thủ bút ký thác của Đức thầy - wordpress.comchữ ký của Đức thầy là biểu...

3
ThBút ký thác Của Đức Thy Sydney, 6-7-2017, KVân Cư Sĩ biên kho (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson https://kinhsamthatson.wordpress.com/ Hào quang chư Phật rọi mười phương, Phật Pháp rất nhim mu! Đạo pháp xem qua chớ gọi thường. Môn đồ hãy giữ tánh lành, Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu, nghiên cu ktừng nét dấu Ccông gìn giữ tánh thuần lương. trong chký của Đức Thy. (trích quyn Khuyến Thiện, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ChQuán năm 1941) Chký Bát Môn Đồ Trn của Đức Huỳnh Giáo Chủ đêm 16-4-1947 Đốc Vàng. Nét số 3 ct ngang gia chS tiên tri ám chỉ vĩ tuyến 17 chia hai đất nước năm 1954 ; nét 4 và 5 là chữ O ám chỉ mdu Biển Đông, và những nét 6,7,8 ám chỉ trn chiến Biển Đông sắp ti. Nét số 3 là hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ (Tây U) ; những nét còn lại là cuộc chiến chng giặc Tàu sắp ti. Trong cõi vô vi, Đức Thy vn chuyn cho cdân tộc VN đoàn kết đánh thng c3 trn gic ngoại xâm Tây Mỹ Tàu. Chký của Đức Thầy là biểu đồ gm c3 cuc chiến VN chống 3 đế quc mnh sng snht lch snhân loại. Nhiều kẻ nói Đức Thầy bị gạt trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, nhưng không ngờ Đc Thầy đã biết trước tất cả. Ngay trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, Đức Thầy đã ký thác cho Việt Minh đánh 3 cuộc chiến: chống Pháp, Mỹ và Tàu {chữ ký Bát Môn Đồ Trận}. Thầy biết sau cuộc chiến chống Pháp, còn cuộc chiến khốc liệt chống Mỹ, rồi sau cùng cuc chiến chống gic Tàu càng khốc liệt hơn nữa! Dân tộc VN phải trả quả bằng 3 cuộc chiến; và riêng Đức Thầy {hậu kiếp Đức Trạng Trình}, mượn cơ Bửu Vinh chặt Thầy làm 3 khúc để Thầy trả cái quả vì ngày xưa Trạng Trình lập kế cho Nguyễn Hoàng trên đường Nam tiến với câu sấm bất hủ: Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân, Thầy trả cái quả 3 chủng tộc bị nhà Nguyễn diệt chủng gồm có dân tộc Chàm, Thủy Chân Lạp, và Tây Nguyên. Luật nhân quả thật là sòng phẳng. Đức Thầy thuyết trong quyển Khuyến Thiện: Luật nhân quả thật là cao viễn, Suốt cổ kim chẳng lọt một ai. Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nng vậy thì thiết tha! Dân nay như thể không cha, Chng ai dy dthiệt là thảm thương! ................................................................................ Thiên cơ ai dám nói thừa, Mà trong bá tánh chẳng ưa Điên Khùng. ( Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939) * Ktà gian sửa li sấm Đức Thầy như sau: Hết Đây rồi đến DK*** Tây = Đây; Huê Kỳ = DKQuthật là sau cuc chiến chống Tây Mỹ, sp tới đây scòn cuộc chiến chng giặc Tàu vô cùng khốc lit: MChâu ơi hỡi MChâu, Mê chi thằng Chệt để su cho cha! (Sm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Du 1945) Đức Thầy là Bồ Tát Phật giáng trần cứu thế cũng phải trả quả vào Đốc Vàng cho Bửu Vinh chặt 3 khúc đêm 16-4- 1947. Sau khi cả dân tộc VN trả quả bằng 3 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ, và Tàu, thì giống Hồng Lạc mới thấy thái bình vĩnh cửu trong thời Di Lạc sắp tới . Thánh Địa Di Lạc Phật Vương tại Nam VN. Nam Mô A Di Đà Phật.

Upload: others

Post on 19-Jan-2020

9 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Thủ Bút ký thác Của Đức Thầy - WordPress.comChữ ký của Đức Thầy là biểu đồ gồm cả 3 cuộc chiến VN chống 3 đế quốc mạnh sừng sỏ nhứt

Thủ Bút ký thác Của Đức Thầy

Sydney, 6-7-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Hào quang chư Phật rọi mười phương, Phật Pháp rất nhiệm mầu!

Đạo pháp xem qua chớ gọi thường. Môn đồ hãy giữ tánh lành, Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu, nghiên cứu kỹ từng nét dấu

Cố công gìn giữ tánh thuần lương. trong chữ ký của Đức Thầy. (trích quyển Khuyến Thiện, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ở Chợ Quán năm 1941)

Chữ ký Bát Môn Đồ Trận của Đức Huỳnh Giáo Chủ đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng.

Nét số 3 cắt ngang giữa chữ S tiên tri ám chỉ vĩ tuyến 17 chia hai đất nước năm 1954 ; nét 4 và 5 là chữ O ám chỉ mỏ dầu Biển Đông, và những nét 6,7,8 ám chỉ trận chiến Biển Đông sắp tới.

Nét số 3 là hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ (Tây U) ; những nét còn lại là cuộc chiến chống giặc Tàu sắp tới. Trong cõi vô vi, Đức Thầy vận chuyển cho cả dân tộc VN đoàn kết đánh thắng cả 3 trận giặc ngoại xâm Tây Mỹ Tàu. Chữ ký của Đức Thầy là biểu đồ gồm cả 3 cuộc chiến VN chống 3 đế quốc mạnh sừng sỏ nhứt lịch sử nhân loại.

Nhiều kẻ nói Đức Thầy bị gạt trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng,

nhưng không ngờ Đức Thầy đã biết trước tất cả. Ngay trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, Đức Thầy đã ký thác cho Việt Minh đánh 3 cuộc chiến: chống Pháp, Mỹ và Tàu {chữ ký Bát Môn Đồ Trận}. Thầy biết sau cuộc chiến chống Pháp, còn cuộc chiến khốc liệt chống Mỹ, rồi sau cùng cuộc chiến chống giặc Tàu càng khốc liệt hơn nữa!

Dân tộc VN phải trả quả bằng 3 cuộc chiến; và riêng Đức Thầy {hậu kiếp Đức Trạng Trình}, mượn cơ Bửu Vinh chặt Thầy làm 3 khúc để Thầy trả cái quả vì ngày xưa Trạng Trình lập kế cho Nguyễn Hoàng trên đường Nam tiến với câu sấm bất hủ: Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân, Thầy trả cái quả 3 chủng tộc bị nhà Nguyễn diệt chủng gồm có dân tộc Chàm, Thủy Chân Lạp, và Tây Nguyên. Luật nhân quả thật là sòng phẳng. Đức Thầy thuyết trong quyển Khuyến Thiện: Luật nhân quả thật là cao viễn, Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.

Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!

Dân nay như thể không cha, Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương!

................................................................................

Thiên cơ ai dám nói thừa, Mà trong bá tánh chẳng ưa Điên Khùng.

( Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

* Kẻ tà gian sửa lại sấm Đức Thầy như sau: Hết Đây rồi đến Dị Kỳ *** Tây = Đây; Huê Kỳ = Dị Kỳ

Quả thật là sau cuộc chiến chống Tây Mỹ, sắp tới đây sẽ

còn cuộc chiến chống giặc Tàu vô cùng khốc liệt:

Mị Châu ơi hỡi Mị Châu, Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha!

(Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Dậu 1945)

Đức Thầy là Bồ Tát Phật giáng trần cứu thế cũng phải trả quả vào Đốc Vàng cho Bửu Vinh chặt 3 khúc đêm 16-4-1947. Sau khi cả dân tộc VN trả quả bằng 3 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ, và Tàu, thì giống Hồng Lạc mới thấy thái bình vĩnh cửu trong thời Di Lạc sắp tới. Thánh Địa Di Lạc Phật Vương tại Nam VN. Nam Mô A Di Đà Phật.

Page 2: Thủ Bút ký thác Của Đức Thầy - WordPress.comChữ ký của Đức Thầy là biểu đồ gồm cả 3 cuộc chiến VN chống 3 đế quốc mạnh sừng sỏ nhứt

Canh-Thìn năm thiệt là rồng, Từ ngày mượn xác trần-hồng đáo lai. Tháng năm Kỷ-Mão đến nay, Khắp trong bá-tánh gặp bài sám-kinh. Lời văn tao-nhã hữu tình, Bởi vưng sắc-lịnh Thiên-Đình sai Ta. Xuống trần Lão dụng khuyến-ca, Đầu đuôi cạn tỏ ngâm-nga ít bài. Tạm đây Ta mắc lui hài,* 16-4-1947 Vì trên bệ-ngọc triệu rày hồi-qui. Không đành tách gót ra đi, Nên dùng lời lẽ từ thì bá gia. Thiên đường lộ ấy nào xa, Muốn cho khỏi khổ xem qua lời truyền. Dấu xưa noi tích Thánh-hiền, Thương trần mượn xác bút liền ra cơ. Thấy trong bá tánh ngẩn-ngơ, Nay Thầy xa tớ bơ-vơ một mình. Gẫm trong hai chữ nhục-vinh, Xưa nay thiên hạ kệ kinh ít dùng. Cúi đầu tâu lại cửu trùng, Ngọc-Hoàng ban chiếu lão Khùng giáo-dân. Gái trai lớn nhỏ ân cần, Chùi lau vẹn mặt thì gần Thánh Tiên. Tây-phương đua nở hoa liên, Chờ người hữu phước thiện duyên từ-hòa. Nhắn cùng bổn-đạo gần xa, Ta về âm cảnh thiết-tha tâm tràng.* Đời nay hiếm kẻ nghinh-ngang, Chẳng kiêng lời lẽ Phật-đàng từ-bi. Lang tâm trắc-nết vô-nghì, Nhỏ không biết nể kính vì Bề Trên. Nhỏ to lời lẽ chớ quên, Ráng mà nguyện vái đặng đền ơn sâu. Bá gia bá tánh đâu đâu, Xem lời Ta chỉ về cầu tại gia. Có đau thì thuốc đó mà, Dòm trong bản chữ về nhà kiếm cây. Nay Thầy chịu lịnh về Tây, Tạm ngưng đạo-đức ít ngày Thầy qua. Dạo trong khắp cõi ta-bà, Nơi nơi chốn chốn quỷ ma rối loàn. Chữ rằng: “Nhơn thiện vi nan”. Dầu cho tài trí cũng mang nợ nần. Có đeo bịnh tật vào thân, Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô. Thành lòng nước lã nên hồ, Hữu tâm chí đức cam-lồ Phật ban. Cám thương bá-tánh tai nàn, Gặp cơn dông tố nào an lòng nầy. Đờn Ta vốn thiệt không dây,* Vô duyên khó biết lời Thầy nói xa. Từ trên tới dưới thuận hòa, Hay hơn châu báu ngọc-ngà giàu sang. Thầy về tâu lại Phật-đàng, Cúi xin nhỏ phước xóm làng bình yên. Giống nòi thiệt cốt Rồng Tiên, Mà nay lạc mất gương hiền nơi đâu. Muốn xem bốn chữ Long-Châu, Bền gan sắt đá sồng-nâu tu trì. Tu hành mà mãi nan nghi, Sợ Ta gạt-gẫm cũng kỳ cho dân. Giã từ khắp hết dương-trần,

Sydney, 25-11-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Vân du chốn cũ lưới Thần bủa ra. Non cao nhiều thứ cáo-xà,

Trừ loài độc-địa mới là yên thân. Biết sao cho toại lòng dân,

Kẻ ưa đạo-đức người cần vinh-hoa. Xót lòng cậy nước ma-ha, Hớp vô ba hớp ắt là lặng tâm.

Thân Khùng đêm vắng khóc thầm, Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an.

Từ nay cách biệt xa ngàn, Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy

Giữa chừng đờn nỡ dứt dây, Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa.

Tỉnh say trong giấc mộng hoa, Mơ-màng cũng tưởng như Ta bên mình.

Tuy là hữu ảnh vô hình, Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai.

Nghe sơ lời Lão cạn bày, Tìm trong não óc gặp ngày bình-an. Kim-lân, xích-phụng lâm nàn,

Cho nên phận Lão đâu an Thân Già. Tảo-tần lo liệu năm ba,

Biết sao hiệp mặt Lòng Già mới nguôi. Mặt ngoài gượng-gạo bải-buôi, Chớ trong tim phổi rối nùi như tơ.

Tuồng đời như cá trong lờ, Thọc tay vô bắt còn ngờ kẹt hom. Bao nhiêu tâm não góp tom,

Dặn-dò kỹ-lưỡng chăm-nom khắp cùng. Chừng nào Tôi được hết Khùng,

Thì là dân-sự còn dùng làm chi. Bận lòng cạn tỏ vân-vi,

Bớ dân hai chữ công-trì sớm khuya. Nhớ câu ăn giấy bỏ bìa,

Được thân sung-sướng vội lìa Tổ-Tông. Kể ra lại bắt mủi lòng,

Ngán đời mua bưởi bán bòng chát-chua. Cứ theo cái lối a-dua,

Dạ toan đốt miễu phá chùa từ-bi. Vàng kho thêm gánh ích gì,

Thôi Ta than lắm vậy thì thẹn thêm. Bóng trăng cậy đỡ ban đêm, Trầu ăn nhả bã lại têm mời hoài.

Khùng ngồi nói chuyện quá dai, Bị lòng bác ái nói hoài chẳng thôi.

Thấy đời mặt lọ không bôi, Lại khoe kép giỏi một hồi múa men. Từ nay cửa Khổng gài then,

Chờ Ta trở lại thì đèn hết lu. Thân Khùng là phận sĩ-phu,

Chẳng ham danh-diệu miễn tu vuông tròn Khôn thì lánh chốn đau đòn, Dại thì lòn cúi đồ ngon ăn thừa. Hai lòng uốn lưỡi đẩy đưa,

Ỷ hơi Hạng-Võ mắc lừa Trương-Lương. Nhớ qua hồi lúc đời Đường,

Hiền thần Nhơn-Quí người đương ẩn mình Cửu-Thiên còn giấu tại dinh,

Chờ ngày mãn hạn phép linh ban rày. Giảng kinh đọc tụng chiều mai, Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta.

Xác trần để lại làng Hòa, Lời thăm bốn phía Ngọc-tòa Ta lui.

Âm dương cách trở xa-xuôi, Nhắn cùng bá tánh chớ nguôi tấc lòng. Phận Khùng thân hỡi long đong.

Còn lo cho thế hai lòng toan mưu. Ta không gây oán kết cừu, Cớ sao dân-sự phiền ưu nỗi gì? Khoa tràng lịnh mở hội thi,

Nên Ta xuống bút dạy thì trần-gian. Chớ mình hồn dựa lâm-san,

Thảnh-thơi còn xuống thế-gian làm gì? Ước-mơ Thượng-cổ hồi qui, Thế-trần no ấm phú thi an nhàn.

Quân-thần, phụ-tử vinh-vang, Hết lo cay đắng, Khùng an phận Khùng.

Tới đây từ biệt khắp cùng, Thầy lìa khỏi xác Thiên-cung phản hồi

Đục trong cạn tỏ khúc nôi, Thấy dân tu dối nghĩ thôi bận lòng. Lang tâm như thú thiếu lông,

Trớ-trêu cửa miệng trong lòng gươm đao. Ra đời chẳng nệ công lao,

Chẳng hờn không giận, hùng-hào còn ganh Hiệp chung một cội nhánh-nhành, Sum-sê lá thắm chim xanh nối đường.

Từ-bi tình ấy đoạn trường, Kể qua tích cũ mà lường lòng đây.

Như ai có đọc đoạn nầy, Xin đừng chê nhạo rằng Thầy nói nhăng.

Muốn sao có phép phi đằng, Cũng như Đại-Thánh, Đường-Tăng thoát nàn

Rưng-rưng nước mắt hai hàng, Lánh nơi cõi tục Phật-đàng lui chơn.

(Đức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Hòa-Hảo, ngày 1-4 Canh-Thìn 1940)

Năm 1940, Đức Thầy viết bài Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi, báo trước cho bổn đạo biết rằng Thầy sẽ đi xa {vắng bóng} một thời gian. Vậy ai là người tâm đạo, đừng phụ lòng Thầy, hãy chờ đợi Thầy sẽ trở về như Thầy đã viết:

Thân Khùng đêm vắng khóc thầm, Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an.

Từ nay cách biệt xa ngàn, Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy

Giữa chừng đờn nỡ dứt dây, Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa

Tỉnh say trong giấc mộng hoa, Mơ-màng cũng tưởng như Ta bên mình

……………………………………………………………

Tới đây từ biệt khắp cùng, Thầy lìa khỏi xác Thiên-cung phản hồi

Câu sấm vô cùng quan trọng: “ Giữa

chừng đờn nỡ dứt dây, Chưa vui buổi

hiệp bỗng Thầy lại xa”. Nghĩa là Thầy ra

đi vắng bóng bất ngờ “Giữa chừng đờn nỡ

dứt dây”, cụm từ “dứt dây”, nghĩa là tạm

ngưng đờn, khi Thầy trở về Thầy sẽ tiếp nối

tiếng đờn tìm lại tri âm tri kỷ Bá Nha Tử Kỳ.

Từ Giã Bổn Đạo khắp nơi

Page 3: Thủ Bút ký thác Của Đức Thầy - WordPress.comChữ ký của Đức Thầy là biểu đồ gồm cả 3 cuộc chiến VN chống 3 đế quốc mạnh sừng sỏ nhứt

Sydney, 17-7-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Đờn kêu chưa được tròn trăng, Thì người phải chịu sông Hằng vùi chôn.

Đờn kêu mất xác tiêu hồn, Đờn kêu bá tánh bôn chôn làm gì!

Đờn kêu TA khảy li bì, Năm châu chờ đợi thây thi rã rời.

Đờn kêu khúc hát tuyệt vời, Đờn kêu sống để coi đời chúng sanh.

Đờn kêu sắp nổi chiến tranh, Thế Chiến 3

Bình Dương dấy động máu tanh dầm dề.

Đờn kêu Cậu chẳng đặng về, Còn mang lãnh sự nặng nề làm sao.

Đờn kêu thấu đến Trời cao, Cậu đờn bá tánh tâm nao khốn cùng.

Đờn kêu người quá lạnh lùng, Rồi đây sấm nổ đùng đùng gần bên.

Đờn kêu xạ tiễn cung tên, Đờn kêu không được chí bền nghe dân.

Đờn kêu yểm cựu nghinh tân, Rồi đây phải chịu đời gần trắng tay.

Cậu đờn núi rã làm hai, Biển kia còn cạn hồn lai được nào.

Đờn kêu bẻ cổng xé rào, TA đờn bá tánh đồng bào gần xa.

Đờn kêu gần lập cung nga, Đờn kêu Phật pháp tề gia nối đời.

Đờn kêu bủn rủn bời rời, Nghe Trên Phật đã lập đời xử dân.

Đờn kêu lập Đại Tân Dân, Nếu người thiếu đức tại trần làm sao.

Đờn kêu bá tánh đồng bào, Nhìn đi trăng khuyết sao rơi đầy đường.

Đờn kêu bớ kẻ nghịch thường, Tới Đời phải chịu đoạn trường bó tay.

Đờn kêu các bậc nhân tài, Mau ra cứu chúng trần ai buổi này.

Đờn kêu không có sợi dây,* Đờn kêu đờn Phật đờn Thầy lâm san.

Đờn kêu châu lệ hít hà, Đờn kêu khắp hết miền xa ạt ào.

Đờn kêu rã nhịp từ tao, Tiếng đờn của Cậu công lao dạn dày.

Đờn kêu dân sắp ăn mày, Nếu không phước đức ngày mai khổ sầu.

Đờn kêu người chẳng biết đâu, Đổi đời lập đạo cồn dâu phải chìm.

Đờn kêu nhiều nỗi nhiều niềm, TA Đây biết trước bên thềm Phật Vương.

Thấy đời như vậy mà thương, TA đờn nhiều sự đoạn trường gay go.

(Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 136-138, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002)

Đờn kêu Gánh Hát ở đâu,

Sao mà quá trễ Ông Bầu chờ trông. Rạp hát ở tại Biển Đông,

Mau đi vui lắm biển sông chảy dài. Hát cho bá tánh trần ai,

Đào hay kép giỏi đem ngay cấp kỳ. Có đờn cứ hát mau đi,

Đúng giờ bấm phím duy trì trễ thôi. Đờn kêu gần hát đây rồi,

Bá gia bá tánh chờ coi tập tuồng. Đem vàng bạc triệu ức muôn,

Mời ra xem được vở tuồng hát hay. Đờn kêu chỉ có kỳ này,

Hát rồi rã gánh bầu thầy cũng vong. Mấy ngày biểu diễn Biển Đông,

Nhìn coi nhảy múa giữa dòng nước trôi. Mau đi TA khảy đờn rồi,

Giàu sang mới được dự ngồi để xem. đủ đức Hết tiền khuôn mặt chèm nhèm, thiếu đức

Hết tiền nhào xuống bên thềm biển khơi. Đờn kêu sắp hát tuyệt vời,

Cầm kỳ thi họa do Trời đặt ra. Hát này coi rất đậm đà,

Màn son cũng ngộ đỏ mà trắng đen. Xem đi mê chết lấn chen,

Mua giàn hết của một phen phủi rồi. Biển khơi tắm mát dân ơi,

Ở luôn dưới biển đừng trồi lên khô. Hết đờn rồi tới Lôtô,

Khuyên đây với đó chú cô ráng chờ. Hát không có dọn lên bờ,

Hát rồi nóng nực nhảy thời tắm luôn. Trên không mấy con chuồn chuồn, hỏa tiễn

Dưới biển cá lội lệ tuôn dầm dề Hạm đội

Mong sao bá tánh đừng chê, Bần Cùng nói chuyện tái tê dân tình.

(Đừng Hẹn Tử Thần tr. 53-54, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2012)

Thân Khùng đêm vắng khóc thầm, Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an.

Từ nay cách biệt xa ngàn, Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy.

Giữa chừng đờn nỡ dứt dây, * 16-4-1947 Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa.

Tỉnh say trong giấc mộng hoa, Mơ màng cũng tưởng như TA bên mình.

..................................................................

Tới đây từ biệt khắp cùng, Thầy lìa khỏi xác Thiên Cung phản hồi.*16-4-1947

(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940)

* Ngày 16-4-1947, theo Thiên định, Đức Thầy vào Đốc Vàng

ký thác cho Việt Minh đánh 3 trận giặc chống Pháp, Mỹ, Tàu.

* Bá Nha người đời Tống, làm

quan Thượng đại phu, đánh đàn rất giỏi. Một hôm nhân đi sứ nước Sở về, gặp buổi trăng thanh gió mát, dừng lại nghỉ ở bờ sông Hàm Dương, cao hứng lấy đàn ra khảy. Tử Kỳ đi đốn củi về, phát hiện có tiếng đờn dừng chân lại chăm chú nghe. Bá Nha không tin một gã tiều phu nghèo lại biết thưởng thức âm nhạc, nên sau khi đàn xong một bản lại hỏi Tử Kỳ xem có biết bài gì đó không? Tử Kỳ đáp: Ngài đàn bài Đức Khổng Tử thương tiếc Nhan Hồi. Bá Nha mừng trong bụng, vội mời Tử Kỳ xuống thuyền, rồi lên dây khảy một bản nữa, trong lòng đang nghĩ mình ở chốn non cao. Tử Kỳ khen: Thật là hay! Chí của Ngài đang vòi vọi chốn non cao. Bá Nha lại khảy tiếp một bản, nghĩ mình đang ở dưới nước. Tử Kỳ lại khen: Chí Ngài đang cuồn cuộn như nước chảy. Thế rồi hai người tâm đắc trò chuyện rất thân tình, và trở thành đôi bạn tri kỷ. Bá Nha mời Tử Kỳ theo mình lên Kinh đô thì Tử Kỳ từ chối vì còn cha mẹ già phải phụng dưỡng, nhưng hẹn năm sau cùng nhau đến chỗ này để hội ngộ. Năm sau Bá Nha y hẹn, nhưng khi đến nơi thì chẳng thấy Tử Kỳ đâu. Lấy đàn ra khảy, tiếng đàn nghe réo rắt bi thảm, sanh nghi, Bá Nha tìm đến nhà thì Tử Kỳ đã chết. Bá Nha đến mộ Tử Kỳ, đàn một bản điếu hết sức bi thảm, rồi liền đập vỡ cây đàn, và thề không bao giờ đàn nữa. ______________________________ * Ghi chú: Đức Huỳnh Giáo Chủ

viết: “Đờn Ta vốn thiệt không dây, Vô duyên khó biết lời Thầy nói xa”. Đức Cậu Bần Sĩ thuyết: “Đờn kêu không có sợi dây, Đờn kêu đờn Phật đờn Thầy lâm san”. Có sự trùng hợp là đờn không dây.

Ai Người Tri Kỷ

Đờn kêu sắp nổi chiến tranh, Bình Dương dấy động máu tanh dầm dề!