thực hiện kinh doanh theo phương thức mới, dù còn không ít

khó khăn, thách thức nhưng cả 03 doanh nghiệp đều hoàn thành công tác phục

vụ các nhiệm vụ chính trị, cơ sở vật chất không ngừng được đầu tư, chỉ tiêu

kinh doanh của Công ty hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.

Mặt bất cập trên lĩnh vực văn học và nghệ thuật đáng quan tâm là: còn ít

những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh chân thực,

17. Năm 2004, đoàn Ca múa kịch chuyển về tỉnh Hậu Giang.

Page 182: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

180

sâu sắc, đúng tầm vóc sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới, đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố.

Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, hoạt động bảo tồn và phát huy

các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở Cần Thơ có bước tiến đáng kể. Công

tác kiểm kê di tích, sưu tầm văn hóa phi vật thể, xây dựng luật pháp, thực hiện

các chương trình chống xuống cấp di tích đã được các cơ quan trong thành phố

quan tâm thực hiện. Việc xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy các di sản

văn hóa đạt được bước tiến về cả quy mô, chất lượng và hiệu quả. Đã tạo được

phong trào quần chúng rộng rãi, góp nhiều công sức, tiền của cho bảo tồn, tôn

tạo, vừa tham gia quản lý và vừa phát huy các di sản đó.

Văn hóa dân gian, cổ truyền, các loại hình nghệ thuật của các dân tộc

anh em như: Khmer, dân tộc Hoa đã được tổ chức sưu tầm, lưu giữ lâu dài

phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân. Bảo tàng thành phố đã có những bước

phát triển nhảy vọt. Từ cơ sở cũ chật hẹp, nội dung trưng bày hạn chế, bảo tàng

đã được đầu tư xây dựng mới có quy mô lớn ở đồng bằng sông Cửu Long.

Mạng lưới các phòng truyền thống quận, huyện, xã, phường phục vụ tốt công

tác giáo dục truyền thống tại địa phương.

Trong 5 năm 2005-2009, đã tổ chức sưu tầm bổ sung hơn 2.847 hiện vật

các loại. Hoàn thành phòng trưng bày với diện tích 360m2 tại di tích Chiến

thắng 75 tiểu đoàn địch, với 176 hiện vật và hình ảnh các loại. Hoàn thành

công tác trưng bày Bảo tàng Cần Thơ trên diện tích 1.388m2 với 1.195 hiện

vật, 981 hình ảnh và 239 tài liệu khoa học bổ trợ.

Thực hiện dự án bảo tồn và phát huy các giá trị di sản phi vật thể “Kỹ

thuật đóng ghe xuồng ở Phụng Hiệp”, “Chợ nổi”, “Đờn ca tài tử”, “Nghi thức

làm phước trong Lễ dâng y của người Khmer”, “Múa bóng rỗi” và “Nghề dệt

chiếu”. Mới đây, tại lễ hội đời sống dân gian Smíthonian 2007, diễn ra từ ngày

23-6 đến ngày 09-7-2007 tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ, “Nghệ thuật làm

bánh dân gian” của nghệ nhân Nguyễn Thị Xiềm là một nét văn hóa độc đáo

Page 183: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

181

của Cần Thơ18. Tổ chức trưng bày 16 chuyên đề tại bảo tàng, phục vụ hơn 500

ngàn lượt khách tham quan, trong đó có hơn 5.000 lượt khách nước ngoài.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được về công tác bảo tồn và phát huy

các di sản văn hóa, vẫn còn một số hạn chế là: công tác phát hiện, bảo tồn, phát

huy giá trị và khai thác giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể còn

nhiều bất cập do thiếu kinh phí và cơ chế quản lý phù hợp, phát sinh nhiều tiêu

cực trong trùng tu, tôn tạo. Một số di sản văn hóa vật thể tiếp tục bị xâm phạm,

lấn chiếm, đánh cắp, làm hư hại khá nặng nề, nhiều di sản không còn khả năng

khôi phục.

Văn hóa đối với tôn giáo, các cấp uỷ Đảng và chính quyền ở Cần Thơ

đảm bảo cho các tôn giáo hoạt động bình thường trên cơ sở tôn trọng pháp

luật, nhiều lễ hội của các tôn giáo, như: lễ Phật Đản, Giáng sinh, các lễ hội tôn

giáo của người Khmer, người Hoa đã trở thành sinh hoạt văn hóa của cộng

đồng dân cư trong thành phố. Lãnh đạo thành phố và các ngành chức năng

thành phố Cần Thơ đã triển khai nhiều hoạt động văn hóa để phát huy ý tưởng

công bằng, bác ái, hướng thiện… trong các giáo lý tôn giáo, xây dựng môi

trường văn hóa lành mạnh, góp phần ổn định chính trị xã hội, không ngừng

nâng cao đời sống đồng bào có đạo.

Mặt nhược điểm là, nhận thức về tôn giáo và văn hóa trong tôn giáo của

một số cấp uỷ đảng và chính quyền còn sơ lược, đơn giản, chưa thật nắm vững

tính đặc thù để lãnh đạo, quản lý phù hợp, có hiệu quả. Thiếu sự phối hợp đồng

bộ, nhịp nhàng giữa các ngành, đoàn thể trong công tác phát triển văn hóa đi

đôi với phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. 3.2. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ

YẾU ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ TRONG THỜI

KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 18. Bộ Văn hoá - thông tin đã quyết định chọn 11 loại hình di sản văn hoá phi vật thể của Việt nam để giới thiệu tại Lễ hội đời sống dân gian Smíthonian 2007, diễn ra từ ngày 23-6 đến 09-7-2007 tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ, có 39 nghệ nhân tham gia trong các loại hình văn hoá di sản: Nghệ thuật cồng chiêng, nghề đẽo thuyền độc mộc, nghề đan gùi và sử thi của đồng bào Bana Rơngao (Kon Tum); đờn ca tài tử, múa lân (Bạc Liêu); nghệ thuật hát bội (Vĩnh Long); nghề dệt dân tộc Chăm (An Giang)…và nghệ thuật làm bánh dân gian của nghệ nhân Nguyễn Thị Xiềm (Cần Thơ).

Page 184: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

182

3.2.1. Quan điểm và phương hướng chung trong việc phát triển

văn hóa ở Cần Thơ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Cách đây từ rất lâu, con người đã nhận thức được vai trò to lớn của văn

hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, do trình độ phát triển và

do điều kiện lịch sử của mỗi nước mà có sự vận dụng khác nhau cho phù hợp

với đặc điểm tình hình của nước mình.

Ở Liên Xô, cách nay nhiều thập kỷ, trong quá trình lãnh đạo nhân dân

xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ văn hóa

của nhân dân còn thấp kém hơn nhiều so với các nước phát triển, V.I.Lênin đã

khẳng định tính cấp thiết của cách mạng văn hóa. Ông đã coi việc “tiến hành

công tác văn hóa trong nông dân” là một trong “hai nhiệm vụ chủ yếu có ý

nghĩa đánh dấu thời đại”, và ông khẳng định “chỉ cần hoàn thành cuộc cách

mạng này là đủ để… trở thành một nước hoàn toàn xã hội chủ nghĩa xã hội”. Ở

nước ta, ngay sau khi nước ta độc lập, nhân dân ta bắt tay vào công cuộc xây

dựng xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định, để “biến một xã

hội dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao”, chúng ta phải phát triển

đồng thời cả kinh tế và văn hóa, lấy phát triển văn hóa làm cơ sở để phát triển

kinh tế. Điều đó cho thấy, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa

Mác - Lênin, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa là nguồn lực nội sinh của

mọi sự phát triển, là cơ sở cho sự phát triển lâu bền, toàn diện; rằng văn hóa

không chỉ gắn liền với kinh tế, phát triển văn hóa không chỉ là điều kiện cho sự

phát triển kinh tế, mà hơn thế, phát triển văn hóa cùng với phát triển kinh tế

đều phải hướng tới phát triển xã hội, phát triển con người, hướng tới mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trên cơ sở nhận thức một cách sâu sắc vai trò to lớn của văn hóa đối

với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định:

“Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên

Page 185: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

183

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế

- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây

dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập

kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh

viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh

văn hóa con người Việt Nam” [32, 106] để văn hóa thực sự vừa là mục tiêu vừa

là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Trên nền tảng lý luận đó, phương hướng xây dựng nền văn hóa mới trong

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Cần Thơ là: xây

dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc của vùng đồng bằng sông nước, văn

minh miệt vườn, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu

sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và

thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng

của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của

cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây

dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con

người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát

triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu

dương những giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu

tranh chống những biểu hiện phi văn hóa. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền

tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng

đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự

nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Để thực hiện phương hướng chung đó, cần quán triệt các quan điểm

chủ yếu như sau:

Quan điểm thứ nhất, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ phải thật

sự coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền

Page 186: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

184

tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không

quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công

bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết

quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố

văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi

phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương… biến thành

nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.

Quan điểm thứ hai là, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là

xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị, đặc điểm riêng của văn hóa Cần

Thơ trên cơ sở tiếp thu những cái mới, cái tiến bộ của những thành tựu và

tinh hoa văn hóa trong thời đại mới .

Xây dựng, giữ gìn và phát huy truyền thống và hiện đại của văn hóa Cần

Thơ là giữ gìn và phát huy những giá trị và đặc điểm riêng của văn hóa Cần

Thơ như: đặc điểm của nền văn hóa mang tính sông nước, văn hóa miệt vườn

và tính cách phóng khoáng, giản dị, khoan dung, trọng nghĩa khinh tài của

người dân Cần Thơ; giữ gìn và phát huy những giá trị, đặc điểm văn hóa Cần

Thơ còn là phải tôn trọng tính phong phú và đa dạng của nền văn hóa khác

nhau của các dân tộc khác nhau (Kinh, Khmer, Hoa), đã dung hợp, giao thoa

cũng như tác động lẫn nhau trong suốt chiều dài lịch sử, cải tạo, đấu tranh xây

dựng vùng đất này, gồm văn hóa Kinh, Khmer, Hoa, được biểu hiện qua các

loại hình văn hóa như: nghệ thuật kiến trúc xây dựng, với những kiểu kiến trúc

khác nhau (nhà cổ Long Tuyền, chùa Nam Nhã, chùa Khmer…), những khu di

tích lịch sử - văn hóa (lịch sử khai dân, mở ấp,…), lịch sử đấu tranh cách mạng

(lộ Vòng Cung, khu căn cứ tỉnh ủy…), các phong tục tập quán (cưới xin, ma

chay…), các lễ hội của các dân tộc (lễ cúng đình của người Việt, lễ Ok

Ombok, lễ Đôn ta của người Khmer…), các hình thức văn học - nghệ thuật (ca

dao, dân ca, hò, vè, hát ru…). Tất cả những giá trị, đặc điểm đó phải đặt trong

Page 187: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

185

mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại để giáo dục cho thế hệ

trẻ hiểu được truyền thống hào hùng của nhân dân Cần Thơ.

Giữ gìn và phát huy các giá trị, các đặc điểm của văn hóa Cần Thơ

phải gắn kết với mở rộng giao lưu với các nền văn hóa của các vùng miền

khác nhau trên cả nước và quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái

tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác và phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi

thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.

Quan điểm thứ ba là, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là xây

dựng một nền văn hóa phải đảm bảo tính thống nhất mà đa dạng trong cộng

đồng các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa sống ở thành phố Cần Thơ. Các dân tộc

sống trên địa bàn thành phố Cần Thơ đều có những giá trị và sắc thái văn hóa

riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn

hóa Cần Thơ và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình

đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa cúa các dân tộc anh em.

Quan điểm thứ tư là, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là sự

nghiệp của toàn dân do Đảng bộ thành phố Cần Thơ lãnh đạo, trong đó đội

ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Mọi người dân Cần Thơ phấn đấu vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đều tham gia

sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa thành phố. Công nhân, nông

dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự

nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý

của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng

trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.

Quan điểm thứ năm, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là một

sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và kiên trì,

thận trọng. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của Cần Thơ,

sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá

trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý

và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức

Page 188: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

186

tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, “xây” đi đôi với “chống”,

lấy “xây” làm chính”. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn

hóa quý báu của Cần Thơ cũng như của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn

hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì

cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu,

chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hòa bình”.

3.2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa giữa truyền

thống và hiện đại trong việc phát triển văn hóa ở Cần Thơ thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa

Để giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại

trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ hiện nay, tác giả xin đề xuất

các nhóm giải pháp như sau:

1- Trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, nhiệm vụ quan trọng

hàng đầu là tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm chuyển

biến căn bản tâm lý, lối sống của mọi tầng lớp nhân dân (kể cả cán bộ, đảng

viên) sống trong một tỉnh thuần nông qua nhiều thế hệ sớm thích nghi với

đời sống đô thị; làm chuyển đổi căn bản về nhận thức của cán bộ, đảng viên

và nhân dân, nhất là cán bộ quản lý về vai trò của văn hóa đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội. Có như vậy mới huy động được sức mạnh tổng hợp

của nhân dân trong việc xây dựng thành phố Cần Thơ văn minh, hiện đại.

Tập trung đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa tương ứng và khai thác có

hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa đó; đồng thời đầu tư xây

dựng, cải tạo nâng cấp một số công trình văn hóa, nghệ thuật hiện đại. Thu

hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các nhóm xã hội, giữa đô thị và

nông thôn, giữa vùng kinh tế phát triển và vùng sâu, vùng xa. Chú trọng xây

dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng môi

trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Môi trường văn hóa của xã

hội cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo dục nhân cách con

người, trong đó có giáo dục truyền thống.

Page 189: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

187

Đưa cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”

đi vào chiều sâu có tính thiết thực và hiệu quả. Nâng cao tính tự quản của

cộng đồng trong xây dựng nếp sống văn hóa, khu dân cư và đơn vị văn hóa.

Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; đẩy lùi hủ tục,

các tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng. Coi

trọng vai trò, vị trí của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ và duy trì phát

triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Cần Thơ.

Trên cơ sở đó, xác lập những định hướng xây dựng một hệ thống giá

trị mới vừa dân tộc vừa hiện đại và cần được xã hội hóa bằng nhiều chính

sách và biện pháp, trong đó quan trọng nhất là giáo dục gia đình và trường

học, là môi trường văn hóa lành mạnh và phong phú của xã hội, là hệ thống

pháp luật thống nhất và đồng bộ.

2- Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Chăm lo

phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí để nhân dân hưởng

thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ

xây dựng con người Cần Thơ theo 5 đức tính được xác định trong Nghị

quyết Trung ương 5 (khoá VIII) và

những chuẩn mực giá trị của con người Cần Thơ đương đại: “Trí tuệ, năng

động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”. Việc xây dựng nền văn hoá mới, con

người mới ở Cần Thơ cần cụ thể hóa theo các đối tượng, gắn chặt mục tiêu

xây dựng con người mới với những đặc điểm vốn có của Cần Thơ như:

phóng khoáng, khoan dung, cộng đồng, nhân ái, vừa phong phú, sâu sắc,

vừa năng động, sáng tạo. Quy tụ mọi hoạt động văn hóa, phát huy thế mạnh

của từng loại hình văn hóa - thông tin phục vụ nhiệm vụ bồi dưỡng lòng yêu

nước, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở Cần Thơ, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giáo dục về chủ nghĩa xã hội,

lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, tạo sự chuyển biến rõ rệt về bản

Page 190: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

188

lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trí tuệ người Cần Thơ và đời sống

văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà

nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia

đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở ở Cần Thơ. Cần xác định đây là

nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.

Thường xuyên nâng cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng nhu cầu

văn hóa ngày càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân ở Cần Thơ; đi

đôi với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các tài năng văn hóa, nhất là đội ngũ

đạo diễn, nhà văn giỏi; khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo được nhiều công

trình văn hoá nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao ở Cần Thơ về tư tưởng và

nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và công cuộc

đổi mới. Đồng thời có giải pháp, chính sách phù hợp để bảo tồn, lưu truyền

những công trình văn hóa nghệ thuật tiêu biểu này cho muôn đời sau.

Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, trước hết phải coi trọng giáo

dục ngay từ gia đình. Trong suốt chiều dài lịch sử, gia đình bao giờ cũng giữ

vai trò cực kỳ quan trọng trong nuôi dạy con cái, truyền nối các giá trị văn

hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác, hình thành nhân cách ban đầu của thế hệ

trẻ. Ở đây, người mẹ đóng vai trò hết sức quan trọng. Vấn đề bức thiết hiện

nay là phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ người mẹ, cung cấp những tư liệu cần

thiết cho người mẹ làm tròn sứ mạng giáo dục truyền thống cho con cái

bằng những hình thức và nội dung phù hợp như lời ru, chuyện kể, trò chơi

con trẻ… Trong nhà trường, nội dung giáo dục truyền thống thể hiện tập

trung nhất trong môn lịch sử. Cần khẳng định rằng, môn lịch sử, trước hết là

lịch sử dân tộc, có nội dung rất phong phú và có thể phát huy nhiều tác dụng

giáo dục truyền thống. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức nghiên

cứu, đánh giá lại một cách khách quan và đưa ra một chương trình cải

cách toàn diện về môn học này.

Trong thời gian qua, do ảnh hưởng mặt trái của nền kinh tế thị

trường nên môi trường văn hóa của xã hội bị nhiễm độc khá nghiêm

Page 191: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

189

trọng, gây không ít hậu quả đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh,

thiếu niên. Vì vậy, đề nghị Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch nên có những

văn bản pháp quy, những chương trình và biện pháp hữu hiệu nhằm nâng

cao và làm phong phú thêm môi trường và đời sống văn hóa của nhân

dân, trong đó giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc giữ

vị trí chi phối.

Cho đến nay, tuy Cần Thơ đã được Nhà nước công nhận là thành phố

loại I, trực thuộc Trung ương nhưng tỷ lệ dân số làm nông nghiệp còn nhiều;

do đó, nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là nền tảng kinh tế - xã hội của

Cần Thơ. Trong nông thôn, gia đình là tế bào của xã hội, nhưng bao giờ cũng

tồn tại gắn bó mật thiết với cộng đồng làng, xã. Có thể nói, nền văn hóa nông

nghiệp thực chất là “văn hóa làng, xã” mà cội nguồn và cơ sở căn bản là nền

văn hóa dân gian. Làng (xã) là địa bàn tụ cư truyền thống, là đơn vị kinh tế - xã

hội cơ sở, đồng thời là không gian văn hóa tác động sâu sắc đến sự phát triển

nhân cách con người, đến sự kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống.

Do đó, cần bảo đảm sự tôn trọng và thực thi pháp luật của nhà nước xuống tận

cơ sở; đồng thời khai thác, phát huy mặt tích cực kết hợp với việc hạn chế, xóa

bỏ mặt tiêu cực trong truyền thống cộng đồng, bảo tồn thuần phong mỹ tục của

từng làng, xã.

3- Trong phát triển kinh tế - xã hội, cần bảo đảm sự phát triển cân

đối cả ba lĩnh vực: kinh tế, xây dựng đảng và văn hóa; trong đó, phát

triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đảng là then chốt và văn

hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Không nên quá chú trọng phát triển

kinh tế, xem nhẹ phát triển văn hóa; ngược lại, không quá đề cao phát

triển văn hóa, hạ thấp vai trò của phát triển kinh tế, tạo nên sự phát triển

đồng bộ của các lĩnh vực này chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho

sự phát triển toàn diện và bền vững của thành phố.

Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh

đốn Đảng thông qua cuộc vận động lớn: Học tập và làm theo tấm gương

Page 192: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

190

đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là tinh thần đoàn kết nội bộ, phải giữ gìn

sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con người của mắt mình, kiên quyết

đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, mọi hiện tượng bè phái, cơ hội, làm

mất đoàn kết trong đảng để Đảng bộ Cần Thơ thật sự trong sạch, vững

mạnh, là “đạo đức”, là “văn minh”. .. Cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức,

lối sống cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể ở Cần Thơ như: truyền

thống cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, tăng

cường đoàn kết để phát huy tất cả các nguồn lực, mọi tiềm năng, lợi thế

vốn có và sẽ có, coi đó là giải pháp quan trọng có tính chất quyết định để

đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng thành phố

công nghiệp, văn minh, hiện đại, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của

vùng hạ lưu sông Mê Kông, là một cực tăng trưởng của vùng đồng bằng

sông Cửu Long và của cả nước. Trước mắt, cần nâng cao chất lượng công

tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách hành chính để xây dựng Đảng

bộ Cần Thơ luôn luôn đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh.

4- Bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa, trong quá trình mở

rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung

xây dựng những giá trị mới của văn hóa đương đại ở Cần Thơ, cần tiếp

tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của

truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa

thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại. Cần có quan điểm, phương

pháp rõ ràng về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, vận dụng

sáng tạo các chính sách của nhà nước phù hợp với điều kiện của Cần Thơ để

bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc; đồng thời cần có biện pháp kiên quyết

ngăn chặn những loại hình văn hóa không lành mạnh xâm nhập vào Cần

Thơ. Đẩy mạnh hơn nữa việc sưu tầm, nghiên cứu và phổ biến các giá trị

văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc, có chính sách thỏa đáng đối

với các nghệ nhân dân gian; có kế hoạch phù hợp, cụ thể từng thời kỳ, từng

năm để bảo tồn những giá trị văn hóa vật thể. Tiếp tục trùng tu, tôn tạo các

Page 193: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

191

di tích cách mạng, lịch sử, văn hóa, danh thắng trọng điểm. Thường xuyên

giáo dục, nâng cao ý nghĩa lịch sử và văn hóa truyền thống của dân tộc và

của quê hương đối với mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Gắn kết chặt chẽ công tác bảo tồn di sản văn hóa với kinh tế du lịch

và thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa dân

tộc trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ, tăng cường hiểu biết giữa

nhân dân Cần Thơ với nhân dân các nước, trước hết là với các nước bạn

là Trung Quốc, Campuchia và Lào. Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng,

bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, vừa kiên trì

củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Cần Thơ,

đấu tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn hóa để chia rẽ, phá hoại

khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

5- Phát triển nền văn học, nghệ thuật Cần Thơ hiện đại, đậm đà bản

sắc dân tộc, thể hiện chân thật đời sống nhân dân, lịch sử vùng đất Cần

Thơ và công cuộc đổi mới ở Cần Thơ với thái độ cổ vũ cái đúng, cái đẹp,

đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những

phong cách nghệ thuật và phương thức thể hiện mới đáp ứng nhu cầu tinh

thần lành mạnh của công chúng; đồng thời bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ

lành mạnh cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Khắc phục yếu kém,

nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình

văn học, nghệ thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển lành mạnh của

sáng tác văn học, nghệ thuật trên địa bàn thành phố Cần Thơ.

Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định của pháp luật về sở

hữu trí tuệ, đồng thời xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ có

tính đặc thù, chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của văn nghệ sĩ, nghệ

nhân dân gian nhằm tạo điều kiện thuận lợi và động viên văn nghệ sĩ,

nghệ nhân dân gian sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị

cao về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần xây dựng nền văn hóa và con

người Cần Thơ. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của hoạt động giới thiệu,

Page 194: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

192

truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, phục vụ nhân dân và công

chúng văn học, nghệ thuật ở nước ngoài.

Nghiên cứu đề xuất với các Bộ, ngành có liên quan hoàn thiện

chương trình, giáo trình; đổi mới phương thức đào tạo, gắn đào tạo với

thực tiễn nghệ thuật Cần Thơ, phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ

cao nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng văn hóa Cần

Thơ. Tiếp tục củng cố, đổi mới chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt

động, phát huy vai trò, năng lực tập hợp, tổ chức đội ngũ văn nghệ sĩ,

nghệ nhân dân gian của các hội văn học, nghệ thuật. Tăng cường đầu tư

cho văn hóa, đảm bảo kinh phí cho các chương trình mục tiêu lớn, cho

hoạt động sáng tạo của các hội văn học, nghệ thuật.

Chú trọng nâng cao chất lượng tư tưởng - văn hóa, khắc phục xu

hướng thương mại hóa đơn thuần, xa rời tôn chỉ mục đích trong hoạt động

báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản. Xây dựng đội ngũ hoạt động báo

chí, xuất bản vững vàng về tư tưởng - chính trị và nghiệp vụ, có năng lực

hoạt động thích ứng với thời kỳ mới nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động

của hệ thống thông tin đại chúng. Đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật

chất - kỹ thuật của báo Cần Thơ theo hướng hiện đại. Phát triển, mở rộng

việc sử dụng mạng Internet, đồng thời có biện pháp hạn chế tác dụng tiêu cực

của thông tin mạng, ngăn chặn có hiệu quả hành vi lợi dung thông tin mạng

truyền bá tư tưởng phản động, lối sống trái đạo lý, phản tiến bộ.

Mở rộng và tăng cường hiệu quả hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa.

Đổi mới việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật Cần Thơ và đất

nước, con người Cần Thơ với thế giới. Mở rộng phạm vi, đồng thời chú trọng

nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh

vực báo chí, xuất bản. Sớm hoàn thành việc xây dựng trung tâm văn hóa Tây

Đô, trung tâm dịch thuật - quảng bá văn hóa Cần Thơ ở nước ngoài.

Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa, giới thiệu các

tác phẩm văn học, nghệ thuật xuất sắc của nước ngoài với công chúng Cần

Page 195: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

193

Thơ, nhằm góp phần tăng cường hiểu biết và bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ

lành mạnh cho công chúng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc. Chủ động phối hợp với các đối tác nước ngoài tổ chức các hoạt động

văn hóa, văn học nghệ thuật quốc tế tại Cần Thơ, từng bước khẳng định Cần

Thơ là địa chỉ giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa.

Xây dựng cơ chế, chế tài để ngăn chặn, đẩy lùi sự xâm nhập của các

sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động từ nước ngoài vào Cần Thơ, bồi dưỡng

và nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ đối với các sản

phẩm trên.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong những năm qua, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần

Thơ đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: nền kinh tế duy trì

được tốc độ tăng trưởng khá cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, huy

động vốn đầu tư xã hội có nhiều tiến bộ, nhiều công trình kinh tế - xã hội quan

trọng được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng, bộ mặt đô thị cả nội thành và

ngoại thành thay đổi nhanh chóng. Văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực, an

sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, công

tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả khá tốt.

Tuy nhiên chất lượng, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa được cải

thiện nhiều, quá trình phát triển còn tiềm ẩn nhân tố chưa bền vững, chưa tương

xứng với tiềm năng, thế mạnh thành phố. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực,

nhưng công nghiệp còn nhỏ lẻ, chưa có doanh nghiệp lớn; các loại hình dịch vụ

chất lượng cao còn hạn chế; sản xuất nông nghiệp còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá

cả không ổn định, đời sống của một bộ phận nông dân vẫn còn nhiều khó khăn.

Phát triển văn hóa - xã hội chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Chất

lượng nguồn nhân lực còn thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân lao động

còn nhiều khó khăn, kết quả giảm nghèo chưa thực sự vững chắc, nhiều vấn đề

xã hội bức xúc phát sinh quá trình đô thị hóa chưa được giải quyết triệt để. Công

Page 196: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

194

tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ vào cuộc sống còn hạn chế, hiệu

quả chưa cao. Chất lượng giáo dục, cả về văn hóa, chính trị, hướng nghiệp chưa

đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực. Đời sống văn hóa cơ sở yếu kém, thiếu chiều

sâu, chậm triển khai vận động thực hiện tiêu chí về người Cần Thơ theo tinh

thần Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó, Đảng bộ thành phố Cần Thơ

cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp nêu trên, có

như vậy văn hóa mới phát triển tương xứng với tăng trưởng kinh tế để thành phố

Cần Thơ phát triển nhanh và bền vững, sớm trở thành trung tâm động lực phát

triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Page 197: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

195

KẾT LUẬN CHUNG

Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo ra và được con người tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,

trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội và giữa con

người với con người. Văn hóa là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần,

cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự

tiến bộ của loài người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ

khác. Văn hóa, đó là thuộc tính bản chất, tộc loài của con người với các chức

năng: giáo dục, nhận thức, định hướng, đánh giá, xác định chuẩn mực của hành

vi, điều chỉnh các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song, cốt lõi trong các chức năng

của những giá trị văn hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức.

Chính vì vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế

- xã hội nên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng khẳng

định:“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [29, 110] và Nghị quyết hội nghị lần thứ

năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã xác định: “Văn hóa là nền

tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển

kinh tế - xã hội… Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là

một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì

thận trọng” [29, 55 - 58].

Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, kinh tế không thể tự

mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, văn hóa không phải là sản phẩm thụ

động, sản phẩm tự nhiên của kinh tế, mà là cội nguồn của sự tăng trưởng kinh

tế, là “nguồn lực nội sinh” của phát triển kinh tế. Đồng thời, phát triển văn hóa,

giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, “giải quyết tốt sự thống nhất và

mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa”

chính là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển lâu bền, phát triển vì mục tiêu nhân

văn, vì giá trị nhân đạo.

Page 198: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

196

Ý thức được tầm quan trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền

thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa nên trong những năm qua

Cần Thơ luôn thể hiện nhất quán quan điểm: hiện đại bắt nguồn từ truyền thống,

lấy truyền thống làm nền tảng trên cơ sở chắt lọc, kế thừa và phát triển truyền

thống; đồng thời không phủ định sạch trơn truyền thống, truyền thống văn hóa ở

Cần Thơ được bảo tồn, phát triển nâng cao sinh động, phong phú qua tính hiện

đại. Nhờ vậy, mà thành phố Cần Thơ đã thu được những thành tựu và những

kinh nghiệm của quá trình đổi mới nói chung và lĩnh vực phát triển văn hóa - xã

hội nói riêng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền văn hóa mới được tạo dựng, quá

trình đổi mới tư duy về văn hóa, xã hội, xây dựng con người và nguồn nhân lực

có bước phát triển mới. Môi trường văn hóa xã hội có những thuận lợi cho việc

phát huy nguồn nhân lực văn hóa, xã hội để xây dựng đất nước. Tình hình an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Cần Thơ ổn định tạo

điều kiện cơ bản cho phát triển thành phố. Kinh tế tăng trưởng liên tục, xu thế

hội nhập kinh tế quốc tế mở ra triển vọng mới cho sự phát triển kinh tế tạo tiền

đề giải quyết các vấn đề xã hội và văn hóa.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đối với sự phát triển văn

hóa ở Cần Thơ trong thời gian tới. Đó là: sự phát triển không cân đối giữa phát

triển kinh tế với phát triển văn hóa, vì vậy sự phát triển kinh tế - xã hội của

thành phố Cần Thơ chưa nhanh và bền vững.

Trong quá trình hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập

trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Cần Thơ đương đại, việc tiếp tục

đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống

văn hóa Cần Thơ và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự

phát triển của thời đại còn hạn chế. Cần Thơ còn thiếu chính sách hợp lý để bảo

tồn, phát triển văn hóa dân tộc và biện pháp kiên quyết ngăn chặn những loại

hình văn hóa không lành mạnh xâm nhập vào Cần Thơ.

Cần Thơ còn thiếu các thiết chế văn hóa, nhất là cấp quận, huyện để nhân

dân sinh hoạt văn hóa và vui chơi. Do đó, hoạt động văn hóa ở một số huyện có

Page 199: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

197

đông đồng bào theo đạo bị hoạt động tôn giáo lấn át, các tệ nạn xã hội nảy sinh

và phát triển.

Để khắc phục những thách thức, khó khăn nêu trên, Cần Thơ phải có sự

đầu tư mạnh mẽ cho lĩnh vực văn hóa, sự tăng tốc trong công tác quản lý, điều

hành; đặc biệt là cần có sự quan tâm của cấp lãnh đạo và sự phối hợp có hiệu

quả với các ngành chức năng. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn

hóa, trong đó tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành

mạnh trong cơ quan, nơi công cộng, cộng đồng dân cư, gia đình và mỗi cá nhân.

Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa”, chú trọng chất lượng các mô hình văn hóa; đánh giá chặt chẽ và đúng thực

chất danh hiệu gia đình văn hóa, khu vực văn hóa, phường văn hóa, xã văn hóa.

Kế thừa và phát huy giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc, xây dựng con

người Cần Thơ “Trí tuệ - năng động - nhân ái - hào hiệp - thanh lịch”19. Làm tốt

công tác bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống cách mạng, nhằm tuyên truyền,

giáo dục cho thế hệ trẻ lòng tự hào dân tộc. Tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho

văn hóa, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa. Huy động các

nguồn lực, trí tuệ và sức sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công

trình, thiết chế văn hóa. Khuyến khích và tạo điều kiện cho đội ngũ văn nghệ sĩ

sáng tạo các tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng, nghệ

thuật cao. Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, kiên quyết ngăn

chặn, đấu tranh đẩy lùi sự suy thoái về văn hóa, tư tưởng, chính trị, đạo đức lối

sống và các biểu hiện phản văn hóa trong đời sống xã hội.

Những nhiệm vụ đó chỉ có thể thực hiện thành công khi lãnh đạo thành

phố Cần Thơ biết khơi dậy tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm

năng sáng tạo này không ở đâu khác, nó nằm trong văn hóa, trong sự hiểu biết,

trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu và trình độ thẩm mỹ của mỗi con người

và của cả cộng đồng dân tộc Việt, Khmer, Hoa ở Cần Thơ.

19. Nghị quyết 45-CT/TW của Bộ Chính “Về xây dựng và phát triển Cần Thơ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Page 200: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

198

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Ngọc Anh (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Tp.Hồ Chí Minh.

3. Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

5. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh

về văn hoá.

6. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh

về đạo đức.

7. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Vĩnh Long (2001), Tìm hiểu văn hóa Vĩnh

Long , Nxb. Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.

8. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ - thực

trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Trần Văn Bính (2004 - Chủ biên), Toàn cầu hóa và quyền công dân

ở Việt Nam nhìn từ khía cạnh văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp.

11. Bộ Giáo dục và đào tạo (2003), Triết học 3 tập (Dùng cho Cao học và

nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. C.Mác và Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

13. C.Mác và Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

14. C.Mác và Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

Page 201: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

199

15. Nguyễn Khắc Cảnh (1998), Phum sóc Khmer ở đồng bằng sông

Cửu Long, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

16. Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên, 2002), Văn hóa các

dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Mạnh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam,

Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

18. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (Đồng

chủ biên), (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Lý luận và

thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Vấn đề khai thác các giá trị truyền

thống vì mục tiêu phát triển, www.chungta.com.

20. Đoàn Văn Chức (2004), Văn hóa học, Nxb. Lao Động, Hà Nội.

21. Cù Huy Chữ (1997), Kế thừa giá trị truyền thống văn hóa dân tộc

trong việc xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện nay, Nxb. Văn

hoá - Thông tin, Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Dân (2006), Văn hóa và phát triển trong bối cảnh

toàn cầu hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Lê Duẩn (1977), Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới Xã hội

chủ nghĩa, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.

24. Thành Duy (2006), Bản sắc văn hóa và hiện đại hóa văn hóa Việt

Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Thành Duy, 2004), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam dưới

ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đại học quốc gia Tp.Hồ Chí Minh - Trường đại học khoa học xã hội và

nhân văn - Trung tâm nghiên cứu phát triển đô thị và cộng đồng (2004),Văn hóa

truyền thống trong phát triển đô thị, Nxb. Đại học quốc gia Tp.Hồ Chí Minh.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

Page 202: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

200

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các Nghị quyết của Trung ương

Đảng 1996 – 1999, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

34. Encyclopcdie (1989), Từ điển Bách khoa toàn thư Pháp, Paris.

35. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ

thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám. Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại

của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, 3 tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. John Lê Văn Hóa (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong

tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, Nxb. Hà Nội.

37. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Văn hóa xã hội

chủ nghĩa (2000), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Văn Huyên (2006), Văn hóa mục tiêu và động lực của sự

phát triển xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công

nghiệp hóa - hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc giá, Hà Nội.

40. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hóa Việt Nam, tập 3, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

41. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 24, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva.

42. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva.

Page 203: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

201

43. Phan Huy Lê (1996), Truyền thống và hiện đại - Vài suy nghĩ và đề

xuất, Tạp chí Cộng sản, số 18.

44. C.Mác và Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

45. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Huỳnh Minh (1966), Cần Thơ xưa và nay, Nhà in Hạnh Phúc, Gia Định.

58. Đỗ Mười (1993), Thể hiện khát vọng của nhân dân về Chân - Thiện

- Mỹ, Nxb. Văn học, Hà Nội.

59. Rasun Gamzatov - Daghestan của tôi (1984), bản dịch tiếng Việt,

Nxb. Cầu Vồng, Mát-xcơ-va.

60. Nguyễn Xuân Nam (1998), Văn hóa vì sự phát triển, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

61. Trần Đình Nghiêm, Trần Hoàn, Nguyễn Phúc Khánh (2000), Phác

thảo chân dung văn hóa Việt Nam (Đề tài mã số 3.37 (V), Nxb. Chính trị

quốc gia, HN.

62. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa –

Thông tin, Hà Nội.

63. Người đưa tin UNESCO, số 9/1997.

Page 204: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

202

64. Bùi Đình Phong (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền

văn hóa Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.

65. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2005), Đại

cương lịch sử Việt Nam, toàn tập, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

66. Nguyễn Văn Quán (2006), Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam,

Nxb. Lao Động, Hà Nội.

67. Hồ Sĩ Quý (2005), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

68. Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1994), Bộ Văn hóa thông tin

và Thể thao xuất bản, Hà Nội.

69. Trần Ngọc Thêm (1989), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

70. Nguyễn Chí Tình (2009), Văn hóa và thời đại, Nxb. Khoa học xã

hội, Hà Nội.

71. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân tỉnh Cần Thơ (2002), Địa chí Cần Thơ.

72. Trường Đại học KHXH&NV TP.Hồ Chí Minh, Viện KHXH tại

TP.Hồ Chí Minh, Bảo tàng lịch sử Việt Nam TP.Hồ Chí Minh (1999), Bảo tồn

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Vai trò của nghiên cứu và giáo dục, Nxb.

TP.Hồ Chí Minh.

73. Trần Diễm Thúy (2009), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

74. GS.VS Hoàng Trinh (2000), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong

văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. GS. Lương Duy Thứ (Chủ biên), Phan Nhật Chiêu, Phan Thu Hiền

(1998), Đại cương văn hóa phương Đông, Nxb. Giáo Dục.

76. Từ điển triết học (1986), Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.

77. Từ điển chính trị vắn tắt (1988), Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

78. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Nxb. Từ điển Bách khoa Hà Nội.

Page 205: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

203

79. Viện khoa học xã hội vùng Nam bộ, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ,

Thành uỷ - Uỷ ban nhân dân Tp. Cần Thơ, (2005), Đồng bằng sông Cửu

Long hội nhập và phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

80. Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm

Mỹ Dung, Trần Thúy Anh (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục.

Page 206: Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_trong_qua_trinh_phat_trien_van_hoa_o_can_tho

204

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Văn Dựa (2008), Văn hóa Cần Thơ và vai trò của nó đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội, Luận văn thạc sĩ Triết học.

2. PGS.TS. Trịnh Doãn Chính, Nguyễn Văn Dựa (2006), Một số vấn đề chính

sách dân tộc đối với đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, Kỷ yếu Hội thảo

đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng và giải pháp để trở thành vùng trọng điểm

phát triển kinh tế, giai đoạn 2006-2010. Trường đại học KHXH&NV thuộc Đại học

Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. 202-212, Nxb. Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh.

3. PGS.TS. Doãn Chính, ThS. Nguyễn Văn Dựa (2009), Về giải pháp xóa

đói, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam bộ, Tạp chí Khoa học

Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính

trị - Hành chính khu vực II, tr. 31-37.

4. Nguyễn Văn Dựa (2010), Sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại

trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, Tạp chí Khoa học xã hội, số 5 (141),

tr. 8, 9, 10, 11, 12, 21 .

5. Nguyễn Văn Dựa (2008), 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4

(khóa VII) về công tác thanh niên ở tỉnh Vĩnh Long, Tạp chí Văn phòng cấp ủy, Văn

phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 6 (3/2008), tr. 24-25.

6. Nguyễn Văn Dựa (2009), Thực trạng công tác thủy lợi vùng đồng bằng

sông Cửu Long giai đoạn 2006-2010 và định hướng 2020, Tạp chí Văn phòng

cấp ủy, Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 16-17 (1-2/2009),

tr. 57-59.

7. Nguyễn Văn Dựa (2010), Những tiến bộ của công tác phụ nữ ở thành phố

Cần Thơ và một số vấn đề cần tập trung giải quyết, Tạp chí Văn phòng cấp ủy, Văn

phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 36 (9/2010), tr. 36, 37, 38, 46.