tẬp bÀi giẢng - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · web viewtẬp bÀi...

162
TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932 TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932 Tác giả: Đoàn Lê Giang – Phan Mạnh Hùng MỤC TIÊU MÔN HỌC 1. Kiến thức: – Nắm được những kiến thức cơ bản nhất về văn học giai đoạn này: tác giả, tác phẩm, phong cách nghệ thuật chủ yếu – Những vấn đề chung của văn học giai đoạn này: nội dung cơ bản, quy luật vận động, hình thức và đặc trưng thẩm mỹ của các thể loại văn học 2. Kỹ năng: – Biết ứng dụng vào nghiên cứu các tác giả, tác phẩm văn học cận đại. Biết trình bày bằng bài viết, bằng cách thuyết trình kết hợp với power point những vấn đề thuộc về văn học cận đại. 3. Thái độ – Yêu mến, tự hào về văn học dân tộc – Có hiểu biết đúng đắn về những đặc tính của văn học dân tộc.

Upload: hahuong

Post on 30-Jan-2018

253 views

Category:

Documents


5 download

TRANSCRIPT

Page 1: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932

TẬP BÀI GIẢNG

VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932

Tác giả: Đoàn Lê Giang – Phan Mạnh Hùng

MỤC TIÊU MÔN HỌC

1. Kiến thức:

– Nắm được những kiến thức cơ bản nhất về văn học giai đoạn này:

tác giả, tác phẩm, phong cách nghệ thuật chủ yếu

– Những vấn đề chung của văn học giai đoạn này: nội dung cơ bản,

quy luật vận động, hình thức và đặc trưng thẩm mỹ của các thể loại văn học

2. Kỹ năng:

– Biết ứng dụng vào nghiên cứu các tác giả, tác phẩm văn học cận đại.

Biết trình bày bằng bài viết, bằng cách thuyết trình kết hợp với power point

những vấn đề thuộc về văn học cận đại.

3. Thái độ

– Yêu mến, tự hào về văn học dân tộc

– Có hiểu biết đúng đắn về những đặc tính của văn học dân tộc.

– Yêu mến công tác nghiên cứu, giảng dạy văn học dân tộc.

Bài 1. VĂN HỌC YÊU NƯỚC TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX (1900 – 1930)1. PHONG TRÀO DUY TÂN ĐẦU THẾ KỶ 20

1.1. Các nhà nho trẻ đến với Tân thư

Page 2: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

1.1.1 Số phận lịch sử của nhà nho trong đêm trước của thời cận đại:

Cho đến cuối thế kỷ 19, nhà nho đứng trước sự diệt vong về phương

diện lịch sử. Họ bị phân hóa dữ dội:

Một số đầu hàng, làm quan, làm công cụ văn hóa của ngoại xâm:

Hoàng Cao Khải viết thư dụ hàng Phan Đình Phùng, trong thư ông ta ca ngợi

sự nghiệp và đạo đức của thực dân Pháp; Lê Hoan: mở cuộc thi Vịnh Kiều để

đánh lạc hướng các nhà nho không để ý đến “Quốc sự” nữa; Phạm Quỳnh:

nhà nho kiêm Tây học, mở báo quốc ngữ theo chủ trương của mật thám

Pháp.

Một số thì đi vào con đường hưởng thụ như Chu Mạnh Trinh, Dương

Khuê, Dương Lâm. Họ không còn đại diện cho sức sống và lương tri của dân

tộc nữa.

Một số lui về ẩn dật như Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,

Nguyễn Thượng Hiền…Thế nhưng trong nền kinh tế tự nhiên, họ có thể ẩn

dật được, còn trong nền kinh tế hàng hóa (tư sản) thì không thể. Chính quyền

thực dân thọc sâu xuống tận làng xã, nhà nho bị hất ra ngoài, họ cố gắng

sống đạo nghĩa cũng không được.

Nguyễn Khuyến sống như một lão nông ở làng quê trong sự dằn vặt và

đầy mặc cảm. Tú Xương trở thành nho sĩ – thị dân hóa. Nguyễn Thượng Hiền

thì đi theo con đường duy tân, làm cách mạng đánh đuổi thực dân Pháp. Rõ

ràng trong xã hội tư sản hóa, nhà nho không còn đất sống. Vì thế trong thơ

văn của họ đầy những tiếng than thở, hoài cổ, nuối tiếc dĩ vãng.

1.1.2. Thế hệ nhà nho trẻ gặp nhau ở Huế:

Đồng Khánh rồi Thánh Thái mở khoa thi để chấn an tinh thần. Các nhà

nho khắp nơi đều xuất thân từ các nôi của phong trào Cần Vương:

Nghệ Tĩnh (xứ sở của phong trào Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn)

có Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế…

Page 3: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Quảng Nam (Nghĩa hội của Lê Duy Hiệu, Nguyễn Trung Đình) có Phan

Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…

Thanh Hóa (“Khởi nghĩa Bãi Sậy” của Nguyễn Thiện Thuật) có Nguyễn

Thượng Hiền (lúc bấy giờ đang ở cạnh Quốc Tử Giám).

Quốc Tử Giám trở thành nơi tập trung những trí thức thông minh nhất

nước. Họ tự coi mình là những người kế tục các bậc đàn anh đã ngã xuống.

1.1.3. Các nhà nho trẻ đến với Tân thư:

– Trước thế kỷ 20: Trí thức Việt Nam ít nhiều đã biết đến sách báo theo

quan niệm khoa học phương Tây được viết bằng chữ Hán như:

Khôn dư đồ thuyết (Nói về địa dư trên trái đất) của Ferdinandus

Verbiest người Bỉ (1623–1688)

Dinh hoàn chí lược (Ghi chép về thế giới): sách giới thiệu về ranh giới,

hình thể, sản vật của các nước khắp 5 châu. Sách có 10 quyển do Từ Kế Dư

đời Thanh biên soạn.

Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư (Sách viết về những điểm mạnh yếu

của các nước trong thiên hạ).

Bác vật tân biên (Ghi chép mới về vạn vật)

Hàng hải kim châm (Chỉ nam về hàng hải)

Những sách trên Lê Quí Đôn, Cao Bá Quát, Nguyễn Thông…đều ít

nhiều đã biết tới nhưng chưa trở thành tư tưởng cách mạng. Nguyễn Trường

Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đọc và dẫn họ đến với tư tưởng canh tân.

– Điều trần và những bài luận của các nhà canh tân:

Nguyễn Trường Tộ với hơn 60 điều trần khác nhau.

Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch được Nguyễn Thượng Hiền

bí mật lưu giữ rồi đưa cho Phan Bội Châu. Huỳnh Thúc Kháng đọc.

– Sách báo cách mạng của Khang, Lương Trung Quốc, sách Nhật Bản

và các sách phương Tây:

Page 4: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Sách giới thiệu về châu Âu và thế giới

Sách báo Duy tân của Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi), Đại Ôi

Trọng Tín (Okuma Shigenobu) Nhật Bản

Khang Hữu Vi, Lương Khai Siêu “văn lâm li bi thống” được coi là những

bậc thánh mới

* Những điều trên cho thấy:

– Tư tưởng cách mạng tư sản được truyền vào Việt Nam qua con

đường Trung Hoa, vừa dễ tiếp nhận, lại được Trung Hoa hóa khá nhiều.

– Nhà nho chứ không phải giai cấp tư sản tiếp nhận tư tưởng ấy.

– Tư tưởng cách mạng tư sản được các trí thức nước ta tiếp thu là từ

yêu cầu giải quyết vấn dân tộc, chứ không phải từ yêu cầu giải quyết vấn đề

xã hội nên có những sắc thái đặc biệt.

1.2. Sự phân hóa sĩ phu thành hai xu hướng chính trị:

Bạo động (thiết huyết): Nghệ Tĩnh (Phan Bội Châu)

Duy tân: Bắc bộ (Đông Kinh nghĩa thục), Nam trung bộ (Phan Chu

Trinh).

Nhưng có điểm chung nhau là đều phải duy tân: khai dân trí, Chấn dân

trí, Hậu dân sinh.

Phó bảng Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền cắt tóc ngắn:

Phen này cắt tóc đi tu

Tụng kinh Độc Lập, ở chùa Duy Tân

Đêm ngày khấn vái ân cần

Cầu cho ích nước lợi dân mới là

Tu sao mở trí dân nhà

Tu sao độ được nước ta phú cường.

Nguyễn Quyền, Phen này cắt tóc đi tu

Page 5: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Trở thành cuộc vận động văn hóa: cắt tóc ngắn cùng với phong trào

vận động học chữ quốc ngữ.

1905 Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật.

1905 Phó bảng Phan Chu Trình, Hoàng giáp Trần Quý Cáp, Tiến sĩ

Huỳnh Thúc Kháng làm cuộc Nam du, ngang Bình Đinh đến trường thi bèn

giả dạng làm thí sinh đi thi để vận động chống văn chương bát cổ, kêu gọi

duy tân.

Thơ: chí thành thông thánh (Phan Chu Trinh)

Phú: Lương ngọc danh sơn phú (Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng)

Các chí sĩ ký tên là Đào Mộng Giác, truyền bá bài thi theo kiểu truyền

đơn, bị chính quyền truy nã.

Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền đem thi tập chữ Hán ra đốt.

* Tất cả các hành động trên cho thấy các nhà nho trẻ đã làm một cuộc

đoạn tuyệt với quá khứ để đi đến với một cuộc cách mạng mới.

2. TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC MỚI CỦA CÁC SĨ PHU DUY TÂN

2.1. Đoạn tuyệt với quá khứ:

2.1.1. Thế giới quan Nho giáo:

Cũ: Thuyết âm dương, ngũ hành tương sinh tương khắc:

Thủy – Hỏa – Mộc – Kim – Thổ

Bắc – Nam – Đông – Tây – Trung ương

Tương sinh: Thủy -> Mộc -> Hỏa -> Thổ -> Kim -> Thủy

Tương khắc: Thủy <-> Hỏa <-> Kim <-> Mộc <-> Thổ <-> Thủy

Mới: Vật lý, Hóa học, Thiên văn học, Triết học phương Tây.

2.1.2. Lịch sử quan:

Cũ: Lịch sử diễn biến tuần hoàn: “Thinh suy”, “bĩ thái”, “phế hưng”, “trị

loạn”, với khuynh hướng xưa hơn nay, đạo càng ngày càng xuống.

Page 6: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Động của lịch sử là đạo đức.

Mới: Thuyết tiến hỏa luận của Darwin, Văn minh luận.

Động lực: khoa học kỹ thuật.

2.1.3. Chính trị quan:

Cũ: Nội hạ ngoại di, Quý vương tiện bá, Sĩ nông công thương

Mới: Văn minh phương tây, kinh doanh kiếm lời và ganh đua trên

trường quốc tế.

Cáo hủ lậu văn tấn công trực diện vào học thuật, tư tưởng của nhà nho:

Hỏi ông tu những đường mô

Ông rằng: Tu những làng nho đã thừa

Hỏi ông: mộ những gì ư

Ông rằng mộ những người xưa là thầy

Điềm trời không dở không hay

Ông rằng sự rủi sự mau tại trời

Đường đi tinh nhật hai ngôi

Hấp ly (lực hấp dẫn) sao thế, ông thời u ti

Trái đất là tròn là đi

Ông rằng vuông đấy, đứng kia thường thường

Phiên Thành, Thượng Hải một phương

Bụng lưng đâu tá, ông giương mắt chầu

Hỏi rằng dây thép sao mau

Ông rằng khí học cũng mầu mà thôi

Kìa như dây sắt roi lôi

Nào ai bày đặt mọi ngôi cho đành

Hỏi rằng xe khí sao nhanh

Page 7: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Ông rằng nghe máy cũng lãnh mà thôi

Kìa như lửa ống nước nồi

Kìa ai bày xét đến nơi nhiệm mầu

Năm châu tên gọi hay đâu

Lại chê người rợ, mà rằng ta hoa

Mắt dòm chính học chửa ra

Mà chê người bá, mà nhà ta vương

Có người đau đáu lòng thương

Mắng rằng trái thế còn đương lỗi thời

Có người học sách Tây kia

Cười rằng trở đạo mà lìa năm kinh.

2.1.4. Nhân sinh quan

Yêu nước gắn liền với tư tưởng tôn quân:

Nước của vua

Nước đại diện bằng triều đại

Dân là dối tượng cai trị

Nguyễn Trãi: vượt lên bằng tư tưởng thân dân: Dân là chủ thể là sức

mạnh của nước và là đối tượng phục vụ của kẻ sĩ, nhưng vẫn trong thế tam vi

nhất thế: vua – dân – nước

Cuối trung đại, tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu: Càng yêu nước càng

quay về đạo nghĩa.

Một nhân vật trung tâm của xã hội phong kiến: con người trung nghĩa–

nhà nho

Dan Nuoc

Vua

Page 8: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Thực tế lịch sử: vua đầu hàng, phải vận động nhân dân, nho giáo và

nhà nho lạc hậu phản động cản trở phong trào giải phóng dân tộc

Phủ định:

Vua: Phan Bội Châu: “Mãn triều Trung Quốc và Nguyễn triều Việt Nam

cũng là phường chó chết như nhau cả “ (Phan Bội Châu niên biểu)

“Non sông thẹn với nước nhà

Vua là tượng gỗ dân là thân trâu”

(Á Tế Á ca)

Phan Chu Trinh: “Vua là người lấy quyền công làm quyền tư, lấy đất

người làm đất mình” (Đạo đức và luân lí đông tây)

Các sĩ phu đã làm việc cáo chung cho nhân vật chính của thời phong

kiến với đạo đức và cách sống:.

Văn tế sống thầy đồ hủ

Cung duy các cụ, Hủ Lậu tiên sinh

Người cụ cổ lỗ, tính cụ hiền lành

Quần cụ cháo lòng hề sạch khiếp

Áo cụ nước xuýt hề trắng tinh

Nay Tam hoàng, mai Ngũ đế

Trước Tứ truyện, sau Ngũ kinh

Chỉ lo về nhà nước bỏ thi, thiên hạ không ai chịu học

Ai nói chuyện tân học tân văn, cụ ghét hơn người đầu thuốc độc;

Ai dùng câu cổ thi, cổ học, cụ mừng hơn trẻ được cái đinh

Than ôi!

Tự do không hay, bình đẳng không hay, chó chết hoàn phường

chó chết.

Page 9: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Ngôn luận chẳng biết, tân văn chẳng biết, quần manh lại vẫn

quần manh.

– Kêu gọi một cách sống mãnh, liệt tung hoành hồ hải:

Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhức

Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si

(Non sông đã chết sống thêm nhục

Hiền thánh còn đâu tụng cũng hoài

(Xuất dương lưu biệt)

Chí thành thông thánh

Thế cuộc hồi đầu dĩ nhất không,

Giang sơn vô lệ khốc anh hùng.

Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,

Bát cổ văn chương túy mộng trung.

Trường thử bách niên cam thóa mạ

Bất tri hà nhật xuất lao lung.

Chư quân vị tất vô tâm huyết,

Bằng hướng tư văn khán nhất thông.

(Việc đời ngoảnh lại còn chi

Anh hùng hết nước mắt vì giang san

Muôn dân nô lệ một đàn

Văn chương bát cổ nồng nàn giấc say

Trăm năm cam chịu đọa đày

Thì bao giờ mới hết ngày lao lung

Các anh tâm huyết nào không

Bài này hãy thử xem cùng đầu đuôi

Page 10: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

(Phan Võ dịch)

2.2. Xác lập tư tưởng yêu nước mới

2.2.1. Người Quốc dân

– Dân là chủ nước:

“ Dân ta là chủ nước non” (Gọi hồn quốc dân – Phan Bội Châu)

– Người quốc dân:

Phan Bội Châu:

Tiện đầy cật dạ mấy lời

Lại xin tỏ giãi cùng người quốc dân.

(Hải ngoại huyết thư)

Không giống phong kiến: thần dân, phận thần tử

Không giống tư sản: chỉ có công dân, đó lả sản phẩm của cách mạng

tư sản – cách mạng dân quyền và dân quyền, coi cá nhân là đơn vị chủ thê

xã hội, có quyền tự do, hưởng phúc và mưa cầu hạnh phúc, có quyền bình

đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi từ pháp luật

Cá nhân trong đời sống chính trị: con người công dân:

“Chúng ta coi những chân lý sau đây là hiển nhiên: tất cả mọi người

sinh ra đều bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong

đó là quyền sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; để bảo

đảm những quyền này người ta lập ra những chính phủ nắm quyền lực chính

đáng do sự đồng ý của những người bị trị, khi một hình thức cai trị nào đó tỏ

ra làm thiệt hại đến những mục đích đó, thì nhân dân có quyền thay đổi hình

thức đó hay bãi bỏ nó đi và lập ra chính phủ mới và đặt cơ sở của nó trên

những nguyên tắc tổ chức quyền lực của nó dưới hình thức mà họ thấy là

thích hợp nhất để đảm bảo an ninh và hạnh phúc của họ.” (Tuyên ngôn Độc

lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776)

Page 11: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Người quốc dân không phải là thần dân cũng thông phải là công dân.

Họ ý thức về cá nhân không đủ. Họ không ý thức thành viên gia đình, làng xã

bờ cõi, mà là người dân của nước. Họ không đạt vấn đề tự do, bình đẳng mà

đặt vấn đề dân tộc, đất nước. Số phận gắn liền với dân tộc, làm theo nghĩa,

không nói đền quyền lợi.

– Nghĩa đồng bào:

Vua bỏ nước bỏ dân phải tự nhiệm – lấy gì để liên kết dân, duy trì đất

nước. Các sĩ phu dùng khái niệm Nghĩa đồng bào (Đồng tông – đồng hương

– đồng bào)

2.2.2. Nước

Nước, theo quan niệm của các sĩ phu là địa bàn sinh tụ của một dòng

giống, Nước là gia tài, cơ nghiệp của cha ông để lại phải có trách nhiệm bảo

vệ nó để truyền cho con cháu mãi mãi:

– Trời Nam xanh ngắt bao la

Ngàn năm cơ nghiệp ông cha còn gì

– Nghìn muôn ức triệu người chung góp

Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà

Khác với phong kiến: Nước là của vua, khác với tư sản: Ngôn ngữ, thị

trường, khế ước xã hội. Có tính trung gian.

Hồn nước:

Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn

Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han

Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn

Khói tuôn khí uất, sóng cuốn trận đau

Hải ngoại huyết thư – Phan Bội Châu

Hồn cố quốc biết đâu mà gọi

Page 12: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Thôi khóc than rồi lại xót xa.

Trời Nam xanh ngắt bao la

Ngàn năm cơ nghiệp ông cha còn gì

Gọi hồn quốc dân – Phan Bội Châu

Hồn ơi, về với giang san

Muôn người muôn tiếng hát ru câu này

Hợp muôn sức ra tay quang phục

Quyết có phen rửa nhục bảo thù

Ái quốc – Phan Bội Châu

Nhìn ra thế giới cũng vậy:

Mở rộng theo quan niệm gia đình

Nho – phi Nho: đồng hóa tư tưởng mới theo quan điểm nho giáo

“Chi Na chung một họ hàng

Xiêm La, Nhật Bản cùng làng á Đông”

Chủng tộc, văn hóa – Đồng chủng, đồng văn

2.2.3. Yêu nước phải Duy tân

Trước yêu nước là tôn quân, càng yêu nước càng rút về đạo nghĩa –

phản động. Cải cách ra đời Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch bị chống

đối kịch liệt

Nay không Duy tân không cứu được nước. Chống đế quốc và chống

phong kiến kết hợp lại

Nhà nho phải làm cách mạng tư sản: nghĩa, vấn đề dân tộc, không đầy

đủ và hạn chế

Khai dân trí: Thực học (KHKT phương Tây, lịch sử, địa lý nước ta),

học chữ quốc ngữ

– Chữ quốc ngữ là hồn của nước

Page 13: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau

– Học nông cổ, học làm cơ khí

Đủ trăm đường công kỹ tinh thông

Vì đem giống tốt quăng trồng

Gặp thời ta lại tranh công thợ trời

(PBC: Gọi hồn quốc dân)

Chấn dân khí: Đoàn kết đấu tranh với chính quyền:

Năm mươi triệu đồng bào đua sức

Năm mươi nghìn giống khác được bao!

Cùng nhau bên ít bên nhiều,

Lọ là gươm sắc súng kêu mới là

Cốt trong nước người ta một bụng

Nghìn muôn người cùng giống một người

Phòng khi sưu thuế đến nơi

Bảo nhau không đóng nó đòi được chăng…

PBC: Hải ngoại huyết thư

Hậu dân sinh:

“Hợp quần doanh sinh thuyết: Buôn bán hợp cổ”

Công ty nước mắm Liên Thành ở Phan Thiết do Nguyễn Trọng Lội

đứng đầu, Nguyễn Thượng Hiền đi buôn:

Việc tân học kíp đem dựng trước

Hợp doanh đoàn cả nước cùng nhau

Việc buôn ta lấy làm đầu

Mọi người cùng gánh địa đầu một vai

Á Tế Á Ca

Page 14: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Thực nhân tài:

Công thương đã nên giàu nên có

Của học tự lấy đó mà nuôi

Có nuôi sĩ mới nên tài

Công tài cũng chăng ở ngoài sĩ lâm

Học nông cổ, học làm cơ khí

Đủ trăm đường công kỹ tinh thông

Vì đem giống tốt quăng trồng

Gặp thời ta lại tranh công thợ trời.

(Gọi hồn quốc dân)

2.3. Văn học với sự nghiệp Duy tân, cứu nước:

Dồn mọi cố gắng vào việc làm nghệ thuật có ích. Nhận thức lại kẻ thù

(chủ quyền, văn hóa, họa diệt chủng)

Quyền lợi kinh tế:

Việc dây thép việc tâu việc pháo

Việc luyện binh việc giáo học đường

Việc kỹ nghệ việc công thương

Việc khai mỏ quặng, việc đường hỏa xa

Khắp các việc chẳng qua người nước.

Á Tế Á ca

Nhục mất nước:

20 triệu dân cùng của hết

40 năm nươớc mất quyền không

Thương ôi công nghiệp tổ tông

Nước tanh máu đỏ non chổng thịt cao

Page 15: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Non nước ấy biết bao máu mủ:

Nỡ nào đem nuôi lũ sải lang

Cờ ba sắc xứ Đông dương

Trông càng thêm nhục nói càng thêm đau.

Bóc lột nặng nề:

Trăm thứ thuế thuế gì cũng ngặt

Rút chặt dần như thắt chỉ xe.

Dân tộc bị khinh miệt:

Nó coi mình như trâu như chó

Nó coi mình như cỏ như rơm.

Phê phán toàn dân tộc:

Nước ta mất bởi vì đâu

Tôi xin kể hết mấy điều tệ nhân:

Một là vua sự dân chẳng biết

Hai là quan chẳng thiết gì dân

Ba là dân chỉ biết dân

Mặc quân với quốc mặc thần với ai.

Vua:

Trên chín bệ ngôi thần tự chủ

May thừa cơ giấc ngủ ly long

Giang sơn mặc sức vẫy vùng

Muôn người luồn cúi trong vòng phúc uy.

Các sĩ phu duy tân đã dùng văn chương đe phê phán toàn bộ dân tộc.

Đây lả lần đầu tiên trong văn chương Việt Nam dân tộc ta có một sự tự phán

gay gắt như thế. Văn chương đã được dùng ngoài chức năng thông thường

Page 16: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

của nó. Văn chương của các sĩ phu duy tân vừa là phương tiện ghi lại tâm

tính, khát khao yêu nước cháy bỏng của họ; lại vừa là sách giáo khoa lịch sử,

xã hội, kinh tế, vừa là cương lĩnh cách mạng, lại vừa là truyền.đơn, tải liệu

tuyên truyền cách mạng. Đây thực sự là một hiện tượng mới mẻ trong văn

học dân tộc.

* TIỂU KẾT

Phong trào duy tân không chỉ là một cái mốc quan trọng trong lịch sử

cận đại Việt Nam mà còn là một cái mốc quan trọng trong văn học cận đại

Việt Nam. Thơ văn của các sĩ phu trong phong trào ấy đã xác lập một tư

tưởng yêu nước mới có tính chất dân chủ tư sản. Tư tưởng dân chủ tư sản

được nhà nho tiếp nhận, thông qua sách báo Trung Quốc và xuất phát từ nhu

cầu giải phóng dân tộc nên đã bị khúc xạ khá lớn, tạo ra những điểm đặc sắc

riêng. Hình tượng trung tâm của văn học yêu nước lả người sĩ phu duy tân:

người sĩ phu xuất thân từ môi trường Nho giáo nhưng nhận thức được sự lạc

hậu của tri thức nho giáo, từ đó đã dẫn đến sự phủ định Nho giáo - một cuộc

phủ định đau đớn, day dứt và còn nhiều quyến luyến vì đó là sự phủ đinh

chính mình, phủ định một nền học thuật đã từng có một thời là toàn bộ tri thức

của dân tộc. Người sĩ phu duy tân đã vươn qua chính mình, vượt qua sự chật

hẹp của một thế giới xưa cũ, tung mình trong một thế giới mới lạ: thế giới năm

châu. Đó là những nét đẹp, nét bi hùng trong giai đoạn văn học mở đầu cho

thề kỷ XX đầy biền động nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tràn Đình Hươu, Lê Chí Dũng: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời

1900 – 1930, – NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1 988.

2. Đặng Thai Mai: Văn thơ cách mạng Việt Nam, NXB Văn học Giải

phóng, 1976.

3. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú: Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 1VB,

NXB GD

Page 17: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

4. Nhiều tác giả: Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ NXB Văn

học, Hà Nội, 1976.

5. Nhiều tác giả: Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập IV (1858 – 1920) và

tập V (1920 – 1945), quyển I, NXB Văn học, Hà Nội, 1985 – 1987.

6. Đoàn Lê Giang: Văn tuyển văn học Việt Nam 1900–1932, Đại học

Quốc Gia TP.HCM

7. Đoàn Lê Giang: “Ai là tác giả đích thực của bài á Tế á ca?” Tạp chí

Nghiên cứu văn học số 4/2008, website: http://khoavanhoc–ngonngu.edu.vn

CÂU HỎI

1. Giữa chủ trương Bạo động và chủ trương Duy tân, chủ trương nào

đúng đắn hơn?

2. Đọc Văn minh tân học sách, Cáo hủ lậu văn, cho biết các sĩ phu duy

tân đã phủ nhận tư tưởng, học thuật Nho giáo như thế nào?

3. Phân tích nội dung tư tưởng yêu nước mới của các sĩ phu duy tân.

Bài 2. PHAN BỘI CHÂU (1867 – 1940)1. CUỘC ĐỜI

1.1. Xuất thân từ môi trường Hán học

Tên lúc nhỏ là Phan Văn San, hiệu Hải Thụ, về sau lấy hiệu là Sào

Nam (với ý nhớ nước cũ: “Hồ mã tê sóc phong, Việt điểu sào nam chỉ”– Ngựa

Hồ hi gió bắc, Chim Việt làm tổ cành nam). Quê ở làng Đan Nhiễm, huyện

Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Thuở nhỏ rất thông minh. 6 tuổi đã theo cha đi học, 3 ngày học thuộc

cuốn Tam tự kinh. Bảy tuổi là hiểu biết kinh truyện, có thể nhại theo sách của

Khổng Tử, viết đùa sách “Phan tiên sinh chi luận ngữ”

16 tuổi đi khảo hạch đứng đầu xứ, người ta gọi là Đầu Xứ San. Ông đã

sớm có lòng yêu nước.

Page 18: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

1.2. Nhà nho yêu nước dưới ngọn cờ Cần vương

Năm 17 tuổi (1884) được tin ở Bắc kỳ, nghĩa binh nổi dậy, Phan Bội

Châu nửa đêm khêu đèn thảo hịch Bình Tây thu Bắc rồi đem ra dán ở gốc

cây to đầu làng.

1885 kinh thành Huề thất thủ, hưởng ứng chiếu cần vương của Hàm

Nghi, Phan Bội Châu cũng tổ chức được một đội “thiếu sinh quân” gồm 60

người để ứng nghĩa, nhưng chưa kịp hành động thì đã bị tan rã.

10 năm cuối thế kỷ 19, ông làm thầy đồ dạy học để nuôi cha già, vừa

tìm đọc thêm sách vở tiến bộ như: Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ

Trạch, những đề nghị canh tân đất nước của Phạm Phú Thứ, tân thư từ

Trung Quốc sang, và âm thầm kết giao với các đồng chí.

1900 thi Hương, đỗ thủ khoa trường nghệ, người ta thường gọi là ông

giải San – “Thế là đã có hư danh để che mắt đời”. Cha mất, đạo hiếu đã trả

xong, đến đây ông chính thức tham gia hoạt động cách mạng.

1.3. Nhà chí sĩ duy tân

1904 Lập hội Duy Tân hội, tôn Cường Để làm minh chủ. Chủ trương

của Hội là bạo động vũ trang và nhờ ngoại viện.

1905 Theo kế hoạch hội Duy tân, Phan Bội Châu xuất dương sang

Nhật gặp Lương Khải Siêu. Lương khuyên nên dùng thơ văn để tố cáo tội ác

với thế giới và cổ vũ lòng yêu nước. Ông viết Việt Nam vong quốc sư, Khuyến

quốc dân tư trợ du học văn. Hải ngoại huyết thư, Tân Việt Nam, Sùng bái giai

nhân, Việt Nam quốc sử khảo…

Các chính khách Nhật Bản khuyên đưa người sang du học. Về nước

Phan vận động phong trào Đông du hết sức sôi nổi. Từ 1905 đến 1908 đã

đưa được 200 lưu học sinh sang Nhật học.

1909 Pháp – Nhật cấu kết với nhau, phong trào Đông Du bị giải tán,

nhân bị trục xuất ông trở về ẩn náu ở Trung Quốc, rồi sang Xiêm mở trại cày

Bạn Thầm, viết tuồng Trưng Nữ vương.

Page 19: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

1911 Cách mạng Tân Hợi của Tôn Trung Sơn, Phan Bội Châu sang

Trung Quốc tập hợp đồng chí thành lập Việt Nam Quang phục hội, với tôn chỉ

“Đánh đuổi giặc pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước cộng hòa

dân quốc Việt Nam”

1913 Bị bọn quân phiệt Trung Quốc tiếp tay Pháp bắt giam ở Quảng

Châu. Trong tù ông viết Ngục trung thư (1914), Chân tướng quân (viết về

Hoàng Hoa Thám), Nhà sư ăn rau…

1917 ra tù ở Hàng Châu viết báo. Chịu ánh hưởng của Cách mạng

tháng 10 Nga, Phan có khuynh hướng về cách mạng thế giới, tìm hiểu Cách

mạng tháng 10, viết báo ca tụng Lênin và nhà nước công nông. Viết Trùng

quan tâm sử (1918), Tái sinh sinh (truyện), Phạm Hồng Thái (truyện– 1924)

1924 cải tổ Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng.

Gặp Nguyễn Ái Quốc, dự định sẽ cải tổ Việt Nam Quốc dân đảng theo hướng

tích cực nhất.

1925 trên đường từ Hàng Châu về Quảng Châu ông bị thực dân Pháp

bắt cóc đưa về nước. Chúng định thủ tiêu, nhưng bị lộ phải mang ra Tòa đề

hình Hà Nội để xử. Cả nước nổi lên phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu.

Pháp đành phải tha bỗng và buộc cụ phải an trí ở Huế.

1926 Phan Chu Trinh mất, ông viết bài Văn tế Phan Chu Trinh.

1.4. “Ông Già Bến Ngự” – Người cầm bút yêu nước trên diễn đàn văn học công khai

Cách mạng chuyển biến theo hướng khác. Phan Bội Châu tiếp tục viết

báo với tư cách là “ông già Bến Ngự”, để giáo dục quốc dân đồng bào:

– Nam, Nữ quốc dân tu tri

– Thuốc chữa bệnh dân nghèo

– Lời hỏi thanh niên

– Phan Bội Châu niên biểu

– Lịch sứ Việt Nam diễn ca

Page 20: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

– Biên khảo: Xã hội chủ nghĩa, Nhân sinh triết học, Khổng học đăng…

2. PHAN BỘI CHÂU, NGỌN CỜ ĐẦU CỦA THƠ VĂN YÊU NƯỚC ĐẦU THẾ KỶ XX

2.1. Tình yêu nước thiết tha nồng cháy:

Bài Hải ngoại huyết thư, bức thư bằng máu và nước mắt gửi cho đồng

bào mình, trinh bày thực trạng đất nước, nguyên nhân mất nước, phương

pháp đấu tranh và kêu gọi đại đoàn kết đứng lên chống Pháp giành lại độc lập

dân tộc.

Mở đầu: Nỗi khổ tâm của người ý thức được nỗi nhục mất nước. Ông

đứng lên cao, nhìn toàn cảnh đất nước. Ngày xưa Nguyễn Trãi, Lê Thánh

Tông đứng ở vị trí cao để làm Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn Lương Thủy phú.

Phan Bội Châu từ nước ngoài nhìn lại toàn cảnh đất nước. Bằng cái nhìn lịch

sử và thời đại, ông đưa ra một quan niệm mới về đất nước với một tình yêu

nước nồng cháy, thiết tha. Đất nước được trả về nguyên vẹn của nó, không

còn bị khuất dưới tư tưởng trung quân:

Lời huyết lệ gửi về trong nước,

Kể tháng ngày chưa được bao lâu

Nhác trông phong cảnh Thần châu

Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ

Trong bài Ái quốc, mở đầu bằng những lời yêu nước cháy bỏng:

Nay ta hát một thiên ái quốc

Yêu gì hơn yêu nước nhà ta

Trang nghiêm bốn mặt sơn hà

Ông cha ta để cho ta lọ vàng.

Non sông gấm vóc, xinh đẹp:

Hào Đại Hải âm thầm trước mặt

Dải Cửu Long quanh quất miền tây

Page 21: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Một tòa san sát xinh thay

Bên kia Vân, Quảng, bên này Côn Lôn

Vẻ gấm vóc nước non tươi đẹp

Rắp những mong cơ nghiệp dài lâu.

– Đất nước được coi như cơ nghiệp ông cha, dân tộc được nhìn bằng

con mắt nòi giống. Ông nhục vì nỗi nhục mất nước, đau vì nỗi đau mất nước,

giống nòi bị khinh miệt đoạ đày, gia tài công nghiệp của ông cha bị ngoại tộc

giày xéo:

Giống khôn há phải đàn trâu

Giang sơn há để người đâu vẫy vùng

Hai mươi triệu dân cùng của hết

Bốn mươi năm nước mất quyền không

Thương ôi công nghiệp tổ tông

Nước tanh máu đỏ non chồng thịt cao

Non nước ấy biết bao máu mủ

Nỡ nào đem nuôi lũ sài lang

Cờ ba sắc xứ Đông Dương

Trông càng thêm nhục, nói càng thêm đau

Nhục vì nước mà đau người trước

Nông nỗi này non nước cũng oan.

(Ái quốc)

Nước mất, Hồn nước phải bơ vơ. Gọi hồn bằng máu và nước mắt:

Hòn cố quốc ngẩn ngơ ngơ ngẩn

Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han

Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn

Page 22: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Khói tuôn khí uất sóng cuồn trận đau (HNHT)

Tương tự như vậy trong bài “Gọi hồn quốc dân”:

Hồn cố quốc biết đâu mà gọi

Thôi khóc than rồi lại xót xa

Trời nam xanh ngắt bao la

Nghìn năm cơ nghiệp ông cha còn gì.

(Gọi hồn quốc dân)

Quan niệm mới về đất nước: Nước là cơ nghiệp của một dân tộc–nòi

giống, Dân là chủ nước:

Nghìn muôn ức triệu người chung góp

Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà

Người dân ta của dân ta

Dân là dân nước nước là nước dân

Đoạn sau:

Ta là lũ cháu con một họ

Nước dân ta là của gia tài

Chữ rằng: Tổ nghiệp lưu lai

Của ta ta giữ chắc ai giữ cùng

Quan hệ giữa dân với nhau là họ hàng:

Năm mươi triệu số người trong nước

Ai chẳng là chú bác anh em

Lòng nào ghét bỏ cho cam

Yêu nhau thì phải tính làm sao đây.

Cùng với ái quốc, ông còn viết ái quần, ái chủng

Đất nước có lịch sử lâu đời. Khơi dậy niềm tự hào về lịch sử dân tộc:

Page 23: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Mà xem gương truyện xưa kia

Kể công trùng vũ ai bì được đâu

Nó thuở trước đánh Tàu mấy lớp

Cõi trời nam cơ nghiệp mở mang

Sông Đằng lớp sóng Trần vương

Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê

Quang Trung từ khi độc lập

Khí anh hùng đầy lấp giang sơn

Lòng trời mở rộng nước non

Ta nay may vẫn hay còn nước ta

* Lưu ý: Quang Trung được coi là anh hùng chứ không phải giặc –

Khác quan niệm chính thống, vì dựa trên quan điểm đất nước chứ không phải

nho giáo.

* Hãy còn nước ta. Khác quan niệm nhà nho: không đánh đồng triều đại

với nước, không cho Pháp là “Tân trào”.

Đất nước được hình thành từ công sức của bao thế hệ, là gia tài của

ông cha để lại, nên nó gắn bó như máu như thịt, có gì đó rất linh thiêng,

người nước ngoài khó có thế hiểu được điều này:

Trải mấy lớp tiền vương dựng nước

Bốn ngàn năm dãi gió dầm mưa

Biết bao công của người xưa

Gang sông, tấc núi, dạ dưa, ruột tằm

(Ái quốc)

2.2. Tố cáo tội ác của thực dân Pháp:

– Cướp nước, mất chủ quyền, dân tộc bị đày đoạ và khinh miệt

Page 24: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

“Từ khi quân giặc khác giống phá kinh thành nước ta, cướp quốc quyền

của chúng ta đến nay, vua thì bị giam cầm như tù đày, dân thì bị đánh đập

như trâu ngựa. Tất cả mọi quyền hành lớn nhỏ đều nằm trong tay quân giặc

khác nòi” (Hòa lệ cống ngôn)

– Về phương diện kinh tế: thuế khóa, vơ vét mạch sống của dân ta

– Hoạ diệt chủng: được nhìn từ con mắt dân tộc, nòi giống và chủng

tộc:

“Cái dã tâm của giặc như hổ ngoạm tằm ăn, không thể kể xiết. Nhưng

cái chính là cướp cái mạch sống của chúng ta. Chính phủ giặc đánh thuế

chúng ta đến muôn ngàn thứ, quân buôn của giặc cướp lợi quyền của chúng

ta đến ức triệu đường” (Hòa lệ cống ngôn)

So sánh với:

Cáo Bình Ngô và văn học cuối thế kỷ 19:

– Cướp chủ quyền:

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;

Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó

(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)

– Phu phen tạp dịch:

Kẻ bị ép xuống biển ròng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập

thuồng luồng;

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng khốn nỗi rừng sâu nước độc.

– Giết người cướp của:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn; Vùi con đỏ xuống hầm

tai vạ”

(Bình Ngô đại Cáo)

“Phạt Cho đến người hèn kẻ khó thâu của quay treo;

Page 25: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.

Kể mười mấy năm trời khốn khó bị khảo bị tù bị giết, trẻ già nghe

nào xiết đếm tên;

Đem ba tấc hơi mỏn bỏ liều hoặc sông hoặc biên hoặc núi hoặc

rừng quen lạ thảy đều rơi nước mắt.

(Nguyễn Đình Chiểu: Văn tế nghĩa dân Lục tỉnh trận vong)

– TK.XV: Tư văn thì giống mà dân tộc lại khác:

“Những kẻ tư văn người đất Việt.

Đạo này nắm nối để cho dài”

(Nguyễn Trãi)

Cuối TK.XIX: đồng nhất đạo thánh với văn hoá dân tộc:

“Sống làm chi theo quân tả đạo quăng vùa hương xô bàn độc thấy lại

thêm buồn; Sống làm chi ở với lính mã tà chia rượu lạt gặm bánh mì nghe

càng thêm hổ.” (Nguyễn Đình Chiểu)

2.3. Đi tìm nguyên nhân mất nước và đề xướng tư tưởng đoàn kết dân tộc

Không phải tai ách nạn trời để cảnh cáo nhà vua, không chỉ vì quân

Pháp mà cái chính là do chính nước ta: Tuy nhiên cách nhìn có vẻ đạo đức,

chứ chưa phải là những phân tích khách quan. Sự phê phán có tính toàn dân

tộc:

Nước ta mất bởi vì đâu

Tôi xin kể hết mấy điều tệ nhân:

Một là vua sự dân chẳng biết.

Hai là quan chẳng thiết gì dân

Ba là dân chỉ biết dân

Mặc quân với quốc mặc thần với ai.

Page 26: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Chẳng may lúc thành long, xã lở

Một hai điều trách cứ vua tôi

Còn năm mươi triệu con người

Chỉ quanh quanh đám lợi tài không xong

Hỏi đến nước còn không không biết

Hỏi đến tên Nam Việt không thưa

Gia tài tổ nghiệp mình xưa

Tay đem quyền chủ mà đưa cho người

Đồng tâm – tư tưởng đoàn kết dân tộc:

Bởi lúc trước của chung không giữ

Đến bây giờ sức chửa làm xong

Sao cho cái sức đến cùng

Sức cùng là bởi cái lòng cùng nhau

Năm mươi triệu đồng bào đua sức

Năm mươi nghìn giống khác được bao

Cùng nhau bên ít bên nhiều

Lọ là gươm sắc súng kêu mới là

Đoàn kết: phú hào, quan tước, sĩ tịch, lính tập, Gia–tô, côn đồ, nhi nữ,

bếp bồi, thông ký, cừ gia đệ tử, du học:

Nào những kẻ phú hào trong nước

Nào những người quan tước thế gia

Nào là sĩ tịch bây giờ.

Nào là lính tập, nào là Gia–tô

Nào những kẻ côn đồ nghịch tử

Nào những người nhi nữ anh si

Page 27: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Bếp bồi thông ký chi chi

Cừu gia đệ tử nào thì những ai

Ấy kể đến những người trong nước

Còn những người du học mọi nơi

Người trong cho đến người ngoài

Chữ Tâm cốt phải ai ai cũng đồng

Hải ngoại huyết thư

– Anh hùng là phụ nữ – khái niệm nữ trượng phu:

“Giang sơn làm nồi cơ đồ

Ấy là bậc nữ trượng phu nước mình”

Hải ngoại huyết thư

Nhân vật cô Chí trong Trùng quang tâm sử.

– So sánh với trước: Lính tập, Gia –tô, nữ nhi (nữ hào kiệt, nữ trượng

phu)

Đoàn kết với hành động quyết liệt nhất là diệt thù:

Hòn máu uất chất quanh đầy ruột

Anh em ơi xin tuốt gươm ra

Có trời có đất có ta

Đồng tâm như thế mới là đồng tâm

Tương lai tươi sáng:

Cờ độc lập xa trông phấp phới

Kéo nhau ra đòi lại nước nhà

Của nhà ta, trả chủ ta

Muốn toan cố chấp ắt là chẳng xong

Kêu gọi yêu nước gắn liền với Duy tân:

Page 28: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Đài kỷ niệm tranh vanh trong nước

Đèn hoan nghênh kẻ rước người đưa

Nào người Dụ Cát, Lư Thoa

Này vừa gặp hội, xin ta gắng lòng.

3. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI CHÍ SĨ DUY TÂN:

Người anh hùng phải tự nhiệm gắn số phận mình với đất nước:

“Lúc tôi sinh ra là lúc Nam kỳ thất thủ đã 5 năm, tiếng khóc oa oa chào

đời như báo trước cho tôi rằng, mày sẽ làm người dân mất nước” (Phan Bội

Châu niên biểu)

3.1. Người hào kiệt kiểu cũ:

– Thơ khẩu khí:

Khi chưa lên đỉnh non xa

Non xanh trăm ngọn như ta khác nào

Khi ta lên đến đỉnh cao

Non xanh trăm ngọn, ngọn nào bằng ta

Du Đại Huệ Sơn cảm tác

Giống Cao Bá Quát:

Triển du Hoành Sơn lập

Mộ há Bàn Kính dục

Huề thủ lưỡng phiến thạch

Giang sơn bất doanh cúc

Dục Bàn Thạch kính

– Trượng phu hơn đời khác tục, tự nhiệm, tung mình vào cuộc chơi lớn:

Chơi xuân

Quân bất kiến Nam, Xuân tư cổ đa danh sĩ

Page 29: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Đã chơi xuân đúng quan nghị chi chi

Khi ngâm nga xáo lộn cổ kim đi

Tùa tám cõi náu về trong một túi.

Thơ rằng:

Nước non Hồng Lạc còn đây mãi

Mặt nước anh hùng hổ chịu ri?

Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi

Sinh thời thế phải xoay nên thời thế.

Phùng xuân hội may ra ừ cũng dễ,

Nắm địa cầu một chút con con.

Đạp toang hai cánh càn khôn,

Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà.

Hai vai gánh vác sơn hà

Đã chơi chơi nốt, ối chà chà xuân!

3.2. Người chí sĩ duy tân:

Dám vứt bỏ lối sống tầm thường. Lời tuyên ngôn của cả một thế hệ –

hướng về phía biển, sống mãnh liệt:

Xuất dương lưu biệt

Sinh vi nam tuyến hy kỳ,

Khẳng hứa càn khôn từ chuyển di.

Ư bách niên trung tu hữu ngã,

Khởi thiên tải hậu cánh vô thầy.

Giang sơn tứ hy sinh đồ nhức,

Hiền thánh liêu nhiên ông diệc si

Nguyện trục trường phong đông hải khứ,

Page 30: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

(Làm trai phải lạ ở trên đời,

Há để càn khôn tự chuyển dời.

Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

Sau này muôn thủa họ không ai.

Non sông đã chết sống thêm nhục,

Hiền thành còn đâu học cũng hoài.

Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

(Tôn Quang Phiệt dịch)

Văn tế Phan Chu Trinh

– Mở đầu là những lời đánh giá trang trọng, có tầm vóc quốc tế, đồng

thời là kiểu anh hùng mới tiếp nối những kiểu anh hùng đã xuất hiện trong lịch

sử:

Than ôi!

Tuồng thiên diễn mưa âu gió Mỹ, cuộc nọ kém thua hơn được,

ngó non sông nên nhớ bậc tiên tri;

Dấu địa linh con Lạc cháu Hồng, người sao trước có sau không,

kinh sấm sét dễ đau lòng hậu bối.

Vẫn biết tinh thần di tạo hóa, sống là còn mà thác vẫn như còn;

Chỉ vì thời thế khuất anh hùng, xưa đã rủi mà nay cũng thêm rủi.

Lấy ai đây nối gót nghìn thu,

Vậy ta phải kêu người chín suối.

– Xuất thân từ cửa Khổng sân Trình:

Nhớ tiên sinh xưa:

Page 31: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Tú dục Nam châu;

Linh chung Đà hàn.

Nghiệp thừa gia cung kiếm cũng pha đường;

Nền tác thánh thi thư từng thuộc lối.

Gan to tày bể, sức xông pha nào kể ức muôn người;

Mắt sáng hơn đèn, tài linh lợi từ khi năm bảy tuổi.

– Chí lớn và tinh thần tự nhiệm:

Vận nước gặp cơn dâu bể, đeo vai thân sĩ, còn lòng đâu áo mũ

xênh xang;

Thói nhà chăm nghiệp bút nghiên, giấu mặt hào hùng, thì tạm

cũng khoa trường theo đuổi.

– Thời đại mới, đi đến tư tưởng duy tân. Bậc thánh mới là Mã Ni, Lư

Thoa, Mạnh Đức địa bàn hoạt động có tính chất quốc tế:

Song le:

Khí vẫn tranh vanh;

Chí càng viễn đại.

Tài Mã Ni đang chứa sức hô hào;

Tuồng Lỗ Dịch quyết ra tay đào thải.

Đội tiên phong đâu tá, gió Duy tân từ Đông hải thổi vào;

Gương ngoại quốc kia là, sóng cách mạng bởi Âu châu dồn tới.

Dọc ngang trời đất, rực vẻ văn minh;

Tức tối nước nhà, cam đường hủ bại.

Cá chậu chim lồng vơ vẩn thế, áng công danh thôi vất lối tầm

thường

Rồng mây cọp gió lạ lùng chi, miền thanh khí thử hô người trung

ngoại.

Page 32: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Cậy tân học dặm dò đường tự chủ. Lư Thoa, Mạnh Đức so sánh

người xưa;

Mượn Đông du thăm hỏi bạn đồng tâm, Hương Cảng, Hoành

Tân, lỏi len đường mới.

– Sức mạnh chủ yếu là sức mạnh tinh thần:

Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường quyền trông gió cũng

gai ghê;.

Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm

rạng chói.

Phóng khiến:

Trình độ dân ta cao;

Trí thức dân ta giỏi.

Khí dân ta ngày một dồi dào;

Sức dân ta ngày càng cứng cỏi.

Một tiếng xướng có muôn tiếng họa, thần tự do nên đủng đỉnh về

đây;

Bạn người Việt với thầy người Tây, ma chuyên chế dám dùng

dằng ở mãi.

– Lòng kiên trinh, khí tiết vững vàng:

Nào hay:

Trời đã éo le;

Người cảng quỷ quái.

Chứa chan máu quốc, nước vẩn vơ hồn;

Xao xác tiếng gà, trời mù mịt tối.

Trường nô lệ chung quanh là rắn rết, văn cứu thời khen khéo gây

oan;

Page 33: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Ô dã man ngan ngát những hùm beo, miếng ái quốc hóa nên

buộc tội.

Thành Hà Nội ùn ùn mây ác độc; nào kẻ lánh mình, nào người

chống thuế, chữ âm mưu tô vẽ đủ trăm đường;

Đảo Côn Lơn rực rực lửa oan cừu, thấy người yêu nước, thấy kẻ

thương dân, tơ xướng loạn dệt thêu ra một mối.

Sương đơn gió kép, giữa hội mịt mù;

Mưa dập sóng dồn, xót ông chìm nổi.

Thân, Dậu, Tuất bấy nhiêu năm tân khô, khi đào cây, khi lượm

đá, giữa bể trần gió bụi vẫn ung dung;

Đặng Hoàng (Huỳnh), Ngô ba bốn bác hàn huyên, khi uống rượu,

khi ngâm thơ, ngoài cửa ngục lầm than mà khẳng khái.

Hồi đen may cũng lần lừa;

Lòng đỏ vẫn còn hăng hái.

Quay đầu lại giả ơn tù đảo, tấm thân giả còn nặng gánh giang

sơn;

Bước chân đi tìm bạn âu châu, đôi tay trắng quyết phất cờ xã hội.

Án tái phạm vì lời thông Đức, dạ sắt vàng thêm thử lại thêm bền;

Thư thất điều đón giá như Tây, uy sấm sét chẳng kinh cùng

chẳng hãi.

Gương vĩ nhân treo những bao giờ;

Hồn cố quốc mới về năm ngoái.

Trước mặt não ai hớn hở, thấy ngựa xe luống ngẩn ngơ chiều;

Bên tai những tiếng kêu van, nghe sưu thuế càng ngao ngán nỗi.

Dưới miệng cọp gửi đàn con đỏ, phúc trùng lai thêm bận dạ tha

hương;

Page 34: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Trên quyền người đeo giống da vàng, lòng cảm tử quyết lùa

quân hậu đội.

Ước những chuông đều trống nhịp; khắp ba kỳ cho vang tiếng

reo hò:

Mới là anh trước em sau, dắt một lũ để đồng bào gắng gỏi.

Khéo vô tình trời chẳng chiều người;

Nên bất hạnh mừng mà hóa tủi.

Tiệc hoan nghênh mới đó, não nùng rượu chửa phai mùi;

Hội truy điệu gần đây, thấp thoáng hương đà bén khói.

– Tự khóc cho mình và khóc cho một thế hệ người chí sĩ đã chịu nhiều

hy sinh, đã thất bại, nhưng vẫn tràn trề hy vọng ở tương lai:

Anh em ta:

Đất rẽ đôi đường;

Tình chung một khối.

Gánh tồn vong ai cũng nặng nề;

Nghĩa chung thủy lòng càng bối rối.

Sóng gió một con thuyền chung chạ, mái chèo đương lúc cheo

leo;

Mây mù muôn dặm đất xa khơi, dấu ngựa nhờ ai giong ruổi.

Ngại ngùng thay người ngọc mù sa;

Ngao ngán nhẽ giọt châu mưa xối.

Thương ôi!

Bể bạc còn trơ;

Trời xanh khó hỏi.

Nghìn vàng khôn chuộc được anh hào;

Page 35: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Tấc dạ dám thề cùng sông núi.

Trước đã giỏi mà sau thêm giỏi nữa, dấu cộng hòa xin ráng sức

theo đòi;

Thác còn thiêng thời sống phải thiêng hơn, thang độc lập quyết

ra tay vin vót. Lời này ông xét cho chăng?

Lòng ấy trời đã soi rọi!

(1926)

– Thung dung – phong cách kẻ sĩ thời cổ:

Vẫn là hảo kiệt vẫn phong lưu

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù

(Ngục trung thư)

3.3. Kiểu anh hung tập thể: sự thất bại lịch sử của người chi si duy tan

– Đi đến một loại anh hùng mới: Anh hùng tập thể, tin tưởng vào thanh

niên:

Bài ca chúc tết thanh niên

– Vận hội mới:

Dậy! Dậy! Dậy! bên án một tiếng gà vừa gáy,

Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.

Xuân ơi xuân xuân có biết cho chăng: thẹn cùng sông, buồn cùng

núi tủi cùng trăng,

Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót.

– Thừa nhận sự thất bại của thế hệ của mình – chí sĩ duy tân:

Trời đất may còn thân sống sót

Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh

– Kêu gọi một cách rất trang trọng:

Page 36: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Thưa các cô các cậu lại các anh,

Đời đã mới, người càng thêm đổi mới.

Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội,

Xúm vai vào gánh vác cựu giang san.

Đi cho êm đứng cho vững trụ cho gan,

Dây thành bại quyết ghe phen liên hiệp lại.

– Yêu nước và dám hy sinh vì nước:

Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi:

Xếp bút nghiên mà dưỡng lấy tinh thần

Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn

Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa

Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ.

Mới thế này là mới hỡi chư quân

Chữ rằng: nhật nhật tân, hựu nhật tân.

Bài ca chúc Tết thanh niên

KẾT LUẬN

– Nhà ái quốc trung kiên, chấp nhận thay đồi với một “bất biến” là dân

tộc.

– Một nhà thơ yêu nước nồng cháy, người cầm đuốc cho dân tộc trong

những năm đầu thế kỷ 20.

– Để lại trong văn chường hình ảnh đẹp về một người cách mạng,

người yêu nước, nhà chí sĩ Duy tân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Đình Hươu, Lê Chí Dũng: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời

1900 – 1930, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1988

Page 37: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

2. Chương Thâu: Văn thơ Phan Bội Châu, NXB Văn học, Hà Nội, 1967

3. Chương Thâu, Trần Ngọc Vượng: Phan Bội Châu – về tác gia và tác

phẩm, tái bản, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007

CÂU HỎI

1) Tìm hiểu sự vận động tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu qua thơ

văn ông.

2) Quan niệm anh hùng của Phan Bội Châu.

3) Sự vận động của hình tượng người chí sĩ duy tân qua 4 tác phẩm:

Chơi xuân, Xuất dương lưu biệt, Văn tế Phan Chu Trinh, Bài ca chúc Tết

thanh niên của Phan Bội Châu.

4) Tìm hiểu giọng “lâm ly bi thống” trong thơ Phận Bội Châu qua bản

dịch Lê Đại.

Bài 3. NỀN VĂN HỌC MỚI HÌNH THÀNH Ở ĐÔ THỊ1. SỰ RA ĐỜI CỦA NỀN VĂN HỌC MỚI

1.1. Sự chuẩn bị cho một nền văn học mới

Manh nha từ thế kỉ trước, bắt đầu từ Nam bộ

– Nơi tiếp xúc với Văn minh Pháp sớm nhất

– Đô thị hóa TBCN sớm và sâu rộng nhất

– Chính sách văn hóa của Pháp: Nam kỳ là thuốc địa của Pháp, nên

Pháp muốn đồng hóa, và cắt đứt với cội nguồn văn hóa dân tộc và những ảnh

hưởng của văn hóa Trung Hoa.

* Kinh tế:

Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp

– Thập niên 80 TK XIX thực dân Pháp cho hệ thống đào kênh xáng ở

ĐB Nam Bộ để mở rộng đất canh tác, xuất tiền cho dân vay để trồng lúa. Đưa

Page 38: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

diện tích cạnh tác từ 380.000 mẫu (1868) lên đến 2.650.000 mẫu (1938) – tức

là gấp 7 lần. Khiến cho số người giàu chiếm đến 7.000/18.000 hộ toàn Đông

Dương.

– Tuyến đường sắt SG– Mỹ Tho khởi cộng vào năm 1881, hoàn thành

vào năm 1882. Đầu TK XX hoàn thành: cầu Long Biên (1902), Đường sắt

xuyên Việt (khánh thành toàn tuyến 1936),…

– Đô thị hóa tư bản chủ nghĩa (cùng với quá trình bần cùng hóa nông

dân) nhanh chóng: SG từ 20.000 dân (1868) lên 300.000 dân (1929). Các đô

thị mới mọc lên mau chóng: Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nam Định, Vinh,

Mỹ Tho, Cần Thơ...

* Giáo dục

Phổ biến chữ quốc ngữ:

– Giữa TK XVII A.Rhode cho ra đời Từ điển Việt – Bồ – La để chuẩn

hóa chữ quốc ngữ, tiếp theo là các Từ điển Annam – Latin của Bê–hen (TK

XVIII), Từ điển Annam - Latin và Latin – Annam của Tabert (nửa đầu TK XIX)

– Chủ trương dùng chữ quốc ngữ để cắt VN ra khỏi văn hóa truyền

thống. Khuyến khích ra báo, phiên âm truyện Nôm, dịch truyện Tàu, dịch văn

học Pháp ra quốc ngữ.

Trường Pháp Việt được mở ra:

– Du học: Nguyễn Trọng Quản, Diệp Văn Cương du học ở Alger

– 1873 mở trường đầu tiên: Trường Hậu bồ (Collège des Stagiaires) do

Trương Vĩnh Ký điều hành.

– 1887 mở trường tiếng Pháp ở Kinh đô do Diệp Văn Cương làm

Chưởng giáo

– 1900 cả 5 quận SG đều có trường cho nam sinh và nữ sinh, nổi tiếng

nhất là Chasseloup Laubat.

– 1913 ở Huế có trường Quốc học, HN có Trường Bưởi (Collège du

Protectorat).

Page 39: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

– Sau đó mỗi xã đều có trường tiểu học Pháp– Việt (sơ đẳng), các

huyện lỵ thì có tiểu học toàn cấp.

1.1.1. Báo chí, xuất bản:

Tổ chức và khuyến khích phong trào sáng tác.

Làm quen với các tác phẩm văn học phương Tây

Nơi tập dượt ngòi bút của người viết.

Báo chí Nam Kỳ:

– Đầu tiên: Gia Định báo (15/4/1865 – 1909): Lúc đầu do Emest

Potteaux làm chánh tổng tài, từ năm 1869 do Trương Vĩnh Ký làm Chánh

tổng tài. Tờ báo có 2 phần:

Công vụ: văn thư, quyết định của chính quyền Pháp (công báo)

Thứ vụ: khoa học thường thức, văn học.

Tiếp theo là các tờ:

– Nhật trình Nam Kỳ (1883)

– Báo hộ Nam dân (1888)

– Thông loại khóa trình (1888–1889): tạp chí KHXH đầu tiên do Trương

Vĩnh Ký chủ trương

– Phận Yên báo (1898): Diệp Văn Cương chủ chương, tờ báo tư nhân

đầu tiên của nước ta.

– Nông cổ mín đàm (1901): đầu tiên do Canavaggio làm chủ nhiệm,

Lương Dữ Thúc (Lương Khắc Ninh) làm chủ bút (loạt bài Thương cả luận).

Sau đó Trần Chánh Chiếu, làm chủ bút (1906–1907). Tờ báo thể hiện rất rõ

chủ trương vận động Duy tân (Nam Bộ gọi là Minh tân).

– Lục tinh tân văn (1907–1944): 1907–1908 Trần Chánh Chiếu làm chủ

bút. 51 số đầu là tờ báo “Minh tân” (Duy tân). Ông bị Pháp bắt vì tội “đại ác”

(chống chính quyền), tờ báo lại giao cho Lương Khắc Ninh. Lúc đầu là tuần

Page 40: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

báo, sau đó trở thành nhật báo, là một trong những tờ báo lớn nhất của Nam

Kỳ.

Miền bắc và miền Trung:

Đầu tiên là tờ Đại Nam đồng văn nhật báo (chữ Hán) ra đời năm 1892

Tiếp theo là các tờ: Đại Việt tân báo (1905), Đông Dương tạp chí (1913)

của Nguyễn Vãn Vĩnh, tờ báo có phần văn chương, Nam Phong tạp chí

(1917) của Phạm Quỳnh, có phần Văn uyển, sưu tập thơ văn cũ và phần

Sáng tác…

Rồi hàng loạt các báo khác nữa: Hữu thanh tạp chí, Tiếng dân, Phụ nữ

tân văn, Đông Pháp thời báo, Chuông rè (tiếng Pháp: La Clodefelaire) đăng

rải rác thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết.

Xuất bản:

Các nhà in và nhà xuất bản ra đời rất nhiều, trước hết là ở Nam Bộ:

đầu tiên là Impériale, 1862–1868, sau đó là các nhà xuất bản, nhà in:

– Bản in nhà nước, 1875

– Guilland et Martinon, 1881 –1886

– Huỳnh Kim Danh, 1923–1932

– Bảo Tồn, 1927 – 1944

– Đức Lưu Phương, 1928–1943

– Tín Đức thư xã, 1928–1945

– Nữ lưu thư quán, 1929…

Tổng cộng trên 120 nhà in/xuất bản

1.1.2. Văn học dịch:

Nam bộ:

Mở đầu cho việc dịch thuật là ở Nam Bộ. Những bản dịch ra quốc ngữ

đầu tiên là văn học cổ điển Trung Quốc, văn học cổ điển VN và văn học Pháp:

Page 41: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Minh tâm bửu giám (Trương Vĩnh Ký), Chuyện Phan sa diễn ra quốc ngữ

(Trương Minh Ký–1884)…

– Dich giả đầu tiên là Trương Minh Ký: Tư gia cách ngôn khuyến hiếu

ca, Chuyện Phan sa diễn ra quốc ngữ (1884, trong đó có dịch truyện ngụ

ngôn La Fontaine), Truyện ngụ ngôn Pháp, Tê Lê Mặc phiếu lưu ký (1885,

dịch từ Les aventures dễ Télémaque của Fénelon)

– Dịch tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc: Liêu Trai, Tam quốc, Phong

thần, Chinh Đông Chinh Tây, Thủy hử, Đông du bát tiên, Càn Long hạ Giang

Nam…Kể cả truyện truyền kỳ của VN: Truyện mạng lục (tức Truyền kỳ mạn

lục) đăng trên Gia Định báo. Nổi tiếng nhất là 4 dịch giả: Nguyễn Chánh Sắt,

Huyền Mặc Đạo Nhân, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Cư.

Bắc bộ:

Các nhà cựu học như Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế

Bính, Nguyễn Thiện Thuật dịch văn học cổ điển Trung Quốc và Việt Nam như:

Tam Quốc, Thuỷ hử, Lĩnh Nam chích quái, Truyền kỳ mạn lục, Hoàng Lê nhất

thống chí…

Sau đó: dịch tiểu thuyết “ngôn tình nhu cảm” của Trung Quốc và Pháp:

Tuyết hồng lệ sử, Trà hoa nữ…

Nguyễn Văn Vĩnh dịch rất nhiều: thơ ngụ ngôn của La Fontaine, thơ

Lamartine, V.Hugo, thơ Chateaubriant, kịch của Molière: Người hà tiện,

Trưởng giả học làm sang, Bệnh tưởng…

Phạm Quỳnh dịch: Lôi Xích (Le Cid), Hòa Lạc (Horace) của Corneille.

Ví dụ: Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine:

Con ve sầu kêu ve ve

Suốt mùa hè

Đến kỳ gió bấc thổi

Nguồn cơn thật bối rối

Page 42: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Ở các trường tiểu học, trung học Pháp – Việt, học sinh cũng được học

và tập dịch tương tự.

1.2. Thơ, kịch, tiểu thuyết mới ra đời

1.2.1. Thơ

– Ôn tập lại cái cũ: Đường luật, Cổ phong

– Trở về với dân tộc: lục bát, song thất, xẩm chợ, ca dao (phong thi),

hát nói

Thơ của các nữ sĩ: Nhàn Khanh, Đạm Phương, Tương Phố

Nhàn Khanh có tập thơ trên Nam phong tạp chí

Tương Phố viết đoản văn Giọt lệ thu (có chen thơ), Khúc thu hận (đang

trên Nam phong tạp chí)

Nam giới làm thơ khá nhiều, nhưng phần lớn là kiêm nhiệm, họ nổi

tiếng trong lĩnh vực khác. Đó là: Dương Bá Trạc, Bùi Kỷ, Nguyễn Mạnh Bồng,

Trần Chánh Chiếu, Hoàng Ngọc Phách, Thượng Tân Thị, Nguyễn Liêng

Phong. Trong đó nổi tiếng hơn cả là: Tản Đà, Trấn Tuấn Khải, Đoàn Như

Khuê (bài Bế thảm trong tập Một tấm lòng), Đông Hồ (với Linh Phượng lệ kí).

Tính chất chung: sầu thảm bi thương (bài Bể thám của Đoàn Như

Khuê), trang nhã, kín đáo, đài các, gọt dũa, mòn sáo.

Giọt lệ thu của Tương Phố:

“Trời thu ảm đạm một màu

Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em

Trăng thu ngả bóng bên thềm

Tình thu ai để duyên em bẽ bàng

Anh ơi, thu về như gợi mối thương tâm. Mỗi độ thu sang em lại vò lòng

than khóc. Nghĩ năm có một lần thu, nhưng thu năm nay đi năm sau còn trở

lại. Hỏi ba sinh hương lửa thời ái ân kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau.

Page 43: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Chẳng hay cơ trời dâu bể vì đâu, xui nên chăn gối vừa êm, lửa hương

mới bén, sắt cầm dìu dặt ngón đàn, bỗng ai xô lộn bình tan gương võ cho

người dở duyên”

Trần Tuấn Khải: yêu nước hợp pháp, có khuynh hướng đạo lí. Tác

phẩm: Duyên nợ phù sinh, Bút quan hoài, Với sơn hà… Các bài nổi tiếng:

Gánh nước đêm, Tiễn chân anh Khóa xuống tàu…

1.2.2. Kịch

15/4/1920 kịch được công diễn lần đầu tiên.

Có vở kịch đã viết không diễn: Bình địa ba đào của Trần Tuấn Khải, có

vở đã diễn nhưng không gây được tiếng vang như: Cô giáo Phượng của

Nguyễn Ngọc Sơn.

Sau đó có một số vở gây tiếng vang lớn như: Chén thuốc độc của Vũ

Đình Long (1921), Tòa án lương tâm của Vũ Đình Long (1923), Uyên ương

của Vi Huyền Đắc (1927), ông Tây An Nam của Nam Xương (1930)

Kịch và cải lương Nam Bộ:

– Trí giả tự xử, cảnh thế tân kịch, Phan Văn Hòa, Impr: Ng.Văn Viết,

SG, 1925

– Toi–toi, Moi–moi, tuồng giễu có 6 lớp, Trung Tín, Impr. Ng.Văn Viết,

SG, 1925

– Cải lương: Kịch Phương Tây kết hợp với đàn ca tài tử:

1917 Lương Khắc Ninh diễn thuyết: Cảm lương hí nghệ ở Hội khuyến

học Nam Kỳ.

Cũng năm ấy vở Vì nghĩa quên nhà của Lê Quang Liêm và Hồ Biểu

Chánh diễn ở rạp Eden. Trương Duy Toàn viết: Hạnh Nguyên cống Hồ, Trang

Tứ cổ bồn ca…

Tính chất chung:

– Tố cáo xã hội tiền, tình, lai căng.

Page 44: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

– Giáo huấn

– Hành động kịch chậm, xung độ chưa sâu sắc, giải quyết xung đột còn

dựa vào yếu tố ngẫu nhiên.

1.2.3. Tiểu thuyết

Truyền thống: văn xuôi cổ, truyện Hán văn, truyện thơ Nôm

Tiểu thuyết chữ Nôm: manh nha ở thế kỷ 17 với truyện Hạnh các

Thánh.

Du kí, bút kí quốc ngữ của Phi–lip–phê Bỉnh – Sổ sang chép các việc,

Trương Vĩnh Kí – Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất hợi (1876)

Tiểu thuyết đầu tiên là Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng

Quản (viết năm 1886, xuất bản năm 1887)

Truyện thầy Lazaro Phiền

Tác giả: Nguyễn Trọng Quản, xb 1887

Lời tựa:

“Tôi có dụng ý lấy tiếng thường một người hằng nói mà làm ra một

chuyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay; trước là

làm cho trẻ con ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng:

người An Nam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai!

Đã biết rằng: xưa nay dân ta chẳng thiếu chi thơ văn phú truyện nói về

những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó: mà những

đấng ấy thuộc về thời xưa chớ đời nay chẳng còn nữa. Bởi đó tôi mời dám

bày đặt một truyện đời này là sự thường có trước mắt ta luôn, như vậy thì sẽ

có nhiều người sẽ lấy lòng vui mà đọc; kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho

đặng giải phiền một giây.”

Nội dung:

Mở đầu: “Ai xuống Bà Rịa mà có đi ngang qua đất thánh ở trong Cát tại

làng Phước Lễ, thì tôi xin bước vô đất thánh ấy, kiếm cái mồ có cây thánh giá

Page 45: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

bằng ván, sơn nửa đen nửa trắng, gần một bên những kẻ tử đạo mà thăm mồ

ấy kẻo tội nghiệp! Vì đã hai năm nay không ai thăm viếng không ai màng ngó

tới.

Mồ đó là mồ mã thầy đã chịu lương tâm mình cắn rứt đã mười năm,

bây giờ mới đặng nằm an nghỉ nơi ấy.

Truyện bắt đầu bằng sự kiện người viết xuống tàu vào một tối có trăng

để đi Bà Rịa. Xuống dưới tàu anh nhìn thấy một thầy tu đứng gần bên, mặt

mới như có gì buồn bực lắm.

Người thầy tu này đi Vũng Tàu để dưỡng bệnh, nhưng ông ta biết mình

chỉ sống được chừng nửa tháng nữa thôi.

Đêm đến, người thầy tu kể lại toàn bộ bí mật của đời mình, bí mật đã

làm đau đớn dày vò ông ta 10 năm nay.

Người thầy tu ấy tên Phiền, quê ở Đất Đỏ Bà Rịa, sinh năm 1847 trong

một gia đình đạo dòng. Mẹ mất vì dịch tả khi Phiền mới ba tuổi. Lúc ấy Pháp

tấn công nước ta, triệu đình Nguyễn ra lệnh cấm đạo ráo riết. Phiền phải chịu

tất cả những gian khổ của những người Công giáo trong tình cảnh đó. Cha

con bị giam vào lúc Pháp tấn công Bà Rịa, nhà giam bi đốt cháy, Phiền chạy

thoát được sau đó bị ngất đi vì bị thương nặng. Tình Cờ Phiền được một

người quan ba Pháp cứu được, đem về điều trị, rồi đưa về Sài Gòn. Người sĩ

quan trở về Pháp, Phiền ở với người linh mục, được đi học chữ quốc ngữ rồi

chữ Latin.

Trong trường anh có quen với một người bạn tên là Vero Liễu, con ông

trùm họ Cầu Kho. Hai người rất thân nhau, kết nghĩa làm anh em (Phiền là

anh). Cha mẹ Liễu khi vào trường thăm Liễu thường dẫn theo một cô gái con

người dì của Liễu. Phiền để ý cô gái ấy, sau này được cha mẹ thầy Liễu tác

hợp cho.

Lập gia đình xong, Phiền đi làm thông ngôn ở Bà Rịa 6 tháng. Ở đấy

anh gặp một quan Pháp, vợ người Việt Nam. Người đàn bà này thích Phiền,

tìm mọi cách gần gũi anh ta nhưng không được. Một ngày kia Phiền nhận

Page 46: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

được bức thư do người đàn bà ấy gửi, nói rằng vợ của Phiền ngoại tình với

Liễu, bạn Phiền và cũng là người bà con của cô ta, hai bức thư Liễu gửi cho

vợ Phiền còn ở trong tủ áo vợ Phiền. Phiền nghe chuyện ấy, lòng ghen tuông

nổi lên. Nhân lúc Liễu đi Bà Rịa mua ngựa trở về, Phiền được quan Pháp

giao cho mười tên lính đi bắt cướp trên sông, Phiền đã cố ý cho quân nổ súng

vào tàu của Liễu và giết chết Liễu. Phiền làm tờ trình là tưởng cướp nên anh

ta thoát tội. Về nhà Phiền lập mưu giết vợ. Anh ta lén bỏ một loài hoa độc vào

siêu thuốc của vợ, loài hoa độc này ai uống vào thì chỉ bảy tám tháng sau là

chết, không thuốc gì chữa khỏi. Trước khi vợ chết, cô ấy còn trối lại: “Tôi biết

vì sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin chúa thứ tha cho thầy”.

Đau khổ vì hành vi của mình. Phiền vào nhà dòng làm tu sĩ. Anh ta học

hành nghiêm chỉnh nên ai cũng kính nể, còn tội ác của anh ta thì không ai biết

cả. Sau này người đàn bà vợ Tây đã gửi cho anh ta một bức thư nói rằng

mình đã lập mưu vu oan cho bạn và vợ Phiền để trả thù Phiền đã không chịu

ngoại tình với cô ta. Phiền suy sụp hẳn. Anh ta bị bệnh nặng, bị giày vò…Biết

mình sắp chết anh xin đi Vũng Tàu chữa bệnh, và cũng là dịp về lại Đất Đỏ,

quê xưa.

Kết thúc truyện, người viết đã đến Bà Rịa, viếng mộ những người Tử

Đạo, nhân đó thấy một nấm mồ “một bên có cây Thánh giá, có chữ đề mà

mưa đã làm lu hết còn sót bốn chữ 27 Janvier 1884 mà thôi (...) Tôi hỏi cha

rằng: “Có phải là mồ Thầy Phiền chăng? “ Cha sở vừa ừ, thì tôi quỳ gối nơi

mồ mà đọc rằng:

Chúng tôi cậy vì danh chúa nhơn từ

Cho linh hồn Lazaro đặng lên chốn nghỉ ngơi.

Hằng xem thấy mặt Đức chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng”.

Từ năm 1910, tiểu thuyết bắt đầu nở rộ:

1910: Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Thiên Trung (Trần Chánh

Chiếu)

Page 47: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Phan yên ngoại sử tiết phụ gian truân của Trương Duy Toàn (truyện dã

sử)

1912: Tiểu thuyết của Lê Hoàng Mưu: Truyện nàng Hà Hương. Các tác

phẩm sau của ông: Đầu tóc mượn, 1924; Đêm rốt người tội tử hình, 1925

Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh:

1912: Ai làm được

1913: Chúa tàu Kim Quy

Sau đó: Cay đắng mùi đời (1923), Tỉnh mộng (1923), Một chữ tình

(1920), Nhân tình ấm lạnh (1925), Tiền bạc bạc tiền (1925), Ngọn cỏ gió đùa

(1926 –1928), Vì nghĩa vì tình (1929), Khóc thầm (1929), Con nhà nghèo

(1930)…Cho đến 1958, ông viết đến 64 tiểu thuyết.

1925: Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Sau đó là một loạt tiểu thuyết

khác: Quả dưa đỏ của Nguyễn Thiện Thuật, Kim Anh lệ sử của Trọng Khiêm,

Nho phong của Nguyễn Trường Tam…

* Truyện ngắn:

Viết trên Nam Phong có: Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc

Phách, Mân Châu (Nguyễn Mạnh Bổng)…

Nguyễn Bá Học: Câu chuyện gia đình, Truyện ông Lí Chấm, Có gan

làm giàu, Chuyện cô Chiêu Nhì, Câu chuyện một tối tân hôn…

Phạm Duy Tốn: Sống chết mặc bay, Con người Sở khanh

Mân Châu: Ai giết người, Trằn trọc đêm xuân.

Hoàng Ngọc Phách: Giọt lệ hồng lâu…

Tính chất chung:

– Phản ánh xã hội

– Ảo tưởng về việc giải quyết các vấn đề xã hội

– Ảnh hường nhiều loại văn chương cũ

Page 48: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

– Đồng thời đây cũng là một thể loại đầy triển vọng, thể loại của tương

lai. Đưa văn học có tính chất khu vực thành loại văn học hòa nhập chung vào

thế giới, từ dân tộc thành hiện đại, văn học Việt Nam hòa vào dòng chảy

chung có tính chất toàn thế giới.

2. TIỂU THUYẾT TỐ TÂM CỦA HOÀNG NGỌC PHÁCH

2.1. Hoàng Ngọc Phách:

Hoàng Ngọc Phách (1896–1973), hiệu Song An, quê ở xã Đong Thái,

huyện Đức Thọ, tinh Hà Tĩnh.

Thân phụ từng tham gia phong trào Cần Vương. Sau khi phong trào

Cần Vương thất bại, ông thân phải đem cả gia đình ra làng Đông Côi, huyện

Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh làm ruộng.

Thủa nhỏ Hoàng Ngọc Phách học chữ Nho với thân phụ. Năm 1911 (15

tuổi) bắt đầu học tiếng Pháp ở Hà Nội. Năm 1914 đỗ bằng tiểu học Pháp Việt

và trúng tuyển vào trường Trung học Bảo hộ (trường Bưởi).

Năm 1919 đỗ bằng Cao đẳng tiểu học Pháp và bằng Thành Chung.

Cũng năm đó trúng tuyển vào trường Cao đẳng sư phạm (Ban văn học) và tốt

nghiệp năm 1922

Ra trường được bổ đi dạy ở nhiều nơi: Nam Định, Kiến An, Hải Phòng

(Cao đẳng tiểu học Bonal – Hải Phòng)…

Trong kháng chiến chống Pháp: tham gia kháng chiến ở Việt Bắc làm

công tác giáo dục. Sau 1954 làm việc ở Ban tu thư Bộ giáo dục. Sau về Viện

văn học làm công tác nghiên cứu.

Tác phẩm:

Tiểu thuyết Tố Tâm (viết 1922, in 1925)

Nghị luận Thời thế với văn chương (1941)

Tạp văn (truyện ngắn) Đâu là chân lý (1941)

Page 49: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Sách nghiên cứu: Cung oán ngâm khúc (1957), Thơ văn Nguyễn

Khuyến (1957), Thơ Trần Kế Xương (1958), Thơ văn Nguyễn Công Trứ

(1959), Sơ tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng (1959), Giai thoại văn học

Việt Nam (1965) và một số sách, hồi ký chưa in khác.

Tham gia viết báo từ khi còn học trường Bưởi, viết cho các báo: Nam

Phong, Trung Bắc tân văn…Sau này viết cho nhiều báo, tạp chí khác nữa.

2.2. Tiểu thuyết Tố Tâm:

2.2.1. Hoàn cảnh sáng tác:

Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm khi ông học năm cuối trường Cao đăng

sư phạm, năm 1922, và in năm 1925, nhà Chân Phương. xuất bản, Hà Nội.

– Tuyết hồng lệ sử của Từ Trẩm Á (đăng trên NP 1923–1924): Tình yêu

giữa thầy giáo tư Mộng Hà, nàng góa phụ (mẹ của học sinh) Lê Anh. Bế tắc

Lê Anh phải đem em chồng là Quân Thiếu ra chắp nối. Sự hy sinh ấy không

ngờ quá sức chịu đựng của nàng, Lê Anh lâm vào trọng bệnh mà chết. Quân

Thiếu chưa kịp chung sống với Mộng Hà cũng tủi phận hờn duyên mà mất.

– Trà hoa nữ của A.Dumas: tình yêu một chàng quý tộc và một kỹ nữ.

– Mồ hoa cúc dại (Nogiku no ohakal/Dã cúc chi mộ) của Ito Sachio. Kể

về mối tình tuyệt vọng giữa Tamiko (bị ép gả) với Masao.

– Gò cô Mít (Hoàng Ngọc Phách): cô Mít con gái cụ Bá rất xinh đẹp,

yêu Tư Nhung con ông Khóa Mão, nhà hàng xóm. Hai người thường tặng quà

cho nhau: khi thì anh Tư Nhung lao cây mía qua hàng rao, khi thì gói bánh

treo cạnh rào, còn cô Mít tặng người yêu bốn vuông lụa trắng, một đôi giày

tàu và một cối giã trầu bằng đồng.

Cô Mít đi đâu, cậu Nhung cũng đi theo sau, nhưng vì thẹn nên đi cách

sau nửa cây số. Có lần thấy cô Mít bị thầy Quyền chọc ghẹo giật mất khăn

vuông, cậu Nhung nắm cổ thầy Quyền dúi xuống ruộng.

Quan Thị (giảng) ở tỉnh về muốn cưới cô Mít làm vợ lẽ. Cụ Bá đồng ý,

hỏi cô Mít, cô không nói gì. Ở nhà rước dâu, mổ lợn, giã giò. Rượu chè đã

Page 50: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

đưa xuống. Cô Mít chạy vào chạy ra, mặc áo cưới, khăn sa tanh hoa, quần

lĩnh tía, không nói năng gì, ai mừng cô thì cô nhếch mép cười, ai cợt thì cô chỉ

khóc.

Khi ô tô nhà trai xuống thì không thấy cô dâu đâu.

Buổi chiều hôm sau lũ trẻ chăn trâu xúm lại chung quanh một cái gò

con giữa cánh đồng: Ở đó có đủ xôi thịt, bánh chưng, trầu cau, hai cái chén,

một chai rượu đập vỡ. Cô Mít mặc quần áo cưới, cậu Nhung mặc quần áo hội

nằm chết bên nhau. Họ để lại di chúc xin cha mẹ hợp táng ở gò cho trọn lời

thề. Gò ấy ít ai dám đến nữa, bị cỏ che rậm rạp. Người ta kể từ đó về sau,

trong đêm tối vẫn thấy một cặp ma trơi đêm đêm hiện lên ở gò cô Mít.

2.2.2. Tiếu thuyết Tố Tâm:

Đạm Thủy, sinh viên cao đẳng, kể cho bạn nghe chuyện tình đau khổ

của mình.

Một chuyến về quê, vì mất ví, Đạm Thuỷ trình quan sở tại, nhờ đó mà

biết Tố Tâm cháu viên tri huyện.

Sau về trường mới biết cửa hàng tơ lụa mẹ Tố Tâm gần trường, có cậu

Tân đang học “Ly–xê” (Lycée), nhờ đó mà tình yêu nảy nở. Đây là hình ảnh

Tố Tâm lần đầu gặp gỡ:

“Đương nói chuyện thì người thiếu nữ đi ra, thoạt có dáng ẹ lệ nhưng

giữ ngay vẻ tự nhiên như không (…). Cái đường mũi hơi cao mà nhỏ, thẳng

xuống cái miệng xinh xinh, viền hai đường môi mỏng và thăm thẳm, tạc ra cái

vẻ mặt rất thanh tao tinh xảo nhưng trên cái khuôn mặt mơn man đào tơ đó

có một vé buồn cao xa kín đáo, bởi ở nơi con mắt trong mà lại lờ đờ, tức là

thứ mắt của người có tư tưởng mà hay mơ màng những chuyện viễn vông.

Cái khuôn mặt thiên nhiên đó để trên một tấm thân manh mảnh cao làm cho

tôi thấy bây giờ mới trông thấy thứ đẹp thanh tú tĩnh mạc có vẻ thiêng liêng”

Tố Tâm, cô gái mới, hay đọc sách báo mà thầm yêu Đạm Thủy qua

những bài viết của anh.

Page 51: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Trước tình yêu và hôn nhân của Đạm Thủy: Tố Tâm chấp nhận thua

thiệt mà không phản đối.

Gia đình Đạm Thủy đã hỏi vợ cho chàng và giục chàng về xem mặt cô

dâu. Chàng không muốn làm trái ý cha mẹ. Nàng chấp nhận hôn nhân của

người yêu với một sự hy sinh thầm lặng:

“Chiều thứ năm tôi ra chơi thì thấy mặt nàng hơi xanh, nhưng cách tiếp

đãi, cử chỉ không có chút gì khác thường cả, vẫn quyến luyến vui vẻ tươi

cười. Nàng lại nói pha trò về chuyện cưới xin của tôi như một em gái nói đùa

anh giai lúc anh mới đi sêu về”

Tố Tâm yêu Đạm Thủy nhưng cũng không muốn chàng trái ý gia đình

và làm vợ chưa cưới của chàng đau khổ.

Trước tình yêu và hôn nhân của Tố Tâm:

Mẹ Tố Tâm bệnh nặng, nhân có cậu Tú B dạm hỏi, Tố Tâm không đồng

ý, viết cho Đạm Thủy: “Em đã yêu anh thì không thể yêu ai được nữa, mà

cũng không muốn yêu ai. Đã không yêu thì không lấy, vì sợ làm phiền cho

một người nam nhi nữa”. Bà mẹ không ép nhưng cũng muốn lo chuyện cho

xong. Tố Tâm vì chữ hiếu mà đồng ý.

Tình yêu và nghĩa vụ với chồng: thẳng thắn thừa nhận tình yêu của

mình, nhưng cũng hứa làm tròn nghĩa vụ.

Lấy chồng nhưng vì tương tư mà lâm bệnh nặng. Chồng phát hiện ra

thư vĩnh biệt của người yêu cũ, Tố Tâm trả lời rõ ràng về tình yêu của mình

và tình cảm của mình với chồng (trang 104/tr 108 – 109 Tuyển tập HNP).

Sau đó Tố Tâm chết vì bệnh và buồn khổ. Đạm Thủy tự an ủi mình

bằng chyện nghĩa vụ nam nhi.

Nghệ thuật tiểu thuyết Tố Tâm:

– Kết cấu: mới, không theo trình tự thời gian.

– Miêu tả ngoại hình nhân vật: cá tính hóa.

– Miêu tả tâm lý nhân vật: sâu sắc, cá tính

Page 52: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Kết luận: Tố Tâm không phải là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn học

Việt Nam, vị trí danh dự ấy dành cho Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn

Trọng Quản, nhưng Tố Tâm là cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên trong văn học

quốc ngữ nước ta. Lần đầu tiên tâm lý của lớp thanh niên mới – thanh niên

tân học ở đô thi trở thành đối tượng tìm hiểu và diễn tả của tiểu thuyết Tố

Tâm đã thể hiện được những khát khao của họ – khát khao về tình yêu, khát

khao về tự do, về bình đẳng. Khát khao mới chớm nở nhưng cũng rất mạnh.

Thế nhưng những khát khao ấy đã bị vùi dập bởi nền luân lý khắc nghiệt cổ

xưa. Kết thúc của câu chuyện là một tấn bi kịch. Đọc Tố Tâm người ta chưa

thấy một cuộc đối đầu để giải phóng cho cá nhân, cho tình yêu vả cho tự do,

nhưng đọc nó đủ để thấy được chỗ yếu kém của tình trạng nước nhà, đúng

như Thiếu Sơn nhận xét: “Đọc sách Tố Tâm ta phải nhận thấy cái chỗ kém

hèn của luân lý nước nhà, vì nó mà một vị giai nhân phải giã thế từ trần để lại

một bực tài tử phải sống mà nuốt lệ” (Lời phê bình của một độc giả – Thiếu

Sơn).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời

1900 – 1930, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1988

2. Nhiều tác giả: Truyện ngắn Nam Phong, NXB Khoa học xã hội, Hà

Nội, 1989

3. Cao Xuân Mỹ: Truyện dài đầu tiên và tuyển tập những truyện ngắn

Nam Bộ, NXB. Văn Nghệ TP.Hồ Chí Minh, 1998

4. Nguyễn Huệ Chi: Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, NXB Văn học, Hà

Nội, 1989

5. Hoàng Ngọc Phách: Tố Tâm, NXB Văn nghệ và Hội nghiên cứu

giảng dạy Văn học TP Hồ Chí Minh, 1988

6. Lữ Huy Nguyên: Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải, NXB Văn học, Hà

Nội, 1984

Page 53: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

7. Đoàn Lê Giang: “Sự ra đời của từ “Văn học” và quan niệm mới về

văn học của các nước Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản” Tạp chí nghiên

cứu văn học số 5 năm 1998; website: http//:khoavanhoc–ngonngu.edu.vn

8. Đoàn Lê Giang: “Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối TK.XIX đến

1945 – thành tựu và triển vọng nghiên cứu”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số

7/2006; website: http://khoavanhoc–ngonngu.edu.vn

9. Đoàn Lê Giang: “Á Nam Trần Tuấn Khai – “anh Khoá “ với những bài

thơ nước non”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 7/2007; website:

http://khoavanhoc– ngon ngu.edu.vn

CÂU HỎI

1. Tìm hiểu những tờ báo lớn và các nhóm văn học nổi tiếng trong 30

năm đầu TK.20

2. Anh chị nghĩ như thế nào về cách xử lý các mối quan hệ của 2 nhân

vật: Đạm Thuỷ, Tố Tâm trong tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách.

3. Những cách tân nghệ thuật trong tiếu thuyết Tố Tâm của Hoàng

Ngọc Phách

Bài 4. HỒ BIỂU CHÁNH (1885 – 1958)Hồ Biểu Chánh là tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỷ XX.

Ông đã đóng góp cho nền văn học nước nhà một sự nghiệp văn chương

phong phú và đa diện, gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, thơ ca, biên khảo, dịch

thuật, báo chí, kịch bản sân khấu…Điều đáng quý là rất nhiều tác phẩm của

Hồ Biểu Chánh đến ngày nay vẫn còn thu hút được độc giả, được chuyển thể

thành phim truyện, kịch nói, cải lương. Thậm chí, những tác phẩm của Hồ

Biểu Chánh do nhà xuất bản Tiền Giang in và phát hành đã tạo thành một

“hiện tượng xuất bản” trong ngành xuất bản. Người đọc đến với tiểu thuyết

của Hồ Biểu Chánh với nhiều lý do, có người tìm đọc vì nhiệm vụ nghiên cứu

bảo tồn di sản văn học của tiền nhân, nhưng đa số độc giả đọc và yêu thích

nó vì trong nội dung của những tác phẩm này ẩn chứa những tâm tư tình

Page 54: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

cảm, phong tục, lối sống, lời ăn tiếng nói của con người Nam Bộ thuần phác

hồi đầu thế kỉ trước. Trong đó có nhiều giá trị mất đi và có thể không bao giờ

quay trở lại trong cuộc sống con người hiện đại ngày nay.

Nghiên cứu văn nghiệp Hồ Biểu Chánh, đặc biệt là mảng tiểu thuyết là

một việc làm cần thiết và có ý nghĩa.

1. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ

Tiên, về sau lấy tự làm bút hiệu chính thức; sinh tại làng Bình Thành, huyện

Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Long An), trong một gia đình nông dân

nghèo. Năm lên chín tuổi, Bồ Biểu Chánh bắt đầu học chữ nho ở trường làng,

sau đó học chữ quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi (1896-1898)

rồi sau đó là trường tỉnh Gò Công (1898-1901), trường trung học Mỹ Tho

(1902-1903), trường Chasseloup Laubat Sài Gòn (1904-1905). Cuối năm

1905 Hồ Biểu Chánh đậu bằng Thành chung. Năm 1906 ông thi đậu Ký lục

soái phủ Sài Gòn, làm việc tại dinh thượng thư Sài Gòn. Năm 1911, ông bị

chuyển về công tác tại Bạc Liêu vì bị nghi ngờ có liên hệ với nhóm minh tân

của Trần Chánh Chiếu. Một năm sau (1912), ông chuyển xuống công tác tại

Cà Mau. Năm 1918, Hồ Biểu Chánh được chuyển về làm việc tại Gia Định.

Năm 1920, ông làm việc trong văn phòng Thống đốc Nam Kỳ. Năm 1921, ông

thi đậu ngạch tri huyện. Năm 1927, ông được thăng tri phủ, nhậm chức chủ

quận Càng Long (Vĩnh Bình). Năm 1932, ông làm chủ quận Ô Môn (Cần

Thơ). Năm 1937, Hồ Biểu Chánh được phong Đốc phủ sứ sau gần ba mươi

năm làm việc cho chính phủ Pháp. Cùng năm 1937, Hồ Biểu Chánh xin hồi

hưu nhưng chính phủ Pháp không cho vì chưa có người thay thế. Năm 1941,

ông được cử làm Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương, rồi Nghị viện

Hội đồng thành phố Sài Gòn kiêm Phó Đốc lý. Năm 1942, Hồ Biểu Chánh

ngầm nhận tiền của Sở thông tin tuyên truyền Pháp để ra Nam kỳ tuần báo và

Đại Việt tạp chí. Năm 1946 Hồ Biểu Chánh làm cố vấn và đổng lý văn phòng

trong chính phủ “Nam kỳ tự trị” do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thành lập. Sau

Page 55: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

khi Nguyễn Văn Thinh tự vẫn, Hồ Biểu Chánh lui về sống cuộc đời thanh

bạch. Ông mất ngày 4 tháng 11 năm 1958 tại Phú Nhuận, hưởng thọ 74 tuổi.

Sau gần 50 năm cầm bút, Hồ Biểu Chánh đã để lại 64 bộ tiểu thuyết, 11

đoản thiên và truyện ngắn, 2 dịch phẩm 12 kịch bản sân khấu (hài kịch, hát

bội, cải lương), 23 công trình khảo cứu, 3 tập thơ (Biểu Chánh thi văn chưa

XB), và hàng chục bài báo thuộc nhiều lĩnh vực. Nhìn vào văn nghiệp của Hồ

Biểu Chánh chúng ta thấy ông có một sức lao động phi thường. Trong lịch sử

văn học hiếm có một cây bút nào có được sự sáng tạo bền bỉ như vậy.

2. MỘT THẾ KỶ NGHIÊN CỨU VÀ TIẾP NHẬN THƠ VĂN HỒ BIỂU CHÁNH

Hơn một thế kỷ qua, các sáng tác của Hồ Biểu Chánh đã được độc giả

đón nhận nồng nhiệt, các nhà phê bình nghiên cứu lưu tâm tìm hiểu.

– Giai đoạn trước năm 1945 có các ý kiến của Minh Quang, Thiếu Sơn,

Vũ Ngọc Phan, Phan Khôi, Kiều Thanh Quế…Nhìn chung các ý kiến của các

nhà nghiên cứu vừa nêu là đánh giá cao tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ở các

mặt nội dung và kỹ thuật viết.

– Giai đoạn 1945 – 1975 có các ý kiến của Nghiêm Toàn, Nguyễn

Khuê, Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Phạm Việt Tuyền, Bùi Đức Tịnh, Sơn

Nam, Bình Nguyên Lộc, Dương Nghiễm Mậu, Đông Hồ, Huỳnh Phan Anh, Hồ

Hữu Tưởng, Phan Cự Đệ…

+ Có thể thấy, sau Vũ Ngọc Phan (đề cập Hồ Biểu Chánh trong một

công trình có tính cách biên khảo), Nghiêm Toàn đã đề cập đến Hồ Biểu

Chánh trong Việt Nam văn học sử trích yếu như một tác gia có vị thế văn học

sử hẳn hoi.

+ Phạm Việt Tuyền diễn thuyết tại trường quốc gia âm nhạc Sài Gòn về

tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tựa đề “Đọc truyện diễn ca U tình lục – tác phẩm

đầu tay khá diễm lệ của nhà tiểu thuyết bình dân Hổ Biểu Chánh”, bài này sau

đăng trên Nghiên cứu văn học số 2, 1971, và in lại trong Tôi đọc thơ, Phong

trào văn hóa Xb, SG, 1973. Bài viết của Phạm Việt Tuyền đã khảo rất kỹ về

Page 56: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

nội dung và nghệ thuật của U tình lục và chỉ ra những yếu tố của văn học

truyền thống và những mặt cách tân trong tiểu thuyết này.

+ Trong một số kỷ niệm đặc biệt của Tạp chí Văn (số 80 (49–54) ngày

15/4/1967) về Hồ Biểu Chánh, các nhà văn, nhà nghiên cứu đã đành giá cao

những đóng góp của Hồ Biểu Chánh cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt

Nam hiện đại. Các bài viết của Thanh Lãng “Hồ Biếu Chánh (1885–/958)”,

của Thiếu Sơn “Nhớ Hồ Biểu Chánh”, của Hồ Hữu Tường “Nhập mộng và

tỉnh mộng”, của Bình Nguyên Lộc “Biến cố và chiếc cầu Hồ Biểu Chánh”, của

Sơn Nam “Nghĩ về Hồ Biểu Chánh”, của Huỳnh Phan Anh “Ghi nhận về Hồ

Biểu Chánh”, của Dương Nghiễm Mậu “Từ đó đến nay” của Đông Hồ “Hồ

Biểu Chánh: nhà văn bạch thoại miền Nam” và “Hồ Biểu Chánh: một nhà văn

viết rất siêng năng”. Tuy là một số kỷ niệm nhưng các bài viết đã đề cập đến

nhiều phương diện về con người (công chức, nhà văn) và sự nghiệp của Hồ

Biểu Chánh.

+ Năm 1974, Nguyễn Khuê cho ra mắt chuyên luận Chân dung Hồ Biểu

Chánh. Đây là công trình dày dạn công phu nhất so với các công trình bàn về

Hồ Biểu Chánh trước đó. Công trình khảo một cách toàn diện các vấn đề tiểu

sử, văn bản tác phẩm, nội dung thơ và tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, nghệ thuật

tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cùng địa vị của tác giả trong văn học sử. Lần đầu

tiên chân dung Hồ Biểu Chánh không chỉ hiện ra trước mắt độc giả là một

công chức hanh thông trên con đường hoạn lộ mà còn là một nhà báo, nhà

thơ, nhà biên khảo, và hơn nữa là tiểu thuyết gia có tầm ảnh hưởng to lớn đối

với công chúng Nam Bộ đương thời.

– Giai đoạn 1975 đến nay có ý kiến đánh giá của Nguyễn Văn Trung,

Bằng Giang, Nguyễn Văn Y, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Ngọc Lan, Trần Hữu Tá,

Hoài Anh, Đinh Trí Dũng, Tôn Thất Dụng, Võ Văn Nhơn, Huỳnh Thị Lan

Phương, Huỳnh Thị Lành…Nhìn chung các ý kiến đều thống nhất cho rằng

Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết gia có nhiều đóng góp quan trọng cho tiến trình

hiện đại hóa văn học nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng nửa đầu thế kỷ

XX.

Page 57: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

3. NỘI DUNG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH

Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh các yếu tố phong tục, đạo lý,

phiêu du và diễm tình kết hợp nhuần nhuyễn với nhau. Trong bốn yếu tố vừa

nêu, hai yếu tố phiêu lưu và diễm tình dường như là yếu tố bề nổi, nằm nơi

sự kiện, tình tiết nhằm thu hút độc giả; hai yếu tố còn lại thuộc về chiều sâu

trong cấu trúc nghệ thuật, ẩn chứa những tâm niệm của tác giả muốn gửi

gắm là phong tục và đạo lý. Bốn yếu tố này kết hợp với nhau tạo nên nét hấp

dẫn và độc đáo nơi nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết của ông.

3.1. Yếu tố phong tục, tập quán.

– Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chứa đựng phong tục tập quán, cung

cách sinh hoạt của người dân miền Lục tỉnh sông nước những năm đầu thế

kỷ XX, vì thế có nhà nghiên cứu đã xếp ông vào hàng tiểu thuyết gia phong

tục. Nhiều nét đặc trưng của văn hóa, phong tục Nam Bộ được Hồ Biểu

Chánh miêu tả trong tác phẩm của mình, từ phong tục cưới hỏi, ma chay, lễ

tết, quan niệm sống cho đến cách ăn uống, làm nhà, làm ruộng, món ăn,

trang phục…Nhà thơ Đông Hồ từng nhận xét: “Nói chung, nếu bây giờ, nhà

khảo cứu nào muốn khảo cứu những sinh hoạt bề ngoài của xã hội miền Nam

Lục tỉnh, tôi nói lại “những sinh hoạt” bề ngoài dưới thời thuộc địa Pháp, cứ

đọc khắp hết tiêu thuyết của Hồ Biểu Chánh thì nhận thấy rõ đủ mọi khuôn

mặt trong một nếp sống đặc thù khác hẳn hai miền Trung Bắc”. (Đông Hồ, Hồ

Biểu Chánh: nhà văn bạch thoại miền Nam, Tạp chí Văn, 15/4/1967, số 80

(68–73), Sài Gòn, 1967). Khi đề cập đến ý hướng phong tục trong tiểu thuyết

Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Khuê cho rằng: “Phô bày thực trạng gia đình và xã

hội, Hồ Biểu Chánh không nhằm đả phá những cái cũ và hô hào mọi người

theo mới như Tự lực văn đoàn. Đối với ông, cái cũ cũng như cái mới, đều có

những hay, dở riêng của nó”. (Nguyễn Khuê, Chân dung Hồ Biểu Chánh,

Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn 1974, ti.255)

3.2. Yếu tố đạo lý

– Yếu tố đạo lý có thể nói là xuyên suốt và là căn bản của tiểu thuyết

của Hồ Biểu Chánh. Xây dựng tác phẩm theo quan điểm đạo lý là xuất phát

Page 58: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

từ chủ ý của tác giả. Trong Đời của tôi về văn nghệ, ông khẳng định: “Viết tiểu

thuyết để cảm hóa đặng lần lần dắt quần chúng trở về đường chánh đại

quang minh”. Về cuối đời, ông tự nhận thấy: “Sản xuất cả mấy chục pho tiểu

thuyết… luôn luôn tôi vẫn theo đuổi một cái mục đích là: Thành thân với thủ

nghĩa” (Dẫn Theo Nguyễn Khuê, Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nxb. Lửa

Thiêng, Sài Gòn 1974, tr. 174). Chúng tôi nghĩ, bên cạnh những yếu tố thuộc

về mặt chủ quan trong nhân sinh quan của tác giả, có một mặt khác không

kém phần quan trọng là yếu tố độc giả đã chi phối ý hướng đạo lý của Hồ

Biểu Chánh. Độc giả Nam Bộ phần đông quen thưởng thức văn chương chứa

đựng và đề cao đạo lý (ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa và ý đồ nô dịch về

văn hóa của thực dân Pháp). Thời của Hồ Biểu Chánh, viết văn đã trở thành

một nghề như bao nghề khác trong xã hội. Một khi văn chương trở thành

hàng hóa thì yếu tố người đọc (người tiêu dùng) rất quan trọng. Hồ Biểu

Chánh cũng có lúc đã ý thức tìm tòi đổi mới nhưng vì thói quen của độc giả

(cần đáp ứng nhu cầu của số đông) nên ông vẫn trung thành của lối viết đã

định hình từ những bước khởi đầu.

– Có thể thấy, xuyên suốt các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là một

bản hòa tấu giai điệu yêu thương của tình cha con, chồng vợ, trai gái thủy

chung cùng những dạo lý cương thường, đối nhân xử thế của các nhân vật.

Bên cạnh một bức tranh hiện thực rộng lớn, đa chiều là vô số những hoàn

cảnh trái ngang, những bi kịch gia đình và bi kịch cá nhân được thể hiện. Dẫu

thế, cuộc sống tuy phức tạp, sự đời lắm éo le, nhưng người tốt dù gặp nhiều

tai họa, cuối cùng vẫn tìm được hạnh phúc, cùng với sự suy vi của các thế

lực ác nghịch. Thông qua các câu chuyện, các số phận của nhân vật, Hồ Biểu

Chánh có dịp bày tỏ, phát biểu quan điểm đạo lý. Nhà văn bày tỏ thái độ tin

tưởng vào lẽ phải, lên tiếng ủng hộ lẽ phải, phê phán cái xấu, cái ác, những

điều trái với đạo lý, trái với thuần phong, mỹ tục.

– Hầu hết các tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh kết thúc có hậu, thể hiện quan

niệm đạo lý của tác giả: Thiện ác đáo đầu chung hữu báo. chí tranh lai tảo dữ

lai trì (Thiện ác cuối cùng đều báo ứng, chẳng qua là sớm hay muộn mà thôi).

Page 59: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Quan điểm đạo lý của nhà văn thể hiện qua cái nhìn cuộc sống và con người

theo luật nhân quả. Người tốt, sau khi gặp những khó khăn, bất trắc, thường

nhận được kết cục có hậu. Nhiều nhân vật nhận có cuộc sống tốt đẹp sau

bao nhiêu sóng gió cuộc đời như mẹ con cô Hảo (Cười gượng), của cô Thu

Hà (Khóc thầm), của Yến Tuyết (Tỉnh mộng), của chị em Quý (Mẹ ghẻ con

ghẻ), của cô Ba Mạnh (Con nhà giàu), của cha con Trần Văn Sửu (Cha con

nghĩa nặng), của cô Hai Phục (Nợ đời)… ánh sáng của lòng thiện nơi các

nhân vật này đã tỏa sáng khắp trang viết của nhà văn. Người hiền lương sớm

hay muộn cũng vượt qua những khó khăn; gian khó, kẻ tàn bạo độc ác trước

sau gì cũng bị trừng phạt. Cùng với sự “trở về” của những con người lương

thiện (trong quan niệm của tác giả là đại diện cho cái tốt sau bao nhiêu sóng

gió cuộc đời là sự suy vong, triệt tiêu của cái ác, cái xấu. Người đọc không

thể không xót xa cho tình cảnh của một cô Hảo trong Cười gượng. Cũng như

nhiều nhân vật phụ nữ bất hạnh khác trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Hảo

xinh đẹp, có công dung ngôn hạnh nhưng phải chịu nhiều éo le. Cô xuất thân

từ gia đình tá điền nghèo, cha mất sớm, ở với mẹ già. Tuổi mới lớn, Hảo

choáng ngợp trước Tô Hồng Xương, đẹp trai, giàu có. Hảo yêu Xương không

vụ lợi. Thế nhưng gia đình Tô Hồng Xương cho rằng Hảo không xứng đáng

bước vào gia đình họ Tô vì cô “quá nghèo”. Mẹ con Hảo bị gia đình Tô Hồng

xương mua chuộc, đe dọa đến phải bán nhà tha hương cầu thực. Hảo lên Sài

Gòn kiếm sống với bào thai đang lớn dần, kết quả của mối tình ngang trái.

Nơi Sài Gòn hào nhoáng, trên bước đường mưu sinh dù cực khổ, Hảo vẫn cố

gắng tồn tại, sinh con rồi nuôi con. Ông trời không chặt hết đường của người

lương thiện, trong khi cuộc sống tưởng không lối thoát, Hảo may mắn trúng

xổ số độc đắc. Từ đó cuộc sống gia đình Hảo khá giả hơn. Trong thời gian đó

Tô Hồng Xương ở quê, nghe lời mẹ đi cưới một cô vợ giàu, nhưng cuộc sống

không hạnh phúc. Xương thường bị vợ và gia đình vợ sỉ nhục và cuối cùng thì

bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng. Gia đình họ Tô cũng bắt đầu sa sút,

khánh kiệt, vướng cảnh nợ nần. Cuộc “trở về” của mẹ con Hảo đã cứu gia

đình họ Tô thoát cảnh phá sản. Cảnh đại đoàn viên mà gia đình Hảo có được

trong Cười gượng chỉ sau bao nhiêu biền cố đổ xuống cuộc đời của cô; gia

Page 60: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

đình cô, của gia đình Tô Hồng Xương. Với nụ cười gượng ăn năn của Tô

Hồng Xương cuối truyện, Hồ Biểu Chánh như muốn nhắn nhủ người đời là

đừng vì đồng tiền mà coi rẻ hạnh phúc gia đình, coi rẻ tình yêu chân thực. Mô

típ “ra đi và trở về”, xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Cũng

giống như Hảo (Cười gượng), Trần Văn Sửu (Ngọn cỏ gió đùa), Quý (Mẹ ghẻ

con ghẻ) cũng gây cho người đọc nhiều thương cảm. Quý tuổi còn nhỏ đã mồ

côi mẹ, ở với chị và cha. Cuộc sống của cha con Quý bị xáo trộn khi người

cha cưới thêm một người vợ trẻ. Chị em Quý bị người mẹ kế đối xử tệ bạc.

Một thời gian sau khi người cha mất, Quý từ biệt chị lên Sài Gòn kiếm sống

và học hành. Sau khi thành danh, có tiền, anh trở về quê và giúp mẹ ghẻ

thoát cảnh tán gia bại sản vì nợ nần. Cách ứng xử cao thượng, vị tha của

Quý, người đọc có thể bắt gặp nhiều trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Hành

động và suy nghĩ của Quý thường xuất phát từ chữ nghĩa, chữ tình.

– Tư tưởng vì nghĩa vì tình là tư tưởng được Hồ Biểu Chánh đề cao

như nhan đề một cuốn tiểu thuyết của ông: Vì nghĩa vì tình. Vì nghĩa vì tình

mà Quý, sau khi đỗ đạt và trở nên giàu có vẫn không quên nơi chôn nhau cắt

rốn, không quên dì Ba Thời thật thà tốt bụng, cô Hường chân chất mộc mạc,

những người từng đùm bọc anh từ thuở hàn vi. Quý càng không lấy uy thế và

tiền bạc và uy thế của quan Kinh Lý để uy hiếp trả thù mẹ ghẻ, mà còn cung

kính, hiếu thuận hơn xưa. Vì tình mà cô Ba Mạnh (Con nhà giàu) sẵn sàng bỏ

qua lỗi lầm của chồng là Thượng Tứ để hàn gắn hạnh phúc gia đình. Nhờ Ba

Mạnh mà Thược Tứ trở thành một điền chủ tốt bụng, được tá điền tin yêu. Vì

hiếu mà cô Xuân Hương (Một đời tài sắc) có học thức, được người yêu và

yêu lại. Tình yêu của cô chỉ đợi ngày kết trái, nhưng vì muốn cứu cha mẹ

thoát khỏi cảnh nợ nần nên đành chôn kín “một đời tài sắc” trong kinh kệ. Vì

chữ tình mà Trần Văn Sửu (Cha con nghĩa nặng) luôn sống trong dằn vặt khổ

đau. Nhật vật này là biểu trưng cho hình ảnh người cha, người chồng hiền

lành hết mực thủy chung. Sửu vô tình giết chết người vợ bội bạc, trên bước

đường trốn chạy, hình ảnh những đứa con tội nghiệp luôn luôn ám ảnh tâm

hồn đáng thương của anh. Mối lo sợ các con hiểu lầm hành động giết vợ

khiến anh day dứt khôn nguôi. Không chỉ những nhân vật chính diện trong

Page 61: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh mới có hành động trượng nghĩa, mà rất nhiều

những nhân vật phụ khác đã bồi đắp thêm khiến người đọc có một tin tưởng:

nó là một điều phổ biến trong cuộc sống thường nhật của con người. Chẳng

hạn như trong Cha con nghĩa nặng, người đọc có thể bắt gặp hàng loạt nhân

vật có tư tưởng vì nghĩa vì tình, không vụ lợi như Hương thị Tào, Hương

quản Tồn; là vợ chồng hương Sư trong Cười gượng đã giúp Hảo vì một lý do

rất đơn giản và thành thực: “Tại cháu mình dại nên nó mới khổ như vầy. Mình

thượng nó, thì cũng như thương cháu mình thôi”. Xét cho kỹ, tư tưởng vì

nghĩa của Hồ Biểu Chánh cũng như một số nhà văn Nam Bộ khác cùng thời

không phải bó hẹp trong phạm vi của Nho giáo, mà là chữ “nghĩa” của người

bình dân Nam Bộ, nơi miền đất mới khai phá, ít có ảnh hưởng trực tiếp của

thứ Nho giáo xơ cứng như miền đất cổ của nó. Từ trong truyền thống Nam Bộ

đã sẵn có một tâm hồn hào hiệp, cái hào hiệp của Lục Vân Tiên giữa đàng

thấy chuyện bất bình chẳng tha đó cho đến mãi sau này vẫn còn, còn trong lối

ứng xử thường nhật của người dân, trong những trang viết thấm đẫm chất

nhân văn của các nhà văn phương Nam, mà ngọn cờ đầu, người bền bỉ theo

đuổi là Hồ Biểu Chánh. Đó là thứ tình cảm có thật, cảm động, gần với tâm lý

của nhân dân, không thấy gì là giả tạo.

3.3. Yếu tố phê phán

– Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, yếu tố phê phán trở thành một

nét chủ đạo nổi bật. Cảm hứng phê phán trong văn chương thường gắn liền

với sự quan tâm của nhà văn tới những xung đột xã hội, xung đột nội tâm

riêng tư của con người. Khi nào cuộc sống xuất hiện và tồn tại những mối

mâu thuẫn giữa các giai cấp, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thiện và cái ác,

giữa cái lạc hậu trì trệ với cái tiến bộ còn tồn tại, thì lúc đó, cảm hứng phê

phán sẽ có cơ sở để hình thành và phát triền. Hồ Biểu Chánh sáng tác trong

điều kiện xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi và phân hóa sâu sắc trước sự

xâm lược của thực dân Pháp.

– Cảm hứng phê phán trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh chính là hồi

chuông gióng lên để cảnh tỉnh về tình trạng tha hóa ở phương diện nào đó

Page 62: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

trong đạo đức và nhân cách của con người. So với nhiều tác phẩm mang cảm

hứng phê phán cùng thời ở miền Bắc, cảm hứng phê phán trong tiều thuyết

Hồ Biểu Chánh vừa có điểm chung nhưng đồng thời cũng có những đặc điểm

riêng dễ nhận thấy. Điểm khác biệt lớn nhất là sự phê phán trong nhiều tác

phẩm miền Bắc gắn liền với quá trình mổ xẻ, đấu tranh không khoan nhượng,

một mất một còn với cái xấu, cái nhố nhăng, đểu giả, trong các mối quan hệ

của con người và xã hội. Trong khi đó tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh mang

cảm hứng phê phán “điều hòa”, thể hiện ở việc kêu gọi, thức tỉnh cái xấu, cái

ác hãy quay về con đường chính đạo. Quá trình đấu tranh phê phán của Hồ

Biểu Chánh cuối cùng cũng với mục đích là “xây dựng” lại trật tự xã hội, thức

tỉnh lương tâm con người. Chính cái nhìn các mối quan hệ của con người,

các hiện tượng xã hội bằng cảm quan và cặp mắt đạo lý đã khiến cho cảm

hứng phê phán của Hồ Biểu Chánh bớt gay gắt. Hành động của chị Dậu trong

Tắt đèn của Ngô Tất Tố khi vùng chạy thoát ra khỏi nhà của tên quan Phủ bỉ

ối là một lới tuyên chiến với cái xấu, cái ác, cái trì trệ bảo thủ. Hành động đó

cũng cho thấy mối mâu thuẫn giữa cái ác và cái thiện, giữa những kẻ bóc lột

và người bần hàn đã đến độ đối kháng gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết.

Tính chất phê phán trong Tắt đèn vì thế, không chỉ dừng ở mức độ đấu tranh

gay gắt mà hơn thế nữa, là cuộc đấu tranh không khoan nhượng, không thỏa

hiệp. Tính chất này rất ít thấy trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Chẳng hạn,

trong tiểu thuyết Mẹ ghẻ con ghẻ, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng câu chuyện về

mối quan hệ giữa mẹ ghẻ và con chồng: Nhà văn phê phán thói ích kỷ, nhỏ

nhen của con người thông qua hình tượng người mẹ ghẻ. Vì lo vun vén cho

hạnh phúc riêng, cho con riêng, mà người phụ nữ này nỡ đọa đày đứa con

của chồng không thương xót. Tính chất phê phán càng nổi bật khi tác giả chú

trọng miêu tả sự đối lập về nhân cách giữa các nhân vật. Thế nhưng, mâu

thuẫn giữa mẹ ghẻ và con chồng được “hóa giải” về cuối câu chuyện khi nhân

vật quý đã “lấy ơn trả oán”, bỏ qua mọi lỗi lầm của mẹ ghẻ. Cảm động trước

tấm lòng chân thành và sự ứng xử khôn ngoan của Quý, bà mẹ vốn cay độc,

tham lam, ích kỷ đã hối hận và nhận ra lỗi lầm của bà. Từ đó bà trở nên một

người hiền lành, nhân hậu.

Page 63: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

– Cái xấu, cái ác được Hồ Biểu Chánh đem phê phán ít khi bị đẩy đến

“bước đường cùng” mà được “cảm hóa” bởi cái tốt. Cái tốt có khả năng chế

ngự cái xấu. Đó có phải là một ảo tưởng? Nhiều mẫu hình nhân vật được Hồ

Biểu Chánh nhào nặn thành cực đoan, nham hiểm, xấu xa, lầm lạc, sa ngã…

và rồi chính nhà văn lại cho họ một cơ hội để trở nên người tốt, có ích. Cái

nhìn đó là một cái nhìn lý tưởng hóa. Bởi vì thực tế cuộc đấu tranh giữa cái ác

và cái xấu là không ngang sức: cái đẹp thì mong manh, dễ vỡ, lòng tốt thì

vụng dại, ngây thơ, còn cái ác, cái đểu cáng thì dạn dĩ, liều lĩnh, thông minh.

– Đối tượng phê phán trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh hết sức đa

dạng, nhưng tập trung chủ yếu là tầng lớp trên của xã hội. Đó là những quan

huyện, quan chủ, Hương chức, hội tề ở làng xã thôn quê có tính tham lam

độc ác; những ông Hội đồng, bà Hội đồng, bà Phủ, những ông chúa đất bóc

lột dân nghèo tận xương tủy. Hình tượng Vinh Thái trong Khóc thầm tiêu biểu

cho sự bóc lột của địa chủ phong kiến đối với tá điền nghèo khổ ở vùng đồng

bằng Nam Bộ. Thái dùng nhiều mưu kế tinh vi để biến tá điền thành nô lệ gắn

chặt với ruộng đất của y. Chẳng hạn, tá điền muốn mướn đất canh tác thì

phải vay y một khoản tiền hoặc lúa. Lúa và tiền cuối mùa phải trả với là suất

“cắt cổ”. Nếu tá điền nào không vay thì y sẽ đòi lại đất. Cứ thế, người nông

dân không bao giờ thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của nợ nần chồng chất, trở

thành kẻ suốt đời phụ thuộc. Cai tổng Hiếu trong Con nhà nghèo cũng là nhân

vật điển hình của nạn bóc lột tô địa ở miệt vườn Nam Bộ: Gia đình Cai tuần

Bưởi quanh năm làm cật lực cũng chỉ đủ nộp cho bà Cai tổng vì giá tô quá

cao. Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh còn phê phán những thói hư tật xấu, những

chuyện thông dâm, hãm hiếp, phụ tình…

4. NGÔN NGỮ VÀ NHÂN VẬT

4.1. Ngôn ngữ nghệ thuật mang tính chất bình dân

– Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh gần với ngôn ngữ người

bình dân do vậy rất sống động và rất chân thực. Trong khi viết, Hồ Biểu

Chánh đã có ý thức viết cho đông đảo quần chúng bình dân đọc. Vì vậy ông

đã chú ý sử dụng từ ngữ thật giản dị. Việc sử dụng khéo léo và phong phú

Page 64: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

lớp từ địa phương, đặc biệt là khẩu ngữ tự nhiên góp phần tạo nên dấu ấn

riêng của phong cách tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Nhiều từ ngữ mang đặc

trưng riêng của Nam Bộ xuất hiện trên trang viết của Hồ Biểu Chánh như

giống gì, nín khe, buồn hiu, thiệt tốt, mấy bữa rày, lung lắm, đi riết, không dè,

mừng quýnh, quấy, mấy bữa rày, lạ hoắc, từ rày sắp lên,…

– Văn phong của Hồ Biểu Chánh đôi lúc vẫn chưa thoát khỏi tính chất

biền ngẫu.

4.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

– Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh rất đông đảo, đủ

các thành phần trong xã hội miền Nam Kỳ đầu thế kỷ XX như thông ngôn ký

lục, thợ thuyền, trẻ em bán báo, con sen, gái điếm, trưởng giả thượng lưu, trí

thức thành thị, tá điền, điền chủ, cường hào ác bá, hương chức hội tề…

– Nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh xuất hiện tự nhiên và sinh

động qua những phác thảo về ngọai hình, hành động và tính cách. Nhân vật

trước hết được miêu tả qua diện mạo, cử chỉ, sắc phục, điệu đi tướng đứng.

Thông qua diện mạo bên ngoài, người đọc dễ dàng phần nào nhận biết được

tính cách, thành phần xuất thân và số phận của nhân vật. Chỉ vài ba nét đơn

sơ, dăm ba hàng thật linh động, Hồ Biểu Chánh đã có thể phác họa nên chân

dung nhân vật. Chẳng hạn hình ảnh Xuân Hương trong Một đời tài sắc: “Cô

Xuân Hương ở nhà một mình, cô đốc phách gia địch đứa vô phân mấy bình

bông, đứa làm cỏ ngoài sau vườn. Cô mặc áo lụa trắng, quần lãnh đen, đầu

gở sơ, chơn mang guốc, tai đeo một đôi bông lớn, tay trái đeo một chiếc vàng

nhận hột xoàn, cô không trang điểm, không dồi phấn thoa son, mà vì cô có

sắc sẵn, cô lại có duyên ngầm, tướng đi dịu dàng, gương mặt sáng rỡ, bởi

vậy ai thấy cô cũng trầm trồ khen thầm là gái đẹp. Các chi tiết bình thường

nhỏ nhặt làm nên hình hài và tính cách nhân vật thường được Hồ Biểu Chánh

chú trọng. Nhân vật được miêu tả từ những yếu tố nhỏ như mái tóc, hàm

răng, điệu cười, ánh mắt, tướng đi, quần áo, trang sức cùng những cử điệu

của con người bình thường, tự nhiên. Do vậy, nhân vật đã thoát khỏi cách

Page 65: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

miêu tả trong văn học trung đại kiểu “Râu hùm hàm én mày ngài/ Vai năm tấc

rộng thân mười thước cao” (Truyện Kiều) để trở về khuôn mẫu của đời thực.

– Tính cách nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn được nhận

biết qua tên gọi. Tên gọi của nhân vật phần nào cho thấy bản chất, cá tính

nhân vật mà nhà văn muốn xây dựng. Chẳng hạn những cái tên Chí Đại (Ai

làm được), Thủ Nghĩa (Chúa tàu Kim Quy), Hảo (Cười gượng), Hương sư

Thiện (Cười gượng), Chánh Tâm (Vì nghĩa vì tình), Hạnh (Kẻ oán người

ưng), Quý (Mẹ ghẻ con ghẻ), Tự Cường (Tại tôi); Minh Tâm (Ông cử),…gợi

nhắc họ là những con người có phẩm hạnh tốt. Còn những cái tên mang hàm

ý xấu như Tư Tiền (Vì nghĩa vì tình): vợ một tên trộm ham tiền, Hai Nghĩa

(Con nhà nghèo): tên Nghĩa nhưng sống ở đời không có “nghĩa nhân”, văn sĩ

Chí Cao (Cả kinh): có tài ăn nói, miệng lưỡi luôn đề cập đến cái đẹp, cái cao

cả nhưng ngược lại hành động lại dâm ô, chuyên gạt gẫm người nhẹ dạ.

– Hồ Biểu Chánh thường để cho nhân vật của mình “xê dịch” trong một

khoảng thời gian và không gian địa lý cụ thể. Quá trình “xê dịch”, qua những

vùng đất mà dấu chân của nhân vật đặt tới, nhà văn có điều kiện thuận lợi để

mô tả phong cảnh và con người ở tầm bao quát rộng lớn. Điều đó lý giải vì

sao tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đầy ắp các sự kiện, yếu tố thuộc về phong

tục tập quán của nhiều vùng đất. Xét về mặt nghệ thuật, là một chủ ý của Hồ

Biểu Chánh. Như ông có lần tiết lộ với một cộng sự ở tòa soạn Đại Việt tạp

chí khi người đó hỏi ông “bí quyết” nào khiến độc giả mọi tầng lớp say mê tác

phẩm của ông như vậy. Hồ Biểu Chánh tâm sự là trong khi xây dựng các tác

phẩm, ông cố gắng lồng ghép phong cảnh, con người và cung cách sinh hoạt

của thôn quê và thành thị với nhau. Người thôn quê khi đọc tiểu thuyết của

ông sẽ rất thích thú với những điều mới lạ, hiện đại và hào nhoáng của đô thị,

ngược lại những thị dân sẽ được sống với một không khí thôn quê yên bình

khó tìm thấy nơi cuộc sống phồn tạp của họ. Quá trình “xê dịch” tạo ra hai khả

năng cho nhân vật. Một là những phẩm chất tốt đẹp vốn có của nhân vật càng

thêm thử thách, tôi luyện. Khả năng thứ hai, qua việc tiếp xúc với xã hội rộng

Page 66: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

lớn, nhân vật có điều kiện học hỏi, mở mang tầm mắt và yêu quý con người

hơn, qua đó hình thành nên những phẩm chất cao quý của nhân vật.

– Nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thường thiên về hành

động, phiêu lưu khiến cho độc giả hết sức thích thú, hồi hộp. Nhân vật thường

được chú ý miêu tả với hành động phiêu lưu trên những không gian rộng lớn

với những bất trắc của cuộc đời, những cuộc chia ly và gặp gỡ kỳ thú. Đó là

những cuộc phiêu lưu của Trần Văn Sửu trong quá trình chạy trốn nhà đương

cục vì tội ngộ sát vợ (Cha con nghĩa nặng), của Quý (Mẹ ghẻ con ghẻ), của

Ba Lân (Lời thề trước miếu), của Hai Phục (Nợ đời), của Hai Cường, Lê

(Sống thác với tình), Thu Hà (Chút phận linh đinh), Bạch Tuyết, Chí Đại (Ai

làm được)…Việc xây dựng cốt truyện, nhân vật thiên về hành động, phiêu lưu

của Hồ Biểu Chánh có lẽ chịu ảnh hưởng một phần từ truyền thống văn học

Nam Bộ và từ văn học nước ngoài. Trong truyền thống văn học Nam Bộ,

truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm chứa đựng nhiều yếu tố phiêu lưu ly kỳ nơi

cốt truyện vả nhân vật. Những tiểu thuyết nước ngoài có ảnh hưởng đến tiểu

thuyết Nam Bộ phần lớn là những tiểu thuyết có cốt truyện phiêu lưu, chứa

nhiều hành động. Chẳng hạn như các tiểu thuyết Trung Hoa (Tam quốc chí,

Thủy hử, Đông chu liệt quốc, Càng Long du Giang Nam…), tiểu thuyết Pháp

(La com te de mon te Cristo, Sans famle, Les miserables…). Những tác phẩm

thời kỳ đầu (Chúa tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời, Ngọn cỏ gió đùa…) của

Hồ Biểu Chánh chủ yếu được phóng tác từ một số tiểu thuyết dồi dào tình tiết

phiêu lưu nơi cốt truyện và nhân vật trong văn học Pháp.

– Hồ Biểu Chánh rất thành công trong việc khắc họa tính cách của

nhân vật thông qua đối thoại. Nhiều mẫu đối thoại trong tiểu thuyết của ông

chẳng khác ngoài đời là mấy. Có thê thấy rằng, do mật độ ngôn ngữ đối thoại

cao nên câu văn Hồ Biểu Chánh tương đối giàu nhạc tính, diễn biến câu

chuyện nhanh, nhiều kịch tính, nhiều bất ngờ thú vị. Nhà văn đã đem ngôn

ngữ đời sống vào trang viết nên đã khắc họa được nhiều con người như đang

hiển hiện đâu đó trong đời sống thường nhật của vùng Nam Bộ từ thành thị

cho tới thôn quê. Thế giới nhân vật Hồ Biểu Chánh khá đa tranh với những

Page 67: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

kiểu đối thoại và giọng điệu khác nhau. Điều đó khiến cho tiêu thuyết của ông

được quần chúng bình dân ưa đọc.

4.3. Kết cấu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh

– Trong một số sáng tác thời kỳ đầu, Hồ biểu Chánh đã kế thừa những

kinh nghiệm xây dựng kết cấu từ truyện thơ Nôm. Hai tác phẩm mang đậm

dấu ấn kết cấu truyện thơ Nôm là U tình lục và Vậy mới phải. Trong hai tác

phẩm này, tác giả đã xây dựng bố cục theo các phân đoạn hội ngộ, lưu lạc và

đoàn viên. Tác phẩm có các phần: phần Lung (luận về sự xung đột giữa hiếu

và tình) – Truyện (đính hôn – thù hận – chia lìa) – Kết (Khuyên người ta lấy

tích xưa mà cân nhắc phải chăng – lời khiêm nhường cuối truyện). Giai đoạn

đầu chính là giai đoạn quá độ trong phong cách tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh từ

cổ điển sang lối hiện đại.

– Sau U tình lục và Vậy mới phải Hồ Biểu Chánh chuyển sang học tập

kỹ thuật tiểu thuyết phương Tây. Trước làn sóng phiên dịch tác phẩm văn học

nước ngoài (chủ yếu là Trung Hoa và Pháp) và trào lưu sáng tác mới ở Nam

Bộ thời đó, Hồ Biểu Chánh đã có sự chuyển biến trong tư duy nghệ thuật tiểu

thuyết. Ông từng tâm sự trong phần tiểu sử: “Lúc đó cụ Trần Chánh Chiếu

cho xuất bản quyển Hoàng Tố Anh hàm oan là tiểu thuyết đầu tiên trong Lục

tỉnh, truyện tình tả nhân vật trong xứ và viết theo điệu văn xuôi. Đọc truyện

này, cảm thấy viết truyện bằng văn xuôi dễ cảm hóa người đọc hơn, bởi vậy

năm 1912 đổi xuống làm việc tại Cà Mau mới viết thử quyển Ai làm được là

quyển thứ nhất viết văn xuôi tại Cà Mau với những nhân vật cũng Cà Mau

(Dẫn theo Vương Trí Nhàn, Những lời bàn về tiểu thuyết trong Văn học Việt

Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb. Hội Nhà văn, H., 2003, tr.28). Trong

Đời của tôi về văn nghệ, Hồ Biểu Chánh cho rằng có ba tác phẩm ảnh hưởng

nhiều đến việc chuyển hướng sáng tác của ông. Đó là Truyền Thầy Lazaro

Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Thiên

Trung (tức Gilbert Trần Chánh Chiếu) và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy

Toàn. (Dẫn Theo Nguyễn Khuê, sđd; tr.23). Khoảng lặng 13 năm từ U tình lục

(1910) đến Vậy mới phải (1913) là thời gian Hồ biểu Chánh có sự đấu tranh

Page 68: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

trong tư duy nghệ thuật và quyết định đi theo trào lưu mới. Tuy vậy, dấu vết

của truyện Nôm vẫn còn trong Ai làm được ở cung cách xây dựng mọi tình

cách nhân vật theo kiểu giai nhân tài tử và kết cấu theo chương hồi (lần tái

bản thứ 2 năm 1922, tác giả thay hồi bằng chương), kết thức có hậu (ở hiền

gặp lành, ở ác gặp giữ). Phải đến các tác phẩm Ngọn cỏ gió đùa (1926), Cay

đắng mùi đời (1923), Tỉnh mộng (1923), Con nhà nghèo (1930),… mới không

còn cách phân đoạn theo hồi (mỗi hồi là một phần, có vài câu thơ để dẫn tóm

tắt hồi, có câu hồi chỉ và khứ chỉ) mà theo chương. Tuy vậy, hầu hết tiểu

thuyết của Hồ Biểu Chánh kết thúc có hậu. Có lẽ chính ý thức luận đề đạo lý

đã chi phối tư duy nghệ thuật của Hồ Biểu Chánh.

– Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, cách kể chuyện thường theo trình

tự thời gian chẳng hạn như Ai làm được, Chúa tàu Kim Quy (1922), Một chữ

tình (1923), Tiền bạc bạc tiền (1925), Ngọn cỏ gió đùa (1926),… Trình tự thời

gian trong các tiểu thuyết theo lối kết cấu này thường gắn với trình tự diễn

biến cuộc đời của nhân vật chính. Có khi toàn bộ diễn trình của câu chuyện

gắn liền với một khoảng thời gian ứng với cuộc đời nhân vật. Diễn biến thời

gian câu chuyện trong tác phẩm bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố có liên quan

đến nhân vật. Trong Mẹ ghẻ con ghẻ, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng logic và sự

phát triển câu chuyện theo trình.tự thời gian gắn liền với cuộc đời bôn ba

kiếm sống và học hành tại Sài Gòn của Quý. Câu chuyện bắt đầu từ khi Quý

còn nhỏ, mồ côi mẹ, sống ở quê với cha, mẹ kế và chị gái. Kết thúc chuyện là

khi Quý đã lớn tuổi, thành đạt và chuyển từ Sài Gòn về quê. Lúc này cha Quý

cũng đã qua đời, người chị đã luống tuổi nhưng vẫn chưa lập gia đình. Trong

khoảng thời gian đó, mặc dù không biết đích xác bao nhiêu năm, nhưng qua

các sự kiện dồn dập xảy ra với cuộc đời Quý, qua bao sự đổi thay, người đọc

có được một sợi dây liên tưởng về thời gian. Thời gian không ngừng vận

động theo hành động của nhân vật. Tác giả ít có sự thể hiện về thời gian quá

khứ, mà chủ yếu là thời gian của hiện tại, thời gian hướng về tương lai, về

ngày mai. Cứ như thế, câu chuyện được kể, được triển khai cùng những tình

huống, biến cố và hành động của nhân vật. Cùng dạng kết cấu với Mẹ ghẻ

con ghẻ, cuốn Cười gượng được Hồ Biểu Chánh triển khai theo diễn biến

Page 69: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

quảng đời lưu lạc của Hảo. Có khi diễn biến của câu chuyện bám sát, thể

hiện biến cố của cuộc đời nhân vật, thời gian cốt truyện gắn với không gian

tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nếu mở đầu câu chuyện là

khung cảnh của vùng thôn quê thì kết thúc thường là khung cảnh nơi thành

thị và ngược lại. Đây là điều khiến tiểu thuyết của ông hấp dẫn người xem.

– Bên cạnh lối kết cấu theo thời gian đơn tuyến thì lối kết cấu đa tuyến,

đảo trật tự thời gian cũng được Hồ Biểu Chánh chú ý khai thác. Trong kết cấu

theo thời gian đa tuyến, yếu tố thời gian truyện bị xáo trộn, quá khứ và hiện

tại có khi được tác giả thể hiện song hành, có khi đan xen nhau làm câu

chuyện thêm hấp dẫn. Các nhân vật trong truyện vì thế được nhìn nhận từ

nhiều góc độ, tình tiết truyện trở nên lôi cuốn, khó đoán biết, bất ngờ và gay

cấn. Chút phận linh đinh (1928) là một trong những tác phẩm thể nghiệm

thành công thủ pháp đảo trật tự thời gian.

– Ngoài ra Hồ Biểu Chánh còn sử dụng nối kết cấu theo tâm lý nhân

vật. Cuốn Từ hôn (1937) – một trong những tiểu thuyết thuộc loại hay nhất

của Hồ Biểu Chánh đã phần nào sử dụng thành công lối kết cấu tác phẩm

theo tâm lý nhân vật. Hầu như toàn bộ mạch vận động cốt truyện của Từ hôn

là diễn biến tâm lý của Tất Đắc. Câu chuyện bắt đầu từ việc Tất Đắc nghe lời

của Cẩm Hường giả danh Bác vật đi cưới Bạch Yến. Ban đầu đối với chàng

việc cưới vợ giàu là một cách để kiếm sống, hơn hết là một trò đùa của tuổi

trẻ. Nhưng lần hồi tình cảm chân thành trong trắng của Bạch Yến khiến chàng

hổ thẹn với lương tâm, nên chàng quyết định bỏ đi biệt xứ. Câu chuyện không

có những xung đột gay gắt mà chỉ có những xung đột tâm lý nhân vật. Qua

diễn biến tâm lý Tất Đắc, câu chuyện phát triển hết sức tự nhiên. Có thể thấy

Từ Hôn là một bước tiến bộ đáng ghi nhận trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.

– Lối kết cấu theo hai tuyến nhân vật là một loại kết cấu tương đối phổ

biến trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Nhân vật được chia thành hai phe (chính

– tà, thiện – ác, tốt – xấu). Lối kết cấu song tuyến thường được nhà văn ưa

chuộng có lẽ bắt nguồn từ cảm hứng đề cao luân lý của tác giả. Lối kết cấu

này thường đặt các nhân vật đối lập nhau để soi sáng cho nhau. Bên cạnh sự

Page 70: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

đối lập về nhân cách là sự đối lập về đẳng cấp xã hội, đối lập sang hèn. Trong

khi sắp đặt trận tuyến, nhà văn thường bênh vực, ngợi ca những nhân vật

chính diện và phê phán những nhân vật phản diện. Điều đó cũng thể hiện

ước mơ cao đẹp và tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Trong Ai làm được có

sự đối lập tốt xấu giữa Bạch Tuyết, Chí Đại, Khiếu Nhàn và Hai Phủ; trong

Chúa tàu Kim Quy là sự đối lập giữa Thủ Nghĩa và Trần Tấn Thân; trong

Khóc thầm có sự đối lập giữa Thu Hà và Vĩnh Thái, trong Con nhà nghèo là

sự đối lập giữa gia đình Cai tuần Bưởi và gia đình Hai Nghĩa; trong Tỉnh

mộng là sự đối lập giữa Yến Tuyết, Kỳ Tâm với Trường Xuân… Bên cạnh đó,

một số tác phẩm của Hồ Biếu Chánh bắt đầu có sự xoắn bện giữa yếu tố tốt

và xấu trong nhân vật, vì thế nhân vật trở nên đời hơn, người hơn. Lối kết

thúc có hậu trong các tiểu thuyết không giống nhau và có hơi hướng bị phá

vỡ trong Khóc thầm.

4.4. Giọng điệu

Một điều dễ câm nhận là giọng điệu trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là

một thứ giọng điệu hết sức bình dị, mộc mạc. Hồ Biểu Chánh trước sau vẫn

trung thành với quan niệm viết văn của mình là viết cho quần chúng bình dân

đọc. Trong các tiểu thuyết của ông, người đọc dễ bắt gặp giọng điệu thuyết lý

của một nhà đạo đức học, giọng điệu tâm tình kể lể, giọng điệu bình phẩm.

* Kết luận

Với những đóng góp lớn lao ở các lĩnh vực tiểu thuyết, truyện ngắn,

thơ, kịch bản sân khấu, khảo cứu, dịch thuật, báo chí…Hồ Biểu Chánh xứng

đáng có một vị trí cao trong lịch sử văn học. Xét riêng về thể loại tiểu thuyết,

Hồ Biểu Chánh đã có nhiều đóng góp cho sự hình thành và phát triển của nền

tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Huệ Chi: “Hồ Biểu Chánh”, trong Từ điển văn học (Bộ mới),

Nxb Thế giới, Hà Nội, 2004.

Page 71: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

2. Phan Cự Đệ: “Phần viết về Hồ Biểu Chánh” trong sách Tiểu thuyết

Việt Nam hiện đại, tập I, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội,

3. Nguyễn Khuê: Chân dung Hồ Biểu Chánh, Lửa Thiêng Xb, Sài Gòn,

1974, Nxb. TP. Hồ Chí Minh (tư bản) 1998

4. Nhiều tác giả: Hồ Biểu Chánh – người mở đường cho tiểu thuyết Việt

Nam hiện đại, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2006

5. Vũ Ngọc Phan: “Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung)”. Trong sách Nhà

văn hiện đại, Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1942.

CÂU HỎI

1. Phân tích một tác phẩm cụ thể của Hồ Biểu Chánh từ đó rút ra

nguyên nhân khiến cho tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh hấp dẫn người đọc.

2. Hãy so sánh một tiểu thuyết phóng tác của Hồ Biểu Chánh (Chúa tàu

Kim Quy, Ngọn cỏ gió đùa, Con nhà nghèo…) với nguyên tác trong văn học

Pháp.

Bài 5. PHẠM QUỲNH VÀ NHÓM NAM PHONG TẠP CHÍNam Phong tạp chí ra đời cách nay hơn 100 năm. Là một tờ tạp chí có

sự ảnh hưởng lớn đối với xã hội nói chung và sự hình thành và phát triển của

nền học thuật, văn hóa hiện đại nói riêng nhưng những ý kiến về nó cùng với

ông chủ bút Phạm Quỳnh vẫn chứa có sự đồng thuận, bởi một lẽ, như nhiều

tài liệu minh định: Nam Phong tạp chí là một công cụ tuyên truyền văn hóa

của thực dân Pháp và Phạm Quỳnh viết và điều hành Nam Phong trong chủ

trương của Pháp.

1. LƯỢC SỬ ĐÁNH GIÁ PHẠM QUỲNH VÀ NAM PHONG TẠP CHÍ

Vấn đề đánh giá Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí có thể thấy có hai

khuynh hướng khác nhau. Những nhà nghiên cứu, học giả đứng trên quan

điểm chính trị thì phê phán, nặng hơn thì phủ nhận vai trò, đóng góp của

Phạm Quỳnh và Nam phong tạp chí, kết án Phạm Quỳnh và Nam Phong; còn

Page 72: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

những người đứng trên quan điểm thuần văn chương học thuật thì rất đề cao

những đóng góp của Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí cho tiến trình hiện

đại hóa văn học.

– Trước 1945, tiêu biểu có các ý kiến của Thiếu Sơn, Đào Hùng, Kiều

Thanh Quế, Ngô Đức Kế, Phan Khôi, Hoàng Đạo, Dương Quảng Hàm, Vũ

Ngọc Phan…Ngay từ khi xuất hiện, Nam Phong đã nhận được nhiều ý kiến

khen chê. Các ý khen của một độc giả đăng trên Nam Phong số ra tháng 11

năm 1917, của Đào Hùng trên báo Phụ nữ tân văn (1931), của Thiếu Sơn

trên Phụ nữ tân văn, sau đó đăng lại trong Phê bình và cảo luận (1933), đánh

giá của Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu (là sách giáo

khoa thời Pháp thuộc do vậy ý kiến của Dương Quảng Hàm có tác động rất

lớn đối với giới học sinh, trí thức đương thời và cả về sau), ý kiến của Vũ

Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1942). Các ý phê phán gồm có Ngô Đức

Kế trên báo Hữu Thanh (1924), của Phan Khôi trên Phụ nữ tân văn (1930),

của báo Phụ nữ tân văn (1935), của Hoàng Đạo đăng trên báo Ngày Nay

(1937), của Nhóm Tự lực văn đoàn đăng trên Ngày Nay (1939)…

– Từ 1945 đến 1975 có các ý kiến của Tử Vi Lang, Nguyễn Duy Khánh,

Phạm Văn Diệu, Nguyễn Đăng Long, Chu Đăng Sơn, Bằng Phong, Nguyễn

Duy Diễn, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung…Giai đoạn 1945

đến 1954 là một giai đoạn lịch sử đặc biệt: đất nước có chiến tranh. Vấn đề

đánh giá di sản văn hóa và văn học trước cách mạng tháng Tám được đặt ra

và bàn luận sôi nổi. Vấn đề Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí lại càng trở

nên phức tạp. Năm 1949, Nghiêm Toản xuất bản công trình Việt Nam văn học

sử trích yếu có đề cập đến Nam Phong tạp chí và nhóm Nam Phong với thái

độ đề cao. Sau đó là một loạt những cuộc tranh luận nổ ra trong Nam ngoài

Bắc xung quanh “vụ án Kiều”. Tử Vi Lang (một bút hiệu của á Nam Trần Tuấn

Khải) trong bài “Vụ án Truyện Kiều (1956) đã vạch trần ý đồ của Phạm Quỳnh

khi đề cao Truyện Kiều, sau đó trang sách Khảo luận về tiểu thuyết Trung

Hoa (1959) Phạm Duy Khánh tiếp tục phê phán Phạm Quỳnh. Bên cạnh đó có

một số ý kiến đề cao như của Phạm Văn Diệu trong Việt Nam văn học giảng

Page 73: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

bình (1958), Bằng Phong–Nguyễn Duy Diễn trong luận đề về Nam Phong tạp

chí (1960), của Đàm Xuân Thiều và Trần Trọng San trong Việt văn độc bản,

của Nguyễn Khắc Xuyên trong Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong (1968),

của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965), của

Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1967)… Các ý kiến đề

cao khen ngợi thường cho rằng Nam Phong và Phạm Quỳnh có công trong

việc bồi bổ nền quốc học và quốc văn Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX.

Đáng chú ý là ý kiến của Nguyễn Văn Trung trong hai chuyên khảo Chủ đích

Nam Phong (1972) và Trường hợp Phạm Quỳnh (1975). Nguyễn Văn Trung

đã đặt lại vấn đề Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí. Bằng những tư liệu cụ

thể, (chủ yếu là tài liệu gốc trong hồ sơ lưu trữ của Pháp), trên lập trường dân

tộc, Nguyễn Văn Trung đã vạch rõ: Phạm Quỳnh là Cán bộ tuyên truyền văn

hóa của Pháp, suốt đời chỉ phụng sự cho đường lối chủ trương của Pháp;

Nam Phong là công cụ tuyên truyền văn hóa nô dịch có lợi cho Pháp. Trong

Chủ đích Nam Phong, nơi chương đầu (Phê bình một quan điểm phê bình)

ông đã duyệt xét những ý kiến đề cao Nam Phong trước đó và chỉ ra rằng, sở

dĩ các nhà nghiên cứu đề cao Nam Phong và Phạm Quỳnh vì đã bỏ qua yếu

tố chính trị ẩn đằng sau hiện tượng. Và do vậy, vô tình các nhà nghiên cứu đã

nêu những ý kiến có lợi cho thực dân và Phạm Quỳnh. Những sai lầm của

các nhà nghiên cứu cần được đính chính và sửa chữa, cần đặt Phạm Quỳnh

vả Nam Phong tạp chí trong bối cảnh lịch sử của nó và không khí chính trị

đương thời. Trong Trường hợp Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Trung một mặt

dựa vào ý kiến của những người lớn tuổi thuộc thế hệ gần Phạm Quỳnh có uy

tín trong xã hội (theo ông, họ là người có cơ hội tiếp xúc Nam Phong nhiều

hơn cả) từng đọc Nam Phong, mặt khác là từ tư liệu (tài liệu gốc của Pháp,

hồi ký của Phạm Quỳnh) để minh định trường hợp Phạm Quỳnh. So với

những công trình trước đó những nhận định của Nguyễn Văn Trung thật có

sức nặng vì kết luận trên cơ sở tư liệu, khó bác bỏ. Nguyễn Thế Anh, một

giáo sư đại học cùng thời cho rằng, trong lúc Nguyễn Văn Trung đả phá

huyền thoại Phạm Quỳnh thì vô hình trung lại thiết lập thêm một huyền thoại

Page 74: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

mới. Và vấn đề ở đây vẫn là quan điểm đánh giá: trên quan điểm văn học hay

chính trị.

– Từ 1975 đến nay có các ý kiến của Lại Văn Hùng, Trần Đình Hượu –

Lê Chí Dũng, Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Ngọc Thiện,

Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Ngọc Hiền, Nguyễn Thị Hà

Xuyên… Có thể nhận thấy, sau công trình của Nguyễn Văn Trung, vấn đề

Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí dường như lắng xuống, cho đến thập

niên 1980 vấn đề Nam Phong và Phạm Quỳnh bắt đầu được đánh giá lại,

nhưng ở những khía cạnh cụ thể là văn chương tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,

du ký, phần chính trị ít được đề cập.

2. NAM PHONG TẠP CHÍ

Nam Phong tạp chí ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Thực dân

Pháp đã bình định xong về mặt quân sự và tiến hành khai thác thuộc địa. Các

phong trào yêu nước của nhân dân ta liên tiếp thất bại: Thực dân Pháp thẳng

tay đàn áp và bắt bớ những người yêu nước. Các phong trào bạo động cứu

nước tạm lắng xuống và bắt đầu nổi lên phong trào Đông du và Duy tân,

phong trào cứu nước bằng cách đổi mới để tự cường do các nhà nho khởi

xướng. Đông Kinh nghĩa thục được thành lập, nơi tuyên truyền những tư

tưởng tiến bộ. Phong trào đọc và học theo tân thư sôi nổi. Thực dân Pháp

nhận ra một trận tuyến mới cũng vô cùng cam go đó là trận tuyến tư tưởng và

văn hóa. Ngay lập tức Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, những người chủ

trương bị bắt. Và Nam Phong tạp chí ra đời như là một Đông Kinh nghĩa thục

của thực dân. Pháp dùng Nam Phong tạp chí như một công cụ tuyên truyền

và định hướng tư tưởng có lợi cho Pháp.

Trong bài phỏng vấn của Đào Hùng đăng trên Phụ nữ tân văn, Phạm

Quỳnh đã nói về lai lịch xuất xứ của Nam Phong tạp chí như sau: “Tạp chí

Nam Phong ra đời năm 1917 nhưng thật ra là đã có lâu và không phải tôi

đứng tên sáng lập. Lúc trước nó là một bộ “Âu Châu chiến sử” xuất bản hồi

Âu chiến, viết bằng chữ Hán, chú tâm chỉ viết cho người Tàu bên Trung Hoa

đọc thôi. Nguyên hồi đó chính phủ bên Pháp thấy bên Thanh Đảo người Đức

Page 75: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

làm báo chữ Tàu in hàng muôn số phát không cho dân chúng, chuyên nói về

chiến tranh và tán dương nước Đức. Chính phú Đông Pháp cũng lo thế lực

của người Đức bên Tàu mỗi ngày mỗi lớn bèn vời tôi lên phủ Toàn quyền,

bảo tôi cùng ông Nguyễn Bá Trác làm một tờ báo chữ Nho lấy các tin tức của

sở điện tín Arip, nói rộng chuyện chiến tranh, viết bài kể từ nguyên nhân gốc

rễ cuộc Âu chiến, tuyên bố hết những việc dã man của người Đức. Các bài thì

ký tên người Tàu rồi báo cũng in hàng muôn số rồi đem sang Trung Quốc

phát không, để làm cách chống lại cuộc tuyên truyền bên địch và đánh đổ thế

lực của Đức ở Viễn Đông. Vậy trong mấy năm tờ “Âu Châu chiến sử ' chỉ là

một tờ báo chữ Hán và không có lưu hành trong xứ Đông Dương. Đến 1917

thì phủ Toàn quyền mới bàn với tôi rằng sẵn có tin tức và bài vở đó thì nên

mở ra một bản quốc văn để làm một các cơ quan tuyên truyền tin tức trong

xứ. Từ đó Nam Phong mới xuất hiện và cùng với các bạn đồng nghiệp

Đ.D.T.C là tờ báo quốc văn ở đất Bắc”. (Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam

văn học sử giản ước tân biên, tập III, (tái bản), Nxb. Đồng Tháp, 1998, tr.140–

141).

Nam Phong tạp chí hoạt động qua hai thời kỳ, có tổng cộng 210 số báo:

thời kỳ đầu từ 1917 đến 1933 do Phạm Quỳnh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút;

thời kỳ thứ hai từ tháng giêng đến tháng chạp năm 1934 do chủ nhà in Đông

Kinh là Lê Văn Phúc trông nom bài vở vì Phạm Quỳnh vào Huế nhận chức vụ

mới.. Chưa đầy một năm, kể từ khi Phạm Quỳnh rời Nam Phong thì tờ tạp chí

này phải đình bản. Có ý kiến cho rằng Nam Phong chết chưa hẳn là do ông

Lê Văn Phúc không có tài như Phạm Quỳnh, mà chính vì lẽ Nam Phong đã

hết vai trò lịch sử đối với thực dân Pháp ở Việt Nam. Ngay sau khi Nam

Phong đình bản có một phong trào tri thức mới nổi lên rầm rộ với những

Phong trào Thơ Mới, nhóm Tự lực văn đoàn, nhóm các nhà văn hiện thực

phê phán…

2.1. Hình thức

Nam Phong tạp chí xuất bản theo sắc lệnh của Toàn quyền Đông

Dương ký ngày 30/12/1916, (trang bìa có ghi rõ bằng dòng chữ Pháp

Page 76: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Publication autoriseepar que do 30 Decembre 1916 dễ M te Gouverneur dễ

L'indochine), phát hành số đầu tiên vào ngày 1/7/1917. Khờ báo 19 x 27,5 cm,

độ dày khoảng 150 trang, phần trên cùng tờ bìa có dòng chữ lớn Information

Francaise (thông tin nước Pháp), phía dưới là dòng chữ in to đậm NAM

PHONG, dưới nữa là dòng chữ nhỏ Văn học = Khoa học – tạp chí. Bìa có

đăng phần yếu mục (mục lục), hình quốc huy nước Pháp (hình chú gà trống

Gaulois), tên của chủ bút (phần quốc ngữ: Phạm Quỳnh phần Hán văn:

Nguyễn Bá Trác). Bìa sau của tạp chí in hình một con rồng đang phun lửa,

được giải thích là lửa Nam phun lửa diệt Đức tặc). Nội dung gồm ba phần

(phần viết bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và chữ pháp), có các mục Luận

thuyết, Văn học bình luận, Triết học bình luận, Văn tuyển, Tạp trở, Thời Đàm,

Tiểu thuyết.

2.2. Chủ trương

– Ngay phía trong tờ bìa của Nam Phong có ghi rõ: “Mục đích báo Nam

Phong là để cái chủ nghĩa của nhà nước, biên tập những bài bằng quốc văn,

Hán văn, Pháp văn để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc

văn An nam, truyền bá các khoa học thái tây nhất là tư tưởng học thuật nước

Pháp, bảo tồn quốc túy của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi

người Pháp, người An Nam trong trường kinh tế. Báo Nam Phong lại chủ ý

riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An nam”.

– Trong bài trả lời phỏng vấn của báo Phụ nữ tân văn năm 1931, Phạm

Quỳnh cho rằng: “Mục đích, tôn chỉ của Nam Phong chỉ là lo kiếm tài liệu bồi

bổ quốc văn, truyền bá tư tưởng và khoa học, không làm chính trị… ai phiền

tôi về phương diện đó là hiểu lầm tôi…”. (Dẫn theo Nguyễn Văn trung,

Trường hợp Phạm Quỳnh, Nam Sơn Xb, Sài Gòn, 1975, tr.98).

– Nguyễn Văn Trung qua các tài liệu đã chứng minh rằng khi thành lập

tờ Nam Phong tạp chí thực dân có hai chủ đích chính. Một là chủ đích gần,

trực tiếp, cấp thời: chống lại ảnh hưởng của Đức vào Việt Nam qua sách báo

Trung Hoa, qua các sĩ phu, hoặc qua những ấn phẩm tuyên truyền Đức có

tính chống Pháp. Chủ đích thứ hai có tính dài hạn là nhằm đào tạo lại tầng

Page 77: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

lớp sĩ phu vì tầng lớp này vẫn còn có nhiều ảnh hưởng tinh thần đối với quần

chúng. Cần phải hướng họ theo văn hóa Pháp bằng cách giới thiệu những cái

hay, cái đẹp của văn hóa Pháp để họ phục văn hóa Pháp và do đó chấp nhận

chế độ bảo hộ như một điều hợp lý. Đây là chủ đích chính của Nam Phong.

1. Nội dung Nam Phong tạp chí

Nam Phong tạp chí có nội dung phong phú thuộc các lĩnh vực triết học,

tôn giáo, chính trị, kinh tế, giáo dục, ngôn ngữ, văn hóa, khoa học, lịch sử, và

văn chương. Các bài viết trên Nam Phong đặt trong bối cảnh đương thời thật

sự có nhiều điểm tiến bộ và có đóng góp vào việc phổ biến kiến thức, đào

luyện ngôn ngữ, giúp bảo tồn và phát triển văn học.

+ Về Triết học tạp chí Nam Phong chú ý giới thiệu cả hai mảng triết học

phương Tây và phương Đông. Qua các bài dịch và giới thiệu của Đông Châu

Nguyễn Hữu Tiến, Trần Trọng Kim, Tùng Vân, Nguyễn Trọng Thuật người

đọc tìm được các học thuyết Khổng, Mạnh, Lão, Trang, Vương Dương Minh,

Phật…Về triết học phương Tây có các bài của Phạm Quỳnh với những

Gustave Le Bon, Hênh Bergson, Auguste Com te, Descartes, Tai ne, Re

nan…tuy vậy, đây chỉ là những bài dịch thuật trong một phạm vi nhỏ hẹp mà

thôi.

+ Về Tôn giáo là các bài khảo cứu về Phật giáo, các nghi lễ truyền

thống của người Việt cũng được chú trọng giới thiệu như hôn lễ, tang lễ, giao

tế, tế sự.

+ Về các vấn đề Xã hội như vấn đề hôn nhân gia đình, việc hiểu biết

chế độ gia đình cổ xưa của người Việt, vấn đề hương thôn, vấn đề phụ nữ,

vấn đề quan trường cũng được quan tâm.

+ Vấn đề chính trị, Nam Phong ra đời do chủ trương của Pháp do vậy

tất nhiên là tuyên truyền đường lối chính trị của thực dân. Các bài diễn văn

của quan toàn quyền, việc vua Bảo Đại hồi loan, các chính sách của thực

dân, một số sự kiện chính trị nước ngoài có lợi cho Pháp cũng được đề cập.

Page 78: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

+ Vấn đề giáo dục, Nam Phong đề cập là các vấn đề liên quan đến

công dân giáo dục, vấn đề gia đình giáo dục, phụ nữ giáo dục và cải cách học

chính.

+ Vấn đề Kinh tế cũng được Nam Phong chú ý qua các bài viết bàn về

kỹ nghệ, công thương, ngân hàng, tiền tệ, cổ động việc hùn vốn để cạnh

tranh buôn bán với người Tàu.

+ Vấn đề khoa học, Nam Phong giới thiệu những kiến thức khoa học

phổ thông, những phát minh như chớp bóng, điện ảnh, phim ảnh, điện học,

điện tín, vô tuyến điện, hàng không, sao băng, sấm sét, tàu ngầm, tàu bay,

giới thiệu các bài thuốc Nam, về vệ sinh và bệnh tật.

+ Vấn đề phong tục, Nam Phong giới thiệu một vài phong tục của người

mình như cách ăn mặc, cách lạy, các phong tục lạc hậu của người Việt,

người Mường, và một số nghi lễ của Ai Lao, Cao Ly, Eskimô, Tàu, Xiêm…

+ Vấn đề lịch sử được Nam Phong chú ý giới thiệu qua những tư liệu

lịch sử phổ thông, những bài nghiên cứu về đại cương lịch sử Việt Nam,lịch

sử Việt Nam cận đại và cổ đại; giới thiệu các nhân vật lịch sử từ lạc Long

Quân qua Hồ Quý Lý đến các nhân vật triều Lê, Lý, Trần, từ Bá Đa Lộc đến

bản triều nhà Nguyễn. Ngoài ra còn khảo về địa lý qua các bài dài hơi như

Kon Tum địa chí, Quảng Ngãi tinh chí, Hà Tiên Mạc thị sử, Nam Kỳ địa chí..rồi

rất nhiều tiểu truyện nhân vạt lịch sử của Pháp, Trung Hoa, Ấn Độ…

+ Vấn đề Ngôn ngữ là vấn đề quan trọng, nằm trong mục đích ban đầu

của Nam Phong. Những vấn đề được Nam Phong bài giải cho đến ngày nay

vẫn còn giá trị: như vấn đề danh từ hóa học, địa lý, chính trị, kinh tế, triết học,

pháp luật, từ điển…các cuộc bàn luận bổ ích xoáy quanh các vấn đề như

quốc học, quốc ngữ, quốc tự, quốc văn đã được Nam Phong khởi xướng từ

rất sớm.

+ Vấn đề Văn học. Đây là mục phong phú hơn cả. Có nhiều bài bàn giải

về văn hóa, văn minh, văn học. Nam Phong chú ý giới thiệu, dịch, chú thích

các tác phẩm văn học cổ của Việt Nam như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm,

Page 79: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Cung oán ngâm, thơ chữ Hán thời trung đại, cận đại. Ngoài ra còn giới thiệu

và dịch các tác phẩm văn học nước ngoài như của Pháp, Trung Hoa; giới

thiệu các truyện ngắn, tiểu thuyết và du ký của các tác giả đương thời; các bài

phê bình sách, các bài bàn về thể loại văn học, lý luận văn học rất phong phú,

đa dạng.

3. NHÓM NAM PHONG TẠP CHÍ

Trong 17 năm tồn tại (1917 – 1934), Nam Phong đã quy tụ được nhiều

trí thức tài năng và tâm huyết. Công việc và trước tác của họ đã để lại dấu ấn

đậm nét trong lịch sử văn hóa học thuật nước nhà. Mỗi người một vẻ, người

mạnh về nho học, người am tường Pháp ngữ, quốc văn đã làm nên diện mạo

đa diện của nhóm.

3.1. Nguyễn Bá Học (1857 – 1921)

– Nguyễn Bá Học, quê làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông,

nay là xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình

nho học. Nguyễn Bá Học học chữ nho, mấy lần đi thi nhưng không đỗ,

chuyển qua tây học rồi đi dạy suốt ba mươi mốt năm ở Sơn Tây, Nam Định

và Hà Nội. Sau khi về hưu (1918) ông chuyền qua viết báo, truyện ngắn đăng

trên Nam Phong tạp chí. Nguyễn Bá Học tham gia nhóm Nam Phong chỉ trong

một thời gian ngắn (1918–1921) nhưng ông đã kịp lại dấu ấn đậm nét bên

cạnh những cây bút khác.

– Trước hết, độc giả biết Nguyễn Bá Học qua những truyện ngắn độc

đáo trên Nam Phong như Câu chuyện gia đình (1918), Chuyện ông Lý Chấm

(1918), Có gan làm giàu (1919), Câu chuyện nhà sư (1919), Dư sinh lịch hiểm

ký (Chép những chuyện hiểm nghèo mà đời tôi đã trải) (1920), Chuyện cô

Chiêu Nhì (192 1), Câu chuyện một tối của người tân hôn (1921). Chỉ với bảy

truyện ngắn, Nguyễn Bá Học đã cho thấy một phong cách viết độc đáo. Tuy

vậy, những truyện của Nguyễn Bá Học vẫn còn nặng về việc giáo huấn đạo

đức, ít có sự đầu tư về nghệ thuật. Cảm quan văn học của một nhà nho chính

cống còn trì kéo ngòi bút của ông trong việc thể hiện chủ đề đạo đức– nhưng

cũng cho thấy sự cách tân khi ông truyền tải nó trong một hình thức thể loại

Page 80: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

mới là truyện ngắn. Đóng góp lớn của ông là đã đưa cuộc sống bình thường

vào trang viết.

– Nhiều người còn biết đến Nguyễn Bá Học như một ký giả có tài với

hai mươi mốt bài báo hoặc viết hoặc dịch có tác động lớn đến dư luận xã hội:

Lời khuyên học trò, Bàn về chức phận các thầy giáo tiểu học, Bàn về nghĩa tự

do kết hôn, Gia đình giáo ác ký, chuyện việc làng, Văn minh Á âu khác nhau

thế nào, Bàn về tiết kiệm, Chí phú cẩm nang (Phép làm giàu), Yếu lược về

kinh tế học…

– Đáng tiếc là Nguyễn Bá Học mất sớm, nếu không chúng ta còn có thể

được đọc nhiều tác phẩm thú vị khác của ông.

3.2. Nguyễn Trọng Thuật (1883 – 1940)

– Nguyễn Trọng Thuật, hiệu Đồ Nam Tử, người làng Mẫn Nhức, huyện

Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ học chữ nho, sau qua học chữ quốc

ngữ và chữ Pháp rồi đi dạy. Ông là Đảng viên Việt Nam quốc dân Đảng thời

Nguyễn Bá Học. Sau khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Trọng Thuật

thôi làm chính trị, chuyển qua viết văn, viết báo cộng tác với Nam Phong tạp

chí.

– Nguyễn Trọng Thuật viết nhiều bài khảo cứu bàn về các vấn đề thuộc

các lĩnh vực như lịch sử, văn học, giáo dục, tôn giáo. Tiêu biểu có các bài

Danh nhân Hải Dương (1919), Nguyễn Trường Tộ trên lịch sử Việt Nam

(1933), Hán Việt nó ngón diễn ca (1927), Gia đình giáo dục (1934), Giáo dục

phổ thông phải lấy tinh thẩn làm trọng (1932), Phật giáo tân luận (1934), Bình

luận về sách Khóa hư lục (1933)… ngoài ra ông còn phiên dịch tác phẩm cổ

Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác.

– Tác phẩm làm nên chân dung Nguyễn Trọng Thuật nhà văn chính là

Quả dưa đỏ (tiểu thuyết hóa chuyện An Tiêm trong Lĩnh Nam chích quái), tiểu

thuyết này đăng lần hồi trên Nam Phong tạp chí, và được giải thưởng của Hội

Khai trí tiền đức năm 1925. Với Quả dưa đỏ, Nguyễn Trọng Thuật được coi là

Page 81: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

một trong những người đi tiên phong trong phong trào sáng tác tiểu thuyết

bằng chữ quốc ngữ tại miền Bắc.

– Có thể nói, Nguyễn Trọng Thuật là một trong những cây bút viết báo

buổi đầu thế kỷ cố gắng duy trì nền văn hóa cổ truyền của dân tộc và cố gắng

tiếp thu nền văn hóa mới của phương Tây.

3.3. Nguyễn Hữu Tiến (1874 – 1941)

– Nguyễn Hữu Tiến, hiệu Đông Châu, người làng Đông Ngọc, huyện

Từ Liêm, tỉnh Hà Đông. Thuở nhỏ học chữ Hán, đi thi và đậu Tú tài, về sau

chuyển qua học chữ quốc ngữ và chữ Pháp và trở thành cây bút dịch thuật có

tiếng của Nam Phong tạp chí.

– Về dịch thuật đáng chú ý các công trình sau: Trung Quốc luân lý học

sử (1920– 1921) của Sái Chấn, Văn học sử nước Tàu của Vương Mộng

Tăng, Trung Quốc phong tục sự của Trương Lương Thái, Vũ trung tuỳ bút

của Phạm Đình Hổ, Các bậc danh nho nước ta (trích Lịch triều hiến chương

loại chí của Phan Huy Chú; ngoài ra ông còn biên soạn Cố xúy nguyên âm

(1917), Nam âm thi văn khảo biện (1918 – 1919), Giai nhân di mặc (viết dưới

dạng ký, ghi chép sự tích và thư từ Hồ Xuân Hương (2 tập, 1916), dịch Mạnh

Tử quốc văn giải thích (NP 1924 – 193 1) cùng với Nguyễn Đôn Phục, (Nxb.

Trung Bắc tân văn in năm 1932)

– Cách dịch, lối hành văn của Nguyễn Hữu Tiến rất trong sáng, dễ hiểu.

3.4. Nguyễn Đôn Phục (1878 – 1954)

– Nguyễn Đôn Phục, tự Huy Cán, hiệu Tùng Vân, nguyên quán ở

Thanh Hóa, sau chuyển ra sống ở làng Uy Nỗ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Thuở nhỏ học chữ quốc ngữ với mẹ, sau học chữ Hán với cha (của ông làm

tri phủ ở miền Trung, sau từ quan về làng dạy học). Năm 1900, ông đi thi

Hương nhưng trượt vì bỏ làm bài. Năm 1906, đi thi và đậu Tú tải. Từ đó

chuyển sang viết báo cộng tác với Nam Phong tạp chí.

– Nguyễn Đôn Phục cầm bút khoảng 15 năm và để lại nhiều trước tác

có giá trị. Về khảo cứu văn học và lịch sử có các công trình Khảo về cách hài

Page 82: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

văn (1922), Bàn về lịch sử nước Tàu (1924), Danh nho nước Tàu (1929–

1930); về dịch thuật có Tây Thi diễm sử (1927), Nhất nộ vị hồng nhan (Một

cơn giận vì khách má hồng 1928– 1929), Quý Phi diễm sử (1930); về chuyện

hài hước có Chừa nói chữ Nho (1921), Bức thư thần quốc ngữ kèo nài thần

chữ Nho (1934), Sự lạ, kể chuyện một ông quan từ chối không nhận đồ lễ

(1922), dịch Mạnh Tử quốc văn giải thích (NP 1924–1931) cùng với Nguyễn

Hữu Tiến, (Nxb. Trung Bắc tân văn in năm 1932)…

– Đáng chú ý trong sự nghiệp của Nguyễn Đôn Phục là mảng du ký với

các tác phẩm Du Tử trầm ký (1922), Cuộc đi chơi Sài Sơn (1925). Sinh thời

ông có đề xướng thể thơ Nam đàn bát châu. Thể thơ này gồm có 8 câu trong

đó: 2 câu đầu viết theo thể hát nói, hai câu tiếp theo làm theo thể lục bát, tiếp

theo hai câu thứ 5 vả 6 viết theo thể Đường thi, hai câu cuối cùng theo cách

điệu phong dao Việt Nam. Đề xướng của ông không được những người đồng

thời chú ý, nó có vẻ lạc lõng trong không khí của phong trào Thơ Mới.

Bên cạnh Nhóm Nam Phong cần phải kể những tên tuổi khác đã từng

cộng tác, viết bài góp phần tạo nên ảnh hưởng một thời của Nam Phong như

Đông Hồ, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Kiêm, Lê Dư, Tương Phố, Dương Bá

Trạc, Dương Quảng Hàm, Hoàng Ngọc Phách, Lê Thăng, Nguyễn Mạnh

Bổng, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Triệu Luật, Thiếu Sơn, Trần Trọng Kim, Vũ

Đình Long…

4. PHẠM QUỲNH TRONG NAM PHONG TẠP CHÍ

4.1. Tiểu sử và sự nghiệp

– Phạm Quỳnh (1892–1945), hiệu là Thượng Chi, Hồng Nhân, Hoa

Đường, quê làng Lương Ngọc, Phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ

học trường tiểu học Pháp Việt, sau đó vào học trường Bảo hộ (Trường Bưởi)

Hà Nội. Năm 1908, đỗ bằng Thành chung, được bổ làm việc tại trường Viễn

Đông bác cổ ở Hà Nội. Từ 1913 cộng tác với tờ Đông Dương tạp chí của

Nguyễn Văn Vĩnh. Năm 1917 làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nam Phong tạp

chí do Louis Marty sáng lập. Năm 1922 được cử sang Pháp dự hội chợ đấu

xảo ở Marseille, rồi lên Paris ba tháng diễn thuyết nhiều lần ở ban chính tri và

Page 83: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

luân lý của Viện Hàn lâm Pháp. Khi về nước ông tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du

và Truyện Kiều, nhân đó bị Ngô Đức Kế phản đối. Ngoài ra Phạm Quỳnh còn

cổ xúy việc xây dựng nền giáo dục quốc gia. Từ 1924 đến 1932 được mời

dạy tại trường Cao đẳng Hà Nội, rồi làm chủ tịch Hội Trí tri Bắc Kỳ, Hội đồng

kinh tế và tài chính Đông Dương. Ông đề xướng thuyết lập hiến, giữ chế độ

phong kiến ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, có quy định rõ quyền và nghĩa vụ của dân,

vua quan và bảo hộ. Năm 1922, Bảo Đại về nước thay Khải Định. Năm 1933

ông được mời vào Kinh giữ chức Ngự tiền văn phòng kiêm Thượng thư Bộ

học. Năm 1942 được thăng Thượng thư Bộ Lại. Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo

chính, Phạm Quỳnh bị phế truất, Trần Trọng Kim thành lập chính phủ mới.

Phạm Quỳnh lui về ở tư thất trên bờ sông An Cựu (Huế). Tháng 8 năm 1945,

cách mạng tháng Tám thành công, Phạm Quỳnh bị bắt ở Huế, sau đó bị xử

tử.

– Phạm Quỳnh là người gắn bó với các chủ trương chính trị của Pháp,

với tờ Nam Phong tạp chí do mật thám Louis Marty điều khiển. Các bài viết

của Phạm Quỳnh phần lớn nằm trong ý đồ chính trị của thực dân Pháp. Thế

nhưng các bài viết đó chứng tỏ Phạm Quỳnh có một vốn kiến thức rộng về cả

hai nền học thuật Đông Tây và nằm ngoài ý muốn của thực dân, những bài

viết của Phạm Quỳnh đã có tác động lớn đối với xã hội và nền học thuật nước

nhà. Phạm Quỳnh đã đề cập đến nhiều vấn đề và nhiều lĩnh vực.

Sự nghiệp trước tác của Phạm Quỳnh có thể chia làm ba loại như sau:

+ Về sáng tác có Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ, Mộng hay

mỹ, Ba tháng ở Paris (các sáng tác này thuộc thể loại du ký, ghi chép)

+ Loại khảo luận có Khảo Truyện Kiều, Tục ngữ ca dao, Văn chương

trong lối hát ả đào Việt Nam thi ca, Hán Việt văn tự, Đẹp là gì?, Sử học

chuyên luận, Pháp văn thi thoại Beơi delaire, Bàn về diễn thể, Văn hào

Pierreloti, Lịch sử và học thuyết của Rousseau, Lịch sử và học thuyết của

Montesquieu, Lịch sử và học thuyết của Voltaizre, Anatole France, Văn học

Pháp, Khảo về tiểu thuyết, Khảo về các luân lý học thuyết của nước Pháp,

Triết học là gì?, Học thuyết Augllste Com te, Học thuyết của Berson, Khảo về

Page 84: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

ngân hàng, Văn minh luận, Thế giới tiến bộ sử, Lịch sử thế giới, Khảo về

chính trị nước Pháp, Chính trị học, Phật giáo luật khảo, Quan niệm người

quân tử trong triết học đạo Khổng, Pháp văn – tiểu thuyết bình luận, Bàn về

hý kịch Moliere, Bình phẩm Một tấm lòng của Đoàn Như Khuê, Nghĩa vụ là

gì?, Sự giáo dục đàn bà và con gái, Văn quốc tế ngữ, Chữ nho với văn quốc

ngữ, Chữ Pháp có dùng làm quốc văn An nam được không?, Đạo đức đã đến

ngày từ chức chưa?, Vấn đề dân tộc giáo dục, Trả lời bài “Cảnh cáo các nhà

học thuật “ đăng trong Phụ nữ tân văn, Bàn về quốc học.

+ Loại dịch thuật có Phương pháp luận Descastes, Lời cách ngôn của

Mare Aurèle, Sách cách ngôn của Epietète, Đời đạo lý của Phút Chuồn,

Tuồng Lecid của Coneille, Tuồng Horace của Coneille, Tiểu thuyết ái tình của

Guyde Maupassant.

+ Phần lớn tác phẩm của Phạm Quỳnh được tập trung in lại trong hai

bộ sách Nam Phong tùng thư và Thượng Chi văn tập (5 tập) (Nxb. Alexandre

Rhodes, Hà Nội, 1943). Ngoài ra ông còn góp công sức trong việc biên soạn

cuốn Việt Nam từ điển do Hội Khai trí tiến đức biên soạn (chỉ mới ra tập I,

1932).

4.2. Vai trò của Phạm Quỳnh trong Nam Phong tạp chí

– Phạm Quỳnh có một vai trò rất quan trọng, là linh hồn của Nam

Phong tạp chí. Ông là người có mặt ngay từ đầu khi tạp chí mới hình thành và

theo sát quá trình tồn tại phát triển của tờ báo này, trừ năm cuối cùng (1934).

Phạm Quỳnh cũng đã tập hợp được đông đảo các trí thức tài năng trong ban

biên tập, phóng viên.

– Phạm Quỳnh không chỉ làm công tác điều hành mà còn là người biên

tập, định hướng bài vở, ông còn tham gia viết nhiều mục, nhiều đề tài khác

nhau, từ triết học sang văn học, từ chính trị đến xã hội, ngôn ngữ, kinh tế…có

thể thấy, suốt 210 số báo, không có số nào mà Phạm Quỳnh không góp mặt

một hai bài, mà phần lớn những bài đó là những bài quan trọng.

Page 85: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Theo Nguyễn Khắc Xuyên “giá trị của Thượng Chi không ở những bài

giới thiệu học thuật tư tưởng Âu châu, nhất là Pháp quốc, mà chính là những

bài khảo cứu về văn học, ngôn ngữ, văn tự nước nhà. Dĩ nhiên trong khi dịch

thuật những tác phẩm nước ngoài, dịch giả đã chịu tìm tòi danh từ, ngữ vựng

để có thể diễn đạt được trong tiếng mẹ đẻ của mình, điểm đó chúng ta cũng

đã nhận thấy. Sự làm giàu cho tiếng Việt là một trong những sự nghiệp văn

học của Phạm Quỳnh”. (Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong, Nxb. Thuận

Hóa – Trung tâm Ngôn ngữ Đông Tây, HN 2002, tr. 14).

4.3. Đóng góp, vị thế của Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong trong văn học sử

– Với một số lượng công việc đồ sộ dàn trải trên nhiều lĩnh vực và một

thời gian khá dài, trong bối cảnh không khí học thuật đương thời, nhóm Nam

Phong tạp chí đã gây nên một sự ảnh hưởng tương đối sâu rộng trong xã hội.

Họ đã có nhiều đóng góp đáng kể cho học thuật, văn hoá và đặc biệt là văn

chương thời cận đại.

– Nam Phong có công góp phần thúc đẩy sự trưởng thành của chữ

quốc ngữ, là nơi đào luyện ngòi bút của các nhà văn buổi đầu, ngoài ra còn

có công trong việc phiên dịch các danh từ khoa học từ từ sách vở nước

ngoài, cung cấp những kiến thức cơ bản về khoa học cho người đọc, nhiều

tài liệu văn học của tiền nhân được phục dựng và giới thiệu một cách cẩn

trọng và khoa học đến nay vẫn còn có nhiều giá trị. Nhóm Nam Phong đã tìm

cách duy trì và phổ biến những tinh hoa về tư tưởng, học thuật, lễ nghi, phong

tục của nước nhà.

– Đặc biệt nhóm Nam Phong tạp chí có công trong việc phiên dịch, giới

thiệu văn hóa nước ngoài, góp phần thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam đối

với thế giới bên ngoài. Qua đó, nền văn hóa của chúng ta cũng có cơ hội để

duyệt xét lại những giá trị cổ truyền để gạn đục khơi trong, học hỏi và tiến bộ.

– Tuy vậy, giữa lúc mọi tư tưởng cách mạng, phong trào yêu nước bị

đàn áp gắt gao, giữa lúc nền Pháp học đang được thực dân hậu thuẫn, bành

trướng thì Nam Phong xuất hiện với thuyết Pháp Việt đề huề, thuyết trung

Page 86: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

dung được Nam Phong khuyến khích đã làm hao mòn chí khí đấu tranh, đánh

lạc hướng các nhà cách mạng yêu nước: nhóm Đông Kinh ngh~ã thục, Phan

Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Lương Vặn Can, Nguyên Quyền.

– Nội dung bài vở của Nam Phong hàm chứa một dụng ý rõ ràng (Xem

nhận định của Nguyễn Văn Trung) có lợi cho thực dân Pháp. Cái mất mát, tổn

hại về đường tinh thần không phải là ít, nhưng cái được về đường tiến hóa

cũng nhiều. Với Nam Phong và trường hợp của Phạm Quỳnh cần có cái nhìn

lịch sử và trân trọng vốn quý của quá khứ. Cực đoan trong đánh giá là một

điều không nên khi sự việc đã thuộc về lịch sử. Bài học Nam Phong vẫn còn

đó.

– Nói về những đóng góp của nhóm Nam Phong và Phạm Quỳnh, Vũ

Ngọc Phan cho rằng: “Đến khi tạp chí Nam Phong ra đời (tháng 7/1971) quốc

văn lại bước cao hơn một bậc nữa. Bởi vì đến Nam Phong tạp chí có một đội

ngũ biên tập tài năng và sáng suốt và đáng nói hơn hết là tài năng uyên bác

của ông chủ bút Phạm Quỳnh… Cái công Phạm Quỳnh khai thác bước đầu

cho nền quốc dân có ngày nay, thật là một công không nhỏ. Văn ông ai cũng

khen là hùng và dồi dào, thường thường phải có giọng thiết tha kêu gọi,

nhưng vẫn có người kêu ông dùng nhiều chữ nho quá, làm cho câu văn hóa

ra nặng nề cả những khi diễn những tư tưởng rất nhẹ nhàng. Trong 16 năm

chủ trương tạp chí Nam Phong, ông đã xây đắp cho nền móng quốc văn

được vững vàng bằng những bài bình luận và khảo cứu rất công phu, mà từ

Nam chí Bắc người thức giả đều phải lưu tâm đến. Nhiều người thanh niên trí

thức đã có thể căn cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí để bồi bổ cho

cái học còn khuyết điểm của mình. Thậm chí có người còn lấy Nam Phong

làm sách học mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông –

Tây”. (Nhà văn hiện đại, Nxb Văn học–hội nghiên cứu và giảng dạy văn học

TP. HCM, (tái bản), tr.71 –72).

– Đến đây chúng tôi lại nghĩ đến những lời tha thiết cảm động của

Nguyễn Khắc Xuyên khi viết lời tựa cho lần tái bản thứ 2 (sau 40 năm) cho

công trình Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong: “Nam Phong thuộc về lịch

Page 87: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

sử. Một nước không thể không có lịch sử, một nền văn hóa – văn học không

thể từ con số không mà hiện hình. Lịch sử văn học Việt Nam đã trải qua nhiều

thời đại, mà Nam Phong thuộc về một trong những thời đại đó” (Sđd, tr.7). Có

phải thế chăng?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Huệ Chi: “Phạm Quỳnh”, trong Từ điển văn học (Bộ mới),

Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004, Hà Nội, tr.1364–2366

2. Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia Giáo

dục (tái bản lẩn thứ 10), Sài Gòn 1967.

3. Vũ Ngọc Phan: Nhà văn hiện đại, Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1942. Nxb.

Văn học và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. HCM (tập 1 tái bản),

1994.

4. Nguyễn Văn Trung: Chủ đích Nam Phong, Nam Sơn Xb, Sài Gòn,

1972.

5. Nguyễn Văn Trung: Trường hợp Phạm Quỳnh, Nam Sơn xb, Sài

Gòn, 1975.

6. Nguyễn Khắc Xuyên: Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong, Nxb,

Thuận Hóa Trung tâm Ngôn ngữ Đông tây (tái bản), 2002

CÂU HỎI

1. Hãy so sánh quan điểm đánh giá về Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp

chí của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên và

Nguyễn Văn Trung trong Trường hợp Phạm Quỳnh.

2. Vai trò của Phạm Quỳnh và Nam phong tạp chí trong văn học Việt

Nam đầu TK.XX.

Bài 6. TẢN ĐÀ (1889 – 1939)1. CUỘC ĐỜI

Page 88: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

1.1. Gia đình và thời tuổi trẻ

Tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1889 (không phải năm 1888),

quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.

Ông thuộc dòng dõi khoa bảng từ đời Lê, nhưng sau đó tổ tiên thề

không đi thi, đến đời thân phụ ông thì phá bỏ lời thề, đi thi, và làm đến chức

án sát.

Anh đỗ Phó bảng, làm Đốc học, sau làm hiệu trưởng trường Quy Thức,

một trường do thực dân Pháp lập ra để đối phó với trường Đông Kinh nghĩa

thục của các sĩ phu duy tân.

Mẹ là Như Thị Nghiêm, là một cô đầu tài sắc ở phố Hàng Thao Nam

Định, có tài làm thơ nôm, làm lẽ cha ông, gọi là bà Phủ Ba (cha ông làm Tri

phủ Lí Nhân). Khi Nguyễn Khắc Hiếu lên 3 thì cha qua đời. Bà phủ Ba lại

mang cô em gái Tản Đà về lại chốn xướng ca. Điều ấy đối với dòng họ ông là

một nỗi nhục rất lớn, đồng thời để lại trong Tản Đà một dấu ấn chua xót khó

phai mờ.

Tản Đà từ thuở nhỏ đã có tiếng là đa tình. Mối tình đầu của Cậu ấm

Hiếu có một ấn tượng rất sâu sắc:

Về Hà Nội học trường Quy Thức (1907), Nguyễn Khắc Hiếu sống rất

thiếu thốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Khắc Hiếu yêu cô gái con ông phán, nhờ anh

rể là nhà thơ Nguyễn Thiện Kế mai mối dùm. Ông Phán đồng ý với một điều

kiện: “Đậu cử nhân mang cái ấn tri huyện về mới được rước dâu. Nguyễn

Khắc Hiếu cố gắng học, nhưng thi mấy lần đều rớt – “Càng học càng thi thì

cứ hỏng” (Ngày xuân nhớ xuân). Lần thi cuối vẫn bị rớt, về đến nhà thì thấy

người yêu lên xe hoa làm dâu nhà một ông quan huyện.

Thất chí, ông bỏ lên vùng núi Hòa Bình, lang thang nhiều nơi. Ở nhà

Bạch Thái Bưởi, ông đọc Tân thư của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và

báo chí Trung Hoa mới. Ông lại đi, có lúc “tịch cốc” không ăn cơm chỉ uống

rượu ăn rau, sau lại ăn toàn thịt cá, rồi đổi lại ăn cơm bình thường.

Page 89: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Năm 27 tuổi Nguyễn Khắc Hiếu lấy vợ, cuộc sống càng ngày càng cùng

quẫn. Không làm quan được, cũng không muốn làm thầy như các nhà nho

xưa, lại cũng không muốn làm công chức cho Pháp, Nguyễn Khắc Hiếu quyết

định bước vào một nghề hoàn toàn mới: làm văn, làm báo chuyên nghiệp.

Ông thuộc vào thế hệ trí thức VN đầu tiên dám can đảm sống bằng ngòi bút

của mình.

1.2. Tản Đà, nghệ sĩ tự do, nhà thơ lãng mạn (1915 –1920):

1915, gửi bài cho Đông Dương tạp chí, viết bút ký Nhàn tưởng, gây

được sự chú ý của độc giả. Vì thế tờ báo bèn mở mục “Một lối văn nôm”, sau

đổi thành Tản Đà văn tập, viết tuồng ở Hà Nội, Hải Phòng.

Tác phẩm: Khối tình con 1 (1916), Giấc mộng con 1 (1917), Khối tình

con 2, Khối tình bản chính, Khối tình bản phu (1917), Đài gương, Đàn bà Tàu,

Thần tiên, Lên sáu (1919), Lên tám (1920). Ông vào Huế, lúc trở về viết Thề

non nước (1920).

1.3. Tản Đà, chủ báo (1921–1933):

Ông trở thành nhà văn độc lập, có nhà xuất bản riêng, tờ báo riêng của

mình. Năm 1921 ông được mời làm chủ bút báo Hữu thanh, cơ quan ngôn

luận của Bắc kỳ Công thương ái hữu hội.

Làm được một thời gian, ông xin từ chức, lập Tản Đà thư cục.

Năm 1925 cả nước nổi lên phong trào đòi thả Phan Bội Châu và phong

trào để tang Phan Chu Trinh. Phong trào đã kích thích lòng yêu nước yêu

nước trong ông. Ông quyết định mở tờ An Nam tạp chí. Từ năm 1920–1933,

An Nam tạp chí đình bản, tái bản nhiều lần cho đến năm 1933 thì chết hẳn.

1927, đi Nam Kỳ, định mở lại An Nam tạp chí nhưng không xin được

giấy phép. Ông cùng Ngô Tất Tố viết phụ trương cho Đông Pháp thời báo của

Diệp Văn Kỳ. Năm sau lại ra Bắc.

Tác phẩm:

Page 90: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Còn chơi (1921), Tản Đà tùng văn (1922), Truyện thế gian 1,2 (1923),

Trần ai tri kỉ, Quốc sử huấn mông (1924), Giấc mộng con 2 (1932), Giấc

mộng lớn (1932), Khối tình con 3 (1932). Dịch Đại Học, Kinh thi.

1.4. Tản Đà cốc tử (1934– 1939, cuối đời):

Trợ bút cho Văn học tạp chí sau khi An Nam tạp chí bị đình bản.

Cho in Tản Đà xuân sắc nhưng không được chú ý.

Viết mướn, dạy quốc văn, xem bói, dịch Liêu Trai chí dị, dịch thơ

Đường cho báo Ngày nay, chú giải Truyện Kiều.

Thiếu tiền thuê nhà, bị đuổi, bị tịch thu đồ đạc, phải dọn ra ngoại thành

Hà Nội.

Phát bệnh không có thuốc chữa, ông mất năm 1939.

2. CÁI TÔI TRƯỚC CUỘC ĐỜI

2.1. Người tài tử trong xã hội tư sản hóa:

Tản Đà là nhân vật của xã hội cũ hay mới?

Có ý kiến cho rằng:

– “Tản Đà, ngọn lửa cuối cùng của ý thức hệ phong kiến Việt Nam”

(Nguyễn Khắc Xương – nhan đề bài TCVH số/1965).

“Tác phẩm của ông chủ yếu nói lên cái tâm lí của giai cấp phong kiến

đã suy tàn, mất hết tin tưởng ở tiền đồ tương lai” (Phương pháp sáng tác

trong văn học nghệ thuật)

Ông tự nhận là “hủ nho”.

Nhưng ngược lại:

Ông tự nhận là học trò Lư Thoa (Rousseaux):

Ngồi buồn ta nhớ ông Lư Thoa

Dân ước nhân quyền ông xướng ra (…)

Nhớ ông bao nhiêu kính lại mến

Page 91: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Học trò xin có bài thơ ca

Nhớ ông Lư Thoa

Kêu gọi Duy tân trên An Nam tạp chí

Xuân Diệu: Tản Đà đã thể hiện được “Cái tôi”, “căn bệnh của thế kỷ” ở

thời hiện đại

– Yêu nước hay không?

Yêu nước: Vịnh bức dư đồ rách

Nịnh Tây: Nước ta rồi văn minh/ Trăm sự nhờ bảo hộ

– Thơ mới– thơ cũ?

Mới: cái mới, đòi hỏi “phá cảnh, vứt luật lệ”

Cũ:

Thơ sách họa

Đôi lời nhắn nhủ bạn làng nho,

Thẩn thẩn thơ thơ khéo thẫn thờ.

Con cóc Nghè Huỳnh đuôi cộc lốc,

Nàng thơ Ấm Hiếu mũi thò lò.

Chai to, chai bé, con cầy béo,

Câu thánh, câu thần, đĩa mực khô.

Nắn nót miễn sao nên tám vế,

Chẳng thơ thời cũng cóc cần thơ.

(Lưu Trọng Lư – Hà Nội báo 1936)

20 năm đầu thơ được tán thưởng. Sau 1932 thì bị hững hờ

Quan niệm văn chương:

– Hành đạo: Nho, Yêu nước

– Thể hiện cái tôi.

Page 92: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

=> “Tản Đà – một khối mâu thuẫn lớn”

Văn chương hành đạo và văn chương tài tử

Hai kiểu nhà văn: Trần Quốc Tuấn, Đặng Dung, Nguyễn Trãi, Nguyễn

Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu…

Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá

Quát, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Tản Đà…

Trước đó: Trần Tung, Nguyễn Trãi; Sau này: Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng

Chương…

– “Văn có ích”:

Giáo hóa “phải đạo” – Nho giáo

Phục vụ sự nghiệp cứu nước

– “ Văn chơi” tự thể hiện cá mình

Nghệ sĩ: ly tâm trong xã hội, không chấp nhận cái tầm thường, không

chấp nhận cái khuôn khổ, muốn khẳng định mình muốn hơn đời khác tục,

muốn cá nhân mình được chiêm ngưỡng chiều chuộng.

Tản Đà “văn vị đời, văn chơi”

Nhà nho tài tử

Nho nhưng không hành đạo, không ẩn dật (hợp đạo)

Nho nhưng đối lập với hai loại trên – nhà nho tài tử:

Đề cao tài, tình, tính, du, mỹ chứ không phải chí, tâm, đạo, nghĩa.

Đề cao cá nhân “hơn đời, khác tục”:

Trời đất cho ta một cái tài

Dắt lưng dành để tháng ngày chơi

(Nguyễn Công Trứ)

Tài:

Kinh luân (Nguyễn Công Trứ)

Page 93: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Học vấn (Cao Bá Quát)

Quan trọng: tài văn chương, cầm kì thi họa, gọi chung là tài hoa, tài tử.

Kim Trọng “Nhác trông thấy một văn nhân (ước mơ thị dân phong kiến),

khác Lục Vân Tiên (ước mơ nông dân).

Ước mơ: không phải công danh phú quý mà là một sự nghiệp phi

thường:

Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc

Nợ tang bồng vay trả trả vay

(Nguyễn Công Trứ)

Mâu thuẫn: khinh quyền thế, công danh, phú quý (khuôn khổ, tục),

nhưng vẫn thèm muốn quyền lực (để thỏa mãn cá nhân).

Khinh nghĩa vụ nhưng vẫn phải làm vì mong muốn “trí quân trạch dân”

(để khẳng định cá nhân).

Đa tình: Khinh cuộc sống tầm thường với thê nhi, thích người đẹp. Có

khi sự nghiệp, ấn phong hầu chỉ làm đẹp lòng giai nhân:

Minh quân lương tướng tao phùng di

Tài tử giai nhăn tế ngộ nan

(Nguyễn Công Trứ)

Tài tử vượt thói thường, không yên mệnh.

Chế độ phong kiến: cần tài, nhưng đố tài (muốn có người tài, nhưng

trọng đạo, giữ lễ tiết dục).

Văn chương tài tử khóc thương, than vãn cá nhân: Tải mệnh tương đố,

Bỉ sắc tư phong, Không có tri âm tri kỉ.

Ca ngợi hành lạc, ca ngợi mỹ nhân; khóc thương cho cái tài (tài hoa, tài

tử, khách phong lưu) bị vùi dập, cái đẹp bị lãng quên: Độc Tiểu Thanh kí

– Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ

Page 94: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

– Văn chương thiên cổ sự / Đắc thất thốn tâm tri (Đỗ Phủ)

Ví dụ: Nguyễn Công Trứ:

Chí khí anh hùng

Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc

Nợ tang bồng vay trả trả vay

Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể

Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ

Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh

Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh

Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ

Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ

Quyết ra tay luồn lái trận cuồng phong

Chí những toan xé núi lấp sông

Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ

Đường mấy rộng thênh thang cử bộ

Nợ tang bồng trăng trắng vỗ tay reo

Thảnh thơi thơ túi tượu bầu

Cầm kì thi tửu

Trời đất cho ta một cái tài

Giắt lưng dành để tháng ngày chơi

Dở duyên với rượu khôn từ chén

Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời

Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó

Page 95: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Đàn còn phím trúc tính tình đây

Ai say ai tỉnh ai thua được

Ta mặc ta mà ai mặc ai

Cao Bá Quát:

Uống rượu tiêu sầu

Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy

Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười

Thôi công đâu chuốc lấy sự đời

Tiêu khiển một vài chung lếu láo.

Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu,

Trầm tư bách kế bất như nhàn.

Dưới dậu thưa thấp thoáng bóng Nam San,

Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi càng nhỏ.

Khoảng trời đất cổ kim kim cổ,

Mảnh hình hài có có không không,

Lọ là thiên tứ vạn chung.

Người nghệ sĩ tài tử trong xã hội tư sản

Có hai con đường: Bạch Thái Bưởi – Nguyễn Thiện Kế

Tản Đà gia nhập xã hội tư sản ở đô thị viết báo kiếm tiền, làm báo, đọc

tân thư, dùng điện thoại, tính toán vốn lời kinh doanh:

Bao nhiêu củi nước mới thành văn

Được bán văn ra chết mấy lần

Ông chủ nhà in in đã đắt

Lại ông hàng sách mấy mươi phân

Lo văn ế

Page 96: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Người tài tử: cậy tài khẳng định cá nhân mình

Thị dân: khẳng định cá nhân, con người với tất cả khía cạnh của nó:

khát khao, mơ mộng và thất vọng, vui buồn yêu đời chán đời.

Văn chương thị dân: khẳng định cá nhân mang cốt cách người tài tử,

cái tôi cậy tài muốn khẳng định mình trong cuộc sống, nhưng chưa đến được

với quan niệm cá nhân tư sản.

Người tài tử bắt gặp con người cá nhân trong xã hội tư sản hóa.

Cái tôi: Phạm Quỳnh nhận xét về sự thể hiện cái tôi táo bạo trong thơ

Tản Đà: “Người ta phi cuồng không ai dám trần truồng ra phố.”

Lê Thanh: “Ông ra đời đã đem cho chúng ta một thi sĩ thành thực dám

ca hát đời sống của lòng. Ông đã mơ mộng, đã chán đời, yêu đời, thiết tha

với đời một cách tự do. Ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công

nhiên để cho cái tính tình mê man của mình rộng rãi trong thơ.

2.2. Ngông:

Người tài tử ngày xưa: vốn cậy tài.

Xã hội phong kiến cần tài kinh bang tế thế và trọng tài văn chương.

Xã hội tư sản đề cao cái tài kinh doanh, phát minh khoa học hơn tài văn

chương:

Tản Đà: tài văn chương, tài chữ nghĩa, từ đó đến tài kinh luân trong xã

hội tư sản là một khoảng cách rất xa. Cái ngông của Tản Đà không có nét hào

hùng như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Cái Ngông ấy đi vào đập phá,

thách thức xã hội, và hờn tủi, tê tái. Đó là cái Ngông của người có tài mà

không được trọng dụng.

Tự khẳng định mình, đứng ra ngoài những qui ước xã hội, đặc biệt là

trường quy. Tự coi mình như “vưu vật”, có tài nhưng chỉ coi như chơi.

Tự trào

Vùng đất Sơn Tây này một ông

Page 97: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Tưới chửa bao nhiêu văn rất hùng

Sông Đà núi Tản ai hun đúc

Bút thánh câu thần sớm vãi vung

Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh

Khuyên khuyên điểm điềm có hay không

Bởi ông hay quá ông không đỗ.

Không đỗ ông càng tốt bộ ngông

Tự thuật

Văn chương thời nôm na

Thú vui có sơn hà

Ba Vì ở trước mặt

Hát Giang bên cạnh nhà

Tản Đà.

Tự nhận mình là “trích tiên”, là hậu thân của Đông Phương Sóc, lên trời

gặp Nguyễn Trãi, Lư Thoa. Ông tưởng tượng thấy mình viết thư hỏi con gái

Trời, đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe, được chư tiên khen và yêu cầu gánh

thơ lên trời bán:

Người đâu kiếp trước Đông Phương Sóc

Ăn trộm đào quen học thói ngày xưa

Trần gian đày mãi không chừa (…)

Văn dài hơi tốt ran cung mây

Trời nghe Trời cũng lấy làm hay (…)

Văn đã giàu thay lại lắm lối

Trời nghe Trời cũng bật buồn cười

Page 98: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

“Anh gánh lên đây bán chợ trời”

Hầu Trời

Xưng “tớ', “ta”, gọi mình là anh, bác Tản Đà, ông (người xưa: xưng “ta”,

xưng tên, chị…):

– Mỗi năm hậu bổ một lần thi

Năm ngoái năm xưa tớ cũng đi

Mười mấy năm xưa ngọn bút lông

Xác xơ chẳng bợn chút hơi đồng

Bây giờ anh đổi lông ra sắt

Cách kiếm ăn đời có nhọn không.

(Thuật bút)

– Trời sinh ra bác Tản Đà

Quê hương thời có cửa nhà thời không

– Vùng đất Sơn Tây nảy một ông

Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng (…)

Bởi ông hay quá ông không đỗ

Không đỗ ông càng tốt bộ ngông.

Nhận mình là “ngông”:

Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông.

Ngông là bản lĩnh của Tản Đà, thể hiện sự đối lập của cá nhân đối với

xã hội tự sản, khát khao khẳng định con người cá nhân. Đi từ truyền thống tài

tử, Tản Đà bước chân vào xã hội tư sản, bị tư sản hóa, nhưng đồng thời cũng

phản ứng lại xã hội đó.

Page 99: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

2.3. Đa tình

Từ nhỏ học Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, đã thích nhất hai câu:

“Hoa cù hồng phấn nữ

Tranh khán lục y lang”

(Đường hoa gái đẹp má hồng

Tranh nhau ra ngắm các chàng áo xanh)

Năm 19 tuổi xảy ra câu chuyện mối tình Hàng Bồ.

Kẻ sĩ tài tử ngày xưa: Đề cao chữ Tình là quan niệm của kẻ sĩ tài tử.

Đề cao Tình đối lập với đề cao Chí, Đạo, tức là đối lập con người cá nhân với

con người phận vị phong kiến. Chữ tình có nhiều nghĩa: vừa có nghĩa là sự

nhạy cảm (hữu tình, nòi tình), vừa là vừa có nghĩa ái tình, đa tình. Đó là

những mối tình với nữ sĩ, đào hát, li kì hấp dẫn.

Đa tình, giấc mộng yêu đương, trở thành lăng kính nhìn xã hội thông

qua số phận của những người tài tình, tài hoa, tài sắc

Có cái tình kín đáo với mỹ nhân:

Mỹ nhân quyển châu liêm

Thâm tọa tần nga mi

Đàn kiến lệ ngân thấp

Bất tri tâm hận thùy

Lí Bạch: Oán tình

Có cái tình sỗ sàng với đào nương ca kĩ:

– “Một đóa hoa lê áp hải đường”; “Giang sơn một gánh giữa

đồng/Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ không” (Nguyễn Công Trứ)

– “Chơi cho phờ râu, cho chóng mặt, cho long dải rút, cho trụt dây lưng/

Còn than tiếc chen chân vào cái dại” (Dương Khuê)

Page 100: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Tản Đà: Trong thơ Tản Đả, tình yêu có nhiều sắc thái: có cái tình

thoáng qua, có cái tình gần gũi – xa xôi, giây phút – ngàn thu…

Ghẹo người vu vơ, Nhớ chị hàng cau:

Ngồi buồn đâm nhớ chị hàng cau

Khoảng mấy năm trời ở những đâu

Khăn vải tùm hum lâu vắng mặt

Chiếu buồn che giữ có tươi màu

Ai đương độ ấy lăm răm mắt

Tớ đã ngày nay lún phún râu

Bèo nước hợp tan người mỗi nẻo

Cậy ai mà nhắn một đôi câu.

Tự nhận mình là người đa tình:

Người đâu cũng giống đa tình

Ngỡ là ai, lại là mình với ta

Nói chuyện với ảnh

Than không có người tri ki:

Cái giống đa tình ta có một

Mà người tri kỉ đấy không hai

Tản Đà

“Thơ tình của Tản Đà là thơ của người khao khát tình yêu và thất vọng

về tình yêu” (Vũ Ngọc Phan).

Trong xã hội tư sản người tài tử lạc loài, tài văn chương không có giá

trị, tình yêu chỉ là phù phiếm. Từ đó dẫn đến xu hướng phê phán xã hội kim

tiền gay gắt trong thơ ông:

Ai xui em lấy học trò

Page 101: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Thấy nghiên thấy bút những lo mà gầy

Người ta đi lấy ông Tây

Có tiền có bạc cho thầy mẹ tiêu.

Hay:

Anh tiếc cho em phận má đào

Tham đồng bạc trắng mới gán mình vào cái chú Tây đen

Sợi tơ hồng ai khéo xe duyên

Treo tranh tố nữ đứng bên anh tượng đồng.

Thất vọng với tình yêu đã khúc xạ vào văn chương Tản Đà thành

những giấc mộng yêu đương kỳ lạ:

Không yêu được người, ông mơ yêu tiên, yêu ma..

Chiêu Quân (chùa Non Tiên) với Tản Đà chẳng phải liệt nữ, nghĩ về

nàng, Tản Đà chỉ thấy thương tiếc một người tài sắc:

Cô ơi cô đẹp nhất đời

Mà cô mệnh bạc thợ trời cũng thua

Một đi từ biệt cung vua

Có về đâu nữa đất Hồ ngàn năm

Mả xanh còn dấu còn căm

Suối vàng lạnh lẽo cô nằm với ai

Má hồng để tiếc cho ai

Đời người như thế có hoài mất không (…)

Trời Nam thằng kiết là tôi

Chùa Tiên đất khách khóc người bên Ngô

Cô với ôi, tôi với cô

Trước sân lễ bạc có mồ nào đây

Page 102: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Hồn cô ví có ở đây

Đem nhau đi với lên mây cũng đành.

Đeo đuôi Hằng Nga. Đưa thơ tình bị đày xuống thành trích tiên, lại đưa

nữa thì bị “Trời mắng”. Đây là tâm sự mộng ảo về yêu đương của Tản Đà:

Muốn làm thằng Cuội

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,

Trần giới em nay chán nửa rồi.

Cung quế có ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chi nhắc lên chơi.

Có bầu có bạn can chi tủi,

Cùng gió cùng mây thế mới vui.

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,

Tựa nhau nhìn xuống thế gian cười.

Xót xa thân phận, mối tình cô gái hàng Bổ đeo đẳng suốt đời:

– Vì ai cho tớ phải lênh đênh

Nặng lắm ai ơi một gánh tình

Nghìn dặm dám quên tình lúc ấy

Trăm năm còn nhớ chuyện ngày xưa

Ngày xuân tương tư

Diễn tả tình yêu tâm lí của mình (chứ không mượn điển tích), yêu là

đẹp, bản thân nó cũng là mục đích:

Quái lạ làm sao cứ nhớ nhau

Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu.

Bốn phương mây nước trời đôi ngả

Hai chữ tương tư một gánh sầu

Page 103: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Tương tư

Tản Đà là một người đa tài, đa tình, nhưng trong xã hội tư sản đương

thời, tài không được trọng, tình không được thương, nên đã dẫn đến tâm

trạng u buồn, thất vọng và ý muốn thoát ra khỏi những câu thúc của quy tắc

nghiệt ngã của xã hội đương thời.

2.4. Vui chơi vịn thơ, rượu và thú giang hồ:

Người tài tử ngày xưa: uống rượu là cái thú, uống rượu để phát lộ tính

tình, chí khí uống rượu để vượt ra ngoài vòng cương tỏa và uống rượu để

tiêu nỗi sầu nhân sinh:

– Trừu đao đoạn thủy thủy cánh lưu

Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu

(Rút dao chém nước nước vẫn trôi

Nặng chén tiêu sầu sầu vẫn sầu)

– Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu (Lý Bạch)

– Uống nó tiêu sầu (Cao Bá Quát)

Tản Đà: thú uống rượu:

Hà tươi cửa biển Turan

Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà

Sài Gòn nhớ vị cá tra

Cái xe song mã, chén trà Nhất Thiên

Thú ăn chơi

Giai thoại uống rượu ở Sài Gòn, Đồ Sơn (cuốc nhà để trồng rau thơm,

Tản Đà ẩm thực – Ngô Tất Tố)

Tuyên ngôn: Ngày xuân thơ rượu:

Trời đất sinh ra rượu với thơ

Không thơ không rượu sống như thừa

Page 104: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Công danh hai chữ mùi men nhạt

Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ

Mạch nước sông Đà tim róc rách

Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ

Còn thơ còn rượu còn xuân mãi

Còn xuân mãi xuân còn rượu với thơ.

Có vẻ như ca tụng thú hành lạc không thiết gì đến thế sự, như Lưu Linh

cùng với nhóm Trúc Lâm Thất Hiền của ông:

Việc trần ai, ai tỉnh ai lo

Say túy lúy nhỏ to đều bất kể

Trời đất nhỉ cái say là sướng thế!

Thực chất cái say của ông là phản ứng lại xã hội, là muốn khác tục,

ghét những kẻ lên mặt tỉnh táo khôn ngoan cao đạo. Phản ứng lại bằng sự

phóng túng, tự do sống thật với mình:

Say lắm vẻ: say mệt, say mê, say nhừ, say tít

Trong làng say, ai biết nhất ai say?

Mảnh hình hài quen giả trá xưa nay

Chúng sinh tướng lúc này coi mới hiện

Say

Say là phương tiện giải buồn truyền thống của khách tài tử – một nỗi

buồn vừa gần gũi, vừa xa xôi mơ hồ, cái buồn của kiếp người, của người tài

tử, của người dân

Cảnh đời gió gió mưa mưa

Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn

Rượu say thơ lại khơi nguồn

Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọt tình

Page 105: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Rượu thơ mình lại với mình

Khi say quên cả cái hình phù du

Trăm năm thơ túi rượu vò

Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai.

(Thơ rượu)

Thú giang hồ:

Người tài tử ngày xưa: Phạm Lãi, Lý Bạch đi khắp Trung Hoa: Lạc

Dương, lầu Hoàng Hạc, Thành Đô, Thẩm Dương, Ngũ Hồ.

Giang hồ là cái thú, lại vừa là phản ứng chống lại xã hội đương thời:

Nhân sinh tại thế bất xứng ý

Minh triệu tản phát lộng biên châu.

(Lý Bạch)

Tản Đà: thú giang hồ đi từ Nam vào Bắc: Vinh, Nam Định,Vĩnh Yên,

Sơn Tây, Hải Phòng, Hà Nội – “kiếp tài tình mặt nước chân mây”.

Người tài tử không chịu được cuộc đời tù túng, muốn phóng khoáng,

ngao du sơn thủy, tiêu diêu như “trích tiên”, đạo nhân, đi mây về gió:

Hay là thưở trước kẻ văn chương

Chen hội công danh nhỡ lạc đường

Tài cao phận thấp chí khí uất

Giang hồ mê chơi quên quê hương

Thăm mả cũ bên đường

Thú giang hồ, nhưng trong thơ Tản Đả vẫn không giấu được cái nghèo

đói của một cuộc đời tha phương cầu thực:

Trời sinh ra bác Tản Đà

Quê hương thời có cửa nhà thời không

Page 106: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Nửa đời Nam Bắc Tây Đông

Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly

Túi thơ đeo khắp ba kỳ

Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng

Thú ăn chơi

Tản Đà không thể thành được một Phạm Lãi tiêu dao Ngũ Hồ, kể cả

một Lý Bạch vì gánh nặng áo cơm của người nghệ sĩ trong xã hội đồng tiền:

Bẩm Trời cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có (…)

Văn chương hạ giới rẻ như bèo.

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Cho đến cuối đời, bản ngã cũng bị đánh mất do xã hội không coi trọng

tài hoa, tài tình. Đó là bằng chứng cho sự bế tắc của người tài tử trong xã hội

tư sản, mà cũng là sự vong thân của con người trong xã hội kim tiền:

Tổng kết cuộc đời mình – vào năm 1938, một năm trước khi mất

Khi làm chủ bút lúc viết mướn,

Hai chục năm dư cảnh khốn cùng.

Trần gian thước đất vẫn không có,

Bút sắt chẳng hơn gì bút lông.

Ngày xuân như ngựa đầu xanh bạc,

Chán cả giang hồ hết cả ngông.

Tiễn ông Công lên trời

Người tài tử vẫn có niềm tự hào riêng của họ: họ vẫn giữ được phẩm

chất tài hoa của người nghệ sĩ và phẩm chất thanh cao của một con người.

Cái nghèo không đánh gục được họ:

Người ta hơn tớ cái phong lưu

Page 107: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo.

2.5. Sầu:

Người tài tử: Mối sầu của người tài tử về nhân sinh: “Ba vạn sáu ngàn

ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười” (Cao Bá Quát).

Tản Đà càng sầu:

– Cảnh đời:

Cảnh đời gió gió mưa mưa

Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn.

– Chán nản xã hội đen bạc:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi

Trần thế em nay chán nửa rồi.

– Thói đời đen bạc:

Ai xui em lấy học trò

Thấy nghiên thấy bút những lo mà gầy

Sao bằng đi lấy ông Tây

Có tiền có bạc cho thầy mẹ tiêu

– Nhập thế, hành đạo, lo đời:

Ngày nay tuổi đã ba mươi ba

Ta nghĩ mà ai chẳng giống ta

Lo nước, lo nhà, lo thế giới

Còn thêm lo nợ, nghĩ không ra.

Khai bút Tân Dậu

Hủ nho lo nước lụt, Hủ nho lo việc đời

Lo công danh sự nghiệp:

Đời người lo mãi biết bao thôi

Page 108: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Mái tóc xanh xanh trắng hết rồi

Sự nghiệp nghìn thu xa ngút mắt

Tài tình một gánh nặng bên vai

Mối sầu lo của người dân mất nước:

Lo vì công việc báo An nam

Đã chót đa mang cứ phải làm

Bốn bể phen này không trắng nợ

Tuyết sương âu hẳn bạc đầu thêm

Hủ nho lo việc đời

Mơ hồ bàng bạc, mà sâu xa, da diết, đó là nỗi sầu không rõ từ đâu, mối

“sầu vạn cổ, mối sầu về một kiếp người tài tử – con người cá nhân với những

ước mơ khát vọng không được thỏa mãn:

Khách giang hồ

Khuất khúc sông sâu mấy nhịp cầu

Ngỡ là gió Á với mưa Âu

Đời chưa duyên kiếp ai xanh mắt

Khách chẳng công danh cũng bạc đầu

Cảnh cũ đòi phen thay chủ mới.

Đường xa kinh nỗi suốt đêm thâu

Giang hồ chưa đã bao nhiêu kiếp

Mà cuộc trần ai mấy bể dâu.

Nhân sinh tại thế bất xứng ý:

– Cảm thu tiễn thu

Nào những ai:

Bảy thước thân nam tử,

Page 109: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Bốn bể chí tang bồng

Đường mây chưa bồng cánh hồng,

Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tư mi.

Nào những ai:

Sinh trưởng nơi khuê các,

Khuya sớm phận nữ nhi,

Song the ngày tháng thoi đi,

Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa.

Nào những ai:

Tha phương khách thô

Hải giác thiên nha,

Ruột tằm héo, tóc sương pha,

Góc phần tranh tưởng quê nhà đòi cơn.

Nào những ai

Cù lao báo đức

Sinh dưỡng đền ơn

Kinh sương nghệ nỗi mền đơn,

Giàu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!

Nào những ai:

Tóc xanh mây cuốn

Má đỏ hoa ghen

Làng chơi duyên đã hết duyên

Khúc sông trăng đãi con thuyền chơi vốn

Nào những ai:

Page 110: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Dọc ngang trời rộng,

Vùng vẫy bề khơi

Đội trời đạp đất ở đời

Sa cơ thất thế quê người chiếc thân.

Nào những ai

Kê vàng tinh mộng

Tóc bạc thương thân

Vèo trông lá rụng đẩy sân,

Công danh phù thế có ngần ấy thôi.

– Thăm mả cũ bên đường

Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà,

Đường xa, người vắng, bóng chiều tà,

Một dãy lau cao làn gió chạy,

Mấy cây thưa lá sắc vàng pha.

Ngoài xa trơ một đống đất đỏ,

Hang hốc đùn lên đám cỏ gà.

Người nằm dưới mả, ai ai đó?

Biết có quê đây hay vùng xa?

Hay là thuở trước kẻ cung đao?

Hám đạn liều tên quyết mũi đao.

Cửa nhà xa cách vợ con khuất,

Da ngựa gói bó lâu ngày cao,

Page 111: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Hay là thuở trước kẻ văn chương?

Chen hội công danh nhỡ lạc đường.

Từ cho phận thấp chí khí uất,

Giang ho mê chơi, quên quê hương.

Hay là thuở trước khách hồng nhan?

Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen.

Phong trần xui gặp bước lưu lạc,

Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.

Hay là thuở trước khách phong lưu?

Vợ con đàn hạc đề huề theo.

Quan san xa lạ đường lối khó,

Ma thiêng nước độc phong sương nhiều.

Hay là thuở trước bậc tài danh?

Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh

Giận duyên tủi phận hờn ân ái,

Đất khách nhờ chôn một khối tình

Suối vàng sâu thẳm biết là ai?

Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!

Trải bao ngày tháng trơ trơ đó,

Page 112: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Mưa dầu, nắng dãi, trăng mờ soi!

Ấy thực quê hương con người ta

Dặn bảo trên đường những khách qua:

Có tiếng khóc oe thời có thế

Trăm năm ai lại biết ai mà!

Con người tài tử nghệ sĩ kiểu mới: đem văn chương bán phố phường.

Sản phẩm của xã hội tư sản và của sự phản ứng lại xã hội đó, mở

đường cho loại hình thi sĩ hiện đại sau này: “Tản Đả là người thứ nhất có can

đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một

bản ngã, dám giữ một cái tôi” (Xuân Diệu).

3. TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC TRONG THƠ TẢN ĐÀ:

3.1. Duy Tân hợp pháp

Năm 1927, trên An nam tạp chí, Tản Đà đề xướng cả “Một cuộc chiến

tranh của người An Nam bắt đầu từ năm Đinh Mão”, huy động toàn bộ lực

lượng dân tộc thành một thế trận, lấy quốc dân nam phụ lão ấu làm trung

quân, có báo giới làm tiên phong, quan trường làm thủ thành, Đại Pháp bảo

hộ làm quân sư. Đây chẳng phải là một cuộc chiến tranh bằng binh đao võ

lực, chẳng phải chiến tranh với ai mà là mọi người tử chiến đánh nhau với

thời cuộc mà tranh sự sinh tồn.

Ông sốt ruột về sự chậm tiến:

Tính năm sinh nay đã bốn nghìn dư

Buổi tiến hóa lừ đừ sau mọi kẻ.

Hô hào đồng tâm hiệp lực:

Nam Bắc hỡi ai đồng tiến hóa.

Đông Tây nào những khách văn minh.

Page 113: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Ảo tưởng sai lầm:

Một thai rồi văn minh

Trăm sự nhờ Bảo hộ.

Lên tám

3.2. Thuyết “Thiên lương” yêu nước

Tản Đà làm một triết gia, làm một nhà cách mạng lập thuyết. Ông lập ra

thuyết Thiên lương, coi nó là phương thuốc hữu hiệu để cứu đời. Sự rao

giảng thuyết Thiên lương là sứ mệnh Trời giao mà Tản Đà đã hứa danh dự

trong buổi “Hầu Trời”:

Hai chữ “ Thiên lương “ thằng Hiếu nhớ

Dám mong không phụ trời trông mong

“Thiên lương” là cái nguyên chất mà con người nhận được để phân biệt

người với vạn vật, như cái đẹp của loài công, cái mạnh của loài hổ, cái bọng

cay của loài cà cuống. Thiên lương có 3 chất:

Lương tri: khiến con người có trí

Lương tâm: khiến con người có đức

Lương năng: khiến con người có tài.

Thiên lương con người tiếp thu được không bằng nhau. Ai thụ bẩm

được nhiều thiên lương thì thành hào kiệt. Thiên lương là do trời phú, nhưng

con người phải tác động vào hoàn cảnh mới có hiệu quả

Thiên lương là tư tưởng triết trung, điều hòa Đông Tây trong thời cận

đại:

Ảnh hường âu Tây: chú ý đến hiểu biết khoa học, chế tạo tiêm thủy

đánh (tàu ngầm), phi cơ…

Ảnh hưởng Nho giáo: ở tính chất chú trọng đạo đức cá nhân mang màu

sắc Tính thiện của Mạnh Tử.

3.3. Tình yêu nước của nhà thơ tài tử

Page 114: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Tấm lòng yêu nước của Tản Đả mơ hồ mà da diết, nó không dẫn đến

hành động nhưng có một sắc thái riêng. Đó là yêu nước của người tài tử trên

diễn đàn văn học công khai – những bài thơ non nước:

Yêu cảnh đẹp của đất nước:

Qua cầu Hàm Rồng hứng bút.

Hôm xưa chơi ở Dương Quỳ

Trắng phau ngựa trắng, xanh rì rừng xanh

Hàm Rồng nay lại qua Thanh

Dưới cầu nước biếc in hình thi nhân.

Người đâu sương tuyết phong trần

Non xanh nước biếc bao lần vãng lai

Dư đồ còn đó chưa phai

Còn non, còn nước, còn người nước non.

Ruột tằm dù héo chưa mòn

Tơ lòng một mối xin còn vấn vương

Nước non muôn dặm trường trường

Hỡi ai rau sắn chùa Hương biết cùng!

Trăm năm nặng gánh tang bồng

Lửa than càng đốt cho lòng càng son.

Cảnh còn biếc nước xanh non

Đầu ai trắng tóc, duyên còn thắm tơ.

Để ai thương nhớ đợi chờ,

Mà ai đi mãi, bao giờ đến nơi?

Có tinh chất đa tình:

Nước non nặng một lời thề

Page 115: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

Nước đi, đi mãi không về cùng non.

Nhớ lời nguyện nước thề non

Nước đi chưa lại non còn đứng không.

Thề non nước

Gắn với cái ngông, ý thức cá nhân có trách nhiệm:

– Này vẫn bác Tản Đà năm trước

Thủa xuân xanh thề ước non sông.

– Ơn nhà nợ nước hai vai

Nước nhà ai để riêng ai nặng nề

Trông mây nước bốn bề lạnh ngắt

Nhìn non sông tám mặt sầu treo

Đường xa gánh nặng xế chiều

Cơn giông biển lớn mái chèo thuyền nan.

Tản Đà yêu nước, những lòng yêu nước có sắc thái riêng, yêu nước

của một nhà thơ tài tử (chứ không phải của một nhà tư tưởng, một nhà hoạt

động cách mạng). Tình yêu nước ấy không tách khỏi lòng yêu cảnh đẹp, lòng

yêu tình nhân, người tri âm tri kỉ. Tư tưởng yêu nước của Tản Đã có thề bị

nhiều người hồ nghi về giá của nó, nhưng tình cảm yêu nước trong thơ ông

lại hết sức phong phú, giàu tình cảm, có sức thẫm sâu, lan rộng lam say mê

khắc khoải lòng người.

Tản Đà bước vào xã hội những năm 10 của thế kỷ XX như một cơn gió

lạ trên văn đàn. Tản Đà đã đưa cái tôi phơi bày ra trước mặt mọi người. Cái

tôi của Tản Đà là sản phẩm của xã hội VN đang tư sản hóa, có tính chất phản

phong, nhưng tư sản hóa không đầy đủ ý thức về cá nhân chưa hoàn chỉnh.

Cái tôi ấy có tính chất cận đại nhưng vẫn mang đậm nét cái tôi của người tài

tử phương Đông ngày xưa. Cái đáng quý trong thơ Tản Đà là sự khẳng định

Page 116: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

cái tôi cá nhân và lòng yêu nước kiểu tài tử. Tản Đả đã góp phần đẩy nền

móng cho nền thi ca mới, dẫu ông chưa phải là một nhà thơ mới đích thực:

Đờn là đờn

Thơ là thơ

Thơ thời có chữ, đờn có tơ

Nếu không phá cách vứt điệu luật

Khó cho thiên hạ đến bao giờ!

Bá Nha xa

Lý Bạch khuất

Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách

Thơ có chữ, đờn có tơ

Đàn thời ngơ ngẩn, thơ vẩn vơ

Tài tử văn nhân nhường rứa rứa

Bút huê ngao ngán bận đề thơ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời

1900 – 1930, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội,1988

2. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú: Lịch sử văn học Việt Nam, Tập IVb,

NXB Giáo dục, 1978

3. Nguyễn Khắc Xương: Tản Đà tuyển tập, NXB Văn học, Hà Nội, 1986

4. Tầm Dương: Tản Đà khối mâu thuẫn lớn, Tái bản lần thứ 1,

NXB.Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, TP.HCM, 2003

CÂU HỎI

1. Tại sao nói Tản Đà là người tài tử trong xã hội tư sản?

2. Những cách tân nghệ thuật trong thơ Tản Đà (thể thơ, giọng điệu,

hình tượng, ngôn ngữ…)

Page 117: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

THƯ MỤC THAM KHẢO CHUNGSách, giáo trình chính:

1. Đoàn Lê Giang (2009), Văn học Việt Nam từ đầu TK XX đến 1932,

Đề cương bài giảng

2. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn

giao thời 1900-1930, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội

3. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú (1978): Lịch sử văn học Việt Nam,

Tập 1V, Nxb. Giáo dục, Hà Nội

Tài liệu tham khảo:

3. Hồ Biểu Chánh: Một số tiểu thuyết của trước năm 1930: Ai làm được,

Chúa Tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời, Một chữ tình, Nhân tình ấm lạnh, Tiền

bạc bạc tiền, Ngọn cỏ gió đùa, Khóc thầm, Con nhà nghèo…

4. Nguyễn Huệ Chi (1989), Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, NXB Văn

học, Hà Nội

5. Tầm Dương (2003), Tản Đà khối mâu thuẫn lớn, Tái bản lần thứ 1,

NXB.Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, TP.HCM, 2003

6. Đoàn Lê Giang: Văn tuyển văn học Việt Nam 1900–1932, Đại học

Quốc gia TP.HCM,

7. Dương Quảng Hàm (1967): Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia

Giáo dục (tái bản lần thứ 10), Sài Gòn

8. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi và nhiều người khác (2004), Từ điển

văn học (Bộ mới), NXB. Thế giới, Hà Nội, Hà Nội

9. Nguyễn Khuê (1998), Chân dung Hồ Biểu Chánh, NXB.TP.Hồ Chí

Minh, tái bản, TP. Hồ Chí Minh

10. Huỳnh Lý, Hoàng Ngọc Phách (1983), Thơ Phan Chu Trinh,

NXB.Văn hóa thông tin, Hà Nội.

Page 118: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

11. Cao Xuân Mỹ sưu tầm và tuyển chọn (1998), Truyện dài đầu tiên và

tuyển tập các truyện ngắn Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu - thế kỉ XX, NXB.Văn

nghệ TP. Hồ chí Minh Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh.

12. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ cách mạng Việt Nam, NXB Văn học,

HN

13. Lữ Huy Nguyên (1984), Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải, NXB Văn

học, Hà Nội

14. Nhiều tác giả (2006), Hồ Biểu Chánh – người mở đường cho tiểu

thuyết Việt Nam hiện đại, NXB. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh

15. Nhiều tác giả (1976), Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ

XX, NXB Văn học, Hà Nội

16. Nhiều tác giả (1985), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập IV (1858 –

1920), NXB Văn học, Hà Nội

17. Hoàng Ngọc Phách (1988), Tố Tâm, NXB Văn nghệ và Hội nghiên

cứu giảng dạy Văn học TP Hồ Chí Minh

18. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Nxb. Tân Dân, Hà Nội,

1942. NXB. Văn học và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. HCM (tập

1 –tái bản)

19. Nguyễn Trọng Quản (1987), Truyện thầy Lazaro Phiền (in ronéo),

Nguyễn Văn Trung giới thiệu, ĐHSP TP.Hồ Chí Minh,

20. Hoài Thanh, Hoài Chân (2000), Thi nhân Việt Nam 1932 – 1941, tái

bản, NXB.Văn học,

21. Nguyễn Q.Thắng (2006), Huỳnh Thúc Kháng – con người và thơ

văn (1876 – 1947), NXB.Văn học, Hả Nội,

22. Chương Thâu (1967), Văn thơ Phan Bội Châu, NXB.Văn học, Hà

Nội.

23. Chương Thâu, Trần Ngọc Vượng (2007), Phan Bội Châu – về tác

gia và tác phẩm, tái bản, NXB.Giáo dục, Hà Nội

Page 119: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

24. Chương Thâu (2007), Phan Châu Trinh – về tác gia và tác phẩm,

NXB.Giáo dục, Hà Nội,

25. Nguyễn Trọng Thuật (1974), Quả dưa đỏ, Yiểm Yiểm xuất bản, Sài

Gòn

26. Lê Thước (1959), Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền, NXB.Văn hoá, Hà

Nội.

27. Nguyễn Văn Trung (1972), Chủ đích Nam Phong, Nam Sơn xb, Sài

Gòn

28. Nguyễn Văn Trung (1975), Trường hợp Phạm Quỳnh, Nam Sơn xb,

Sài Gòn

29. Nguyễn Khắc Xuyên (2002), Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong,

NXB.Thuận Hóa – Trung tâm Ngôn ngữ Đông tây (tái bản)

30. Nguyễn Khắc Xương (1986): Tản Đà tuyển tập, NXB. Văn học, HN

MỤC LỤCBài 1: Văn học yêu nước của các sĩ phu Duy tân

1. Phong trào duy tân đầu TK.XX

2. Tư tưởng yêu nước mới của các sĩ phu duy tân

Bài 2: Phan Bội Châu

1. Cuộc đời

2. Phan Bội Châu, ngọn cờ đầu của thơ văn yêu nước đầu TK.XX…

3. Hình tượng người chí sĩ duy tân

4. Nghệ thuật thơ văn Phan Bội Châu

Bài 3: Nền văn học mới xuất hiện ở đô thị

1. Sự ra đời của nền văn học mới

2. Tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách

Page 120: TẬP BÀI GIẢNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx  · Web viewtẬp bÀi giẢng vĂn hỌc viỆt nam ĐẦu thẾ kỶ xx – 1932. tẬp bÀi giẢng. vĂn

3. Những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết Tố Tâm

Bài 4: Hổ Biểu Chánh

1. Cuộc đời và sự nghiệp

2. Một thế kỷ nghiên cứu và tiếp nhận thơ văn Hồ Biểu Chánh

3. Nội dung tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh

4. Ngôn ngữ và nhân vật

Bài 5: Phạm Quỳnh và nhóm Nam phong tạp chí

1. Lược sử đánh giá Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí

2. Nam Phong tạp chí

3. Nhóm Nam Phong tạp chí

4. Phạm Quỳnh trong Nam Phong tạp chí

Bài 6: Tản Đà

1. Cuộc đời

2. Cái tôi trước cuộc đời

3. Tư tưởng yêu nước trong thơ văn Tản Đà

4. Những cách tân nghệ thuật trong thơ văn Tản Đà

Thư mục tham khảo chung

---//---

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH VÀ NHÂN VĂN TP.HCM

KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ

TẬP BÀI GIẢNG

VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932

Tác giả: Đoàn Lê Giang – Phan Mạnh Hùng

TP.HCM 2009