tuyen tap hoang truc ly

163

Upload: blun-pa

Post on 27-Nov-2015

34 views

Category:

Documents


2 download

DESCRIPTION

poet

TRANSCRIPT

Page 1: Tuyen Tap Hoang Truc Ly
Page 2: Tuyen Tap Hoang Truc Ly
Page 3: Tuyen Tap Hoang Truc Ly
Page 4: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hoàng Trúc Ly (1933-1983) Nhà thơ Hoàng Trúc Ly tên thật là Đinh Đắc Nghĩa, sinh tại Đà Nẵng, ngày 14 tháng 4 năm 1933,nguyên quán Bình Định. Sau khi đậu bằng tú tài Pháp, ông ghi danh vào trường Luật, nhưng chẳng được bao lâu thì bỏ học vì bài giảng khô khan, không khí chật hẹp, nóng bức, chẳng thoải mái của các giảng đường. Tác phẩm tiêu biểu: tập thơ duy nhất Trong cơn yêu dấu và một số các thi phẩm khác đăng rải rác trên các báo, tạp chí, tập san ở miền Nam Việt Nam.Trong cơn yêu dấu của anh, do Nxb Hướng Dương trên đường Lê Lợi ấn hành năm 1963, do hoạ sĩ Trịnh Cung vẽ bìa, chỉ vỏn vẹn có 30 trang với 24 bài thơ in trên khổ giấy lớn 21×25cm. Thơ Hoàng Trúc Ly có nhiều bài sáng tạo mang sắc thái tuyệt mĩ, xuất thần với những ngôn ngữ, thi ảnh tinh khôi, đầy rung cảm, trữ tình và tiềm tàng ý niệm huyền học, triết học. Hoàng Trúc Ly qua đời ngày 23/12/1983 [nhằm ngày 20/11 âm lịch] tại Sàigòn vì một người lái xe bất cẩn đụng phải khi anh băng qua đường Nguyễn Du. Tác phẩm: - Trong cơn yêu dấu (Nxb Hướng Dương, 1963) - Tiếng hát lang thang (1967) - Huyền sử một kiếp hoa (1967) - Trạng Quỳnh - Từ em đến anh - Truyện truyền kì Việt Nam - Cổ tích Việt Nam - Người lớn từ biệt trẻ con (Nxb Thanh niên, 2008).

Page 5: Tuyen Tap Hoang Truc Ly
Page 6: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mục lục

Phần 1: Tập thơ Trong cơn yêu dấu

• Cảm đề thơ Hoàng Trúc Ly .... ................................................ 01 • Tự thán ................................................................................. 04 • Ca sĩ I ................................................................................... 05 • Ca sĩ II .................................................................................. 06 • Hành trình I ........................................................................... 07 • Hành trình II .......................................................................... 08 • Hành trình III ......................................................................... 09 • Đối thoại ................................................................................ 10 • Đêm ...................................................................................... 11 • Chắp nối ................................................................................ 12 • Gặp người em ......................................................................... 13 • Về xuân ................................................................................ 14 • Hàng cây bên đường .............................................................. 15 • Lá hoa duyên I ....................................................................... 16 • Lá hoa duyên II ...................................................................... 17 • Lá hoa duyên III ..................................................................... 18 • Tiếp theo và hết .................................................................... 19 • Nhìn ...................................................................................... 20 • Đường tình ............................................................................. 21 • Chứng tích ............................................................................. 22 • Lá hoa duyên IV ..................................................................... 23 • Lá hoa duyên V ....................................................................... 24 • Hành trình IV .......................................................................... 25 • Hành trình V ........................................................................... 26 • Tuyệt bút ............................................................................... 27

Phần 2: Tập thơ Người lớn từ biệt trẻ con

• Áo hoa phơi ............................................................................ 28 • Em đi áo lộng đôi tà gió sương ................................................. 29 • Nỗi chết ................................................................................. 30

Page 7: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

• Say ....................................................................................... 31 • Gởi mùa thu ........................................................................... 32 • Mùa mộng lí (1) ...................................................................... 33 • Mùa mộng lí (2) ...................................................................... 34 • Giấc mê ................................................................................. 35 • Mưa chiều .............................................................................. 36 • Khóc Hoàng Trúc Ly ................................................................ 37 • Tắm sông trăng ...................................................................... 38 • Mùa Xuân nằm mộng thấy Tam Ích .......................................... 39 • Người chết không cười ............................................................ 40 • Câu hỏi giáo khoa ................................................................... 41 • Chén đắng ............................................................................. 42 • Bên tê sông ............................................................................ 43 • Thời mới lớn ........................................................................... 44 • Hai bài thơ không tìm thấy tựa ................................................. 45 • Tình khúc nhân gian ................................................................ 46

Phần 3: Những bài thơ và bài viết khác • Nhân dạng ............................................................................. 52 • Mật ong ................................................................................. 53 • Hoàng lan .............................................................................. 54 • Nằm mộng thấy nữ sinh .......................................................... 55 • Vĩnh biệt ................................................................................ 56 • Môi giới .................................................................................. 57 • Gọi một mình .......................................................................... 59 • Tình đầy ................................................................................ 60 • Dĩ vãng .................................................................................. 61 • Ban trưa đón nữ sinh .............................................................. 62 • Tiễn ....................................................................................... 63 • Giấc ngủ ................................................................................ 64 • Gió lúa ................................................................................... 65 • Nửa đêm về mẹ ...................................................................... 67 • Gửi người em ......................................................................... 68 • Ở Sài gòn ............................................................................... 69

Page 8: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

• Cõi dấn thân ........................................................................... 70 • Mối tình tiên tri ....................................................................... 71 • Chiều dạo phố ........................................................................ 72 • Đêm huyền diệu ..................................................................... 73 • Mưa chiều nay ........................................................................ 74 • Đau ....................................................................................... 75 • Đêm ...................................................................................... 76 • Bóng tối ................................................................................. 77 • Ngâm thơ Thôi Hộ, nghe nhạc Trầm Tử Thiêng ......................... 78

Phần 4: Các bài phê bình về thơ Hoàng Trúc Ly

• Phạm Công Thiện viết về thơ Hoàng Trúc Ly ................... 85 • Đặng Tiến: Hoàng Trúc Ly: nụ cười trong và đôi mắt

sáng ............................................................................ 86 • Phan Bá Thuỵ Dương: Hoàng Trúc Ly (1933–1983):

Hành trình phiêu bạt của một thiên tài thi ca .................. 131 Mục lục các bài thơ theo a,b,c ............................................... 148

Page 9: Tuyen Tap Hoang Truc Ly
Page 10: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Cảm đề thơ Hoàng Trúc Ly

- Tam Ích -

Mỗi một cuộc chiến tranh đều gây nhiều đổ vỡ lớn và nhỏ. Đồng thời nó kết thúc một số vấn đề và đưa lên thảm xanh một số vấn đề… Nó làm một việc khác nữa: vạch ra một biên giới – biên giới vừa làm tiêu chuẩn để mọi người tính sổ thời đại, vừa làm vị trí cho mọi người từ đó nhìn trước và nhìn sau. Nhìn sau coi những gì đã xong đi những quá trình… nhìn trước coi những gì sắp ra đời, sắp có mặt…

Trạng thái ấy có thể nói về văn nghệ nữa – về thơ chẳng hạn…

Thơ có khi như gấm vóc: gấm vóc Á đông với tất cả những màu sắc cổ truyền thấp thoáng những màu sắc mới – mơ hồ, kín đáo, thoả mãn thị giác của những người đương hoài niệm và cũng đương hướng thượng… Đó là chuyện đã qua…

Thơ có khi là những thử thách nhiều hứa hẹn mà tương lai chờ đợi: một chân trời mới, một chân trời lạ. Muốn cho người đương thời và người đời sau khỏi lẫn sau và trước trong thời gian, và bộc lộ tính chất đối kháng của cá tánh con người thời đại muốn li khai với quá khứ, thi nhân hiện đại gọi thơ họ là thơ tự do… Đây là chuyện bây giờ…

Vì vậy, bên này và bên kia biên giới có những người nhìn một số người – đồng thời đương định vị trí cho người và cho mình trong thi giới. Cũng có khi họ quên ý thức về vị trí của mình, của người, vì chiến tranh thường kết thúc mà cũng thường xoá thứ tự…

1

Page 11: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Có lẽ mọi thứ tự, mọi sự còn mất, mọi sự nên chăng trong văn nghệ sẽ ngã ngũ trong những giáo đường văn học. Nhưng đôi khi những giáo đường văn học trong lịch sử lại dựng lên ngoài tầm cân nhắc và tính toán của thông minh… hoặc sớm quá mà bỏ sót, hoặc trễ quá nên dư…

Nhưng – cũng lạ! – lại có người: một người thôi… một vài người thôi… làm thơ hay mà không kể đến sự có mặt của biên giới thời gian: biên giới không vạch được đường chân trời mà cũng mất tính chất một tiêu chuẩn. Nói một cách khác: thơ họ hay trong thời gian, thơ họ từ chối sự nghiệt ngã của sổ kế toán lịch sử, từ chối thế lực… xuyên tạc của danh từ…

Một trong vài người đó là Hoàng Trúc Ly.

Đọc thơ Ly, người ta không hiểu Ly có vị trí bên Hàn Mặc Tử với nhiều mẫu tượng trưng của Xuân Diệu, Huy Cận cũ – hay Ly có vị trí đặc biệt bên một vài nhà thơ tự do nổi tiếng nhất hiện thời.

Và thơ lục bát của Ly sẽ làm Nguyễn Bính chẳng hạn ngạc nhiên lắm: một bút pháp mới, một nhạc tính mới, kể cả một dân tộc tính mới – một thứ gấm vóc từ những chân trời xa lạ Á đông rất mới đượm một hương vị trừu tượng táo bạo của nhạc tính Âu tây đầy màu một nghìn lẻ… một hương vị siêu thực… xưa và bây giờ.

Nhà thơ ấy – xin nhắc lại – tên là Hoàng Trúc Ly. Nhà thơ ấy đã có mặt, đương có mặt, sẽ có mặt… Người thanh niên trí thức ấy một sớm từ chối vài cơ hội tiến thân thông thường… để say mê làm thơ và “giang hồ mê chơi quên quê hương”.

Thiên hạ sao, Ly vậy: khóc cho thân phận, khóc cho con người của riêng mình, của chung mình, khóc suốt đêm dài, đằng đẵng, không khô ráo…

2

Page 12: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Và một thiên tài trưởng thành đương đòi vị trí xứng đáng của mình trong thi giới hiện đại.

Hoàng Trúc Ly chưa làm khác, cũng chưa làm khác, vẫn chưa làm khác… Và kiên tâm.

Tôi thường nói về Ly rằng Ly còn trong tâm hồn một-cái-gì-đương… chưa vỡ: portent en lui un “abcès” qui devrait crever! Ngày nào có sự đổ vỡ trong tâm hồn con người ấy, chúng ta sẽ thấy một người đi một giai đoạn dài nữa trong văn thi giới. Ngày đó, nước mắt sẽ khô ráo: Ly sẽ chịu đựng thân phận mình, thân phận người. Rất can đảm. Ô Sisyphe!

Tôi tin thơ Ly lại sẽ có một nhạc tính mới nữa, và sẽ làm mọi người ngạc nhiên.

Hình như Baudelaire nói rằng đối tượng của văn nghệ là làm cho mọi người… nhạc nhiên. Le but essential de l’oeuvre-d’art est d’étonner… Ý của Baudelaire là như vậy.

Hoàng Trúc Ly đã và đang làm mọi người ngạc nhiên. Họ Hoàng sẽ còn làm mọi người ngạc nhiên – ít nhất là một lần nữa – về thiên tài của mình.

Tôi dùng danh từ “thiên tài” không dè dặt chút nào. Ly vốn khiêm tốn; nhưng cách đây gần mười năm, một trong những người bạn đường văn nghệ đầu tiên của Ly – là tôi – là người có quyền hãnh diện với chính mình, và hãnh diện cho cả văn và thơ hiện đại.

(Đọc tại Đài Phát thanh Sài Gòn, tháng 12 năm 1962)

3

Page 13: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tự thán Đời biết anh là kẻ hào hoa Riêng gởi anh lời tao nhã Sao em không mê anh? Đời biết anh là kẻ tình si Riêng anh gởi niềm chung thuỷ Sao em không hôn anh? Đời biết anh là kẻ quyền uy Riêng gởi anh hồn thi sĩ Sao em không quỳ bên anh?

4

Page 14: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ca sĩ I

Từ em tiếng hát lên trời Tay xao dòng tóc, tay mời âm thanh Sợi buồn chẻ xuống lòng anh Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau Trời em tiếng hát lên từ Âm ba tóc rối lững lờ vòng tay Áo dài lùa nắng vào mây Dấu chân hồng nhạn rụng đầy gió sương

5

Page 15: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ca sĩ II (Nghĩ về “Tì-bà-hành”) Mùa Xuân còn gì, thưa em? Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi Cô đơn đỉnh núi gần trời Nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh.

6

Page 16: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hành trình I Tôi nay đi giữa hoang đường Niềm đau thân thể tủi buồn hai vai Giật mình nước mắt tương lai Ngày qua và tiếng thở dài xuống Thu

7

Page 17: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hành trình II Toa xe cứ khép chân trời Người đi môi đỏ run lời tiễn đưa Tóc dài toả mộng ngày xưa Vết thương kỉ niệm bây giờ lại đau

8

Page 18: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hành trình III Khuya đi dù biết về đâu Nghiêng vai còn mãi tiếng sầu vọng âm Đường xưa trải nhớ nhung thầm Ngôi sao yểu mệnh căm căm cuối trời

9

Page 19: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Đối thoại Đêm tàn rồi em ngủ bên anh Tình yêu là chim non Và người yêu vừa mọc cánh Em là người yêu em là tình yêu Khi tình yêu đang là chim non Người yêu bắt đầu mọc cánh Chim chắp cánh chim nhớ trời xanh Nhớ trời xanh và em quên anh Đêm tàn rồi không thấy trời xanh Chim bay về đâu em không biết

10

Page 20: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Đêm Thành phố lên đèn chiều thứ Bảy Anh chết vì yêu em Đêm vũ trường khép mở Buồn ơi rát cổ giọng kèn Dải lầu cao che kín mặt trời Ban ngày không nắng sưởi Đèn đỏ đèn xanh bưng bít cuộc đời Ban đêm không trăng soi Xin vỗ tay đưa tiễn giọng kèn Thành phố lên đèn chiều thứ Bảy Thành phố tắt đèn sáng thứ Hai

11

Page 21: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Chắp nối Thái-bình-dương Thái-bình-dương sóng vỗ Tôi thương tôi nhớ là đây Ôi máu người hoà nước mắt trời mây Tim biển cả bao giờ nguôi thổn thức? Tôi nghe bao la Nghìn năm mây trắng quyện Hồng hà Vết sẹo linh hồn trong lịch sử Rượu Đường thi mềm môi Trang tử Đêm Á châu huyền diệu trăng sao Cánh sen bừng nở Một sớm hoa đào… Mùa Đông hè phố cũ Tuổi tình yêu ban đầu Em ơi em về đâu Ân tình đi rải rác Còn chi một nhịp cầu Hai mùa duyên chắp nối Ngàn xưa qua ngàn sau Là nghĩa đời lên ve vuốt quá Người yêu ơi! Mấy thuở mong chờ Chín mươi dòng chữ bằng thanh sắc Bừng sáng lưng trời ngọn lửa thơ

12

Page 22: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Gặp người em Những người xưa đi rồi không về nữa Một mình tôi lại gặp một mình em Chiều lửng lơ nghe nắng rụng bên thềm Em cúi mặt mắt buồn ươn ướt đỏ Nhà anh nghèo, anh đau tim anh yếu phổi Đời lạnh lùng bốn hướng gió và mưa Ta lạc nhau từ em còn bé nhỏ Anh thương em thương mến đến bao giờ Bởi vì đâu da em nhăn giá rét Nắng rưng vàng trên mái tóc mồ côi Đời giặc giã quê hương mình mỏi mệt Mười năm qua hình ảnh có ngậm ngùi Nhà anh nghèo, anh đau tim anh yếu phổi Em bềnh bồng, anh phiêu lãng về đâu Không dĩ vãng cho đêm dài đợi sáng Không mai sau cho nước chảy qua cầu Em bảo anh người đi không trở lại Nấm mồ ai như giọt lệ chưa tan Ngọn gió nào mang anh vào mộng mị Em giang hồ làm tiếng hát lang thang Ta đến bên nhau sao chùng bước mỏi Lời sắp xé môi sao bỗng nghẹn lời Anh nhớ em: núi cao càng hiu hắt Anh thương em: máu vọt bốn phương trời…

13

Page 23: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Về xuân Bây giờ ngày mai chưa đến Và những ngày xưa qua đi Thơ anh là thuyền nhớ bến Đố em thuyền cập bến gì Bây giờ mùa xuân sẽ đến Trên môi trên má em hồng Lửa ở lòng anh lạnh quá Làm sao sưởi ấm mùa Đông Em có còn đau nét mặt Những đêm mưa đạn trắng rừng Em có vàng hoe nước mắt Những hoàng hôn khóc rưng rưng Anh sẽ viết lời thương nhớ Trên môi trên má em hồng Anh sẽ si tình trọn kiếp Ơi mùa gạo chợ nước sông

14

Page 24: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hàng cây bên đường Người yêu tóc xoã tròn vai Nửa đêm da thịt quên cài áo khuya Xác thân rã mục lời thề Mùa đi lá rụng đường về Xuân thu

15

Page 25: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Lá hoa duyên I Xin em dừng lại môi mềm Giấc mơ thê thảm bóng chìm đêm sâu Tay xuôi mười ngón rụng sầu Xa nhau năm tháng cúi đầu nhớ nhau

16

Page 26: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Lá hoa duyên II Về đâu hoa nở má hồng Mùa Xuân tiếng nhạc nửa vòng tay ôm Với em xa cách thêm buồn Trời cao bóng nhớ dặm mòn chân đi

17

Page 27: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Lá hoa duyên III Mùa này em lắng tai đâu? Hoàng hôn có phải là màu nhớ nhung Cô đơn tiếng gọi nửa chừng Áo em trắng quá ngập ngừng vòng tay…

18

Page 28: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tiếp theo và hết Anh sẽ bình yên mà chờ đợi Từ đau thương ấy đến bây giờ Từ mùa Xuân rụng trên vừng trán Có phải tên người yêu là Thơ? Hay là, hay là, hay là ai? Trong em: thú vật và thiên thần Anh mơ thượng đế khi yêu dấu Thể xác linh hồn không nói năng Anh sẽ vì em anh sẽ yêu Hai tháng hai năm hai buổi chiều Khi ngất ngư rồi anh sẽ chết Nhớ gì như nhớ bóng người yêu Và còn các anh còn các em Hoa ngón tay còn níu tóc thề Dâng em tất cả ôi hoàng hậu Ta biết còn gì trong cuộc mê?

19

Page 29: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nhìn Cô dâu đêm tân hôn Trong vòng tay chú rể Trong tình yêu trong sức khoẻ Nhìn lên Ngực mẹ căng tròn hai vú sữa Lời ru lênh đênh Giấc mơ trẻ dại Nhìn lên Xa nhà người trai Không cơm ăn không nước uống Nhìn về ngày mai Gục xuống

20

Page 30: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ðường tình Tháng Chín ban mai cười gió thổi Anh đi nắng đậm xanh bờ Em ơi đau rút ruột Hai bàn chân tù đày Đã đi rồi anh muốn nhảy muốn bay Cho khăng khít nhịp chân trời đất Mộng vừa nghiêng mắt Quê em ngày đẹp vàng son Đường xa mờ nhảy múa núi non Ơi những cô mình bàn tay sữa đọng Khi gió mùa lên ngực vừa căng mọng Đa tình đuổi bướm lang thang Sớm mai nào bên bông lúa trẻ măng Anh nghe tiếng đời kêu quen biết quá Nghe mến thương như thời gian phép lạ Rót vào ta từng giọt sữa... xưa kia Anh nằm nhay vú mẹ mà mắt đầm đìa Và anh đi Qua bóng ngày hấp hối Đại lộ cuộc đời buồn như ngõ tối Ngại ngùng mái lá mưa khuya

21

Page 31: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Chứng tích Gởi vì sao khuya cô độc Đêm đêm rưng lệ nguyện cầu Lòng tôi không muốn khóc Nước mắt có gì đâu? Từ lớn khôn rồi yêu không dám nói Dạ chỉ bồi hồi lòng chỉ sắt se Hình ảnh người em mái tóc quên thề Cát bụi chìm chân nhỏ bé Ngày mẹ thương con ngày con nhớ mẹ Tôi có bao giờ tôi còn trẻ thơ Giọt nước mắt chưa hề được khóc Những tiếng nói chưa hề được nói Tôi có bao giờ là tôi-muôn-năm ?

22

Page 32: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Lá hoa duyên IV Ra về tiếng hát thuỳ dương Lời ru sầu muộn con đường tình nhân Thôi em người bệnh tàn dần Ngủ yên hơi thở hai lần hồi sinh

23

Page 33: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Lá hoa duyên V Nhìn lên cửa khép lầu cao Bóng em chảy xuống vực sâu mắt buồn Về đêm khuya khoắt nhớ thương Mưa bay trước mặt, tủi hờn giăng giăng.

24

Page 34: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hành trình IV Qua đây từng giọt buồn phìền Mắt em cổ thụ thâm xuyên gọi mời Bãi hoang cồn dựng bể khơi Xuôi tay xuống gởi miệng cười mộng du

25

Page 35: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hành trình V Tôi ơi tôi mãi tôi còn Trái tim bé nhỏ nỗi buồn chung thân Nhớ gì vết cỏ bàn chân Lối đi thơ dại đêm gần tịch liêu

26

Page 36: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tuyệt bút Mai này tôi chết đi Nằm nghe hồn cô độc Trời chiều không nói năng chi Em ơi sao em không khóc Mai này tôi chết đây Vì sao em không khóc Vết thương mửa máu tôi nào hay Như xế chiều nay như sáng nay Tôi viết từng trang tuyệt bút Mai này tôi chết đây Nắng ơi trời ơi nắng Nửa đêm sáng quá tôi nào hay Mùa Xuân vừa nguôi cay đắng Xin rũ tóc dài lên gối trắng Người yêu nằm mộng thấy tôi về Xin gọi tên tôi dù xa vắng Thịt da ngời ánh lửa tình khuya Mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi Em bé mười lăm năm tóc xoã xuân thì Đời lên mấy vạn lần nhan sắc Đau đớn vô cùng đêm biệt li

27

Page 37: Tuyen Tap Hoang Truc Ly
Page 38: Tuyen Tap Hoang Truc Ly
Page 39: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Áo hoa phơi Long lanh từng giọt trắng da trời Bàn tay rất trắng áo hoa phơi Mỗi lần nắng trắng em phơi áo Vô tình phơi nắng cả hồn tôi. Đời còn kẹp tóc tuổi trăng tròn Miệng còn ngọt sữa lúa đang non Mềm môi em thở hương lùa nhạc Ngày sẽ dài như một nụ hôn. Đường vào quên lãng cõi người ta Vừng trán tôi nhăn trước tuổi già Áo nắng hoa phơi ngoài thiên hạ Ngày sẽ mờ như mộng chảy qua. Đâu bàn tay sữa đọng da trời Người yêu áo mỏng nắng thu phơi Van em một nụ hôn thơm nhạc Từ tay lên môi còn xa xôi. Đường xa như từ tay lên môi Xa hơn chân mây hơn mặt trời Áo hoa thấp thoáng người thiên hạ Ngày sẽ đêm đen lửa tắt rồi.

28

Page 40: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Em đi áo lộng đôi tà gió sương

Mai ta về gió Huế có là mây Mai ta về gái Huế có là trăng Từng đêm yêu dấu trăng con gái Giọt sáng tuôn đầy trên gối chăn. Mắt em xin biết nồng nàn Tôi ru giấc ngủ chiều tàn đong đưa Khi trở về phố Huế có là mưa Chiều nghiêng nghiêng lành lạnh mờ mờ. Nhà ai khói bếp khói riêng hơi ấm Tay mềm tròn lẳn ngó sen tơ. Khi trở về lăng tẩm có là mơ Hoàng hậu ôi tượng đá tự bao giờ Nghìn đêm nàng ngủ quên xiêm áo Biết còn cảm động nắm xương vua.

29

Page 41: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nỗi chết Nhà thuê mái gục sầu bao phủ Ngõ trước cành xanh lá bỗng vàng Tôi đã hôi tanh mùi xác chết Từ ôm năm tháng sống hoang mang. Trẻ tuổi tôi tan tành tuổi trẻ Mắt bao nhiêu sáng buổi lên đường Máu bao nhiêu lửa tàn tro bụi Áo mỏng vai gầy chuyện nhớ thương. Soi gương xin lạ mặt người trai Râu mọc dài hơn tiếng thở dài Từng bước hắt hiu lòng muốn hỏi Nối vòng tay lớn nắm tay ai. Tôi trắng răng ra cười chẳng được Đời chưa vẩy bút gió mưa chiều Cớ sao tôi chết như trăng lặn Dưới mộ đầu lâu không biết yêu.

30

Page 42: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Say Mai này quên rượu ta lỡ chết Cầm bằng vô tận một cơn say Mắt khép cho người nghìn giấc mộng Oằn vai địa ngục nhớ mong ai. Một ngày quên yêu ta hết sống Gối đầu thiên cổ ngủ nghìn năm Giấc ngủ vùi chôn như xác lá Em có mây chiều gió hỏi thăm. Một ngày quên sống ta chưa chết Vũng sầu ngập miệng máu phun ra Lòng nghe mây trắng quàng khăn trắng Ôi đã đất trời chết trước ta.

31

Page 43: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Gởi mùa Thu Chừng đây ai hát nữa Kỉ niệm xé lòng nhau Thu xưa xa lắm và vui lắm Trăng nước chưa qua một nhịp cầu. Hướng dương từ thuở ngưng dòng mộng Nắng tự trời cao lạc nẻo đời Lòng đất cựa mình nghe dao động Mùa về thê thiết quá Thu ơi! Chừng đây ai hát nữa Căm căm lá rụng rồi Ngàn trùng u uất làn mây sữa Tay bút cơ hồ lặng lẽ thôi. Kế từ sương khói quê xưa Tay ai buộc chặt bóng hồ Thu phai Hoàng hôn mộng chở đầy vai Ngước trông ánh sáng hoài hoài chân mây.

32

Page 44: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mùa mộng lí (1) Đời quá đau thương mà vẫn đẹp Ôi mùa mộng lí thoáng về đây Lưng chừng điệu nhạc Xuân hát trên cây Ân tình chín kiếp hoá mây Những bàn tay những bàn tay hoạ đàn Ngày ngóng đêm sang Trăng rồi sáng lắm Duyên mây thăm thẳm Chân núi biên thuỳ Một ngày đi một ngày đi Bao nhiêu bông lúa dậy thì em ơi! Sáng nay lại nắng Vàng ơi lúa ơi Bát cơm cay đắng Hạt muối mồ hôi Là không nói hết là im lặng Ta cám ơn em một nụ cười.

33

Page 45: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mùa mộng lí (2) Nhà tôi mở cửa trời thu xám Chim mùa ghé lại tiếng ca xanh Mộng đã mê đời trăng nhớ bạn Cỏ rối ôm chân bước chẳng đành. Rất ít tơ mây gió rất nhiều Nghiêng vai trời rộng nhớ hiu hiu Trên dòng vô tận xa xưa chảy Ánh mắt biên thuỳ theo ngóng theo. Em ngậm tình người chếnh choáng môi Em reo ân ái bằng im hơi Lời yêu trong thoáng không lời ấy Đốt lửa ba đông ủ một lời. Nhà tranh mở cửa mùa thu tới Giấc ngủ như người gối giấc mơ Ôm chốn Vân vi không tiếng gọi Tôi xa tôi nhất định xa mờ.

34

Page 46: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Giấc mê Có phải vì em còn gỡ tóc Cho mây từng sợi rối chân chim Có phải hoa bay đầy cánh bướm Vì em thay áo ở ngoài hiên. Ôi mới hôm nào như hôm qua Tay ai bùa phép nắm đôi ta Như nắm mùa Đông hơ ngọn lửa Cho tuyết đầu non chảy máu ra. Ôi mới hôm nào như hôm kia Con đường chở nặng những đêm khuya Cho nên bóng tối bay thành khói Ánh mắt mờ sương lạc lối về. Ôi mới hôm nào là hôm nay Anh ghen vì gió đã choàng vai Em đi như vẽ trên đường vắng Em nói như đàn trong miệng ai. Anh là dòng sông mơ suối mát Em là mặt trăng thèm mặt trời Cách trở bốn mùa vây trái đất Còn nghe đắm đuối thuở nào nguôi.

35

Page 47: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mưa chiều Mùa mưa nghe trời ướt mắt xanh Gió thổi mưa xưa hờn kinh thành Hôm nay lưu luyến về hôm ấy Em lạnh lùng không khi nhớ anh. Ngày quen em phượng đỏ môi son Chiều tiễn đưa lá rụng dép mòn Từ mang áo tím vào năm tháng Thao thức cho bằng mấy núi non. Ngày lửa khói qua đi hờn tủi Buổi anh về thương nhớ ướt vai anh Mái lá đơn sơ tình khuya bỡ ngỡ Đời bơ vơ em bơ vơ một mình. Anh hẹn em ngày anh trả lại Dù Hạ tàn Thu cho dù mưa bay Bên anh bé nhỏ người em gái Mưa chiều không lạnh như chiều nay.

36

Page 48: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Khóc Hoàng Trúc Ly Nơi đây an nghỉ! Hoàng Trúc Ly Năm sinh: Ngàn chín ba bảy Năm chết: Ngàn chín bảy: ôi Chân không bước hồn đi về đất Chết không già là rất chết tươi. Trái tim ta Trả lại dòng sông lim dim Bao bến bờ tình không bờ bến Sông cạn nguồn giọt máu đứng tim Đôi mắt ta Trả lại mây bay đầy trời Tuổi thơ dại màu mây của má Chim ca hồng tiếng hót trong nôi. Tóc râu ta Trả lại cỏ cây nghìn trùng Râu dựng đứng mối sầu cổ thụ Tóc mọc dài cành nhánh ngủ chung Nấm mồ đó vuốt ve xác chết Chào quỷ ma bóng tối không cùng Chào chị em còn tiền tặng hết Cổ đeo chuông báo hiệu lâm chung.

37

Page 49: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tắm sông trăng Ôi miệng cười gió thổi Tiếng hát chảy trên sông Ta chào nhau bối rối E lạc em trong lòng. Hẹn nhau đêm rót mật Cùng trăng tắm sông trong Ta đưa tay bịt mắt Đôi tay chảy đôi dòng. Nay môi bầm kỉ niệm Tiếng nói mờ mây che Ta ôm bầu ngực huyết Máu tình yêu đỏ hoe. Trăng nằm trên ngọn tóc Trăng ngồi trên ngọn tre Tàn đêm cơn mộng khóc Mặt trời đầy máu me.

38

Page 50: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mùa xuân nằm mộng thấy Tam Ích Người về cát bụi như giun dế Hồn gặp linh hồn không nói năng Người quàng khăn đỏ như em bé Trong truyện thần tiên bị sói ăn. Tôi hôn khô héo bờ môi chết Da thịt mồ hoang không mát tươi Nắm tay tê tái bàn tay chết Áo khói sương khuya hỡi dáng người. Tôi thấy người nhìn le lói quá Ánh trăng vừa rụng một hồn ma Tôi biết người cười chua xót quá Vui đời, ai nhắc bạn hôm qua. Trừng mắt đau theo chân người đi Lòng nghe vô tận một chia li Xiết bao ngày tháng căm căm nhớ Buồn dựng ngang mày một tử thi.

39

Page 51: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Người chết không cười Tay nào nồng nàn đêm mùa Hạ Sao người cầm giữ một mùa Đông Ôi mùa xám mưa bay tiếng khóc Mùa xưa thảm thiết trong lòng. Sợi xích nào trong như sợi mưa. Gông xiềng nào lạnh hơn gió thổi Mà mùa Đông chỉ gió và mưa Sao mãi giam cầm người hờn dỗi. Ôi một đời u uất vết đau Con đường nào dài như đường tơ Chân bước nào mềm như thoi đưa Sao người đi chẳng bao giờ đến. Cho áo nàng dâu dệt bơ vơ. Nỗi buồn nào xa như cách ngăn Hơi thở nào xanh xao lời trối trăng Nay tình yêu tàn như tắt thở Xác chết không cười dù nhe răng.

40

Page 52: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Câu hỏi giáo khoa Em hỏi anh trốn học để làm gì? Vì lời giảng của chim trên cành đó Khi chim nhớ rừng khi rừng nhớ gió Anh nhớ em như miệng nhớ môi hôn Và hàm răng đay nghiến mãi nỗi buồn Xa cách. Em hỏi anh chăm học để làm gì Vì quá nghi ngờ sự thật bên này dãy núi Đường gần nhất chưa hề là đường thẳng Anh đến trường như người yêu ngoan ngoãn Vâng lời dụ dỗ của em. Như ngày như đêm ngọn thuỷ triều lên xuống Theo lời dụ dỗ của trăng Em hỏi anh đi học để làm gì? Thế kỉ này đầy những danh từ lớn Những trẻ thơ trí thức những trí thức trẻ thơ Nghĩa là anh đi học Để suốt đời bơ vơ.

41

Page 53: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Chén đắng Đời đã mù loà như nắng tắt Tôi nằm ngửa mặt đếm bơ vơ Hôm nay hoang phí ngày vô tận Tôi tiếc chi đâu dù giấc mơ. Sao rơi ánh mắt trăng muôn dặm Bụi cuốn cơn mê mù mịt tìm Xin làm kiếp vạc đêm thi sĩ Cánh mỏi bay hoài một trái tim. Tôi giết người không chết nhớ thương Ơ kìa tội ác hãy cô đơn Cho tôi trộm cắp khung trời cũ Hơi thở em từng ngọn gió sương. Trái tim tôi thuở nào ẩn náu. Như xiết bao kỉ niệm đã êm đềm Trái tim Chúa có hoài hoài chảy máu Cho tơ mềm từng khúc ruột anh em.

42

Page 54: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Bên tê sông Đêm nay chở hồn ra Huế Nghe ngàn thông reo mùa Trọng Thể Lời xuân gọi gió quạt mênh mông Đỉnh Ngự trăng treo dải yếm hồng Nhịp hò khoan trải trên sông Mái chèo khua nhạc phiêu bồng thuyền trôi. Trăm đêm mưa gió sụt sùi Hồi chuông Linh Mụ chôn vùi hồn ta. Ai về Gia Hội Vớt bóng trăng tà Ai qua thành Nội Xa vút lan xa Theo dòng còn chảy tiếng ca Hát lên rung động canh gà sương khuya. Miệng cười gió thổi Ôi mái tóc thề Ngày đi mộng mị người về Trên sông Ạ ơi thuyền xuôi nước Ạ ơi nước xuôi dòng.

43

Page 55: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Thời mới lớn Buổi ấy loài chim nói tiếng người Cho người thỏ thẻ gọi chim ơi Cho người biết hót như chim ấy Tiếng hót ửng hồng tươi nắng tươi. Chàng trai đôi mắt sáng như sao Chỉ biết yêu thôi chưa biết sầu Môi hé nhả thơ trên áo cưới Thơ trên gò má của cô dâu. Đêm sáng ban ngày khi em đến Năm ngón vui mừng nở búp hoa Từ đâu mơn trớn bừng da thịt Trước ngực hay trong lòng thở ra. Giật mình chim hót quá vu vơ Là giết tôi làm chết giấc mơ Long lanh tiếng thở dài vô tận Không hẹn hò ai vẫn đợi chờ.

44

Page 56: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Đêm sáng ban ngày khi em đến Lời chim trải lược gối thêu hoa Từ đâu mơn trớn bừng da thịt Trên ngực hay trong lòng thở ra. (Bài thơ này không tìm thấy tựa) Dòng sông đó còn ai qua nữa Chuyến đò chiều giấc ngủ sao mai Con đường đó còn ai thấy nữa Dấu chân anh núm ruột đêm dài. Từng ngón tay gầy như sợi mưa. Chưa đến mà nghe buồn dây dưa Nhớ nhau tháng tháng trời quên nắng. Từng sợi mưa gầy nước mắt xưa. (Bài thơ này không tìm thấy tựa)

45

Page 57: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tình khúc nhân gian

• Trong veo tiếng khóc thiên tài Tiếng cười nả nớt em là hôm nay

Tôi mê tuyệt vọng càng say Nụ hôn bầm máu run tay thiên tài.

• Lỡ hoang mang tháng năm đời Lim dim mắt khép hồn trời mây tan

Hỡi người tình khúc nhân gian Đi vào nhiên tịch mơ màng trâu xanh

• Yêu hoài hoài hãy còn trinh

Đất trời còn ngợ riêng mình hào hoa Cuối ngày đối mặt đôi ta Giẫm chân địa ngục em là tha nhân.

• Tôi xa đất giận gần trời Tôi thơ ngây bởi người đời gọi tên Cầm tay em bước chân lên Cúi đầu em hãy ngước nhìn trùng khơi Lệ nào nhỏ mát cánh tay Lời nào càng nói càng cay mối sầu.

• Bây giờ mùa Hạ xa khơi Cuộc tình yêu đã đổi đời sang Thu Bốn bề lạnh buốt nghìn thâu Đại dương hoang đảo ngất ngư vây sầu.

46

Page 58: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

• Lòng nghe đỏ máu quan tài Trăng tê giọt nến cháy hoài dáng xưa Gọi nhau đất lấp lời thưa Một mình muôn dặm vây mờ một tôi.

• Hai con mắt nhắm một trời Đã hờ hững chiếu giường đời nín thinh Qua cơn đắm đuối bình sinh Tiễn nhau nỗi chết vô tình thế sao?

• Ra về tạnh nắng chiều quê Nón em thơm gió bên tê ruộng đồng Tôi ôm cho ngực em bồng Tôi hôn cho má em hồng tương lai.

• Một ngày quặn thắt một đi Một tôi nuối cả chia li một đời Mê em từ buổi mê đời Muôn xa còn vọng một người muôn năm.

• Rồi chim đậu ngọn gió sương Chân nai rời rã đôi đường cỏ khô Khuya nghe mùa động giang hồ Quay đầu tôi lại tuyệt mù nhớ tôi.

• Cũng đành ta núi người mây Trán nhăn nếp đất tóc bay tuổi trời Núi ta mây dựng sầu người Đã nghe cơn gió nghìn đời thổi qua.

• Cũng đành ngọn tóc vi vu

Gặp nhau trời bỗng mùa Thu xuống đời Cũng đành tôi vĩnh biệt tôi Bên kia nước mắt môi cười em xa.

47

Page 59: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

• Người đi nắng rụng đầy vai Tóc bồng sợi nhỏ chân dài cá măng Qua đây một cõi điêu tàn Nghe khô tiếng lá thân vàng lối xưa.

• Tôi xa đất giận gần trời Tôi thơ ngây để người đời gọi tên Công huyền Tôn nữ kìa em Một đêm hồng phấn buông rèm chân mây.

• Kế từ sương khói quê xưa Tay ai buộc chặt bóng mờ thu phai Hoàng hôn mộng chở đầy vai Người trông ánh sáng hoài hoài chân mây.

• Tôi đi hay ngủ trên đường Cớ sao người lạ tôi mường tượng quen Ta đi ngăn cách đôi miền Dạy em ngả nón cho nghiêng lòng chàng.

• Con đò đưa xác nào đâu Màu hoa tang trắng mối sầu nở gai Nẻo âm phù dựng tóc ai Màu tang hoa trắng chia hai mối sầu.

• Dòng sông ngọt sữa đầu đời Non cao nở ngực vú đời căng da Tay ôm đắm đuối lòng ta Một cơn gió mát em là ái ân.

• Em về ôm mộng chàng xanh Trong cơn khổ nạn sinh thành đôi ta. Lửa giường cho ấm làn da Đã nghe quấn quit ngọc ngà ngón chân

48

Page 60: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Êm êm hơi thở đêm tàn Gối thêu chim nhỏ mê nàng không bay.

• Chào em tuổi nhỏ tôi đi Trong cơn cay đắng biết gì nữa không Tôi muôn xa nhớ muôn trùng Van em giấu mặt cho lòng thấy nhau.

• Xa người tôi vĩnh biệt tôi Lòng mềm nhịp võng tay đời còn vương Tóc dài bay giữa trùng dương Trời xanh đã rách vết thương chưa lành.

• Ra đi bất tuyệt một lần Lòng hai ngả nhớ phân vân nỗi buồn Em từ mở ngục đau thương Áo khuya nhuộm tím con đường lá rơi.

• Rồi chim đậu ngọn gió sương Chân nai rời rã đôi đường cỏ khô Khuya nghe mùa động giang hồ Quay đầu tôi lại tuyệt mù nhớ tôi.

• Buổi chiều như đã nghìn thu Còn ta há miệng vi vu gọi đời Mê em tiếng nói lạnh trời Cam lòng bất tận cháy lời tái tê.

• Ngày về giọng nói mờ sương Em xa cả một thiên đường vắng anh Mùa xuân nỗi nhớ màu xanh Nghe từ tâm hoặc mối tình thiên thu.

49

Page 61: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

• Xế trưa em đón tôi cùng Trăng chiêm bao sáng não nùng mắt ai Tôi yêu hay mộng kề vai Bên em giấc ngủ đường dài nhớ nhau.

• Xế trưa nghiêng nắng ngang đầu Gió chiêm bao rụng mối sầu lá mơ Chân đi em mỗi bước chờ Tóc mềm hay bóng khói mờ cơn mê.

• Tặng nhau tiếng nấc sau cùng Hai vai địa ngục nghìn trùng ruột tê Chia tay cát bụi còn gì Lao đao lệ nến gục quỳ đôi bên.

• Người ngồi khung cửa kỉ hà Ngực bồng ngọn suối hương hoa tóc mềm Công huyền Tôn nữ kìa em Một đêm hồng phấn buông rèm chân mây.

50

Page 62: Tuyen Tap Hoang Truc Ly
Page 63: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

NHỮNG BÀI THƠ VÀ BÀI VIẾT KHÁC

Page 64: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nhân dạng Tôi còn yêu cho biển còn xanh Mây còn bay cho chim cất cánh Ngựa què rồi em cỡi lưng anh Tôi cứ yêu, khốn nạn, cứ cười Chim cứ bay cho mây gãy cánh Em chết rồi, ai ám sát tôi

52

Page 65: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mật ong Lối cũ cô liêu niềm gió thoảng Cỏ gai sướt nhẹ dấu chân mềm Thèm đau một chút da con gái Cho máu xuân đời dậy sóng lên Chim biết đường về mái ngói cong Tôi quên không được má em hồng Bên nhau nhìn trộm chim trai gái Hơi thở người xưa ngọt mật ong Sáng soi tiếng sáo thổi đêm dài Mùa rụng cành sương trắng ghé vai Cho em rẽ tóc dòng sông lẻ Mộng thả trôi thuyền như mắt ai Ô hay! Hạnh phúc mờ tay vẫy Cho vội mười năm bóng nhạt nhoà Cơn mê tôi vẽ bằng lưu luyến Trong lòng bạc xoá cõi người ta

53

Page 66: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hoàng lan Có phải em đang gỡ tóc Cho mây từng sợi rối chân chim Có phải hoa bay đầy cánh bướm Vì em thay áo mái tây hiên Ôi mới hôm nào như hôm qua Tay ai bùa phép nắm đôi ta Như hốt mùa Đông hơ ngọn lửa Cho tuyết đầu non chảy máu ra Ôi mới hôm nào như hôm kia Con đường chở nặng những đêm khuya Cho nên bóng tối bay thành khói Ánh mắt mờ sương lạc lối về Ôi có hôm nào là hôm nay Anh ghen vì gió đã choàng vai Em đi như vẽ trên đường nắng Em nói như đàn trong miệng ai Anh là dòng sông mơ chín suối Em là mặt trăng thèm mặt trời Cách trở bốn mùa vây trái đất Còn nghe đau xót thuở nào nguôi?

54

Page 67: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nằm mộng thấy nữ sinh *Tặng Hoa của trăm hoa Ta từ giấc mộng bước gần em Đường phố đầy trăng hay mặt trời chìm Ô hay con gái bay nhiều quá Hai cánh tay mềm như cánh chim Như cuống của hoa, như cội của cành Em đến bao giờ là em của anh Thôi đã vô cùng cô liêu bóng cả Như chim xa rừng tội nghiệp rừng xanh Tuyệt mù giấc mộng mỏng như sương Vai áo hào hoa tê tê bụi đường Ra đi ta đắp lên sông núi Trời rộng sông dài nỗi nhớ thương

55

Page 68: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Vĩnh biệt Rồi mai khởi sự xa đời Chuyến xe trăm tuổi đưa người nghìn năm Trăng sao bốc cháy chỗ nằm Áo xanh mây lá vết bầm núi non

56

Page 69: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Môi giới Tên em: Xin mời em chối bỏ tên anh Vì tên em là cuộc đời Ba, bảy, năm, tám, sáu Hai, bốn, chín, mười, mười. Con số có tên, kiếp người có tuổi, Anh già rồi chối bỏ tên anh? Hai chân: Xin mời em đạp lên số mệnh của anh Vì chân em là nhịp bước Anh rớt lại rất thèm tới trước Xin mời em Răng: Xin mời em cắn vào lưỡi anh Vì răng em là giọt sương Sớm mai mở mắt sương chưa tan Nên răng em chưa thành giọt lệ Xin mời em Môi: Xin mời em ghì sát môi anh Vì môi em là âm nhạc Em mở môi ra Mùa Xuân cựa mình múa hát Hai tay: Xin mời em tát vào mặt anh

57

Page 70: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Vì tay em là hoa lá Chút ơn cuối cùng xin lễ phép mời em Miệng: Xin mời em cười lên dốt nát của anh Vì miệng em là ánh sáng Anh đui mù giữa tha ma dĩ vãng Xin mời em Tóc: Xin mời em thắt chặt hồn anh Vì tóc em là sợi dây siết cổ Anh le lưỡi ra giã từ đau khổ Xin mời em, mời em!

58

Page 71: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Gọi một mình Bếp lửa nhà ai lên khói sương Người yêu mường tượng mắt u buồn Buổi chiều rét mướt vào chăn gối Sao em không về tôi mến thương? Thơ mà huyền hoặc núi non ơi! Lửa thép cuồng lên giữa mộng đời Qua thoáng qua rồi mơ ước cũ Máu nghẹn đôi đường vơi lệ vơi… Em ơi! Vì sao em vô tình Anh ơi! Vì đâu anh lặng thinh Đây chớm Thu về đau đớn lắm Tôi gọi hồn tôi gọi một mình Từ buổi so le đến lứa đôi Bao nhiêu mắt biếc lãng quên đời Tôi thương tôi nhớ, tôi thương nhớ Nhân loại nỡ nào xa lánh tôi?

59

Page 72: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tình đầy

Gió lạnh mười năm lạnh lắm rồi Vườn dâu cô gái hái dâu ơi! Quê hương xa lắm dòng sông lạnh Lẩy bẩy chiều mưa bến lạnh người Xóm xóm nhà ta Nhớ buổi hoa bay bừng nắng hạ Môi em thơm mãi gió giang hồ Áo thêu màu lá xanh như lá Nhịp lướt nhịp nhàng vai nhấp nhô Giờ đã mấy mùa thu lã chã Đã mấy mùa thu vèo lá bay Thương kẻ một đi là tất cả Năm năm sông nghẹn sóng lưu đày Ôi một mùa Thu đẹp mắt huyền Em về vui hội lá hoa duyên Quê xưa tang tóc tàn đi hết Trong ánh trăng này mộng ngủ yên

60

Page 73: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Dĩ vãng

Tôi đứng bên này bờ dĩ vãng

Thương về con nước ngại ngùng xuôi

Những người em nhỏ bên kia ấy

Ai biết chiều nay có nhớ tôi

Tôi muốn hôn bằng môi của em

Mùa xưa thê thiết nắng hoe thềm ?

Lòng trong đã trắng tình nguyên thuỷ

Nghe bước xuân về êm quá êm

Em lắng tai đâu… chiều lửng lơ

Thơ tôi vừa hát khúc ban sơ

Lòng chưa tội lỗi mà vô cớ

Bỗng muốn gục quỳ bên tuổi thơ

Em là em – tôi có là tôi?….

Dù nghĩa thời gian ngăn cách rồi

Tôi đứng bên này lưu luyến quá

Những người em nhỏ của tôi ơi!

61

Page 74: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ban trưa đón nữ sinh

Âm thầm tôi đón em tan học Ngõ nắng lênh đênh áo trắng trời Mười bảy chớm yêu ai dám nói Xin hãy trao hôn bằng miệng cười Một thoáng thẹn thùng − một thoáng thôi Hồng lên gò má nét tinh khôi Từ em môi mọng nho mùa chín Tôi ngủ mười đêm mộng cả mười Mười đêm bỗng ửng hồng mơ ước Em có ngọc ngà em của tôi Em trong và trắng như tia nắng Rực lửa đời ai vực thẳm đêm Tình đã thăng hoa trên ánh sáng Bay vào đắm đuối tuổi thần tiên Người một mình ba mươi mùa đông Nay yêu tôi vẽ ở trong lòng Hoa cài mùa cưới lên chân tóc Cho bốn bàn tay cũng vợ chồng.

62

Page 75: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tiễn

Chia tay rồi đau đớn gì không? Nửa đêm nước mắt chảy trong lòng Vu vơ khói thuốc buồn ghê lắm Mấy đuốc sao chìm ngang núi sông

Ơi ới xuân nào tươi ngoài kia Nhà ai cửa khép gió không về Người bên chân trời đánh giặc mướn Ta theo cuộc đời đi viết thuê

Thương ai như người xưa ngày xưa Thoáng bóng vàng bay ngỡ bóng cờ Ba thu tận tuý mềm yên ngựa Quán trọ hồ trường nghiêng gió mưa

Lời sao nhầy nhụa sao tanh máu Tương tư chí lớn cánh tay gầy Tình sao sặc sụa mùi cơm áo Số kiếp nào lên sương muối đây?

Chia tay rồi mơ ước gì không? Đường xa hiu hắt nhớ nhau cùng Mai về đất kể duyên thành thị Tự bước chân đi đời trổ bông.

63

Page 76: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Giấc ngủ

Bao nhiêu mắt biếc bao nhiêu mộng đời, Mái gục vườn hoang hãi hùng đạn lửa Ngực mẹ từ khô nguồn vú sữa Tay gầy mòn mỏi Tình tang khúc hát lênh đênh.

64

Page 77: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Gió lúa

Tôi thương người anh không biết khóc Đêm nay nước mắt lại lưng tròng Một vạn đầu trai bồng tóc gió Sống là tất cả chết là xong

Mùa hè máu nhuộm lòng đất đỏ Huyết phượng não nùng mấy núi sông Mùa Thu máu chảy bời bời đó Sông Thương một dải, lệ đôi dòng

Đất ơi! Tôi nhớ hương đồng Hanh hanh men rạ nghe lòng quặn đau Từ bến sông đời dậy lửa Gió đưa mây trắng rượi sầu

Thương em chiều xưa mắt nhắm Yếm đào chưa buộc lòng nhau - Nhớ về thôn bản - Nắng ngọt bờ cau

Bốn mùa biển lúa nương dâu Câu ca nguyện ước miếng trầu trăm năm - Thương về thôn bản Chừ đây gió lạnh trăng thầm

65

Page 78: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Qua rồi buổi ấy vàng hoa cải Cánh nhạn lờ đờ không tiếng tăm Nhớ đêm li biệt buồn không nói Sông nước mang mang lòng lạnh lòng

Một vạn đầu trai bời tóc gió Cười lên nửa tiếng đau ba Đông Mà thương người anh không biết khóc Đêm nay sao nước mắt lưng tròng?

66

Page 79: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nửa đêm về mẹ

Rồi một hôm tôi về xóm nhỏ Ngày già nua tóc mẹ phơ phơ Tôi nói xôn xao tôi nói đợi chờ Như tự bao giờ bây giờ quyến luyến

Vằng vặc sương khuya sao trời cầu nguyện Một ngọn đèn xa… lệ nến hai hàng Biết mấy u buồn chảy xuống trần gian Không khóc vội nửa đêm về mẹ

Bếp lửa nhà ai má hồng em bé Tôi thương lời hình ảnh người xưa Tình mẹ là đây mắt mẹ lệ mờ Tôi có bao giờ còn tôi bé nhỏ

Ai đã qua rồi quá nhiều đau khổ Ngày ngày dân tộc u uất hờn xây Làng ta đó tơi bời lá đổ Chiều nhà quê nơm nớp lệ vơi đầy

Lưng chừng tưởng nhớ đàn chim trắng Ôi khát khao khi nắng hoa đào! Biết mấy nụ cười hiền hậu trăng sao Không nói hết nửa đêm về mẹ

67

Page 80: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Gửi người em

Mai mốt em về đâu? Con sông nước chảy trắng chân cầu Tiếng hát già nua người bạn cũ Đêm dài muôn thuở buộc lòng nhau

Ngoài kia buồn không em Xa hỡi ngàn xa bóng nhạn chìm Thương nhau ái ngại tìm đôi mắt Chưa biết đêm nào thức trắng đêm

Mái tóc em bồng bềnh bể khơi Áo mỏng vì em nằm đây nhớ đời Chiêm bao nửa giấc trời mưa bụi Thấp thoáng em về như lá rơi…

68

Page 81: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ở Sài Gòn Soi gương lạ mặt bao giờ Nửa đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi Ở đây vụng dại với người Nghiến răng nhai mãi nửa lời vô duyên

69

Page 82: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Cõi dấn thân

Tôi còn yêu cho biển còn xanh Mây còn bay cho chim cất cánh Ngựa què rồi em cỡi lưng anh Tôi cứ yêu, khốn nạn, cứ cười Chim cứ bay cho mây gãy cánh Em chết rồi, ai ám sát tôi

70

Page 83: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mối tình tiên tri Trong veo tiếng khóc đêm qua Tiếng cười nả nớt em là hôm nay Tôi mê tuyệt vọng càng say Nụ hôn bầm máu run tay thiên tài.

71

Page 84: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Chiều dạo phố Tôi đi hay ngủ trên đường Cớ sao người lạ tôi mường tượng quen Ta đi ngăn cách đôi miền Dạy em ngả nón che nghiêng lòng chàng.

72

Page 85: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Đêm huyền diệu Em về ôm mộng chàng xanh Trong cơn khổ nạn sinh thành đôi ta Lửa giường cho ấm làn da Đã nghe quấn quit ngọc ngà ngón chân Êm êm hơi thở đêm tàn Gối thêu chim nhỏ mê nàng không hay.

73

Page 86: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mưa chiều nay Ôi một đời trai phụ sách đèn Hoàng hôn rượu máu thấm hơi men Tâm tư nghe nặng hờn sông biển Cuối bãi đầu non sóng mắt huyền.

74

Page 87: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Đau Buổi chiều rét mướt vào chăn gối Xót thương nhau tiếng khóc âm thầm Mai kia tôi chết mồ hoang lạnh Em có kìa em có ghé thăm?

75

Page 88: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Đêm

Bảy nhịp cầu vồng mơ sự nghiệp Không gian xa lắm ôi thời gian Hồn đời ngại nỗi oan tiền kiếp Trang sách nằm nghe ngã đá vàng.

76

Page 89: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Bóng tối Từng đêm từng đêm đời hấp hối Nghiêng tay xin vuốt mắt giùm nhau Từng đêm từng đêm đời tội lỗi Cắn răng xin nguyện khúc kính cầu Từng đêm từng đêm từng đêm tối Quên em còn biết nhớ ai đâu?

77

Page 90: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ngâm thơ Thôi Hộ, nghe nhạc Trầm Tử Thiêng

- Hoàng Trúc Ly -

I. – Có người nghĩ đến bộ mặt cuộc đời, giá không thêm được một bàn tay âm nhạc, một nụ cười văn chương, năm canh sẽ nặng nề biết mấy! Và đã nói đến văn chương, nghệ thuật, trước hết phải nói đến thơ – vì bất luận những gì “nên nhạc”, “nên hoạ” đều… nên thơ cả! Tuy nhiên, người ta thích so sánh tâm hồn thi nhân với những gì quá thanh cao, quá siêu thoát, mà quên hẳn một tỉ đối chính xác hơn: sự bề bộn. Chính Jean Cocteau, trong giây phút nhìn lại mình, đã mệnh danh tâm hồn đa sự ấy là… “inconfort terrible”! Cũng có thể, trong trường hợp may mắn nào đó, thi nhân hạnh sinh vào một vị trí địa dư tự nó quyết định ít nhiều trong việc sáng tác. Một René Char chẳng hạn. Nếu thi sĩ không sinh ở Isle-sur-Sorgne là quê hương những bàn tay cày sâu vào lòng nước Pháp, chắc gì ông nói lên một vĩ đại của người đứng giữa đồng lúa vàng (debout dans un champ de seigle…) Xưa, người Hoa Khanh ra làm quan đất Thục, tiếm dụng lễ nhạc nhà vua, đã bị tặng ngay một nhát dao văn nghệ của Đỗ Phủ:

Tặng Hoa Khanh Cẩm thành ti quản nhật phân phân Bản nhập giang phong, bán nhập vân Thử khúc chỉ ưng thiên thượng hữu Nhân gian an đắc kỉ hồi văn! Tạm dịch: Một sớm Cẩm thành rộn trúc tơ

78

Page 91: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nửa theo gió nước, nửa mây mơ Trời cao ví thử còn quen thuộc Nhân thế e chừ quá ngẩn ngơ! Lí do rất giản dị, là mặc dù sống trong vùng đế khuyết, lối cảm nghĩ của đại chúng vẫn không nhịp nhàng với lối cảm nghĩ của đế vương. Và không phải vô cớ khi người thưởng ngoạn không ôm vào lòng một lễ nhạc vốn muôn đời dị biệt. Giữa Đỗ Phủ và chúng ta hàng bao thế kỉ xa xôi, vậy mà tác dụng nghệ thuật còn gợi cảm và truyền cảm xiết bao! Bình nhật, tôi ít khi vui. Chỉ vì yêu thơ nên gặp nhiều đau khổ. Và tôi bằng lòng sự đau khổ ấy. Viết những dòng này, tôi vẫn lấy lòng tôi mà viết. Nó sẽ rất ít màu sắc lí luận, vì thơ không lí sự bao giờ. Qua không gian và vượt thời gian, vâng, quả tôi đã tha thiết với “Đẹp”. Tôi không mang sẵn một lời thánh kinh nào cả. Chỉ là gặp gỡ bất ngờ, và càng bất ngờ lại càng ấm áp! Tôi khó lòng không nhớ những sớm mai nội cỏ hoa vàng, sương pha lê lung linh đầu ngọn lá. Tôi khó lòng không nhớ con đường làng quạnh quẽ, ít mái nhà từ khi tôi chập chững biết đi, biết nói, biết ý thức rằng đấy là một mái nhà cho đến nay, vẫn chưa thấy sợi khói chiều nào toả lên… Có sự hoang vắng nào e ấp bên trong? Cũng như tôi sẽ không quên những đêm trăng ảo kì, mà thung lũng núi đồi là dải yếm của gió (Les vallées sont les soutiens–gorge du vent) tìm gặp trong thơ Malcolm de Chazal. Đây chỉ là một thi sĩ hậu bối của Pháp, tên tuổi không ồn ào, không vang dội, nhưng nét đẹp vũ trụ bên hào quang cảm hứng của tình người thật đã sáng lên… Trong một quyển sách khảo luận thi ca Trung quốc viết bằng Pháp ngữ, tôi đã suy nghĩ nhiều về một hình ảnh bi đát: một tử

79

Page 92: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

thi. Ấy là “cái chết của người lính kèn” qua giọng thơ Ngải Thanh, thi sĩ thuộc trường phái thơ tự do hiện nay. Xin phỏng dịch: Thấy không? Hắn chết rồi Chết ngay trên đất Mến thương ngàn đời Bàn tay cứng ngắc Không rời… không rời Kèn đồng hực hực Máu người căng hơi Màu da xám tô đời khắc khổ Dưới bóng cờ buổi ấy tiếng quân ca Là mãi mãi súng không ngừng nổ Trong hôm nay đã xám một màu da Và bàn tay cứng ngắc Không rời… không rời Và kèn đồng hực hực Sáng ngời! Một người đã chết. Một cái chết xáo trộn quá, nhưng lại đẹp! Đẹp vì người tuy mắt nhắm, miệng cười chưa hết khát khao. Ấy là những gì còn lại của linh hồn vĩnh viễn về thiên cổ, những gì manh nha từ một niềm tin, niềm yêu dường như vô thuỷ vô chung… Tôi bỗng nhớ bốn câu thơ của Thôi Hộ: Tích niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồng Nhân diện bất tri hà xứ khứ? Đào hoa y cựu tiếu đông phong Tạm dịch:

80

Page 93: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Năm ngoái ngày này bên chấn song Hoa đào mặt ngọc má lây hồng Mặt hoa nay biết về đâu tá? Thấp thoáng hoa đào cười gió đông. Thi nhân đề thơ nhân dịp trở về chốn cũ (Đề tích sở kiến xứ), gặp lại hoa đào năm ngoái mà người đẹp năm xưa giờ đã không còn. Đáng nói là ở câu thứ hai của bài cảm cựu này, thi nhân đã so sánh linh động sắc đẹp giữa hoa với người. Đáng nói hơn nữa là trong sự so sánh ấy, những gì nổi bật trước hết, trên hết vẫn là màu hồng: màu hồng của hoa đào, màu hồng của đôi má… Nhưng làm sao đôi má giai nhân lại cứ màu hồng, mà không thể là màu đen, màu tím, màu khói hương? Phải chăng màu hồng là màu của sinh khí, và cho dù vẻ đẹp tân kì nào, cũng nhất luật khơi nguồn từ một sinh lực thiêng liêng… Như hình ảnh người lính kèn, người tuy đã chết, vẫn còn lại một cái gì bất diệt, cái bất diệt hào hùng của thi sĩ Nguyễn Du: “Thác là thể phách, còn là tinh anh ”… II. – Một ngày mùa Xuân, tôi đã nghe Trầm Tử Thiêng hát về quê hương. Có phải quê hương là khúc nhạc tỏ tình của người sống, với sự chứng kiến linh thiêng của người chết trong lòng đất. Là lênh đênh mây trắng, trời thì xanh, con gái thì đẹp, và cùng với trời rộng sông dài có lá thuyền nằm phơi gió trăng. Là sáo diều khuya khoắt một đêm xưa, hay tiếng kinh động của ác mộng liên thanh đại bác… Giờ đây, Thiêng lại sáng tác nhạc tình. Nghĩ cho cùng, tình quê vốn lai láng tình yêu, và ngược lại. Trái tim xanh tạo con người nên con người, bằng không, người chỉ khác thú vật vì “đi hai chân và không có lông”, như lời than của Platon. Trong lịch sử, thời đại nào Đạo Tình được tôn sùng là hoàng kim thời đại: dưới chín bệ Đường Minh

81

Page 94: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hoàng, ngai vàng Louis XIV..v.v.. Nàng Juliette Drouet tài tình đến thế vẫn hoá ra hão huyền, nếu không nhờ 17.000 lá thư tình gửi Victor Hugo. Một nghệ sĩ đàn ông càng cần thiết đàn bà, bởi không đàn bà, làm sao đàn ông… ngồi chung bàn với thần thánh? Lời tạ ơn của nhạc sĩ Wagner viết cho tình nhân là Wesendonck đẹp như nỗi kiêu hãnh dịu dàng: “Em yêu dấu, bản nhạc “Tristan và Iseult” của anh thành công là nhờ em tất cả. Xin nhớ ơn muôn đời!”. Tóm lại, khi sống mũi nàng Cléopâtre không chịu ngắn hơn chút nữa, Thiêng còn thẩm quyền và bổn phận làm sáng danh nhạc tình… Dường như từ xa xưa, những khuynh hướng sáng tác có nhiều tiểu dị trong một đại đồng. Beethoven muốn thấm nhuần tiếng nhạc Haydn, và Wagner muốn ảnh hưởng Beethoven. Riêng Chopin với “Mazurkas” và những “mélodies”, đích thực là vùng hào quang độc lập. Trên mảnh đất quê hương, nhiều bản nhạc xuất sắc vì chuyên chở âm ba bất hủ của “Nam ai”, “Nam bình” miền Trung hoặc “Vọng cổ”, “Đảo ngũ cung” miền Nam. Vấn đề chỉ là kĩ thuật, dù sao, tôi ca ngợi những nhạc phẩm mang tính chất sáng tạo độc đáo. Lời ngợi ca tôi gởi những ai ai… Pindare – nghệ sĩ đa tình nhất Hi Lạp – ra đời và nổi tiếng trước chúa Jésus trên 500 năm, từng được réo gọi là “Thiên nga ở Dircé” (Le Cygne de Dircé). Hình ảnh thiên nga như bóng mây bạc xoá, là biểu tượng nhạc thuần tuý, nhạc thanh khiết, nhạc uyển chuyển muôn đời và muôn nơi. Chiếc nhẫn đầy bùa phép mà người ngưỡng mộ hoài nghi ở tài nghệ Mozart, đích thực là một thành công của Tạo Hoá khi khuyến khích chàng sáng tác “Santa Maria”, “Hoà tấu Si bémol”… Một người yêu thơ, yêu chữ nghĩa như Verlaine vẫn tha thiết hô hào: “âm nhạc trước tiên, thơ số lẻ”, rồi “âm nhạc còn nữa và

82

Page 95: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

hoài hoài”. Khi bóng chiều nghiêng xuống cuộc đời, và 11.000 trang bút tích chứng tỏ nỗi tuyệt vọng của bệnh nặng tai, Beethoven, tác giả “Fidelio” hãy còn khai sinh bản “gème symphonie” bất hủ của nhân loại. Như thế, thần nhạc Orphée thực sự đủ khả năng xao xuyến gió, gỗ đá và cỏ khô, thực sự đủ quyền uy điều động mọi huyền lực của trời đất… Tôi vốn cô độc, và từ những lẻ loi chen lẫn khinh bạc, xin tiếp tục đoạn đường phiêu du… Tôi còn an ủi đời tàn bằng thái độ trân trọng, yêu dấu từng kỉ niệm tinh thần, riêng tôi và chung cả bạn bè. Đó cũng là… bộ tịch như tiếc rẻ lại như hân hoan, khi chợt biết nhạc T. T. Thiêng rồi nữa mai trao tận tay người, toàn vẹn. Tôi mơ mộng chân trời dù không tươi sáng lắm, vẫn hứa hẹn về tiếng hót một loài chim lạ, mang trên đôi cánh kí hiệu thăng hoa và huyền nhiệm của âm nhạc tuyệt vời bay. Chào mừng tiếng hót tinh sương đó, tôi có quyền cảm tạ tác giả Trầm Tử Thiêng, và sự hiện diện của tác phẩm tại quê hương này.

Miền Nam, tháng Tư năm 1969 (Đăng trên tạp chí Văn số 198)

83

Page 96: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

CÁC BÀI PHÊ BÌNH VỀ THƠ HOÀNG TRÚC LY

Page 97: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Phạm Công Thiện viết về thơ Hoàng Trúc Ly: “Thơ Hoàng Trúc Ly có ma lực kì quái của những câu phù chú. Đối với Hoàng Trúc Ly, ngôn ngữ hãy còn mới tinh, mỗi chữ đều mang một linh hồn, mỗi chữ là một sinh mệnh. Tôi gọi Hoàng Trúc Ly là thi sĩ lớn, là nhà thơ bậc thầy của thi ca hiện đại.”.

85

Page 98: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hoàng Trúc Ly: nụ cười trong và đôi mắt sáng

- Đặng Tiến - Không có gì dễ, và không có gì khó, bằng vẽ chân dung một nhà thơ. Lí do giản dị là thi nhân không có chân dung.

Thi sĩ chỉ là một tiếng nói, thay âm độ qua từng giây phút và chuyển hoá không ngừng mỗi lần đến với chúng ta. Vẽ lại khuôn mặt của người thơ là tạo ra giữa không gian mênh mông những tiếng rì rào chung quanh tâm hồn và đôi khi phải vẽ thêm niềm im lặng giữa chiều sâu ý thức.

Mỗi câu thơ mang mùi hương, đến với chúng ta một lần để không bao giờ trở lại; mỗi bài thơ là một âm điệu lướt đi, lướt đi, về vĩnh viễn. Vẽ lại mùi hương đã thoảng qua, âm điệu đã chìm trong tiềm thức, ôi có gì dễ, ôi có gì khó cho bằng!

Tôi sắp sửa làm một công việc phù du, dùng chiếc cọ vô hình để vẽ lên không trung một khuôn mặt chưa bao giờ có thật: khuôn mặt nhà thơ Hoàng Trúc Ly (1933–1983). Tôi bắt đầu vẽ ngay nụ cười, một nụ cười khoan dung, chấp nhận, lúc nào cũng hiền hoà giản dị, nhưng lúc nào cũng xa vắng, mênh mông như từ bên kia cuộc đời gửi lại. Tôi sẽ vẽ thêm đôi mắt trong xanh và cái nhìn cũng hiền hoà, dịu dàng như nụ cười, đôi mắt vuốt ve, lưu luyến. Tôi sẽ ngưng lại ở đây, vì thi sĩ Hoàng Trúc Ly chỉ gửi vào thi ca có đôi mắt và nụ cười trong sáng, e ấp quan niệm sống, phản chiếu một ý thức nghệ thuật sau những ngập ngừng dò dẫm suốt hơn mười năm sáng tác.

Ở cỡ tuổi ngoài hai mươi Hoàng Trúc Ly đã tự chọn ngừng lại trước ngưỡng cửa công danh (hiểu theo nghĩa thông thường): chàng không muốn đi sâu vào đời, chỉ mến yêu những hè phố về khuya. Quyết định phản lệ ấy đẩy chàng xa gia đình, lại một

86

Page 99: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

cái cớ để chàng đi dọc bên lề cuộc đời, cho đến khi tai nạn dồn dập đôi lần suýt đẩy Hoàng đến bờ cõi chết. Nhưng rồi chàng không chết… Trở lại cuộc đời, Hoàng Trúc Ly cho in tập thơ đầu: Trong cơn yêu dấu.

Thi phẩm đầu tay này không mang dấu vết thơ của tuổi hoa niên. Nhưng chúng ta sẽ dò thăm ấu thời của thi ca Hoàng Trúc Ly bằng cách lục lại các tạp chí cách đây tám, chín năm. Muốn dò thăm tương lai thơ của chàng, ta sẽ đọc qua đôi bài thơ Hoàng đang chuẩn bị xuất bản trong tập thơ sau. Sau khi tìm hiểu tâm hồn, quan niệm sống của thi nhân, ta sẽ nhìn qua kĩ thuật một nhà thơ, những đại lộ tôi muốn mời người đọc cùng giẫm chân lên.

Tôi xin đóng vai trò giới thiệu, vì người giới thiệu có quyền hạn rộng hơn người phê bình, ví dụ như có quyền chủ quan, nhìn vào cái hay trong khi đợi chờ thử thách của thời gian.

Có e dè chăng nữa, là trên đời, không có hai người cùng đọc một bài thơ được đến hai lần. Lần sau, một lớp cát mỏng sẽ phủ nhẹ lên lớp phù sa còn đọng lại sau lần thứ nhất. Như thế, mỗi bài thơ dưới mắt mỗi người là một bài thơ riêng, duy nhất, chỉ đọc một mình và chỉ đọc một lần.

Đọc thơ, là cùng cô đơn với thi nhân, một loại "cô đơn hai người" ấm áp. Vì Hoàng chỉ lo phải cô độc một mình:

"Bước chân người thơ đôi khi hấp tấp quá, đến sớm quá và lịch sử mới chớm nở: cô độc. Đôi khi đến trễ quá và lịch sử đã qua một quá trình trưởng thành: cô độc. Đôi khi họ đến trong thời kì mà người viết sử với thi nhân như chưa gặp bao giờ: cô độc. Và bao nhiêu bỡ ngỡ, bao nhiêu dồn ép khiến họ mặc cảm như mình đang lạc địa dư, lầm thế kỉ… Bởi vì đã đi trước… Bởi vì đã đi sau. Và dù đi sau hay đi trước, vẫn chỉ đi một mình."

(Hoàng Trúc Ly, trích bài tựa tập Khát vọng của Chế Vũ)

87

Page 100: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

trước cơn yêu dấu

Những vần thơ trẻ dại của Hoàng Trúc Ly mang hình ảnh quê hương tơi bời lửa đạn. Hoàng Trúc Ly xuất thân từ một gia đình công chức nhưng hồi cư hơi muộn. Hoàng phải chạy giặc một thời gian quá lâu. Hình ảnh nhàu nát của quê hương như in vết hằn trên tâm tưởng, nhất là khi quê hương lại là miền Trung nghèo khó.

Những vần thơ bình yên, trong sáng nhất của Hoàng Trúc Ly cũng ngậm ngùi. Tình yêu quê hương thường thể hiện qua hình bóng một cô gái, do đó, đằm thắm, thiết tha…

Gió lạnh mười năm lạnh lắm rồi Vườn dâu cô gái hái dâu ơi! Quê hương xa lắm dòng sông lạnh Lẩy bẩy chiều mưa bến lạnh người

“Xóm xóm nhà ta” Nhớ buổi hoa bay bừng nắng hạ Môi em thơm mãi gió giang hồ Áo thêu màu lá xanh như lá Nhịp lướt nhịp nhàng vai nhấp nhô

Giờ đã mấy mùa thu lã chã Đã mấy mùa thu vèo lá bay Thương kẻ một đi là tất cả Năm năm sông nghẹn sóng lưu đày

Ôi một mùa thu đẹp mắt huyền Em về vui hội lá hoa duyên

88

Page 101: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Quê xưa tang tóc tàn đi hết Trong ánh trăng này mộng ngủ yên

(“Tình Đầy,” trích toàn bài)

Ấu thời chìm trong khói lửa không để lại trong tác phẩm Hoàng Trúc Ly những hơi thở cuồng nhiệt của cuộc sống. Tâm hồn ông, hồi trẻ dại đã có khuynh hướng bình tĩnh, và chậm chạp gạn lọc những âm vang từ cuộc đời dội đến. Sau này, khuynh hướng ấy lại thể hiện rõ rệt hơn, như niềm chua xót của Hoàng Trúc Ly từ thuở xa xưa đã biết thở dài im lặng.

Chừng đây ai hát nữa Tâm sự hướng về đâu Thu xưa xa lắm và vui lắm Trăng nước chưa qua một nhịp cầu

… Một đi là hết cả Thế hệ chen hàng đôi Nghiến răng cứa mạch sầu lưu thuỷ Nghe lửa bùng lên tiếp mặt trời.

(“Gởi mùa thu”)

Dấu vết tàn nhẫn của chiến tranh là phân tán ý thức. Những chia ly, mất mát thường đào hố sâu trong tình cảm, chứa chất bao đắng cay, và thời gian không bao giờ lấp nổi. Những vần thơ không sặc sụa mùi máu lửa, nhưng có khi là chứng tích sâu xa nhất của chiến tranh:

89

Page 102: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Chia tay rồi đau đớn gì không? Nửa đêm nước mắt chảy trong lòng Vu vơ khói thuốc buồn ghê lắm Mấy đuốc sao chìm ngang núi sông

Ơi ới xuân nào tươi ngoài kia Nhà ai cửa khép gió không về Người bên chân trời đánh giặc mướn Ta theo cuộc đời đi viết thuê

Thương ai như người xưa ngày xưa Thoáng bóng vàng bay ngỡ bóng cờ Ba thu tận túy mềm yên ngựa Quán trọ hồ trường nghiêng gió mưa

Lời sao nhầy nhụa sao tanh máu Tương tư chí lớn cánh tay gầy Tình sao sặc sụa mùi cơm áo Số kiếp nào lên sương muối đây?

Chia tay rồi mơ ước gì không? Đường xa hiu hắt nhớ nhau cùng Mai về đất kể duyên thành thị Tự bước chân đi đời trổ bông.

(“Tiễn,” trọn bài)

Bài “Gió Lúa” trích nguyên vẹn sau đây, tượng trưng cho ý thức một thanh niên sống trong đoạ đày của hoàn cảnh; ở đây, tình yêu quê hương vừa trong sáng vừa nhầy nhụa xen lẫn vào tình huynh đệ rách nát vẫn còn thiết tha, u uất. Hoàng Trúc Ly luôn luôn nghiêng về tình cảm, ở đây ảm đạm, thê lương. Chiến tranh không tàn nhẫn bằng những gì còn lại sau chiến tranh.

90

Page 103: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Những đổ vỡ trong xã hội không là gì so với sự nhàu úa của linh hồn bên dưới đống tro tàn, gạch vụn:

Tôi thương người anh không biết khóc Đêm nay nước mắt lại lưng tròng Một vạn đầu trai bồng tóc gió Sống là tất cả chết là xong

Mùa hè máu nhuộm lòng đất đỏ Huyết phượng não nùng mấy núi sông Mùa thu máu chảy bời bời đó Sông Thương một dải, lệ đôi dòng

Đất ơi! Tôi nhớ hương đồng Hanh hanh men rạ nghe lòng quặn đau Từ bến sông đời dậy lửa Gió đưa mây trắng rượi sầu

Thương em chiều xưa mắt nhắm Yếm đào chưa buộc lòng nhau - Nhớ về thôn bản - Nắng ngọt bờ cau

Bốn mùa biển lúa nương dâu Câu ca nguyện ước miếng trầu trăm năm - Thương về thôn bản Chừ dây gió lạnh trăng thầm

Qua rồi buổi ấy vàng hoa cải Cánh nhạn lờ đờ không tiếng tăm

91

Page 104: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nhớ đêm ly biệt buồn không nói Sông nước mang mang lòng lạnh lòng

Một vạn đầu trai bời tóc gió Cười lên nửa tiếng đau ba đông Mà thương người anh không biết khóc Đêm nay sao nước mắt lưng tròng? (“Jólúa”)

Sở dĩ khi gợi lại những cảnh thảm khốc kéo dài hơn mười năm trẻ dại, Hoàng Trúc Ly vẫn giữa được giọng nói hiền dịu, đằm thắm là nhờ được nuôi dưỡng trong một tình mẫu tử dịu dàng và thắm thiết.

Thuở nhỏ, Hoàng là một cậu bé thông minh và khiêm tốn, nhẫn nại mà kín đáo, sôi nổi nhưng tế nhị, Hoàng đã ấp ủ mãi trong lòng bàn tay dịu hiền của người mẹ suốt đời hi sinh vì con. Có thể nói trong số sáu anh em, Hoàng Trúc Ly là người giống mẹ nhiều nhất, Hoàng Trúc Ly đã níu kéo cuộc đời trên tay người mẹ.

Trong thời loạn lạc, hình ảnh của mẹ già khổ hạnh đã in sâu vào kí ức Hoàng những kỉ niệm nghẹn ngào:

Bao nhiêu mắt biếc bao nhiêu mộng đời, Mái gục vườn hoang hãi hùng đạn lửa Ngực mẹ từ khô nguồn vú sữa Tay gầy mòn mỏi Tình tang khúc hát lênh đênh.

(“Giấc ngủ”)

Hoàng Trúc Ly rất kín đáo và không bao giờ gửi gắm rõ ràng một giai đoạn nào của đời tư vào tác phẩm. Nhưng ông đã

92

Page 105: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

dành trọn vẹn một bài thơ về hiền mẫu. Bài thơ giản dị và thắm thiết, như tiếng líu lo của một con chim non giúi đầu vào ngực mẹ. Âm thanh như lùa vào nhau. Khi rộn ràng, nơm nớp như tiếng nói của trẻ thơ, khi lại lắng chìm như tâm hồn một kẻ trưởng thành trong tủi cực bỗng xa lánh đời để trở về trút đau thương trên vai mẹ:

Rồi một hôm tôi về xóm nhỏ Ngày già nua tóc mẹ phơ phơ Tôi nói xôn xao tôi nói đợi chờ Như tự bao giờ bây giờ quyến luyến

Vằng vặc sương khuya sao trời cầu nguyện Một ngọn đèn xa… lệ nến hai hàng Biết mấy u buồn chảy xuống trần gian Không khóc vội nửa đêm về mẹ

Bếp lửa nhà ai má hồng em bé Tôi thương lời hình ảnh người xưa Tình mẹ là đây mắt mẹ lệ mờ Tôi có bao giờ còn tôi bé nhỏ

Ai đã qua rồi quá nhiều đau khổ Ngày ngày dân tộc u uất hờn xây Làng ta đó tơi bời lá đổ Chiều nhà quê nơm nớp lệ vơi đầy

Lưng chừng tưởng nhớ đàn chim trắng Ôi khát khao khi nắng hoa đào! Biết mấy nụ cười hiền hậu trăng sao Không nói hết nửa đêm về mẹ

93

Page 106: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

(“Nửa đêm về Mẹ,” trọn bài)

Ngày mẹ thương con ngày con nhớ mẹ Tôi có bao giờ còn tôi trẻ thơ

(“Chứng tích”)

Ngợi ca tình mẫu tử cũng là một lối trở về lại thiên đường xanh của ấu thời man dại. Luyến tiếc ấu thời không những là ước mơ mảnh hạnh phúc nhỏ bé đong đưa trong chuỗi ngày vô tư lự, nhưng còn là luyến tiếc thế giới trong sáng đang hiến dâng cả chiều sâu cho nhãn trường nhân loại. Ngây thơ biết ngạc nhiên, biết tin tưởng, biết mến yêu, biết tổng hợp. Trẻ thơ là kẻ ở gần nguồn, có lẽ trong Phúc âm không có lời nào đáng ngạc nhiên bằng câu nói về trẻ con: “Nếu các người không trở thành giống như những đứa trẻ này, các người sẽ không được vào xứ Trời.”

Trong văn chương, xứ trời là một vũ trụ thân ái và tươi mát luôn luôn nghiêng nguồn sinh lực về phía con người, khi con người còn giữ được cái "khí hạo nhiên" theo lời Mạnh Tử.

Hoàng Trúc Ly dưới đây, nhớ trẻ thơ, nhưng kì thật, là nhớ hình ảnh của mình trong thời trẻ dại bên kia khoảng cách của một dòng sông. Dòng sông tượng trưng cho dòng thời gian chảy không ngừng và không bao giờ trở lại: “nước đi đi mãi không về cùng non…”

(“Dĩ vãng”)

Tôi đứng bên này bờ dĩ vãng Thương về con nước ngại ngùng xuôi Những người em nhỏ bên kia ấy Ai biết chiều nay có nhớ tôi

94

Page 107: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tôi muốn hôn bằng môi của em Mùa xưa thê thiết nắng hoe thèm Lòng trong đã trắng tình nguyên thuỷ Nghe bước xuân về êm quá êm

Em lắng tai đâu… chiều lửng lơ Thơ tôi vừa hát khúc ban sơ Lòng chưa tội lỗi mà vô cớ Bỗng muốn gục quỳ bên tuổi thơ

Em là em – tôi có là tôi?…. Dù nghĩa thời gian ngăn cách rồi Tôi đứng bên này lưu luyến quá Những người em nhỏ của tôi ơi! (“Dĩ vãng,” trọn bài)

Trong thơ Hoàng Trúc Ly, rồi đây ta sẽ còn bắt gặp nhiều lần đôi mắt luôn luôn điều tiết để tạo cái nhìn trong suốt của trẻ thơ.

Bếp lửa nhà ai lên khói sương Người yêu mường tượng mắt u buồn Xế chiều trang giấy nhòe tâm sự Sao em không về tôi mến thương? (“Gọi một mình”)

Có lẽ không có từ ngữ nào diễn tả đầy đủ tình yêu của Hoàng Trúc Ly cho bằng chữ Mến Thương: không bao giờ trong thơ Hoàng người đọc bắt gặp những rạo rực cuồng bạo của xác thịt, cũng không có những đau thương da diết vò xé linh hồn.

95

Page 108: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tình yêu nơi đây chỉ là nỗi niềm thương nhớ mông lung dịu nhẹ. Trong ý thơ và trong lời thơ cũng như trong không khí do hình ảnh và nhạc tính cấu tạo chung quanh một bài thơ, chỉ có một ít u hoài mơ mộng:

Mai mốt em về đâu? Con sông nước chảy trắng chân cầu Tiếng hát già nua người bạn cũ Đêm dài muôn thuở buộc lòng nhau

Ngoài kia buồn không em Xa hỡi ngàn xa bóng nhạn chìm Thương nhau ái ngại tìm đôi mắt Chưa biết đêm nào thức trắng đêm

Mái tóc em bồng bềnh bể khơi Áo mỏng vì em nằm đây nhớ đời Chiêm bao nửa giấc trời mưa bụi Thấp thoáng em về như lá rơi…

(“Gửi người em,” trọn bài)

Thơ tình của Hoàng Trúc Ly phảng phất ít nhiều chất "tình và mộng" của Lưu Trọng Lư, và gần đây hơn, Quang Dũng. Thỉnh thoảng có thiết tha cũng chỉ nhẹ nhàng như Verlaine.

Từ buổi so le đến lứa đôi Bao nhiêu mắt biếc lãng quên đời Tôi thương tôi nhớ tôi thương nhớ Nhân loại nỡ nào xa lánh tôi?

(“Gọi một mình”)

96

Page 109: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tình yêu là một nhu cầu gần gũi, nhưng nhu cầu ấy chỉ dừng lại ở những cảm giác êm ái, dịu nhẹ thoảng qua. Đôi khi có cả âm điệu thân ái của tình huynh muội:

Đời lê thê quá tôi về muộn Em ngủ một mình đêm gió mưa.

(“Em có là em”)

Sau những phút lo lắng cho người yêu, thỉnh thoảng Hoàng Trúc Ly lại đợi chờ một cử chỉ âu yếm, một lời nói ngọt ngào sưởi ấm những tháng ngày lạnh lẽo:

Những đêm dài heo hút ngoại ô Gác trọ vào thu gió thổi giang hồ Thôn xóm hắt hiu ngại ngùng tiếng nói Tôi ngủ một mình em không đến gọi Chơi vơi bóng nhạn ân tình (“Giấc ngủ”)

Thì vẫn một lo lắng: em ngủ một mình… Tôi ngủ một mình… Nhưng nhạc điệu ở đây mơ mộng, tình cảm ở đây đằm thắm, người đọc phải vượt qua những mốc ái ân thường tình để chia sẻ tình yêu với Hoàng . Không phải một lối viễn ái lí tưởng người ta vẫn gọi là "platonique", cũng không phải một thứ tình ngây thơ, trong trắng: vì cả hai loại tình cảm ấy đều nảy sinh từ một hoàn cảnh bất lực. Trái lại khí hậu ân tình trong thơ Hoàng Trúc Ly nồng nàn quá, đầm ấm quá, người đọc không thể nghĩ đến hai loại tình cảm như của Lamartine với nàng Graziella hay Madame Charles. Có thể nghĩ tới tình của

97

Page 110: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Baudelaire riêng với Marie Daubrun, nhưng trong thơ Hoàng Trúc Ly phần nhục dục nhẹ nhàng hơn. "Luyến ái huynh muội", có lẽ chữ ấy gần đúng… Sự thân ái vô cùng cảm động khi Hoàng Trúc Ly gửi gắm đến người yêu nguyên vẹn khối cô đơn đang đè nặng lên linh hồn:

Từng đêm từng đêm đời hấp hối Nghiêng tay xin vuốt mắt giùm nhau Từng đêm từng đêm đời tội lỗi Cắn răng xin nguyện khúc kính cầu Từng đêm từng đêm từng đêm tối Quên em còn biết nhớ ai đâu? (“Bóng tối”)

Những lúc ngắc ngoải trong môi giới của cõi chết, Hoàng Trúc Ly vẫn sợ phải “ngủ một mình.”

Buổi chiều rét mướt vào chăn gối Xót thương nhau tiếng khóc âm thầm Mai kia tôi chết mồ hoang lạnh Em có kìa em có ghé thăm? (“Đau”)

Bài thơ trích trọn vẹn sau đây mang khí hậu vừa ướt át vừa nồng thắm như một bếp lửa ân tình trong đêm mưa gió; vừa mang tính chất mộng mị hoang đường, xen vào những kỉ niệm u buồn chua xót; và phần âu yếm luôn luôn vuốt ve hình ảnh "bé nhỏ người em gái". Nhịp điệu trầm buồn, giản dị, thầm kín như những tia nhìn im lặng; nếu chỉ nói đến nhạc tình, có lẽ không có bài thơ khúc nhạc nào êm dịu cho bằng, kể cả "Vạn lí tình" của Huy Cận:

98

Page 111: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Xem “Mưa chiều” trang 27

Mùa mưa nghe trời ướt mắt xanh Gió thổi mưa xưa hờn kinh thành Hôm nay lưu luyến về hôm ấy Em lạnh lùng không khi nhớ anh?

Ngày quen em phượng đỏ môi son Chiều tiễn đưa lá rụng dép mòn Từ mang ly biệt vào năm tháng Thao thức cho bằng mấy núi non

Ôi một đời trai phụ sách đèn Hoàng hôn rượu máu thấm hơi men Tâm tư nghe nặng hờn sông biển Cuối bãi đầu non sóng mắt huyền

Đời biết anh là kẻ quyền uy riêng gởi anh hồn thi sĩ sao em không quỳ bên anh?

(“Tự thán”)

Cũng có thể là thi nhân kiêu hãnh, cái kiêu hãnh dĩ nhiên và chính đáng của người thơ bị xua đuổi ra khỏi nền Cộng hoà nhưng vẫn được cẩn thận tròng lên một vòng hoa theo đề nghị của Platon. Cái kiêu hãnh của bậc trích tiên khi được tướng quốc cởi giày, mài mực như trường hợp Lí Bạch. Anh là kẻ hào hoa, vâng, đời biết anh là một bậc Tư Mã áo xanh rỏ lệ trên những ngón tì bà một đêm Giang châu trăng lạnh. Anh là kẻ tình si, vâng, đời biết anh là một Nerval đi tìm cái hôn hoàng hậu ,từ bên này cuộc đời sang bên kia cõi chết. Anh là kẻ quyền uy, vâng, thời cổ La-Hi, thiên hạ gọi thi nhân là kẻ mang tiếng nói của thần linh.

99

Page 112: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nhưng niềm kiêu hãnh của người thơ sẽ vĩnh viễn dừng lại nơi đây, trong địa lí mênh mông của khoảng trống. Đời biết, nhưng đời vẫn lạnh lùng; bởi vậy những kẻ hào hoa, tình si, quyền uy đã có lúc, đâu đó, trở thành thi sĩ côn đồ, những Villon, Sade, Rimbaud. Và từ một đầu lãnh giặc Châu Chấu đến một chòm sao sáng trong bảy chòm Pleiade, những ngõ ngách thi ca dù có quanh co, sợi dây "Ariane" nào thiếu chiều dài.

Thơ thường là phần thặng dư của tâm tư; lượng thặng dư tràn ra tình trạng thiếu dung tích. Người con gái trước mặt Hoàng Trúc Ly có thể là một định mệnh chưa đạt tới, cũng có thể là một nghệ thuật chưa hoàn tất. Thi sĩ, do đó, ý thức được vị trí cao độ của mình, vẫn đòi hỏi, mong đợi:

Cô đơn đỉnh núi gần trời

Nghệ thuật đạt đến đỉnh độ thường cô đơn. Cô đơn gần như là đặc tính của nghệ thuật và của thiên tài. Trong Hoàng Trúc Ly nỗi hoang mang kiêu kì của kẻ từ cao nhìn xuống, phải chăng là kí hiệu của thơ ông trong tương lai?

Đời biết anh là kẻ hào hoa, và anh biết anh là kẻ hào hoa.

Trong thơ, Hoàng Trúc Ly luôn luôn tỏ ra dịu dàng, lễ độ, đôi khi lễ độ một cách quá đáng, ngay với người yêu:

Mùa Xuân còn gì, thưa em Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi

(“Ca sĩ II”)

Tình cảm Hoàng gói ghém kín đáo, gần như là lời tỏ tình nhiều hơn là tình tự. Tao nhã trong ngôn ngữ, tao nhã trong động tác:

100

Page 113: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Về đâu hoa nở má hồng Mùa xuân tiếng nhạc nửa vòng tay ôm

Hào hoa đến độ đỏm dáng; không phải là làm dáng trong thi ca, nhưng trước cuộc đời, thi sĩ muốn sống bằng nghệ thuật, đo lường cẩn thận những cử động của mình như hoạ sĩ đắn đo từng vết cọ. Những cử động tạo trong thơ Hoàng Trúc Ly một sinh khí sống động, náo nức, và những cử động ấy lại tạo ra một trạng thái vừa tĩnh tại, vừa uyển chuyển một vẻ đẹp hình thể(1) tựa những tác phẩm điêu khắc của Hi Lạp:

Cô đơn đỉnh núi gần trời Nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh

(“Ca sĩ II”)

Con người ưa cử động ấy là một nhà thơ ưa xê dịch. Có thể nói Hoàng Trúc Ly là một thi sĩ lang thang: động từ "đi" hiện diện trong gần nửa số bài của Trong Cơn Yêu Dấu.

Tôi nay đi giữa hoang đường Niềm đau thân thể tủi buồn hai vai

(“Hành trình I”)

Ngoài ra còn nhiều chữ liên hệ đến ý niệm đổi vị trí như: về, dừng lại, con đường, bàn chân… dường như có thường xuyên trong thơ Hoàng Trúc Ly.

101

Page 114: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Và thơ ông bắt nguồn từ đại lộ. Không phải là thơ mô tả, nhưng thi sĩ ưa ghi lại nhận xét, suy tư, những cảm xúc, thường là êm đềm, dịu nhẹ qua những cảnh bắt gặp trên vỉa hè cuộc sống. Tiếng tì bà có lẽ từ một mái lầu khuya vọng lại, đưa ông trở về sống chơi vơi trên sóng nhạc Tầm dương; hàng cây bên đường mời mọc ông trở lại với kỉ niệm tình yêu; đôi mắt cô gái từ khung cửa sổ một đêm gọi ông về với những nhớ thương vạn cổ.

Quang cảnh trong thơ Hoàng Trúc Ly chỉ là cái cớ gợi cảm: tự nó, nó không có một giá trị thẩm mĩ nào. Ngoại cảnh ở đây tầm thường, giản dị, không quy định một vùng địa lí nào rõ rệt, cũng không ghi lại một khoảng thời gian nào đích xác. Quang cảnh ở đây chỉ là giao tiếp giữa nội tâm và ngoại giới. Hãy nghe Hoàng Trúc Ly tả một “Hàng cây bên đường”:

Người yêu tóc xõa tròn vai Nửa đêm da thịt quên cài áo khuya Xác thân rã mục lời thề Mùa đi lá rụng đường về xuân thu

Người đọc nghĩ đến ngay bức hoạ khoả thân, và gần đây một hoạ sĩ khi triển lãm tranh đã trích hai câu để dưới một bức hoạ loã thể. Hoàng Trúc Ly có thể trách hoạ sĩ hiểu lầm, nhưng hoạ sĩ có thể trách Hoàng Trúc Ly nhìn nhầm thiên nhiên. Có lẽ trong cái thế giới thực tế này mọi người đều nhìn đúng, ngoại trừ thi sĩ. Và mọi người đều có lí, trừ các nhà thơ. Nhưng chúng ta yêu mến cái nhầm của thi sĩ vì họ nhìn khác chúng ta, họ cảm thông sự vật: có nhầm cũng phải là gữa bằng hữu mới nhầm. Chúng ta là kẻ mắt tục, nhìn chỉ thấy bề ngoài và không bao giờ hiểu hết kích thước của tạo vật . Thơ là môi giới giữa người và tạo vật.Và người thơ là người linh thị.

102

Page 115: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mô tả hàng cây bằng hình ảnh nồng nàn da thịt là một biệt nhãn. Thơ Hoàng Trúc Ly là một loại thơ thân xác. Xin phân biệt thơ thân xác (2) và thơ nhục dục(3) theo gần đúng danh từ xưa kia Phạm Văn Kí đã dùng để gọi thơ Hàn Mặc Tử, khi đề tựa tập Gái Quê. Hoàng Trúc Ly ghi nhận nhiều cảm giác của cơ thể, nhưng không phải dục vọng:

Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau

(“Ca sĩ I”)

Xin gọi tên tôi dù xa vắng Thịt da ngời ánh lửa tình khuya

(“Tuyệt bút”)

Cơ thể dường như nhắc nhở với Hoàng Trúc Ly rằng mình đang sống. Trái tim, ngón tay, bàn chân, mái tóc, đôi môi thường chuyển lên tác giả những cảm giác, rồi suy tư. Hoàng Trúc Ly thường xuyên lắng nghe cơ thể và âu yếm với thân xác. Jean Pierre Richard, một nhà phê bình mới của Pháp nói về anh em nhà văn Goncourt, đã gọi họ là "écrivains épidermiques"(4) tưởng ta có thể gọi Hoàng Trúc Ly là thi sĩ của xúc giác.

Hoàng Trúc Ly, nhà thơ hào hoa, phong nhã, con người ưa xê dịch và ưa cử động, yêu ngoại cảnh và yêu cơ thể, con người ấy, đối với cuộc đời có thái độ của một người khách.

Ta hãy tìm hiểu tâm hồn nghịch lữ ấy nhiều hơn dưới ánh sáng tình yêu…

*

103

Page 116: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Người khách ấy không phải là khách lạ, gọi là khách quen chàng sẽ mỉm cười. Nhưng dù lạ hay quen, Hoàng Trúc Ly cũng vừa thân mật, vừa lễ độ, vừa nồng nàn, vừa xa cách.

Người yêu dưới mắt thi sĩ là một nét đẹp, trừu tượng, mong manh. Hình ảnh người đàn bà ẩn hiện trong ảo giác, giữa những phút xuất thần, khi Hoàng Trúc Ly bắt gặp nghệ thuật, một thứ nghệ thuật hão huyền, chợt biến:

Từ mùa Xuân rụng trên vừng trán Có phải tên người yêu là Thơ

(“Tiếp theo và Hết”)

Có khi người yêu là một tiếng hát; nhưng tiếng hát ngọt ngào, cao vút lại gói trọn niềm u uất của tâm tư. Trong tiếng hát mong manh, thi sĩ đã tiên cảm được những ngày cơ thể tan biến thành âm thanh:

Từ em tiếng hát lên trời Tay xao dòng tóc, tay mời âm thanh Sợi buồn chẻ xuống lòng anh Lắng nghe da thịt tan thành xưa sau.

(“Ca sĩ I,” trọn bài)

Có khi người yêu chỉ là tiếng đàn, một tiếng đàn ướt át. Khi loang ra đại dương, khi bay vút không trung, khiến thi nhân ngậm ngùi cho những linh hồn cao cả nhưng cô đơn. Cô đơn như những âm thanh:

104

Page 117: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mùa Xuân còn gì, thưa em Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi Cô đơn đỉnh núi gần trời Nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh. (“Ca sĩ II,” trọn bài)

Cũng có khi người yêu hiện đến với thi nhân, nhưng Hoàng Trúc Ly ngại ngùng, không muốn ôm thần tượng vào lòng, sợ nhiệt độ thân xác sẽ làm tan rã tấm thân khói sương của lí tưởng:

Mùa này em lắng tai đâu? hoàng hôn có phải là màu nhớ nhung cô đơn tiếng gọi nửa chừng áo em trắng quá ngập ngừng vòng tay.

(“Lá hoa duyên,” 3)

Phải chăng vì mặc cảm tội lỗi, vì những dấu vết bùn nhơ do cuộc đời bốc lên mà Hoàng Trúc Ly từ chối người yêu? Hay Hoàng muốn giữ mãi một thần tượng vô hình như xưa kia Baudelaire đã từ chối Madame Sabatier? Hoàng Trúc Ly đã chọn lựa xa cách:

(“Lá hoa duyên”)

Xin em dừng lại môi mềm giấc mơ thê thảm bóng chìm đêm sâu tay xuôi mười ngón rụng sầu xa nhau năm tháng cúi đầu nhớ nhau

(“Lá hoa duyên,” 1)

105

Page 118: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hoặc có thể đã hơn một lần chết đi sống lại, Hoàng Trúc Ly muốn nhìn tình yêu từ một biên giới… Đã từng hấp hối trong cái ngắm nhìn hơn là cái dọc ngang chinh phục:

Ra về tiếng hát thuỳ dương lời ru sầu muộn con đường tình nhân thôi em người bệnh tàn dần ngủ yên hơi thở hai lần hồi sinh.

(“Lá hoa duyên”,4)

Quý hoá chăng nữa, chỉ có một ít âm thanh sầu muộn sẽ theo đuổi con người xuống mồ hoang, sẽ đưa tiễn con người về với biên giới của bóng tối. Tình yêu chỉ là xa cách mông lung, đo bằng một nỗi nhớ nhung dằng dặc:

Với em xa cách thêm buồn Trời cao bóng nhớ dặm mòn chân đi

(“Lá hoa duyên,” 2)

Trước tình yêu, người lữ khách chỉ dừng lại để ra đi, để mang theo ít nhiều lưu luyến, tủi hờn. Hoàng đã từng đứng dưới một mái lầu cao, một đêm mưa, để nhìn lên hình ảnh người phụ nữ "chảy" xuống thành thơ:

Nhìn lên cửa khép lầu cao bóng em chảy xuống vực sâu mắt buồn về đêm khuya khoắt nhớ thương mưa bay trước mặt, tủi hờn giăng ngang (“Lá hoa duyên,” 5)

106

Page 119: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hoàng Trúc Ly lại ra đi, rồi anh lại ra đi như đã đến (thơ Hoài Khanh) nhưng sẽ vĩnh viễn mang theo kí hiệu cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên. Và ở đâu, chàng cũng nhìn thấy bóng dáng người yêu: “mắt em ở bốn phương trời” (thơ Vũ Hoàng Chương).

Qua đây từng giọt buồn phiền Mắt em cổ thụ thâm xuyên gọi mời

(“Hành trình,” 4)

Tình yêu là phút im lặng nhiều hơn lúc tự tình. Hoàng chuộng khoảng cách của không gian và của âm thanh, khoảng im lặng trong ý nghĩa và trong cảm giác:

Anh mơ thượng đế khi yêu dấu Thể xác linh hồn không nói năng

(“Tiếp theo và hết”)

Những lời cầu nguyện trong giáo đường thiêng liêng vì không bao giờ được đáp lại bằng ngôn ngữ.

Tình yêu thiêng liêng là những khoảng im lặng bên nhau.

*

Trong Cơn Yêu Dấu” còn giữ ít nhiều cảm hứng xa xăm: một quê hương êm ả thấp thoáng bên kia hình ảnh một người con gái, nhưng quê hương ở đây là kỉ niệm xa xôi, thức dậy trong tiềm thức sau những đau buồn, tủi cực của hiện tại. Quê hương là nỗi hoài mong, nơi trú ẩn, niềm an ủi trong trí tưởng

107

Page 120: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

tượng. Thi sĩ tựa hồ như muốn níu kéo những tháng ngày đã mất, muốn dùng những ảo tưởng quá khứ để khoả lấp đau thương hiện tại:

(“Đường tình”)

Tháng Chín ban mai cười gió thổi Anh đi nắng đậm xanh bờ Em ơi đau rút ruột Hai bàn chân tù đày Đã đi rồi anh muốn nhảy muốn bay Cho khăng khít nhịp chân trời đất Mộng vừa nghiêng mắt Quê em ngày đẹp vàng son Đường xa mờ nhảy múa núi non Ơi những cô mình bàn tay sữa đọng Khi gió mùa lên ngực vừa căng mọng Đa tình đuổi bướm lang thang Sớm mai nào bên bông lúa trẻ măng Anh nghe tiếng đời kêu quen biết quá Nghe mến thương như thời gian phép lạ Rót vào ta từng giọt sữa... xưa kia Anh nằm nhay vú mẹ mà mắt đầm đìa Và anh đi Qua bóng ngày hấp hối Đại lộ cuộc đời buồn như ngõ tối Ngại ngùng mái lá mưa khuya (“Đường tình,” trọn bài)

108

Page 121: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Người đọc thấy rõ là đề tài quê hương đã bị vượt qua. Nhãn tuyến trong bài thơ đã xoá nhoà màu sắc địa phương. Những nhận xét về ngoại cảnh thân yêu dường như đã chìm lắng, chỉ còn một ít xao xuyến trên diện tích của kí ức; và qua diện tích ấy, Hoàng Trúc Ly nhìn ngoại cảnh bằng đôi mắt trong sáng hơn.

Tình quê hương đã bừng nở thành một ý thức vị trí. Cương giới sẽ mở rộng: thi sĩ biết tâm hồn mình không chỉ nuôi dưỡng bằng màu xanh của bãi sắn, nương dâu, mà còn bằng màu trắng của những cánh hoa sen bên bờ sông Hằng, bằng men rượu bồ đào nồng thắm bên kia sông Dương Tử, bằng cả màu đỏ những cánh hoa đào dưới chân Phú Sĩ sơn. Ngần ấy sắc hương sẽ ướp mãi trang giấy của thi ca không biên thuỳ để phát triển những tình cảm nhân đạo chàng hằng nuôi dưỡng trong tâm hồn. Sông Hồng, Sông Hằng hay sông Dương Tử cũng sẽ đổ về một bài thơ mang trọn vẹn âm thanh rào rạt của Thái Bình Dương:

(“Chắp nối”)

Thái-bình-dương Thái-bình-dương sóng vỗ Tôi thương tôi nhớ là đây Ôi máu người hoà nước mắt trời mây Tim biển cả bao giờ nguôi thổn thức? Tôi nghe bao la Nghìn năm mây trắng quyện Hồng hà Vết sẹo linh hồn trong lịch sử Rượu Đường thi mềm môi Trang tử Đêm Á châu huyền diệu trăng sao Cánh sen bừng nở Một sớm hoa đào… Mùa Đông hè phố cũ Tuổi tình yêu ban đầu

109

Page 122: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Em ơi em về đâu? Ân tình đi rải rác Còn chi một nhịp cầu Hai mùa duyên chắp nối Ngàn xưa qua ngàn sau Là nghĩa đời lên ve vuốt quá Người yêu ơi! Mấy thuở mong chờ Chín mươi dòng chữ bằng thanh sắc Bừng sáng lưng trời ngọn lửa thơ (“Chắp nối,” trọn bài)

Một ý thơ bàng bạc trong thi phẩm là hình ảnh những lần chết dở:

Đường xưa trải nhớ nhung thầm Ngôi sao yểu mệnh căm căm cuối trời

Trong Cơn Yêu Dấu đã từ giã người đọc bằng một trang “Tuyệt bút”. Hi vọng là sau trang tuyệt bút vẫn còn…

(“Tuyệt bút”) Mai này tôi chết đi Nằm nghe hồn cô độc Trời chiều không nói năng chi Em ơi sao em không khóc Mai này tôi chết đây Vì sao em không khóc Vết thương mửa máu tôi nào hay Như xế chiều nay như sáng nay

110

Page 123: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tôi viết từng trang tuyệt bút Mai này tôi chết đây Nắng ơi trời ơi nắng Nửa đêm sáng quá tôi nào hay Mùa Xuân vừa nguôi cay đắng Xin rũ tóc dài lên gối trắng Người yêu nằm mộng thấy tôi về Xin gọi tên tôi dù xa vắng Thịt da ngời ánh lửa tình khuya Mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi Em bé mười lăm năm tóc xoã xuân thì Đời lên mấy vạn lần nhan sắc Đau đớn vô cùng đêm biệt li (“Tuyệt bút,” trọn bài)

Từ kinh nghiệm cõi chết, Hoàng Trúc Ly học được cái nhìn của đạo học huyền diệu Đông Phương. Địa dư hôm nay không còn những hoang vu, không còn sa mạc, không còn hải đảo, nhãn trường không còn phối cảnh. Nhưng chúng ta phải tạo một khoảng cách bên bờ cuộc sống.

Hoàng Trúc Ly sống được quan niệm ấy dễ dàng hơn người thường nhờ một biệt đãi của số mệnh: những lần chết dở, những lần giao thiệp với ma quái bên kia bóng tối, Hoàng Trúc Ly đạt đến một vị trí xa cuộc đời, vị trí của kẻ “ngoài đời“ , outsider theo tiếng Anh. Dường như Nguyễn Gia Thiều dùng chữ ngoại vật trong Cung Oán.

Từ vị trí ấy, Hoàng Trúc Ly đã cởi được cái nhìn sáng suốt(5) để đạt tới cái nhìn trong suốt(6). Đối chiếu hai trạng thái trong suốt

111

Page 124: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

và sáng suốt là đối chiếu hai khả năng thu nhận ánh sáng của tâm hồn.

Ý thức sáng suốt dựa vào niềm tin ở luận lí, và từ chối tình cảm, an ủi, nhớ nhung, từ chối u hoài. Một đồng tử sáng suốt không thu nhận vết bợn của tình yêu. Ý thức trong suốt, trái lại, làm bằng chiều dày của từ bi, khoan dung, trìu mến; đối với một ý thức trong suốt, hay thông suốt, chân lí không phải là một công thức, mà là phương cách trả lời cuộc đời, một nghệ thuật sống.

Thơ Hoàng Trúc Ly có cái bình thản âu yếm của kẻ đã đạt tới đạo, hiểu theo nghĩa Đông Phương: y hồ thiên lí, nhân kì cố nhiên. Văn chương hiện đại là một thứ văn chương sáng suốt, nghĩa là một thứ gương phản chiếu. Thơ Hoàng Trúc Ly trái lại chỉ là một khối thuỷ tinh, không trả lại hình ảnh nào, không đón đợi mà cũng không phải là không đón đợi, chỉ biết thích ứng với tất cả những gì đến với mình. Như thế tâm hồn Hoàng Trúc Ly đã đạt đến hạnh phúc tối cao, đã liên hợp được cái ngã và cái vô ngã trong sự thong dong không bờ bến.

Do đó, thơ Hoàng Trúc Ly, không mang những kí hiệu "tuyệt vọng" của thi ca thời đại. Thật ra, trên đời này không có "văn chương tuyệt vọng", vì lí do giản dị là tuyệt vọng luôn luôn câm nín, không tình tự, không thở than. Tuyệt vọng chỉ là một trong những cái cớ của văn chương, ghép lại, "văn chương tuyệt vọng" lại là… mâu thuẫn danh từ.

Hoàng Trúc Ly thản nhiên, và còn mỉm cười:

… Nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh (“Ca sĩ, 2”) … Xuôi tay xin gởi miệng cười mộng du… (“Hành trình, 4”)

Trong một cuốn sách nhỏ nhan đề là "L’ Humeur” (Thần Thái")(7) R.Escarpit có phân tích nụ cười thành hai giai đoạn:

112

Page 125: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

yên nghỉ trước thực tại, và vượt lên để chinh phục lại thế quân bình, an ninh, ưu thắng; nụ cười là ý thức lướt tới, từ hoang mang đến tự chủ. Nụ cười trong văn chương hiện đại rất hiếm hoi và quý giá:

"Ôi nụ cười, cánh ưng vàng trên cát bỏng" O rire, gerfaut d’or sur nos sables brulés

(Saint-John Perse)

Trong bộ Thẩm mĩ học, Hegel đã cho tiếng cười như là thể hiện cùng cực của ý thức nghệ thuật, tiếp theo sầu muộn: trong sầu muộn còn luyến nhớ, ước mong. Vị trí nụ cười là bên kia nước mắt: "Đó là lúc những khả năng về hình thức và nội dung đều khô cạn, chỉ còn người nghệ sĩ muốn xác nhận sự hiện diện của mình bằng một thể hiện cuối cùng" (Hegel). Nụ cười ghi nhận biên giới tuyệt đối không thể vượt qua, giới hạn sau những buồn đau và phẫn nộ: bên kia là quê hương yên lặng…

Tuy nhiên, nụ cười không phải là tâm trạng tĩnh tại của Hoàng Trúc Ly. Thi sĩ chỉ "khoác" nụ cười, hay chỉ "gửi" nụ cười: bao gồm cả những trạng thái của tâm tư, nụ cười vẫn chỉ là một vòng tròn ngoại tiếp. Nụ cười mới chớm đã chìm vội trong hư không: dường như là biểu hiện của hư vô, rồi gió sẽ mang về trả lại cho hư vô.

Nụ cười sứ giả với ngoại giới – và sứ giả với chính lòng mình – sẽ mở rộng biên giới thanh bình: đi vào Trong cơn yêu dấu là lạc vào một thế giới thân mật nồng nàn, âu yếm. Thế giới của hình người chan hoà trong tạo vật.

Vì Hoàng Trúc Ly đã chọn vị trí ngoại vi: một khách đứng ngoài.

113

Page 126: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Đã phân tích khách tính, thái độ "outsider" của Hoàng Trúc Ly, tưởng cũng nên nhấn mạnh điểm này, đang là vấn đề sôi nổi trong thời đại:

"Chỉ nên trôi nhẹ trên cuộc đời và lướt theo cuộc đời, không nên chìm sâu" theo bài học của Montaigne. Trong một số báo Nouvelle N R F, Maurice Blanchot có nhắc những ý tưởng tương tự của Valéry và Nietzsche, và gợi ý là văn chương hiện đại chỉ nên trôi theo chứ không nên đi sâu.

Dĩ nhiên một số cuồng tín của "chiều sâu", số "triết nhân chiều Chúa Nhựt" sẽ bĩu môi phản đối. Nhưng muốn nhìn trong suốt, hay thông suốt, chẳng những không nên đi sâu, mà còn phải đứng xa. Bàn về sự sáng suốt và trong suốt, J.Onimus viết: "Phải trải qua một cơn hấp hối thật sự của lí trí mới đạt tới cái nhìn thông suốt"(8) tưởng như câu nói này áp dụng rất sít sao vào trường hợp Hoàng Trúc Ly, vì thi sĩ không những đã trải qua cơn hấp hối của lí trí, mà đã qua nhiều lần hấp hối toàn diện con người. Hơn ai hết Hoàng Trúc Ly thông hiểu lí tương đối của lẽ sống, Hoàng không quằn quại trong mặc cảm đen tối của Oedipe; trong ngôn ngữ, Hoàng không hung hăng đi cướp lửa mặt trời như Prométhée. Hoàng không cuồng nộ đi tìm Tuyệt Đối, vì biết rằng con người không vĩnh cửu! Thi sĩ tự nhủ:

"Hồn ơi đừng khát vọng đời sống vĩnh cửu, hãy khai thác môi trường những khả thể" theo một câu cổ văn của Pindare, mà Valéry có trích dẫn một lần trên đầu thi phẩm Nghĩa trang miền Biển (Cimetìere Marin) và Camus trích dẫn thêm một lần ở trang đầu tập tiểu luận Huyền thoại Sisyphe (Le Mithe de Sisyphe).

Nhờ đứng xa cuộc đời, Hoàng Trúc Ly tránh được những thời trang của văn chương. Có khi mỗi buổi chiều thứ bảy, những năm 1960 giới học thức trẻ Sài Gòn khi thức giấc ngủ trưa bỗng "trở thành hiện sinh". Hoàng là một nhà thơ trẻ tuổi mà

114

Page 127: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

vẫn còn tự chủ được lòng mình. Đó là một yếu tố giúp Hoàng Trúc Ly hiện diện thành thật trong tác phẩm.

Và sự hiện diện này vừa gần gũi vừa xa vắng…

sau cơn yêu dấu

Những bài thơ làm sau khi xuất bản Trong cơn yêu dấu báo hiệu một sự đổi chiều trong ngôn ngữ. Trong cơn yêu dấu mang khí hậu lục bát trầm buồn, những sáng tác phần nhiều là thơ tự do.

Tuy nhiên vẫn một thể hiện tao nhã, lễ độ, và vẫn cái nhìn dừng lại bên triền cuộc đời, xem thực tại như "môi giới":

Tên em: Xin mời em chối bỏ tên anh Vì tên em là cuộc đời Ba, bảy, năm, tám, sáu Hai, bốn, chín, mười, mười. Con số có tên, kiếp người có tuổi, Anh già rồi chối bỏ tên anh? Hai chân: Xin mời em đạp lên số mệnh của anh Vì chân em là nhịp bước Anh rớt lại rất thèm tới trước Xin mời em Răng: Xin mời em cắn vào lưỡi anh Vì răng em là giọt sương Sớm mai mở mắt sương chưa tan

115

Page 128: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nên răng em chưa thành giọt lệ Xin mời em Môi: Xin mời em ghì sát môi anh Vì môi em là âm nhạc Em mở môi ra Mùa Xuân cựa mình múa hát Hai tay: Xin mời em tát vào mặt anh Vì tay em là hoa lá Chút ơn cuối cùng xin lễ phép mời em Miệng: Xin mời em cười lên dốt nát của anh Vì miệng em là ánh sáng Anh đui mù giữa tha ma dĩ vãng Xin mời em Tóc: Xin mời em thắt chặt hồn anh Vì tóc em là sợi dây siết cổ Anh le lưỡi ra giã từ đau khổ Xin mời em, mời em! (“Môi giới,” trọn bài)

Những âm vận trữ tình lần lượt chuyển sang một khí hậu hoài nghi. Vẫn thái độ trôi xuôi theo cuộc đời, để tâm hồn đong đưa theo những đợt sóng tình cảm lăn tăn và hạnh phúc chỉ là những viền bọt mỏng. Nhưng lần này Hoàng Trúc Ly giải thích thái độ buông xuôi của mình bằng mối hoài nghi rộng lớn:

116

Page 129: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

“Câu hỏi giáo khoa”

- Bác hỏi tôi đi học để làm gì? - Thưa bác, tôi đi học để… để… để

(Theo "Quốc văn giáo khoa thư" lớp Ba)

- Em hỏi anh trốn học để làm gì? - Vì lời giảng của chim trên cành đó Khi chim nhớ rừng khi rừng nhớ gió Anh nhớ em như miệng nhớ môi hôn Và hàm răng đay nghiến mãi nỗi buồn Xa cách Em hỏi anh chăm học để làm gì? Vì quá nghi ngờ sự thực bên này dãy núi Đường gần nhất chưa hề là đường thẳng Anh đến trường như người yêu ngoan ngoãn Vâng lời dụ dỗ của em Như ngày đêm ngọn thuỷ triều lên xuống Theo lời dụ dỗ của trăng - Em hỏi anh đi học để làm gì Thế kỉ này đầy những danh từ lớn Những trẻ – thơ – trí – thức những trí – thức – trẻ – thơ Nghĩa là anh đi học Để suốt đời bơ vơ

Một ít bài thơ chưa giúp ta có được ý niệm rõ ràng về ý thơ và tiếng thơ của Hoàng Trúc Ly trong tương lai. Nhưng muốn biết một người sau khi nói đến dĩ vãng và hiện tại, tưởng cũng nên hé mở khung cửa vào mai sau.

Từ một trái tim thanh niên giàu tình cảm đến tâm hồn nghịch lữ trưởng thành ngoài thềm cuộc đời, đế tư tưởng hoài nghi đang mỉm cười với thân phận, thiết tưởng Hoàng Trúc Ly đã gửi đến bằng hữu nguyên vẹn những biến chuyển trong tâm

117

Page 130: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

hồn. Tôi vẫn chưa tin là Hoàng Trúc Ly người khách quen thuộc của cuộc sống lại muốn giã từ "môi – giới":

Con số có tên kiếp người có tuổi Anh già rồi chối bỏ tên anh

cây đàn muôn điệu

Trong văn học quốc ngữ và hiện đại, chỉ có thi ca là nhiều lần hoá thân nhất. Từ Hàn Thuyên đến Tản Đà, qua bảy trăm năm dâu biển, thi ca Việt Nam ít thay đổi hơn giữa khoảng năm mươi năm từ Tản Đà đến Thanh Tâm Tuyền.

Chỉ năm mươi năm, thi ca bao lần hưng phế. Ngày nay đọc văn xuôi của một Trọng Lang hay Tô Hoài còn thấy thích, chứ đọc thơ Anh Thơ hay Đoàn Văn Cừ có lẽ phải cực khổ lắm. Ngược lại nếu độc giả Nam Phong và Đông Dương Tạp chí sống dậy, đọc tiểu thuyết Doãn Quốc Sĩ hay Dương Nghiễm Mậu họ còn chịu được, chứ đến đọc thơ Trần Thanh Hiệp hay Tô Thuỳ Yên chắc họ phát điên.

Sự kiện văn nghệ này không riêng gì ở Việt Nam mới có. Ở Pháp cũng vậy, người Pháp còn chuộng tiểu thuyết của Balzac hay Stendhal, nhưng nếu đề nghị họ đọc Lamartine hay Musset họ sẽ mỉm cười…

Qua những lần thoát xác, thi ca lại chịu những chu kì; ví dụ ở Tây phương, sau cơn sóng siêu thực xô bồ, hiện nay thi ca đang trở lại làm tiếng hát trong trẻo. Làm thơ rất khó từ chối ảnh hưởng những trường phái đồng thời. Phản ứng lại với đương thời đã là chịu ảnh hưởng.

Hoàng Trúc Ly rất trẻ, nhưng ít chịu ảnh hưởng những thi sĩ đồng thế hệ và luôn luôn tìm những giá trị mới trong hình thức

118

Page 131: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

cũ: "đôi giầy chật thường buộc phải khám phá những vũ điệu mới" theo lời Valéry. Nhưng thơ ông có ít nhiều hơi hướm thơ thời kì chống Pháp thời gian đầu, 1947- 1950.

Ví dụ thất ngôn là một thể thơ cũ, Hoàng Trúc Ly đã sử dụng một nhạc tính mới, ngay từ hồi mới tập làm thơ. Bằng cách xen kẽ nhịp thất ngôn luật 4/3 và nhịp 3/4 trong thơ dân gian, nguồn gốc thể song thất:

Ánh sáng hôm nay buồn thủ đô Bước chân em không hẹn không hò Buổi chiều nắng ngủ trên hè phố Ánh sáng lênh đênh hờn thủ đô

Người yêu ơi nước mắt chưa lau Từ đêm qua mê sảng bắt đầu Buổi chiều nắng chết trên hè phố Ánh sáng về đâu ai biết đâu…

Thơ thất ngôn luật thường theo nhịp 4 – 3:

Qua đỉnh đèo Ngang/ bóng xế tà

(Bà Huyện Thanh Quan)

Các thi sĩ làm thơ mới thỉnh thoảng có tạo được một nhạc tính lạ, vẫn tôn trọng tiết tấu cổ điển:

Nhị hồ/ để bốc/ niềm cô tịch Không khóc/ nhưng mà/ buồn hiu hiu

119

Page 132: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

(Xuân Diệu)

Chỉ xin trích dẫn những câu bảy chữ tân kì nhất, chứ thật ra, trong thơ Việt Nam, những câu như trên khá hiếm. Trái lại, trong thơ Hoàng Trúc Ly, ngoài âm giai mới, còn có tiết tấu lấy lại nhịp song thất:

Người yêu ơi/ nước mắt/ chưa lau Từ đêm qua/ mê sảng/ bắt đầu

Nhịp so le này thường tạo nên cảm giác dang dở, trầm buồn như những câu thơ nhịp lẻ (vers impairs) của Verlaine.

Trật tự bằng trắc trong câu thơ cũng bị xáo trộn mà vẫn giữ nguyên nhạc tính dồi dào. Trừ bài "Nhị hồ" của Xuân Diệu mà tôi đã trích hai câu ở trên thường thường các nhà thơ chuyên lối thất ngôn rất trọng trật tự bằng trắc dù trong những bài có âm điệu mới mẻ nhất, như "Vạn Lí Tình" của Huy Cận:

Người ở bên trời ta ở đây Chờ mong phương nọ nhớ phương này Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm Vạn lí sầu lên núi tiếp mây

Trong thơ bảy chữ, chữ thứ hai và thứ sáu, bằng trắc luôn giống nhau; một bằng, một trắc sẽ bị khổ độc, Hoàng Trúc Ly trái lại dùng âm thanh đối nhau mà vẫn êm ái:

Từ đêm qua mê sảng bắt đầu

120

Page 133: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ở những vị trí bất luận (nhất, tam, ngũ) tuy là bất luận, âm bằng hay trắc luôn cân đối, Hoàng Trúc Ly trái lại dùng âm thanh lạ mà vẫn êm ái:

Mùa thu không gió em không về.

Cuối cùng là niêm, Huy Cận, trong bốn câu trên giữ niêm rất đúng, ít khi thi sĩ Việt Nam thoát niêm. Bài "Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một trường hợp hiếm hoi, trái lại Hoàng Trúc Ly thường thoát niêm, dùng câu bằng nhiều hơn:

Ngày quen em phượng đỏ môi son Chiều tiễn đưa lá rụng dép mòn Từ mang ly biệt vào năm tháng Thao thức cho bằng mấy núi non…

Thơ bảy chữ Hoàng Trúc Ly từ âm thanh cho đến tiết tấu thường tạo ra những cảm giác mới mẻ và tươi mát nhờ những âm giai tinh tế.

Thơ tám chữ cũng vậy: nhịp cổ điển của thơ này là 3 – 2 – 3:

Em sợ lắm/ giá băng/ tràn mọi nẻo Trời đầy trăng/ lạnh lẽo/ suốt xương da

(Xuân Diệu)

Hoàng Trúc Ly dùng nhịp giản dị hơn, không mới, nhưng lạ, êm ả

121

Page 134: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ôi những đêm dài/ heo hút ngoại ô Gác trọ vào thu/ gió thổi giang hồ

Các nhà thơ tiền chiến thỉnh thoảng vẫn dùng một tiết tấu mới, nhưng cầu kì , bác học quá, nên giảm ít nhiều sự luân lưu tự nhiên của nguồn thơ. Ví dụ câu này của Xuân Diệu:

Tôi đi/ giữa buổi đầu ngày/ đi giữa Buổi đầu Xuân/ đi giữa buổi đầu tiên

Trái lại Hoàng Trúc Ly tìm những tác dụng vừa mới giản dị, bình thường. Ngôn ngữ trực tiếp hơn, gợi cảm hơn, tương tự như một bản đàn.

Và một bản đàn không câu nệ âm thanh, những câu bảy và tám chữ xen kẽ vào nhau, và âm giai tự nhiên đến nỗi không tinh ý sẽ không thấy sự xen kẽ:

Rồi một hôm tôi về xóm nhỏ Ngày già nua tóc mẹ phơ phơ Tôi nói xôn xao tôi nói đợi chờ Như tự bao giờ bây giờ quyến luyến.

Tóm lại trong thơ Hoàng Trúc Ly, âm thanh mềm mỏng, dễ uốn nắn. Nhạc tính chơi vơi, uyển chuyển, nhờ Hoàng Trúc Ly khéo điều hoà tác dụng thơ thất ngôn luật Đường và thơ bảy chữ dân tộc trong thể song thất, một biên giới mông lung, cho nên trật tự bằng trắc, niêm luật nhịp điệu cơ hồ co giãn một cách hài hoà.

122

Page 135: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Thi ca Việt Nam phải ghi nhận nơi đây một giai điệu mới.

Thơ tự do Hoàng Trúc Ly cũng êm ái như vậy. Nói đến thơ tự do là nói đến một nhạc điệu ương ngạnh, ngổ ngáo, phá phách. Nhưng thơ tự do Hoàng Trúc Ly êm ả như ca dao, điều hoà như thuỷ triều:

Anh đến trường như người yêu ngoan ngoãn Vâng lời dụ dỗ của em Như ngày đêm ngọn thuỷ triều lên xuống Theo lời dụ dỗ của trăng.

(“Câu hỏi giáo khoa”)

Nhưng Hoàng Trúc Ly thành công nhất trong thể thơ lục bát. Thơ sáu tám, cấu trúc cố định, nên káo co giãn như các thể thơ khác. Không thể kiến tạo một nhạc tính mới cho hình thức thi ca kiên cố ấy: chỉ có thể phổ những giá trị mới của từ vựng vào tiết điệu đã có sẵn, phải đi sang địa hạt từ pháp.

Tôi ơi tôi mãi tôi còn Trái tim bé nhỏ nỗi buồn chung thân Nhớ gì vết cỏ bàn chân Lối đi thơ dại đêm gần tịch liêu.

(“Hành trình 5”)

Kĩ thuật thơ lục bát của Hoàng Trúc Ly là không có kĩ thuật. Bốn câu thơ hầu như là không có mĩ từ pháp, âm điệu lục bát lại cổ điển. Nhưng không ai từ chối được giá trị của bốn câu này. Vậy thi tính ở đâu?

Có lẽ ở âm điệu vừa giản dị vừa tinh tế. Trong bốn câu chỉ có hai chữ giàu âm lượng là "buồn" và "liêu" còn là những âm

123

Page 136: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

thanh sáng sủa , bình dị, ngắn ngủi. Con người tự tình với chính mình: ngôn ngữ trực tiếp, trong sáng.

Nhưng có lẽ chưa ai hài lòng về lời giải thích này. Trong thi ca, mỗi chữ đều có một âm chấn, và những âm chấn cùng một tần số thường tạo trạng thái giao thoa: trạng thái ấy chính là chất thơ trong thi ca.

Những chữ: trái tim, vết cỏ, bàn chân, lối đi, đêm và bé nhỏ, thơ dại như mời nhau; và những chữ: nỗi buồn, chung thân, tịch liêu cũng gọi nhau, những từ ấy là những âm chấn đồng tần số. Và chạm nhau tạo thành một vùng âm hưởng êm đềm, âu yếm.

Mỗi âm thanh thường gợi một vùng âm hưởng đến những chữ chung quanh và khi những âm hưởng ấy ôm ấp lấy nhau, câu thơ trở thành một cơ thể với những tế bào sống quấn chặt lấy nhau: Chúng tôi gọi một cách cầu kì là đã đạt đến một "mạch lạc hữu cơ". Trong câu thơ:

Trời cao bóng nhỏ dặm mòn chân đi

(“Lá hoa duyên 2”)

Những tế bào tạo thành một cơ thể. Nhất là câu này:

Nửa đêm da thịt quên cài áo khuya

(“Hàng cây bên đường”)

Từ ngữ có âm chấn trong câu thơ, bài thơ và đôi khi trong cả một tập thơ hay trong thi nghiệp.

124

Page 137: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hoàng Trúc Ly thích những khí hậu ẩm thấp, ướt át, nên trong thơ hình ảnh đều mang ít nhiều thuỷ tính, và Hoàng Trúc Ly thường dùng từ ngữ, mà nếu muốn viết theo lối chữ nôm phải kèm theo "bộ thuỷ". Như các chữ: mềm, chảy, chìm, tan, ướt, rã mục, chơi vơi, lênh đênh…

Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi.

(“Ca sĩ 2”)

"Mềm" là trạng thái có khả năng đổi hình thể tự nhiên hay dưới tác dụng của nước. Lão Tử viết "quý nhu", nghĩa là chuộng cái mềm dẻo, và "thủ hư", nghĩa là giữ cái hư không, và Lão Tử đã nói thêm: "Thường khoan dung ư vật": bình thường khoan dung với mọi vật, chúng ta thấy Hoàng Trúc Ly đi rất gần với Đạo giáo: thi sĩ chuộng cái mềm, biên giới giữa chất đặc và lỏng, vì dường như những vật mềm hứa hẹn một chiều sâu. Baudelaire trái lại chuộng những vật rắn như cẩm thạch, kim khí; Jean Pierre Richard bàn luận cho rằng một diện tích rắn tượng trưng cho bức tường bất khả xâm phạm, cả trí thức lẫn trực giác của con người không thể vượt qua, che giấu một thế giới tuyệt đối, hoàn toàn xa lại với con người(9). Chất mềm ngoài ra còn là một khả năng đổi dạng, vì cái nhìn Hoàng Trúc Ly đã khám phá ra tương đối tính của hình thể.

Mùa mưa nghe trời ướt mắt xanh

"Ướt" khác với mềm ở chỗ chỉ là trạng thái của ngoại diện. "Ướt" là sự tương phản giữa chất đặc và lỏng; sự giao tiếp hời hợt dừng lại ở vị trí bên ngoài. Và "mềm", "ướt" là những trạng thái tĩnh tại. "Chảy", trái lại là luân lưu:

125

Page 138: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Bóng em chảy xuống vực sâu mắt buồn

Chảy là đổi cao độ, di chuyển vị trí từ cao đến chỗ thấp hơn, theo độ dốc của thiên nhiên: "thuỷ chi tựu hạ dã", nước chảy xuống chỗ trũng. Hoàng Trúc Ly còn viết:

Như ngày đêm ngọn thuỷ triều lên xuống Theo lời dụ dỗ của trăng

Hoàng có khuynh hướng lướt xuôi theo thiên nhiên, gần giống như chủ trương "thuận vật tính, thượng tự nhiên" của Trang Chu.

Nhưng "chảy" trên ngoại vật, là di chuyển trên một mặt bằng. "Chìm", trái lại là lắng xuống chiều sâu:

Giấc mơ thê thảm bóng chìm đêm sâu

Chìm: từ ngữ gợi một ý niệm mới: ý niệm về trọng lượng. Chìm là di chuyển theo chiều đứng, tìm về đáy của sự vật. "Rụng" trái lại chỉ tìm một thế quân bình xuống mặt phẳng.

Tay xuôi mười ngón rụng sầu

Trong văn chương "chìm" thường diễn tả thất bại (trong khoa học trái lại theo nguyên lí Archimède, là một ưu thế về trọng lực). Chỉ có thất bại mới đi sâu vào đáy tạo vật, phải chăng là kinh nghiệm đau thương của những kẻ thám hiểm chiều sâu cuộc đời ?

126

Page 139: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tuy nhiên, "chìm" vẫn còn giữ được hình thể. "Rã mục" trái lại là bị phân hoá, huỷ diệt:

Xác thân rã mục lời thề

"Rã mục" là thất bại vĩnh viễn dưới tác dụng lâu dài của nước, một ngoại thể thấm đều vào nội chất.

Mềm, ướt, chảy, chìm, rã mục, những từ ngữ thường gặp trong thơ Hoàng Trúc Ly, phản chiếu quan niệm sống, một lối nhìn vào tạo vật. Từ ngữ ấy, trở lại nhiều lần, tạo khí hậu cho thơ Hoàng Trúc Ly, một không khí kín đáo và nhất khí.

Có người sẽ trách chúng tôi chẻ sợi tóc theo chiều dài, nhất là đang nói về hình thức bỗng bàn sang nội dung.

Xin đáp: trong thơ, hình thức và nội dung là một. Phải dùng cái nhìn sâu lắng để tìm nội dung trong hình thức và hình thức trong nội dung, vì một tác phẩm văn nghệ không có hai giá trị khác biệt, mà là một thể hiện duy nhất.

Hoàng Trúc Ly là một nghệ sĩ khéo lựa tiếng đàn. Trong thi phẩm từ ngữ luôn luôn tạo thành một hoà âm tinh tế. Thường những bài lục bát của Hoàng chỉ có bốn câu, nhưng bốn câu ấy tựa vào những âm vọng, âm hưởng hoà hợp lẫn nhau để tạo thành một sinh khí, một cơ thể, một năng lực.

Nghệ thuật diễn tả của Hoàng Trúc Ly đạt đến độ tài tình. Hoàng Trúc Ly phả hơi thở mới vào các hình thức đã già nua. Hoặc bằng nhạc điệu, hoặc bằng từ vựng, Hoàng Trúc Ly chứng tỏ rằng thi ca Việt Nam vẫn còn những kho tàng chưa khám phá.

Hoàng Trúc Ly đến với nhân gian dưới khuôn mặt hào hoa, phong nhã, với thái độ chừng mực của một khán giả, một khách lạ. Nhưng trong cô đơn, ông đã dùng cả tinh lực để pha chế từng màu sắc đậm nhạt, dung hoà từng ánh sáng mờ tỏ, để tạo ra một thế giới thật hơn thế giới chúng ta…

127

Page 140: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

kết từ

Tôi vẫn chưa muốn rời Hoàng Trúc Ly. Thơ Hoàng có chất nhựa giữ người, tâm hồn Hoàng mời gọi triền miên. Thi sĩ than thở:

Những tiếng nói chưa hề được nói

Còn bao nhiêu lời tôi chưa kịp nói về Hoàng? Những đau thương u hoài bàng bạc trong thơ Hoàng, tôi chỉ nói sơ lược. Tôi cũng không nhấn mạnh đến ám ảnh bệnh tật. Và bao nhiêu lời tôi chưa kịp nói, Hoàng Trúc Ly đã trần tình:

"Tôi lớn lên giữa khôi hài của công lí, giữa tật nguyền của luân lí, giữa huỷ hoại của linh hồn. Tôi không hề hổ thẹn khi gục đầu trên những ám ảnh cô độc, ma quái, thú vật, tự tử đang đe doạ đời tôi như những áng mây đen".

Trong thi ca Hoàng Trúc Ly giữ một địa vị đặc biệt. Địa vị của thi sĩ dường như vượt lên hẳn các trường phái thi ca; ngôn ngữ của ông tươi mát, mới mẻ, trong sáng, ở một giai đoạn mà Tây phương cũng đang biến thi ca thành tiếng hát…

Nếu trước Đệ nhị Thế chiến, thơ Tây phương phá phách, bí hiểm bao nhiêu thì trong hai mươi năm gần đây, thi ca muốn bỏ tham vọng tìm tuyệt đối của Mallarmé, bỏ ý định đi "cướp lửa mặt trời" của Rimbaud. Trường phái siêu thực dần dần phá sản, trường phái bí hiểm cũng dần dần im tiếng. Nếu tiểu thuyết và sân khấu tiếp tục tra hỏi cuộc đời, thi ca trái lại ve vuốt cuộc đời bằng những âm thanh óng ả. René Char, Alain Bosquet… ở Pháp; Eugenio Montalo, Umberto Saba… ở Ý; Rafael Alberti, Frederico Garcia Lorca… ở Tây Ban Nha đều góp công đưa thi ca trở lại thời kì giản dị, trong sáng…

128

Page 141: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nhất là Frederico Garcia Lorca, người mà Hoàng Trúc Ly đã bỏ công nghiên cứu và chịu ít nhiều ảnh hưởng về quan niệm nghệ thuật cũng như về ngôn ngữ thi ca, Frederico Garcia Lorca vẫn chủ trương đưa thơ trở lại với dân ca bình dị.

Chỉ ngôn ngữ bình dị mới diễn tả được quan niệm nhân sinh của Hoàng Trúc Ly.

Trở lại bài học Hoàng Trúc Ly, chúng ta mến phục phong thái nghệ sĩ muốn vượt lên trên cuộc đời để nhìn cho "trọn vẹn".

Cô đơn đỉnh núi gần trời

Trước cuộc đời, Hoàng Trúc Ly chỉ đóng vai người khách hào hoa phong nhã. Thi sĩ đã trở lại đời sống thanh thoát của nhà hiền triết Đông Phương. Ngôn ngữ tân kì ảnh hưởng của Tây phương, nhờ đó, đã chắp cánh để bay vút lên cao.

Thơ Hoàng Trúc Ly là một miền siêu thoát.

Đọc thơ ấy sẽ học lại cái nhìn thản nhiên và trìu mến, và nụ cười vừa hiền dịu vừa bình tĩnh.

Trong nhập đề, tôi đã hứa chỉ vẽ chân dung Hoàng Trúc Ly qua một nụ cười và cái nhìn. Có lẽ tôi đã đi quá, hoặc không làm trọn vẹn lời hứa.

Bây giờ, khi giã biệt thi nhân tôi xin tri kỉ giữ hai nét trên một nhân diện đã khắc sâu kí hiệu của Nghệ thuật và Định mệnh: nụ cười trong và đôi mắt sáng.

ĐẶNG TIẾN

(Sài Gòn – 1964)

129

Page 142: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ghi chú:

- Bài này viết cho một cuốn sách không được xuất bản, về sau đã đăng trong tạp chí Tân Văn, Sài gòn, số 3, phát hành tháng 7.1968

- Gia đình nhà thơ đã in lại trong thi tập Hoàng Trúc Ly: Khi người lớn từ biệt trẻ con, Nxb Trẻ, Tp HCM, 2008. [nxb Thanh niên]

- Tập Trong cơn yêu dấu, Nxb Hướng Dương in tại Sài gòn, 1963.

- Nhà thơ Hoàng Trúc Ly tên thật là Đinh Đắc Nghĩa, sinh tại Đà Nẵng, ngày 14 tháng 4 năm 1933, mất tại Sài gòn ngày 23 tháng 12 năm 1983 sau một tai nạn lưu thông.

- Đọc lại và ghi chú tại Đà Nẵng, Tết Kỉ sửu, ngày 25 tháng 1 năm 2009.

(1) beauté plastique.

(2) poésie charnelle.

(3) poésie érotique.

(4) littérature et sensation, Editions du Seuil, 1954.

(5) regard lucide.

(6) regard limpide.

(7) Collection Que Sais-Je, 1960.

(8) Face au monde actuel, Nxb Desclee de Brower, 1962.

(9) Poésie et profondeur, Editions du Seuil, 1955.

130

Page 143: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hoàng Trúc Ly [1933-1983]:

Hành Trình Phiêu Bạt Của Một Thiên Tài Thi Ca.

- Phan Bá Thuỵ Dương -

Nhiều người chỉ biết Hoàng Trúc Ly qua những bài thơ đăng trên các báo, các tạp chí từ 1955 và về sau là thi tập duy nhất: Trong cơn yêu dấu của anh, do nhà xuất bản Hướng Dương trên đương Lê Lợi ấn hành năm 1963, do hoạ sĩ Trịnh Cung vẽ bìa. Tác phẩm thi ca này còn khiêm nhường hơn nhiều so với số trang trong tập thơ Bi ca của Hoài Thương – người phụ trách trang thơ của bán nguyệt san Thời nay phát hành một năm trước. TCYD chỉ vỏn vẹn có 38 trang với 22 bài thơ in trên khổ giấy lớn 21×25cm.

Còn về sách, theo tôi, chỉ riêng trong năm 1967 anh đã cho ấn hành – ít nhất, 2 tác phẩm văn là Tiếng hát lang thang và Huyền sử một kiếp hoa. Ở hải ngoại tôi còn biết một tác phẩm khác của anh là cuốn Trạng Quỳnh cũng đã được một nhà xuất bản ở Houston – TX in lại vào năm 1984. Chưa kể những tập truyện cổ tich, truyền kì, sách thiếu nhi… hấp dẫn, luôn lối cuốn độc giả do các chủ nhà in người Tàu cho phát hành từng kì hàng tuần trong thập niên 60 và đầu 70.

Đó là giai đoạn các loại truyện từng kì này được phát hành rộng rãi, bán với giá rẻ, nên rất ăn khách. Nhất là những truyện của Nghiêm Lệ Quân, Người Khăn Trắng, Sa Giang TTK, Anh Thuần tức Hoàng Long … Chỉ riêng truyện Lời thề trong đền rắn và Ma hời của Anh Thuần cùng các truyện võ hiệp Tây sơn nhạn của Sa Giang TTK cũng đã được một ông chủ người

131

Page 144: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hoa tại đường Phan Đình Phùng, gần trường Aurore cho tái bản mấy lần trong 2 năm 67-68. Sách các thể loại bình dân này thường được bán đứt. Người viết lấy tiền một lần, nên các ông “xì thẩu” kia tha hồ in đi in lại mà các tác giả không vì thế được chia hưởng thêm tiền tác quyền cho mỗi kì tái bản.

Cũng như Trần Tuấn Kiệt, sách của HTL viết cũng thường giao cho ông Khai Trí vì ông này là mạnh thường quân chính của 2 người. Không phải người chủ nhà sách lớn này luôn luôn cho in ấn các tác phẩm của 2 anh, mà vì thấy họ luôn thiếu thốn nên ông tìm cách trợ giúp, ngay dù cả khi họ “ham vui” quên cả việc sáng tác, nhất là HTL. Bởi từ đầu thập niên 60 ngoài việc thích rượu anh còn dấn thân vào việc “hít-tô-phe” tức nằm bên bàn đèn “hít cho phẻ” với ông Ngọc Tú – tức nhà văn Ngọc Thứ Lang, người dịch cuốn Bố già rất nổi tiếng và được nhiều người hâm mộ thời bấy giờ.

Hoàng Trúc Ly tên thật là Đinh Đắc Nghĩa, sinh năm 1933 tại Đà Nẳng, nguyên quán Bình Định. Nghe nói sau khi đậu bằng tú tài Pháp [Baccalauréat complet] anh đã ghi danh vào trường Luật, nhưng chẳng được bao lâu thì bỏ học vì không khí chật hẹp, nóng bức, chẳng thoải mái của các giảng đường. Anh là người trầm lặng, hiền hoà, ít thố lộ về cuộc đời riêng tư của mình và gia đình. Nhưng khi gặp bằng hữu thân thiết thì anh cười, mừng ra mặt, ánh mắt sáng ngời. Theo tôi, có thể bởi anh thường sống cô độc, trầm tư một mình, nên sợ cô đơn, cần có bạn bè để hàn huyên cho vơi bớt khoảng trống trong tâm tư.

Dù thân phụ anh là cụ Đinh Thúc Kiện có nhà ở trong khu Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến trên đường Cống Quỳnh hay sau này anh thuê gác trọ bên đường Nguyễn Cư Trinh, HTL vẫn hay đi bộ lang thang, độc hành dưới bóng chiều tà rồi tiện đường thì ghé ngủ đêm với bạn bè. Anh là người giao du rộng rãi, quen biết gần như hầu hết các văn nghệ sĩ, lại được họ quý mến bởi tánh hiền lành, chân thật của anh, nên mọi người ai

132

Page 145: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

cũng vui vẻ sẳn sàng tiếp đón. Chẳng hạn như nhà Hoài Điệp Tử ở khu Bùi Viện, nhà anh Phượng Hải ở khu Lò Gốm – Bình Tiên, Hồ Thành Đức ở Phan Thanh Giản, Trần Tuấn Kiệt ở đường Phan Đình Phùng… và thỉnh thoảng ngủ lại nhà tôi khi quá chén. Những lần như vậy thì sáng tinh sương anh đã bỏ đi trong khi tôi còn đang ngon giấc.

Kế đình Phú Thạnh không xa có ông giáo Tư người Long An, ngâm rượu thuốc, rượu mít nướng – mà anh và Kiệt luôn cho rằng rượu của ông giáo này rất thơm ngon, đậm đà. Nên mỗi khi có mặt anh Anh Thuần hay tôi ở nhà là anh tha hồ uống. Anh Việt Thu, hai anh Phạm Lê Phan và Tường Linh cũng thích và khen 2 loại rượu “nước mắt quê hương” này. Tôi thì chịu không dám thử, vì ngửi qua cũng biết độ rượu rất cao, cay nồng. Bởi vậy khi phải đối tửu thì các anh ấy khề khà cạn sạch 3, 4 chung tôi cũng chưa nốc xong ly 33 của mình. Tôi còn một điều dở nữa là rất kị mấy món “mộc tồn hay nai đồng quê”, thịt rùa, rắn, tiết canh, trong khi các anh coi là các món nhắm khoái khẩu, cao cấp. Do đó anh Phạm Lê Phan – người lớn tuổi nhất trong đám, thường mắng đùa: “Chơi với cậu chán bỏ mẹ. Đi câu thì bị cá chê mồi, uống với nhau thì cậu sợ món này món nọ, chẳng được cái tích sự gì cả. Người gì mà nói hoài mà cũng không biết phục thiện.”

Tửu lượng của tôi thuộc hạng rất tồi do đó thân hữu thường liệt, cho là hạng “lục lục thường tài”. Trong khi những bạn thơ, văn khác của anh đều là các tay hũ chìm, hũ nổi mà tôi chẳng mấy khi dám gặp, vì sợ kiểu uống liên tu bất tận của nhiều vị kiện tướng trong số các tay văn nghệ sĩ này. Chẳng hạn như: Trần Tuấn Kiệt, Phan Yến Linh, Hoài Điệp Tử, Nguyễn Thụy Long, Phạm Quốc Bảo, Bùi Ngọc Tuấn, Dương Trữ La [Tâm Đạm], Khánh Giang, Phượng Hải, Anh Thuần, Anh Hợp, Tạ K‎ý‎, Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Ngọc Liên, Hải Phương, Hồ Thành Đức, Tô Kiều Phương, Hoàng Thắng, Nguyễn Thu Minh, Anh

133

Page 146: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Việt Thu, Thiên Hà, Lâm Tường Dũ, Trần Xuân Thành, Phương Triều…

Vả lại trước năm 71 tôi còn bận quân vụ, lại chỉ là kẻ viết lách tài tử, làm báo tuỳ hứng bằng nghề tay trái. Khác hẳn với đa số các anh kể trên là dân viết chuyên nghiệp. Vì thế tôi chẳng mấy khi góp mặt trong các cuộc vui đông người. Năm 72 sau khi tôi được chuyển về làm công chức không lâu, thừa dịp chính phủ ra nghị định bắt buộc quân nhân, công chức nếu muốn tiếp tục hành nghề báo chí thì phải xin phép, tôi ngưng luôn. Dù lệnh này chỉ mang tính chất tượng trưng, chẳng có mấy người tuân thủ. Từ đó tôi ít gặp lại anh em vì sợ sẽ bị rủ rê trở lại trò chơi văn nghệ mà tôi đã hết hứng thú. Ngay cả với các anh HTL,Tường Linh, Du Tử Lê, Tô Thuỳ Yên, TTK là những người tôi rất thân kính.

HTL tuy ít nói nhưng tính dể chịu, thường hay kể chuyện vui, tích lạ, nên 2 đứa con tôi và cô cháu gái giúp việc cho gia đình tôi rất thích. Mỗi lần bác Hoàng tới nhà là cháu gái này mừng rỡ, lo phục dịch chu đáo, cả những lúc tôi vắng nhà. Cũng có khi anh đi biền biệt vài ba tháng không trở lại. Nhớ anh tôi chỉ cần chạy đến quán café Năm Dưỡng nằm bên góc Nguyễn Thiện Thuật – Hồng Thập Tự, gần nhà Tam Ích tiên sinh là có thể gặp anh. Nếu không thì ở các quán bên lề dọc theo các đường Gia Long, Phạm Ngũ Lão, Võ Tánh hoặc khu chợ Đủi… Đó là những địa điểm anh thường đến chung vui cùng thân hữu.

Buổi trưa khi cảm thấy trống vắng, anh thường vào nằm nghỉ trên ghế đá trong công viên Tao Đàn – góc đường Lê Văn Duyệt và Hồng Thập Tự. Nghe anh em cho biết HTL ngoài viêc viết sách, đôi khi còn làm việc bán thời gian cho CLB Cercle – tức sân quần vợt sát bên công viên này và sau lưng dinh Độc lập. Anh chẳng đề cập đến, nên tôi cũng chẳng hỏi.

134

Page 147: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

●●●

Hoàng Trúc Ly qua đời ngày 23 tháng 12 năm 1983 [nhằm ngày 20 tháng 11 âm lịch] tại Sài gòn vì một người lái xe bất cẩn đụng phải khi anh băng qua đường Bùi thị Xuân.

Mặc dù giao du thân thiết với HTL nhiều năm tôi chỉ vừa được biết tên thân mẫu anh là bà Đào Tiểu Tố – bút hiệu Như Cúc. Bà là cháu nội của vị danh sĩ Đào Tấn [1845-1907], Bà được sinh ra tại Bình Định năm 1910 và hiện sống tại SG. Dưới đây là bài thơ bà Đào đã làm để thương khóc con:

Ngày giỗ con (Đắc Nghĩa Hoàng Trúc Ly)

Gió bạt mưa ngàn con ở đâu Nắng hanh ngọn cỏ chắc con sầu Con ơi! mẹ nhớ ngày sum hiệp Dáng trẻ thân gầy áo sổ bâu. Đắc Nghĩa con ơi đã mất rồi Ớ tình ớ cảnh ớ con ơi Trở trời trái nắng ai săn sóc Trẻ dại con đành bỏ mẹ thôi. Mồ con mẹ đã xây rồi Thôi thì con rán ngủ đi thôi Ngàn thu vĩnh biệt con xa mẹ Tóc bạc da mồi đã vắng con. [Đào Tiểu Tố]

135

Page 148: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Em gái anh là cô Đinh Thị Xuân Hương tức nhà thơ Đinh Hương vừa qua đã gom góp thơ anh để xuất bản mà tên sách nghe thật lạ lùng: Người Lớn Từ Biệt Trẻ Con. Trong thi tập mới này có một số thơ mà người xuất bản cho rằng đó là các tác phẩm của HTL chưa phổ biến. Tôi đọc qua vài bài và nhận thấy không giống phong vị của anh bao nhiêu nên không đề cập đến. Cô này cũng có vài tác phẩm đã ấn hành tại SG. Quanh HTL có nhiều huyền thoại về cuộc sống của anh và những nhân vật nữ trong các bài thơ của anh, nhất là nhân vật Hoàng Lan mà anh ví von là “hoa của trăm hoa”:

Hoàng lan

Có phải em đang gỡ tóc Cho mây từng sợi rối chân chim Có phải hoa bay đầy cánh bướm Vì em thay áo mái tây hiên Ôi mới hôm nào như hôm qua Tay ai bùa phép nắm đôi ta Như hốt mùa Đông hơ ngọn lửa Cho tuyết đầu non chảy máu ra Ôi mới hôm nào như hôm kia Con đường chở nặng những đêm khuya Cho nên bóng tối bay thành khói Ánh mắt mờ sương lạc lối về Ôi có hôm nào là hôm nay Anh ghen vì gió đã choàng vai Em đi như vẽ trên đường nắng Em nói như đàn trong miệng ai

136

Page 149: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Anh là dòng sông mơ chín suối Em là mặt trăng thèm mặt trời Cách trở bốn mùa vây trái đất Còn nghe đau xót thuở nào nguôi?

Hoạ sĩ Hồ Thành Đức cho biết anh đã từng đi cùng HTL đến nhà cô nữ sinh này. Cô sống tại Gò Vấp và đặc biệt là có mái tóc rất dài và óng ả, mượt mà, nhưng nhan sắc thì chỉ “thường thường bậc trung”. Đến đó họ Hoàng không vào mà chỉ đứng lặng lẽ ngoài đường ung dung nhìn vào. Còn một giai thoại khác mà nhiều người thường nhắc nhở đến sau khi 2 bài thơ lục bát tuyệt hảo dưới đây ra đời:

Ca sĩ 1

Từ em tiếng hát lên trời Tay xao dòng tóc tay vời âm thanh Sợi buồn chẻ xuống lòng anh Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau Trời em tiếng hát lên từ Âm ba tóc rối lững lờ vòng tay Áo dài lùa nắng vào mây Dấu chân hồng nhạn rụng đầy gió sương

Hai bài thơ ngắn này nhiều người cho là HTL viết tặng nữ ca sĩ Thanh Thuý – hình minh hoạ trên, tranh vẽ chân dung TT của nữ hoạ sĩ Thanh Trí. Bởi từ đó về sau, giới báo chí, văn nghệ đã đặt cho giọng ca Thanh Thuý nào là Tiếng hát liêu trai, Tiếng hát khói sương. Bên cạnh Tiếng hát lên trời của HTL còn

137

Page 150: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

có Tiếng hát lúc không giờ là danh hiệu mà nhà văn Mai Thảo đã tặng cho cô ca sĩ có giọng ca đầm ấm quyến rũ này.

Nhưng cũng có người cho là anh viết về nữ ca sĩ Thái Thanh. Tôi và Trần Tuấn Kiệt đã yêu cầu anh xác nhận, nhưng HTL chỉ mỉm cười nhỏ nhẹ đáp: “thơ moa làm xong ai muốn nhận là moa viết tặng riêng họ thì cũng chẳng sao, càng tốt.” Riêng anh Anh Thuần thì cho rằng 2 bài thơ trên HTL viết tặng một nữ danh ca khác mà tôi không tiện nêu tên. Cô này là vợ của một nhạc sĩ nổi danh. Vợ chồng họ là chủ một nhà sách và nhà chuyên xuất bản nhạc lớn, nằm gần đầu đường Trần Hưng Đạo quận 1 mà anh AT chơi rất thân với cả 3 người trong cuộc.

Còn một bài nhị thập bát tú khác dưới đây mà có người cho là bài “Ca sĩ 2”:

Mùa Xuân còn gì, thưa em? Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi Cô đơn đỉnh núi gần trời Nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh. Tôi đồng ý với quan điểm của TTK để cho rằng bài này vốn mang tựa “Nghĩ về Tì Bà Hành”. Thiển nghĩ những dòng thơ trên diễn tả về một nhạc khí cổ thì đúng hơn là nói về dung nhan ca sĩ. Nhưng cũng không biết chừng chính anh HTL tự sửa lại tên bài thơ. Bởi nhiều tác giả cũng hay làm điều này sau khi thơ mình phổ biến một thời gian. Nhuận sắc, thay thế một số chữ, vài câu trong bài thơ là chuyện thường thấy, do đó ngay một bài thơ đôi khi chúng ta thấy có đến mấy dị bản.

Thơ HTL có nhiều bài đầy chất sáng tạo, mới mẻ, mang sắc thái tuyệt mĩ, xuất thần với những thi ngữ hay mĩ từ pháp, thi ảnh tinh khôi, sống động. Thơ anh nhiều nhạc tính, âm vận uyển chuyển dể rung cảm. Thơ HTL còn chan chứa chất lãng

138

Page 151: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

mạn trữ tình và tiềm tàng ‎‎‎ý niệm hoài nghi ray rứt, ngậm ngùi, đôi khi ẩn lộ nét phóng đảng, an nhiên:

Hành trình

1. Tôi nay đi giữa hoang đường Niềm đau thân thể tủi buồn hai vai Giật mình ngước mắt tương lai Ngày qua và tiếng thở dài xuống Thu 2. Toa xe cứ khép chân trời Người đi môi đỏ run lời tiễn đưa Tóc dài toả mộng ngày xưa Vết thương kỉ niệm bây giờ lại đau 3. Khuya đi dù biết về đâu Nghiêng vai còn mãi tiếng sầu vọng âm Đường xưa trải nhớ nhung thầm Ngôi sao yểu mệnh căm căm cuối trời 4. Qua đây từng giọt buồn phìền Mắt em cổ thụ thâm xuyên gọi mời Bãi hoang cồn dựng bể khơi Xuôi tay xuống gởi miệng cười mộng du 5. Tôi ơi tôi mãi tôi còn Trái tim bé nhỏ nỗi buồn chung thân

139

Page 152: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nhớ gì vết cỏ bàn chân Lối đi thơ dại đêm gần tịch liêu Nhà thơ Phạm Công Thiện đã từng phát biểu:”Thơ Hoàng Trúc Ly có ma lực kì quái của những câu phù chú. Đối với Hoàng Trúc Ly, ngôn ngữ hãy còn mới tinh. Mỗi chữ đều mang một linh hồn, mỗi chữ là một sinh vật. Tôi gọi Hoàng Trúc Ly là thi sĩ lớn, là nhà thơ bậc thầy của thi ca hiện đại”.

Lời nhận định trên quả đã diễn tả trọn vẹn về thiên tài thi ca của nhà thơ lỗi lạc họ Hoàng tức Đinh Đắc Nghĩa này.

●●●

Trong cơn yêu dấu của anh được ấn hành năm 63 và ra mắt sách tại quán Sing Sing trên đường Phan Đình Phùng. Vì chỉ tổ chức trong vòng thân hữu nên chẳng có bao nhiêu người được tham dự. Theo Hải Phương, người bạn thơ thâm giao của HTL, thì buổi ra mắt sách này đã được tài trợ bởi một nữ thương gia cư ngụ tại Phan Thiết. Vị nữ nhân này vốn là bạn quen thân với thi sĩ Bích Khê và là người rất ái mộ thơ anh.

Khi đề cập đến TCYD học giả Tam Ích – một trong những người sớm phát hiện tài năng cũa anh, đã nói: “Hoàng Trúc Ly đã và đang làm mọi người ngạc nhiên ít nhất là một lần nữa về thiên tài của mình.”

Giờ đây, nhờ mẹ và em gái anh, chúng ta có thể xác định được ngày sinh với tử của anh một cách rõ ràng: Hoàng Trúc Ly sinh ngày 14 tháng 4 năm 1933 và qua đời 2 ngày trước lễ Giáng sinh năm 1983 như đã viết ở trên, chứ không phải như vài cây bút hải ngoại đã nhầm lẫn loan truyền bấy lâu nay là 1937-1985.

140

Page 153: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Tôi quen anh trong một dịp tình cờ. Số là vào đầu năm 1963, vừa lãnh lương xong vừa được nghỉ phép, nên khi từ trường Sĩ quan Trừ bị/ Thủ Đức về tôi bèn chạy ngay đến toà soạn Phổ thông rủ TTK và Nguyễn Thu Minh đi sang tuần báo Ngày mới của nhà báo lão thành Cồ Việt Tử [Nguyễn Duy Hinh] để kéo thêm anh AT đi Kim Sơn. Thu Minh vì là Thư kí Toà Soạn hôm đó lại gặp ngày báo sắp ra nên chỉ có Kiệt theo tôi. Đến báo Ngày mới thì thấy AT và HTL đang ngồi vừa nhâm nhi cà phê vừa đọc báo. Đó là lần đầu tiên tôi quen biết HTL qua sự giới thiệu của anh tôi và TTK. Lúc đó tôi nhận thấy anh hơi gầy yếu, xanh xao, tánh tình hoà nhã, khiêm tốn, dễ thân thiện. Đôi mắt tuy trong sáng nhưng ẩn màu mang mang xa vắng.

Sau khi thôi làm việc một thời gian tại Ohio, đến năm 2005 nhân cơ hội các con tôi vừa cho xây cất xong ngôi nhà mới ở bên kia cầu chữ Y, tôi bay về để xem có thể dưỡng hưu ở Sài gòn hay không, đồng thời giúp thân nhân lo việc dời nghĩa trang dòng họ ra khỏi thị trấn L.H – nơi quê nhà, theo lệnh của chính quyền địa phương.

Gặp lại 2 anh TL và TTK tôi mới biết được Phạm Lê Phan của phòng Văn Nghệ QĐ năm nào đã mất lâu rồi tại một khu Kinh tế mới hẻo lánh trong vùng rừng núi Định Quán. Còn HTL mấy năm sau cũng nối gót “đi” theo kịch tác gia họ Phạm. Trước khi tôi trở lại Hoa kì, TTK và tôi mỗi người đã làm một bài thơ tưởng niệm HTL. Đây là những dòng tôi viết cho anh – một hiền huynh chí tình, mà tôi luôn kính trọng, quý mến:

Bài tưởng niệm Hoàng Trúc Ly

gởi Trần Tuấn Kiệt

Bụi trần phủ áo phong sương Mà người nay đã hà phương thăng trầm

141

Page 154: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Rượu nồng tưởng niệm cố nhân Ngàn chung cay ngọt một lần từ ly Hỏi người, người đã bỏ đi Nằm trong đáy mộ có gì nhớ thương Tóc bồng nẻo vắng cô đơn Một thân lưu lạc u hồn lạnh mê Người xa chưa lạc lối về Sao hiền huynh chẳng chờ nghe đôi lời Ngủ yên Hoàng Trúc Ly ơi Chuyển thân hoá kiếp đời đời cuồng say Rượu ngon còn một chai này Hãy chia nhau chút men cay thâm tình Cõi trần dẫu có điêu linh Cõi hư vô hẳn hồi sinh non Bồng. ●●●

Sau khi biết tin HTL đã nằm xuống tôi cứ nghĩ đến 2 câu thơ mang mang niềm hoài niệm của cụ Vũ Đình Liên:

“Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ ?” Rồi chạnh nhớ tới Anh Việt Thu, Phạm Lê Phan, nhớ những người đã âm thầm ra đi mang theo những kỉ niệm đáng trân quý, khó quên của một đời người. AVT thì vĩnh viễn yên giấc trong một khu vườn xoài tại làng An Hữu, quận Giáo Đức, cách cầu Mĩ Thuận không xa. PLP thì chắc vẫn đang lạnh lẽo nằm

142

Page 155: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

dưới mộ trong một sơn khê vắng vẻ, thưa thớt bóng người. HTL may mắn hơn vì được chôn cất gần thành phố nơi mà gót chân anh đã từng lưu dấu bao năm dài qua những ngày mưa ngày nắng.

Nếu chúng ta tin rằng con người sau khi mất đi phần linh hồn vẫn còn vấn vương nơi trần thế hoặc siêu thoát về một cõi vô minh miên viễn nào đó, thì bây giờ thân xác các anh hẳn đã tan hoá trở thành cát bụi trong lòng đất, vậy thì hồn các anh giờ này đang ở đâu? Họ có còn nhớ đến những ân tình, hệ luỵ trong tiền căn để quanh quẩn, quấn quýt bên những người thân yêu? Hay là họ đã hoàn toàn trút bỏ, quên lãng quá khứ để hồn mình bềnh bồng phiêu bạt theo cỏ nội mây ngàn, vui với tiếng chim hót, gió ru trong cõi an nhiên vô ưu, vô uý?

Tạ Ký tác giả thi tập Sầu ở lại đã từng nhận xét về những vần thơ mang niềm cay đắng như 2 bài không có trong tập TCYD dưới đây của HTL như sau: “Tạ Ký còn can đảm kiên nhẫn viết ra một trang năm ba chục câu thơ. Đến như Hoàng Trúc Ly, ông chỉ viết bốn câu, sáu câu. Ấy bởi vì cái thứ rượu ông dọn ra là cái loại rượu quá chát. Kẻ tửu lượng thượng thừa, cũng chỉ nhấm vài giọt là choáng váng tối tăm mày mặt.”

Ở Sài Gòn Soi gương lạ mặt bao giờ Nửa đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi Ở đây vụng dại với người Nghiến răng nhai mãi nửa lời vô duyên Cõi dấn thân

Tôi còn yêu cho biển còn xanh Mây còn bay cho chim cất cánh

143

Page 156: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Ngựa què rồi em cỡi lưng anh Tôi cứ yêu, khốn nạn, cứ cười Chim cứ bay cho mây gãy cánh Em chết rồi, ai ám sát tôi Nhiều người đã nói, đã phân tích, nhận định về thơ HTL, nên trong bài này tôi chỉ đề cập đến anh qua những giao tình cá nhân, những kỉ niệm một thời giữa tôi và con người luôn phiêu bạt này. HTL là một thi sĩ lỗi lạc, đọc qua thơ anh ai cũng dể cảm nhận những điểm nổi bật, sâu sắc để tự đánh giá sự khác biệt giữa thi ca của anh với thi ca của những người hữu danh cùng thời, trong giai đoạn 50-75.

Viết đến đây tôi nghĩ, tôi có thể mượn những lời nhận định sâu sắc về thơ HTL của nhà phê bình văn học Đặng Tiến để kết thúc bài này:

“… Thơ Hoàng Trúc Ly có cái bình thản âu yếm của kẻ đã đạt tới đạo, hiểu theo nghĩa Đông Phương: y hồ thiên lí, nhân kì cố nhiên. Văn chương hiện đại là một thứ văn chương sáng suốt, nghĩa là một thứ gương phản chiếu. Thơ Hoàng Trúc Ly trái lại chỉ là một khối thuỷ tinh, không trả lại hình ảnh nào, không đón đợi mà cũng không phải là không đón đợi, chỉ biết thích ứng với tất cả những gì đến với mình. Như thế tâm hồn Hoàng Trúc Ly đã đạt đến hạnh phúc tối cao, đã liên hợp được cái ngã và cái vô ngã trong sự thong dong không bờ bến.

…Trong thi ca Hoàng Trúc Ly giữ một địa vị đặc biệt. Địa vị của thi sĩ dường như vượt lên hẳn các trường phái thi ca; ngôn ngữ của ông tươi mát, mới mẻ, trong sáng, ở một giai đoạn mà Tây phương cũng đang biến thi ca thành tiếng hát.

…Trước cuộc đời, Hoàng Trúc Ly chỉ đóng vai người khách hào hoa phong nhã. Thi sĩ đã trở lại đời sống thanh thoát của nhà

144

Page 157: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

hiền triết Đông Phương. Ngôn ngữ tân kì ảnh hưởng của Tây phương, nhờ đó, đã chắp cánh để bay vút lên cao.”

[Đặng Tiến: “Hoàng Trúc Ly: Nụ cười trong và đôi mắt sáng”]

Diễn dịch thêm thơ của người thi sĩ tài hoa, phiêu bạt này – theo tôi – là một điều phí phạm. Phí phạm thêm thì giờ của người đọc.

Phan Bá Thụy Dương

Gặp người em

Những người xưa đi rồi không về nữa Một mình anh lại gặp một mình em Chiều lửng lơ nghe nắng rụng bên thềm Em cúi mặt mắt buồn ươn ướt đỏ Nhà anh nghèo, anh đau tim anh yếu phổi Đời anh lạnh lùng bốn hướng gió và mưa Ta lạc nhau từ em còn bé nhỏ Anh thương em câm nín đến bao giờ. Bởi vì đâu da em xanh giá rét? Nắng rưng vàng lên mái tóc mồ côi Ngày giặc giã quê hương mình mỏi mệt Mười năm qua hình ảnh có ngậm ngùi [*]

145

Page 158: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Nhà anh nghèo, anh đau tim anh yếu phổi Em bềnh bồng, anh phiêu lãng về đâu Không dĩ vãng cho đêm dài đợi sang Không mai sau cho nước chảy qua cầu Em bảo anh người đi không trở lại Nấm mồ ai như giọt lệ chưa tan Ngọn gió nào mang anh vào mộng mị Em giang hồ làm tiếng hát lang thang Ta đến bên nhau sao chùng bước mỏi Lời sắp xé môi sao bỗng nghẹn lời Anh nhớ em: núi cao càng hiu hắt Anh thương em: máu vọt bốn phương trời. [*] Bài đăng trên báo Cải Tạo năm 1956 đến đây là dứt. Theo Trần Tuấn Kiệt 12 câu sau HTL đã làm thêm vào giữa thập niên 60 khi HTL cần phổ biến lại.

Tình đầy

Gió lạnh mười năm lạnh lắm rồi Vườn dâu cô gái hái dâu ơi! Quê hương xa lắm dòng sông lạnh Lẩy bẩy chiều mưa bến lạnh người

146

Page 159: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Xóm xóm nhà ta

Nhớ buổi hoa bay bừng nắng hạ Môi em thơm mãi gió giang hồ Áo thêu màu lá xanh như lá Nhịp lướt nhịp nhàng vai nhấp nhô Giờ đã mấy mùa thu lã chã Đã mấy mùa thu vèo lá bay Thương kẻ một đi là tất cả Năm năm sông nghẹn sóng lưu đày Ôi một mùa Thu đẹp mắt huyền Em về vui hội lá hoa duyên Quê xưa tang tóc tàn đi hết Trong ánh trăng này mộng ngủ yên

[Hai bài cuối này được HTL sáng tác về sau 1963 nên không nằm trong tập thơ Trong cơn yêu dấu]

147

Page 160: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Mục lục các bài thơ theo a,b,c Áo hoa phơi ................................................................................... 28 Ban trưa đón nữ sinh ..................................................................... 62 Bên tê sông ................................................................................... 43 Bóng tối ........................................................................................ 77 Ca sĩ I .......................................................................................... 05 Ca sĩ II ........................................................................................ 06 Cảm đề thơ Hoàng Trúc Ly .......... ................................................. 01 Câu hỏi giáo khoa .......................................................................... 41 Chắp nối ....................................................................................... 12 Chén đắng .................................................................................... 42 Chiều dạo phố ............................................................................... 72 Chứng tích .................................................................................... 22 Cõi dấn thân .................................................................................. 70 Đau .............................................................................................. 75 Đêm huyền diệu ............................................................................ 73 Đêm ............................................................................................. 11 Đêm ............................................................................................. 76 Dĩ vãng ......................................................................................... 61 Đối thoại ....................................................................................... 10 Đường tình .................................................................................... 21 Em đi áo lộng đôi tà gió sương ....................................................... 29 Gặp người em ............................................................................... 13 Giấc mê ........................................................................................ 35 Giấc ngủ ....................................................................................... 64 Gió lúa .......................................................................................... 65 Gọi một mình ................................................................................ 59 Gởi mùa thu .................................................................................. 32 Gửi người em ................................................................................ 68

148

Page 161: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Hai bài thơ không tìm thấy tựa ........................................................ 45 Hàng cây bên đường ..................................................................... 15 Hành trình I ................................................................................. 07 Hành trình II ................................................................................. 08 Hành trình III ................................................................................ 09 Hành trình IV ................................................................................ 25 Hành trình V .................................................................................. 26 Hoàng lan ..................................................................................... 54 Khóc Hoàng Trúc Ly ....................................................................... 37 Lá hoa duyên I .............................................................................. 16 Lá hoa duyên II ............................................................................. 17 Lá hoa duyên III ............................................................................ 18 Lá hoa duyên IV ............................................................................ 23 Lá hoa duyên V ............................................................................. 24 Mật ong ........................................................................................ 53 Môi giới ......................................................................................... 57 Mối tình tiên tri .............................................................................. 71 Mưa chiều nay ............................................................................... 74 Mưa chiều ..................................................................................... 36 Mùa mộng lí (1) ............................................................................. 33 Mùa mộng lí (2) ............................................................................. 34 Mùa Xuân nằm mộng thấy Tam Ích ................................................. 39 Nằm mộng thấy nữ sinh ................................................................. 55 Ngâm thơ Thôi Hộ, nghe nhạc Trầm Tử Thiêng ................................ 78 Người chết không cười ................................................................... 40 Nhân dạng .................................................................................... 52 Nhìn ............................................................................................. 20 Nỗi chết ........................................................................................ 30 Nửa đêm về mẹ ............................................................................. 67 Ở Sài gòn ...................................................................................... 69 Say .............................................................................................. 31 Tắm sông trăng ............................................................................. 38

149

Page 162: Tuyen Tap Hoang Truc Ly

Thời mới lớn .................................................................................. 44 Tiễn .............................................................................................. 63 Tiếp theo và hết ........................................................................... 19 Tình đầy ....................................................................................... 60 Tình khúc nhân gian ...................................................................... 46 Tự thán ....................................................................................... 04 Tuyệt bút ...................................................................................... 27 Về xuân ....................................................................................... 14 Vĩnh biệt ....................................................................................... 56

150

Page 163: Tuyen Tap Hoang Truc Ly