tẬp bÀi giẢng - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...1932.docx · web viewtẬp bÀi...
TRANSCRIPT
TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932
TẬP BÀI GIẢNG
VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932
Tác giả: Đoàn Lê Giang – Phan Mạnh Hùng
MỤC TIÊU MÔN HỌC
1. Kiến thức:
– Nắm được những kiến thức cơ bản nhất về văn học giai đoạn này:
tác giả, tác phẩm, phong cách nghệ thuật chủ yếu
– Những vấn đề chung của văn học giai đoạn này: nội dung cơ bản,
quy luật vận động, hình thức và đặc trưng thẩm mỹ của các thể loại văn học
2. Kỹ năng:
– Biết ứng dụng vào nghiên cứu các tác giả, tác phẩm văn học cận đại.
Biết trình bày bằng bài viết, bằng cách thuyết trình kết hợp với power point
những vấn đề thuộc về văn học cận đại.
3. Thái độ
– Yêu mến, tự hào về văn học dân tộc
– Có hiểu biết đúng đắn về những đặc tính của văn học dân tộc.
– Yêu mến công tác nghiên cứu, giảng dạy văn học dân tộc.
Bài 1. VĂN HỌC YÊU NƯỚC TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX (1900 – 1930)1. PHONG TRÀO DUY TÂN ĐẦU THẾ KỶ 20
1.1. Các nhà nho trẻ đến với Tân thư
1.1.1 Số phận lịch sử của nhà nho trong đêm trước của thời cận đại:
Cho đến cuối thế kỷ 19, nhà nho đứng trước sự diệt vong về phương
diện lịch sử. Họ bị phân hóa dữ dội:
Một số đầu hàng, làm quan, làm công cụ văn hóa của ngoại xâm:
Hoàng Cao Khải viết thư dụ hàng Phan Đình Phùng, trong thư ông ta ca ngợi
sự nghiệp và đạo đức của thực dân Pháp; Lê Hoan: mở cuộc thi Vịnh Kiều để
đánh lạc hướng các nhà nho không để ý đến “Quốc sự” nữa; Phạm Quỳnh:
nhà nho kiêm Tây học, mở báo quốc ngữ theo chủ trương của mật thám
Pháp.
Một số thì đi vào con đường hưởng thụ như Chu Mạnh Trinh, Dương
Khuê, Dương Lâm. Họ không còn đại diện cho sức sống và lương tri của dân
tộc nữa.
Một số lui về ẩn dật như Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
Nguyễn Thượng Hiền…Thế nhưng trong nền kinh tế tự nhiên, họ có thể ẩn
dật được, còn trong nền kinh tế hàng hóa (tư sản) thì không thể. Chính quyền
thực dân thọc sâu xuống tận làng xã, nhà nho bị hất ra ngoài, họ cố gắng
sống đạo nghĩa cũng không được.
Nguyễn Khuyến sống như một lão nông ở làng quê trong sự dằn vặt và
đầy mặc cảm. Tú Xương trở thành nho sĩ – thị dân hóa. Nguyễn Thượng Hiền
thì đi theo con đường duy tân, làm cách mạng đánh đuổi thực dân Pháp. Rõ
ràng trong xã hội tư sản hóa, nhà nho không còn đất sống. Vì thế trong thơ
văn của họ đầy những tiếng than thở, hoài cổ, nuối tiếc dĩ vãng.
1.1.2. Thế hệ nhà nho trẻ gặp nhau ở Huế:
Đồng Khánh rồi Thánh Thái mở khoa thi để chấn an tinh thần. Các nhà
nho khắp nơi đều xuất thân từ các nôi của phong trào Cần Vương:
Nghệ Tĩnh (xứ sở của phong trào Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn)
có Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế…
Quảng Nam (Nghĩa hội của Lê Duy Hiệu, Nguyễn Trung Đình) có Phan
Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…
Thanh Hóa (“Khởi nghĩa Bãi Sậy” của Nguyễn Thiện Thuật) có Nguyễn
Thượng Hiền (lúc bấy giờ đang ở cạnh Quốc Tử Giám).
Quốc Tử Giám trở thành nơi tập trung những trí thức thông minh nhất
nước. Họ tự coi mình là những người kế tục các bậc đàn anh đã ngã xuống.
1.1.3. Các nhà nho trẻ đến với Tân thư:
– Trước thế kỷ 20: Trí thức Việt Nam ít nhiều đã biết đến sách báo theo
quan niệm khoa học phương Tây được viết bằng chữ Hán như:
Khôn dư đồ thuyết (Nói về địa dư trên trái đất) của Ferdinandus
Verbiest người Bỉ (1623–1688)
Dinh hoàn chí lược (Ghi chép về thế giới): sách giới thiệu về ranh giới,
hình thể, sản vật của các nước khắp 5 châu. Sách có 10 quyển do Từ Kế Dư
đời Thanh biên soạn.
Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư (Sách viết về những điểm mạnh yếu
của các nước trong thiên hạ).
Bác vật tân biên (Ghi chép mới về vạn vật)
Hàng hải kim châm (Chỉ nam về hàng hải)
Những sách trên Lê Quí Đôn, Cao Bá Quát, Nguyễn Thông…đều ít
nhiều đã biết tới nhưng chưa trở thành tư tưởng cách mạng. Nguyễn Trường
Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đọc và dẫn họ đến với tư tưởng canh tân.
– Điều trần và những bài luận của các nhà canh tân:
Nguyễn Trường Tộ với hơn 60 điều trần khác nhau.
Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch được Nguyễn Thượng Hiền
bí mật lưu giữ rồi đưa cho Phan Bội Châu. Huỳnh Thúc Kháng đọc.
– Sách báo cách mạng của Khang, Lương Trung Quốc, sách Nhật Bản
và các sách phương Tây:
Sách giới thiệu về châu Âu và thế giới
Sách báo Duy tân của Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi), Đại Ôi
Trọng Tín (Okuma Shigenobu) Nhật Bản
Khang Hữu Vi, Lương Khai Siêu “văn lâm li bi thống” được coi là những
bậc thánh mới
* Những điều trên cho thấy:
– Tư tưởng cách mạng tư sản được truyền vào Việt Nam qua con
đường Trung Hoa, vừa dễ tiếp nhận, lại được Trung Hoa hóa khá nhiều.
– Nhà nho chứ không phải giai cấp tư sản tiếp nhận tư tưởng ấy.
– Tư tưởng cách mạng tư sản được các trí thức nước ta tiếp thu là từ
yêu cầu giải quyết vấn dân tộc, chứ không phải từ yêu cầu giải quyết vấn đề
xã hội nên có những sắc thái đặc biệt.
1.2. Sự phân hóa sĩ phu thành hai xu hướng chính trị:
Bạo động (thiết huyết): Nghệ Tĩnh (Phan Bội Châu)
Duy tân: Bắc bộ (Đông Kinh nghĩa thục), Nam trung bộ (Phan Chu
Trinh).
Nhưng có điểm chung nhau là đều phải duy tân: khai dân trí, Chấn dân
trí, Hậu dân sinh.
Phó bảng Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền cắt tóc ngắn:
Phen này cắt tóc đi tu
Tụng kinh Độc Lập, ở chùa Duy Tân
Đêm ngày khấn vái ân cần
Cầu cho ích nước lợi dân mới là
Tu sao mở trí dân nhà
Tu sao độ được nước ta phú cường.
Nguyễn Quyền, Phen này cắt tóc đi tu
Trở thành cuộc vận động văn hóa: cắt tóc ngắn cùng với phong trào
vận động học chữ quốc ngữ.
1905 Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật.
1905 Phó bảng Phan Chu Trình, Hoàng giáp Trần Quý Cáp, Tiến sĩ
Huỳnh Thúc Kháng làm cuộc Nam du, ngang Bình Đinh đến trường thi bèn
giả dạng làm thí sinh đi thi để vận động chống văn chương bát cổ, kêu gọi
duy tân.
Thơ: chí thành thông thánh (Phan Chu Trinh)
Phú: Lương ngọc danh sơn phú (Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng)
Các chí sĩ ký tên là Đào Mộng Giác, truyền bá bài thi theo kiểu truyền
đơn, bị chính quyền truy nã.
Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền đem thi tập chữ Hán ra đốt.
* Tất cả các hành động trên cho thấy các nhà nho trẻ đã làm một cuộc
đoạn tuyệt với quá khứ để đi đến với một cuộc cách mạng mới.
2. TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC MỚI CỦA CÁC SĨ PHU DUY TÂN
2.1. Đoạn tuyệt với quá khứ:
2.1.1. Thế giới quan Nho giáo:
Cũ: Thuyết âm dương, ngũ hành tương sinh tương khắc:
Thủy – Hỏa – Mộc – Kim – Thổ
Bắc – Nam – Đông – Tây – Trung ương
Tương sinh: Thủy -> Mộc -> Hỏa -> Thổ -> Kim -> Thủy
Tương khắc: Thủy <-> Hỏa <-> Kim <-> Mộc <-> Thổ <-> Thủy
Mới: Vật lý, Hóa học, Thiên văn học, Triết học phương Tây.
2.1.2. Lịch sử quan:
Cũ: Lịch sử diễn biến tuần hoàn: “Thinh suy”, “bĩ thái”, “phế hưng”, “trị
loạn”, với khuynh hướng xưa hơn nay, đạo càng ngày càng xuống.
Động của lịch sử là đạo đức.
Mới: Thuyết tiến hỏa luận của Darwin, Văn minh luận.
Động lực: khoa học kỹ thuật.
2.1.3. Chính trị quan:
Cũ: Nội hạ ngoại di, Quý vương tiện bá, Sĩ nông công thương
Mới: Văn minh phương tây, kinh doanh kiếm lời và ganh đua trên
trường quốc tế.
Cáo hủ lậu văn tấn công trực diện vào học thuật, tư tưởng của nhà nho:
Hỏi ông tu những đường mô
Ông rằng: Tu những làng nho đã thừa
Hỏi ông: mộ những gì ư
Ông rằng mộ những người xưa là thầy
Điềm trời không dở không hay
Ông rằng sự rủi sự mau tại trời
Đường đi tinh nhật hai ngôi
Hấp ly (lực hấp dẫn) sao thế, ông thời u ti
Trái đất là tròn là đi
Ông rằng vuông đấy, đứng kia thường thường
Phiên Thành, Thượng Hải một phương
Bụng lưng đâu tá, ông giương mắt chầu
Hỏi rằng dây thép sao mau
Ông rằng khí học cũng mầu mà thôi
Kìa như dây sắt roi lôi
Nào ai bày đặt mọi ngôi cho đành
Hỏi rằng xe khí sao nhanh
Ông rằng nghe máy cũng lãnh mà thôi
Kìa như lửa ống nước nồi
Kìa ai bày xét đến nơi nhiệm mầu
Năm châu tên gọi hay đâu
Lại chê người rợ, mà rằng ta hoa
Mắt dòm chính học chửa ra
Mà chê người bá, mà nhà ta vương
Có người đau đáu lòng thương
Mắng rằng trái thế còn đương lỗi thời
Có người học sách Tây kia
Cười rằng trở đạo mà lìa năm kinh.
2.1.4. Nhân sinh quan
Yêu nước gắn liền với tư tưởng tôn quân:
Nước của vua
Nước đại diện bằng triều đại
Dân là dối tượng cai trị
Nguyễn Trãi: vượt lên bằng tư tưởng thân dân: Dân là chủ thể là sức
mạnh của nước và là đối tượng phục vụ của kẻ sĩ, nhưng vẫn trong thế tam vi
nhất thế: vua – dân – nước
Cuối trung đại, tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu: Càng yêu nước càng
quay về đạo nghĩa.
Một nhân vật trung tâm của xã hội phong kiến: con người trung nghĩa–
nhà nho
Dan Nuoc
Vua
Thực tế lịch sử: vua đầu hàng, phải vận động nhân dân, nho giáo và
nhà nho lạc hậu phản động cản trở phong trào giải phóng dân tộc
Phủ định:
Vua: Phan Bội Châu: “Mãn triều Trung Quốc và Nguyễn triều Việt Nam
cũng là phường chó chết như nhau cả “ (Phan Bội Châu niên biểu)
“Non sông thẹn với nước nhà
Vua là tượng gỗ dân là thân trâu”
(Á Tế Á ca)
Phan Chu Trinh: “Vua là người lấy quyền công làm quyền tư, lấy đất
người làm đất mình” (Đạo đức và luân lí đông tây)
Các sĩ phu đã làm việc cáo chung cho nhân vật chính của thời phong
kiến với đạo đức và cách sống:.
Văn tế sống thầy đồ hủ
Cung duy các cụ, Hủ Lậu tiên sinh
Người cụ cổ lỗ, tính cụ hiền lành
Quần cụ cháo lòng hề sạch khiếp
Áo cụ nước xuýt hề trắng tinh
Nay Tam hoàng, mai Ngũ đế
Trước Tứ truyện, sau Ngũ kinh
Chỉ lo về nhà nước bỏ thi, thiên hạ không ai chịu học
Ai nói chuyện tân học tân văn, cụ ghét hơn người đầu thuốc độc;
Ai dùng câu cổ thi, cổ học, cụ mừng hơn trẻ được cái đinh
Than ôi!
Tự do không hay, bình đẳng không hay, chó chết hoàn phường
chó chết.
Ngôn luận chẳng biết, tân văn chẳng biết, quần manh lại vẫn
quần manh.
– Kêu gọi một cách sống mãnh, liệt tung hoành hồ hải:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhức
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu tụng cũng hoài
(Xuất dương lưu biệt)
Chí thành thông thánh
Thế cuộc hồi đầu dĩ nhất không,
Giang sơn vô lệ khốc anh hùng.
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
Trường thử bách niên cam thóa mạ
Bất tri hà nhật xuất lao lung.
Chư quân vị tất vô tâm huyết,
Bằng hướng tư văn khán nhất thông.
(Việc đời ngoảnh lại còn chi
Anh hùng hết nước mắt vì giang san
Muôn dân nô lệ một đàn
Văn chương bát cổ nồng nàn giấc say
Trăm năm cam chịu đọa đày
Thì bao giờ mới hết ngày lao lung
Các anh tâm huyết nào không
Bài này hãy thử xem cùng đầu đuôi
(Phan Võ dịch)
2.2. Xác lập tư tưởng yêu nước mới
2.2.1. Người Quốc dân
– Dân là chủ nước:
“ Dân ta là chủ nước non” (Gọi hồn quốc dân – Phan Bội Châu)
– Người quốc dân:
Phan Bội Châu:
Tiện đầy cật dạ mấy lời
Lại xin tỏ giãi cùng người quốc dân.
(Hải ngoại huyết thư)
Không giống phong kiến: thần dân, phận thần tử
Không giống tư sản: chỉ có công dân, đó lả sản phẩm của cách mạng
tư sản – cách mạng dân quyền và dân quyền, coi cá nhân là đơn vị chủ thê
xã hội, có quyền tự do, hưởng phúc và mưa cầu hạnh phúc, có quyền bình
đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi từ pháp luật
Cá nhân trong đời sống chính trị: con người công dân:
“Chúng ta coi những chân lý sau đây là hiển nhiên: tất cả mọi người
sinh ra đều bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong
đó là quyền sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; để bảo
đảm những quyền này người ta lập ra những chính phủ nắm quyền lực chính
đáng do sự đồng ý của những người bị trị, khi một hình thức cai trị nào đó tỏ
ra làm thiệt hại đến những mục đích đó, thì nhân dân có quyền thay đổi hình
thức đó hay bãi bỏ nó đi và lập ra chính phủ mới và đặt cơ sở của nó trên
những nguyên tắc tổ chức quyền lực của nó dưới hình thức mà họ thấy là
thích hợp nhất để đảm bảo an ninh và hạnh phúc của họ.” (Tuyên ngôn Độc
lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776)
Người quốc dân không phải là thần dân cũng thông phải là công dân.
Họ ý thức về cá nhân không đủ. Họ không ý thức thành viên gia đình, làng xã
bờ cõi, mà là người dân của nước. Họ không đạt vấn đề tự do, bình đẳng mà
đặt vấn đề dân tộc, đất nước. Số phận gắn liền với dân tộc, làm theo nghĩa,
không nói đền quyền lợi.
– Nghĩa đồng bào:
Vua bỏ nước bỏ dân phải tự nhiệm – lấy gì để liên kết dân, duy trì đất
nước. Các sĩ phu dùng khái niệm Nghĩa đồng bào (Đồng tông – đồng hương
– đồng bào)
2.2.2. Nước
Nước, theo quan niệm của các sĩ phu là địa bàn sinh tụ của một dòng
giống, Nước là gia tài, cơ nghiệp của cha ông để lại phải có trách nhiệm bảo
vệ nó để truyền cho con cháu mãi mãi:
– Trời Nam xanh ngắt bao la
Ngàn năm cơ nghiệp ông cha còn gì
– Nghìn muôn ức triệu người chung góp
Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà
Khác với phong kiến: Nước là của vua, khác với tư sản: Ngôn ngữ, thị
trường, khế ước xã hội. Có tính trung gian.
Hồn nước:
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn
Khói tuôn khí uất, sóng cuốn trận đau
Hải ngoại huyết thư – Phan Bội Châu
Hồn cố quốc biết đâu mà gọi
Thôi khóc than rồi lại xót xa.
Trời Nam xanh ngắt bao la
Ngàn năm cơ nghiệp ông cha còn gì
Gọi hồn quốc dân – Phan Bội Châu
Hồn ơi, về với giang san
Muôn người muôn tiếng hát ru câu này
Hợp muôn sức ra tay quang phục
Quyết có phen rửa nhục bảo thù
Ái quốc – Phan Bội Châu
Nhìn ra thế giới cũng vậy:
Mở rộng theo quan niệm gia đình
Nho – phi Nho: đồng hóa tư tưởng mới theo quan điểm nho giáo
“Chi Na chung một họ hàng
Xiêm La, Nhật Bản cùng làng á Đông”
Chủng tộc, văn hóa – Đồng chủng, đồng văn
2.2.3. Yêu nước phải Duy tân
Trước yêu nước là tôn quân, càng yêu nước càng rút về đạo nghĩa –
phản động. Cải cách ra đời Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch bị chống
đối kịch liệt
Nay không Duy tân không cứu được nước. Chống đế quốc và chống
phong kiến kết hợp lại
Nhà nho phải làm cách mạng tư sản: nghĩa, vấn đề dân tộc, không đầy
đủ và hạn chế
Khai dân trí: Thực học (KHKT phương Tây, lịch sử, địa lý nước ta),
học chữ quốc ngữ
– Chữ quốc ngữ là hồn của nước
Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau
– Học nông cổ, học làm cơ khí
Đủ trăm đường công kỹ tinh thông
Vì đem giống tốt quăng trồng
Gặp thời ta lại tranh công thợ trời
(PBC: Gọi hồn quốc dân)
Chấn dân khí: Đoàn kết đấu tranh với chính quyền:
Năm mươi triệu đồng bào đua sức
Năm mươi nghìn giống khác được bao!
Cùng nhau bên ít bên nhiều,
Lọ là gươm sắc súng kêu mới là
Cốt trong nước người ta một bụng
Nghìn muôn người cùng giống một người
Phòng khi sưu thuế đến nơi
Bảo nhau không đóng nó đòi được chăng…
PBC: Hải ngoại huyết thư
Hậu dân sinh:
“Hợp quần doanh sinh thuyết: Buôn bán hợp cổ”
Công ty nước mắm Liên Thành ở Phan Thiết do Nguyễn Trọng Lội
đứng đầu, Nguyễn Thượng Hiền đi buôn:
Việc tân học kíp đem dựng trước
Hợp doanh đoàn cả nước cùng nhau
Việc buôn ta lấy làm đầu
Mọi người cùng gánh địa đầu một vai
Á Tế Á Ca
Thực nhân tài:
Công thương đã nên giàu nên có
Của học tự lấy đó mà nuôi
Có nuôi sĩ mới nên tài
Công tài cũng chăng ở ngoài sĩ lâm
Học nông cổ, học làm cơ khí
Đủ trăm đường công kỹ tinh thông
Vì đem giống tốt quăng trồng
Gặp thời ta lại tranh công thợ trời.
(Gọi hồn quốc dân)
2.3. Văn học với sự nghiệp Duy tân, cứu nước:
Dồn mọi cố gắng vào việc làm nghệ thuật có ích. Nhận thức lại kẻ thù
(chủ quyền, văn hóa, họa diệt chủng)
Quyền lợi kinh tế:
Việc dây thép việc tâu việc pháo
Việc luyện binh việc giáo học đường
Việc kỹ nghệ việc công thương
Việc khai mỏ quặng, việc đường hỏa xa
Khắp các việc chẳng qua người nước.
Á Tế Á ca
Nhục mất nước:
20 triệu dân cùng của hết
40 năm nươớc mất quyền không
Thương ôi công nghiệp tổ tông
Nước tanh máu đỏ non chổng thịt cao
Non nước ấy biết bao máu mủ:
Nỡ nào đem nuôi lũ sải lang
Cờ ba sắc xứ Đông dương
Trông càng thêm nhục nói càng thêm đau.
Bóc lột nặng nề:
Trăm thứ thuế thuế gì cũng ngặt
Rút chặt dần như thắt chỉ xe.
Dân tộc bị khinh miệt:
Nó coi mình như trâu như chó
Nó coi mình như cỏ như rơm.
Phê phán toàn dân tộc:
Nước ta mất bởi vì đâu
Tôi xin kể hết mấy điều tệ nhân:
Một là vua sự dân chẳng biết
Hai là quan chẳng thiết gì dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc mặc thần với ai.
Vua:
Trên chín bệ ngôi thần tự chủ
May thừa cơ giấc ngủ ly long
Giang sơn mặc sức vẫy vùng
Muôn người luồn cúi trong vòng phúc uy.
Các sĩ phu duy tân đã dùng văn chương đe phê phán toàn bộ dân tộc.
Đây lả lần đầu tiên trong văn chương Việt Nam dân tộc ta có một sự tự phán
gay gắt như thế. Văn chương đã được dùng ngoài chức năng thông thường
của nó. Văn chương của các sĩ phu duy tân vừa là phương tiện ghi lại tâm
tính, khát khao yêu nước cháy bỏng của họ; lại vừa là sách giáo khoa lịch sử,
xã hội, kinh tế, vừa là cương lĩnh cách mạng, lại vừa là truyền.đơn, tải liệu
tuyên truyền cách mạng. Đây thực sự là một hiện tượng mới mẻ trong văn
học dân tộc.
* TIỂU KẾT
Phong trào duy tân không chỉ là một cái mốc quan trọng trong lịch sử
cận đại Việt Nam mà còn là một cái mốc quan trọng trong văn học cận đại
Việt Nam. Thơ văn của các sĩ phu trong phong trào ấy đã xác lập một tư
tưởng yêu nước mới có tính chất dân chủ tư sản. Tư tưởng dân chủ tư sản
được nhà nho tiếp nhận, thông qua sách báo Trung Quốc và xuất phát từ nhu
cầu giải phóng dân tộc nên đã bị khúc xạ khá lớn, tạo ra những điểm đặc sắc
riêng. Hình tượng trung tâm của văn học yêu nước lả người sĩ phu duy tân:
người sĩ phu xuất thân từ môi trường Nho giáo nhưng nhận thức được sự lạc
hậu của tri thức nho giáo, từ đó đã dẫn đến sự phủ định Nho giáo - một cuộc
phủ định đau đớn, day dứt và còn nhiều quyến luyến vì đó là sự phủ đinh
chính mình, phủ định một nền học thuật đã từng có một thời là toàn bộ tri thức
của dân tộc. Người sĩ phu duy tân đã vươn qua chính mình, vượt qua sự chật
hẹp của một thế giới xưa cũ, tung mình trong một thế giới mới lạ: thế giới năm
châu. Đó là những nét đẹp, nét bi hùng trong giai đoạn văn học mở đầu cho
thề kỷ XX đầy biền động nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tràn Đình Hươu, Lê Chí Dũng: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900 – 1930, – NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1 988.
2. Đặng Thai Mai: Văn thơ cách mạng Việt Nam, NXB Văn học Giải
phóng, 1976.
3. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú: Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 1VB,
NXB GD
4. Nhiều tác giả: Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ NXB Văn
học, Hà Nội, 1976.
5. Nhiều tác giả: Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập IV (1858 – 1920) và
tập V (1920 – 1945), quyển I, NXB Văn học, Hà Nội, 1985 – 1987.
6. Đoàn Lê Giang: Văn tuyển văn học Việt Nam 1900–1932, Đại học
Quốc Gia TP.HCM
7. Đoàn Lê Giang: “Ai là tác giả đích thực của bài á Tế á ca?” Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 4/2008, website: http://khoavanhoc–ngonngu.edu.vn
CÂU HỎI
1. Giữa chủ trương Bạo động và chủ trương Duy tân, chủ trương nào
đúng đắn hơn?
2. Đọc Văn minh tân học sách, Cáo hủ lậu văn, cho biết các sĩ phu duy
tân đã phủ nhận tư tưởng, học thuật Nho giáo như thế nào?
3. Phân tích nội dung tư tưởng yêu nước mới của các sĩ phu duy tân.
Bài 2. PHAN BỘI CHÂU (1867 – 1940)1. CUỘC ĐỜI
1.1. Xuất thân từ môi trường Hán học
Tên lúc nhỏ là Phan Văn San, hiệu Hải Thụ, về sau lấy hiệu là Sào
Nam (với ý nhớ nước cũ: “Hồ mã tê sóc phong, Việt điểu sào nam chỉ”– Ngựa
Hồ hi gió bắc, Chim Việt làm tổ cành nam). Quê ở làng Đan Nhiễm, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Thuở nhỏ rất thông minh. 6 tuổi đã theo cha đi học, 3 ngày học thuộc
cuốn Tam tự kinh. Bảy tuổi là hiểu biết kinh truyện, có thể nhại theo sách của
Khổng Tử, viết đùa sách “Phan tiên sinh chi luận ngữ”
16 tuổi đi khảo hạch đứng đầu xứ, người ta gọi là Đầu Xứ San. Ông đã
sớm có lòng yêu nước.
1.2. Nhà nho yêu nước dưới ngọn cờ Cần vương
Năm 17 tuổi (1884) được tin ở Bắc kỳ, nghĩa binh nổi dậy, Phan Bội
Châu nửa đêm khêu đèn thảo hịch Bình Tây thu Bắc rồi đem ra dán ở gốc
cây to đầu làng.
1885 kinh thành Huề thất thủ, hưởng ứng chiếu cần vương của Hàm
Nghi, Phan Bội Châu cũng tổ chức được một đội “thiếu sinh quân” gồm 60
người để ứng nghĩa, nhưng chưa kịp hành động thì đã bị tan rã.
10 năm cuối thế kỷ 19, ông làm thầy đồ dạy học để nuôi cha già, vừa
tìm đọc thêm sách vở tiến bộ như: Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ
Trạch, những đề nghị canh tân đất nước của Phạm Phú Thứ, tân thư từ
Trung Quốc sang, và âm thầm kết giao với các đồng chí.
1900 thi Hương, đỗ thủ khoa trường nghệ, người ta thường gọi là ông
giải San – “Thế là đã có hư danh để che mắt đời”. Cha mất, đạo hiếu đã trả
xong, đến đây ông chính thức tham gia hoạt động cách mạng.
1.3. Nhà chí sĩ duy tân
1904 Lập hội Duy Tân hội, tôn Cường Để làm minh chủ. Chủ trương
của Hội là bạo động vũ trang và nhờ ngoại viện.
1905 Theo kế hoạch hội Duy tân, Phan Bội Châu xuất dương sang
Nhật gặp Lương Khải Siêu. Lương khuyên nên dùng thơ văn để tố cáo tội ác
với thế giới và cổ vũ lòng yêu nước. Ông viết Việt Nam vong quốc sư, Khuyến
quốc dân tư trợ du học văn. Hải ngoại huyết thư, Tân Việt Nam, Sùng bái giai
nhân, Việt Nam quốc sử khảo…
Các chính khách Nhật Bản khuyên đưa người sang du học. Về nước
Phan vận động phong trào Đông du hết sức sôi nổi. Từ 1905 đến 1908 đã
đưa được 200 lưu học sinh sang Nhật học.
1909 Pháp – Nhật cấu kết với nhau, phong trào Đông Du bị giải tán,
nhân bị trục xuất ông trở về ẩn náu ở Trung Quốc, rồi sang Xiêm mở trại cày
Bạn Thầm, viết tuồng Trưng Nữ vương.
1911 Cách mạng Tân Hợi của Tôn Trung Sơn, Phan Bội Châu sang
Trung Quốc tập hợp đồng chí thành lập Việt Nam Quang phục hội, với tôn chỉ
“Đánh đuổi giặc pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước cộng hòa
dân quốc Việt Nam”
1913 Bị bọn quân phiệt Trung Quốc tiếp tay Pháp bắt giam ở Quảng
Châu. Trong tù ông viết Ngục trung thư (1914), Chân tướng quân (viết về
Hoàng Hoa Thám), Nhà sư ăn rau…
1917 ra tù ở Hàng Châu viết báo. Chịu ánh hưởng của Cách mạng
tháng 10 Nga, Phan có khuynh hướng về cách mạng thế giới, tìm hiểu Cách
mạng tháng 10, viết báo ca tụng Lênin và nhà nước công nông. Viết Trùng
quan tâm sử (1918), Tái sinh sinh (truyện), Phạm Hồng Thái (truyện– 1924)
1924 cải tổ Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng.
Gặp Nguyễn Ái Quốc, dự định sẽ cải tổ Việt Nam Quốc dân đảng theo hướng
tích cực nhất.
1925 trên đường từ Hàng Châu về Quảng Châu ông bị thực dân Pháp
bắt cóc đưa về nước. Chúng định thủ tiêu, nhưng bị lộ phải mang ra Tòa đề
hình Hà Nội để xử. Cả nước nổi lên phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu.
Pháp đành phải tha bỗng và buộc cụ phải an trí ở Huế.
1926 Phan Chu Trinh mất, ông viết bài Văn tế Phan Chu Trinh.
1.4. “Ông Già Bến Ngự” – Người cầm bút yêu nước trên diễn đàn văn học công khai
Cách mạng chuyển biến theo hướng khác. Phan Bội Châu tiếp tục viết
báo với tư cách là “ông già Bến Ngự”, để giáo dục quốc dân đồng bào:
– Nam, Nữ quốc dân tu tri
– Thuốc chữa bệnh dân nghèo
– Lời hỏi thanh niên
– Phan Bội Châu niên biểu
– Lịch sứ Việt Nam diễn ca
– Biên khảo: Xã hội chủ nghĩa, Nhân sinh triết học, Khổng học đăng…
2. PHAN BỘI CHÂU, NGỌN CỜ ĐẦU CỦA THƠ VĂN YÊU NƯỚC ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. Tình yêu nước thiết tha nồng cháy:
Bài Hải ngoại huyết thư, bức thư bằng máu và nước mắt gửi cho đồng
bào mình, trinh bày thực trạng đất nước, nguyên nhân mất nước, phương
pháp đấu tranh và kêu gọi đại đoàn kết đứng lên chống Pháp giành lại độc lập
dân tộc.
Mở đầu: Nỗi khổ tâm của người ý thức được nỗi nhục mất nước. Ông
đứng lên cao, nhìn toàn cảnh đất nước. Ngày xưa Nguyễn Trãi, Lê Thánh
Tông đứng ở vị trí cao để làm Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn Lương Thủy phú.
Phan Bội Châu từ nước ngoài nhìn lại toàn cảnh đất nước. Bằng cái nhìn lịch
sử và thời đại, ông đưa ra một quan niệm mới về đất nước với một tình yêu
nước nồng cháy, thiết tha. Đất nước được trả về nguyên vẹn của nó, không
còn bị khuất dưới tư tưởng trung quân:
Lời huyết lệ gửi về trong nước,
Kể tháng ngày chưa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh Thần châu
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ
Trong bài Ái quốc, mở đầu bằng những lời yêu nước cháy bỏng:
Nay ta hát một thiên ái quốc
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta
Trang nghiêm bốn mặt sơn hà
Ông cha ta để cho ta lọ vàng.
Non sông gấm vóc, xinh đẹp:
Hào Đại Hải âm thầm trước mặt
Dải Cửu Long quanh quất miền tây
Một tòa san sát xinh thay
Bên kia Vân, Quảng, bên này Côn Lôn
Vẻ gấm vóc nước non tươi đẹp
Rắp những mong cơ nghiệp dài lâu.
– Đất nước được coi như cơ nghiệp ông cha, dân tộc được nhìn bằng
con mắt nòi giống. Ông nhục vì nỗi nhục mất nước, đau vì nỗi đau mất nước,
giống nòi bị khinh miệt đoạ đày, gia tài công nghiệp của ông cha bị ngoại tộc
giày xéo:
Giống khôn há phải đàn trâu
Giang sơn há để người đâu vẫy vùng
Hai mươi triệu dân cùng của hết
Bốn mươi năm nước mất quyền không
Thương ôi công nghiệp tổ tông
Nước tanh máu đỏ non chồng thịt cao
Non nước ấy biết bao máu mủ
Nỡ nào đem nuôi lũ sài lang
Cờ ba sắc xứ Đông Dương
Trông càng thêm nhục, nói càng thêm đau
Nhục vì nước mà đau người trước
Nông nỗi này non nước cũng oan.
(Ái quốc)
Nước mất, Hồn nước phải bơ vơ. Gọi hồn bằng máu và nước mắt:
Hòn cố quốc ngẩn ngơ ngơ ngẩn
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn
Khói tuôn khí uất sóng cuồn trận đau (HNHT)
Tương tự như vậy trong bài “Gọi hồn quốc dân”:
Hồn cố quốc biết đâu mà gọi
Thôi khóc than rồi lại xót xa
Trời nam xanh ngắt bao la
Nghìn năm cơ nghiệp ông cha còn gì.
(Gọi hồn quốc dân)
Quan niệm mới về đất nước: Nước là cơ nghiệp của một dân tộc–nòi
giống, Dân là chủ nước:
Nghìn muôn ức triệu người chung góp
Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà
Người dân ta của dân ta
Dân là dân nước nước là nước dân
Đoạn sau:
Ta là lũ cháu con một họ
Nước dân ta là của gia tài
Chữ rằng: Tổ nghiệp lưu lai
Của ta ta giữ chắc ai giữ cùng
Quan hệ giữa dân với nhau là họ hàng:
Năm mươi triệu số người trong nước
Ai chẳng là chú bác anh em
Lòng nào ghét bỏ cho cam
Yêu nhau thì phải tính làm sao đây.
Cùng với ái quốc, ông còn viết ái quần, ái chủng
Đất nước có lịch sử lâu đời. Khơi dậy niềm tự hào về lịch sử dân tộc:
Mà xem gương truyện xưa kia
Kể công trùng vũ ai bì được đâu
Nó thuở trước đánh Tàu mấy lớp
Cõi trời nam cơ nghiệp mở mang
Sông Đằng lớp sóng Trần vương
Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê
Quang Trung từ khi độc lập
Khí anh hùng đầy lấp giang sơn
Lòng trời mở rộng nước non
Ta nay may vẫn hay còn nước ta
* Lưu ý: Quang Trung được coi là anh hùng chứ không phải giặc –
Khác quan niệm chính thống, vì dựa trên quan điểm đất nước chứ không phải
nho giáo.
* Hãy còn nước ta. Khác quan niệm nhà nho: không đánh đồng triều đại
với nước, không cho Pháp là “Tân trào”.
Đất nước được hình thành từ công sức của bao thế hệ, là gia tài của
ông cha để lại, nên nó gắn bó như máu như thịt, có gì đó rất linh thiêng,
người nước ngoài khó có thế hiểu được điều này:
Trải mấy lớp tiền vương dựng nước
Bốn ngàn năm dãi gió dầm mưa
Biết bao công của người xưa
Gang sông, tấc núi, dạ dưa, ruột tằm
(Ái quốc)
2.2. Tố cáo tội ác của thực dân Pháp:
– Cướp nước, mất chủ quyền, dân tộc bị đày đoạ và khinh miệt
“Từ khi quân giặc khác giống phá kinh thành nước ta, cướp quốc quyền
của chúng ta đến nay, vua thì bị giam cầm như tù đày, dân thì bị đánh đập
như trâu ngựa. Tất cả mọi quyền hành lớn nhỏ đều nằm trong tay quân giặc
khác nòi” (Hòa lệ cống ngôn)
– Về phương diện kinh tế: thuế khóa, vơ vét mạch sống của dân ta
– Hoạ diệt chủng: được nhìn từ con mắt dân tộc, nòi giống và chủng
tộc:
“Cái dã tâm của giặc như hổ ngoạm tằm ăn, không thể kể xiết. Nhưng
cái chính là cướp cái mạch sống của chúng ta. Chính phủ giặc đánh thuế
chúng ta đến muôn ngàn thứ, quân buôn của giặc cướp lợi quyền của chúng
ta đến ức triệu đường” (Hòa lệ cống ngôn)
So sánh với:
Cáo Bình Ngô và văn học cuối thế kỷ 19:
– Cướp chủ quyền:
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
– Phu phen tạp dịch:
Kẻ bị ép xuống biển ròng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập
thuồng luồng;
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng khốn nỗi rừng sâu nước độc.
– Giết người cướp của:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn; Vùi con đỏ xuống hầm
tai vạ”
(Bình Ngô đại Cáo)
“Phạt Cho đến người hèn kẻ khó thâu của quay treo;
Tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.
Kể mười mấy năm trời khốn khó bị khảo bị tù bị giết, trẻ già nghe
nào xiết đếm tên;
Đem ba tấc hơi mỏn bỏ liều hoặc sông hoặc biên hoặc núi hoặc
rừng quen lạ thảy đều rơi nước mắt.
(Nguyễn Đình Chiểu: Văn tế nghĩa dân Lục tỉnh trận vong)
– TK.XV: Tư văn thì giống mà dân tộc lại khác:
“Những kẻ tư văn người đất Việt.
Đạo này nắm nối để cho dài”
(Nguyễn Trãi)
Cuối TK.XIX: đồng nhất đạo thánh với văn hoá dân tộc:
“Sống làm chi theo quân tả đạo quăng vùa hương xô bàn độc thấy lại
thêm buồn; Sống làm chi ở với lính mã tà chia rượu lạt gặm bánh mì nghe
càng thêm hổ.” (Nguyễn Đình Chiểu)
2.3. Đi tìm nguyên nhân mất nước và đề xướng tư tưởng đoàn kết dân tộc
Không phải tai ách nạn trời để cảnh cáo nhà vua, không chỉ vì quân
Pháp mà cái chính là do chính nước ta: Tuy nhiên cách nhìn có vẻ đạo đức,
chứ chưa phải là những phân tích khách quan. Sự phê phán có tính toàn dân
tộc:
Nước ta mất bởi vì đâu
Tôi xin kể hết mấy điều tệ nhân:
Một là vua sự dân chẳng biết.
Hai là quan chẳng thiết gì dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc mặc thần với ai.
Chẳng may lúc thành long, xã lở
Một hai điều trách cứ vua tôi
Còn năm mươi triệu con người
Chỉ quanh quanh đám lợi tài không xong
Hỏi đến nước còn không không biết
Hỏi đến tên Nam Việt không thưa
Gia tài tổ nghiệp mình xưa
Tay đem quyền chủ mà đưa cho người
Đồng tâm – tư tưởng đoàn kết dân tộc:
Bởi lúc trước của chung không giữ
Đến bây giờ sức chửa làm xong
Sao cho cái sức đến cùng
Sức cùng là bởi cái lòng cùng nhau
Năm mươi triệu đồng bào đua sức
Năm mươi nghìn giống khác được bao
Cùng nhau bên ít bên nhiều
Lọ là gươm sắc súng kêu mới là
Đoàn kết: phú hào, quan tước, sĩ tịch, lính tập, Gia–tô, côn đồ, nhi nữ,
bếp bồi, thông ký, cừ gia đệ tử, du học:
Nào những kẻ phú hào trong nước
Nào những người quan tước thế gia
Nào là sĩ tịch bây giờ.
Nào là lính tập, nào là Gia–tô
Nào những kẻ côn đồ nghịch tử
Nào những người nhi nữ anh si
Bếp bồi thông ký chi chi
Cừu gia đệ tử nào thì những ai
Ấy kể đến những người trong nước
Còn những người du học mọi nơi
Người trong cho đến người ngoài
Chữ Tâm cốt phải ai ai cũng đồng
Hải ngoại huyết thư
– Anh hùng là phụ nữ – khái niệm nữ trượng phu:
“Giang sơn làm nồi cơ đồ
Ấy là bậc nữ trượng phu nước mình”
Hải ngoại huyết thư
Nhân vật cô Chí trong Trùng quang tâm sử.
– So sánh với trước: Lính tập, Gia –tô, nữ nhi (nữ hào kiệt, nữ trượng
phu)
Đoàn kết với hành động quyết liệt nhất là diệt thù:
Hòn máu uất chất quanh đầy ruột
Anh em ơi xin tuốt gươm ra
Có trời có đất có ta
Đồng tâm như thế mới là đồng tâm
Tương lai tươi sáng:
Cờ độc lập xa trông phấp phới
Kéo nhau ra đòi lại nước nhà
Của nhà ta, trả chủ ta
Muốn toan cố chấp ắt là chẳng xong
Kêu gọi yêu nước gắn liền với Duy tân:
Đài kỷ niệm tranh vanh trong nước
Đèn hoan nghênh kẻ rước người đưa
Nào người Dụ Cát, Lư Thoa
Này vừa gặp hội, xin ta gắng lòng.
3. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI CHÍ SĨ DUY TÂN:
Người anh hùng phải tự nhiệm gắn số phận mình với đất nước:
“Lúc tôi sinh ra là lúc Nam kỳ thất thủ đã 5 năm, tiếng khóc oa oa chào
đời như báo trước cho tôi rằng, mày sẽ làm người dân mất nước” (Phan Bội
Châu niên biểu)
3.1. Người hào kiệt kiểu cũ:
– Thơ khẩu khí:
Khi chưa lên đỉnh non xa
Non xanh trăm ngọn như ta khác nào
Khi ta lên đến đỉnh cao
Non xanh trăm ngọn, ngọn nào bằng ta
Du Đại Huệ Sơn cảm tác
Giống Cao Bá Quát:
Triển du Hoành Sơn lập
Mộ há Bàn Kính dục
Huề thủ lưỡng phiến thạch
Giang sơn bất doanh cúc
Dục Bàn Thạch kính
– Trượng phu hơn đời khác tục, tự nhiệm, tung mình vào cuộc chơi lớn:
Chơi xuân
Quân bất kiến Nam, Xuân tư cổ đa danh sĩ
Đã chơi xuân đúng quan nghị chi chi
Khi ngâm nga xáo lộn cổ kim đi
Tùa tám cõi náu về trong một túi.
Thơ rằng:
Nước non Hồng Lạc còn đây mãi
Mặt nước anh hùng hổ chịu ri?
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế.
Phùng xuân hội may ra ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu một chút con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà.
Hai vai gánh vác sơn hà
Đã chơi chơi nốt, ối chà chà xuân!
3.2. Người chí sĩ duy tân:
Dám vứt bỏ lối sống tầm thường. Lời tuyên ngôn của cả một thế hệ –
hướng về phía biển, sống mãnh liệt:
Xuất dương lưu biệt
Sinh vi nam tuyến hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn từ chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thầy.
Giang sơn tứ hy sinh đồ nhức,
Hiền thánh liêu nhiên ông diệc si
Nguyện trục trường phong đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thủa họ không ai.
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thành còn đâu học cũng hoài.
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Tôn Quang Phiệt dịch)
Văn tế Phan Chu Trinh
– Mở đầu là những lời đánh giá trang trọng, có tầm vóc quốc tế, đồng
thời là kiểu anh hùng mới tiếp nối những kiểu anh hùng đã xuất hiện trong lịch
sử:
Than ôi!
Tuồng thiên diễn mưa âu gió Mỹ, cuộc nọ kém thua hơn được,
ngó non sông nên nhớ bậc tiên tri;
Dấu địa linh con Lạc cháu Hồng, người sao trước có sau không,
kinh sấm sét dễ đau lòng hậu bối.
Vẫn biết tinh thần di tạo hóa, sống là còn mà thác vẫn như còn;
Chỉ vì thời thế khuất anh hùng, xưa đã rủi mà nay cũng thêm rủi.
Lấy ai đây nối gót nghìn thu,
Vậy ta phải kêu người chín suối.
– Xuất thân từ cửa Khổng sân Trình:
Nhớ tiên sinh xưa:
Tú dục Nam châu;
Linh chung Đà hàn.
Nghiệp thừa gia cung kiếm cũng pha đường;
Nền tác thánh thi thư từng thuộc lối.
Gan to tày bể, sức xông pha nào kể ức muôn người;
Mắt sáng hơn đèn, tài linh lợi từ khi năm bảy tuổi.
– Chí lớn và tinh thần tự nhiệm:
Vận nước gặp cơn dâu bể, đeo vai thân sĩ, còn lòng đâu áo mũ
xênh xang;
Thói nhà chăm nghiệp bút nghiên, giấu mặt hào hùng, thì tạm
cũng khoa trường theo đuổi.
– Thời đại mới, đi đến tư tưởng duy tân. Bậc thánh mới là Mã Ni, Lư
Thoa, Mạnh Đức địa bàn hoạt động có tính chất quốc tế:
Song le:
Khí vẫn tranh vanh;
Chí càng viễn đại.
Tài Mã Ni đang chứa sức hô hào;
Tuồng Lỗ Dịch quyết ra tay đào thải.
Đội tiên phong đâu tá, gió Duy tân từ Đông hải thổi vào;
Gương ngoại quốc kia là, sóng cách mạng bởi Âu châu dồn tới.
Dọc ngang trời đất, rực vẻ văn minh;
Tức tối nước nhà, cam đường hủ bại.
Cá chậu chim lồng vơ vẩn thế, áng công danh thôi vất lối tầm
thường
Rồng mây cọp gió lạ lùng chi, miền thanh khí thử hô người trung
ngoại.
Cậy tân học dặm dò đường tự chủ. Lư Thoa, Mạnh Đức so sánh
người xưa;
Mượn Đông du thăm hỏi bạn đồng tâm, Hương Cảng, Hoành
Tân, lỏi len đường mới.
– Sức mạnh chủ yếu là sức mạnh tinh thần:
Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường quyền trông gió cũng
gai ghê;.
Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm
rạng chói.
Phóng khiến:
Trình độ dân ta cao;
Trí thức dân ta giỏi.
Khí dân ta ngày một dồi dào;
Sức dân ta ngày càng cứng cỏi.
Một tiếng xướng có muôn tiếng họa, thần tự do nên đủng đỉnh về
đây;
Bạn người Việt với thầy người Tây, ma chuyên chế dám dùng
dằng ở mãi.
– Lòng kiên trinh, khí tiết vững vàng:
Nào hay:
Trời đã éo le;
Người cảng quỷ quái.
Chứa chan máu quốc, nước vẩn vơ hồn;
Xao xác tiếng gà, trời mù mịt tối.
Trường nô lệ chung quanh là rắn rết, văn cứu thời khen khéo gây
oan;
Ô dã man ngan ngát những hùm beo, miếng ái quốc hóa nên
buộc tội.
Thành Hà Nội ùn ùn mây ác độc; nào kẻ lánh mình, nào người
chống thuế, chữ âm mưu tô vẽ đủ trăm đường;
Đảo Côn Lơn rực rực lửa oan cừu, thấy người yêu nước, thấy kẻ
thương dân, tơ xướng loạn dệt thêu ra một mối.
Sương đơn gió kép, giữa hội mịt mù;
Mưa dập sóng dồn, xót ông chìm nổi.
Thân, Dậu, Tuất bấy nhiêu năm tân khô, khi đào cây, khi lượm
đá, giữa bể trần gió bụi vẫn ung dung;
Đặng Hoàng (Huỳnh), Ngô ba bốn bác hàn huyên, khi uống rượu,
khi ngâm thơ, ngoài cửa ngục lầm than mà khẳng khái.
Hồi đen may cũng lần lừa;
Lòng đỏ vẫn còn hăng hái.
Quay đầu lại giả ơn tù đảo, tấm thân giả còn nặng gánh giang
sơn;
Bước chân đi tìm bạn âu châu, đôi tay trắng quyết phất cờ xã hội.
Án tái phạm vì lời thông Đức, dạ sắt vàng thêm thử lại thêm bền;
Thư thất điều đón giá như Tây, uy sấm sét chẳng kinh cùng
chẳng hãi.
Gương vĩ nhân treo những bao giờ;
Hồn cố quốc mới về năm ngoái.
Trước mặt não ai hớn hở, thấy ngựa xe luống ngẩn ngơ chiều;
Bên tai những tiếng kêu van, nghe sưu thuế càng ngao ngán nỗi.
Dưới miệng cọp gửi đàn con đỏ, phúc trùng lai thêm bận dạ tha
hương;
Trên quyền người đeo giống da vàng, lòng cảm tử quyết lùa
quân hậu đội.
Ước những chuông đều trống nhịp; khắp ba kỳ cho vang tiếng
reo hò:
Mới là anh trước em sau, dắt một lũ để đồng bào gắng gỏi.
Khéo vô tình trời chẳng chiều người;
Nên bất hạnh mừng mà hóa tủi.
Tiệc hoan nghênh mới đó, não nùng rượu chửa phai mùi;
Hội truy điệu gần đây, thấp thoáng hương đà bén khói.
– Tự khóc cho mình và khóc cho một thế hệ người chí sĩ đã chịu nhiều
hy sinh, đã thất bại, nhưng vẫn tràn trề hy vọng ở tương lai:
Anh em ta:
Đất rẽ đôi đường;
Tình chung một khối.
Gánh tồn vong ai cũng nặng nề;
Nghĩa chung thủy lòng càng bối rối.
Sóng gió một con thuyền chung chạ, mái chèo đương lúc cheo
leo;
Mây mù muôn dặm đất xa khơi, dấu ngựa nhờ ai giong ruổi.
Ngại ngùng thay người ngọc mù sa;
Ngao ngán nhẽ giọt châu mưa xối.
Thương ôi!
Bể bạc còn trơ;
Trời xanh khó hỏi.
Nghìn vàng khôn chuộc được anh hào;
Tấc dạ dám thề cùng sông núi.
Trước đã giỏi mà sau thêm giỏi nữa, dấu cộng hòa xin ráng sức
theo đòi;
Thác còn thiêng thời sống phải thiêng hơn, thang độc lập quyết
ra tay vin vót. Lời này ông xét cho chăng?
Lòng ấy trời đã soi rọi!
(1926)
– Thung dung – phong cách kẻ sĩ thời cổ:
Vẫn là hảo kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
(Ngục trung thư)
3.3. Kiểu anh hung tập thể: sự thất bại lịch sử của người chi si duy tan
– Đi đến một loại anh hùng mới: Anh hùng tập thể, tin tưởng vào thanh
niên:
Bài ca chúc tết thanh niên
– Vận hội mới:
Dậy! Dậy! Dậy! bên án một tiếng gà vừa gáy,
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.
Xuân ơi xuân xuân có biết cho chăng: thẹn cùng sông, buồn cùng
núi tủi cùng trăng,
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót.
– Thừa nhận sự thất bại của thế hệ của mình – chí sĩ duy tân:
Trời đất may còn thân sống sót
Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh
– Kêu gọi một cách rất trang trọng:
Thưa các cô các cậu lại các anh,
Đời đã mới, người càng thêm đổi mới.
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội,
Xúm vai vào gánh vác cựu giang san.
Đi cho êm đứng cho vững trụ cho gan,
Dây thành bại quyết ghe phen liên hiệp lại.
– Yêu nước và dám hy sinh vì nước:
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi:
Xếp bút nghiên mà dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ.
Mới thế này là mới hỡi chư quân
Chữ rằng: nhật nhật tân, hựu nhật tân.
Bài ca chúc Tết thanh niên
KẾT LUẬN
– Nhà ái quốc trung kiên, chấp nhận thay đồi với một “bất biến” là dân
tộc.
– Một nhà thơ yêu nước nồng cháy, người cầm đuốc cho dân tộc trong
những năm đầu thế kỷ 20.
– Để lại trong văn chường hình ảnh đẹp về một người cách mạng,
người yêu nước, nhà chí sĩ Duy tân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Hươu, Lê Chí Dũng: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900 – 1930, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1988
2. Chương Thâu: Văn thơ Phan Bội Châu, NXB Văn học, Hà Nội, 1967
3. Chương Thâu, Trần Ngọc Vượng: Phan Bội Châu – về tác gia và tác
phẩm, tái bản, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007
CÂU HỎI
1) Tìm hiểu sự vận động tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu qua thơ
văn ông.
2) Quan niệm anh hùng của Phan Bội Châu.
3) Sự vận động của hình tượng người chí sĩ duy tân qua 4 tác phẩm:
Chơi xuân, Xuất dương lưu biệt, Văn tế Phan Chu Trinh, Bài ca chúc Tết
thanh niên của Phan Bội Châu.
4) Tìm hiểu giọng “lâm ly bi thống” trong thơ Phận Bội Châu qua bản
dịch Lê Đại.
Bài 3. NỀN VĂN HỌC MỚI HÌNH THÀNH Ở ĐÔ THỊ1. SỰ RA ĐỜI CỦA NỀN VĂN HỌC MỚI
1.1. Sự chuẩn bị cho một nền văn học mới
Manh nha từ thế kỉ trước, bắt đầu từ Nam bộ
– Nơi tiếp xúc với Văn minh Pháp sớm nhất
– Đô thị hóa TBCN sớm và sâu rộng nhất
– Chính sách văn hóa của Pháp: Nam kỳ là thuốc địa của Pháp, nên
Pháp muốn đồng hóa, và cắt đứt với cội nguồn văn hóa dân tộc và những ảnh
hưởng của văn hóa Trung Hoa.
* Kinh tế:
Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp
– Thập niên 80 TK XIX thực dân Pháp cho hệ thống đào kênh xáng ở
ĐB Nam Bộ để mở rộng đất canh tác, xuất tiền cho dân vay để trồng lúa. Đưa
diện tích cạnh tác từ 380.000 mẫu (1868) lên đến 2.650.000 mẫu (1938) – tức
là gấp 7 lần. Khiến cho số người giàu chiếm đến 7.000/18.000 hộ toàn Đông
Dương.
– Tuyến đường sắt SG– Mỹ Tho khởi cộng vào năm 1881, hoàn thành
vào năm 1882. Đầu TK XX hoàn thành: cầu Long Biên (1902), Đường sắt
xuyên Việt (khánh thành toàn tuyến 1936),…
– Đô thị hóa tư bản chủ nghĩa (cùng với quá trình bần cùng hóa nông
dân) nhanh chóng: SG từ 20.000 dân (1868) lên 300.000 dân (1929). Các đô
thị mới mọc lên mau chóng: Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nam Định, Vinh,
Mỹ Tho, Cần Thơ...
* Giáo dục
Phổ biến chữ quốc ngữ:
– Giữa TK XVII A.Rhode cho ra đời Từ điển Việt – Bồ – La để chuẩn
hóa chữ quốc ngữ, tiếp theo là các Từ điển Annam – Latin của Bê–hen (TK
XVIII), Từ điển Annam - Latin và Latin – Annam của Tabert (nửa đầu TK XIX)
– Chủ trương dùng chữ quốc ngữ để cắt VN ra khỏi văn hóa truyền
thống. Khuyến khích ra báo, phiên âm truyện Nôm, dịch truyện Tàu, dịch văn
học Pháp ra quốc ngữ.
Trường Pháp Việt được mở ra:
– Du học: Nguyễn Trọng Quản, Diệp Văn Cương du học ở Alger
– 1873 mở trường đầu tiên: Trường Hậu bồ (Collège des Stagiaires) do
Trương Vĩnh Ký điều hành.
– 1887 mở trường tiếng Pháp ở Kinh đô do Diệp Văn Cương làm
Chưởng giáo
– 1900 cả 5 quận SG đều có trường cho nam sinh và nữ sinh, nổi tiếng
nhất là Chasseloup Laubat.
– 1913 ở Huế có trường Quốc học, HN có Trường Bưởi (Collège du
Protectorat).
– Sau đó mỗi xã đều có trường tiểu học Pháp– Việt (sơ đẳng), các
huyện lỵ thì có tiểu học toàn cấp.
1.1.1. Báo chí, xuất bản:
Tổ chức và khuyến khích phong trào sáng tác.
Làm quen với các tác phẩm văn học phương Tây
Nơi tập dượt ngòi bút của người viết.
Báo chí Nam Kỳ:
– Đầu tiên: Gia Định báo (15/4/1865 – 1909): Lúc đầu do Emest
Potteaux làm chánh tổng tài, từ năm 1869 do Trương Vĩnh Ký làm Chánh
tổng tài. Tờ báo có 2 phần:
Công vụ: văn thư, quyết định của chính quyền Pháp (công báo)
Thứ vụ: khoa học thường thức, văn học.
Tiếp theo là các tờ:
– Nhật trình Nam Kỳ (1883)
– Báo hộ Nam dân (1888)
– Thông loại khóa trình (1888–1889): tạp chí KHXH đầu tiên do Trương
Vĩnh Ký chủ trương
– Phận Yên báo (1898): Diệp Văn Cương chủ chương, tờ báo tư nhân
đầu tiên của nước ta.
– Nông cổ mín đàm (1901): đầu tiên do Canavaggio làm chủ nhiệm,
Lương Dữ Thúc (Lương Khắc Ninh) làm chủ bút (loạt bài Thương cả luận).
Sau đó Trần Chánh Chiếu, làm chủ bút (1906–1907). Tờ báo thể hiện rất rõ
chủ trương vận động Duy tân (Nam Bộ gọi là Minh tân).
– Lục tinh tân văn (1907–1944): 1907–1908 Trần Chánh Chiếu làm chủ
bút. 51 số đầu là tờ báo “Minh tân” (Duy tân). Ông bị Pháp bắt vì tội “đại ác”
(chống chính quyền), tờ báo lại giao cho Lương Khắc Ninh. Lúc đầu là tuần
báo, sau đó trở thành nhật báo, là một trong những tờ báo lớn nhất của Nam
Kỳ.
Miền bắc và miền Trung:
Đầu tiên là tờ Đại Nam đồng văn nhật báo (chữ Hán) ra đời năm 1892
Tiếp theo là các tờ: Đại Việt tân báo (1905), Đông Dương tạp chí (1913)
của Nguyễn Vãn Vĩnh, tờ báo có phần văn chương, Nam Phong tạp chí
(1917) của Phạm Quỳnh, có phần Văn uyển, sưu tập thơ văn cũ và phần
Sáng tác…
Rồi hàng loạt các báo khác nữa: Hữu thanh tạp chí, Tiếng dân, Phụ nữ
tân văn, Đông Pháp thời báo, Chuông rè (tiếng Pháp: La Clodefelaire) đăng
rải rác thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết.
Xuất bản:
Các nhà in và nhà xuất bản ra đời rất nhiều, trước hết là ở Nam Bộ:
đầu tiên là Impériale, 1862–1868, sau đó là các nhà xuất bản, nhà in:
– Bản in nhà nước, 1875
– Guilland et Martinon, 1881 –1886
– Huỳnh Kim Danh, 1923–1932
– Bảo Tồn, 1927 – 1944
– Đức Lưu Phương, 1928–1943
– Tín Đức thư xã, 1928–1945
– Nữ lưu thư quán, 1929…
Tổng cộng trên 120 nhà in/xuất bản
1.1.2. Văn học dịch:
Nam bộ:
Mở đầu cho việc dịch thuật là ở Nam Bộ. Những bản dịch ra quốc ngữ
đầu tiên là văn học cổ điển Trung Quốc, văn học cổ điển VN và văn học Pháp:
Minh tâm bửu giám (Trương Vĩnh Ký), Chuyện Phan sa diễn ra quốc ngữ
(Trương Minh Ký–1884)…
– Dich giả đầu tiên là Trương Minh Ký: Tư gia cách ngôn khuyến hiếu
ca, Chuyện Phan sa diễn ra quốc ngữ (1884, trong đó có dịch truyện ngụ
ngôn La Fontaine), Truyện ngụ ngôn Pháp, Tê Lê Mặc phiếu lưu ký (1885,
dịch từ Les aventures dễ Télémaque của Fénelon)
– Dịch tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc: Liêu Trai, Tam quốc, Phong
thần, Chinh Đông Chinh Tây, Thủy hử, Đông du bát tiên, Càn Long hạ Giang
Nam…Kể cả truyện truyền kỳ của VN: Truyện mạng lục (tức Truyền kỳ mạn
lục) đăng trên Gia Định báo. Nổi tiếng nhất là 4 dịch giả: Nguyễn Chánh Sắt,
Huyền Mặc Đạo Nhân, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Cư.
Bắc bộ:
Các nhà cựu học như Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế
Bính, Nguyễn Thiện Thuật dịch văn học cổ điển Trung Quốc và Việt Nam như:
Tam Quốc, Thuỷ hử, Lĩnh Nam chích quái, Truyền kỳ mạn lục, Hoàng Lê nhất
thống chí…
Sau đó: dịch tiểu thuyết “ngôn tình nhu cảm” của Trung Quốc và Pháp:
Tuyết hồng lệ sử, Trà hoa nữ…
Nguyễn Văn Vĩnh dịch rất nhiều: thơ ngụ ngôn của La Fontaine, thơ
Lamartine, V.Hugo, thơ Chateaubriant, kịch của Molière: Người hà tiện,
Trưởng giả học làm sang, Bệnh tưởng…
Phạm Quỳnh dịch: Lôi Xích (Le Cid), Hòa Lạc (Horace) của Corneille.
Ví dụ: Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine:
Con ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Ở các trường tiểu học, trung học Pháp – Việt, học sinh cũng được học
và tập dịch tương tự.
1.2. Thơ, kịch, tiểu thuyết mới ra đời
1.2.1. Thơ
– Ôn tập lại cái cũ: Đường luật, Cổ phong
– Trở về với dân tộc: lục bát, song thất, xẩm chợ, ca dao (phong thi),
hát nói
Thơ của các nữ sĩ: Nhàn Khanh, Đạm Phương, Tương Phố
Nhàn Khanh có tập thơ trên Nam phong tạp chí
Tương Phố viết đoản văn Giọt lệ thu (có chen thơ), Khúc thu hận (đang
trên Nam phong tạp chí)
Nam giới làm thơ khá nhiều, nhưng phần lớn là kiêm nhiệm, họ nổi
tiếng trong lĩnh vực khác. Đó là: Dương Bá Trạc, Bùi Kỷ, Nguyễn Mạnh Bồng,
Trần Chánh Chiếu, Hoàng Ngọc Phách, Thượng Tân Thị, Nguyễn Liêng
Phong. Trong đó nổi tiếng hơn cả là: Tản Đà, Trấn Tuấn Khải, Đoàn Như
Khuê (bài Bế thảm trong tập Một tấm lòng), Đông Hồ (với Linh Phượng lệ kí).
Tính chất chung: sầu thảm bi thương (bài Bể thám của Đoàn Như
Khuê), trang nhã, kín đáo, đài các, gọt dũa, mòn sáo.
Giọt lệ thu của Tương Phố:
“Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu ngả bóng bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng
Anh ơi, thu về như gợi mối thương tâm. Mỗi độ thu sang em lại vò lòng
than khóc. Nghĩ năm có một lần thu, nhưng thu năm nay đi năm sau còn trở
lại. Hỏi ba sinh hương lửa thời ái ân kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau.
Chẳng hay cơ trời dâu bể vì đâu, xui nên chăn gối vừa êm, lửa hương
mới bén, sắt cầm dìu dặt ngón đàn, bỗng ai xô lộn bình tan gương võ cho
người dở duyên”
Trần Tuấn Khải: yêu nước hợp pháp, có khuynh hướng đạo lí. Tác
phẩm: Duyên nợ phù sinh, Bút quan hoài, Với sơn hà… Các bài nổi tiếng:
Gánh nước đêm, Tiễn chân anh Khóa xuống tàu…
1.2.2. Kịch
15/4/1920 kịch được công diễn lần đầu tiên.
Có vở kịch đã viết không diễn: Bình địa ba đào của Trần Tuấn Khải, có
vở đã diễn nhưng không gây được tiếng vang như: Cô giáo Phượng của
Nguyễn Ngọc Sơn.
Sau đó có một số vở gây tiếng vang lớn như: Chén thuốc độc của Vũ
Đình Long (1921), Tòa án lương tâm của Vũ Đình Long (1923), Uyên ương
của Vi Huyền Đắc (1927), ông Tây An Nam của Nam Xương (1930)
Kịch và cải lương Nam Bộ:
– Trí giả tự xử, cảnh thế tân kịch, Phan Văn Hòa, Impr: Ng.Văn Viết,
SG, 1925
– Toi–toi, Moi–moi, tuồng giễu có 6 lớp, Trung Tín, Impr. Ng.Văn Viết,
SG, 1925
– Cải lương: Kịch Phương Tây kết hợp với đàn ca tài tử:
1917 Lương Khắc Ninh diễn thuyết: Cảm lương hí nghệ ở Hội khuyến
học Nam Kỳ.
Cũng năm ấy vở Vì nghĩa quên nhà của Lê Quang Liêm và Hồ Biểu
Chánh diễn ở rạp Eden. Trương Duy Toàn viết: Hạnh Nguyên cống Hồ, Trang
Tứ cổ bồn ca…
Tính chất chung:
– Tố cáo xã hội tiền, tình, lai căng.
– Giáo huấn
– Hành động kịch chậm, xung độ chưa sâu sắc, giải quyết xung đột còn
dựa vào yếu tố ngẫu nhiên.
1.2.3. Tiểu thuyết
Truyền thống: văn xuôi cổ, truyện Hán văn, truyện thơ Nôm
Tiểu thuyết chữ Nôm: manh nha ở thế kỷ 17 với truyện Hạnh các
Thánh.
Du kí, bút kí quốc ngữ của Phi–lip–phê Bỉnh – Sổ sang chép các việc,
Trương Vĩnh Kí – Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất hợi (1876)
Tiểu thuyết đầu tiên là Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng
Quản (viết năm 1886, xuất bản năm 1887)
Truyện thầy Lazaro Phiền
Tác giả: Nguyễn Trọng Quản, xb 1887
Lời tựa:
“Tôi có dụng ý lấy tiếng thường một người hằng nói mà làm ra một
chuyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay; trước là
làm cho trẻ con ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng:
người An Nam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai!
Đã biết rằng: xưa nay dân ta chẳng thiếu chi thơ văn phú truyện nói về
những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó: mà những
đấng ấy thuộc về thời xưa chớ đời nay chẳng còn nữa. Bởi đó tôi mời dám
bày đặt một truyện đời này là sự thường có trước mắt ta luôn, như vậy thì sẽ
có nhiều người sẽ lấy lòng vui mà đọc; kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho
đặng giải phiền một giây.”
Nội dung:
Mở đầu: “Ai xuống Bà Rịa mà có đi ngang qua đất thánh ở trong Cát tại
làng Phước Lễ, thì tôi xin bước vô đất thánh ấy, kiếm cái mồ có cây thánh giá
bằng ván, sơn nửa đen nửa trắng, gần một bên những kẻ tử đạo mà thăm mồ
ấy kẻo tội nghiệp! Vì đã hai năm nay không ai thăm viếng không ai màng ngó
tới.
Mồ đó là mồ mã thầy đã chịu lương tâm mình cắn rứt đã mười năm,
bây giờ mới đặng nằm an nghỉ nơi ấy.
Truyện bắt đầu bằng sự kiện người viết xuống tàu vào một tối có trăng
để đi Bà Rịa. Xuống dưới tàu anh nhìn thấy một thầy tu đứng gần bên, mặt
mới như có gì buồn bực lắm.
Người thầy tu này đi Vũng Tàu để dưỡng bệnh, nhưng ông ta biết mình
chỉ sống được chừng nửa tháng nữa thôi.
Đêm đến, người thầy tu kể lại toàn bộ bí mật của đời mình, bí mật đã
làm đau đớn dày vò ông ta 10 năm nay.
Người thầy tu ấy tên Phiền, quê ở Đất Đỏ Bà Rịa, sinh năm 1847 trong
một gia đình đạo dòng. Mẹ mất vì dịch tả khi Phiền mới ba tuổi. Lúc ấy Pháp
tấn công nước ta, triệu đình Nguyễn ra lệnh cấm đạo ráo riết. Phiền phải chịu
tất cả những gian khổ của những người Công giáo trong tình cảnh đó. Cha
con bị giam vào lúc Pháp tấn công Bà Rịa, nhà giam bi đốt cháy, Phiền chạy
thoát được sau đó bị ngất đi vì bị thương nặng. Tình Cờ Phiền được một
người quan ba Pháp cứu được, đem về điều trị, rồi đưa về Sài Gòn. Người sĩ
quan trở về Pháp, Phiền ở với người linh mục, được đi học chữ quốc ngữ rồi
chữ Latin.
Trong trường anh có quen với một người bạn tên là Vero Liễu, con ông
trùm họ Cầu Kho. Hai người rất thân nhau, kết nghĩa làm anh em (Phiền là
anh). Cha mẹ Liễu khi vào trường thăm Liễu thường dẫn theo một cô gái con
người dì của Liễu. Phiền để ý cô gái ấy, sau này được cha mẹ thầy Liễu tác
hợp cho.
Lập gia đình xong, Phiền đi làm thông ngôn ở Bà Rịa 6 tháng. Ở đấy
anh gặp một quan Pháp, vợ người Việt Nam. Người đàn bà này thích Phiền,
tìm mọi cách gần gũi anh ta nhưng không được. Một ngày kia Phiền nhận
được bức thư do người đàn bà ấy gửi, nói rằng vợ của Phiền ngoại tình với
Liễu, bạn Phiền và cũng là người bà con của cô ta, hai bức thư Liễu gửi cho
vợ Phiền còn ở trong tủ áo vợ Phiền. Phiền nghe chuyện ấy, lòng ghen tuông
nổi lên. Nhân lúc Liễu đi Bà Rịa mua ngựa trở về, Phiền được quan Pháp
giao cho mười tên lính đi bắt cướp trên sông, Phiền đã cố ý cho quân nổ súng
vào tàu của Liễu và giết chết Liễu. Phiền làm tờ trình là tưởng cướp nên anh
ta thoát tội. Về nhà Phiền lập mưu giết vợ. Anh ta lén bỏ một loài hoa độc vào
siêu thuốc của vợ, loài hoa độc này ai uống vào thì chỉ bảy tám tháng sau là
chết, không thuốc gì chữa khỏi. Trước khi vợ chết, cô ấy còn trối lại: “Tôi biết
vì sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin chúa thứ tha cho thầy”.
Đau khổ vì hành vi của mình. Phiền vào nhà dòng làm tu sĩ. Anh ta học
hành nghiêm chỉnh nên ai cũng kính nể, còn tội ác của anh ta thì không ai biết
cả. Sau này người đàn bà vợ Tây đã gửi cho anh ta một bức thư nói rằng
mình đã lập mưu vu oan cho bạn và vợ Phiền để trả thù Phiền đã không chịu
ngoại tình với cô ta. Phiền suy sụp hẳn. Anh ta bị bệnh nặng, bị giày vò…Biết
mình sắp chết anh xin đi Vũng Tàu chữa bệnh, và cũng là dịp về lại Đất Đỏ,
quê xưa.
Kết thúc truyện, người viết đã đến Bà Rịa, viếng mộ những người Tử
Đạo, nhân đó thấy một nấm mồ “một bên có cây Thánh giá, có chữ đề mà
mưa đã làm lu hết còn sót bốn chữ 27 Janvier 1884 mà thôi (...) Tôi hỏi cha
rằng: “Có phải là mồ Thầy Phiền chăng? “ Cha sở vừa ừ, thì tôi quỳ gối nơi
mồ mà đọc rằng:
Chúng tôi cậy vì danh chúa nhơn từ
Cho linh hồn Lazaro đặng lên chốn nghỉ ngơi.
Hằng xem thấy mặt Đức chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng”.
Từ năm 1910, tiểu thuyết bắt đầu nở rộ:
1910: Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Thiên Trung (Trần Chánh
Chiếu)
Phan yên ngoại sử tiết phụ gian truân của Trương Duy Toàn (truyện dã
sử)
1912: Tiểu thuyết của Lê Hoàng Mưu: Truyện nàng Hà Hương. Các tác
phẩm sau của ông: Đầu tóc mượn, 1924; Đêm rốt người tội tử hình, 1925
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh:
1912: Ai làm được
1913: Chúa tàu Kim Quy
Sau đó: Cay đắng mùi đời (1923), Tỉnh mộng (1923), Một chữ tình
(1920), Nhân tình ấm lạnh (1925), Tiền bạc bạc tiền (1925), Ngọn cỏ gió đùa
(1926 –1928), Vì nghĩa vì tình (1929), Khóc thầm (1929), Con nhà nghèo
(1930)…Cho đến 1958, ông viết đến 64 tiểu thuyết.
1925: Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Sau đó là một loạt tiểu thuyết
khác: Quả dưa đỏ của Nguyễn Thiện Thuật, Kim Anh lệ sử của Trọng Khiêm,
Nho phong của Nguyễn Trường Tam…
* Truyện ngắn:
Viết trên Nam Phong có: Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc
Phách, Mân Châu (Nguyễn Mạnh Bổng)…
Nguyễn Bá Học: Câu chuyện gia đình, Truyện ông Lí Chấm, Có gan
làm giàu, Chuyện cô Chiêu Nhì, Câu chuyện một tối tân hôn…
Phạm Duy Tốn: Sống chết mặc bay, Con người Sở khanh
Mân Châu: Ai giết người, Trằn trọc đêm xuân.
Hoàng Ngọc Phách: Giọt lệ hồng lâu…
Tính chất chung:
– Phản ánh xã hội
– Ảo tưởng về việc giải quyết các vấn đề xã hội
– Ảnh hường nhiều loại văn chương cũ
– Đồng thời đây cũng là một thể loại đầy triển vọng, thể loại của tương
lai. Đưa văn học có tính chất khu vực thành loại văn học hòa nhập chung vào
thế giới, từ dân tộc thành hiện đại, văn học Việt Nam hòa vào dòng chảy
chung có tính chất toàn thế giới.
2. TIỂU THUYẾT TỐ TÂM CỦA HOÀNG NGỌC PHÁCH
2.1. Hoàng Ngọc Phách:
Hoàng Ngọc Phách (1896–1973), hiệu Song An, quê ở xã Đong Thái,
huyện Đức Thọ, tinh Hà Tĩnh.
Thân phụ từng tham gia phong trào Cần Vương. Sau khi phong trào
Cần Vương thất bại, ông thân phải đem cả gia đình ra làng Đông Côi, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh làm ruộng.
Thủa nhỏ Hoàng Ngọc Phách học chữ Nho với thân phụ. Năm 1911 (15
tuổi) bắt đầu học tiếng Pháp ở Hà Nội. Năm 1914 đỗ bằng tiểu học Pháp Việt
và trúng tuyển vào trường Trung học Bảo hộ (trường Bưởi).
Năm 1919 đỗ bằng Cao đẳng tiểu học Pháp và bằng Thành Chung.
Cũng năm đó trúng tuyển vào trường Cao đẳng sư phạm (Ban văn học) và tốt
nghiệp năm 1922
Ra trường được bổ đi dạy ở nhiều nơi: Nam Định, Kiến An, Hải Phòng
(Cao đẳng tiểu học Bonal – Hải Phòng)…
Trong kháng chiến chống Pháp: tham gia kháng chiến ở Việt Bắc làm
công tác giáo dục. Sau 1954 làm việc ở Ban tu thư Bộ giáo dục. Sau về Viện
văn học làm công tác nghiên cứu.
Tác phẩm:
Tiểu thuyết Tố Tâm (viết 1922, in 1925)
Nghị luận Thời thế với văn chương (1941)
Tạp văn (truyện ngắn) Đâu là chân lý (1941)
Sách nghiên cứu: Cung oán ngâm khúc (1957), Thơ văn Nguyễn
Khuyến (1957), Thơ Trần Kế Xương (1958), Thơ văn Nguyễn Công Trứ
(1959), Sơ tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng (1959), Giai thoại văn học
Việt Nam (1965) và một số sách, hồi ký chưa in khác.
Tham gia viết báo từ khi còn học trường Bưởi, viết cho các báo: Nam
Phong, Trung Bắc tân văn…Sau này viết cho nhiều báo, tạp chí khác nữa.
2.2. Tiểu thuyết Tố Tâm:
2.2.1. Hoàn cảnh sáng tác:
Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm khi ông học năm cuối trường Cao đăng
sư phạm, năm 1922, và in năm 1925, nhà Chân Phương. xuất bản, Hà Nội.
– Tuyết hồng lệ sử của Từ Trẩm Á (đăng trên NP 1923–1924): Tình yêu
giữa thầy giáo tư Mộng Hà, nàng góa phụ (mẹ của học sinh) Lê Anh. Bế tắc
Lê Anh phải đem em chồng là Quân Thiếu ra chắp nối. Sự hy sinh ấy không
ngờ quá sức chịu đựng của nàng, Lê Anh lâm vào trọng bệnh mà chết. Quân
Thiếu chưa kịp chung sống với Mộng Hà cũng tủi phận hờn duyên mà mất.
– Trà hoa nữ của A.Dumas: tình yêu một chàng quý tộc và một kỹ nữ.
– Mồ hoa cúc dại (Nogiku no ohakal/Dã cúc chi mộ) của Ito Sachio. Kể
về mối tình tuyệt vọng giữa Tamiko (bị ép gả) với Masao.
– Gò cô Mít (Hoàng Ngọc Phách): cô Mít con gái cụ Bá rất xinh đẹp,
yêu Tư Nhung con ông Khóa Mão, nhà hàng xóm. Hai người thường tặng quà
cho nhau: khi thì anh Tư Nhung lao cây mía qua hàng rao, khi thì gói bánh
treo cạnh rào, còn cô Mít tặng người yêu bốn vuông lụa trắng, một đôi giày
tàu và một cối giã trầu bằng đồng.
Cô Mít đi đâu, cậu Nhung cũng đi theo sau, nhưng vì thẹn nên đi cách
sau nửa cây số. Có lần thấy cô Mít bị thầy Quyền chọc ghẹo giật mất khăn
vuông, cậu Nhung nắm cổ thầy Quyền dúi xuống ruộng.
Quan Thị (giảng) ở tỉnh về muốn cưới cô Mít làm vợ lẽ. Cụ Bá đồng ý,
hỏi cô Mít, cô không nói gì. Ở nhà rước dâu, mổ lợn, giã giò. Rượu chè đã
đưa xuống. Cô Mít chạy vào chạy ra, mặc áo cưới, khăn sa tanh hoa, quần
lĩnh tía, không nói năng gì, ai mừng cô thì cô nhếch mép cười, ai cợt thì cô chỉ
khóc.
Khi ô tô nhà trai xuống thì không thấy cô dâu đâu.
Buổi chiều hôm sau lũ trẻ chăn trâu xúm lại chung quanh một cái gò
con giữa cánh đồng: Ở đó có đủ xôi thịt, bánh chưng, trầu cau, hai cái chén,
một chai rượu đập vỡ. Cô Mít mặc quần áo cưới, cậu Nhung mặc quần áo hội
nằm chết bên nhau. Họ để lại di chúc xin cha mẹ hợp táng ở gò cho trọn lời
thề. Gò ấy ít ai dám đến nữa, bị cỏ che rậm rạp. Người ta kể từ đó về sau,
trong đêm tối vẫn thấy một cặp ma trơi đêm đêm hiện lên ở gò cô Mít.
2.2.2. Tiếu thuyết Tố Tâm:
Đạm Thủy, sinh viên cao đẳng, kể cho bạn nghe chuyện tình đau khổ
của mình.
Một chuyến về quê, vì mất ví, Đạm Thuỷ trình quan sở tại, nhờ đó mà
biết Tố Tâm cháu viên tri huyện.
Sau về trường mới biết cửa hàng tơ lụa mẹ Tố Tâm gần trường, có cậu
Tân đang học “Ly–xê” (Lycée), nhờ đó mà tình yêu nảy nở. Đây là hình ảnh
Tố Tâm lần đầu gặp gỡ:
“Đương nói chuyện thì người thiếu nữ đi ra, thoạt có dáng ẹ lệ nhưng
giữ ngay vẻ tự nhiên như không (…). Cái đường mũi hơi cao mà nhỏ, thẳng
xuống cái miệng xinh xinh, viền hai đường môi mỏng và thăm thẳm, tạc ra cái
vẻ mặt rất thanh tao tinh xảo nhưng trên cái khuôn mặt mơn man đào tơ đó
có một vé buồn cao xa kín đáo, bởi ở nơi con mắt trong mà lại lờ đờ, tức là
thứ mắt của người có tư tưởng mà hay mơ màng những chuyện viễn vông.
Cái khuôn mặt thiên nhiên đó để trên một tấm thân manh mảnh cao làm cho
tôi thấy bây giờ mới trông thấy thứ đẹp thanh tú tĩnh mạc có vẻ thiêng liêng”
Tố Tâm, cô gái mới, hay đọc sách báo mà thầm yêu Đạm Thủy qua
những bài viết của anh.
Trước tình yêu và hôn nhân của Đạm Thủy: Tố Tâm chấp nhận thua
thiệt mà không phản đối.
Gia đình Đạm Thủy đã hỏi vợ cho chàng và giục chàng về xem mặt cô
dâu. Chàng không muốn làm trái ý cha mẹ. Nàng chấp nhận hôn nhân của
người yêu với một sự hy sinh thầm lặng:
“Chiều thứ năm tôi ra chơi thì thấy mặt nàng hơi xanh, nhưng cách tiếp
đãi, cử chỉ không có chút gì khác thường cả, vẫn quyến luyến vui vẻ tươi
cười. Nàng lại nói pha trò về chuyện cưới xin của tôi như một em gái nói đùa
anh giai lúc anh mới đi sêu về”
Tố Tâm yêu Đạm Thủy nhưng cũng không muốn chàng trái ý gia đình
và làm vợ chưa cưới của chàng đau khổ.
Trước tình yêu và hôn nhân của Tố Tâm:
Mẹ Tố Tâm bệnh nặng, nhân có cậu Tú B dạm hỏi, Tố Tâm không đồng
ý, viết cho Đạm Thủy: “Em đã yêu anh thì không thể yêu ai được nữa, mà
cũng không muốn yêu ai. Đã không yêu thì không lấy, vì sợ làm phiền cho
một người nam nhi nữa”. Bà mẹ không ép nhưng cũng muốn lo chuyện cho
xong. Tố Tâm vì chữ hiếu mà đồng ý.
Tình yêu và nghĩa vụ với chồng: thẳng thắn thừa nhận tình yêu của
mình, nhưng cũng hứa làm tròn nghĩa vụ.
Lấy chồng nhưng vì tương tư mà lâm bệnh nặng. Chồng phát hiện ra
thư vĩnh biệt của người yêu cũ, Tố Tâm trả lời rõ ràng về tình yêu của mình
và tình cảm của mình với chồng (trang 104/tr 108 – 109 Tuyển tập HNP).
Sau đó Tố Tâm chết vì bệnh và buồn khổ. Đạm Thủy tự an ủi mình
bằng chyện nghĩa vụ nam nhi.
Nghệ thuật tiểu thuyết Tố Tâm:
– Kết cấu: mới, không theo trình tự thời gian.
– Miêu tả ngoại hình nhân vật: cá tính hóa.
– Miêu tả tâm lý nhân vật: sâu sắc, cá tính
Kết luận: Tố Tâm không phải là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn học
Việt Nam, vị trí danh dự ấy dành cho Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn
Trọng Quản, nhưng Tố Tâm là cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên trong văn học
quốc ngữ nước ta. Lần đầu tiên tâm lý của lớp thanh niên mới – thanh niên
tân học ở đô thi trở thành đối tượng tìm hiểu và diễn tả của tiểu thuyết Tố
Tâm đã thể hiện được những khát khao của họ – khát khao về tình yêu, khát
khao về tự do, về bình đẳng. Khát khao mới chớm nở nhưng cũng rất mạnh.
Thế nhưng những khát khao ấy đã bị vùi dập bởi nền luân lý khắc nghiệt cổ
xưa. Kết thúc của câu chuyện là một tấn bi kịch. Đọc Tố Tâm người ta chưa
thấy một cuộc đối đầu để giải phóng cho cá nhân, cho tình yêu vả cho tự do,
nhưng đọc nó đủ để thấy được chỗ yếu kém của tình trạng nước nhà, đúng
như Thiếu Sơn nhận xét: “Đọc sách Tố Tâm ta phải nhận thấy cái chỗ kém
hèn của luân lý nước nhà, vì nó mà một vị giai nhân phải giã thế từ trần để lại
một bực tài tử phải sống mà nuốt lệ” (Lời phê bình của một độc giả – Thiếu
Sơn).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900 – 1930, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1988
2. Nhiều tác giả: Truyện ngắn Nam Phong, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1989
3. Cao Xuân Mỹ: Truyện dài đầu tiên và tuyển tập những truyện ngắn
Nam Bộ, NXB. Văn Nghệ TP.Hồ Chí Minh, 1998
4. Nguyễn Huệ Chi: Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, NXB Văn học, Hà
Nội, 1989
5. Hoàng Ngọc Phách: Tố Tâm, NXB Văn nghệ và Hội nghiên cứu
giảng dạy Văn học TP Hồ Chí Minh, 1988
6. Lữ Huy Nguyên: Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải, NXB Văn học, Hà
Nội, 1984
7. Đoàn Lê Giang: “Sự ra đời của từ “Văn học” và quan niệm mới về
văn học của các nước Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản” Tạp chí nghiên
cứu văn học số 5 năm 1998; website: http//:khoavanhoc–ngonngu.edu.vn
8. Đoàn Lê Giang: “Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối TK.XIX đến
1945 – thành tựu và triển vọng nghiên cứu”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số
7/2006; website: http://khoavanhoc–ngonngu.edu.vn
9. Đoàn Lê Giang: “Á Nam Trần Tuấn Khai – “anh Khoá “ với những bài
thơ nước non”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 7/2007; website:
http://khoavanhoc– ngon ngu.edu.vn
CÂU HỎI
1. Tìm hiểu những tờ báo lớn và các nhóm văn học nổi tiếng trong 30
năm đầu TK.20
2. Anh chị nghĩ như thế nào về cách xử lý các mối quan hệ của 2 nhân
vật: Đạm Thuỷ, Tố Tâm trong tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách.
3. Những cách tân nghệ thuật trong tiếu thuyết Tố Tâm của Hoàng
Ngọc Phách
Bài 4. HỒ BIỂU CHÁNH (1885 – 1958)Hồ Biểu Chánh là tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Ông đã đóng góp cho nền văn học nước nhà một sự nghiệp văn chương
phong phú và đa diện, gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, thơ ca, biên khảo, dịch
thuật, báo chí, kịch bản sân khấu…Điều đáng quý là rất nhiều tác phẩm của
Hồ Biểu Chánh đến ngày nay vẫn còn thu hút được độc giả, được chuyển thể
thành phim truyện, kịch nói, cải lương. Thậm chí, những tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh do nhà xuất bản Tiền Giang in và phát hành đã tạo thành một
“hiện tượng xuất bản” trong ngành xuất bản. Người đọc đến với tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh với nhiều lý do, có người tìm đọc vì nhiệm vụ nghiên cứu
bảo tồn di sản văn học của tiền nhân, nhưng đa số độc giả đọc và yêu thích
nó vì trong nội dung của những tác phẩm này ẩn chứa những tâm tư tình
cảm, phong tục, lối sống, lời ăn tiếng nói của con người Nam Bộ thuần phác
hồi đầu thế kỉ trước. Trong đó có nhiều giá trị mất đi và có thể không bao giờ
quay trở lại trong cuộc sống con người hiện đại ngày nay.
Nghiên cứu văn nghiệp Hồ Biểu Chánh, đặc biệt là mảng tiểu thuyết là
một việc làm cần thiết và có ý nghĩa.
1. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ
Tiên, về sau lấy tự làm bút hiệu chính thức; sinh tại làng Bình Thành, huyện
Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Long An), trong một gia đình nông dân
nghèo. Năm lên chín tuổi, Bồ Biểu Chánh bắt đầu học chữ nho ở trường làng,
sau đó học chữ quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi (1896-1898)
rồi sau đó là trường tỉnh Gò Công (1898-1901), trường trung học Mỹ Tho
(1902-1903), trường Chasseloup Laubat Sài Gòn (1904-1905). Cuối năm
1905 Hồ Biểu Chánh đậu bằng Thành chung. Năm 1906 ông thi đậu Ký lục
soái phủ Sài Gòn, làm việc tại dinh thượng thư Sài Gòn. Năm 1911, ông bị
chuyển về công tác tại Bạc Liêu vì bị nghi ngờ có liên hệ với nhóm minh tân
của Trần Chánh Chiếu. Một năm sau (1912), ông chuyển xuống công tác tại
Cà Mau. Năm 1918, Hồ Biểu Chánh được chuyển về làm việc tại Gia Định.
Năm 1920, ông làm việc trong văn phòng Thống đốc Nam Kỳ. Năm 1921, ông
thi đậu ngạch tri huyện. Năm 1927, ông được thăng tri phủ, nhậm chức chủ
quận Càng Long (Vĩnh Bình). Năm 1932, ông làm chủ quận Ô Môn (Cần
Thơ). Năm 1937, Hồ Biểu Chánh được phong Đốc phủ sứ sau gần ba mươi
năm làm việc cho chính phủ Pháp. Cùng năm 1937, Hồ Biểu Chánh xin hồi
hưu nhưng chính phủ Pháp không cho vì chưa có người thay thế. Năm 1941,
ông được cử làm Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương, rồi Nghị viện
Hội đồng thành phố Sài Gòn kiêm Phó Đốc lý. Năm 1942, Hồ Biểu Chánh
ngầm nhận tiền của Sở thông tin tuyên truyền Pháp để ra Nam kỳ tuần báo và
Đại Việt tạp chí. Năm 1946 Hồ Biểu Chánh làm cố vấn và đổng lý văn phòng
trong chính phủ “Nam kỳ tự trị” do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thành lập. Sau
khi Nguyễn Văn Thinh tự vẫn, Hồ Biểu Chánh lui về sống cuộc đời thanh
bạch. Ông mất ngày 4 tháng 11 năm 1958 tại Phú Nhuận, hưởng thọ 74 tuổi.
Sau gần 50 năm cầm bút, Hồ Biểu Chánh đã để lại 64 bộ tiểu thuyết, 11
đoản thiên và truyện ngắn, 2 dịch phẩm 12 kịch bản sân khấu (hài kịch, hát
bội, cải lương), 23 công trình khảo cứu, 3 tập thơ (Biểu Chánh thi văn chưa
XB), và hàng chục bài báo thuộc nhiều lĩnh vực. Nhìn vào văn nghiệp của Hồ
Biểu Chánh chúng ta thấy ông có một sức lao động phi thường. Trong lịch sử
văn học hiếm có một cây bút nào có được sự sáng tạo bền bỉ như vậy.
2. MỘT THẾ KỶ NGHIÊN CỨU VÀ TIẾP NHẬN THƠ VĂN HỒ BIỂU CHÁNH
Hơn một thế kỷ qua, các sáng tác của Hồ Biểu Chánh đã được độc giả
đón nhận nồng nhiệt, các nhà phê bình nghiên cứu lưu tâm tìm hiểu.
– Giai đoạn trước năm 1945 có các ý kiến của Minh Quang, Thiếu Sơn,
Vũ Ngọc Phan, Phan Khôi, Kiều Thanh Quế…Nhìn chung các ý kiến của các
nhà nghiên cứu vừa nêu là đánh giá cao tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ở các
mặt nội dung và kỹ thuật viết.
– Giai đoạn 1945 – 1975 có các ý kiến của Nghiêm Toàn, Nguyễn
Khuê, Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Phạm Việt Tuyền, Bùi Đức Tịnh, Sơn
Nam, Bình Nguyên Lộc, Dương Nghiễm Mậu, Đông Hồ, Huỳnh Phan Anh, Hồ
Hữu Tưởng, Phan Cự Đệ…
+ Có thể thấy, sau Vũ Ngọc Phan (đề cập Hồ Biểu Chánh trong một
công trình có tính cách biên khảo), Nghiêm Toàn đã đề cập đến Hồ Biểu
Chánh trong Việt Nam văn học sử trích yếu như một tác gia có vị thế văn học
sử hẳn hoi.
+ Phạm Việt Tuyền diễn thuyết tại trường quốc gia âm nhạc Sài Gòn về
tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tựa đề “Đọc truyện diễn ca U tình lục – tác phẩm
đầu tay khá diễm lệ của nhà tiểu thuyết bình dân Hổ Biểu Chánh”, bài này sau
đăng trên Nghiên cứu văn học số 2, 1971, và in lại trong Tôi đọc thơ, Phong
trào văn hóa Xb, SG, 1973. Bài viết của Phạm Việt Tuyền đã khảo rất kỹ về
nội dung và nghệ thuật của U tình lục và chỉ ra những yếu tố của văn học
truyền thống và những mặt cách tân trong tiểu thuyết này.
+ Trong một số kỷ niệm đặc biệt của Tạp chí Văn (số 80 (49–54) ngày
15/4/1967) về Hồ Biểu Chánh, các nhà văn, nhà nghiên cứu đã đành giá cao
những đóng góp của Hồ Biểu Chánh cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại. Các bài viết của Thanh Lãng “Hồ Biếu Chánh (1885–/958)”,
của Thiếu Sơn “Nhớ Hồ Biểu Chánh”, của Hồ Hữu Tường “Nhập mộng và
tỉnh mộng”, của Bình Nguyên Lộc “Biến cố và chiếc cầu Hồ Biểu Chánh”, của
Sơn Nam “Nghĩ về Hồ Biểu Chánh”, của Huỳnh Phan Anh “Ghi nhận về Hồ
Biểu Chánh”, của Dương Nghiễm Mậu “Từ đó đến nay” của Đông Hồ “Hồ
Biểu Chánh: nhà văn bạch thoại miền Nam” và “Hồ Biểu Chánh: một nhà văn
viết rất siêng năng”. Tuy là một số kỷ niệm nhưng các bài viết đã đề cập đến
nhiều phương diện về con người (công chức, nhà văn) và sự nghiệp của Hồ
Biểu Chánh.
+ Năm 1974, Nguyễn Khuê cho ra mắt chuyên luận Chân dung Hồ Biểu
Chánh. Đây là công trình dày dạn công phu nhất so với các công trình bàn về
Hồ Biểu Chánh trước đó. Công trình khảo một cách toàn diện các vấn đề tiểu
sử, văn bản tác phẩm, nội dung thơ và tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, nghệ thuật
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cùng địa vị của tác giả trong văn học sử. Lần đầu
tiên chân dung Hồ Biểu Chánh không chỉ hiện ra trước mắt độc giả là một
công chức hanh thông trên con đường hoạn lộ mà còn là một nhà báo, nhà
thơ, nhà biên khảo, và hơn nữa là tiểu thuyết gia có tầm ảnh hưởng to lớn đối
với công chúng Nam Bộ đương thời.
– Giai đoạn 1975 đến nay có ý kiến đánh giá của Nguyễn Văn Trung,
Bằng Giang, Nguyễn Văn Y, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Ngọc Lan, Trần Hữu Tá,
Hoài Anh, Đinh Trí Dũng, Tôn Thất Dụng, Võ Văn Nhơn, Huỳnh Thị Lan
Phương, Huỳnh Thị Lành…Nhìn chung các ý kiến đều thống nhất cho rằng
Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết gia có nhiều đóng góp quan trọng cho tiến trình
hiện đại hóa văn học nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng nửa đầu thế kỷ
XX.
3. NỘI DUNG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh các yếu tố phong tục, đạo lý,
phiêu du và diễm tình kết hợp nhuần nhuyễn với nhau. Trong bốn yếu tố vừa
nêu, hai yếu tố phiêu lưu và diễm tình dường như là yếu tố bề nổi, nằm nơi
sự kiện, tình tiết nhằm thu hút độc giả; hai yếu tố còn lại thuộc về chiều sâu
trong cấu trúc nghệ thuật, ẩn chứa những tâm niệm của tác giả muốn gửi
gắm là phong tục và đạo lý. Bốn yếu tố này kết hợp với nhau tạo nên nét hấp
dẫn và độc đáo nơi nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết của ông.
3.1. Yếu tố phong tục, tập quán.
– Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chứa đựng phong tục tập quán, cung
cách sinh hoạt của người dân miền Lục tỉnh sông nước những năm đầu thế
kỷ XX, vì thế có nhà nghiên cứu đã xếp ông vào hàng tiểu thuyết gia phong
tục. Nhiều nét đặc trưng của văn hóa, phong tục Nam Bộ được Hồ Biểu
Chánh miêu tả trong tác phẩm của mình, từ phong tục cưới hỏi, ma chay, lễ
tết, quan niệm sống cho đến cách ăn uống, làm nhà, làm ruộng, món ăn,
trang phục…Nhà thơ Đông Hồ từng nhận xét: “Nói chung, nếu bây giờ, nhà
khảo cứu nào muốn khảo cứu những sinh hoạt bề ngoài của xã hội miền Nam
Lục tỉnh, tôi nói lại “những sinh hoạt” bề ngoài dưới thời thuộc địa Pháp, cứ
đọc khắp hết tiêu thuyết của Hồ Biểu Chánh thì nhận thấy rõ đủ mọi khuôn
mặt trong một nếp sống đặc thù khác hẳn hai miền Trung Bắc”. (Đông Hồ, Hồ
Biểu Chánh: nhà văn bạch thoại miền Nam, Tạp chí Văn, 15/4/1967, số 80
(68–73), Sài Gòn, 1967). Khi đề cập đến ý hướng phong tục trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Khuê cho rằng: “Phô bày thực trạng gia đình và xã
hội, Hồ Biểu Chánh không nhằm đả phá những cái cũ và hô hào mọi người
theo mới như Tự lực văn đoàn. Đối với ông, cái cũ cũng như cái mới, đều có
những hay, dở riêng của nó”. (Nguyễn Khuê, Chân dung Hồ Biểu Chánh,
Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn 1974, ti.255)
3.2. Yếu tố đạo lý
– Yếu tố đạo lý có thể nói là xuyên suốt và là căn bản của tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh. Xây dựng tác phẩm theo quan điểm đạo lý là xuất phát
từ chủ ý của tác giả. Trong Đời của tôi về văn nghệ, ông khẳng định: “Viết tiểu
thuyết để cảm hóa đặng lần lần dắt quần chúng trở về đường chánh đại
quang minh”. Về cuối đời, ông tự nhận thấy: “Sản xuất cả mấy chục pho tiểu
thuyết… luôn luôn tôi vẫn theo đuổi một cái mục đích là: Thành thân với thủ
nghĩa” (Dẫn Theo Nguyễn Khuê, Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nxb. Lửa
Thiêng, Sài Gòn 1974, tr. 174). Chúng tôi nghĩ, bên cạnh những yếu tố thuộc
về mặt chủ quan trong nhân sinh quan của tác giả, có một mặt khác không
kém phần quan trọng là yếu tố độc giả đã chi phối ý hướng đạo lý của Hồ
Biểu Chánh. Độc giả Nam Bộ phần đông quen thưởng thức văn chương chứa
đựng và đề cao đạo lý (ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa và ý đồ nô dịch về
văn hóa của thực dân Pháp). Thời của Hồ Biểu Chánh, viết văn đã trở thành
một nghề như bao nghề khác trong xã hội. Một khi văn chương trở thành
hàng hóa thì yếu tố người đọc (người tiêu dùng) rất quan trọng. Hồ Biểu
Chánh cũng có lúc đã ý thức tìm tòi đổi mới nhưng vì thói quen của độc giả
(cần đáp ứng nhu cầu của số đông) nên ông vẫn trung thành của lối viết đã
định hình từ những bước khởi đầu.
– Có thể thấy, xuyên suốt các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là một
bản hòa tấu giai điệu yêu thương của tình cha con, chồng vợ, trai gái thủy
chung cùng những dạo lý cương thường, đối nhân xử thế của các nhân vật.
Bên cạnh một bức tranh hiện thực rộng lớn, đa chiều là vô số những hoàn
cảnh trái ngang, những bi kịch gia đình và bi kịch cá nhân được thể hiện. Dẫu
thế, cuộc sống tuy phức tạp, sự đời lắm éo le, nhưng người tốt dù gặp nhiều
tai họa, cuối cùng vẫn tìm được hạnh phúc, cùng với sự suy vi của các thế
lực ác nghịch. Thông qua các câu chuyện, các số phận của nhân vật, Hồ Biểu
Chánh có dịp bày tỏ, phát biểu quan điểm đạo lý. Nhà văn bày tỏ thái độ tin
tưởng vào lẽ phải, lên tiếng ủng hộ lẽ phải, phê phán cái xấu, cái ác, những
điều trái với đạo lý, trái với thuần phong, mỹ tục.
– Hầu hết các tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh kết thúc có hậu, thể hiện quan
niệm đạo lý của tác giả: Thiện ác đáo đầu chung hữu báo. chí tranh lai tảo dữ
lai trì (Thiện ác cuối cùng đều báo ứng, chẳng qua là sớm hay muộn mà thôi).
Quan điểm đạo lý của nhà văn thể hiện qua cái nhìn cuộc sống và con người
theo luật nhân quả. Người tốt, sau khi gặp những khó khăn, bất trắc, thường
nhận được kết cục có hậu. Nhiều nhân vật nhận có cuộc sống tốt đẹp sau
bao nhiêu sóng gió cuộc đời như mẹ con cô Hảo (Cười gượng), của cô Thu
Hà (Khóc thầm), của Yến Tuyết (Tỉnh mộng), của chị em Quý (Mẹ ghẻ con
ghẻ), của cô Ba Mạnh (Con nhà giàu), của cha con Trần Văn Sửu (Cha con
nghĩa nặng), của cô Hai Phục (Nợ đời)… ánh sáng của lòng thiện nơi các
nhân vật này đã tỏa sáng khắp trang viết của nhà văn. Người hiền lương sớm
hay muộn cũng vượt qua những khó khăn; gian khó, kẻ tàn bạo độc ác trước
sau gì cũng bị trừng phạt. Cùng với sự “trở về” của những con người lương
thiện (trong quan niệm của tác giả là đại diện cho cái tốt sau bao nhiêu sóng
gió cuộc đời là sự suy vong, triệt tiêu của cái ác, cái xấu. Người đọc không
thể không xót xa cho tình cảnh của một cô Hảo trong Cười gượng. Cũng như
nhiều nhân vật phụ nữ bất hạnh khác trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Hảo
xinh đẹp, có công dung ngôn hạnh nhưng phải chịu nhiều éo le. Cô xuất thân
từ gia đình tá điền nghèo, cha mất sớm, ở với mẹ già. Tuổi mới lớn, Hảo
choáng ngợp trước Tô Hồng Xương, đẹp trai, giàu có. Hảo yêu Xương không
vụ lợi. Thế nhưng gia đình Tô Hồng Xương cho rằng Hảo không xứng đáng
bước vào gia đình họ Tô vì cô “quá nghèo”. Mẹ con Hảo bị gia đình Tô Hồng
xương mua chuộc, đe dọa đến phải bán nhà tha hương cầu thực. Hảo lên Sài
Gòn kiếm sống với bào thai đang lớn dần, kết quả của mối tình ngang trái.
Nơi Sài Gòn hào nhoáng, trên bước đường mưu sinh dù cực khổ, Hảo vẫn cố
gắng tồn tại, sinh con rồi nuôi con. Ông trời không chặt hết đường của người
lương thiện, trong khi cuộc sống tưởng không lối thoát, Hảo may mắn trúng
xổ số độc đắc. Từ đó cuộc sống gia đình Hảo khá giả hơn. Trong thời gian đó
Tô Hồng Xương ở quê, nghe lời mẹ đi cưới một cô vợ giàu, nhưng cuộc sống
không hạnh phúc. Xương thường bị vợ và gia đình vợ sỉ nhục và cuối cùng thì
bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng. Gia đình họ Tô cũng bắt đầu sa sút,
khánh kiệt, vướng cảnh nợ nần. Cuộc “trở về” của mẹ con Hảo đã cứu gia
đình họ Tô thoát cảnh phá sản. Cảnh đại đoàn viên mà gia đình Hảo có được
trong Cười gượng chỉ sau bao nhiêu biền cố đổ xuống cuộc đời của cô; gia
đình cô, của gia đình Tô Hồng Xương. Với nụ cười gượng ăn năn của Tô
Hồng Xương cuối truyện, Hồ Biểu Chánh như muốn nhắn nhủ người đời là
đừng vì đồng tiền mà coi rẻ hạnh phúc gia đình, coi rẻ tình yêu chân thực. Mô
típ “ra đi và trở về”, xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Cũng
giống như Hảo (Cười gượng), Trần Văn Sửu (Ngọn cỏ gió đùa), Quý (Mẹ ghẻ
con ghẻ) cũng gây cho người đọc nhiều thương cảm. Quý tuổi còn nhỏ đã mồ
côi mẹ, ở với chị và cha. Cuộc sống của cha con Quý bị xáo trộn khi người
cha cưới thêm một người vợ trẻ. Chị em Quý bị người mẹ kế đối xử tệ bạc.
Một thời gian sau khi người cha mất, Quý từ biệt chị lên Sài Gòn kiếm sống
và học hành. Sau khi thành danh, có tiền, anh trở về quê và giúp mẹ ghẻ
thoát cảnh tán gia bại sản vì nợ nần. Cách ứng xử cao thượng, vị tha của
Quý, người đọc có thể bắt gặp nhiều trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Hành
động và suy nghĩ của Quý thường xuất phát từ chữ nghĩa, chữ tình.
– Tư tưởng vì nghĩa vì tình là tư tưởng được Hồ Biểu Chánh đề cao
như nhan đề một cuốn tiểu thuyết của ông: Vì nghĩa vì tình. Vì nghĩa vì tình
mà Quý, sau khi đỗ đạt và trở nên giàu có vẫn không quên nơi chôn nhau cắt
rốn, không quên dì Ba Thời thật thà tốt bụng, cô Hường chân chất mộc mạc,
những người từng đùm bọc anh từ thuở hàn vi. Quý càng không lấy uy thế và
tiền bạc và uy thế của quan Kinh Lý để uy hiếp trả thù mẹ ghẻ, mà còn cung
kính, hiếu thuận hơn xưa. Vì tình mà cô Ba Mạnh (Con nhà giàu) sẵn sàng bỏ
qua lỗi lầm của chồng là Thượng Tứ để hàn gắn hạnh phúc gia đình. Nhờ Ba
Mạnh mà Thược Tứ trở thành một điền chủ tốt bụng, được tá điền tin yêu. Vì
hiếu mà cô Xuân Hương (Một đời tài sắc) có học thức, được người yêu và
yêu lại. Tình yêu của cô chỉ đợi ngày kết trái, nhưng vì muốn cứu cha mẹ
thoát khỏi cảnh nợ nần nên đành chôn kín “một đời tài sắc” trong kinh kệ. Vì
chữ tình mà Trần Văn Sửu (Cha con nghĩa nặng) luôn sống trong dằn vặt khổ
đau. Nhật vật này là biểu trưng cho hình ảnh người cha, người chồng hiền
lành hết mực thủy chung. Sửu vô tình giết chết người vợ bội bạc, trên bước
đường trốn chạy, hình ảnh những đứa con tội nghiệp luôn luôn ám ảnh tâm
hồn đáng thương của anh. Mối lo sợ các con hiểu lầm hành động giết vợ
khiến anh day dứt khôn nguôi. Không chỉ những nhân vật chính diện trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh mới có hành động trượng nghĩa, mà rất nhiều
những nhân vật phụ khác đã bồi đắp thêm khiến người đọc có một tin tưởng:
nó là một điều phổ biến trong cuộc sống thường nhật của con người. Chẳng
hạn như trong Cha con nghĩa nặng, người đọc có thể bắt gặp hàng loạt nhân
vật có tư tưởng vì nghĩa vì tình, không vụ lợi như Hương thị Tào, Hương
quản Tồn; là vợ chồng hương Sư trong Cười gượng đã giúp Hảo vì một lý do
rất đơn giản và thành thực: “Tại cháu mình dại nên nó mới khổ như vầy. Mình
thượng nó, thì cũng như thương cháu mình thôi”. Xét cho kỹ, tư tưởng vì
nghĩa của Hồ Biểu Chánh cũng như một số nhà văn Nam Bộ khác cùng thời
không phải bó hẹp trong phạm vi của Nho giáo, mà là chữ “nghĩa” của người
bình dân Nam Bộ, nơi miền đất mới khai phá, ít có ảnh hưởng trực tiếp của
thứ Nho giáo xơ cứng như miền đất cổ của nó. Từ trong truyền thống Nam Bộ
đã sẵn có một tâm hồn hào hiệp, cái hào hiệp của Lục Vân Tiên giữa đàng
thấy chuyện bất bình chẳng tha đó cho đến mãi sau này vẫn còn, còn trong lối
ứng xử thường nhật của người dân, trong những trang viết thấm đẫm chất
nhân văn của các nhà văn phương Nam, mà ngọn cờ đầu, người bền bỉ theo
đuổi là Hồ Biểu Chánh. Đó là thứ tình cảm có thật, cảm động, gần với tâm lý
của nhân dân, không thấy gì là giả tạo.
3.3. Yếu tố phê phán
– Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, yếu tố phê phán trở thành một
nét chủ đạo nổi bật. Cảm hứng phê phán trong văn chương thường gắn liền
với sự quan tâm của nhà văn tới những xung đột xã hội, xung đột nội tâm
riêng tư của con người. Khi nào cuộc sống xuất hiện và tồn tại những mối
mâu thuẫn giữa các giai cấp, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thiện và cái ác,
giữa cái lạc hậu trì trệ với cái tiến bộ còn tồn tại, thì lúc đó, cảm hứng phê
phán sẽ có cơ sở để hình thành và phát triền. Hồ Biểu Chánh sáng tác trong
điều kiện xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi và phân hóa sâu sắc trước sự
xâm lược của thực dân Pháp.
– Cảm hứng phê phán trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh chính là hồi
chuông gióng lên để cảnh tỉnh về tình trạng tha hóa ở phương diện nào đó
trong đạo đức và nhân cách của con người. So với nhiều tác phẩm mang cảm
hứng phê phán cùng thời ở miền Bắc, cảm hứng phê phán trong tiều thuyết
Hồ Biểu Chánh vừa có điểm chung nhưng đồng thời cũng có những đặc điểm
riêng dễ nhận thấy. Điểm khác biệt lớn nhất là sự phê phán trong nhiều tác
phẩm miền Bắc gắn liền với quá trình mổ xẻ, đấu tranh không khoan nhượng,
một mất một còn với cái xấu, cái nhố nhăng, đểu giả, trong các mối quan hệ
của con người và xã hội. Trong khi đó tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh mang
cảm hứng phê phán “điều hòa”, thể hiện ở việc kêu gọi, thức tỉnh cái xấu, cái
ác hãy quay về con đường chính đạo. Quá trình đấu tranh phê phán của Hồ
Biểu Chánh cuối cùng cũng với mục đích là “xây dựng” lại trật tự xã hội, thức
tỉnh lương tâm con người. Chính cái nhìn các mối quan hệ của con người,
các hiện tượng xã hội bằng cảm quan và cặp mắt đạo lý đã khiến cho cảm
hứng phê phán của Hồ Biểu Chánh bớt gay gắt. Hành động của chị Dậu trong
Tắt đèn của Ngô Tất Tố khi vùng chạy thoát ra khỏi nhà của tên quan Phủ bỉ
ối là một lới tuyên chiến với cái xấu, cái ác, cái trì trệ bảo thủ. Hành động đó
cũng cho thấy mối mâu thuẫn giữa cái ác và cái thiện, giữa những kẻ bóc lột
và người bần hàn đã đến độ đối kháng gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết.
Tính chất phê phán trong Tắt đèn vì thế, không chỉ dừng ở mức độ đấu tranh
gay gắt mà hơn thế nữa, là cuộc đấu tranh không khoan nhượng, không thỏa
hiệp. Tính chất này rất ít thấy trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Chẳng hạn,
trong tiểu thuyết Mẹ ghẻ con ghẻ, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng câu chuyện về
mối quan hệ giữa mẹ ghẻ và con chồng: Nhà văn phê phán thói ích kỷ, nhỏ
nhen của con người thông qua hình tượng người mẹ ghẻ. Vì lo vun vén cho
hạnh phúc riêng, cho con riêng, mà người phụ nữ này nỡ đọa đày đứa con
của chồng không thương xót. Tính chất phê phán càng nổi bật khi tác giả chú
trọng miêu tả sự đối lập về nhân cách giữa các nhân vật. Thế nhưng, mâu
thuẫn giữa mẹ ghẻ và con chồng được “hóa giải” về cuối câu chuyện khi nhân
vật quý đã “lấy ơn trả oán”, bỏ qua mọi lỗi lầm của mẹ ghẻ. Cảm động trước
tấm lòng chân thành và sự ứng xử khôn ngoan của Quý, bà mẹ vốn cay độc,
tham lam, ích kỷ đã hối hận và nhận ra lỗi lầm của bà. Từ đó bà trở nên một
người hiền lành, nhân hậu.
– Cái xấu, cái ác được Hồ Biểu Chánh đem phê phán ít khi bị đẩy đến
“bước đường cùng” mà được “cảm hóa” bởi cái tốt. Cái tốt có khả năng chế
ngự cái xấu. Đó có phải là một ảo tưởng? Nhiều mẫu hình nhân vật được Hồ
Biểu Chánh nhào nặn thành cực đoan, nham hiểm, xấu xa, lầm lạc, sa ngã…
và rồi chính nhà văn lại cho họ một cơ hội để trở nên người tốt, có ích. Cái
nhìn đó là một cái nhìn lý tưởng hóa. Bởi vì thực tế cuộc đấu tranh giữa cái ác
và cái xấu là không ngang sức: cái đẹp thì mong manh, dễ vỡ, lòng tốt thì
vụng dại, ngây thơ, còn cái ác, cái đểu cáng thì dạn dĩ, liều lĩnh, thông minh.
– Đối tượng phê phán trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh hết sức đa
dạng, nhưng tập trung chủ yếu là tầng lớp trên của xã hội. Đó là những quan
huyện, quan chủ, Hương chức, hội tề ở làng xã thôn quê có tính tham lam
độc ác; những ông Hội đồng, bà Hội đồng, bà Phủ, những ông chúa đất bóc
lột dân nghèo tận xương tủy. Hình tượng Vinh Thái trong Khóc thầm tiêu biểu
cho sự bóc lột của địa chủ phong kiến đối với tá điền nghèo khổ ở vùng đồng
bằng Nam Bộ. Thái dùng nhiều mưu kế tinh vi để biến tá điền thành nô lệ gắn
chặt với ruộng đất của y. Chẳng hạn, tá điền muốn mướn đất canh tác thì
phải vay y một khoản tiền hoặc lúa. Lúa và tiền cuối mùa phải trả với là suất
“cắt cổ”. Nếu tá điền nào không vay thì y sẽ đòi lại đất. Cứ thế, người nông
dân không bao giờ thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của nợ nần chồng chất, trở
thành kẻ suốt đời phụ thuộc. Cai tổng Hiếu trong Con nhà nghèo cũng là nhân
vật điển hình của nạn bóc lột tô địa ở miệt vườn Nam Bộ: Gia đình Cai tuần
Bưởi quanh năm làm cật lực cũng chỉ đủ nộp cho bà Cai tổng vì giá tô quá
cao. Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh còn phê phán những thói hư tật xấu, những
chuyện thông dâm, hãm hiếp, phụ tình…
4. NGÔN NGỮ VÀ NHÂN VẬT
4.1. Ngôn ngữ nghệ thuật mang tính chất bình dân
– Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh gần với ngôn ngữ người
bình dân do vậy rất sống động và rất chân thực. Trong khi viết, Hồ Biểu
Chánh đã có ý thức viết cho đông đảo quần chúng bình dân đọc. Vì vậy ông
đã chú ý sử dụng từ ngữ thật giản dị. Việc sử dụng khéo léo và phong phú
lớp từ địa phương, đặc biệt là khẩu ngữ tự nhiên góp phần tạo nên dấu ấn
riêng của phong cách tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Nhiều từ ngữ mang đặc
trưng riêng của Nam Bộ xuất hiện trên trang viết của Hồ Biểu Chánh như
giống gì, nín khe, buồn hiu, thiệt tốt, mấy bữa rày, lung lắm, đi riết, không dè,
mừng quýnh, quấy, mấy bữa rày, lạ hoắc, từ rày sắp lên,…
– Văn phong của Hồ Biểu Chánh đôi lúc vẫn chưa thoát khỏi tính chất
biền ngẫu.
4.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
– Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh rất đông đảo, đủ
các thành phần trong xã hội miền Nam Kỳ đầu thế kỷ XX như thông ngôn ký
lục, thợ thuyền, trẻ em bán báo, con sen, gái điếm, trưởng giả thượng lưu, trí
thức thành thị, tá điền, điền chủ, cường hào ác bá, hương chức hội tề…
– Nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh xuất hiện tự nhiên và sinh
động qua những phác thảo về ngọai hình, hành động và tính cách. Nhân vật
trước hết được miêu tả qua diện mạo, cử chỉ, sắc phục, điệu đi tướng đứng.
Thông qua diện mạo bên ngoài, người đọc dễ dàng phần nào nhận biết được
tính cách, thành phần xuất thân và số phận của nhân vật. Chỉ vài ba nét đơn
sơ, dăm ba hàng thật linh động, Hồ Biểu Chánh đã có thể phác họa nên chân
dung nhân vật. Chẳng hạn hình ảnh Xuân Hương trong Một đời tài sắc: “Cô
Xuân Hương ở nhà một mình, cô đốc phách gia địch đứa vô phân mấy bình
bông, đứa làm cỏ ngoài sau vườn. Cô mặc áo lụa trắng, quần lãnh đen, đầu
gở sơ, chơn mang guốc, tai đeo một đôi bông lớn, tay trái đeo một chiếc vàng
nhận hột xoàn, cô không trang điểm, không dồi phấn thoa son, mà vì cô có
sắc sẵn, cô lại có duyên ngầm, tướng đi dịu dàng, gương mặt sáng rỡ, bởi
vậy ai thấy cô cũng trầm trồ khen thầm là gái đẹp. Các chi tiết bình thường
nhỏ nhặt làm nên hình hài và tính cách nhân vật thường được Hồ Biểu Chánh
chú trọng. Nhân vật được miêu tả từ những yếu tố nhỏ như mái tóc, hàm
răng, điệu cười, ánh mắt, tướng đi, quần áo, trang sức cùng những cử điệu
của con người bình thường, tự nhiên. Do vậy, nhân vật đã thoát khỏi cách
miêu tả trong văn học trung đại kiểu “Râu hùm hàm én mày ngài/ Vai năm tấc
rộng thân mười thước cao” (Truyện Kiều) để trở về khuôn mẫu của đời thực.
– Tính cách nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn được nhận
biết qua tên gọi. Tên gọi của nhân vật phần nào cho thấy bản chất, cá tính
nhân vật mà nhà văn muốn xây dựng. Chẳng hạn những cái tên Chí Đại (Ai
làm được), Thủ Nghĩa (Chúa tàu Kim Quy), Hảo (Cười gượng), Hương sư
Thiện (Cười gượng), Chánh Tâm (Vì nghĩa vì tình), Hạnh (Kẻ oán người
ưng), Quý (Mẹ ghẻ con ghẻ), Tự Cường (Tại tôi); Minh Tâm (Ông cử),…gợi
nhắc họ là những con người có phẩm hạnh tốt. Còn những cái tên mang hàm
ý xấu như Tư Tiền (Vì nghĩa vì tình): vợ một tên trộm ham tiền, Hai Nghĩa
(Con nhà nghèo): tên Nghĩa nhưng sống ở đời không có “nghĩa nhân”, văn sĩ
Chí Cao (Cả kinh): có tài ăn nói, miệng lưỡi luôn đề cập đến cái đẹp, cái cao
cả nhưng ngược lại hành động lại dâm ô, chuyên gạt gẫm người nhẹ dạ.
– Hồ Biểu Chánh thường để cho nhân vật của mình “xê dịch” trong một
khoảng thời gian và không gian địa lý cụ thể. Quá trình “xê dịch”, qua những
vùng đất mà dấu chân của nhân vật đặt tới, nhà văn có điều kiện thuận lợi để
mô tả phong cảnh và con người ở tầm bao quát rộng lớn. Điều đó lý giải vì
sao tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đầy ắp các sự kiện, yếu tố thuộc về phong
tục tập quán của nhiều vùng đất. Xét về mặt nghệ thuật, là một chủ ý của Hồ
Biểu Chánh. Như ông có lần tiết lộ với một cộng sự ở tòa soạn Đại Việt tạp
chí khi người đó hỏi ông “bí quyết” nào khiến độc giả mọi tầng lớp say mê tác
phẩm của ông như vậy. Hồ Biểu Chánh tâm sự là trong khi xây dựng các tác
phẩm, ông cố gắng lồng ghép phong cảnh, con người và cung cách sinh hoạt
của thôn quê và thành thị với nhau. Người thôn quê khi đọc tiểu thuyết của
ông sẽ rất thích thú với những điều mới lạ, hiện đại và hào nhoáng của đô thị,
ngược lại những thị dân sẽ được sống với một không khí thôn quê yên bình
khó tìm thấy nơi cuộc sống phồn tạp của họ. Quá trình “xê dịch” tạo ra hai khả
năng cho nhân vật. Một là những phẩm chất tốt đẹp vốn có của nhân vật càng
thêm thử thách, tôi luyện. Khả năng thứ hai, qua việc tiếp xúc với xã hội rộng
lớn, nhân vật có điều kiện học hỏi, mở mang tầm mắt và yêu quý con người
hơn, qua đó hình thành nên những phẩm chất cao quý của nhân vật.
– Nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thường thiên về hành
động, phiêu lưu khiến cho độc giả hết sức thích thú, hồi hộp. Nhân vật thường
được chú ý miêu tả với hành động phiêu lưu trên những không gian rộng lớn
với những bất trắc của cuộc đời, những cuộc chia ly và gặp gỡ kỳ thú. Đó là
những cuộc phiêu lưu của Trần Văn Sửu trong quá trình chạy trốn nhà đương
cục vì tội ngộ sát vợ (Cha con nghĩa nặng), của Quý (Mẹ ghẻ con ghẻ), của
Ba Lân (Lời thề trước miếu), của Hai Phục (Nợ đời), của Hai Cường, Lê
(Sống thác với tình), Thu Hà (Chút phận linh đinh), Bạch Tuyết, Chí Đại (Ai
làm được)…Việc xây dựng cốt truyện, nhân vật thiên về hành động, phiêu lưu
của Hồ Biểu Chánh có lẽ chịu ảnh hưởng một phần từ truyền thống văn học
Nam Bộ và từ văn học nước ngoài. Trong truyền thống văn học Nam Bộ,
truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm chứa đựng nhiều yếu tố phiêu lưu ly kỳ nơi
cốt truyện vả nhân vật. Những tiểu thuyết nước ngoài có ảnh hưởng đến tiểu
thuyết Nam Bộ phần lớn là những tiểu thuyết có cốt truyện phiêu lưu, chứa
nhiều hành động. Chẳng hạn như các tiểu thuyết Trung Hoa (Tam quốc chí,
Thủy hử, Đông chu liệt quốc, Càng Long du Giang Nam…), tiểu thuyết Pháp
(La com te de mon te Cristo, Sans famle, Les miserables…). Những tác phẩm
thời kỳ đầu (Chúa tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời, Ngọn cỏ gió đùa…) của
Hồ Biểu Chánh chủ yếu được phóng tác từ một số tiểu thuyết dồi dào tình tiết
phiêu lưu nơi cốt truyện và nhân vật trong văn học Pháp.
– Hồ Biểu Chánh rất thành công trong việc khắc họa tính cách của
nhân vật thông qua đối thoại. Nhiều mẫu đối thoại trong tiểu thuyết của ông
chẳng khác ngoài đời là mấy. Có thê thấy rằng, do mật độ ngôn ngữ đối thoại
cao nên câu văn Hồ Biểu Chánh tương đối giàu nhạc tính, diễn biến câu
chuyện nhanh, nhiều kịch tính, nhiều bất ngờ thú vị. Nhà văn đã đem ngôn
ngữ đời sống vào trang viết nên đã khắc họa được nhiều con người như đang
hiển hiện đâu đó trong đời sống thường nhật của vùng Nam Bộ từ thành thị
cho tới thôn quê. Thế giới nhân vật Hồ Biểu Chánh khá đa tranh với những
kiểu đối thoại và giọng điệu khác nhau. Điều đó khiến cho tiêu thuyết của ông
được quần chúng bình dân ưa đọc.
4.3. Kết cấu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
– Trong một số sáng tác thời kỳ đầu, Hồ biểu Chánh đã kế thừa những
kinh nghiệm xây dựng kết cấu từ truyện thơ Nôm. Hai tác phẩm mang đậm
dấu ấn kết cấu truyện thơ Nôm là U tình lục và Vậy mới phải. Trong hai tác
phẩm này, tác giả đã xây dựng bố cục theo các phân đoạn hội ngộ, lưu lạc và
đoàn viên. Tác phẩm có các phần: phần Lung (luận về sự xung đột giữa hiếu
và tình) – Truyện (đính hôn – thù hận – chia lìa) – Kết (Khuyên người ta lấy
tích xưa mà cân nhắc phải chăng – lời khiêm nhường cuối truyện). Giai đoạn
đầu chính là giai đoạn quá độ trong phong cách tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh từ
cổ điển sang lối hiện đại.
– Sau U tình lục và Vậy mới phải Hồ Biểu Chánh chuyển sang học tập
kỹ thuật tiểu thuyết phương Tây. Trước làn sóng phiên dịch tác phẩm văn học
nước ngoài (chủ yếu là Trung Hoa và Pháp) và trào lưu sáng tác mới ở Nam
Bộ thời đó, Hồ Biểu Chánh đã có sự chuyển biến trong tư duy nghệ thuật tiểu
thuyết. Ông từng tâm sự trong phần tiểu sử: “Lúc đó cụ Trần Chánh Chiếu
cho xuất bản quyển Hoàng Tố Anh hàm oan là tiểu thuyết đầu tiên trong Lục
tỉnh, truyện tình tả nhân vật trong xứ và viết theo điệu văn xuôi. Đọc truyện
này, cảm thấy viết truyện bằng văn xuôi dễ cảm hóa người đọc hơn, bởi vậy
năm 1912 đổi xuống làm việc tại Cà Mau mới viết thử quyển Ai làm được là
quyển thứ nhất viết văn xuôi tại Cà Mau với những nhân vật cũng Cà Mau
(Dẫn theo Vương Trí Nhàn, Những lời bàn về tiểu thuyết trong Văn học Việt
Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb. Hội Nhà văn, H., 2003, tr.28). Trong
Đời của tôi về văn nghệ, Hồ Biểu Chánh cho rằng có ba tác phẩm ảnh hưởng
nhiều đến việc chuyển hướng sáng tác của ông. Đó là Truyền Thầy Lazaro
Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Thiên
Trung (tức Gilbert Trần Chánh Chiếu) và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy
Toàn. (Dẫn Theo Nguyễn Khuê, sđd; tr.23). Khoảng lặng 13 năm từ U tình lục
(1910) đến Vậy mới phải (1913) là thời gian Hồ biểu Chánh có sự đấu tranh
trong tư duy nghệ thuật và quyết định đi theo trào lưu mới. Tuy vậy, dấu vết
của truyện Nôm vẫn còn trong Ai làm được ở cung cách xây dựng mọi tình
cách nhân vật theo kiểu giai nhân tài tử và kết cấu theo chương hồi (lần tái
bản thứ 2 năm 1922, tác giả thay hồi bằng chương), kết thức có hậu (ở hiền
gặp lành, ở ác gặp giữ). Phải đến các tác phẩm Ngọn cỏ gió đùa (1926), Cay
đắng mùi đời (1923), Tỉnh mộng (1923), Con nhà nghèo (1930),… mới không
còn cách phân đoạn theo hồi (mỗi hồi là một phần, có vài câu thơ để dẫn tóm
tắt hồi, có câu hồi chỉ và khứ chỉ) mà theo chương. Tuy vậy, hầu hết tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh kết thúc có hậu. Có lẽ chính ý thức luận đề đạo lý
đã chi phối tư duy nghệ thuật của Hồ Biểu Chánh.
– Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, cách kể chuyện thường theo trình
tự thời gian chẳng hạn như Ai làm được, Chúa tàu Kim Quy (1922), Một chữ
tình (1923), Tiền bạc bạc tiền (1925), Ngọn cỏ gió đùa (1926),… Trình tự thời
gian trong các tiểu thuyết theo lối kết cấu này thường gắn với trình tự diễn
biến cuộc đời của nhân vật chính. Có khi toàn bộ diễn trình của câu chuyện
gắn liền với một khoảng thời gian ứng với cuộc đời nhân vật. Diễn biến thời
gian câu chuyện trong tác phẩm bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố có liên quan
đến nhân vật. Trong Mẹ ghẻ con ghẻ, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng logic và sự
phát triển câu chuyện theo trình.tự thời gian gắn liền với cuộc đời bôn ba
kiếm sống và học hành tại Sài Gòn của Quý. Câu chuyện bắt đầu từ khi Quý
còn nhỏ, mồ côi mẹ, sống ở quê với cha, mẹ kế và chị gái. Kết thúc chuyện là
khi Quý đã lớn tuổi, thành đạt và chuyển từ Sài Gòn về quê. Lúc này cha Quý
cũng đã qua đời, người chị đã luống tuổi nhưng vẫn chưa lập gia đình. Trong
khoảng thời gian đó, mặc dù không biết đích xác bao nhiêu năm, nhưng qua
các sự kiện dồn dập xảy ra với cuộc đời Quý, qua bao sự đổi thay, người đọc
có được một sợi dây liên tưởng về thời gian. Thời gian không ngừng vận
động theo hành động của nhân vật. Tác giả ít có sự thể hiện về thời gian quá
khứ, mà chủ yếu là thời gian của hiện tại, thời gian hướng về tương lai, về
ngày mai. Cứ như thế, câu chuyện được kể, được triển khai cùng những tình
huống, biến cố và hành động của nhân vật. Cùng dạng kết cấu với Mẹ ghẻ
con ghẻ, cuốn Cười gượng được Hồ Biểu Chánh triển khai theo diễn biến
quảng đời lưu lạc của Hảo. Có khi diễn biến của câu chuyện bám sát, thể
hiện biến cố của cuộc đời nhân vật, thời gian cốt truyện gắn với không gian
tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nếu mở đầu câu chuyện là
khung cảnh của vùng thôn quê thì kết thúc thường là khung cảnh nơi thành
thị và ngược lại. Đây là điều khiến tiểu thuyết của ông hấp dẫn người xem.
– Bên cạnh lối kết cấu theo thời gian đơn tuyến thì lối kết cấu đa tuyến,
đảo trật tự thời gian cũng được Hồ Biểu Chánh chú ý khai thác. Trong kết cấu
theo thời gian đa tuyến, yếu tố thời gian truyện bị xáo trộn, quá khứ và hiện
tại có khi được tác giả thể hiện song hành, có khi đan xen nhau làm câu
chuyện thêm hấp dẫn. Các nhân vật trong truyện vì thế được nhìn nhận từ
nhiều góc độ, tình tiết truyện trở nên lôi cuốn, khó đoán biết, bất ngờ và gay
cấn. Chút phận linh đinh (1928) là một trong những tác phẩm thể nghiệm
thành công thủ pháp đảo trật tự thời gian.
– Ngoài ra Hồ Biểu Chánh còn sử dụng nối kết cấu theo tâm lý nhân
vật. Cuốn Từ hôn (1937) – một trong những tiểu thuyết thuộc loại hay nhất
của Hồ Biểu Chánh đã phần nào sử dụng thành công lối kết cấu tác phẩm
theo tâm lý nhân vật. Hầu như toàn bộ mạch vận động cốt truyện của Từ hôn
là diễn biến tâm lý của Tất Đắc. Câu chuyện bắt đầu từ việc Tất Đắc nghe lời
của Cẩm Hường giả danh Bác vật đi cưới Bạch Yến. Ban đầu đối với chàng
việc cưới vợ giàu là một cách để kiếm sống, hơn hết là một trò đùa của tuổi
trẻ. Nhưng lần hồi tình cảm chân thành trong trắng của Bạch Yến khiến chàng
hổ thẹn với lương tâm, nên chàng quyết định bỏ đi biệt xứ. Câu chuyện không
có những xung đột gay gắt mà chỉ có những xung đột tâm lý nhân vật. Qua
diễn biến tâm lý Tất Đắc, câu chuyện phát triển hết sức tự nhiên. Có thể thấy
Từ Hôn là một bước tiến bộ đáng ghi nhận trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
– Lối kết cấu theo hai tuyến nhân vật là một loại kết cấu tương đối phổ
biến trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Nhân vật được chia thành hai phe (chính
– tà, thiện – ác, tốt – xấu). Lối kết cấu song tuyến thường được nhà văn ưa
chuộng có lẽ bắt nguồn từ cảm hứng đề cao luân lý của tác giả. Lối kết cấu
này thường đặt các nhân vật đối lập nhau để soi sáng cho nhau. Bên cạnh sự
đối lập về nhân cách là sự đối lập về đẳng cấp xã hội, đối lập sang hèn. Trong
khi sắp đặt trận tuyến, nhà văn thường bênh vực, ngợi ca những nhân vật
chính diện và phê phán những nhân vật phản diện. Điều đó cũng thể hiện
ước mơ cao đẹp và tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Trong Ai làm được có
sự đối lập tốt xấu giữa Bạch Tuyết, Chí Đại, Khiếu Nhàn và Hai Phủ; trong
Chúa tàu Kim Quy là sự đối lập giữa Thủ Nghĩa và Trần Tấn Thân; trong
Khóc thầm có sự đối lập giữa Thu Hà và Vĩnh Thái, trong Con nhà nghèo là
sự đối lập giữa gia đình Cai tuần Bưởi và gia đình Hai Nghĩa; trong Tỉnh
mộng là sự đối lập giữa Yến Tuyết, Kỳ Tâm với Trường Xuân… Bên cạnh đó,
một số tác phẩm của Hồ Biếu Chánh bắt đầu có sự xoắn bện giữa yếu tố tốt
và xấu trong nhân vật, vì thế nhân vật trở nên đời hơn, người hơn. Lối kết
thúc có hậu trong các tiểu thuyết không giống nhau và có hơi hướng bị phá
vỡ trong Khóc thầm.
4.4. Giọng điệu
Một điều dễ câm nhận là giọng điệu trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là
một thứ giọng điệu hết sức bình dị, mộc mạc. Hồ Biểu Chánh trước sau vẫn
trung thành với quan niệm viết văn của mình là viết cho quần chúng bình dân
đọc. Trong các tiểu thuyết của ông, người đọc dễ bắt gặp giọng điệu thuyết lý
của một nhà đạo đức học, giọng điệu tâm tình kể lể, giọng điệu bình phẩm.
* Kết luận
Với những đóng góp lớn lao ở các lĩnh vực tiểu thuyết, truyện ngắn,
thơ, kịch bản sân khấu, khảo cứu, dịch thuật, báo chí…Hồ Biểu Chánh xứng
đáng có một vị trí cao trong lịch sử văn học. Xét riêng về thể loại tiểu thuyết,
Hồ Biểu Chánh đã có nhiều đóng góp cho sự hình thành và phát triển của nền
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Huệ Chi: “Hồ Biểu Chánh”, trong Từ điển văn học (Bộ mới),
Nxb Thế giới, Hà Nội, 2004.
2. Phan Cự Đệ: “Phần viết về Hồ Biểu Chánh” trong sách Tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại, tập I, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội,
3. Nguyễn Khuê: Chân dung Hồ Biểu Chánh, Lửa Thiêng Xb, Sài Gòn,
1974, Nxb. TP. Hồ Chí Minh (tư bản) 1998
4. Nhiều tác giả: Hồ Biểu Chánh – người mở đường cho tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2006
5. Vũ Ngọc Phan: “Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung)”. Trong sách Nhà
văn hiện đại, Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1942.
CÂU HỎI
1. Phân tích một tác phẩm cụ thể của Hồ Biểu Chánh từ đó rút ra
nguyên nhân khiến cho tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh hấp dẫn người đọc.
2. Hãy so sánh một tiểu thuyết phóng tác của Hồ Biểu Chánh (Chúa tàu
Kim Quy, Ngọn cỏ gió đùa, Con nhà nghèo…) với nguyên tác trong văn học
Pháp.
Bài 5. PHẠM QUỲNH VÀ NHÓM NAM PHONG TẠP CHÍNam Phong tạp chí ra đời cách nay hơn 100 năm. Là một tờ tạp chí có
sự ảnh hưởng lớn đối với xã hội nói chung và sự hình thành và phát triển của
nền học thuật, văn hóa hiện đại nói riêng nhưng những ý kiến về nó cùng với
ông chủ bút Phạm Quỳnh vẫn chứa có sự đồng thuận, bởi một lẽ, như nhiều
tài liệu minh định: Nam Phong tạp chí là một công cụ tuyên truyền văn hóa
của thực dân Pháp và Phạm Quỳnh viết và điều hành Nam Phong trong chủ
trương của Pháp.
1. LƯỢC SỬ ĐÁNH GIÁ PHẠM QUỲNH VÀ NAM PHONG TẠP CHÍ
Vấn đề đánh giá Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí có thể thấy có hai
khuynh hướng khác nhau. Những nhà nghiên cứu, học giả đứng trên quan
điểm chính trị thì phê phán, nặng hơn thì phủ nhận vai trò, đóng góp của
Phạm Quỳnh và Nam phong tạp chí, kết án Phạm Quỳnh và Nam Phong; còn
những người đứng trên quan điểm thuần văn chương học thuật thì rất đề cao
những đóng góp của Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí cho tiến trình hiện
đại hóa văn học.
– Trước 1945, tiêu biểu có các ý kiến của Thiếu Sơn, Đào Hùng, Kiều
Thanh Quế, Ngô Đức Kế, Phan Khôi, Hoàng Đạo, Dương Quảng Hàm, Vũ
Ngọc Phan…Ngay từ khi xuất hiện, Nam Phong đã nhận được nhiều ý kiến
khen chê. Các ý khen của một độc giả đăng trên Nam Phong số ra tháng 11
năm 1917, của Đào Hùng trên báo Phụ nữ tân văn (1931), của Thiếu Sơn
trên Phụ nữ tân văn, sau đó đăng lại trong Phê bình và cảo luận (1933), đánh
giá của Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu (là sách giáo
khoa thời Pháp thuộc do vậy ý kiến của Dương Quảng Hàm có tác động rất
lớn đối với giới học sinh, trí thức đương thời và cả về sau), ý kiến của Vũ
Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1942). Các ý phê phán gồm có Ngô Đức
Kế trên báo Hữu Thanh (1924), của Phan Khôi trên Phụ nữ tân văn (1930),
của báo Phụ nữ tân văn (1935), của Hoàng Đạo đăng trên báo Ngày Nay
(1937), của Nhóm Tự lực văn đoàn đăng trên Ngày Nay (1939)…
– Từ 1945 đến 1975 có các ý kiến của Tử Vi Lang, Nguyễn Duy Khánh,
Phạm Văn Diệu, Nguyễn Đăng Long, Chu Đăng Sơn, Bằng Phong, Nguyễn
Duy Diễn, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung…Giai đoạn 1945
đến 1954 là một giai đoạn lịch sử đặc biệt: đất nước có chiến tranh. Vấn đề
đánh giá di sản văn hóa và văn học trước cách mạng tháng Tám được đặt ra
và bàn luận sôi nổi. Vấn đề Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí lại càng trở
nên phức tạp. Năm 1949, Nghiêm Toản xuất bản công trình Việt Nam văn học
sử trích yếu có đề cập đến Nam Phong tạp chí và nhóm Nam Phong với thái
độ đề cao. Sau đó là một loạt những cuộc tranh luận nổ ra trong Nam ngoài
Bắc xung quanh “vụ án Kiều”. Tử Vi Lang (một bút hiệu của á Nam Trần Tuấn
Khải) trong bài “Vụ án Truyện Kiều (1956) đã vạch trần ý đồ của Phạm Quỳnh
khi đề cao Truyện Kiều, sau đó trang sách Khảo luận về tiểu thuyết Trung
Hoa (1959) Phạm Duy Khánh tiếp tục phê phán Phạm Quỳnh. Bên cạnh đó có
một số ý kiến đề cao như của Phạm Văn Diệu trong Việt Nam văn học giảng
bình (1958), Bằng Phong–Nguyễn Duy Diễn trong luận đề về Nam Phong tạp
chí (1960), của Đàm Xuân Thiều và Trần Trọng San trong Việt văn độc bản,
của Nguyễn Khắc Xuyên trong Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong (1968),
của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965), của
Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1967)… Các ý kiến đề
cao khen ngợi thường cho rằng Nam Phong và Phạm Quỳnh có công trong
việc bồi bổ nền quốc học và quốc văn Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX.
Đáng chú ý là ý kiến của Nguyễn Văn Trung trong hai chuyên khảo Chủ đích
Nam Phong (1972) và Trường hợp Phạm Quỳnh (1975). Nguyễn Văn Trung
đã đặt lại vấn đề Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí. Bằng những tư liệu cụ
thể, (chủ yếu là tài liệu gốc trong hồ sơ lưu trữ của Pháp), trên lập trường dân
tộc, Nguyễn Văn Trung đã vạch rõ: Phạm Quỳnh là Cán bộ tuyên truyền văn
hóa của Pháp, suốt đời chỉ phụng sự cho đường lối chủ trương của Pháp;
Nam Phong là công cụ tuyên truyền văn hóa nô dịch có lợi cho Pháp. Trong
Chủ đích Nam Phong, nơi chương đầu (Phê bình một quan điểm phê bình)
ông đã duyệt xét những ý kiến đề cao Nam Phong trước đó và chỉ ra rằng, sở
dĩ các nhà nghiên cứu đề cao Nam Phong và Phạm Quỳnh vì đã bỏ qua yếu
tố chính trị ẩn đằng sau hiện tượng. Và do vậy, vô tình các nhà nghiên cứu đã
nêu những ý kiến có lợi cho thực dân và Phạm Quỳnh. Những sai lầm của
các nhà nghiên cứu cần được đính chính và sửa chữa, cần đặt Phạm Quỳnh
vả Nam Phong tạp chí trong bối cảnh lịch sử của nó và không khí chính trị
đương thời. Trong Trường hợp Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Trung một mặt
dựa vào ý kiến của những người lớn tuổi thuộc thế hệ gần Phạm Quỳnh có uy
tín trong xã hội (theo ông, họ là người có cơ hội tiếp xúc Nam Phong nhiều
hơn cả) từng đọc Nam Phong, mặt khác là từ tư liệu (tài liệu gốc của Pháp,
hồi ký của Phạm Quỳnh) để minh định trường hợp Phạm Quỳnh. So với
những công trình trước đó những nhận định của Nguyễn Văn Trung thật có
sức nặng vì kết luận trên cơ sở tư liệu, khó bác bỏ. Nguyễn Thế Anh, một
giáo sư đại học cùng thời cho rằng, trong lúc Nguyễn Văn Trung đả phá
huyền thoại Phạm Quỳnh thì vô hình trung lại thiết lập thêm một huyền thoại
mới. Và vấn đề ở đây vẫn là quan điểm đánh giá: trên quan điểm văn học hay
chính trị.
– Từ 1975 đến nay có các ý kiến của Lại Văn Hùng, Trần Đình Hượu –
Lê Chí Dũng, Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Ngọc Thiện,
Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Ngọc Hiền, Nguyễn Thị Hà
Xuyên… Có thể nhận thấy, sau công trình của Nguyễn Văn Trung, vấn đề
Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí dường như lắng xuống, cho đến thập
niên 1980 vấn đề Nam Phong và Phạm Quỳnh bắt đầu được đánh giá lại,
nhưng ở những khía cạnh cụ thể là văn chương tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,
du ký, phần chính trị ít được đề cập.
2. NAM PHONG TẠP CHÍ
Nam Phong tạp chí ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Thực dân
Pháp đã bình định xong về mặt quân sự và tiến hành khai thác thuộc địa. Các
phong trào yêu nước của nhân dân ta liên tiếp thất bại: Thực dân Pháp thẳng
tay đàn áp và bắt bớ những người yêu nước. Các phong trào bạo động cứu
nước tạm lắng xuống và bắt đầu nổi lên phong trào Đông du và Duy tân,
phong trào cứu nước bằng cách đổi mới để tự cường do các nhà nho khởi
xướng. Đông Kinh nghĩa thục được thành lập, nơi tuyên truyền những tư
tưởng tiến bộ. Phong trào đọc và học theo tân thư sôi nổi. Thực dân Pháp
nhận ra một trận tuyến mới cũng vô cùng cam go đó là trận tuyến tư tưởng và
văn hóa. Ngay lập tức Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, những người chủ
trương bị bắt. Và Nam Phong tạp chí ra đời như là một Đông Kinh nghĩa thục
của thực dân. Pháp dùng Nam Phong tạp chí như một công cụ tuyên truyền
và định hướng tư tưởng có lợi cho Pháp.
Trong bài phỏng vấn của Đào Hùng đăng trên Phụ nữ tân văn, Phạm
Quỳnh đã nói về lai lịch xuất xứ của Nam Phong tạp chí như sau: “Tạp chí
Nam Phong ra đời năm 1917 nhưng thật ra là đã có lâu và không phải tôi
đứng tên sáng lập. Lúc trước nó là một bộ “Âu Châu chiến sử” xuất bản hồi
Âu chiến, viết bằng chữ Hán, chú tâm chỉ viết cho người Tàu bên Trung Hoa
đọc thôi. Nguyên hồi đó chính phủ bên Pháp thấy bên Thanh Đảo người Đức
làm báo chữ Tàu in hàng muôn số phát không cho dân chúng, chuyên nói về
chiến tranh và tán dương nước Đức. Chính phú Đông Pháp cũng lo thế lực
của người Đức bên Tàu mỗi ngày mỗi lớn bèn vời tôi lên phủ Toàn quyền,
bảo tôi cùng ông Nguyễn Bá Trác làm một tờ báo chữ Nho lấy các tin tức của
sở điện tín Arip, nói rộng chuyện chiến tranh, viết bài kể từ nguyên nhân gốc
rễ cuộc Âu chiến, tuyên bố hết những việc dã man của người Đức. Các bài thì
ký tên người Tàu rồi báo cũng in hàng muôn số rồi đem sang Trung Quốc
phát không, để làm cách chống lại cuộc tuyên truyền bên địch và đánh đổ thế
lực của Đức ở Viễn Đông. Vậy trong mấy năm tờ “Âu Châu chiến sử ' chỉ là
một tờ báo chữ Hán và không có lưu hành trong xứ Đông Dương. Đến 1917
thì phủ Toàn quyền mới bàn với tôi rằng sẵn có tin tức và bài vở đó thì nên
mở ra một bản quốc văn để làm một các cơ quan tuyên truyền tin tức trong
xứ. Từ đó Nam Phong mới xuất hiện và cùng với các bạn đồng nghiệp
Đ.D.T.C là tờ báo quốc văn ở đất Bắc”. (Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam
văn học sử giản ước tân biên, tập III, (tái bản), Nxb. Đồng Tháp, 1998, tr.140–
141).
Nam Phong tạp chí hoạt động qua hai thời kỳ, có tổng cộng 210 số báo:
thời kỳ đầu từ 1917 đến 1933 do Phạm Quỳnh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút;
thời kỳ thứ hai từ tháng giêng đến tháng chạp năm 1934 do chủ nhà in Đông
Kinh là Lê Văn Phúc trông nom bài vở vì Phạm Quỳnh vào Huế nhận chức vụ
mới.. Chưa đầy một năm, kể từ khi Phạm Quỳnh rời Nam Phong thì tờ tạp chí
này phải đình bản. Có ý kiến cho rằng Nam Phong chết chưa hẳn là do ông
Lê Văn Phúc không có tài như Phạm Quỳnh, mà chính vì lẽ Nam Phong đã
hết vai trò lịch sử đối với thực dân Pháp ở Việt Nam. Ngay sau khi Nam
Phong đình bản có một phong trào tri thức mới nổi lên rầm rộ với những
Phong trào Thơ Mới, nhóm Tự lực văn đoàn, nhóm các nhà văn hiện thực
phê phán…
2.1. Hình thức
Nam Phong tạp chí xuất bản theo sắc lệnh của Toàn quyền Đông
Dương ký ngày 30/12/1916, (trang bìa có ghi rõ bằng dòng chữ Pháp
Publication autoriseepar que do 30 Decembre 1916 dễ M te Gouverneur dễ
L'indochine), phát hành số đầu tiên vào ngày 1/7/1917. Khờ báo 19 x 27,5 cm,
độ dày khoảng 150 trang, phần trên cùng tờ bìa có dòng chữ lớn Information
Francaise (thông tin nước Pháp), phía dưới là dòng chữ in to đậm NAM
PHONG, dưới nữa là dòng chữ nhỏ Văn học = Khoa học – tạp chí. Bìa có
đăng phần yếu mục (mục lục), hình quốc huy nước Pháp (hình chú gà trống
Gaulois), tên của chủ bút (phần quốc ngữ: Phạm Quỳnh phần Hán văn:
Nguyễn Bá Trác). Bìa sau của tạp chí in hình một con rồng đang phun lửa,
được giải thích là lửa Nam phun lửa diệt Đức tặc). Nội dung gồm ba phần
(phần viết bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và chữ pháp), có các mục Luận
thuyết, Văn học bình luận, Triết học bình luận, Văn tuyển, Tạp trở, Thời Đàm,
Tiểu thuyết.
2.2. Chủ trương
– Ngay phía trong tờ bìa của Nam Phong có ghi rõ: “Mục đích báo Nam
Phong là để cái chủ nghĩa của nhà nước, biên tập những bài bằng quốc văn,
Hán văn, Pháp văn để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc
văn An nam, truyền bá các khoa học thái tây nhất là tư tưởng học thuật nước
Pháp, bảo tồn quốc túy của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi
người Pháp, người An Nam trong trường kinh tế. Báo Nam Phong lại chủ ý
riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An nam”.
– Trong bài trả lời phỏng vấn của báo Phụ nữ tân văn năm 1931, Phạm
Quỳnh cho rằng: “Mục đích, tôn chỉ của Nam Phong chỉ là lo kiếm tài liệu bồi
bổ quốc văn, truyền bá tư tưởng và khoa học, không làm chính trị… ai phiền
tôi về phương diện đó là hiểu lầm tôi…”. (Dẫn theo Nguyễn Văn trung,
Trường hợp Phạm Quỳnh, Nam Sơn Xb, Sài Gòn, 1975, tr.98).
– Nguyễn Văn Trung qua các tài liệu đã chứng minh rằng khi thành lập
tờ Nam Phong tạp chí thực dân có hai chủ đích chính. Một là chủ đích gần,
trực tiếp, cấp thời: chống lại ảnh hưởng của Đức vào Việt Nam qua sách báo
Trung Hoa, qua các sĩ phu, hoặc qua những ấn phẩm tuyên truyền Đức có
tính chống Pháp. Chủ đích thứ hai có tính dài hạn là nhằm đào tạo lại tầng
lớp sĩ phu vì tầng lớp này vẫn còn có nhiều ảnh hưởng tinh thần đối với quần
chúng. Cần phải hướng họ theo văn hóa Pháp bằng cách giới thiệu những cái
hay, cái đẹp của văn hóa Pháp để họ phục văn hóa Pháp và do đó chấp nhận
chế độ bảo hộ như một điều hợp lý. Đây là chủ đích chính của Nam Phong.
1. Nội dung Nam Phong tạp chí
Nam Phong tạp chí có nội dung phong phú thuộc các lĩnh vực triết học,
tôn giáo, chính trị, kinh tế, giáo dục, ngôn ngữ, văn hóa, khoa học, lịch sử, và
văn chương. Các bài viết trên Nam Phong đặt trong bối cảnh đương thời thật
sự có nhiều điểm tiến bộ và có đóng góp vào việc phổ biến kiến thức, đào
luyện ngôn ngữ, giúp bảo tồn và phát triển văn học.
+ Về Triết học tạp chí Nam Phong chú ý giới thiệu cả hai mảng triết học
phương Tây và phương Đông. Qua các bài dịch và giới thiệu của Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến, Trần Trọng Kim, Tùng Vân, Nguyễn Trọng Thuật người
đọc tìm được các học thuyết Khổng, Mạnh, Lão, Trang, Vương Dương Minh,
Phật…Về triết học phương Tây có các bài của Phạm Quỳnh với những
Gustave Le Bon, Hênh Bergson, Auguste Com te, Descartes, Tai ne, Re
nan…tuy vậy, đây chỉ là những bài dịch thuật trong một phạm vi nhỏ hẹp mà
thôi.
+ Về Tôn giáo là các bài khảo cứu về Phật giáo, các nghi lễ truyền
thống của người Việt cũng được chú trọng giới thiệu như hôn lễ, tang lễ, giao
tế, tế sự.
+ Về các vấn đề Xã hội như vấn đề hôn nhân gia đình, việc hiểu biết
chế độ gia đình cổ xưa của người Việt, vấn đề hương thôn, vấn đề phụ nữ,
vấn đề quan trường cũng được quan tâm.
+ Vấn đề chính trị, Nam Phong ra đời do chủ trương của Pháp do vậy
tất nhiên là tuyên truyền đường lối chính trị của thực dân. Các bài diễn văn
của quan toàn quyền, việc vua Bảo Đại hồi loan, các chính sách của thực
dân, một số sự kiện chính trị nước ngoài có lợi cho Pháp cũng được đề cập.
+ Vấn đề giáo dục, Nam Phong đề cập là các vấn đề liên quan đến
công dân giáo dục, vấn đề gia đình giáo dục, phụ nữ giáo dục và cải cách học
chính.
+ Vấn đề Kinh tế cũng được Nam Phong chú ý qua các bài viết bàn về
kỹ nghệ, công thương, ngân hàng, tiền tệ, cổ động việc hùn vốn để cạnh
tranh buôn bán với người Tàu.
+ Vấn đề khoa học, Nam Phong giới thiệu những kiến thức khoa học
phổ thông, những phát minh như chớp bóng, điện ảnh, phim ảnh, điện học,
điện tín, vô tuyến điện, hàng không, sao băng, sấm sét, tàu ngầm, tàu bay,
giới thiệu các bài thuốc Nam, về vệ sinh và bệnh tật.
+ Vấn đề phong tục, Nam Phong giới thiệu một vài phong tục của người
mình như cách ăn mặc, cách lạy, các phong tục lạc hậu của người Việt,
người Mường, và một số nghi lễ của Ai Lao, Cao Ly, Eskimô, Tàu, Xiêm…
+ Vấn đề lịch sử được Nam Phong chú ý giới thiệu qua những tư liệu
lịch sử phổ thông, những bài nghiên cứu về đại cương lịch sử Việt Nam,lịch
sử Việt Nam cận đại và cổ đại; giới thiệu các nhân vật lịch sử từ lạc Long
Quân qua Hồ Quý Lý đến các nhân vật triều Lê, Lý, Trần, từ Bá Đa Lộc đến
bản triều nhà Nguyễn. Ngoài ra còn khảo về địa lý qua các bài dài hơi như
Kon Tum địa chí, Quảng Ngãi tinh chí, Hà Tiên Mạc thị sử, Nam Kỳ địa chí..rồi
rất nhiều tiểu truyện nhân vạt lịch sử của Pháp, Trung Hoa, Ấn Độ…
+ Vấn đề Ngôn ngữ là vấn đề quan trọng, nằm trong mục đích ban đầu
của Nam Phong. Những vấn đề được Nam Phong bài giải cho đến ngày nay
vẫn còn giá trị: như vấn đề danh từ hóa học, địa lý, chính trị, kinh tế, triết học,
pháp luật, từ điển…các cuộc bàn luận bổ ích xoáy quanh các vấn đề như
quốc học, quốc ngữ, quốc tự, quốc văn đã được Nam Phong khởi xướng từ
rất sớm.
+ Vấn đề Văn học. Đây là mục phong phú hơn cả. Có nhiều bài bàn giải
về văn hóa, văn minh, văn học. Nam Phong chú ý giới thiệu, dịch, chú thích
các tác phẩm văn học cổ của Việt Nam như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm,
Cung oán ngâm, thơ chữ Hán thời trung đại, cận đại. Ngoài ra còn giới thiệu
và dịch các tác phẩm văn học nước ngoài như của Pháp, Trung Hoa; giới
thiệu các truyện ngắn, tiểu thuyết và du ký của các tác giả đương thời; các bài
phê bình sách, các bài bàn về thể loại văn học, lý luận văn học rất phong phú,
đa dạng.
3. NHÓM NAM PHONG TẠP CHÍ
Trong 17 năm tồn tại (1917 – 1934), Nam Phong đã quy tụ được nhiều
trí thức tài năng và tâm huyết. Công việc và trước tác của họ đã để lại dấu ấn
đậm nét trong lịch sử văn hóa học thuật nước nhà. Mỗi người một vẻ, người
mạnh về nho học, người am tường Pháp ngữ, quốc văn đã làm nên diện mạo
đa diện của nhóm.
3.1. Nguyễn Bá Học (1857 – 1921)
– Nguyễn Bá Học, quê làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông,
nay là xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình
nho học. Nguyễn Bá Học học chữ nho, mấy lần đi thi nhưng không đỗ,
chuyển qua tây học rồi đi dạy suốt ba mươi mốt năm ở Sơn Tây, Nam Định
và Hà Nội. Sau khi về hưu (1918) ông chuyền qua viết báo, truyện ngắn đăng
trên Nam Phong tạp chí. Nguyễn Bá Học tham gia nhóm Nam Phong chỉ trong
một thời gian ngắn (1918–1921) nhưng ông đã kịp lại dấu ấn đậm nét bên
cạnh những cây bút khác.
– Trước hết, độc giả biết Nguyễn Bá Học qua những truyện ngắn độc
đáo trên Nam Phong như Câu chuyện gia đình (1918), Chuyện ông Lý Chấm
(1918), Có gan làm giàu (1919), Câu chuyện nhà sư (1919), Dư sinh lịch hiểm
ký (Chép những chuyện hiểm nghèo mà đời tôi đã trải) (1920), Chuyện cô
Chiêu Nhì (192 1), Câu chuyện một tối của người tân hôn (1921). Chỉ với bảy
truyện ngắn, Nguyễn Bá Học đã cho thấy một phong cách viết độc đáo. Tuy
vậy, những truyện của Nguyễn Bá Học vẫn còn nặng về việc giáo huấn đạo
đức, ít có sự đầu tư về nghệ thuật. Cảm quan văn học của một nhà nho chính
cống còn trì kéo ngòi bút của ông trong việc thể hiện chủ đề đạo đức– nhưng
cũng cho thấy sự cách tân khi ông truyền tải nó trong một hình thức thể loại
mới là truyện ngắn. Đóng góp lớn của ông là đã đưa cuộc sống bình thường
vào trang viết.
– Nhiều người còn biết đến Nguyễn Bá Học như một ký giả có tài với
hai mươi mốt bài báo hoặc viết hoặc dịch có tác động lớn đến dư luận xã hội:
Lời khuyên học trò, Bàn về chức phận các thầy giáo tiểu học, Bàn về nghĩa tự
do kết hôn, Gia đình giáo ác ký, chuyện việc làng, Văn minh Á âu khác nhau
thế nào, Bàn về tiết kiệm, Chí phú cẩm nang (Phép làm giàu), Yếu lược về
kinh tế học…
– Đáng tiếc là Nguyễn Bá Học mất sớm, nếu không chúng ta còn có thể
được đọc nhiều tác phẩm thú vị khác của ông.
3.2. Nguyễn Trọng Thuật (1883 – 1940)
– Nguyễn Trọng Thuật, hiệu Đồ Nam Tử, người làng Mẫn Nhức, huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ học chữ nho, sau qua học chữ quốc
ngữ và chữ Pháp rồi đi dạy. Ông là Đảng viên Việt Nam quốc dân Đảng thời
Nguyễn Bá Học. Sau khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Trọng Thuật
thôi làm chính trị, chuyển qua viết văn, viết báo cộng tác với Nam Phong tạp
chí.
– Nguyễn Trọng Thuật viết nhiều bài khảo cứu bàn về các vấn đề thuộc
các lĩnh vực như lịch sử, văn học, giáo dục, tôn giáo. Tiêu biểu có các bài
Danh nhân Hải Dương (1919), Nguyễn Trường Tộ trên lịch sử Việt Nam
(1933), Hán Việt nó ngón diễn ca (1927), Gia đình giáo dục (1934), Giáo dục
phổ thông phải lấy tinh thẩn làm trọng (1932), Phật giáo tân luận (1934), Bình
luận về sách Khóa hư lục (1933)… ngoài ra ông còn phiên dịch tác phẩm cổ
Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác.
– Tác phẩm làm nên chân dung Nguyễn Trọng Thuật nhà văn chính là
Quả dưa đỏ (tiểu thuyết hóa chuyện An Tiêm trong Lĩnh Nam chích quái), tiểu
thuyết này đăng lần hồi trên Nam Phong tạp chí, và được giải thưởng của Hội
Khai trí tiền đức năm 1925. Với Quả dưa đỏ, Nguyễn Trọng Thuật được coi là
một trong những người đi tiên phong trong phong trào sáng tác tiểu thuyết
bằng chữ quốc ngữ tại miền Bắc.
– Có thể nói, Nguyễn Trọng Thuật là một trong những cây bút viết báo
buổi đầu thế kỷ cố gắng duy trì nền văn hóa cổ truyền của dân tộc và cố gắng
tiếp thu nền văn hóa mới của phương Tây.
3.3. Nguyễn Hữu Tiến (1874 – 1941)
– Nguyễn Hữu Tiến, hiệu Đông Châu, người làng Đông Ngọc, huyện
Từ Liêm, tỉnh Hà Đông. Thuở nhỏ học chữ Hán, đi thi và đậu Tú tài, về sau
chuyển qua học chữ quốc ngữ và chữ Pháp và trở thành cây bút dịch thuật có
tiếng của Nam Phong tạp chí.
– Về dịch thuật đáng chú ý các công trình sau: Trung Quốc luân lý học
sử (1920– 1921) của Sái Chấn, Văn học sử nước Tàu của Vương Mộng
Tăng, Trung Quốc phong tục sự của Trương Lương Thái, Vũ trung tuỳ bút
của Phạm Đình Hổ, Các bậc danh nho nước ta (trích Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú; ngoài ra ông còn biên soạn Cố xúy nguyên âm
(1917), Nam âm thi văn khảo biện (1918 – 1919), Giai nhân di mặc (viết dưới
dạng ký, ghi chép sự tích và thư từ Hồ Xuân Hương (2 tập, 1916), dịch Mạnh
Tử quốc văn giải thích (NP 1924 – 193 1) cùng với Nguyễn Đôn Phục, (Nxb.
Trung Bắc tân văn in năm 1932)
– Cách dịch, lối hành văn của Nguyễn Hữu Tiến rất trong sáng, dễ hiểu.
3.4. Nguyễn Đôn Phục (1878 – 1954)
– Nguyễn Đôn Phục, tự Huy Cán, hiệu Tùng Vân, nguyên quán ở
Thanh Hóa, sau chuyển ra sống ở làng Uy Nỗ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Thuở nhỏ học chữ quốc ngữ với mẹ, sau học chữ Hán với cha (của ông làm
tri phủ ở miền Trung, sau từ quan về làng dạy học). Năm 1900, ông đi thi
Hương nhưng trượt vì bỏ làm bài. Năm 1906, đi thi và đậu Tú tải. Từ đó
chuyển sang viết báo cộng tác với Nam Phong tạp chí.
– Nguyễn Đôn Phục cầm bút khoảng 15 năm và để lại nhiều trước tác
có giá trị. Về khảo cứu văn học và lịch sử có các công trình Khảo về cách hài
văn (1922), Bàn về lịch sử nước Tàu (1924), Danh nho nước Tàu (1929–
1930); về dịch thuật có Tây Thi diễm sử (1927), Nhất nộ vị hồng nhan (Một
cơn giận vì khách má hồng 1928– 1929), Quý Phi diễm sử (1930); về chuyện
hài hước có Chừa nói chữ Nho (1921), Bức thư thần quốc ngữ kèo nài thần
chữ Nho (1934), Sự lạ, kể chuyện một ông quan từ chối không nhận đồ lễ
(1922), dịch Mạnh Tử quốc văn giải thích (NP 1924–1931) cùng với Nguyễn
Hữu Tiến, (Nxb. Trung Bắc tân văn in năm 1932)…
– Đáng chú ý trong sự nghiệp của Nguyễn Đôn Phục là mảng du ký với
các tác phẩm Du Tử trầm ký (1922), Cuộc đi chơi Sài Sơn (1925). Sinh thời
ông có đề xướng thể thơ Nam đàn bát châu. Thể thơ này gồm có 8 câu trong
đó: 2 câu đầu viết theo thể hát nói, hai câu tiếp theo làm theo thể lục bát, tiếp
theo hai câu thứ 5 vả 6 viết theo thể Đường thi, hai câu cuối cùng theo cách
điệu phong dao Việt Nam. Đề xướng của ông không được những người đồng
thời chú ý, nó có vẻ lạc lõng trong không khí của phong trào Thơ Mới.
Bên cạnh Nhóm Nam Phong cần phải kể những tên tuổi khác đã từng
cộng tác, viết bài góp phần tạo nên ảnh hưởng một thời của Nam Phong như
Đông Hồ, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Kiêm, Lê Dư, Tương Phố, Dương Bá
Trạc, Dương Quảng Hàm, Hoàng Ngọc Phách, Lê Thăng, Nguyễn Mạnh
Bổng, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Triệu Luật, Thiếu Sơn, Trần Trọng Kim, Vũ
Đình Long…
4. PHẠM QUỲNH TRONG NAM PHONG TẠP CHÍ
4.1. Tiểu sử và sự nghiệp
– Phạm Quỳnh (1892–1945), hiệu là Thượng Chi, Hồng Nhân, Hoa
Đường, quê làng Lương Ngọc, Phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ
học trường tiểu học Pháp Việt, sau đó vào học trường Bảo hộ (Trường Bưởi)
Hà Nội. Năm 1908, đỗ bằng Thành chung, được bổ làm việc tại trường Viễn
Đông bác cổ ở Hà Nội. Từ 1913 cộng tác với tờ Đông Dương tạp chí của
Nguyễn Văn Vĩnh. Năm 1917 làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nam Phong tạp
chí do Louis Marty sáng lập. Năm 1922 được cử sang Pháp dự hội chợ đấu
xảo ở Marseille, rồi lên Paris ba tháng diễn thuyết nhiều lần ở ban chính tri và
luân lý của Viện Hàn lâm Pháp. Khi về nước ông tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du
và Truyện Kiều, nhân đó bị Ngô Đức Kế phản đối. Ngoài ra Phạm Quỳnh còn
cổ xúy việc xây dựng nền giáo dục quốc gia. Từ 1924 đến 1932 được mời
dạy tại trường Cao đẳng Hà Nội, rồi làm chủ tịch Hội Trí tri Bắc Kỳ, Hội đồng
kinh tế và tài chính Đông Dương. Ông đề xướng thuyết lập hiến, giữ chế độ
phong kiến ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, có quy định rõ quyền và nghĩa vụ của dân,
vua quan và bảo hộ. Năm 1922, Bảo Đại về nước thay Khải Định. Năm 1933
ông được mời vào Kinh giữ chức Ngự tiền văn phòng kiêm Thượng thư Bộ
học. Năm 1942 được thăng Thượng thư Bộ Lại. Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo
chính, Phạm Quỳnh bị phế truất, Trần Trọng Kim thành lập chính phủ mới.
Phạm Quỳnh lui về ở tư thất trên bờ sông An Cựu (Huế). Tháng 8 năm 1945,
cách mạng tháng Tám thành công, Phạm Quỳnh bị bắt ở Huế, sau đó bị xử
tử.
– Phạm Quỳnh là người gắn bó với các chủ trương chính trị của Pháp,
với tờ Nam Phong tạp chí do mật thám Louis Marty điều khiển. Các bài viết
của Phạm Quỳnh phần lớn nằm trong ý đồ chính trị của thực dân Pháp. Thế
nhưng các bài viết đó chứng tỏ Phạm Quỳnh có một vốn kiến thức rộng về cả
hai nền học thuật Đông Tây và nằm ngoài ý muốn của thực dân, những bài
viết của Phạm Quỳnh đã có tác động lớn đối với xã hội và nền học thuật nước
nhà. Phạm Quỳnh đã đề cập đến nhiều vấn đề và nhiều lĩnh vực.
Sự nghiệp trước tác của Phạm Quỳnh có thể chia làm ba loại như sau:
+ Về sáng tác có Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ, Mộng hay
mỹ, Ba tháng ở Paris (các sáng tác này thuộc thể loại du ký, ghi chép)
+ Loại khảo luận có Khảo Truyện Kiều, Tục ngữ ca dao, Văn chương
trong lối hát ả đào Việt Nam thi ca, Hán Việt văn tự, Đẹp là gì?, Sử học
chuyên luận, Pháp văn thi thoại Beơi delaire, Bàn về diễn thể, Văn hào
Pierreloti, Lịch sử và học thuyết của Rousseau, Lịch sử và học thuyết của
Montesquieu, Lịch sử và học thuyết của Voltaizre, Anatole France, Văn học
Pháp, Khảo về tiểu thuyết, Khảo về các luân lý học thuyết của nước Pháp,
Triết học là gì?, Học thuyết Augllste Com te, Học thuyết của Berson, Khảo về
ngân hàng, Văn minh luận, Thế giới tiến bộ sử, Lịch sử thế giới, Khảo về
chính trị nước Pháp, Chính trị học, Phật giáo luật khảo, Quan niệm người
quân tử trong triết học đạo Khổng, Pháp văn – tiểu thuyết bình luận, Bàn về
hý kịch Moliere, Bình phẩm Một tấm lòng của Đoàn Như Khuê, Nghĩa vụ là
gì?, Sự giáo dục đàn bà và con gái, Văn quốc tế ngữ, Chữ nho với văn quốc
ngữ, Chữ Pháp có dùng làm quốc văn An nam được không?, Đạo đức đã đến
ngày từ chức chưa?, Vấn đề dân tộc giáo dục, Trả lời bài “Cảnh cáo các nhà
học thuật “ đăng trong Phụ nữ tân văn, Bàn về quốc học.
+ Loại dịch thuật có Phương pháp luận Descastes, Lời cách ngôn của
Mare Aurèle, Sách cách ngôn của Epietète, Đời đạo lý của Phút Chuồn,
Tuồng Lecid của Coneille, Tuồng Horace của Coneille, Tiểu thuyết ái tình của
Guyde Maupassant.
+ Phần lớn tác phẩm của Phạm Quỳnh được tập trung in lại trong hai
bộ sách Nam Phong tùng thư và Thượng Chi văn tập (5 tập) (Nxb. Alexandre
Rhodes, Hà Nội, 1943). Ngoài ra ông còn góp công sức trong việc biên soạn
cuốn Việt Nam từ điển do Hội Khai trí tiến đức biên soạn (chỉ mới ra tập I,
1932).
4.2. Vai trò của Phạm Quỳnh trong Nam Phong tạp chí
– Phạm Quỳnh có một vai trò rất quan trọng, là linh hồn của Nam
Phong tạp chí. Ông là người có mặt ngay từ đầu khi tạp chí mới hình thành và
theo sát quá trình tồn tại phát triển của tờ báo này, trừ năm cuối cùng (1934).
Phạm Quỳnh cũng đã tập hợp được đông đảo các trí thức tài năng trong ban
biên tập, phóng viên.
– Phạm Quỳnh không chỉ làm công tác điều hành mà còn là người biên
tập, định hướng bài vở, ông còn tham gia viết nhiều mục, nhiều đề tài khác
nhau, từ triết học sang văn học, từ chính trị đến xã hội, ngôn ngữ, kinh tế…có
thể thấy, suốt 210 số báo, không có số nào mà Phạm Quỳnh không góp mặt
một hai bài, mà phần lớn những bài đó là những bài quan trọng.
Theo Nguyễn Khắc Xuyên “giá trị của Thượng Chi không ở những bài
giới thiệu học thuật tư tưởng Âu châu, nhất là Pháp quốc, mà chính là những
bài khảo cứu về văn học, ngôn ngữ, văn tự nước nhà. Dĩ nhiên trong khi dịch
thuật những tác phẩm nước ngoài, dịch giả đã chịu tìm tòi danh từ, ngữ vựng
để có thể diễn đạt được trong tiếng mẹ đẻ của mình, điểm đó chúng ta cũng
đã nhận thấy. Sự làm giàu cho tiếng Việt là một trong những sự nghiệp văn
học của Phạm Quỳnh”. (Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong, Nxb. Thuận
Hóa – Trung tâm Ngôn ngữ Đông Tây, HN 2002, tr. 14).
4.3. Đóng góp, vị thế của Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong trong văn học sử
– Với một số lượng công việc đồ sộ dàn trải trên nhiều lĩnh vực và một
thời gian khá dài, trong bối cảnh không khí học thuật đương thời, nhóm Nam
Phong tạp chí đã gây nên một sự ảnh hưởng tương đối sâu rộng trong xã hội.
Họ đã có nhiều đóng góp đáng kể cho học thuật, văn hoá và đặc biệt là văn
chương thời cận đại.
– Nam Phong có công góp phần thúc đẩy sự trưởng thành của chữ
quốc ngữ, là nơi đào luyện ngòi bút của các nhà văn buổi đầu, ngoài ra còn
có công trong việc phiên dịch các danh từ khoa học từ từ sách vở nước
ngoài, cung cấp những kiến thức cơ bản về khoa học cho người đọc, nhiều
tài liệu văn học của tiền nhân được phục dựng và giới thiệu một cách cẩn
trọng và khoa học đến nay vẫn còn có nhiều giá trị. Nhóm Nam Phong đã tìm
cách duy trì và phổ biến những tinh hoa về tư tưởng, học thuật, lễ nghi, phong
tục của nước nhà.
– Đặc biệt nhóm Nam Phong tạp chí có công trong việc phiên dịch, giới
thiệu văn hóa nước ngoài, góp phần thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam đối
với thế giới bên ngoài. Qua đó, nền văn hóa của chúng ta cũng có cơ hội để
duyệt xét lại những giá trị cổ truyền để gạn đục khơi trong, học hỏi và tiến bộ.
– Tuy vậy, giữa lúc mọi tư tưởng cách mạng, phong trào yêu nước bị
đàn áp gắt gao, giữa lúc nền Pháp học đang được thực dân hậu thuẫn, bành
trướng thì Nam Phong xuất hiện với thuyết Pháp Việt đề huề, thuyết trung
dung được Nam Phong khuyến khích đã làm hao mòn chí khí đấu tranh, đánh
lạc hướng các nhà cách mạng yêu nước: nhóm Đông Kinh ngh~ã thục, Phan
Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Lương Vặn Can, Nguyên Quyền.
– Nội dung bài vở của Nam Phong hàm chứa một dụng ý rõ ràng (Xem
nhận định của Nguyễn Văn Trung) có lợi cho thực dân Pháp. Cái mất mát, tổn
hại về đường tinh thần không phải là ít, nhưng cái được về đường tiến hóa
cũng nhiều. Với Nam Phong và trường hợp của Phạm Quỳnh cần có cái nhìn
lịch sử và trân trọng vốn quý của quá khứ. Cực đoan trong đánh giá là một
điều không nên khi sự việc đã thuộc về lịch sử. Bài học Nam Phong vẫn còn
đó.
– Nói về những đóng góp của nhóm Nam Phong và Phạm Quỳnh, Vũ
Ngọc Phan cho rằng: “Đến khi tạp chí Nam Phong ra đời (tháng 7/1971) quốc
văn lại bước cao hơn một bậc nữa. Bởi vì đến Nam Phong tạp chí có một đội
ngũ biên tập tài năng và sáng suốt và đáng nói hơn hết là tài năng uyên bác
của ông chủ bút Phạm Quỳnh… Cái công Phạm Quỳnh khai thác bước đầu
cho nền quốc dân có ngày nay, thật là một công không nhỏ. Văn ông ai cũng
khen là hùng và dồi dào, thường thường phải có giọng thiết tha kêu gọi,
nhưng vẫn có người kêu ông dùng nhiều chữ nho quá, làm cho câu văn hóa
ra nặng nề cả những khi diễn những tư tưởng rất nhẹ nhàng. Trong 16 năm
chủ trương tạp chí Nam Phong, ông đã xây đắp cho nền móng quốc văn
được vững vàng bằng những bài bình luận và khảo cứu rất công phu, mà từ
Nam chí Bắc người thức giả đều phải lưu tâm đến. Nhiều người thanh niên trí
thức đã có thể căn cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí để bồi bổ cho
cái học còn khuyết điểm của mình. Thậm chí có người còn lấy Nam Phong
làm sách học mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông –
Tây”. (Nhà văn hiện đại, Nxb Văn học–hội nghiên cứu và giảng dạy văn học
TP. HCM, (tái bản), tr.71 –72).
– Đến đây chúng tôi lại nghĩ đến những lời tha thiết cảm động của
Nguyễn Khắc Xuyên khi viết lời tựa cho lần tái bản thứ 2 (sau 40 năm) cho
công trình Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong: “Nam Phong thuộc về lịch
sử. Một nước không thể không có lịch sử, một nền văn hóa – văn học không
thể từ con số không mà hiện hình. Lịch sử văn học Việt Nam đã trải qua nhiều
thời đại, mà Nam Phong thuộc về một trong những thời đại đó” (Sđd, tr.7). Có
phải thế chăng?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Huệ Chi: “Phạm Quỳnh”, trong Từ điển văn học (Bộ mới),
Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004, Hà Nội, tr.1364–2366
2. Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia Giáo
dục (tái bản lẩn thứ 10), Sài Gòn 1967.
3. Vũ Ngọc Phan: Nhà văn hiện đại, Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1942. Nxb.
Văn học và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. HCM (tập 1 tái bản),
1994.
4. Nguyễn Văn Trung: Chủ đích Nam Phong, Nam Sơn Xb, Sài Gòn,
1972.
5. Nguyễn Văn Trung: Trường hợp Phạm Quỳnh, Nam Sơn xb, Sài
Gòn, 1975.
6. Nguyễn Khắc Xuyên: Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong, Nxb,
Thuận Hóa Trung tâm Ngôn ngữ Đông tây (tái bản), 2002
CÂU HỎI
1. Hãy so sánh quan điểm đánh giá về Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp
chí của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên và
Nguyễn Văn Trung trong Trường hợp Phạm Quỳnh.
2. Vai trò của Phạm Quỳnh và Nam phong tạp chí trong văn học Việt
Nam đầu TK.XX.
Bài 6. TẢN ĐÀ (1889 – 1939)1. CUỘC ĐỜI
1.1. Gia đình và thời tuổi trẻ
Tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1889 (không phải năm 1888),
quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Ông thuộc dòng dõi khoa bảng từ đời Lê, nhưng sau đó tổ tiên thề
không đi thi, đến đời thân phụ ông thì phá bỏ lời thề, đi thi, và làm đến chức
án sát.
Anh đỗ Phó bảng, làm Đốc học, sau làm hiệu trưởng trường Quy Thức,
một trường do thực dân Pháp lập ra để đối phó với trường Đông Kinh nghĩa
thục của các sĩ phu duy tân.
Mẹ là Như Thị Nghiêm, là một cô đầu tài sắc ở phố Hàng Thao Nam
Định, có tài làm thơ nôm, làm lẽ cha ông, gọi là bà Phủ Ba (cha ông làm Tri
phủ Lí Nhân). Khi Nguyễn Khắc Hiếu lên 3 thì cha qua đời. Bà phủ Ba lại
mang cô em gái Tản Đà về lại chốn xướng ca. Điều ấy đối với dòng họ ông là
một nỗi nhục rất lớn, đồng thời để lại trong Tản Đà một dấu ấn chua xót khó
phai mờ.
Tản Đà từ thuở nhỏ đã có tiếng là đa tình. Mối tình đầu của Cậu ấm
Hiếu có một ấn tượng rất sâu sắc:
Về Hà Nội học trường Quy Thức (1907), Nguyễn Khắc Hiếu sống rất
thiếu thốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Khắc Hiếu yêu cô gái con ông phán, nhờ anh
rể là nhà thơ Nguyễn Thiện Kế mai mối dùm. Ông Phán đồng ý với một điều
kiện: “Đậu cử nhân mang cái ấn tri huyện về mới được rước dâu. Nguyễn
Khắc Hiếu cố gắng học, nhưng thi mấy lần đều rớt – “Càng học càng thi thì
cứ hỏng” (Ngày xuân nhớ xuân). Lần thi cuối vẫn bị rớt, về đến nhà thì thấy
người yêu lên xe hoa làm dâu nhà một ông quan huyện.
Thất chí, ông bỏ lên vùng núi Hòa Bình, lang thang nhiều nơi. Ở nhà
Bạch Thái Bưởi, ông đọc Tân thư của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và
báo chí Trung Hoa mới. Ông lại đi, có lúc “tịch cốc” không ăn cơm chỉ uống
rượu ăn rau, sau lại ăn toàn thịt cá, rồi đổi lại ăn cơm bình thường.
Năm 27 tuổi Nguyễn Khắc Hiếu lấy vợ, cuộc sống càng ngày càng cùng
quẫn. Không làm quan được, cũng không muốn làm thầy như các nhà nho
xưa, lại cũng không muốn làm công chức cho Pháp, Nguyễn Khắc Hiếu quyết
định bước vào một nghề hoàn toàn mới: làm văn, làm báo chuyên nghiệp.
Ông thuộc vào thế hệ trí thức VN đầu tiên dám can đảm sống bằng ngòi bút
của mình.
1.2. Tản Đà, nghệ sĩ tự do, nhà thơ lãng mạn (1915 –1920):
1915, gửi bài cho Đông Dương tạp chí, viết bút ký Nhàn tưởng, gây
được sự chú ý của độc giả. Vì thế tờ báo bèn mở mục “Một lối văn nôm”, sau
đổi thành Tản Đà văn tập, viết tuồng ở Hà Nội, Hải Phòng.
Tác phẩm: Khối tình con 1 (1916), Giấc mộng con 1 (1917), Khối tình
con 2, Khối tình bản chính, Khối tình bản phu (1917), Đài gương, Đàn bà Tàu,
Thần tiên, Lên sáu (1919), Lên tám (1920). Ông vào Huế, lúc trở về viết Thề
non nước (1920).
1.3. Tản Đà, chủ báo (1921–1933):
Ông trở thành nhà văn độc lập, có nhà xuất bản riêng, tờ báo riêng của
mình. Năm 1921 ông được mời làm chủ bút báo Hữu thanh, cơ quan ngôn
luận của Bắc kỳ Công thương ái hữu hội.
Làm được một thời gian, ông xin từ chức, lập Tản Đà thư cục.
Năm 1925 cả nước nổi lên phong trào đòi thả Phan Bội Châu và phong
trào để tang Phan Chu Trinh. Phong trào đã kích thích lòng yêu nước yêu
nước trong ông. Ông quyết định mở tờ An Nam tạp chí. Từ năm 1920–1933,
An Nam tạp chí đình bản, tái bản nhiều lần cho đến năm 1933 thì chết hẳn.
1927, đi Nam Kỳ, định mở lại An Nam tạp chí nhưng không xin được
giấy phép. Ông cùng Ngô Tất Tố viết phụ trương cho Đông Pháp thời báo của
Diệp Văn Kỳ. Năm sau lại ra Bắc.
Tác phẩm:
Còn chơi (1921), Tản Đà tùng văn (1922), Truyện thế gian 1,2 (1923),
Trần ai tri kỉ, Quốc sử huấn mông (1924), Giấc mộng con 2 (1932), Giấc
mộng lớn (1932), Khối tình con 3 (1932). Dịch Đại Học, Kinh thi.
1.4. Tản Đà cốc tử (1934– 1939, cuối đời):
Trợ bút cho Văn học tạp chí sau khi An Nam tạp chí bị đình bản.
Cho in Tản Đà xuân sắc nhưng không được chú ý.
Viết mướn, dạy quốc văn, xem bói, dịch Liêu Trai chí dị, dịch thơ
Đường cho báo Ngày nay, chú giải Truyện Kiều.
Thiếu tiền thuê nhà, bị đuổi, bị tịch thu đồ đạc, phải dọn ra ngoại thành
Hà Nội.
Phát bệnh không có thuốc chữa, ông mất năm 1939.
2. CÁI TÔI TRƯỚC CUỘC ĐỜI
2.1. Người tài tử trong xã hội tư sản hóa:
Tản Đà là nhân vật của xã hội cũ hay mới?
Có ý kiến cho rằng:
– “Tản Đà, ngọn lửa cuối cùng của ý thức hệ phong kiến Việt Nam”
(Nguyễn Khắc Xương – nhan đề bài TCVH số/1965).
“Tác phẩm của ông chủ yếu nói lên cái tâm lí của giai cấp phong kiến
đã suy tàn, mất hết tin tưởng ở tiền đồ tương lai” (Phương pháp sáng tác
trong văn học nghệ thuật)
Ông tự nhận là “hủ nho”.
Nhưng ngược lại:
Ông tự nhận là học trò Lư Thoa (Rousseaux):
Ngồi buồn ta nhớ ông Lư Thoa
Dân ước nhân quyền ông xướng ra (…)
Nhớ ông bao nhiêu kính lại mến
Học trò xin có bài thơ ca
Nhớ ông Lư Thoa
Kêu gọi Duy tân trên An Nam tạp chí
Xuân Diệu: Tản Đà đã thể hiện được “Cái tôi”, “căn bệnh của thế kỷ” ở
thời hiện đại
– Yêu nước hay không?
Yêu nước: Vịnh bức dư đồ rách
Nịnh Tây: Nước ta rồi văn minh/ Trăm sự nhờ bảo hộ
– Thơ mới– thơ cũ?
Mới: cái mới, đòi hỏi “phá cảnh, vứt luật lệ”
Cũ:
Thơ sách họa
Đôi lời nhắn nhủ bạn làng nho,
Thẩn thẩn thơ thơ khéo thẫn thờ.
Con cóc Nghè Huỳnh đuôi cộc lốc,
Nàng thơ Ấm Hiếu mũi thò lò.
Chai to, chai bé, con cầy béo,
Câu thánh, câu thần, đĩa mực khô.
Nắn nót miễn sao nên tám vế,
Chẳng thơ thời cũng cóc cần thơ.
(Lưu Trọng Lư – Hà Nội báo 1936)
20 năm đầu thơ được tán thưởng. Sau 1932 thì bị hững hờ
Quan niệm văn chương:
– Hành đạo: Nho, Yêu nước
– Thể hiện cái tôi.
=> “Tản Đà – một khối mâu thuẫn lớn”
Văn chương hành đạo và văn chương tài tử
Hai kiểu nhà văn: Trần Quốc Tuấn, Đặng Dung, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu…
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Tản Đà…
Trước đó: Trần Tung, Nguyễn Trãi; Sau này: Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng
Chương…
– “Văn có ích”:
Giáo hóa “phải đạo” – Nho giáo
Phục vụ sự nghiệp cứu nước
– “ Văn chơi” tự thể hiện cá mình
Nghệ sĩ: ly tâm trong xã hội, không chấp nhận cái tầm thường, không
chấp nhận cái khuôn khổ, muốn khẳng định mình muốn hơn đời khác tục,
muốn cá nhân mình được chiêm ngưỡng chiều chuộng.
Tản Đà “văn vị đời, văn chơi”
Nhà nho tài tử
Nho nhưng không hành đạo, không ẩn dật (hợp đạo)
Nho nhưng đối lập với hai loại trên – nhà nho tài tử:
Đề cao tài, tình, tính, du, mỹ chứ không phải chí, tâm, đạo, nghĩa.
Đề cao cá nhân “hơn đời, khác tục”:
Trời đất cho ta một cái tài
Dắt lưng dành để tháng ngày chơi
(Nguyễn Công Trứ)
Tài:
Kinh luân (Nguyễn Công Trứ)
Học vấn (Cao Bá Quát)
Quan trọng: tài văn chương, cầm kì thi họa, gọi chung là tài hoa, tài tử.
Kim Trọng “Nhác trông thấy một văn nhân (ước mơ thị dân phong kiến),
khác Lục Vân Tiên (ước mơ nông dân).
Ước mơ: không phải công danh phú quý mà là một sự nghiệp phi
thường:
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
(Nguyễn Công Trứ)
Mâu thuẫn: khinh quyền thế, công danh, phú quý (khuôn khổ, tục),
nhưng vẫn thèm muốn quyền lực (để thỏa mãn cá nhân).
Khinh nghĩa vụ nhưng vẫn phải làm vì mong muốn “trí quân trạch dân”
(để khẳng định cá nhân).
Đa tình: Khinh cuộc sống tầm thường với thê nhi, thích người đẹp. Có
khi sự nghiệp, ấn phong hầu chỉ làm đẹp lòng giai nhân:
Minh quân lương tướng tao phùng di
Tài tử giai nhăn tế ngộ nan
(Nguyễn Công Trứ)
Tài tử vượt thói thường, không yên mệnh.
Chế độ phong kiến: cần tài, nhưng đố tài (muốn có người tài, nhưng
trọng đạo, giữ lễ tiết dục).
Văn chương tài tử khóc thương, than vãn cá nhân: Tải mệnh tương đố,
Bỉ sắc tư phong, Không có tri âm tri kỉ.
Ca ngợi hành lạc, ca ngợi mỹ nhân; khóc thương cho cái tài (tài hoa, tài
tử, khách phong lưu) bị vùi dập, cái đẹp bị lãng quên: Độc Tiểu Thanh kí
– Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ
– Văn chương thiên cổ sự / Đắc thất thốn tâm tri (Đỗ Phủ)
Ví dụ: Nguyễn Công Trứ:
Chí khí anh hùng
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ
Quyết ra tay luồn lái trận cuồng phong
Chí những toan xé núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ
Đường mấy rộng thênh thang cử bộ
Nợ tang bồng trăng trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi tượu bầu
Cầm kì thi tửu
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
Dở duyên với rượu khôn từ chén
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời
Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó
Đàn còn phím trúc tính tình đây
Ai say ai tỉnh ai thua được
Ta mặc ta mà ai mặc ai
Cao Bá Quát:
Uống rượu tiêu sầu
Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời
Tiêu khiển một vài chung lếu láo.
Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu,
Trầm tư bách kế bất như nhàn.
Dưới dậu thưa thấp thoáng bóng Nam San,
Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi càng nhỏ.
Khoảng trời đất cổ kim kim cổ,
Mảnh hình hài có có không không,
Lọ là thiên tứ vạn chung.
Người nghệ sĩ tài tử trong xã hội tư sản
Có hai con đường: Bạch Thái Bưởi – Nguyễn Thiện Kế
Tản Đà gia nhập xã hội tư sản ở đô thị viết báo kiếm tiền, làm báo, đọc
tân thư, dùng điện thoại, tính toán vốn lời kinh doanh:
Bao nhiêu củi nước mới thành văn
Được bán văn ra chết mấy lần
Ông chủ nhà in in đã đắt
Lại ông hàng sách mấy mươi phân
Lo văn ế
Người tài tử: cậy tài khẳng định cá nhân mình
Thị dân: khẳng định cá nhân, con người với tất cả khía cạnh của nó:
khát khao, mơ mộng và thất vọng, vui buồn yêu đời chán đời.
Văn chương thị dân: khẳng định cá nhân mang cốt cách người tài tử,
cái tôi cậy tài muốn khẳng định mình trong cuộc sống, nhưng chưa đến được
với quan niệm cá nhân tư sản.
Người tài tử bắt gặp con người cá nhân trong xã hội tư sản hóa.
Cái tôi: Phạm Quỳnh nhận xét về sự thể hiện cái tôi táo bạo trong thơ
Tản Đà: “Người ta phi cuồng không ai dám trần truồng ra phố.”
Lê Thanh: “Ông ra đời đã đem cho chúng ta một thi sĩ thành thực dám
ca hát đời sống của lòng. Ông đã mơ mộng, đã chán đời, yêu đời, thiết tha
với đời một cách tự do. Ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công
nhiên để cho cái tính tình mê man của mình rộng rãi trong thơ.
2.2. Ngông:
Người tài tử ngày xưa: vốn cậy tài.
Xã hội phong kiến cần tài kinh bang tế thế và trọng tài văn chương.
Xã hội tư sản đề cao cái tài kinh doanh, phát minh khoa học hơn tài văn
chương:
Tản Đà: tài văn chương, tài chữ nghĩa, từ đó đến tài kinh luân trong xã
hội tư sản là một khoảng cách rất xa. Cái ngông của Tản Đà không có nét hào
hùng như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Cái Ngông ấy đi vào đập phá,
thách thức xã hội, và hờn tủi, tê tái. Đó là cái Ngông của người có tài mà
không được trọng dụng.
Tự khẳng định mình, đứng ra ngoài những qui ước xã hội, đặc biệt là
trường quy. Tự coi mình như “vưu vật”, có tài nhưng chỉ coi như chơi.
Tự trào
Vùng đất Sơn Tây này một ông
Tưới chửa bao nhiêu văn rất hùng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc
Bút thánh câu thần sớm vãi vung
Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh
Khuyên khuyên điểm điềm có hay không
Bởi ông hay quá ông không đỗ.
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông
Tự thuật
Văn chương thời nôm na
Thú vui có sơn hà
Ba Vì ở trước mặt
Hát Giang bên cạnh nhà
Tản Đà.
Tự nhận mình là “trích tiên”, là hậu thân của Đông Phương Sóc, lên trời
gặp Nguyễn Trãi, Lư Thoa. Ông tưởng tượng thấy mình viết thư hỏi con gái
Trời, đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe, được chư tiên khen và yêu cầu gánh
thơ lên trời bán:
Người đâu kiếp trước Đông Phương Sóc
Ăn trộm đào quen học thói ngày xưa
Trần gian đày mãi không chừa (…)
Văn dài hơi tốt ran cung mây
Trời nghe Trời cũng lấy làm hay (…)
Văn đã giàu thay lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
“Anh gánh lên đây bán chợ trời”
Hầu Trời
Xưng “tớ', “ta”, gọi mình là anh, bác Tản Đà, ông (người xưa: xưng “ta”,
xưng tên, chị…):
– Mỗi năm hậu bổ một lần thi
Năm ngoái năm xưa tớ cũng đi
Mười mấy năm xưa ngọn bút lông
Xác xơ chẳng bợn chút hơi đồng
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không.
(Thuật bút)
– Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thời có cửa nhà thời không
– Vùng đất Sơn Tây nảy một ông
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng (…)
Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông.
Nhận mình là “ngông”:
Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.
Ngông là bản lĩnh của Tản Đà, thể hiện sự đối lập của cá nhân đối với
xã hội tự sản, khát khao khẳng định con người cá nhân. Đi từ truyền thống tài
tử, Tản Đà bước chân vào xã hội tư sản, bị tư sản hóa, nhưng đồng thời cũng
phản ứng lại xã hội đó.
2.3. Đa tình
Từ nhỏ học Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, đã thích nhất hai câu:
“Hoa cù hồng phấn nữ
Tranh khán lục y lang”
(Đường hoa gái đẹp má hồng
Tranh nhau ra ngắm các chàng áo xanh)
Năm 19 tuổi xảy ra câu chuyện mối tình Hàng Bồ.
Kẻ sĩ tài tử ngày xưa: Đề cao chữ Tình là quan niệm của kẻ sĩ tài tử.
Đề cao Tình đối lập với đề cao Chí, Đạo, tức là đối lập con người cá nhân với
con người phận vị phong kiến. Chữ tình có nhiều nghĩa: vừa có nghĩa là sự
nhạy cảm (hữu tình, nòi tình), vừa là vừa có nghĩa ái tình, đa tình. Đó là
những mối tình với nữ sĩ, đào hát, li kì hấp dẫn.
Đa tình, giấc mộng yêu đương, trở thành lăng kính nhìn xã hội thông
qua số phận của những người tài tình, tài hoa, tài sắc
Có cái tình kín đáo với mỹ nhân:
Mỹ nhân quyển châu liêm
Thâm tọa tần nga mi
Đàn kiến lệ ngân thấp
Bất tri tâm hận thùy
Lí Bạch: Oán tình
Có cái tình sỗ sàng với đào nương ca kĩ:
– “Một đóa hoa lê áp hải đường”; “Giang sơn một gánh giữa
đồng/Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ không” (Nguyễn Công Trứ)
– “Chơi cho phờ râu, cho chóng mặt, cho long dải rút, cho trụt dây lưng/
Còn than tiếc chen chân vào cái dại” (Dương Khuê)
Tản Đà: Trong thơ Tản Đả, tình yêu có nhiều sắc thái: có cái tình
thoáng qua, có cái tình gần gũi – xa xôi, giây phút – ngàn thu…
Ghẹo người vu vơ, Nhớ chị hàng cau:
Ngồi buồn đâm nhớ chị hàng cau
Khoảng mấy năm trời ở những đâu
Khăn vải tùm hum lâu vắng mặt
Chiếu buồn che giữ có tươi màu
Ai đương độ ấy lăm răm mắt
Tớ đã ngày nay lún phún râu
Bèo nước hợp tan người mỗi nẻo
Cậy ai mà nhắn một đôi câu.
Tự nhận mình là người đa tình:
Người đâu cũng giống đa tình
Ngỡ là ai, lại là mình với ta
Nói chuyện với ảnh
Than không có người tri ki:
Cái giống đa tình ta có một
Mà người tri kỉ đấy không hai
Tản Đà
“Thơ tình của Tản Đà là thơ của người khao khát tình yêu và thất vọng
về tình yêu” (Vũ Ngọc Phan).
Trong xã hội tư sản người tài tử lạc loài, tài văn chương không có giá
trị, tình yêu chỉ là phù phiếm. Từ đó dẫn đến xu hướng phê phán xã hội kim
tiền gay gắt trong thơ ông:
Ai xui em lấy học trò
Thấy nghiên thấy bút những lo mà gầy
Người ta đi lấy ông Tây
Có tiền có bạc cho thầy mẹ tiêu.
Hay:
Anh tiếc cho em phận má đào
Tham đồng bạc trắng mới gán mình vào cái chú Tây đen
Sợi tơ hồng ai khéo xe duyên
Treo tranh tố nữ đứng bên anh tượng đồng.
Thất vọng với tình yêu đã khúc xạ vào văn chương Tản Đà thành
những giấc mộng yêu đương kỳ lạ:
Không yêu được người, ông mơ yêu tiên, yêu ma..
Chiêu Quân (chùa Non Tiên) với Tản Đà chẳng phải liệt nữ, nghĩ về
nàng, Tản Đà chỉ thấy thương tiếc một người tài sắc:
Cô ơi cô đẹp nhất đời
Mà cô mệnh bạc thợ trời cũng thua
Một đi từ biệt cung vua
Có về đâu nữa đất Hồ ngàn năm
Mả xanh còn dấu còn căm
Suối vàng lạnh lẽo cô nằm với ai
Má hồng để tiếc cho ai
Đời người như thế có hoài mất không (…)
Trời Nam thằng kiết là tôi
Chùa Tiên đất khách khóc người bên Ngô
Cô với ôi, tôi với cô
Trước sân lễ bạc có mồ nào đây
Hồn cô ví có ở đây
Đem nhau đi với lên mây cũng đành.
Đeo đuôi Hằng Nga. Đưa thơ tình bị đày xuống thành trích tiên, lại đưa
nữa thì bị “Trời mắng”. Đây là tâm sự mộng ảo về yêu đương của Tản Đà:
Muốn làm thằng Cuội
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần giới em nay chán nửa rồi.
Cung quế có ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chi nhắc lên chơi.
Có bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió cùng mây thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau nhìn xuống thế gian cười.
Xót xa thân phận, mối tình cô gái hàng Bổ đeo đẳng suốt đời:
– Vì ai cho tớ phải lênh đênh
Nặng lắm ai ơi một gánh tình
Nghìn dặm dám quên tình lúc ấy
Trăm năm còn nhớ chuyện ngày xưa
Ngày xuân tương tư
Diễn tả tình yêu tâm lí của mình (chứ không mượn điển tích), yêu là
đẹp, bản thân nó cũng là mục đích:
Quái lạ làm sao cứ nhớ nhau
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu.
Bốn phương mây nước trời đôi ngả
Hai chữ tương tư một gánh sầu
Tương tư
Tản Đà là một người đa tài, đa tình, nhưng trong xã hội tư sản đương
thời, tài không được trọng, tình không được thương, nên đã dẫn đến tâm
trạng u buồn, thất vọng và ý muốn thoát ra khỏi những câu thúc của quy tắc
nghiệt ngã của xã hội đương thời.
2.4. Vui chơi vịn thơ, rượu và thú giang hồ:
Người tài tử ngày xưa: uống rượu là cái thú, uống rượu để phát lộ tính
tình, chí khí uống rượu để vượt ra ngoài vòng cương tỏa và uống rượu để
tiêu nỗi sầu nhân sinh:
– Trừu đao đoạn thủy thủy cánh lưu
Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu
(Rút dao chém nước nước vẫn trôi
Nặng chén tiêu sầu sầu vẫn sầu)
– Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu (Lý Bạch)
– Uống nó tiêu sầu (Cao Bá Quát)
Tản Đà: thú uống rượu:
Hà tươi cửa biển Turan
Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà
Sài Gòn nhớ vị cá tra
Cái xe song mã, chén trà Nhất Thiên
Thú ăn chơi
Giai thoại uống rượu ở Sài Gòn, Đồ Sơn (cuốc nhà để trồng rau thơm,
Tản Đà ẩm thực – Ngô Tất Tố)
Tuyên ngôn: Ngày xuân thơ rượu:
Trời đất sinh ra rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
Mạch nước sông Đà tim róc rách
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi
Còn xuân mãi xuân còn rượu với thơ.
Có vẻ như ca tụng thú hành lạc không thiết gì đến thế sự, như Lưu Linh
cùng với nhóm Trúc Lâm Thất Hiền của ông:
Việc trần ai, ai tỉnh ai lo
Say túy lúy nhỏ to đều bất kể
Trời đất nhỉ cái say là sướng thế!
Thực chất cái say của ông là phản ứng lại xã hội, là muốn khác tục,
ghét những kẻ lên mặt tỉnh táo khôn ngoan cao đạo. Phản ứng lại bằng sự
phóng túng, tự do sống thật với mình:
Say lắm vẻ: say mệt, say mê, say nhừ, say tít
Trong làng say, ai biết nhất ai say?
Mảnh hình hài quen giả trá xưa nay
Chúng sinh tướng lúc này coi mới hiện
Say
Say là phương tiện giải buồn truyền thống của khách tài tử – một nỗi
buồn vừa gần gũi, vừa xa xôi mơ hồ, cái buồn của kiếp người, của người tài
tử, của người dân
Cảnh đời gió gió mưa mưa
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say thơ lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọt tình
Rượu thơ mình lại với mình
Khi say quên cả cái hình phù du
Trăm năm thơ túi rượu vò
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai.
(Thơ rượu)
Thú giang hồ:
Người tài tử ngày xưa: Phạm Lãi, Lý Bạch đi khắp Trung Hoa: Lạc
Dương, lầu Hoàng Hạc, Thành Đô, Thẩm Dương, Ngũ Hồ.
Giang hồ là cái thú, lại vừa là phản ứng chống lại xã hội đương thời:
Nhân sinh tại thế bất xứng ý
Minh triệu tản phát lộng biên châu.
(Lý Bạch)
Tản Đà: thú giang hồ đi từ Nam vào Bắc: Vinh, Nam Định,Vĩnh Yên,
Sơn Tây, Hải Phòng, Hà Nội – “kiếp tài tình mặt nước chân mây”.
Người tài tử không chịu được cuộc đời tù túng, muốn phóng khoáng,
ngao du sơn thủy, tiêu diêu như “trích tiên”, đạo nhân, đi mây về gió:
Hay là thưở trước kẻ văn chương
Chen hội công danh nhỡ lạc đường
Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương
Thăm mả cũ bên đường
Thú giang hồ, nhưng trong thơ Tản Đả vẫn không giấu được cái nghèo
đói của một cuộc đời tha phương cầu thực:
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thời có cửa nhà thời không
Nửa đời Nam Bắc Tây Đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng
Thú ăn chơi
Tản Đà không thể thành được một Phạm Lãi tiêu dao Ngũ Hồ, kể cả
một Lý Bạch vì gánh nặng áo cơm của người nghệ sĩ trong xã hội đồng tiền:
Bẩm Trời cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có (…)
Văn chương hạ giới rẻ như bèo.
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Cho đến cuối đời, bản ngã cũng bị đánh mất do xã hội không coi trọng
tài hoa, tài tình. Đó là bằng chứng cho sự bế tắc của người tài tử trong xã hội
tư sản, mà cũng là sự vong thân của con người trong xã hội kim tiền:
Tổng kết cuộc đời mình – vào năm 1938, một năm trước khi mất
Khi làm chủ bút lúc viết mướn,
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng.
Trần gian thước đất vẫn không có,
Bút sắt chẳng hơn gì bút lông.
Ngày xuân như ngựa đầu xanh bạc,
Chán cả giang hồ hết cả ngông.
Tiễn ông Công lên trời
Người tài tử vẫn có niềm tự hào riêng của họ: họ vẫn giữ được phẩm
chất tài hoa của người nghệ sĩ và phẩm chất thanh cao của một con người.
Cái nghèo không đánh gục được họ:
Người ta hơn tớ cái phong lưu
Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo.
2.5. Sầu:
Người tài tử: Mối sầu của người tài tử về nhân sinh: “Ba vạn sáu ngàn
ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười” (Cao Bá Quát).
Tản Đà càng sầu:
– Cảnh đời:
Cảnh đời gió gió mưa mưa
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn.
– Chán nản xã hội đen bạc:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi.
– Thói đời đen bạc:
Ai xui em lấy học trò
Thấy nghiên thấy bút những lo mà gầy
Sao bằng đi lấy ông Tây
Có tiền có bạc cho thầy mẹ tiêu
– Nhập thế, hành đạo, lo đời:
Ngày nay tuổi đã ba mươi ba
Ta nghĩ mà ai chẳng giống ta
Lo nước, lo nhà, lo thế giới
Còn thêm lo nợ, nghĩ không ra.
Khai bút Tân Dậu
Hủ nho lo nước lụt, Hủ nho lo việc đời
Lo công danh sự nghiệp:
Đời người lo mãi biết bao thôi
Mái tóc xanh xanh trắng hết rồi
Sự nghiệp nghìn thu xa ngút mắt
Tài tình một gánh nặng bên vai
Mối sầu lo của người dân mất nước:
Lo vì công việc báo An nam
Đã chót đa mang cứ phải làm
Bốn bể phen này không trắng nợ
Tuyết sương âu hẳn bạc đầu thêm
Hủ nho lo việc đời
Mơ hồ bàng bạc, mà sâu xa, da diết, đó là nỗi sầu không rõ từ đâu, mối
“sầu vạn cổ, mối sầu về một kiếp người tài tử – con người cá nhân với những
ước mơ khát vọng không được thỏa mãn:
Khách giang hồ
Khuất khúc sông sâu mấy nhịp cầu
Ngỡ là gió Á với mưa Âu
Đời chưa duyên kiếp ai xanh mắt
Khách chẳng công danh cũng bạc đầu
Cảnh cũ đòi phen thay chủ mới.
Đường xa kinh nỗi suốt đêm thâu
Giang hồ chưa đã bao nhiêu kiếp
Mà cuộc trần ai mấy bể dâu.
Nhân sinh tại thế bất xứng ý:
– Cảm thu tiễn thu
Nào những ai:
Bảy thước thân nam tử,
Bốn bể chí tang bồng
Đường mây chưa bồng cánh hồng,
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tư mi.
Nào những ai:
Sinh trưởng nơi khuê các,
Khuya sớm phận nữ nhi,
Song the ngày tháng thoi đi,
Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa.
Nào những ai:
Tha phương khách thô
Hải giác thiên nha,
Ruột tằm héo, tóc sương pha,
Góc phần tranh tưởng quê nhà đòi cơn.
Nào những ai
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghệ nỗi mền đơn,
Giàu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!
Nào những ai:
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ hoa ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông trăng đãi con thuyền chơi vốn
Nào những ai:
Dọc ngang trời rộng,
Vùng vẫy bề khơi
Đội trời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân.
Nào những ai
Kê vàng tinh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đẩy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.
– Thăm mả cũ bên đường
Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà,
Đường xa, người vắng, bóng chiều tà,
Một dãy lau cao làn gió chạy,
Mấy cây thưa lá sắc vàng pha.
Ngoài xa trơ một đống đất đỏ,
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà.
Người nằm dưới mả, ai ai đó?
Biết có quê đây hay vùng xa?
Hay là thuở trước kẻ cung đao?
Hám đạn liều tên quyết mũi đao.
Cửa nhà xa cách vợ con khuất,
Da ngựa gói bó lâu ngày cao,
Hay là thuở trước kẻ văn chương?
Chen hội công danh nhỡ lạc đường.
Từ cho phận thấp chí khí uất,
Giang ho mê chơi, quên quê hương.
Hay là thuở trước khách hồng nhan?
Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen.
Phong trần xui gặp bước lưu lạc,
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.
Hay là thuở trước khách phong lưu?
Vợ con đàn hạc đề huề theo.
Quan san xa lạ đường lối khó,
Ma thiêng nước độc phong sương nhiều.
Hay là thuở trước bậc tài danh?
Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh
Giận duyên tủi phận hờn ân ái,
Đất khách nhờ chôn một khối tình
Suối vàng sâu thẳm biết là ai?
Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!
Trải bao ngày tháng trơ trơ đó,
Mưa dầu, nắng dãi, trăng mờ soi!
Ấy thực quê hương con người ta
Dặn bảo trên đường những khách qua:
Có tiếng khóc oe thời có thế
Trăm năm ai lại biết ai mà!
Con người tài tử nghệ sĩ kiểu mới: đem văn chương bán phố phường.
Sản phẩm của xã hội tư sản và của sự phản ứng lại xã hội đó, mở
đường cho loại hình thi sĩ hiện đại sau này: “Tản Đả là người thứ nhất có can
đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một
bản ngã, dám giữ một cái tôi” (Xuân Diệu).
3. TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC TRONG THƠ TẢN ĐÀ:
3.1. Duy Tân hợp pháp
Năm 1927, trên An nam tạp chí, Tản Đà đề xướng cả “Một cuộc chiến
tranh của người An Nam bắt đầu từ năm Đinh Mão”, huy động toàn bộ lực
lượng dân tộc thành một thế trận, lấy quốc dân nam phụ lão ấu làm trung
quân, có báo giới làm tiên phong, quan trường làm thủ thành, Đại Pháp bảo
hộ làm quân sư. Đây chẳng phải là một cuộc chiến tranh bằng binh đao võ
lực, chẳng phải chiến tranh với ai mà là mọi người tử chiến đánh nhau với
thời cuộc mà tranh sự sinh tồn.
Ông sốt ruột về sự chậm tiến:
Tính năm sinh nay đã bốn nghìn dư
Buổi tiến hóa lừ đừ sau mọi kẻ.
Hô hào đồng tâm hiệp lực:
Nam Bắc hỡi ai đồng tiến hóa.
Đông Tây nào những khách văn minh.
Ảo tưởng sai lầm:
Một thai rồi văn minh
Trăm sự nhờ Bảo hộ.
Lên tám
3.2. Thuyết “Thiên lương” yêu nước
Tản Đà làm một triết gia, làm một nhà cách mạng lập thuyết. Ông lập ra
thuyết Thiên lương, coi nó là phương thuốc hữu hiệu để cứu đời. Sự rao
giảng thuyết Thiên lương là sứ mệnh Trời giao mà Tản Đà đã hứa danh dự
trong buổi “Hầu Trời”:
Hai chữ “ Thiên lương “ thằng Hiếu nhớ
Dám mong không phụ trời trông mong
“Thiên lương” là cái nguyên chất mà con người nhận được để phân biệt
người với vạn vật, như cái đẹp của loài công, cái mạnh của loài hổ, cái bọng
cay của loài cà cuống. Thiên lương có 3 chất:
Lương tri: khiến con người có trí
Lương tâm: khiến con người có đức
Lương năng: khiến con người có tài.
Thiên lương con người tiếp thu được không bằng nhau. Ai thụ bẩm
được nhiều thiên lương thì thành hào kiệt. Thiên lương là do trời phú, nhưng
con người phải tác động vào hoàn cảnh mới có hiệu quả
Thiên lương là tư tưởng triết trung, điều hòa Đông Tây trong thời cận
đại:
Ảnh hường âu Tây: chú ý đến hiểu biết khoa học, chế tạo tiêm thủy
đánh (tàu ngầm), phi cơ…
Ảnh hưởng Nho giáo: ở tính chất chú trọng đạo đức cá nhân mang màu
sắc Tính thiện của Mạnh Tử.
3.3. Tình yêu nước của nhà thơ tài tử
Tấm lòng yêu nước của Tản Đả mơ hồ mà da diết, nó không dẫn đến
hành động nhưng có một sắc thái riêng. Đó là yêu nước của người tài tử trên
diễn đàn văn học công khai – những bài thơ non nước:
Yêu cảnh đẹp của đất nước:
Qua cầu Hàm Rồng hứng bút.
Hôm xưa chơi ở Dương Quỳ
Trắng phau ngựa trắng, xanh rì rừng xanh
Hàm Rồng nay lại qua Thanh
Dưới cầu nước biếc in hình thi nhân.
Người đâu sương tuyết phong trần
Non xanh nước biếc bao lần vãng lai
Dư đồ còn đó chưa phai
Còn non, còn nước, còn người nước non.
Ruột tằm dù héo chưa mòn
Tơ lòng một mối xin còn vấn vương
Nước non muôn dặm trường trường
Hỡi ai rau sắn chùa Hương biết cùng!
Trăm năm nặng gánh tang bồng
Lửa than càng đốt cho lòng càng son.
Cảnh còn biếc nước xanh non
Đầu ai trắng tóc, duyên còn thắm tơ.
Để ai thương nhớ đợi chờ,
Mà ai đi mãi, bao giờ đến nơi?
Có tinh chất đa tình:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
Thề non nước
Gắn với cái ngông, ý thức cá nhân có trách nhiệm:
– Này vẫn bác Tản Đà năm trước
Thủa xuân xanh thề ước non sông.
– Ơn nhà nợ nước hai vai
Nước nhà ai để riêng ai nặng nề
Trông mây nước bốn bề lạnh ngắt
Nhìn non sông tám mặt sầu treo
Đường xa gánh nặng xế chiều
Cơn giông biển lớn mái chèo thuyền nan.
Tản Đà yêu nước, những lòng yêu nước có sắc thái riêng, yêu nước
của một nhà thơ tài tử (chứ không phải của một nhà tư tưởng, một nhà hoạt
động cách mạng). Tình yêu nước ấy không tách khỏi lòng yêu cảnh đẹp, lòng
yêu tình nhân, người tri âm tri kỉ. Tư tưởng yêu nước của Tản Đã có thề bị
nhiều người hồ nghi về giá của nó, nhưng tình cảm yêu nước trong thơ ông
lại hết sức phong phú, giàu tình cảm, có sức thẫm sâu, lan rộng lam say mê
khắc khoải lòng người.
Tản Đà bước vào xã hội những năm 10 của thế kỷ XX như một cơn gió
lạ trên văn đàn. Tản Đà đã đưa cái tôi phơi bày ra trước mặt mọi người. Cái
tôi của Tản Đà là sản phẩm của xã hội VN đang tư sản hóa, có tính chất phản
phong, nhưng tư sản hóa không đầy đủ ý thức về cá nhân chưa hoàn chỉnh.
Cái tôi ấy có tính chất cận đại nhưng vẫn mang đậm nét cái tôi của người tài
tử phương Đông ngày xưa. Cái đáng quý trong thơ Tản Đà là sự khẳng định
cái tôi cá nhân và lòng yêu nước kiểu tài tử. Tản Đả đã góp phần đẩy nền
móng cho nền thi ca mới, dẫu ông chưa phải là một nhà thơ mới đích thực:
Đờn là đờn
Thơ là thơ
Thơ thời có chữ, đờn có tơ
Nếu không phá cách vứt điệu luật
Khó cho thiên hạ đến bao giờ!
Bá Nha xa
Lý Bạch khuất
Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách
Thơ có chữ, đờn có tơ
Đàn thời ngơ ngẩn, thơ vẩn vơ
Tài tử văn nhân nhường rứa rứa
Bút huê ngao ngán bận đề thơ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900 – 1930, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội,1988
2. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú: Lịch sử văn học Việt Nam, Tập IVb,
NXB Giáo dục, 1978
3. Nguyễn Khắc Xương: Tản Đà tuyển tập, NXB Văn học, Hà Nội, 1986
4. Tầm Dương: Tản Đà khối mâu thuẫn lớn, Tái bản lần thứ 1,
NXB.Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, TP.HCM, 2003
CÂU HỎI
1. Tại sao nói Tản Đà là người tài tử trong xã hội tư sản?
2. Những cách tân nghệ thuật trong thơ Tản Đà (thể thơ, giọng điệu,
hình tượng, ngôn ngữ…)
THƯ MỤC THAM KHẢO CHUNGSách, giáo trình chính:
1. Đoàn Lê Giang (2009), Văn học Việt Nam từ đầu TK XX đến 1932,
Đề cương bài giảng
2. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời 1900-1930, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội
3. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú (1978): Lịch sử văn học Việt Nam,
Tập 1V, Nxb. Giáo dục, Hà Nội
Tài liệu tham khảo:
3. Hồ Biểu Chánh: Một số tiểu thuyết của trước năm 1930: Ai làm được,
Chúa Tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời, Một chữ tình, Nhân tình ấm lạnh, Tiền
bạc bạc tiền, Ngọn cỏ gió đùa, Khóc thầm, Con nhà nghèo…
4. Nguyễn Huệ Chi (1989), Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, NXB Văn
học, Hà Nội
5. Tầm Dương (2003), Tản Đà khối mâu thuẫn lớn, Tái bản lần thứ 1,
NXB.Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, TP.HCM, 2003
6. Đoàn Lê Giang: Văn tuyển văn học Việt Nam 1900–1932, Đại học
Quốc gia TP.HCM,
7. Dương Quảng Hàm (1967): Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia
Giáo dục (tái bản lần thứ 10), Sài Gòn
8. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi và nhiều người khác (2004), Từ điển
văn học (Bộ mới), NXB. Thế giới, Hà Nội, Hà Nội
9. Nguyễn Khuê (1998), Chân dung Hồ Biểu Chánh, NXB.TP.Hồ Chí
Minh, tái bản, TP. Hồ Chí Minh
10. Huỳnh Lý, Hoàng Ngọc Phách (1983), Thơ Phan Chu Trinh,
NXB.Văn hóa thông tin, Hà Nội.
11. Cao Xuân Mỹ sưu tầm và tuyển chọn (1998), Truyện dài đầu tiên và
tuyển tập các truyện ngắn Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu - thế kỉ XX, NXB.Văn
nghệ TP. Hồ chí Minh Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh.
12. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ cách mạng Việt Nam, NXB Văn học,
HN
13. Lữ Huy Nguyên (1984), Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải, NXB Văn
học, Hà Nội
14. Nhiều tác giả (2006), Hồ Biểu Chánh – người mở đường cho tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại, NXB. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
15. Nhiều tác giả (1976), Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ
XX, NXB Văn học, Hà Nội
16. Nhiều tác giả (1985), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập IV (1858 –
1920), NXB Văn học, Hà Nội
17. Hoàng Ngọc Phách (1988), Tố Tâm, NXB Văn nghệ và Hội nghiên
cứu giảng dạy Văn học TP Hồ Chí Minh
18. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Nxb. Tân Dân, Hà Nội,
1942. NXB. Văn học và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. HCM (tập
1 –tái bản)
19. Nguyễn Trọng Quản (1987), Truyện thầy Lazaro Phiền (in ronéo),
Nguyễn Văn Trung giới thiệu, ĐHSP TP.Hồ Chí Minh,
20. Hoài Thanh, Hoài Chân (2000), Thi nhân Việt Nam 1932 – 1941, tái
bản, NXB.Văn học,
21. Nguyễn Q.Thắng (2006), Huỳnh Thúc Kháng – con người và thơ
văn (1876 – 1947), NXB.Văn học, Hả Nội,
22. Chương Thâu (1967), Văn thơ Phan Bội Châu, NXB.Văn học, Hà
Nội.
23. Chương Thâu, Trần Ngọc Vượng (2007), Phan Bội Châu – về tác
gia và tác phẩm, tái bản, NXB.Giáo dục, Hà Nội
24. Chương Thâu (2007), Phan Châu Trinh – về tác gia và tác phẩm,
NXB.Giáo dục, Hà Nội,
25. Nguyễn Trọng Thuật (1974), Quả dưa đỏ, Yiểm Yiểm xuất bản, Sài
Gòn
26. Lê Thước (1959), Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền, NXB.Văn hoá, Hà
Nội.
27. Nguyễn Văn Trung (1972), Chủ đích Nam Phong, Nam Sơn xb, Sài
Gòn
28. Nguyễn Văn Trung (1975), Trường hợp Phạm Quỳnh, Nam Sơn xb,
Sài Gòn
29. Nguyễn Khắc Xuyên (2002), Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong,
NXB.Thuận Hóa – Trung tâm Ngôn ngữ Đông tây (tái bản)
30. Nguyễn Khắc Xương (1986): Tản Đà tuyển tập, NXB. Văn học, HN
MỤC LỤCBài 1: Văn học yêu nước của các sĩ phu Duy tân
1. Phong trào duy tân đầu TK.XX
2. Tư tưởng yêu nước mới của các sĩ phu duy tân
Bài 2: Phan Bội Châu
1. Cuộc đời
2. Phan Bội Châu, ngọn cờ đầu của thơ văn yêu nước đầu TK.XX…
3. Hình tượng người chí sĩ duy tân
4. Nghệ thuật thơ văn Phan Bội Châu
Bài 3: Nền văn học mới xuất hiện ở đô thị
1. Sự ra đời của nền văn học mới
2. Tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách
3. Những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết Tố Tâm
Bài 4: Hổ Biểu Chánh
1. Cuộc đời và sự nghiệp
2. Một thế kỷ nghiên cứu và tiếp nhận thơ văn Hồ Biểu Chánh
3. Nội dung tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
4. Ngôn ngữ và nhân vật
Bài 5: Phạm Quỳnh và nhóm Nam phong tạp chí
1. Lược sử đánh giá Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí
2. Nam Phong tạp chí
3. Nhóm Nam Phong tạp chí
4. Phạm Quỳnh trong Nam Phong tạp chí
Bài 6: Tản Đà
1. Cuộc đời
2. Cái tôi trước cuộc đời
3. Tư tưởng yêu nước trong thơ văn Tản Đà
4. Những cách tân nghệ thuật trong thơ văn Tản Đà
Thư mục tham khảo chung
---//---
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH VÀ NHÂN VĂN TP.HCM
KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ
TẬP BÀI GIẢNG
VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932
Tác giả: Đoàn Lê Giang – Phan Mạnh Hùng
TP.HCM 2009