văn hiến hà nam - phần hai - vanhien.vn

434
Phần hai VĂN HIẾN HÀ NAM TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI

Upload: pham-long

Post on 15-Apr-2017

601 views

Category:

Entertainment & Humor


7 download

TRANSCRIPT

Page 1: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

Phần haiVĂN HIẾN HÀ NAM

TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI

Page 2: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn
Page 3: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

73

VĂN HIẾN HÀ NAM CÀNG ĐI SÂU TÌM HIỂU CÀNG THẤY

CUỐN HÚT VÔ CÙNG(ĐỀ DẪN HỘI THẢO)

GS. HOÀNG CHƯƠNG*

Đề tài Văn hiến Hà Nam - truyền thống và hiện đại, tôi đã ấp ủ từ lâu, song mãi đến tháng 9 năm 2013, nhân chuyến tháp tùng Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan về Hà Nam dự Lễ hội đền Bà Vũ, tôi mới có cơ hội đề xuất với Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam Mai Tiến Dũng - nay là Ủy viên TƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam. Chủ tịch Mai Tiến Dũng giao cho Phó Chủ tịch Trần Nga gặp tôi để nghe tôi trình bày về ý tưởng hội thảo này. Và sau đó, một kế hoạch cụ thể về hội thảo văn hiến Hà Nam được chúng tôi soạn thảo và gửi về Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hà Nam. Nhưng mãi đến đầu năm 2015 kế hoạch này mới được thực hiện. Thế mới biết làm văn hóa còn khó hơn làm kinh tế, và dường như văn hóa bao giờ cũng đi sau kinh tế, mặc dù nghị quyết của Đảng đã ghi rõ: “Văn hóa và kinh tế ngang bằng nhau, quan trọng như nhau”.

Được Ban tổ chức phân công viết báo cáo đề dẫn hội thảo quan trọng này, tôi thấy như vượt quá sức mình, vì tôi là chuyên gia nghệ thuật dân tộc, ít chuyên sâu về văn hiến, địa chí nói chung, nhất là Văn hiến Hà Nam - truyền thống và hiện đại.

* Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc VN.

Page 4: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

74

Nhưng khi được Ban tổ chức hội thảo phân công viết báo cáo đề dẫn thì, tôi cố gắng thực hiện trong giới hạn khái quát vấn đề, gợi mở vần đề, còn bàn sâu về Văn hiến Hà Nam thì tôi tin rằng các học giả ở Trung ương và địa phương sẽ bàn sâu hơn, rõ hơn và cụ thể hơn.

Văn hiến Hà Nam - truyền thống và hiện đại là một đề tài hấp dẫn, càng đi sâu tìm hiểu càng thấy cuốn hút vô cùng. Bởi Hà Nam là phên dậu của Thăng Long, cũng là miền địa linh nhân kiệt, mảnh đất trầm tích văn hóa vô cùng phong phú và có nhiều điều mới lạ, xưa cũng như nay. Theo các nhà nghiên cứu thì, Hà Nam là một trong những vùng đất trầm tích trẻ của châu thổ Bắc Bộ, thuộc thời đại đồ đá mới, những di tích được phát hiện gần đây cho thấy dấu tích người nguyên thủy đã xuất hiện tại Hà Nam vào thời kỳ đồ đá mới cách nay khoảng 5.000 năm. Vào thời Hùng Vương, Hà Nam thuộc vùng đất của Bộ Giao Chỉ (thuộc Bắc Bộ ngày nay). Đặc biệt, Hà Nam là một trong những địa phương trên miền Bắc có Trống đồng Đông Sơn nhiều nhất, tiêu biểu là Trống đồng Ngọc Lũ. Từ những năm đầu Công nguyên, người Hà Nam đã tham gia tích cực vào cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống xâm lược nhà Hán. Có tới 60 nhân vật tiêu biểu tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng được nhân dân Hà Nam tôn thờ, trong đó có một số nhân vật mà tôi đã đưa vào vở tuồng lịch sử Trưng Nữ Vương, tác giả Tống Phước Phổ, Lưu Trọng Lư, công diễn từ 1974 cho đến nay. Vở tuồng này đã công diễn trong và ngoài nước gần 40 năm mà vẫn được người xem yêu thích. Trước hết là người xem được nhìn thấy đầy đủ nhất những người phụ nữ đầu tiên của dân tộc mình đánh bại đội quân xâm lược hùng mạnh phương Bắc ở thời kỳ đầu Công nguyên. Người Hà Nam còn tham gia tích cực trong hầu hết các cuộc kháng chiến chống xâm lăng từ thời Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh. Sau chiến thắng phá Tống, bình Chiêm của Lê Đại Hành, Hà Nam cùng Ninh Bình là trung tâm kinh tế chính trị, văn hóa của cả nước. Vua Lê Đại Hành người Hà Nam

Page 5: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

75

không chỉ nổi tiếng là một anh hùng cầm quân đánh bại quân đội nhà Tống mà ông còn là ông vua đầu tiên xuống đồng cày ruộng Tịch điền ở Đọi Sơn, để gần đây, sau khi Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn được khôi phục, các Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, kế thừa truyền thống tốt đẹp đó, được nhân dân vô cùng ngưỡng mộ. Đây cũng là một nét văn hóa đặc sắc ở Hà Nam. Văn hóa Hà Nam trong thời kỳ này cũng được chú trọng cả văn hóa cung đình và văn hóa dân gian. Theo nghiên cứu của chúng tôi thì, Hà Nam là một trong những cái nôi văn hóa dân gian của Đại Việt đang tồn tại rất nhiều loại hình ca múa nhạc đặc sắc, nghệ thuật múa rối nước vẫn được coi là xuất hiện đầu tiên ở Hà Nam với bằng chứng là tấm bia Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Long Đọi Sơn đã ghi dấu vua Lý Thái Tông xem rối nước tại đây. Dấu tích lịch sử này không chỉ có ý nghĩa chứng minh rối nước là loại hình văn hóa dân gian ra đời ở Việt Nam, rất độc đáo, mà nó còn là minh chứng bác bỏ cả ý đồ chiếm đoạt văn hóa của phương Bắc khi cho “múa rối nước có trước từ Trung Quốc” (theo sử sách của Trung Quốc). Rất tiếc là Hà Nam hiện giờ không có phường múa rối nước tiếp nối truyền thống văn hóa của cha ông. Theo tôi, Hà Nam nên phục hồi múa rối nước, vừa để bảo tồn di sản, vừa phục vụ du lịch.

Hà Nam, theo chiết tự và định nghĩa của Nhà thơ Vũ Mão thì, “Hà” là sông, nước; “Nam” là cửa ngõ phía Nam Thăng Long, nơi sinh ra nhiều người tài giỏi, trí tuệ sắc sảo, có nhiều cống hiến cho đất nước. Điều đó đã chứng minh qua chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, từ thời đại Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh.

Văn hiến Hà Nam sinh ra rất nhiều anh hùng dân tộc, tiêu biểu trong số đó là Trần Bình Trọng, nhân vật anh hùng chống ngoại xâm Nguyên - Mông thời Trần với cái chết bất tử. Trần Bình Trọng đã trở thành hình tượng đẹp trên sân khấu truyền thống Việt Nam với câu nói bất hủ: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vua đất Bắc” không những in đậm trong lòng nhân dân Việt Nam mà còn vang mãi trong nhà tù Mỹ - Ngụy, khi

Page 6: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

76

Nghệ sĩ nhân dân Võ Sĩ Thừa (sau Giải phóng miền Nam ông là Đại biểu Quốc hội, Giám đốc Nhà hát Tuồng Đào Tấn) trong thời gian bị giặc Mỹ bắt giam ở nhà tù Phú Quốc, đã đóng vai tuồng Trần Bình Trọng rất thành công, diễn nhiều lần cho tù nhân xem, tạo nên làn sóng đấu tranh chống Mỹ - Ngụy từ năm 1966 đến 1973. Sự kiện này tôi đã viết thành sách (Nxb Sân khấu xuất bản năm 1987) và GS. Nguyễn Thuyết Phong, Việt kiều Mỹ đã xin tôi để dịch ra tiếng Mỹ.

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, từ thời đại Hai Bà Trưng đến thời Tiền Lê, và tiếp nối đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, biết bao anh hùng nghĩa sĩ người Hà Nam như Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành), như Đinh Công Tráng và biết bao anh hùng nghĩa sĩ đã tham gia tích cực trong các cuộc kháng chiến chống xâm lăng mà lịch sử đã ghi chép trong sách vở và truyền tụng trong nhân gian, cũng như tôn thờ trong hàng trăm đền đài miếu mạo khắp vùng đất Hà Nam và ở nhiều địa phương khác. Thật là thú vị khi nhắc tới chiếc Trống đồng Ngọc Lũ và lá Cờ đỏ sao vàng đều do con người Hà Nam tạo nên. Di tích lịch sử - văn hóa, lễ hội truyền thống, và nghệ thuật biểu diễn dân gian dày đặc trên mảnh đất chiêm trũng Hà Nam - cái nôi của vùng văn hóa sông Hồng đã phần nào cho chúng ta thấy được bề dày của lịch sử oai hùng của miền đất văn hiến ngàn năm này. Như Mahatma Ganđi nói: “Nền văn hóa của một Quốc gia nằm trong trái tim và tâm hồn của nhân dân”. Nhân dân Hà Nam tự hào về miền “đất võ trời văn” của mình nên đã có ca dao:

“Ngàn năm võ vật đua tài. Vạn năm sông núi rộng dài tổ tiên…”. Đứng trước Ngũ Động Sơn (ở Kim Bảng), nhà thơ Vũ Mão

tức cảnh thành thơ:“Thấp thoáng chiều Thu Ngũ Động SơnBên dòng sông Đáy trúc xanh rờnĐền xưa ẩn khuất nơi thanh vắngThánh thót chuông chùa vọng khúc ngân…”.

Page 7: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

77

Tổ tiên người Hà Nam, tổ tiên dân tộc Việt, không ngừng rèn chí luyện tài để bảo vệ giang san, Tổ quốc. Có biết bao người con Hà Nam ưu tú đã ngã xuống mảnh đất miền Nam vì tự do độc lập của Tổ quốc mà các nhà văn, các nhà sử học đang vinh danh.

Như đã nói trên, cách đây hai năm, trong dịp đi cùng Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan về dự lễ hội đền Bà Vũ ở huyện Lý Nhân, tôi có cơ hội thấy được phần nào sinh hoạt văn hóa rất đẹp, rất phong phú, đầy thánh thiện của con người Hà Nam, rồi đi sâu tìm hiểu thêm mới thấy văn hóa, văn hiến Hà Nam thật là đẹp, thật là hấp dẫn, từ văn hóa phi vật thể đến văn hóa hữu thể. Con người Hà Nam xưa và nay đều mang tâm hồn và phong cách thuần Việt hồn nhiên và chân thật thể hiện cả trong những người phụ nữ bị oan khiên như nàng Vũ Thị Thiết được nhân dân tôn thờ và từ lâu đã trở thành nhân vật đẹp trong nhiều vở chèo, tuồng, cải lương được biểu diễn khắp đất nước với nhiều tên vở khác nhau: Chiếc bóng oan khiên, Thiếu phụ Nam Xương, Nỗi oan tình…Có thể nói, ba nhân vật người Hà Nam là Trần Bình Trọng, Lê Hoàn và Vũ Thị Thiết đã có sức sống lâu bền nhất trên sân khấu cả nước trong nhiều thập kỷ qua.

Đề cập tới Văn hiến Hà Nam không thể không nhắc đến những ngôi sao, những bậc thầy sân khấu truyền thống như các NSND Bạch Trà, Dịu Hương, Lê Huệ… Là người làm nghệ thuật sân khấu, tôi được sống gần gũi, quen biết với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng quê ở Hà Nam như NSND Bạch Trà, NSND Dịu Hương cùng các NSND Lê Huệ, NSND Lương Duyên… Đó là những nghệ sĩ bậc thầy sinh ra trên cái nôi văn hóa Hà Nam, được hun đúc trong cái nôi nghệ thuật dân gian, với đủ các loại hình chèo, tuồng, hát chầu văn, hát xẩm, ca trù, hát đối… NSND Bạch Trà vừa là bậc thầy nghệ thuật tuồng (bà từng làm Giám đốc Nhà hát Tuồng Bắc, đã từng xuất hiện trên sân khấu Châu Âu), bà còn hát chèo và hát cải lương, bộ môn nào bà cũng xuất sắc, là bậc thầy của những bậc thầy hôm nay như các NSND Lê Tiến Thọ, Mẫn Thu, Đàm Liên. Cũng vậy, NSND

Page 8: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

78

Dịu Hương, ngôi sao sáng chói trong làng chèo Việt Nam, cũng sinh ra và lớn lên trên cái nôi văn hóa Hà Nam, hun đúc tích lũy vô vàn vốn liếng từ nền dân ca, dân vũ đặc sắc trên cái nôi văn hóa này. Từ những năm 30 đến những năm 70 (thế kỷ XX) NSND Dịu Hương đã sáng tạo ra không biết bao nhiêu làn điệu chèo, lớp chèo, vai chèo đặc sắc mà đến nay và cho tới mai sau nữa vẫn là bài học mẫu mực cho các thế hệ kế tiếp, như các lớp chèo: Xúy Vân giả dại, Thị Mầu lên chùa, Tuần Ty - Đào Huế…

NSND Lê Huệ cũng sinh ra bên bờ sông Châu hùng vĩ, hấp thụ văn hóa dân gian, từ một diễn viên lên Trưởng đoàn chèo Nam Hà, lên Giám đốc Sở Văn hóa, rồi lên Phó Chủ tịch tỉnh. Ông là một nghệ sĩ không những sáng tạo nhiều vai chèo nổi tiếng mà còn dàn dựng thành công nhiều vở chèo gây tiếng vang lớn trong ngành sân khấu nước nhà, như vở Cô gái làng chèo, Cô lái đò Sông Vị, v.v… Nay ông là Trưởng lão trong Làng chèo cả nước, mới đây đã cùng chúng tôi được Chủ tịch nước tiếp tại Phủ Chủ tịch. NSND Lương Duyên, nguyên là Giám đốc Nhà hát chèo Hà Nam có một nét đẹp đặc trưng miền gạo trắng nước trong, lại có một giọng hát chèo hay đến mê hồn. Phải chăng đó là kết tinh của sự hun đúc từ một nền văn nghệ dân gian vô cùng phong phú trên miền đất văn hiến ngàn năm này. Cùng thế hệ với Lương Duyên còn có nhiều tài năng khác nữa, tạo nên điểm sáng chèo Hà Nam trong làng chèo cả nước (chèo Hà Nam hát hay nhất).

Đề cập tới văn học nghệ thuật Hà Nam, không thể không nhắc tới Nguyễn Khuyến một tài năng thơ đã để lại nhiều tác phẩm hay, trong đó có bài Mục hạ vô nhân đã trở thành tiết mục chính trong làng hát Xẩm. Và Nam Cao, ngôi sao sáng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại với những kiệt tác như: Chí Phèo, Sống Mòn, Đôi mắt…Thế hệ tiếp theo là Huy Thục, Ngô Quốc Tính, Nguyễn Đình Bảng,… đã có những tác phẩm âm nhạc đi cùng năm tháng. Về mặt lý luận, không thể không nhắc tới Hoàng Tùng - nguyên Bí thư Trung ương Đảng,

Page 9: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

79

Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương. Tất cả những tài năng văn hóa văn nghệ Hà Nam đều sinh ra từ cái nền văn hiến, cái nôi văn hóa lâu đời và phong phú Hà Nam.

Văn nghệ dân gian Hà Nam cũng vô cùng phong phú, không chỉ về mặt thể loại mà còn đặc sắc về giai điệu và ca từ. Với nội dung đầy ắp tính nhân văn và lời ca đậm đặc chất trữ tình. Thật khó ở đâu có được những bài dân ca hay, như bài Ba quan mời trầu - dân ca Hà Nam:

Nam: Ba quan i một chiếc thuyền nam i,Có về là về với hội (có) gái ngoan gái ngoan tầm chồngNữ: Ô mấy dẫu tình rằng anhNam: Cô cả cô hai nay đấy ơi.Nữ: Anh cả anh hai nay đấy ơi.Nam: Ba quan i một chiếc là chiếc thuyền rồngCó về là về với hội (có) cái công cái công đi tìmNữ: Ô mấy dẫu tình rằngNam: Cô cả cô hai có biết không?Nữ: Anh cả anh hai vẫn còn không?Nam: Ba quan i một chiếc là chiếc thuyền khôngCó về là về với hội (có) bến sông bến sông bãi bồiNữ: Ô mấy dẫu tình rằngNam: Cô cả cô hai ớ làng ĐôiNữ: Anh cả anh hai ớ làng Chanh.Nam: Ba quan i một chiếc là chiếc thuyền mành iCó về là về là về với hội (có) cái danh cái danh với đờiNữ: Ô mấy dẫu tình mờiNam: Cô cả cô hai ra hát chơiNữ: Anh cả anh hai ra hát chơi.Nam: Ba quan i một chiếc là chiếc thuyền không,Có về là về với hội (có) bến sông (có a) con thuyềnNữ: Ô mấy dẫu tình rằng anh cả anh hai nay có duyên.Nam: Cô cả cô hai nay có duyên.Cả hai: Ô mấy dẫu tình rằng, ô mấy dẫu tình ơi!...

Page 10: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

80

Nam: Trên trời có đám mây xanhCó con ngựa bạch chạy quanh i gầm í trờiNữ: Ô mấy dẫu tình rằng, ô mấy dẫu tình ơiNam: Đôi ta muốn lấy nhau chơiNhưng cái duyên không định thì trời không xeNữ: Ô mấy dẫu tình rằng, ô mấy dẫu tình ơi.Nam: Những nơi tít tắp bờ tre (ô mấy dẫu tình ơi)Nhưng cái duyên cứ định, trời xe anh vào (Ô mấy dẫu tình

rằng, ô mấy dẫu tình ơi)Nam: Ba đồng (Ba đồng) một sợi chỉ đào (một sợi chỉ đào)Áo vóc không vá, vá vào áo tơiNữ: Ô mấy dẫu tình ơiTủi lòng ì thiếp lắm chàng ơi, dẫu rằng lên ngược xuống xuôi

lỡ làng.Cả hai: Ô mấy dẫu tình rằng, ô mấy dẫu tình ơi, Ô mấy dẫu

tình rằng, ô mấy dẫu tình ơi(Nói tự do): Gặp chàng dưới ánh trăng thanh,Xin mời ăn miếng trầu xanh thắm nồng.Trầu xanh, cau trắng, tranh hồng.Đẹp duyên phải phận tơ hồng trời xe…Dạ! Xin mời anh cả anh hai ăn với em một miếng trầu….Nam: Ăn một miếng trầu, gặp đây ăn một miếng trầu,

không ăn ơ cầm lấy í không ăn ơ cầm lấy í cho nhau bằng lòngTrầu này trầu tính trầu tình, trầu này trầu tính í trầu tình.. Ăn vào cho đỏ ăn vào cho đỏ môi mình, môi ta, miếng trầu

là miếng trầu vàng.Nữ: Đứng ở đằng xa, yêu nhau i đứng ở đằng xaCon mắt liếc lại í con mắt liếc lại í bằng ba đứng gầnNam: Anh cũng còn sonNữ: Em cũng còn son. Anh còn son i, em cũng ư còn son iCả Hai: Ước gì ta được, ước gì ta được í làm con một nhàNữ: Em về thưa với mẹ cha

Page 11: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

81

Nam: Anh về thưa với mẹ chaCả hai: Ta về thưa với mẹ cha…Chỉ qua một bài dân ca Ba quan mời trầu, đã thấy một nét

văn hóa đặc sắc ở Hà Nam, con người Hà Nam xưa sống gắn liền với các dòng sông hiền hòa, với các loại thuyền nan, thuyền mành, thuyền rồng, với bến nước, bờ tre và tình người , tình yêu cũng bắt nguồn từ đó rất táo bạo mà cũng rất tế nhị bằng những ngôn từ chân chất mà có duyên, có văn hóa, cái văn hóa ứng xử rất đẹp mà thanh niên bây giờ cần nên học để giao tiếp và tỏ tình:

“Đứng ở đằng xa, yêu nhau đứng ở đằng xaCon mắt liếc lại bằng ba đứng gầnAnh còn sonEm cũng còn son. Ước gì ta được làm con một nhàEm về thưa với mẹ chaAnh về thưa với mẹ cha…”Văn hóa tình yêu, văn hóa gia đình ngày xưa đẹp như vậy,

nhưng mà ngày nay đã dần biến mất, tức là chúng ta đang mất một phần hồn, một nét đẹp của dân tộc.

Lời ca đẹp, giai điệu đẹp lại được thể hiện qua giọng hát Hà Nam thì còn gì cuốn hút cho bằng.

Hà Nam miền đất địa linh nhân kiệt, sáng tạo nên những di sản văn hóa đặc sắc, sinh ra những tài năng văn hóa đầy cá tính như Nguyễn Khuyến, Nam Cao.

Tôi tin rằng các nhà nghiên cứu ở đây, đặc biệt là GS. Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan - người con ưu tú của Hà Nam đã thấy rõ hơn tôi và sẽ bàn sâu hơn tại Hội thảo này. Ngay cả những vấn đề về lịch sử và văn hóa dân gian mà tôi vừa nêu trên cũng chỉ là gợi mở mà thôi. Rất mong các học giả, các nhà nghiên cứu tập trung phân tích sâu về chủ đề “Văn hiến Hà Nam - truyền thống và hiện đại”.

Xin cảm ơn!

Page 12: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

82

CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở HÀ NAM

NGUYỄN XUÂN ĐÔNG *

Hà Nam là một vùng đất cổ nằm ở phía Tây Nam đồng bằng Bắc Bộ. Cách nay trên dưới 5.000 năm, người Việt cổ đã tụ cư và khai thác vùng đất này. Thời kỳ một nghìn năm Bắc thuộc, vùng đất Hà Nam lúc thuộc huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ (thời Hán), lúc thuộc quận Vũ Bình (thời thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương), lúc thuộc huyện Long Bình (thời thuộc Tùy, Đường).

Khi đất nước bước vào thời kỳ độc lập, tự chủ (thời Đinh, Tiền Lê ở thế kỷ X), một số địa danh của Hà Nam như Núi Đọi đã được ghi chép trong sử sách. Thời nhà Lý, Hà Nam thuộc lộ Đại La thành. Thời Trần, Hà Nam thuộc châu Lỵ Nhân, thuộc lộ Đại La thành. Châu Lỵ Nhân gồm có các huyện: Bình Lục, Cổ Bảng, Cổ Giả, Cổ Lễ, Lỵ Nhân và Thanh Liêm. Thời Lê Sơ, Hà Nam thuộc Nam đạo. Vùng đất Hà Nam là phủ Lỵ Nhân thuộc thừa tuyên Sơn Nam. Năm Hồng Đức thứa 21 (1490), bỏ thừa tuyên, đặt đơn vị hành chính xứ, phủ Lỵ Nhân thuộc xứ Sơn Nam, đến năm Hồng Thuận (1509-1516), bỏ xứ đặt trấn, phủ Lỵ Nhân thuộc trấn Sơn Nam Thượng. Thời Tây Sơn, Hà Nam vẫn là phủ Lỵ Nhân thuộc trấn Sơn Nam Thượng, gồm 5 huyện là Duy Tiên, Kim Bảng, Nam Xương, Ninh Lục, Thanh Liêm. Thời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), Hà Nam

* Phó Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam.

Page 13: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

83

gọi là phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nội gồm 5 huyện với 33 tổng (gồm 286 xã, thôn, trang, phường, trại, sở).

Sau khi toàn bộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ trở thành đất bảo hộ của Pháp, ngày 20/10/1890, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về việc thành lập tỉnh Hà Nam - một tỉnh mới trên cơ sở phủ Lý Nhân được mở rộng thêm về phía Hà Nội và Nam Định.

Sau nhiều lần tách, nhập thành Hà Nam Ninh, Nam Hà, ngày 1/1/1997, tỉnh Hà Nam đã được tái lập, mở ra một trang mới trong lịch sử tỉnh Hà Nam. Đây là sự kiện quan trọng gắn liền với thời kỳ phát triển mới của tỉnh, với nhiều thuận lợi, song cũng không ít khó khăn.

Tỉnh Hà Nam hiện nay, phía Bắc giáp Hà Nội, phía Nam giáp Ninh Bình, phía Đông giáp Hưng Yên, Thái Bình, phía Tây giáp Hòa Bình; có diện tích tự nhiên 851,7km2, chia làm 5 huyện và 1 thành phố; Tổng dân số của tỉnh là 827.639 người (kết quả điều tra năm 2006), theo hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Hà Nam là cửa ngõ phía Nam của Thủ đô Hà Nội; nằm bên Quốc lộ 1A, có đường sắt Bắc - Nam chạy qua; các tuyến đường thủy: sông Đáy, sông Hồng, sông Châu, sông Nhuệ tạo điều kiện thuận lợi cho Hà Nam giao lưu với các tỉnh.

Hà Nam được biết đến với kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể hết sức phong phú.

Lịch sử hình thành mảnh đất Hà Nam trù phú ngày nay là lịch sử đấu tranh, khai phá vùng ô trũng hạ lưu sông Hồng của Đồng bằng Bắc Bộ. Thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia, với biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu đã đổ xuống để đắp nên những con đê trong, đê ngoài, đê bao, đê bối ngăn nước lũ Sông Hồng, Sông Đáy,…vào mùa mưa, chống hạn vào mùa nắng. Cùng với thời gian, sự đoàn kết, tinh thần dũng cảm và đức tính cần cù, chịu khó của bao thế hệ người Hà Nam đã biến vùng đất trũng hạ lưu sông Hồng thành những cánh đồng mênh mông bát ngát của các huyện Duy Tiên, Lý Nhân, Bình Lục, Thanh Liêm, Kim Bảng đã mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.

Page 14: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

84

Bên cạnh nghề nông, người Hà Nam còn rất khéo tay, làm nên những công cụ lao động, vật dụng hàng ngày, theo năm tháng, đã hình thành nên những làng nghề thủ công nổi tiếng, như: Mây giang đan Ngọc Động (Duy Tiên), gốm Quyết Thành - Đanh Xá (Kim Bảng), sừng mỹ nghệ Đô Hai (Bình Lục), thêu ren Thanh Hà (Thanh Liêm), dệt Nha Xá, trống Đọi Tam (Duy Tiên),…Hà Nam cũng là địa phương có nhiều sản phẩm nông nghiệp, các món ăn đặc sản, như: Chuối ngự Đại Hoàng (xưa dùng để tiến vua), hồng Nhân Hậu, quýt cơm Văn Lý, cá kho Hòa Hậu, bánh đa Chều (Lý Nhân), đậu Đầm, bún Tái (Phủ Lý), rượu Vọc (Bình Lục), rượu Bèo (Duy Tiên)…

Mặc dù Hà Nam còn gặp nhiều khó khăn, nhưng đến nay, công tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Đã có 10 đề tài, dự án nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của Hà Nam thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia đó là: Múa hát Dậm Quyển Sơn, Múa hát Lải Lèn, Hội vật võ Liễu Đôi, Làng trống Đọi Tam, Dệt lụa Nha Xá, Sừng mỹ nghệ Đô Hai, Hát Trống quân, Nghề đan cót, Vật cầu An Mông, Nghề gốm Quyết Thành. Đã khôi phục nhiều trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca đặc trưng, các làng nghề truyền thống, như: Hát Chèo (Kiện Khê, Thanh Liêm), hát múa Lải Lèn làng Nội Chuối (xã Bắc Lý, Lý Nhân), chiếu chèo làng Ngò (xã Đức Lý, Lý Nhân)… Nghiên cứu phục hồi trò chơi dân gian múa rối nước của thôn Nội Rối, múa rối cạn của thôn Chương Lương (xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân).

Nhiều công trình văn hóa đã được xuất bản thành sách như các cuốn: Địa chí Hà Nam, Thi tuyển danh sĩ Hà Nam, Hát Dậm Quyển Sơn, Nhân vật lịch sử Hà Nam, Tuyển Thơ Hà Nam, Tuyển Văn xuôi Hà Nam, Văn hóa Dân gian Hà Nam, Hoàn vương ca tích…

Để tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể, Hà Nam đã triển khai “Chương trình Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể” trên địa bàn toàn tỉnh.

Page 15: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

85

Trên cơ sở kiểm kê, phân loại, tỉnh đã đề ra hướng nghiên cứu, sưu tầm một cách có hệ thống và lâu dài các di sản văn hóa phi vật thể của địa phương.

Lễ hội truyền thống trong các làng quê của Hà Nam cũng vô cùng phong phú, được tổ chức thường niên, nhiều lễ hội truyền thống đã được khôi phụ đáp ứng nhu cầu văn hóa tín ngưỡng tâm linh của nhân dân trong và ngoài tỉnh. Trong các lễ hội còn giữ được nhiều trò chơi phản ánh tín ngưỡng cổ xưa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước (như: trò vật cầu ở lễ hội đình An Mông (xã Tiên Phong, Duy Tiên); trò cướp cầu ở lễ hội đình Gừa (xã Liêm Thuận, Thanh Liêm); lễ hội thả diều (xã Hòa Hậu, Lý Nhân) và nhiều trò chơi khác như đánh đu, chọi gà, múa rồng, múa lân… Đây là những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể có ý nghĩa quan trọng, phản ánh sinh động lịch sử dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Hà Nam. Tiêu biểu nhất trong việc phục dựng lễ hội ở Hà Nam đó là Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, Lễ hội Phát lương Đức Thánh Trần ở đền Trần Thương.

Trong kho tàng di sản văn hoá phi vật thể của Hà Nam, còn có các loại hình như: phong tục, tập quán, tri thức dân gian, trò chơi dân gian, tài liệu Hán - Nôm, truyền tích, ca dao, tục ngữ…vô cùng phong phú.

Bên cạnh kho tàng văn hóa phi vật thể thì kho tàng văn hóa vật thể trên mảnh đất Hà Nam cũng rất đa dạng, có giá trị lịch sử. Dấu tích của người nguyên thủy đã xuất hiện tại Hà Nam vào hậu kỳ thời đồ đá mới cách nay khoảng trên dưới 5.000 năm. Các công cụ bằng đá của Văn hóa Hòa Bình như cuốc, rìu, khuyên tai… thu được khá nhiều ở Hà Nam là minh chứng rõ cho điều ấy. Dấu tích về người Việt cổ tụ cư và khai thác vùng đất trũng Hà Nam ngày nay, như: Duy Tiên, Lý Nhân, Thanh Liêm, Bình Lục... thể hiện ở hang Chuông, hang Gióng Lở (xã Thanh Nghị, huyện Thanh Liêm), và hàng chục ngôi mộ thuyền với các hiện vật tùy táng như mũi tên, mũi giáo, nhíp gặt lúa, thạp, thố bằng đồng… đã được phát hiện qua các cuộc

Page 16: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

86

khai quật khảo cổ học ở các xã Đọi Sơn, Yên Bắc (huyện Duy Tiên). Dấu tích văn hóa Đông Sơn để lại trên đất Hà Nam khá nhiều, đặc biệt là 19 trống đồng (Trống thôn Đoài, Trống Tượng Lĩnh, Trống Vũ Xá, Trống Kim Bảng…), trong đó có chiếc Trống đồng Ngọc Lũ - biểu tượng rực rỡ nhất của nền văn hóa Đông Sơn, một Bảo vật Quốc gia hiện được lưu giữ ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, và phiên bản của nó được đặt trang trọng tại Tòa nhà Liên hợp quốc (Mỹ).

Trên đất Hà Nam còn lưu giữ được rất nhiều cổ vật quí hiếm mang giá trị lịch sử, văn hóa cao, tiêu biểu như: Tượng Kinari mang phong cách Chăm Pa ở chùa Đọi, Sách bằng đồng có tên “Khâm ban đồng bài” hay còn gọi là “Cầu không từ kí” (ở Văn An, Bắc Lý, Lý Nhân) là cuốn sách đồng cổ nhất Việt Nam, Bảo vật Quốc gia bia “Sùng Thiện Diên Linh” - một trong những tấm bia quý còn lại của triều đình nhà Lý…

So với một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng, Hà Nam là tỉnh có số lượng di tích khá lớn. Mật độ di tích tương đối dày đặc, được phân bố đều khắp ở hơn 1200 thôn xóm. Với trên 1.784 di tích (trong đó có 551 ngôi đình, 490 ngôi chùa, 306 ngôi đền, số còn lại là miếu, phủ, văn chỉ, từ đường) thờ những anh hùng dân tộc, những người có công với dân, với nước trong chống ngoại xâm, truyền nghề, dạy nghề,…đã nói lên những trang lịch sử hào hùng của Hà Nam. Trong các di tích trên, có nhiều di tích có kiến trúc quy mô, nghệ thuật chạm khắc độc đáo, tiêu biểu như: Chùa Long Đọi Sơn có niên đại thời Lý, Đền Trần Thương- dấu tích một kho lương thời Trần, Đình Chảy (xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm), Đền Trúc - Ngũ Động Sơn (xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng), Từ đường Nguyễn Khuyến, Đình Vị Hạ, Đình Đồng Du Trung, Đền Trần Thương, Đình Văn Xá, Đình Hoà Ngãi, Đình An Hoà, Chùa Quế Lâm, Đền Trúc, Chùa Bà Đanh.....đã có trên 160 di tích, cụm di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Đặc biệt là Bia Sùng Thiện Diên Linh (có niên đại đầu thời Lý) đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là “Bảo vật Quốc gia”.

Page 17: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

87

Công tác tu bổ, tôn tạo chống xuống cấp di tích được quan tâm thường xuyên. Ngoài Chương trình mục tiêu Quốc gia về bảo tồn di tích, hàng năm Hà Nam đã huy động từ 20-30 tỷ đồng do nhân dân và các tổ chức xã hội đóng góp để tu bổ, tôn tạo di tích. Nhờ vậy, đã có gần 80 di tích có giá trị tiêu biểu về lịch sử-văn hoá ở Hà Nam được tu bổ, tôn tạo; trong đó có 11 di tích được đầu tư tu bổ lớn, gồm: Chùa Long Đọi Sơn, Từ đường Nguyễn Khuyến, Đình Vị Hạ, Đình Đồng Du Trung, Đền Trần Thương, Đình Văn Xá, Đình Hoà Ngãi, Đình An Hoà, Chùa Quế Lâm, Đền Trúc, Chùa Bà Đanh...Qua đó, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, tìm hiểu về văn hóa địa phương của khách tham quan, nhân dân địa phương đồng thời phát huy giá trị di tích.

Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam đã chỉ đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nam phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tổ chức nhiều đợt điều tra thám sát khảo cổ học tại các huyện Thanh Liêm, Duy Tiên, Kim Bảng; đặc biệt là tại quần thể di tích danh thắng Đọi Sơn (huyện Duy Tiên). Thông qua các cuộc nghiên cứu, khai quật khảo cổ đã thu được nhiều hiện vật, tư liệu có giá trị và đưa về lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh và trưng bày tại điểm di tích.

Song song với công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa quí báu mà các vị tiền nhân để lại, tỉnh Hà Nam đã từng bước xây dựng và đưa vào sử dụng nhiều thiết chế văn hóa mới từ tỉnh đến cơ sở.

Bảo tàng tỉnh Hà Nam được xây dựng khang trang, hiện đang lưu giữ trên 4.000 hiện vật, tài liệu gốc, quý hiếm đã và đang từng bước đưa vào trưng bày phục vụ khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, học tập và nghiên cứu.

Thiết chế văn hóa, thể thao luôn được tỉnh quan tâm đầu tư: Hệ thống thư viện, Nhà văn hóa, Trung tâm văn hóa hình thành từ tỉnh đến huyện. Đặc biệt Nhà thi đấu đa năng tỉnh được đầu tư xây dựng với quy mô lớn, hiện đại đáp ứng được nhu cầu tổ chức các giải thể thao trong nước và khu vực.

Page 18: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

88

Các cơ quan truyền thông của tỉnh như: Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, 6 đài phát thanh huyện; Báo Hà Nam, 3 tạp chí chuyên ngành là: Tạp chí Sông Châu (của Hội VHNT Hà Nam), Tập san Văn hóa Thông tin (của Sở VH-TT&DL) và Tạp chí Người làm báo Hà Nam (của Hội Nhà báo tỉnh Hà Nam). Hệ thống báo chí trên trong thời gian qua đã có nhiều hoạt động tuyên truyền, quảng bá về vẻ đẹp, những giá trị văn hóa Hà Nam tới cộng đồng; tuyên truyền về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá Hà Nam, qua đó góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí vai trò và ý thức trách nhiệm của mỗi người trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là một trong bốn nhóm giải pháp lớn được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ khi phát động cho đến nay, phong trào đã được tỉnh Hà Nam triển khai thực hiện ngày càng sâu rộng trong toàn tỉnh, thực sự trở thành một cuộc vận động văn hóa lớn, có tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đến năm 2014, toàn tỉnh có 87,4% gia đình dạt tiêu chuẩn “Gia đình văn hóa”, 82,3% Khu dân cư đạt tiêu chuẩn văn hóa.

Triển khai thực hiện tốt Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, toàn tỉnh hiện có 28,1% dân số tập thể dục thể thao thường xuyên; 22,9% gia đình thể thao, vượt chỉ tiêu Nghị quyết. Tổ chức thành công Đại hội Thể dục thể thao lần thứ IV của tỉnh; đăng cai 4 nội dung của Đại hội thể dục thể thao Toàn quốc lần thứ VII. Thể thao thành tích cao, các môn thể thao có ưu thế của địa phương được quan tâm đầu tư và bước đầu đạt được một số kết quả tích cực (như: Đội tuyển Bóng đá Nữ U19 Hà Nam đã nhiều lần đạt thành tích cao tại giải vô địch bóng đá U19 Quốc gia và thường xuyên có từ 9 đến 10 cầu thủ tham gia đội tuyển bóng đá nữ Quốc gia).

Page 19: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

89

Cùng với cả nước, những năm qua Hà Nam đã và đang triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng Nông thôn mới, một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đưa nông thôn nước ta phát triển toàn diện, bền vững cả về chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội - an ninh trật tự; Qua đó không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của người nông dân. Trong Chương trình xây dựng Nông thôn mới, Văn hóa là 1 trong 5 nội dung/nhóm công việc phải triển khai được qui định cụ thể ở 2/19 tiêu chí, đó là tiêu chí về “Cơ sở vật chất văn hóa”, và tiêu chí “Văn hóa”.

Những phong trào trên đã góp phần tạo nên bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác tư tưởng, giáo dục đạo đức và lối sống, tăng cường tình đoàn kết gắn bó trong các tầng lớp nhân dân, phát huy truyền thống tốt đẹp ở mỗi làng quê tỉnh Hà Nam. Đó cũng là một nhân tố góp phần phát triển kinh tế, xã hội, bồi dưỡng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH, và hội nhập kinh tế toàn cầu.

Hà Nam có lợi thế là vị trí chiến lược quan trọng, kề cận Thủ đô Hà Nội; có quan hệ hữu cơ với các điểm du lịch quan trọng trong vùng và có tài nguyên du lịch đa dạng về chủng loại, đặc biệt tài nguyên du lịch nhân văn: Từ đường Nguyễn Khuyến, Khu tưởng niệm nhà văn liệt sĩ Nam Cao. Về tài nguyên du lịch tự nhiên, Hà Nam được thiên nhiên ban tặng nhiều cảnh quan đặc sắc với những thắng cảnh nổi tiếng trong nước như: Hồ Tam Chúc, Ngũ Động Sơn, Hang Luồn, Bát Cảnh Tiên. Đặc biệt hệ thống sông hồ dày đặc với vẻ đẹp thơ mộng của sông Hồng, sông Đáy, Núi Đọi - Sông Châu… cùng với hệ sinh thái nông nghiệp vùng chiêm trũng điển hình là những nét độc đáo, có khả năng cuốn hút cao trong xu thế đô thị hóa hiện nay.

Để phát huy những lợi thế trên, xây dựng ngành “Công nghiệp không khói”, tạo dựng thương hiệu riêng cho du lịch Hà Nam; năm 2012 Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà Nam đến năm 2020, tầm nhìn

Page 20: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

90

2030: Triển khai quy hoạch các điểm, khu du lịch trọng điểm: Chùa Bà Đanh, Tam Chúc - Ba Sao, Đền Trúc - Ngũ Động Sơn, Chùa Đọi, Đền Trần Thương, Đền Lảnh Giang, Khu tưởng niệm Nhà văn Nam Cao.

Trên cơ sở Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Nam đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt; năm 2012 Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch phát triển văn hóa, thể dục thể thao tỉnh Hà Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Trong đó mục tiêu tổng quát: Bảo tồn và phát huy một cách có hiệu quả những giá trị văn hoá truyền thống, nét bản sắc văn hóa địa phương Hà Nam; kết hợp hài hoà giữa bảo tồn di sản văn hoá với phát triển du lịch và kinh tế, xã hội bền vững. Tạo sự chuyển biến về chất lượng trong phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá và xây dựng nông thôn mới. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất văn hóa, thể thao cấp tỉnh, cấp huyện, thành phố hiện đại và đồng bộ. Phấn đấu đưa thể thao thành tích cao của Hà Nam xếp hạng vị trí tốp 30 cả nước. Phát triển mạnh mẽ phong trào thể dục thể thao cho mọi người góp phần nâng cao tầm vóc con người, sức khỏe của nhân dân Hà Nam. Xây dựng đội ngũ nhân lực văn hoá, thể dục thể thao Hà Nam có trình độ quản lý, chuyên môn cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh. Phát huy có hiệu quả chủ trương xã hội hóa trong thực tiễn hoạt động văn hóa, thể thao. Đẩy mạnh hoạt động giao lưu hợp tác văn hóa, thể thao trong nước và quốc tế.

Trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy di sản văn hoá: Bảo tồn và phát huy có hiệu quả giá trị văn hóa truyền thống, nét bản sắc văn hóa địa phương Hà Nam trong đời sống đương đại. Nâng cao nhận thức của chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân trong việc bảo tồn di sản văn hóa truyền thống. Xây dựng các bảo tàng, khu di tích lịch sử văn hóa trở thành nơi học tập, tham quan và điểm đến hấp dẫn của du khách trong nước và quốc tế. Bảo tồn di sản văn hóa truyền thống có sự kết hợp hài hòa với phát triển du lịch, kinh tế, xã hội bền vững.

Page 21: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

91

Sinh thời, Bác Hồ đã từng nhấn mạnh vai trò của văn hóa: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”… chúng ta phải “đem văn hóa để lãnh đạo quốc dân”. Theo tinh thần lời dạy đó, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII), nhấn mạnh vai trò, vị trí và tầm quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Triển khai thực hiện các văn bản đó, trong thời gian qua tỉnh Hà Nam đã luôn quan tâm triển khai thực hiện công tác xây dựng và phát triển văn hóa Hà Nam, lấy đó làm nền tảng xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Văn hóa Hà Nam đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng tự hào, góp phần không nhỏ vào sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân.

Trong thời gian tới, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đặc biệt là cán bộ ngành văn hóa từ tỉnh tới cơ sở cần tiếp tục học tập, quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 9 (Khóa XI) Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Qua đó, nâng cao nhận thức của cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân, đặc biệt là lớp trẻ về giá trị của kho tàng di sản văn hóa truyền thống của ông cha để lại, nêu bật được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển chung, từ đó có ý thức tự giác bảo vệ, giữ gìn di sản văn hóa truyền thống của địa phương mình, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, xây dựng tỉnh Hà Nam giàu đẹp, văn minh, xứng đáng với truyền thống của vùng quê văn hiến.

Page 22: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

92

KHẢO CỔ HỌC HÀ NAMĐIỂM SON THỜI DỰNG NƯỚC

PGS.TS TRỊNH SINH *

Hà Nam là một tỉnh đất không rộng, người không đông, nhưng đã là một nơi quần tụ khá nhiều yếu tố văn minh quan trọng trong thời văn hóa Đông Sơn (niên đại vào khoảng thế kỷ 7 trước Công Nguyên đến thế kỷ 1-2 sau Công Nguyên). Chính nền văn hóa Đông Sơn đã là tiền đề quan trọng nhất về mặt vật chất để hình thành nhà nước sơ khai (còn được các học giả gọi là nhà nước thủ lĩnh) có tên gọi theo truyền thuyết là nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương.

Trong nửa thế kỷ vừa qua, các nhà khảo cổ đã lăn lộn khá nhiều ở vùng đất Hà Nam này để tìm hiểu về lịch sử dân tộc Việt, về nhà nước Văn Lang và Âu Lạc. Nhiều trống đồng đã được phát hiện và nghiên cứu. Một số di tích thời Đông Sơn đã được khai quật và thu được khá nhiều hiện vật gồm đủ loại chất liệu khác nhau như đồng, sắt, đá, gốm…

Qua những tư liệu khảo cổ học của văn hóa Đông Sơn, chúng tôi muốn dựng lại bức tranh văn hóa thời dựng nước ở Hà Nam.

Nổi bật nhất của văn hóa Hà Nam trong thời dựng nước chính là chiếc Trống đồng Ngọc Lũ, nay đã được tôn vinh là Bảo vật Quốc gia hàng đầu. Có lẽ cho đến nay, khi mà trong hàng trăm

* Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.

Page 23: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

93

chiếc trống đồng Đông Sơn được biết, không có chiếc trống nào đạt được sự tuyệt mĩ về nghệ thuật, đỉnh cao về kỹ thuật đúc đồng như Trống Ngọc Lũ (xem ảnh trang 551).

Chuyện về chiếc trống này cũng lạ. Thực ra, nếu theo đúng nguyên tắc đặt tên của di tích, hay di vật thì trống này phải có tên là Trống Như Trác mới đúng. Vì, vào khoảng năm 1893-1894, tức là cách đây đã hơn thế kỷ, người dân ở xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, Hà Nam đi đắp đê ở xã Như Trác, huyện Nam Xang (nay thuộc huyện Lý Nhân) thì gặp trống đồng này ở độ sâu 2m. Ngoài trống còn có 1 nắp thạp đồng úp trong lòng trống. Sau đó trống và thạp được cúng vào đình làng Ngọc Lũ. Dần dà, trống được đưa về Viện Viễn Đông Bác Cổ và nay đang tàng trữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia. Sau đó, Trống Ngọc Lũ được nổi tiếng đến nỗi không ai có ý định đặt tên lại cho chiếc trống này nữa. Hình ảnh Trống Ngọc Lũ xuất hiện trên nhiều lô gô truyền hình Quốc Gia, bản sao Trống Ngọc Lũ được bày ở trụ sở của Liên Hợp Quốc ở New York (Hoa Kỳ).

Quê hương của Trống Ngọc Lũ là Hà Nam và Hà Nam được nổi tiếng về di sản văn hóa cha ông cũng một phần là nhờ… Trống đồng Ngọc Lũ. Tuy nhiên, ít người biết rằng trong kho tàng trống đồng của Hà Nam không chỉ có Ngọc Lũ mà còn có nhiều chiếc trống được đào trong lòng đất khác. Bản thân địa danh Ngọc Lũ của huyện Bình Lục cũng đã đào thấy trong lòng đất của xã mình 2 trống đồng, mà các nhà khoa học đặt tên là Trống Ngọc Lũ II và Ngọc Lũ III để phân biệt với chiếc trống được mệnh danh là Ngọc Lũ I nổi tiếng vừa kể. Các nhà khoa học đã quá quen với tên Ngọc Lũ rồi, nên không ai gọi là Ngọc Lũ I nữa.

Chúng tôi đã liệt kê được các trống đồng Đông Sơn được đào lên từ trong lòng đất Hà Nam trong Bản đồ khảo cổ học Hà Nam. Có thể thấy được có đến 19 chiếc trống đồng có lý lịch rõ ràng ở Hà Nam. Đây là một con số đáng kể mà ít địa phương nào có được. Trong số đó, có những chiếc trống đồng nổi tiếng như Ngọc Lũ, Duy Tiên, Đồng Văn, Lũng Xuyên, Vũ Bị, An Lão…

Page 24: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

94

Có thể thấy rằng trống đồng tập trung nhiều ở các huyện Bình Lục, Duy Tiên và Kim Bảng.

Bên cạnh trống đồng là mộ thuyền. Đây là một dạng an táng người chết khá đặc biệt. Người thời Đông Sơn đã dùng các thân cây to, xẻ đôi theo chiều dọc và khoét rỗng lòng để làm quan tài. Bên trong quan tài là thi thể người quá cố và nhiều đồ tùy táng là đồ đồng, đồ gốm. Những đồ tùy táng là một cách chia của cải cho người chết để mang sang thế giới bên kia có vốn làm ăn.

Có những khu mộ thuyền ở Hà Nam đã được các nhà khảo cổ học biết đến (xem vị trí trên bản đồ). Đó là các khu mộ thuyền Mộc Bắc, Yên Từ, Yên Bắc, Thôn Tú, Châu Sơn, Thanh Sơn. Các mộ thuyền đã cung cấp khá nhiều đồ đồng quý, đồ trang sức bằng đá, công cụ bằng gỗ, các mảnh đồ tre, cói đan lát…

Bên cạnh những phát hiện khảo cổ học về trống đồng Đông Sơn, về các khu mộ thuyền độc đáo, Hà Nam còn được các nhà khảo cổ học cho rằng có những làng xóm của cư dân Đông Sơn mọc lên khá nhiều trong thời gian này.

Chắt lọc từ những tư liệu khảo cổ học, thư tịch học, dân tộc học, văn hóa dân gian, địa chất học chúng ta có thể hình dung được cư dân Hà Nam vào thời văn hóa Đông Sơn cách đây hơn 2000 năm có cuộc sống vật chất và tinh thần ra sao.

Hà Nam thời bấy giờ còn là vùng trũng. Trong quá trình biển dần dần lùi xa theo các nhà địa chất học, thì đồng bằng Bắc Bộ mới được khô ráo, phù sa của con sông Hồng và các chi lưu dần dần bồi đắp thành những cánh đồng thẳng tắp. Tuy vậy, trong quá trình này, một số vùng của đồng bằng vẫn còn lầy lội, tạo ra những “ô trũng” còn nhiều sình lầy, nhưng cũng là một vùng đất hứa cho nông nghiệp vì đang được bồi đắp phù sa. Hà Nam là một “ô trũng” như vậy. Thậm chí, cho đến tận ngày nay, nhiều vùng trũng vẫn tồn tại ở Hà Nam. Điều kiện đồng bằng ngập lụt, mới được khai phá đã là nơi dân cư vùng cao đến tấp nập. Nhiều làng xóm được lập trong thời gian này.

Page 25: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

95

Không phải ngẫu nhiên mà các nhà khảo cổ đã thống kê được những “ô trũng” của Hà Nam, của 4 huyện phía nam Hà Nội như Thường Tín, Ứng Hòa, Mỹ Đức, Phú Xuyên lại là nơi có nhiều mộ thuyền. Vì là đối với cư dân Đông Sơn nơi này còn chịu cảnh ngập lụt, vẫn phải đối mặt với “sống ngâm da, chết ngâm xương” của một vùng cảnh quan chiêm trũng. Những mộ thuyền Hà Nam đã cho thấy cuộc sống của người dân thời Đông Sơn nơi đây gần gũi với sông nước, với thuyền bè. Khi chết họ cũng muốn có con thuyền độc mộc chở mình sang thế giới bên kia.

Như vậy, người Hà Nam xưa rất cần mẫn, chịu khó. Họ là những người làm nông trên vùng đất trũng, lập làng cũng ở đó và khi chết cũng chôn trong những quan tài thuyền. Nhưng vùng đất này đã là động lực để người Hà Nam vươn lên, góp phần làm rạng rỡ văn minh Đông Sơn bằng những trống đồng.

Cũng qua hình ảnh khắc họa trên trống Đông Sơn ở Hà Nam mà chúng ta ngày nay biết được người xưa có tục thờ Mặt trời. Họ đã khắc hình mặt trời lên giữa mặt Trống đồng Ngọc Lũ (xem ảnh trang 551). Qua lăng kính nghệ thuật tạo hình, người Hà Nam đã vẽ Mặt trời bằng hình tượng ngôi sao có 14 cánh. Các cánh sao nhọn như những tia mặt trời qua quan sát của họ. Cái tục thờ mặt trời này phổ biến ở cư dân nông nghiệp ở Đông Nam Á. Chính một nữ học giả người Pháp là M. Colani đã có một chuyên luận về tục thờ mặt trời này liên quan đến hình tượng ngôi sao giữa mặt trống từ năm 1940.

Người xưa cũng khắc họa cảnh lễ hội trên trống. Đó là từng đoàn người múa vũ trang, trên đầu có cắm lông chim đang cầm vũ khí như cây giáo dài, cầm nhạc cụ như chuông đồng, khèn bè. Họ vừa đi vừa múa diễu hành (xem ảnh trang 551). Cũng còn có cảnh đua thuyền được khắc họa trên tang Trống Ngọc Lũ, trên những chiếc thuyền to còn có cảnh người hóa trang đang chèo thuyền. Có lẽ đây là hoạt cảnh một cuộc đua thuyền cầu nước trong một ngày hội nào đó như hội cầu nước, hội mừng năm mới, hội ngày mùa…

Page 26: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

96

Người Hà Nam xưa còn khắc họa hình ảnh chính mình thông qua hình tượng đôi trai gái đang giã gạo chày tay trên mặt trống, hình ảnh đôi trai gái đang ngồi đối mặt trong nhà sàn tay chân đang giao vào nhau như trong một trò chơi dân gian nào đó. Rồi có cảnh 4 người đang cầm dùi đánh trống đồng.

Qua trống đồng, người ta còn thấy bóng dáng của một ngôi nhà sàn mái cong, khá phù hợp với những dòng trong thư tịch nói về thời Hùng Vương là dân cư bắc gỗ làm nhà sàn. Còn có ngôi nhà sàn mái tròn, có lẽ là ngôi nhà kho đựng thóc lúa của cả một làng xóm, dự trữ những khi mùa màng thất bát như tư liệu dân tộc học còn cho thấy điều này. Chúng ta còn thấy trên mặt trống đồng hình ảnh của những con vật gần gũi với cuộc sống của người Hà Nam bấy giờ như hươu, chim (xem ảnh trang 551). Đáng chú ý là cứ xen lẫn hươu đực (có hình biểu hiện giới tính) là hươu cái. Đấy cũng lại là một cách tư duy người xưa: tư duy đực-cái, âm-dương, nói lên cái tính phồn thực, cầu mong mùa màng tươi tốt, con đàn cháu đống của người xưa.

Những con chim đứng và bay cũng được khắc họa trên tất cả trống đồng tìm được ở Hà Nam. Có thể đấy là hình tượng của loài cò, một động vật gần gũi với nhà nông trên những cánh đồng “con cò bay lả bay la”.

Những gì mà khảo cổ học đã cho thấy, khá phù hợp với những tư liệu thư tịch, nói về một nhà nước sơ khai Văn Lang. Nhà nước này gồm 15 “bộ”. Có lẽ Hà Nam xưa đã thuộc về một “bộ” mà thư tịch đã ghi chép lại chăng? Tra lại thư tịch cổ như sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư hay Lĩnh Nam Chích Quái thì cả cái vùng trũng nhiều mộ thuyền của nam Hà Nội và Hà Nam thuộc về cái “bộ” Chu Diên. Bộ này có rất nhiều di tích và di vật văn hóa Đông Sơn. Chắc chắn phải là một trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng của nhà nước Văn Lang xưa. Sau thời Văn Lang, cũng chính thư tịch cổ ghi lại Chu Diên là nơi bản quán của Thi Sách, chồng của bà Trưng Trắc. Đây là nơi còn giữ được nhiều hình bóng của nước Văn Lang, Âu Lạc, một thời dựng nước.

Page 27: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

97

HÀ NAM NHÌN TỪ THĂNG LONG - HÀ NỘI

MAI KHÁNH*

Trong chiều sâu/dài của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội và Hà Nam có mối quan hệ gắn bó hai chiều, về cả tự nhiên và xã hội, trên cả trục lịch đại và đồng đại.

ĐỊA CHẤT, NÚI SÔNG

Hà Nội, Hà Nam nằm trong tam giác châu do sông Hồng và các phụ lưu tạo nên, bề mặt nghiêng từ Tây sang Bắc xuống Đông - Nam, địa hình lồi lõm, giới địa chất học đặt tên là “máng trũng Hà Nội” hay “vùng võng Hà Nội”. Vận động kiến tạo hình thành dưới tầng sâu 30 - 35 km với những nếp uốn khúc hình sin tựa như những con rồng đất mềm mại. Có thể gọi một cách hình tượng đó là “những con rồng ẩn tàng”, mà các nhà phong thủy xưa, với trực giác siêu nghiệm đã nhận ra ở thế đất của thành Đại La (thời nhà Đường thống trị), rồi Kinh đô Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh. Đã có rồng tất phải có long mạch. Qua sơn danh (tên núi) ta nhận thấy ở xứ Bắc, xứ Đoài, xứ Đông không ngọn núi nào có từ tố “Long”. Trung tâm Kinh thành có núi “Long Đỗ”, tức rốn rồng, quen gọi núi Nùng - núi thiêng, nên Lý Thái Tổ (1009 - 1028) đã cho dựng chính điện trên núi, thời Hậu Lê cũng xây dựng điện Kính Thiên ở nơi này. Từ núi Long Đỗ “rốn rồng”, các nhà phong thủy thời Lý đã tìm

* Nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử - Bảo tàng Hà Nam.

Page 28: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

98

long mạch về hướng Nam theo thủy lưu sông Hồng và mạng lưới sông Tô Lịch, sông Nhuệ; bên tả ngạn thì không có núi, bên hữu ngạn đột khởi giữa đồng bằng một ngọn núi có độ cao trung bình. Long mạch đến đây đã phát lộ, đầu triều Lý được đặt tên là “Long Lĩnh” (ngọn núi rồng), rồi đến vua Lý Nhân Tông, vị thế thăng trội thành “Long Đội Sơn” (núi Hàng Rồng). Xa hơn nữa về phía tỉnh Nam Định, chỉ có núi Hổ (xã Kim Thái, Vụ Bản), không có núi rồng nào nữa, tận Trường Yên (Ninh Bình) cũng chỉ có núi Hàm Rồng chứ không phải nguyên cả con rồng. Long Đội Sơn, nay quen gọi là Núi Đọi (thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên).Thủy văn Hà Nội - Hà Nam thông suốt, liền mạch. Thuở xưa, từ Kinh thành Thăng Long có ba thủy lộ về phía Nam qua đất Hà Nam: Sông Hồng, Sông Châu, Sông Đáy, Sông Tô Lịch - Sông Nhuệ, Sông Mang Giang - Sông Châu - Sông Đáy, cuối cùng đều đổ ra biển Đông. Đó là những tuyến giao thông đường thủy quan trọng. Còn về đường bộ, trước khi đường thiên lý (hạ đạo) liên thông, thì tuyến đường ven núi (thượng đạo) giao thông Bắc - Nam và ngược lại, men theo chân dải sơn khối đá vôi Kim Bảng, Thanh Liêm.

LỊCH SỬ, VĂN HÓA HÀ NAM KHỞI NGUỒN TỪ THĂNG LONG

Từ khi trở thành Kinh đô, Thăng Long là trung tâm thâu nhận, hội tụ, lan tỏa lịch sử, văn hóa của mọi miền đất nước, nhất là của tứ xứ/trấn bao quanh: Đông, Đoài, Bắc, Nam (Hải Đông, Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam).

Hà Nam gia nhập ngay từ đầu lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Tháng 7 năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô về thành Đại La. Từ Kinh đô Hoa Lư, cuộc thiên đô của nhà Lý, chủ yếu theo đường thủy từ Sào Khê - Hoàng Long (trên đất Ninh Bình) rồi vào Sông Đáy - Sông Châu - Sông Mang Giang trên đất Hà Nam với thủy lộ khá dài, sau đó theo đường Sông Nhuệ - sông Tô Lịch trên đất Hà Nội ngày nay. Một bộ phận quan quân đi theo

Page 29: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

99

tuyến “thượng đạo” men chân dải sơn khối đá vôi Thanh Liêm, Kim Bảng.

Kinh đô mới được nhà Lý định danh là Thăng Long (Rồng Bay), một huyền thoại lịch sử, ánh xạ một tầm nhìn xa của nhà vua khởi nghiệp triều Lý, rồi sau đó được bồi đắp bởi dấu ấn phong thủy, thiêng hóa biểu tượng vương quyền, chí hướng Nam tiến: “Long Lĩnh”, “Long Đội Sơn”.

Từ đây, vùng đất Hà Nam in/lưu/tiếp biến, khởi/bắt nguồn từ Thăng Long, chỉ xin nêu những sự kiện tiêu biểu.

Chiêm Thành ở biên giới phía Nam nước Đại Việt tiếp tục quấy rối, nên triều đình nhà Lý phải tiễu phạt. Ngoài việc giao cho các quan trấn trị địa phương ở vùng đất giáp ranh Chiêm Thành lo việc đánh dẹp, sử cũ ghi chép hai lần triều đình tổ chức đạo quân lớn xuất phát từ Kinh thành Thăng Long, hành quân theo đường thủy qua sông Đáy trên đất Hà Nam rồi ra biển. Năm 1044, đích thân vua Lý Thái Tông chỉ huy đoàn thuyền chiến đi đánh. Năm 1069 triều đình giao trọng trách cho Thái úy Lý Thường Kiệt đem thủy quân tấn công quân Chiêm Thành. Đoàn thuyền dừng chân bên núi Cấm cạnh dòng sông Đáy (xã Thi Sơn, Kim Bảng). Sau khi chiến thắng Lý Thường Kiệt cùng các tướng sĩ trở lại núi Cấm, ông sáng tác điệu múa hát Dậm, dạy dân làng trình diễn mừng võ công lừng lẫy. Theo thần phả đình An Xá (Thanh Tuyền, thành phố Phủ Lý), trên đất xã Thanh Tuyền xưa (nay là phường Thanh Tuyền), Lý Thường Kiệt đã xây dựng căn cứ luyện quân trước khi đem đại quân tiễu phạt Chiêm Thành.

Núi Đọi, nơi mùa xuân năm 987, vua Lê Đại Hành về cày tịch điền, mở đầu nghi lễ khuyến nông, đến thời Lý được thiêng hóa nhiều bậc. Đời vua Lý Thái Tông, Tể tướng Dương Đạo Gia đã cho xây dựng ngôi chùa nhỏ trên núi, Thiền sư Đàm Cứu Chỉ trụ trì. Đến đời vua thứ tư nhà Lý - Lý Nhân Tông xây dựng lại chùa và dựng cây bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh là một trung tâm Phật giáo thời đó, lại kiêm hành cung của vua. Đời Lý Cao Tông (1176 -1210) triều đình đặt một kho công trên núi này.

Page 30: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

100

Thời Tiền Lê, ruộng “Tịch điền” đặt ở chân núi Đọi, sang thời Lý chuyển đến khu vực hành cung Lý Nhân (nay thuộc xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân). “Việt Sử lược”, “Đại Việt sử ký toàn thư” đã ghi chép cụ thể các lần vua nhà Lý về đây cày tịch điền hoặc khuyến nông. Tháng 6 năm 1067, vua Lý Thái Tông xem gặt lúa và đua thuyền. Vua Lý Thánh Tông hai lần đến xem gặt lúa vào tháng 10/1077 vào tháng 8 nhuận năm 1080, một lần đến xem dân gieo hạt vào tháng 6 năm 1101. Vua Lý Anh Tông vào tháng 2 năm 1146 và mùa xuân năm 1148 về cày tịch điền. Vua Lý Thần Tông xem dân gặt lúa vào tháng 10 năm 1137.

Thời Trần, vùng đất Hà Nam, nhất là các con sông chảy trên địa bàn giữ vị trí bản lề giữa Kinh thành Thăng Long và Thiên Trường - Kinh đô thứ hai của nhà Trần. Đặc biệt, trong ba lần chống quân Nguyên - Mông xâm lược, sông Hoàng Giang (khúc sông Hồng chảy qua huyện Lý Nhân), sông Thiên Mạc (con sông cổ đã bị bồi lấp gần hết, chảy trọn trên đất Hà Nam) là hai chốt nước quan trọng. Trong cuộc chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (1258), đã diễn ra một trận đánh quyết liệt vào tháng 2 do Trần Bình Trọng (quê Liêm Cần, huyện Thanh Liêm) chỉ huy, bảo vệ vua Trần và hoàng tộc rút khỏi Thăng Long về Thiên Trường an toàn trên dòng sông Thiên Mạc. Bên bờ sông Hoàng Giang, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã cho xây dựng các kho lương dành cho binh sĩ mà vị trí đền Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân là kho chính. Tháng 5, từ Thanh Hóa, Trần Quốc Tuấn đem đại quân ra Bắc để giải phóng Kinh thành Thăng Long. Căn cứ phòng thủ đầu tiên của giặc bị tiêu diệt là A Lỗ (xã Trác Văn, huyện Duy Tiên) bên bờ sông Hồng. Cuối thời Trần, trên sông Hoàng Giang lại diễn ra một trận đánh lớn. Ngày 23 tháng Giêng năm 1390, tướng Trần Khát Chân chốt giữ trên sông Hoàng Giang dụ quân Chiêm Thành vào sông Hải Triều (Hưng Hà, Thái Bình) đánh cho đại bại, giết Chế Bồng Nga - vua Chiêm Thành.

Page 31: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

101

Thời Hậu Lê, các dòng sông chảy trên đất Hà Nam lại nối nguồn lịch sử - văn hóa với Kinh đô. Năm 1467, vua Lê Thánh Tông cho diễn tập “Đồ Trung hư” một trong 9 trận binh pháp thủy quân ở sông Hoàng Giang. Năm 1470, lại chính nhà vua đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành, từ Hoàng Giang vào sông Long Xuyên (chảy trên đất huyện Lý Nhân), dừng chân ở Cầu Không, được thần âm phù. Đại thắng trở về, nhà vua dừng lại nơi này, cho đúc cuốn sách đồng ghi lại sự việc.

Lê Thánh Tông - nhà vua - thi sĩ cũng từng du ngoạn, thăm thú đền bà Vũ Thị Thiết (Chân Lý, Lý Nhân), chùa Đọi (Đọi Sơn, Duy Tiên), núi Điệp (Yên Nam, Duy Tiên), núi Quế (An Lão, Bình Lục), đến đâu nhà vua đều lưu thơ đề vịnh, giàu giá trị văn chương.

Một số chúa Trịnh du thuyền tham quan, thưởng lãm sông núi Hà Nam, để lại thơ hay, ý đẹp. Chúa Trịnh Doanh đi dọc bờ sông Đáy, từ Tượng Lĩnh, Tân Sơn đến Thi Sơn (Kim Bảng), thấy núi non trùng điệp , hùng vĩ, nên thơ, đã tôn phong dải sơn khối đá vôi, sông nước, chùa chiền nơi đây là “Bát Cảnh Tiêu Tương” ý muốn đặt ngang hàng với 8 cảnh đẹp ở Tiêu Tương (Vân Nam, Trung Quốc). Chúa Trịnh Sâm đến thăm núi Cấm (Thi Sơn, Kim Bảng), núi Quế (An Lão, Bình Lục), ven bờ sông Ninh. Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương sinh sống ở phường Khán Xuân của Kinh thành Thăng Long, cũng đi du ngoạn Hà Nam, đến thăm Kim Bảng, Kẽm Trống (Thanh Liêm), chùa Phúc Khánh (Đức Lý, Lý Nhân) tức cảnh sinh tình, để lại thơ đề, nổi tiếng là bài “Kẽm Trống” ý vị và hóm hỉnh.

Đến thời Tây Sơn và Nguyễn, Thăng Long không còn vị thế Kinh đô. Nhà Nguyễn thay chữ “Long” (rồng) thành chữ “Long” (thịnh). Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), triều đình tiến hành cải cách hành chính, bỏ các trấn, lập các tỉnh. Tỉnh Hà Nội ra đời, Hà Nam lúc ấy là phủ Lý Nhân thuộc tỉnh mới này. Thành phủ Lý Nhân trước đó ở trên đất xã Cổ Thọ (nay là xã Mỹ Thọ, Bình Lục), nay dời đến bên bờ sông Hồng (Nga Khê, Lý Nhân),

Page 32: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

102

đến khi Pháp thống trị thì dời về Châu Cầu. Năm 1890, tỉnh Hà Nam được thành lập, thành của phủ Lý Nhân chính thức mang tên Phủ Lý - tỉnh lỵ tỉnh Hà Nam.

Từ năm 1831-1890, Hà Nam là một bộ phận của Hà Nội, càng có mối quan hệ trực tiếp, gắn bó với Kẻ Chợ - đất đô hội muôn đời, cố đô Lý, Trần, hậu Lê.

HÀ NAM VỚI THĂNG LONG

Thăng Long - Hà Nội thâu thái, tiếp biến lịch sử văn hóa của bốn phương, từ các kênh trong cả nước, có kênh từ Hà Nam. Với vị trí trực thuộc nội trấn, thuộc tỉnh Hà Nội, từ thời Lý đến Nguyễn và ngày nay là cửa ngõ phía Nam Thủ đô Hà Nội, Hà Nam đã góp phần không nhỏ cho vùng đất Kinh đô, Thủ đô.

Những đóng góp của con người, của văn hóa vật thể, phi vật thể Hà Nam trong lịch sử Thăng Long - Hà Nội thật khó kể hết, phần vì dung lượng của bài viết, phần vì tư liệu chưa sưu tầm được đầy đủ nên chúng tôi mới chỉ phác họa bước đầu.

Dưới chế độ phong kiến, Hà Nam là vùng đất nghèo nhưng hiếu học, nhiều người học giỏi, đỗ đạt cao. Các vị tiến sĩ sau khi “vinh quy bái tổ” thường được triều đình trọng dụng, bổ giữ các chức quan trong triều, ngoài nội. Làm quan trong triều Lê, Mạc là các vị tiến sĩ Hà Nam có mặt ở các Bộ, các Viện, đô, sảnh ở cả ngạch văn và ngạch võ. Giữ chức Thượng thư (tương đương Bộ trưởng ngày nay) có Trần Bảo (quê Lý Nhân) - Thượng thư Bộ Công triều Lê Thánh Tông; Lê Tung - Thượng thư Bộ Lễ, Bộ Lại (ông quê xã Liêm Thuận, Thanh Liêm) triều Lê Thánh Tông; Lê Tương Dực, Nguyễn Sư Hựu (quê Liêm Túc, Thanh Liêm) - Thượng thư Bộ Lễ triều Lê Cung Hoàng; Trương Công Giai (quê Thanh Tâm, Thanh Liêm) - Thượng thư Bộ Hình triều Lê Hy Tông; Bùi Viết Lương (xã Hợp Lý, Lý Nhân) giữ chức Thượng thư (không rõ Bộ nào) triều Lê Thánh Tông. Các vị giữ chức Thị Lang (như Thứ trưởng) trong các Bộ là Trần Tông Lỗ (quê ở Tượng Lĩnh, Kim Bảng)- Tả thị lang Bộ Lễ,

Page 33: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

103

triều Lê Uy Mục; An Khí Sử (quê Lý Nhân) - Thị lang (không rõ Bộ và triều vua); Nguyễn Diễn (quê xã Bạch Thượng, Duy Tiên) - Hữu Thị Lang Bộ Binh (không rõ triều vua); Lý Trần Thản (quê thôn Lê Xá, Châu Sơn, Duy Tiên) - Hữu Thị Lang Bộ Hình triều vua Lê Hiển Tông. Làm quan trong Viện Hàn lâm đòi hỏi “văn hay, chữ tốt”, trong hai thời Hậu Lê, Mạc có các nhà khoa bảng Trình Thuấn Du (quê xã Đọi Sơn, Duy Tiên), Nguyễn Khắc Hiếu (quê Bình Lục), Nguyễn Kiện Hy (quê Duy Tiên), Nguyễn Tông Mại (quê thôn Vị Hạ, Trung Lương, Bình Lục). Các quan Giám sát Ngự sử được giao việc can ngăn vua làm điều trái lẽ, tính không được vụ lợi, trung thực, thẳng thắn, dũng khí, trong các triều đình Hậu Lê, Mạc lưu lại hậu thế tên tuổi các vị: Trần Bích Hoành (quê Duy Tiên), Nguyễn Văn Tĩnh (quê Lý Nhân), Nguyễn Viết Tuấn (quê thôn Lạc Trạng, thành phố Phủ Lý). Được triều đình tin cậy cử đi sứ nhà Minh (Trung Quốc) có các nhà khoa bảng: Lê Tung, Nguyễn Khắc Hiếu, Bùi Viết Lương. Trên đây là các vị ngạch văn, ngạch võ có các vị: Phạm Hổ (quê thôn An Bài, Đồng Du, Bình Lục) triều vua Lê Thánh Tông; Tạ Đình Huy (quê Yên Nam, Duy Tiên) triều vua Lê Tương Dực; Lê Đình Tưởng (quê Cao Mật, Lê Hồ, Kim Bảng) triều vua Lê Hiển Tông. Nguyễn Khắc Hiệu đỗ Thám Hoa (quê Phú Thứ, Tiên Hiệp, Duy Tiên) được bổ nhiệm giữ chức Hiến sát sứ. Tuy không làm quan trong triều, nhưng nhà nho Dương Đức Kỳ, cùng quê Nguyễn Quốc Hiệu lại được giao một trọng trách lớn, làm Phủ doãn phủ Phụng Thiên dưới triều vua Lê Hiển Tông, đứng đầu bộ máy quản lý phủ trung tâm của Kinh đô, kiêm nhiếp hai huyện Quảng Đức, Thọ Xương.

Thành lập năm 1070, suốt trong các thời Lý, Trần, Hậu Lê, Mạc, Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long đóng vai trò trọng tâm đào tạo nhân tài cho đất nước - Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam. Đứng đầu bộ máy quản lý, đào tạo là các chức Tế tửu, Hành Tế tửu, Tư nghiệp. Trong thời Hậu Lê, 4 vị người Hà Nam giữ chức Tế tửu Văn miếu - Quốc Tử Giám, lần lượt là Lê

Page 34: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

104

Tung, Nguyễn Mạo (quê Châu Sơn, thành phố Phủ Lý), Trương Công Giai, Nguyễn Kỳ (quê An Lão, Bình Lục). Nhà khoa bảng Lê Tung đỗ Hoàng giáp Tiến sĩ còn nổi tiếng trên phương diện sử học, với tác phẩm “Việt giám thông khảo tổng luận” và là nhà văn hóa, nhà thơ tên tuổi thời bấy giờ.

DANH XƯNG HÀ NAM GIỮA LÒNG HÀ NỘI

Thăng Long - Hà Nội hội tụ, lưu giữ những dấu ấn lịch sử, văn hóa của dân tộc, thể hiện qua các danh xưng: địa danh, nhân danh, vật danh, sự kiện danh của các vùng, các địa phương. Danh xưng Hà Nam cùng cả nước đang hiện diện giữa lòng Hà Nội hôm nay.

Trống đồng Ngọc Lũ I, hơn một thế kỷ qua được định vị là một biểu tượng của văn hóa Đông Sơn, cổ nhất và đẹp nhất. Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã trao tặng phiên bản trống đồng Ngọc Lũ I cho Liên hợp quốc. Trống được dân làng Ngọc Lũ phát hiện ở Như Trác (huyện Lý Nhân), đem về thờ ở đình Ngọc Lũ (Bình Lục), sau đó được các nhà khoa học Pháp phát hiện, mang lên Viễn Đông Bác Cổ năm 1902, hiện lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử quốc gia Việt Nam. Trên 82 bia đề danh Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) có tên 18 nhà khoa bảng Hà Nam trong 17 bia: Trình Thuấn Du, Hoàng Mông, Phạm Hổ, Bùi Viết Lương, Nguyễn Kiện Hy, Lê Đình Tưởng, Trần Bích Hoành, Tạ Đình Huy, Nguyễn Mạo, An Khí Sử, Phạm Viết Tuấn, Trương Công Giai, Trương Minh Lượng, Nguyễn Quốc Hiệu, Nguyễn Tông Mại, Nguyễn Kỳ, Lý Trần Thản. Càng thêm tự hào cho nhân dân Hà Nam khi 82 bia Tiến sĩ vừa được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu của nhân loại.

Danh xưng Hà Nam thể hiện đậm nét bằng những địa danh, nhân danh, công trình lịch sử, văn hóa ở nội thành Hà Nội.

Ba Đình - địa danh lịch sử gắn bó với tên tuổi Đinh Công Tráng. Ông là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp 1866 - 1887

Page 35: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

105

cùng Phạm Bành. Căn cứ do Đinh Công Tráng chỉ huy xây dựng mang tên Ba Đình trên đất ba làng Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mỹ Khê (Nga Sơn, Thanh Hóa). Tên căn cứ này được đặt cho một quận nội thành của Hà Nội: quận Ba Đình, diện tích 9,25km2, dân số 237.485 người, là nơi đóng trụ sở ngoại giao của các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao... trung tâm của thành Hà Nội (thế kỷ XIX) của thành Thăng Long (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII). Quảng trường lớn nhất Thủ đô, nơi này ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mang tên Quảng trường Ba Đình. Quảng trường nằm trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, phía trước là Hội trường Ba Đình, là nơi diễn ra các kỳ họp Quốc hội và các sự kiện quan trọng. Tác giả thiết kế công trình là người Hà Nam: ông Trần Hữu Tiềm (đã mất) nguyên Tổng thư ký Hội Kiến trúc sư Việt Nam, quê thôn Tràng, xã Trịnh Xá, thành phố Phủ Lý.

Đinh Công Tráng - người lập nên dấu ấn lịch sử Ba Đình còn được vinh danh bằng tên phố: phố Đinh Công Tráng thuộc phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, ông người làng Nham Tràng (xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm).

Nói đến Thăng Long - Hà Nội, hẳn ai cũng nhớ câu: “Hà Nội 36 phố phường”. Có một con phố vốn là phường thợ làm trống do dân làng Đọi Tam (Đọi Sơn, Duy Tiên) lập nên: phố Hàng Trống thuộc phường Hàng Trống (quận Hoàn Kiếm). Tên phường càng tô đậm vị thế nghề trống Đọi Tam và còn có Vườn hoa Hàng Trống nữa, ở số 42 phố Nhà Chung - nơi có công viên, thư viện quận Hoàn Kiếm.

Lê Đại Hành - vị vua khởi nghiệp nhà Tiền Lê, quê nội ở xã Liêm Cần, Thanh Liêm, được tôn vinh bằng cả tên phường, tên phố, ngõ thuộc quận Hai Bà Trưng: phường Lê Đại Hành, phố Lê Đại Hành, ngõ Lê Đại Hành xưa đặt đàn Nam Giao thời Hậu Lê, hàng năm nhà vua tới tế trời đất.

Page 36: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

106

Danh nhân, danh tướng thời Trần người Hà Nam và liên quan mật thiết đến Hà Nam được đặt tên cho 1 đường, 2 phố. Thái sư Trần Thủ Độ, người có công lập nên triều Trần, trụ cột của bộ máy lãnh đạo chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258). Ông được ban thái ấp Quắc Hương (nay là thôn Vọc, xã Vũ Bản, huyện Bình Lục.) Phố Trần Thủ Độ nằm trên đường vành đai 3 và khu chung cư Pháp Vân, Tứ Hiệp (quận Hoàng Mai). Trần Khánh Dư - danh tướng thời Trần có thái ấp ở Dưỡng Hòa (nay thuộc xã Duy Hải, huyện Duy Tiên). Đường Trần Khánh Dư nằm trên địa bàn phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm và phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng. Phố Trần Bình Trọng thuộc phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm và phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng mang tên danh tướng Hà Nam. Trần Bình Trọng (1259-1285) quê ở xã Bảo Thái (nay là xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm), dòng dõi Lê Hoàn. Ông, cha làm quan triều Trần, lập công lớn nên được ban họ vua. Tháng 2/1285, ông chốt giữ trên sông Thiên Mạc, bảo vệ an toàn cho vua Trần và Hoàng tộc rút từ Thăng Long về Thiên Trường. Ông chỉ huy trận đánh quyết liệt chặn đánh quân Nguyên - Mông. Bị giặc bắt nhưng không chịu hàng, mắng vào mặt chúng “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Giặc giết ông, nghe tin vua Trần vô cùng thương xót, truy phong ông là Bảo Nghĩa vương.

Hai bậc tiền bối cách mạng Hà Nam, nhà hoạt động xuất sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam được đặt tên cho hai phố: phố Lương Khánh Thiện (phường Tương Mai, quận Hai Bà Trưng), phố Trần Tử Bình (phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy). Lương Khánh Thiện (1903-1941) quê làng Mễ Tràng (xã Liêm Chính, thành phố Phủ Lý), ông sớm tham gia cách mạng, từng bị tù ở Côn Đảo, từng giữ các chức vụ quan trọng của Đảng: Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Tháng 11/1940, ông bị địch bắt và xử bắn ngày 01/7/1941 tại Kiến An (Hải Phòng).

Page 37: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

107

Trần Tử Bình (1907-1967) quê thôn Đồng Chuối (xã Tiêu Động, huyện Bình Lục), từ trường dòng ra đi làm cách mạng, tham gia lãnh đạo phong trào công nhân đồn điền Phú Riềng (Nam Bộ), ba lần bị Pháp bắt đầy đi các nhà tù và Côn Đảo, ông vượt ngục tiếp tục hoạt động, làm Ủy viên thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, tham gia lãnh đạo tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, rồi lần lượt làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Chính ủy Trường sĩ quan lục quân, Tổng thanh tra Quân đội, được phong quân hàm Thiếu tướng đợt đầu tiên (1948). Từ năm 1959, ông là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Ủy viên Trung ương Đảng khóa III, đại biểu Quốc hội nhiều khóa. Ông được nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất (1967), Huân chương Hồ Chí Minh (2001), Huân chương Sao vàng (2007).

Người con của Hà Nam anh dũng ôm bom ba càng diệt xe tăng địch ngày 06/01/1947 ở Hà Nội được ghi nhận bằng tên một phố ở phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa: phố Nguyễn Phúc Lai. Ông sinh năm 1928 ở Hà Nội, nhưng quê gốc ở thôn Chi Long (xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân).

Giữa lòng Hà Nội hôm nay, nhiều phố ghi danh các nhân tài văn học Hà Nam, như Nguyễn Khuyến, Nam Cao.

Nguyễn Khuyến (1835-1909), hiệu Quế Sơn, người làng Vị Hạ, xã Trung Lương (Bình Lục). Ông được dân tôn vinh là Tam Nguyên Yên Đổ vì đỗ đầu ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình. Làm quan ở nhiều nơi và ở trong triều, bất bình vì nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, ông cáo quan về quê. Ông là thi sĩ nổi tiếng, Xuân Diệu đánh giá xếp vào bậc nhất “nhà thơ làng cảnh Việt Nam”... Phố Nguyễn Khuyến nằm trên địa bàn phường Văn Miếu, quận Đống Đa. Nhà văn - chiến sĩ - liệt sĩ Nam Cao (1917-1951) tên thật là Trần Hữu Tri, người làng Đại Hoàng (xã Nhân Hậu, Lý Nhân). Vừa hoạt động cách mạng, vừa sáng tác, hy sinh năm 1951 trong một chuyến đi công tác ở Gia Viễn (Ninh Bình). Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc, độc đáo

Page 38: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

108

với nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng: Chí Phèo, Lão Hạc, Đôi mắt, Sống mòn, Chuyện biên giới... Ngay đợt đầu tiên (1996), Nhà nước đã truy tặng ông Giải thưởng Hồ Chí Minh (giải cao nhất) về văn học, nghệ thuật. Phố Nam Cao nằm trên địa bàn phường Kim Mã, quận Ba Đình.

Mối quan hệ hai chiều khăng khít thâu nhận và tiếp biến giữa hai vùng đất Hà Nội - Hà Nam đã và đang in đậm lên vùng đất và lòng người Hà Nam, làm nên một chiều kích nặng/dày để vươn tới hòa nhập cùng cả nước và thế giới.

Những trình bày trên đã cho chúng ta thấy có mối quan hệ đa chiều khăng khít giữa hai vùng đất Hà Nội, Hà Nam, suốt chiều dài lịch sử và đang mở về phía trước, mà bài viết nhỏ này mới chỉ phác họa những nét chấm phá trong khuôn giới hạn nghìn năm.

Page 39: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

109

TIỂU VÙNG VĂN HÓA ĐỌI SƠN

PGS.TS PHẠM LAN OANH *

Hiện nay, việc phân chia văn hóa Việt Nam thành bao nhiêu vùng văn hóa của các nhà văn hóa học nước ta vẫn là cuộc tranh luận chưa có hồi kết. Bởi, cái gốc của vấn đề là giới văn hóa học nước ta chưa có tiếng nói chung trong định nghĩa khái niệm “vùng văn hóa” và các tiêu chí chia “vùng văn hóa”. Vì thế, có người cho là nước ta có 3 vùng văn hóa (là Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ); có người cho có 4 vùng (là Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ); có người cho có 5 vùng (là Bắc Bộ, Hà Nội, Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ); thậm chí có người cho có 10 vùng (là: Tây Bắc, Đông Bắc Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nội, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, TP Hồ Chí Minh, Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ) (1)… Tuy chưa có sự thống nhất như vậy, song, có một điều thống nhất giữa * Viện Văn hóa - Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam.(1). Xem thêm:

- Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (chủ biên) (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

- Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam - lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, Hà Nội.Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb

Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.Ngô Đức Thịnh (2009), Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt

Nam, Hà Nội.Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, Nxb VHDT, Hà Nội.Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb VHDT

và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, tái bản lần thứ

8, Nxb Giáo dục, Hà Nội.Huynh Khái Vinh (chủ biên), Nguyễn Thanh Tuấn (1995), Chấn hưng các vùng

và tiêu vùng văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.

Page 40: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

110

các nhà văn hóa học, là trong các “vùng văn hóa” đó có các “tiểu vùng văn hóa” và, trong các “tiểu vùng văn hóa” đó lại các các “tiểu vùng văn hóa” nữa. Theo đó, trong “Vùng văn hóa Bắc Bộ” / hoặc Đồng bằng Bắc Bộ có “Tiểu vùng văn hóa Hà Nam” (văn hóa đồng chiêm trũng) và, trong “Tiểu vùng văn hóa Hà Nam” có các tiểu vùng văn hóa mà, một trong số đó chúng tôi muốn nói đến trong tham luận này là “Tiểu vùng Văn hóa Đọi Sơn” - huyện Duy Tiên.

Trên đất nước ta đã có nhiều ngọn núi trở thành núi thiêng, từ đó trở nên tâm điểm hình thành nên những tiểu vùng văn hóa (và đương nhiên là một điểm du lịch nổi tiếng) của một địa phương. Có thể kể đến: Núi Hùng Lĩnh (Phú Thọ) hình thành Tiểu vùng văn hóa Đất Tổ; Núi Sam hình thành Tiểu vùng văn hóa Núi Sam mà tâm điểm là miếu Bà Chúa Xứ (An Giang); Núi Bà Đen hình thành Tiểu vùng văn hóa Núi Bà Đen (Tây Ninh)…

Núi Đọi - Đọi Sơn / Long Đọi nằm ở xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam cũng là một ngọn núi như vậy. Người xưa nói “Sơn bất tại cao, hữu thần (tiên) tắc linh” (nghĩa là: Núi không phải chỉ do cao, cứ có thần tiên là núi thiêng). Tuy chỉ cao khoảng 400m, chu vi chưa đến 2.500m, nhưng Núi Đọi đã được người Việt cổ chọn để làm nơi/điểm tựa tụ cư, được thần linh lựa chọn để trú ngụ / hay nói chính xác là được người dân tin tưởng tôn vinh / làm cho Núi Đọi là / trở nên ngọn Núi Thiêng, làm điểm tựa tâm linh từ ngàn xưa của người dân Đại Việt:

Đầu gối Núi ĐọiChân dọi Tuần VườngPhát tích đế vươngLưu truyền vạn đại.Rồi, như một sự trả ơn/một sự tương tác/cũng Núi Đọi trở

thành điểm qui chiếu/qui tụ con người - thần linh đất Việt, xuyên suốt từ thủa Đại Việt đến Việt Nam ngày nay; tạo cho nơi đây trở thành một tiểu vùng văn hóa vô cùng đặc sắc. Tiểu vùng Văn hóa Núi Đọi hội đủ cả văn hóa hữu thể và văn hóa phi vật thể, có bản sắc riêng, làm rạng danh văn hóa Hà Nam và, văn hóa Việt Nam.

Page 41: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

111

I. DI SẢN VĂN HÓA HỮU THỂ Ở VÙNG ĐỌI SƠN1. Những di chỉ, di vật khảo cổ học về người Việt cổ Cách nay trên 2.000 năm, Đọi Sơn đã trở thành điểm tụ

cư của người Việt cổ. Với những di chỉ, di vật khảo cổ học phát hiện trong thời gian qua ở quanh Núi Đọi đã chứng minh điều đó. Cụ thể:

- Tại di chỉ Đọi Sơn, các nhà khảo cổ đã phát hiện được nhiều sọ người còn khá nguyên vẹn nhất và khẳng định họ là chủ nhân của nền văn minh Đông Sơn rực rỡ cách ngày nay ước khoảng 2.000 năm.

- Năm 1977, khai quật 2 ngôi mộ cổ quan tài hình thuyền ở các xã Châu Sơn và Thanh Sơn (huyện Kim Bảng) phát hiện có đồ tùy táng gồm giáo đồng búp đa, rìu đồng, thố, cày chìa vôi… Niên đại đầu Công nguyên. Sau đó, một số ngôi mộ cổ khác được phát hiện ở Yên Từ, Mộc Bắc (huyện Duy Tiên), trên bờ sông Châu Giang cũ.

Năm 1984, ngay dưới chân Núi Đọi, đã phát hiện có 11 ngôi mộ cổ (3 ngôi mộ thuyền, 2 ngôi mộ kè đá, 4 ngôi mộ có áo quan bằng thanh tre ken lại như giát giường, 2 ngôi mộ đất). Hiện vật chôn theo người chết trong các ngôi mộ đó là đồ đồng Đông Sơn muộn, như: giáo, rìu xéo, mũi lao, dao gặt/lưỡi hái, vòng đồng chọn mũi, đỉnh đồng, tiền Bán Lạng (đời Hán). Ngoài ra, còn thu được bát gỗ, quả cây làm dọi xe chỉ, múi dứa dại... Năm 1988, ở thôn Đọi Nhất lại phát hiện được 3 ngôi mộ thuyền cổ, với đồ tùy táng là rìu xéo, dáo đồng Đông Sơn muộn và tiền Bán Lạng (Hán). Nhiều quan tài hình thuyền có niên đại cuối thời đại Hùng Vương được phát hiện ở quanh Núi Đọi (và vùng Kim Bảng, Thanh Liêm cùng cả vùng ô trũng Hà Nam - Nam Định - Ninh Bình, cho đến tận Vụ Bản, Ý Yên của tỉnh Nam Định) là những minh chứng sáng tỏ cho kết luận trên.

Qua nghiên cứu các ngôi mộ cổ, các nhà khoa học đều thấy tất cả các ngôi mộ này đều được chôn ở vùng đất trũng ven sông, chủ nhân của các ngôi mộ này đều quay đầu về núi Đọi.

Page 42: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

112

Theo GS. Trần Quốc Vượng, đó là đặc trưng địa - văn hóa của các mộ thuyền có niên đại trước sau Công nguyên thuộc nền Văn minh Đông Sơn. Cùng với việc phát hiện nhiều “mộ Hán” cổ ở thôn Nha Xá, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên với đồ gốm có hoa văn in hình học, những ngôi mộ cổ và đồ tùy táng phát hiện ở quanh núi Đọi trên đây đã khẳng định, trong thời Bắc thuộc, vùng núi Đọi - sông Châu của Hà Nam ngày nay là một trấn trị quan trọng của các thế lực đương thời.

Quanh vùng Núi Đọi - Đệp/Điệp (và nói rộng ra là cả vùng ven đồi sót của huyện Duy Tiên, huyện Bình Lục của tỉnh Hà Nam) đã phát hiện được nhiều di vật thời Đông Sơn, như: trống đồng (ở Núi Đọi, Yên Bắc, Bạch Thượng), cùng các thạp đồng (ở Châu Giang, Mộc Bắc), với các nhóm công cụ rìu, nhíp gặt lúa, giáo đồng Đông Sơn.

2. Chùa Đọi - một trong những di tích kiến trúc Phật giáo cổ nhất Việt Nam

Sau khi định đô ở Thăng Long, nhà Lý đã sớm ý thức đến ngọn núi Đọi - ngọn núi án ngữ mặt Nam Kinh thành Thăng Long, bởi nó như mang ý nghĩa phong thủy trấn ngự đảm bảo cho Thăng Long vững mạnh. Vì thế, vào những năm Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058) dưới thời Lý Thánh Tông, một ngôi chùa đã được dựng lên ở Núi Đọi theo lệnh triều đình. Thiền sư Đàm Cửu Chỉ thế hệ thứ 7 của dòng Thiền Quán Bích (dòng Vô Ngôn Thông) đã về đây trụ trì. Tên chùa Diên Linh và núi Long Đội đã có từ thời đó. Nhưng Đọi Sơn chỉ thật sự nổi tiếng, càng trở nên một vùng linh sơn, linh địa hơn sau khi vua Lý Nhân Tông trong một lần về đây vãn cảnh đã đặt tên núi là Long Đội và cho xây dựng trên núi một ngôi chùa lớn thờ Phật và một bảo tháp. Chùa Long Đọi - tên chữ là Diên Linh Tự được khởi dựng vào năm 1118 trên đỉnh Núi Đọi theo chỉ dụ của vua Lý Nhân Tông. Chùa xây trong khuôn viên rộng gần 2 héc ta vườn rừng. Chùa chính gồm 6 gian, quay hướng Nam. Phía sau chùa chính là sân, vườn hoa. Hai bên sân là hành lang, mỗi bên đặt 9 pho

Page 43: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

113

tượng. Sau cùng là hậu điện. Bên phải chùa, cạnh vườn hoa là nhà thờ tổ, giảng đường và nhà khách. Phía sau nhà thờ tổ là gian nhà trai, thiền tổ. Sau cùng là nhà bếp.

Cạnh chùa là ngôi bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh được xây dựng chủ yếu bằng đá mân, đá vũ đều là những loại đá quí. Đây là loại tháp vuông 4 mặt. Tháp có qui mô lớn, vững chãi, cao 13 tầng chọc trời. Ngoài tầng đế và 2 tầng trên không có cửa, còn 10 tầng mở cửa cả bốn phía (tổng cộng 40 cửa) hóng gió. Ở tất cả các cửa đều trạm rồng ổ. Trong các thành phần kiến trúc tháp có nhiều tượng trang trí như tượng chim thần đầu người mình chim đặt trên các con sơn. Những viên gạch dùng để ghép tường có trang trí hình những vũ nữ đang múa. Trên các xà của tháp có treo chuông đồng, khi gió thổi chúng va vào nhau tạo thành những âm thanh réo rắt. Tầng đế hợp với tầng đầu tiên thành nơi thờ Phật - tượng Đa Bảo Như Lai. Tầng trên của tháp đặt hộp vàng xá lỵ Phật. Không lâu sau khi khánh thành, Chùa Đọi trở nên một đại danh lam kiêm hành cung của nhà Lý ở miền Sơn Nam Hạ; đồng thời là một trung tâm Phật giáo của nước ta thời đó.

Sang thời Trần, sau khi xây chùa tháp Phổ Minh, Yên Tử, theo đó trung tâm Phật giáo nước ta cũng chuyển về đây, khiến cho Chùa Đọi có phần thanh vắng. Đầu thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, chúng đã phá hủy hoàn toàn ngôi chùa và tháp Sùng Thiện Diên Linh. Riêng tấm bia Sùng Thiện Diên Linh do không phá được, chúng đã lật đổ xuống bên cạnh núi. Phải đến thời nhà Mạc, vào cuối năm Tân Mão (1591), niên hiệu Hưng Trị, đời Mạc Mậu Hợp, các quan bá tước cai quản vùng Duy Tân (Duy Tiên) mới cùng dân 3 giáp Nhất, Nhị, Tam là Đội Sơn, Đội Trung, Đội Lĩnh, Trung Tín dựng lại bia, bắc lại xà nhà, vá tô lại tượng, làm cửa, xây tường… - việc này được khắc vào mặt sau tấm bia Sùng Thiện Diên Linh. Vào năm Tự Đức thứ 13 (1860), chùa Đọi được sửa sang tòa thượng điện, tiền đường, nhà tổ, gác chuông, nghi môn. Đến năm 1864, chùa lại được sửa sang hành lang, đúc tượng Di Lặc, đúc khánh đồng

Page 44: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

114

và đục khánh đá do sư tổ đời thứ 5 là Thích Chiếu Trường chủ trì xây dựng hoàn chỉnh 125 gian, từ đó trở thành Trường Bắc Kỳ Phật giáo. Ngôi chùa lúc này được dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Tại tam bảo, thượng điện có rất nhiều tượng Phật. Ngay lối vào là hai dãy Thập Điện Diêm Vương. Ngoài ra, chùa còn có nhà tổ, nhà khách, tăng phòng,…Ngay cổng chính, trước tòa Tam bảo là Nhà bia che trở tấm bia Sùng Thiện Diên Linh. Hiện nay, chùa Đọi vẫn là một trong những trung tâm Phật giáo của tỉnh Hà Nam. Hàng năm, các nhà sư trong tỉnh Hà Nam vẫn về đây tổ chức lễ khai hạ.

3. Bia Sùng Thiện Diên Linh - một trong những tấm bia cổ nhất nước ta

Khi xây xong Chùa Đọi và tháp Sùng Thiện Diên Linh, vua Lý Nhân Tông sai Thương thư Bộ Hình là Nguyễn Công Bật soạn văn bia. Văn bia có tên là Đại Việt quốc Lý đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi. Bia đề ngày mùng 6 tháng 7 năm Tân Sửu (tức ngày 20 - 8 - 1121, niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 3). Bia có giá trị về nhiều mặt, cả về nghệ thuật điêu khắc, mỹ thuật, văn học, sử học. Bia Sùng Thiện Diên Linh được tạo tác để khắc bài bi ký của Thượng thư Nguyễn Công Bật soạn, được chế tác có giá trị mỹ thuật rất cao, thể hiện bàn tay khéo léo, tài hoa của người thợ chạm khắc đá thời Lý. Bia được đặt trong nhà bia trên khu đất phía trước Tam bảo. Bia cao 2,5m, rộng 1,6m, dày 0,3m. Mặt trước bia khắc bài văn do Nguyễn Công Bật soạn. Mặt sau bia ghi việc Thái hậu Phù Thánh Linh (tức Ỷ Lan phu nhân - mẹ đẻ của vua Lý Nhân Tông) đã cúng vào chùa 72 mẫu ruộng làm ruộng đèn nhang vào năm 1121 và khắc bài thơ của vua Lê Thánh Tông làm vào năm Quang Thuận thứ 8 (1467). Phần trang trí tập trung ở mặt trước bia. Trán bia chạm hai rồng chầu vào các chữ Hán Đại Việt quốc Lý đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên linh tháp bi. Diềm bia tạc những hình rồng nối tiếp nhau. Bia dày 0,3m, hai mặt bia mỗi bên có 9 ô quả trám, trong đó chạm hình rồng thời Lý uốn khúc mềm mại ở mỗi ô.

Page 45: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

115

Bệ bia là một khối đá hình chữ nhật dài 2,40m, rộng 1,80m, cao 0,50m, tạc hình 2 rồng uốn khúc. Đây cũng là nét độc đáo của bia Sùng Thiện Diên Linh. Bệ bia chia làm 2 phần: phần nằm tiếp xúc với đất hình chữ nhật và phần phía trên chạm khắc thủy ba (sóng nước). Sóng có 2 lớp, lớp trên cao, lớp dưới thấp. Trên mặt bệ bia chia làm 2 nửa tạc hình 2 con rồng. Đuôi ở đoạn sau xoắn thành 4 khúc khép kín. Mỗi con rồng có 4 chân. Đầu rồng có bờm. Rất tiếc là cổ rồng và đầu rồng đã bị vỡ nên ta không có cơ hội chiêm ngưỡng kiệt tác này.

Bia Sùng Thiện Diên Linh là tấm bia có kích thước lớn nhất và quý hiếm nhất của thời Lý trên đất Hà Nam còn lại đến ngày nay. Năm 2014, bia Sùng Thiện Diên Linh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia.

4. Bia ở Văn từ Duy Tiên trên Núi ĐọiNền giáo dục Nho học ở nước ta có lịch sử lâu đời, được

truyền bá sâu rộng, và có nhiều thành tựu. Các công trình kiến trúc được dựng lên: Văn miếu (ở Kinh đô, và các tỉnh), Văn từ (ở huyện, tổng), Văn chỉ (ở cấp xã) để thờ Đức Thánh Khổng Tử, các bậc thánh, bậc thầy đi trước, cũng là để khuyến học, khuyến tài trong dân chúng cả nước.

Hà Nam là mảnh đất văn hiến, có truyền thống hiếu học, có nhiều bậc hiền tài đỗ đạt cao. Qua các nguồn sử liệu cho thấy, dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, ở Hà Nam có nhiều Văn từ, Văn chỉ đã được xây dựng ở các huyện, tổng và hầu hết các xã thôn. Song, trải qua chiến tranh tàn phá, thiên tai (mà chủ yếu là lũ lụt), những di tích văn hóa này không còn mấy, hầu hết đã bị phá hủy, hoặc chỉ còn nền móng, di vật còn lại - bia đá không nhiều. Thật may mắn, đến nay Hà Nam còn lưu giữ được một Văn từ cấp huyện ở huyện Duy Tiên, trên sườn Núi Đọi. Bia được phát hiện vào năm 2002. Theo tác giả Lê Quốc Việt (2), Văn từ Duy Tiên được xây dựng vào thời Nguyễn, tại sườn núi phía Tây Bắc chùa Long Đọi, xã Đọi Sơn. Năm 1947, giặc Pháp

(2). Lê Quốc Việt (2006), Tuyên tập bia văn từ - văn chỉ Hà Nam, Nxb Thế giới, HN.

Page 46: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

116

dỡ Văn từ lấy vật liệu xây bốt Điệp Sơn gần đó. Dấu tích Văn từ Duy Tiên còn lại là 10 tấm bia đá, trong đó có 4 bia mờ mòn hết chữ, 6 bia còn lại cũng mất chữ từng đoạn, 1 đế bia hình chữ nhật, một số chân tảng đá hình vuông. Văn bia được khắc vào ngày tốt tháng 5 giữa mùa hè năm Giáp Dần niên hiệu Tự Đức thứ 7 (1854), do Vũ Duy Kỳ hiệu là Vãn Am, đỗ Cử nhân khoa Quý Mão, người xã Bài Nhiễm soạn. Trong cuốn sách trên, tác giả đã biên dịch bi ký, giới thiệu về: 1 - Bia ghi về Văn từ huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân; 2 - Bia ghi các vị tiên hiền huyện Duy Tiên; 3 - Bia ghi tên các vị tiên hiền, quan văn, quan võ huyện Duy Tiên; 4 - Văn từ Duy Tiên ghi danh sách các vị: Cử nhân, cống cử, ngự cống, giám sinh đã đỗ qua các khoa thi ở phủ, huyện, châu, quận, trải qua các triều.

II. NHỮNG DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Ở VÙNG ĐỌI SƠN1. Lễ tịch điền - lễ hội nông nghiệp cổ nhất Việt Nam

Lễ tịch điền, tương truyền do Thần Nông đặt ra, là một đại lễ của các nhà nước phong kiến trước đây, do chính ông vua trị vì tham dự bằng cách tự mình cày mấy đường cày làm gương cho dân chúng/một biện pháp khuyến nông/vào dịp đầu Xuân. Theo điển lễ Trung Hoa thì ngày xưa, khi làm lễ, vua ngự xa giá, mang theo cày bừa thẳng đến sở Tịch điền có đông đảo bách quan và dân chúng đi theo. Vua xuống ruộng cày 3 luống/xá, vương công cày 5 luống/xá, công khanh đại phu cày 7 luống/xá, kẻ sĩ cày 9 luống, sau đó dân chúng cày tiếp.

Ở nước ta, Lễ tịch điền cử hành đầu tiên vào đầu thế kỷ X, thời Tiền Lê, bởi Lê Hoàn - vua Lê Đại Hành - người con của đất Trường Châu (nay là xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) - vị vua khởi nghiệp nhà Tiền Lê. Sau khi Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế (năm 980), ngoài việc dẹp mối lo quấy phá của Chiêm Thành ở phía Nam, tổ chức kháng chiến đánh bại quân xâm lược nhà Tống ở phía Bắc, ông đã rất chú trọng phát

Page 47: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

117

triển nông nghiệp nước nhà. Ông đã chọn miền đất ruộng ở chân Núi Đọi - quê cha làm nơi tiến hành nghi lễ cày tịch điền. Từ Kinh đô Hoa Lư, vua Lê Đại Hành ngự thuyền rồng, theo dòng Hoàng Giang, ra ngã ba Gián Khẩu, vào sông Đáy, ngược lên Châu Cầu, rồi theo dòng Châu Giang ngược lên Núi Đọi để làm lễ mở xá cày đầu tiên cho dân vào vụ đầu năm. Sự kiện này được ghi chép trong nhiều cuốn sử cũ của nước ta, như Việt sử lược (có niên đại vào thế kỷ XIV), Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên, biên soạn vào thế kỷ XV), Đại Nam nhất thống chí (thời Nguyễn). Các cuốn sử này đều chép vào mùa Xuân năm Đinh Hợi, hiệu Thiên Phù, năm thứ 7 (987), nhà vua (Lê Hoàn) bắt đầu cày ruộng tịch điền ở Đội Sơn, được một lọ vàng bạc, cày ở núi Bà Hối được một lọ nữa, vua đặt tên đất đó là ruộng Kim ngân. Như vậy, Lê Hoàn là ông vua đầu tiên dưới chế độ quân chủ chuyên chế Việt Nam tiến hành Lễ tịch điền, nhằm mục đích khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Nay, dưới chân Núi Đọi, phía Tây, vẫn còn cánh đồng “tịch điền”, ruộng gần trăm mẫu. Ngoài các cuốn chính sử trên, truyền thuyết dân gian ở vùng Đọi Sơn vẫn ghi nhớ sự kiện: Cánh đồng vua Lê cày tịch điền nằm sát chân núi Đọi phía Tây, trên cánh đồng này còn lưu lại các địa danh: Nhà hiến (nơi dân chúng dâng thức ăn lên nhà vua), Dinh trong (nơi vua ở), Dinh ngoài (nơi ở của các quan), xứ tàu ngựa (chuồng ngựa của vua và các quan).

Noi theo Lê Hoàn, triều đình nhà Lý rất quan tâm đến việc khuyến khích sản xuất nông nghiệp, không chỉ có cày tịch điền, các vua nhà Lý còn lập đàn Xã Tắc, tổ chức chọi trâu cầu được mùa, kinh lý xem dân gặt lúa, gieo hạt… Lễ cày tịch điền mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc thể hiện sự quan tâm của người đứng đầu đất nước với nông nghiệp, nông dân.

Sau một thời gian gián đoạn, năm 2009, phong tục tốt đẹp - Lễ cày tịch điền - ngày hội xuống đồng của một đất nước nông nghiệp, dân số đa phần là nông dân, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu đã được tỉnh Hà Nam tổ chức tái

Page 48: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

118

hiện tại chính nơi mà 1028 năm trước vua Lê Đại Hành đã cày ruộng. Năm đó, bà Nguyễn Thị Doan - UVTW Đảng, Phó Chủ tịch Nước, đã làm lễ dâng hương cáo yết trời đất để mở đầu nghi thức cày tịch điền. Từ đó đến nay, cứ mỗi độ Xuân về, từ mồng 5 đến 7 Tết Nguyên đán, Lễ tịch điền Đọi Sơn lại diễn ra. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã về Đọi Sơn, mặc quần áo nâu của nông dân, đi chân đất, quất trâu mở những xá cày đầu tiên trên chính thửa đất vua Lê Đại Hành đã cày năm xưa.

2. Lễ hội Chùa Đọi - lễ hội Phật giáo lớnLễ hội chùa Đọi tổ chức vào ngày 21 tháng 3 âm lịch hàng

năm, thu hút hàng nghìn Phật tử và du khách bốn phương về vãn cảnh chùa, chiêm ngưỡng tấm bia Sùng Thiện Diên Linh - tấm bia cổ nghìn năm tuổi còn lưu lại đến ngày nay. Từ sáng sớm, đoàn rước kiệu đã từ chân núi lên chùa làm lễ, dâng hương tưởng niệm vua Lý Nhân Tông - người có công mở mang xây dựng chùa và Linh Nhân Hoàng thái hậu (tức Vương phi Ỷ Lan). Sau phần lễ dâng hương là các đội tế nam quan, tế nữ quan tạ ơn Phật. Về phần hội, có nhiều trò chơi được tổ chức như nấu cơm thi, dệt vải thi, bơi thuyền, hát chèo, hát đối, hát giao duyên, hội chọi gà, tổ tôm điếm, múa tứ linh, đấu vật, đánh cờ người. Lễ hội chùa Đọi đã góp phần tôn thêm sự linh thiêng của Núi Đọi, để Đọi Sơn - Châu Giang là biểu tượng của tỉnh Hà Nam - Sơn - Thủy hữu tình.

3. Bi ký ở Đọi Sơn - một nguồn sử liệu cổ quí giáBi ký là bài văn khắc trên bia / đá. Đây là những thư tịch

cổ, di sản văn hóa thành văn quí giá, cung cấp tư liệu nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực lịch sử, văn hóa của từng giai đoạn dưới các triều đại phong kiến. Đến nay, ở khu vực Đọi Sơn, ngoài tấm bia Sùng Thiện Diên Linh phát hiện từ lâu, thì vào năm 2010, đã phát hiện 10 tấm bia ở Văn từ huyện Duy Tiên. Ngoài những giá trị mỹ - kỹ thuật tạo tác bia đã nói ở trên, bi ký của những tấm bia này cũng vô cùng giá trị.

Page 49: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

119

3.1. Bi ký bia Sùng Thiện Diên LinhBài văn do Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Công Bật phụng

soạn theo chỉ dụ của vua Lý Nhân Tông được khắc vào mặt trước bia Sùng Thiện Diên Linh. Văn bia có tên là Đại Việt quốc Lý đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi. Nội dung văn bia: ca ngợi công lao, tài trí của vua Lý Nhân Tông trong việc cai trị, xây dựng, kiến thiết đất nước, đánh giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi; ca ngợi cuộc sống thanh bình, tết Trung thu có cảnh đua thuyền, bơi chải trên sông Châu Giang (“nghìn thuyền như chớp giật giữa dông; muôn trống tựa sấm vang mặt nước”), diễn trò vui mà ngày nay ta gọi là rối nước (“Thả rùa vàng đội ba hòn núi, trên mặt sóng dập dờn, phơi mai văn để lộ bốn chân, dưới dòng sông lững lờ. Liếc mắt nhìn bờ, mím môi phun bến. Ngửa mặt trông dải mũ nhà vua, cúi xét bầu trời lồng lộng”); mô tả chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) ở Thăng Long (“Mộ chùa Diên Hựu ở tại vườn Tây. Dấu vết theo quy mô thuở trước, lo toan ý thánh ngày nay. Đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao chồi lên một cột đá, trên cột đá có một đóa hoa sen nghìn cánh xòe ra. Trên hoa dựng một ngôi đền nhỏ sẫm, trong đền đặt pho tượng sắc vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại đào ao Bích Trì, bắc cầu cong để đi lại. Ở bên trước cầu, hai bên tả hữu xây tháp báu lưu li. Để mồng một hàng tháng, để mùa xuân hàng năm, nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật”); kể lại việc vua Lý Nhân Tông về thăm Núi Đọi năm 1118, đích thân nhà vua xem xét địa thế, đặt tên núi là Long Đọi; kể lại việc vua Lý Nhân Tông cho xây chùa Long Đội (“Mặt chùa trông ra sông Kinh, gió lặng dòng sông như lụa biếc trải ra, lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan, dáng núi như gấm xanh thêm sáng. Bên hữu khống chế bình nguyên trông với lũy cũ Càn Hưng. Bên tả men theo sông nhỏ, quanh Hán thủy để ra khơi”); kể lại việc vua Lý Nhân Tông cho xây bảo tháp đặt tên là Sùng Thiện Diên Linh (“Xuống chiếu cho thợ giỏi căng dây nẩy mực… Lấy đá mâm làm

Page 50: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

120

đấu, dùng đá vũ dựng biên. Xây ba mươi tầng chọc trời; mở bốn mươi cửa hứng gió. Vách chạm rồng ổ, xà treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng xá lỵ, tỏa tường quang cho đời thịnh sau này. Đỉnh nóc xây tiên khánh bưng mâm, hứng mọc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chỉ tám tướng khôi ngô. Đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm. Chính giữa nhật đặt tượng Đa Bảo bản Như Lai…”); mô tả ngày khánh thành chùa, tháp nhà vua thân hành đến chùa cùng chia vui với trẻ già muôn nơi, đọc kinh kệ, cúng lễ, ca múa, “thổi cơm chay trắng muốt, thết khách đói qua đường, phát tiền quí ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn”. Văn bia ghi rõ tháp này bắt đầu xây dựng từ niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118), đến mùa thu niên hiệu Thiện Phù Duệ Vũ thứ hai (1121) thì hoàn thành.

Mặt sau bia ghi việc Linh Nhân hoàng thái hậu đã cúng vào chùa 72 mẫu ruộng làm ruộng đèn nhang vào ngày 6 tháng 7 năm Tân Sửu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (năm 1121). Ở mặt sau bia, vào năm 1467 đã khắc bài thơ Yết Sơn Lăng và mấy lời tựa của vua Lê Thánh Tông làm vào năm Quang Thuận thứ 8 (1467). Cũng ở mặt sau bia này, năm 1591, có khắc thêm đoạn văn ghi lại việc dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà, vá những chỗ tượng hư hỏng,…của các Giáp Nhất, Giáp Nhị, Giáp Tam các xã Đội Sơn, Đội Trung, Đội Lĩnh, Trung Tín.

3.2. Bi ký các bia ở Văn từ Duy Tiên- Nội dung bi ký của Bia ghi về Văn từ huyện Duy Tiên, phủ

Lý Nhân, ta biết được: Văn từ của huyện Duy Tiên thờ các vị tiền bối có công danh của huyện. Văn từ của huyện Duy Tiên lúc đầu dựng ở xã Động Linh, sau dời về xã Yên Khê, sau đó lại chuyển đến xây dựng bên sườn núi phía Đông xã Đội Sơn. Do lâu năm, Văn từ đổ nát hư hỏng. Ông Bùi Đình Trí, tên chữ là Huệ Đình, người ở Yên Lý, Vĩnh Lại, Hải Dương, đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ, làm quan Tri phủ phủ Lý Nhân, nhân một ngày ông đi qua đây, thấy cảnh Từ chỉ (tên gọi khác của Văn chỉ) hoang vắng tiêu điều, địa thế đi lại khó khăn, động lòng

Page 51: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

121

thông cảm ông trở về huyện phủ, bàn bạc cùng các văn thân, cai tổng, lý trưởng, kỳ cán, đem tâm quyên góp tiền của, trợ giúp phí tổn tu bổ lại Từ chỉ. Bia được khắc vào ngày tốt tháng 5 giữa mùa hè năm Giáp Dần niên hiệu Tự Đức thứ 7 (1854), do Vũ Duy Kỳ hiệu là Vãn Am, đỗ Cử nhân khoa Quý Mão, người xã Bài Nhiễm soạn.

- Nội dung bi ký Bia ghi các vị tiên hiền huyện Duy Tiên: gồm 33 vị quan văn, quan võ, các khoa thi. Bia được tạc ngày tốt tháng 8 giữa mùa thu năm Canh Thìn niên hiệu Tự Đức thứ 33 (1880).

- Nội dung bi ký Bia ghi tên các vị tiên hiền, quan văn, quan võ huyện Duy Tiên: ghi tên các vị tiền hiền, quan văn, quan võ huyện Duy Tiên.

- Nội dung bi ký bia Văn từ Duy Tiên: Ghi danh sách các vị: Cử nhân, cống cử, ngự cống, giám sinh đã đỗ qua các khoa thi ở phủ, huyện, châu, quận, trải qua các triều.

4. Làng làm trống Đọi Tam Làng Đọi Tam nằm dưới chân núi Đọi. Thôn Đọi Tam hiện

có 650 hộ, với 2.100 nhân khẩu, trong đó có hơn 500 người làm nghề trống. Nghề làm trống Đọi Tam có từ lâu đời, ước trên 1.000 tuổi. Theo dân làng, ông tổ của nghề làm trống Đọi Tam là hai anh em ông Nguyễn Đức Năng và Nguyễn Đức Bản. Chuyện kể rằng, năm 986, khi được tin vua Lê Đại Hành sẽ về làng làm Lễ tịch điền, hai anh em mới bàn nhau làm một cái trống to để đánh trống mừng đón vua. Quả nhiên, hôm đón vua, hai anh em ông mang trống ra đánh, tiếng trống rền vang như sấm dội, khiến vua và dân làng vô cùng ngạc nhiên, thích thú. Dân làng tôn hai ông là Trạng Sấm. Nghề làm trống của Đọi Tam truyền nghề cha truyền con nối, chỉ truyền cho con trai và con dâu, không truyền cho con gái, con rể. Trai làng Đọi Tam biết làm trống từ năm 12 - 13 tuổi. Đến tuổi trưởng thành, chúng đã theo cha anh rong duổi trên mọi vùng quê để hành nghề. Tiếng trống Đọi Tam đã góp vui cho hội hè khắp làng quê

Page 52: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

122

trên cả nước. Dân Đọi Tam có thể làm được nhiều loại trống: trống đại, trống đội, trống đình, trống cơm, trống trường, trống nhà thờ, trống chùa, trống hội, trống múa lân sư rồng, trống khẩu, trống đế.

Nhân kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, làng Đọi Tam đã làm chiếc trống to nhất Việt Nam dâng lên Đại lễ. Hiện chiếc trống này được treo ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội). Trống có đường kính mặt (da) trống là 2,01m; cao 2,65m, thể tích 10m3, diện tích xung quanh trống là 19,5m2.

Từ lâu, làng Đọi Tam đã thành lập một đội trống gồm 60 người / 60 trống các loại; trong đó có 12 cụ ông và 48 chị em đã có chồng. Đội trống của làng thường xuyên được mời đi phục vụ các lễ hội lớn, các chương trình / sự kiện lởn trong và ngoài tỉnh.

Ngày nay, dân làng Đọi Tam đã nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu thị trường, phát huy tay nghề làm tang trống, nên ngoài các sản phẩm trống truyền thống, làng đã có thêm một số mặt hàng mới từ gỗ đáp ứng nhu cầu của thị trường, như: thùng rượu, chậu ngâm chân bằng gỗ, bồn tắm bằng gỗ sồi,…

5. Văn thơ về Đọi SơnTừ lâu Đọi Sơn đã là nguồn cảm hứng văn chương cho nhiều

bậc quân vương và văn sĩ nhiều thời. Nhiều áng văn thơ bất hủ về Đọi Sơn đã ra đời và gắn liền với lịch sử văn học nước nhà nói chung, Hà Nam nói riêng và làm nên tên tuổi của nhiều thi sĩ. Ngoài những bi ký Đọi Sơn nói ở trên, nhiều nhà thơ cổ kim đã để lại nhiều áng thơ hay về cảnh trí Núi Đọi trên bia đá và trên sử sách từ gần một ngàn năm nay:

Ruộng Lê hoa cỏ ngọt ngàoRêu in tháp Lý, bia cao chưa mòn……Núi này kể mấy muôn xuân?Hoàng vương, Đế Bá, mấy lần lại qua?Hỏi: Sao núi vẫn chưa giàNúi cười: Cuộc thế vui mà mảng chơi. (Cụ Tú Trần - bạn Cụ Kép Trà)

Page 53: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

123

Đến đời Lê, vào năm Quang Thuận thứ 8 (1467) vị vua tôn sùng Nho giáo - nhà thơ Lê Thánh Tông đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả (phía Đông) núi Đọi, có lên chơi núi. Vua Lê Thánh Tông phong núi Long Đội là Nam thiên đệ tam động (Động thứ ba dưới trời Nam). Cảm hứng trước cảnh điêu tàn của ngôi chùa cổ, vua Lê Thánh Tông có làm bài thơ nhan đề Thiên Nam động chủ lưu đề, cho khắc vào sau tấm bia Sùng Thiện Diên Linh của nhà Lý. Bài thơ tuy có câu chê cười vua Lý tin chuyện quái đản (tin Phật): “Lý triều quái đản bi không tại” (dịch: Triều Lý hoang đường, bia vẫn đấy), song âm hưởng chủ đạo của bài thơ là tố cáo tội ác giặc Minh tàn bạo đã phá đổ chùa chiền:

Lý triều quái đản bi không tại.Minh tặc hung tàn tự dĩ canh.Lộ thiểu nhân tung đài giáp lụcSơn đa xuân vũ hiểu ngấn xanh.Dịch:Triều Lý hoang đường, bia vẫn đấyGiặc Minh hung bạo chùa đã thayĐường người đi ít làn rêu biếcNúi lắm mưa xuân ngấn sáng xanh”Từ đó, suốt thời Lê, để mặc chùa, bia đổ nát.Cảnh đẹp và sự linh thiêng của Đọi Sơn không chỉ được cỏc

bậc vua chúa ngợi ca, mà còn được nhiều tao nhân mặc khách khắp thiên hạ cảm hứng ngợi ca. Tiêu biểu là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (3). Sinh thời, ông có 4 bài thơ về Núi Đọi; trong đó có 2 bài thơ Nôm (là Chơi núi Long Đội và Nhớ cảnh chùa Đọi), 2 bài thơ chữ Hán (là Vọng Đội Sơn (Trông núi Đọi), ức Long Đội Sơn (Nhớ núi ông Đội). Câu mở đầu bài Vọng Đội Sơn, Nguyễn Khuyến nêu rõ đấy là một danh sơn: Vô đoan bình địa xuất danh sơn (Nơi đất bằng bỗng nổi lên một ngọn núi có danh tiếng).

(3). Mai Hương tuyên chọn và biên soạn (2000), Nguyễn Khuyến, thơ, lời bình và giai thoại, Nxb VHTT, Hà Nội.

Page 54: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

124

III. THAY LỜI KẾT

Hà Nam - một vùng đồng chiêm trũng, quanh năm lụt lội liên miên, “Chiêm khê, mùa thối”, “Sống ngâm da, chết ngâm xương”. Như để cân bằng cho phong thủy vùng đất chiêm trũng này, thiên nhiên đã ban cho Hà Nam ngọn Đọi Sơn linh thiêng. Và, với bao công sức của các bậc tiền nhân, Tiểu vùng văn hóa Đọi Sơn huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam với những giá trị vô cùng quí giá về văn hóa vật thể và phi vật thể - văn hóa có được từ hệ sinh thái chiêm trũng của sông Châu - núi Đọi đã được tạo dựng và được các thế hệ người Hà Nam bảo tồn và phát huy từ trên một nghìn năm qua. Địa linh sinh nhân kiệt, những gương mặt sáng giá, người con ưu tú của vùng văn hóa Đọi Sơn ngày nay tiêu biểu có chân dung nhà khoa học sử - văn hóa, du lịch học, ẩm thực học GS Trần Quốc Vượng. Lý thuyết địa văn hóa được GS Vượng là người đầu tiên áp dụng và giải mã thành công nhiều vùng văn hóa ở khắp 3 miền Bắc - Trung - Nam Việt Nam(4).

Nhận thức được giá trị của Tiểu vùng văn hóa Đọi Sơn, trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, tỉnh Hà Nam đã chú trọng đến “Điểm du lịch văn hóa - sinh thái Long Đọi Sơn”. Đọi Sơn là hạt nhân là điểm du lịch núi, chùa Long Đọi và toàn bộ khu vực bao quanh. Chức năng của điểm du lịch là Khu du lịch tâm linh, lễ hội, sinh thái nông nghiệp và làng nghề. Các loại hình du lịch chính: Du lịch lễ hội chùa Long Đọi Sơn, lễ hội Tịch điền; Du lịch làng nghề trống Đọi Tam.

Hy vọng, với sự quan tâm của tỉnh Hà Nam, Tiểu vùng văn hóa Đọi Sơn sẽ được làm giầu có thêm những giá trị văn hóa mới để trở thành một miền quê văn hiến giầu - đẹp của Hà Nam, của cả nước.

(4).Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, Nxb VHDT, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢOSở VHTT Hà Nam (2003), Hà Nam di tích và danh thắng, Hà Nam xb.Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch (2014), Cổ vậtHà Nam, Nxb Thanh niên

Page 55: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

125

VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG LIỄU ĐÔIBA MƯƠI LĂM NĂM - NHÌN LẠI

BÙI VĂN CƯỜNG *

Vùng văn hóa truyền thống Liễu Đôi chủ yếu gồm bốn xã Liêm Túc, Liêm Sơn, Liêm Thuận, Liêm Cần (huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) và một số xã vùng phụ cận mà trung tâm hội tụ mọi giá trị của vùng văn hóa này là thôn Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm nên lấy cái tên này làm tên chung cho cả vùng văn hóa truyền thống này.

Liễu Đôi, nếu bạn đến, bạn như chẳng thấy gì khác lạ. Vẫn những xóm thôn nghèo cũ kĩ, những đền, miếu, chùa chiền quạnh quẽ nhỏ nhoi, những cánh đồng chiêm mấp mô cồn - đống, những người dân lam lũ cần cù... Ấy thế mà Liễu Đôi có cả một giang sơn văn hóa lớn. Riêng về văn hóa dân gian Liễu Đôi không thiếu bất kỳ một thể loại nào: Truyện cổ, truyền thuyết huyền thoại, truyện vui ngụ ngôn, vè, dân ca, ca dao tục ngữ, phương ngôn... Liễu Đôi bổ sung một cách hào phóng cho văn hóa truyền thống cả nước những gì mà văn hóa truyền thống cả nước còn nghèo, thiếu (cả thể loại và nội dung).

Cho đến nay, số lượng tác phẩm văn học dân gian Liễu Đôi được xuất bản in ấn phát hành với số lượng khá lớn. Có thể kể đến:

1. Khảo sát văn hóa truyền thống Liễu Đôi tập I (tái bản lần thứ 3).

* Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian.

Page 56: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

126

2. Khảo sát văn hóa truyền thống Liễu Đôi tập II (xuất bản 1995, số lượng 1.000 cuốn). Hai tập này đã in 18.400 cuốn.

3. Truyện cổ Liễu Đôi (tái bản lần thứ 2, lần in đầu 3.000 cuốn.4. Trăn trở ngàn năm (tái bản lần thứ 2, lần in đầu 2.500

cuốn)5. Chèo bẻo đánh quạ (Nxb Kim Đồng, in 50.000 cuốn)6. Nàng Trăm Sắc (Nxb Kim Đồng, in 50.000 cuốn)7. Ba ông thợ Thổ (Nxb Kim Đồng, in 50.000 cuốn)8. Sống lại mà cười một tí (Hội văn học nghệ thuật Hà Nam

Ninh in 1000 cuốn)9. Hoàn Vương Ca Tích (Hội văn nghệ dân gian Việt Nam

in 2000 cuốn)Cái đắt giá của Văn học dân gian Liễu Đôi không chỉ là

số lượng mà là được tuyển vào các tổng tập văn học Quốc gia, đứng ngang hàng với những tác phẩm đã được coi như tinh hoa của đất nước. Ví như Tổng tập Văn học dân gian người Việt. Tập 10, truyện Ngụ Ngôn, truyện ngụ ngôn của Liễu Đôi chiếm 31 truyện; Tập Ngụ Ngôn Việt Nam của Minh Hạnh, có 164 trang thì ngụ ngôn Liễu Đôi đã chiếm 40 trang, 1/4 quyển sách; Truyện cổ Việt Nam tập 1A tuyển của Liễu Đôi 5 truyện, những tập sau chúng tôi không có sách nên không biết tuyển bao nhiêu. Rồi ca dao, tục ngữ, vè...họ đã chọn in của Liễu Đôi bao nhiêu? Truyện cổ Liễu Đôi được vẽ thành truyện tranh, được dựng thành múa, được dựng thành chèo...

Ta đã biết đất nước này suốt mấy ngàn năm đánh giặc ngoại xâm, ấy thế mà trong kho tàng văn hóa dân gian như ca dao, tục ngữ đồ sộ của cả nước những câu những bài nói về đánh giặc sao mà hiếm hoi đến thế? Ngoài vài câu này ra còn câu nào nữa:

- Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh- Ru con con ngủ cho lànhĐể mẹ gánh nước rửa bành cho voiMuốn coi lên núi mà coiCoi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.

Page 57: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

127

Túi biếc chen lẫn túi hồngTêm trầu cánh phượng cho chồng theo quân.Có thế thôi ư? Há lẽ nhân dân vĩ đại này lại phó mặc điều

tối hệ trọng này của muôn thuở cho những Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi...và những nhà cầm quân và cầm bút khác, còn mình chỉ là người sẵn sàng vâng lệnh chiến đấu ư? Không đâu! Liễu Đôi - Hà Nam cho ta biết rằng nhân dân ta không chỉ nói đến chiến tranh giữ nước, ghi nhớ chuyện chiến đấu giữ nước trong quá khứ mà chính họ là những nhà chiến lược, chiến thuật vĩ đại đã từ máu xương của mình mà đúc rút lấy kinh nghiệm, tổng kết lấy được thua để lại cả một kho lý luận quân sự vô giá.

Này là kết đoàn lên sức mạnh chiến thắng:- Tâm đồng như thiết thanh.- Trăm họ cầm tay, trời lay đất lở.Này là phải lo thu phục nhân tâm, giữ cho nhân tâm đồng

thuận rồi mới tính đến có mưu sách lược. Nhân tâm lìa thì tan nát:- Nhân tâm đặt trước, mưu lược đặt sau.- Bại nhân tâm thì nhân tâm pháBại nghĩa cả thì rã phong hầu.Này là lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, hoặc phải

đánh trường kì:- Mưa rỉ rả đổ cả thiên sơn.- Lấy cật tre đè thiên mãLấy nước lã vã lửa thiêu...Văn hóa dân gian nước này dạy tướng cầm quân, dạy dân

đánh giặc, dạy từ việc chuẩn bị lương thực vũ khí đến việc phòng gian bảo mật, dạy phải nắm chắc địch tình mới ra quân, chớ vội vàng mà bại trận:

- Chưa từng hổ gãi tai, bất tùng lai kiếm giáoỞ giai đoạn phản công, không được bỏ lỡ thời cơ: - Thiên tuế nhất cơ, vạn tuế nhất cơ (thời cơ ngàn năm, vạn

năm có một).

Page 58: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

128

Thời cơ đến, phải chớp lấy thời cơ mà phản công quyết liệt:- Đánh không cho ngáp, đánh áp mặt tiền, đánh liền trăm trận!- Đổ dầu vào cỏ mà thiêu, cuốn chiếu một chiều mà đánh- Đánh cho không kịp bịt tai, không tài quay giáo, không áo

tháo chạy.Liễu Đôi không xa Nguyễn Trãi, Quang Trung và những tướng

lãnh của chiến dịch Hồ Chí Minh thần tốc, thần tốc và thần tốc!Còn điều này nữa: Ta chiến đấu vì mục đích cao cả là giữ

nước, đạt mục đích rồi, phải biết kết thúc chiến tranh đúng lúc. Liễu Đôi nói:

- Chớ cậy kiếm sắc mà dóc đến xươngChớ quá dây cương mà nát đường thiên hạ.Đó là lời dạy bảo, còn đây là một lời phê phán thẳng thừng:- Cầm kiếm ba thu, còn một nỗi ngu tra vỏ!Nghĩa là không biết kết thúc chiến tranh - Không biết tra

gươm vào vỏ đúng lúc là ngu lớn, cũng là “nát đường thiên hạ”! Thế mới là “lòng bể dạ hà” mênh mông, sâu sắc.

Trên vùng văn hóa Liễu Đôi, mỗi câu chuyện, mỗi ngôi đền, ngôi miếu, mỗi cánh đồng, mỗi một mô đất, mỗi một tục lệ đều ghi dấu ấn về một quá khứ mà việc luyện rèn, việc đánh giặc, chống xâm lăng là hệ trọng hơn hết:

Xin dẫn:- Giữa đồng Liễu Đôi có một gò đất gọi là Đống Cờ quạt

(Chiêng trống): Rằng là nơi xưa vị tướng đứng chỉ huy quân sĩ và là nơi để biểu dương khen ngợi những tướng sĩ tập luyện chuyên cần giỏi giang.

- Cánh đồng Bụt Đất: Nơi xưa kia những chàng lính lười biếng luyện tập, bị phạt, bắt ra ngồi lố nhố như những chàng Bụt Đất mới có tên.

- Đây là cánh đồng Mã Bái: vị tướng cất quân đi đánh giặc dân cả vùng ra tiễn đưa, lạy theo bước chân ngựa mới gọi là Mã Bái...

Đó là chuyện về đời Trần, một vị tướng về đây luyện quân tuyển tướng. Rằng là Binh thư binh pháp Liễu Đôi có được từ thời đó.

Page 59: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

129

- Tục chiêng lệnh mở mắt ở các làng Lau, Gừa, Sông, Chảy mồng 6 tháng Giêng: Nửa đêm, sau một hồi chiêng lệnh ở đình làng, tất cả mọi nhà, mọi người đều thức dậy, ai có gì gõ thành tiếng được như mâm nồi, thúng mẹt...đều nỗ lực gõ đánh, càng khỏe, càng vang, càng được phúc! cả một vùng trống chiêng, mõ, cồng, mâm, nồi...đều đồng thanh lên tiếng vang dội xa gần đều nghe ấm ầm, ù ù, ình ịch...thật đáng sợ, thật lạ lùng, kéo dài suốt cả canh ba. Tục này nhằm mở mắt cho một vị thần linh thiêng của vùng này. Ngài vốn là một chàng trai có tài võ nghệ, lại rất giỏi ca hát, chàng cất tiếng hát ở chỗ nào thì gái trai cả vùng kéo đến và chỗ ấy thành hội hát ngay. Chàng lại có đôi mắt kì lạ, hễ nhìn vào kẻ thù thì kẻ thù bốc cháy, chàng nhìn vào người con gái nào hoặc người con gái nào trót nhìn vào đôi mắt chàng một lần là tự nhiên mang thai! Hội hát càng mở ra nhiều thì đôi mắt oái ăm của chàng lại gây nhiều nỗi oan khổ cho bạn hát. Từ bấy, đến hội hát, chàng hát càng hay càng mê say. Không ai tài chi kéo chàng ra khỏi cơn đam mê kì lạ ấy, chàng sẽ hát hết đêm này sang đêm khác. Bạn hát và dân cả làng xã rất yêu chàng nên sau một tiệc hát, đến khoảng canh ba là mang trống cái, cồng mõ... ra đánh để thức tỉnh chàng. Lâu dần sự ấy thành quen.

Đất nước bị xâm lăng. Chàng được tôn làm tướng cầm quân đánh giặc. Ra trận chàng đốc quân dồn giặc vào chỗ hiểm, rồi phóng ánh mắt dữ dội vào quân giặc cho kì bốc lửa đùng đùng, thiêu đốt chúng thành tro bụi mới thôi.

Lần ấy, sau một trận chiến thắng lớn và cũng là dịp mừng xuân mới, hội hát được mở ra sôi nổi hào hứng kéo dài thâu đêm đến nỗi quên cả lệ trống chiêng mở mắt cho chàng vào lúc canh ba, giặc ập đến lúc nào không ai hay biết.

Trống trận, pháo hỏa của giặc ầm vang như sấm bốn bề, chàng mở mắt thì không kịp nữa. Chàng bèn móc cả đôi mắt của mình ném vào hàng trận quân giặc, đôi mắt nổ vang lửa tràn ra bốc cháy, thiêu sạch quân thù. Chàng cũng chết trong biển lửa hờn căm ấy.

Page 60: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

130

Từ bấy, dân của các làng Lau, Gừa, Sông, Chảy lệ “Cồng chiêng mở mắt” (còn gọi là Chiêng lệnh mở mắt, Chiềng thanh lấy khước) để tưởng nhớ chàng và tập báo động cảnh giác với kẻ thù...

- Hội võ vật Liễu Đôi: là lễ hội tiêu biểu nhất bao trùm và chi phối mạnh mẽ nhất văn hóa của cả vùng.

Thánh Hội là Chàng trai họ Đoàn, võ vật tài giỏi, được trời ban cho gươm báu, khăn đào trên đất Nương Cửi Liễu Đôi. Chàng quá mừng liền chạy vội về không may vấp ngã vào một cọc nhọn. Cọc đâm thủng bụng. Máu tuôn ra như xối, chẳng có gì để cầm máu, chàng móc ngay một nắm đất Nương Cửi đắp vào vết thương. Máu ngừng chảy, vết thương liền miệng ngay. Biết đất quê hương màu nhiệm, chàng ngả khăn gói theo một gói để hộ mệnh. Thế rồi chàng theo quân đi đánh giặc. Ít lâu sau khi hành quân qua vùng ta, chàng đã thành một vị tướng trong đội tiên phong cùng nữ tướng họ Bùi vốn đã cùng chàng có ước hẹn trăm năm. Tất nhiên chàng không quên chia đôi gói đất thiêng tặng cho nàng một nửa.

Ra trận, chàng cầm kiếm thần, thắt khăn đào, mình xoa đầy một lớp đất thiêng của quê nhà. Chàng xông xáo như chỗ không người, gươm chém giáo đâm, tên bắn vào chàng như va vào đá. Dưới chân ngựa chàng giặc chết như ngả rạ. Nữ tướng họ Bùi thấy thế càng yêu quí chàng gấp bội. Tranh thủ giữa hai trận xung xát nàng chạy lại, cụng đầu vào tấm ngực của chàng để tỏ tình yêu quí. Nào ngờ cử chỉ ấy làm rơi mất một mảng đất trên ngực chàng mà không ai biết. Khi vào trận, một ngọn giáo của giặc phóng trúng chỗ ngực chàng nơi không có đất thiêng che chở. Tìm gói đất thì gói đất đã rơi mất mà nữ tướng họ Bùi thì lại đương xông pha theo một hướng xa khác. Biết thế nguy, chàng quay ngựa tìm chủ tướng tâu bày kế trận rồi mới ngã xuống. Thi thể chàng được đem về quê mai táng.

Đất nước thanh bình, nữ tướng họ Bùi quay về thăm mộ chàng, khi còn cách khoảng trăm bước chân, nàng quá đau xót, mà gục chết ngay trên yên ngựa.

Page 61: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

131

Cảm thương và nhớ ơn người đã hi sinh cho đất nước quê hương, dân vùng Liễu Đôi mới lập đền thờ chàng và nàng gọi là đền Thánh. Đền Thánh sở dĩ ngoảnh hướng Bắc vì khi tử trận vị tướng họ Đoàn không chịu nhắm mắt, cứ trừng trừng nhìn lên hướng Bắc, người ta xoay thế nào Ngài cũng ngoảnh nhìn về hướng ấy. Đền cất như thế là theo ý Ngài để Ngài còn cảnh giác với kẻ thù hướng ấy.

Từ đền Thánh đến nghi thức của Hội đều gắn bó với câu chuyện về Thánh (chàng trai họ Đoàn). Mở đầu cho Hội là lễ phát hỏa: người ta đốt phóng lên trời một ngọn lửa rực sáng (nhắc chuyện xưa ngọn lửa thiêng đã bốc lên ở chỗ này). Tiếp là lễ trao gươm. Ông trùm hội trao thanh gươm Thánh và thắt khăn đào cho một đô vật danh dự (nhắc chuyện Đức Thánh thuở xưa được trời cho gươm báu và được ban khăn đào ở chỗ này) và rồi lễ thanh động: chiêng, cồng, trống, mõ ...ở khắp làng xã đều nổi lên vang dội tượng trưng cho sự ra quân đánh giặc thuở ấy.

Những tục lệ này dường như muốn nói: đừng quên, Thánh Hội là thế đấy. Ta đang noi theo gương xưa ngàn năm còn sáng láng và ta vào Hội!

Hình như xưa kia đây là đất luyện quân, tuyển tướng, lực lượng chính của Hội này có khi là quân đội nên mới có quang cảnh sát khí ngất trời như thế này:

- Năm mẫu gươm đao, mười sào cung nỏ- Năm đống khiên che, mười bè trượng kínhHội là nơi quy tụ anh hùng hào kiệt, nơi biểu dương sức mạnh

vũ trang cũng như tinh thần ý chí của nhân dân chuẩn bị đánh giặc giữ nước: Hãy nghe một đoạn của bài phú tả về Hội vật võ này:

Giải Dầm dương vây,Thai Chài sấn sổ,Người ra như kiến, ấy Bồng Lạng, Bồng ChiềngGiáo giăng chật đất, ấy Quế Sơn Tượng Lĩnh.Giật mình vì người ngựa La Quán,Hú vía vì giáo gươm Quế Quận.

Page 62: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

132

Dẫu to gan như Ngô, cũng rùng mình sởn gáy;Dẫu lớn mật bằng Thát cũng hồn lạc phách xiêuTưởng sát khí gươm bay, rụng trăm đầu nghịch tặc,Tưởng oai thần lửa cháy, mất một vạn ma vương,Tướng làng Đông lừng lững khói hương, râu tóc uốn cong

mây lượn Thần làng Đống phảng phất mơ màng, nhang cháy đỏ u linh...Đoạn phú Hội võ vật Liễu Đôi này vừa cho ta biết cái khí

thế của Hội, vừa cho ta rõ ý thức, tôn chỉ của Hội cũng như tuyên ngôn của Hội đã lưu truyền:

Ngàn năm vật võ đua tàiVạn năm sông rộng núi dài tổ tiên.Cho “Sông rộng núi dài tổ tiên” không chỉ trách nhiệm của

nam nhi. Ở hội này phụ nữ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chưa thấy ở đâu có hội thượng võ mà phụ nữ lại là một lực lượng lớn vào cuộc đua tài đọ sức một cách bình đẳng với nam giới như ở hội Liễu Đôi:

Con gái vùng Quế Quyển vốn người ở đất “Nồi chum bát đĩa là nghề” về dự hội trong dáng vẻ “Voi nan lừng lững đứng ngồi” và tài năng thì đáng sợ.

Múa gậy dựng đứng cây treVung gươm chém đứt cả bè gỗ limCon gái làng Hạ thì “Múa võ nổi sóng đất bằng” và gái La

Sương vào cuộc đua tài thì “Đi dọc như chớp đi ngang như thần”. Tài năng khí phách muốn vượt bọn mày râu:

...Trai bốn phương đứng tần ngần...Giỏi thì tuốt trần thanh kiếm lại đây!Con gái mỗi vùng một vẻ riêng, nhưng đều tài giỏi, can

trường, đẹp đẽ. Văn chương Liễu Đôi đã dành cho họ những lời ca ngợi xứng đáng.

- Lưng ong ai uốn nên congĐể cho kiếm vẽ một vòng như sao.- Kìa ai bổ thượng tài ghê

Page 63: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

133

Ngực bồng như quả núi Nghè chung chiêng.Nếu lấy thái độ đối xử với phụ nữ làm thước đo văn minh thì

Hội Liễu Đôi từ rất sớm là một Hội văn minh.Một lễ hội có mục đích tôn chỉ cao cả, sâu xa như thế sao ta

không đầu tư trí tuệ, công sức để vực dậy cho ta ngang tầm với ngày xưa? Tôi nói ngang tầm với ngày xưa chứ không nói ngang tầm với ngày nay. Vì ngày xưa, Hội này vì "sông rộng núi dài tổ tiên" chứ không vì mưu lợi, không buôn thần bán thánh như phần lớn hội hè ngày nay.

Không và không có gì cả! 35 năm rồi từ khi chúng tôi giới thiệu Văn hóa Liễu Đôi ra dư luận rộng rãi, nay ngôi đền thờ Thánh hội Võ vật - Thờ một người đã hi sinh cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, người mãi mãi là một tấm gương cao cả cho con cháu muôn đời mà nay vẫn nhỏ nhoi trơ trọi đầu làng Liễu Đôi như một cái điếm canh đê. Tượng Thánh cổ kính vẫn vò võ ngồi đó ngoảnh mặt lên hướng Bắc...canh chừng cho ai đó mà thê lương, thảm hại đến thế?! Liệu rồi ngài còn tồn tại ở đây được bao lâu ngày tháng?

Khu Nương Cửi Liễu Đôi ngày xưa rộng và thoáng lắm. Sau mùa mạ là để làm xới vật. Truyền rằng xưa Thánh hội võ vật được trời ban cho gươm báu, khăn đào chỗ này đây. Ngọn lửa thiêng truyền thống lần đầu tiên tự nhiên bốc cao ngút trời cũng ở chỗ này đây, nay thành vườn ở, xây cất nhà cửa chuồng trại lấn phần hết nơi võ vật! Rồi khôi phục lại Hội, trai tài gái giỏi bốn phương về lấy chỗ nào mà đua tài đoạt giải đây?

Nói thế thôi. Văn hóa truyền thống Liễu Đôi chưa chấm hết. Còn tác phẩm Hoàn Vương ca tích là tác phẩm tiêu biểu của văn hóa Liễu Đôi. Đó là tác phẩm tiêu biểu cho văn học Hà Nam. Nghệ Tĩnh có cái vinh dự tự hào vì có Truyện Kiều thì Hà Nam sẽ tự hào vì có Hoàn Vương ca tích.

Nói về tác phẩm này phải cả ngày cả buổi. Xin quí vị lắng nghe dư luận và ta sẽ bàn luận sau.

Page 64: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

134

ĐỀN TRẦN THƯƠNGGÓC NHÌN DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ

PGS.TS ĐẶNG VĂN BÀI *

Làm rõ mối quan hệ tương hỗ giữa hai mặt giá trị văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể trong một thiết chế văn hóa gắn với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những vấn đề căn bản về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Đặc biệt, hiện tượng Đức Thánh Trần gắn với các di tích đền thờ Trần Hưng Đạo - với hai thành tố thực và huyền thoại cần được nhận thức lại để góp phần phát huy giá trị di tích phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.

1. Đền Trần Thương là loại hình di tích lưu niệm danh nhân tiêu biểu trong kho tàng di sản văn hóa của quốc gia.

Đền được xây dựng để thờ Trần Hưng Đạo một danh nhân đặc biệt xuất sắc trong lịch sử Việt Nam. Theo từ điển Wikipedia, danh nhân là “những con người, nhân vật nổi tiếng, kiệt xuất, có cống hiến lớn lao cho nền văn hóa dân tộc, được lịch sử, dân tộc biết đến, ghi nhận và đánh giá cao, đại diện, biểu trưng cho một nền văn hóa dân tộc”. Dự thảo Nghị định về các hình thức lưu niệm, tưởng niệm danh nhân do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình Thủ tướng Chính phủ cũng xác định “Danh nhân là người có đóng góp to lớn trên một hoặc một số lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học, góp phần thúc đẩy sự

* Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hoá Việt Nam.

Page 65: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

135

phát triển của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử, có đạo đức trong sạch, được ghi danh trong sử sách và nhân dân suy tôn, là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo”. Qua hai định nghĩa nêu trên ta thấy nổi lên một số đặc trưng chung hay là các tiêu chí để một nhân vật được tôn vinh là danh nhân đất nước phải là những người có các phẩm chất/đức hạnh sau:

- Có tài, có đức, tài đức vẹn toàn được sử sách ghi danh và nhất là lại được nhân dân hay cộng đồng tự nguyện suy tôn.

- Có công lao đóng góp trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ở một giai đoạn lịch sử cụ thể.

- Có đạo đức trong sáng và đã trở thành tấm gương cho các thế hệ người Việt Nam noi theo.

Tư liệu lịch sử cho thấy Trần Hưng Đạo là một trong những quan thần nổi tiếng của triều Trần cùng với: Trần Thủ Độ (1194-1264), Trần Quang Khải (1240-1294), Trần Nhật Duật (1253-1330), Trần Khánh Dư (?), Trần Bình Trọng (1259-1285), Trần Quốc Toản (1267-1285), Yết Kiêu và Phạm Ngũ Lão (1255-1320). Đồng thời ông còn được vinh danh là một trong bốn danh tướng kiệt xuất của Việt Nam với “trăm trận, trăm thắng” là: Lý Thường Kiệt (1019-1105), Trần Hưng Đạo (1228-1300), Nguyễn Huệ (1753-1792) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013). Theo nhà giáo Dương Bích Hồng, “The new Encylopendia Britannica” (Tân Bách khoa toàn thư Anh quốc 1983) đã đánh giá cao vị danh tướng của Việt Nam “Trần Hưng Đạo, họ tên là Trần Quốc Tuấn được phong Hưng Đạo Vương (1300), một gương mặt gần như huyền thoại của lịch sử Việt Nam, nhà chiến lược quân sự xuất sắc đã đánh thắng quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn và là người anh hùng dân tộc trong nền văn hóa Việt Nam ngày nay”.

Những nội dung dẫn ra ở trên cho thấy vai trò nổi trội của Trần Hưng Đạo trong dòng chảy lịch sử Việt Nam. Có thể nói, dưới con mắt của triều đình nhà Trần và các vị Vua Trần, Trần Hưng Đạo sẽ luôn là Hưng Đạo Đại Vương, còn trong lòng người

Page 66: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

136

dân đất Việt, ông đã “hiển Thánh” trở thành Đức Thánh Trần. Rõ ràng là, tầm ảnh hưởng của Trần Hưng Đạo trong đời sống xã hội Việt Nam cả xưa và nay là vô cùng rộng lớn và sâu sắc. Chính điều này đã khẳng định nét đặc trưng tiêu biểu của đền Trần Thương (Hà Nam) cùng với đền Trần, đền Bảo Lộc (Nam Định) và đền Kiếp Bạc (Hải Dương) trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam. Bởi vì đối tượng được tôn thờ ở các ngôi đền này là nhân vật lịch sử kiệt xuất nhưng đồng thời cũng là nhân vật huyền thoại trong lòng dân. Tính “chất thực” và “hư ảo” quyện vào đối tượng được tôn thờ tạo nên “hạt nhân tâm linh” và tính thiêng trong một thiết chế văn hóa thể hiện nét đặc trưng của các ngôi đền thờ thần của Việt Nam nói chung và đền Trần Thương ở Hà Nam nói riêng.

Theo tài liệu lịch sử, thời vua Lê Dụ Tông (1705-1729) đã có một đợt “kiểm kê” các cổ tích trong cả nước và đã thống kê được 832 đền thờ Thượng đẳng thần, 01 đền thờ Thượng Trung đẳng thần, 817 đền thờ Trung đẳng thần, 01 đền thờ Hạ đẳng thần. Như vậy vào thời điểm đó, nước ta đã có 1651 “di tích” được Nhà nước phong kiến đặt dưới sự bảo hộ của pháp luật. Phải chăng trong quan niệm của cư dân nông nghiệp, từ xa xưa, các đình, đền thờ thần đã nhận thức như là loại “tượng đài” hoành tráng được xây dựng để kỷ niệm các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, tôn vinh văn hóa, tôn thờ các vị anh hùng dân tộc, vinh danh các gương mặt văn hóa lớn của quốc gia và các địa phương hoặc nhằm “vĩnh cửu hóa” ký ức lịch sử của dân tộc?

Có thể thấy các mục tiêu trên là hoàn toàn phù hợp với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, biết ơn và tri ân những người có công với dân với nước - một đạo lý tốt đẹp mang đặc trưng văn hóa Việt Nam, được các thế hệ người Việt thừa nhận và hiện vẫn đang được thực hành ở tất cả các vùng miền của đất nước. Thực ra, khi xây dựng đình, đền thờ thần, người ta còn muốn gửi gắm vào đó một chức năng xã hội quan trọng khác với tư cách là những thiết chế văn hóa - tôn giáo, tín ngưỡng, có khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa và tâm linh của cộng đồng.

Page 67: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

137

Xây dựng ngôi đền thờ thần - một thiết chế đa chức năng được cắm rễ sâu rộng trong đời sống xã hội là bài học kinh nghiệm chúng ta cần nghiên cứu. Người xưa tập trung công sức, trí tuệ tiền bạc không chỉ nhằm xây dựng không gian kiến trúc (không gian vật chất)/một phức hợp thiên nhiên-kiến trúc-hội họa-điêu khắc để tôn vinh danh nhân, kỷ niệm các sự kiện lịch sử mà còn quan tâm tới “phần hồn” của thiết chế đó, là các nghi thức, nghi lễ và lễ hội văn hóa truyền thống mang tính thiêng liêng kèm theo. Tính chất “thiêng liêng” của thiết chế văn hóa được tạo ra nhờ “hạt nhân tâm linh” - các vị thần/đối tượng được tôn vinh và nghi thức, nghi lễ trong lễ hội truyền thống, chính “tính thiêng” trong đình đền thờ thần có khả năng kết nối cộng đồng, củng cố ý thức tự cường dân tộc, tình cảm yêu quê hương đất nước. Đó mới là mục tiêu cao đẹp mang tính nhân văn mà chúng ta hướng tới khi xây dựng các thiết chế văn hóa - tôn giáo, tín ngưỡng. Bên cạnh đó, nhà nước phong kiến Việt Nam còn có sắc phong cho Vị thần được thờ trong đền và kèm theo đó là cơ chế tạo lệ, miễn giảm tạp dịch và cấp ruộng công cho cư dân địa phương có nguồn lực duy tu bảo dưỡng các thiết chế văn hóa - tôn giáo tín ngưỡng đã có sắc phong của triều đình. Và như vậy, cộng đồng cư dân địa phương thực sự được tôn trọng với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, chủ sở hữu di sản, hoàn toàn có quyền chủ động bảo tồn di tích và thực hành các nghi lễ, phục vụ cho nhu cầu của chính họ.

Qua những nội dung trao đổi ở trên ta thấy rõ, đình, đền thờ thần đúng là một thiết chế tiêu biểu mang đặc trưng văn hóa Việt Nam. Tạo dựng thiết chế văn hóa, xác định chức năng xã hội, nội dung hoạt động, đưa hơi “thiêng văn hóa” tạo ra sức hấp dẫn và thiết lập một cơ chế linh hoạt để duy trì hoạt động là bài học lịch sử mà ngày nay chúng ta cần nghiêm túc nghiên cứu và vận dụng vào thực tế. Đền Trần Thương ở xã Đạo Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam cũng là trường hợp điển hình như thế.

Page 68: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

138

2. Thái độ ứng xử văn hóa đối với các thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và Đền Trần Thương tỉnh Hà Nam nói riêng đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm.

Tôi cho rằng, chúng ta cần tiếp cận vấn đề từ hai góc nhìn di sản văn hóa và quyền tự do tín ngưỡng của công dân. Một mặt, Đảng và Nhà nước luôn đánh giá cao các giá trị tích cực về mặt văn hóa và đạo đức của các tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và các thiết chế văn hóa gắn với các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng nói riêng, đồng thời khẳng định các thiết chế văn hóa đó có khả năng đóng góp, làm phong phú đời sống văn hóa và tinh thần của toàn xã hội.

Ngay trong Điều 4, Sắc lệnh số 65, ngày 23 tháng 11 năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đã quy định rất rõ “cấm phá hủy đình, chùa, đền miếu hoặc những nơi thờ tự khác, những cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn”. Theo nhận thức của Người, tất cả các thiết chế tôn giáo tín ngưỡng phải được tiếp cận dưới góc độ di sản văn hóa và chúng ta có trách nhiệm bảo vệ những gì xét thấy có ích và cần thiết cho công cuộc kiến thiết đất nước.

Mặt khác, Nhà nước cũng xem xét các cá nhân và cộng đồng dù thuộc bất cứ tôn giáo tín ngưỡng nào đều mang hình ảnh của hai nhân cách đặc trưng là công dân và tín đồ/phật tử. Với tư cách công dân, bất kỳ người Việt Nam nào cũng có trách nhiệm xã hội cao với đầy đủ đặc trưng dân tộc là ý thức liên kết cộng đồng cao, lòng yêu nước và tự hào dân tộc cần được phát huy. Và với tư cách là tín đồ/ phật tử, họ có đức tin tôn giáo mãnh liệt là nhân tố mà chúng ta cần thực lòng tôn trọng, hết sức tránh phủ nhận hoặc tranh biện lý thuyết về đức tin khi bản thân chúng ta chưa có trải nghiệm thực tiễn.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thông qua tại kỳ họp thứ 6, Khóa XIII của Quốc hội, Điều 24 quy định rất rõ:

Page 69: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

139

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Điều 41 xác định cụ thể: Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn

hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa.Hiến pháp là văn bản pháp lý cao nhất của quốc gia quy

định tất cả các quyền mà công dân được làm, chúng ta phải tôn trọng. Hơn nữa các cơ quan quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ở các địa phương còn có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho mọi công dân (cụ thể là cộng đồng cư dân tỉnh Hà Nam) thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời có trách nhiệm công dân trong việc bảo tồn di tích lịch sử văn hóa theo đúng các quy định của luật pháp.

Như trên đã khẳng định, Nhà nước ta đánh giá cao và trân trọng giá trị văn hóa, đạo đức và ý nghĩa quan trọng của tín ngưỡng tôn giáo và các di sản văn hóa trong đời sống xã hội hiện đại. Đối với đền Trần Thương thờ Trần Hưng Đạo, ta thấy những giá trị nhân văn cần đầu tư nghiên cứu và phát huy là:

- Ý nghĩa giáo dục hình thành nhân cách văn hóa cho cá nhân và cộng đồng.

- Khả năng góp phần điều chỉnh hành vi con người và thái độ ứng xử văn hóa trước các vấn đề mà xã hội đặt ra.

- Khả năng cung cấp thông tin có hàm lượng văn hóa để cộng đồng nhận thức, tiếp nhận, chuyển hóa giá trị đạo đức của vị thần được thờ là Trần Hưng Đạo thành những hành động

Page 70: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

140

thiết thực xây dựng “nước giàu, dân mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”.

- Khả năng thông qua việc thực hành nghi lễ tín ngưỡng và lễ hội truyền thống nhằm tôn vinh thần tượng mang tính huyền thoại và tấm gương đạo đức của Đức Thánh Trần cho muôn đời con cháu noi theo.

Giá trị nhân văn phân tích ở trên là đặc trưng chung cho hệ thống đền thờ Đức Thánh Trần trong cả nước mà 4 di tích tiêu biểu là: Đền Kiếp Bạc, đền Trần, đền Bảo Lộc và đền Trần Thương. Trong thực tiễn thực hành việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích chúng ta thường tập trung nguồn lực cho việc tu bổ, tôn tạo, phần “vỏ” vật chất/không gian kiến trúc của các khu di tích là chủ yếu. Trong lĩnh vực hoạt động phát huy giá trị văn hóa và đạo đức của tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, chúng ta lưu tâm quá mức tới mặt hoạt động tâm linh mà ít chú ý tới việc nêu cao tấm gương đạo đức sáng ngời của vị thần được thờ. Ngay cả các phương tiện thông tin đại chúng khi đưa tin về các hoạt động diễn ra tại di tích chỉ phản ánh một chiều những mặt sai lệch trong nghi thức lễ hội mà coi nhẹ việc quảng bá giá trị phi vật thể hàm chứa trong di sản cũng như biểu dương mặt tích cực đang được thực hiện.

Các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cũng còn phiến diện trong nhận thức về khái niệm “giá trị văn hóa phi vật thể”, và “phát huy giá trị di tích”. Các mặt hoạt động thường hướng ngoại mà không hướng nội, tức là chú ý tới nhu cầu du khách từ nơi khác đến di tích hoặc tham gia lễ hội. Họ quan tâm nhiều hơn tới khía cạnh tâm linh, “tính thiêng” trong di tích để thu hút khách cho mục tiêu kinh tế mà coi nhẹ khía cạnh văn hóa của các mặt hoạt động trong lễ hội. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới cách ứng xử thái quá và những hiện tượng không lành mạnh trong các dịp lễ hội. Và cần phải khẳng định rằng, các cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hóa nói chung, về tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng, có trách nhiệm không chỉ tôn

Page 71: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

141

trọng cộng đồng với tư cách là chủ thể văn hóa, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân mà còn phải giáo dục di sản nâng cao nhận thức cho cộng đồng, hướng dẫn tín đồ của các tín ngưỡng, tôn giáo thực hành các nghi lễ, nghi thức tâm linh phù hợp với đạo lý cao đẹp của dân tộc và không vi phạm các quy định của pháp luật có liên quan.

Tôi cho rằng, bài học lịch sử/giá trị lịch sử vẫn luôn cần được thường xuyên phổ cập cho cộng đồng địa phương và du khách tới thăm Đền Trần Thương cũng như các di tích đền thờ Trần Hưng Đạo trong cả nước theo đúng mục tiêu cao cả mà cha ông chúng ta đã gửi gắm khi xây dựng hệ thống đền thờ Đức Thánh Trần là:

Thứ nhất, biểu tượng của tinh thần “trung quân, ái quốc”, chủ nghĩa yêu nước thiêng liêng của con dân đất Việt thể hiện qua câu nói bất hủ của Trần Hưng Đạo “Bệ hạ muốn hàng trước hết hãy chém đầu thần đi đã”.

Thứ hai, tấm gương sáng ngời về lòng trung nghĩa, ý thức gạt bỏ mọi hiềm khích riêng tư để đoàn kết tôn thất, triều đình và tướng lĩnh tạo nên sức mạnh nội lực chiến thắng kẻ thù hùng mạnh và tàn bạo là quân Nguyên Mông. Điều này thể hiện qua hành động Trần Hưng Đạo mời Trần Quang Khải lên thuyền trò chuyện, đánh cờ, sai nấu nước tắm cho ông với mong muốn vĩnh viễn xóa bỏ hiềm thù giữa hai gia đình trong dòng tộc. Hoặc trường hợp phản ứng của Trần Hưng Đạo trước ý định trả thù cướp ngôi vua của Trần Quốc Tảng, “từ nay cho tới khi nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa”.

Thứ ba, tư tưởng khoan sức dân, dựa vào dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân làm kế sách giữ nước, thể hiện qua câu trả lời của Trần Hưng Đạo khi được Trần Anh Tông hỏi: “Thời bình phải khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”.

Ba mặt giá trị văn hóa phi vật thể nêu trên là những thông điệp văn hóa có tính vĩnh hằng vượt thời gian, đến nay vẫn còn

Page 72: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

142

nguyên giá trị và nhất định phải được tiếp tục phát huy trong thời đại của chúng ta. Chỉ tiếc rằng trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các di tích thờ Trần Hưng Đạo, chúng ta chưa tìm ra những hình thức, giải pháp phù hợp nhằm tôn vinh và khắc sâu những bài học lịch sử, tấm gương đạo đức sáng ngời của Đức Thánh Trần trong lòng xã hội. Đó cũng là điểm yếu, mặt tồn tại cần sớm được khắc phục để từng bước hạn chế những mặt tiêu cực diễn ra trong lễ hội mà báo chí vẫn nêu ra.

Page 73: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

143

DÃY ĐỌI SƠN VÀ LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐẠI VIỆT

GS. TRẦN QUỐC VƯỢNG

Nếu nói thuần túy về mặt địa lý tự nhiên, vào đầu nguyên đại trung sinh, kỷ Trias, cách ngày nay khoảng 225 triệu năm, toàn bộ đất đai Hà Nam còn nằm sâu dưới đáy biển, dải núi đá vôi gọi là “dãy 99 ngọn” là do vỏ sò ốc biển kết tinh lại mà thành.

Đến cuối kỷ Juras hay đầu kỷ Bạch Phấn (Crétacé) một vận động tạo sơn mới tạo nên vùng núi đá vôi hiện nay. Rồi do hiện tượng gọi là karstic nước mưa có C02 ăn mòn các kẽ đá vôi mới tạo nên các hang động kỳ thú và các thung lũng karstic, chạy dài từ Hương Sơn qua Kim Bảng - Chi Nê - Nho Quan mà vào đến tận xứ Thanh. Đã có tạo sơn ở hai rìa châu thổ sông Nhị - mà địa lý học gọi là miền “đứt gãy sông Hồng” - thì cũng có sự sụt lún ở phần giữa bán bình nguyên Trung sinh, mà phần còn lại chính là những núi đồi sa phiến thạch hay đá hỗn hợp, như Đọi Sơn, Điệp Sơn, Kẻ Non và dải đồi Thanh Liêm… cho tới tận những núi An Lão - Chương Sơn (Bình Lục), núi Gôi (Côi), núi Ngăm (Trang Nghiêm), núi Hổ… của Vụ Bản (Nam Định) và xa hơn nữa của Ý Yên (Nam Định). Chân các quả đồi núi chơ vơ giữa biển này vẫn còn lại dấu tích các loài động thực vật hóa thạch chỉ sống ở vùng biển. Đó là chuyện 1-2 trăm triệu năm về trước.

Khoảng 70 triệu năm cách ngày nay, vận động tạo sơn gọi là alpin đã nâng ghềnh phía nam sông Nhị lên. Chế độ biển kết thúc dần, thay thế nó là một quá trình bồi tụ để hình thành đồng bằng

Page 74: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

144

cổ. Rồi lại còn biển tiến biển lùi, đan xen nhau từ Pleistocène đến Holocène của kỷ thứ 4, rồi cuối cùng mới tạo nên cái châu thổ ngày nay, mà riêng ở xứ Nam, người ta gọi là ô trũng Hà - Nam - Ninh, hay là đồng bằng tích tụ trũng phù sa mới xen đồi sót (5).

Nhưng Văn hóa là của Con Người, hiểu theo nghĩa rộng nhất là “cái Tự Nhiên được biển đổi bởi con người” (man made Environment - Khái niệm của Hertskovits, Melville (6).

Cách đây trên dưới 1 vạn năm, Con Người đã chiếm lĩnh các hang động và thung lũng đá vôi karstic dọc dài từ Hòa Bình - Tản Viên qua dải 99 ngọn của Hà -Nam - Ninh. Họ là những chủ nhân da đen và vàng đen pha trộn của văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn, thu lượm, đi săn và bước đầu biết trồng trọt. Để đến cách đây trên dưới 4000 năm, qua thời đại đồng thau rồi sắt sớm, đã từng bước khai thác miền châu thổ (Hà Nội) và cuối cùng là miền hạ châu thổ ô trũng Hà Nam Ninh, tạo nên nền văn hóa - văn minh Đông Sơn và thời đại các vua Hùng.

Đọi - Điệp và nói rộng ra là cả vùng ven đồi sót của Duy Tiên - Bình Lục… trở thành một Vùng Văn Hóa là từ đó, cách ngày nay đã trên dưới 2000 năm. Ai cũng đã biết những phát hiện nổi tiếng về trống đồng núi Đọi, Yên Bắc, Bạch Thượng, Ngọc Lũ, Vũ Bị, núi Gôi… cùng các thạp đồng Châu Giang, Mộc Bắc, với các nhóm công cụ, rìu, nhíp gặt lúa, dáo đồng Đông Sơn và đặc biệt các mộ cổ thuộc văn minh Đông Sơn quan tài hình thuyền cuối thời đại “các Vua Hùng dựng nước” được phát hiện ở quanh núi Đọi và vùng Kim Bảng - Thanh Liêm cùng cả vùng ô trũng Hà - Nam - Ninh, cho đến tận Vụ Bản - Ý Yên (7)…

(5). Xem lại Vũ Tự Lập (và các tác giả khác) - Sđd; Cũng xem Lê Bá Thảo, “Thiên nhiên Việt Nam”, Nxb KHKT, Hà Nội, 1975, các tr.114 - 115.

(6). Melville J. Herts Kovits, “Man and his works” (Tiếng Anh; “Con người và những công trình của nó”, New York, Alfred A, Knoff, 1948, tr. 47).

(7). Xem phòng nghiên cứu lịch sử Hà Nam Ninh: “ Lịch sử Hà Nam Ninh”, tập I, Nam Định 1988, chương I (tr. 24 - 36), chương II (tr. 37 - 51), đặc biệt xem “Bảng thống kê đồ đồng Đông Sơn” ở trang 47 - 48. Về mộ cổ đầu Công nguyên xem trang 52 - 54. “Nghiên cứu lịch sử Hà Nam Ninh”, số 1 -1987; “Hà Nam Ninh những vấn đề lịch sử”, 1987…

Page 75: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

145

Nếu chỉ tính riêng ở vùng Hà Nam cũ - Duy Tiên thì các bạn đồng nghiệp khảo cổ và học trò tôi đã phát hiện được:

1- Năm 1977, hai ngôi mộ quan tài hình thuyền ở Châu Sơn (*) và Thanh Sơn (**) được khai quật. Hai cỗ áo quan này cùng kiểu với áo quan đã tìm thấy ở khu mộ cổ Châu Can (Phú Xuyên nay, trước đây thuộc Duy Tiên) trên đầu nguồn Châu Giang, nhưng chiếc áo quan ở mộ Châu Sơn đẹp hơn ở mộ Châu Can nhiều. Còn cả di tích Đồ Sơn.

2- Sau đó, một số ngôi mộ cùng kiểu khác được tìm thấy ở Yên Từ, Mộc Bắc (xã cụ Kép Trà ngồi dạy học hơn 10 năm) thuộc huyện Duy Tiên, cũng trên bờ Châu Giang cách khu mộ Châu Can không xa lắm về phía Nam - Đông Nam (8).

3- Tháng 5 năm 1984, một đoàn khảo cổ đã về xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên để tìm hiểu những ngôi mộ cổ do nhân dân địa phương trong quá trình vượt đất làm nền nhà phát hiện cuối năm 1983, ở ven Đầm Mực (vết tích cũ dòng Châu Giang), khu Ao Ấu và gò Con Chó… ngay dưới chân phía Nam núi Đọi. Có 11 ngôi mộ, 3 ngôi mộ thuyền, 2 ngôi mộ đất kè đá, 4 ngôi có áo quan bằng thanh tre ken lại như giát giường, 2 ngôi mộ đất… Hiện vật là đồ đồng Đông Sơn muộn, như giáo, rìu xéo, mũi lao, dao gặt, vòng đồng mũi nhọn, đỉnh đồng, tiền Bán Lạng (đời Hán, trước sau công nguyên). Ngoài ra còn bát gỗ, quả cây làm dọi xe chỉ, múi dứa dại (9)…

(*) (**). Thanh Sơn và Châu Sơn thuộc huyện Kim Bảng. Mộ Châu Sơn có 9 giáo đồng búp đa, rìu đồng còn cán gỗ, thố… Mộ Thanh Sơn có đồ đồng, đồ gốm, đặc biệt có chiếc cày chìa vôi, lưỡi và bắp làm bằng gỗ khá tinh xảo. Niên đại đầu Công nguyên.

(8). Về những ngôi mộ cổ trước Công nguyên tìm thấy ở Duy Tiên - Hà Nam Ninh cũ, xin xem Phạm Quốc Quân và Hoàng Ngọc Lợi: “Mộ thuyền Châu Sơn và những ngôi mộ thuyền mới phát hiện ở Hà Nam Ninh”, Tạp chí Khảo cổ học, số 2.1981, tr.43. Xin đối chiếu và đối sách với:

- Lưu Trần Tiêu và Trịnh Căn, “Khu mộ cổ Châu Can”, Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 1978.

- Phạm Quốc Quân: “Mộ thuyền - Giới thiệu và nhận xét” - Thông báo khoa học của Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 1978.

(9). Phan Tiến Ba - Nguyễn Văn Trò - Nguyễn Quốc Hội, “Khu mộ táng Đọi Sơn (Hà Nam Ninh)”, in trong “Những phát hiện mới về khảo cổ học” năm 1984, tr. 113 -115.

Page 76: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

146

4- Năm 1988, ở Đọi Nhất lại phát hiện được 3-4 mộ thuyền cổ với rìu xéo, dáo đồng Đông Sơn muộn và tiền Bán Lạng đời Hán (10).

Có 3 điều đáng lưu ý:1. Các ngôi mộ đều được chôn ở vùng đất trũng ven sông.

Đấy là đặc trưng địa - văn hóa của các mộ thuyền trước sau Công nguyên thuộc văn minh Đông Sơn, được tìm thấy từ sông Cấm (Việt Khê - Hải Phòng) qua Hải Hưng (La Đôi, Nghĩa Vũ, Thiên Khánh, Ngũ Hùng, Ngòi Hang, Nội Thôn, Gia Lộc…), Hà Sơn Bình (nay là Hà Tây: Lật Phương, Xuân La, Châu Can…) và ngay tại Hà Nội (cầu Giấy, lòng sông Tô)…

2. Chủ nhân các ngôi mộ đều quay đầu về núi phía Đọi Sơn trở thành điểm quy chiếu và đã được thiêng hóa. Sau này, với thuật phong thủy phát triển, núi Đọi (Đội) còn được thiêng hóa hơn nữa: Nếu Điệp Sơn là núi Kim Ngưu (Trâu Vàng) thì Đọi Sơn là núi Đội Rồng (Long Đội), dưới chân núi có 9 ngọn suối. 9 huyệt đá gọi là Mắt Rồng. Đời Lê, vua Lê Thánh Tông phong núi Long Đọi là “Nam thiên đệ tam động” (Động thứ 3 trời Nam) (11).

3. Cho tới nay, Đọi Sơn là di chỉ phát hiện được nhiều sọ cổ chủ nhân văn minh Đông Sơn nguyên vẹn nhất, cách ngày nay ước khoảng 2000 năm. Do vậy, qua đo đạc, nghiên cứu, giới nhân học dễ dàng xác định giới tính, tuổi và chủng tộc người cổ Đọi Sơn, từ 15 - 17 tuổi đến 40 - 50 tuổi… “Người cổ Đọi Sơn có sọ cao, với cái trán rộng, mặt trung bình và không dô. Bốn trong số bẩy người có nhuộm răng đen (đây lại là một đặc điểm văn hóa tộc người truyền thống ở Việt Nam - TQV). Trong số 7 di cốt, chỉ có thể xác định chủng tộc được 4. Di cốt của mộ số 6 và mộ số 8 rất gần nhau và đặc trưng cho chủng tộc nam Môngôlôit (Da vàng phương Nam, như người Việt - TQV). Di cốt của mộ số 1 (áo quan giát giường) và mộ số 7 (áo quan hình thuyền) thuộc nhóm loại

(10). Đặng Công Nga, “Mộ cổ Đọi Nhất Hà Nam Ninh” trong “Những phát hiện mới về khảo cổ học”, năm 1988, tr. 106 - 107.

(11). “Đại Nam nhất thống chí” tỉnh Hà Nội, Sđd, tr. 173.

Page 77: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

147

hình Đông Nam Á (Anhđônêdiêng - hay Malayô - Phôlynêdiêng) vùng ven biển và hải đảo Đông Nam Á - TQV) rất giống với các sọ cổ tìm thấy ở Xuân La, Châu Can trước đây” (12).

Hơn ba chục năm nay, giới khảo cổ học Việt Nam và quốc tế đã tìm hiểu cội nguồn, niên đại và quá trình phát triển của loại mộ thuyền (còn gọi là mộ quan tài thân cây khoét rỗng) ở Việt Nam, Nam Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philippin…

Kết luận bước đầu là:Căn cứ vào những tài liệu khảo cổ học và dân tộc học mà

chúng tôi biết được về khu vực Đông Nam Á, chúng tôi cho rằng loại mộ thuyền này xuất hiện trước nhất ở vùng Đông Nam Á hải đảo, với một truyền thống không ít hơn 2.500 năm lịch sử. Từ vùng ven biển, nó được hội nhập vào văn hóa Đông Sơn, ngược theo các triền sông vào các vùng ô trũng hai bên tả hữu ngạn sông Hồng (13). Cùng với nó, là sự hội nhập ngôn ngữ từ gốc ngữ hệ malayô - polynêdiêng (anhđônêdiêng) vào tiếng Việt.

Sự có mặt rất sớm của họ Trần ở vùng sông Châu - núi Đọi và, nói rộng ra, ở Bình Lục, Thanh Liêm, Duy Tiên… là điều dễ hiểu. Họ Trần là dòng họ của những người “ăn sóng nói gió”, của miền sông - nước…

Thời Bắc thuộc ngàn năm, vùng núi Đọi - sông Châu vẫn là một trấn trị quan trọng. Đã tìm thấy nhiều “mộ Hán” cổ ở Nha Xá, xã Mộc Nam với đồ gốm văn in hình hình học (một ảnh hưởng văn hóa của vùng Đông Nam duyên hải Hoa Nam), mộ gạch cổ ở thôn Nguộc xã Châu Giang (Duy Tiên), ngoài loại gạch mà ở rìa in hoa văn ô trám lồng còn có ngói ống văn thừng, đặc trưng của văn hóa Hán. Dải núi 99 ngọn dọc sông Đáy, đặc biệt ở vùng Lạt Sơn - Thanh Sơn (Kim Bảng) có nhiều di tích và truyền thuyết liên

(12). Nguyễn Lân Cường (Viện khảo cổ học), “Người cổ ở Đội Sơn Nam Hà” in trong “Những phát hiện mới về khảo cổ học” năm 1994, đã dẫn, tr. 115 - 117

(13). Đào Quí Cảnh “Quá trình phát triên, niên đại và nguồn gốc của mộ quan tài thân cây khoét rỗng (mộ thuyền TQV) ở Việt Nam”, in trong X, Hà Nội, 1986, tr. 22 - 39.

Page 78: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

148

quan đến nữ tướng Lê Chân thời đại Hai Bà Trưng (14). Đây cũng chính là trên con đường “thượng đạo” truyền thống trước thế kỷ X - XI, nối liền xứ Đoài - xứ Nam - xứ Thanh, đi ngang qua phía Tây Nam Hà Nội (***). Thôn Dưỡng Mông, xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên còn thờ bà Nguyệt Nga là nữ tướng Hai Bà Trưng, người sau đó cai quản cả vùng phủ Lý Nhân(15): Đây là một nữ Thủy thần, được “lịch sử hóa” và được thờ ở nhiều nơi… Cũng theo Thần phả thì ở thời đại Trưng Vương (40 - 43), tại làng Hoa Miên (huyện Thanh Liêm) đã có họ Trần; thế kỷ III và thời Lý Nam Đế (544 - 546) cũng đã có họ Trần xuất hiện ở vùng trũng Hà Nam Ninh (16). Và đến thế kỷ X đã có một xứ quân lớn là Trần Lãm có căn cứ ở cửa biển Bố Hải Khẩu của sông đại Hoàng Giang (hạ lưu sông Nhị) (nay là vùng Cầu Bo, Vũ Thư, Thái Bình). Đến thời Trần (1226 - 1400) - gốc dân chài Tức Mặc - Thái - Đường (Nam Định - Thái Bình, trước 1890 là Một Xứ, Xứ Sơn Nam Hạ, lập từ đời Cảnh Hưng (1740), - lên Thăng Long (Hà Nội) làm vua 175 năm, thì toàn vùng Sơn Nam, từ Kinh đô đến Thiên Trường, tràn ngập các “thái ấp” của họ Trần mà Lê Xá - Duy Tiên quê cụ Kép Trà là một trọng điểm. Ta sẽ nói sau, nay hãy trở về với Núi Đọi đã.

(14). Chúng tôi xin chân thành cảm ơn ông PTS Đinh Trung Kiên - vốn gốc họ Trần ở xã Đại Cầu, Duy Tiên, tổ tiên làm thượng tướng đời Mạc, cuối đời Mạc đầu triều Lê - Trịnh, con cháu phải chạy trốn vào vùng núi Lạt Sơn, xã Thanh Sơn, Kim Bảng, đổi họ là Đinh - Giảng viên khoa Sử ĐHTH Hà Nội, đã cung cấp cho các thông tin sử học này.

(***) Đường “thượng đạo” này đến thế kỷ XVIII, theo Lê Quý Đôn (Kiến văn tiêu lục) đã ít dùng và bị hủy hoại từng đoạn, còn dùng được vài đoạn, quãng Nho Quan - Phố Cát. Đó là do Lý-Trần, Lê - Nguyễn ngày càng mở mang đường thiên lý “hạ đạo” (Quốc lộ 1 ngày nay).

(15). Theo “Thần phả” đền thờ Nguyệt Nga tại hai thôn Dưỡng Mông, An Mông, xã Tiên Phong, Duy Tiên , trên đôi bờ sông Châu, cách núi Đọi vài kilomet.

(16). Xem “Việt Sử lược” (bản dịch của Trần Quốc Vượng), Nxb Sử học, Hà Nội, 1960. Quyên I (tr. 23; Trần Bá Tiên đến Dạ Trạch, tr. 45; Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu. Cũng theo “Đại Việt sử ký”, hồi thế kỷ X còn một xứ quân nữa, cũng họ Trần, giữ miền Giao Thủy - là miền “giáp nước” (chỗ nước ngọt sông và nước mặn biên giáp nhau) ở xứ Nam; từ Ninh Bình qua Nam Định - Thái Bình (cũng xem Ngô Thì Sĩ “Việt Sử tiêu án”), bản dịch của hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc văn hóa Á châu, Sài Gòn 1960, tr.84).

(****). Theo “Đại Việt sử ký” và “Việt sử tiêu án” của Ngô Thì Sĩ và bi ký cổ.

Page 79: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

149

Thế kỷ X, nước Đại Việt phục hưng quyền Tự chủ, chấm dứt hơn ngàn năm Bắc thuộc. Qua thời Ngô ngắn ngủi đóng đô ở Cổ Loa (ngoại thành Hà Nội) (939 - 944), tiếp đến cuộc loạn “Thập nhị xứ quân”. Đất Trường Châu nổi lên ông Đinh Bộ Lĩnh, làm con nuôi sứ quân Trần Lãm, đánh dẹp các xứ quân rồi xưng Đế, đóng đô ở Hoa Lư (968). Lê Hoàn xuất thân nghèo khổ, sớm mồ côi, quê cha ở Bảo Thái (Ninh Thái) Thanh Liêm đồng chiêm trũng, quê mẹ ở Kẻ Sộp (Trung Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa(****)) đi theo Đinh Liễn, từ tên lính trơn mà làm đến chức Thập đạo tướng quân của nhà Đinh. Khi vua Đinh bị giết (980), Lê Hoàn lên làm vua, đánh Tống, bình Chiêm, mở đường sông, đường bộ từ xứ Lạng cho đến bên kia Đèo Ngang (Quảng Bình). Vua Lê rất trọng nông. Ông đã chọn miền chân núi Đọi làm nơi tiến hành nghi lễ cày ruộng Tịch điền.

“Đinh Hợi, năm thứ 8 (987), mùa xuân, vua bắt đầu cày ruộng tịch diền ở núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng (mả Tầu để của còn lại? TQV), lại cày ở núi Bàn Hải, được một chĩnh nhỏ bạc, vì thế đặt tên là ruộng Kim Ngân” (17). Nay ở chân núi Đọi phía Tây, vẫn còn cánh đồng “Tịch điền” đó, ruộng gần trăm mẫu và còn di tích vài nền nhà, gọi là Dinh trong, Dinh ngoài, tương truyền là nơi vua Tiền Lê về nghỉ, để sau đó đi cày. Từ Hoa Lư, vua đi thuyền theo dòng Hoàng Long, ra ngã ba Gián Khẩu, vào sông Đáy, ngược lên Châu Cầu, rồi theo dòng Châu Giang ngược lên núi Đọi.

Sang đời Lý (1009 - 1226), núi Long Đội càng trở nên một vùng linh sơn, linh địa. Nhà Lý xây hành cung và đặt một kho tài vật lớn ở đây. Năm 1118, một năm sau khi Thái hậu Ỷ Lan mất, Lý Nhân Tông quyết định xây chùa - tháp 13 tầng trên núi Đọi.

(17). “Đại Việt sử lược”, đã dẫn, tr.57, gọi là Đội Sơn là núi Bà Hối; “Đại Việt sử ký toàn thư” (Bản dịch của Viện Sử học) Nxb KHXH, Hà Nội, 1968, tr.141 chép là Đọi Sơn và núi Bàn Hải.

Page 80: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

150

Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (do Nguyễn Công Bật soạn năm Tân Mùi niên hiệu Thiên - phù - duệ - vũ thứ 2 (1121)) viết:

“Ngày tháng năm mùa Hạ, niên hiệu Hội - Tường Đại Khánh thứ 9 (1118), nhà vua cưỡi xe phượng phi tiên, đáp thuyền rồng diệu bảo. Nắng đẹp, sóng im, triều lui, mây tạnh. Qua dòng Hà Lô (sông Nhị? TQV) thấy bến Long Lĩnh (Đội Lĩnh - TQV). Tuy thế núi chênh vênh, nhưng đỉnh vun bằng phẳng. Vua bèn truyền lệnh: buộc dây, dừng thuyền. Xuống chiếu cho các quan hộ giá rằng:

- Trẫm muốn dựng một ngôi chùa ở núi này, có được chăng?Tả hữu bước ra tâu rằng:- Chúng thần nghe các cụ già trong làng kể lại: ở núi này cứ

đến đầu xuân thì trời thường mưa, để nhuần thấm cho muôn dân. Vậy bệ hạ đặt tên núi này là Long Đội. (Thật ra trên núi Đọi đã có một ngôi chùa cổ từ trước nhưng quy mô nhỏ - TQV)”.

Nhà vua chuẩn y, bèn hạ lệnh cho viên quan coi việc bói toán, xác định phương hướng:

Mặt chùa trông ra sông Kinh, gió lặng, mặt sông như lụa biếc dài ra (sông Kinh là sông Châu - TQV);

Lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sáng;

Bên hữu (Tây - TQV) khống chế bình nguyên, trông tới lũy cũ Càn Hưng (Càn chỉ phương Tây bắc - TQV).

Bên tả (Đông - TQV) men theo sông nhỏ (nay là sông Lấp - TQV) quanh Hán Thủy (sông Nhị? - TQV) để ra khơi (qua ngã ba Lảnh - ở trên - hay ngã ba Tuần Vường (Đại Hoàng) ở dưới - TQV).

Xây 13 tầng chọc trời, mở bốn mươi cửa hóng gió. Vách chạm rồng ổ, xà treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng xá lị, tỏa trường quang cho đời thịnh sau này. Đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia tám tướng khôi ngô; đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm. “Chính giữa đặt tượng Phật Đa bảo Như Lai: sức thề nguyền sâu rộng dành

Page 81: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

151

hiến cả thân mình” (18). Ngoài ra còn xây tường bắc cầu, mở rộng đường làng, trồng cây bách thành hai dãy.

4 - 5 năm sau chùa mới làm xong (19), vì “lúc rảnh mới xây, được mùa mới lập”, “trải qua ba vụ cày, bốn mùa lúa chín sau mới hoàn thành. Vua thân hành đến chùa cùng chia vui với trẻ già muôn nước, đọc kinh kệ, cúng lễ, ca múa, “thổi cơm chay trắng muốt, thết khách đói qua đường, phát tiền quí ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn” (20).

Tôi trích dẫn khá dài bài Văn bia quan trọng này của chùa Đọi để chứng minh về một triều Lý thuần từ gắn bó với núi Đọi - sông Châu. Triều Trần vẫn sùng Phật như vậy. Tôi chưa tìm thấy một bài văn thơ Trần nào nói về núi Đọi, chùa Đọi. Sách “Thiền uyển tập anh” (soạn ở đời Trần - xem Lê Quý Đôn - “Đại Việt thông sử, nghệ văn chí”, in lại năm Vĩnh Thịnh 11 (1715)) có chép: Thiền sư Cứu Chỉ thuộc thế hệ thứ 7 Thiền phái Vô Ngôn Thông tu ở chùa “Diên Linh, núi Long Đội, huyện An Lang” từ khoảng niên hiệu Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058) đời Lý Thánh Tông, rất lâu trước khi Lý Nhân Tông xây tháp Sùng Thiện Diên Linh ở núi Đọi (1118). Sư thị tịch vào niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065) (21). Sách “Đại Việt sử lược” viết vào cuối đời Trần (1377) cũng chỉ nhắc đến Đội Sơn một cách hồi cố về những gì xảy ra ở đó vào thời tiền Lê, Lý.

(18). “Đại Việt sử lược”, đã dẫn (tr.175) cũng như “Toàn thư” (Bản kỷ quyên 4) chép năm Trị Bình Long ứng thứ 5 (1209) đời Lý Cao Tông, Nguyễn Phá Lân người động Trư đem bộ hạ ban đêm ra ăn trộm tài vật của nhà nước ở Đội Xá (tr. 186 của sách này lại chép: Năm Tân Mùi niên hiệu Kiến Gia năm đầu (1211) đời Lý Huệ Tông, Trần Tự Khánh (bác ruột Trần Cảnh (Thái Tông) đánh Đội Sơn, giết và bắt được nhiều người).

(19). Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh của vua thứ tư (nhà Lý), đương làm chủ nước Đại Việt. Bia tháp báu Sùng Thiện Diên Linh ở chùa núi Long Đội. Trán bia nhà vua viết bằng lối chữ phi bạch. (Bản chữ Hán và bản dịch của Đỗ Văn Hỷ) trong “Thơ văn Lý Trần” tập I, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr. 388 - 420.

(20). Văn bia nói chùa khánh thành mùa thu năm Tân Sửu (1121) nhưng Việt sử lược (tr. 129) thì nói tháp Đội Sơn làm xong tháng 2 mùa xuân Nhâm Dần (1122), còn “Toàn thư” lại nói tháp là xong tháng 3 năm đó!

(21). “Thiền uyên tập anh” (Bản dịch Nxb Văn học - Hà Nội 1990, tr.77).

Page 82: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

152

Ai cũng biết từ năm Nhâm Tuất (1262), nhà Trần xây chùa tháp Phổ Minh ở hương Tức Mặc, nay đã đổi làm phủ Thiên Trường. Và từ năm 1293 sau khi Trần Nhân Tông thôi ngôi vua đến năm 1297 vua lập Thiền phái Trúc Lâm, nhà Trần quân chủ Phật giáo lấy vùng núi Yên Tử và lộ Hải Đông làm trung tâm. Có lẽ vì thế núi Đọi và chùa tháp Diên Linh không phải là một trung tâm Phật giáo lớn của thời Trần. “Long động” được nhắc đến trong thơ văn Trần là ở núi Yên Tử!

Thời thuộc Minh (1407 - 1427) chùa bị phá, bia bị đạp đổ. “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi (1435) chép: “… Đội Điệp ở về Sơn Nam… Đội Điệp là tên hai núi; triều Lý xây (hành) cung ở đấy, để làm nơi tuần hành và triều hội” (22).

Năm Quang Thuận thứ 8 (1467) ông vua độc tôn Nho Lê Thánh Tông đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả (phía Đông) núi Đọi, nên có lên chơi núi, làm bài thơ khắc sau bia Lý, cười vua Lý tin chuyện quái đản (tin Phật). Và vua Lê để mặc chùa, bia đổ nát… Phải chờ đến triều Mạc cởi mở hơn, năm Tân Mão (1591) niên hiệu Hưng Trị, các quan bá tước nhà Mạc cai trị vùng Duy Tân (Duy Tiên) (23) mới cùng dân ba giáp nhất, nhì, ba Đội Sơn, Đội Trung, Đội Lĩnh, Trung Tín dựng lại bia, bắc lại xà nhà, vá tô lại tượng, làm cửa, xây tường, “khiến cho sau hơn năm trăm năm, một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại được mới mẻ”.

Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” (Phần Dư địa chí) và sách “Hoàng Việt địa dư chí” (quyển I) đời Nguyễn chép rằng:

“Núi Long Đội ở xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, ở kề bên sông”. Về con sông này tức sông Thiên Mạc đời Trần và là phần trên của sông Châu Giang, tôi sẽ xin nói rõ ở phần sau.

(22). Xem “Dư địa chí” trong Nguyễn Trãi toàn tập (bản dịch của Viện sử học) Nxb KHXH, Hà Nội, 1969, tr.198. “Sơn Nam” là tên mới có năm Quang Thân thứ 10 (1469), trước đó là Thiên Trường. Niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1741) mới chia ra làm Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ. Đội Điệp là thuộc Sơn Nam thượng.

(23). Huyện Duy Tân đời Lê, đến khoảng niên hiệu Hoằng Định (1600 - 1619) vì kỵ húy tên vua Lê Kính Tông (tên là Tân) nên mới đổi thành Duy Tiên. Các bá tước nhà Mạc sửa chùa Đọi gồm: “Cai Duy Tân huyện bộ chỉ huy Vân Bảng bá, đồng ty quan Phú Triều bá, cai quan Lam Cầu bá” (xem mặt sau bia Lý ở chùa Đọi).

Page 83: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

153

Nhà bác học Lê Quý Đôn (Bính Ngọ 1726 - Giáp Thìn 1784) ở cuối triều Lê - Trịnh - mẹ là Trương Thị Ích - con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, quê ở Nguyên Xá, huyện Duy Tiên, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), làm quan đến Hình bộ Thượng thư, tước hầu - trong “Vân đài loại ngữ” (phần IX, phẩm vật, điều 11) đã chép lại (tuy không hoàn toàn đúng hẳn) một đoạn văn bia chùa Đội Sơn đời Lý (đã dẫn trên) phần ca ngợi Lý Nhân Tông xây lại chùa Một Cột (Diên Hựu Tự) ở Thăng Long (24). Và trong “Quế đường thi tập”, ông viết đến hai bài thơ về Châu Cầu (Thứ Châu Cầu, Quá Châu Cầu) (25). Thân phụ ông, Tiến sĩ Lê Phú Thứ, được thờ làm phúc thần ở đình thôn Khả Duy hay Khả Di, nơi cụ Kép Trà dạy học thuộc xã Mộc Bắc, huyện Duy Tiên (ngôi đình này xưa ở bờ sông Nhị , trên đường Tiến sĩ đi thuyền qua); đình còn giữ được pho tượng tròn của ông; và các con cháu chi họ Lê vẫn đến đây cúng lễ hàng năm vào ngày giỗ ông (26 tháng Giêng lịch trăng).

Điều đặc biệt quan trọng là Lê Quý Đôn “là người giúp dân trong vùng (Duy Tiên) làm cống Bược. Vị trí cống ấy ở cuối thôn Thọ Cầu, đầu thôn Lê Xá (quê cụ Kép Trà và cụ Tú Trần - TQV). Cống cây để tiêu nước từ cánh đống núi Đọi Sơn ra sông Châu Giang rồi chảy ra sông Đáy. Cống ấy hiện nay đã mở rộng, bây giờ thuộc địa phận xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên” (26).

Tiêu nước theo sông nào? Đó chính là sông Bồng, một nhánh sông tự nhiên (và có đào vét thêm) của sông Châu, chảy từ vùng Đọi Sơn về cống Bược mà khi làm câu đối ở đình làng Trung xã Lê Xá năm Đinh Mão (1927) cụ Kép Trà đã viết:

Bồng Thủy triều thông kim giám tịnhĐọi Sơn vân phủng ngọc bình cao

(24). “Vân Đài loại ngữ” (Bản dịch), Nxb Văn hóa, tập II, Hà Nội, 1962, tr.130.(25). Cũng xem: nhiều tác giả Lê Quý Đôn, nhà bác học Việt Nam thế kỷ XVIII,

Ty Văn hóa và Thông tin Thái Bình 1979, tr.113, 115.(26). “Lê Quý Đôn nhà bác học Việt Nam thế kỷ XVIII”, Sở Văn hóa Thông tin

Thái Bình, 1988, đặc biệt xin xem bài của Phạm Đức Duật, “Một số tư liệu điều tra ở hai vùng quê nội ngoại của dòng họ Lê Quí”, tr.104.

Page 84: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

154

Nghĩa là:Sông Bồng nước chảy gương vàng sạch,Núi Đọi mây che phiến ngọc cao (*****)

Cuối cùng, để tạm kết thúc về núi Đọi, tôi muốn dẫn hai bài thơ Nôm của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến “Chơi núi Long Đội”, “Nhớ cảnh chùa Đọi” cùng ba bài thơ chữ Hán của cụ “Vọng Đội Sơn” (Trông núi Đọi), “Ức Long Đội Sơn” (Nhớ núi ông Đội) (hai bài) (27).

Câu mở bài “Vọng Đội Sơn” nêu rõ: Đấy là một danh sơn:“Vô đoan bình địa xuất danh sơn”(Nơi đất bằng bỗng nổi lên một ngọn núi có danh tiếng)Và hai bài nhớ Long Đội vẫn nhắc đến sông và bến của nơi

đây:- Nghĩ lại bực cho dòng nước chảyĐi đâu mà chảy cả đêm ngày(Chí kim do trướng trường giang cấpNhật dạ bôn đào diệc đáo dương) (******)

- Hữu khách tang gian lập đãi thuyền(Thuyền ai khách đợi bến đâu đây)Cụ Tú Trần, bạn cụ Kép Trà cũng có bài thơ Nôm và một

bài văn chữ Hán khắc vào bia dựng trên chùa Đọi. Xin trích vài câu thơ Nôm:

- Ruộng Lê hoa cỏ ngọt ngàoRêu in tháp Lý bia cao chưa mòn…Núi này kể mấy muôn xuân?Hoàng vương đế bá mấy lần lại qua?Hỏi: Sao núi vẫn chưa già?Núi cười: Cuộc thế vui mà mảng chơi!(*****). Có người cho câu đối này là của cụ Tú Trần hiệu Châu Thần.(27). Xem “Thơ văn Nguyễn Khuyến”, Nxb Văn học, Hà Nội, 1971, tr.101 - 102

(thơ Nôm), tr.384 - 385 (thơ chữ Hán) bài “Chơi núi Long Đội” là do tác giả tự dịch bài “Ức Long Đội Sơn I”, bài “Nhớ cảnh Đọi” là do tác giả tự dịch bài trong “Đội Sơn II”. Sách này có chép cả nguyên văn chữ Hán.

(******). Theo ý riêng tôi, bản tự dịch thơ chữ Hán này của cụ Nguyễn Khuyến không lột tả được hết ý tứ cô xúc trong thơ chữ Hán.

Page 85: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

155

Có một chút hồi tưởng quá khứ vàng son thời tự chủ, rồi sau đó lại tiếp nối triết lý truyền thống “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường”. Nhưng đời người, cuộc thế đã là “hí trường”, thì nhìn ngắm cảnh “tang thương” đó, buồn bã ngậm ngùi như bà Huyện Thanh Quan mà làm gì, cụ Tú Trần đã để cho “Núi cười”. Đây là một tứ thơ rất hay! “Núi Đọi cười”, vì núi cũng như người, cũng có lúc ham chơi, mảng vui mà!

Page 86: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

156

DÒNG SÔNG CHÂU GIANG VÀ LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐẠI VIỆT

GS. TRẦN QUỐC VƯỢNG

Đã có những tác giả viết về “Đời sống con sông” nói chung(28)

và “Sông ngòi Việt Nam” nói riêng (29), song các vị ấy chỉ tiếp cận con sông từ cái nhìn thuần địa lý hay thủy văn.

Ngày trước, với môn địa lý - nhân văn (Geo-graphiehumaine), người Pháp gắn việc đào tạo ở đại học cả Sử lẫn Địa (Sử - Địa). Truyền thống viết chí ở Đại Việt (và Đông Á), từ “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi đến “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Phương Đình địa dư chí” của Nguyễn Siêu hay “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán cuối triều Nguyễn đều gắn bó Sử và Địa, gắn với đời sống các nhân vật lịch sử với những miền “địa linh nhân kiệt”, “sơn thủy hữu tình”… Tiếp nối những truyền thống đó, giới Hà Nội học - trong đó có bản thân tôi - có thích thú nhìn ngắm và nghiền ngẫm “những dòng sông và lịch sử” (30).

(28). Lê Bá Thảo, “Đời sống con sông”, Nxb Khoa học, Hà Nội, 1960.(29). Gs Nguyễn Viết Phổ, “Sông ngòi Việt Nam”, Nxb KHKT, Hà Nội, 1983.(30). Về mặt khảo cổ, tôi đã viết “Đôi bờ Tiêu Tương” (1974) (con sông này đã bị

“chết”), “Đôi bờ Ngũ Huyện khê” (1976) (sông Thiếp hay Hoàng Giang dòng ra của sông Nhị, dòng vào của sông Cầu), “Sông Dâu và Thành Luy Lâu” (1984), “Vị thế địa - lịch sử và bản sắc địa văn hóa của Hội An” (1990), “Mấy vấn đề địa lý - lịch sử khu vực nam Thăng Long” (1989) (đê nói về mạng nước ở kinh thành xưa). Tôi cũng đê ý đến các vùng văn hóa Chămpa gắn với các dòng sông miền Trung và lên mô hình quy hoạch “tiêu quốc” Chăm pa cổ lấy con sông làm trục chủ đạo (generator) (Xem, chẳng hạn, “Mấy vấn đề văn hóa Quảng Trị cổ” (1992).

Nhiều bạn bè và học trò tôi cũng tiếp cận các dòng sông theo cái nhìn địa - lịch sử, địa văn hóa như vậy (Đinh Văn Nhật, Nguyễn Vĩnh Phúc, Vũ Hữu Minh, Nguyễn Văn Lạng, Trần Đình Luyện…).

Page 87: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

157

Ngành vận tải đường sông, trong khi chăm lo cái hôm nay, cũng không quên vai trò vận tải giao thông đường sông trong lịch sử (31).

Thế nhưng dòng sông nhỏ Châu Giang quê cụ nghè Châu Cầu (cụ Bùi Văn Dị - đương thời với cụ Nguyễn Khuyến nửa cuối thế kỷ XIX. Họ Bùi ở Châu Cầu đến cụ nghè Bùi Văn Dị là đời thứ 6 - theo Gia phả họ Bùi Châu Cầu, hiện do GS.TS Bùi Văn Đại lưu giữ), cụ Kép Trà và cụ tú Châu Thần đều là học trò cụ nghè Châu Cầu, bạn cụ Phó bảng Bùi Văn Kỷ (cháu cụ nghè Bùi) - thì lại ít ai để tâm nghiên cứu. Tôi là một kẻ có lỗi lớn với Châu Giang - núi Đọi đất Hà Nam, vì quê hương nội ngoại tôi đều nằm trên bờ sông Châu này - ông nội tôi lấy tên hiệu là Châu Thần (người bầy tôi ở sông Châu) và ngay sau Cách mạng tháng Tám (1945) khi được cử làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời xã Lê Xá, ông tôi đã bàn bạc với Dân và được trên đồng ý, đổi tên xã thành Châu (giang) Sơn (Đọi - Sơn), tên ấy còn được giữ đến nay. Mấy chục năm quen uống “nước máy” Hà Nội và xây dựng ngành Hà Nội học (32), tôi chỉ “lơ mơ” với sông Tiêu Tương cổ của chàng Trương Chi - Mỵ Nương, với sông Hoàng Giang của thiên tình sử Cổ Loa Mỵ Châu - Trọng Thủy, với sông Dâu - Liễu Ngạn của Ôn Như Hầu và Khúc ngâm cung oán, với sông cổ Hội An của nền văn hóa “Cồn Bàu”, và những Hói Năn, Rào Nậy của Bích La, Quảng Trị… mà quên “uống nước nhớ nguồn” Châu Giang, tuy không phải là nơi tôi sinh ra và trưởng thành, song lại là “quê cha, đất tổ”.

Cho đến một hôm… Tại Hội nghị khoa học kỷ niệm 700 năm (1285 - 1985) chiến thắng Nguyên - Mông ở thành Nam, tôi được nghe một bản tham luận thú vị của 2 học trò tôi - nay đã trở

(31). Cục đường sông, “Lịch sử vận tải đường sông”, Hà Nội, 1980, Nguyễn Vinh Phúc… Hà Nội: “Con đường - dòng sông và lịch sử”, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội, 1984.

(32). Ông bạn lão thành Nguyễn Vinh Phúc khi tặng tôi cuốn sách nói trên viết: “Tặng Trần Quốc Vượng, một trong những người đầu tiên đặt nền tảng cho ngành Hà Nội học - mùa kỉ niệm năm 1984”. Xin chân thành cảm ơn ông bạn “vong niên” này!

Page 88: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

158

thành bạn và làm cán bộ Sở Văn hóa Nam Hà và cán bộ Viện Sử học - làm đảo lộn mọi nhận thức của các bậc thầy và đàn anh của họ, vì họ bảo: sông Thiên Mạc gắn với tên tuổi lừng danh Trần Bình Trọng và câu nói bất hủ vang lên bên sông ấy “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” - không phải là sông Hồng hiện nay, và bãi Đà Mạc ấy cũng đâu phải là bãi Màn Trò (Mạn Trù Châu) của phủ Khoái Châu, Hưng Yên, mà chính là con sông Mang Giang (đã cạn từng phần) từ Cầu Giẽ chảy qua vùng Hòa Mạc - Trác Bút (Châu Giang) rồi đổ vào sông Hồng ở tại điểm Tắc Giang hiện nay, mà một bên là thôn Lỗ Hà xã Chuyên Ngoại, nơi Quốc công Trần Hưng Đạo đánh trận A Lỗ mở đầu chiến dịch phản công quân Nguyên - Mông năm 1285 (Lỗ Hà có xóm A Lỗ) - nơi cụ Kép Trà có những quan hệ “không thân thiện” với cánh tổng - hào lý Tiên Xá của huyện Duy Tiên - một bên là thôn Mạc Thượng, xã Chính Lý của huyện Lý Nhân (33).

Và thế là đến năm 1988, khi viết bài bút ký về “Một thời đã qua…” tôi đã phục tùng kiến thức khoa học của giới sử học trẻ tuổi về dòng Thiên Mạc nói trên và - đi xa hơn họ một chút nữa…, tôi cho rằng sông Thiên Mạc cũng mới chỉ là một đoạn của sông Nhuệ (trên) và sông Châu Giang (dưới) của một đường sông nước nối liền Thăng Long và Thiên Trường, trên thực tế là nối 2 Kinh đô (1 của vua, 1 của vua - cha) của nhà Trần quen sông nước (34).

Bây giờ đây thì ai cũng đã rõ: Kinh đô Thăng Long “Lý Trần thiên tải phồn hoa địa” (chữ cụ nghè Vũ Tông Phan) là một thành phố Sông Hồ, một đô thị thủy lợi (hydraulic city) với sông Nhị (đời Trần gọi là sông Lô, rồi sông Bồ Đề, sông Nhĩ

(33). Công cuộc khảo sát tại chỗ và đính chính sai lầm của các nhà sử học Việt Nam lớp trước, của các cán bộ trẻ phòng Thông sử và Bảo tàng Hà Nam Ninh phối hợp với các cán bộ trẻ viện Sử học Hà Nội đã được phản ánh (một phần) trong bài của ông Nguyễn Minh Tường (nay không còn “trẻ” nữa), nhan đề “Góp phần xác định vị trí sông Thiên Mạc trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1258” Tạp chí “Nghiên cứu lịch sử” số 6 (225) XI - XII - 1985, tr.41 - 44

(34). Trần Quốc Vượng, “Một thời đã qua…” Báo Độc lập số 19, 20 ra ngày 28/9/1988, tr. 8-9,14.

Page 89: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

159

Hà, Nhị Hà; tên sông Hồng mới có ở cuối thế kỷ XIX đầu XX); sông Tô Lịch (cái tên này xuất hiện trong sử sách từ thế kỷ VI với Lý Nam Đế), sông Kim Ngưu (tên này gắn với huyền thoại Trâu Vàng, với sông Kim Ngưu, hồ Kim Ngưu (Hồ Tây, Hà Nội) và cả núi Kim Ngưu (núi Phật Tích, Tiên Du, xứ Kinh Bắc, và cả núi Điệp - Duy Tiên xứ Sơn Nam - Nam Hà) vây bọc. Trong tâm thức dân gian, Kẻ Chợ - Thăng Long - Hà Nội là vùng đất:

“Nhị Hà quanh Bắc sang ĐôngKim Ngưu, Tô lịch là sông bên này”Tô Lịch cũng như Kim Ngưu ngày trước là một dòng sông lớn: “Sông Tô nước chảy trong ngầnCon thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa…”.mà, thời Lý - Trần, theo sử sách chép, đó là một đường

giao thông vận tải của Kinh thành (35). Khu Giảng Võ của Kinh thành là nằm ở vùng phía Tây Nam, kẹp giữa hai sông Tô Lịch - Kim Ngưu.

Giáo sư thủy văn học Nguyễn Viết Phổ còn bảo với tôi rằng: sông Tô chính là sông Nhị (sông Cái) ngày xưa, hay sông Cái theo nghĩa rộng (sông Cái ở Thăng Long - đã - và vẫn - đổi dòng từ Tây qua Đông, để lại các dòng sông “con” và những dải hồ đầm).

Nếu theo cách nhìn phân tích hệ thống (System analysis) thì sông là một hệ thống bao gồm “hệ trên” và những “hệ dưới”, với 2 cấu trúc chính là mạng “song song” và mạng “cành cây”.

Sông Tô là nhánh ra (défluent phụ lưu cấp 1) của sông Hồng với 3 cửa ra (out put) là Hà Khẩu (chợ Gạo, quận Hoàn Kiếm), Hồ Khẩu (hồ Tây), cửa Ô chợ Bưởi (sông Thiên Phù và nhánh Xuân La sông Nhuệ đổ vào sông Hồng và là nhánh vào (affluent) của sông Nhuệ. Sông Nhuệ từ thế kỷ VII - VIII đã xuất hiện trong sử sách như là con sông chảy ở rìa tây nam của trị sở An Nam đô hộ phủ (Tống Bình - Hà Nội), gọi là sông

(35). Tác giả khuyết danh thế kỷ XIV (Sử Hi Nhan?) “Đại Việt sử lược quyên III” (Bản dịch của Trần Quốc Vượng, Viện Sử học, Hà Nội, 1960; “Hoàng tử Long Xưởng đi thuyền theo sông Tô Lịch mà vào hoàng cung”.

Page 90: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

160

Từ Liêm, bắt nguồn từ cửa Hàm Rồng làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (Xứ Đoài - Hà Tây) bên hữu ngạn sông Cái (là phụ lưu cấp 1 sông Nhị) và chảy xuôi xuống xứ Nam. Sông Tô dồn nước vào sông Nhuệ ở 2 cửa vào (input) Quang Tó và Hà Liễu, đều thuộc huyện Thanh Trì (Thanh Đàm đời Trần).

Sông Kim Ngưu có 1 cửa ra (output) ở ô Thụy Chương Thụy Khuê từ Hồ Tây (hồ xưa là 1 khúc cong càng cua của sông Nhị) và một cửa ra khác, từ sông Tô ở Ô Cầu Giấy rồi chảy men phía Nam Đại La thành làm ngoại hào và ranh giới Kinh thành với xứ Sơn Nam. Ở đoạn này, sông Kim Ngưu còn “đâm” nhiều nhánh ra khác mà nhánh chính là sông Phương Liệt (sông Sét) rồi gặp lại sông Kim Ngưu ở ngã ba Lừ. Đấy là một nơi “trên bến dưới thuyền” đô hội thời Lê (theo bia Chính Hòa (1680) ở đền Lừ); dân gian gọi là sông Lừ và tiếp tục chảy xuôi qua đầm Yên Duyên - Sở Thượng, Văn Điển (nơi Kim Ngưu gặp lại sông Nhuệ ở ngã ba chùa Đậu thuộc xã Gia Phúc, huyện Thường Tín) rồi lại chảy qua các làng Nghiêm Xuyên, Liễu Xuyên, Cống Xuyên (tên sông cả!) mà đổ nước vào sông Nhuệ ở Đồng Quan ranh giới huyện Phú Xuyên (dưới) và huyện Thường Tín (trên) (36).

Sông Nhuệ tiếp tục chảy từ Đồng Quan xuống Cống Thần (Thịnh Đức (Phúc) Thần xã của huyện Phú Xuyên) thì gặp sông Sa - vốn là một phụ lưu của sông Đáy, cửa ra (input) ở mạn Vân Đình (ngã ba Vương, Hữu Vĩnh) và cửa vào sông Nhuệ là ở Bài - Lễ, ngã Ba Sa bên trên cầu Giẽ trên 1km. Chỗ ngã Ba Sa gần cầu Giẽ này là một “chốt nước” quan trọng, các vua Lý, Trần, Lê (và trước nữa) cùng các chúa Trịnh, theo sử sách đều ngự thuyền qua đây và lập đền, phong sắc cho các vị Thần nước - nữ cũng như nam (37).

Ta có thể “phục nguyên” lại toàn bộ hệ sông này từ cầu Giẽ về Hòa Mạc, Tắc Giang…dựa vào những khúc sông, đầm vực

(36). Trong sử sách, bản đồ và bia ký, Kim Ngưu, Tô Lịch thường bị lẫn làm một. Chẳng hạn bia Vĩnh Tộ thứ 9 (1627) ở chùa Sùng Phúc, Công Xuyên nói phía Tây có “sông Tô Lịch chầu về trước chùa”.

(37). “Đại Nam nhất thống chí” (đã dẫn) tập III, tr.203: Đền thần Quảng Bá ở xã Thịnh Đức (Cầu Giẽ) huyện Phú Xuyên - tức thủy thần ngã ba Sa.

Page 91: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

161

(hình lưỡi liềm hay hình móng ngựa) còn lại, dựa vào địa danh, truyền thuyết, thần tích, bia ký…, và cũng có thể dựa vào thần thoại học và môn học về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian…

Chẳng hạn, ta có thể theo dõi từ thượng nguồn đến hạ nguồn của sông Sa - một nguồn qua Đọi Điệp của sông Châu Giang - qua việc thờ Quảng Bá đại vương (và mẫu Thủy Thần) cùng 5 “con trai” của thủy thần - từ thánh Cả đến thánh Ngũ qua 5 đền thờ ở 5 ngã ba sông này như sau:

(1). Đền Thánh Cả, ở ngã ba Vương (Đáy - Sa) xã Hữu Vĩnh (hay ngã ba Tuyên Mai, huyện Ứng Hòa, Hà Tây).

(2). Đền Thánh Hai, ở ngã ba Sa (Sa - Nhuệ - Kim Ngưu hay ngã ba Cống Thần xã Thịnh Phúc. Đây cũng như ngã ba Xà trên sông Cầu - là đền chính của thủy thần (Quảng Bác).

(3). Đền Thánh Ba, ở ngã ba đền Bìm Bái. (Sông (Cầu) Guột gặp sông (Cầu) Giẽ ở xã Bạch Sam, Duy Tiên).

(4). Đền Thánh Tư ở ngã ba Lương (ngã ba sông Ngoại Độ - sông Nhuệ gặp nhau thành Mang Giang - Đây là khu chợ Lương nổi tiếng).

(5). Đền Thánh Ngũ ở ngã ba Tắc Giang Quang Giang - (sông Nhị).

Trước đó nên chú ý đến đền Lảnh (“quan lớn tuần Lảnh”) ở ngã ba Lảnh (xã Yên Lệnh, Duy Tiên).

Nhưng nếu nghiên cứu con sông này mà chỉ dừng ở đoạn từ Cầu Giẽ đến Tắc Giang là không tiếp cận bằng lý thuyết hệ thống (sông là một hệ thống từ cửa vào đến cửa ra), và không hiểu nổi đường nước sau (Tây) sông Nhị từ Thăng Long đến lộ Hoàng Giang đời Lý, phủ lộ Thiên Trường đời Trần. Vì sông này đâu chỉ dừng lại ở Đọi Điệp hay chỉ chảy ra sông Nhị ở Tắc Giang - mà còn đoạn dưới, nay gọi là sông Lấp, rót vào Châu Giang - đoạn phụ lưu sông Đáy chảy ra từ Châu Cầu - Phủ Lý - trị sở phủ Lý Nhân (toàn tỉnh Hà Nam cũ) thời Lý Trần - ở vùng Chợ Sông - Ngô Khê - Vĩnh Trụ - chỗ giáp ranh 3 huyện Duy Tiên - Nam Xang (Lý Nhân) - Bình Lục - rồi vòng vèo quanh

Page 92: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

162

huyện Thượng Nguyên - quê hương trạng trẻ 12 tuổi Nguyễn Hiền đời Trần, huyện Bình Lục, và huyện Mỹ Lộc, qua các vùng Đệ Tam, Đệ Tứ của Hành cung Thiên Trường, soi bóng tháp Phổ Minh, quá Bảo Lộc, rồi ra ngã ba Tuần Vường nổi tiếng:

- Mười hai cửa bể, phải nể Tuần Vường;- Nhất cao là núi Tản Viên- Nhất sâu là vũng Thủy Tiên cửa VườngCũng có thể dựa vào đền Mỵ Ê phu nhân ở 2 xã Lý Nhân

và Lam Cầu huyện Nam Xang (nay là huyện Lý Nhân), để biết khi Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành ở phía Nam về, đã đi thuyền qua sông Châu ở đoạn ngã ba Hoàng Giang này (Đại Hoàng Giang là sông Nhị, tiểu Hoàng Giang là Châu Giang chứ không phải sông Vị Hoàng (Vị Xuyên) vì cửa Vị Hoàng đổ ra sông Nhị ở Phụ Long xưa nhỏ, mới khai đào ở thời Trần).

Lại cũng có thể dựa vào đền Nguyệt Nga công chúa là thủy thần (được thiêng hóa thành tiên trên trời hiển linh ở ngã ba sông, hay được lịch sử hóa thành tướng Hai Bà Trưng, cai quản cả vùng Lý Nhân) được thờ ở Yên Sở - Thanh Trì ngã ba sông Kim Ngưu - Lừ, ở thôn Hương Lâm xã Hương Lâm huyện Phú Xuyên ngã ba Châu - Lương, ở xã Lạc Tràng huyện Kim Bảng (ngã ba Châu - Đáy), ở An Mông - Dưỡng Mông (xã Tiên Phong, Duy Tiên nay), ngã ba Mang Giang - Châu Giang (gần bến đò Câu Tử)…để biết được ở thời Lê, vua Thánh Tông (1460 - 1497) đã đi thuyền tuần hành trên sông Châu. Chính ông vua này trong những lần tuần hành trên sông đã phong Nguyệt Nga làm thượng đẳng thần và có lần đã lên thăm núi Đọi bằng đường sông này.

Đến thăm chùa tháp Phổ Minh ở Tức Mặc (ngoại thành Nam Định) giờ đây ta không thấy dòng sông Châu đâu nữa, ngoài những dải ruộng lúa nước xanh đậm hơn các ruộng lúa xung quanh. Song, đọc thơ thời Trần thì dòng sông ấy còn hiện hình rất rõ.

Ai cũng biết: Năm Thiệu Long thứ 5 (1262) thượng hoàng Trần Thái Tông ngự đến hành cung Tức Mặc, ban yến, đổi quê

Page 93: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

163

hương Tức Mặc làm Phủ Thiên Trường, đổi hành cung ở đây gọi là cung Trùng Quang (nơi thượng hoàng ngự), xây cung Trùng Hoa (nơi các vua Trần về chầu Thượng hoàng ngự). Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: năm Thiệu Long thứ 5 (1262) đời Trần Thánh Tông, xây chùa tháp Phổ Minh ở phía Tây cung Trùng Quang. Đây là trung tâm của xứ Nam và là kinh đô thứ hai của các vua Trần, đặc biệt của thái thượng hoàng.

Trần Thánh Tông đã làm bài thơ “Hạnh Thiên Trường hành cung” sau kháng chiến chống Mông Nguyên (1288), trong đó có câu:

Thủy hữu thu hàm thiên hữu thuNước mùa thu lồng trời mùa thu) (38)

Trần Nhân Tông ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường viết bài thơ “Thiên Trường văn vọng” và đề thơ ở nhà “Thủy tọa” chùa Phổ Minh:

Thủy lưu sơ khởi bất đa lươngDòng nước mới dâng lành lạnh trôi) (39)

Nhân Tông vịnh phong cảnh hành cung Thiên Trường:Trai đường giảng hậu tăng quy việnGiang quán canh sơ nguyệt thượng kiều(Phòng trai giảng đoạn, sư về việnSông quán canh đầu, trăng lên cầu)Đời Trần cuối (Minh Tông - Dụ Tông giữa cuối thế kỷ XIV)

Phạm Sư Mạnh “ghi lại bằng thơ việc hầu vua về Thiên Trường”:Vinh hà thủy nhiễu cửu trùng điệnBảo khẩu phong dao bách trượng thuyềnLưỡng ngạn tân sương kim quất quốcMãn thành tế vũ thổ hà thiên(Sông nước bao quanh Cửu trùng điệnGió lay cửa bến bách trượng thuyền

(38). Xem “Thơ văn Lý Trần”, tập II, Quyên Thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, tr.412.

(39). Như trên, tr. 466.

Page 94: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

164

Đôi bờ sương mới vùng vàng quýtĐầy thành mưa bay một trời rươi) Sông Vinh, cửa Bảo là sông Vĩnh (đoạn sông Châu), cửa

Vường (Đại Hoàng). Phạm Sư Mạnh cũng viết:Hải thành thổ cống bao cam quấtThiên thuộc quân trang vệ trục lôĐại giá niên niên tuần cố trạchNhạc kỳ xuyên hậu tác tiền khu(Hải thành cống phẩm cam và quýt,Thiên thuộc quân trang các chiến thuyềnXa giá năm năm về quê cũThần sông thần núi dẫu đường quen) (40)

Trần Nguyên Đán (1325 - 1390) “họa bài thơ của thượng hoàng Nghệ Tông đề ở cung Trùng Quang, phủ Thiên Trường”:

Trường không thu hạo Hoàng Giang nguyệtPhương thảo xuân hồi Lục phố phong(Mênh mông thu ánh Hoàng giang trăngThơm cỏ xuân về bến Luộc gió) (41)

Hoàng Giang là sông Châu - sông Nhị. Lục phố có người bảo là cửa sông Luộc bên nửa Thái Bình của xứ Nam, có người nghĩ là một bến sông ở ngay Tức Mặc như Liễu Nha. Nguyễn Phi Khanh, con rể Trần Nguyên Đán, phụ thân Nguyễn Trãi, có đến 4 bài thơ về Thiên Trường - Hoàng Giang (42). “Cảm xúc sau khi thi ở Thiên Trường”, “Mưa đêm ở Hoàng Giang”, “Trong thuyền ở Thiên Trường”, “Từ phủ Thiên Trường lênh đênh ra biển gặp gió”…

- Đôi chép trên sông đưa mảnh thiếpChiếc thuyền đất khách buộc thân người- Giao long giận phun mù chao thuyền,Đầu hạ sóng xô đổ như thác(40). Xem “Thơ văn Lý Trần”, tập III, Nxb KHXH, Hà Nội, 1978, tr.88 - 89. (41). Như trên, tr.149. (42). Như trên, các trang 412 - 413, 424 - 472, 477.

Page 95: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

165

Cây bên bờ lay động như cờ,Tiếng ngoài bãi ầm ào giã gạoMuôn trùng sóng, một tấc lòng sonMưa gió, thuyền đơn, xanh mái tóc…- Triệu Khánh Đông Nam, Tây bến VịnhThuyền con men liễu lướt khe đi!Quả thật, ở vùng Tức Mặc - Mỹ Lộc nay còn di tích Liễu

Nha. Bến Vịnh là ngã ba Vĩnh Trị ở Tam Tòa Lục bộ, cửa sông Đáy cổ, nay còn là vạn chài lớn của huyện Nghĩa Hưng xứ Nam, nơi có hành cung Ứng Phong thời Lý.

Như vậy là đã rõ: Thời Lý - Trần cho đến đầu Lê, có một con đường nước sâu ở sau sông Cái, từ Kẻ Chợ - Thăng Long đến Tức Mặc - Thiên Trường rồi ra biển khơi…

Thuyền bè ngày trước, gặp sóng to gió lớn, rất ngại sông Cái, mà ưa sông Đáy, sông Châu, sông Nhuệ. Có thể ngược lên nữa đến thời Mã Viện, từ Giao Chỉ (Bắc Bộ) Mã tặc tướng cũng đi dọc đường núi, đường nước này, qua Tạc khẩu (Thần Phù - Yên Mô - Ninh Bình) mà vô Cửu Chân - xứ Thanh.

Trên bản đồ địa lý hôm nay, con đường nước đó đã bị mờ đi, vì bị lấp ở nhiều nơi; và cái tên Châu Giang lại chỉ dành cho đoạn gọi là phụ lưu sông Đáy, từ Châu Cầu - Phủ Lý tới Chợ Sông - Vĩnh Trụ. Thế mới biết đời sống con sông cũng như đời sống con người, có sinh và có diệt.

Vì sao sông này mang tên Châu Giang, ít ra là ở đoạn cuối của nó, nay là từ Châu Cầu - Phủ Lý đến An Bài, xưa là cả phần nhánh trên, ít ra từ Cầu Giẽ với cái làng có địa danh Cổ Châu (ở đây cũng như ở Thuận Thành - Hà Bắc Cổ Châu đều là chữ phiên âm của từ Kẻ Giâu (Dâu). Cụ cử Vũ - Lao (Nam Định) đến Duy Tiên ngồi dạy học ở Châu - Xá. Cụ Kép Trà, cụ Tú Đáp đều là học trò cụ Cử Vũ - Lao.

Châu Giang cũng là tên đoạn cuối của một dòng sông đất Việt cũ (nên còn có tên Việt giang) trên đất Quảng Tây - Quảng Đông, Trung Quốc nay, gọi là Tây Giang mà cửa ra biển của nó

Page 96: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

166

là Quảng Châu. Từ đó về Nam, trong vùng biển Đông Bắc Bộ nổi tiếng về Trai Ngọc (chữ Hán gọi là Châu), với điển tích “Châu về Hợp Phố” xuất hiện trong sử sách từ thế kỷ III (Hợp Phố là một quận của châu Giao (Keo) đất Việt, cuối thế kỷ III mới cắt tách ra Quảng Châu từ Giao Châu và thuộc về Quảng Châu).

Đi khảo cổ vùng ven biển Bắc Bộ, tôi mới biết bà con miệt biển ở đây gọi trai ngọc là Giâu (Hào Giâu) và tôi mới vỡ lẽ ra rằng từ và chữ không có trong kho từ vựng Hán cổ trước đời Hán, nó là sự phiên âm (bộ Ngọc) một từ Việt cổ kiểu:

GI - TR (giầu - trầu) D - CH (giả - trả - giần - trần… giâu - châu). Như đã được chứng minh (43), khoảng thế kỷ X - XIV

(Đinh - Trần), các cửa sông đổ ra bể còn ở gần đất liền hơn ngày nay; cửa Đại Hoàng, cửa Bố (Cầu Bo - Vũ Thư, Thái Bình) mà không phải cửa Ba Lạt, cửa Vĩnh (Vĩnh Trị, Tam Tòa Lục Bộ hay Độc Bộ), cửa Đại An mà không phải cửa Đáy nay… Cửa Vân Sàng (Thành phố Ninh Bình), cửa Thần Phù… nay đã ở sâu đất liền - chứ vẫn hiện diện thời cụ Nguyễn Trãi Ức Trai viết “Dư địa chí” (1435).

Cả một dải Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình mà sử sách ghi là GIAO THỦY hay cửa Giao hải đời Trần, là vùng mà bà con Nam Bộ gọi nôm na là vùng “GIÁP NƯỚC” giữa nước ngọt sông đổ xuống, nước mặn triều dâng lên, và bà con Bắc Bộ gọi là vùng nước lợ. Trai ngọc sống ở vùng nước lợ này. Sử dụng huyền tích chép Đinh Bộ Lĩnh hồi nhỏ bị chú đuổi, ra vùng Giao Thủy đánh cá mò trai ốc, đã bắt được ngọc và được thiền sư đoán trước là đứa bé sau này sẽ trở nên phú quý vô cùng, hiềm ngọc bị sứt nên vận số nhà Đinh không bền! Ngọc ấy không phải là ngọc khuê như sử chép lầm mà là ngọc trai (44).

(43). Nguyễn Hồng Kiên - Trần Thúy Anh, “Phủ Giầy: một cái nhìn địa - văn hóa”. Tham luận ở hội thảo khoa học về Mẫu Liễu Hạnh ngày 2/6/1992 tại Trung tâm khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám, cũng xem Nguyễn Trãi, “Dư địa chí” trong “Toàn tập”, bản dịch của Viện sử học, Nxb KHXH, 1975.

(44). Ngô Thì Sĩ, “Đại Việt sử ký - Đinh kỷ”; “Việt sử tiêu án” (bản dịch của Hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc văn hóa Á châu, Sài Gòn, 1960, Nhà Đinh, tr.87).

Page 97: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

167

Sông Châu Giang đoạn cuối có nhiều Trai ngọc quý chẳng cứ vì hòn ngọc trong con trai, mà vì cái vỏ sà cừ nó cũng rất quý trên thị trường thế giới trước kia và cả hiện nay. Có lúc, ngay sau hiệp định Giơnevơ (1954), Ty Canh nông Hà Nam rồi Nam Hà đã có kế hoạch nuôi Trai này trên sông Châu, sau không biết vì lý do gì kế hoạch đó bị bỏ rơi. Nay tôi cũng không rõ Tổng cục Thủy sản và Sở Nông nghiệp (rồi Nông Lâm) Nam Hà có kế hoạch nuôi và đánh bắt loại Trai quý sà cừ rất dầy và óng ánh ngũ sắc, bẩy sắc này không?

Tôi cho rằng con sông này mang tên sông Châu là vì có loại Trai quý này.

Hơn ngàn năm Bắc thuộc, trong số cống phẩm mà Giao Chỉ - Giao Châu phải nộp cho đế chế Trung Hoa Hán - Đường không khi nào thiếu Ngọc Trai - Trai Ngọc này, kèm theo lọ nước ở giếng Ngọc - Mỵ Châu (“nàng Ngọc Trai”) ở Cổ Loa để rửa ngọc trai cho thêm sáng. Mà mãi đến đời cụ Thượng Cháy (Nguyễn Công Hãng quê Phù - Chẩn (làng Cháy) đi sứ Trung Hoa (1718) Vĩnh Thịnh 14) mới xin bãi bỏ được lệ cống nước giếng Ngọc - Mỵ Châu - Cổ Loa này, cũng như lệ cống người vàng (45).

Trên đường nước từ Thăng Long - Kẻ Chợ về Thiên Trường - Tức Mặc, nhà Trần đã tổ chức nhiều “chốt” - gọi là “thái ấp” của dòng họ Trần hay người các họ khác được ban “quốc tính”.

Nay tôi xin tập hợp từ những tài liệu lẻ tẻ liệt kê như sau, theo thứ tự từ Thăng Long đến Thiên Trường - Trường Yên ở phía Tây nam Đồng bằng Bắc Bộ:

1. Ngoại vi Thăng Long, địa đầu xứ Nam trên đoạn đường nước Kim Ngưu - sông Sét - sông Lừ;

Vùng Cổ Mai tên nôm là Kẻ Mơ, bao gồm Mai Động, Tương Mai, Hoàng Mai, Hồng Mai (nay là phố Bạch Mai), hiện thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

(45). Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án, “Tang thương ngẫu lục”, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1960, tr.29 - 30.

Page 98: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

168

Đây là thái ấp của Trần Khát Chân. Đình các làng này đều thờ Trần Khát Chân làm thành hoàng, gọi là “Thượng tướng quân từ” (Tài liệu điều tra tại chỗ).

2. Con trai ông, Trần Thông, được thờ làm thành hoàng ở các làng Cự Đà - Khúc Thủy (Thanh Oai, Hà Tây), bên hữu ngạn sông Nhuệ. Đối ngạn với các làng này là làng Hữu Thanh Oai, có đền thờ Đô Hồ phu nhân, người làng là thiếp của Lê Hoàn. Khi ông từ Hoa Lư đi đánh Tống, chiến thuyền của ông đã qua và ghé nơi đây. Điều đó chứng tỏ sông Nhuệ là đường giao thông thủy giữa Đại La - Hoa Lư, đoạn dưới là theo dòng sông Đáy (Hát giang). Trường Yên có hành cung Vũ Lâm của nhà Trần. Ở ngã ba Gián Khẩu (Hoàng Long - Đáy) là thái ấp của Trần Quốc Tảng (con Trần Hưng Đạo) (46). Ở ngã ba Non Nước (Vân Sàng - Đáy) cũng có đền thờ Trần Quốc Tảng và đây là vùng quê (Phúc Am - Phúc Thành) của Trương Hán Siêu, môn khách của Trần Hưng Đạo. Cuối dòng sông Đáy ở Độc Bộ Đại An có hành cung Ứng Phong đời Lý và quanh vùng Ý Yên - Vụ Bản có nhiều làng Trần xá Trình Xuyên và các đền thờ, chùa chiền thờ các vua Trần. Cuối nhánh sông Sắt tách ra từ sông Châu ở An Bài và chảy qua cầu Sắt - cầu Họ huyện Bình Lục để về vùng Vụ Bản - Nghĩa Hưng là cả một “vùng ảnh hưởng” của họ Trần: Họ Mẫu Liễu Hạnh ở Vân Hương - An Thái (Vụ Bản) là họ Trần, cả xã này dân phần lớn là họ Trần, trung tâm huyện Vụ Bản là chợ Trần (Giần) và gần đó Hổ Sơn với ngôi chùa núi Nộn là nơi tu hành của công chúa Thụy Bảo (vợ Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng) và công chúa Huyền Trân nhà Trần (47).

(46). Nguyễn Văn Trò, “Di tích Trần Quốc Tảng ở Hà Nam Ninh, Những phát hiện mới về khảo cổ học Việt Nam” năm 1984, tr.177 - 178.

(47). Xem “Đại Nam nhất thống chí”, đã dẫn tập III, tr.339, “Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam”,đã dẫn, tr. 506 - 507; Đào Quí Cảnh - Nguyễn Văn Trò, “Mộ cổ ở núi Hổ (Hà Nam Ninh)” trong “Những phát hiện mới về khảo cổ học Việt Nam năm 1988”, tr.141.

Page 99: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

169

3. Ở Dưỡng Hòa - Duy Hải, Duy Tiên phía dưới ngã ba Sa là “thái ấp” của Trần Khánh Dư. “Khu vực này trước đó là rừng. Khi Trần Khánh Dư đánh giặc xong về chiêu mộ dân khai phá lập ấp” (48).

Phía dưới ngã ba Châu Cầu (Đáy - Châu) là quê hương Trần Bình Trọng, gốc Lê Hoàn và Lê Phụ Trần, được ban “quốc tính” họ Trần:

“Trần Bình Trọng người Thanh Liêm, châu Lỵ Nhân (Liêm Cầu, Thanh Liêm, Hà Nam), là dòng dõi Lê Đại Hành, được vua Trần tin yêu, ban quốc tính và phong “Bảo nghĩa hầu” (49). Chính ông đã chặn giặc Nguyên - Mông trên sông Thiên Mạc - Châu Giang tháng 2/1285 để vua Trần rút lui an toàn theo đường sông này về Thiên Trường và ông đã hy sinh anh dũng, được truy tặng tước vương”.

4. Ở ngã ba An Bài (Bình Lục) hay ngã ba sông Châu - sông Sắt là Quắc Hương thái ấp của Trần Thủ Độ.

“Chế độ nhà Trần, các vương độ đều ở phủ đệ ở hương của mình, khi chầu hầu thì mới đến Kinh sư, xong việc lại về, như Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục), thì thái ấp của Trần Thủ Độ vừa là một tổ chức chính trị - quân sự (“có dấu tích đồn binh để ngăn chặn cuộc tấn công xuống Tức Mặc, rồi còn xây dựng dinh thự, nhà ở cho vợ con quan, tướng và binh sỹ”) vừa là một đơn vị kinh tế - xã hội” (50).

Thời cuối Trần, Nguyễn Sưởng có bài thơ “Thượng phụ cựu cư” (nơi ở cũ của Thượng Phụ (Trần Thủ Độ) trong đó có câu:

Ngư câu thủy cấp cô bồ ámMã loát đê bình thảo mộc xuân(Ngòi cá nước dồn, năm lác mọcĐê đua ngựa phẳng, cỏ cây tươi) (51)

(48). “Lịch sử Hà Nam Ninh”, tập I, đã dẫn, tr.108 (49). Như trên, tr.113. (50). “Lịch sử Hà Nam Ninh”, đã dẫn, tr.107 - 108.(51). “Thơ văn Lý Trần”, tập II quyên thượng, đã dẫn, tr.772 - 773.

Page 100: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

170

5. Cũng trên đường nước này, ở Trần Thương (giáp ranh Lý Nhân - Mỹ Lộc) nhà Trần đã đặt một kho lương để phòng chống quân Nguyên. Đây cũng là nơi bà vợ Trần Thủ Độ (Trần Thị Dung) bảo toàn gia quyến hoàng tộc Trần từ cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1258). Nay tại đây có đền thờ Trần Hưng Đạo.

6. “Chốt” gần cuối trên đường nước này là thái ấp của Trần Quang Khải, ở Cao Đài, Mỹ Thành - Bình Lục.

7. Và sau cùng là Bảo Lộc - Mỹ Phúc, Bình Lục, một điền trang khác của Trần Liễu.

“Ở xã Bảo Lộc nguyên có đền Hưng Đạo Vương, xã này trước là đất cát bồi. Vương phụ là An Sinh vương (Trần Liễu) mộ dân khai khẩn, lập ấp. Vì Hưng Đạo Vương có công lớn bình Nguyên, nên được lập sinh từ ở đó” (52).

8. Chùa Keo trước khi tách đôi thành Keo trên (Hành Thiện - Xuân Trường) và chùa Keo dưới (Dũng Nhuệ - Vũ Thư) trước 1630, từ năm Đại Trị thứ 8 đời Trần Dụ Tông (1365) xây dựng trên thái ấp của công chúa Ngọc Cực ở vùng giáp nước Giao Thủy ven sông Nhị (và cũng là ngã ba sông như Hành Thiện, Dũng Nhuệ ngày nay).

Từ những cứ liệu trên và căn cứ vào những gia phả họ Trần ở Lê - Xá, Ngô Khê (Ngô Khê có chi họ Trần từ Lê - Xá chuyển tới). Tường Thụy (Kim Bảng, cũng là một chi của họ Trần Lê - Xá), từ họ Trần làng Vọc (Vũ Bản, Bình Lục) đến họ Trần làng Văn Ấp, đến họ Trần làng Kiều xã Tiên Tân - Duy Tiên… ta có thể khái quát lại một điều:

Trên con đường nước Thăng Long - Thiên Trường, ở hầu hết (nếu không phải là tất cả) các ngã ba sông quan trọng đều có các cứ điểm chính trị - quân sự - kinh tế của nhà Trần.

Họ Trần chia lực lượng “trấn giữ” các ngã ba sông này và con cháu họ Trần “lập nghiệp” ở đó, lâu ngày phân chia, phân nhánh và tích hợp thêm con em các dòng họ khác vào họ Trần.

(52). Ngô Giáp Dậu: “Nam Định dư địa chí” (dẫn lại trong “Lịch sử Hà Nam Ninh”, tập I), đã dẫn, tr.109.

Page 101: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

171

Sự tồn tại của họ Trần ở Lê Xá trên ngã ba Châu Giang - Bồng Thủy - 7 đời làm thông gia của họ Hoàng Phù Lưu của cụ Kép Trà - rồi từ đó còn “phân chi” ra ngã ba chợ Sông (Ngô Khê), Tường Thụy (Kim Bảng)… cần/phải được cắt nghĩa trong hệ thống “cứ điểm” của nhà Trần trong 175 năm, từ xứ Nam lên Kinh đô Thăng Long, mà thực ra phải kể từ khi họ Trần “làm chủ” toàn phủ Lỵ Nhân (toàn tỉnh Nam Hà cũ) từ năm 1211 sau chiến thắng Đọi Sơn của họ Trần xứ Nam chống họ Đoàn (Đoàn Thượng) xứ Đông ở đời cuối Lý (53)!

Hà Nội, đầu thu Nhâm Thân, 1992

(53). “Đại Việt sử lược” (bản dịch của Trần Quốc Vượng), đã dẫn, tr.186 (bản chữ Hán, quyên 3, tờ 23a).

Page 102: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

172

HÀ NAM TRONG BA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LƯỢC MÔNG - NGUYÊN

HỒNG NHUNG

Đế quốc Mông - Nguyên ở thế kỷ XIII, sau hơn 50 năm tiến hành những cuộc chiến tranh đẫm máu tàn bạo trong lịch sử nhân loại, đã chiếm được một lãnh thổ rộng lớn suốt từ châu Á sang châu Âu. Đại Việt đương thời cũng nằm trong ý đồ thôn tính của chúng. Chúng muốn chiếm Đại Việt và biến Đại Việt trở thành bàn đạp để tấn công các nước khác ở Đông Nam Á. Sử nhà Nguyên chép: “Ngột Lương Hợp Thai vào Giao Chỉ định kế lâu dài” (54).

Tháng 01 năm 1258, Ngột Lương Hợp Thai hùng hổ đem khoảng hơn hai vạn rưởi quân bao gồm cả kỵ binh Mông Cổ và quân Thoán (vùng Vân Nam) tiến dọc theo sông Hồng sang xâm lăng Đại Việt (55). Trước thế mạnh ban đầu của địch, vua tôi triều Trần chủ động vừa đánh vừa rút khỏi Kinh thành Thăng Long, một mặt bảo đảm an toàn lực lượng, mặt khác nuôi ý chủ quan của địch, để đợi dịp thuận lợi sẽ phản công. Quân đội và vua quan triều Trần quyết định rút về vùng sông Thiên Mạc (thuộc huyện Duy Tiên ngày nay). Sông Thiên Mạc là một dòng sông ngắn (chính là con sông Mang Giang đã cạn từng phần), chia nước của sông Nhuệ đoạn cầu Giẽ, chảy qua huyện Phú Xuyên (Hà Tây cũ, Hà Nội ngày nay), qua vùng Hoà Mạc - Trác Bút (xã Châu Giang, huyện Duy Tiên), rồi đổ vào sông Hồng.

(54). Nguyên sử; q.121; Ngột Lương Hợp Thai truyện(55). Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên -

Mông thế kỷ XIII. In lần thứ tư; Nxb. Khoa học xã hội; H; 1975, tr.203.

Page 103: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

173

Con đường rút lui chiến lược của các vua quan triều Trần được thực hiện từ ngày 18 - 02 - 1258, xuất phát từ Thăng Long theo dòng Tô Lịch, đi vào sông Nhuệ, xuôi dòng Thiên Mạc rồi rẽ vào sông Hồng về Thiên Trường (56). Toàn bộ triều đình, hoàng gia và quân lính đã rút lui an toàn vì có sự bảo vệ và yểm trợ của lực lượng bộ binh ven bờ sông Hồng, sông Nhuệ, sông Đáy, sông Thiên Mạc và cả sông Hoàng Giang nữa. Những “chốt”- gọi là thái ấp, do những tôn thất triều Trần hay những người họ khác được ban Quốc tính lập trên đường từ Thăng Long và đi về phía Thiên Trường - Tức Mặc, đã tạo thành một hệ thống đồn luỹ khá kiên cố, mà kẻ địch không dễ gì có thể qua được. Trên con đường nước Thăng Long - Thiên Trường, ở hầu hết (nếu không phải là tất cả) các ngã ba sông quan trọng đều có các cứ điểm chính trị - quân sự - kinh tế của nhà Trần.

Chế độ thái ấp thời Trần, thể hiện một tinh thần cảnh giác cao độ của các vua Trần. Các thái ấp thường được đặt ở những vị trí hiểm yếu của đất nước hoặc là cần thiết đối với cung vua (57). Đó là thái ấp của Trần Khát Chân tại Hoàng Mai, Tương Mai (hiện thuộc phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội), thái ấp Trần Thông ở Thanh Oai (Hà Tây cũ bên hữu ngạn sông Nhuệ), thái ấp của Trần Quốc Tảng tại ngã ba Gián Khẩu, thái ấp của Trần Khánh Dư tại phía dưới ngã ba ở Dưỡng Hoà - Duy Hải (huyện Duy Tiên), thái ấp Quắc Hương của Trần Thủ Độ gần ngã ba sông Châu (58)... Trên chặng đường rút lui chiến lược năm 1258, vua quan nhà Trần đi qua khá nhiều địa phương của Hà Nam. Nhân dân Hà Nam ở mọi vùng miền đều đã tích cực tạo nhiều điều kiện vật chất như lương thực, nơi tạm trú

(56). Nguyễn Minh Tường: Góp phần xác định vị trí sông Thiên Mạc trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1285; TC. Nghiên cứu Lịch sử; số 6 -1985, tr.42-44. Xem thêm: Nguyễn Xuân Năm: Dòng sông Thiên Mạc ở đâu? Sđd Nam Định đậm đà bản sắc dân tộc; tr. 126-133. Sđd: Trần Quốc Vượng: Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, tr.265-269.

(57). Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam: Thế kỷ XI-XVIII.Tập I: Thế kỷ XI-XV.Nxb.KHXH; H; 1982, tr.118-120

(58). Trần Quốc Vượng: Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa . Tr.265-269

Page 104: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

174

để ủng hộ và bảo vệ vua tôi nhà Trần. Kho lương ở đền Trần Thương (xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân) là một minh chứng cho tấm lòng nhiệt tình với cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất của nhân dân Hà Nam. Về mặt địa lý tự nhiên, làng Trần Thương xưa ở ngay bên bờ sông Hồng có nhiều gò đống, cây cối um tùm. Trần Thương là gò cao nhất, do vậy việc bố trí một kho hậu cần ở đây có ý nghĩa quốc phòng, không chỉ là kho lương cung cấp thường xuyên cho những trận chiến đấu thời Trần, mà có thể đây còn là kho hậu cần lâm thời phục vụ cho cuộc rút lui năm 1258 (59).

Sử sách thường nhắc lại các hoạt động của bà Trần Thị Dung(60) trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ nhất năm 1258. Giữa lúc chiến trận đang căng thẳng, vua Trần Thái Tông ra quyết định giao cho bà Trần Thị Dung việc tổ chức một cuộc sơ tán khẩn cấp toàn bộ gia quyến của các tôn thất, ngoại thích trong triều, cùng vợ con tướng lĩnh và những vật dụng cần thiết. Bà đã bình tĩnh, khéo léo điều động thuyền, xe và sắp xếp việc sơ tán người. Đồng thời bà còn huy động nhân dân kinh thành Thăng Long thu xếp vũ khí, lương thực từ các kho của Nhà nước vận chuyển xuống thuyền đưa về vùng Hoàng Giang (Lý Nhân). Công tác sơ tán kinh thành nhanh gọn, bảo đảm bí mật. Lương thực, vũ khí không bị lọt vào tay giặc, thực hiện tốt kế hoạch “tiểu dân thanh dã” (vườn không nhà trống). Khi giặc Mông - Nguyên kéo vào, Thăng Long chỉ còn là toà thành trống rỗng. Khi đến Hoàng Giang (Lý Nhân), bà Trần Thị Dung chăm sóc chu đáo toàn bộ bầu đoàn thê tử của tôn thất, tướng lĩnh, khiến cho vua quan, tướng sĩ trong triều yên tâm chiến đấu chống giặc. Khi quân ta mở cuộc phản công thì chính bà lại đứng ra chỉ huy công tác cung cấp hậu cần (61).

(58). Nguyễn Xuân Năm: Một số di tích lịch sử thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà. Sđd: Nam Định đậm đà bản sắc dân tộc; tr. 236-247

(59). Vợ của Thái sư Trần Thủ Độ, là người xã Phù Ngự (thường gọi là làng Ngừ), nay là xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, Thái Bình.

(60). Lịch sử Hà - Nam - Ninh, T.I, tr. 111-112

Page 105: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

175

Đánh giá về công lao của bà Trần Thị Dung, sử gia Ngô Sĩ Liên thời Hậu Lê đã viết: “... Đến khi người Nguyên sang xâm lấn, kinh thành thất thủ. Linh Từ ở Hoàng Giang giữ gìn hoàng thái tử, cung phi, công chúa và vợ con của các tướng thoát khỏi giặc cướp, lại khám xét thuyền của các nhà có chức giấu đồ quân khí, đều lấy hết đưa đến quân, xét về phần nội trị cho nhà Trần thì Linh Từ có nhiều công to...” (62).

Năm 1285, Đại Việt của vương triều Trần lại phải đương đầu với cuộc xâm lược lần thứ hai của đế quốc Mông - Nguyên. Ngày 27 - 01- 1285, quân Mông - Nguyên ngang nhiên phát động cuộc chiến với hàng chục vạn quân chia làm ba cánh tiến vào nước ta. Hội nghị Diên Hồng với tiếng thét đồng thanh “nên đánh!” của các bô lão trong cả nước cùng bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đã khích lệ toàn quân, dân Đại Việt. Cả nước sục sôi khí thế giết giặc, xuất hiện những bản bố cáo: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” (63).

Lúc này, cùng với quân dân cả nước, nhân dân vùng Lỵ Nhân (Hà Nam ngày nay) cũng đã chuẩn bị chu đáo để bước vào một cuộc kháng chiến khốc liệt hơn. Trước thế mạnh của giặc, mặc dù quân đội nhà Trần đã đánh trả rất quyết liệt, song cuối cùng hai vua Trần (Thượng hoàng Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông) đã quyết định sáng suốt: rút khỏi kinh thành Thăng Long. Vua tôi triều Trần theo sông Thiên Mạc rút về vùng Thiên Trường. Trên đường rút chạy, quân ta dựa vào những cứ điểm quân sự tại các “chốt nước” ở vùng ngã ba sông để bố trí trận địa mai phục. Nhiều tấm gương hy sinh cao cả xuất hiện, được sử sách ghi lại, gồm cả những người con của quê hương Hà Nam cống hiến thân mình cho sự nghiệp giữ nước thời Trần. Trong đó

(61). Đại Việt sử ký toàn thư; T.II; tr.32(62). Tống Liêm: Nguyên sử. Q.209; Trong Nhị thập tứ sử; Bản súc ấn bách nạp;

Thương vụ ấn thư quán; tr. 76

Page 106: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

176

có Trần Bình Trọng, hậu duệ của vua Lê Đại Hành. Sử chép về ông như sau: Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng: Vương là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thụy Bảo. Ông cha làm quan ở đời Thái Tông, được ban quốc tính là họ Trần, đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc (tức Thiên Mạc). Trần Bình Trọng bị địch bắt, không chịu ăn, giặc hỏi việc nước không trả lời. Hỏi: “Có muốn làm vương đất Bắc không? ”. Vương thét to: “Thà làm ma nước Nam chứ không làm vương đất Bắc!”. Sau khi Bình Trọng bị giặc giết vào ngày 26-02-1285, vua Thái Tông được tin rất lấy làm thương xót, khóc mãi (64).

Trong cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên lần thứ hai, nhân dân vùng Hà Nam hăng hái đi theo vua quan nhà Trần đánh giặc, như Trần Duy Công, người đỗ thứ hai trong kỳ thi Đình, là người ở An Lão (huyện Bình Lục), Nguyễn Chung Công và Nguyễn Thành Công ở Bình Lục, cùng hàng ngàn người dân vô danh khác. Vùng đất Hà Nam đương thời không chỉ là nơi cung cấp lương thực cho triều đình Trần và các tướng sĩ, mà còn là nơi quy tụ nghĩa sĩ bốn phương, tăng cường lực lượng bổ sung cho quân đội Trần sau những đợt chiến đấu ác liệt. Chính viên tướng A-ric-kha-ya trực tiếp tham gia cuộc chiến lần hai, đã viết thư về báo cho Hốt Tất Liệt (Khubilai): “Ở hai xứ Thiên Trường và Trường Yên mà Trần Nhật Huyên (vua Trần Nhân Tông) trốn đến, binh lực lại tập hợp” (65).

Vào tháng 5 năm 1285, sau khi đã tập hợp lực lượng đầy đủ, lại nắm chắc tình hình quân giặc đã quá mỏi mệt, tinh thần binh lính giặc thoái chí, vua tôi nhà Trần quyết định tiến hành một cuộc phản công chiến lược. Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn cùng các tướng Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật dự định: trước hết đánh vào các căn cứ của giặc dọc sông Hồng rồi tiến lên giải phóng Thăng Long. Trần Quốc Tuấn đã thân

(63). Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám mục. T.I; tr. 521. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II. tr. 53

(64). Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII. In lần thứ tư; tr. 203

Page 107: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

177

chinh đánh chiếm đồn A Lỗ. Theo những xác định gần đây, đồn A Lỗ của giặc Nguyên - Mông ở vào Tắc Giang, ngã ba sông Mang Giang (đã cạn từng phần) từ cầu Giẽ chảy qua vùng Hoà Mạc - Trác Bút (xã Châu Giang, huyện Duy Tiên ngày nay) rồi đổ vào sông Hồng. Bên cạnh Tắc Giang có thôn Lỗ Hà (trong đó có xóm A Lỗ) thuộc xã Chuyên Ngoại, huyện Duy Tiên. Viên tướng giặc Nguyên giữ đồn này là Vạn hộ Lưu Thế Anh phải bỏ đồn rút chạy. Đây là trận chiến mở màn cho hàng loạt trận chiến khác trong cuộc phản công giải phóng kinh đô Thăng Long, truy kích địch ra khỏi bờ cõi phía Bắc của Tổ quốc. Trận đánh đầu tiên trong hệ thống phòng tuyến dọc sông Hồng đã diễn ra trên vùng đất Hà Nam và giành được thắng lợi. Nó có ý nghĩa quan trọng, củng cố niềm tin chiến thắng của quân dân cả nước mà trước hết là những người dân địa phương Hà Nam đã góp công sức không nhỏ vào thắng lợi này. Mặt khác, chiến thắng này còn làm cho kẻ thù run sợ, làm rung động cả hệ thống phòng tuyến dọc sông Hồng của kẻ địch.

Sau gần hai tháng phản công mãnh liệt trên khắp các chiến trường phía Nam sông Đáy, phía Bắc sông Hồng, quân dân Đại Việt đã giành được thắng lợi hoàn toàn, quét sạch quân Mông - Nguyên ra khỏi bờ cõi. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên lần thứ hai năm 1285, Hà Nam cùng với Nam Định, Ninh Bình trở thành căn cứ quân sự vô cùng quan trọng có tính chất quyết định thắng lợi toàn bộ cuộc kháng chiến và sự tồn tại của vương triều Trần. Cả vùng đất Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định đương thời đã cưu mang, bảo vệ hai vua Trần cùng các tướng sĩ, bảo đảm cho sự thành công của cuộc kháng chiến.

Năm 1287 - 1288, quân Mông - Nguyên ngông cuồng lại tiếp tục xâm lược Đại Việt lần thứ ba. Lần này, các vua Trần lại rút lui khỏi Thăng Long, đưa triều đình cùng tướng sĩ về Thiên Trường rồi ra cửa biển Giao Hải. Các tướng giặc là Thoát Hoan, cùng Ô Mã Nhi đuổi theo các vua Trần hòng bắt sống, nhưng chúng không đuổi được. Bọn giặc tức tối, cho quân khai quật lăng mộ

Page 108: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

178

của Trần Thái Tông tại phủ Long Hưng (tỉnh Thái Bình), dân binh tại đây đã đánh trả quyết liệt. Tháng 4 năm 1288, dưới sự chỉ huy tài tình của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, quân dân cả nước, trong đó có sự tham gia của nhân dân Hà Nam, đã đánh bại giặc Nguyên trên sông Bạch Đằng, đuổi sạch quân giặc ra khỏi bờ cõi, đất nước trở lại cuộc sống thanh bình.

Trong ba lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược hồi thế kỷ XIII, quân và dân Hà Nam đã góp phần quan trọng vào chiến công chung của dân tộc. Với địa thế tự nhiên và tấm lòng của người dân địa phương, Hà Nam đã trở thành căn cứ địa vững chắc, trở thành chiến trường - mồ chôn quân thù. Rất nhiều tấm gương anh dũng của con em Hà Nam trong các cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên được người đời sau coi là Thành hoàng, hương khói thờ tự. Đó là Lê Thị Liên ở Kim Bảng đã dùng thuốc Nam kiếm được trên vùng đồi núi quê hương cứu chữa cho quân đội nhà Trần lúc lui về đây tránh địch. Dương Công Đán ở làng An Bài (xã Đồng Du, huyện Bình Lục), đã tập hợp dân binh, luyện tập đánh giặc. Khi quân Nguyên tràn vào làng An Bài cướp bóc, Công Đán mưu trí chỉ huy đội dân binh đánh cho bọn giặc thua chạy khỏi làng. Sau khi ông mất, dân làng lập đền thờ. Đó còn là Minh Phúc đại vương, Minh Hải đại vương người huyện Kim Bảng, là Đông Bảng Phổ Tế đại vương người huyện Lý Nhân...

Ngoài ra còn có những vị tướng nổi tiếng trong đời Trần cũng được nhân dân Hà Nam ngưỡng vọng thờ tự. Trần Khánh Dư được thờ tại thôn Thượng (xã Duy Hải, huyện Duy Tiên) không chỉ bởi ông là võ tướng mà còn được coi là Thành hoàng vì đã khai hoang lập ấp, dạy dân dệt vải, ươm cá giống và đã mất tại nơi đây (66). Đặc biệt, nhiều đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được nhân dân Hà Nam lập tại nhiều địa phương, chứng tỏ dân chúng rất kính trọng và ngưỡng mộ tài đức song toàn của ông.

(66). Dương Văn Vượng, Bùi Văn Tam: Một số dấu vết lịch sử đời Trần qua thư tịch Hán Nôm trên đất Nam Hà. Sđd: Thời Trần và Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà; tr. 149-171

Page 109: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

179

QUANH VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT ĐÌNH LÀNG HÀ NAM

PGS.TS TRẦN LÂM BIỀN *

Ngày xuân, tiếng trống Đọi Tam gọi Trời mở cửa để các làng xã Hà Nam thực hiện cuộc thông linh Người - Đất Trời. Tiếng trống râm ran thay cho tiếng pháo làm ngập ngừng cơn gió lạnh cho không gian như rạng rỡ hơn để nơi nơi bước vào chu trình thời gian sản xuất mới với nguồn vui tràn tới mọi nhà.

Hà Nam, chủ yếu là vùng đất trũng, nên di sản văn hóa ở nơi đây như biểu hiện một lối ứng xử có phần riêng so với nhiều nơi khác. Các di tích có niên đại sớm thường ở những nơi cao, không bị ngập nước vào mùa nhiều mưa, như dấu tích thời Lý với chùa Long Đọi ở trên đỉnh núi Đọi, di tích thời Trần (nhà gốm mộ hình) ở vùng chân núi Kiện Khê. Tới nay, chúng ta nhận thấy di sản văn hoá dân gian ở Hà Nam thường được tập trung từ thế kỷ XVI - XVII trở về sau.Trong đó, nổi lên là đình và đền ít nhiều có liên quan tới công việc chống lầy, chống lụt và ước vọng phồn thực. Chúng tôi muốn nói tới các kiến trúc tín ngưỡng ở ven sông Hồng, sông Châu Giang, sông Long Xuyên và cả khu vực Liễu Đôi nữa.

Mở đầu cho cuộc hành hướng vào các di tích ven sông Hồng của đất Hà Nam với việc tiếp cận ngôi đình Đô Quan. Kiến trúc này khang trang sạch đẹp, dấu vết khởi dựng (theo lời truyền lại), nay không còn mà thoảng qua, chỉ có một đôi “chấm

* Cục Di sản văn hóa - Bộ VH-TT&DL.

Page 110: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

180

phá”của nghệ thuật thuộc giữa thế kỷ XVIII. Sự tàn phai này có lẽ bởi “giặc” nước, nên nền đình khá cao. Và ý thức trông chờ vào sức mạnh của Thánh/Thần để chống ngập lụt mà dáng dấp ngôi đình đã chuyển hóa từ dạng bốn góc mái cong với bộ mái đồ sộ, thì nay mang dạng của một ngôi đền nhiều hơn. Tuy nhiên, đình vẫn giữ các chức năng truyền thống như ngôi đình khác và đặc biệt là những tục kéo co, cướp cầu trong hội. Người Đô Quan không kéo co bằng dây chão mà bằng tre. Để cân bằng cho 2 bên, người xưa đã nối 2 cây tre (đã vót nhẵn) ở đằng ngọn. Rồi khi kéo, dẫu quyết liệt đến đâu thì cuối cùng (trước đây) phần thắng cũng thuộc về phía dưới. Cuộc kéo co và cướp cầu dù có là tiếng vọng mờ nhạt của sự hỗn độn nguyên thuỷ để mở đầu cho trời đất đi vào trật tự nhằm mong dẫn tới mưa thuận, gió hoà, mùa màng tốt tươi thì ở đây còn như một lời nhắc nhở với sông Hồng hãy chảy xuôi một cách thuận hoà đừng gây ra ngập lụt. Cuối cùng cả tre và cầu đều được gác lên chạc ở ngoài sân, cho thần chứng giám để tới giờ ngọ thì nam giới “công kênh” ra ném cả xuống đầm (khe nước sát bờ ăn thông với sông Hồng). Người ta tin rằng, đó là một cuộc giao phối thần thánh (với tre như sinh thực khi nam, đầm như sinh thực khí nữ) đã tạo cho quả cầu / noãn trở thành mầm mống của sự sinh sôi rồi tự trôi dần ra sông để đem mầm sống và nguồn hạnh phúc tới muôn nơi…

Xuôi theo dòng sông khoảng 3km đến đền Lảnh Giang, nơi thờ quan Hoàng Bơ (Ba) - thuỷ thần. Tín đồ của tín ngưỡng Tứ Phủ rất tôn sùng Ngài để cùng với hai nhân thần là quan Hoàng Bảy (Nùng Trí Cao - thời Lý) và quan Hoàng Mười (Nguyễn Xí - thời Lê sơ) trở thành một bộ Thánh Thần vừa mang tính biểu tượng cho quyền năng tối thượng, vừa chứa đựng ước vọng muôn đời muôn thuở của thế nhân. Quan Hoàng Ba mang chức năng hai mặt, cả ước vọng cầu nước và trị thuỷ nên trên đất Hà Nam vốn xưa thừa nước, đền Lảnh Giang (nơi thờ Ngài) đã được dựng ở ngoài đê để tiện chống các con nước dữ. Xuôi về

Page 111: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

181

Lý Nhân, một điển hình cho việc chống lụt được ghi lại qua sự tích của Thành Hoàng làng đình Vân Xá. Đó là ông Dài, ông Cụt (hai vị thần sông Trương Hống, Trương Hát - có gốc từ Tam Giang - Bạch Hạc) theo dòng chảy mà về đây để giúp dân hàn đoạn đê vỡ (dùng chính thân rắn thần của mình để ngăn dòng nước lũ cho dân hàn đê). Tinh thần chống úng ngập cũng theo các dòng sông mà lan toả ra mọi vùng của Hà Nam, điển hình như ở hội đình Yên Trạch (Bắc Lý - huyện Lý Nhân) có lễ hội Tẩu Mã (chạy ngựa) với mô hình của ba đầu ngựa : đỏ, vàng, trắng đều được nối với một thân tre còn cả lá…vào cuối hội (25 tháng Giêng) sau khi lễ thành Hoàng làng... lệnh tẩu mã phát ra, ngựa được chạy ba vòng quanh đình, theo thứ tự đỏ - vàng - trắng (màu của ba thế lực trời - đất - nước gắn với nông nghiệp), cuối cùng chạy ra chuôm (hồ nước) rồi lại với ba vòng chạy ngược kim đồng hồ, vừa vào khoảng chính ngọ thì lần lượt ngựa được đâm đầu xuống chuôm. Hình thức này như chứa đựng một ước vọng rất xưa mà nay chỉ còn giữ được theo lệ tục. Chúng ta tạm có thể hiểu rằng: ngựa mang một ý nghĩa là biểu tượng của ánh sáng/sấm chớp (như ngựa trắng ở đền Bạch Mã - Hà Nội là biểu tượng của Mặt Trời), mà sấm chớp đánh xuống nước là đánh thuỷ quái - những quỷ nước luôn gây ra lũ lụt…Phải chăng đây là một trò diễn ẩn chứa một vẻ đẹp văn hoá truyền thống đã nổi bật ở vùng trũng Hà Nam này. Rõ ràng việc chống lũ lụt gắn với lễ hội đình/đền đã được diễn ra dưới những tục hèm muôn màu muôn vẻ, để ngay cả thiếu phụ Nam Xương (bà Vũ Thị Thiết) cũng là một thần chống lụt. Tại Liễu Đôi, đã một thời, gần đây thôi, tinh thần thượng võ đã được tôn lên địa vị rất cao với các cuộc chiến phi thường theo dòng của tư duy liên tưởng dân gian… Song, có một tục gắn với chàng trai họ Đào, được đẩy lên như một anh hùng, cùng đoàn người rước gươm thần về cửa Thánh. Rồi bằng một điệu múa thiêng để bằng tuệ và tâm ta như nghe thấy những âm thanh “trời long đất lở” của sấm chớp giăng mắc muôn phương. Trong

Page 112: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

182

nhận thức của nhiều cư dân trên thế giới, trong đó có cả dân ta, thì gươm của thần được đồng nhất với sấm chớp để diệt trừ hay khuất phục thuỷ quái (gươm của Huyền Thiên Trấn Vũ hay của Đức Thánh Trần), cũng có nghĩa là chống lũ lụt để sản xuất. Thực ra, các hiện tượng mang ý nghĩa như nêu trên đã xuất hiện ở nhiều vùng trên đất Việt. Song nơi hội tụ khá đậm đặc tinh thần đấu tranh quyết liệt với những tiêu cực của thiên nhiên, thì ở nước ta, Hà Nam như một trong không nhiều nơi đã vượt lên hàng đầu.

Một đặc điểm có phần do lệ thuộc vào tự nhiên, nơi úng ngập theo mùa mà tới nay chúng ta chưa gặp được những dấu tích vật thể của văn hoá nghệ thuật dân gian từ thời Lý tới đầu thời Mạc (thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XVI) ở Hà Nam. Có lẽ, ở các triền đất cao, gò đồi thì từ lâu đã có người sinh sống, rồi trải qua thời gian, kinh nghiệm khai phá tích tụ dần, cư dân ngày càng đông đảo, làng xóm tương ứng tràn ra khắp miền, cuộc sống có phần đi lên, thì yêu cầu văn hoá tất được đặt ra. Công trình tín ngưỡng của cộng đồng lẽ tất nhiên được dựng, nhất là với sự góp sức của nền kinh tế gắn với các dòng sông đã thịnh đạt dần dưới thời Mạc. Bởi thế trong dân gian dấu tích vật thể như đậm dần lên từ thời Mạc. Cụ thể như tại chùa Giầu ở Thanh Liêm có bức phù điêu đá tạc hình vua ngồi ngai trên cả một mặt bia. Trong chùa còn có tấm bia thời Trần đề tên “Ngô Gia thị bi” làm đời Đại Trị (1358-1369), nên đã một thời nhiều người bị lầm coi phù điêu này có cùng niên đại trên. Song, ở tạo hình với áo thụng không bó sát người, rồi anh lạc là những dãy hạt tròn nổi buông xuống…Như thế, niên đại sớm nhất của tượng này cũng chỉ vào cuối thế kỷ XVI sang thế kỷ XVII mà thôi. Tại đình Văn Xá, về cơ bản thuộc niên đại giữa và cuối thế kỷ XVII, nhưng chỉ với một âu đựng hoa quả được làm bằng gỗ có trạm trổ rất kỹ, đủ tư cách là bảo vật quốc gia. Âu có phong cách nghệ thuật thuộc thời Mạc, độc đáo, độc nhất, đẹp và lạ trong sự hiểu biết của chúng ta hiện nay.Vài ví dụ trên, tuy có

Page 113: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

183

phần lẻ loi, nhưng cũng đủ để chúng ta ngẫm về văn hoá nghệ thuật của một thời đã qua trên mảnh đất có nhiều con sông giao thương này.

Trở lại với vấn đề văn hoá nghệ thuật của ngôi đình, phải nói rằng, trước đây theo nhận thức thông thường thì Hà Nam không phải là đất của đình (Cầu Nam, Chùa Bắc, Đình Đoài). Tuy nhiên trong sự phôi pha của các truyền thuyết/huyền thoại gắn với thời nguyên thuỷ, thì vẫn còn đó những ý thức về tổ chức làng xã, về các tập tục ở nhiều vùng đã theo chân những người khai phá, mà hội về Hà Nam một số tinh hoa văn hoá rồi được sàng lọc để dệt lên những công trình thích ứng với môi cảnh. Chúng tôi muốn đề cập tới một vài ngôi đình mang nghệ thuật từ thế kỷ XVII mà nay ít nhiều còn lại dấu tích. Điển hình như đình Văn Xá, đình Vạn Thọ, đình Chảy, đình Bình Lục, đình Vĩnh Trụ, đình Vị Hạ, nhiều đình ở Liễu Đôi và nhiều đình khác nữa. Có thể nói rằng, giá trị tạo hình của các đình này, về căn bản, không thua đình ở các tỉnh khác. Hà Nam là đất trũng nhiều ao hồ, tình người phóng khoáng nên từ sớm đã ít lệ thuộc vào “quy định” phong thuỷ dân gian, như ít có những hồ bán nguyệt nhân tạo, hướng đình không mấy khắt khe như nơi khác…Tuy vậy, về nguyên tắc, ít nhiều người dân dân Hà Nam vẫn ít chú ý tới hướng Bắc giá lạnh có thể vướng vào nhiều sự hắc ám, hướng Đông ngả Nam hay ngược lại như được quan tâm hơn, đó là hướng của Thánh Thần - nguồn sinh khí vô biên và hướng của trí tuệ. Theo truyền thống chung, những ngôi đình của thế kỷ XVII thường chỉ có mặt bằng hình chữ nhật với hậu cung lửng nằm trong không gian giữa hai cột cái trong và hai cột quân hậu của gian giữa. Thời gian sau (chủ yếu từ thế kỷ 19), một hậu cung xây kiểu chuôi vồ, lồi ra phía sau để trở thành kết cấu chữ Đinh (sự phân biệt này rất dễ dàng). Đình làng Hà Nam cũng mang chức năng là trụ sở của chính quyền quân chủ, nó cần phải to lớn nhất làng. Ý thức này khiến nó khó hoà vào thiên nhiên cây cỏ như đền, chùa. Bộ mái của nó phải

Page 114: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

184

lớn, xà xuống thấp trước một mặt sân rộng khiến đương thời nó như mang tính áp chế. Chỉ tới khi đình trở thành một thực thể của văn hoá làng xã, nhất là khi lòng tin vào Phật giáo và Nho giáo đều bị khủng hoảng và việc biến các ông Thần chính của làng thành Thành Hoàng làng (khoảng cuối thế kỷ XVI, nhất là vào thế kỷ XVII) thì đình làng như một cứu cánh trở thành nơi dung hội giữa đạo và đời. Đình Hà Nam cũng như các đình ở nơi khác “không phải là kiến trúc của Nho, Phật, Lão, hay bất kể một tôn giáo tín ngưỡng nào từng tồn tại. Nó chỉ là nó, một sản phẩm độc đáo chỉ có ở đất Việt…Đình làng mang tính sáng tạo lớn của dân tộc ta trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, một sản phẩm như “Vô tiền khoáng hậu” (67). Qua quá trình tồn tại, đình làng là nơi tập trung tới đỉnh cao của tinh hoa, tinh thần văn hoá và nghệ thuật dân gian Việt ở hai thế kỷ XVI, XVII này. Chính vì thế, khi bước chân vào những ngôi đình ở Hà Nam, chúng tôi đã từng bị ngỡ ngàng trước những giá trị văn hoá và vẻ đẹp tự thân đích thực của chúng. Trước hết, theo chiều đứng, chúng như một trục vũ trụ nối Trời và Đất, để đem dòng sinh khí vô bờ bến của Trời - Cha hoà vào lòng Đất - Mẹ cho muôn loài sinh sôi. Bởi thế, mái đình như một biểu tượng của bầu trời. Cụ thể như ở trung tâm bờ nóc là biểu tượng của mặt trời/ mặt trăng, rồi rồng chầu tượng cho mây, con Si (đầu kìm) vẫn ở hai đầu bờ nóc là con của rồng luôn cõng sấm chớp… Đặc biệt là ở đình Văn Xá vẫn còn loại ngói khá to mang tính chất của gốm thương mại (thế kỷ XVI - XVII) dài sấp xỉ 40 cm, rộng khoảng 29cm, dày trên dưới 3cm, mũi cao 6-7 cm). Loại ngói này rất hiếm và quý. Chúng có hoa văn ở mũi là các hoa cúc cách điệu và vân xoắn như biểu tượng cho các nguồn phát sáng “sao và sấm chớp”. Cũng như các đình khác thân đình Vân Xá khá thấp so với mái, một phần cũng để chống gió bão ở những kiến trúc từ thế kỷ XVII trở về trước. Phần này là nơi sinh hoạt cả tâm linh và đời thường của cộng đồng cư dân. Phần

(67).Theo TS Lê Văn Sửu - Hiệu trưởng Trường ĐHMTQCVN - qua Lời giới thiệu sách Đình làng - Nxb Thế giới - ISBN 2013

Page 115: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

185

dưới là nền đất vốn xưa không bao giờ lát vì sợ âm dương cách trở sẽ không phát triển được. Như thế, khi vào đình để tiếp cận với thần thánh, con người được đứng trong dòng chảy sinh lực của vũ trụ, người xưa cho rằng nhờ đó mà có phúc lành. Ở đình Vân Xá, sự giao phối của đất trời để đem hạnh phúc cho cư dân còn được biểu hiện ở một số chân tảng đá tạc đài sen (tượng cho sinh thực khí nữ) và cột nối từ mái xuống (tượng cho sinh thực khí nam). Đấy là một cặp “ âm dương đối đãi” như thầm nhắc thánh thần: Hãy theo gợi ý này mà dùng pháp lực vô lượng để cho muôn loài noi theo mà sinh sôi phát triển đem tới vụ mùa bội thu (chân tảng cột tạc đài sen không chỉ có ở chùa, mà có ở nhiều di tích, ví như tại điện Thái Hoà - Huế cũng sử dụng kiểu chân tượng này như một biểu tượng cầu phúc).

Chuyển sang lĩnh vực chạm khắc, trong các đình cổ thường không có tượng, mà thay thế bằng các bài vị ngồi ngai (khi được phong vương) hoặc ngồi khám hay để trần khi không có vương vị. Kèm theo là các đồ thờ đủ để mang tư cách là biểu tượng khẳng định bàn thờ là tầng trên, nơi để con người thông linh…Vì thế, ở đây ít được tập trung nghệ thuật gắn với sinh hoạt dân gian. Vào một ngôi đình ở Hà Nam, trước hết phải “tâm tĩnh để tuệ sinh” để từ trong sâu thẳm của tâm hồn và trí tuệ, ta như nghe thấy tiếng dạy bảo của tổ tiên qua các mảng chạm. Đó là các lời cầu thuộc ước vọng nông nghiệp truyền đời qua các vân xoắn nổi chìm, các đao bay ra từ cơ thể linh vật, từ các biểu tượng vũ trụ (mặt trời, trăng, hoa lá thiêng…) rồi những linh vật như: rồng, phượng, lân, hổ,… Rồng biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng tổng hoà của trời đất, tự nó như mây trời đầy sấm chớp biểu tượng cho nguồn hạnh phúc nông nghiệp tràn đầy. Rồng chạm trên trên gỗ ở Hà Nam chỉ có bốn móng trở xuống, đó là rồng của dân không phải của vua nên được dân hết sức yêu mến. Chúng ta cũng tìm thấy các mảng chạm về phượng ở các vị trí trang trọng để nói lên nguồn sinh lực vô biên của tầng trên, bởi trong nhận thức xưa phượng có đầu đội công lý và đức

Page 116: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

186

hạnh, mắt tượng cho mặt trời mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi công là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất…nó có khả năng cõng cả không gian thời gian chuyển động. Đó là năng lực của thánh nhân, hiền nhân quân tử…Kèm theo đó là lân với sức mạnh vô bờ bến, tượng cho trí tuệ, cho sự trong sáng của tầng trên, luôn có chức năng giáo hoá và kiểm soát tâm hồn kẻ hành hương. Rồi hổ phù, hổ và nhiều linh vật khác để nói lên ý nghĩa nào đó. Điểm xuyết trên các mảng chạm là một số cây cỏ như trúc, cúc, sen…để tạo cho các đề tài này thành những chỉnh thể về ước vọng…Nghệ thuật như để phản ánh các khao khát mà con người thiếu, nên trên các mảng chạm ở đình Hà Nam mang đầy giá trị biểu tượng về sức mạnh siêu linh, nhưng phải vì con người mà tồn tại. Về hình tượng con người, tuy không được đậm đặc như ở nhiều đình ở các tỉnh khác, song ngoài cái chung, đôi khi còn có một số mảng chạm như phản ánh hoàn cảnh riêng, có nghĩa bên hình tượng cho con bú, chăn nuôi (đình Vị Hạ)…thì ở đình Chảy có cảnh người cưỡi và theo voi để đấu lân đấu hổ, cảnh tự thân đấu hổ (mang một vẻ đẹp dân gian đột ngột điển hình) rồi cảnh cầm đao đấu thú ở đình khác…Chúng tôi chưa gặp cảnh vui chơi, ít gặp cảnh tiên nữ cưỡi rồng phượng (một hình tượng gắn với cầu mưa). Vì thế thoảng đâu đó hình đấu hổ, đấu thú như gần gũi với thực tế khai phá vùng đầm trũng Hà Nam này trong lịch sử.

Một đôi nét về văn hoá nghệ thuật đình làng Hà Nam, chúng tôi mong đôi dòng này chỉ như những gợi ý mở đầu cho những công trình dài hơi. Được như thế đã là may mắn lắm.

Page 117: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

187

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở HÀ NAMBẢN SẮC VÀ HƯỚNG

BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ

TS. NGUYỄN MINH SAN *

I. TỔNG QUAN VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG HÀ NAMLễ hội (hay hội lễ) truyền thống là một sinh hoạt văn hóa

dân gian nguyên hợp mang tính cộng đồng cao của nông dân hay thị dân xưa, diễn ra trong những chu kỳ không gian - thời gian nhất định để người dân thực hành những lễ nghi đối với nhân vật / hay hiện tượng được sùng bái, qua đó bày tỏ những ước vọng, để vui chơi trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm với thiên nhiên và cộng đồng.

Là một tỉnh nông nghiệp thuộc vùng trũng nhất của đồng bằng Bắc Bộ, người Hà Nam từ lâu đã sáng tạo nên nhiều lễ hội. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử và biến đổi khí hậu, phần lớn những lễ hội đó đến nay vẫn tồn tại. Theo thống kê vào thời điểm năm 2005, trên đất Hà Nam có 114 lễ hội truyền thống đã và đang được tổ chức; trong đó, huyện Kim Bảng có 29 lễ hội, huyện Duy Tiên có 27 lễ hội, huyện Lý Nhân có 20 lễ hội, huyện Thanh Liêm có 18 lễ hội, huyện Bình Lục có 14 lễ hội và TP Hà Nam có 6 lễ hội. Con số 114 lễ hội ở đây, là chúng tôi chỉ tính các lễ hội có cả hai phần: lễ và hội, không tính đến những hội tổ chức mang tính chất vui khỏe hình thành nên từ một trò

* Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hiến Việt Nam.

Page 118: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

188

chơi dân gian chỉ có phần hội, không có phần lễ; tức là không liên quan đến một nhân vật / một vị thần, thánh nào.

Trong số 114 lễ hội, đa phần là lễ hội làng, có một số lễ hội được phân cấp là lễ hội vùng (như: Lễ hội chùa Đọi, Lễ hội Quyển Sơn - Đền Trúc, Lễ hội đình Công Đồng (thôn An Thái, xã An Mỹ, huyện Bình Lục) thờ ba vị thành hoàng là Hoàng Công, Đô Công, Uy Công), Lễ hội đền Trần Thương.

Căn cứ vào bản chất của lễ hội, có thể thấy lễ hội truyền thống ở Hà Nam thuộc 3 loại hình (tất nhiên là mang tính tương đối), là: Lễ hội nông nghiệp, Lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo và Lễ hội lịch sử.

- Lễ hội nông nghiệp: Hà Nam nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, đời sống nông nghiệp là chủ yếu. Là vùng chiêm trũng, lại nằm cạnh sông Hồng hung dữ và hệ thống sông ngòi chằng chịt, người Hà Nam đã luôn phải vật lộn, đấu tranh chống thiên tai, lụt lội để tồn tại và sản xuất nông nghiệp. Lụt lội, vỡ đê, năm nào cũng xảy ra, “chiêm khê, mùa thối” mất mùa, đói kém là thường xuyên. Do sức người có hạn, khoa học chưa phát triển, ngoài vắt sức để đắp đê, chống úng, chống hạn, người dân Hà Nam đã biết viện đến các vị thần thánh, những đấng siêu nhân có sức mạnh hô phong hoán vũ để trợ giúp mình trong cuộc sống. Vì thế, nhiều lễ nghi / lễ hội nông nghiệp được tổ chức, nhằm cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Song, tầm vóc quốc gia, qui mô và ý nghĩa nhất trong lễ hội nông nghiệp ở Hà Nam là Lễ hội Tịch điền và các lễ cầu mưa, cầu tạnh ở những ngôi chùa thờ Tứ Pháp.

- Lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo: lễ hội diễn ra ở các chùa (của đạo Phật), nhà thờ (Thiên chúa giáo), ở đền, miếu, phủ (của tín ngưỡng dân dã).

+ Lễ hội Phật giáo: vùng đất Hà Nam ngày nay là một trong những nơi đạo Phật du nhập sớm và phát triển rất nhanh, hình thành những trung tâm Phật giáo. Đến thời nhà Lý, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long thì vùng đất Hà Nam

Page 119: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

189

lại càng có ý nghĩa trong công cuộc xây dựng quốc gia Đại Việt. Các vua triều Lý đều tôn sùng đạo Phật. Phật giáo được coi là Quốc giáo, hễ có cảnh đẹp, núi non thì không nơi nào là không mở mang để xây dựng chùa chiền. Chùa chiền san sát mọc lên, thực chất đó là những trung tâm văn hóa của một vùng, lấy ngôi chùa là Trung tâm. Hà Nam xuất hiện những ngôi chùa nổi tiếng, như: Chùa Đọi (trên Núi Đọi, thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên), Chùa Quỳnh Chân (xã Lam Hạ, TP Phủ Lý), Chùa Bà Đanh (xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng),…Theo thống kê đến 2005, Hà Nam có 491 ngôi chùa (68) (song sách Hà Nam - di tích và danh thắng (Sở VH-TT Hà Nam xuất bản năm 2004) thì thống kê ở Hà Nam có 430 ngôi chùa). Hàng năm, tại các ngôi chùa đều tổ chức các ngày lễ theo sinh hoạt của đạo Phật. Tại một số ngôi chùa cổ lớn, như chùa Đọi, chùa Bà Đanh từ lâu đã hình thành lễ hội truyền thống lớn, không chỉ tiêu biểu nhất của Hà Nam, mà cũng là một lễ hội thờ Phật có tiếng cả nước.

+ Lễ hội Thiên chúa giáo: Đến thế kỷ XVII, Hà Nam đã sớm hình thành những trung tâm truyền đạo Thiên chúa, như Kiện Khê (thuộc Kẻ Sở, huyện Thanh Liêm), Trác Bút (Duy Tiên), Kẻ Noi (Thanh Liêm),…Hà Nam thuộc Giáo phận Hà Nội, có 211 nhà thờ; trong đó có 44 nhà thờ xứ, 167 nhà thờ họ, 8 nhà nguyện, 9 nhà dòng. Hầu hết các nhà thờ ở Hà Nam còn cho đến nay đều được xây dựng từ giữa thế kỷ XIX. Hà Nam là một trong những xứ đạo có nhiều nhà thờ lớn và có kiến trúc đẹp, được xây dựng trong khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, như nhà thờ Kiện Khê (1882), nhà thờ hai tháp Bút Đông (1883). Những nhà thờ xứ của Hà Nam, gồm: Châu Giang (huyện Duy Tiên), Châu Sơn (TP Phủ Lý), Kiện Khê (huyện Thanh Liêm), Phú Đa (huyện Lý Nhân). Số dân theo đạo Thiên chúa ở Hà Nam chiếm tỷ lệ cao so với dân số toàn tỉnh, với hơn 10 vạn giáo dân (chiếm 25%), cả 5 huyện và TP của Hà Nam đều có giáo dân (là tỉnh có tỷ lệ giáo dân cao hơn 2 lần so với tỷ lệ chung của cả nước). Từ năm 1987

(68). Địa chí Hà Nam, H, 2005, tr 826

Page 120: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

190

đến nay, giáo dân đạo Thiên chúa hàng năm được tổ chức 11 lễ trọng, nhưng chỉ có các ngày lễ Phục sinh, Giáng sinh, Đức Mẹ lên trời là những ngày hội thánh lễ lớn trong năm của giáo dân. Nhiều năm trở lại đây, những lễ hội này không chỉ của riêng giáo dân, mà còn thu hút đông khách tham dự thuộc đủ mọi thành phần tôn giáo khác.

- Lễ hội lịch sử: là lễ hội tưởng nhớ và tôn vinh những nhân vật lịch sử có công giúp dân, giúp nước. Họ là các anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc mà công lao, vai trò, ý nghĩa hành động của họ được địa phương ghi nhận, thậm chí vượt khỏi phạm vi của một địa phương cụ thể mà mang tầm vóc quốc gia dân tộc. Những nhân vật lịch sử được thờ ở đình, đền, miếu, phủ, điện; nhiều nhất là ở đình làng (là Thành hoàng làng). Đình là trung tâm văn hóa tinh thần của dân làng, nơi giữ gìn các giá trị tinh thần của cộng đồng làng đã đúc kết từ cuộc sống cộng đồng, trong cuộc chống chọi với vô vàn thử thách khắc nghiệt của thiên tai, địch họa. Trong cuộc đối chọi nhiều khi không cân sức đó, mỗi một cộng đồng nhỏ bé / làng đã tìm thấy cho mình một biểu tượng - một vị anh hùng, là người có công lao giúp họ vượt qua những thử thách khốc liệt của hoàn cảnh (như mở làng lập ấp, chống thiên tai, đánh giặc, chữa dịch bệnh, dạy nghề…) đã trở thành chỗ dựa tinh thần của cả cộng đồng, chở che họ trong những phen nguy khốn, trở thành biểu tượng thiêng liêng có thực giữa cuộc sống phàm trần có sức nâng đỡ con người vượt qua thử thách, vượt qua sự hữu hạn của bản thân mình để hướng tới khát vọng về cuộc sống bình yên, no ấm.

Việc các địa phương lập đền, đình thờ các nhân vật lịch sử này thường là do địa phương ấy có những mối quan hệ cụ thể với nhân vật đó, chẳng hạn như: là quê hương của nhân vật đó, có khi là nơi sinh hoặc nơi hóa/mất của vị anh hùng (như Trần Hưng Đạo được thờ ở nhiều nơi: "Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc", có khi đó là địa điểm ghi dấu chiến công hoặc những sự kiện có thật mà sinh thời người anh

Page 121: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

191

hùng đó đã in dấu tại địa phương đó. Mở lễ hội là một trong những hành động để dân làng tưởng niệm, ghi nhớ công lao của các nhân vật lịch sử được dân làng tôn phong là anh hùng dân tộc, là Thành hoàng làng…Lễ hội lịch sử thường diễn lại/tái hiện lại (qua sân khấu hóa) các sự kiện lịch sử, các trận đánh nổi tiếng trong kháng chiến chống ngoại xâm. Nơi tổ chức lễ hội, thường là ở đình làng, đền, miếu. Do chồng chất nhiều tầng văn hóa, trong lễ hội các nhân vật lịch sử có thể tàng ẩn nhiều vỉa tầng văn hóa được chưng cất, được tích tụ nhiều đời thông qua những biểu tượng.

Mảnh đất Hà Nam hình thành sớm, là một trong những cái nôi của người Việt cổ. Người Hà Nam là chủ thể trực tiếp tham gia, cũng là những chứng nhân của tất cả các sự kiện lịch sử mở đất và chống ngoại xâm của dân tộc. Dấu ấn/ dấu tích lịch sử thời nào cũng có, cũng in đậm trên đất Hà Nam, trải qua thời gian hàng nghìn năm vẫn không phai mờ. Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, người Hà Nam tôn phong và thờ phụng nhiều nhân vật lịch sử, từ thời Hùng Vương dựng nước, trải qua Bà Trưng, Bà Triệu...đến công cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc thời cận hiện đại ngày nay. Điều này được minh chứng qua con số trên đất Hà Nam hiện còn tồn tại trên 755 cơ sở thờ các anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc; trong đó, phổ biến nhất là đình làng (cả tỉnh Hà Nam có 463 ngôi đình). Trong các lễ hội lịch sử ở Hà Nam, lớn nhất, tiêu biểu nhất là Lễ hội Đền Trúc (tưởng nhớ danh tướng thời Lý là Lý Thường Kiệt) và Lễ hội đền Trần Thương (tưởng nhớ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn).

II. MẤY NHẬN XÉT 1. Kho tàng lễ hội truyền thống của Hà Nam vô cùng phong

phú, đa dạng và vô cùng giá trị. Là mảnh đất “chiêm khê mùa thối”, “sống ngâm da, chết ngâm xương”, nhưng cũng chính nơi đây lại là quê hương của những lễ hội cổ truyền lâu đời nhất ở

Page 122: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

192

nước ta: Lễ hội tịch điền, Lễ hội chùa Đọi. Điều đó cho thấy, mặc dù trong môi trường sống vô cùng khắc nghiệt, thường xuyên phải chiến đấu với giặc nước, nhưng người Hà Nam đã ngoan cường và sáng tạo, biến “thiên tai”, “thủy tai” thành “thủy lợi”. Tinh thần chiến đấu, nghị lực sống, tinh thần sáng tạo văn hóa - tinh thần của người Hà Nam xưa, ngay từ thời mở đất, “thau chua rửa mặn” trên vùng đồng chiêm trũng của đồng bằng Bắc Bộ. Lễ hội truyền thống là cứu cánh tinh thần của người Hà Nam xưa cũng như nay, là những di sản văn hóa - tinh thần vô cùng quí giá cần phải được nâng niu, bảo tồn và phát huy trong cuộc sống hôm nay và mai sau.

Bên cạnh những lễ hội cổ truyền có tuổi hàng nghìn năm đã và đang được phục dựng đó, người Hà Nam đã sáng tạo nên những lễ hội mới, hiện đại được tổ chức trên cơ sở những tư liệu lịch sử mới và tổ chức trên di tích lịch sử quốc gia - Đó là Lễ phát lương đền Trần Thương.

2. Lễ hội truyền thống Hà Nam phong phú, đa dạng, có ở mọi cấp độ. Hà Nam có lễ hội cấp Quốc gia, đó là Lễ hội tịch điền thường xuyên được Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước hoặc Bộ trưởng Bộ VH-TT&DL về chủ trì, đi chân đất, mặc quần áo nông dân, quất trâu mở xá cày đầu tiên mở đầu mùa vụ mới. Ngoài ra, Hà Nam có lễ hội vùng và có lễ hội làng.

Về thời gian tổ chức, các lễ hội truyền thống ở Hà Nam diễn ra vào mùa Xuân và mùa Thu (“Xuân - Thu nhị kỳ”); trong đó, số lễ hội diễn ra vào mùa Xuân nhiều hơn.

Trong các lễ hội truyền thống ở Hà Nam, số lễ hội nông nghiệp chiếm số lượng nhiều. Ngoài những lễ hội nông nghiệp đã kể trên, nhiều lễ hội tưởng niệm nhân vật lịch sử hoặc huyền thoại, song nội dung chủ yếu của lễ hội lại mang tính chất một lễ hội nông nghiệp. Có thể thấy điều này qua Lễ hội làng Gừa ở xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm và Lễ hội Đình Đá ở thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên.

Page 123: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

193

* Lễ hội làng Gừa (xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm): Đây là lễ hội nhằm tưởng niệm một vị tướng thời Đinh là Trương Nguyên, song nội dung diễn ra trong lễ hội lại chủ yếu là những sinh hoạt tế lễ mang tính chất của một lễ hội nông nghiệp. Nói như vậy bởi, trong lễ hội, có rất nhiều trò vui thể hiện tinh thần thượng võ như đánh đu, vật, chém mía, đặc biệt là cướp cầu - một nghi lễ không thể thiếu của lễ nghi nông nghiệp cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi nảy nở. Quả cầu trong lễ hội này làm bằng gỗ, kích thước xấp xỉ như quả bóng chuyền ngày nay, được sơn son thếp vàng và trang trí vẽ mây sóng trên bề mặt. Quả cầu là thánh vật của làng Gừa, được niêm cất tại nơi linh thiêng của đình làng. Hàng năm chỉ có ngày hội mới mang quả cầu này ra chơi. Bao giờ trò cướp cầu cũng được tổ chức đầu tiên để khai cuộc vào mồng 4 tháng Giêng. Ai thắng trong trò cướp cầu sẽ được vào cung hồi trống, tế thánh khai hội và họ tin rằng mọi ước nguyện sẽ linh ứng.

* Lễ hội Đình Đá (thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên): Đình Đá thờ Nguyệt Nga công chúa, một tướng tài của Hai Bà Trưng. Lễ diễn ra vào mùa Xuân, trong 3 ngày, từ mồng 6 đến mồng 8 tháng Giêng. Trong hội có tế lễ, rước kiệu Nguyệt Nga công chúa, song nội dung chủ yếu của lễ hội này mang tính chất một lễ hội nông nghiệp, với lễ tế Thần Nông và các hội thi như vật cầu, đua thuyền. Trong lễ tế thần nông, sau khi chủ tế và các bồi tế làm xong nghi thức dâng hương, dâng rượu, đọc sớ tấu cầu mong bình yên cho dân làng, cầu mong mùa màng tươi tốt thì tiếp theo là phần rước hương án tế thần ra khu ruộng gần đình đã được cày bừa chuẩn bị sẵn. Đoàn người đi theo hương án tế thần, có cả người gánh vài bó mạ, dăm cây lau, tay cầm cành tre, con dao, và bó hom dâu. Khi ra tới ruộng cấy lúa và bãi trồng dâu thì đoàn người đặt hương án trên bờ ruộng còn dân làng đứng vây quanh. Chủ tế và bồi tế là người được phân công thay mặt dân làng lội xuống ruộng cấy ít hàng lúa và trồng ít hom dâu tượng trưng. Dân làng vây quanh

Page 124: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

194

hò reo, hòa với tiếng chiêng trống tỏ niềm vui mừng đón chờ một mùa bội thu sắp tới. Cùng với hò reo, dân làng còn té nước ruộng vào người cấy, người gánh mạ, người vác hom dâu, người cắm cành tre, cắm cây dâu dưới ruộng. Mọi người cầu mong mưa thuận gió hòa cho cây lúa, cây dâu lên khỏe như lau, cứng như tre, vượt qua mọi khắc ngiệt của thời tiết để có một vụ mùa lúa, mùa dâu tươi tốt, dân làng có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trong lễ hội còn có tổ chức trò cướp cầu, vừa rèn luyện sức khỏe, vừa gửi gắm ước nguyện người an, vật thịnh, vạn vật sinh sôi.

3. Lễ hội truyền thống Hà Nam - lễ hội của niềm vui nông tang, ngày hội mừng chiến thắng, hội khỏe, trí tuệ, lễ hội của nghệ thuật (hát Lải lèn, hát Dậm...). Kho tàng lễ hội Hà Nam, không có lễ hội nào có những nghi thức hay hành động hội phản cảm, những hủ tục không phù hợp với đời sống hiện đại, bị dư luận lên án.

4. Về việc phục dựng lễ hội Có một thực tế không thể lãng quên là trong khoảng 50 -

60 năm qua, phần lớn lễ hội truyền thống ở nhiều địa phương trên miền Bắc, trong đó có Hà Nam, đã bị cấm hoặc không được quan tâm tổ chức. Vì thế, nghi lễ, cách thức tổ chức lễ hội như thế nào, đâu là các tục hèm phải kiêng kỵ…của nhiều lễ hội đã bị quên, ngay cả trong những người cao tuổi. Gần đây, phong trào tổ chức lễ hội ở các làng quê, được sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền, đã được phục dựng khá rầm rộ. Trong việc phục dựng lễ hội cũng như một số hoạt động truyền thống ở nước ta thời gian qua, đã có một số lễ hội phục dựng những nghi thức/tục lệ gây phản cảm cho xã hội, bị dư luận cho là hủ tục, đòi xóa bỏ, như: tục chém lợn (ở Ném Thượng, Bắc Ninh), tục đập đầu trâu đến chết (ở một làng của Phú Thọ)…Rất đáng ghi nhận là trong việc phục dựng lễ hội ở Hà Nam thời gian qua không rơi vào tình trạng trên. Hơn thế, một trong những công lao/đóng góp lớn của Hà Nam rất đáng biểu dương là đã phục dựng, làm sống lại một lễ hội nông nghiệp vô cùng ý nghĩa đối

Page 125: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

195

với một đất nước nông nghiệp, đa số dân sống bằng nghề nông như nước ta, đó là Lễ Tịch điền Đọi Sơn.

Lễ hội tịch điền Đọi Sơn là hội lễ quan trọng bậc nhất của xã hội phong kiến Việt Nam, đã có từ nghìn năm trước, được ghi trong chính sử phong kiến và trong Từ điển Hội lễ Việt Nam (69). (Rất tiếc là cho đến năm 2009, Lễ tịch điền Đọi Sơn không hề được những công trình nghiên cứu lớn về vùng đất và con người Hà Nam, như: Địa chí Hà Nam xuất bản năm 2005, sách Lễ hội Hà Nam xuất bản năm 2009, nói đến). Sau một thời gian dài bị lãng quên, đến năm 2009, với sự nhất trí cao, ủng hộ mạnh mẽ của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan - một người con của quê hương Hà Nam, được sự phối hợp nghiên cứu của Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam (Bộ VH-TT&DL) và Sở VH-TT&DL Hà Nam, Lễ Tịch điền Đọi Sơn đã được tỉnh Hà Nam phục dựng tại chính nơi mà 1028 năm trước vua Lê Đại Hành đã cày ruộng. Cho đến nay, nước ta vẫn cơ bản là nước nông nghiệp, dân cư đa số là nông dân. Việc tỉnh Hà Nam khôi phục lại Lễ Tịch điền Đọi Sơn là việc làm rất hợp lý, hợp tình, hợp lòng dân. Vì thế, từ đó đến nay, Lễ Tịch điền Đọi Sơn đã trở thành lễ hội mang tính quốc gia, được tổ chức thường niên, được Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Bộ trưởng Bộ VH-TT&DL về cày ruộng tịch điền, đem lại niềm hứng khởi, tự hào cho người dân Hà Nam. Cần phải khẳng định, đây là một niềm vinh dự, tự hào không phải địa phương nào cũng có được.

5. Về việc sáng tạo lễ hội mới - Lễ phát lương đền Trần Thương.Theo sách Địa chí Hà Nam (2005), cũng như những nơi thờ

Trần Hưng Đạo khác, hàng năm tại đền Trần Thương, nhân dân tổ chức lễ hội tưởng nhớ Đức Thánh Trần vào ngày 20 tháng 8 âm lịch. Có nghĩa là, tại đền Trần Thương, đến thời điểm này, ngoài lễ hội nói trên, không còn lễ hội nào khác, không có lễ phát lương diễn ra tại đây. Tìm trong sử sách, cũng không có tài liệu nào nói đến việc tổ chức phát lương ở đền Trần Thương.

(69). Bùi Thiết - Từ điên Hội lễ Việt Nam, Nxb Văn hóa, 1993, tr 438 - 439

Page 126: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

196

Năm 2010, lần đầu tiên ở đền Trần Thương xuất hiện Lễ /tục phát lương thảo. Lễ phát lương đền Trần Thương do UBND huyện Lý Nhân tổ chức, với tên gọi: “Lễ phát lương thảo cầu cho mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa và tưởng niệm Trần Hưng Đạo”. Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan đã về dự và trực tiếp phát lương cho những người hành hương. Tính đến năm 2015, đền Trần Thương đã 6 lần tổ chức Lễ phát lương. Năm 2015, lễ hội đã phát 150.000 túi lương thực cho du khách. Giờ phát túi lương thảo đầu tiên là giờ Tý ngày 14 tháng Giêng. Lễ thức gồm 3 phần như sau: - Lễ rước lương thảo từ kho lương vào trong đền Trần Thương để làm lễ; - Lễ châm đuốc và dâng hương của các đại biểu; - Rước lương thảo vào Hậu cung làm lễ mật. Trong Lễ phát lương, những lương thảo phát cho du khách gồm các loại hạt: thóc, ngô, đậu tương, đỗ xanh, đỗ đỏ. Ví như năm Quý Tỵ, có 3 loại hạt: ngô, đậu tương, thóc; năm Ất Mùi (2015) có 5 loại hạt: nếp cái hoa vàng, đỗ đỏ, đỗ xanh, đậu tương, ngô đỏ. Số lượng hạt của mỗi loại hạt bao giờ cũng là số lẻ (như, năm Quí Tỵ, là: 03 hạt ngô đỏ, 03 hạt đậu tương, 09 hạt thóc). Các hạt này được đựng trong một túi ni lon, cho vào trong một túi lụa nhỏ mầu đỏ, trong có đựng: - Một tấm vóc mầu vàng in hình triện / ấn hình vuông, trong in chữ mầu đỏ của nhà Trần; - 1 Thẻ/miếng giấy ghi: “Nước Đại Việt. Hưng Đạo Đại Vương. Ban lộc khai xuân. Giờ Tý ngày Rằm tháng giêng, năm...(ví như năm Quý Tỵ, hay Ất Mùi...). Đền Trần Thương - Lý Nhân - Hà Nam”.

Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa tìm được tài liệu nào nói về tục phát lương thảo ở đền Trần Thương. Vì thế có thể nói, lễ hội này là một sáng tạo vô cùng độc đáo của chính quyền, những người làm văn hóa Hà Nam và người dân Hà Nam, mà ở đây là người dân xã Đạo Lý, huyện Lý Nhân tạo dựng nên trên cơ sở những tư liệu mới về kho lương của nhà Trần đặt ở khu vực Trần Thương. Và, có vẻ như, sáng tạo này như thể hưởng

Page 127: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

197

ứng Lễ phát ấn đền Trần ở Bảo Lộc, Nam Định. Thực tế, Lễ hội phát lương đền Trần Thương rất được khen ngợi, không bị nhiều điều tiếng cần chấn chỉnh như Lế phát ấn đền Trần Bảo Lộc, Nam Định. Đây là nét/dấu ấn riêng/đặc sắc/độc đáo/hấp dẫn/ý nghĩa nhất của lễ hội đền Trần Thương không chỉ so với hàng trăm lễ hội thờ Trần Hưng Đạo, mà còn đối với trên tám nghìn lễ hội trên đất nước ta. So với Lễ phát ấn ở đền Trần Bảo Lộc (Nam Định), Lễ phát lương đền Trần Thương gần gũi, phù hợp và ý nghĩa hơn với người nông dân, và sản xuất nông nghiệp nước ta. Phát tượng trưng cho người dân một túi nilon đựng các loại hạt cây lương thực (lúa), hoa mầu (đậu tương, đậu xanh, ngô) là những cây lương thực, thực phẩm chủ yếu/cơ bản của nông dân đồng bằng Bắc Bộ/cũng là ở vùng Lý Nhân hay/thường trồng trong năm, mang ý nghĩa khuyến nông. Phát lương thực, không phải là “phát chẩn” (mục đích là phân phát tiền bạc, gạo...cho người nghèo đói, hoặc bị tại họa để cứu giúp) mà, là cầu mùa màng ...Các hạt được phát bao giờ cũng là số lẻ (như 03, 09), có ý cầu mong sẽ sinh sôi, phát triển. Đặc biệt, những hạt thóc, ngô, đậu trên là đã được nạp / mang một nguồn sống / năng lượng “thiêng” của Đức Thánh Trần. Vì thế, người dân nhận được túi lương này, là nhận được năng lượng thiêng, sự phù trợ của Đức Thánh Trần cho sức khỏe, mùa màng bội thu. Như vậy, với Lễ phát lương đã làm cho Lễ hội đền Trần Thương, ngoài việc tưởng nhớ Trần Hưng Đạo, còn có ý nghĩa khuyến nông. Vì thế mà nó khác với Lễ phát ấn đền Trần Bảo Lộc. Từ khi tổ chức Lễ phát lương lần đầu tiên đến nay, Lễ phát lương đền Trần Thương luôn nhận được sự ủng hộ, khen ngợi của công luận.

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ1. Hướng bảo tồn và phát huy di sản lễ hội truyền thống Hà

Nam1.1. Hãy để người dân - chủ thể tổ chức lễ hội truyền thống.

Page 128: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

198

Giá trị văn hóa tiêu biểu nhất của lễ hội là tính cộng đồng và sự cố kết cộng đồng. Mọi lễ hội, dù được phân chia ra sao, dù mang nội dung tôn giáo, nghề nghiệp, vòng đời hay gì nữa thì bao giờ cũng là sinh hoạt của một cộng đồng người để biểu dương những vốn liếng văn hóa và sức mạnh, tạo nên sự cộng mệnh, cộng cảm và tính cố kết cộng đồng (làng, nghề nghiệp, gia tộc, cộng đồng địa phương, quốc gia, cộng đồng tôn giáo). Tính chất tự quản, tinh thần dân chủ, nội dung nhân bản cũng là những giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống. Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tổng hòa, trong đó con người tự tổ chức, chi phí, tự vui chơi và cùng vui chơi. Hơn thế, cả cộng đồng cùng tham gia sáng tạo và tái hiện, hưởng thụ những sinh hoạt văn hóa - tâm linh trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và với bản thân họ. Họ không chỉ sùng bái, thành kính biết ơn hay chỉ thầm dâng những khát vọng, cầu mong của riêng mình với thần linh, không chỉ giao hòa với tự nhiên mà còn trực tiếp sáng tạo, tái sáng tạo giá trị văn hóa.

Trong thời gian qua, các nhà quản lý đã phân cấp lễ hội, thành lễ hội vùng, lễ hội làng. Theo tôi, cách phân cấp này đã dẫn đến những hệ lụy trong khâu tổ chức. Khởi thủy, tất cả các lễ hội truyền thống ở nước ta đều là hội làng, nghĩa là lễ hội do các làng đứng ra tổ chức, thường diễn ra trong phạm vi một làng tại một di tích tôn giáo - tín ngưỡng nào đó. Theo thời gian, có một số lễ hội do một số làng/liên làng tổ chức (thường là những làng đã kết chạ…), nhưng cũng vẫn trong khuôn khổ tự quản theo một qui ước giữa các làng bàn bạc thống nhất mà thôi. Đương nhiên là với những lễ hội này, không gian diễn ra lễ hội sẽ mở rộng hơn phạm vi của 1 làng, mà bao gồm phạm vi của các làng trong liên làng đó. Bởi thế chăng, mà trong thời gian qua những nhà văn hóa học đã có khái niệm phân cấp lễ hội, thành: lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ hội cấp quốc gia. Hãy để những khái niệm đó cho các nhà quản lý, tiện quản lý. Còn, giờ đây, chúng ta không nên bao cấp lễ hội, cần tôn trọng ý thức tự quản trong tổ chức lễ hội làng.

Page 129: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

199

1.2. (Tuy nhiên) Ngành Văn hóa Hà Nam cần đặc biệt quan tâm đầu tư, đẩy mạnh công tác quản lý để tổ chức cho dân làm tốt một số lễ hội đã thành thương hiệu của Hà Nam. Đó là: Lễ Tịch điền Đọi Sơn, Lễ hội Chùa Đọi, Lễ hội Đền Trúc/Quyển Sơn, Lễ hội đền Trần Thương (cả lễ hội lịch sử tháng Tám và lễ phát lương), Lễ hội vật võ Liễu Đôi, Lễ hội đền Bà Vũ, và Lễ hội chùa Bà Đanh. Theo đó, một trong những hướng phát triển du lịch Hà Nam đã được xác định là phải trên cơ sở/hạt nhân 7 lễ hội này.

2. Cần phục dựng nghi lễ “Trảm tự” trong Lễ hội vật võ Liễu Đôi.

Làng Liễu Đôi thuộc xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm. Lễ hội Liễu Đôi tổ chức trong không khí Tết Nguyên đán, kéo dài từ mùng 5 đến mùng 10 tháng Giêng hàng năm. Xưa, ngoài vật võ, trong lễ hội làng Liễu Đôi còn có cuộc thi đọc binh thư với nghi thức Trảm tự vô cùng đặc sắc tiến hành vào đêm 30 Tết tại chùa Ba Chạ. Trảm tự có nghĩa là Chém chữ. Sự tích về cuộc thi đọc binh thư, như sau: Thời nhà Trần, có một vị tướng đã về vùng Liễu Đôi thao binh luyện tướng. Trong lễ ra quân, ông đã trao cho 5 làng của xã Liễu Đôi một cuốn binh thư có tên là Võ trận, và căn dặn người dân Liễu Đôi phải truyền đời học thuộc cuốn binh thư đó để rèn luyện sức khỏe, võ nghệ và biết binh pháp đánh giặc. Để các thế hệ người dân trong làng có thể truyền đời nhau học thuộc được cuốn Võ trận, làng đã đặt ra cuộc thi đọc binh thư được tổ chức hàng năm, với nghi thức mở đầu có tên gọi Trảm tự. Cuộc thi Trảm tự tổ chức như sau: Đêm 30 Tết, các tộc trưởng đeo gươm vào đền thờ Thánh, trước mặt là băng giấy ghi chữ đầu trang của tập sách Võ trận. Đúng giao thừa, đèn nến vụt tắt, theo thứ tự, mỗi tộc trưởng vung gươm chém một nhát lên băng giấy trước mặt. Chém được đoạn giấy nào thì nhận lấy đoạn giấy ấy. Xong lễ, đèn nến sáng trở lại, từng họ đọc xem chữ đầu của băng giấy sẽ biết được họ mình năm đó phải học thuộc lòng đoạn nào trong sách Võ trận. Nhiều năm như thế, các dòng họ có thể thuộc lòng quyển binh

Page 130: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

200

thư. Đến thời Pháp thuộc, việc dùng gươm chém băng giấy đã được thay bằng rút thẻ. Ngày nay, cuốn Võ trận đã bị thất lạc, nên Lễ trảm tự cũng không còn, nhưng ký ức về tục lệ đẹp đó đã chứng tỏ tinh thần thượng võ sâu đậm của người dân làng Liễu Đôi. Hành động “chém”/“trảm” trong lễ hội Liễu Đôi không phải là “chém lợn”, mà là “Chém chữ”/“Trảm tự”. Chúng tôi cho rằng nên phục dựng và duy trì cuộc thi/nghi lễ “Trảm tự” có ý nghĩa, và vô cùng độc đáo này. Sách “Võ trận” xưa đã thất lạc, nên thay bằng sách mới, phù hợp với yêu cầu cộng đồng cần phải thuộc lòng, chẳng hạn sách “Luật Giao thông”. Nếu làm được, chắc chắn sẽ góp phần giảm tai nạn giao thông đối với người dân Liễu Đôi và những người nếu có một lần về tham dự cuộc thi học/đọc thuộc Luật Giao thông ở Lễ hội Liễu Đôi.

Lễ hội cổ truyền như là thời điểm mạnh của cuộc sống; là cái mốc của một chu trình kết thúc và tái sinh; là cuộc đời thứ hai bên cạnh cuộc đời thực; là trạng thái thăng hoa từ đời sống thực tế; là hình thức tổng hòa văn hóa nghệ thuật; là một hiện tượng văn hóa mang tính trội. Lễ hội truyền thống Hà Nam không nằm ngoài những giá trị, những vẻ đẹp thuần Việt ấy. Lễ hội truyền thống Hà Nam mang những mầu sắc riêng của vùng đồng chiêm trũng, là nơi biểu hiện khát vọng và niềm tin của con người Hà Nam trong quá khứ, cũng như trong hiện tại. Trong bối cảnh Hà Nam ngày càng đô thị hóa, nhiều bệnh viện lớn của Trung ương, nhiều trường đại học danh tiếng của Hà Nội đã và đang chuyển về Hà Nam, chắc chắn, sẽ có thêm hàng vạn con người từ khắp mọi miền quê, trong nước và nước ngoài sẽ về dự những lễ hội truyền thống của Hà Nam, cùng cộng cảm với người Hà Nam, để kết tinh sự thăng hoa của con người trong những giờ phút Con Người và Trời Đất giao hòa, củng cố một niềm tin tưởng về Mưa Thuận Gió Hòa, Người An Vật Thịnh, Mùa Màng Bội Thu.

Page 131: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

201

ĐẠO TỨ PHÁP TRÊN ĐẤT HÀ NAM

LỊCH SỬ, GIÁ TRỊ VĂN HÓA VÀ SỰ BIẾN ĐỔI

TS. NGUYỄN MINH SAN *

I. VỀ ĐẠO/TÍN NGƯỠNG TỨ PHÁP Ở VIỆT NAMĐạo/tín ngưỡng Tứ Pháp là đạo/tín ngưỡng thờ 4 vị thần tự

nhiên được tôn phong là Phật, là: thần Mưa (Pháp Vũ), thần Mây (Pháp Vân), thần Sấm (Pháp Lôi), thần Chớp/Sét (Pháp Điện). Bốn vị thần này có ảnh hưởng quyết định đến đời sống nông nghiệp đang ở tình trạng lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên của người Việt xưa. Đạo/tín ngưỡng này xuất hiện từ những năm đầu Công nguyên, đầu tiên là ở vùng Luy Lâu (nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành) tỉnh Bắc Ninh, sau đó lan tỏa đi nhiều địa phương ở Bắc Bộ.

Sự ra đời của đạo/tín ngưỡng Tứ Pháp gắn với câu chuyện về sự thai sinh thần thánh của Man Nương, một người con gái bản địa (Vùng Luy Lâu, một miền đất cổ, thủ phủ đất Giao Châu xưa, nay là xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) với một nhà sư Ấn Độ trong không khí thần bí, lộ rõ yếu tố Mật tông, được ghi lại trong sách Lĩnh Nam chích quái - thế kỷ XVI (70), sau đó, đến thế kỷ XVIII được phổ vào bài văn Nôm là Cổ Châu Phật bản hạnh (71) gồm 246 cặp lục * Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hiến Việt Nam

(70). Vũ Quynh, Kiều Phú - Lĩnh Nam chích quái - Nxb Văn hóa, 1990 (71). Cổ Châu Phật bản hạnh - Chùa Dâu

Page 132: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

202

bát, khắc trên 21 tấm ván. Hiện nay, bộ ván khắc này đang được lưu trữ và bảo quản tại chùa Dâu/tức chùa Diên Ứng (còn gọi là Cổ Châu tự/Thiền Định tự) thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Truyện kể rằng: thuở ấy, vào khoảng những năm đầu Công nguyên, nước ta gọi là Giao Châu, đặt dưới ách đô hộ của nhà Đông Hán (Trung Quốc). Lỵ sở Giao Châu đặt trong thành Luy Lâu ở vùng Kẻ Dâu, là nơi dân cư đông đúc, sầm uất. Nhiều vị cao tăng từ xứ Thiên Trúc (Ấn Độ) xa xôi đã tìm đến đây để truyền đạo, trong đó có thầy Khâu Đà La/Già La Đồ Lê. Thiền sư đến dựng am trong một khu rừng nằm ở phía Bắc sông Thiên Đức (sông Đuống) tu hành theo phép khổ hạnh, nhịn ăn và đứng một chân để tụng kinh nhiều ngày đêm. Trong làng Mãn Xá nằm ở mạn Nam sông Thiên Đức, có cô bé tên là Man Nương, ngay từ năm 12 tuổi đã được cha mẹ cho sang chùa Linh Quang ở bờ Bắc sông này để thụ giáo Thiền sư Khâu Đà La. Một hôm, Khâu Đà La đi hành lễ về muộn, vô ý bước qua người Man Nương đang nằm ngủ, khiến nàng có mang. Nàng đành về nhà, một năm sau thì sinh con gái. Nàng bồng con sang chùa trả cho Khâu Đà La. Nhà sư đem đứa bé tới cây dâu cổ thụ ở ven sông Thiên Đức (có tài liệu nói là cây phù dung, cây dung thụ - cây đa), niệm thần chú rồi dùng thiền trượng gõ vào gốc cây. Gốc cây liền nứt ra, Khâu Đà La đặt đứa bé vào đó. Vết nứt khép lại và từ cây này, hương thơm ngát tỏa ra. Trước khi chia tay, Khâu Đà La trao cho Man Nương một cây thiền trượng, dặn rằng, khi nào hạn hán, cứ cắm gậy xuống đất, đọc lời cầu nguyện thì sẽ có mưa. Ít lâu sau, trời đại hạn, ruộng đồng khô nẻ, dân tình đói khổ. Nhớ lời dặn của Khâu Đà La, Man Nương đem cây thiền trượng ra thử phép mầu, quả thấy ứng nghiệm. Thế rồi vào năm Giáp Tý, sau những ngày mưa to gió lớn, cây cổ thụ mà Khâu Đà La gửi con gái năm nào đổ xuống sông. Theo dòng nước, cây trôi về vùng thành Luy Lâu thì dừng lại. Người làng ra lôi cây lên bờ, nhưng không tài nào lôi lên được. Đúng lúc ấy Man Nương ra sông giặt giũ, thấy cây rập rình như vẫy

Page 133: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

203

gọi, liền tung dải yếm ra, cây bèn nương theo dải yếm mà dạt vào bờ. Đêm hôm ấy, thần nhân báo mộng khuyên dân làng nên đem cây gỗ tạc tượng mà thờ thì sẽ được hưởng phúc lớn. Dân làng làm theo, tạc được 4 pho tượng, khai quang điểm nhãn, đặt tên là: Pháp Vân/Phật Mây, Pháp Vũ/Phật Mưa, Pháp Lôi/Phật Sấm, Pháp Điện/Phật Chớp, rồi đem thờ ở 4 ngôi chùa chung quanh vùng, là: Chùa Dâu (tức Chùa Diên Ứng/tên cũ là Chùa Thiền Định), thờ bà Pháp Vân (Bà được coi là chị Cả/Bà Ả). Chùa Thành Đạo (Chùa Đậu) thờ bà Pháp Vũ (được coi là chị Hai/bà Dì Hai). Chùa Phi Tướng (Chùa Tướng) thờ bà Pháp Lôi (được coi là chị Ba (dì Ba). Chùa Trí Quả ở làng Dàn (còn gọi Chùa Dàn), thờ bà Pháp Điện (được coi là em Út/bà Út). Trong khi làm lễ rước tượng 4 Bà lên chùa thì lạ thay, chỉ có 3 pho là Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện là kiệu còn khiêng đi được, còn pho Pháp Vân thì không sao khiêng nổi. Hỏi ra mới hay là, khi thợ mộc tạc đến khúc ngọn, rìu chạm phải hòn đá trong thân cây. Họ liền quẳng hòn đá xuống sông. Nguyên đó chính là con gái của Man Nương nay đã kết đá. Biết ra, mọi người liền đi mò. Mò thấy song không sao vớt hòn đá lên được. Mọi người nhớ đến Man Nương, nhờ nàng đi vớt. Lạ thay, khi thuyền chở nàng ra đến nơi vứt hòn đá thì hòn đá tỏa sáng và nổi lên, nằm ngay trong lòng bà. Bởi cớ ấy, hòn đá được gọi là Thạch Quang Phật và cũng được lập một am để thờ. Bà Man Nương sau đó “không bệnh mà chết”, được nhân dân lập đền thờ cùng với cha, mẹ ở ngay tại nền ngôi nhà cũ tại làng Mèn (tỉnh Bắc Ninh). Bà được tôn vinh làm Phật Mẫu. Chùa thờ Bà gọi là Chùa Tổ. Ngày 8 tháng 4 được lấy làm ngày sinh của Phật Mẫu (trùng/cũng là ngày sinh Phật Thích Ca/Phật Đản).

Như vậy, khởi thủy, Tứ Pháp, bốn người con được sinh ra bởi cha (Thiền sư Khâu Đà La - Ấn Độ), mẹ (Man Nương - bản địa Việt), được phân ngôi thứ như chị em ruột trong một gia đình. Nhưng bốn bà Tứ Pháp không được thờ cùng một chùa với Mẹ/Phật Mẫu Man Nương là Chùa Tổ. Và, bốn Bà cũng không được

Page 134: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

204

thờ trong cùng một chùa mà, mỗi Bà hưởng một ngôi chùa riêng dựng ở các làng cạnh nhau, quây quần thành một cụm trong mối liên minh làng chạ cổ truyền.

Cũng gọi là chùa, nhưng điện thần của các ngôi chùa thờ Tứ Pháp này có cách bài trí không giống với những ngôi chùa Phật giáo Đại thừa bình thường vẫn thấy ở Giao Châu khi đó cũng như ở vùng Bắc Bộ của Việt Nam sau này. Tọa ở vị trí trung tâm - chính điện của ngôi chùa thờ Tứ Pháp không phải là tượng Phật (Thích Ca, Bồ Tát…) mà ở đây, các bà Tứ Pháp giữ tư cách là chủ điện (nghĩa là các chùa này lập ra để thờ các bà, các bà là tối linh, tối thượng ở đây). Tượng các bà Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện là tượng chính, được làm to hơn cả, đặt trong khám thờ. Còn, tượng Phật Thích Ca là một trong những pho tượng mà trong bất kỳ ngôi chùa Phật giáo nào cũng đặt ở vị trí chủ điện thần, thì ở trong chùa Tứ Pháp, Ngài cũng không được đặt ngồi trong khám. Thêm nữa, tượng Phật Thích Ca, cũng như tượng các vị La Hán, Bồ Tát, Kim Cương…được tạc kích cỡ nhỏ hơn nhiều và chỉ được đặt bên cạnh, phía ngoài, trước mặt các bà Tứ Pháp. Nói cách khác, ở đây, trong các ngôi chùa Tứ Pháp, việc xuất hiện các pho tượng của Phật giáo là rất muộn và, được xếp xuống hàng thứ yếu. Như thế, theo tôi, tuy 4 kiến trúc thờ Tứ Pháp mang danh là chùa, nhưng về thực chất thì đó là những ngôi đền thờ thần linh bản địa. Một minh chứng cho nhận định này là, trong điện thần của chùa Tứ Pháp còn phối thờ nhiều tượng của các tín ngưỡng khác. Như ở chùa Dâu chẳng hạn, đó là các tượng Đức Thạch Quang Phật (chính là hóa thân/đá của con gái Man Nương và Khâu Đà La), Ngọc Nữ, Kim Đồng, Bà Đỏ, Bà Trắng, Đức Thánh Hiền, Đức Ông, Mạc Đĩnh Chi, Thủ Vệ (một pho tượng nhỏ, đặt thấp hơn, phía sau tượng bà Pháp Vân, có nhiệm vụ giữ chỗ trước khi Bà đi dự hội)…Như thế, điện thần của chùa Tứ Pháp mang một sắc thái riêng, độc đáo, không khác mấy những ngôi đền thờ nữ thần. Bằng chứng này càng cho phép chúng ta nghĩ rằng các

Page 135: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

205

ngôi chùa thờ Tứ Pháp vốn xưa là các đền thờ các hiện tượng vũ trụ được các địa phương này tôn phong là thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp.

Đạo/Tín ngưỡng Tứ Pháp ra đời từ xa xưa nên tượng Tứ Pháp là loại tượng ra đời sớm ở Việt Nam. Việc tạo tác tượng Tứ Pháp mang những nét sáng tạo xuất phát từ tính cách nhân vật nhằm phản ánh đúng, sát thực nhân cách, dung mạo của những nhân vật ấy. Các pho tượng Tứ Pháp, nhất là tượng Pháp Lôi và Pháp Điện không có khuôn mặt bình thường, mà mang nét đặc biệt khác thường. Các pho tượng Tứ Pháp đều lớn giống nhau (nên khi rước để trần không ngồi long kiệu). Tượng tạc trong tư thế ngồi, toàn khối sơn một mầu đỏ nâu, mình khoác áo vóc vàng, đầu đội mũ gỗ kiểu cánh sen thất Phật, mặt dài, cổ cao, mắt dài tô màu vàng, trông có vẻ cổ quái dễ sợ. Tượng được đặt trên một bệ gỗ vuông, đơn sơ và rộng như một mặt phản.

Về sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng ở những ngôi chùa thờ Tứ Pháp, chủ yếu là lễ cầu mưa, lễ cầu tạnh và rước giao hiếu. Các lễ này tiến hành vào hai dịp là ngày 17 tháng Giêng - ngày hóa của Phật Mẫu Man Nương và ngày 8 tháng 4 âm lịch - ngày sinh Phật Mẫu - Tứ Pháp.

Nhìn vào sự bài trí điện thần trên, có thể khẳng định Tứ Pháp là một tôn giáo bản địa/đạo của người Việt đã ra đời trên đất nước Việt Nam, được hình thành trên sự hôn phối thần thánh giữa tín ngưỡng thờ nữ thần - thờ Mẹ/Mẫu bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước Việt Nam và Đạo Phật từ bên ngoài du nhập vào/Đạo Phật Ấn Độ. Tôn giáo/Đạo ấy mang tên Phật giáo Việt Nam/Đạo Tứ Pháp, với Phật Tổ là Phật Mẫu Man Nương và 4 người con của Bà là: Pháp Vân/Phật Mây, Pháp Vũ/Phật Mưa, Pháp Lôi/Phật Sấm, Pháp Điện/Phật Chớp. Bốn người con này là lực lượng triển khai thực hiện đạo pháp của Phật Tổ Man Nương - đó là cầu mưa, cầu tạnh của cư dân nông nghiệp.

Đạo/Tín ngưỡng Tứ Pháp, ngoài mục đích bày tỏ và hiện thực hóa nhận thức một cách khoa học về các hiện tượng tự

Page 136: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

206

nhiên như trên, về khách quan, nó phản ánh cuộc đấu tranh chống thiên tai, mặc dù chỉ là sự cầu khấn của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Cuộc đấu tranh ấy đòi hỏi phải có sự đoàn kết giữa các làng mới mong thu được kết quả. Các làng cùng thờ Tứ Pháp phải bàn bạc, phối hợp đồng tâm nhất trí cao mới tổ chức đám rước cầu mưa, cầu tạnh linh nghiệm. Trong mối quan hệ làng xã cổ truyền khép kín “con gà tức nhau tiếng gáy”, “thần làng nào làng ấy thờ” phần nào hạn chế công cuộc chống thiên tai, địch họa - một công việc không của riêng một người, một làng mà phải là của cả cộng đồng, thờ Tứ Pháp là một hiện tượng tích cực, phá bỏ lề thói cũ lạc hậu ấy. Vì thế, lễ hội Tứ Pháp có thể nói cơ bản là lễ hội nhằm giao hiếu, kết chạ giữa các làng xã cổ truyền đoàn kết chống thiên tai, địch họa của người dân đồng bằng Bắc Bộ xưa. Tứ Pháp được người Việt coi là hiện tượng phân thân của Đức Phật dưới dạng tự nhiên. Vì thế, lễ hội Tứ Pháp đã không còn là một hội chùa mà đã trở thành một hội làng (liên làng) - một lễ hội nông nghiệp đậm đà bản sắc của vùng đồng bằng Bắc Bộ trong bối cảnh văn hóa Việt Nam.

II. ĐẠO / TÍN NGƯỠNG THỜ TỨ PHÁP Ở HÀ NAMĐạo/Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp khởi thủy ở vùng Luy Lâu

(Bắc Ninh) nhanh chóng được cư dân nông nghiệp lúa nước ở nhiều vùng Đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có Hà Nam, vùng đất chịu nhiều thiên tai nhất, tiếp nhận.

1. Thành phố Phủ Lý 1.1. Thôn Bảo thuộc thị xã Châu Cầu xưa (nay là phố Bảo

Thôn, phường Hai Bà Trưng, Thành phố Phủ Lý). Dân thôn Bảo thờ bà Pháp Vân (dân quen gọi là Bà Chúa Bầu/Bà Bầu) cùng 10 vị thần khác. Thờ bà Pháp Vân bằng tượng ở chùa có tên chữ là Thiên Bản tự (tên nôm là Chùa Bầu). Sách Hà Nam - di tích và danh thắng, cũng ghi: “Chùa Bầu thuộc thôn Bảo, xã Liêm Chính, Thành phố Phủ Lý: thờ Pháp Vân, Thủy Tinh

Page 137: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

207

phu nhân, Đông Hải Đoàn Thượng” (72). Thần tích về Pháp Vân ở chùa Bầu, ghi: “Ngài là thiên thần. Ngài Man Nương sinh ra một bọc đem để vào thân cây đa, sau nứt ra thấy 4 viên đá hào quang có đề chữ Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Trong năm, tế lễ Ngài vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch, ngày Ngài hiển Thánh. Dân thôn kiêng húy tên ngài, Vân gọi là Vơn. Ngài Pháp Vân Phật có 07 đạo sắc phong của các triều vua Việt Nam”(73) . Ngoài thờ bà Pháp Vân, dân thôn còn phối thờ “cha đẻ” của bà là nhà sư Già La Đồ Lê, do kiêng tên húy nên dân thôn gọi Ngài là “Thượng Phong Quốc Lâm viện lục tư Hòa thượng Viên Chiếu Thiền sư”. Thần tích ghi rõ: Ngài có tên trong thần tích từ thời vua Hán Minh Đế. Ngài hóa ngày 14 tháng Chạp, thờ Ngài bằng tượng.

1.2. Thôn Hồng Phú, xã Thanh Châu (xưa là xã Hồng Phú)Dân xã thờ Thánh Bà hiệu là “Tập phúc ngưng tường ái

thụy quảng phù bác phu túy mục Pháp Vân Phật thượng đẳng thần” cùng 2 vị thần khác. Thần tích Thánh Bà, tóm tắt như sau: “Thời Hán Minh Đế, Thái thú Sĩ Nhiếp lập thành Vũ Bình ở Giang Biên (nay là phủ Thiên Đức), phía Nam thành có chùa Phật tên là Phúc Nham. Một nhà sư từ Tây Phương đến chùa trụ trì, tên là Già La Đồ Lê, có phép đứng bằng 1 chân. Già trẻ trai gái trong vùng ngưỡng mộ, kính cẩn gọi ông là Tôn Sư, nhiều người tìm đến xin học đạo Phật. Trong đám phật tử có một người tên gọi Man Nương, cha mẹ đều mất sớm, nhà nghèo nhưng rất chăm học. Man Nương không cùng mọi người tụng kinh mà chỉ ở dưới bếp nấu nướng để cung dưỡng cho các sư và người bốn phương đến học. Một hôm, vào tháng 5, đêm ngắn, tăng đồ tụng kinh đến tận gà gáy nửa đêm, Man Nương nấu nướng xong buồn ngủ quá bèn ngả lưng ngoài hiên, chẳng ngờ ngủ quên. Các sư tụng kinh xong, đều về phòng ngủ. Man Nương nằm ngủ ngay trước bậc cửa, sư Già Lê bước qua người

(72). Hà Nam-di tích và danh thắng - Sở VHTT Hà Nam xuất bản năm 2004, tr 240(73). Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, 2004, tr 857-858

Page 138: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

208

bà, Man Nương bỗng nhiên thấy lòng xúc động. Từ đó mang thai, hai, ba tháng sau bà lặng lẽ bỏ về, sư Già Lê cũng xấu hổ đi khỏi chùa. Man Nương đi đến ngôi chùa bên ngã ba sông thì ở lại. Đến kỳ, bà sinh ra một cái bọc, ôm trả Già Lê. Già Lê mang bọc ấy đến ngã ba sông, thấy trên cây đa có một hốc lớn, liền đặt bọc ấy vào và nói: “Ta gửi ngươi đứa con Phật này, công giữ gìn của người đối với đạo Phật rất lớn”. Sư nói xong, hốc cây liền khép kín lại. Liền đó, sư bẻ một cành cây đa trao cho Man Nương, dặn: “Ta cho nàng, sau này hễ năm nào đại hạn, hãy cầm cành đa này chọc xuống đất, sẽ có nước để cứu nạn cho dân”. Già Lê nói xong rồi đi, Man Nương kính cẩn nhận rồi trở về xã. Từ đó, mỗi khi hạn hán, bà lại cầm cành đa chọc xuống đất, lập tức nước vọt lên, dân được nhờ cậy rất nhiều. Đến năm Man Nương hơn 90 tuổi, cây đa bỗng dưng bị đổ, trôi đến ngã ba sông, đẩy cũng không đi. Dân xã kéo nhau ra chặt đốn củi, nhưng rìu búa đụng vào đều bị sứt mẻ hết. Dân xã tụ tập đến 300 người, hò nhau kéo lên bờ, nhưng cây không hề nhúc nhích. Chợt Man Nương ra sông rửa tay, đẩy thử, cây đa liền trôi ra xa, rồi lại quay vào. Mọi người đều lấy làm lạ, bảo Man Nương kéo lên bờ, rồi mượn thợ mộc cắt xẻ ra làm tượng Phật. Chặt đẽo, đến đoạn Già Lê gửi bọc năm trước thì thấy bọc đã hóa thành một khối đá rất cứng. Bọn thợ tức vì rìu búa bị mẻ bèn ném khối đá xuống vực sâu, bỗng thấy khối đá phát ra một luồng ánh sáng lạ. Lát sau đá chìm, bọn thợ đều lăn ra chết, phải mời Man Nương đến cứu mới khỏi. Họ nhờ dân chài vớt lên trả lại cho Man Nương làm tượng Phật. Tượng đều yểm tâm bằng vàng, rồi rước vào chùa. Từ đó, bốn phương cầu đảo đều rất linh ứng, người đời đều gọi Man Nương là Phật Mẫu. Ngày 8 tháng 4 là ngày sinh của Bà, mọi người đều gọi là ngày Phật sinh. Hàng năm, đến ngày ấy, nam nữ lão thiếu tụ hội chơi bời, hát múa, diễn trò hàng trăm cách đã thành tục lệ gọi là Hội Tắm Phật, đến nay vẫn còn. Ngài có 4 đạo sắc phong của các triều vua Tự Đức, Đồng Khánh. Dân thờ đức Thánh Bà bằng

Page 139: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

209

tượng. Thờ cúng ngài ở chùa. Hàng năm, dân xã tế lễ vào các dịp: 8 tháng 4 - Phật sinh. Dân xã có lệ kiêng tên húy các thần khi đọc và viết là chữ Vân và chữ Lang”. (74)

1.3. Thôn Vân, xã Phù Vân (xưa là xã Vân Châu, tổng Kim Bảng).

Dân xã thờ Đệ nhất danh lam Đại thánh Pháp Vân Bồ Tát Tập khánh ngưng tường ái thụy Thượng đẳng thần cùng 4 vị thần khác. Thần tích ghi rõ: Đệ nhất danh lam Đại thánh Pháp Vân Bồ Tát tập khánh ngưng tường ái thụy Thượng đẳng thần, tên húy là Pháp Vân, tục gọi là Bà Vân. Ngài là thiên thần. Tương truyền vào thời vua Hán Minh Đế, ở phía Nam thành Bình Giang có ngôi chùa Tiên là một danh lam. Ở chùa có vị Tổ sư Đà La Sà Lê khai tràng thuyết pháp. Ông là người có pháp thuật cao cường, nên có nhiều người theo học. Chùa ấy có bà thủ hộ tên là Man Nương tuổi đã 90, nhà nghèo, không nơi nương tựa bèn đến chấp tác các việc nhà chùa. Đêm đêm, nhà chùa có lệ nấu cháo để các sư đọc kinh xong thì dùng. Một hôm, bà Man Nương nấu cháo xong bèn nằm ngủ quên ở cửa bếp. Đến giờ không thấy bà mang cháo lên, sư cụ xuống bếp xem sự thể ra sao, không may vô tình bước qua người bà, thế rồi từ đó bà có thai. Năm đó bà đã 90 tuổi. Sư cụ xấu hổ bèn gửi bà Man Nương sang chùa Nguyên Đầu. Đến ngày 8 tháng Tư, bà sinh được một cô gái. Bà bèn bế đến chùa Tiên trao trả sư cụ. Sư cụ lại đem sang chùa Nguyên Đầu, thấy có một cây phù dung cổ thụ, trong có cái bọng to và sâu, sự cụ bèn bỏ người con gái vào bọng cây, rồi dặn rằng: “Ta gửi ngươi giữ lấy, rồi các ngươi sẽ thành tiên cả đấy”. Nói rồi, sư cụ bẻ một cành phù dung giao cho bà Man Nương và bảo rằng: “Ngươi giữ lấy, hễ năm nào đại hạn cầm cành cây này dộng xuống đất vài cái thì trời sẽ mưa ngay”. Về sau, vào các năm đại hạn, bà Man Nương làm theo lời sư cụ dặn, trời lại mưa xuống, nhân dân lại được nhờ. Nhưng rồi cây phù dung bị bật rễ trôi về cửa chùa Tiên, nhà chùa cứ

(74). Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, 2004, tr 792-794

Page 140: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

210

để nguyên làm cầu rửa nhưng hễ ai đụng đến thì cây lại chảy máu tươi ra, mọi người đều lấy làm sợ hãi. Sư cụ sai người kéo lên bờ thì bao nhiêu người kéo cũng không được. Sư cụ sai bà Man Nương thì bà kéo được ngay. Sư cụ cho gọi thợ, cưa cây ra làm thành bốn pho tượng bà. Rồi sư cụ đến nơi gốc cây ấy thì thấy một hòn đá ngũ sắc rắn chắc và rất đẹp. Người thợ đem đập hòn đá ra làm bốn rồi vứt xuống cứ chìm lại nổi lên, sóng đánh một lúc lại chìm xuống, người thợ đó bị chết ngay. Bà Man Nương thuê thuyền chài lặn mò lên, đem về chùa rồi sai yểm tâm bốn pho tượng làm phép nhập định, đặt tên là: Pháp Vân, Pháp Vũ/võ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Từ đó anh linh vô cùng, bốn phương quốc đảo dân cầu đều rất linh nghiệm, cầu mưa, cầu tạnh đều được như nguyện. Sau đó, bà Man Nương được tôn xưng là Thánh Mẫu và cũng anh linh vô cùng. Bởi thế có câu: “Nam bang tứ đại tối linh từ”, là: Đền Cờn, đền Cả, đền Mã, đền Dâu.

Dân xã thờ Ngài Pháp Vân bằng tượng, thờ ở chùa Pháp Vân/còn gọi Chùa Thôn 4, ở thôn 6, xã Phù Vân, huyện Kim Bảng xưa, nay thuộc xã Phù Vân - Thành phố Phủ Lý. Ngài có 6 sắc phong của các vua triều Nguyễn. (75)

2. Huyện Kim Bảng2.1. Thôn Đanh Xá, xã Ngọc SơnThoạt kỳ thủy, ngôi chùa Bà Đanh được dân thôn Đanh Xá

lập nên cạnh sông Đáy để thờ bà Pháp Vũ (một trong Tứ Pháp). Ngọc phả ở chùa và truyền thuyết địa phương đến nay vẫn còn truyền tụng thần tích về bà Pháp Vũ, về cơ bản như tích truyện về Man Nương ở Bắc Ninh nói ở trên. Sau nhiều lần trùng tu, chùa Bà Đanh đã có sự tích hợp của nhiều lớp văn hóa, trong đó nổi lên là văn hóa Chăm Pa (với pho tượng đá Bà Banh và tục đâm chày bằng đá vào bộ phận sinh dục của Bà để cầu ước); sau đó là của Phật giáo đại thừa. Ngôi chùa Bà Đanh hiện nay, tên chữ là Bảo Sơn Tự, là kết quả của lần xây dựng vào năm Vĩnh

(75). Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, 2004, tr 406 - 407

Page 141: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

211

Trị đời vua Lê Hy Tông (1676 - 1680). Điện thần của chùa hiện nay theo kiểu “Tiền Thánh, hậu Phật”: Từ ngoài vào, ta bắt gặp Ban Công đồng (hai bên là 2 ban Hộ Pháp), tiếp đến phía sau là Ban Phật Đức Thánh Bà (bên phải là ban Chúa, bên trái là ban Đức Thánh Hiền), tiếp đến phía sau là Cung cấm. Tại đây, thờ Bà Pháp Vũ (bằng tượng), phía sau là Tam thế Phật. Trong khuôn viên chùa còn có Phủ Mẫu thờ các tượng Tam Tòa Thánh Mẫu, Tứ Phủ, Nhà Tổ.

Sự hiện diện của pho tượng Bà Pháp Vân nói ở trên, là bằng chứng rõ rệt nhất về sự tồn tại của tín ngưỡng Tứ Pháp ở đây, trước khi Phật giáo vào chiếm / thế chỗ.

2.2. Thôn Phương Thượng, xã Lê Hồ (xưa là xã Phương Thượng, tổng Phương Đàn, huyện Kim Bảng). Dân thôn Phương Thượng thờ Đại thánh Pháp Vũ Phật và hai vị thần khác. Thần tích về Đại Thánh Pháp Vũ Phật, chép: “Ngài là thiên thần. Ngài sinh và hóa ngày 8 tháng 4, về đời vua Sỹ Vương ở thành Luy Lâu. Ngài có công đức mỗi khi trời đại hạn, cầu đảo thì được mưa. Ngài có công âm phù giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân và giúp vua Lê Thái Tổ dẹp giặc Minh. Vua Đinh Tiên Hoàng phong Ngài là Thượng đẳng thần. Vua Lý Thái Tổ ban sắc chỉ và mỗi năm ban cho dân làng 100 quan tiền xanh để thờ cúng”. Ngài có 7 sắc phong của các vua triều Nguyễn. (76)

2.3. Thôn Đặng Xá, xã Văn Xá (xưa là xã Đặng Xá, tổng Kim Bảng). Dân thôn này thờ Pháp Vũ Phật và 4 vị thần khác. Thần tích về Pháp Vũ Phật, như sau: “Vào đời Tam quốc, khi dân bị tật bệnh đến cầu đảo ở chùa thờ thánh (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) thuộc xứ Kinh Bắc thì được yên ổn. Vì thế dân xã Đặng Xá cũng lên Kinh Bắc xin duệ hiệu Đại Thánh Pháp Vũ, rước về làm chùa thờ gọi là chùa Khánh Hưng (còn gọi chùa Đặng Xá). Từ đấy, dân xã cầu tạnh, cầu mưa đều linh ứng cả. Đến thời Đinh Tiên Hoàng mở mang nghiệp đế, Ngài thân đến chùa Khánh Hưng cầu khấn, quả nhiên đất nước được

(76). Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, 2004, tr 464 - 465

Page 142: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

212

thanh bình, vì thế Ngài gia phong cho thần là Thượng đẳng phúc thần. Khi Lý Thái Tổ dựng nước, lại đến chùa Khánh Hưng cầu khấn, cũng được linh ứng, nhà vua gia phong hai chữ Đại Thánh. Đến khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa cũng đến cầu khấn ở chùa này mà bình được thiên hạ, nên nhà vua có sắc chỉ gia phong, và hàng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 thì phái quan đem tiền về làm lễ ở chùa. Ngài có 2 sắc phong của vua Tự Đức (năm 1853) và Khải Định (1924)”. (77)

2.4. Thôn Văn Lâm, thị trấn Quế Sơn (xưa là xã Văn Lâm, huyện Kim Bảng). Dân thôn thờ Nam Vô Đại thánh Pháp Vân Phật và 4 thần khác. Thần tích về “Nam Vô Đại thánh Pháp Vân Phật”, ghi: “Ngài là thiên thần, tên húy là Pháp Vân. Ngày 7 tháng Giêng năm Nhâm Dần, thân mẫu ngài là Man Nương là già hộ ở chùa Phúc Nghiêm đạo Kinh Bắc, đã sinh ra một bọc có 4 khối đá. Ở bên núi có một cây bạch đàn đã lâu năm, trong ruột thủng một lỗ, thân mẫu ngài đem khối đá đó bỏ vào trong ruột cây bạch đàn. Về sau, cây bạch đàn khô chết được một năm thì đổ xuống chân núi, trôi xuống sông rồi trôi ngược về bến sông trước cửa chùa Phúc Nghiêm. Hơn 100 người đến lôi gỗ ấy lên nhưng không được. Sau đó sư ông ở chùa Phúc Nghiêm lôi ngay được lên bờ và thấy trong lỗ cây bạch đàn ấy có 4 khối đá thích chữ: Nam Vô đại thánh Pháp Vân Thạch Quang Vương Phật, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Sư chùa lấy làm lạ, thuê thợ khắc 4 pho tượng, lấy khối đá làm đầu, lấy gỗ bạch đàn làm thân rồi rước về thờ ở chùa. Ngài rất linh ứng, mỗi khi dân bị dịch bệnh, hạn hán, cầu đảo Ngài đều được ứng nghiệm ngay. Ngài có 5 sắc phong của triều Nguyễn (78). Theo sách Hà Nam Di tích và danh thắng, thì chùa Quế Lâm (còn gọi là chùa Bến) ở Văn Lâm, thị trấn Quế, huyện Kim Bảng, thờ Tứ Pháp. (79)

(77). Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, 2004, tr 401 (78). Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, 2004, tr 410 - 411 (79). Hà Nam Di tích và danh thắng - Sở VH-TT Hà Nam xuất bản năm 2004, tr

252

Page 143: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

213

Phạm Đãi Đán (1518 -1590), người xã Lôi Hà, huyện Nam Xang, nay thuộc xã Trác Văn, huyện Duy Tiên, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất (1538), có bài thơ “Tu Vân Lâm xã Pháp Vân tự” (Sửa chùa Pháp Vân ở xã Vân Lâm) / chùa thuộc xã Vân Lâm, huyện Kim Bảng, một ngôi chùa có tiếng ở Sơn Nam thờ Tứ pháp (Dịch nghĩa):

“Tương truyền chùa này có từ thời Hán, thay đổi nhiều lần đã mất đi quang cảnh thuở xưa.

Năm mẹ con Phật đều có chữ PhápLàng thôn ngàn dặm nhờ thế được yên.Là một phương có hội lớn, người người chiêm bái đính lễ

hương hoa.Nay có hàng vạn quan tiền muốn sửa lại cho thêm đẹp.Người tin tôi yêu cầu tôi lo việc.Vậy viết vài hàng chữ cho thợ đá khắc lên để truyền lại”. (80)

2.5. Thôn Dương Cương, xã Đại Cương (xưa là xã Dương Cương, trước gọi là trang Tùng Quan, tổng Phương Đàn huyện Kim Bảng xưa, gồm thôn Thượng và thôn Nội). Dân thôn Dương Cương thờ Phật Pháp Vân. Thần tích về Pháp Vân Phật, ghi: “Ngài là một trong Tứ pháp, thờ Ngài ở đền thôn Thượng. Sự tích chép lại rằng: cha Ngài là Đồ Lê, mẹ là Man Nương. Khi bà Man Nương nằm ngủ, nhà sư Đồ Lê bước qua, bà Man Nương rùng mình rồi có mang. Đến ngày 8 tháng 4, bà sinh ra một bọc, sư Đồ Lê đem bỏ vào gốc cây đa rỗng. Về sau, khi cây đa đổ, nhà sư lấy gỗ cây đa ấy tạc thành 4 pho tượng gọi là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Việc này xảy ra từ thời Sĩ Nhiếp người nước Tầu làm Thứ sử nước ta. Thờ Ngài bằng tượng ở đền”. Ngài có sắc phong của các vua thời Nguyễn. (81)

3. Huyện Duy TiênThôn Thần Nữ, thuộc xã Bạch Thượng (xưa là xã Thần Nữ -

(80). Hồ Đức Thọ - Dương Văn Vượng - Thi tuyên danh sĩ Hà Nam, Sở VHTT Hà Nam, 1999, tr 96

(81). Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, 2004, tr 460- 461

Page 144: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

214

tên nôm là Nứa), là một làng nằm trong vùng chiêm trũng của huyện Duy Tiên. Cùng các làng Bùi Xá, Vũ Xá, Văn Xá, Đôn Lương (xã Yên Bắc) và Sa Lao, Đoài, Nhất, Trì (xã Tiên Nội), làng Thần Nữ là một trong những địa điểm mà khảo cổ học đã phát hiện ra các trống đồng, mộ thuyền…Đây là một làng Việt cổ, với đình làng, chùa làng thờ Tứ Pháp. (82)

Dân thôn/làng Thần Nữ thờ bà Pháp Lôi cùng 8 vị thần khác. Bà Pháp Lôi được thờ tại chùa Châu Quang (tên nôm là chùa Nứa) cùng với “Như Lai Đại thánh Đại Bồ Tát Thượng đẳng thần” (một nhân thần, hiển thánh về đời Hán Hiến đế, có công làm mưa những năm đại hạn)(83). Sự tích về Pháp Lôi ở chùa Châu Quang/Chùa Nứa, như sau: “Thời Hán Hiến Đế, viên Thái thú đắp thành ở phía nam sông Bình Giang (nay là sông Thiên Đức), phía Nam thành có chùa Phật tên là Phúc Nhan. Chùa có một nhà sư từ Tây Phương đến chùa trụ trì, tên là Già La Đồ Lê. Vị sư này có thể đứng bằng 1 chân, dân làng rất kính phục thờ phụng, thường gọi là Tôn Sư, nhiều người đến xin học đạo Phật. Bấy giờ có một người con gái tên là Man Nương, cha mẹ đều mất cả, rất nghèo khổ nhưng dốc lòng mộ đạo. Cô nói năng khó khăn, không thể cùng mọi người đọc kinh nên thường ở dưới bếp giã gạo, nấu cơm, hái chè, lo thức ăn đồ uống cho các sư sãi trong chùa và người bốn phương đến học. Đêm tháng 5 chóng sáng, các sư tụng kinh đến tận gà gáy, Man Nương nấu cháo đã chín, nhưng các sư tụng kinh chưa xong, chưa ăn. Man Nương nhân lúc vãn việc ngả lưng nằm nghỉ trước cửa buồng, không ngờ ngủ quên. Các sư tụng kinh xong, ai nấy đều về tăng phòng của mình. Nhà sư Già La Đồ Lê thấy cô ngủ quên, bèn bước qua người cô. Man Nương thấy tâm động và cô mang thai. Ba, bốn tháng sau Man Nương thẹn bỏ về, sư Gìa La Đồ Lê cũng xấu hổ đi khỏi chùa, tìm đến trụ trì trong ngôi chùa ở ngã ba sông. Đủ ngày tháng, Man Nương sinh được một bé gái,

(82). Địa chí Hà Nam, Nxb KHXH, 2005, tr 794(83). Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, 2004, tr 233

Page 145: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

215

cô tìm sư Đồ Lê trả con. Sư Đồ Lê đem bé gái gửi cho cây đa ở chùa ngã ba đường bên sông và dặn: - “Ta gửi ngươi đứa con Phật này, ngươi hãy giữ gìn để thành chính quả”. Rồi sư Đồ Lê và Man Nương chia tay. Trước khi đi, sư Đồ Lê trao cho Man Nương chiếc gậy và dặn: - “Cho nàng chiếc gậy này, nàng hãy trở về, nếu khi gặp hạn hán, hãy cắm gậy xuống đất, lấy nước cứu dân”. Man Nương kính cẩn nhận lấy rồi trở về ngôi chùa của bản ấp tu hành. Năm ấy, trời đại hạn, nhớ lời sư Đồ Lê dặn, bà cắm gậy xuống đất, tự nhiên nước chảy ra ào ạt. Năm Man Nương hơn 90 tuổi, cây đa bỗng dưng bị đổ, trôi đến bến sông trước cửa chùa, rồi quanh quẩn không đi nữa. Dân làng định bổ làm củi, nhưng búa rìu không thể làm sứt mẻ được, mới tụ tập hơn 300 người đến lôi lên. Lôi mãi cây vẫn không nhúc nhích. Gặp lúc Man Nương ra sông rửa tay, bà đùa đẩy vào cây thì cây liền chuyển động, dời đi. Mọi người kinh sợ xin Man Nương kéo cây lên bờ, rồi sai thợ mộc tạc 4 pho tượng Phật. Chặt đến đoạn cây mà nhà sư Đồ Lê gửi bé gái khi xưa thì thấy đứa bé đã thành một tảng đá rất rắn, búa rìu phạm vào đều gãy mẻ hết. Bọn thợ ném tảng đá xuống vực sâu thì thấy những tia sáng rực rỡ phát ra, giây lát đá mới chìm còn bọn thợ đều chết cả. Mọi người thấy thế mới mời Man Nương đến lễ cầu rồi nhờ dân chài lặn xuống vớt lên, rước vào điện Phật để thờ. Sư Đồ Lê đặt tên hiệu cho 4 pho tượng là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp lôi, Pháp Điện. Từ đó, dân bốn phương cầu mưa rất linh nghiệm, họ gọi Man Nương là Phật Mẫu (Mẹ Phật). Ngày 8 tháng 4, bà Man Nương không đau yếu gì mà hóa, mộ táng ở trong chùa, dân làng coi ngày đó là ngày Phật sinh, hàng năm cứ đúng ngày ấy, trai gái khắp các vùng đều tụ hội ở chùa vui chơi, ca múa, tục gọi là hội Phật”. Vào thế kỷ XVII, Chúa Trịnh đã ban 6 lệnh chỉ công nhận Chùa Châu Quang xã Thần Nữ là “Danh lam cổ tích”, chuẩn cho dân xã được miễn giảm lao dịch, tô thuế để trông coi chùa và đèn hương phụng sự đức Pháp Lôi/Pháp Điện (84).

(84).Thần tích, thần sắc Hà Nam, tr 234 - 235.

Page 146: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

216

III. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊĐạo/Tín ngưỡng Tứ Pháp là một sáng tạo văn hóa đặc sắc

của người Việt. Đó là một bài học thành công trong giao lưu văn hóa, trong tiếp thu các yếu tố ngoại lai của văn hóa Việt Nam. Cách đây hàng nghìn năm, cha ông ta đã mở lòng đón nhận các luồng gió văn hóa ngoại nhập, nhưng không phải tiếp thu nguyên bản văn hóa ngoại lai mà, đã Việt Nam hóa, biến những yếu tố ngoại nhập cho phù hợp với tâm thức và truyền thống dân tộc. Vì thế, văn hóa Việt Nam không ngừng có những thành tố văn hóa mới, vừa mang yếu tố bản địa / nội sinh, vừa mang yếu tố ngoại sinh. Chính vì sức mạnh nội sinh đó, văn hóa Việt Nam hội nhập nhưng không hòa tan, không đánh mất mình trong văn hóa thế giới.

Cũng như những cư dân nông nghiệp ở các vùng lân cận quanh thủ phủ Luy Lâu - Bắc Ninh - cái nôi sinh thành Tứ Pháp, như Hà Tây (cũ), Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, cư dân nông nghiệp Hà Nam cũng đã nhanh chóng và hồ hởi tiếp nhận tín ngưỡng này. Sở dĩ có hiện tượng trên, người ta giải thích là bởi tính chất linh ứng của nó. Tương truyền, các làng quê vùng Hà Nam do nghe tiếng Tứ Pháp ở Bắc Ninh linh ứng đã lên đó xin rước chân nhang về thờ. Và, từ khi rước Tứ Pháp về thờ thì được mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Con số 09 nơi thờ Tứ Pháp trên đất Hà Nam (03 nơi ở Thành phố Phủ Lý, 05 nơi ở huyện Kim Bảng, 01 nơi ở huyện Duy Tiên) mô tả trên đây, chắc chắn là chưa đầy đủ về sự hiện diện của tín ngưỡng này trên một vùng quê nông nghiệp - đồng chiêm trũng như Hà Nam. Tuy nhiên, qua đó cũng có thể rút ra một số nhận xét sau:

1. Về địa bàn thờ Tứ PhápQua bản đồ phân bố các nơi thờ Tứ Pháp ở Hà Nam, cho

thấy, tín ngưỡng này xuất hiện ở những vùng quê sản xuất nông nghiệp nằm ven sông Đáy. Sông Đáy là một nhánh của sông Hồng, bắt nguồn từ Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây (cũ), chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đi vào lãnh

Page 147: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

217

thổ Hà Nam tại thôn Vĩnh Sơn, xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng. Trong địa phận huyện Kim Bảng, sông uốn khúc khá mạnh; nhưng hướng chính vẫn là Tây Bắc - Đông Nam. Từ Phủ Lý đến Thanh Liêm, sông chuyển hướng thành hướng Bắc - Nam chảy về phía Nam của tỉnh. Sông Đáy là ranh giới giữa Hà Nam và Ninh Bình bằng một đoạn chừng 2,6km rồi đi ra khỏi lãnh thổ của tỉnh ở thôn Đoan Vĩ, xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, gần trạm bơm Kim Thanh. Sông Đáy chảy qua lãnh thổ Hà Nam có chiều dài gần 50km. Nhìn chung lưu vực sông Đáy trên lãnh thổ Hà Nam bao gồm phần lãnh thổ của huyện Kim Bảng giới hạn bởi đường 21B hắt về phía Tây và phần lãnh thổ của huyện Thanh Liêm giới hạn bởi đường 971 hắt về ranh giới phía Tây của tỉnh. Trên địa bàn Hà Nam, sông Đáy có các phụ lưu lớn, là: sông Nhuệ (đổ vào sông Đáy ở ngã ba sông gần cầu Hồng Phú về phía Bắc; và sông Châu Giang (đổ vào sông Nhuệ rồi đổ vào sông Đáy ở ngã ba sông). Như vậy, lưu vực cung cấp nước cho sông Đáy ở tả ngạn là chủ yếu. Qua các trạm bơm trên bờ, sông có thể tiêu úng cho 24.196 ha ở phía hữu ngạn và 1696 ha ở phía tả ngạn. Ngoài vai trò tiêu nước, sông Đáy cũng cấp nước để tưới cho đồng ruộng vụ Đông Xuân và vụ Đông qua hệ thống các cống lấy nước hoặc các trạm bơm kết hợp tưới tiêu của huyện Kim Bảng và huyện Thanh Liêm (nay đã cắt về Phủ Lý nhiều). Ngoài chức năng tưới tiêu cho phần lớn lãnh thổ, sông Đáy còn có tác dụng phân lũ cho sông Hồng khi mức nước sông Hồng vượt mức báo động 3 tại Hà Nội (quá 11,5m) Sông Đáy cũng tạo nên một tuyến đường thủy quan trọng để vận chuyển hàng hóa từ Hà Nam đi các tỉnh lân cận.

Ngoài huyện Kim Bảng (có 05 nơi thờ), huyện Duy Tiên (có 01 nơi thờ là thôn Thần Nữ là một làng nằm trong vùng chiêm trũng) là đất nông nghiệp rước Tứ Pháp về thờ để cầu mưa, cầu tạnh, cho công việc cày cấy được thuận lợi, đã đành, không có gì phải bàn. Còn, thành phố Phủ Lý nay, sở dĩ có tới 03 nơi thờ Tứ Pháp, là bởi, trước khi thành đô thị, xưa - thủa Tứ Pháp

Page 148: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

218

được rước về, Phủ Lý là đất làm nông nghiệp, thuộc các tổng Mễ Tràng, Kỷ Cầu, huyện Thanh Liêm, và xã Vân Châu, tổng Kim Bảng xưa.

2. Ý nghĩa việc thờ Tứ Pháp và thái độ của nhà nước phong kiến đối với Tứ Pháp

Tại Hà Nam, Tứ Pháp đã được gọi bằng những cái tên nôm na thân mật, ví như dân làng Đanh Xá gọi Pháp Vũ là Bà Đanh (Chùa Bà Đanh); dân làng Quế Lâm gọi Pháp Vũ là Bà Bến (Chùa Quế Lâm); dân Phủ Lý gọi Pháp Điện là Bà Bầu (Chùa Bầu)…Hàng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán, Rằm tháng giêng, Rằm tháng Bẩy, đặc biệt là ngày 8 tháng 4 âm lịch, dân các địa phương gần xa lại đến những ngôi chùa Tứ Pháp mở hội, rước kiệu, cầu nguyện tấp nập. Vào những năm hạn hán hay mưa gió thất thường, các chùa Bà Đanh, chùa Bến, chùa Bầu…người ra vào cúng lễ rất đông. Đối với cư dân nông nghiệp xưa, “trông trời, trông đất, trông mưa”…làm ăn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Đối với vùng chiêm trũng như Hà Nam, ngoài việc chủ động đắp đê ngăn nước lũ…thì người dân đã áp dụng thêm biện pháp tâm linh nữa là cầu mưa, cầu tạnh. Tứ Pháp đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng này của người dân. Không ít khi, việc cầu mưa, cầu tạnh này linh ứng. Như thế, việc viện đến Tứ Pháp đã có công hiệu.

Trước việc làm trên của dân chúng, thái độ của nhà nước phong kiến đối với Tứ Pháp là sự đồng tình, ủng hộ. Bằng chứng là, nhà nước phong kiến đã cấp sắc phong và ban tặng nhiều mỹ tự cho Tứ Pháp.

3. Sự biến đổi trong thờ Tứ PhápSự ra đời và tồn tại của những ngôi chùa Tứ Pháp đã hàng

mấy trăm năm là điều không thể phủ nhận. Bản thân sự hiện diện của nó đã là minh chứng cho những giá trị của nó, không chỉ là những công trình văn hóa, mà ở ý nghĩa tâm linh và là một trong những biện pháp làm nông nghiệp của người nông dân. Không những vậy, tại một số ngôi chùa Tứ Pháp, người

Page 149: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

219

dân còn đến cầu tự, và đã được đắc ý. Tuy nhiên, trải qua thời gian và những sự biến động chính trị - xã hội, nhiều ngôi chùa thờ Tứ Pháp ở Hà Nam đã có sự biến đổi bởi bàn tay sắp xếp của con người, khiến cho một số yếu tố của tín ngưỡng Tứ Pháp ở Hà Nam không giống với nơi nó phát tích (Bắc Ninh) và, ở thời điểm hiện tại, nó không giống như ở thời điểm người dân xây dựng lên để thờ Tứ Pháp. Thậm chí, ở một số ngôi chùa Tứ Pháp xưa, vị Phật Tứ Pháp vốn là vị thần chủ điện thờ, nay đã bị mất ngôi vị, bị đuổi khỏi chính điện. Đây là việc làm không thể chấp nhận được, cần chấn chỉnh, ngăn chặn.

Do điều kiện có hạn, hiện chúng tôi mới khảo sát được hai nơi thờ Tứ Pháp ở Hà Nam là Chùa Bầu và Chùa Bà Đanh, như một dẫn chứng cho nhận xét trên.

3.1. Tại chùa Bà ĐanhSự biến đổi trong việc thờ Bà Pháp Vân ở chùa Bà Đanh

đã diễn ra nhiều lần, lần gần đây nhất là từ năm Vĩnh Trị đời vua Lê Hy Tông (1676 - 1680). Lần này, trong chùa - trụ sở chính của mình, bà Tứ Pháp không còn giữ tư cách là chủ điện (nghĩa là các chùa này lập ra để thờ các bà, các bà là tối linh, tối thượng ở đây), mà có sự phối tự của những tượng Phật giáo Đại thừa, theo mô hình “Tiền Thánh/Thần, hậu Phật”. Cũng có thể nói, chùa Bà Đanh vẫn là chùa thờ Phật: Phật dân gian của người Việt/Pháp Vân, và Phật giáo Đại thừa. Có thể chấp nhận được sự biến đổi này. Nhưng, tại chùa Bà Đanh, có một sự biến đổi quan trọng của pho tượng bà Pháp Vân. Nếu như tại những ngôi chùa Tứ Pháp ở Bắc Ninh (nơi phát tích/gốc), tượng các bà Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện là tượng chính, được làm to hơn cả, đặt trong khám thờ (còn, tượng Phật Thích Ca được tạc kích cỡ nhỏ hơn nhiều, không được đặt ngồi trong khám và chỉ được đặt bên cạnh, phía ngoài, trước mặt các bà Tứ Pháp) và các pho tượng Tứ Pháp, nhất là tượng Pháp Lôi và Pháp Điện không có khuôn mặt bình thường, có nét đặc biệt khác thường (mình khoác áo vóc vàng, đầu đội mũ gỗ kiểu cánh

Page 150: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

220

sen thất Phật, mặt dài, cổ cao, mắt dài tô màu vàng, trông có vẻ cổ quái dễ sợ), thì ở chùa Bà Đanh, pho tượng bà Pháp Vân có khuôn mặt hiền từ, bầu bĩnh, da trắng, đầu đội mũ kim khôi, mình phủ vải nhiễu mầu đỏ, trông không khác mấy những vị Thánh Mẫu. Pho tượng bà Pháp Vân nhìn gần gũi, thân thiện. Không biết có phải thế không mà, ở Chùa Bà Đanh, ngoài cầu mưa, cầu tạnh, người ta còn đến cầu tự trước pho tượng Tứ Pháp này. Sinh thời, Phó bảng Bùi Kỷ (1888-1960), người xã Châu Cầu, huyện Thanh Liêm có làm bài thơ chữ Hán là Bái Đặng Xá Phật (Lễ Phật chùa Đặng Xá), nói việc bố ông đã cầu tự ở một ngôi chùa Tứ Pháp:

Bố tôi cầu tự ở chùa nàySinh được ra tôi thấy rất mayĐem lễ Đoan Dương ra lễ tạCúng tiền Trùng Cửu góp tiền xâyCác đời nhờ cậy ơn phù hộNay muốn đi xa tới đảo ngayChẳng tường vận nước, đành thôi vậyChỉ muốn quê nhà mọi sự hay” (85).3.2. Tại Chùa Bầu Theo thần tích, dân thôn Bảo (thuộc thị xã Châu Cầu xưa,

nay là phố Bảo Thôn, phường Hai Bà Trưng, TP Phủ Lý) lập Chùa Bầu, tên chữ là Thiên Bản tự, để thờ bà Pháp Vân (dân quen gọi là Bà Chúa Bầu/Bà Bầu) và phối thờ “cha đẻ” của bà là nhà sư Già La Đồ Lê (do kiêng tên húy nên dân thôn gọi Ngài là “Thượng Phong Quốc Lâm viện lục tư Hòa thượng Viên Chiếu Thiền sư”). Thờ bà Pháp Vân và nhà sư Già La Đồ Lê đều bằng tượng. Sách Hà Nam - di tích và danh thắng xuất bản gần đây, cũng ghi: “Chùa Bầu thuộc thôn Bảo, xã Liêm Chính, TP Phủ Lý: thờ Pháp Vân, Thủy Tinh phu nhân, Đông Hải Đoàn Thượng” (86). Bà Pháp Vân có 07 đạo sắc phong của các triều vua

(85). Thi tuyên danh sĩ Hà Nam - Hồ Đức Thọ - Dương Văn Vượng - Sở VHTT Hà Nam xuất bản 1999, tr 253

(86).Hà Nam - di tích và danh thắng - Sở VHTT Hà Nam xuất bản năm 2004, tr 240

Page 151: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

221

Việt Nam” (87). Tuy nhiên, sau lần Chùa Bầu được xây dựng mới rất hoành tráng, rất khang trang (năm 1990), khi đến lễ chùa, ta không khỏi ngỡ ngàng, buồn tủi vì để tìm được một dấu vết thờ tự Tứ Pháp xưa là vô cùng khó khăn, và không phải ai cũng tìm được. Bởi hiện tại, đây là một ngôi chùa Phật giáo Đại thừa đẹp, nguy nga, tráng lệ, tòa ngang, dãy dọc. Kiến trúc 2 tầng của Chùa Bầu cũng như nhiều ngôi chùa dựng mới ở miền Bắc trong những năm gần đây học theo lối xây chùa 2 tầng, bê tôn cốt thép ở miền Nam. Thần điện/chính điện Chùa Bầu bày trí hoàn toàn là các pho tượng Phật giáo Đại thừa (Từ ngoài cửa chính vào là: Ban Tam bảo (hai bên là ban Đức Địa Tạng và ban Đức Chuẩn Đề) - tiếp đến là Tòa Cửu Long, phía sau, thứ tự từ thấp lên cao là ba hàng tượng, trên cùng là Tam Bảo), không thấy bóng dáng của pho tượng Bà Pháp Vân, và “cha đẻ” của bà là nhà sư Gìa La Đồ Lê như thần tích ghi. Có nghĩa là, các vị này đã bị thế chỗ, bị đuổi khỏi chính điện của mình ở chính nơi mà họ đã ngự và cứu giúp dân lành những khi mưa dầm thối đất, cũng như khi hạn hán trầm trọng từ hàng nghìn năm trước.

Là người đã biết chút ít lịch sử Chùa Bầu, tôi cố đi tìm xem dấu vết của Tứ Pháp đâu, trong cái không gian mênh mông, hoành tráng của Chùa Bầu mới dựng này. Nhưng, đi hết tòa ngang dãy dọc, tầng trên tầng dưới rất cao, rộng của tòa chính điện, cũng không tìm thấy pho tượng bà Pháp Vân đâu. Khi lên tầng hai của tòa Tổ đường - Trai đường (phía sau ngôi nhà làm chính điện), tại đây tôi mới thấy một pho tượng nữ nhỏ bày trên một án thờ. Bà có khuôn mặt hiền từ, thân thiện, dễ gần. Hai bên Bà là hai pho tượng đứng, một pho mặc áo mầu mận chín, một pho áo mầu xanh, trong tư cách là thị giả. Không có một chỉ dẫn nào để biết pho tượng nữ kia là ai. Tôi tìm hỏi mấy bà trông coi chùa, về pho tượng nữ trên, họ đều không cho biết đích xác đó là pho tượng ai. Khi tôi hỏi, có phải là Bà Bầu không, có người nói, có lẽ đó là Bà Chúa Bầu. Bàn thờ Bà đặt

(87).Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, 2004, tr 857-858

Page 152: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

222

ngang bằng với các ban thờ khác trong toà nhà này (là: nhìn từ cửa vào, ngoài cùng bên trái là ban thờ ba pho tượng Tam Tòa Thánh Mẫu, tiếp đến là Giác Linh Thượng tọa Thích Viên Thành (có ảnh), tiếp đến là ban thờ Phật, tiếp đến là ban thờ Bà, nằm ở ngoài cùng bên phải). Việc 4 ban thờ vừa kể được bày cùng nằm trên một mặt bằng, áp sát tường hậu tòa nhà, đã lộ rõ thiển ý đánh đồng các vị được thờ này ngang bằng nhau. Nghĩa là, Thượng tọa Thích Viên Thành (vị sư trụ trì Chùa Hương những năm cuối của thế kỷ XX) ngang bằng với các pho tượng Bà Tứ Pháp, Phật, Thánh Mẫu đã nằm trong niềm tin tín ngưỡng người Việt từ nghìn năm trước.

Vẫn biết, theo thời gian, sự kiểm soát không thấu của nhà quản lý, sự thiếu hiểu biết và cả những lý sự cho hợp thời của kẻ có tiền, sự biến/thay đổi trong việc thờ tự ở một số di tích là không thể tránh khỏi. Nhưng, sự biến đổi/thay đổi nào cũng có giới hạn của nó. Sự biến/thay đổi ở Chùa Bà Đanh, với việc vẫn giữ ngôi cao tại chính điện cho Bà Pháp Vân, trong điện thần “Tiền Thánh hậu Phật” là hợp tình, hợp lý. Hay như, trong một số ngôi chùa ở Tiền Hải, Thái Bình, người ta đưa Bác Hồ vào thờ trong chùa trên một ban thờ, dưới cái tên cao quý: Ngọc Phật Hồ Chí Minh, cũng là điều hợp lẽ, hợp lòng dân và không mất đi bản chất của ngôi chùa. Còn, sự biến/thay đổi nhằm xóa hẳn, làm mất đi cái cũ vốn vì nó mà có, như kiểu làm ở Chùa Bầu, theo tôi là không thể chấp nhận được.

4. Kiến nghịHà Nam có di sản Đạo/Tín ngưỡng Tứ Pháp tồn tại qua

hàng nghìn năm, thật vô cùng quí giá. Từ năm 1990 đến nay, việc thờ cúng Tứ Pháp ở các huyện Kim Bảng, Thanh Liêm và TP Phủ Lý bắt đầu có xu hướng gia tăng cả về qui mô lẫn phạm vi lễ thức. Chùa Quế Lâm, Chùa Trinh Sơn, Chùa Bầu…đã được tu bổ tôn tạo lại rất khang trang. Dân địa phương và khách thập phương về cúng lễ cũng ngày càng tấp nập hơn. Đó là điều đáng mừng. Song, rõ ràng là chúng ta không thể vui trước tình

Page 153: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

223

trạng tu bổ, tôn tạo, xây dựng di tích kiểu như Chùa Bầu đã nói ở trên. Việc làm trên là vi phạm Luật Di sản văn hóa, không tuân thủ các nguyên tắc về trùng tu, tôn tạo di tích.

Ai là người phải chịu trách nhiệm về thực trạng đó? Còn có những ngôi chùa Tứ Pháp nào trên đất Hà Nam đã

chịu chung tình trạng xây mới và đuổi các bà Thần / Phật Vũ Trụ ra khỏi chính trụ sở của các bà, như Chùa Bầu?

Cần một cuộc kiểm tra để có câu trả lời rõ. Việc làm biến chất di tích như ở Chùa Bầu cần chấm dứt.

Bà Bầu sẽ tha thứ nếu chúng ta biết sửa sai. Vì thế, cần nhanh chóng trả lại vị trí xứng đáng, đúng như vị thế của Bà Pháp Vân ở tại ngôi nhà của Bà - Chùa Bầu.

Page 154: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

224

NỮ THẦN GIẢI OAN VŨ THỊ THIẾT TRONG MÔI CẢNH TÍN NGƯỠNG

THỜ NỮ THẦN Ở HÀ NAM

TH.S. NGUYỄN THỊ TÂM*

I. TOÀN CẢNH TÍN NGƯỠNG THỜ NỮ THẦN Ở HÀ NAMTôn phong, lập đền đài thờ phụng các anh hùng, liệt nữ,

các danh nhân văn hóa của dân tộc, của địa phương là một tín ngưỡng, một nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Hà Nam nói riêng. Qua thư tịch Hán - Nôm Hà Nam được xuất bản thành sách Thần tích, thần sắc Hà Nam (Nxb Khoa học xã hội, H, 2004) ghi lại dấu ấn các vị thần và thành hoàng làng được người dân Hà Nam thờ phụng từ xa xưa còn truyền đến ngày nay, chắc là chưa đầy đủ, chúng ta biết tên các thần và tần số thờ cúng của 1.457 vị thần được người Hà Nam thờ phụng. Một tỉnh nhỏ, diện tích tự nhiên chỉ có 851,5km2; dân số (năm 2005) là: 817.557 người, mà thờ cúng một số lượng thần linh nhiều như vậy, cho thấy đời sống tinh thần của người dân Hà Nam khá phong phú, rất cần được nghiên cứu tìm hiểu.

Căn cứ vào thần tích, thần sắc của 1.457 vị thần đó, chúng ta thấy số nữ thần (theo tên gọi hay tên húy của các vị nữ thần có nguồn gốc là nhân thần hay nhiên thần), chiếm một con số không nhỏ, có 326 vị (chiếm tỷ lệ trên 22,3%). Những nữ thần được thờ trên đất Hà Nam, là những nhân thần thuộc đủ mọi tộc người (những anh hùng văn hóa, nhân vật lịch sử hay * Học viện Hành chính Quốc gia

Page 155: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

225

huyền thoại của các thời kỳ, từ thời Hùng Vương dựng nước đến thời Hai Bà Trưng, thời Tiền Lê, thời Lý, Trần, Hậu Lê, Lê Trung hưng, thời Tây Sơn, thời Nguyễn); là những thần tự nhiên/nhiên thần (là các vị thần sông nước, thần núi, thần mây, mưa, sấm, chớp, thần rắn…). Các bà được thờ ở nhiều loại hình kiến trúc thờ tự, như: đền, miếu, đình, chùa. Trong số 326 vị nữ thần ấy, các vị nữ thần có tần số thờ cúng nhiều nhất, có:

- Bà Chúa Liễu Hạnh: có 63 nơi thờ, với các tên: Liễu Hạnh công chúa, Thiên tiên công chúa (húy Liễu Hạnh công chúa), Đế thích Liễu Hạnh công chúa, Đế Thích Tiên đình Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhất Liễu Hạnh công chúa, Quốc Mẫu (húy Đế Thích Thiên đình Liễu Hạnh công chúa Thượng đẳng thần, Quốc Mẫu Phủ Giầy…).

- Quế Anh phu nhân / Quế Anh phu nhân Thánh Mẫu/Ngọc Nữ Quảng cung Quế Anh phu nhân, có 34 nơi thờ.

- Thủy Tinh công chúa / Thủy Tinh phu nhân: có 32 nơi thờ.- Sơn Tinh công chúa / Sơn Tinh phu nhân = Mỵ Nương: có

22 nơi thờ. - Quế Hoa công chúa / Quế Hoa phu nhân / Quế Hoa linh

thông Ngọc chân phu nhân: có 20 nơi thờ…Việc các nữ thần kể trên có nhiều nơi thờ phụng cũng đã

phần nào nói lên tầm ảnh hưởng/công lao/độ thiêng của các bà đối với dân chúng. Tuy nhiên, trong văn hóa, sự đặc sắc, nét riêng, sự độc đáo của sáng tạo văn hóa thường lại không được đánh giá qua số lượng. Văn hóa cần sự riêng/cái riêng/sáng tạo đặc sắc của riêng một vùng đất. Và, trong số các vị nữ thần được người Hà Nam phụng thờ ấy, có một vị nữ thần, tuy số lượng các đền thờ/nơi thờ không nhiều như các vị nữ thần kể trên, nhưng nó lại phản ánh được sắc thái rất riêng, giá trị đặc sắc của phụ nữ Việt Nam, của tâm hồn Việt Nam là đề cao, tôn phong những phụ nữ trau dồi và giữ đạo Tam tòng, Tứ đức, nhất mực thủy chung với chồng. Tôi muốn nói đến vị nữ thần tôn quí, bà Vũ Thị Thiết.

Page 156: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

226

Bản tham luận này xin trình bày việc phụng thờ vị nhân thần này mà, theo tôi là chỉ riêng ở Hà Nam mới có.

II. VIỆC PHỤNG THỜ BÀ VŨ THỊ THIẾT 1. Lai lịch bà Vũ Thị ThiếtSự tích về bà Vũ Thị Thiết được chép lần đầu trong sách

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI) với tên “Chuyện người con gái Nam Xương”. Truyện tóm tắt như sau: Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song, Trương có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt đến nhiều lính tráng. Chàng Trương phải đi lính. Khi chia tay, Vũ Thị Thiết quỳ rót chén rượu đầy tiễn chồng, nói: Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về, mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi, chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Ngày tháng lữa lần, tin hơi xa cách:

Gió Tây nổi khôn lường hồng tiện,Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.Màn mưa trướng tuyết xông pha,Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề…

Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó chén đưa vừa cạn, vó ngựa thẳng bon. Bấy giờ, nàng đã đương có thai, sau khi tương biệt được mươi ngày thì sinh ra được một đứa con trai, đặt tên là thằng Đản. Khi mẹ chồng ốm đau, nàng hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song, do bệnh nặng, bà mẹ không qua khỏi. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.

Page 157: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

227

Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, Trương và những người lính thắng trận trở về. Trương về nhà, thì mẹ già đã từ trần, con vừa học nói. Chàng Trương hỏi mộ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm. Ra đến đồng thì đứa con nhỏ quấy khóc. Trương dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Đứa con thơ ngây nói: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Chàng Trương ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói: “Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tính Trương hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn có cách gì tháo cởi ra được. Về đến nhà, Trương trút giận lên đầu vợ cho thỏa cơn ghen. Nàng khóc mà rằng: “Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nhưng chàng Trương vẫn không tin, thường mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì. Vũ Thị Thiết đành tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, cam chịu hết mọi điều phỉ nhổ”. Nói xong gieo mình xuống sông mà chết. Chàng Trương tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm, phòng không vắng vẻ, chàng ngồi dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng: “Ô! Cha Đản lại đến rồi”. Chàng hỏi đâu, nó trỏ bóng chàng ở trên vách: “Đây này!”.

Page 158: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

228

Thì ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng Trương mới tỉnh ngộ ra nỗi oan của vợ, nhưng chẳng làm gì được nữa. Sau, nghe lời người làng tên là Phan Lang, vốn làm đầu mục bến đò Hoàng Giang nằm chiêm bao gặp Vũ Nương ở Thủy Tinh cung, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả nhiên thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện. Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng sông mà nói với vào: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa”.

Rồi trong chốc lát, những hiện tượng ấy chìm lỉm đi mất” (88).Theo dòng trôi chảy của thời gian, truyền thuyết về bà Vũ

Thị Thiết đã có nhiều dị bản. Đó là qui luật biến thiên của các hiện tượng văn hóa dân gian. Tuy nhiên, truyền thuyết về bà Vũ Thị Thiết biến thiên, thay đổi không nhiều, chủ yếu chỉ là “thêm mắm, thêm muối”, không thay đổi bản chất và những tình tiết chính của câu chuyện. Có thể thấy điều này trong sự tích về bà Vũ Thị Thiết mà chúng tôi sưu tầm được ngay tại quê hương của bà, làng Vũ Điện, nơi có ngôi đền thờ bà. Sự tích về bà lưu truyền ở đây, như sau: “Xã Vũ Điện nằm cạnh con sông Hồng thuộc phủ Nam Xang/ Nam Sương, đã một thời gian dài thuộc tỉnh Hà Nội, sau nhiều lần tách nhập nay là thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Sông Hồng chảy qua địa phận xã Chân Lý khoảng hơn 1km sẽ bẻ nhánh sang trái, tạo thành con sông Luộc, địa giới tự nhiên phân chia tỉnh Hưng Yên với Thái Bình. Người ta nói, đứng ở đây 1 con gà gáy 3 tỉnh nghe tiếng là vậy. Người dân Chân Lý sống chủ yếu bằng nghề nông. Trong xã có gia đình họ Vũ vốn bậc hào phú, giàu có sung túc, nhưng sống rất hiền lành, chất phác. Hai vợ chồng ông sinh được một

(88).Nguyễn Dữ - Truyền ky mạn lục - Việt điện U Linh, Nam Ông mộng lục, Truyền ky mạn lục - Nxb Văn học, 2008.

Page 159: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

229

người con gái, đặt tên là Vũ Thị Thiết. Nàng có nhan sắc xinh tươi, phong tư yểu điệu của tiên nữ, được dân làng gọi trìu mến là Nàng Nương. Năm lên 8 tuổi, nàng Nương thông minh dĩnh ngộ khác hẳn người thường, được cha mẹ cho theo học ở trường của Phạm tiên sinh. Nàng giỏi kinh sử, lại có tài thơ ca. Năm 13 tuổi, vào ngày 28 tháng 11 năm ấy, cả cha, mẹ nàng chẳng may qui tiên. Nàng cùng người trong gia đình làm lễ mai táng chu tất. Công việc xong xuôi, anh em bảo nhau lo liệu làm ăn. Năm 19 tuổi, dân làng gặp cảnh đói kém, nàng Nương bàn với anh trai đem một phần tài sản của mình cứu giúp dân làng. Những người cơ hàn, già cả đều được đội ơn ân đức của nàng. Đến nay, mỗi khi nói về nàng Nương, dân làng Vũ Điện vẫn truyền tụng câu ca:

“Truyện kể xưa kia nàng Vũ NươngĐem của hồi môn cứu dân thườngSắc phong người được vua ban thưởngCa trù văn tế khúc Nam Sương”.Bấy giờ, ở cùng làng với Vũ Nương có người họ Trương tên là

Nghị lấy bà Lê Thị Quyên cùng ấp Vũ Điện. Vợ chồng ông Trương vốn người chất phác, phúc hậu, luôn chăm lo làm việc thiện, nên sớm ứng điềm lành, sinh được năm người con trai. Khi người con thứ hai là Trương Huyền đã khôn lớn, thấy Vũ Nương xinh đẹp, nết na, lại môn đăng hậu đối nên đã sang thưa chuyện hỏi nàng Nương về làm dâu. Nàng Nương và gia đình ưng thuận, lễ cưới diễn ra nhanh chóng. Như bao người con gái nết na, hiền thục khác, nàng Nương hết mực yêu thương chồng, hiếu nghĩa với mẹ chồng. Lấy nhau được mấy tháng, Vũ Nương có mang. Cuộc sống hương lửa đương nồng thì đất nước bị quân Chiêm Thành ở phía Nam theo đường biển vào đánh cướp. Như bao trai tráng khác, chàng Trương phải đi lính đánh giặc. Cũng như bao chị em phụ nữ khác trong làng, ở nhà, Vũ Nương tần tảo phụng dưỡng cha mẹ chồng, làm trọn đạo hiếu thảo. Đến ngày, nàng Nương sinh hạ được một cậu con trai kháu khỉnh, đặt tên là Đản. Nàng hết lòng chăm sóc bú mớm, vì vậy thằng bé lớn nhanh. Lúc này, mẹ chồng

Page 160: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

230

đã già yếu, lại vì nhớ thương con nơi chiến trường nên sinh đau yếu luôn. Nàng Nương tận tình phụng dưỡng thuốc thang nhưng cụ vẫn không qua khỏi. Nàng Nương một mình nuôi con. Tới lúc bập bẹ tập nói, thỉnh thoảng Đản lại hỏi mẹ rằng “Bố đâu”. Trước câu hỏi thơ ngây của con trẻ, nàng Nương chẳng biết nói thế nào để con hiểu được là bố đi đánh trận xa. Một tối, sau khi ngọn đèn dầu trong nhà đốt lên, thằng bé lại hỏi “Bố đâu”, nàng bèn chỉ đại vào cái bóng mình trên tường, nói với con: “Bố con đấy”. Chú bé tin là thực, nên mỗi lúc lên đèn thắp sáng là cậu bé lại mon men tới vách nô chơi với “Bố”. Vài năm sau, giặc Chiêm Thành bị đánh tan, đất nước trở lại thanh bình, chàng Trương may mắn sống sót, giải ngũ về quê nhà. Đau buồn vì mẹ mất, chàng Trương muốn bế con ra thăm mộ mẹ, nhưng đứa trẻ khóc thét, đẩy chàng Trương ra, bảo: “Không phải bố. Đến đêm tối bố mới về cơ”. Chàng Trương gặng hỏi mãi thì đứa trẻ mới nói rằng: “Cha tôi không biết nói, bây giờ người lại biết nói thì không phải là cha”. Chàng Trương hỏi làm sao, thì đứa bé nói rằng: “Đêm nào cũng thấy cha tôi lại đây, mẹ tôi đi thì cũng đi, mẹ tôi ngồi thì cũng ngồi, mẹ tôi đứng thì cũng đứng”. Nghe con nói vậy, trong lòng chàng Trương ngờ vợ có ngoại tình, đêm ngày hắt hủi, chửi mắng thậm tệ. Nàng Vũ khóc lóc kêu oan, phân giải thế nào, chàng Trương cũng không nghe. Họ hàng, làng xóm khuyên giải thế nào cũng không được. Không chịu nổi oan ức, nàng ra sông Hoàng Giang (tên đoạn sông Hồng chảy qua huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam), treo khăn yếm trên cây gạo cạnh bờ rồi nhảy xuống dòng nước cuộn xoáy tự vẫn. Truyền thuyết địa phương kể rằng, trước khi Vũ Thị Thiết trẫm mình, có viết một bài thơ lên vuông khăn hồng, vắt trên cây gạo bên bờ sông. Bài thơ như sau:

Người không biết được chắc trời hayOan khuất kêu trời để giải dâyChưa thỏa ba sinh trong kiếp sốngĐã mang cõi chết dưới sông này

Page 161: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

231

Có trời có đất có thần sôngCây gạo nơi này thiếp đứng trôngOan ức mấy lời xin gửi lạiQua đây ai báo giúp cho chồng.

Về nhà không thấy vợ, chàng Trương đôn đáo đi tìm, song chẳng thấy. Đến đêm, đốt ngọn đèn ngồi nghỉ, chợt đứa bé chỉ vào bóng của chàng Trương trên tường mà reo lên: “Kìa, cha tôi đã đến kìa”. Bấy giờ chàng Trương mới biết vợ bị ngờ oan. Hối hận, đau đớn vật vã, nhưng tất cả đã muộn. Nghe người ta nói vợ tự vẫn ở sông Hoàng Giang, chàng Trương chỉ còn biết lập đàn chay tế lễ ở nơi vợ đã quyên sinh. Cúng 3 ngày 3 đêm, bỗng thấy ở giữa sông có 90 cỗ xe, cờ quạt rợp bóng, nàng Vũ ngồi trên xe nói rằng: “Giã ơn chàng có lòng giải oan cho tôi, nhưng mà đấng Thượng đế thương tôi là người tiết nghĩa đã cho tôi ở trên cung tiên”. Nói xong thì biến mất. Đau khổ và hổ thẹn, chàng Trương lẳng lặng bế con đi đâu, dân làng không ai biết nữa.

Thương tiếc người con gái nhân hậu của quê hương vì oan ức mà chết, lại được Thượng đế cho về cõi tiên, có phép hiển linh, dân làng Vũ Điện đã lập đền thờ Vũ Nương ngay bên bờ sông Hồng, nơi nàng tuẫn tiết”.

Như vậy, bà Vũ Thị Thiết và bà Vũ Nương chỉ là một người: “Người thiếu phụ Nam Xang”. Sau khi mất, bà được thờ ở đền Vũ Điện, thường gọi là Miếu Vợ Chàng Trương. Tương truyền, ngôi đền rất thiêng, quanh năm khói hương nghi ngút, người đến lễ bái, cầu xin tấp nập. Ai đến cầu đảo Bà, đều ứng nghiệm. Sông Hồng ở khu vực Vũ Điện, nhất là ở Ngã Ba Tuần Vường cách Vũ Điện chừng vài cây số thủa đó là khu vực nước xoáy, nhiều gềnh, phải những tay chèo cứng, nhiều kinh nghiệm mới dám cho thuyền bè qua lại. Vì thế, trước khi cho thuyền bè qua lại khúc sông này, người ta thường đến lễ (hoặc bái vọng) ở đền Bà Vũ, xin phù hộ cho thuận buồm xuôi gió. Để chứng minh cho điều này, và làm tăng sự linh thiêng của Bà Vũ, đến nay, người dân

Page 162: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

232

trong vùng vẫn truyền tụng câu chuyện Bà Vũ đã phù trợ vua Lê Thánh Tông thắng trận khi đi chinh phạt Chiêm Thành. Kể rằng, năm 1467, vua Lê Thánh Tông thân chinh dẫn quân từ Thăng Long đi chinh phạt Chiêm Thành hay sang quấy nhiễu, cướp bóc vùng biên ải của Đại Việt. Đoàn thuyền chiến của nhà vua theo sông Hồng ra biển, khi đến khúc sông thuộc địa phận Vũ Điện thì gặp sóng to gió lớn, không thể đi được. Thuyền nhà vua phải neo đậu lại ở gần đền Bà Vũ. Đêm đó, nhà vua nằm mộng thấy một người con gái tự xưng là người làng Vũ Điện, huyện Nam Xang, tình nguyện xin đi theo phù trợ nhà vua đánh giặc Chiêm Thành. Lần ấy, vua Lê Thánh Tông cầm quân tiến thẳng vào đất Chiêm Thành và đã toàn thắng trở về. Khi trở về Kinh đô, ông không quên công âm phù của nữ thần đền Vũ Điện, nhà vua đã làm bài thơ Điếu Vũ Nương bằng chữ Nôm đề vịnh miếu Bà Vũ, đồng thời ban chiếu cho phép dân 4 làng là: Vũ Điện, Hào Châu, Phú Lư, Xương Hậu phủ Nam Xang tu sửa đền thờ Bà Vũ.

2. Việc phụng thờ bà Vũ Thị ThiếtXã Vũ Điện, huyện Nam Xương xưa, nay là thôn Vũ Điện, xã

Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Miếu vợ chàng Trương thủa dân làng Vũ Điện mới dựng ngay sau cái chết oan uổng của Nàng Nương, chỉ là ngôi miếu nhỏ, tranh tre nứa lá. Miếu nằm sát bờ sông Hồng. Sau khi có chiếu của vua Lê Thánh Tông cho phép dân 4 làng là: Vũ Điện, Hào Châu, Phú Lư, Xương Hậu phủ Nam Xang tu sửa đền thờ Bà Vũ, ngôi miếu mới được dựng ngoài bãi sông Hồng, trên một bãi đất rộng mấy chục mẫu, dân cư đã sống thành làng. Sau, vì nước lũ xói mòn, bãi lở, nên đền được dời vào vị trí như ngày nay. Trong khuôn viên đền hiện nay vẫn còn giữ được nhiều phiến đá kê chân cột của ngôi đền cũ. Các viên đá vuông vức bằng nhau, mỗi cạnh gần 60cm, trên mặt chạm khắc nổi hoa văn cánh sen, đầu cánh sen cong lên như mũi hài. Đây là kiểu hoa văn cánh sen thời Lý. Từ đó, cho phép nghĩ rằng, đền Bà Vũ nhiều khả năng được xây từ thời Lý, không phải vào thời Lê như một số tài liệu đã nói đến. Ngôi đền hiện nay mang phong

Page 163: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

233

cách kiến trúc thế kỷ XIX. Đền quay hướng Tây Bắc, xây bên trong con đê bối, cách mép nước sông Hồng khoảng 50m, bên ngoài và cách chân đê chính sông Hồng khoảng trên 100m. Mặt tòa tiền tế cách chân con đê bối một khoảng sân rộng chưa đến 20 m. Bốn cột đồng trụ xây ngay trên mép chân đê bối. Sân đền nằm dưới chân đê bối, phải qua 6 bậc mới xuống được. Giữa 2 cột đồng trụ là cổng chính ngôi đền, hai bên là hai cổng phụ. Hai bên đầu sân đền ở hướng Nam và Bắc có hai lầu Cô, lầu Cậu xây hướng mặt vào trong sân. Ngoài ra, ở sân đền còn có ban thờ Mẫu bán thiên. Đền có kiến trúc theo kiểu chữ Tam (chữ Hán) khép kín, đằng trước là tòa tiền đường, lòng nhà hẹp, khoảng 3m, với hệ thống vì kèo biến thể giá chiêng chồng rường con nhị. Công trình này trốn cột, các xà đều gác lên tường. Hai đầu bít đốc, mái lợp ngói nam. Ba gian giữa có hệ thống cửa bằng gỗ lim bức bàn, phần trên cửa là chấn song con tiện. Vắt trên hai xà nhà gian chính giữa của tòa tiền đường, có tượng hai con mãng xà mầu trắng, đầu ngó xuống cửa vào khu trung đường. Gian chính giữa tiền đường, cũng là nơi vào cửa khu trung đường, không kê bàn ghế, chỉ trải chiếu, là nơi thủ nhang cũng như người đến lễ ngồi hành lễ. Đây cũng là nơi diễn ra hoạt động hầu đồng hát văn.

Khu trung đường làm cao hơn hẳn theo kiểu chồng diêm, gồm 2 tầng mái, mỗi lớp 4 mái có đao góc uốn cong, mái được lợp bằng ngói vẩy cá. Mặt trước 3 gian chính tẩm là hệ thống cửa bức bàn. Công trình được khép kín bởi 2 dãy nhà 3 gian nối khu chính tẩm với khu trung đường, dãy nhà 3 gian ở phía tây khu trung đường và bức tường xây phía đông khu trung đường nối với ngoài tiền đường. Gian chính giữa khu trung đường là nơi đặt ban thờ Tứ phủ công đồng (bên ngoài) và tiếp theo là ban thờ Tam tòa Thánh Mẫu, với 3 ngai. Chính giữa là cỗ ngai trên đặt pho tượng áo sơn màu đỏ là Mẫu Thượng Thiên. Bên trái cỗ ngai này là cỗ ngai trên ngự pho tượng áo màu xanh là Mẫu Thượng Ngàn. Bên phải ngai Mẫu Thượng Thiên là cỗ ngai trên ngự pho tượng Mẫu Thoải/Thủy, áo sơn màu trắng.

Page 164: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

234

Tiếp sau tòa trung đường là hậu cung. Đây là nơi đặt bàn thờ bà Vũ Thị Thiết, có 12 cô hầu Mẫu. Pho tượng Bà Vũ được đúc bằng đồng hun, cao khoảng 40cm, tư thế ngồi xếp chân bằng tròn, hai tay để ngửa đặt trên đầu gối, dáng mặt suy tư, hoa tai và châm cài bằng vàng (nay đã mất). Theo dân địa phương, pho tượng Bà Vũ hiện thờ trong hậu cung của đền là phẩm vật cúng tiến của vua Lê Thánh Tông. Ngoài pho tượng Bà Vũ kể trên, đền còn giữ được một số hiện vật quí, như: Chiếc khánh thời Lê Trung hưng được đúc vào năm Kỷ Mão niên hiệu Chính Hòa năm thứ 20 (1699); quả chuông đồng đúc vào thời Tây Sơn, năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801). Trong đền có nhiều câu đối, đại tự, sắc phong ca ngợi công đức của Bà Vũ, như:

- 2 bức đại tự (chữ Hán), là: “Cẩn tiết trinh liệt” (dịch nghĩa: Kính cẩn khí tiết chung thủy lẫm liệt) và “Tiết liệt thục nữ” (dịch nghĩa: Hiền thục trinh tiết lẫm liệt kỳ diệu).

- Đôi câu đối của Vũ Khắc Lê, cựu phó lý bản xã và Vũ Văn Mai là phó hội tiến rất có ý nghĩa:

“Đồng tử hà chi tiếu ngữ đăng tiền mê bản tướngChân thân bất diệt yên ba giang thượng ký trinh hồn”Dịch nghĩa: “Trẻ thơ khờ dại cười nói trước đèn không biết sự thậtNgài không thể mất đi linh hồn trinh tiết còn gửi ở sóng

nước trên sông”.Việc thờ cúng ở đền Bà Vũ, nhằm ngày 23 tháng 3 âm lịch là

ngày sinh của Bà và ngày 20 tháng 8 âm lịch là ngày mất của Bà. Vào ngày giỗ kỵ, 20 tháng 8 âm lịch, theo lệ cứ 3 năm một lần, tổ chức lễ tế lớn, diễn ra trong 3 ngày, từ 19 đến hết ngày 21 mới giã hội. Hoạt động rầm rộ và thu hút đông dân làng và khách thập phương nhất trong dịp này là tổ chức đám rước kiệu và bài vị Bà Vũ. Đi đầu đám rước là 3 cỗ kiệu, trên đặt bát hương, mâm hoa quả. Riêng kiệu Bà Vũ trang trí màu sắc đẹp đẽ, nữ tính, do 16 trinh nữ thanh tân, chưa chồng, trang phục quần trắng, áo dài trắng, đầu đội mũ kiểu vương miện khiêng kiệu. Đoàn rước đi từ

Page 165: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

235

đền, theo đê bối lên đê chính Vũ Điện (con đê chính sông Hồng chảy qua Lý Nhân), xuống bến đò Vũ Điện cách đền gần 1km, đưa kiệu lên mấy chiếc thuyền lớn được trang trí cờ hội bắt mắt (xưa là thuyền chèo tay, nay là thuyền gắn máy). Từ bến Vũ Điện, đoàn thuyền chạy ra giữa sông Hồng, rồi bẻ lái cho thuyền chạy ngược sông, sau đó màn vào bến trước mặt đền Bà Vũ. Không như một số lễ hội khác dọc hai bên sông Hồng (như lễ hội Tiên Dung - Chử Đồng Tử ở Đa Hòa, Khoái Châu, Hưng Yên, cách đền Vũ Điện chừng 60km, phía thượng lưu), trong đám rước Bà Vũ, không tổ chức lấy nước/rước nước ở giữa sông Hồng đem về làm nước dâng cúng cả năm. Một số vị cao niên trong vùng nói rằng, sở dĩ không lấy nước về cúng vì khúc sông quanh bến Vũ Điện vào dịp tháng 8 âm lịch là mùa lũ, nước thượng nguồn đổ về thường mang theo mọi thứ rác rưởi, xác người, động vật chết, đến khu vực này do chuẩn bị phân nhánh quặt sang sông Luộc nên dòng nước chảy thường có độ xoáy, làm cho rác rưởi, xác người, động vật đó thường cuốn đọng lại, nên nước vừa đục, vừa bẩn. Ngoài hai cuộc lễ trên, cũng như các ngôi đền thờ nữ thần - thờ Mẫu khác ở miền Bắc, tại đền Bà Vũ cũng diễn ra lễ hầu đồng - hát văn. Do trong đền có ban thờ Tam phủ (các Mẫu Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Thoải/Thủy) nên tại đây cũng diễn ra các giá đồng như các nơi thờ Tam phủ khác. Điều đặc biệt là, tại đền Bà Vũ có riêng bản Hát Văn chầu Thánh Mẫu Vũ Thị Thiết.

Nữ thần Vũ Thị Thiết được nhiều triều đại phong kiến Việt Nam sắc phong những mỹ tự: Trinh liệt Vũ Nương chi thần, Cẩn tiết trinh liệt thục diệu dực bảo Trung hưng Vũ Nương công chúa phu nhân tôn thần, Trai tĩnh Trung đẳng thần.

3. Dòng thơ văn về nữ thần Vũ Thị ThiếtTrên dải đất hình chữ “S”, dân ta thờ phụng hàng ngàn vị

nữ thần. Song, không ở đâu như ở Hà Nam, sự tôn phong và thờ phụng các vị nữ thần đã vượt quá cả niềm tin tín ngưỡng. Các bà đã trở thành đề tài sáng tác, hơn nữa, đã hình thành nên một mảng sáng tác khá độc đáo về đề tài người phụ nữ chịu đau

Page 166: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

236

khổ, oan khuất, với nhiếu áng thơ văn hay. Trong đó, bà Vũ Thị Thiết có nhiều tác giả quan tâm và có nhiều bài thơ hay, có giá trị nội dung nhân văn cao.

Người đầu tiên cảm xúc về nỗi oan và cái chết của Bà Vũ, làm thơ về Bà là Lê Thánh Tông. Lần ấy, vua Lê Thánh Tông cầm quân tiến thẳng vào đất Chiêm Thành và toàn thắng trở về. Khi trở về Kinh đô, ông không quên công âm phù của nữ thần đền Vũ Điện, nhà vua đã làm bài thơ Điếu Vũ Nương bằng chữ Nôm đề vịnh miếu Bà Vũ và ban chiếu cho phép dân 4 làng là: Vũ Điện, Hào Châu, Phú Lư, Xương Hậu phủ Nam Xang tu sửa đền thờ Bà Vũ. Nhà vua ca ngợi Vũ Nương và trách chàng Trương là kẻ phũ phàng. Bài thơ được khắc trên bảng sơn son thếp vàng, treo trên chính điện ban thờ Bà Vũ, hiện nay vẫn còn:

“Nghi ngút đầu gềnh tỏa khói hươngMiếu ai như miếu vợ chàng TrươngNgọn đèn dầu lẫn (có bản ghi là “dẫu lận”) đừng nghe trẻCung nước chi cho lụy đến nàng.Chứng quả đã đôi vầng Nhật NguyệtGiải oan chi (có bản ghi là “chăng”) lọ mấy đàn tràngQua đây mới biết nguồn cơn ấy (có bản ghi “Qua đây bàn bạc mà chơi vậy”)Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng”.Câu chuyện về Vũ Nương đã được truyền tụng từ khá lâu,

nhưng phải đến sau khi vua Lê Thánh Tông viết bài thơ Điếu Vũ Nương trên treo ở đền Bà Vũ thì nhân vật người thiếu phụ ấy mới chính thức bước chân từ truyện tích dân gian vào văn học viết. Hình thức bài thơ vẫn là thơ Đường luật, nhưng ngôn ngữ đã là ngôn ngữ Nôm dân tộc. Bài thơ bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc và bản thân 56 chữ Nôm ấy đã là lời giải oan xác đáng cho nàng Vũ Nương.

Vào thế kỷ XVI, hình ảnh Vũ Thị Thiết lại tái hiện trong Chuyện người con gái Nam Xương trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Đây là câu chuyện đã được “thành văn”

Page 167: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

237

xong và trọn vẹn. Người con gái Nam Xương trở thành nhân vật điển hình cho những kiếp người bị oan khuất bất hủ trong văn học Việt Nam. Chi tiết truyện hay cái “gút” truyện là “cái bóng người cha” trên vách mỗi khi đêm về cũng trở thành chi tiết truyện, gút truyện đặc sắc của lịch sử văn xuôi Việt Nam. Cảm hứng nhân văn đã được đẩy lên thành chủ nghĩa nhân đạo cao cả khi văn học viết lấy nhân vật người phụ nữ oan khuất làm nhân vật trung tâm. Song, không phải ai cũng thông cảm và có một tấm lòng nhân ái với Nàng Nương. Đó cũng là lẽ thường, bởi không ai giống ai, nên trước một sự việc, một câu chuyện các ý kiến thường không giống nhau, nhiều khi trái chiều. Và, thông qua các ý kiến bình giải, nhận xét ta sẽ thấy phần nào về quan niệm, lối sống của chủ nhân những lời bình giải, nhận xét ấy. Đứng trước ngôi miếu thờ người con gái thứ dân, một người đàn bà bất hạnh Vũ Thị Thiết được nhiều người đồng cảm, thì việc có ý kiến không thông cảm với nàng, bênh vực chàng Trương, cũng là điều có thể hiểu được. Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), một hiền tài đất Việt, một người đàn ông ngạo nghễ “Làm trai đứng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông”, trong bài “Vịnh Nam Xương liệt nữ”, đã thể hiện rõ điều đó. Ông viết:

“Đọc đến truyện Nam Xương liệt nữDẫu tình ngay song lý cũng gianThực cùng chồng chi nỡ dối cùng conGương nữ tắc trông vào chưa phải lẽ.Đã có ngọn đèn chơi với trẻThời chi chiếc bóng gọi là chồng?Tiếng phũ phàng chi nỡ trách đàn ôngTrong mờ tối đèn nhà ai nấy rạng.Bước chân ra chưa hề trông bóng thoángBến Hoàng Giang ai khéo hẹn hò cùngMà gieo mình xuống chốn long cungNgàn năm dầu đục dầu trong khôn bànDẫu tình ngay song lý cũng gian”.

Page 168: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

238

Một người tài hoa nổi tiếng ăn chơi đến độ “Nhất tọa lê hoa áp hải đường” (Ý nói một mái đầu bạc trắng như hoa lê của ông già áp xuống đôi má ửng hồng như hoa hải đường của cô gái 15, 16 tuổi) như Nguyễn Công Trứ, thì việc bênh vực đàn ông (chàng Trương) trong bài thơ trên âu, cũng có thể hiểu được. Song, chủ quan mà nói, đồng tình với Nguyễn Công Trứ, chắc chắn không có nhiều người. Và, người viết bài này cũng không thể đồng tình với đánh giá, nhận xét của Nguyễn Công Trứ được.

Trên bốn trăm năm sau, một người con của Hà Nam, Tam nguyên Yên Đổ Hoàng Giáp Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) có dịp thăm đền Vũ Nương. Ông đã xúc động viết một bài thơ chữ Hán, nhan đề Đề Miếu Vũ Thị. Cụ Tam nguyên Yên Đổ đã tỏ rõ thái độ thương cảm người phụ nữ bất hạnh và vô cùng bất bình, lên án chàng Trương là người “chồng ngu”. Có thể nói, đây là bài thơ được nhiều người tâm đắc nhất trong số rất nhiều bài thơ viết về người phụ nữ hàm oan này:

“Cách biệt ba năm một chữ trinhNỗi niềm thương nhớ có thần minhChồng ngu tin vội lời đồn nhảmCha giả gây nên chuyện chẳng lànhTiếng sóng hôm nay còn giận dữBóng đèn năm ấy quá vô tìnhGiải oan xây miếu làm chi nhỉThơ viết vì ai tố bất bình”(Nguyễn Văn Huyền dịch)Điều đặc biệt là, tại đền Bà Vũ có riêng bản Hát Văn chầu

Thánh Mẫu Vũ Thị Thiết, có những đoạn sau:“Truyện kể xưa kia nàng Vũ NươngĐem của hồi môn cứu dân thườngSắc phong người được vua ban thưởngCa trù văn tế khúc Nam XươngCơ duyên sao khéo vội vàngChiếu rồng bỗng thấy gọi chàng Trương sinh

Page 169: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

239

Đành tạm để sự tình trong dạChén quan hà viết đã chia tay.Phòng thu đã đốt đuốc đàoThen cài khóa chặt ra vào cấm nghiêmĐinh ninh một dạ vững bềnThờ cha kính mẹ một niềm dám saiPhòng không riêng những tháng ngàyNghe chim hót nhớ chồng nay tuôn sầuDốc lòng bú mớm bù trìĐêm đêm thắp ngọn đèn khuya chơi bờiĐến khi tuổi đã lên haiMẹ con ngồi tựa hiên mai một mìnhThấy con kêu khóc thương tìnhNựng con tay chỉ bóng mình, cha đây.Khi mãn hạn chàng về cố lýTưởng vui điều phụ tử đoàn viênNgờ đâu ngăn đoạn cơ duyênThực cha con lại không nhìn, lạ thayHỏi con dại cha mày đâu đấyCon rằng đêm mới thấy cha về.Chốn cây gạo rời chân bóng mátTrông bốn bề bát ngát mênh môngChiều hôm sóng nổi đùng đùngYếm hồng treo lại thề cùng nước mây.Chàng Trương nghĩ cũng thương lòngÔm con tựa bóng đèn dong canh trườngTrông thấy bóng trên tường thấp thoángNày rằng cha hình bóng không saiChàng Trương khi ấy tỉnh hồiSong sự kia đã trót rồi biết sao”.Chuyện về Bà Vũ đã là đề tài để các tác giả kịch, chèo đã

dựng thành vở diễn Chiếc bóng oan khiên, Cô gái Nam Xang, Bài thơ treo dải yếm… Câu chuyện Người thiếu phụ Nam Xang

Page 170: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

240

cũng đã được Thạc sĩ ngôn ngữ học Phạm Duy Khiêm kể lại bằng tiếng Pháp và được dịch lại bằng tiếng Anh, từ đó hội nhập vào dòng nhân văn của nền văn chương thế giới. Câu chuyện này cũng đã được dựng thành phim ở Pháp.

III. LỜI TẠM ĐÓNG1. Trinh tiết là thứ quí ngàn Vàng phụ nữ luôn đề cao,

bảo vệTrong xã hội phong kiến Việt Nam, do ảnh hưởng của Nho

giáo, luôn đề cao tư tưởng trọng nam khinh nữ. Nhưng, lại cũng chính cái xã hội đó lại đề cao phụ nữ, thông qua đề cao cái quí nhất của phụ nữ là trinh tiết. Nhà nước phong kiến đã đặt ra một giải thưởng, một danh hiệu vô cùng cao quí dành cho phụ nữ, là “Tiết hạnh khả phong”, để đề cao, tôn phong những phụ nữ trau dồi và giữ đạo Tam tòng, Tứ đức, nhất mực thủy chung với chồng. Danh hiệu này thường do người dân các địa phương đề nghị, được đích thân nhà vua ngự ban, sau đó được khắc biển đại tự, treo tại đền/miếu thờ người phụ nữ tôn quí ấy. Trên đất nước ta, không miền quê nào là không có những tấm gương phụ nữ chung thủy với / thờ chồng. Bằng chứng là trong sách Đại Nam nhất thống chí (89) có mục Liệt nữ để ghi danh những phụ nữ như thế.

Đối với người phụ nữ Việt Nam, không phải vì cái biển “Tiết hạnh khả phong” kia, mà tự thân họ, trinh tiết được xem là “cái ngàn vàng”, là điều cần giữ gìn nhất đối với họ. Để bảo vệ “danh tiết”, người phụ nữ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống của mình. Vì Trinh tiết - phẩm giá, người phụ nữ có thể lấy cái Chết để biểu thị/bảo vệ sự trinh tiết/để chứng tỏ lòng chung thủy của mình. Trong vô vàn những tấm gương nữ giới tiết liệt dưới trời Nam ấy, có bà Vũ Thị Thiết. Bà là vợ một người lính bình thường họ Trương, một người bản địa thuộc dân tộc Kinh/Việt. Bà được tôn vinh không phải là những anh hùng dân tộc, hay anh hùng văn hóa với những chiến công lừng lẫy giết giặc mà được tôn vinh,

(89). Quốc sử quán triều Nguyễn, 5 tập, Nxb Thuận Hóa, 1997

Page 171: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

241

ngàn đời hương khói bởi Nhân-Cách-Cao-Cả-Trong-Sạch-Thủy chung bà để lại/nêu gương cho đời.

Với tâm thức dân gian tôn vinh người phụ nữ - người Mẹ của văn hóa Việt, đền thờ bà Vũ Thị Thiết ở Vũ Điện là ngôi đền thờ Nhân cách/tiết hạnh của người phụ nữ, thể hiện sự tôn thờ trinh tiết - một nét nổi bật của bản sắc văn hóa Việt Nam.

2. Về nỗi oan Cũng là con người, nhưng phụ nữ bao giờ cũng là thân phận

chịu nhiều uất ức, oan khuất hơn nam giới. Và, nỗi oan lớn nhất của người phụ nữ là nỗi oan về “thất tiết” (mất trinh tiết, thất tiết giết chồng hoặc không chung thủy với chồng…). Trong lịch sử văn hóa nước ta, đã có Thị Kính - người phụ nữ có khả năng nhẫn nhịn chịu đựng 2 nỗi oan tày đình của người phụ nữ (“Thủa làm vợ để chồng ngờ thất tiết/Lúc làm trai cho gái đổ oan tình”) và phải nhờ đến khi được hóa thành Phật Quan Âm mới được chiêu tuyết. Song, dường như sự hiện diện của pho tượng Quan Âm Thị Kính (pho tượng có con vẹt - hiện thân của Thiện Sỹ - chồng Nàng) trong các ngôi chùa Việt vẫn chưa đủ sức ngăn ngừa, cảnh tỉnh những gã đàn ông không đủ bản lĩnh và sự tự tin dẫn đến ghen tuông vớ vẩn, nên nhân cách cao cả trong sạch của phụ nữ Việt Nam lại phải thêm một lần bi kịch hóa trong câu chuyện nàng Vũ Thị Thiết ở miền quê Lý Nhân (Hà Nam kia). Người thiếu phụ Nam Sương này đã bị chồng nghi thất tiết trong thời gian anh ta - chàng Trương đi lính. Nàng đã kêu oan, nhưng nào có thấu. Phải nhờ đến dòng sông Hồng, danh tiết của nàng mới được rực sáng. Nàng trở thành vị Thần Giải oan của phụ nữ Việt Nam.

Miếu Vợ Chàng Trương nghi ngút khói hương bên bờ dòng sông Mẹ kia không chỉ là khói hương thương tiếc một người phụ nữ mà còn là bằng chứng về sự ngu muội, tầm thường của những anh chồng “ngu” như chàng Trương kia; Đồng thời muốn khẳng định cho người đời sau rằng nhân cách của người phụ nữ Việt Nam luôn cao cả, trong sạch không được phép gợn chút

Page 172: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

242

nghi ngờ. Không chỉ có thế, theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng, câu chuyện người thiếu phụ Nam Sang còn hàm ẩn nhiều triết lý dân gian rất tuyệt vời: “Là bóng hay là hình… Người đàn bà Việt đã tự phân đôi mình thành cặp vợ chồng quấn quýt nhau như hình với bóng, trong khi đó ở tầng dưới của câu chuyện là cái dại khờ ghen tuông vớ vẩn gây chết người của người đàn ông Việt Nam”.

Ngôi đền thờ bà Vũ Thị Thiết ở Vũ Điện không chỉ là ngôi đền thờ Nhân cách/tiết hạnh của người phụ nữ; mà còn là ngôi đền Giải oan của phụ nữ Việt Nam.

3. Chiến tranh là nguồn gốc của mọi nỗi đau, mà phụ nữ là người gánh chịu nhiều nhất

Câu chuyện Người thiếu phụ Nam Xang bị nghi oan thất tiết đã phải lấy cái chết để thể hiện sự trong sạch của mình là văn hóa dân gian vô thể, được hữu thể hóa bằng ngôi Miếu Vợ Chàng Trương hiện vẫn còn được giữ gìn và tôn tạo bên bờ sông Hồng ở Vũ Điện, huyện Lý Nhân. Dưới mái ngôi Miếu Vợ Chàng Trương kia, cũng như trong câu chuyện đã ghi trong sử sách, được truyền ngôn qua các thế hệ, những người dân hiền lành chất phác nơi đồng chiêm trũng Vũ Điện - Lý Nhân lại có một thông điệp khác gửi cho nhân loại rằng chính chiến tranh là nguyên nhân dẫn đến cái chết của người vợ lính Vũ Thị Thiết và sự tan nát cả gia đình người lính họ Trương. Chính cuộc chiến tranh đã gây nên ly tán và sự nghi ngờ về nhân cách người. Chiến tranh không chỉ gây nên chết chóc, mà còn làm héo hon, làm tàn lụi biết bao cuộc đời phụ nữ chờ chồng, nó còn để lại bao vết thương nhức nhối cho từng con người, cho bao gia đình và cho cả xã hội. Những vết thương không phải do binh đao trận mạc, hay bom đạn gây nên, nhưng nó dư sức làm chết con người. Chiến tranh đẻ ra những anh hùng; đồng thời cũng xây nên bao tượng đài Trinh liệt. Tượng đài trinh tiết cũng phải xây nên bằng máu và nước mắt của những người phụ nữ yếu đuối nơi hậu phương.

Page 173: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

243

Những người mẹ, người chị Việt Nam hãy tự hào có một vị Nữ thần giải oan - Vũ Thị Thiết, có một ngôi đền giải oan cho nữ giới Việt Nam mang tên đền Vũ Điện. Dòng sông Châu Giang - dòng sông đầy nước mắt (bởi thế chăng, những con trai uống nước mắt nàng Vũ Thị Thiết nên ngọc trai một thời là đồ tiến cúng phương Bắc): nước mắt oan khiên của nàng Vũ Thị Thiết đã chảy thành sông Châu để rửa nỗi oan mà bao đời chưa nguôi, làm nên những trang huyền tích về sông Châu Giang.

IV. THAY LỜI KẾT - BA ĐIỀU MONG ƯỚC1. Đừng bao giờ có chiến tranh!2. Mong ước cho quê hương Hà Nam- Đền Vũ Điện/đền Bà Vũ/Miếu Vợ Chàng Trương được các

bậc tiền nhân dựng lên để thờ bà Vũ Thị Thiết/Vũ Nương. Đó là ngôi đền Giải oan duy nhất của phụ nữ Việt. Vì thế, mọi ý đồ của ai đó, thế lực nào đó mưu toan biến nơi đây thành chùa hay là một thiết chế tôn giáo gì gì nữa, là điều phải cương quyết ngăn chặn. Không thể để Bà Vũ bị hàm oan thêm một lần nữa.

- Hà Nam cần có hướng phát triển Du lịch Miếu Vợ Chàng Trương: Một: Kết nối Du lịch đường sông (Hà Nội - Hà Nam - Nam Định - Thái Bình); Hai: Kết nối Du lịch Hà Nam - Thái Bình sau khi cây cầu Thái Hà xây xong.

3. Mong ước cho đàn ông, phụ nữ và… tôi Cách nay trên 500 năm, trong bài thơ Lỵ Nhân nữ sĩ, vua

Lê Thánh Tông đã viết: (dịch nghĩa)“Con trai, con gái ở Lỵ NhânTrên đê cao, mùa xuân tới gần, vẫn gió mưa lạnh lẽoCon gái ở đây đẹp như con gái nước Tần, nước Yên cười nói

chuyện trò vui vẻTrước cảnh muôn hồng ngàn tía, tỏa mùi thơm ấm áp bên bờ

suối ấyThế mà bọn con trai, vẫn như đàn ong bay đi chơi, vô tình

chẳng hề để ý tới”.

Page 174: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

244

Qua những áng thơ của tiền nhân, đủ thấy, từ nghìn năm trước, đời sống và cảnh đẹp của sông núi và con người Hà Nam đã đẹp mức nào. Nghìn năm sau, Hà Nam, con sông Hồng bên lở bên bồi, vẫn thế; con gái Hà Nam vẫn đẹp như thế.

Xin hãy để dòng sông Hồng cứ vẹn nguyên đỏ nặng phù sa đem tốt tươi cho những mùa màng và bình yên cho những xóm làng mà không phải vô tình đem đi một người phụ nữ nào nữa.

Xin những người đàn ông Việt Nam nào đó đang bị cái đầu dại khờ ghen tuông vớ vẩn gây chết người chi phối, trước khi hành động, hãy một lần đến viếng Miếu Vợ Chàng Trương và để nghe dòng sông Hồng kể mãi nỗi oan của nàng Vũ Nương.

Xin những người đàn ông đừng bao giờ biến mình trở thành người “chồng ngu” như chàng Trương kia!

Xin lấy một câu trong phần Lời bình “Chuyện người con gái Nam Xương” trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cách đây gần 500 năm, và cũng là gửi gắm mong muốn, kỳ vọng của những người phụ nữ chúng tôi: “Làm người đàn ông tưởng đừng nên để cho Giai nhân oan uổng thế này”!

Page 175: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

245

MẢNG MẦU VĂN HÓA CHĂM PA TRONG VĂN HÓA HÀ NAM

TS. NGUYỄN MINH SAN *

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo có những câu thơ hay, mà tôi thích, thế này:

“Mẹ Âu Cơ đã đi vòng trái đấtChọn vùng tâm bão để sinh con”Vâng, cái “tâm bão” ấy chính là vị trí địa lý của nước Việt

Nam nằm bên bờ Biển Đông, ở ngã tư đường của sự giao lưu khu vực Đông Nam Á và thế giới. Vị trí địa lý ấy và thực tiễn lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm qua của dân tộc ta đã tạo cho văn hóa Việt Nam luôn phát triển giữa hai lực nội sinh và ngoại nhập. Văn hóa ngoại nhập/ngoại lai vào nước ta đến từ mọi hướng, song mạnh nhất, đậm nhất là đến từ nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” Trung Quốc, với các yếu tố văn hóa nghệ thuật Hán - Trung Hoa. Tiếp đến và, gần như cùng thời điểm với văn hóa Hán - Trung Hoa là các yếu tố văn hóa nghệ thuật Chăm Pa từ phương Nam. Và, từ thế kỷ XVI, tới năm 1975 của thế kỷ XX, là các yếu tố văn hóa nghệ thuật Âu - Mỹ. Ứng xử với các yếu tố văn hóa ngoại nhập / ngoại lai ấy, dù là đến theo con đường nào, theo phương thức giao lưu văn hóa tự nguyện hay giao lưu văn hóa cưỡng bức, người Việt bao giờ cũng tiếp nhận hòa đồng những giá trị văn hóa ngoại lai - những yếu tố ngoại sinh ấy sau một quá trình

* Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hiến Việt Nam.

Page 176: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

246

“Việt Nam hóa” phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam, qua đó tạo nên những thành tố mới của văn hóa Việt Nam, để làm giầu thêm sự hiểu biết, làm giầu vốn văn hóa của Việt Nam, để làm nên cái thế đứng “Bốn nghìn năm ta lại là ta”.

Đó là điều không thể bàn cãi. Bởi, văn hóa ngoại nhập/ngoại lai không chỉ là dấu vết nữa, mà là sự hiện hữu cả trong văn hóa hữu thể và văn hóa vô thể Việt Nam đều không khó để nhận ra những yếu tố văn hóa ngoại nhập/ngoại lai ấy trong chỉnh thể văn hóa Việt Nam hôm nay. Nghiên cứu để tìm ra đâu là yếu tố bản địa/nội sinh, đâu là các yếu tố ngoại lai (tất nhiên nay nó đã là văn hóa Việt Nam rồi) trong văn hóa Việt Nam hôm nay là vấn đề lớn, bao gồm nhiều lĩnh lực, đòi hỏi trí tuệ uyên bác của nhiều người.

Trong khuôn khổ một tham luận, tôi chỉ đi vào tìm hiểu các yếu tố văn hóa nghệ thuật Chăm Pa trong văn hóa Việt Nam và, cũng chỉ xin “liếc một liếc” (chữ của GS. Từ Chi) vào “Mảng mầu văn hóa Chăm Pa trong văn hóa Hà Nam”, mà thôi.

I. DẤU ẤN VĂN HÓA CHĂM PA TRÊN ĐẤT HÀ NAM1. Hà Nam - nơi đầu tiên tiếp nhận và trồng Lúa Chiêm - giống lúa của Chăm Pa/Chiêm Thành

Nước ta là nước nông nghiệp trồng lúa nước. Cây lúa, có hai loại: lúa tẻ và lúa nếp. Cách nay khoảng 30 đến 40 năm, lúa tẻ mới chỉ có Lúa Mùa và Lúa Chiêm. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì Lúa Mùa là giống lúa bản địa, còn Lúa Chiêm là giống lúa du nhập từ Chăm Pa/Chiêm Thành vào.

Theo các tư liệu lịch sử, đến thời Lâm Ấp - Chiêm Thành, việc canh tác lúa đã phát triển mà đáng kể nhất là về sự đa dạng của các giống lúa trồng. Cư dân Chăm Pa đã phân biệt được các chân ruộng, định ra giống lúa thích hợp với thổ nhưỡng và thời tiết. Họ đã làm một năm 2 vụ. Ở Chiêm Thành, ngũ cốc không có lúa mạch mà có lúa canh (loại lúa chín muộn và ít nhựa như lúa tám canh, tức lúa mùa) và lúa túc (tức lúa tẻ, thường gọi là

Page 177: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

247

Lúa Chiêm), vừng, đậu. Giống lúa Chiêm này đã truyền sang Trung Quốc và Đại Việt. Theo Văn Doanh trong cuốn Tương Sơn dã lục (thế kỷ XI), vào thời nhà Tống “vua Chân Tông chăm lo đến việc trồng trọt, nghe nói ở Chiêm Thành có loại lúa chịu hạn…liền sai sứ dùng báu vật xin lấy giống, được 20 thạch lúa giống Chiêm Thành. Cho đến nay truyền bá đi các nơi”. Trong Tống sử, ở mục “Thực hóa chí” cũng có đề cập đến lúa Chiêm Thành “Năm Đại trung tường phù thứ 4 (1011), Hoàng đế thấy miền Giang Hoài, Lưỡng Triết thường bị hạn, khiến ruộng nước không thu hoạch được; sai sứ Phúc Kiến lấy ba vạn hộc lúa Chiêm Thành phân cấp cho ba lộ trồng. Chọn ruộng của dân, ruộng nào cao thì trồng. Đó tức là lúa sớm. Lúa này so với lúa Trung Quốc thì bông dài hơn, không có râu, hạt nhỏ, không cần chọn đất cũng cứ mọc” (90). Trong Vân đài loại ngữ, mục “Phẩm vật”, Lê Quý Đông cho biết: “Người nước Nam (tức Đại Việt) tiếp xúc với người Chiêm nên trồng được nhiều thứ lúa đạo, chín về mùa Hạ, gọi là Lúa Chiêm” (91). Sách Lịch sử Việt Nam cũng khẳng định: “…lúa Chiêm, tức là loại lúa đỏ hoặc lúa túc, trồng vào mùa Đông (tháng 12) chín vào mùa Hè (tháng 4), “một loại lúa đặc hữu ở Chiêm Thành (gọi là Lúa Chiêm) cũng đã được truyền sang Trung Quốc, sang Đại Việt” (92). Từ khi xuất hiện giống lúa Chiêm thích hợp với thổ ngơi, thời tiết của xứ sở mới, trong đó có Đại Việt, đã góp phần quan trọng cho cả Trung Quốc và Đại Việt mở rộng diện tích và thời vụ trồng lúa, tăng sản lượng lương thực.

Theo tôi, trên đất Đại Việt, nơi mà giống Lúa Chiêm được trồng đầu tiên là vùng Hà Nam. Những khái niệm, như “đồng Chiêm trũng”, “Chiêm khê, mùa thối” ra đời từ đó, và khi nói đến những từ này, người ta nghĩ ngay đến… Hà Nam và, chỉ Hà Nam mới có khái niệm đó. Và câu ca dao:

(90). Lịch sử Việt Nam, Nhà Xb Trẻ, 2006, Tập 3, tr 264 - 265. (91). Lịch sử Việt Nam, Nhà Xb Trẻ, 2006, Tập 3, tr 265. (92). Lịch sử Việt Nam, Nhà Xb Trẻ, 2006, Tập 3, tr 264

Page 178: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

248

“Lúa Chiêm ngấp nghé đầu bờHễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”

theo tôi cũng ra đời từ Hà Nam.Và, chỉ có cảnh lụt ở vùng đồng chiêm trũng Hà Nam mới

tạo nên câu thơ:“Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên váchTiếng sóng long bong vỗ trước nhà”Hay:“Tiếng sáo vo ve chiều nước vọngChiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi”. Và, cũng chỉ ở ao, chuôm thuộc vùng đồng chiêm trũng Hà

Nam, mà cụ thể là Bình Lục, mới có được thứ nước “trong veo” để làm nên những từ “tẻo teo”, “vèo”,… tạo nên sắc Thu trong ba bài tuyệt bút về mùa Thu là Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm của Tam nguyên Yên Đổ.

2. Văn hóa hữu thể 2.1. Phù điêu Kinari (đầu Người mình chim) Nhiều công trình nghiên cứu, nhất là khảo cổ học đã khẳng

định, trong nhiều công trình kiến trúc, phổ biến nhất là chùa thời Lý, tiếp đó là chùa thời Trần đã có sự hòa trộn của văn hóa Việt - Chăm Pa.

Ở Hà Nam, yếu tố Chăm Pa để lại rõ rệt và phổ biến nhất là phù điêu/tượng Kinari (đầu Người mình chim) trong một số bộ phận của kiến trúc thời Lý ở Hà Nam, tiêu biểu là Chùa Đọi và tháp Sùng Thiện Diên Linh (huyện Duy Tiên). Người chim (đầu người, mình chim) là nhân vật thần thoại trong văn hóa Ấn Độ - Chăm Pa. Họ/các nhân vật Người chim là các nhân vật chuyên lo việc ca múa nhạc trong các chùa tháp Phật giáo mà thần thoại Ấn Độ gọi là Kinari (Trung Quốc gọi là Ca La Tăng Già) phổ biến trong nghệ thuật Phật giáo Ấn Độ - Đông Nam Á. Tại chùa Long Đọi, qua đợt khai quật khảo cổ học tháng 10 năm 2001, tại khu vực được cho là chân đế của ngôi Bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh, Viện Khảo cổ học Việt Nam và Bảo tàng

Page 179: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

249

Hà Nam, đã thu được nhiều di vật quí, ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa thời Lý; trong đó, có những tượng (đầu) Người chim/Kinari của văn hóa Ấn Độ/Chăm Pa. Hiện nay ở Bảo tàng Hà Nam đang lưu giữ một số tượng (đầu) Người chim/Kinari đó, có niên đại thời Lý, năm 1121. Đó là:

1. Tượng (đầu) Người chim/Kinari mất đế, chân, đuôi; tóc búi cao trên đỉnh đầu, hai cánh chim xòe ra, hai tay người đánh trống.

2. Tượng (đầu) Người chim/Kinari cao 58cm, bị sứt, đứng trên bệ hình chữ nhật, tóc búi cao trên đỉnh đầu, hai cánh chim xòe ra, hai tay giữ nhạc cụ, đuôi chim vểnh cao, xòe rộng.

Về chất liệu, các tượng (đầu) Người chim/Kinari này đều tạc bằng đá. Tuy chúng có kích thước khác nhau, nhưng đều chung cách tạo dáng và bố cục. Tượng có khuôn mặt người đầy đặn, hiền từ, các chi tiết trên mặt đều sáng sủa, tóc tết thành búi trên đỉnh và được dải băng hoa buộc lại trên trán; ẩn hiện dưới những bông hoa cài trang điểm. Khuôn mặt người đó gắn với chiếc cổ cao ba ngấn, bộ ngực nở nang, đôi tay tròn mập biểu diễn một nhạc cụ nào đó (trống cơm, đàn, chũm chọe). Phần “chim” trong tượng Người chim trên thể hiện ở đôi chân chim gắn với thân người. Đôi chân ngắn, khỏe, có 3 móng sắc bám chắc lấy bệ tượng. Ngoài ra là đôi cánh chim xòe nhưng không dang ngang, mà mở rộng, dựng đứng áp sát thân, như đang quạt gió để bay lên. Cái đuôi chim uốn cong hất lên cao. Nghĩa là, Người chim này vừa có tay người để biểu diễn nhạc cụ, vừa có cánh chim để bay lên. Cả khối tượng Người chim “đậu” chắc trên đế bệ bằng đá. Tư thế này cho thấy, mặc dù tượng ở thế tĩnh, song lại trong một thế động. Cả khối tượng đó đứng trên một chiếc đế liền khối với tượng, có tác dụng như một chiếc đấu vuông thót đáy. Chỗ khác nhau của các tượng (đầu) Người chim này, cơ bản là ở các nhạc cụ (trống cơm, chũm chọe và đàn). Những nhạc cụ này có hình dáng khác nhau nhưng đều được nằm trước ngực nhân vật, và tay Người chim đang trong tư thế chơi/đánh nhạc. Nhìn đằng trước, tượng được cấu tạo hai nửa phải và trái đăng đối, có dạng

Page 180: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

250

khối tam giác lớn lồng lên khối tam giác nhỏ (bệ và bụng tượng) nên tĩnh mà lại động, chắc chắn nhưng chồng chềnh; nếu nhìn ở sườn bên thì lại có dạng một múi cam dựng đứng với cung cong quay vào phía trong, các đường vạch xếp lớp cánh và các lông cánh, lông đuôi cũng phụ họa theo gây ấn tượng về một sự khởi động muốn cho Người chim bốc lên. Trong cấu/kiến trúc Bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh, những khối tượng (đầu) Người chim này được bố trí ở mặt ngoài của tháp, vừa giữ vai trò như những con sơn ở trên những chạc đỡ mái thuộc những tầng tháp khác nhau, vừa làm xứ mệnh trang trí mặt ngoài của ngôi bảo tháp.

Ngoài Chùa Đọi và tháp Sùng Thiện Diên Linh, chúng ta còn gặp loại tượng (đầu) Người chim này trong trong một số ngôi chùa, tháp có niên đại thời Lý khác, như: Chùa Phật Tích ở Bắc Ninh, Tháp men thờ chùa Chò (Vĩnh Phúc); Tháp Chương Sơn (Nam Định)…

Ngoài tượng (đầu) Người chim, ở khu vực Chùa Đọi, các nhà nghiên cứu cũng phát hiện yếu tố/dấu ấn văn hóa Chăm Pa qua hình tượng con rồng chạm nổi ở mặt trên của đế bia Sùng Thiện Diên Linh. Hình tượng rồng này, mà người xưa gọi là Long xà, tức rồng rắn vốn có nguồn từ hình tượng con rắn, con trăn rất phổ biến ở Việt Nam. Hình rồng này được xác định là hình tổng hợp những yếu tố của nhiều con vật khác nhau, trong đó cơ bản là từ con rắn. Trong nghệ thuật tạo hình Chăm pa nhiều hình rắn Nagar rất thực, nhiều hình con Makara huyền thoại và cả hình rắn đầu rồng đang vẫy vùng trong sóng nước (như ở tháp Bánh Ít- Bình Định)… Nhiều nhà nghiên cứu (trong đó có PGS Chu Quang Trứ) cho rằng, những con vật này của nghệ thuật Chăm Pa đã góp phần tạo nên con rồng thời Lý - Trần, mà đặc sắc nhất là cái mào lửa.

2.2. Gạch trang trí ở Chùa Đọi và tháp Sùng Thiện Diên Linh

Hiện ở Chùa Đọi đã thu được khá nhiều gạch trang trí thời Lý, có niên đại thế kỷ XI (năm 1121). Những viên gạch này

Page 181: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

251

dài 21- 22cm; rộng 12 - 14cm; trên mặt trang trí hình vũ nữ dâng hoa, trong tư thế đầu, 2 tay, 2 chân của vũ nữ này mô phỏng giống như tư thế của vũ nữ Ápsara tạc trên các tháp Chăm ở miền Trung Bộ nước ta. Cũng tại chùa Đọi, cũng thu được những viên gạch trang trí có niên đại thế kỷ XI (năm 1121), có chiều dài 10cm, rộng 11cm, dày 4cm; một mặt trang trí nổi hai con rồng uốn lượn theo hình lá đề/lá nhĩ, một hình tượng vốn rất quen thuộc trong các kiến trúc tháp Chăm, trong các đài thờ, mà rõ nhất là hình lá nhĩ trên đài thờ bà ThiênYana ở Tháp Bà Nha Trang.

3. Văn hóa phi vật thể 3.1. Nghề làm trống Đọi TamNgười Việt giỏi làm/đúc trống đồng và biểu diễn/đánh trống

đồng. Trống đồng Đông Sơn là đỉnh cao nhất của nghệ thuật đúc trống đồng. Cho đến thời Trần, tiếng trống đồng vẫn vang lên, khiến cho Trần Phu - vị sứ thần nhà Nguyên sau hàng chục năm quân Nguyên bị tiêu diệt trên sông Bạch Đằng, vừa đặt chân vào đất Việt, chợt nghe tiếng trống đồng vẫn cứ ngỡ là tiếng trống trận Bạch Đằng năm xưa, giật mình:

“Kim qua ảnh lý tâm đan khổ Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh”Dịch:“Bóng lòe gươm sắc lòng thêm đắng Tiếng rộn trống đồng tóc đốm hoa”Cho đến nay, chúng ta biết, trống da và nghề làm trống da

xuất hiện ở Việt Nam từ thế kỷ XI, bắt đầu ở làng Đọi Tam, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Nghề làm trống Đọi Tam có từ lâu đời, ước trên 1.000 tuổi. Theo truyền ngôn, ông tổ của nghề làm trống Đọi Tam là hai anh em ông Nguyễn Đức Năng và Nguyễn Đức Bản. Chuyện kể rằng, năm 986, khi được tin vua Lê Đại Hành sẽ về làng làm Lễ Tịch điền, hai anh em mới bàn nhau làm một cái trống to để đánh trống mừng đón vua. Quả nhiên, hôm đón vua, hai anh em ông mang trống ra đánh, tiếng trống rền vang như sấm dội, khiến vua và dân làng

Page 182: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

252

vô cùng ngạc nhiên, thích thú. Dân làng tôn hai ông là Trạng Sấm. Mặc dù vậy, song không hiểu vì sao, trong một số tài liệu viết về nghề truyền thống của nước ta (như “Lược truyện thần tổ các ngành nghề” - Nxb KHXH-H, 1990), không thấy nói đến tổ nghề làm trống da. Sách này chỉ nói đến Tổ nghề đúc đồng là Dương Không Lộ (Ông là tổ chung của nghề đúc đồng cả nước, còn ở các làng đúc đồng Huế, Đại Bái (Hà Nội ) lại có Tổ đúc đồng của các làng này). Sách này cũng chỉ nói đến Tổ nghề thuộc da và làm giày dép da (là Tiến sĩ Nguyễn Thời Trung, làm quan thời Mạc, từ thế kỷ XVI, tại Tam Lâm thuộc Hải Dương ngày nay, học nghề này từ Hồ Nam Trung Quốc) mà không nói đến làm trống da. Sách này cũng nói đến Tổ nghề mộc (là Nguyễn Xuân Tài - Nữ thần Mộc) nhưng không nói gì đến nghề làm tang trống da. Với những lý do đó, tôi cho rằng, nghề làm trống da Đọi Tam có nguồn gốc từ Chăm Pa. Người làm trống da phải giỏi/biết cả nghề thuộc da (làm mặt trống) và nghề mộc (để làm tang trống). Nói như thế, còn bởi một lý do nữa là, người Đọi Tam có thể làm được hầu hết các chủng loại trống (như: trống đại, trống đội, trống đình, trống cơm, trống trường, trống nhà thờ, trống chùa, trống hội, trống múa lân sư rồng, trống khẩu, trống đế), trong đó, có trống cơm - một loại trống có nguồn gốc từ Chăm Pa.

3.2. Chùa Bà Đanh Chùa Bà Đanh hiện nay, tên chữ là Bảo Sơn Tự, nằm ở làng

Đanh/Đinh Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng. Chùa Bà Đanh cùng với ngọn Núi Ngọc cách chùa không xa nằm bên tả dòng sông Đáy trong xanh uốn lượn hiền hòa ngay trước mặt. Kiến trúc chùa Bà Đanh hiện nay là kết quả của lần xây dựng vào năm Vĩnh Trị đời vua Lê Hy Tông (1676 - 1680). Điện thần của chùa là của dòng Phật giáo Đại thừa, với các tượng Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp, và các tượng của đạo giáo như Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu…Trong chùa có pho tượng của tín ngưỡng bản địa là bà Pháp Vân. Trong khuôn viên chùa còn

Page 183: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

253

có Phủ Mẫu thờ các tượng Tam Tòa Thánh Mẫu, Tứ Phủ, Nhà Tổ. Cũng từ đó, dân địa phương đặt tên chùa là chùa Đức Bà làng Đanh, sau dân gọi tắt là chùa Bà Đanh. Quanh ngôi chùa Bà Đanh có nhiều tài liệu đã khẳng định lịch sử ngôi chùa này trước lần xây dựng mới và có sự bài trí điện thờ như trên, đã từng có những lớp văn hóa khác, chồng lấp lên nhau, lớp văn hóa sau chồng/phủ định lớp văn hóa trước. Đó là hai lớp văn hóa in dấu rõ nhất ở chùa Bà Đanh là lớp văn hóa Đạo Tứ Pháp và lớp văn hóa Chăm Pa.

Nhiều tài liệu cho rằng thoạt kỳ thủy, chùa Bà Đanh khởi dựng thuộc hệ thống chùa thờ Tứ Pháp, để thờ bà Pháp Vân. Sự tích về bà Pháp Vân được chính văn trong thần tích, thần sắc lưu giữ ở chùa này, và lưu truyền trong nhân dân địa phương đều nói rõ Bà Pháp Vân là một trong bốn người con của Phật Mẫu Man Nương và nhà sư Ấn Độ Thiền sư Khâu Đà La (là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), từ quê hương Luy Lâu - Bắc Ninh truyền về. Đặc biệt là sự hiện diện của pho tượng Bà Pháp Vân nói ở trên trong thần điện chùa Bà Đanh hiện nay theo kiểu “Tiền Thánh, hậu Phật” (thực ra Bà Pháp Vân cũng là một vị Phật - Phật dân gian Việt Nam), là bằng chứng rõ rệt nhất về sự tồn tại của tín ngưỡng này, trước khi Phật giáo chính thống Đại Thừa vào chiếm/thế chỗ.

Song, cũng tại chùa này, hiện cũng có nhiều tài liệu nói rằng, ngôi chùa Bà Đanh vốn một thời đã là nơi thờ một nữ thần của người Chăm. Có một thực tế lịch sử đã từng tồn tại nhiều thế kỷ, từ thời Lý, ngay tại Kinh đô Thăng Long, đã có một ngôi chùa Bà Đanh (nay là/mang tên chùa Bà Đá, Hoàn Kiếm, Hà Nội) thờ nữ thần Chàm do người Chăm Pa mang theo. Ngoài Kinh thành Thăng Long, còn có một số ngôi chùa nữa cũng mang tên chùa Bà Đanh, như chùa Bà Đanh ở Kim Bảng nói ở trên, và “Bà Đanh Tự” (tên chữ là chùa Thiên Phúc) ở xã Trà Phương, Kiến An, Hải Phòng. Chùa này do 25 người hoàng tộc nhà Mạc góp triền của, ruộng nương, trong đó có nhắc đến số ruộng của bà Thái hoàng

Page 184: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

254

Thái hậu cúng từ năm 1542. Chùa Bà Đanh/Bà Banh là tên người Việt gọi ngôi chùa/nói đúng hơn là đền thờ nữ thần Pô Yan Dari của người Chăm. Vị nữ thần này được tạc bằng đá, mang dáng hình rất phồn thực, hai chân dạng/banh ra, phô phang cả âm hộ, vú vê căng mọng. Vị nữ thần này chuyên ban phúc cho những người đến cầu cúng, khi người này cầm gậy (bằng đá) thọc vào hạ bộ/âm hộ của thần, như biểu tượng sự giao phối thần thánh. Tên Bà Banh là cách gọi dân dã, chỉ sự “phô phang” các bộ phận sinh dục nữ đó. Hẳn đã rất ấn tượng về pho tượng này ở chùa Bà Đanh, nên tác giả Lương Hiền đã viết: “Đúng là trước gọi là chùa Bà Banh, trong chùa có thờ tượng nữ thần tình ái, có chày đá và cối đá, cho những người cầu tự cầm chày giã. Nhưng do từ Banh thô tục, nên gọi chệch đi là Đanh. Hơn nữa, chùa này thuộc làng Đanh Xuyên, nên cũng gọi là Chùa Đanh, hay chùa Bà Đanh. Thường có câu tục ngữ: “Vắng như chùa Bà Đanh”. Về sau, do sự biến đổi, lễ hội chùa Bà Đanh luôn đông vui tấp nập:

“Ai bảo chùa Đanh chỉ vắng tanhTháng ba, lễ hội khắp thị thànhĐều đổ xô về đường chật níchChùa Đanh lại hóa chốn đua tranh” (93)

Tiếc thay, trong chùa Bà Đanh hiện nay không còn sự hiện diện của pho tượng Chăm Pa cổ Bà Banh đặc biệt vô cùng quý giá này nữa.

3.3. Tín ngưỡng thờ Mỵ Ê và Sạ Đẩu3.3.1. Lai lịch bà Mỵ ÊTư liệu sớm nhất về bà Mỵ Ê là Việt điện U Linh của Lý Tế

Xuyên viết vào thế kỷ XIV. Trong mục “Hiệp chính hựu thiện trinh liệt chân mãnh phu nhân”, sách này viết: Phu nhân không rõ họ là gì, người Chiêm Thành, tên là Mỵ Ê, vợ vua Chiêm Thành xưa là Sạ Đẩu. Dưới triều Lý Thái Tông, Sạ Đẩu không giữ phận triều cống, bỏ lễ phiên thần. Nhà vua thân sang đánh phương Nam. Đẩu dẫn quân chống lại ở sông Bố Chính, liền bị quân nhà vua đánh

(93). Hà Nam ngũ sắc - Hội VHNT Hà Nam xuất bản năm 1997, tr 40

Page 185: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

255

tan. Đẩu chết tại trận. Vương phi và tỳ thiếp bị bắt làm tù binh đưa về. Về đến sông Lý Nhân, nhà vua nghe nói Mỵ Ê đẹp, bèn mật sai quan Trung sứ triệu sang hầu ở thuyền ngự. Phu nhân hết sức phẫn uất, từ chối rằng: - “Vợ người rợ mọi quê kệch, ăn mặc xấu xí, nói năng thô lậu, không bằng các phi tần ở trung thổ; nay đau khổ vì nỗi nước mất, chồng chết, tự xét chỉ có một chết mà thôi, nếu ép cưỡng phải hợp hoan với nhà vua, sợ rằng nhơ đến mình rồng”. Bèn ngầm lấy chăn vải trắng quấn quanh mình, rồi nhảy xuống dòng sông. Chỉ thấy đánh ùm một cái đã không thấy bóng dáng người đẹp nữa. Nhà vua lấy làm kinh lạ, hối hận, cho cứu vớt nhưng không kịp nữa. Ở nơi ấy, những đêm yên tĩnh lặng sóng, trăng sao vằng vặc, thường nghe có tiếng đàn bà than khóc. Dân làng cho là chuyện lạ, dâng biểu xin lập miếu thờ (Đền thờ ở hai xã Lý Nhân, Lam Cầu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Từ đó mới hết tiếng khóc than. Về sau, nhà vua về Lý Nhân, thuyền đi trên sông thấy đền ở trên bờ, bèn hỏi. Người chung quanh kể lại việc ấy. Nhà vua nín lặng hồi lâu rồi nói: “Không ngờ đàn bà mọi rợ lại có người trinh liệt như thế. Nếu quả là vượt lên trên bậc kỳ vỹ anh linh, thì nên cho trẫm biết”. Đêm ấy, vào canh ba khuya khoắt bỗng thấy một trận gió thơm, hơi lạnh tỏa khắp, nhà vua thấy một người đàn bà vừa lạy vừa khóc mà rằng: - “Tôi nghe nói cái đạo người vợ là chỉ một chồng mà thôi. Quốc vương nước tôi trước kia tuy không dám tranh đua với bệ hạ, nhưng cũng là một trang nam tử có kỳ tài ở một phương. Tôi đã lạm được hầu khăn lược, ân ái dồi dào. Chẳng may mà nước tan vua chết. Tôi ngày đêm đau xót, nghĩ đến việc báo thù. Nhưng là phận đàn bà yếu ớt, không biết tính vào đâu. Nhờ có ơn lớn của bệ hạ sai sứ đưa tôi về nước nơi suối vàng gặp chồng, ý nguyện đã thỏa; còn như có gì là anh linh mà đâu dám đến đường đột”. Nói xong, bỗng không thấy đâu nữa. Nhà vua giật mình tỉnh dậy mới biết là giấc mộng. Bèn lập tức dọn rượu tế tạ, sắc phong làm Hiệp chính nương. Từ đó xa gần cầu đảo đều thấy linh ứng. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), sắc

Page 186: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

256

phong là Hiệp chính hựu thiện phu nhân. Năm Trùng Hưng thứ tư (1288), tặng thêm hai chữ “trinh liệt”. Năm Hưng Long thứ 21 (1313), tặng thêm hai chữ “chân mãnh”. Đến nay thờ cúng, càng thấy linh ứng” (94).

Bà Mỵ Ê - một phụ nữ Chăm Pa đã “đi vào” Quốc sử quán triều Nguyễn (Đại Nam nhất thống chí) trong tư cách một Liệt nữ được kính trọng, biểu dương: Liệt nữ người Chiêm Thành ở Phủ Thừa Thiên (“Mỵ Ê trinh phu nhân: Là vợ chúa Chiêm Thành Sạ Đẩu. Lý Thái Tông thân đi đánh Chiêm Thành, Sạ Đẩu chống cự, bày trận ở bên sông Bố Chính. Quách Gia Di xông trận chém được Sạ Đẩu, rồi kéo quân vào thành Phật Thệ, bắt thê thiếp của Sạ Đẩu. Khi về đến Hoàng Giang, phu nhân nghe sứ của vua triệu đến hầu thuyền ngự, bèn nhảy xuống sông tự tử, người trong nước cho là nghĩa, lập đền thờ, sau Thái Tông đi ra Lỵ Nhân, thuyền ngự theo ven sông thấy bờ có đèn lấy làm lạ, bèn hỏi bầy tôi, tả hữu đem việc ấy tâu bày, vua thương xót, sai quan tế phong Hiệp chính nương” (95).

Sách Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, đã đề cập đến ngôi đền thờ bà Mỵ Ê trên đất Bắc, và thần tích của Bà: “Đền thờ bà phi vợ vua Chiêm Thành là Mỵ Ê ở xã Lý Nhân, huyện Nam Xương, trấn Sơn Nam; nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Năm Minh Đạo thứ 3 (1044), vua Lý Thái Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Sạ Đẩu (sử chép là giết chết Sạ Đẩu) cùng phu nhân Mỵ Ê đem về. Đến hành điện ở phủ Lý Nhân, vua sai gọi Mỵ Ê sang hầu ở thuyền vua, Mỵ Ê quyết thủ tiết, lấy chăn quấn vào người rồi nhảy xuống sông tự vẫn. Vua khen là trinh tiết, phong là “Hiệp chính hựu thiện phu nhân” (96).

Ngoài ra, lai lịch bà Mỵ Ê còn được phản ánh trong các bản thần tích, thần sắc hiện còn lưu ở những đền, miếu thờ Bà ở Hà

(94).Việt điện U linh, Nam Ông mộng lục, Truyền ky mạn lục-Nxb Văn học, 2008, tr 23- 25

(95). Đại Nam nhất thống chí, T1, Nxb Thuận Hóa, 1997, tr 245. (96). Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam - Viện nghiên cứu Hán Nôm - Nxb

KHXH, H, 1991, tr 459 - 460

Page 187: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

257

Nam và các nơi khác. Các tài liệu trên, về cơ bản phản ánh đúng những chi tiết chủ yếu về lai lịch của bà Mỵ Ê đúng như Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên đã viết. Có một số tài liệu thì tóm tắt ngắn gọn, song có tài liệu lại thêm thắt một số tình tiết “râu ria” làm phong phú thêm câu chuyện, mà không làm thay đổi bản chất chuyện bà Mỵ Ê - một nữ thần Chăm Pa trên đất Bắc.

3.3.2. Việc thờ phụng bà Mỵ Ê Sách Đại Nam nhất thống chí Quốc sử quán triều Nguyễn,

cho hay: “Đền Mỵ Ê phu nhân: ở hai xã Lý Nhân và Lam Cầu, huyện Nam Xang (tỉnh Hà Nội xưa, nay là thôn Lam Cầu/tên nôm là thôn Chàm, có 2 xóm, xã Nhân Thịnh, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Đền được lập từ thời Lý” (97). Cuốn sách Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam nói ở trên cũng cho biết ngôi đền thờ bà Mỵ Ê vợ vua Chiêm Thành ở xã Lý Nhân, huyện Nam Xương, trấn Sơn Nam; nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Song, qua thần tích, thần sắc về các vị thần được thờ trên đất Hà Nam và kết quả khảo sát thực tế của tôi, chắc chắn là chưa đầy đủ, có 15 di tích thờ bà Mỵ Ê trên đất Hà Nam. Cụ thể:

- Thành phố Phủ Lý có 1 nơi thờ bà Mỵ Ê và chồng là vua Sạ Đẩu ở phường Lương Khánh Thiện (xưa là Thôn Chợ, thị xã Châu Cầu, huyện Thanh Liêm).

- Huyện Lý Nhân có 10 nơi thờ bà Mỵ Ê, là: Xóm Phúc Mãn, xã Phú Phúc; Thôn Vạn Thọ, xã Nhân Bình; Thôn Chàm (nay là thôn Lam Cầu), xã Nhân Thịnh; Xóm Tây Trữ, xã Tiến Thắng; Các xóm Phú Cốc 12, Phú Cốc 14, xã Phú Phúc; Xóm Đông Trữ, xã Tiến Thắng; Thôn Nguyễn Đồng, xã Hòa Hậu; Các xóm Thanh Nga 1 và Thanh Nga 2 thuộc xã Phú Phúc.

- Huyện Thanh Liêm có 04 nơi thờ bà Mỵ Ê, là: Thôn Hạ, xã Liêm Sơn; Thôn Thượng (tên nôm là Song Thượng), xã Liêm Sơn; Thôn Lê, xã Liêm Sơn; Thôn Truật (tên thường gọi là làng Giụt), xã Liêm Sơn.

(97). Quốc sử quán triều Nguyễn, tập 3, Nxb Thuận Hóa, 1997, tr 216

Page 188: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

258

II. NGUYÊN NHÂN XUẤT HIỆN CỦA DI SẢN VĂN HÓACHĂMPA TRÊN ĐẤT HÀ NAM1. Nguyên nhân xuất hiện di sản văn hóa Chămpa

trên đất Hà NamSự xuất hiện di sản văn hóa Chăm Pa trên đất Đại Việt,

trong đó có Hà Nam, là kết quả của sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Chăm Pa - Đại Việt diễn ra trong một thời gian dài, từ khi vương quốc Chăm Pa hình thành năm 192 cho đến khi Chăm Pa hòa đồng vào/thành một phần lãnh thổ Việt Nam vào cuối thế kỷ XVII.

1.1. Từ khi dựng nước Lâm Ấp (năm 192) cho đến khi đổi tên là Hoàn Vương, sau đó là Chiêm Thành, quốc gia ở phía Nam nước Đại Việt này luôn thực hiện việc khuếch trương thế lực, mở rộng lãnh thổ; Trong đó, mục tiêu Bắc tiến được đặt lên hàng đầu, nhằm thôn tính lãnh thổ Đại Việt. Vào khoảng năm 980, biên giới Chiêm Thành ở phía Bắc đã đến khoảng núi Hoành Sơn thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay. Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, từ năm lập quốc 192 cho đến cuối thế kỷ XVII, nhất là từ thế kỷ X, khi quốc gia Đại Cồ Việt độc lập, tự chủ ra đời, vương quốc này đã nhiều lần phát động chiến tranh xâm lược, không ít lần đánh chiếm, tàn phá Kinh thành Thăng Long.

Từ khi nước ta giành được độc lập, tự chủ (thế kỷ X), mặc dù luôn chủ trương giữ mối quan hệ ngoại giao hòa hiếu, nhưng trước hành động hiếu chiến “của ông bạn láng giềng” ở phía Nam, quân dân Đại Việt đã kiên quyết ngăn chặn các cuộc xâm phạm lãnh thổ và đập tan các cuộc xâm lược của Chăm Pa vào Thăng Long, và nhiều lần, để tự vệ và nhằm xóa bỏ tận gốc mối đe dọa nền độc lập quốc gia từ phía Nam, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng chống xâm lược của các triều đại Trung Quốc ở phía Bắc, các vua Đại Việt đã nhiều lần phát binh trừng phạt, không ít lần đánh vào tận kinh đô của Chăm Pa. Vị vua đầu tiên của Đại Việt xuất chinh trừng phạt Chăm Pa đang có âm mưu phối

Page 189: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

259

hợp với nhà Tống ở phía Bắc để đánh Đại Việt từ cả hai phía, Nam đánh lên, Bắc đánh xuống, là vua Lê Đại Hành. Hành động đó diễn ra vào năm 982. Lần đó, Lê Đại Hành đã đánh vào tận Kinh đô Indrapura của Chăm Pa, cho phá sạch Kinh đô và bắt sống rất nhiều tù binh. Sau khi dẹp tan giặc Chiêm ở phía Nam, Lê Đại Hành tập trung lực lượng để nghênh chiến quân Tống ở phía Bắc. Cuộc kháng chiến chống Tống (980 - 984) thắng lợi, nước Đại Việt nhanh chóng trở thành một quốc gia hùng mạnh.

Trong các triều đại phong kiến Việt Nam sau đó: thời Lý, Trần, Lê…cũng để tránh cùng một lúc bị đánh từ hai phía, dẹp yên hiểm họa Chăm Pa liên minh với các triều đại phong kiến Trung Hoa nhằm xâm lược Đại Việt, nhiều lần các vua Đại Việt đã thân chinh cầm quân trừng phạt Chăm Pa, đánh tận kinh đô nước này, bắt nhiều tù binh đưa về nước. Có thể kể đến cuộc chinh phạt năm 1044, nhà Lý tổ chức chinh phạt vào tận kinh thành Đồ Bàn. Nhà Lý chiến thắng, đã bắt đưa về Bắc trên 5.000 tù binh Chăm. Số tù binh này sau đó được đưa đến sinh sống rải rác từ Nghệ An đến vùng trung, thượng lưu sông Hồng, trong “các thôn ấp đặt phỏng theo tên gọi cũ của người Chàm”.

Tháng 3 năm 1069, vua Lý Thánh Tông chỉ huy hơn 5 vạn quân nhà Lý do Lý Thường Kiệt làm tướng tiên phong, giữ chức nguyên soái, xuất phát từ Thăng Long với vài trăm chiến thuyền theo đường thủy tiến vào Chăm Pa. Trận chiến thắng lợi, số tù binh Chăm bị bắt đưa về Đại Việt đông gấp mười lần số tù binh bắt trận trước, tức là khoảng trên dưới 50.000 người, “và không rõ nơi an trí họ ở đâu” (98). Năm 1074 Chăm Pa lại quấy rối, khiến cho nhà Lý trước khi vào cuộc kháng chiến chống Tống ở mặt Bắc, đã phát binh đánh Chăm để yên mặt Nam, họa bản đồ, mộ dân Việt đến ở.

(98). Tạ Chí Đại Trường - Thần, Người và Đất Việt - Nxb Văn hóa Thông tin, H, 2006, tr 170

Page 190: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

260

Một điều chắc chắn là số tù binh Chăm Pa bị nhà Lý bắt đưa về Đại Việt chủ yếu là cung nữ biết múa hát, những nghệ nhân dân gian đủ mọi ngành nghề (dệt, gốm…), kiến trúc sư. Dấu vết về nơi ở của những tù binh này trên đất Đại Việt hiện vẫn còn qua tên các địa danh mang địa danh Chàm. Ví như, ở vùng Hồ Tây, Hà Nội có bến, có đồng Lâm Ấp thuộc xã Xuân Đỉnh, là nơi của người Chàm ở, còn truyền lại chuyện người nữ tù binh với 24 nữ tỳ lập trang Thiên Niên, chết đi được tôn làm Bà Chúa Dệt Lĩnh và được thờ ở đền Thiên Niên (99).

Đó là một thực tế lịch sử không thể phủ nhận.Tỉnh Hà Nam - là vùng đất phên dậu, cửa ngõ phía Nam Kinh

đô Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Vùng này là một “tứ giác nước”, bởi nó gần như bị bao bọc bởi 4 con sông, là sông Hồng ở phía Đông, sông Đáy ở phía Tây, và Nhuệ Giang ở phía Bắc, Ninh Giang ở phía Nam. Từ Kinh đô đi Hà Nam và từ đó để đi về phía Nam (cũng như từ Hà Nam và cả phía Nam đất nước đến Kinh đô), bằng 2 con đường là đường nước và đường bộ (đường kinh lý, nay là Quốc lộ 1A) đều phải qua đất Hà Nam. Vì thế, hầu hết các cuộc xâm lăng/đánh vào Thăng Long (hoặc bị thua phải rút chạy) của quân Chiêm Thành (và cả quân Trung Quốc) đều đi và cả dừng lại/qua đất - sông Hà Nam. Và, cũng vậy, hầu hết các cuộc phát binh đi chinh phạt Chăm Pa của Thăng Long đều đi qua Hà Nam, chủ yếu là đường thủy. Trong các cuộc chinh phạt Chăm Pa ấy, khi ca khúc khải hoàn mang theo tù binh, chiến lợi phẩm, đặc biệt là các cô vũ công Chăm Pa xinh đẹp hát hay múa dẻo, cũng như một hai lần thất bại ê chề ủ rũ kéo về đều đi qua/và dừng lại nghỉ ngơi ở Hà Nam, cụ thể là ở vùng huyện Lý Nhân (nơi có hành cung của nhà Lý và phía đối diện sông Châu Giang là Hành cung Thiên Trường của nhà Trần), Thanh Liêm, thành phố Phủ Lý, Duy Tiên, Kim Bảng. Trong những lần chinh chiến ấy, quân Đại Việt, dù chiến thắng hay thất bại, sau mấy tháng trời chinh chiến và phải vượt qua chặng đường dài vật lộn với sóng biển trở

(99). Tạ Chí Đại Trường - Sđ d, tr 170

Page 191: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

261

về, nhất là sau khi đã vượt qua được dòng xoáy nguy hiểm của sông Hồng ở đoạn Ngã Ba Tuần Vường (“Nhất cao là núi Tản Viên/Nhất sâu là vũng Thủy Tiên Tuần Vường”), đều chọn đất Lý Nhân, nói đúng ra là chọn những bến cảng sông Hồng, sông Châu Giang của Lý Nhân nằm phía trên Ngã Ba Tuần Vường chừng 7-8km để nghỉ ngơi, mừng đã thoát chết trở về, cũng như để đưa số tù binh Chăm bị bắt được bố trí ở lại Hành cung Lý Nhân cũng như sẽ sinh sống tại vùng đất bãi bồi mầu mỡ này.

Vì thế có thể khẳng định rằng, nơi tiếp xúc và giao lưu văn hóa Chăm Pa với Đại Việt đầu tiên là diễn ra trên đất Hà Nam. Từ đó, có thể giải thích vì sao dấu vết văn hóa Chăm Pa trên đất Hà Nam, cả văn hóa hữu thể và văn hóa phi vật thể, lại đậm đặc như vậy. Nói cách khác, trong văn hóa Hà Nam hôm nay, đã có sự hòa trộn đến mức rất khó tách bạch /làm nên bởi / văn hóa Chăm Pa và văn hóa Việt.

1.2. Người đầu tiên “đưa” văn hóa Chăm Pa về Đại Việt nói chung, Hà Nam nói riêng, chính là Hoàng đế Lê Đại Hành, một người con của Hà Nam. Với hai sự kiện lịch sử là: thời điểm giống Lúa Chiêm của Chăm Pa xuất hiện ở Đại Việt là đầu thế kỷ XI, và thời điểm xuất hiện chiếc trống da đầu tiên ở Đọi Tam là để mừng đón Lê Hoàn ca khúc khải hoàn đánh thắng Chiêm Thành, chúng tôi cho rằng không phải là ngẫu nhiên, mà, chính Lê Đại Hành sau cuộc chinh phạt Chiêm Thành chiến thắng trở, ông đã mang theo giống lúa Chiêm của người Chăm và mang theo nhiều nghệ nhân, trong đó có những nghệ nhân làm trống da để sau đó, theo yêu cầu / lệnh của ông những nghệ nhân này đã đóng những chiếc trống đánh trong lễ mừng công của quân dân Đại Việt. Dần dần, nghề làm trống phát triển, như làng trống Đọi Tam ngày nay.

1.3. Việc tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa văn hóa Chăm Pa và Đại Việt diễn ra theo 2 “kịch bản”

- Một là, sau những trận chiến thắng Chăm Pa, quân Đại Việt lấy chiến lợi phẩm (những hiện vật/đồ vật/sản phẩm/mẫu điêu

Page 192: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

262

khắc…là văn hóa hữu thể) và bắt người (những nghệ nhân, nghệ sĩ, cung nữ, các nhà pháp thuật làm phù chú, đạo sĩ…) là những tinh hoa văn hóa - nghệ thuật Chăm Pa đưa về nước. Những hiện vật dùng để làm mẫu, cho người bắt chước mà làm y xì hoặc có môrife đưa yếu tố văn hóa Việt vào, sau đó sản xuất ra một sản phẩm mới của Đại Việt. Còn những nghệ sĩ múa, hát, các nghệ nhân Chăm Pa sẽ trình diễn, truyền dạy/huấn luyện cho các nghệ sĩ Việt những tinh hoa, ngón nghề của mình. Từ lâu, các nhà âm nhạc học đã khẳng định âm nhạc thời Lý có ảnh hưởng nhạc, múa Chàm rất rõ. Hay như, điệu múa “con đĩ đánh bồng” thường biểu diễn ở nhiều lễ hội (như Lễ hội làng Triều Khúc - Hà Nội), với 4 vũ công nam giả gái, ưỡn ẹo, vỗ chiếc trống cơm Chàm đeo trước bụng đánh nhịp điều khiển, là có nguồn gốc Chăm Pa...

- Hai là, số tù binh Chăm Pa được bố trí sinh sống thành làng độc lập nằm xen kẽ (xôi đỗ) với làng của dân Việt bản địa (như ở vùng Hồ Tây, Hà Nội có bến, có đồng Lâm Ấp thuộc xã Xuân Đỉnh, là nơi của người Chàm ở…). Tại đây, họ phải tự túc, tự cấp là chính. Cũng tại đây, đám cư dân Chàm xa quê, sinh sống trên vùng đất mới, đã mang gần như nguyên vẹn phong tục tập quán, tín ngưỡng riêng…đã ăn sâu vào máu thịt họ ở nơi quê cha đất tổ gây dựng trên vùng đất mới này. Theo thời gian, văn hóa của những cộng đồng Chăm Pa này và văn hóa của cư dân bản địa Đại Việt tiếp xúc, giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau.

Người Việt vốn bản tính hiền hòa, không kỳ thị dân tộc, tôn giáo, nhanh ứng phó với hoàn cảnh theo phương châm “có bệnh thì vái tứ phương”, nên dễ học hỏi, không câu nệ, phân biệt quá đáng, sẵn sàng học hỏi/chấp nhận những cái hay trong văn hóa của kẻ bại trận - những người Chàm. Vì thế, người Chăm Pa đã có một “chiến thắng ngược”, khi văn hóa của họ - kẻ bại trận “đánh bại” kẻ thắng trận. Một ví dụ điển hình là ở xã Xuân Đỉnh (Hà Nội) - nơi người Chàm ở năm xưa, còn truyền lại chuyện người nữ tù binh với 24 nữ tỳ lập trang Thiên Niên, chết đi được tôn làm Bà Chúa Dệt Lĩnh, thờ ở đền Thiên Niên.

Page 193: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

263

Những di sản văn hóa Chăm Pa trên đất Đại Việt, trong đó có Hà Nam tồn tại và ăn sâu vào đời sống người dân Việt, trở thành di sản văn hóa Việt Nam qua hàng nghìn năm là thế.

Trong một tài liệu của Hà Nam, khi nói về hiện tượng thờ Hoàng hậu Mỵ Ê và vua Sạ Đẩu của Chăm Pa ở Hà Nam, có viết: “Có lẽ hiếm nơi đâu lại có chuyện lạ lùng là người dân dám xây mộ, xây đền thờ “vợ giặc” như ở Hà Nam”. Theo tôi, không chỉ có người Hà Nam xây mộ, xây đền thờ “vợ giặc” và “giặc” - những kẻ đã từng mang quân xâm lược, gây bao chết chóc, đau thương cho người Việt Nam, mà trong tín ngưỡng của người Việt ở nhiều nơi khác cũng có hiện tượng này. Ngoài thờ cúng những người có công giúp dân giúp nước, người Việt còn thờ cả các vị thần mà họ cho là “thần ác”, cả các tướng giặc bị chết trận như: ở Hà Nội, có ngôi miếu thờ Sầm Nghi Đống - tên tướng bại trận khi xâm lược Việt Nam, để cho nữ sĩ Hồ Xuân Hương có bài thơ, trong đó có câu nổi tiếng “Ví đây đổi phận làm trai được”. Các viên tướng Tầu, như: Mã Viện, Liễu Thăng… lại được chính người Việt thờ. Triệu Đà trở thành Thành hoàng làng Đồng Xâm, tỉnh Thái Bình…

Trước hết cần khẳng định, nhân dân ta có chủ ý và phân biệt việc thờ phụng trên. Một là, người Việt thờ các tướng giặc đã có nhiều tội ác với nhân dân ta, là chỉ vì lý do tín ngưỡng. Thờ hắn, “để hắn quản số ma lính của hắn chết trận, hay quấy nhiễu”. Hai là, lý do nhân đạo. Người Việt thờ cúng các tên tướng giặc Tầu như vậy không phải bởi vì ân vì nghĩa, không phải bởi chữ Lễ mà, bởi người Việt quan niệm, những tướng giặc kia cũng là con người, bị chết nơi đất khách, không ai cúng cấp, sẽ bị đói. Vì vậy, với bản tính “thương người như thể thương thân”, người Việt cúng cấp cho chúng khỏi đói. Và cũng là để phòng nếu không cúng cấp/tức cho chúng ăn, để chúng trở thành ma đói sẽ phá phách, ảnh hưởng đến cuộc sống của mình và cộng đồng.

Trong quá trình diễn ra các “kịch bản” trên, văn hóa Chăm Pa, cũng như bất cứ văn hóa nào đến Việt Nam cùng thời hoặc

Page 194: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

264

sau đó, thì người Việt Nam cũng biết phân biệt; tiếp thu những tinh hoa của nó để nâng tầm văn hóa dân tộc ta lên; đồng thời thải loại những gì phản tiến bộ, không lành mạnh trái với đạo lý Việt Nam. Chính vì vậy, văn hóa Việt Nam có sức mạnh to lớn và sức mạnh ấy xây đắp nên tinh thần làm chủ của dân tộc ta.

2. Về chủ thể đầu tiên thờ phụng bà Mỵ Ê và vua Sạ Đẩu - những người Chăm Pa trên đất Hà Nam

Với hai “kịch bản” giải thích về sự hiện diện di sản văn hóa Chăm Pa trên đất Đại Việt/Hà Nam trên, vậy việc thờ phụng bà Mỵ Ê và vua Sạ Đẩu - những người Chăm Pa trên đất Hà Nam diễn ra theo “kịch bản” nào?

Theo tôi, việc này diễn ra theo “kịch bản” thứ hai. Nghĩa là, từ thời Lý, có một bộ phận tù binh Chăm Pa đã được bố trí sinh sống ở vùng đất nay thuộc một số xã nằm ở phía Nam huyện Lý Nhân. Số người Chăm này được gọi bằng cái tên “người Man” (Đây là cách gọi ảnh hưởng thư tịch cổ Trung Hoa thời Hán gọi chung dân bản địa cả vùng Giao Châu là tộc người Việt phương Nam hoặc người Man - là người ở phía Nam đất nước; là loại người man di mọi rợ). Bộ phận “người Man” này không được ở trong đê (sông Hồng) - nơi người Việt đã lập làng, sinh sống ổn định từ lâu, mà phải ở ngoài đê, khai phá vùng đất bãi bồi sông Hồng dọc dài theo chân đê này. Bằng chứng là, sách Địa chí Hà Nam, căn cứ vào các nguồn sử liệu (như: Quốc sử quán triều Nguyễn là Khâm định Việt sử thông giám cương mục), đã viết: “Năm Tân Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22, vua Lê Hiển Tông (1761), triều Lê - Trịnh, lệnh cho lấy đất bãi của xã Nễ Độ, huyện Nam Xang (nay thuộc huyện Lý Nhân) và xã Yên Lệnh (nay thuộc huyện Duy Tiên) ở Sơn Nam Thượng lộ, trích cấp cho người Man cày cấy, đặt làm Sở Tuy Viễn” (100).

Một bằng chứng nữa là tên địa danh “Trục Mãn” đã từng tồn tại là đơn vị hành chính của huyện Lý Nhân. Theo Địa chí Hà Nam: vào đầu thế kỷ XIX, huyện Nam Xang nằm trong phủ

(100). Địa chí Hà Nam - Nxb KHXH, H, 2005, tr 246

Page 195: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

265

Lý Nhân, trấn Sơn Nam Thượng, bao gồm 10 tổng, 80 xã, thôn, phường, trang, trại, sở. Tổng Đồng Thủy có 13 xã: Đồng Thủy, Thọ Mai, Lam Cầu, Lỵ Nhân, Phú Cốc, Đà Xuyên, Cao Đà, Bảo Đà, Trà Thục, Do Đạo, trang Bảo Đà, sở Trục Mãn, trại Bảo Đà. Tôi chú ý tới tên “sở Trục Mãn”. Sau nhiều lần tách ra, nhập vào và thay đổi tên gọi, hiện nay khu vựcthuộc “sở Trục Mãn” nằm trong địa phận xã Phú Phúc, với tên gọi là Xóm 8/Phúc Mãn (101).

Trong một lần điền dã, tôi đã gặp ông Đỗ Văn Thiều (sinh năm 1943) người làng Phúc Mãn cũ, tên cổ là Chục Mãn (không phải là Trục Mãn), nay là Xóm 8, xã Phú Phúc, nguyên cán bộ điện lực về hưu, hiện đang trông coi mộ bà Mỵ Ê. Ông kể rằng, lăng mộ Bà Mỵ Ê xuất hiện từ năm 1044. Khi phu nhân Mỵ Ê bị bắt làm tù binh đưa ra Bắc, Bà có 10 người hầu, 3 nữ, 7 nam giới. Khi Bà trẫm mình ở khúc sông Tuần Vường, cách mộ hiện nay khoảng 7km, nhưng lạ kỳ, xác bà lại trôi ngược về khu vực mộ hiện nay. Khi vua Lý cho người đi tìm, không có xác, vì bị mối đùn, chỉ để lòi ra một dải yếm. 10 người hầu của Bà được vua Lý cho lên bờ trông coi ngôi mộ bà Mỵ Ê. Họ lập làng ở đây, đầu tiên lấy tên là làng Chục Mãn, lấy chung một họ là họ Đỗ, với nghĩa là đỗ lại/dừng chân lại đây. Rồi 3 người phụ nữ Chăm đi lấy chồng đâu, không rõ. Còn 7 người đàn ông người Chăm còn lại lập làng Chục Mãn. Nhưng rồi, chỉ có 4 người ở lại làng Chục Mãn, còn 3 người dần dần bỏ làng đi lập nghiệp nơi khác. Một người đi vào lập làng mới là làng Trung Gia, nay là đất thôn Tân Hưng, xã Nhân Mỹ. Làng này toàn người họ Đỗ. Một ông thì đi sang bên kia sông, làng Tự Tân, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, lập làng Tự Tân, và trong làng cũng toàn người họ Đỗ. Một ông xuống Đại An, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, lấy vợ, lập làng Đại An, cũng toàn người họ Đỗ.

Khi vua về thấy dải yếm, cầm giữ làm kỷ niệm. Mỗi khi cầm dải yếm, nhà vua lại nhớ về chuyện cũ, lại cho làng Chục Mãn một đám đất để làm đất tắm gội. Dấu ấn của sự việc trên là tên

(101). Địa chí Hà Nam - Nxb KHXH, H, 2005, tr 1201 - 1202

Page 196: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

266

gọi Cao Đà có Phúc Mãn trên, Phúc Mãn dưới. Khu Chuông ở Hà Đông, bãi Phúc Xá (Hà Nội) cũng là đất nhà vua cho dân làng Phúc Mãn gọi là đất tắm gội.

Hiện ở cửa ngôi đền dựng trên khu đất tương truyền là mộ Bà Mỵ Ê, có đôi câu đối:

Phách tại Châu Giang hoài Phật ThệHồn lưu Phúc Mãn vọng Chiêm bang.Trên đất Lý Nhân còn có một địa danh nữa là “Thôn Chàm”,

nay là 2 xóm Lam Cầu 1 và Lam Cầu 2, thuộc xã Nhân Thịnh. Theo tôi, tên Thôn Chàm, là cách gọi kiểu duy danh quen thuộc của người Việt, nghĩa là thôn toàn người Chàm / Chăm sinh sống. Dân thôn này thờ Mỵ Ê. Ngài được 37 sắc phong của nhiều triều đại, sắc phong sớm nhất là của vua Lý Thái Tông năm thứ 3 (1044) phong là “Hựu thiện hiệp chính phu nhân Thượng đẳng tối linh thần”, trùng với thời điểm bà Mỵ Ê tuẫn tiết. Theo đó, tôi cho rằng, khởi thủy, bà Mỵ Ê và vua Sạ Đẩu được thờ chính tại Thôn Chàm này, do chính những người Chăm/Chàm - mà dân địa phương gọi là “người Man” sinh sống ở đây thờ phụng vị Hoàng hậu và vua của mình.

Một lý do nữa để khẳng định việc thờ Bà Mỵ Ê ở Hà Nam do chính người Chàm - những tù binh của Đại Việt bắt về, thờ phụng, đó là các tục hèm, kiêng cữ trong thờ Mỵ Ê và Vua Chiêm Thành Sạ Đẩu. Ví như, ở thôn Lê, xã Liêm Sơn, dân thôn thờ Minh Châu Oánh Ngọc Đại vương hiển ứng chi thần (húy là Sạ Đẩu), Hiệp chính hựu thiện phu nhân (húy là Mỵ Ê), dân thôn khi đọc và nói phải kiêng chữ “Đẩu” và chữ “Ê”. Ai vi phạm lệ thôn qui định phải sửa trầu, rượu tạ thần. (102) Những kiêng cữ này nói lên một điều là chỉ có thể là những người Chàm mới tôn kính hai vị thần của mình như vậy. Và, luật lệ này do chính họ đề ra trong những đồng bào của họ cùng sinh sống trong ngôi làng trên đất Bắc. Với tâm lý của những kẻ chiến thắng, người Việt không phải kiêng dè, kính nể tên của vị thần bại trận kia đến như vậy.

(102). Thần tích, thần sắc Hà Nam - Nxb KHXH, H. 2004, tr 886 - 888

Page 197: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

267

Do quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa làng người Chăm Pa và làng người Việt bản địa ở Lý Nhân, dần dà, người Việt đã tôn phong và thờ phụng bà Mỵ Ê tại làng mình, hoặc kế thừa và tiếp tục thờ phụng Bà tại chính những nơi mà người Chăm đã lập nên trên đất Hà Nam. Đây chính là người Việt đã tiếp thu cái hay, cái giá trị trong việc thờ phụng Bà Mỵ Ê của người Chăm, mà không coi là hành động thờ “vợ giặc”. Xuất phát của việc làm này chính là bắt nguồn từ sự đồng điệu trong việc đề cao, quý trọng những người phụ nữ trinh tiết của người Việt và người Chăm Pa. Từ bao đời nay, người Hà Nam vẫn đinh ninh dòng sông Châu Giang trong xanh kia là dòng sông đầy nước mắt. Nước mắt của nàng Mỵ Ê trước đêm tuẫn tiết đã chảy thành dòng, rồi nước mắt của dân chúng bao đời thương khóc cho số phận nàng, ngày càng nhiều, ngày càng đầy lên:

“Sông Châu uốn khúc mơ màngĐầy vơi nước mắt của nàng Mỵ Ê” (thơ Bắc Môn)Trinh tiết là thứ quí ngàn vàng mà phụ nữ dân tộc nào, Việt

cũng như Chăm Pa cũng đề cao, bảo vệ. Sự tôn trọng ấy không chỉ trong lớp bình dân lao động đầy lòng nhân ái, mà cả ở trong các đấng quân vương. Bà Mỵ Ê là vị nữ thần được các triều đại phong kiến Việt Nam ban tặng nhiều sắc phong nhất (37 đạo), trong đó có rất nhiều mỹ từ đẹp. Bà Mỵ Ê là một người phụ nữ dân tộc Chăm Pa thuộc vương quốc Chiêm Thành, ngoại bang của Đại Việt gần một nghìn năm trước, được kẻ thù của dân tộc mình ngợi ca, thờ phụng. Bà là một tù binh bị chính vị vua vừa hủy diệt đất nước mình, giết hại chồng mình đã khiến cho kẻ chiến thắng trên chiến trường lại bị thất bại trong việc chiếm đoạt trinh tiết của Bà, phải tôn vinh Bà vào hạng tối linh Thượng đẳng thần.

III. LỜI TẠM ĐÓNG

1. Chiến tranh là nguồn gốc của mọi nỗi đau, song cũng là nguyên nhân của giao lưu văn hóa cưỡng bức. Bất kỳ một cuộc

Page 198: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

268

chiến tranh nào cũng không chỉ gây nên chết chóc, mà còn gây nên các cuộc ly tán, làm héo hon, làm tàn lụi không biết bao nhiêu cuộc đời, để lại bao vết thương nhức nhối cho từng con người, cho bao gia đình và cho cả xã hội. Song, một cách ngoài ý muốn, chiến tranh cũng mang một bộ mặt khác, đưa đến những cuộc tiếp xúc và giao lưu văn hóa cưỡng bức. Chiến tranh đẻ ra những Anh hùng, đồng thời cũng xây nên bao tượng đài Trinh liệt. Tượng đài Trinh tiết cũng phải xây nên bằng máu và nước mắt của những người phụ nữ yếu đuối. Chính chiến tranh là nguyên nhân cái chết của nàng Mỵ Ê.

Giao lưu là một thuộc tính của văn hóa. Giao lưu văn hóa là sự vận động thường xuyên của văn hóa. Nó không chỉ là động lực phát triển của văn hóa mà còn là động lực của sự tiến hóa của xã hội. Nhưng hãy để văn hóa tiếp xúc và giao lưu tự nguyện mà không cần đến chiến tranh.

2. Vì nhiều lý do, tham luận này chỉ là những nghiên cứu bước đầu về “Mảng mầu văn hóa Chăm Pa trong văn hóa Hà Nam”. Dấu ấn văn hóa Chăm, nhất là tín ngưỡng thờ Bà Mỵ Ê và chồng là Sạ Đẩu ở miền Bắc, đặc biệt là ở Hà Nam, rất cần được quan tâm, nghiên cứu sâu. Chuyện ngôi mộ Bà Mỵ Ê ở Lý Nhân thế nào? Vấn đề trùng tu, tôn tạo những ngôi đền thờ Bà Mỵ Ê đã bị hủy hoại ở Lý Nhân ra sao? Trên miền Bắc, còn những nơi nào thờ Mỵ Ê và Sạ Đẩu? là những câu hỏi rất cần được giải đáp.

3. Xung quanh vấn đề có một bộ phận người Chăm Pa là những tù binh trong các cuộc chiến tranh cách đây cả nghìn năm, được các triều đại phong kiến thời đó bố trí sinh sống trên vùng đất thuộc huyện Lý Nhân ngày nay như chúng tôi đề cập ở trên, rất cần được nghiên cứu sâu thêm. Thực hư chuyện mấy ngôi làng mang toàn họ Đỗ - người Chàm mang họ Việt thế nào? Hậu duệ của những người Chàm trông coi mộ phần, lập làng, gây dựng cuộc sống lâu dài sau đó hòa vào cộng đồng Việt ở Lý Nhân như thế nào? Đám người Chàm này có liên quan gì đến

Page 199: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

269

Hành cung Lý Nhân của nhà Lý?… cần được nghiên cứu trên các bình diện: lịch sử, văn hóa học, dân tộc học, nông nghiệp…

4. Trên đất Lý Nhân, cách nơi thờ bà Mỵ Ê không xa, chừng 6-7km, cũng phía ngoài con đê sông Hồng, ở Vũ Điện là ngôi Miếu Vợ Chàng Trương, thờ Bà Vũ Thị Thiết. Ngẫu nhiên chăng, hay có một lý do nào đó lại lắng đọng 2 câu chuyện về 2 người phụ nữ, một bản địa, một ngoại quốc cùng lấy cái chết để giữ trọn Trinh tiết, đều được ca ngợi là những Tiết phụ, được phong là Thượng đẳng phúc thần.

Sinh thời, GS Sử học - Văn hóa học tài danh Trần Quốc Vượng, một người con của Đọi Sơn, đã viết: “ Nếu có ai hỏi tôi về một nét bản sắc khác của tiểu vùng văn hóa Hà Nam là gì, chắc chắn tôi sẽ dẫn ra đền nàng Mỵ Ê ở Lý Nhân; cái nhân cách của người cung phi xứ Chăm Pa đó đã được nâng lên thành nhân cách cao cả trong sạch của phụ nữ nói chung và được “thiêng hóa” khi dân gian Hà Nam lập đền thờ và cho đến nay vẫn phụng thờ. Nhân cách phụ nữ lại một lần được bi kịch hóa một lần nữa trong câu chuyện Vợ chàng Trương hàm ẩn một triết lý dân gian tuyệt vời “Là bóng hay là hình” - người đàn bà Việt đã tự phân đôi mình thành cặp vợ chồng quấn quýt nhau như hình với bóng, trong khi đó ở tầng dưới câu chuyện là cái dại khờ ghen tuông vớ vẩn gây chết người của người đàn ông Việt Nam...Mà đó rốt cùng là văn hóa dân gian vô thể , được hữu thể hóa bằng ngôi miếu Vợ chàng Trương hiện vẫn còn được giữ gìn và tôn tạo bên bờ sông Hồng ở huyện Lý Nhân - không xa đền Mỵ Ê. Hai ngôi đền này xuất lộ bản sắc, tâm thức Sơn Nam - Hà Nam tôn vinh người phụ nữ - nguồn nữ tính vô hạn. Đấy cũng là nét phản ánh nguyên lý nữ - nguyên lý Mẹ của nền văn hóa Việt Nam”.

Xin quí vị cùng đi tìm thêm lời giải nữa cho vấn đề này.

Page 200: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

270

KHOA BẢNG HÀ NAM THỜI PHONG KIẾN

MAI KHÁNH*

Dưới các thời đại phong kiến Việt Nam, khoa cử đã góp phần thể hiện chính sách tuyển chọn và sử dụng nhân tài. Tính từ thời vua Lý Nhân Tông khoa thi đầu tiên được tổ chức vào năm Ất Mão (1075), đến khoa thi cuối cùng vào năm Kỷ Mùi (1919) là 844 năm chỉ riêng thi Hội, thi Đình, nhà nước phong kiến đã mở được 185 khoa thi, lấy đỗ 2.898 vị Đại khoa, tức các nhà khoa bảng. Thực ra nghĩa đầy đủ của khái niệm khoa bảng còn phải kể đến các sĩ tử đỗ trúng cách các kỳ thi Hương. Tựu trung lại, các nhà khoa bảng chia hai cấp từ thấp đến cao là: Hương cống (thời Nguyễn đổi gọi là Cử nhân) đỗ ở các kỳ thi Hương (Khu vực) hay còn gọi là đỗ Trung khoa; Tiến sĩ (thời Nguyễn lấy thêm Phó bảng) đỗ ở các kỳ thi Hội, thi Đình, tức là Đại khoa (toàn quốc).

Khoa cử Nho học và các nhà khoa bảng Hà Nam có đóng góp xứng đáng cho lịch sử, văn hóa dân tộc. Song, việc nghiên cứu mới đạt được những kết quả bước đầu. Đây là vấn đề lớn, phức tạp, lại bị hạn chế, khó khăn của ngồn tư liệu, nên chúng tôi mới dừng lại ở bình diện khái quát, nhất là cố giắng bổ sung những nguồn tư liệu còn ít được quan tâm một cách đầy đủ, đúng mức.

1. Điểm qua tình hình nghiên cứuCác nhà nghiên cứu trước đây đã khai thác nguồn tư liệu

* Nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử, Bảo tàng Hà Nam.

Page 201: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

271

Hán - Nôm, như các sách Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (khuyết danh, biên soạn năm 1799), Quốc triều khoa bảng lục của Cao Xuân Dục, biên soạn giữa thế kỷ XX, các cuốn Đăng khoa lục địa phương (tỉnh, huyện)…để tập hợp, giới thiệu các nhà khoa bảng Việt Nam dưới chế độ phong kiến, trong đó có nhà khoa bảng người Hà Nam, song mới tập trung vào các vị Đại khoa.

Cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) giới thiệu 48 nhà khoa bảng Hà Nam cùng với các nhà khoa bảng cả nước là công trình đầu tiên về các nhà khoa bảng. Cuốn Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam tiến thêm một bước trong việc nghiên cứu, như tên sách đã thể hiện.

Kể từ khi tỉnh Hà Nam được tái lập, công tác nghiên cứu lịch sử, văn hóa Hà Nam được đẩy mạnh. Riêng về các nhà khoa bảng được giới thiệu tóm lược trong một số cuốn sách như Nhân vật lịch sử, văn hóa Hà Nam, Địa chí Hà Nam như là một trong những nội dung của sách. Đáng chú ý là có các cuốn sách tập trung vào một nhà khoa bảng hay thơ văn của các vị Nho sĩ. Tuy nhiên nhìn tổng thể bức tranh khoa bảng Hà Nam chưa toàn diện, việc nghiên cứu còn thiếu tính hệ thống.

Theo chúng tôi, nghiên cứu về khoa bảng Hà Nam trong thời phong kiến ngoài việc triệt để khai thác, xử lý khoa học nguồn tư liệu thư tịch cũ, còn phải hết sức chú ý đến tư liệu văn bia, thần phả, gia phả. Một mặt, tăng cường khâu xử lý, đính chính, xác minh những sai sót hay chưa chính xác của nguồn tư liệu cũ; Mặt khác mạnh dạn bổ sung những nhà khoa bảng, nhất là Hương cống, cử nhân không có trong cuốn sách đã xuất bản, từ những tư liệu phát hiện mới.

2. Phác họa toàn cảnh về các nhà khoa bảng Hà Nam thời phong kiến

Khoa bảng, như ở trên đã nói đến, hiểu theo nghĩa đầy đủ bao gồm cả ngạch văn khoa và võ khoa, ở hai cấp đỗ Trung khoa (thi Hương) và đỗ Đại khoa (thi Hội, thi Đình).

Page 202: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

272

Theo nghiên cứu, thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi về ngạch văn khoa đã có 94 người Hà Nam đỗ Đại khoa (con số được công bố trước đó là 55 người hoặc 53 người). Chia theo thời kỳ lịch sử: Thời Lý 6 người, thời Trần 13 người, thời Hậu Lê 41 người, thời Mạc 7 người, thời Nguyễn 17 người, chưa rõ vào thời nào 10 người. Chia theo địa phương: huyện Bình Lục có số người đỗ đạt nhiều nhất (31 người) tiếp đến là Duy Tiên (22 người), thành phố Phủ Lý (16 người). Người đỗ đạt sớm nhất là hai anh em Đinh Độ, Đinh Thọ đỗ khoa Minh kinh năm Ất Mão (1075) - khoa thi đầu tiên, đời vua Lý Nhân Tông; được thờ làm thành hoàng ở đình thôn Phương Lâm (Đồng Hóa, Kim Bảng). Người đỗ cuối cùng là Bùi Kỷ, quê xã Châu Cầu (nay là phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý) đỗ Phó bảng khoa thi năm Canh Tuất (1919) đời vua Duy Tân. Về dòng họ, gia đình, làng xã liên quan đến Đại khoa thi ở Hà Nam tộc họ có người đỗ đạt đứng đầu là họ Nguyễn (18 người), Trần (14 người), Bùi (11 người) rồi đến các họ Vũ, Phạm, Đào, Dương, Đinh, Chu, Hoàng, Lê, Trương, Đàm…Dòng họ nổi tiếng nối tiếp thế hệ đỗ Đại khoa là họ Bùi ở Châu Cầu, họ Nguyễn ở Vị Hạ (Trung Lương, Bình Lục).

Nghiên cứu về Hương cống, Cử nhân văn khoa là công việc phức tạp vì số lượng lớn, việc ghi chép trong lịch sử không thường xuyên. Vì vậy bước đầu chúng tôi mới sưu tầm được tư liệu về 52 Cử nhân thời Nguyễn quê quán ở 6 huyện, thành phố trong tỉnh.

Võ khoa còn ít được nghiên cứu. Nếu như khoa thi Đại khoa ngạch văn ban được tổ chức từ rất sớm (1075) thì võ khoa mãi tới năm 1724 mới có khoa thi đầu tiên. Võ khoa cũng chia ra thi Hương gọi là “Sở cử” và thi Hội, gọi là “Bác cử”. Đỗ “Sở cử” gọi là Tạo toát, đỗ “Bác cử” gọi là Tạo sĩ (tương đương Hương cống, Cử nhân, Tiến sĩ bên văn khoa). Đến nay chúng tôi mới sưu tầm được họ tên một số vị người Hà Nam đỗ Tạo sĩ, Tạo toát. Tạo sĩ có Phạm Công Giáp quê làng Thượng, Lăng Điền, đỗ năm 1773; Nguyễn Danh Chiêm, quê Phú Hoa, Tiên Phong đỗ năm 1776;

Page 203: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

273

Trần Ngọc Cấp quê Phù Tài (An Đổ, Bình Lục) đỗ năm 1724 (khoa thi đầu tiên). Tạo toát có Đinh Đình Kính (lãnh binh Hà Nam) và Nguyễn Văn Thúy, quê Cổ Liêu, đỗ năm 1878.

Nhiều khoa thi, như vào các năm 1075, 1429, 1453, 1469, 1505, 1512, 1529, 1577, 1736, 1769, 1862, Hà Nam có hai người đỗ Đại khoa. Đặc biệt kỳ thi Đình năm 1511 đời vua Lê Tương Dực có 3 vị đỗ Tiến sĩ là Tạ Đình Huy (Yên Nam, Duy Tiên), Nguyễn Mạo (Kim Bình, Kim Bảng), Trần Bích Hoành (Yên Bắc, Duy Tiên).

Trong lịch sử khoa cử thời phong kiến, trong số 94 vị đỗ Đại khoa người Hà Nam, nổi bật về thứ hạng đỗ đạt có Nguyễn Quốc Hiệu, Nguyễn Khuyến và các nhà khoa bảng đạt danh hiệu Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp).

Nguyễn Quốc Hiệu (1696-?), quê thôn Phú Thứ, xã Tiên Hiệp, huyện Duy Tiên ngày nay. Năm 41 tuổi ông đỗ Thám hoa kỳ thi Đình, năm Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời vua Lê Ý Tông. Trước đó sau khi đỗ Hương công ở kỳ thi Hương, trường Sơn Nam ông được chọn vào học ở Quốc Tử Giám làm giám sinh. Trong kỳ thi Đình trên, đáng chú ý trong bậc Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ không lấy đầy đủ Tam khôi, chỉ lấy Trịnh Tuệ - Trạng nguyên và Nguyễn Quốc Hiệu - Thám hoa, khuyết bảng nhãn. Ông được bổ nhiệm giữ chức Thị hình Hiến sát sứ trấn Sơn Tây, Hàn lâm thị tước Đông các hiệu thư, tước Ôn Thụ Hầu. Khi mất ông được truy tặng Đặc tiến kim tử vinh lộc Đại phu, Ngự sử đài kiêm Đô ngự sử, tước Thị phái hầu, hiệu Trúc Hiên Tiên sinh.

Nguyễn Khuyến (1835-1909) quê thôn Vị Hạ, xã Trung Lương, Bình Lục. Ông được vinh danh là Tam Nguyên Yên Đổ. Sở dĩ có điều đó là vì Nguyễn Khuyến trước đã đỗ đầu kỳ thi Hương, gọi là giải nguyên hay Hương nguyên, lại đỗ đầu kỳ thi Hội, niên hiệu Tự Đức 24 (1871); thôn Vị Hạ thời ấy là xã Vị Hạ thuộc tổng Yên Đổ nên mới tôn danh trên. Ông là một trong những Tam nguyên không nhiều trong lịch sử khoa cử Nho

Page 204: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

274

học Việt Nam, là người duy nhất ở Hà Nam đạt danh hiệu đó. Thân thế, sự nghiệp, đặc biệt là thơ văn của ông đã được nghiên cứu nhiều. Nhà thơ Xuân Diệu ca ngợi và xác quyết: Nguyễn Khuyến là Nhà thơ của làng - cảnh Việt Nam.

Đạt danh hiệu Hoàng giáp, tức bậc thứ hai, gọi là Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Hà Nam có 7 vị: Bùi Viết Lương, quê thị trấn Vĩnh Trụ (Lý Nhân) đỗ năm 1466; Đoàn Đỗ Minh Thái, quê thôn Đống Cầu (Liêm Túc, Thanh Liêm) đỗ năm 1471; Trần Thế Vinh quê xã Bồ Đề (Bình Lục) đỗ năm 1475; Lê Tung, quê thôn Chảy (Liêm Thuận, Thanh Liêm) đỗ năm 1484; Trần Thì Vũ, quê thôn Phú Thứ (Tiên Hiệp, Duy Tiên) đỗ năm 1505; Trần Tông Lỗ, quê xã Tượng Lĩnh (Kim Bảng) đỗ năm 1505; Bạch Đông Ôn người phường Quang Trung (Thành phố Phủ Lý) đỗ năm 1835.

3. Đóng góp của các nhà khoa bảng Hà Nam trong khoa cử, đào tạo nhân tài thời phong kiến.

Thi Hội, thi Đình là cấp cao nhất của nền khoa cử Nho học thời phong kiến. Thi Hội nhằm lấy đỗ Tiến sĩ. Thi Đình để phân thứ bậc cao thấp của các Tiến sĩ. Việc tuyển chọn hết sức nghiêm ngặt. Người được chọn chấm thi phải là người thực sự có tài, có đức. Một số nhà khoa bảng người Hà Nam đã được triều đình tín nhiệm bổ nhiệm chức quan chấm thi. Đầu tiên là Trần Thuấn Du quê xã Đọi Sơn (Duy Tiên) được giao chấm các quyển thi hai khoa thi Đình vào năm 1442 đời vua Lê Thái Tông và khoa thi năm 1448 đời vua Lê Nhân Tông.

Lê Tung, quê thôn Chảy (Liêm Thuận, Thanh Liêm) làm quan Độc quyển, chấm thi khoa thi năm 1516 đời vua Lê Tương Dực.

Đặc biệt, Trương Công Giai, quê xã Thanh Tâm (Thanh Liêm) được cử giữ chức tri công cử, tức làm phó chủ khảo 4 kỳ thi Hội liên tiếp vào các năm 1718, 1721, 1724, 1727 đời vua Lê Dụ Tông.

Trong lịch sử nền giáo dục và khoa cử Nho học, Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long (Hà Nội) suốt trong thời đại Lý - Trần - Hậu Lê - Đầu triều Mạc và Văn Miếu - Quốc Tử

Page 205: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

275

Giám Huế (thành phố Huế) triều Nguyễn đã giữ vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu. Thiết chế ghép này mang hai chức năng ở tầm quốc gia: Đền thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, nhưng nổi bật là ở vai trò trường Quốc học đào tạo nhân tài cho đất nước. Quốc Tử Giám có thể coi là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Người phụ trách Quốc Tử Giám, đồng thời kiêm chủ tế ở Văn Miếu được triều đình chọn lọc rất kỹ, phải là các vị danh nho, đại thần, tài cao, đức trọng giỏi về thi thư Nho học và quản lý, thực hành công việc giảng dậy, học tập. Chức vụ cao nhất quản lý toàn diện Văn Miếu - Quốc Tử Giám thời Hậu Lê và Nguyễn là Tế tửu, cấp phó là chức Tư nghiệp giúp việc Tể tửu cùng các chức quan phụ khác. Chức Tế tửu (có thể coi như chức hiệu trưởng trường Đại học ngày nay) được triều đình hậu đãi, về phẩm trật ngang với chức Đông các Đại học sĩ, Thông chính sứ, Tham chính. Chế độ được ban thưởng “Tòng Tứ phẩm” lương 44 quan tiền một năm, ruộng do vua cấp 15 mẫu và ruộng tế 10 mẫu.

Hà Nam có 5 vị Tế tửu Văn Miếu - Quốc Tử Giám, tất nhiên khi được bổ nhậm chức vụ quan trọng này các vị đều đã đỗ Đại khoa.

Hiện nay qua các nguồn tư liệu, chúng ta đã được biết vị Tế tửu đầu tiên của Văn Miếu- Quốc Tử Giám Thăng Long (Hà Nội) thời Hậu Lê là Dương Bang Bản, quê thôn Chảy (Liêm Thuận, Thanh Liêm) vì có công lớn nên được ban Quốc tính đổi cả họ tên thành Lê Tung. Năm 33 tuổi ông đỗ Hoàng giáp (Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân) vào khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) dưới triều vua Lê Thánh Tông.

Các Tế tửu tiếp theo là Nguyễn Mạo quê xã Kim Bình (Kim Bảng) đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận 3 (1511) đời vua Lê Tương Dực. Trương Công Giai quê xã Thanh Tâm (Thanh Liêm) đỗ Tiến sĩ khi mới 21 tuổi khoa thi năm Ất Sửu, niên hiệu Chính Hòa 6 (1685)

Page 206: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

276

đời vua Lê Huy Tông. Vị Tế tửu cuối cùng người Hà Nam của Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long (Hà Nội) là Nguyễn Kỳ, người thôn An Lão (An Lão, Bình Lục). Ông mồ côi cha từ nhỏ, nhà rất nghèo, nhưng ông vẫn học giỏi, năm 31 tuổi đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 9 (1748) dưới triều vua Lê Hiền Tông.

Giữ chức Tế tửu Văn Miếu - Quốc Tử Giám Huế thời Nguyễn, Hà Nam chỉ có một người duy nhất. Đó là Vũ Văn Lý, quê thị trấn Vĩnh Trụ (Lý Nhân). Ông đỗ Đệ Tam giáp Tiến sĩ khoa Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị năm thứ nhất (1841) khi ông 33 tuổi. Vũ Văn Lý là thầy dạy của Nguyễn Khuyến và Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi (Ý Yên, Nam Định).

Rất nhiều vấn đề về các nhà khoa bảng Hà Nam nói riêng và giáo dục, khoa cử Hà Nam thời phong kiến nói chung cần được tiếp tục nghiên cứu rộng hơn, sâu hơn. Tầm cỡ một đề tài khoa học cấp tỉnh là điều cần đặt ra và khẩn trương xúc tiến thực hiện. Tham luận này mới là những phác họa bước đầu.

Page 207: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

277

VỀ DI SẢN HÁN - NÔM HÀ NAM

LÊ QUỐC VIỆT *

Hà Nam là một tỉnh nằm giữa ba Kinh đô lớn dưới các triều đại phong kiến Việt Nam. Phía Bắc là Kinh đô Thăng Long (Hà Nội). Phía Nam là Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) triều Đinh, tiền Lê; phía Đông có phủ Thiên Trường (Nam Định), là Kinh đô thứ hai của nhà Trần. Trung tâm tỉnh lại có trường thi Hán học của Trấn Sơn Nam xưa. Nhân dân Hà Nam cần cù lao động, có truyền thống hiếu học sản sinh ra nhiều nhà khoa bảng có danh tiếng. Điều kiện địa lý, tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội nêu trên đã tạo nên một kho tàng di sản Hán - Nôm hết sức phong phú và đa dạng trên đất Hà Nam.

Di sản Hán - Nôm Hà Nam được lưu giữ ở nhiều nơi từ Trung ương đến địa phương. Ở trung ương tập chung ở các Viện, Cục như: Viện nghiên cứu Hán - Nôm, kho sách lưu giữ của Viện Viễn Đông Bác Cổ; Viện Thông tin khoa học xã hội, Viện Sử học; Viện văn học, Cục lưu trữ Quốc gia. Ở tỉnh, được lưu giữ ở Bảo tàng tỉnh, ở các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng như: Đình, chùa, phủ, đền, miếu, điện, lăng, quán, tháp mộ, nhà thờ dòng họ, trong nhà dân, trong tủ sách của một số nhà nghiên cứu, sưu tầm trong, ngoài tỉnh, của con cháu các nhà khoa bảng, các thầy đồ, thầy thuốc...

* Nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử.

Page 208: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

278

1. Những kết quả sưu tầm, thác bản tư liệu Hán - Nôm1.1.Viện nghiên cứu Hán -Nôm đã tiến hành khảo sát, thác

bản, khảo tả in ấn, sao chụp các tư lệu chữ Hán- Nôm trên bia đá, chuông đồng, hoành phi, câu đối, đại tự, ở các di tích trên địa bàn 6 huyện, thành phố của tỉnh.

1.2. Bảo tàng tỉnh Hà Nam đã hoàn thành việc tổng kiểm kê, thống kê di tích trên toàn tỉnh, với hơn 1800 di tích, trong đó có thống kê số lượng, phân loại các tư liệu Hán - Nôm với số lượng hàng trăn thần, ngọc phả, sự tích, sắc phong, bia đá, khánh đá, chuông đồng, hàng ngàn câu đối, đại tự, hoành phi và nhiều tư liệu Hán - Nôm hiện còn lưu giữ ở các di tích qua các thời Hậu Lê - Mạc, Lê Trung Hưng, Tây Sơn - Nguyễn. Đã thác bản phiên âm, dịch nghĩa, giới thiệu một số văn bản tiêu biểu.

Hai cứ liệu quý: Ngô gia thị bi (bia nhà họ Ngô) ở chùa Giầu xã Đinh Xá, huyện Bình Lục (nay thuộc thành phố Phủ Lý); Quyển sách đồng thời Hậu Lê, thôn Văn An xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân, đã được phục chế và trưng bày tại Bảo tàng tỉnh.

1.3. Trong quá trình lập hồ sơ xếp hạng di tích cấp Quốc gia và cấp tỉnh, đã sao chụp, ghi chép, phiên âm, dịch nghĩa, chú thích đầy đủ các thành phần của tư liệu Hán - Nôm ở di tích như: chữ viết khắc trên cây nóc, câu đầu, bài vị, câu đối, hoành phi, cuốn thư, đại tự, văn bia, văn chuông, sắc phong, địa bạ, thần phả, ngọc phả, sự tích hiện lưu giữ tại di tích và các cơ quan chuyên môn.

2. Công bố, xuất bản di sản Hán - NômThực tế cho thấy việc công bố xuất bản di sản Hán - Nôm

Hà Nam từ trước cho đến nay đã đạt được một số kết quả (nhất là sau khi tách tỉnh), song cũng có thể khẳng định chưa được đầy đủ và toàn diện. Có một số công trình nghiên cứu đã được công bố xuất bản, song cũng chỉ được một mảng nào đó về giá trị lịch sử văn hóa mà di sản Hán - Nôm hàm chứa. Thí dụ:

2.1. Danh sỹ Hà Nam - Thi tuyển (Sở Văn hóa Thông tin Hà Nam - xuất bản năm 1999), giới thiệu các bài thơ chữ Hán của

Page 209: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

279

một số nhà khoa bảng Hà Nam. (Song có những bài với độ tin cậy chưa cao đối với tác giả sưu tầm biên soạn?).

2.2. Có một số bài viết giới thiệu giá trị nội dung, hình thức của một số di vật hàm chứa tư liệu Hán - Nôm như khánh đá, khánh đồng, chuông đồng, cây hương đá, hương án đá, bia đá...

2.3. Tuyển tập Bia Văn từ - Văn chỉ Hà Nam (Nhà xuất bản thế giới năm 2006).

Hà Nam là mảnh đất văn hiến, cống hiến cho quê hương đất nước nhiều bậc hiền tài có tên tuổi. Qua khảo sát, sưu tầm, dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, Hà Nam có nhiều Văn từ, Văn chỉ ở hầu hết các thôn, xã, tổng, huyện. Trải qua thời gian, do chiến tranh tàn phá, thiên tai khắc nghiệt (thậm chí do sự hiểu biết và quan niệm của cả con người), tiếc rằng những cơ sở văn hóa Nho giáo này không còn mấy, hầu hết đã bị hủy hoại, phá bỏ hoặc chỉ còn nền móng. Di vật còn lại là số lượng bia đá, ngai, bài vị thờ, không nhiều được thu gom, di dời về đình, đền, miếu, phủ, hoặc còn vùi lấp trong đất, để ngoài trời không được bảo quản...

Ở Hà Nam chưa có công trình biên soạn và xuất bản các tuyển tập văn bia nói chung và bia văn từ văn chỉ nói riêng. Việc làm này hết sức cần thiết. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu sưu tầm, khảo sát điền dã, được sự giúp đỡ của cơ quan, chính quyền, nhân dân địa phương, bạn bè đồng nghiệp, năm 2006, tôi đã mạnh dạn biên soạn, giới thiệu xuất bản Tuyển tập Bia Văn từ, Văn chỉ Hà Nam với 21 Văn bia, trong đó có giới thiệu nguồn gốc xuất xứ, hiện trạng văn bia qua khảo tả về chất liệu, kích thước, nghệ thuật chạm khắc, trang trí, tóm tắt nội dung phản ánh kèm theo bản dập (thác bản) ảnh chụp, nơi lưu giữ, nguyên văn chữ Hán - Nôm, phiên âm Hán - Việt, dịch nghĩa và chú thích. Phần chú thích và phụ lục nhằm cung cấp thêm nguồn tư liệu tham khảo, trên cơ sở các tư liệu, cứ liệu đã có và quá trình nghiên cứu sưu tầm.

Tuyển tập Bia Văn từ Văn chỉ Hà Nam cung cấp nhiều thông tin để đối chiếu so sánh về họ tên, năm đỗ, học vị, chức vụ quê quán để chỉnh lý và bổ sung thêm các vị khoa bảng bị lãng

Page 210: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

280

quên, bỏ xót vì một lý do nào đó trong bối cảnh lịch sử đương thời. Có nhà khoa bảng (chủ yếu là Đại khoa) không được ghi tên trong các tư liệu chính sử (Bia Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, Bia Quốc học Huế, Đăng khoa lục...), cần phải được tìm hiểu sáng tỏ, họ là tiến sỹ dân gian hay có thật?. Đội ngũ các nhà khoa bảng trong nền thi cử Hán học hết sức đông đảo, cùng với các tư liệu khác như thần phả, sắc phong, hương ước...Bia Văn từ, Văn chỉ góp phần nghiên cứu bổ sung và giới thiệu các vị đỗ Trung khoa (Hương cống, Cử nhân) và Tiểu khoa (Tú tài, sinh đồ), nhằm tôn vinh toàn diện, đầy đủ truyền thống hiếu học của từng gia đình, dòng họ từng địa phương.

Chỉ tính riêng cụm bia Văn từ huyện Duy Tiên, là Văn từ cấp huyện lần đầu tiên được phát hiện ở Hà Nam năm 2002, đã cung cấp thêm khoảng 28 vị Tiến sỹ, 19 vị Giám sinh (được xét vào học trường Quốc Tử Giám Hà Nội), 77 vị Cử nhân, Hương cống, hơn 80 vị đỗ Tú tài, Sinh đồ của huyện Duy Tiên, góp phần tìm hiểu nền khoa cử rực rỡ của huyện Duy Tiên nói riêng và tỉnh Hà Nam nói chung.

3. Đánh giá về kho tàng Di sản Hán - Nôm Hà Nam3.1. Di sản Hán - Nôm Hà Nam tồn tại đa dạng phong phú

về loại hình và chất liệu. Với nhiều thể loại khác nhau như thần phả (ngọc phả, thần tích, sự tích), gia phả, di chúc, văn bia, văn chuông, văn khánh, sắc phong, đại tự, hoành phi, cuốn thư, câu đối, bài vị...các bản hương ước, điều lệ, khế ước, địa bạ, ván in kinh điển về Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, các tác phẩm văn, thơ, phú, trạng, sớ biểu, sách thuốc gia truyền...

Các tư liệu này được viết, khắc, in, vẽ...trên nhiều chất liệu khác nhau như: giấy, vải, đá, đồng, gỗ, thẻ tre (trúc), gốm, sứ...

3.2. Nhiều tư liệu Hán - Nôm ở Hà Nam có giá trị lớn đóng góp cho việc nghiên cứu về sự kiện, nhân vật lịch sử văn hóa của cả nước nói chung và Hà Nam nói riêng.

3.3. Một số tư liệu Hán - Nôm có giá trị đặc biệt nổi bật trong kho tàng Di sản Hán Nôm Hà Nam.

Page 211: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

281

3.3.(1) Địa Việt Quốc lý gia Đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi. (Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh của vua thứ tư nhà Lý nước Đại Việt).

Bia dựng ở chùa Long Đọi Sơn xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia. Đây là bia của triều đình do đích thân vua Lý Nhân Tông chỉ đạo tạo tác. Bia có kích thước lớn so với các bia thời Lý khác. Chữ trên bia do chính nhà Vua ngự đề theo lối chữ phi bạch. Tác giả soạn văn bia và người viết chữ đều là Thượng thư có địa vị cao trong triều đình, không gặp ở các bia thời Lý khác. Bia thuộc nhóm bia có niên đại sớm còn lại ở Việt nam (Dựng ngày 6 tháng 7 năm Tân Sửu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121) tức 20/8/1121) và là tấm bia duy nhất thời Lý trên đất Hà Nam. Bia hàm chứa giá trị lịch sử văn hóa phong phú, có những thông tin quý hiếm.

- Giá trị lịch sử: Bổ sung những tư liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp của vua Lý Nhân Tông và Thái úy Lý Thường Kiệt. Phản ánh triết lý, thuyết lý duyên khởi của Phật giáo, tình hình Phật giáo Việt Nam đương thời. Văn bia nêu việc tu sửa chùa Diên Hựu (chùa Một cột - Hà Nội), miêu tả cụ thể về kiến trúc, cảnh quan ngôi chùa. Đây là nguồn tư liệu duy nhất mô tả chi tiết về chùa Diên Hựu.

- Giá trị văn hóa: Phản ánh các sinh hoạt văn hóa cung đình và dân gian thời Lý. Đặc biệt là Hội đèn Quảng Chiếu bẩy ngày đêm ở Kinh đô Thăng Long, đó là lễ hội kết hợp tính chất Phật giáo và nghi lễ Mật tông. Tư liệu về múa rối nước, lần đầu tiên gặp ở văn bia và cũng là tư liệu duy nhất mà chính sử không ghi chép. Văn bia mô tả những nét cơ bản về tháp Sùng Thiện Diên Linh, góp phần nghiên cứu phục dựng lại Tháp.

- Văn bia hàm chứa những giá trị mỹ thuật văn học độc đáo đặc sắc, điển hình, thể hiện trong việc chạm khắc trang trí hình tượng rồng dầy đặc, rồng trong ô quả trám...Bài văn ở mặt trước bia gồm phần ký và bài minh (88 câu). Phần ký, văn phong theo thể biền ngẫu mẫu mực, hoành tráng, uyển lệ nổi trội so với các

Page 212: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

282

văn bia thời Lý khác thường pha trộn biền văn với tản văn. Bài minh là một bài thơ hay không chỉ tóm tắt phần ký mà còn thể hiện nghệ thuật tinh diệu trong việc sử dụng ngôn ngữ nhịp điệu giầu chất âm nhạc.

3.3.(2). Ngô gia thị bi (Bia nhà họ Ngô).Tấm bia hiện lưu giữ tại chùa Giầu, xã Đinh Xá, thành phố Phủ

Lý. Đây là tấm bia được sự quan tâm đặc biệt của nhiều chuyên gia Hán - Nôm, Sử học, Mỹ thuật...khảo cứu đánh giá. Mặc dù còn nhiều ý kiến chưa đồng nhất về nội dung và mỹ thuật chạm khắc, song cũng có thể thấy những giá trị nổi bật của tấm bia.

- Đây là tấm bia thời Trần duy nhất được phát hiện ở Hà Nam, được khắc vào năm Bính Ngọ, niên hiêu Đại Trị (1366) triều vua Trần Dụ Tông.

- Bổ sung thêm lộ Lợi Nhân, một trong 12 lộ thời Trần mà chính sử không ghi chép.

- Chân dung hình người đàn ông chạm nổi là một tác phẩm mỹ thuật độc đáo quý hiếm thời Trần ở Hà Nam nói riêng cũng như cả nước nói chung. Giữa các ý kiến trái ngược, theo chúng tôi đó là chân dung vua Trần Nhân Tông, người sáng lập ra phái Trúc Lâm Yên Tử. Đây là hình ảnh của vua Việt Nam sớm nhất hiện nay được biết, là mẫu cho các tượng Vua và Ngọc Hoàng.

- Nội dung văn bia còn cho biết, chế độ sở hữu ruộng đất đơn vị đo lường, chức vụ quan lại, địa danh hành chính, phân bố dân cư giữa người Kinh và người thiểu số vào thời Trần ở nơi đây.

- Không kể những chữ mờ mất, văn bia có ba chữ nôm chỉ số 2, 4 chữ Hán thay cho số ba. Hai chữ “Nguyệt” viết thiếu nét, 5 chữ “Bính” thay cho hướng Nam (dụng theo ngũ hành, thập can), điều này cho thấy có thể chữ “Nguyệt” và “Nam” là không, húy của hoàng tộc nhà Trần thời kỳ đó.

3.3(3). Cuốn sách đồngTư liệu Hán văn ở cuốn sách đồng có niên đại năm 1472 thời

vua Lê Thánh Tông, hiện lưu giữ tại thôn Văn An xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân. Đây cũng là cuốn sách đồng duy nhất lưu giữ ở

Page 213: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

283

Hà Nam. Nội dung cuốn sách kể lại sự tích vị thần âm phù vua Lê Thánh Tông đi chinh phạt Chiêm Thành. Khi thắng giặc trở về, tạ ơn thần, vua cho làm cầu bằng gỗ lim, giữa cầu dựng một lầu thơ. Từ đó có tên là Cầu Không...

3.3.(4). Tư liệu Hán Văn ở số văn bia góp phần nghiên cứu về chữ kỵ húy hoàng tộc như: Phúc Lâm tự bi (Bia chùa Phúc Lâm) (1619) ở chùa An Thái, Bình Mỹ, Bình Lục.

Tân tạo đình, từ bi ký (bi ghi lại việc làm mới đình, đền) (1673) ở đình chùa Phúc Hải xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân.

Ba văn bia ở Thung Suối bể thôn Lạt Sơn xã Thanh Sơn huyện Kim Bảng (1672) góp phần nghiên cứu sự phát triển Phật giáo ở khu vực này, tìm hiểu thêm khu vực rừng núi Lạt Sơn - Kim Bảng nơi nữ tướng Lê Chân về đây lập đồn doanh, xây dựng căn cứ chống quân Nam Hán.

- Cửu thiên ứng nguyên Bảo Khánh Điều tự (1692), khánh đá chùa Điều, hiện lưu giữ ở chùa Điều thôn Thành Thị xã Vũ Bản, huyện Bình Lục. Linh Sơn tự thạch Thiên đài cúng Phật (1711), cây hương đá cúng Phật ở chùa Linh Sơn, thôn Điệp Sơn xã Yên Nam huyện Duy Tiên. Bảo điện linh ứng (1708).

- Hương án đá ở chùa Đặng Xá xã Văn Xá, huyện Kim Bảng là những di vật quý hiếm tiêu biểu về nghệ thuật chạm khắc qua các thời kỳ lịch sử còn được lưu giữ trên đất Hà Nam.

3.3.(5). Hơn 50 bản in thẻ bài và tranh thờ ở đền Nam Công xã Thanh Tân huyện Thanh Liêm. Hơn 1500 ván in kinh Phật thời Nguyễn ở chùa Bảo Khám, thôn Tế Xuyên xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, là nguồn tư liệu quý cần phải được khai thác và phát huy.

4. Một số hạn chếTuy đã có những kết quả như đã nêu trên, nhưng công tác

sưu tầm nguồn di sản Hán - Nôm trên đất Hà Nam, của Hà Nam còn nhiều hạn chế tồn tại.

- Nguồn tư liệu đã khảo sát, sưu tầm, phiên âm, dịch nghĩa, chú thích chủ yếu là tư liệu chữ Hán, chữ Nôm ít.

Page 214: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

284

- Các nguồn tư liệu chữ Hán, chữ Nôm của Hà Nam hiện lưu trữ ở các kho tư liệu trung ương, nhất là ở Viện nghiên cứu Hán Nôm, Viện Thông tin Khoa học xã hội chưa được khai thác, trong đó có tư liệu rất quý như các Hương ước làng xã cổ ở Hà Nam.

- Chưa khảo sát, sưu tầm di sản tư liệu Hán - Nôm lưu giữ trong các dòng họ ở Hà Nam, bỏ sót nguồn tư liệu có giá trị.

5. Đề xuất, kiến nghị về công tác bảo tồn, khai thác di sản Hán - Nôm Hà Nam trong thời gian tới

5.1. Xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn cho việc khai thác di sản Hán Nôm. Phối hợp với các Viện nghiên cứu Trung ương khảo sát toàn diện di sản Hán - Nôm Hà Nam lưu giữ tại các cơ quan này và lên thư mục cụ thể.

- Xúc tiến khảo sát nguồn tư liệu Hán - Nôm trong các dòng họ ở Hà Nam.

5.2. Tổ chức Hội thảo khoa học về Di sản Hán - Nôm Hà Nam.5.3. Biên soạn, xuất bản các công trình về di sản Hán - Nôm

Hà Nam. Trước mắt trong 5 năm tới, biên soạn, xuất bản:- Tuyển tập Văn bia các di tích Hà Nam.- Hương ước cổ làng xã Hà Nam.5.4. Tiếp tục giới thiệu, quảng bá di sản Hán - Nôm Hà

Nam, đặc biệt là ở các di tích phục vụ cho các nhu cầu nghiên cứu, tham quan, du lịch...

Có thể nói Di sản Hán - Nôm là nguồn tư liệu cổ góp phần nghiên cứu đánh giá trên nhiều lĩnh vực lịch sử văn hóa qua các thời kỳ, dưới các chế độ phong kiến Việt Nam. Di sản Hán - Nôm quả là mênh mông, với trình độ am hiểu có hạn, tôi mạnh dạn nêu lên một số nhận xét đánh giá và đề xuất về Di sản Hán - Nôm Hà Nam để bảo tồn và phát huy loại hình di sản văn hóa đặc biệt này.

Page 215: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

285

HOÀN VƯƠNG CA TÍCH MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC LỚN

BÙI VĂN CƯỜNG*

Phát hiện và công bố một phần nhỏ của kho tàng văn hóa Liễu Đôi bằng 2 tập sách “Khảo sát văn hóa truyền thống Liễu Đôi” đã làm không ít người giật mình kinh ngạc, thậm chí đến không tin, vì rằng ở một vùng đất nghèo khó quanh dãy núi đất Thanh Liêm (tỉnh Hà Nam) mà dường như lịch sử đã bỏ quên ấy lại có cả một giang sơn văn hóa lớn đến thế!

Chưa hết!Nay lại thêm một sự lạ nữa về Liễu Đôi. Tại đây, chúng tôi

vừa phát hiện thêm một tác phẩm văn học đồ sộ - một tác phẩm dài gần chín nghìn câu thơ lục bát vừa cổ kính, vừa uyên bác, vừa có sức thu hút, thuyết phục đến lạ lùng. Tác phẩm có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng cái tên phổ biến nhất là Hoàn vương ca tích (103) nghĩa là bài ca về sự tích ông vua Hoàn - Lê Hoàn, là vua Lê Đại Hành ấy. Gọi “nôm na mách qué” vậy thôi, chẳng kỵ húy, chẳng sợ “phạm thượng” gì hết, vì nó là dân gian mà lại.

Tác phẩm lấy cuộc đời Lê Hoàn và cuộc tình lừng danh của ông với nàng Dương Thiệu Nga (thường gọi là Dương Vân Nga) làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm để miêu tả, phản ánh toàn cuộc tình hình đất nước ta đã ngàn năm bằng một bức tranh cụ thể, sinh động, dồn dập những sự kiện, những tình thế khốc liệt và những chiến công vang dội với những con người cụ thể sinh

* Nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử.(103). Trường ca lịch sử. Hội Văn nghệ dân gian VN xuất bản 2011

Page 216: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

286

động như Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn, Thiên Cang, Minh Quang, Nhữ Nương, Phạm Lạng (sử gọi là Phạm Cự Lạng), Từ Mục, Dương Thiệu Nga, Đinh Tuệ, Lê Long Đĩnh và những con người có tên và không tên khác, đã có mặt thời ấy, làm nên biến động và kỳ tích thời ấy.

Tác phẩm cung cấp cho ta nhiều điều ta chưa từng biết, chưa từng nghe, kiến giải thẳng tỏ nhiều điều ngàn năm nay vẫn là những điều lờ mờ trong lịch sử. Để giải trình giá trị của tác phẩm gần chín ngàn câu thơ này phải có trăm trang sách. Nay thì trong một bài, có tính chất thông tin này, chúng tôi chỉ xin mời bạn đọc lướt qua vài chi tiết, vài nét chấm phá về đất nước, con người để thưởng thức mấy đoạn thơ của tác phẩm, gọi là “của lạ” trong rừng thơ Việt Nam.

Thơ thật là thơ, không phải loại thơ uốn éo làm duyên, lừa người vào quãng quanh co, khuất khúc cho ra vẻ uyên thâm, mà đây là một lối thơ thoải mái, đầy hình tượng, giản dị mà sâu sắc, rất dân gian mà cũng rất bác học.

Bà Dương Thiệu Nga (vợ Đinh Bộ Lĩnh) tình ý với Lê Hoàn mà tả thế này thì phải nói là hay, là lạ.

…Vừa qua giờ Ngọ thảnh thơiHoàn vương Thái hậu mày vơi mắt đầy…Mây thì trải, gió thì bayTrời xoay thì đất cũng xoay vòng trònLáng lai nước đổ chân cồn…Sự lén lút, vụng trộm và cái đắm say chan chứa của tình

yêu quả đã lên đến đỉnh điểm. Và rồi họ đưa nhau vào rừng. Giữa chốn trời cao đất rộng… suối khe quanh tám ngọn đồi, dựng nước lên trời trắng xóa, làm thành một bức màn kỳ diệu che cho họ khỏi những ánh mắt trần tục rình mò… Họ thành “người tiên”! Mọi thứ vàng son lộng lẫy của uy quyền vương đế bị họ tung hê tuốt tuột cho trời cho đất.

… Xiêm y đai mãng lọng cờMây cuộn xuống đất, gió xô lên trời

Page 217: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

287

Suối vàng có cái trăng trôi…Tả thế mới sướng chứ, mới hả hê chứ: mây cuộn, gió xô… rồi

thỏa thê, thanh thản như một vầng trăng… mặc kệ!Cũng đang nói về nàng Thiệu Nga- người đẹp lừng danh

kim cổ (mỗi người tưởng tượng một cách). Ở đây ta gặp nàng cụ thể, rất cụ thể trong cái đẹp dữ dội bằng xương bằng thịt của tuổi thanh xuân.

Môi son rừng rực, mặt hoa rờn rờnMắt kia sao mọc cờn cờnCổ kia đã trắng lại tròn hân hân…Chữ nghĩa đã tinh tế, lại như tạc, như đẽo, gợi bên đông, gợi

bên tây, lung linh đến lạ? Nhưng có điều, tác giả ít tả trực tiếp con người này mà thường chỉ tả nàng trong bối cảnh vẫn đủ để thấy sức quyến rũ ghê gớm của con người này. Đây là lúc nàng dạo quanh cung phủ. Cả một vùng thiên nhiên như được tắm trong một nguồn sinh lực đầy sức thanh xuân, ân ái.

…Đồi đông điểm ngọc, đồi tây mây vàngSuối trong tựa ánh nguyệt trànMây ngồi xổm, cá lượn đàn lên mâyChim kề mỏ, bướm xỏ mày Bao nhiêu suối chảy thành cây đàn cầm…Khi kinh thành Hoa Lư có biến, nàng phải bỏ kinh thành

chạy ra chùa Đế Cước, náu mình trong cửa Phật, cửa Phật cũng như đắm đuối mơ màng.

Trời mở cửa, đất trang hoàngNgày xanh cánh bướm, đêm vàng tiếng chuôngNgõ trời mở, cửa Phật buôngLa đà cành liễu điểm sương mặt hồ…Bên chùa có suối. Đêm, nàng lần bước bên bờ suối vắng.

Suối vắng nhưng không lặng được vì tấm nhan sắc lung linh của nàng.

Rẽ cành trăng, ngọn lá layRung rinh mặt nước đã đầy vàng phơi

Page 218: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

288

Trắng phau tảng đá trăng soiTrăng thì nổi, cát thì trôi bóng cành…Và rồi trong chỗ kín đáo, “chín lần đêm thả bức mành xênh

xang”, nàng tắm. Ta đã nghe Nguyễn Du tả Kiều tắm. Ta đã say mê người đẹp, say mê bút pháp ý nhị của thi hào khi viết:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngàDầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên…Thì ở đây ta lại có cả một tòa thiên nhiên… Vâng chỉ có thiên

nhiên thôi, không có Thúc Sinh, không có ai cả mà sao si mê cuồng dại đến lạ:

…Càng ngắm càng thấy bàng hoàngVén mây cho cái trăng vàng lộ nguyênBây giờ mặt nước duyềnh lênMân mê con sóng vỗ trên bóng cànhBờ nây nả, gió loanh quanhNước thành lụa dệt, lá thành gấm thêu…Một khe nước rỉ trong veoHai gò thảo mộc trăng trèo lên trênNghiêng nghiêng nguyệt xế non tiênGiơ tay múc ngọc đổ lên thân ngà…Đáo để thay tạo vật! Nào ao có kém ai, nước thì “duyềnh lên”

sóng thì “mân mê” rồi “vỗ vỗ”, gió thì “loanh quanh” bên cái “bờ nây nả” không đi, ánh trăng thì sỗ sàng “trèo lên” “hai gò thảo mộc”… chỉ có ông tượng đá trên sân chùa là người tu hành nên cam sống chay tịnh, không cùng nhập cuộc truy hoan, nhưng cũng không cầm lòng được nên đã bật ra tiếng cười thích thú. Nhà chùa dùng đủ mọi cách để bắt ông tượng thôi cười nhưng vô hiệu. Cuối cùng người ta phải dùng rìu chặt vào chân ông tượng. Tượng cụt mất một chân, đau quá phải ngậm miệng. Chùa Đề Cước thành chùa Độc Cước (một chân) là vì vậy.

Thoáng một vài nét về một con người vậy thôi, để xin mời bạn đọc lướt qua mấy giòng thơ về cảnh quan đất nước của một thời xa xôi ấy.

Page 219: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

289

Đây là cảnh thung Lau, thung Lá vùng phụ cận Kinh đô Hoa Lư, một vài nét thôi mà gợi cảm biết bao về một vùng hoang sơ xa vắng.

…Sông đầy cho ánh nguyệt trànNon cao cho cái trăng vàng lửng lơBãi lau râu tóc phơ phơMột con quốc gõ mấy bờ mõ raoVà Kinh đô Hoa Lư thuở trước là thế này đây:…Thành xây thiên tạo lũy quy địa phùHang thăm thẳm, động âm u,Hổ đi du đãng, vượn đu vách rừng.Quan hà muôn dặm như không.Mây vàng cửa phật, hương xông Cổng TrờiCung đình mây tỏ trăng soiVạc dầu lửa cháy hổ ngồi xem trăngHỏa hiệu giăng khắp mặt thànhKỳ bay cho núi nghiêng mành về tâyTrống canh điểm, mõ nện ngàyGác lâu (104) binh đứng, thành dày thước ba…Hoa Lư bình yên này là Hoa Lư trong tay Lê Hoàn. Còn thuở

Đinh Tiên Hoàng tại vị, với chính sách cường trị của ông, tình thế cũng không lấy gì làm dễ chịu lắm. Hãy nghe con hổ- một hình cụ của Vua Đinh rền rĩ, đủ thấy sự ghê gớm của một thời:

Đêm ngày xé xác môi răngTay nhầy gan ruột mặt chằng máu me...Vậy đó, giòng thơ đi thoải mái tự nhiên như chính giòng đời

đang tuôn chảy. Xin được dẫn một đoạn thơ nói về sông Bạch Đằng- Hàm Long là nơi đã diễn ra trận thủy chiến khốc liệt của quân ta và quân Tống thuở ấy. Tác giải đã đưa ta đến một vùng trời bể mênh mang, đẹp đến mê hồn, nhưng ở đây chúng tôi chỉ muốn dần ra cái cảm giác lạ lùng, rợn ngợp của tên trưởng Lưu Đồng (sử ghi Lưu Trừng) chỉ huy đội thủy binh nhà Tống trước cảnh Bạch Đằng - Hàm Long để thấy bút pháp già giặn của tác giả:

(104). Trường ca lịch sử. Hội Văn nghệ dân gian VN xuất bản 2011

Page 220: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

290

...Bạch Đằng như thể con sông nhà trờiThượng nguồn treo ngọn mây trôiTrăm nguồn ngàn lạch mặt trời lóa raĐen thăm thẳm, trắng nhòa nhòaChập chờn hang động như là ma chơiBãi hà sa sú hình ngơiNgập quá đầu người, cú rúc như chuôngMây thả cho nhũ đá buông,Một con nước cường núi lặn như nghêĐá ngầm như luc ngạc kề,Con nước đi về chẳng biết về đâu ?...Đây là biên cương vùng phía bắc Tổ quốc, địa điểm của cuộc

chiến hãi hùng giữa quân ta do Lê Hoàn chỉ huy và quân Tống do Hầu Nhân Bảo cầm đầu. Trước trận chiến, đích thân Lê Hoàn cải trang đi khắp cả vùng xem xét địa hình, nắm vững ý đồ và đường đi nước bước của giặc rồi mới “định kế thần”, giăng bẫy lừa chúng vào chỗ hiểm rồi cho chúng một đòn chí mạng. Và cảnh núi non đất nước dưới mắt Lê Hoàn là thế này đây :

...Trở ra đến dặm Long ĐềSuối không có ngọn chảy về Bồng LaiNhấp nhô núi đứng núi ngồi......Bây giờ Pha Lũy mở ra Tưởng như cái cổng thứ ba nhà trờiỞ đây rừng cõng núi chơi...Thung Hồn cây mọc như chàCòn như Thung Hú cảnh đà lạ thayCỏ cao ngập ánh trăng soiBốn bên đá trắng, cùng đòi lên mây!Ma thiêng động đám cỏ dàyHổ chưa quen lối, chim bay nhầm đường...Biển trời sông núi linh thiêng, đẹp đẽ ấy đã giúp cho chủ

Page 221: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

291

nhân tài ba mưu lược của nó vùi chôn bao nhiêu vạn quân Tống xâm lăng.

Cái âm vang, cái hùng tráng của thế kỷ X được Hoàn vương ca tích chở đầy, tải đủ đến với người đọc bằng bút pháp, bằng giọng sử thì trầm hùng, vang dội, ào ạt từ đầu đến cuối tác phẩm. Xin dẫn đoạn tả võ tướng Đinh Hân từ biên ải băng ngựa về kinh thành báo tin dữ: quân Tống đã tràn qua biên giới mở đầu cuộc xâm lăng, để bạn đọc rõ thêm cái phong cách miêu tả của tác phẩm:

...Cung triều, nha khí âm âmBán nghi bán tín, đình thần xôn xao...Bỗng từ Châu Thúc, Nhuế BàoTin từ núi thẳm trời cao đưa về.Vó trần nghiêng ngửa sơn khê,Tựa như ánh chớp xé chia đoản trường.Áo bào đỏ ánh tà dương.Người như thần hiện rẽ luồn tựa mây.Dây cương đường ngựa cùng bay.Sông dài núi thẳm động dây lạ kỳ.Cưỡi đầu vân hỏa từ quy.Quỷ thẩn hay đấng tiên tri xuống trần?Bên thì đá dựng mây vần,Bên thì sóng thần ngũ sắc đổ lên.Qua miền Bái Thượng tiền duyên,Xuống miền Nen Lá lên miền Đấu, Thưng.Chân ngựa sải gió, băng rừng,Vượt qua Hà Khẩu, đá tung Tam Đài.Qua Áng Ngữ, đến Thiện Bài,Tạt sang Đồn Thủy, giáp lai Thạch Bàn.Trông lên núi dựng mây ngàn,Ánh dương đổ tràn xuống chín lòng khe.Cổng trời gió cuốn mây đè,

Page 222: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

292

Tựa ánh tinh lòe cháy dưới trung thiên.Bàng hoàng thành dựng, núi nghiêngNhân thần đổ xuống... đưa “thiên tuế bài” (105)

Hoàn vương ca tích là tác phẩm dài gần chín ngàn câu thơ nhưng không hề có sự dễ dãi, lòng thòng mà gần như tất cả đều nghiêm ngặt, chặt chẽ. Nhiều đoạn, nhiều chỗ đạt đến uyên bác, thâm trầm, dồn đọng ý tứ và hình ảnh đến tuyệt vời. Những câu thơ, những hình tượng tách rời ra khỏi văn cảnh vẫn thấy hay, thấy đẹp, thấy lạ như sau đây không phải là ít trong tác phẩm:

- Nhác trông nhàu nát mặt mày- Gió khuya vỗ lở canh gà- Cánh chim cắt rụng mảnh trời đàng đông- Trăng khuya thở loảng rừng già- Ngựa phi gió, nỏ nuốt ngày.Giọt sương đậu nóc đêm vàngMột cơn gió thoảng khẽ khàng cũng rơi- Quốc kêu mỏi miệng chân cồnMột con nước dồn, gió rụng cành sươngMột nét xuân trước mắt thiếu phụ trẻ đẹp, đầy khao khát:Cây chen nội thẳm, hoa trang lá cànhOng về gọi mật lối thành.Bướm đâu bướm đến trước mành ghẹo hoa?Chim muông giăng kín bến hà,Hương đâu hương lại mách ra lối vườn?Suối xuân rỉ rách cùng tuôn.Sông xuân vỗ bóng mái buồm gần xaTrời thì đổ, đất thì la.Sông vàng ngỡ mật, núi lòa ngỡ mây!...Hoặc một nét tâm tư, một suy ngẫm của người anh hùng

trong ngày tàn:Trần gian thấp thoáng ấy mà,Người ta ở với người ta một thời.(105). Trường ca lịch sử. Hội Văn nghệ dân gian VN xuất bản 2011

Page 223: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

293

Trăng tàn sao rụng thì thôi,Bến trần gian lại đón người trần gian......Hồn thơ ấy, tài thơ ấy, qua ngần ấy dòng trích dẫn có lẽ cũng

đủ mách bảo điều gì đó với bạn đọc về tác phẩm này rồi đấy. Cũng xin lỗi bạn đọc, ở bài viết này chúng tôi đã không dám phân tích bình luận gì mấy mà chỉ trích với dẫn. Trích dẫn câu này, tiếc câu khác, trích dẫn đoạn này tiếc đoạn kia. Vẫn biết như thế là vô lối trong viết lách, song chỉ muốn để bạn đọc tiếp xúc càng nhiều với tác phẩm càng tốt.

Vả chăng thơ hay tự nó sẽ nói lên cái hay của nó, cần chi bình luận phân tích nhiều?

Page 224: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

294

LÊ ĐẠI HÀNH“NGƯỜI VÁC NÚI, LẬT BIỂN”

TS. NGUYỄN MINH SAN *

Cách nay hơn một nghìn năm, có một người đàn ông Việt Nam văn, võ song toàn, 30 tuổi lên ngôi Hoàng đế, đã bị các sử gia phong kiến nước nhà định tội là người trái lẽ cương thường, trái đạo nhân luân. Nhưng rồi, cũng chính những sử gia với những chuẩn mực Nho gia mang nặng tư tưởng bảo thủ ấy lại không tiếc lời ngợi ca ông, bởi, công lao và sự nghiệp của ông với dân tộc quá lớn lao, quá vĩ đại, không thể phủ nhận hoặc làm lu mờ. Khi được hỏi “ai hơn ai” khi so sánh ông với vị vua sáng lập vương triều Lý lẫy lừng, sử gia Lê Văn Hưu (1230-1322) đã trả lời: “Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt Nam, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng”. Nhà sử học lỗi lạc đời Lê cuối thế kỷ XV là Ngô Sĩ Liên đã nhận xét: “ông đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bực anh hùng nhất đời vậy”. Còn, người Tống - những kẻ xâm lược bại trận dưới tay ông, gọi ông là “Phụ sơn đảo hải ” (Người vác núi lật biển).

Con người vĩ đại ấy là Lê Hoàn - Hoàng đế Lê Đại Hành, vị vua đầu của nhà Tiền Lê trong lịch sử nước ta.

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn có những ý kiến trái chiều, nhưng vấn đề quê hương Lê Hoàn ở đâu đã được khẳng định. Lê Hoàn, quê cha ở vùng đồng chiêm trũng Bảo Thái (Ninh Thái),

Page 225: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

295

xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, quê mẹ ở Kẻ Sộp (Trung Lập), huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (106).

Lê Hoàn sinh năm 941, trong một gia đình nghèo khổ, cha đi kéo vó đêm bị hổ vồ tha vào rừng ăn thịt. Mồ côi cha từ thuở lên ba, Lê Hoàn đi ở cho nhà một viên quan nhỏ họ Lê… Lớn lên, Lê Hoàn gia nhập quân đội của Đinh Liễn, con trai cả Đinh Bộ Lĩnh. Dù chỉ là lính thường, nhưng nhờ trí dũng khác thường, tính tình phóng khoáng, nên Lê Hoàn được cha con Đinh Bộ Lĩnh tin tưởng giao cho quản lý 2.000 binh sĩ. Sau khi dẹp loạn 12 xứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi vua, Đinh Tiên Hoàng đã phong cho Lê Hoàn chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ (Tổng chỉ huy quân đội kiêm chỉ huy đội cấm vệ quân) của triều đình Hoa Lư. Lúc đó, Lê Hoàn mới 30 tuổi.

(106). Chứng tích là tại làng Ninh Thái - Bảo Thái xưa có cả một khu mộ Tổ, đền thờ Lê Hoàn với nhiều di tích liên quan mật thiết đến nhà Tiền Lê (980-1009). Trong Lịch sử Hà Nam Ninh , Tập 1, tr 85, các tác giả sách khẳng định : “ Bảo Thái, Thanh Liêm là nơi duy nhất trong cả nước có nguồn truyền thuyết phong phú về quê nội Lê Hoàn. Cùng với truyền thuyết là những dấu tích lưu lại trên đất Thanh Liêm như: Mả Giấu là mộ Lê Lộc (ông nội Lê Hoàn), lăng Đại Hành với ruộng hương hỏa, nền nhà Lê Hoàn ở khu Thổ Dò; hậu duệ của ông như: Lê Tần, Trần Bình Trọng, đều được sử sách ghi quê quán tại Thanh Liêm. Tại vùng này còn có bài thơ “Lê gia hổ táng mộ” của Hoàng giáp Lê Tung là người xã Liêm Thuận gần Bảo Thái, dịch nghĩa:

Sông hồ ngàn dặm tới nơi đâyThấp thoáng tường rêu dưới bóng câyKhe nước núi Bông đi đổ đóTáng trên non Bắc hổ mang thấyĐiềm lành sinh cháu ra làm tướngNgôi đế nhiều mưu việc khéo thaySách nói ba đời còn rõ rệtThì ra bốn mặt thiếu cao đầy.Ở làng Liễu Đôi thuộc xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm từ lâu đã lưu truyền bài

vè “Hoàn Vương ca tích” (Trường ca lịch sử - Hội Văn nghện dân gian Việt Nam xuất bản 2011) hơn chín nghìn câu, kê về nguồn gốc, quá trình trưởng thành cùng những chiến công rạng rỡ của Lê Hoàn. Tác phẩm lấy cuộc đời Lê Hoàn và cuộc tình lừng danh của ông với nàng Dương Thiệu Nga (người mà ta thường vẫn gọi là Dương Vân Nga) làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm đê miêu tả, phản ánh toàn cuộc tình hình đất nước ta đã ngàn năm bằng một bức tranh cụ thê, sinh động, dồn dập những sự kiện, những tình thế khốc liệt và những chiến công vang dội với những con người cụ thê sinh động như Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn, Thiên Cang, Minh Quang, Nhữ Nương, Phạm Lạng (sử gọi là Phạm Cự Lạng), Từ Mục, Dương Thiệu Nga, Đinh Tuệ, Lê Long Đĩnh và những con người có tên và không tên khác, đã có mặt thời ấy, làm nên biến động và ky tích thời ấy.

Page 226: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

296

Tháng 10 năm 979, hai cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị Đỗ Thích ám hại. Lê Hoàn cùng Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền phò Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Thái hậu Dương Vân Nga buông rèm Nhiếp chính, Lê Hoàn làm Phó nhiếp chính vương. Thừa lúc nội bộ Đại Cồ Việt đang rối ren, mùa thu năm Canh Thìn (năm 980), nhà Tống tập trung lực lượng để xâm lược Đại Cồ Việt. Nhận được tin, lúc này, cùng với việc chọn dũng sĩ đi đánh giặc, Lê Hoàn quyết định “lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng / Lượng làm Đại tướng quân”. Trong giờ phút khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, thì Cự Lạng/Lượng, người đang mang mối thù về anh trai bị bắt, lại cùng với các tướng khác dưới quyền “đều mặc áo trận, đi thẳng vào Nội phủ”. Và, chính Cự Lạng chứ không phải ai khác xướng xuất với mọi người: “Hãy tôn lập ông Thập đạo làm thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn”. Quân sĩ nghe vậy đều hô “vạn tuế”. Thái hậu Dương Vân Nga thấy mọi người vui lòng qui phục bèn sai lấy áo long cổn, khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Trước tình thế đất nước đang đứng bên bờ vực mất còn của họa ngoại xâm, và chỉ khi “mọi người vui lòng qui phục”, Lê Hoàn mới đồng ý lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Lê Đại Hành (đại hành có nghĩa là đi xa), mở ra triều đại Tiền Lê trong lịch sử dân tộc. Cuộc chuyển giao ngôi vua từ triều Đinh sang Lê đến thời điểm này đã hoàn tất. Trong 24 năm tại vị, Lê Đại Hành không chỉ là người kế tục xứng đáng các vị anh hùng Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc bằng võ công đánh Tống xâm lược ở mặt Bắc, bình Chiêm ở mặt Nam, mà còn thể hiện những thành tựu của sự nghiệp chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa lẫy lừng. Những việc Lê Đại Hành làm là rất mới mẻ, mang tính khởi đầu, song đều là những việc làm đặt nền móng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử nghìn năm qua cho tới hôm nay.

Page 227: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

297

LÊ ĐẠI HÀNH - NHÀ CHÍNH TRỊ - QUÂN SỰ ĐẠI TÀIBÌNH ĐỊNH CHIÊM THÀNH Ở PHÍA NAMĐÁNH TAN QUÂN TỐNG XÂM LƯỢC Ở PHÍA BẮC

Nước Đại Cồ Việt thế kỷ X phải đương đầu với hai đế quốc hùng mạnh luôn có âm mưu xâm chiếm nước ta là nhà Tống ở mạn Bắc, vương triều Chăm Pa ở phía Nam. Không ít lần, chúng âm mưu câu kết với nhau Bắc đánh xuống, Nam đánh lên dồn Đại Cồ Việt vào thế bị kẹp ở giữa.

Với ý thức xây dựng nhà nước tập quyền và thống nhất, tiếp nối ý chí của vua Đinh, sau khi lên ngôi, Lê Đại Hành đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía Nam Đại Cồ Việt. Ông nhiều lần đích thân cầm quân đánh dẹp sự nổi dậy của các thế lực cát cứ và xâm lấn, không chỉ bảo vệ vững chắc miền biên giới, mà còn mở rộng sự thống trị đối với các khu vực miền núi và vùng xa. Vì thế, lãnh thổ Đại Cồ Việt vào cuối thế kỷ X đã được mở rộng hơn, bờ cõi đất nước được củng cố, nhà nước đã kiểm soát được nhiều vùng biên viễn, xóa bỏ cơ bản tình trạng cát cứ, phân liệt. Vào thời điểm Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, hai mối đe dọa trực tiếp đến độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia Đại Cồ Việt từ phương Bắc và từ phương Nam ấy đã trở thành hiện thực. Tháng 7 năm 980, sau khi nhận được tờ trình tấu của Hầu Nhân Bảo “An Nam bên trong rối loạn, đó là lúc trời làm mất, triều đình nên bất ngờ đem quân sang đánh úp, như người ta nói: sét đánh không kịp bịt tai”, vua Tống lập tức cho lập Giao Châu hành doanh và cử Hầu Nhân Bảo hoạch định cuộc tiến công xâm lược Đại Cồ Việt. Vua Tống Thái Tông viết thư, vừa chiêu dụ, vừa đe dọa Lê Hoàn: “Ngươi có theo về hay không, chớ mau chuốc lấy tội. Nay ta đang chỉnh đốn xe cộ quân lính , truyền hiệu lệnh chiêng trống. Nếu chịu theo giáo hóa, ta sẽ tha tội cho, nếu trái mệnh, ta sẽ sai quân đánh. Theo hay chống, lành hay dữ, tự ngươi xét lấy”. (107)

(107). Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, tr 218-219

Page 228: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

298

Cùng thời điểm đó, Chiêm Thành ở phía Nam cũng âm mưu cấu kết với quân Tống xâm lược Đại Việt. Trước sức ép từ hai đầu đất nước, nhất là lường trước sức mạnh của quân Tống, Lê Đại Hành đã thực hiện sách lược tìm kế hòa hoãn với người Tống ở phía Bắc, đồng thời phát binh chinh phạt Chiêm Thành. Sau khi dẹp yên nỗi lo quân Chiêm Thành ở phía Nam, sẽ tập trung toàn lực nghênh chiến tiêu diệt quân Tống.

Thực thi sách lược này, nhân sự kiện hai viên sứ giả của Đại Cồ Việt là Từ Mục và Ngô Tử Canh bị triều đình Chăm Pa bắt giữ trái phép, Lê Hoàn liền “sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh”. Quân của Lê Hoàn đánh vào tận kinh đô Indrapura (Đồng Dương - Quảng Nam), giết vua Chiêm, phá kinh đô, rồi ca khúc khải hoàn rút quân về nước, mang về nhiều chiến lợi phẩm. Cuộc Nam chinh ấy của Lê Hoàn kéo dài 1 năm. Như vậy, cuộc chinh phạt Chăm Pa của Lê Hoàn, bề ngoài là để “rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần” (Ngô Sĩ Liên), nhưng bên trong là một đường lối mang tầm chiến lược, nhằm ngăn ngừa, dập tắt ý đồ xâm lấn biên cương phía Nam của cương triều Chăm Pa vào thế kỷ X. Về chiến thuật, đó là cách phòng thủ đất nước tốt nhất, mà sau này, Lý Thường Kiệt đã kế thừa, với trận tập kích sang tận Ung Châu đánh tan nơi tập trung quân, lương của nhà Tống để chuẩn bị xâm lược nước ta.

Sau khi bình được Chiêm Thành, dẹp yên nỗi lo bị “lạnh lưng” ở phía Nam, Lê Đại Hành tập trung lực lượng quyết “đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ” (Ngô Sĩ Liên). Về phía nhà Tống, sau khi đe dọa vua Đại Việt bất thành, quân Tống đã chia làm ba cánh tiến đánh Đại Cồ Việt: Cánh thứ nhất do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, theo đường ven biển tiến vào sông Bạch Đằng; cánh thứ hai do Tôn Toàn Hưng chỉ huy, từ Ung Châu theo đường bộ, qua Lạng Sơn tiến xuống; cánh thứ ba là đội quân thủy với hàng trăm thuyền chiến do Lưu Trừng chỉ huy từ Liêm Châu vào sông Bạch Đằng,

Page 229: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

299

tiến sâu vào nội địa nước ta. Đích thân Lê Hoàn cải trang đi khắp cả vùng biên cương vùng Đông Bắc, xem xét địa hình, nắm vững ý đồ và đường đi nước bước của giặc. Qua đó ông đã “định kế thần”, giăng bẫy chờ giặc, với trận địa chính là trên sông Bạch Đằng, với chiến thuật lợi dụng thủy triều, đóng cọc nhọn dưới lòng sông để chọc thủng chiến thuyền giặc của Ngô vương xưa. Kết quả là, quân dân Đại Việt đã toàn thắng. Sông Bạch Đằng lại một lần nữa nhuộm đỏ máu quân thù. Chiến thắng quân Tống - một triều đại cường thịnh của một quốc gia phong kiến lớn nhất châu Á đương thời, của quân dân Đại Cồ Việt, là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc mở đầu kỷ nguyên Đại Việt chiến thắng quân xâm lược phương Bắc, giữ vững nền độc lập, hùng cứ một phương, sánh ngang với các triều đại phong kiến Trung Quốc. Lê Hoàn là linh hồn, là hiện thân của chiến công kỳ vỹ này của dân tộc và đây cũng là cống hiến kiệt xuất nhất của anh hùng dân tộc Lê Hoàn. Sử gia Lê Văn Hưu đánh giá võ công chói lọi này “đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được”. Còn người Tống, sau thất bại cay đắng này đã bái phục Lê Đại Hành, gọi ông là “Phụ sơn đảo hải” (Người vác núi lật biển). Sứ thần đời sau phải ca ngợi ông “Đánh giặc dễ như trở bàn tay, khiến cho ngoại bang phải nể vì” (108). Chiến thắng này khiến cho nhà Tống khiếp sợ, phải gần 100 năm sau, mới lại dám đưa quân sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Và lần này, chúng cũng bị đánh tan tành, bởi quân dân Nhà Lý, dưới sự lãnh đạo của một người phụ nữ Nhiếp chính Ỷ Lan và sự chỉ huy của danh tướng Lý Thường Kiệt.

Như vậy chỉ trong 3 năm, từ khi lên ngôi, hai mối hiểm họa đe dọa trực tiếp đến độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia Đại Việt từ phương Bắc và phương Nam đã được Lê Hoàn hóa giải: bình Chiêm, đánh Tống, ổn định và mở rộng cương giới lãnh thổ về phía Nam, phát triển giao thông, thủy lợi và sản xuất nông nghiệp. Điều đặc biệt quan trọng là trước, trong

(108). Địa chí Hà Nam, Nxb KHXH , H. 2005, tr 300)

Page 230: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

300

và sau quá trình giải quyết những vấn nạn thuộc về địa - chính trị thường xuyên này của quốc gia, Lê Hoàn còn tạo ra một thế mới, mẫu mực trong nguyên tắc bang giao với triều đình phương Bắc và mở đầu một quá trình mở rộng lãnh thổ - văn hóa xuống phương Nam mà các triều đại phong kiến Việt Nam về sau tiếp tục tuân thủ và phát triển.

LÊ ĐẠI HÀNH - NHÀ NGOẠI GIAO XUẤT SẮC

Lê Hoàn không chỉ là một vị Hoàng đế với những võ công hiển hách trong sự nghiệp chống ngoại xâm, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước Đại Cồ Việt hùng mạnh thời Tiền Lê. Trong cái thế một lúc phải đương đầu với hai đế quốc hùng mạnh luôn có âm mưu xâm chiếm nước ta thời đó, nhà Tống ở mạn Bắc, vương triều Chăm Pa ở phía Nam, Lê Hoàn đã đề ra đường lối ngoại giao thích hợp, khôn khéo để giữ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Đại Cồ Việt.

- Đối với nhà Tống, triều đại phong kiến hùng mạnh nhất châu Á đương thời, luôn có tư tưởng bành trướng, xâm chiếm và đô hộ nước ta, Lê Hoàn thực hiện sách lược “Thần phục giả, độc lập thật”. Điều này thể hiện ở chỗ, sau khi kháng chiến thành công, Lê Hoàn áp dụng một chính sách đối ngoại vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn, kiên quyết với nhà Tống. Mềm dẻo để giữ vững hòa hảo giữa hai nước, nhưng cứng rắn để hạn chế những thái độ hống hách, nước lớn của nhà Tống. Ông nhìn nhận rất rõ những vấn đề nào thuộc nguyên tắc, tuyệt đối không thể nhượng bộ, những điều gì là thứ yếu, không thuộc nguyên tắc thì thậm chí hào phóng chấp nhận. Sau khi đánh đuổi quân Tống ra khỏi bờ cõi, Lê Đại Hành chủ động cho sứ giả sang Tống.

Trong việc giao thiệp với sứ giả nhà Tống, Lê Đại Hành đã biết dựa vào các vị cao tăng vốn là những người có học thức cao, có vai trò chính trị to lớn trong nước lúc bấy giờ. Ví như, năm 987, vua Tống cho Lý Giác một văn thần, học vấn rộng, giỏi thơ

Page 231: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

301

văn, là bác sĩ dạy ở Quốc Tử Giám của nhà Tống sang sứ nước ta. Muốn để sứ nhà Tống thấy nước ta là một nước thi thư, có văn hiến, có nhiều nhân tài, nhiều trí thức, nên Lê Hoàn cử nhà sư Đỗ Thuận tham gia tiếp sứ Tống. Sư Đỗ Thuận giả làm một người “chở đò” chèo thuyền đi theo đoàn thuyền lên đón sứ Tống. Trên đường đi, sư Đỗ Thuận đàm đạo chuyện văn thơ với ông ta. Có nhiều chuyện kể về tài khôn khéo trong ngoại giao của Lê Hoàn, câu chuyện dưới đây chỉ là một chuyện nhỏ. Trong lần tiếp sứ Tống là Tống Cảo (năm 990), Lê Đại Hành cho Đinh Thừa Chính đem chiến thuyền sang tận bờ biển Liêm Châu (Quảng Đông) đón. Sứ Tống xuống thuyền chiến Việt. Lê Hoàn cho thuyền bịt kín các cửa sổ, thắp đèn nến suốt ngày đêm, đi loanh quanh hàng nửa tháng trời mới đến cửa sông Bạch Đằng, với mục đích gây cho sứ giả cảm tưởng đất Việt biển rộng sông dài. Hàng tháng nữa trôi qua, thuyền sứ giả mới đến địa phận Trường Châu (Ninh Bình), gần kinh đô Hoa Lư. Tại đây, nhà vua sai thao diễn thủy quân để phô trương thanh thế, uy hiếp tinh thần sứ giả. Thuyền quân, thuyền dân đua bơi như chớp nhoáng, tiếng trống thúc như sấm gào. Khắp các ngọn núi quanh thành Hoa Lư, cờ hiệu cắm san sát, ra vẻ bày binh bố trận. Vua cùng sứ thần Tống Cảo dong ngựa đi song song. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua Lê đã cho bày thủy quân và chiến cụ để tỏ ra quân đội nghiêm minh, có kỷ luật, có vũ khí tốt và thiện chiến, đã đánh thắng Chiêm Thành và cũng sẵn sàng bảo vệ đất nước nếu quân nhà Tống lại xâm lăng”. Khi vào cung vua, đến cửa Minh Đức, Lê Hoàn giơ tay đón bài chế của vua Tống từ tay sứ thần Tống Cảo, để lên trên điện nhưng không lạy, với lý do bị đau chân. Lê Hoàn đã không chịu lạy để giữ thể diện quốc gia.Trong tiệc, Lê Hoàn vừa hát vừa mời rượu các sứ thần. Sứ thần nhà Tống đón chén rượu nhưng không biết hát đáp lại.

Để “tỏ lòng hiếu sinh” và giữ gìn hòa hiếu hai nước, vào năm 986, tức 5 năm sau khi chiến tranh kết thúc, Lê Đại Hành mới

Page 232: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

302

chấp nhận giải quyết vấn đề tù binh, trao trả cho nhà Tống hai viên tướng là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân và nhiều tù binh Tống đã bị quân ta bắt tại trận. Cuối năm 986, vua Tống cho 2 quan văn là Lý Nhược Chuyết và Lý Giác sang ta để nhận tù binh và mang sắc vua Tống phong cho Lê Đại Hành chức “Tiết độ sứ”. Sắc phong này chỉ có ý nghĩa là nhà Tống phải chính thức thừa nhận Lê Đại Hành là người cầm quyền cai trị Đại Cồ Việt và chịu từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta. Trên thực tế, Lê Đại Hành vẫn là Hoàng đế của nước Đại Cồ Việt độc lập, không phải là Tiết độ sứ của một địa phương nào của nhà Tống.

Khôn khéo và cứng rắn là bản lĩnh ngoại giao Lê Hoàn, khiến người Tống càng e ngại, dè dặt, bớt hung hăng, kiêu ngạo nước lớn. Họ nhìn nhận Lê Hoàn như một nhân vật thật sự kiên cường, dũng mãnh, không biết sợ là gì, có thể làm được những việc kinh thiên động địa. Nhà Tống đã phải từng bước thừa nhận sức mạnh, thế và lực của quốc gia Đại Cồ Việt, đã phong cho Lê Hoàn các tước vị cao như Giao Chỉ quận vương, Nam Bình vương. Sứ thần nhà Tống đã từng làm thơ ca ngợi Lê Hoàn. Chính sách và đường lối ngoại giao của Lê Đại Hành mở đầu và xác lập những nguyên tắc cơ bản của nền ngoại giao Đại Cồ Việt - Đại Việt và, vẫn còn nguyên giá trị cho nền ngoại giao Việt Nam hôm nay.

Về phía Nam, Lê Hoàn hai lần phái sứ giả sang giao hảo với Chiêm Thành, song cả hai lần sứ Việt đều bị vua Chiêm bắt giữ. Vua Chiêm thần phục Tống, dựa vào thế nhà Tống nên coi thường nước Việt. Vì thể diện quốc gia, Lê Hoàn đã phải đích thân chỉ huy quân chinh phạt Chiêm quốc (năm 982).

LÊ ĐẠI HÀNH - NHÀ KINH TẾ CHÚ TRỌNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

Trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nam quê hương của Lê Hoàn là một vùng đồng trũng, vốn chỉ làm một năm một vụ lúa mùa. Sau đó, vào thế kỷ X, trên đồng đất Bắc Bộ, đã xuất hiện

Page 233: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

303

giống lúa Chiêm, đưa đến một năm hai vụ Chiêm - Mùa cho đồng đất này. Nhiều tài liệu đã khẳng định giống lúa Chiêm là giống lúa của Chiêm Thành. Trong sách Vân đài loại ngữ, mục “Phẩm vật”, Lê Quý Đông cho biết: “Người nước Nam (tức Đại Việt) tiếp xúc với người Chiêm nên trồng được nhiều thứ lúa gạo, chín về mùa Hạ, gọi là Lúa Chiêm” (109). Sách Lịch sử Việt Nam cũng khẳng định: “… lúa Chiêm, tức là loại lúa đỏ hoặc lúa túc, trồng vào mùa Đông (tháng 12) chín vào mùa Hè (tháng 4), “một loại lúa đặc hữu ở Chiêm Thành (gọi là Lúa Chiêm) cũng đã được truyền sang Trung Quốc, sang Đại Việt” (110). Từ khi xuất hiện giống Lúa Chiêm thích hợp với thổ ngơi, thời tiết của xứ sở mới Đại Việt, đã góp phần quan trọng cho Đại Việt mở rộng diện tích và thời vụ trồng lúa, tăng sản lượng lương thực. Người có công đưa giống lúa Chiêm vào Đại Cồ Việt đầu tiên là Lê Đại Hành. Và, nơi đầu tiên tiếp nhận và trồng Lúa Chiêm là Hà Nam. Những khái niệm, như “đồng Chiêm trũng”, “Chiêm khê, mùa thối” ra đời từ đó, và khi nói đến những từ này, người ta nghĩ ngay đến… Hà Nam và, chỉ Hà Nam mới có khái niệm đó. Và câu ca dao: “Lúa Chiêm ngấp nghé đầu bờ / Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”, theo nhiều nhà nghiên cứu cũng ra đời từ Hà Nam.

Một trong những việc làm để phát triển nông nghiệp nữa của Lê Đại Hành là việc tổ chức Lễ Tịch điền, cầu mưa thuận gió hòa và nhà vua xuống đồng quất trâu cày luống cày đầu tiên để mở đầu một năm sản xuất nông nghiệp cho nông dân (sẽ nói kỹ ở dưới đây)

Để mở mang giao thông, khai phá những vùng đất mới, năm 992, Phụ quốc Ngô Tử An, theo lời vua Lê Đại Hành đã cho mở con đường bộ đầu tiên tại Cửa Sót (Hà Tĩnh) (tức Nam giới hải khẩu), qua Đèo Ngang (đường dưới) vào đến Bố Chánh và tận Địa Lý, Ma Linh. Theo tài liệu lịch sử, thì, con số người đi mở

(109). Lịch sử Việt Nam, Nhà Xb Trẻ, 2006, Tập 3, tr 265. (110). Lịch sử Việt Nam, Nhà Xb Trẻ, 2006, Tập 3, tr 264.

Page 234: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

304

đường thời đó là 3 vạn người. Sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An có câu: “Thạch thành Lâm Ấp trúc / Lục lộ Tử An bình” (Dịch: Thành đá Lâm Ấp đắp / Đường bộ Tử An xây), là nói về việc này. Con số 3 vạn người của xứ sở Đại Cồ Việt đi mở đường ấy, không phải ai cũng trở về đất cũ quê hương trên miền Bắc, từ Hà Tĩnh trở ra.

LÊ ĐẠI HÀNH - MỘT NHÀ VĂN HÓA

Lê Đại Hành là người khai mở nhiều điển lễ văn hóa. Đầu tiên là Lễ tịch điền, hội lễ quan trọng bậc nhất của xã hội phong kiến ở những quốc gia trồng lúa nước. Lễ Tịch điền, tương truyền do Thần Nông đặt ra, là một đại lễ do chính ông vua trị vì tham dự bằng cách tự mình cày mấy đường cày làm gương cho dân chúng. Đây là một biện pháp khuyến nông được thực hiện vào dịp đầu Xuân. Do nhiều lẽ, trước Lê Đại Hành, khi vua Đinh mở nền độc lập, Đại Cồ Việt chưa tổ chức được điển lễ này. Sau khi Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế (năm 980), ngoài việc đánh Tống, bình Chiêm, mở đường sông, đường bộ từ Xứ Lạng cho đến bên kia Đèo Ngang (Quảng Bình), ông đã rất chú trọng phát triển nông nghiệp. Ông đã chọn miền đất ruộng ở chân Núi Đọi - Hà Nam quê cha làm nơi tiến hành nghi lễ cày tịch điền. Từ Kinh đô Hoa Lư, vua Lê Đại Hành ngự thuyền rồng, theo dòng Hoàng Giang, ra ngã ba Gián Khẩu, vào sông Đáy, ngược lên Châu Cầu, rồi theo dòng Châu Giang ngược lên Núi Đọi để làm lễ mở xá cày đầu tiên cho dân vào vụ đầu năm. Sự kiện này được chép trong nhiều cuốn sử cũ của nước ta, như Việt sử lược (có niên đại vào thế kỷ XIV), Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên, biên soạn vào thế kỷ XV), Đại Nam nhất thống chí - Quốc sử quán triều Nguyễn. Các cuốn sử này đều chép: Vào mùa Xuân năm Đinh Hợi, niên hiệu Thiên Phù, năm thứ 7 (987), nhà vua (Lê Hoàn) bắt đầu cày ruộng tịch điền ở Đội Sơn, được một lọ vàng bạc, cày ở núi Bà Hối được một lọ nữa, vua đặt tên đất đó là ruộng Kim ngân.

Page 235: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

305

Lễ tịch điền đã trở thành điển lễ của Đại Cồ Việt, được triều đại kế tiếp là nhà Lý noi theo, xây nên truyền thống trọng nông của nước ta. Năm 2009, phong tục tốt đẹp - Lễ cày tịch điền đã được UBND tỉnh Hà Nam, với sự phối hợp của Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (Bộ VH-TT&DL) phục dựng tại chính nơi mà 1028 năm trước vua Lê Đại Hành đã cày ruộng. Năm sau, năm 2010, đại lễ này được chính thức hóa ở cấp quốc gia, với việc Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã về, mặc quần áo nâu của nông dân, đi chân đất quất trâu cày ruộng tịch điền. Tiếp sau Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã về cày ruộng Tịch điền Đọi Sơn. Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn đã trở thành lễ hội mang tính quốc gia, được tổ chức thường niên. Cho đến nay, nước ta vẫn cơ bản là nước nông nghiệp, dân cư đa số là nông dân. Việc Đảng, Nhà nước ta khôi phục lại Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn là việc làm rất hợp lý, hợp tình, hợp lòng dân.

Một đóng góp nữa cho văn hóa Việt của Lê Đại Hành là việc tổ chức đua thuyền. Hội này mở đầu vào mùa thu, tháng bẩy, ngày rằm, năm Ất Dậu - 985, nhằm vào lễ sinh nhật của Lê Hoàn, “vua sai người làm thuyền ở giữa sông, lấy tre làm núi giả đặt trên thuyền, gọi là Nam Sơn, rồi bày lệ vui đua thuyền, về sau thành lệ thường” (111). Từ đó cho đến tận ngày nay, đua thuyền là một hoạt động văn hóa - thể thao tiêu biểu, mang đặc trưng của xã hội nông nghiệp lúa nước, tổ chức ở nhiều nơi, với những qui mô khác nhau, cấp làng xã, cấp liên làng, cấp quốc gia, đều có mang lại sức khỏe và niềm vui cho cộng đồng.

Từ nghìn năm nay, trên đất nước ta, nhất là ở Hà Nam, có sự hiện diện của văn hóa Chăm Pa, cả văn hóa hữu thể và văn hóa vô thể. Yếu tố văn hóa Chăm Pa hiện diện độc lập hoặc đã hòa trộn với văn hóa bản địa, đến nay đều đã trở thành một thành tố của văn hóa Việt Nam. Người đầu tiên “đưa” văn hóa Chăm Pa về Đại Việt nói chung, Hà Nam nói riêng ấy, chính là

(111). Đại Việt sử ký toàn thư, Q2, tr 223

Page 236: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

306

Hoàng đế Lê Đại Hành, một người con của Hà Nam. Một trong những yếu tố văn hóa Chăm Pa mà Lê Đại Hành “đưa” về đất Hà Nam đó là nghề làm trống da Đọi Tam. Và, thành quả đầu tiên đó là những chiếc trống da Đọi Tam làm ra đã được tấu lên trong lễ mừng đón Lê Hoàn ca khúc khải hoàn đánh thắng Chiêm Thành.

Lê Đại Hành sau cuộc chinh phạt Chiêm Thành chiến thắng trở về, ngoài giống lúa Chiêm, ông đã mang theo nhiều nghệ nhân, trong đó có những nghệ nhân làm trống da để sau đó, theo yêu cầu / lệnh của ông, những nghệ nhân này đã đóng những chiếc trống đánh trong lễ mừng công của quân dân Đại Việt. Dần dần, nghề làm trống phát triển, như làng trống Đọi Tam ngày nay.

** *

Sự nghiệp của Lê Đại Hành thật hiển hách, vang dội, vượt qua mọi khuôn khổ, giới hạn của thời gian và không gian. Với 24 năm ở cương vị cao nhất quốc gia, Lê Hoàn đã hoạt động không biết mệt mỏi, hết trừ dẹp gian trong, đến đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt Nam, ra oai với người phương Bắc. Ông được nhân dân tôn phong, đề cao, ngợi ca và thờ phụng là người anh hùng dân tộc vĩ đại và đích thực, khiến cho những ai lấy quan niệm về đạo đức và lối sống theo những chuẩn mực Nho gia để đánh giá ông trở nên thiên lệch và bị coi là nhỏ nhen, chấp nhặt, lạc lõng. Trên 300 năm sau khi Lê Đại Hành mất, có người hỏi sử gia tài ba Lê Văn Hưu (1230-1322): “Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Lê Văn Hưu đáp: “Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt Nam, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn” (112). Gần 500 năm sau khi Lê Đại

(111). Đại Việt sử ký toàn thư, Q1, tờ 9b, tr 217

Page 237: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

307

Hành mất, trong Đại Việt sử ký toàn thư Ngô Sĩ Liên nhà sử học lỗi lạc đời Lê cuối thế kỷ XV, đã viết về Lê Đại Hành, ông: “đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bực anh hùng nhất đời vậy”. Ông “trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, Bắc Nam vô sự”, đặt cơ sở nền tảng cho bước phát triển nhảy vọt của quốc gia Đại Cồ Việt đầu thế kỷ XI. Ông là vị Hoàng đế đã có những đóng góp kiệt xuất vào tiến trình lịch sử đất nước. Lê Hoàn còn được đề cao trong dân gian, với 36 nơi thờ ông, trong đó có 12 nơi thờ riêng, 24 nơi phối thờ với các vị thần khác. Tập trung nhất là ở các tỉnh Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định…

Song tiếc thay, cuộc đời ông và triều đại ông tạo nên thì lại không tương xứng , không vận đúng cái tên hiệu Đại Hành - Đi Xa của ông. Lê Đại Hành mất năm 1005, sau 24 năm tại vị. Nhà Tiền Lê tồn tại tổng cộng được có 29 năm, trải qua 3 đời vua: Lê Đại Hành (980 - 1005), Lê Trung Tông ( 1005), Lê Long Đĩnh (1005 - 1009). Lê Long Đĩnh làm vua, vì sống xa đọa, dâm dục quá độ nên mắc bệnh không ngồi được, phải nằm để thiết triều (nên dân gian gọi là Lê Ngọa Triều), nên mới 4 năm thì mất. Trong lúc con tên là Sạ còn bé, nhân dịp này, đình thần đã suy tôn một người đàn ông khác dòng tộc lên làm vua. Đó là Lý Công Uẩn. Triều đại Lý hưng thịnh, bờ cõi mở mang, chiến công hiển hách đánh tan đội quân Tống xâm lược nước ta lần thứ hai, không thể không khẳng định có công lao gây dựng của Lê Đại Hành, bậc hiền tài của đất Hà Nam.

Hoàng đế Lê Đại Hành vẫn đang trong chuyến… Đại Hành.

Page 238: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

308

CÁC TIẾN SĨ NGƯỜI HÀ NAM TRÊN BIA ĐỀ DANH TIẾN SỸ

VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM HÀ NỘI

HOÀNG AN

Hiện nay, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, chỉ còn lại 82 bia đá đề danh các vị đỗ Đại khoa dưới chế độ phong kiến Việt Nam, từ triều Lý đến trước triều Nguyễn (thường gọi là Bia Tiến sĩ). Trong số các vị Tiến sĩ được tôn vinh khắc tên trên 82 bia đá ấy, tỉnh Hà Nam có 18 vị được lưu danh trên 18 bia. Do đó, nếu so với danh sách các Tiến sĩ người Hà Nam được ghi trong các cuốn “Đăng khoa lục”, con số trên còn thiếu nhiều. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu 18 vị Tiến sĩ đã được ghi danh trên 18/82 bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) (113).

- Hoàng Mông, quê xã Bằng Khê (nay là thôn Bằng Khê, xã Liêm Chung), thành phố Phủ Lý, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, Thái Hoà 6 (1448) triều vua Lê Nhân Tông (bia 2).

- Phạm Phổ, quê xã Yên Bài (nay là thôn An Bài, xã Đồng Du), huyện Bình Lục, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Quý Mùi, Quang Thuận 4 (1463) triều vua Lê Thánh Tông. Năm sau ông lại thi đỗ khoa Hoành Từ (1464). Ông làm quan đến chức Thái tử thị giảng rồi đổi sang ngạch võ giữ chức Đô chỉ huy sứ (bia 3).

(113). Tư liệu về quan chức của các vị Tiến sĩ được bổ sung theo sách “Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 - 1919)”. Ngô Đức Thọ chủ biên, NXB Văn học, H.N, 1993.

Page 239: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

309

- Bùi Viết Lương, quê xã Dũng Kim (nay là thôn Dũng Kim, xã Hợp Lý), huyện Lý Nhân, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Bính Tuất, Quang Thuận 7 (1466) triều vua Lê Thánh Tông (khoa này không lấy đỗ Đệ nhất giáp, lấy đỗ 8 Đệ nhị giáp, Bùi Viết Lương xếp thứ hai). Ông đã từng được cử đi sứ nhà Minh (1471), làm quan đến chức Thượng thư (bia 4).

- Nguyễn Kiện Hy (1407 - ?), quê xã Động Linh (nay thuộc xã Duy Hải), huyện Duy Tiên, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Bính Thìn, Hồng Đức 27 (1496), triều vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị độc (bia số 9).

- Lê Đình Tưởng (1474 - ?), quê xã Cao Mật (nay là thôn Cao Mật, xã Lê Hồ), huyện Kim Bảng, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Nhâm Tuất, Cảnh Thống 5 (1502), triều vua Lê Hiển Tông. Ông làm quan chức Phó Đô ngự sử (bia 10).

- Trần Bích Hoành (1470 - ?), quê xã Điền Khê (nay thuộc xã Yên Bắc), huyện Duy Tiên, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Tân Mùi, Hồng Thuận 3 (1511), triều vua Lê Tương Dực. Ông làm quan giám sát Ngự sử (bia 11).

- Tạ Đình Huy (1474 - ?), quê xã Hồng Khê (nay thuộc xã Yên Nam), huyện Duy Tiên, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Tân Mùi, Hồng Thuận 3 (1511), triều vua Lê Tương Dực. Ông làm quan đến chức Cấp sự trung (bia 11).

- Nguyễn Mạo, quê xã Bất Đoạt (nay thuộc xã Châu Sơn), thành phố Phủ Lý, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Tân Mùi, Hồng Thuận 3 (1511), triều vua Lê Tương Dực. Ông được bổ giữ chức Tế tửu Văn Miếu - Quốc Tử Giám (bia 11).

- An Khí Sử (1506 - ?), quê Nễ Độ (nay thuộc xã Nguyên Lý), huyện Lý Nhân, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Kỷ Sửu, Minh Đức 3 (1529), triều Mạc Đăng Dung. Ông làm quan Thị Lang (bia 14)

- Phan Tế (1510 - ?), quê xã Bạch Xá (nay là thôn Bạch Xá, xã Hoàng Đông), huyện Duy Tiên, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Kỷ Sửu, Minh Đức 3 (1529), triều Mạc Đăng Dung. Ông làm quan Thừa chính sứ (bia 14).

Page 240: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

310

- Vũ Hoán, quê xã Hồng Khê (nay thuộc xã Yên Nam), huyện Duy Tiên, đỗ Chế khoa Tiến sĩ năm Giáp Dần, Thuận Bình 6 (1554), triều vua Lê Trung Tông. Ông làm quan đến chức Tham chính, tước Nam (bia 15).

- Phạm Viết Tuấn (1931 - ?), quê xã Lạc Tràng (nay là phường Quang Trung), thành phố Phủ Lý, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Canh Tuất, Cảnh Trị 8 (1670), triều vua Lê Huyền Tông. Ông làm quan giữ chức giám sát (bia 45).

- Trương Công Giai (1665 - ?), quê sở Thiên Kiện (nay thuộc xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm), đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Ất Sửu, Chính Hoà 6 (1685), triều vua Lê Hy Tông. Ông làm quan đến chức Thượng thư Bộ hình, Tế tửu Văn Miếu - Quốc Tử giám, tước Ly quận công, sau khi mất được tặng hàm Thiếu bảo (bia 50).

- Trương Minh Lượng (1636 - ?), quê xã Nguyễn Xá (nay là thôn Nguyễn Xá, xã Tiên Nội), huyện Duy Tiên, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Canh Thìn, Chính Hoà 21 (1700), triều vua Lê Hy Tông. Ông làm quan đến chức Tự khanh, tác phẩm hiện còn 6 bài thơ chữ Hán được chép trong Toàn Việt thi lục (bia 55)

- Nguyễn Quốc Hiệu (1696 - ?), quê xã Phú Thứ (nay là thôn Phú Thứ, xã Tiên Hiệp), huyện Duy Tiên, đỗ Thám Hoa khoa Bính Thìn, Vĩnh Hựu 2 (1736), triều vua Lê Ý Tông. Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ (bia 67).

- Nguyễn Tông Mại (1708 - ?), người xã Yên Đổ (nay là thôn Vị Hạ, xã Trung Lương), huyện Bình Lục, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Bính Thìn, Vĩnh Hựu 2 (1736). Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ (bia 67).

- Nguyễn Kỳ (1718 -?), quê xã An Lão (nay là thôn An Lão), huyện Bình Lục, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Mậu Thìn, Cảnh Hưng 9 (1748). Ông làm quan đến chức Đông các Đại học sĩ, Hành Tế tửu Văn Miếu - Quốc Tử Giám (bia 71).

- Lý Trần Thản (1721 - ?), quê xã Lê Xá (nay là thôn Lê Xá, xã Châu Sơn), huyện Duy Tiên, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ,

Page 241: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

311

khoa Kỷ Sửu, Cảnh Hưng 30 (1769). Ông làm quan đến chức Thị độc, Hữu tư giảng, được bổ đi giữ chức Trấn thủ Hưng Hoá rồi mất. Ông được triều đình truy phong chức Hình Bộ Hữu thị lang, tước Hầu (bia 78).

Trong số 18 vị Tiến sĩ Hà Nam được vinh danh trên 18 bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, có ba vị là Nguyễn Mạo, Trương Công Giai, Nguyễn Kỳ đã được các triều đại phong kiến nhà Hậu Lê giao chức vụ Tế tửu, hoặc Hành tế tử (tương đương với chức Hiệu trưởng trường Đại học sau này) Văn Miếu - Quốc Tử Giám trông nom việc đào tạo nhân tài cho đất nước.

Văn bia đề danh Tiến sĩ triều đình thường giao cho các nhà khoa bảng tài cao, đức trọng; trong đó có một người Hà Nam: Hoàng giáp Lê Tung (quê xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm). Ông là người soạn văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1511), khoa thi này có 3 Tiến sĩ người Hà Nam được nêu danh trên bia là Trần Bích Hoành, Tạ Đình Huy, Nguyễn Mạo.

Tiến sĩ - Bảng nhãn Lê Quý Đôn, quê ngoại ở thôn Khả Duy (xã Mộc Bắc, huyện Duy Tiên) cũng nhận trách nhiệm soạn văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1769).

Page 242: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

312

NGUYỄN KHUYẾNNỖI CÔ ĐƠN CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC

TRONG XÃ HỘI THỰC DÂN PHONG KIẾN

PGS.TS. NGUYỄN QUỐC SỬU *

1. Đặt vấn đềNguyễn Khuyến (1835 - 1909) là một trong hai nhà thơ tiêu

biểu nhất (cùng với Tú Xương) của nền văn học nước ta giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Vừa nổi danh về khoa bảng (ba lần đỗ đầu các kỳ Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình - Tam nguyên), vừa nổi danh về nhân cách và thi ca, nhưng cuộc đời ông có thể xem là một khối bi phẫn bất đắc chí trước thời cuộc nhiễu nhương. Làm quan có 11 năm (1872 - 1883) rồi sau đó lấy cớ đau mắt cáo quan về làng, gần ba thập kỷ cuối đời ông chọn lối sống thanh liêm, tiết tháo và tận sâu đáy lòng ôm một niềm u uẩn. Ông vẫn có bạn thân, vẫn có hàng xóm tốt, vẫn chan hòa cùng cuộc sống của những người lao động bình thường nơi thôn dã nhưng những điều kín nhiệm trong lòng thì đâu dễ thổ lộ cùng ai. Bài viết này, bởi thế, sẽ bàn về nỗi cô đơn tột cùng và sự bế tắc của ông - một bậc đại Nho - một trí thức lớn giữa thời loạn khi đất nước dưới ách đô hộ của thực dân phong kiến.

2. Nội dung chính2.1. Nguyễn Khuyến không cô độcTrước hết, cuộc sống của Tam Nguyên Yên Đổ khi cáo quan

* Học viện Hành chính Quốc gia.

Page 243: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

313

về làng không hề cô độc, bởi cô độc và cô đơn là hai phạm trù khác nhau. Ở làng quê, Nguyễn Khuyến hàng ngày vẫn có được những niềm vui bình dị nơi thôn dã trong sự giao hòa cùng thiên nhiên và con người. Về sự giao hòa với thiên nhiên cây cỏ đất trời, có thể thấy qua những cặp câu thực của chùm 3 bài thơ Thu danh tiếng:

“Nước biếc trông như từng khói phủSong thưa để mặc bóng trăng vào” (Thu Vịnh)“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạtLàn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm)“Sóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu)Tình cảm thiên nhiên còn được thể hiện qua nhiều bài thơ

chữ Hán như Ái quất (Yêu quất), Vịnh cúc (2 bài), Vịnh mai, Thủy tiên, Tiểu viên (Vườn nhỏ), Thái viên (Vườn rau), Hạ nhật ngẫu hứng (Ngẫu hứng mùa hè):

“Cá vượt khóm rau lên mặt nướcBướm len lá trúc lượn rèm thưa” (Hạ nhật ngẫu hứng)“ Chẳng hay gốc tích nơi nàoNgẫu nhiên năm trước, trồng vào vườn taLá chưa mọc, đã đầy hoaHoa tàn lá mới rườm rà đua tươiXanh tươi hơn mọi cây rồiMà hương thanh lại khác vời trăm hoa”. (Vịnh mai) Về sự giao hòa với con người, có thể thấy ông luôn được nhân

dân kính trọng và quý mến. Trong đời thực, ông mở lớp dạy học, viết câu đối cho mọi người mỗi khi được nhờ cậy. Trong thơ, ta bắt gặp nhiều hình ảnh, chi tiết ông được tặng quà, biếu quà:

Page 244: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

314

“Vải chín, bà hàng bưng quả biếuCá tươi, lão giặm nhắc nơm chào”. (Hạ nhật ngẫu hứng)Ông còn có bài thơ Nhân tặng nhục (Có người cho thịt): “Cảm tử phi Vương TônTri ngã hữu Bảo ThúcThủ chi hà thương liêmVô dung thích tha tộc” Dịch nghĩa:(Cảm lòng ngươi, ta không được như Vương TônBiết ta, đời còn có Bảo ThúcTa nhận đây, tưởng cũng chẳng hại gìLại không phải đi kêu nài cửa khác). Nhớ lại lúc ông mới ở triều đình về hưu trí, ra đón ông trước

cổng có cả trẻ con lẫn bạn già, tình cảm vô cùng thắm thiết: “Lùm thông ngõ cũ ngỡ ngàngCánh hồng đơn chiếc mây giăng bộn bềTrẻ reo bên cổng ông vềBạn xưa dừng gậy hề hề mừng ông” (Hoàn gia tác)Chỉ cần xem lại tên những bài thơ của Nguyễn Khuyến, ta

thấy ông cũng có khá nhiều bạn hữu, giao tình với nhau trong việc xướng họa hay đối ẩm, chẳng hạn các bài: Hạ nhật phỏng biểu huynh Đặng Thai quy tác (Đến chơi nhà bác Đặng Thai trở về), Họa đáp Hoàng tham tri tặng hồi nguyên vận (Họa vần thơ Hoàng tham tri tặng ngày về hưu)...Có những bài thể hiện tình bạn chân thành thắm thiết, vượt lên trên mọi nghi thức đời thường như Bạn đến chơi nhà. Qua bài Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư (Nguyễn Khuyến tự dịch luôn sang chữ Nôm), ta có thể thấy người bạn thân nhất của Nguyễn Khuyến chính là Dương Khuê. Nhưng thân tình như vậy mà có phải thường xuyên gặp được nhau để bày tỏ nỗi niềm đâu:

Page 245: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

315

“Muốn đi lại tuổi già thêm nhácTrước ba năm gặp bác một lầnCầm tay hỏi hết xa gầnMừng rằng bác hãy tinh thần chưa can”. Bài thơ càng đọc về cuối càng gây xúc động mạnh mẽ, nhịp

điệu dồn dập, nức nở, thống thiết, chứng tỏ một tình bạn sâu nặng đến độ tri âm tri kỷ:

“Rượu ngon không có bạn hiềnKhông mua không phải không tiền không muaCâu thơ nghĩ đắn đo không viếtViết đưa ai ai biết mà đưaGiường kia treo những hững hờĐàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đànBác chẳng ở dẫu van chẳng ởTôi tuy thương lấy nhớ làm thươngTuổi già hạt lệ như sươngHơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”. Như vậy, cuộc sống của Nguyễn Khuyến ở thôn quê không

cô độc. Nhưng tại sao sâu thẳm trong thơ ông vẫn giăng mắc nỗi buồn, nỗi cô đơn hiu quạnh? Ấy là vì nỗi niềm tâm sự không dễ bày tỏ cùng ai, mà có bày tỏ cũng không giải quyết được bởi một vài cá nhân chẳng thể đảo ngược bánh xe lịch sử. Việc Nguyễn Khuyến cáo quan không phải vì ông không muốn phục vụ triều đình nữa, không phải vì ông không muốn trả ơn vua đền nợ nước, mà vì ông thấy rằng ông có ở lại triều đình thì cũng không thể thay đổi được cục diện trong mối quan hệ với người Pháp. Ông không thể làm quan khi đất nước đã rơi vào tay giặc. Ông cũng không thể chấp nhận phải ở trong một môi trường với những tên quan bất lương, tráo trở, sẵn sàng làm tay sai cho giặc như: Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân. Nhưng Nguyễn Khuyến cũng không lựa chọn được con đường tử tiết để đền nợ nước như Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, ông cũng không thể trở thành một võ tướng để chiêu mộ nhân dân

Page 246: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

316

làm cuộc khởi nghĩa chống giặc. Bi kịch của Nguyễn Khuyến là ở chỗ đó.

2.2. Nỗi buồn và sự cô đơn trong thơ Nguyễn Khuyến.Đọc kỹ thơ Nguyễn Khuyến, ta càng thấy nỗi buồn trong thơ

ông da diết, đắng đót, len lỏi vào từng góc tâm hồn, khi ông say cũng như khi ông tỉnh, khi ông ngủ cũng như khi ông thức. Có những lúc ông chọn cách thể hiện trực tiếp như bài Bùi viên cựu trạch ca hay Di chúc văn:

“Ngọn gió đông ngảnh lại lệ đầm khăn Tình thương hải tang điền qua mấy lớp?” (Bùi viên cựu trạch ca)“Ơn vua chửa chút báo đềnCúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời”. (Di chúc văn)Cũng có khi ông thể hiện nỗi buồn một cách kín đáo, man

mác, phải đọc kỹ ngẫm kỹ hồi lâu mới hiểu. Ba cặp câu luận trong chùm thơ thu đều thể hiện nỗi buồn chìm sâu, nỗi cô đơn khắc khoải của ông.

“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoáiMột tiếng trên không ngỗng nước nào,

là sự hoài niệm quá khứ và ngơ ngác trước không gian thời gian. “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắtMắt lão không vầy cũng đỏ hoe”,là nỗi cô đơn tột độ không người chia sẻ, bởi vậy mà “trời”

câu trên đối với “lão” câu dưới (hiểu ta họa có lòng trời), “xanh ngắt” (vô tình) đối với “đỏ hoe” (hữu tình).

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắtNgõ trúc quanh co khách vắng teo”,

cũng là một nỗi cô đơn khi nhà thơ khao khát có yếu tố con người mà không thể toại nguyện. Cái sự vắng khách, vắng người chia sẻ còn được thể hiện trong nhiều bài thơ khác. Và trong miền không gian của nhà thơ, luôn thấp thoáng hình ảnh bóng trúc/cây trúc. Trúc theo quan niệm phương Đông được hiểu là biểu

Page 247: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

317

tượng của người quân tử. Vì thế, ngõ trúc khách vắng teo cho ta hiểu thêm một ẩn ý về người quân tử cô đơn. Xin đọc về hình ảnh trúc trong một câu thơ khác của Yên Đổ, vẫn là cái cảnh chờ mong một bóng khách tới thăm:

“Hoa hiên nguyệt ảnh tri phi khách,Trúc kính phong thanh nghi hữu nhân”Dịch: “Hiên trăng vắng bạn lẻ loiTre già kẽo kẹt ngỡ người tới thăm” (Bài muộn)Nỗi khát khao được chia sẻ và sự cô đơn còn được diễn tả

trực tiếp trong bài Mạn hứng: “Nước non man mác về đâu táBè bạn lơ thơ sót mấy ngườiĐời loạn đi về như hạc độcTuổi già hình bóng tựa mây côi”Là một người tự nhận xét về mình rằng có tửu lượng không

cao (Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy/Độ dăm ba chén đã say nhè - Thu ẩm), thế nhưng Nguyễn Khuyến lại có rất nhiều bài thơ viết về việc uống rượu, dường như thi nhân muốn mượn rượu để khuây khỏa những tâm sự trong lòng mình:

“Khi buồn chén rượu say không biếtNgửa mặt lờ mờ ngọn núi xa” (Cáo quan về nhà)“Chớ buồn chi nghe tiếng hát làng sayXin người gắng cạn chén này” (Bùi viên đối ẩm trích cú ca) “Thế gian say đã được chưaKhông say đời cũng bằng thừa kể chi” (Túy ngâm)Nguyễn Khuyến có ba bài thơ Xuân nhật (Ngày xuân) thì cả

ba bài đều buồn xa vắng, trống trải hơi người và nỗi niềm chờ khách tới của thi nhân rơi vào vô vọng:

Page 248: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

318

“Đầm đìa lệ sớm cành tre rủLạc lõng canh khuya tiếng hạc quaẤm chỗ chẳng buồn tung áo dậyCửa ngoài vẫn mở khách chừng thưa” (Xuân nhật 1)“Lão hưu lui tới thưa ngườiĐàn xưa Bành Trạch suốt đời không dây” (Xuân nhật 2)Mùa xuân vốn được coi là mùa đẹp nhất trong năm, cây cối

tốt tươi đâm chồi nảy lộc, lòng người lẽ ra phải hân hoan vui vẻ, vậy mà mấy bài thơ xuân của Nguyễn Khuyến đều buồn hiu hắt. Làng quê thân thiện và bình yên thật, nhưng hình như con người thi nhân ở đây vẫn không thoát khỏi cái cảm giác bị kìm hãm, đè nén, níu giữ. Vẫn có một nỗi gì bức bối, chật chội, uất tất khiến con người không thể vượt thoát. Nỗi cô đơn của con người ở đây đã vượt lên sự giãi bày mang tính chất riêng tư mà nó đã đạt tới một tầm vóc khái quát, khiến chúng ta nghĩ nhiều hơn về những thân phận tri thức bị lạc loài giữa thời cuộc, không tìm được đất dụng võ, không tìm được cơ hội cho mình cũng như chưa thấy cả cơ hội cho hậu duệ mình. Nỗi u uẩn của Nguyễn Khuyến cũng như tất cả những người trí thức chân chính đương thời là tấm lòng cô trung nghĩ về xã tắc, giang sơn nhưng không thể thay đổi được hiện tại. Nỗi cô đơn vì thế được đẩy tới độ nghẹn ngào trong chính sự bất lực:

“Năm canh máu chảy đêm hè vắngSáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờCó phải tiếc xuân mà đứng gọiHay là nhớ nước vẫn nằm mơ” (Cuốc kêu cảm hứng)Đôi khi người ta mong níu kéo lấy chút dấu tích xưa như để

tìm một điểm nương tựa về tinh thần nhưng cũng không thể: “Năm trăm năm cũ nơi văn vậtCòn sót hòn non một nắm trơ!” (Hoàn Kiếm hồ)

Page 249: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

319

“Lầu Khuê chuông vẫn kêu giònBích Câu nước vẫn gọi hồn trăng khuyaSụt sùi đạo thánh đã suyPhảy bia, người trước chữ ghi chưa nhoà” (Hà Nội Văn Miếu hữu cảm)3. Kết luận Nguyễn Khuyến không hề cô độc nhưng lại xiết bao cô đơn.

Hơn thế nữa, ông còn là hiện thân của một thân phận trí thức bị lạc lõng trước thời cuộc. Sự trăn trở đau đáu trong thơ ông, xét cho cùng chính là tâm sự, là nỗi lòng muôn đời của những trí thức chân chính. Sau Nguyễn Khuyến gần một thế kỷ, một nhà văn cùng quê hương Hà Nam với ông - cây bút văn xuôi hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán nửa đầu thế kỷ XX - Nam Cao, luôn trăn trở về người trí thức trong một loạt các truyện ngắn nổi tiếng của ông. Những nỗi niềm đồng điệu ấy vượt qua mọi khác biệt về thời gian, không gian và thể chế đương thời. Người trí thức chân chính, dù trong bất kỳ thời đại nào, vẫn luôn muốn góp sức mình cho dân, cho nước, muốn tiếng nói và tấm lòng của mình được chia sẻ. Nhưng những người trí thức cần được đặt vào đúng môi trường sở đắc và toại nguyện nhất để có thể thực hiện những hoài bão ước mơ của mình, trong đó vai trò của những người lãnh đạo xã hội, quản lý đất nước là vô cùng quan trọng. Sự lựa chọn cáo quan về quê là tất yếu trong trường hợp của Nguyễn Khuyến, bởi giữa ông và bộ máy lãnh đạo phong kiến đương thời không thể tìm được tiếng nói chung. Những hạn chế có tính lịch sử trong tư tưởng của ông là điều không thể tránh khỏi, nhưng nỗi buồn và sự cô đơn của Nguyễn Khuyến lại khiến cho hậu thế chia sẻ và kính trọng hơn nữa về nhân cách của ông. Nỗi buồn của Nguyễn Khuyến cũng như những trăn trở của Nam Cao nửa đầu thế kỷ XX, cho tới hiện nay vẫn mang một ý nghĩa thời sự lớn, nó khiến ta phải suy nghĩ nhiều hơn về trách nhiệm, vai trò và vị trí của người trí thức trong việc cống hiến cho xã hội. Nhưng

Page 250: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

320

quan hệ giữa người trí thức và xã hội với những người lãnh đạo phải là một tương tác hai chiều mang tính dân chủ và đồng thuận, cùng hướng về một mục tiêu chung mang lại lợi ích cho cả cộng đồng. Chỉ có như vậy, người trí thức - những hiền tài quốc gia mới toàn tâm, toàn ý cống hiến cho xã hội và, xã hội, đất nước mới thâu nhận được những thành tựu tốt đẹp do trí thức mang lại.

Page 251: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

321

MỘT SỐ TƯỚNG LĨNH TIÊU BIỂU NGƯỜI HÀ NAM TRONG LỊCH SỬ

BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH HÀ NAM

Trải qua các thời kỳ lịch sử, quê hương Hà Nam luôn đồng hành cùng dân tộc đã hun đúc nên truyền thống văn hóa yêu nước, cách mạng và thời nào cũng xuất hiện những tướng tài, những anh hùng đấu tranh chống ngoại xâm, mang lại độc lập cho dân tộc. Đặc biêt, từ ngày có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Truyền thống văn hóa, yêu nước cách mạng Việt Nam đã được phát huy lên một tầm cao mới. Quê hương Hà Nam tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng kiên c ường, cùng với những địa chỉ đỏ, những chiếc nôi của phong trào cách mạng như : Lũng Xuyên, Hưng Công, Cao Mật, tiếng trống Bồ Đề năm 1930 còn vang vọng đến mai sau và những chiến sĩ cộng sản kiên cư ờng, tiêu biểu như: Nguyễn Hữu Tiến, Lương Khánh Thiện, Lê Hồ… mãi mãi là niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Đó là điểm tựa nâng bước cho mỗi người dân Hà Nam trên mọi nẻo đường đất nước. Từ quê hương, biết bao người con ưu tú đã ra đi chiến đấu trên các chiến trường, có hàng vạn người đã anh dũng hy sinh hoặc đóng góp một phần xương máu, sức lực cho sự nghiệp cách mạng, vì độc lập tự do cho Tổ quốc, tô thắm thêm truyền thống quê hương. Trải qua quá trình phấn đấu, rèn luyện, trưởng thành, trong khó khăn, gian khổ, ác liệt, từ trong máu lửa của cuộc đấu tranh cách

Page 252: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

322

mạng giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiều người đã trở thành tướng lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, họ là những cán bộ nòng cốt của lực lượng vũ trang cách mạng, những người con ưu tú ấy đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang. Đến nay, quê hương Hà Nam đã có 76 đồng chí được Đảng, Nhà nước phong quân hàm cấp Tướng. Trong đó tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam là 57 đồng chí, tướng lĩnh trong Công an nhân dân Việt Nam là 19 đồng chí.

Dưới đây, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một số danh tướng tiêu biểu người Hà Nam qua các thời kỳ lịch sử đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

* TRẦN BÌNH TRỌNG

Trong cuộc kháng chiến ba lần chống quân Nguyên - Mông xâm lư ợc của quân dân nhà Trần thế kỷ XIII, nhân dân Hà Nam đã tham gia tích cực, có nhiều đóng góp để làm nên ba lần chiến thắng trước kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới lúc đó. Trong số các tướng lĩnh tiêu biểu của nhà Trần tham gia ba cuộc kháng chiến ấy có Trần Bình Trọng, một người con của xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm. Trần Bình Trọng vốn dòng dõi Lê Hoàn và Lê Phụ Trần, được vua Trần tin yêu, ban Quốc tính và phong “Bảo nghĩa hầu”.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông tháng 2/1285, cùng với quân dân cả nước, nhân dân vùng Lỵ Nhân (Hà Nam ngày nay) cũng đã chuẩn bị chu đáo để bước vào một cuộc kháng chiến khốc liệt hơn. Trước thế mạnh của giặc, mặc dù quân đội nhà Trần đã đánh trả rất quyết liệt, song cuối cùng hai vua Trần (Thượng hoàng Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông) đã quyết định sáng suốt rút khỏi Kinh thành Thăng Long. Vua tôi nhà Trần theo sông Thiên Mạc rút về vùng Thiên Trường. Trên đường rút, quân ta dựa vào những cứ điểm quân sự tại

Page 253: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

323

các “chốt nước” ở vùng ngã ba sông để bố trí trận địa mai phục. Nhiều tấm gương hy sinh cao cả xuất hiện, được sử sách ghi lại, trong đó có những người con của quê hương Hà Nam cống hiến thân mình cho sự nghiệp giữ nước thời Trần. Trong đó có Trần Bình Trọng. Trần Bình Trọng chỉ huy chặn giặc Nguyên - Mông trên sông Thiên Mạc - Châu Giang tháng 2/1285 để vua Trần rút lui an toàn theo đường sông này về Thiên Trường. Trần Bình Trọng bị địch bắt, không chịu ăn, giặc hỏi việc nước không trả lời. Hỏi: “Có muốn làm vương đất Bắc không?”. Vương thét to: “Thà làm ma nước Nam chứ không làm vương đất Bắc!”. Sau khi Bình Trọng bị giặc giết vào ngày 26/02/1285, vua Thái Tông được tin rất lấy làm thương xót, khóc mãi. Ông đã được truy tặng tước vương.

* BÌNH TÂY ĐẠI TƯỚNG QUÂN ĐINH CÔNG TRÁNG

Khi thực dân Pháp xâm lư ợc n ước ta, nhân dân Hà Nam cùng cả nư ớc đứng lên chống xâm lư ợc, góp phần viết lên trang sử hào hùng của dân tộc. Trong phong trào Cần Vương kháng Pháp cuối thế kỷ XIX, một người con của Hà Nam là Đinh Công Tráng đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Ba Đình, với căn cứ địa Ba Đình nổi tiếng.

Đinh Công Tráng sinh ra và lớn lên trong một gia đình làm nghề y ở huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam - một vùng đồng chiêm trũng, quê nghèo nhưng giàu truyền thống cách mạng. Trong bối cảnh suy tàn của nhà Nguyễn, Đinh Công Tráng sớm nhận ra nỗi thống khổ của người dân lao động trước bọn địa chủ, cường hào, ác bá và chế độ hà khắc giặc ngoại xâm. Mặc dù được truyền nghề y và rất giỏi môn ngoại khoa, nhưng với ý nguyện bênh vực cho người nghèo, che chở cho dân lành, ông quyết định bỏ nghề y để nhận chức Hoàng trưởng, Lý trưởng rồi Cai tổng. Thời kỳ làm Lý trưởng, Cai tổng, ông ra sức đấu tranh chống tham nhũng, bảo vệ dân lành, giữ gìn quê hương bình yên, duy trì kỷ cương, phép nước.

Page 254: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

324

Chứng kiến sự xâm lược và ách đô hộ, tàn ác của chủ nghĩa thực dân đối với quê hương, đất nước, ông đứng lên phất cờ đại nghĩa chống giặc, cứu nước, giải phóng quê hương. Một mình dám chống lại 3 thế lực, đó là: Đế quốc Pháp hùng mạnh, tàn bạo; triều đình phong kiến, tay sai bán nước và giáo hội phản động xảo quyệt. Đâu có người nghĩa khí chống giặc là tìm đến kết liên. Đâu có giặc là xốc tới tiêu diệt. Ông trực tiếp tham gia tổ chức lực lượng đánh giặc ròng rã 15 năm trời, suốt chiều dài gần nửa đất nước (từ Bảo Hà, sát biên giới Việt - Trung đến Thanh Hóa, Nghệ An).

Tiêu biểu nhất vào năm 1885, hư ởng ứng chiếu Cần V ương, nhân dân khắp nơi dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu văn thân yêu nư ớc đã sôi nổi đứng lên chống Pháp. Ở các tỉnh miền Trung, từ cuối năm 1885, đầu năm 1886, phong trào phát triển mạnh mẽ. Tôn Thất Thuyết cho rằng, Thanh Hóa có núi non hiểm trở, đất rộng, ng ười đông, có điều kiện cho việc dấy binh, tụ nghĩa, chống giặc cứu nư ớc. Vì vậy, ông cử quan Tả dục Trần Xuân Soạn về đây trực tiếp thống nhất chỉ đạo phong trào chống Pháp trong toàn tỉnh. Tôn Thất Thuyết gửi thư cho Trần Xuân Soạn mời Đinh Công Tráng, một tướng có tài thao l ược, nhiều m ưu cơ vào Thanh Hóa để tham gia chỉ đạo kháng chiến, làm chủ soái căn cứ địa Ba Đình.

Giữa năm 1886, Đinh Công Tráng và những ng ười lãnh đạo phong trào ở Thanh Hóa có mặt tại Bông Trung (Vĩnh Lộc) cùng nhau bàn bạc, tìm ra phương sách mới để duy trì và phát triển phong trào kháng chiến trong toàn tỉnh. Những ng ười nhóm họp thống nhất phải nhanh chóng xây dựng Thanh Hóa thành một căn cứ vững chắc cho phong trào chung của toàn quốc. Trên cơ sở nghiên cứu địa thế Ba Đình (Nga Sơn), hội nghị quyết định xây dựng nơi đây thành căn cứ quân sự có khả năng bảo vệ cho các tỉnh miền Trung và làm bàn đạp tỏa ra đánh địch ở vùng đồng bằng. Hội nghị tin t ưởng và nhất trí giao cho Đinh Công Tráng, Phạm Bành và Hoàng Bật Đạt toàn bộ công việc xây dựng và bảo vệ căn cứ kháng chiến trọng yếu này.

Page 255: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

325

Ba Đình là một xã đồng chiêm của huyện Nga Sơn (Thanh Hóa), cách tỉnh lỵ Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa) 40 km về phía Đông bắc. Ba Đình có 3 làng: Mỹ Khê, Th ượng Thọ và Mậu Thịnh, nổi lên giữa cánh đồng ngập nước lầy lội rộng trên 2000 mẫu, nằm giữa hai dòng sông Hoạt và sông Chính Đại. Gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một ngôi đình, từ đình làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia. Đây là một địa bàn quan trọng, lập căn cứ ở đây, nghĩa quân có thể kiểm soát đư ợc toàn bộ trục đ ường giao thông chiến lư ợc từ Ninh Bình vào Thanh Hóa, vừa có thể rút lui nhanh chóng mỗi khi lâm vào tình thế bất lợi. Từ Ba Đình, theo đ ường thủy có thể xuôi ra biển hoặc ngư ợc lên thượng du; theo đ ường bộ có thể giao l ưu với các huyện: Hậu Lộc, Hà Trung, Hoàng Hóa, Vĩnh Lộc.

Lợi dụng triệt để địa hình đặc biệt này, Đinh Công Tráng chỉ huy nghĩa quân xây dựng Ba Đình thành một cứ điểm phòng ngự khá kiên cố. Vòng ngoài cùng của căn cứ đ ược bao bọc bởi hệ thống hàng rào tre dày đặc ngụy trang kín đáo cho hệ thống công sự bên trong; tiếp đến là hệ thống giao thông hào sâu 3-4 mét, rồi các bãi chông, trong cùng là thành đất dày 8-10 mét, cao 3-4 mét. Trong căn cứ, ba ngôi đình của ba làng đư ợc dùng làm các trung tâm chỉ huy và tập trung quân, có các đ ường giao thông hào nối liền với các hào chiến đấu ở xung quanh. Trên mặt thành, nghĩa quân xếp nhiều rọ tre đựng đầy bùn trộn rơm rạ để chắn đạn. Để bảo vệ cho Ba Đình, Đinh Công Tráng còn chỉ đạo xây dựng một số đồn tiền tiêu ở phía ngoài như các đồn: Thanh Đán (phía Tây bắc), Hang Doi, Răng C a (phía Đông bắc), núi Thúc, Tuân Đạo (phía Bắc), Xa Loan, Thổ Hoàng (phía Đông), Tri Cụ (phía Nam) và một trạm quan sát trên núi Nga Châu. Các đồn tiền tiêu này đư ợc bố trí lực lư ợng rất nhỏ, chủ yếu làm nhiệm vụ quan sát, nắm tình hình địch và liên lạc với trung tâm Ba Đình bằng hệ thống trống, mõ, ban đêm thì dùng đèn. Việc chỉ huy xây dựng căn cứ Ba Đình đ ược thực hiện nhanh chóng, khoa học, cụ thể, với ý chí quyết tâm cao và bảo đảm bí mật.

Page 256: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

326

Có thể nói, Ba Đình là một căn cứ phòng ngự quy mô nhất trong thời kỳ Cần V ương chống Pháp cuối thế kỷ XIX, là một kiểu thành lũy độc đáo, từ x a chưa ai nghĩ tới và làm như vậy. Chính kẻ thù đã phải thán phục và thừa nhận đây là một công trình phòng ngự kỹ thuật cao và lợi hại: “Việc nghiên cứu bên trong Ba Đình khiến chúng tôi hết sức ngạc nhiên, vì chứng tỏ các công sự đã được xây dựng với một kỹ thuật cao nh ư thế nào. Đư ờng các công sự đã đ ược xây gấp khúc để tạo thành khắp nơi những ổ tác chiến chắc chắn và cả ba làng đều có các công sự bố trí khéo léo để trong trư ờng hợp hai làng bị đánh chiếm, thì làng kia vẫn có thể dùng làm pháo đài chiến đấu”.

Về tổ chức biên chế, lực l ượng nghĩa quân có khoảng 300 quân và 4 khẩu súng thần công, đư ợc chia thành 10 toán, mỗi toán có một hiệp quân chỉ huy. Để tăng c ường lực l ượng chiến đấu lâu dài với địch, Đinh Công Tráng tuyển mộ thêm những thanh niên trai tráng khỏe mạnh từ các huyện về căn cứ huấn luyện và học cách sử dụng các loại vũ khí. Đồng thời, cử ng ười đi thu mua, quyên góp l ương thực; lập các đội “Nữ binh bí mật” đư a về xây dựng cơ sở ở những địa bàn địch đóng quân và trục đư ờng quan trọng từ Ninh Bình về Thanh Hóa để nắm tin tức địch. Nghĩa quân còn vận động tham gia đánh giặc, bảo vệ xóm làng và luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ với các nghĩa quân khác, nhất là quân của Trần Xuân Soạn. Sau khi công việc xây dựng hoàn tất, từ căn cứ Ba Đình, nghĩa quân thường chia thành các nhóm nhỏ tổ chức tập kích một số đồn lẻ đóng trên địa bàn các huyện: Hà Trung, Hậu Lộc; chặn đánh các toán quân tuần tiễu; phục kích nhiều đoàn quân vận tải của địch nhằm cắt đứt các tuyến đ ường giao thông xung quanh căn cứ Ba Đình, gây cho chúng nhiều tổn thất và hoang mang.

Sự xuất hiện của căn cứ Ba Đình đã khiến cho thực dân Pháp hết sức lo ngại. Cuối năm 1886, với hơn 500 quân, có đại bác yểm trợ, địch mở cuộc tấn công lớn vào căn cứ Ba Đình nh ưng bị nghĩa quân đánh thiệt hại nặng, phải rút lui chờ viện

Page 257: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

327

binh tiếp ứng. Sang đầu năm 1887, với quyết tâm triệt hạ căn cứ Ba Đình, Pháp cử Đại tá Bơ-rít -xô (Brissaud) đã từng tham gia công phá thành Pu-ê-bia(Puebia) ở Mê-hi-cô năm 1863, sang trực tiếp đảm nhiệm việc đánh phá căn cứ Ba Đình. Ngày 6 tháng 1 năm 1887, Bơ-rít-xô đã huy động khoảng 2500 quân chia làm ba mũi, có pháo binh yểm trợ đánh vào căn cứ. Nh ưng tr ước sự kháng cự kiên c ường của nghĩa quân, sau nhiều đợt tiến công, quân Pháp vẫn không đột nhập đư ợc vào căn cứ. Chính Pháp phải thừa nhận rằng: “Trong chiến dịch Thu-Đông 1886-1887, cuộc vây hãm Ba Đình là cuộc chiến đấu nghiêm trọng nhất. Cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân nhất và làm cấp chỉ huy lo lắng nhất”. Thực dân Pháp đã mở hai đợt tấn công vào căn cứ Ba Đình, nh ưng với tài thao lư ợc chỉ huy của ông và tinh thần chiến đấu của nghĩa quân, cả hai đợt tấn công của thực dân Pháp đều bị thất bại nặng nề. Lúc này, chính phủ Pháp yêu cầu bằng mọi giá phải nhanh chóng dập tắt cuộc khởi nghĩa Ba Đình. Thực hiện chỉ thị đó, với kiểu đánh tàn bạo: Hỏa công, diệt viện, công thành, đầu năm 1887, tổng chỉ huy quân Pháp là Bơ-rít-xô chuyển sang thực hiện chiến thuật bao vây, lấn dần từng bư ớc nhằm cô lập căn cứ và cắt đứt nguồn tiếp tế của nghĩa quân, đồng thời sử dụng đại bác ngày đêm bắn phá dữ dội vào căn cứ. Sau một thời gian tấn công, thực dân Pháp trút liên tục vào căn cứ Ba Đình hàng vạn quả đạn đại bác, quân địch mới tiến đến gần chiến lũy của nghĩa quân. Từ đây, chúng dùng trọng pháo mở đột phá khẩu ở phía Bắc làng Th ượng Thọ để tràn vào, lấy dầu phun lửa đốt cháy lũy tre và tiêu hủy nhà cửa. Xác giặc ngổn ngang, máu loang đỏ nư ớc, 280 lính Âu và nhiều sỹ quan Pháp phải bỏ mạng, chư a kể lính triều đình và giáo dũng; thành lũy bằng rơm bùn, rọ đất của Đinh Công Tráng vẫn đứng vững. Dù chiến đấu rất dũng cảm, nh ưng tr ước sức mạnh áp đảo của quân Pháp, nghĩa quân ngày càng bị tổn hao và cô lập. Biết không thể giữ đư ợc căn cứ Ba Đình, Đinh Công Tráng, Phạm Bành và các thủ lĩnh khác quyết định

Page 258: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

328

rút lui về căn cứ Mã Cao tiếp tục chiến đấu. Nh ưng khi nghĩa quân vừa tập kết đến Mã Cao, ch ưa kịp củng cố lực l ượng đã bị quân Pháp đuổi theo truy kích. Chúng vừa khép chặt vòng vây, vừa nã đại bác vào căn cứ. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân không đủ sức kháng cự, đành phải rút lên Thọ Xuân, Ngọc Lạc. Giặc tiếp tục truy kích, Đinh Công Tráng phải lánh sang Thượng Lào, rồi về Nông Cống. Sau đó, ông vào Nghệ An liên hệ với nghĩa quân của Phan Đình Phùng để đánh Pháp lâu dài nh ưng bị đánh úp bất ngờ, Đinh Công Tráng anh dũng hy sinh ngày 6 tháng 10 năm 1887 tại làng Tang Yên, huyện Đô L ương, tỉnh Nghệ An.

Với chí khí kiên cư ờng của ngư ời anh hùng, thời kỳ đánh giặc ở Ninh Bình, ông đ ược Tôn Thất Thuyết thay mặt vua Hàm Nghi phong là “Bình Tây đại tướng quân”. Tài năng và những phẩm chất tốt đẹp của ng ười anh hùng Đinh Công Tráng chính kẻ thù cũng phải thừa nhận. Đại tá Mát-xông (Masson), ng ười tham gia chỉ huy quân đội Pháp trong trận Ba Đình đã viết về Đinh Công Tráng: “Là ngư ời có trật tự và chí khí cư ơng trực. Tráng biết giữ kỷ luật và nghiêm trị những tên quan đi nhũng nhiễu các làng; có tài thao l ược và nhẫn nại. Tráng hiểu quân mình và biết quân ngư ời nên không khi nào dùng quân vô ích để đến nỗi hao binh tổn t ướng. Tráng lại giỏi lập địa thế và khéo nhử quân Pháp vào chỗ nguy. Sau hết, chẳng hề tránh nguy hiểm, Tráng bao giờ cũng đi đầu, suy nghĩ cẩn thận, mạnh bạo trong việc làm, lại có lòng yêu n ước nhiệt thành. Tráng là một ngư ời bình dân, nhờ có những đức tính ấy đã buộc các quan lại kiêu ngạo phải khâm phục”.

Tấm g ương Đinh Công Tráng đi vào lịch sử là một danh nhân quân sự nổi tiếng với những cống hiến lớn lao trong sự nghiệp đánh giặc, cứu nư ớc cuối thế kỷ XIX. Tên tuổi của ông gắn liền với nhiều chiến công xuất sắc trong phong trào Cần Vư ơng, với cuộc khởi nghĩa Ba Đình nổi tiếng. Bằng lối đánh nghi binh “lấy ít địch nhiều” rất linh hoạt và sáng tạo, triệt để

Page 259: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

329

lợi dụng địa hình để xây dựng căn cứ chống giặc, chiến đấu với một tinh thần dũng cảm, Đinh Công Tráng đã chỉ huy nghĩa quân lập nhiều chiến công. Ông là một thủ lĩnh nghĩa quân xuất sắc, một vị tư ớng tài năng, thao lư ợc, một công trình xây thành, đắp lũy sáng tạo, độc đáo. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình là một mốc son chói lọi, một trang sử vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam anh hùng, được đ ư a vào ch ư ơng trình dạy lịch sử ở các trư ờng phổ thông và đại học trong cả nư ớc. Với ý nghĩa giá trị to lớn của cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy tên cuộc khởi nghĩa đặt tên cho quảng trường Ba Đình- nơi diễn ra lễ mít tinh toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945, khai sinh ra nư ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Sự nghiệp chống giặc, cứu nư ớc của danh nhân quân sự Đinh Công Tráng đã để lại những bài học quý trong kho tàng chung của đất nư ớc về nghệ thuật đánh giặc, giữ nư ớc. Thông qua việc nghiên cứu, học tập, mỗi chúng ta càng hiểu được đầy đủ, sâu sắc hơn về thân thế và sự nghiệp, tài thao lược nghệ thuật quân sự đánh giặc giữ nước của Đinh Công Tráng. Đặc biệt là tinh thần thương dân, tình yêu quê hương, đất nước, chí căm thù giặc sâu sắc và tinh thần đấu tranh anh dũng của một thủ lĩnh nghĩa quân xuất sắc, một vị tướng tài năng, thao lược, một công trình sư xây thành, đắp lũy sáng tạo và độc đáo. Tài năng và phẩm chất tốt đẹp của Đinh Công Tráng thực sự là một tấm gương sáng về đạo đức, về chí căm thù giặc, lớn hơn tất cả là tinh thần giữ nước, đó là bài học vô giá cho muôn đời con cháu noi theo.

Nhớ ơn ngư ời con anh hùng của quê hư ơng, của dân tộc, một số nơi nh ư : xã Ba Đình, huyện Nga sơn, tỉnh Thanh Hóa; động Đại Bình ở chùa H ư ơng Tích, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội) và thôn Nham Chàng, xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm - nơi ông sinh ra và lớn lên đã lập đền thờ ông. Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội và một số nơi khác đã lấy tên ông và cuộc khởi

Page 260: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

330

nghĩa Ba Đình để đặt tên phố, tên đư ờng. Thành phố Hà Nội đã lấy tên cuộc khởi nghĩa đặt tên cho quận Ba Đình. Huyện Thanh Liêm có Tr ường Đinh Công Tráng - chuyên bồi dưỡng, rèn luyện học sinh giỏi. Ngọn lửa Đinh Công Tráng đã thôi thúc thanh niên quê hư ơng Hà Nam nói chung, quê hương Thanh Liêm nói riêng lên đư ờng, cầm chắc tay súng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

* THIẾU TƯỚNG TRẦN TỬ BÌNH

Thiếu tướng Trần Tử Bình sinh năm 1907, trong một gia đình nông dân nghèo tại xã Tiêu Động, huyện Bình Lục. Vì tham gia phong trào yêu nước, vận động giáo sinh ở chủng viện Hoàng Nguyên (Giáo phận Hà Đông) để tang cụ Phan Chu Trinh nên cuối năm 1926 ông bị đuổi học. Năm 1927, được Tống Văn Trân giác ngộ, ông đã ký hợp đồng vào Nam Bộ làm phu đồn điền cao su Phú Riềng. Tại Phú Riềng, ông được nhà cách mạng Ngô Gia Tự giác ngộ, kết nạp vào Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng. Tháng 10 năm 1929, là đảng viên Đông Dương cộng sản Đảng tại chi bộ Phú Riềng. Cuối năm 1929, ông thay đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư chi bộ. Đầu năm 1930, chi bộ lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi quyền sống của 5.000 công nhân Phú Riềng, làm nên phong trào “Phú Riềng Đỏ” lịch sử. Sau đó ông bị bắt, bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo. Thời kỳ bị Pháp giam cầm tại Côn Đảo, ông vẫn tiếp tục học tập lý luận cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh đòi độc lập cho Việt Nam từ trong tù. Cũng trong quãng thời gian này ông đã kết thân với các nhà cách mạng cộng sản khác như: Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Phát, v.v. đây là những cán bộ cốt cán đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Năm 1936, do ảnh hưởng của Mặt trận bình dân Pháp, chính quyền thực dân phải thả ông về đất liền và quản thúc ông ở quê nhà.

Page 261: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

331

Sau khi được trả tự do ông quay trở về Hà Nam và làm thầy ký ở phố huyện Bình Lục, nhưng vẫn tiếp tục bí mật hoạt động cách mạng. Thời kỳ này ông đã lần lượt giữ các chức vụ Bí thư chi bộ, Bí thư Huyện ủy Bình Lục và Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam. Năm 1940, ông được bầu vào Xứ ủy Bắc Kỳ và trực tiếp phụ trách Liên tỉnh C (Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) vào năm 1940, 1943; 1941 - Liên tỉnh D (Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang).

Ngày 24 tháng 12 năm 1943, ông bị bắt ở Thái Bình. Đầu năm 1944, sau khi vượt ngục ở nhà tù Hà Nam không thành, ông bị chính quyền Pháp chuyển về nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), nơi được coi là nhà tù tuyệt đối an toàn của chế độ thực dân Pháp. Tại Hỏa Lò, ông được bầu làm Trưởng ban sinh hoạt, tổ chức hoạt động công khai của tù chính trị. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, lợi dụng tình hình Phát xít Nhật hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương, việc quản lý của nhà tù Hỏa Lò bị lơi lỏng, Trần Tử Bình cùng một số tù chính trị cộng sản khác đã tổ chức cuộc vượt ngục nổi tiếng trong lịch sử theo đường cống ngầm giải thoát cho gần 100 tù chính trị.

Sau khi thoát khỏi Hỏa Lò, ông trở về xây dựng Chiến khu Quang Trung hay Chiến khu Hòa Ninh Thanh, nay là thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa tại vùng giáp ranh các tỉnh (Hòa Bình - Ninh Bình - Thanh Hóa).

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, với tư cách là Ủy viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, Trần Tử Bình đã trực tiếp tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Hà Nội và một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ.

Tháng 9 năm 1945, ông được giao nhiệm vụ Phó giám đốc, Chính trị uỷ viên Trường Quân chính Việt Nam (sau đổi tên là Trường Cán bộ Việt Nam).

Tháng 5 năm 1946, ông nhận nhiệm vụ Phó giám đốc, Chính uỷ Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.

Page 262: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

332

Năm 1947, ông được đề bạt làm Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương, Trưởng phòng Kiểm tra cán bộ - Chính trị cục. Cuối 1947, ông cùng Lê Thiết Hùng chỉ huy mặt trận Sông Lô thắng lợi.

Tháng 1 năm 1948 ông Trần Tử Bình được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên (cùng đợt với các ông Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Bình). Cùng thời gian đó ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng thanh tra Quân đội. Ông làm nhiệm vụ Công tố viên trong việc Tòa án quân sự tối cao xét xử vụ án Trần Dụ Châu tham nhũng mùa hè năm 1950.

Năm 1950-1956, ông nhận nhiệm vụ Chính uỷ Trường Lục quân Việt Nam tại Trung Quốc.

Tháng 2 năm 1951, ông được cử làm đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II tại Việt Bắc.

Thời gian 1956-1958, ông nhận nhiệm vụ Tổng Thanh tra Quân đội, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Việt Nam tham gia củng cố và trong sạch hóa chính quyền thời hậu chiến.

Năm 1960, ông được bầu làm đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng III, và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá II và khoá III.

Năm 1959, ông chuyển sang công tác tại Bộ Ngoại giao và được bổ nhiệm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, kiêm đại sứ tại Mông Cổ thay cho ông Nguyễn Khang. Trong 8 năm công tác tại Bắc Kinh, ông được bầu làm Trưởng Ngoại giao Đoàn Bắc Kinh. Đây là thời kỳ cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của Việt Nam trong giai đoạn khó khăn quyết liệt. Trong phe xã hội chủ nghĩa phát sinh mâu thuẫn giữa Liên Xô - Trung Quốc tác động trực tiếp cách mạng Việt Nam. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, với kinh nghiệm và sự khôn ngoan, khéo léo, mềm dẻo, Đại sứ Trần Tử Bình đã góp phần giải quyết mâu thuẫn Trung-Việt trong “vấn

Page 263: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

333

đề Liên Xô” và vận động được Trung Quốc tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, không để quan hệ Việt - Xô ảnh hưởng đến quan hệ Việt - Trung.

Trong lần về nước họp đầu năm 1967, ông bị cảm rồi đột ngột từ trần tại Bệnh viện Hữu nghị Việt-Xô, Hà Nội vào sáng sớm ngày 11 tháng 2 năm 1967 (tức mùng ba Tết Đinh Mùi). Lễ tang của ông được tổ chức theo nghi thức dành cho sĩ quan cấp tướng. Ông qua đời khi vừa tròn 60 tuổi.

Thiếu tướng Trần Tử Bình được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều huân, huy chương cao quý: Huân chương Chiến công hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhất (năm 1967), Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2001), Huân chương Sao Vàng (năm 2008).

Thiếu tướng Trần Tử Bình là cán bộ tiền bối, cán bộ lão thành cách mạng, một đảng viên có phẩm chất trong sáng, luôn nêu cao khí tiết của người Cộng sản trong ngục tù đế quốc, thấm nhuần đạo đức cách mạng “Cần - Kiệm - Liêm - Chính, Chí công - Vô tư” của Hồ Chủ tịch, trung thực tận tụy, đoàn kết chân thành, hết lòng thương yêu đồng chí đồng đội, luôn được cán bộ, chiến sĩ tin yêu. Đồng chí là tấm gương sáng cho các thế hệ hôm nay và mai sau học tập.

* TRUNG TƯỚNG PHẠM XUÂN THỆ

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, Hà Nam đã đóng góp nhiều sức người, sức của cùng với cả nước làm nên Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Vinh dự, tự hào cho quê hương Hà Nam có người con ưu tú Trung tướng Phạm Xuân Thệ, một sĩ quan quân đội trực tiếp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Phạm Xuân Thệ sinh năm 1947 tại xã Khả Phong, huyện Kim Bảng, nhập ngũ tháng 8/1967 khi vừa tròn 20 tuổi. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước ông đã trực tiếp chiến đấu trong 6 chiến dịch của chiến trường miền Nam, tiêu biểu là

Page 264: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

334

Chiến dịch Hồ Chí Minh xuân 1975. Ngày 30/4/1975, Đại úy Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn 66, E66, F304, Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) cùng đơn vị xe tăng 843 do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy và xe tăng 390 do Chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy tiến quân chiếm Dinh Độc Lập, sào huyệt cuối cùng của chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Ông là một trong những người đầu tiên vào phòng họp trong Dinh Độc Lập, bắt gọn toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn (42 người). Ông trực tiếp áp giải Tổng thống Dương Văn Minh ra Đài Phát thanh Sài Gòn để tuyên bố đầu hàng.

Trong cuộc đời quân ngũ, ông được đào tạo qua các học viện, nhà trường: Học viện Quân sự Chính trị Đà Lạt; Học viện Quân sự tại Liên Xô; Tôi luyện qua chiến đấu và được phong quân hàm và giữ các chức vụ: Trung đoàn phó Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; Năm 1991, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304; Năm 1995, Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 2; Năm 2002: Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 1, đến tháng 1/2008 nghỉ hưu.

Trung tướng Phạm Xuân Thệ được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều huân, huy chương cao quý, như: Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba, Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất, Huy chương Quân kỳ Quyết thắng; Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước (14/4/2011).

Cuộc đời binh nghiệp của Trung tướng Phạm Xuân Thệ là sự kế tục, phát huy truyền thống cách mạng của các bậc tiền bối, các thế hệ cha anh đi trước như Đinh Công Tráng, Trần Tử Bình. Những thành tích, chiến công và những cống hiến của vị tướng người con quê hương Hà Nam cho đất nước, đó là sự phát huy truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam “Quyết chiến, quyết thắng, biết đánh biết thắng”, ông là vị chỉ huy tài năng, là tấm gương sáng cho thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang hôm nay và mai sau học tập, noi theo.

Page 265: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

335

ĐẶC SẮC NAM CAO

GS.TS ĐINH XUÂN DŨNG *

Đã có rất nhiều công trình, bài viết về sáng tạo của Nam Cao. Có lẽ, độ dày của các công trình, bài viết đó dài hơn cả tổng số sáng tác của ông, bởi vì, Nam Cao có một sự hấp dẫn kỳ lạ, vừa thân quen như cuộc đời, vừa rất đặc sắc mà chỉ riêng Nam Cao có. Suốt nhiều năm, nghĩ và đọc lại Nam Cao, tôi cứ “loay hoay” thử đi tìm cho mình cái đặc sắc riêng ấy là gì. Hầu như các nhà nghiên cứu Nam Cao đã nỗ lực làm rõ dần cái đặc sắc đó, nhằm chỉ rằng, có lẽ, ở nước ta, trong văn xuôi hàng chục thế kỷ qua, chỉ có một Nam Cao, có nghĩa là, khó có ai lặp lại được ông. Nam Cao là nhà văn độc đáo, không thể lặp lại, cũng như những nhà văn vĩ đại của dân tộc ta như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… vậy.

Trong bản tham luận ngắn này, cho phép tôi tự làm một điều quá sức mình, thử tổng hợp ngắn gọn 5 cái tạo nên sự đặc sắc hiếm có trong sáng tác của Nam Cao.

Truyện ngắn Việt Nam hiện đại, nếu kể từ tác phẩm của Nguyễn Trọng Quản “Truyện Thầy Lazaro phiền” (1887- Sài Gòn), đã phát triển được hơn thế kỷ. Hơn một thế kỷ đó đã tạo nên sự phát triển vượt bậc về chất lượng của truyện ngắn hiện đại Việt Nam, trong đó có những tác phẩm, tác giả có thể xếp cùng hàng với các nhà viết truyện ngắn xuất sắc của thế giới hiện đại. Một trong số đó, phải kể đến Nam Cao. Nguồn gốc, động lực, nguyên nhân nào tạo nên thành tựu đó. Có xu hướng

* Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận và phê bình văn học nghệ thuật Trung ương.

Page 266: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

336

cho rằng, bản thân truyện ngắn hiện đại Việt Nam có cội rễ sâu xa từ trong văn học trung đại Việt Nam, sớm nhất từ thế kỷ XIV, trong đó, phải kế đến tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” như truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI). Những tinh hoa của truyện ngắn dân tộc trong quá khứ 4,5 thế kỷ đã được “phục hưng” ở đầu thế kỷ XX, và đó là cội rễ của truyện ngắn hiện đại Việt Nam thế kỷ qua. Cũng có ý kiến cho rằng, chúng ta không có truyền thống lâu đời về truyện ngắn (so với thơ), mà chỉ tới khi có chữ Quốc ngữ, khi có sự tiếp xúc trực tiếp với truyện ngắn phương Tây (chủ yếu của Pháp), truyện ngắn Việt Nam mới có điều kiện phát triển, vươn lên hiện đại nhanh chóng với những thành tựu hiếm có từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945. Ý kiến có phần trái chiều nhau? Song, đối với trường hợp Nam Cao, có lẽ, không có gì là mâu thuẫn và cũng không nên tách bạch chỉ có 1 trong 2 nguyên nhân, động lực tạo nên Nam Cao. Ở Nam Cao, khác nhiều so với các cây bút truyện ngắn xuất hiện trước và sau ông, Nam Cao là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn, logic của hai cội rễ đó. Ông nối tiếp đặc trưng nỗ lực phản ánh hiện thực đương thời trong các tập truyện ngắn dân tộc trước đó, cố gắng vượt qua quan niệm “văn dĩ tải đạo” để đến với “văn là đời”. Đọc các truyện ngắn trong “Truyền kỳ mạn lục”, “Thánh Tông di thảo” và nhất là “Truyện thầy Lazaro phiền”, ta thẫy rõ đạo và đời gắn bó với nhau, trong đó, đời ngày càng được chú trọng hơn. Trong khi đó, truyện ngắn Pháp vào nước ta, đời là mục tiêu của sáng tạo, chỉ có qua “đời” mới bộc lộ ý tưởng sáng tạo (đạo) của nhà văn.

Hầu như tất cả các truyện ngắn của Nam Cao đều có sự gắn kết nhuần nhuyễn giữa đời và đạo, nhưng trước hết là đời - đời thực, đời thường, đời của các số phận con người “vô danh” và qua đó, tác giả đã gửi gắm vừa kín đáo, vừa rất mực tỉnh táo suy nghĩ về đạo của mình. Đời thừa, Lão Hạc, Chí Phèo… là đời, từ đó, Nam Cao đã chỉ ra một quy luật mà nhiều nhà triết học đã dày công nghiên cứu, phát hiện, quy luật về sự tha hóa con người.

Page 267: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

337

Như vậy, có lẽ, cái đặc sắc đầu tiên tạo nên một Nam Cao, đó là sự gặp gỡ trong ông (tư duy, trí tuệ, tình cảm) sự kết nối bước phát triển của truyện ngắn dân tộc với sự tiếp nhận xu hướng hiện đại của văn xuôi phương Tây đầu thế kỷ XX. Điều đó giúp chúng ta đi tới một nhận định thật dễ hiểu: Một Nam Cao thuần chất Việt trong một Nam Cao đạt tới đỉnh cao của quá trình hiện đại hóa truyện ngắn Việt Nam, không chỉ ở những năm 30-40 thể kỷ trước, mà cho tới tận bây giờ và mai sau. Cách đây khoảng 35 năm, khi tôi đang làm Nghiên cứu sinh ở Cộng hòa dân chủ Đức, tại một trại hè của nghiên cứu sinh các nước, có một cô bạn người Tiệp đến gặp tôi - vì đoán tôi là người Việt Nam - Cô cầm theo quyển sách, cười và đố tôi: “Anh có biết, trên thế giới này, ai là người xấu nhất?”. Tôi ngớ ra, chưa tìm được câu trả lời, cô ấy lật trang sách, cười rất tươi như một niềm vui phát hiện: “Đó là Thị Nở của Nam Cao”. Dẫn chứng đó chỉ là chi tiết, nhưng cũng cho ta một nhận biết: Nam Cao đang là nhà văn của thời cuộc, của hiện đại, mặc dầu, tác phẩm của ông đã viết cách đây khoảng 70 năm.

1. Quy luật về sự tha hóa - hai cái chết của con ngườiTrong tác phẩm của Nam Cao, có hai kiểu chết được miêu

tả. Cái chết của cả tâm hồn và thể xác do con người bị bần cùng hóa, tha hóa đến cùng. Đó là cái chết của Lão Hạc, của Chí Phèo, của anh đĩ Chuột. Thế nhưng, có lẽ, còn một kiểu “chết” nữa, đó là cái chết của tâm hồn, của sự bế tắc không thể sống theo khát vọng của mình. Nhà văn nghèo trong “Đời thừa”, thực chất cũng đã chết. Nhân vật Hộ trong truyện từng ước ao viết được những tác phẩm nổi tiếng, đười giải Nobel, vậy mà cuối cùng để có tiền nuôi sống gia đình và bản thân, Hộ phải viết những cuốn sách rẻ tiền “để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc”. Theo Nam Cao, Hộ phải đau đến thốt lên “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”. Đó cũng là một kiểu chết của người có khát vọng bảo vệ mà không thực hiện nổi cái còn lại tốt đẹp trong con người. Theo ông, không còn một chút nào cái đó trong con

Page 268: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

338

người, nghĩa là đã chết, “chết mòn”. Đó là giá trị nhân đạo sâu sắc trong Nam Cao, tạo nên một đặc sắc trong tư duy sáng tạo của ông.

Con của Chí Phèo - Thị Nở chưa ra đời, nhưng nhìn xuống bụng mình, Thị Nở đã hình dung ra cái lò gạch, nơi Chí Phèo ra đời và sau này đã chết cả về tâm hồn và thể xác. Đó cũng là một cách chết - chắc chắn thuộc về tương lai, khi mà sự tha hóa con người trong xã hội đầy rẫy bất công và ác bá vẫn còn đó.

Với tấm lòng đầy mẫn cảm và sự phát hiện sâu sắc, phải chăng, khác với nhiều nhà văn khác cùng thời, Nam Cao đã tạo nên một đặc sắc không thể trộn lẫn với ai - về sự miêu tả quy luật tha hóa con người với hai dạng chết do sự tha hóa đó.

2. Khát vọng cháy bỏng được làm ngườiCác nhận vật của Nam Cao đều thuộc những người dưới đáy

xã hội và nhiều nhân vật của ông đã chết đau đớn (trong các truyện như Nghèo, Một bữa no, Lão Hạc, Điếu Văn, Chí Phèo…) - Chết vì nghèo, vì đói, vì cùng quẫn, vì hết đường sống… Nhưng có một điều tạo nên đặc sắc Nam Cao, đó là tấm lòng nhân đạo và sự phát hiện đầy mẫn cảm của Nam Cao khi ông nhận ra rằng phần lớn các nhân vật phải đi tới cái chết đó, từ trong chiều sâu tâm thức họ và ngay khi họ đã bị xã hội làm cho tha hóa mất hầu hết tính người, trong họ, đến phút cuối cùng của cuộc đời, vẫn khát vọng cháy bỏng được làm người bình thường, người lương thiện. Tôi đọc khá nhiều truyện ngắn cùng thời Nam Cao, tôi tin rằng, đây là một đặc sắc hiếm có trong sáng tạo của Nam Cao. Lão Hạc vì đói quá mà ăn bả chó để tìm đến cái chết, nhưng con người khốn khổ đó vẫn lương thiện, chân thật, tốt bụng và cả đời chỉ mong được sống lương thiện. Trong truyện ngắn “Nghèo”, Nam Cao kể về cuộc sống cùng quẫn của gia đình anh đĩ Chuột, người chồng ốm đau quanh năm, vợ con nheo nhóc đến mức phải ăn cám. Đĩ Chuột biết mình là gánh nặng cho gia đình nên đã tìm đến cái chết. “Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại, hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng

Page 269: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

339

xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại”. Đĩ Chuột chết, song trong anh, phẩm giá người vẫn còn nguyên vẹn, nhưng anh không thể sống tiếp.

Chí Phèo từ một thanh niên trẻ, khỏe, trở thành con người cả làng Vũ Đại đều sợ. Chí chửi hết, phá phách hết. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, ta chưa hiểu hết Nam Cao. Chí dành cho Thị Nở tình cảm chân thành. Và, có lẽ, cái nhân đạo nhất, cái tạo nên đặc sắc Nam Cao chính ở chỗ, Chí Phèo vác dao đến nhà Bá Kiến để “đòi làm người lương thiện”. Nhưng Chí biết rõ,“ai cho tao lương thiện” và đã giết kẻ thù và tự giết mình. Tôi chưa thấy ở đâu trong truyện ngắn của ta sự phát hiện đầy mẫn cảm đó trong sáng tác của Nam Cao, và đó là giá trị tạo nên đặc sắc Nam Cao.

Nếu sắp xếp cạnh nhau mục 2, Quy luật về sự tha hóa - hai cái chết của con người và mục 3, Khát vọng cháy bỏng được làm người, chúng ta tưởng như mâu thuẫn - Nhưng chính đó đã tạo nên cái đặc sắc tổng hợp trong sáng tạo của Nam Cao. Cái đau khổ, cùng quẫn, sự tha hóa con người được miêu tả đến tận cùng, song ngay trong cái tận cùng đó, từ sự thấu hiểu và yêu thương những con người dưới đáy, Nam Cao vẫn làm sáng tỏ khát vọng làm người còn lại trong những con người đó. Có lẽ, không nên nói gì thêm, đó là phẩm chất sâu nhất của các nhà văn chân chính. Nam Cao, ở những năm 30-45, là một trường hợp hiếm có đó, và đó không chỉ là tài năng, mà trước hết là tấm lòng, là tình yêu sâu thẳm đối với con người.

3. Nhà văn của quá trình tâm lýChúng ta có thể kể lại khá đầy đủ, lôi cuốn nhiều truyện

ngắn của Nguyễn Công Hoan. Phải chăng, đó là một đặc sắc truyện ngắn của ông, Song, có lẽ, ta “không có gì” để kể lại truyện ngắn của Nam Cao (trừ Chí Phèo), bởi vì ông không có ý định dựng lại những bức tranh xã hội rộng lớn với những mâu thuẫn, sự kiện, biến cố gay gắt mà ông chủ yếu tập trung vào phân tích thân phận con người dưới đáy và tầng lớp trí thức

Page 270: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

340

nghèo trong đời sống hàng ngày của họ, và đặc biệt, ông dành tâm lực cho việc vẽ ra đường nét diễn biến tâm lý nhân vật qua cái hàng ngày đó. Có gì đâu mà kể qua các câu chuyện như Một bữa no, Mua danh, Ở hiền, Tư cách mõ, Trăng sáng, Đời thừa, Lão Hạc… Cũng chẳng có sự kiện, biến cố gì to tát, gay cấn cả, mà phần lớn là những chuyện xảy ra thường nhật, “nhỏ nhặt” trong đời sống của các nhân vật của ông, mà sao, đọc xong, ta vừa cảm nhận rõ hai tầng ý nghĩa của truyện: Cái biểu đạt với những tình tiết, câu chuyện, sự việc hàng ngày và đặc biệt là tầng ý nghĩa thứ hai: Cái được biểu đạt, đó là những đúc kết cô đọng, sâu sắc, có ý nghĩa triết lý về thân phận con người ở tầm khái quát cao. Nhà văn dành năng lực sáng tạo cho việc khai thác tâm lý nhân vật, nhưng không phải chỉ là những “nhát cắt” tâm lý trong một khoảng khắc nào đó của cuộc đời mà là quá trình tâm lý đang vận động phức tạp trong thế giới tinh thần nhân vật. Và cũng không phải là miêu tả quá trình đó theo kiểu kể lại thô sơ, mà bao giờ cũng gắn chặt với các chi tiết, sự kiện thường ngày trong cuộc đời nhân vật. Cái quá trình tâm lý được hiện hình qua các sự việc, chi tiết. Vác dao đến nhà Bá Kiến là sự kiện, hành động, song đằng sau đó là sự hồi sinh một khát vọng bị chìm lấp, bị đè nén đến tận cùng: khát vọng trở về làm người lương thiện. Các truyện ngắn về các nhân vật tiểu tư sản nghèo như Trăng sáng, Đời thừa, Mua nhà, Nhỏ nhen… cũng theo hướng phơi bày chiều sâu tâm lý nhân vật chỉ qua những chi tiết hàng ngày nhất. Và từ các chi tiết đó, Nam Cao đã đặt được những vấn đề xã hội sâu sắc: lý tưởng và hiện thực, nghệ thuật và tình người.

Trong văn xuôi hiện đại của chúng ta, khả năng đào sâu, miêu tả có tính nghệ thuật quá trình tâm lý nhân vật không có nhiều thành công, hoặc chỉ dừng lại ở những nhát cắt tâm lý riêng lẻ hoặc một quá trình tâm lý suôn sẻ, tốt là tốt, xấu là xấu - những khả năng biến động, biến đổi phức tạp trong thế giới tâm lý con người chưa được khai thác có tính biện chứng.

Page 271: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

341

Từ cách nhìn đó, thiết nghĩ, Nam Cao (có lẽ cùng với Vũ Trọng Phụng) đã là những người đi tiên phong và đạt tới những thành công thực sự qua sự sáng tạo quá trình biến động tâm lý của nhân vật mà Xuân tóc đỏ, Chí Phèo là những kết quả tiêu biểu. Đó là những thành công và chỉ riêng thành công này đã tạo nên một đặc sắc hiếm có trong sáng tạo của Nam Cao.

4. Tiên phong “nhận đường”Sau cách mạng tháng 8-1945, cuộc sống đã biến đổi từ

gốc, được “tái sinh màu nhiệm”. Cuộc sống ấy có sức lôi cuốn mãnh liệt hầu hết các nhà văn tự nguyện đi theo cách mạng và kháng chiến. Khác với một số nhà văn cùng thời, ngay trong tiểu thuyết “Sống mòn” (1944), Nam Cao đã cảm thấy bức bách như không còn chịu nổi nữa khi mà cuộc sống ấy cứ “mòn ra, gỉ lên, mốc đi” và ông tự cảm nhận, phải thay đổi. Đó là lý do sâu sắc bên trong tư duy, tâm hồn ông khi từ năm 1943, ông đã bắt đầu giác ngộ và tham gia Văn hóa cứu quốc. Nam Cao đã dứt khoát bước vào lộ trình mới - đi theo con đường cách mạng tất yếu của dân tộc. Trong khi quá trình tìm đường, nhận đường còn nhiều day dứt, xót đau “cái xác cũ rụng xuống chưa rứt hẳn, da non mới mọc chưa lành” (Nguyễn Đình Thi) của một số nhà văn, thì 1948, với Đôi mắt, Nam Cao đã dứt khoát, tỉnh táo và đầy tự tin xác định sự lựa chọn của mình. Và vì thế, có lẽ, trong số các nhà văn lớp trước, Nam Cao là hiện tượng có ý nghĩa tiên phong trong sự lựa chọn mới: thay đổi “đôi mắt”, xây dựng một cách nhìn mới cuộc sống đang thay đổi và ông là nhà văn đầu tiên thể hiện sự thành công đó bằng tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, độc đáo: truyện ngắn “Đôi mắt” ra đời năm 1948. Và phải chăng, đây cũng chính là dấu hiện đặc sắc, không lặp lại của ông, vì “Đôi mắt” là một kiệt tác cuối cùng của đời ông. Tiếc thay, vì ông qua đời khi chỉ mới 34 tuổi (1917-1951).

34 tuổi đời, thật ngắn ngủi, nhưng Nam Cao là một trong những nhà văn xuất sắc nhất, độc đáo nhất, đặc sắc nhất của toàn bộ nền văn học Việt Nam. Tôi nghĩ như vậy.

Page 272: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

342

GIÁO SƯ NGUYỄN THỊ DOAN GIẢI THƯỞNG

“LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC TOÀN CẦU”

TS. NGUYỄN MINH SAN*

Trí tuệ, luôn tươi cười, luôn luôn thấu hiểu, luôn giữ phẩm chất của người lãnh đạo là nguyên tắc nhưng linh hoạt, mềm dẻo nhưng không mềm lòng đó là một số nhận xét, đánh giá về bà Nguyễn Thị Doan - nữ Giáo sư khả kính đã hai nhiệm kỳ hoàn thành xuất sắc trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó - Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. (114)

Bà Nguyễn Thị Doan sinh ngày 11/01/1951, trong một gia đình có cha làm thầy giáo, mẹ là nông dân thuần hậu. Quê hương bà, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, nằm dưới chân đê con sông Hồng ngày đêm đỏ nặng phù sa. Đồng ruộng quê bà, xưa là vùng đồng chiêm trũng, mỗi năm chỉ cấy được một vụ, nhưng lại có rất nhiều những hồ sen, ao sen cứ mỗi độ hạ về là lại ban phát cho những người dân quanh năm chân lấm, tay bùn và nuôi dưỡng biết bao những cuộc tình dọc triền con đê mướt cỏ dại một thứ hương thơm ngan ngát, ngất ngây. Cách nhà bà không xa, ở thôn Vũ Điện, ngay sát mặt nước sông Hồng, là ngôi đền (thực ra là miếu) thờ bà Vũ Thị

* Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hiến Việt Nạm.(114). Bài này đã in trong sách “Rạng rỡ sử xanh Phụ nữ Việt Nam” của TS.

Nguyễn Minh San (Nxb Dân trí, H, 2012)

Page 273: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

343

Thiết - thường gọi là đền/ miếu Bà Vũ/ Đền Vũ Điện, hay Miếu Vợ Chàng Trương. Vũ Thị Thiết - người thiếu phụ Nam Sương này đã bị chồng nghi thất tiết trong thời gian anh ta đi lính. Nàng đã kêu oan, nhưng chồng nào có thấu, làng xóm không có ai đứng lên bênh vực. Không nơi bấu víu, nương tựa, nàng phải nhờ đến dòng Sông Mẹ để khẳng định phẩm giá. Nhờ đó, danh tiết của nàng mới được rực sáng, Bà được nhân dân tôn là vị Thánh Mẫu oai linh. Ngài trở thành vị Thần Giải Oan của phụ nữ Việt Nam. Vô tình hay hữu ý đây, cũng cách không xa lắm nhà Bà, gần một nghìn năm nay, người dân nơi đây vẫn hương khói thờ phụng một bà Hoàng hậu của một nước xưa là ngoại quốc, nay trở thành một tộc người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam - Hoàng hậu Mỵ Ê của vương quốc Chăm Pa xa xăm. Bà Mỵ Ê được thờ bởi là một tấm gương nữ giới tiết liệt dưới trời Nam. Vốn là một tù binh, song bà lại đã khiến kẻ chiến thắng trên chiến trường bị thất bại trong việc chiếm đoạt trinh tiết của bà, phải tôn vinh bà vào hạng tối linh Thượng đẳng thần. Bà chính là vị Nữ thần Trinh Tiết. Đến nay, bà là vị nữ thần có nhiều sắc phong nhất của các triều đại phong kiến Việt Nam.

Thân phụ Bà Nguyễn Thị Doan là một thầy giáo yêu nước. Ông là đảng viên đầu tiên trong xã. Trong một lần đi công tác, ông bị giặc bắt. Trước mọi đòn tra tấn tàn bạo của giặc, ông một lòng kiên trung với Đảng. Không khuất phục được người chiến sĩ cộng sản kiên cường, giặc Pháp đã hèn hạ xử bắn ông. Năm ấy, ông mới ba mươi tuổi, để lại cho người vợ trẻ một con thơ hai tuổi và hòn máu mới ba tháng trong bụng. Lúc vĩnh viễn đi xa, ông nào có biết hòn máu đó sau này đã kế tục dòng máu cách mạng kiên cường của cha, được nhân dân tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch nước, làm rạng danh quê hương, đất nước. Người vợ trẻ - một nông dân vùng chiêm trũng, nhưng cũng hiếu học và kiên cường như người chồng anh dũng. Bà tần tảo sớm hôm thay chồng quyết chí nuôi dạy con nên người. Biết con gái bị

Page 274: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

344

nhiều thiệt thòi, người mẹ nông dân chỉ biết khuyên con: “Sống phải có chí, muốn nên người thì phải học”. Nhớ lời mẹ dặn, cô bé chăn trâu Nguyễn Thị Doan đã học hành chăm chỉ và luôn là học sinh giỏi. Vào những năm Nguyễn Thị Doan cắp sách đến trường, cũng là lúc cách nhà bà không xa “Tiếng trống Bắc Lý” đã vang dội toàn miền Bắc. Cả nước thi đua đạt và vượt điển hình phong trào thi đua hai tốt: “Dạy tốt, học tốt” của Bắc Lý (Trường Cấp II Bắc Lý - đơn vị 2 lần được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động của ngành giáo dục Việt Nam). Trong cái không khí học tập của quê hương, Nguyễn Thị Doan nổi tiếng học giỏi một vùng, từng đạt giải trong kỳ thi Học sinh giỏi, đã phần nào đền đáp công ơn và trông đợi của người mẹ thân yêu. Niềm vui lớn hơn của người mẹ vùng đồng chiêm trũng là khi Nguyễn Thị Doan được vào học tại Trường Đại học Thương mại Hà Nội. Tốt nghiệp loại xuất sắc, Bà được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Đạt điểm cao trong kỳ thi nghiên cứu sinh năm 1979, năm 1981, nữ nghiên cứu sinh - giảng viên trẻ Nguyễn Thị Doan được Nhà nước cử đi học Nghiên cứu sinh ở Bulgari. Cũng trong năm này, ngày 11/7/1981, bà vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau khi bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ Kinh tế (sau là Tiến sĩ) tại Bulgari, năm 1985, Bà Nguyễn Thị Doan trở về Trường Đại học Thương mại Hà Nội, làm công tác giảng dạy. Phó Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan làm không ít người ngạc nhiên khi vừa giảng dạy, Bà vừa lao vào học Tiếng Anh, thứ tiếng còn chưa thông dụng ở nước ta vào thời điểm đất nước vừa mới bắt đầu công cuộc đổi mới. Vốn thông minh, lại có lưng vốn tiếng Bulgari, hơn ba năm sống trong không khí ngoại ngữ ở nước ngoài, sự miệt mài “có công mài sắt” của Bà Nguyễn Thị Doan đã không uổng. Bà đã sử dụng thành thạo Tiếng Anh, thứ tiếng phổ biến khắp thế giới. Chưa hết ngạc nhiên này, không bao lâu sau, Bà Doan lại gây cho các đồng nghiệp một sự ngạc nhiên khác.

Page 275: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

345

Bà đã trúng tuyển kỳ thi tiếng Pháp do một hội đồng các thầy ở Pháp sang trực tiếp xét tuyển để lĩnh học bổng sang tu nghiệp ở Trường Quản lý Kinh doanh Châu Âu. Đối với Bà và những người biết Bà trong những ngày này thì hiểu rằng, không phải ngẫu nhiên Bà đạt được kết quả ấy. Cho đến nhiều năm sau, Bà Doan vẫn nhớ về cái hôm Bà nhận lời thầy Hiệu trưởng Trường Đại học Thương mại Hà Nội đồng ý đi tu nghiệp ở Pháp. Bà tâm sự: “Mạnh miệng thế chứ về tôi run lắm. Tiếng Pháp đối với tôi lúc đó là con số không tròn trĩnh”. Đã cam kết với Hiệu trưởng, Bà lao vào “cày” ngày “cày” đêm. Tháng đầu một thầy - một trò, tháng thứ hai, hai thầy (ngữ văn - luyện nói) - một trò. Tháng thứ ba lại ba thầy (ngữ văn, đọc hiểu và thầy dạy về chuyên ngành kinh tế) - một trò. Sau sáu tháng, Nguyễn Thị Doan hồi hộp bước vào cuộc thi do Hội đồng các thầy ở Pháp sang trực tiếp xét tuyển. Kết quả làm nhiều người bất ngờ, Bà đã trúng tuyển du học tại Trường Quản lý Kinh doanh Châu Âu (đóng tại Paris - Pháp). Năm 1992, sau khi hoàn thành xuất sắc khóa học, Bà trở về trường, tiếp tục làm công tác giảng dạy. Bà được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Khoa. Trong bối cảnh nước ta không chỉ những năm 80 của thế kỷ trước, mà ngay cả hiện nay, một người giỏi ba ngoại ngữ Anh, Pháp, Bulgari như Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan không nhiều.

Năm 1993, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan được tập thể cán bộ, giảng viên Trường Đại học Thương mại Hà Nội tín nhiệm bầu làm Hiệu trưởng. Vẫn biết Bà có tính kiên định, rắn rỏi từ tấm bé, vậy mà rất ít người biết rằng Bà đã khóc thầm nhiều đêm khi được giao là Hiệu trưởng Trường Đại học Thương mại Hà Nội. Khóc bởi lo làm sao hoàn thành nhiệm vụ và đáp ứng sự kỳ vọng của tập thể; bởi khó khăn trồng lên khó khăn, nhưng khó khăn lớn nhất là Trường quá nghèo, lại có một số vấn đề về nội bộ kéo dài nhiều năm. Người viết bài này từng nghe, thấy quá sức, Bà Doan đã lên gặp ông Trần Trí Đáo - Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ để báo cáo: “Em không thể làm được”. Song, ông Thứ trưởng kiên quyết: “Cô không thể thoái thác, vì đó là

Page 276: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

346

nguyện vọng của nhiều người”. Bà quyết định nhận lời. Từ Phó Chủ nhiệm khoa lên thẳng Hiệu trưởng, Bà Doan cảm nhận rất rõ nhiều ánh mắt nghi ngại và cả đố kỵ. Nhiều đêm nằm bên chồng, nghĩ tới những khó khăn tưởng không thể vượt qua là những giọt nước mắt nong nóng, mằn mặn lại cứ trào ra ướt gối. Rồi như sực tỉnh, Bà đặt vấn đề: “Vì sao ai cũng biết căn bệnh trầm kha nhất của Trường là mất đoàn kết mà không thể giải quyết được”. Từ cái đầu mối tơ vò ấy, Bà phát hiện ra rằng đã có nhiều biện pháp giải quyết nhưng vẫn không ổn định được nhà trường. “Muốn yên lòng người thì phải công tâm” - Bà tự nhủ. Từ đó Bà quyết tâm đảm nhiệm công tác, không chịu lùi bước trước thử thách, gian nan. Bằng sự công tâm, nhiệt tình, tấm lòng nhân ái và năng lực quản lý “thiên phú”, Hiệu trưởng Nguyễn Thị Doan đã đưa các hoạt động của Trường Đại học Thương mại Hà Nội từng bước đi vào nền nếp qui củ, ổn định và phát triển theo một lộ trình thống nhất. Bà đã trở thành sợi dây kết nối quan hệ giữa các thế hệ cán bộ, giảng viên và sinh viên trong nhà trường. Chỉ ba năm sau khi Bà Nguyễn Thị Doan làm Hiệu trưởng, Trường Đại học Thương mại Hà Nội đã có những bước chuyển biến, đổi mới căn bản, trật tự, kỷ cương và đoàn kết. Bà đã mở mang quan hệ đào tạo của nhà trường với một số nước, đặc biệt là với Cộng hòa Pháp và Nhật Bản.

Năm 1996, Bà Nguyễn Thị Doan được Nhà nước phong học hàm Phó Giáo sư, năm 2003 phong học hàm Giáo sư kinh tế. Nhìn lại con đường học tập, từ cô bé chăn trâu trở thành Giáo sư của bà Nguyễn Thị Doan, mặc dù trải qua không ít gian nan, vất vả, nhưng cuối cùng có thể nói là đều hanh thông, tới đích cuối cùng. Với Bà, ngay cả khi đã có học hàm Giáo sư và bước sang tuổi 50, Bà vẫn nhớ cái động cơ học thuở bé của Bà thật đơn giản, học là vì mẹ, vì cha: “Vì mẹ và noi gương người cha đã khuất, anh em tôi cùng nhủ nhau phải học hành đến nới đến chốn”. Bà khẳng định “Cái máu học và tính kiên định ngấm vào thân tôi từ thuở còn chưa lọt lòng mẹ”.

Page 277: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

347

Tháng 6/1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan - Hiệu trưởng Trường Đại học Thương mại Hà Nội đã được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 7/1999, bà được Ban chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng. Từ ngày 1/1/2000, Bà chính thức chuyển về công tác tại Ủy ban Kiểm tra Trung Ương, từ Ủy viên, sau lên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung Ương.

Tháng 4/2001, tại Đại hội IX của Đảng, Bà Nguyễn Thị Doan được bầu làm Ủy viên BCH Trung ương Đảng, được phân công giữ chức Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Thág 4/2006, tại Đại hội X, Bà được bầu là Ủy viên BCH Trung ương, tái đắc cử chức Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương (Chủ nhiệm là một đồng chí Ủy viên Bộ chính trị).

Từ làm công tác giảng dạy chuyển sang làm công tác kiểm tra, Bà Doan không khỏi băn khoăn, trăn trở: “Không biết cái tạng gắn bó với công tác giảng dạy và quản lý ở trường Đại học như mình có hợp với công tác kiểm tra nghe có vẻ khô khan, nguyên tắc hay không?”. Song, chấp hành sự phân công của Đảng, Bà vẫn tiếp tục nhận công việc. Với sự thông minh và tinh thần khiêm tốn học hỏi, Bà Nguyễn Thị Doan đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mới, mặc dù những ngày đầu gặp không ít khó khăn. Sau một thời gian làm việc trong ngành kiểm tra, Bà đã nghiệm ra rằng nghề kiểm tra cũng có rất nhiều điểm tương đồng, gần gũi với nghề dạy học mà Bà đã từng gắn bó. Nếu dạy học là nghề trồng người, thì kiểm tra chính là tìm bắt sâu - cứu người. Nghề dạy học là sự nghiệp “Trồng người”, nghề kiểm tra là công việc liên quan tới sinh mệnh chính trị của một con người. Cả hai nghề này, theo Bà, đều rất cần có cái tâm trong sáng, và lòng nhân ái. Bà luôn khắc sâu lời dạy của Bác Hồ về công tác kiểm tra. Kiểm tra để “giữ” là chính, chỉ khi nào không thể “giữ” được mới kỷ luật. Khi còn lưỡng lự giữa kỷ

Page 278: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

348

luật và không kỷ luật thì không kỷ luật. “Kiểm tra hoàn toàn không phải là tìm thấy sâu là giết ngay con sâu ấy. Kiểm tra trước hết là phát hiện, ngăn chặn để ấu trùng không thể phát triển thành sâu”. Là phụ nữ, với trái tim nhân hậu, Bà không tránh khỏi những phút giây xúc động trước những đồng chí sa ngã, bị thi hành kỷ luật. Song, Bà luôn tự nhủ: “Có sự mềm dẻo, nhưng không được mềm lòng”. Trong những năm làm công tác kiểm tra, niềm vui lớn nhất, giấc ngủ ngon nhất đến với Bà “là khi giúp đồng chí của mình nhận ra cám dỗ và cái nghề này phải chịu. Bởi, ngoài trí tuệ, tấm lòng nhân hậu, Bà đã biết giữ mình. Giữ mình từ cái nhỏ đến cái lớn.

Ngày 25/7/2007, tại kỳ họp Quốc hội Khóa XII, Bà Nguyễn Thị Doan được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch Nước, hơn ai hết, Bà hiểu đó là vinh dự lớn, nhưng trách nhiệm và nhiệm vụ cũng rất nặng nề. Không chỉ mới mẻ, cương vị Phó Chủ tịch Nước đòi hỏi cao hơn, rộng hơn rất nhiều, về cả đối nội và đối ngoại. Giữ cương vị này, trước Bà Nguyễn Thị Doan, phụ nữ Việt Nam đã có các Bà Nguyễn Thị Định (lúc đó là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước), Nguyễn Thị Bình, Trương Mỹ Hoa. Các bà đều đã hoàn thành xuất sắc trách nhiệm được giao, làm rạng danh phụ nữ Việt Nam. Khi nhận trọng trách này, Bà Doan tự nhủ phải học hỏi hơn nữa, phải học, phải rút kinh nghiệm những người đi trước để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong công việc cần phải thể hiện sao cho vừa nguyên tắc nhưng linh hoạt, trí tuệ. Trong nhiệm kỳ Phó Chủ tịch Nước đầu tiên, Bà Nguyễn Thị Doan đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đó là cơ sở chắc chắn để Quốc hội Khóa XIII đã tín nhiệm cao, bầu Bà Nguyễn Thị Doan - Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, giữ cương vị Phó Chủ tịch Nước nhiệm kỳ 2011-2015, với 95,2% phiếu bầu.

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có trầm tích văn hóa lớn và giầu bản sắc, quê hương Hà Nam luôn chiếm trọn trái tim

Page 279: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

349

Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan. Bà luôn trăn trở làm thế nào để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc, đẩy mạnh phát triển ngành “công nghiệp không khói” của đất nước, trong đó có quê hương Hà Nam của mình. Với sự chỉ đạo sâu sát của bà, sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền, ngành văn hóa địa phương, sự cộng tác của Viện Văn hóa - Nghệ thuật (Bộ VH-TT-DL), nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc được đánh thức, phát huy và làm rạng rỡ tên tuổi quê hương Hà Nam, huyện Duy Tiên, huyện Lý Nhân. Điển hình nhất của những thành công ấy là Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, Lễ Phát lương Đền Trần Thương, Lễ hội Đền Bà Vũ. Sau hàng mấy thập kỷ bị lãng quên, lần đầu tiên dưới chế độ mới, Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, diễn lại cảnh Vua đi cày, mở luống cày đầu tiên cho nông dân đất Việt vào một năm mới, mưa thuận, gió hòa. Trong lần đầu phục dựng Lễ Tịch điền đó, tuy chưa trực tiếp xuống cầm cày (có lẽ là “Vua” nữ), nhưng hình ảnh vị nữ Phó Chủ tịch Nước dâng hương làm Lễ cáo yết Trời - Đất và muôn vàn tinh tú để cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, quốc thái dân an được truyền hình trực tiếp đi khắp cả nước và ra thế giới, đã làm ấm lòng người nông dân Việt Nam ta.

Kể từ đó, cứ mỗi độ Tết đến, Xuân sang, Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn lại tưng bừng, rộn rã với bao sắc mầu và hình ảnh Chủ tịch Nước (Đồng chí Nguyễn Minh Triết, đồng chí Trương Tấn Sang) đi chân đất, mặc quần áo màu nâu của nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ cầm cày, quất trâu mở những xá cày đầu tiên, đầu năm, đầu vụ, như một hiệu lệnh cho hàng triệu nông dân xuất quân xuống đồng được phát đi, phủ sóng toàn cầu. Hình ảnh quê hương Hà Nam bay cao, bay xa đến với và mời gọi bạn bè, du khách, nhà đầu tư khắp năm châu, bốn biển về với vùng đất Núi Đọi - Sông Châu.

Với những gì Bà Doan đã làm cho dân, cho nước trong hai nhiệm kỳ Phó Chủ tịch Nước, nhất là với truyền thống của quê hương và gia đình, với trí tuệ càng ngày càng minh mẫn, với

Page 280: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

350

tấm lòng nhân hậu, biết giữ mình, nhất là với một gia đình hạnh phúc, chúng ta tin tưởng Bà nhất định sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

Từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 5 năm 2015, tại thành phố Sao Paulo - Brazil, Hội nghị Thượng đỉnh Phụ nữ toàn cầu lần thứ 25 với Chủ đề “Phụ nữ sáng tạo, nền kinh tế sáng tạo” đã diễn ra. Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan dẫn đầu đoàn đại biểu phụ nữ Việt Nam đã tham dự Hội nghị. Tại Lễ khai mạc Hội nghị, Chủ tịch Hội nghị thượng đỉnh Phụ nữ toàn cầu Irene Natividad đã trao tặng Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan Giải thưởng “Lãnh đạo Nhà nước Toàn cầu” vì những nỗ lực nâng cao quyền năng cho phụ nữ và đặc biệt là những đóng góp trong tăng cường kết nối các doanh nhân nữ Việt Nam với thế giới.

Cho đến nay, đã gần hai mươi năm xa mái trường Đại học Thương mại Hà Nội - Nơi bà chuyển đi để “làm to” hơn, nhiều cán bộ giảng dạy của Trường đến thăm người Hiệu trưởng năm nào hiện ở ngôi Nhà công vụ ở phố Đội Cấn, vẫn thấy hai kỷ vật của Trường - những vật chất duy nhất trong đời Bà nhận, được Bà Phó Chủ tịch Nước nâng niu, trân trọng, làm vật để soi mình, để mình nhìn vào mà trau mình, đó là chiếc quạt Mitsubishi và cái lọ hoa nhỏ bằng pha lê. Hai kỷ vật giá trị chẳng đáng là bao, nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với một vị Phó Chủ tịch Nước, như Bà từng tâm sự: “Quạt để mỗi khi bật lên là tôi lại nhận được làn gió mát của mọi người đến với mình. Lọ hoa pha lê để luôn nhắc nhở rằng tình cảm của tôi với Trường và Trường đối với tôi thủy chung trong sáng như pha lê”.

Page 281: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

351

HOÀNG TÙNG - MỘT NHÀ BÁO LỚNMỘT NHÂN CÁCH LỚN

NHÀ BÁO PHAN QUANG *

Hoàng Tùng, tên thật là Trần Khánh Thọ, người xã Nhân Hòa, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Làng Tảo Môn nơi ông sinh ra không mấy xa làng Đại Hoàng, quê nhà văn Nam Cao. Hai ông cùng một thế hệ. Hoàng Tùng sinh năm 1917, chỉ kém Nam Cao hai tuổi. Tôi nhớ có lần, nhân chuyến theo ông về công tác Nam Định, được ông rủ về thăm huyện Lý Nhân. Trước khi về làng ông, chúng tôi ghé Đại Hoàng. Ấn tượng đậm nét trong tôi sau gần nửa thế kỷ là cảnh vật hai làng giống hệt như nhau, điển hình cho nông thôn đồng bằng châu thổ sông Hồng. Ruộng lúa, những hàng tre và những vườn chuối, thi thoảng mới nhìn thấy mấy gốc cam hay quýt, đặc sản nổi tiếng của huyện này.

Hoàng Tùng vỡ vạc nghề báo tại Nhà tù Sơn La. Chàng thanh niên cùng các bậc đàn anh Trần Huy Liệu, Xuân Thủy… làm báo Suối reo (1941). Làm cho vui, làm để ngắn bớt thời gian chờ đợi. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ông đâu có chuyên trách nghề báo. Ông nhận nhiều trọng trách: Bí thư Thành ủy Hà Nội (1945), Bí thư Thành ủy Hải Phòng (1946), Xứ ủy viên Bắc Bộ, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Phó trưởng Ban Thi đua Trung ương (1949), Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Chủ nhiệm báo Sự thật (1950), Tổng biên tập báo Nhân dân (1951)…

* Nguyên Tổng Giám đôc Đài Tiếng nói VN, nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo VN.

Page 282: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

352

Hoàng Tùng sớm học được ở Bác Hồ một điểm, là bất cứ làm công tác gì, giữ nhiệm vụ nào, cũng coi viết báo là một nhiệm vụ, tờ báo là một phương tiện nữa để thực thi trọng trách của mình. Ở Hà Nội, ông viết báo Kiến thiết (1945). Về Hải Phòng, ông thường xuyên có bài cho báo Dân chủ (1946). Lên chiến khu 3, ông cộng tác với báo Chiến đấu (1947). Ông trở thành nhà báo chuyên nghiệp khi được Trung ương phân công phụ trách tờ Sự thật (1951). Trách nhiệm ấy đưa ông trở thành Tổng biên tập đầu tiên của báo Nhân dân vào năm sau (1951), khi báo Nhân dân đĩnh đạc xuất hiện giữa làng báo Việt Nam tại chiến khu Việt Bắc. Hoàng Tùng làm Tổng biên tập báo ấy mãi cho đến lúc không thể không rời gốc đa Hàng Trống mà ông gắn bó suốt 31 năm. Ông phải làm nhiệm vụ quán xuyến hơn là Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương rồi Bí thư Trung ương Đảng phụ trách công tác tư tưởng, trong đó đương nhiên bao gồm báo chí- nói cách khác, ông không rời cái nghiệp tân văn.

Thời gian từ 1951 cho đến khi Bác Hồ đi xa (1969), Hoàng Tùng được Bác kèm cặp nhiều nhất. Hầu như không ngày nào Bác không đọc báo Đảng, và tôi tin có lẽ không ngày nào Bác không có ý kiến nhận xét, khen chê. Ở cương vị chúng tôi hồi ấy, khó biết hết mọi sự, chỉ xin kể lại đây vài điều mắt thấy tai nghe làm chứng cứ. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, nửa cuối những năm 50, nhà văn Nguyễn Văn Bổng có thời gian làm Trưởng ban Nông thôn của báo. Anh là cán bộ miền Nam tập kết, chị cũng là phóng viên, gia đình anh chị được phân một căn phòng nhỏ trong khuôn viên khu nhà số 71, Hàng Trống. Một sáng chủ nhật, còn rất sớm, có điện thoại từ Văn phòng Chủ tịch nước gọi đến. Chị trực tổng đài chỉ còn biết tìm anh Bổng đến cầm máy hộ.

Đầu dây bên kia, có tiếng hỏi: - Hoàng Tùng đâu?Nhận ra giọng Bác Hồ, Nguyễn Văn Bổng vội đáp: - Thưa, anh Hoàng Tùng đang ở nhà.

Page 283: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

353

- Vậy Quang Đạm đâu?- Thưa, anh Quang Đạm lát nữa mới đến cơ quan. - Chú là ai? Chú làm gì ở tòa soạn? Nguyễn Văn Bổng vội xưng tên và chức vụ.Giọng Bác Hồ như có đỡ gay gắt hơn:- Vậy chú lấy giấy bút ra ghi ý kiến của Bác, rồi nói lại với

chú Tùng và chú Đạm…Những ý kiến ấy, Nguyễn Văn Bổng không bao giờ quên, vì

Bác phê bình đúng cái tin chính tay anh vừa duyệt cho đăng tối hôm qua.

Một lần, tôi được cử làm phóng viên phục vụ chuyến Bác Hồ đi thăm cơ sở. Bài tường thuật của tôi không gặp trục trặc. Tuy nhiên ngay sáng hôm báo đăng, gặp Tổng biên tập giữa sân, anh nhăn mặt:

- Sao anh không gửi bài anh viết cho cả báo Thủ đô Hà Nội, Thông tấn xã và Đài phát thanh cùng sử dụng? Bác Hồ vừa “quạt” tôi một trận. Bác bảo: “Ra Bác Hồ là chỉ của báo Nhân dân, Bác Hồ không phải của các báo, đài khác nữa sao?”.

Anh nói tiếp, giọng nhẹ nhàng hơn:- Lần sau anh lưu ý hộ tôi nhé. Tôi có quên, anh là người

làm trực tiếp, anh phải nhớ.Đầu năm 1981, tôi vừa ở miền Nam ra, được Ban Biên tập

báo giao cho việc chỉ đạo xây dựng gấp Phòng Truyền thống, trưng bày hiện vật ngay tại tầng trệt vốn là cái mái che căn hầm ngầm tránh bom B52 do công binh xây cho ngay giữa sân, bên cạnh gốc đa cổ thụ. Phải làm cho kịp để kỷ niệm 30 năm Ngày báo ra số đầu (11/3/1951 - 11/3/1981).

Mọi việc đã nhờ các bạn ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam lo liệu giúp. Tuy nhiên, hiện vật trưng bày, cơ quan chủ quản phải chạy là chính. Lấy đâu ra tư liệu? Tôi trình với Tổng biên tập, xin phép được in mấy dòng đại thể kiểu “Rao vặt” lên cuối trang 4, thông báo anh chị em có thời gian công tác ở báo, nay dù chuyển đi nơi khác hoặc đã nghĩ hưu, ai còn giữ hiện vật,

Page 284: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

354

tranh ảnh liên quan đến 30 năm hoạt động của cơ quan, xin vui lòng gửi ngay cho. Anh Hoàng Tùng nói:

- Vậy anh lại không nhớ lời Bác Hồ dạy? Bác chẳng bảo: “Tờ báo Trung ương giao các chú, các cô làm. Nhưng báo Nhân dân là cơ quan của Trung ương, của toàn Đảng, không phải của riêng các chú, muốn làm thế nào cũng được”. Việc xây dựng Phòng truyền thống là việc nội bộ cơ quan, làm sao anh bảo tôi dám cho phép anh đưa lên mặt báo?

Về người thầy Trường Chinh, chính Hoàng Tùng từng viết nhân kỷ niệm Ngày báo chí 21/6/1995: “Trường Chinh coi việc bồi dưỡng cán bộ làm báo là một việc quan trọng, và rất say mê với công việc này, dù nhiều lúc rất bận rộn (…). Trường Chinh luôn luôn muốn làm cho những người giúp việc gần gũi của mình trở thành những người viết báo. Những người phụ trách báo Nhân dân, Đài phát thanh, Thông tấn xã, tạp chí Lý luận trong mấy chục năm đều được đồng chí dạy bảo, uốn nắn cả về nghề nghiệp, phong cách, tuy vẫn khuyến khích mỗi người có một phong cách riêng”. Hoàng Tùng nhìn thấy ở Trường Chinh “một nhân vật anh hùng, một con người cao thượng”. Tại một bài khác, ông quả quyết: “Sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Lê Duẩn là hai đồng chí Tổng bí thư lãnh đạo nhân dân ta trong hơn bốn mươi lăm năm, có những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ta”.

Những điều Hoàng Tùng học tập được ở Bác Hồ, ở đồng chí Trường Chinh và các lãnh tụ khác của Đảng, ông mang ra dạy bảo, kèm cặp chúng tôi. Chỉ nói riêng ở báo Nhân dân, đã có mấy thế hệ học trò ông. Lớp đầu nay tuổi bảy, tám mươi, lớp trẻ nhất cũng đã bước tới cái mốc tri thiên mệnh. Không ít người trong số đó thành đạt trong nghề.

Hoàng Tùng là một cây bút chính luận xuất sắc của làng báo Việt Nam. Cùng thế hệ với ông, có thể kể ra không nhiều tên tuổi, trong đó nổi lên Trần Quang Huy, Hồng Chương, Đào Duy Tùng và mươi người khác. Nhiều vị lại thiên về nghiên

Page 285: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

355

cứu, lý luận hơn, trong khi Hoàng Tùng luôn luôn là cây bút viết báo hằng ngày - trừ thời gian cuối đời công tác, chuyển sang làm việc ở Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, ông có điều kiện viết những bài dung lượng dài hơn.

Ông làm Tổng biên tập báo Nhân dân liên tục hơn ba thập niên, song theo tôi được biết, bút danh Hoàng Tùng chỉ xuất hiện trên mặt báo ấy đâu có dăm, bảy lần là cùng, chủ yếu bởi lý do đối ngoại, hoặc là khi viết về những nhà lãnh đạo mà ông hết lòng kính trọng. Xã luận là thế mạnh của ông, cuối bài viết lúc nào đương nhiên cũng chỉ có hai chữ Nhân dân, có gì khác bài của cánh lính mới chúng tôi? Các bút danh khác đặt cuối những thiên luận chiến, phân tích thời cuộc dài hơn lại ký những bút danh rất chung, rất tập thể: Người bình luận, Người quan sát, Chính nghĩa, Chiến hữu… Ông đã viết nhiều trăm bài xã luận, bình luận. Văn chính luận của ông đăng trên báo thường ngắn gọn, hàm súc, có sức thuyết phục người đọc bằng lập luận vững vàng, ngôn từ sắc nét, lại đậm phong cách dân gian.

Chủ đề các bài viết của ông phần nhiều thuộc “quốc gia đại sự”: cách mạng giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân Pháp, chiến lược và sách lược chống Mỹ cứu nước, đấu tranh thống nhất nước nhà, cải tạo kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội, lịch sử Đảng Cộng sản và lịch sử cách mạng Việt Nam, tính chất thời đại, tình đoàn kết quốc tế dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh…

Mỗi lần cách mạng có bước ngoặt, hoặc đơn giản hơn, thời cuộc vừa diễn ra một sự kiện quan trọng, hay là lãnh đạo vừa quyết định một chủ trương công tác mới, thế nào báo Đảng cũng phải có ngôn luận. Nhiều bài do các ban chịu trách nhiệm, song những bài quan trọng nhất thì không thể ai khác ngoài Tổng biên tập. Chúng tôi ở tòa soạn quen cái cảnh: suốt ngày không nhìn thấy mặt Tổng biên tập ở cơ quan, tan giờ chiều thấy xe ông lừng lững từ cổng vào, và ông đi thẳng lên gác,

Page 286: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

356

đóng cửa phòng làm việc mải miết. Lúc này có việc khẩn cũng chớ nên dại gõ cửa phòng ông, sẽ gặp luôn sự lạnh nhạt thậm chí cáu gắt của sếp. Cần lắm thì chờ đến khuya, khi mọi bài vở đã đi nhà in. Những lần như vậy, cầm chắc là ông vừa tham dự xong một hội nghị cơ mật, và báo Đảng phải là kênh thông tin nhanh nhất, chuyển tải sớm nhất thông điệp của lãnh đạo Trung ương đến toàn thể nhân dân và bạn bè quốc tế; không ít trường hợp nhằm nhắn gửi một tín hiệu nào đó đến đối phương. Chính vì vậy, sau những sự kiện quan trọng như các kỳ họp Tê Ư, một số cuộc họp Bê Xê Tê (Bộ Chính trị), mọi người chờ đọc chính luận báo Nhân dân.

Một số bài Hoàng Tùng viết thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, về Đảng, về Bác Hồ… có thể xếp vào loại gọi là “kim cổ hùng văn”. Hùng hồn mà không sáo rỗng nhờ lập luận chặt chẽ, cứ liệu không ai phản bác nổi. Tính cổ động và sức tập hợp cao, không ngờ văn chính luận những tưởng khô khan, hóa ra vẫn có khả năng đi thẳng vào lòng người.

Ngôn luận của báo Đảng có sứ mệnh thông tin, thuyết phục công chúng đã đành, đôi khi nó đồng thời có thể là lời cảnh cáo những ai đó có toan tính ngược vòng quay lịch sử, viết không “kín nhẽ” sao xuôi.

Một mảng chủ đề quan trọng của Hoàng Tùng là chân dung các nhân vật lịch sử đương đại có công đầu với nước, với dân. Sau khi thôi công việc báo hằng ngày, ông có điều kiện đi sâu vào lịch sử, mặt khác các bài ông thể hiện cũng không phải quá gò bó về khuôn khổ số từ như khi viết báo hằng ngày. Riêng một tập Tuyển khoảng 120 bài báo chính luận của ông, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cách đây mươi năm, đã có đến 12 bài viết về Bác Hồ, cùng cả chục bài khác viết về các đồng chí Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, Phạm Hồng Thái, Tô Hiệu, Trường Chinh, Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt…

Page 287: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

357

Tôi làm quân dưới trướng tướng Hoàng Tùng 28 năm. Không ít lần bị ông quạt. Đôi khi cũng ấm ức. Song cuối đời hồi tưởng, còn lại chỉ những kỷ niệm vui vui. Mùa thu năm 1954, tôi được điều về công tác ở báo Nhân dân. Năm ấy, hai tỉnh Bắc Liên khu 4 lụt to. Đê sông Lam vỡ nhiều đoạn. Sông La nước tràn bờ. Kẹt đường, mãi đến đúng ngày 10/10, tôi mới tới được cơ quan báo lúc này vừa từ Việt Bắc về đóng tạm một ngôi nhà cạnh cầu Phùng, huyện Đan Phượng, chờ đưa toàn bộ tòa soạn cùng nhà in vào làm việc tại Thủ đô. Gặp anh bạn quen hồi công tác ở Liên khu 4, anh dẫn tôi sang nhà bên chào thủ trưởng. Ông Hoàng Tùng bắt tay tôi: “Chào anh Hoàng Tùng!”. Và cười tủm tỉm, ông nói tiếp với cái giọng tưng tửng ít lâu sau tôi sẽ quen: “Anh là Hoàng Tùng. Tôi cũng là Hoàng Tùng. Tôi nghĩ ở báo Nhân dân ta có lẽ chỉ nên có một Hoàng Tùng, hoặc là anh hoặc là tôi”.

Có lẽ nhận thấy anh chàng nhà quê quá lạ lẫm với đất Hà Thành, khoảng vài tháng sau, vào một sáng chủ nhật, tôi đang thơ thẩn cạnh gốc đa Hàng Trống, ông đến gần hỏi: “Có muốn đi chơi chợ Đồng Xuân không?”. Tôi thích quá, đi với sếp thì khỏi lo bỡ ngỡ. Hai anh em la cà suốt buổi sáng trong chợ đông vui, hết gian này sang gian khác, ngó nghiêng nhìn ngắm hàng họ. Đến lúc mỏi nhừ cả chân, ông mới hỏi: “Ta kiếm cái gì ăn trưa ở đây luôn nhá?”. Tôi ngỡ thủ trưởng sẽ cho mình vào một hiệu ăn sang trọng nào đó. Hóa ra ông vẫn loanh quanh trong chợ, kiếm gian hàng ăn. Người khách trước vừa quệt mồm đứng lên, ông ngồi luôn vào chiếc ghế thấp tịt, tay chỉ cho tôi ghế của một bà khách khác vừa rời chỗ. Thủ trưởng hôm nay khao lính món bún chấm mắm tôm! Thịt lợn cũng có đấy, song mỗi người chỉ mỗi một xiên mấy nhát mỏng và nhỏ bằng đầu ngón tay. Còn là bún, tha hồ ních chặt bụng. Tôi nhìn ông nhanh nhẹn vắt nửa quả chanh tươi, cho thêm mấy lát ớt đỏ vào rồi khuấy đều cho mắm tôm sủi, rồi sành điệu chọn ngắt mấy chiếc lá húng; xong ngước đầu nháy mắt ra hiệu, anh em cùng vào cuộc!

Page 288: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

358

Một chủ nhật khác, ông rủ tôi sang Bắc Ninh chơi. Lần này đi ô tô. Chúng tôi lang thang quanh thị trấn Từ Sơn, trưa vào chợ, lại tìm đến một lều quán tuềnh toàng. Lần này thủ trưởng chiêu đãi canh bánh đa. Ra khỏi quán, ông còn cười, hỏi như thách đố: “Canh bánh đa Bắc Kỳ có những gì khác bánh đa xứ Nghệ, anh nói tôi nghe nào?”. Quả thực tôi đâu có thành thạo cái món đặc sản này…

Cho đến bây giờ tôi còn nhớ như in chuyến cùng ông đi Vĩnh Linh, Quảng Bình mùa lụt năm 1962 ấy. Ra tới Hà Tĩnh thì trận lũ to ập về. Nước sông Lam cuồn cuộn tràn bờ. Phà Bến Thủy cắt, cấm mọi phương tiện qua sông. Chúng tôi ghé Nhà khách của tỉnh, thấy khá đông khách tắc đường ghé tạm trú, ai nấy sốt ruột hết nhìn nước lại nhìn trời. Duy nhất một người bình tĩnh. Ấy là Viện trưởng Viện Sử học Trần Huy Liệu. Ban ngày trời âm u, cụ bật hết đèn trong phòng khách, cặm cụi viết lách gì đó dưới ánh vàng ệch của cây đèn bàn không đủ soi sáng mặt cái bàn uống nước, không đủ chỗ cho cụ bày mấy cuốn sách dày cộp mang theo.

Hoàng Tùng hơn ai hết càng đứng ngồi không yên. Đi công tác đâu xa, ông cũng lo công việc ra báo ở nhà. Ông bảo tôi, hay là ta cứ đi tiếp ra ngoài. Đến đâu hay đến đấy. Biết đâu chẳng tìm được cách…

Ô tô xếp dãy dài trên đoạn đường thuộc địa phận huyện Nghi Xuân. Trước mặt chúng tôi là cánh đồng lúa vừa biến thành biển nước đỏ ạch phù sa. Con đường trước mũi hàng xe đã lặn mất tăm dưới lũ.

Ba thầy trò chờ ven đường đến chiều, thì có mấy xe lội nước của bộ đội Quân khu 4 đi cứu trợ đồng bào bị cô lập tại các xóm hẻo giữa đồng. Tôi móc túi, còn bao nhiêu tem gạo đưa hết cho anh lái xe, mình anh ở lại chờ nước rút, rồi xắn quần bám sát thủ trưởng. Ông đã được anh em bộ đội nắm tay dìu lên. Tôi leo lên theo. Chiếc xe chiến đấu sùng sục lội băng ngang đồng ruộng ngập, đến một chỗ nước sâu thì đỗ lại. Ở đấy có

Page 289: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

359

chiếc xuồng máy chờ sẵn. Ca nô lựa dòng chảy chạy men bờ, ngược dòng sông Lam, đến nơi thuận tiện, vượt sông sang bờ bắc. Ông Hoàng Tùng và tôi lò dò cuốc bộ về Nhà khách tỉnh ủy, ở mãi thành phố Vinh. Dù sao vẫn may mắn. Gặp ở đây ông thứ trưởng Bộ Thủy lợi vừa đáp máy bay quân sự vào Nghệ Tĩnh thị sát tình hình lụt lội, sáng sớm mai trở ra Hà Nội báo cáo Chính phủ. Hai anh em tháp tùng luôn.

Sân bay Gia Lâm ngày mưa vắng tanh. Tôi tìm bốt gác, định gọi nhờ điện thoại về cơ quan gọi xe sang đón. Ông gạt đi: “Thôi, ta cứ lần ra đường 5 cái đã, rồi sẽ tính. Còn nhanh hơn ngồi ở đây chờ xe”.

Đường số 5 dạo ấy xe cộ chưa nhiều. Thi thoảng một chiếc từ Hải Phòng lên, phóng vèo qua trước mặt, chẳng ai buồn để ý hai anh chàng quần ống thấp ống cao thất thểu bên đường. May sao - lại may! - có ông già đang đạp chiếc xích lô cà tàng. Hai em sung sướng lên xe. Chiếc xích lô ì ạch tránh các ổ trâu trên mặt đường 5, chậm chạp bò đến đầu cầu Long Biên. Cấm mọi phương tiện vận tải thô sơ qua cầu vào giờ này! Hai anh em chỉ còn cách lại lội bộ. Đến phố Lò Sũ, nhìn thấy ngọn cây đa Hàng Trống phía bên kia hồ, nghe tôi thở phào, ông lại tưng tửng: “Chuyến đi khoái nhá. Đủ loại phương tiện!”. Dù quá mệt, vẫn không nén được cười. Đúng. Đủ loại: Ô tô riêng, xe lội nước, ca nô, máy bay, xích lô và cuối cùng… lội bộ...

Page 290: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

360

GIÁO SƯ TRẦN QUỐC VƯỢNGVỚI NHỮNG ĐỊNH ĐỀ VỀ VĂN HÓA HÀ NAM

TS. NGUYỄN THỊ BẢY *

Sinh thời, đôi ba lần, trong các bài viết, bài thuyết trình ở trong và ngoài nước, GS Trần Quốc Vượng (1934 - 2005), đã giới thiệu về quê cha đất tổ của mình. Cách đây hơn 20 năm, trong lần thuyết trình về văn hóa Việt Nam trên đất Mỹ (bên Mỹ đã in thành sách, bản tiếng Anh, phát hành bên trời Tây), vừa mới được Nxb Hội Nhà văn in thành sách, phát hành chính thức ở Việt Nam năm 2014, có nhan đề Trong cõi. “Cội rễ” của GS Trần Quốc Vượng được ông giới thiệu như một bức tranh quê sơn thủy hữu tình thật đẹp: “Quê tôi nằm bên một dòng sông nhỏ, dưới chân một trái núi nho nhỏ miệt đồng chiêm trũng xứ Nam… Dòng sông Châu tách ra từ con sông Đáy bên tả ngạn, ở đúng cái nơi gọi là xã Châu Cầu, phủ Lý Nhân thời Lý - Trần, xứ Sơn Nam Hạ thời Lê, có đủ chất non xanh nước biếc và cái tụ hội đông vui của con người để hòa vào thơ của Quế Đường tiên sinh và sau trở thành thị xã Phủ Lý của tỉnh Hà Nam quê hương của Ưu Thiên (“kẻ lo sập trời”) Bùi Kỷ. Đôi bờ sông là bãi mía, nương dâu, đồng khoai ngô biêng biếc và những rặng tre la đà rủ bóng của huyện Thanh Liêm, Duy Tiên, Bình Lục, Nam Xang,… Tới chỗ giáp ranh 3 huyện, con sông này còn một nhánh nữa, vốn tách ra từ con sông Nhuệ ở mạn Cầu Giẽ đổ về, sau khi uốn lượn dưới chân dải Đội Điệp - mấy mỏm núi đồi còn sót lại

* Viện Văn hóa - Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

Page 291: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

361

của bán bình nguyên trung sinh trăm triệu năm thuở trước… Phía dưới, dòng sông xưa còn quanh chảy ở ruộng đồng Mỹ Lộc, soi bóng tháp Phổ Minh của phủ Thiên Trường nơi phát tích của hoàng tộc họ Trần có gốc gác dân chài, cũng chính là dòng họ của kẻ hèn mọn này, đang cầm cây sử bút hôm nay…

Đây, nơi kia, dưới chân núi của huyện Thanh Liêm, là quê quán Lê Hoàn “kẻ mồ côi” đã vươn lên thành Thập Đạo tướng quân rồi vua Lê Đại Hành, rất đa tình và cũng cực anh hùng một thời kháng Tống. Dòng họ ấy, bị gián đoạn với tư cách hoàng gia, nhưng còn tiếp nối dài với tư cách thông gia triều Lý, và ở thời Trần, đã nảy sinh hai vị anh hùng, kiên cường bất khuất chống Nguyên - Mông, là Lê Phụ Trần (sau lấy công chúa Lý Chiêu Hoàng) và Trần Bình Trọng (vốn tổ tiên ở họ Lê này, sau được nhà Trần ban “quốc tính”).

Ngày nay, vào thăm đình Hòa Mạc ở Hợp tác xã Trác Bút anh hùng (Châu Giang), ta còn thấy những câu đối nói đến “Mạc giang” xưa chảy qua làng. Đó chính là sông Thiên Mạc (màn trời), nơi chứng kiến sự kiện bi tráng của Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỉ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”.

Đội Điệp được ghi như “danh sơn” của xứ Nam bởi những cây đại bút Ức Trai Nguyễn Trãi (Dư địa chí) và Quế Đường Lê Quý Đôn (Thượng kinh phong vật chí).

Nơi đây:Ruộng Lê hoa cỏ ngọt ngào,Rêu in tháp Lý bia cao chưa mòn!Lê Đại Hành đã tới đây cày Tịch điền và tìm thấy những

hũ vàng, hũ bạc. Triều Lý lập hành cung ở đây để làm nơi tuần hành và triều hội. Ỷ Lan Thái hậu cùng vua Lý Nhân Tông đã sai dựng tháp Sùng Thiện Diên Linh và dựng chùa trên sườn núi Đọi, mở đại hội khánh thành năm Thiên Phù Đại Võ - 1121. Bia Lý ghi lại những sự việc trên, còn sừng sững trên sườn non, cao hơn 2m, rêu phong mờ phủ màu thời gian… Những chi

Page 292: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

362

nhánh họ Trần có mặt ở vùng này, những “người sang” thuộc dòng dõi hoàng tộc Trần. Còn tôi, tôi thuộc dòng dõi dân chài. Và chỉ thừa kế được của dòng tộc này một nước da ngăm đen và một tính tình phóng khoáng bẩm sinh” (115). Qua những dòng giới thiệu trên, chỉ có thể nói, nếu không phải là một người yêu quê hương tha thiết thì không thể nhớ - tả - nghĩ về quê hương như vậy được.

Và rồi, vì cái phận cầm sử bút, vì để trả nợ quê hương, GS Trần Quốc Vượng đã viết và viết nhiều về Hà Nam. “Nhớ quê anh lại tìm đường thăm quê” - GS Trần Quốc Vượng đã không quản nắng, mưa, có nhiều mùa điền dã trên đồng đất Hà Nam. Sau những chuyến dẫn các đoàn khảo cổ học của Viện Khảo cổ, Khoa Lịch sử Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội cũ, các thành viên trong đó phần nhiều là các học trò ông, GS Trần Quốc Vượng đều có bài viết về Hà Nam.

Trong giới văn hóa học Việt Nam, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên dùng lý thuyết Địa - Văn hóa để định vị và cắt nghĩa văn hóa Việt Nam, văn hóa nhiều vùng, miền cả nước, trong đó có văn hóa Hà Nam. Ông có cả cuốn sách gần 500 trang do “em ông” PGS.TS Trần Lâm Biền, các học trò của ông như GS.TS Nguyễn Chí Bền, TS Nguyễn Minh San… ở Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Bộ VH-TT&DL) tập hợp in thành sách, với cái tên Việt Nam - cái nhìn Địa - Văn hóa (Nxb Văn hóa dân tộc, 1998). Cuốn sách này là một trong 3 cuốn sách làm cơ sở quan trọng để Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho GS Trần Quốc Vượng. Về văn hóa Hà Nam, với tình yêu và một “con mắt xanh” trời phú, những bài viết của GS Trần Quốc Vượng đã đặt / đưa ra những định đề nhận diện và định vị bản sắc văn hóa Hà Nam. Từ những định đề mang tính khái quát hóa cao độ đó, đã gợi mở những hướng nghiên cứu, tiếp cận sâu hơn, đa dạng hơn cho các nhà khoa học khác khi nghiên cứu, tìm hiểu về vùng đất này. Những định đề đó như sau:

(115). GS Trần Quốc Vượng (2014), Trong cõi, Nxb Hội Nhà văn, tr 191 - 193.

Page 293: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

363

Thứ nhất, Văn hóa Hà Nam - văn hóa vùng đồng chiêm trũng.Từ những năm 80 của thế kỷ trước, trong bài Sông

Châu - Núi Đọi - Họ Trần và những mối quan hệ với cụ Kép Trà (Một tiếp cận địa - văn hóa học), GS Trần Quốc Vượng đã chỉ ra, Hà Nam là vùng ô trũng - tứ giác nước: sông Đáy (Tây) - sông Hồng (Đông) - sông Châu Giang (Bắc) - Vị Hoàng (hay “sông Đào” Nam Định (Nam), là vùng đồng bằng tích tụ trũng, xen đồi sót, một ô trũng vừa tự nhiên - vừa nhân tạo, bao quanh bởi đê sông Châu, sông Hồng, sông Đáy, sông Nam Định, là một vùng mà cụ Kép gọi là đồng cò trắng, tức là vùng đồng chiêm trũng điển hình, “sống ngâm da, chết ngâm xương” xưa kia. Định đề này, một lần nữa được GS Trần Quốc Vượng khẳng định trong bài Hà Nam quê tôi (in trong sách Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn - Nxb Hà Nội, 2005): “...quê tôi về cơ bản thuộc vùng Hạ châu thổ, song cũng có “một chút” vùng thượng châu thổ và trung châu thổ đất cổ - là địa bàn gốc của Âu Lạc - vua Thục. Ông xếp “Hà Nam quê tôi, quê hương cụ Tam nguyên Yên Đổ, cụ nghè Châu Cầu Bùi Dị, cụ Kép Trà, cụ Cử Kiến, cụ cử Văn Ấp, cụ tú Trần… vào ô trũng tứ giác nước: sông Hồng (Đông) - sông Đáy (Tây) - sông Châu (Bắc) - sông Vị Hoàng (Nam)… Đấy là một vùng châu thổ tích tụ trũng phù sa mới xen đồi sót, một cái trũng vừa tự nhiên vừa nhân văn, bao quanh bởi đê sông Châu, sông Hồng, sông Đáy, sông Nam Định… Đấy là vùng sinh thái đồng chiêm trũng điển hình ngày trước nơi con người đất Việt trời Nam, Sơn Nam “sống ngâm da, chết ngâm xương” xưa kia, nơi có những đàn bà “hay lam, hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng” theo chữ của cụ Hoàng và Nguyễn Khuyến, vùng cụ Kép Trà gọi là đồng cò trắng…

Từ định đề trên, các nhà văn hóa học sẽ đi tìm những nét văn hóa đồng chiêm trũng - sông nước trong kiến trúc, điêu khắc các di tích lịch sử văn hóa ở Hà Nam; đi tìm ca dao, dân ca của vùng đồng chiêm trũng - sông nước; đi tìm những vị thần

Page 294: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

364

chống lụt, thần hộ đê vốn là những vị thần được người dân vùng đồng chiêm trũng viện đến trong công cuộc hộ đê, chống lụt của vùng đất này. Và… nhiều thành tố văn hóa miền đồng chiêm trũng khác nữa.

Thứ hai, Sông Châu - Núi Đọi hai hằng số địa lý - văn hóa Hà Nam.

Cũng từ những năm 80 của thế kỷ trước, trong bài Sông Châu - Núi Đọi - Họ Trần và những mối quan hệ với cụ Kép Trà (Một tiếp cận địa - văn hóa học), GS Trần Quốc Vượng đã tìm ra hằng số địa lý - văn hóa của Hà Nam là “Sông Châu - Núi Đọi” - Biểu tượng Sơn - Thủy hữu tình của Hà Nam.

Về núi Đọi, GS Trần Quốc Vượng đã phát hiện ra vai trò, vị trí của dãy Đọi Sơn và lịch sử văn hóa Đại Việt. Ông viết: “Đọi - Điệp và nói rộng ra là cả vùng ven đồi sót của Duy Tiên - Bình Lục… trở thành một Vùng Văn hóa là từ đó, cách ngày nay đã trên dưới 2.000 năm… những phát hiện nổi tiếng về trống đồng núi Đọi, Yên Bắc, Bạch Thượng, Ngọc Lũ, Vũ Bị, Núi Gôi,… cùng các thạp đồng Châu Giang, Mộc Bắc, với các nhóm công cụ, rìu, nhíp gặt lúa, giáo đồng Đông Sơn và đặc biệt là các mộ cổ thuộc văn minh Đông Sơn quan tài hình thuyền cuối thời đại “các vua Hùng dựng nước”, được phát hiện ở quanh Núi Đọi và vùng Kim Bảng - Thanh Liêm cùng cả vùng ô trũng Hà - Nam - Ninh, cho đến tận Vụ Bản - Ý Yên… Ông phát hiện ra các ngôi mộ đều được chôn ở vùng đất trũng ven sông. Chủ nhân các ngôi mộ đều quay đầu về núi Đọi. Đọi Sơn trở thành điểm qui chiếu và đã được thiêng hóa. Cho tới nay, Đọi Sơn là di chỉ phát hiện được nhiều sọ cổ chủ nhân văn minh Đông Sơn nguyên vẹn nhất, cách ngày nay ước khoảng 2.000 năm.

Về sông Châu, GS Trần Quốc Vượng cũng phát hiện vị trí và vai trò của dòng Châu Giang với lịch sử văn hóa Đại Việt.

Quê hương nội, ngoại của GS Trần Quốc Vượng đều nằm trên bờ sông Châu này. Ông nội GS Vượng lấy tên hiệu là Châu Thần (người bầy tôi ở sông Châu). GS Vượng vô cùng thán phục

Page 295: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

365

và tán đồng với phát hiện của hai học trò của ông về một con sông nổi tiếng trong lịch sử chống quân Nguyên thời Trần - sông Thiên Mạc, rằng: sông Thiên Mạc gắn với tên tuổi lừng danh Trần Bình Trọng và câu nói bất hủ vang lên bên sông ấy “Ta thà làm quỉ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” - không phải là sông Hồng hiện nay, và bãi Đà Mạc ấy cũng đâu phải là bãi Màn Trò (Mạn Trù Châu) của phủ Khoái Châu, Hưng Yên, mà chính là con sông Mang Giang (đã cạn từng phần) từ Cầu Giẽ chảy qua vùng Hòa Mạc - Trác Bút (Châu Giang) rồi đổ vào sông Hồng ở địa điểm Tắc Giang hiện nay, mà một bên là thôn Lỗ Hà xã Chuyên Ngoại, nơi Quốc công Trần Hưng Đạo đánh trận A Lỗ mở đầu chiến dịch phản công quân Nguyên - Mông năm 1285. Trên cơ sở “phục tùng kiến thức khoa học của giới sử học trẻ tuổi” về dòng sông Thiên Mạc (GS Vượng tự nhận), năm 1988, trong bài bút ký Một thời đã qua…, GS Trần Quốc Vượng đã “đi xa hơn họ một chút nữa”, khi ông cho rằng “sông Thiên Mạc cũng chỉ là một đoạn của sông Nhuệ (trên) và sông Châu Giang (dưới) của một đường sông nước nối liền Thăng Long và Thiên Trường, trên thực tế là nối 2 Kinh đô (một của vua, một của vua - cha) của nhà Trần quen sông nước….Thời Lý - Trần cho đến đầu Lê, có một con đường nước ở sau Sông Cái - Sông Hồng, từ Kẻ Chợ - Thăng Long đến Tức Mạc - Thiên Trường rồi ra biển khơi… Thuyền bè ngày trước gặp sóng to gió lớn, rất ngại Sông Cái, mà ưa sông Đáy, sông Châu, sông Nhuệ. Có thể ngược lên nữa đến thời Mã Viện, từ Giao Chỉ (Bắc Bộ) Mã tặc tướng cũng đi dọc đường núi, đường nước này, qua Tạc khẩu (Thần Phù - Yên Mô - Ninh Bình) mà vô Cửu Chân - Xứ Thanh. Trên bản đồ địa lý hôm nay, con đường nước đó đã bị mờ đi, vì bị lấp ở nhiều nơi; và cái tên Châu Giang lại chỉ dành cho đoạn gọi là phụ lưu Sông Đáy, từ Châu Cầu - Phủ Lý tới Chợ Sông - Vĩnh Trụ. Thế mới biết, đời sống con sông cũng như đời sống con người, có sinh và có diệt.

Page 296: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

366

Vì sao sông này mang tên Châu Giang, ít ra là ở đoạn cuối của nó, này là từ Châu Cầu - Phủ Lý đến An Bài, xưa là cả phần nhánh trên, ít ra từ Cầu Giẽ với cái làng có địa danh Cổ Châu (ở đây cũng như ở Thuận Thành - Bắc Ninh Cổ Châu đều là chữ phiên âm của từ Kẻ Giâu (Dâu). Cụ cử Vũ Lao (Nam Định) đến Duy Tiên ngồi dạy học ở Châu Xá. Cụ Kép Trà, cụ Tú Đáp đều là học trò cụ cử Vũ Lao.

Châu Giang cũng là tên đoạn cuối của một dòng sông đất Việt cũ (nên còn có tên Việt Giang) trên đất Quảng Tây - Quảng Đông Trung Quốc nay, gọi là Tây Giang mà cửa ra biển của nó là Quảng Châu. Từ đó về Nam, trong vùng biển Đông Bắc Bộ nổi tiếng về Trai Ngọc (chữ Hán gọi là Châu), với điển tích “Châu về Hợp Phố” xuất hiện trong sử sách từ thế kỷ III (Hợp Phố là một quận của châu Giao (Keo) đất Việt, cuối thế kỷ III mới cắt tách ra Quảng Châu từ Giao Châu và thuộc về Quảng Châu)… Sông Châu Giang đoạn cuối có nhiều trai ngọc quý chẳng cứ vì hòn ngọc trong con trai, mà vì cái vỏ sà cừ của nó cũng rất quý trên thị trường thế giới trước kia và cả hiện nay…. Tôi cho rằng con sông này mang tên sông Châu là vì có loại trai quý này. Hơn ngàn năm Bắc thuộc, trong số cống phẩm mà Giao Chỉ - Giao Châu phải nộp cho đế chế Trung Hoa Hán - Đường không khi nào thiếu loại ngọc trai - trai ngọc này, kèm theo lọ nước ở giếng Ngọc - Mỵ Châu (“nàng Ngọc Trai”) ở Cổ Loa để rửa ngọc trai cho thêm sáng. Mà mãi đến đời cụ Thượng Cháy (Nguyễn Công Hãng quê Phù - Chẩn (làng Cháy) đi sứ Trung Hoa (1718) Vĩnh Thịnh 14, mới xin bãi bỏ được lệ cống nước giếng Ngọc - Mỵ Châu - Cổ Loa này, cũng như lệ cống người vàng.

Trên đường nước từ Thăng Long - Kẻ Chợ về Thiên Trường - Tức Mặc, nhà Trần đã tổ chức nhiều “chốt” - gọi là “Thái ấp” của dòng họ Trần hay người các họ khác được ban “quốc tính” …Cũng trên đường nước này, ở Trần Thương (giáp ranh Lý Nhân - Mỹ Lộc) nhà Trần đã đặt một kho lương để phòng chống quân Nguyên. Đây cũng là nơi bà vợ Trần Thủ Độ (Trần Thị Dung) bảo

Page 297: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

367

toàn gia quyến hoàng tộc Trần từ cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1258). Nay tại đây có đền thờ Trần Hưng Đạo. “Chốt” gần cuối trên đường nước này là Thái ấp của Trần Quang Khải, ở Cao Đài, Mỹ Thành - Bình Lục. Và sau cùng là Bảo Lộc - Mỹ Phúc, Bình Lục, một điền trang khác của Trần Liễu. Ở xã Bảo Lộc nguyên có đền Hưng Đạo Vương, xã này trước là đất cát bồi. Vương phụ là An Sinh vương Trần Liễu mộ dân khai khẩn, lập ấp. Vì Hưng Đạo Vương có công lớn bình Nguyên, nên được lập sinh từ ở đó… Trên con đường nước Thăng Long - Thiên Trường, ở hầu hết (nếu không phải là tất cả) các ngã ba sông quan trọng đều có các cứ điểm chính trị - quân sự - kinh tế của nhà Trần. Họ Trần chia lực lượng “trấn giữ” các ngã ba sông này và con cháu họ Trần “lập nghiệp” ở đó, lâu ngày phân chia, phân nhánh và tích hợp thêm con em các dòng họ khác vào họ Trần.

Thứ ba, tính cách và bản sắc của Tiểu vùng văn hóa Hà Nam.Một là, GS. Trần Quốc Vượng khái quát, tiểu vùng văn

hóa Hà Nam - Nam Hà: “có văn, có hát chầu văn, có Mẫu Phủ Giầy… nhưng lại có võ, có hào kiệt, có đức Thánh Trần. Xứ Nam nghiêng về Mẫu: Tháng Ba giỗ Mẹ. Xứ Đông nghiêng về đức Thánh Trần: Tháng Tám giỗ Cha. Song, nếu chịu khó đi điền dã, từ thành phố Nam Định ra các huyện châu thành và ngoại thành Nam Hà, đâu đâu ta cũng thấy đền thờ đức Thánh Trần… mà các đền Bảo Lộc, Trần Thương là hai vì sao sáng. Vậy phải chăng ở xứ Nam - Việt Nam vẫn tạo được thế giới quân bình Mẹ - Cha, Phụ - Mẫu?

Hai là, tôn vinh và phụng thờ hai người phụ nữ, hai tấm gương trinh liệt lấy cái chết để chứng minh, để bảo vệ trinh tiết của mình. Đó là hai vị nữ thần, một bà là phụ nữ bản địa, người Việt là bà Vũ Thị Thiết, một bà là một nữ thần người Chăm - bà Mỵ Ê. GS Trần Quốc Vượng đã khẳng định đó là một nét bản sắc của tiểu vùng văn hóa Hà Nam. Ông viết: “Nếu có ai hỏi tôi về một nét bản sắc khác của tiểu vùng văn hóa Hà Nam là gì, chắc chắn tôi sẽ dẫn ra đền nàng Mỵ Ê ở Lý Nhân; cái nhân cách của người

Page 298: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

368

cung phi xứ Chăm Pa đó đã được nâng lên thành nhân cách cao cả trong sạch của phụ nữ nói chung và được “thiêng hóa” khi dân gian Hà Nam lập đền thờ và cho đến nay vẫn phụng thờ. Nhân cách phụ nữ lại một lần được bi kịch hóa một lần nữa trong câu chuyện Vợ chàng Trương hàm ẩn một triết lý dân gian tuyệt vời “Là bóng hay là hình” - người đàn bà Việt đã tự phân đôi mình thành cặp vợ chồng quấn quýt nhau như hình với bóng, trong khi đó ở tầng dưới câu chuyện là cái dại khờ ghen tuông vớ vẩn gây chết người của người đàn ông Việt Nam. Câu chuyện Người thiếu phụ Nam Xang (La jeune dame de Nam Xang) từ lâu đã được thạc sĩ ngôn ngữ học Phạm Duy Khiêm kể lại bằng tiếng Pháp và được dịch lại bằng tiếng Anh, từ đó hội nhập vào dòng nhân văn của nền văn chương thế giới. Câu chuyện này cũng đã được dựng thành phim ở Pháp. Mà đó rốt cùng là văn hóa dân gian vô thể, được hữu thể hóa bằng ngôi miếu Vợ chàng Trương hiện vẫn còn được giữ gìn và tôn tạo bên bờ sông Hồng ở huyện Lý Nhân - không xa đền Mỵ Ê. Hai ngôi đền này xuất lộ bản sắc, tâm thức Sơn Nam - Hà Nam tôn vinh người phụ nữ - nguồn nữ tính vô hạn. Đấy cũng là nét phản ánh nguyên lý nữ - nguyên lý Mẹ của nền văn hóa Việt Nam”.

Thứ tư, về các nhân vật lịch sử quê ở Hà Nam.Là người làm sử, GS Trần Quốc Vượng tất nhiên quan tâm,

viết về các nhân vật lịch sử, trong đó có những người quê ở Hà Nam. Trong số các nhân vật lịch sử Hà Nam, ông đặc biệt quan tâm đến Lê Hoàn - Hoàng đế Lê Đại Hành, người khai mở triều Tiền Lê tuy ngắn ngủi, song lại là triều đại đặt nền móng vững chắc cho nhiều lĩnh vực của đất nước Việt Nam sau này. Sự quan tâm ấy, không chỉ bởi sự nghiệp vĩ đại và công lao to lớn của Lê Hoàn với dân tộc, mà còn bởi / hay nói đúng ra là bởi, Lê Hoàn - nhân vật lịch sử đã xảy ra “tranh chấp” về quê hương giữa hai tỉnh Hà Nam và Thanh Hóa trong một thời gian dài. Trước sự việc đó, GS Trần Quốc Vượng có một thái độ dứt khoát và những bằng chứng lịch sử - văn hóa sinh động để khẳng định

Page 299: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

369

Lê Hoàn quê Hà Nam. Ông viết: “Tôi không phải là một dân kẻ quê Châu Giang - Núi Đọi để nói vơ vào cho quê hương tôi, để cố tìm ra là quê tôi cũng có một ông vua: Vua anh hùng Lê Hoàn thắng giặc xâm lược Tống. Từ đầu thập kỷ 1980, khi Thanh Hóa giương ngọn cờ Ba Nhất, người ta đổ xô vào Xứ Thanh ca ngợi; Xứ Thanh đã có Lệ Hải Bà Vương (Bà Triệu), có Vua Lê, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, rồi Vua Nguyễn nữa…. mà người ta còn “nỡ lòng” đưa cả Tiền Lê Đại Hành Hoàng đế cho lấy Xứ Thanh làm quê hương. Ngay khi đó - khi có mỗi một tỉnh Hà - Nam - Ninh, tôi đã nói ở Hội thảo khoa học về Quê hương Lê Hoàn (năm 1982) rằng: “Nói Xứ Thanh là quê ngoại Lê Hoàn hay là quê bố nuôi Lê Hoàn thì tạm nghe được. Còn quý vị nào nói Xứ Thanh là quê hương Lê Hoàn thì xin hãy dè chừng…”. Một trong những lý do để Trần Quốc Vượng khẳng định như vậy, theo ông là bởi “ở Ninh Thái - Bảo Thái, Thanh Liêm có cả một khu mộ tổ Lê Hoàn, có đền thờ tổ, có nhiều di tích hữu thể khác liên quan mật thiết đến nhà Tiền Lê”, và “Lê Đại Hành còn về Đọi Sơn cày ruộng tịch điền”. GS Trần Quốc Vượng khẳng định: “Ở Thanh Liêm, cái “trũng” này còn đọng biết bao huyền tích mà đa phần gắn bó với thân phận nhà Tiền Lê. Đó là “văn hóa Liễu Đôi”, là bản trường ca Hoàn Vương sự tích mà Bùi Văn Cường - Nguyễn Tế Nhị, cặp bài trùng tác giả Văn hóa Liễu Đôi vừa tìm thấy và vừa được giải thưởng lớn của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Đó là phần văn hóa vô thể của không gian văn hóa Lê Đại Hành tạị Hà Nam” (116).

Thứ năm, một gợi mở tiếp tục khai thác di sản văn hóa Hà Nam.

Trên đất Hà Nam còn nhiều vỉa tầng văn hóa mà đến nay vẫn chưa được khai quật. Là một nhà lịch sử - khảo cổ học, hơn ai hết, GS Trần Quốc Vượng đã nhìn thấy những vỉa tầng ấy: “Con người và những sản phẩm văn hóa của nó thì đầu tiên đã

(116). Hà Nam quê tôi”, in trong sách Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nxb Hà Nội, 2006, tr 62.

Page 300: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

370

tìm thấy dọc dài những hang động của hai bên dải núi đá vôi 99 ngọn chạy dài từ Tản Viên - Viên Nam trở xuống Gia Viễn, Ninh Bình, sườn Tây (Hòa Bình) đậm đặc hơn, sườn Đông (Hà Tây - Hà Nam) rải rác hơn, song đều là một nền văn hóa thung lũng Hòa Bình - Bắc Sơn, tuổi vạn năm đầu thời cách mạng Đá Mới của những cư dân Đen - Vàng tiền Việt Mường”. Ông rất muốn cùng các học trò của mình ở Viện Khảo cổ, ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, ở ngành văn hóa Hà Nam làm công việc đó. Nhưng tiếc thay, cho đến trước khi ông ra đi mãi mãi, điều đó vẫn chỉ là một khuyến nghị ông gửi lại cho lãnh đạo tỉnh Hà Nam - chủ nhân của những trầm tích văn hóa vô cùng quí giá đó. Ông viết: “Nếu được phép, tôi sẽ khuyến nghị lãnh đạo Hà Nam ký hợp đồng mời các nhà khoa học về vài năm, xuôi thuyền dọc sông Đáy, thăm thú các hang động dọc dài Kim Bảng - Ba Sao - Bồng Lạng - Chi Nê cùng các thung mơ, vườn cà phê tại các đồn điền Le Breton, Boret, Đỗ Đình Thiện cũ… Tôi đoán chắc với 3 mùa điền dã trước một dự án tiền khả thi về Xí nghiệp Xi măng Bút Sơn như thế, Hà Nam sẽ có một sưu tập rất quí về thời đồ đá của cư dân sinh sống ở rìa Tây Nam châu thổ sông Châu - Đáy, Nhuệ - Hồng….” (117).

Thứ sáu, về hướng khai thác du lịch Hà Nam.Năm 2005, GS Trần Quốc Vượng viết: “Vùng ven núi ven

đồi sót Kim Bảng, Thanh Liêm, Duy Tiên - Bình Lục và cả trung tâm Nam Xang (Xương) - Lý Nhân đã trở thành một vùng văn hóa Đông Sơn miền trũng từ trước sau hai ngàn năm cách ngày nay. Ai cũng biết những phát hiện nổi tiếng về trống đồng Ngọc Lũ, Núi Đọi, Yên Bắc, Bạch Thượng, Vũ Bị,… Trống Ngọc Lũ Hà Nam đã trở thành biểu tượng của Văn hiến Hà Nam đặt giữa tòa lâu đài Liên hợp quốc ở New York Hoa Kỳ. Trớ trêu thay, một phiên bản ít triệu đồng của nó cho đến nay không hề có mặt ở thị xã Hà Nam, ở Núi Đọi cho con cháu Hà

(117) Hà Nam quê tôi”, in trong sách Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nxb Hà Nội, 2006, tr 62.

Page 301: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

371

Nam thi thoảng đến xem và học hỏi cha ông. Tiết kiệm ư? Tôi nghĩ, chỉ cần chống tham nhũng ở một địa phương nào đó một năm thôi, thu hồi lại tài sản xã hội chủ nghĩa bị lũ mọt dân làm thất thoát, theo tôi, cũng thừa sức làm Nhà truyền thống miền chiêm trũng Sơn Nam ở thị xã, ở núi Đọi với một phức Trống - Thạp đồng đúc lại. Và những quan tài hình thuyền với đồ đồng, đồ sơn, cả một chiếc cày chìa vôi Thanh Sơn - Châu Sơn (đều thuộc Kim Bảng) đủ sức hấp dẫn hàng vạn ngàn du khách, nhà du khảo trong ngoài nước. Có điều, ngành Văn hóa - Du lịch Hà Nam chưa biết “làm ăn” hay chưa được bật đèn xanh để phát triển đó thôi. Ai đời, cho đến nay, Đọi Sơn là vùng di tích phát hiện được nhiều sọ cổ chủ nhân văn minh Đông Sơn - Âu Lạc - Việt cổ nguyên vẹn nhất của cả nước, với quan tài gỗ hình thuyền được định niên đại C14 chính xác nhất là trên 2.000 năm mà vẫn còn đang “xếp xó” ở rìa tòa nhà mới của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hà Nội!”.

* * *Giáo sư Trần Quốc Vượng tự nhận mình là “kẻ phiêu lãng,

lãng du Bắc - Trung - Nam, viết tiểu ký, tạp lục nhăng nhít”, và “hơn nửa đời hư”. Đối với những ai gần gũi ông, nhất là những học trò cưng của ông như “Tuấn Khuỳnh” (hiện là TS. Viện trưởng Viện Tôn giáo - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam), TS. Nguyễn Hồng Kiên (Trung tâm tôn tạo trùng tu di tích Bộ VHTT&DL), TS Hà Đông (Viện Khảo cổ học), PGS.TS Ngô Văn Doanh (Viện NC Đông Nam Á), GS.TS Nguyễn Chí Bền (Nguyên Viện trưởng Viện VHNT quốc gia Việt Nam), TS. Nguyễn Minh San,…đều hiểu rằng, đó là cách nói dân dã, chơi chơi của ông. Còn, con người ông không phải người như vậy, sự nghiệp khoa học của ông không phải như vậy. Ông là người làm việc chăm chỉ, nghiêm túc, cẩn trọng. Sự nghiệp của ông cả lịch sử - khảo cổ học, văn hóa học, dân tộc học, du lịch học, địa lý học, văn học… đều rất đồ sộ và rất có giá trị. Đối với quê hương

Page 302: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

372

Hà Nam, mặc dù ông “phiêu lãng, lãng du Bắc - Trung - Nam” (để tìm di sản văn hóa), “phiêu lãng, lãng du” trời Tây, đủ cả, song quê hương Hà Nam đối với ông ngoài nghĩa nặng tình sâu, còn là một địa hạt, một đề tài khoa học mà cả đời ông mắc nợ. Những việc ông làm cho Hà Nam nói ở trên đã chứng minh điều ấy. Và, hơn một lần, chính ông cũng đã thừa nhận: “Hà Nam là một góc rất khác trong tâm thức tôi. Đấy là một phức Quê Cha - Đất Mẹ để hồi niệm, nhung nhớ “những ngày thơ ấu”, “những ngày kháng chiến 9 năm” tản cư đánh giặc và, khi mái tóc đã nhuốm màu sương khói mùa thu, khi Văn Cao “ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng, khi chiều chiều, dân gian quê tôi” “ra đứng cổng chùa” “trông lên Hà Nội”, thì tôi, theo quy trình “đường trở về”, từ mảnh đất núi Nùng, sông Tô thi thoảng vời trông về Quê Mẹ Quê Cha mà sao không ngăn nổi “ruột đau chín chiều”! Biết làm sao được, với những va đập tâm linh, ảnh xạ và nội tâm hóa những va đập của cuộc đời, phần nhiều là vô thức”(3). Những người làm văn hóa, nghiên cứu văn hóa ở Trung ương và Hà Nam đánh giá cao cái Tâm và những cống hiến cho quê nhà của ông. Còn ông, ông luôn tâm niệm, những dòng viết của ông về Hà Nam là để trả nghĩa quê hương, trước hết là để “hóa giải lòng mình, hóa giải nhiều khúc mắc, để tìm lại một thiên đường tưởng dường như đã mất dưới trần gian và còn kịp trở về với Sông Châu - Núi Đọi trước khi xa mãi, không phải để “ôn nghèo nhớ khổ” để “vùng lên” mà là để “ôn cố nhi tri tân” mà lắng dịu tâm hồn…”.

Giáo sư Trần Quốc Vượng đã bỏ bút sử để về với thiên đường của ông - quê cha đất tổ Sông Châu - Núi Đọi, đã tròn Mười năm. Nhưng những định đề văn hóa Hà Nam mà ông đã vạch ra, chắc chắn sẽ được các thế hệ học trò ông và ngành văn hóa Hà Nam tiếp tục làm sâu sắc thêm, đặng xây dựng Hà Nam ngày càng Giầu Đẹp!

Page 303: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

373

CHÈO HÀ NAM VÀ HÀ NAM VỚI CHÈO

LÊ HUỆ *

Núi Đọi - Sông Châu là biểu tượng tinh thần của người Hà Nam.

Hình sông, thế núi ấy có tự bao giờ? chỉ biết rằng nó đã đi vào văn thơ nhạc họa và chính nó lại là đối tượng là nguồn cảm hứng cho các thi nhân sáng tạo, đồng thời là cái nôi nuôi dưỡng tài năng hình thành một nền tảng văn học và nghệ thuật phát triển trong đó có nghệ thuật chèo.

Chèo ở Miền Bắc được lịch sử chia làm tứ chiếng.Hà Nam thuộc chiếng chèo Nam. Chiếng chèo Nam được coi

là cái nôi của chèo vì lịch sử đã ghi nhận từ thế kỷ thứ X vua Đinh Tiên Hoàng đã phong chức “Ưu Bà” cho một tài năng hát chèo hay nhất ở trấn Sơn Nam ta “Phạm Thị Trân”.

Nhưng rồi, chèo cũng phải chịu chung số phận của một nước phong kiến thuộc địa, bọn phong kiến coi hát chèo là xướng ca vô loài, cấm các quan lại không được lấy đào hát. Song, dù cho vật đổi sao dời, chèo vẫn tồn tại, như: Gánh chèo tư Dính - Chùm tiếu nhì giáp Liêm Cần, huyện Thanh Liêm; Gánh chèo cụ Kép Hoàn Thi Sơn, huyện Kim Bảng; Gánh chèo Cô Đào Bạch Én huyện Duy Tiên;…Gánh chèo Yên Thống ở huyện Bình

* NSND, Đạo diễn - nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nam Hà.

Page 304: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

374

Lục cùng nhiều gánh chèo khác vẫn tung tẩy khắp vùng. Tiếng trống chèo vẫn vang lên trong các lễ hội và khao vọng, chẳng thế mà dân gian có câu:

Ăn no rồi lại nằm khoèoNghe tiếng trống chèo bế bụng đi xemDưới ách đô hộ của thực dân Pháp, những người yêu chèo

phải dạt về nông thôn, sống cuộc sống bảy nổi ba chìm. Chẳng thế mà cô Đào Bạch Trà xuất thân từ nghề chèo phải bỏ đi hát tuồng, một số khác vì mưu sinh phải đi hát cải lương. Nhưng phần lớn các gánh chèo trong tỉnh vẫn trung thành với nghề, chèo vẫn được sống trong lòng dân. Cho đến Cách mạng tháng 8 thành công, Đảng Cộng sản lãnh đạo, dưới chế độ Cụ Hồ, văn hóa nghệ thuật nói chung, chèo nói riêng mới được phục hưng.

Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử của tỉnh Hà Nam, các thế hệ lãnh đạo, đều quan tâm đánh giá cao nghệ thuật sân khấu, coi chèo là vũ khí quan trọng trong công tác chính trị tư tưởng, là món ăn tinh thần không thể thiếu của người Hà Nam. Điều này thể hiện rất rõ ở 3 lần quyết định thành lập Đoàn Chèo Hà Nam đều ở vào thời kỳ nhậy cảm.

Lần thứ nhất, khi Hiệp định Gơnevơ vừa ký kết, đất nước tạm chia làm 2 miền, Tỉnh quyết định thành lập ngay một đội văn công. Gọi là văn công nhưng thực chất là diễn chèo, phục vụ đắc lực cho tuyên truyền chống di cư. Bởi Hà Nam lúc đó rất nhiều điểm nóng, vì khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ 2, chúng dựa phần lớn vào các nhà thờ để làm đồn bốt, và xây dựng tề ác như nhà thờ Ngô Khê, nhà thờ Sui và nhiều nhà thờ khác; đặc biệt là giáo xứ Kiện Khê. Vì thế lúc này bọn Việt gian phản động lợi dụng tôn giáo kích động bà con giáo dân, với luận điệu là chúa đã vào Nam các con chiên phải theo chúa. Chúng ép buộc những người nhẹ dạ cả tin, chúng đe dọa những người đã trót làm tay sai cho chúng, nếu ở lại Việt Minh sẽ trả thù. Tình thế hết sức phức tạp, dân chúng hoang mang nhất là đồng bào theo đạo Thiên Chúa. Vì thế đội văn công có nhiệm vụ

Page 305: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

375

quan trọng bám sát các địa bàn tổ chức biểu diễn những vở chèo ngắn, tiểu phẩm, độc tấu có tác dụng thuyết phục giải thích để bà con hiểu rõ ở lại với quê hương. Cuộc đấu tranh này rất gian khổ, nhưng đã thành công, đập tan âm mưu độc ác của bọn phản động đội lốt tôn giáo.

Ít lâu sau, đội tập trung vào xây dựng các vở chèo dài, trong đó có vở “Chiếc vai cầy” phục vụ cho cải cách ruộng đất. Vở diễn đã gây được ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả, phê phán âm mưu bóc lột phản động của bọn địa chủ cường hào gian ác, nêu lên nỗi khổ cực của dân nghèo đứng lên đòi lại ruộng đất.

Sau khi hoàn thành xuất sắc vẻ vang 2 giai đoạn trên, Tỉnh thấy cần phải thành lập một đoàn chèo với quy mô và chất lượng cao để đáp ứng trình độ thưởng thức của khán giả vốn yêu quý môn nghệ thuật này, nên tháng 3 năm 1958, một lần nữa đoàn chèo của tỉnh ra đời. Sau khi ổn định tổ chức, đoàn bắt tay ngay vào dựng vở “Vườn cam” để phục vụ cho phong trào xây dựng tổ đổi công. Đây là vở đầu tiên nên được nhân dân trong tỉnh đặc biệt hoan nghênh đón nhận. Vài năm sau dựng tiếp các vở “Đường đi đôi ngả”, “Vẹn cả đôi đường”, động viên nhân dân hăng hái tham gia xây dựng HTX nông nghiệp.

Một ấn tượng khó quên đó là đoàn chèo chuyên nghiệp của tỉnh được thành lập vào thời điểm phong trào văn nghệ quần chúng nổi lên khắp hang cùng ngõ hẻm, không xã nào là không có đội văn nghệ, không mấy làng là không có đội chèo. Những đội chèo mạnh như:

Liêm Sơn - Liêm Tiết - Liêm Tuyền - Huyện Thanh Liêm Thôn Bùi Trịnh Xá - Yên Thống - Huyện Bình LụcThi Sơn - Khả Phong - Huyện Kim BảngMộc Bắc - Trác Bút - Huyện Duy TiênNhân Thịnh - Chính Lý - Huyện Lý Nhân…Trong số các đội mạnh ấy, có đội đã dựng những vở chèo dài

truyền thống mẫu mực như “Quan Âm Thị Kính” đi biểu diễn giao lưu với các xã bạn. Hà Nam là vùng đồng chiêm trũng, tuy

Page 306: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

376

nghèo đói hàng ngày người dân phải ra đồng cày cấy, mò cua, bắt ốc, nhưng khi màn đêm buông xuống sau các lũy tre làng lại bừng sáng dưới ánh đèn dầu, tiếng trống mõ vang rền hòa cùng giọng hát chèo ngọt ngào, nền nã mang đậm bản sắc của đồng bằng Bắc Bộ do hàng mấy trăm đội văn nghệ luyện tập và biểu diễn.

Có thể nói chưa bao giờ phong trào văn nghệ quần chúng ở Hà Nam lại phát triển mạnh mẽ như giai đoạn này.

Chưa hết, thể theo đòi hỏi của phong trào các huyện như Thanh Liêm, Duy Tiên còn thành lập đoàn chèo chuyên nghiệp riêng của huyện, giàn dựng những vở chèo dài đi biểu diễn lưu động khắp các xã trong toàn huyện và các huyện bạn.

Tiếp sau các vở “Vườn cam”, “Đường đi đôi ngả”, “Vẹn cả đôi đường”, đến đầu năm 1962, lần đầu tiên Đoàn dựng vở chèo “Anh hùng sông Châu” ca ngợi tấm gương dũng cảm người con quê hương Anh hùng Trần Văn Chuông để đi hội diễn sân khấu tại Nam Định, đã gặt hái thành công. Sau khi trở về, Đoàn đi tập huấn 3 tháng ở Ban nghiên cứu chèo Trung ương, dựng các vở “Quan Âm Thị Kính”, “Xúy Vân”. Sau đó, Đoàn dựng tiếp các vở “Sơn Tinh Thủy Tinh”, “Ánh sao đầu núi” … Hai đoàn chuyên nghiệp của huyện Thanh Liêm dựng “Quan Âm Thị Kính”, đoàn của huyện Duy Tiên dựng “Đồng tiền Vạn Lịch” và nhiều vở khác. Với một tỉnh nhỏ như Hà Nam chỉ có 5 huyện mà có tới 3 đoàn chèo chuyên nghiệp, cùng mấy trăm đội chèo không chuyên hoạt động, có thể khẳng định đời sống tinh thần của Hà Nam phong phú chừng nào.

Cần phải nói rằng: trong mấy trăm đội văn nghệ quần chúng đó, chỉ có đôi ba đội diễn tuồng, diễn kịch hoặc cải lương còn tuyệt đại bộ phận diễn chèo. Cùng các đoàn chèo của tỉnh, của 2 huyện, có thể nói nghệ thuật chèo đã thấm đẫm trong đời sống người dân Hà Nam.

Năm 1965, thực hiện chủ trương của Trung ương về việc sát nhập hai tỉnh Hà Nam và Nam Định thành tỉnh Nam Hà, gần 40 cán bộ diễn viên nhạc công, công nhân kỹ thuật dời khỏi thị

Page 307: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

377

xã Phủ Lý thân yêu xuống Thành Nam. Trong 32 năm, nổi lên mấy vấn đề sau:

Một là: về tinh thần khắc phục khó khăn phục vụ các nhiệm vụ chính trị. Khi Đoàn chèo Hà Nam sát nhập với Đoàn chèo Nam Định mang tên Đoàn chèo Nam Hà, vì giặc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ra Miền Bắc bằng không quân, Đoàn phải đi sơ tán và chuyển hướng phục vụ. Từ sân khấu quy mô sang đánh lẻ, chia nhỏ lực lượng, xây dựng những vở chèo ngắn như “Câu thơ thêu dở”, “Đường về trận địa”, “Hũ gạo chống Mỹ”, “Tiễn anh chiến sĩ lên đường” , “Anh lái xe và cô chống lầy”, trích đoạn từ những màn chèo truyền thống hay như: Thị Màu lên chùa, Xúy Vân giả dại, Tuần Ty Đào Huế, Lý Trưởng mẹ Đốp,…để phục vụ thích hợp với sân khấu dã chiến. Mặt khác, sáng tác giàn dựng kịp thời ca ngợi những tấm gương chiến đấu dũng cảm của quê hương như: “Trận địa Phủ Lý”, “Đỉnh núi Tiên Hương”, hình thức hoạt động của Đoàn là đi sâu xuống nông thôn diễn bằng ánh sáng đèn măng sông có nắp che. Khi kẻng báo động vang lên, máy bay đến, thì đậy nắp xuống không cho ánh sáng lọt ra ngoài, máy bay đi xa lại tiếp tục biểu diễn cho nhân dân xem. Ban ngày thì xuống các ụ pháo, các điểm phòng không diễn động viên bộ đội, dân quân trực chiến.

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào thời kỳ ác liệt nhất chiến trường có yêu cầu Đoàn chèo Nam Hà vào phục vụ. Tổng cục Hậu cần điện cho Tỉnh yêu cầu Sở Văn hóa lập tức thành lập ngay đoàn văn công xung kích gồm 13 người vượt Trường Sơn phục vụ tuyến hậu cần 559 và các tỉnh Hạ Lào suốt cả năm 1968 sau tết Mậu Thân. Dẫn đầu đoàn là một người con Hà Nam, gần nửa số người trong đội cũng là diễn viên, nhạc công của Đoàn Hà Nam cũ. Mặt trận vô cùng ác liệt, các trọng điểm nguy hiểm trên dọc đường ra trận như: Cầu Hàm Rồng - Phà Linh Cảm - ngã ba Đồng Lộc - Khe Tang - Khe Ve - Phà Long Đại - cho đến dốc 5 thang, 3 thang các tuyến giao liên đường mòn suốt dải Trường Sơn đều có dấu chân của đội văn công xung kích Nam Hà. Trong số đó

Page 308: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

378

có 5 nữ diễn viên chân yếu tay mềm vẫn dũng cảm mặc cho máy bay Mỹ đánh phá quyết liệt, kể cả B52, anh chị em vẫn dũng cảm cất cao tiếng hát hết lòng phục vụ bộ đội, thanh niên xung phong. Chuyến đi ấy đã được Quân đội đề nghị Nhà nước tặng thưởng Huân chương, cả 13 người đều được Bộ tư lệnh 559, Tướng Đồng Sĩ Nguyên trao tặng Huy hiệu Chiến sỹ Quyết thắng.

Hai là: Về lĩnh vực lao động sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói từ khi Đoàn Chèo Hà Nam nhập với Đoàn Chèo Nam Định thành Đoàn Chèo Nam Hà thì lực lượng vô cùng mạnh. Là người chỉ đạo nghệ thuật của Đoàn, tôi thấy rõ tài năng những đào kép có sắc đẹp, có giọng hát hay, cùng những tay đàn giỏi hội tụ về. Cả Đoàn thi đua lao động luyện tập nên chỉ một thời gian ngắn cái tên Đoàn Chèo Nam Hà đã có tiếng vang lớn, nhất là công chúng khán giả yêu chèo cả nước. Giọng hát chèo, hát văn Nam Hà đã thành thương hiệu, chương trình hát chèo của Đoàn Chèo Nam Hà chiếm một thời lượng đáng kể trên làn sóng của Đài tiếng nói Việt Nam lúc đó. Một vinh dự lớn, Đoàn đã được cấp trên giao trình bày bài thơ chúc Tết năm 1968 của Bác Hồ để phát trên lành sóng:

“Năm qua thắng lợi vẻ vang Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to…” Đoàn lên Hà Nội thu thanh đến 11h đêm 30 Tết mới xong

để chuyển cho Ban thời sự phát vào 0 giờ đúng thời điểm Bác Hồ chúc Tết.

Để động viên thanh niên nhập ngũ lên đường chống Mỹ cứu nước, Đoàn tập trung lực lượng dựng lại vở “Trần Quốc Toản ra quân” với quy mô hoành tráng hơn. Vở diễn khơi dậy hào khí của tuổi trẻ, vì thế luôn được Trung ương điều lên nhà số 8 Chu Văn An - Hà Nội biểu diễn để Bác Hồ và Trung ương tiếp khách. Sau đó Bộ Văn hóa chỉ đạo lần đầu tiên quay vở sân khấu thành phim chiếu rộng rãi ở Miền Bắc và chuyển phim vào các chiến trường phía Nam. Qua đó, ảnh hưởng của Đoàn chèo Nam Hà càng được nhân lên.

Page 309: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

379

Niềm vui nối tiếp niềm vui, sau khi Sài Gòn vừa giải phóng, Bộ Văn hóa đã điều Đoàn đi 3 tháng biểu diễn từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau phục vụ động viên đồng bào vùng mới giải phóng, các tỉnh kết nghĩa và các đơn vị bộ đội, các quân đoàn tiến vào giải phóng Sài Gòn.

Một ký ức khác, trong số mấy chục vở mà Đoàn giàn dựng, đáng chú ý vở “Ni cô Đàm Vân” (kịch bản kịch nói Học Phi chuyển thể chèo Trần Đình Ngôn) là vở duy nhất được đưa vào phục vụ các đại biểu cả nước về dự Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Đại Hội thống nhất đất nước tại Thủ đô Hà Nội.

Về việc xây dựng các tác phẩm có tính nghệ thuật để tham dự hội diễn cũng được Đoàn quan tâm đặc biệt. Có thể nói không một hội diễn nào do Bộ Văn hoá tổ chức mà Đoàn vắng mặt. Có thể kể đến: Năm 1970 vở “Lấn biển” dự hội diễn tại Nghệ An; Năm 1980 vở “Soi bóng người xưa” hội diễn tại Hải Phòng; Năm 1985 vở “Những người nói thật” hội diễn tại Thanh Hóa; Năm 1990 vở “Anh lái đò sông Vị” hội diễn tại Thái Bình; Năm 1995 “Chàng mãi võ và cô hàng quạt” hội diễn tại Huế; … Đoàn còn tham gia các cuộc thi giọng hát chèo hay tại Thái Bình, trích đoạn chèo hay tại Ninh Bình, nhiều lần thi tài năng trẻ. Tất cả các chương trình tham gia hội diễn, trừ một lần được bằng khen, còn tất cả các vở đều được huy chương vàng, bạc và nhiều huy chương vàng, bạc cho anh chị em diễn viên.

Điều đáng ghi nhận là đạo diễn các vở nêu trên và đa số diễn viên đóng vai chính của các vở là con em người Hà Nam.

Ba là: Rất đáng ghi nhận sự rèn luyện phấn đấu của các lớp nghệ sĩ sân khấu là người con của Hà Nam. Trong số gần 40 anh chị em của Đoàn Chèo Hà Nam nhập vào Đoàn Chèo Nam Hà ngày ấy, lúc đầu chỉ có 1 người là phó đoàn dẫn đoàn xuống Nam Định, số còn lại là diễn viên, nhạc công, nhưng quá trình phấn đấu bên cạnh sự trưởng thành về tài năng nghệ thuật, một số đã không ngừng học tập để trở thành những nhà quản lý, có người là nhạc trưởng chỉ huy giàn nhạc, nhạc sĩ

Page 310: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

380

sáng tác, đội trưởng diễn viên, chỉ huy biểu diễn, có người trở thành hiệu phó trường văn hóa nghệ thuật của tỉnh, trưởng phó đoàn chèo Nam Hà - Hà Nam Ninh; cá biệt có đồng chí làm đến chức phó giám đốc, giám đốc Sở VHTT, tỉnh ủy viên, Đại biểu HĐND tỉnh, Chủ tịch Hội VHNT Hà Nam Ninh một tỉnh lớn rồi phấn đấu đến phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam Ninh - Nam Hà. Có thể nói đây là trường hợp hy hữu trong giới sân khấu địa phương. Chưa hết, cùng với sự thành đạt của các nghệ sĩ chèo địa phương, lịch sử sân khấu nước nhà không quên những người con ưu tú làm vẻ vang cho quê hương Hà Nam. Nếu chúng ta có quyền tự hào trong lĩnh vực văn học có thi hào Nguyễn Khuyến, nhà văn liệt sĩ Nam Cao, thì mảnh đất Hà Nam còn sản sinh ra 2 người con mà giới sân khấu cả nước và khán giả yêu nghệ thuật dân tộc vô cùng ngưỡng mộ.

Cố NSND Bạch Trà quê ở Thanh Liêm - một nữ nghệ sĩ tài hoa xuất sắc của ngành tuồng Việt Nam, không chỉ giỏi về nghề mà còn có tài quản lý. Bà là người phụ nữ đầu tiên làm đến chức Giám đốc Nhà hát tuồng Việt Nam từ thế kỷ XX.

Cố NSND Dịu Hương quê ở Bình Lục, sau hòa bình lập lại được Bộ Văn hóa mời vào Ban nghiên cứu chèo Trung ương, đóng góp vào công tác nghiên cứu, trực tiếp truyền nghề giảng dạy cho biết bao thế hệ một vai mẫu mực khó vào bậc nhất của chèo là Xúy Vân giả dại.

Thi hành nghị quyết của Quốc hội, năm 1996, tỉnh Hà Nam tái lập. Cùng với lãnh đạo tỉnh và các ngành, anh chị em nghệ sĩ chèo phấn khởi trở về quê hương. Trong lúc bộn bề công việc, nhất là tổ chức, một lần nữa Tỉnh vẫn quyết định cho thành lập Đoàn Chèo Hà Nam. Để hình thành được một đoàn chèo lúc này lại có những khó khăn khác. Số diễn viên những năm trước đã nhiều tuổi nghỉ hưu hoặc thuyên chuyển công tác khác, số diễn viên thực diễn chèo còn quá ít. Vì vậy, những ngày đầu thành lập, phải tập hợp cả diễn viên ca múa - cải lương - kịch nói là người Hà Nam từ Nam Hà chuyển về để đào tạo lại, bồi

Page 311: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

381

dưỡng gấp để đoàn sớm đi vào hoạt động. Hòa chung niềm vui bất tận của cán bộ và nhân dân Hà Nam trước việc tỉnh được tái lập, chỉ một thời gian ngắn, vở chèo “Bài thơ treo dải yếm đào” đã ra mắt khán giả, thỏa lòng mong đợi của nhân dân vốn rất yêu chèo.

Xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương tha thiết của các nghệ sĩ, phát huy truyền thống của lớp cha anh đi trước, hơn 10 năm qua, Đoàn đã liên tục dàn dựng các vở mới phục vụ xuất sắc mọi nhiệm vụ của tỉnh, đồng thời tham dự tất cả các cuộc liên hoan, hội diễn toàn quốc do Bộ VH-TT&DL tổ chức. Với sự trưởng thành ấy, Tỉnh đã quyết định đổi tên Đoàn Chèo Hà Nam thành Nhà hát Chèo Hà Nam.

Điều đáng chú ý, trong hàng chục vở chèo truyền thống, dân gian, lịch sử, các thế hệ nghệ sĩ chèo Hà Nam đã rất có ý thức đưa lên sân khấu những hình tượng, những tấm gương điển hình, những truyền thống đẹp, tinh thần đấu tranh bất khuất kiên cường, bảo vệ phẩm giá con người và văn hóa tiêu biểu riêng có của tỉnh Hà Nam, như:

- Vở chèo “Anh hùng sông Châu” ca ngợi tấm gương của người du kích anh hùng Trần Văn Chuông đánh mìn phá tàu địch trên sông Châu Giang trong kháng chiến chống Pháp.

- Vở chèo “Tiếng súng Chanh Chè” ca ngợi phong trào du kích dũng cảm chiến đấu chống càn bảo vệ nhân dân tại dãy núi Chanh Chè huyện Thanh Liêm.

- Vở chèo “Trống giục sang canh” ca ngợi cuộc khởi nghĩa của nhân dân Bồ Đề huyện Bình Lục.

- Vở chào “Chàng trai họ Đoàn” ca ngợi vùng văn hóa Liễu Đôi và người anh hùng có công dẹp giặc phương Bắc.

- Vở chèo “Bài thơ treo dải yếm đào” ca ngợi tấm gương của cô gái Nam Xang Vũ Thị Thiết khi bị chồng nghi oan, một nỗi oan không sao thanh minh được, nên Bà đã trầm mình xuống sông để bảo vệ trinh tiết, được nhân dân lập đền thờ Bà. Khi nhà vua đi vi hành đã cảm kích tặng 6 câu thơ (xin trích 2 câu):

Page 312: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

382

Ghen ghét làm chi hỡi thế gianAi làm châm gẫy với gương tan…Đây là câu chuyện vô cùng xúc động. Vở đã được giải thưởng

của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam.- Vở chèo “Ông vua đi cày” ca ngợi vua Lê Đại Hành xuống

cày ruộng trong Lễ Tịch điền. - Vở chèo “Tỉnh rượu lúc tàn canh” giới thiệu hình tượng

Chí Phèo - nhân vật nổi tiếng trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn nổi tiếng Nam Cao trên sân khấu.

- Vở chèo “Bùi Viên cư sĩ” giới thiệu hình tượng thi bá - Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến - một chí sĩ chán ghét bọn quan lại đương thời nên đã từ quan trở về sống với dân. Đây là niềm tự hào lớn của nhân dân Hà Nam.

Để kết thúc bài viết này, tôi chỉ xin nêu lên hai vấn đề nổi bật, đó là:

Thứ nhất: Trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng tỉnh Hà Nam, từ năm 1954 đến nay, lãnh đạo tỉnh chỉ quyết định thành lập một loại hình nghệ thuật chèo mà thôi. Trong khi phần lớn các tỉnh khác trong cả nước xây dựng nhiều loại hình nghệ thuật cải lương - tuồng - kịch nói - ca múa. Điều đó nói lên một điều rằng, các thế hệ lãnh đạo tỉnh Hà Nam luôn quan tâm đặc biệt đến nghệ thuật truyền thống, giữ gìn bản sắc dân tộc, gìn giữ sắc thái Hà Nam.

Thứ hai: chỉ qua giàn kịch mục của Nhà hát Chèo Hà Nam qua các thời kỳ có thể khẳng định ý thức của lãnh đạo ngành văn hóa, thái độ chính trị của các nghệ sĩ đối với việc xây dựng quê hương. Họ đã làm tròn trọng trách của người nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Hà Nam một tỉnh nhỏ, dân số không đông mà có 4 nghệ sĩ chèo của các thế hệ được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong danh hiệu NSND và một số NSƯT.

Điều đó khẳng định nghệ thuật chèo Hà Nam luôn đồng hành cùng phát triển văn hóa, góp phần xây dựng Hà Nam ngày càng giầu đẹp.

Page 313: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

383

BÀ CON QUÊ TUI VẪN MÊ CHÈO HÀ NAM LẮM LẮM!

MAI NAM THẮNG *

Tôi sinh ra và lớn lên ở miền gió Lào cát trắng Quảng Bình. Làng tôi nằm ở ngã tư của 2 con đường chiến lược 15A chạy dọc bờ Nam sông Gianh và đường 12A nối Hòn La - Cảng Gianh với Cha Lo - Mụ Dạ vượt Tây Trường Sơn. Cạnh đó là đoạn đường sắt trọng điểm ác liệt thời chiến tranh phá hoại của máy bay Mỹ.

Hồi ấy, làng tôi có một đơn vị Thanh niên xung phong toàn người Hà Nam về ở trong các nhà dân để bảo vệ đoạn đường sắt kể trên. Người ta gọi là đơn vị Thanh niên ba sẵn sàng, nhưng dân làng tôi quen ngắn gọn, gọi là các o, các chú Sẵn Sàng. Đơn vị này đa phần là nữ. Các o Hà Nam đẹp ơi là đẹp, da trắng tóc xanh, ăn nói dịu dàng, hát hay đáo để, nhất là hát chèo… Ban đêm, các o vác cuốc xẻng ra đường tàu san lấp hố bom. Ban ngày, các o học văn hóa và tập văn nghệ. Khắp thôn xóm ngày ngày vang vang những làn điệu chèo của các o các chú Sẵn Sàng.

Thời đó làng tôi không chỉ đói cơm gạo mà còn đói văn hóa - nghệ thuật. Văn công, phim ảnh thì hầu như chẳng bao giờ có. Cả làng chỉ 3 người có đài bán dẫn Ô-ri-ông-tông thì thường mở rất nhỏ và chủ yếu chỉ để nghe tin tức chiến trường, vì pin đài rất hiếm. Chỉ có văn nghệ của các o, các chú Sẵn Sàng Hà Nam là được nghe vô tư xả láng. Suốt cuộc chiến tranh phá hoại, đơn vị Sẵn Sàng mấy lần thay quân, vẫn chỉ các o các chú

* Đại tá - Nhà thơ, Báo Quân đội Nhân dân.

Page 314: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

384

quê Hà Nam với tiếng hát chèo í a ngày ngày vang vang khắp xóm. Dân làng tôi đâm ra mê chèo, nghiện chèo. Đám con nít tụi tôi cũng tấp tễnh học chèo, rồi thuần thục chèo. Cùng thời gian này, Nhà nước có chủ trương sơ tán một số trẻ con ở Vĩnh Linh - Quảng Bình ra miền Bắc để tránh máy bay Mỹ, gọi là đi K8. Làng tôi có hơn ba chục đứa, hầu hết là con cháu cán bộ xã và huyện được đi K8 ra Hà Nam. Sau mấy năm lũ chúng trở về mang theo cái giọng pha Bắc lơ lớ cùng những làn điệu mượt mà của chiếng chèo Nam. Thành ra hát chèo trở thành món chủ lực trong các đêm liên hoan văn nghệ của các chi đội, chi đoàn, trường học chúng tôi hồi ấy… Bây giờ ở làng tôi, thỉnh thoảng vẫn có người hát chèo ru con và hát chèo trong đám cưới hoặc các cuộc hội họp. Những làn điệu hát sắp, ngâm sổng, song loan, sa lệch, đào liễu, nói đếm… vẫn còn sống mãi với dân làng tôi…

Mùa Đông năm 1990, tôi là phóng viên báo Quân đội nhân dân đi thực tế ở trung đoàn 242 đóng ở huyện đảo Vân Đồn - Quảng Ninh. Đêm liên hoan văn nghệ chào mừng Đại hội Thi đua Quyết thắng của đơn vị, tôi nhảy lên sân khấu xin hát tặng Trung đoàn trưởng Tăng Văn Phả và các chiến sĩ quê Hà Nam một điệu chèo ngâm sổng mà tôi đã thuộc lòng từ thời các o Sẵn Sàng Hà Nam:

Biên Hòa có chiến khu ĐHà Nam núi Đọi, hai quê một nhàNhớ năm xưa trên chiến trường khói lửaBà mẹ Đồng Nai ép mía nuôi quân…Tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Nhiều tiếng xuýt xoa không ngờ

anh nhà báo trọ trẹ miền Trung mà hát chèo nhuần nhị đến thế! Được đà hứng chí, tôi xin “chơi” tiếp một điệu hát sắp vui nhộn:

Tôi xin là xin các anh/ hãy bàn là bàn cho kỹ/ Xét cho là cho tỉ mỉ/ Đây chiến công đầu là chính tay tôi một phần (tình tình tịnh tình… tình tinh tình tình); Rồi lại tiếp một đoạn song loan mềm mại trữ tình: Em xinh là xinh như cây lúa (tình tình tình chát). A… lúa mượt, lúa xanh (hi ì i… tình tình tịnh tình, tình tinh tình tình tinh tình…).

Page 315: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

385

Khỏi phải nói lính ta hôm đó ngạc nhiên và thích thú đến mức nào! Đêm, đích thân anh Tăng Văn Phả sang nhà khách “lôi” tôi dậy nói chuyện. Tất nhiên câu hỏi đầu tiên là vì sao tôi biết hát chèo? Tôi kể lại câu chuyện các o Sẵn Sàng Hà Nam năm xưa, với giọng ngậm ngùi như độc thoại, rồi hỏi anh Phả: “Biên Hòa, Đồng Nai, Chiến Khu Đ… thì tôi đã biết qua sử sách. Nhưng Núi Đọi ở đâu và vì sao lại gắn với mấy địa danh miền Đông Nam Bộ trên đây?”. Anh Phả giải thích: Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có phong trào mỗi tỉnh, thành phố ở miền Bắc kết nghĩa với một hoặc vài tỉnh, thành miền Nam. Như Hà Nội kết nghĩa với Huế và Sài Gòn-Gia Định, Hà Nam kết nghĩa với tỉnh Đồng Nai. Núi Đọi là một danh thắng thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên của tỉnh Hà Nam. Trên núi có ngôi chùa cổ Long Đọi linh thiêng nổi tiếng từ thời Lý. Dưới chân núi có làng trống Đọi Tam danh bất hư truyền, đặc biệt có lễ hội Tịch Điền khởi nguồn từ thời vua Lê Đại Hành. Hà Nam còn nhiều danh lam thắng cảnh khác, như Sông Châu, Tam Chúc… và là xứ địa linh nhân kiệt, quê hương của Nguyễn Khuyến, Nam Cao, Trần Bình Trọng, Đinh Công Tráng… và nhiều học giả, tướng lĩnh nổi tiếng xưa và nay. Khi nào có điều kiện, mời nhà báo về Hà Nam thăm thú, tìm hiểu…

Từ ngày đó đến gần 20 năm sau, tôi có mấy dịp về công tác Hà Nam Ninh rồi sau này là Hà Nam, nhưng chưa có điều kiện tìm hiểu thêm về văn hóa Hà Nam và nhất là chèo Hà Nam, một nét văn hóa Bắc Bộ gắn liền với tuổi thơ tôi và quê hương tôi những năm chống Mỹ cứu nước. Thỉnh thoảng tôi có được nghe, được xem những trích đoạn, những hoạt cảnh hoặc vở diễn chèo truyền thống và hiện đại trên ra-đi-ô, trên ti-vi và trên sân khấu do các nghệ sĩ chèo Hà Nam thể hiện, nhưng thực tình vì nhiều lý do chủ quan và khách quan nên cũng không mấy ấn tượng. Cho mãi đến cuối năm 2009, tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc tổ chức ở thành phố Hạ Long-Quảng Ninh, tôi được xem trọn vẹn vở Đợi đến mùa xuân của Đoàn

Page 316: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

386

chèo Hà Nam (kịch bản của nhà văn Xuân Trình, chuyển thể Trần Đình Văn, đạo diễn Vũ Ngọc Minh). Đây là vở chèo đề tài hiện đại, được các nghệ sĩ dàn dựng và thể hiện rất… truyền thống, đã giành được 1 HCV và 3 HCB của hội diễn. Hai năm sau, tháng 11-2011 tôi lại được xem vở “Cõi Thiêng” của Nhà hát Chèo Hà Nam, tại Hội diễn toàn quốc sân khấu chèo đề tài hiện đại, tổ chức tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Lần ấy, “Cõi Thiêng” cũng đã giành được 1 HCV và 2 HCB của hội diễn và ấn tượng về một đơn vị nghệ thuật chèo chuyên nghiệp của Hà Nam cũng sâu đậm hơn trong tôi.

Qua tìm hiểu tôi được biết: Năm 1997 sau khi tỉnh Hà Nam được tái lập thì Đoàn chèo Hà Nam cũng được tái dựng sau đó chỉ vài tháng. Từ đó đến những năm cuối thập niên thứ nhất của thế kỷ 20 là cả một chặng đường dài phấn đấu vượt mọi khó khăn thử thách để đạt những thành quả đáng trân trọng. Tính đến cuối năm 2009, Đoàn đã dàn dựng được 17 vở diễn gồm cả chèo truyền thống và hiện đại, đầy ắp hơi thở cuộc sống đương đại, tham dự đều đặn Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc hàng năm, được Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam trao các giải thưởng xuất sắc: “Bài thơ treo dải yếm đào” - HCB năm 1997, “Tỉnh rượu lúc tàn canh” - 1 HCV, 2 HCB năm 2000, “Súy Vân” - 2 HCV, 2 giải xuất sắc, 2 HCB năm 2001, “Trống giục sang canh”- giải C năm 2002, “Hoa đồng nội” - 3 HCV năm 2005, “Thắm mãi lòng son” - giải C năm 2006, “Đợi đến mùa xuân” - 1 HCV, 3 HCB năm 2009 v.v... Bên cạnh giải thưởng cho các vở diễn dài, đoàn còn vinh dự nhận nhiều giải thưởng khác, như: 1 giải Nhì, 1 giải Tài năng triển vọng tại Hội thi tài năng trẻ sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 2003; 2 giải C tại Liên hoan dân ca Việt Nam năm 2009…

Đến tháng 10/2010, UBND tỉnh Hà Nam ra Quyết định thành lập Nhà hát chèo Hà Nam, trên cơ sở sắp xếp lại bộ máy và biên chế của Đoàn nghệ thuật chèo Hà Nam với chức năng nhiệm vụ: Xây dựng các chương trình nghệ thuật biểu

Page 317: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

387

diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị của quê hương, đất nước, phục vụ nhân dân; hướng dẫn nhằm nâng cao nhu cầu thưởng thức nghệ thuật chèo của xã hội, góp phần thúc đẩy phong trào văn nghệ quần chúng trên địa bàn tỉnh; tổ chức nghiên cứu khôi phục, bảo tồn, phát triển và truyền bá nghệ thuật chèo truyền thống, đồng thời thử nghiệm các sáng tác mới, phong cách biểu diễn mới; phối hợp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các nghệ sĩ diễn viên, nhạc công…

Như vậy, từ “Đoàn nghệ thuật” nâng cấp lên “Nhà hát” là một bước ngoặt của đơn vị, với qui mô tổ chức và chức năng, nhiệm vụ lớn hơn và nặng nề hơn. Tuy nhiên hiện tại cái danh xưng “Nhà hát” vẫn đang là một áp lực, một thách thức lớn của đơn vị. Bởi vì, bên cạnh những khó khăn chung của bộ môn nghệ thuật truyền thống trong thời đại ngày nay, Nhà hát chèo Hà Nam còn có một khó khăn nan giải từ hàng chục năm nay là vấn đề nhân lực. Theo biểu biên chế thì Nhà hát phải có ít nhất 80 cán bộ, diễn viên, nhân viên để thực hiện các nhiệm vụ biểu diễn, nghiên cứu, đào tạo… Trong đó riêng công tác biểu diễn phải có trên 60 người để hoạt động với quy mô hai đoàn nghệ thuật. Tuy nhiên hiện tại sau hơn 5 năm thành lập, Nhà hát chèo Hà Nam chỉ mới có hơn 40 người thuộc các bộ phận. Riêng về biểu diễn thì Nhà hát chèo chỉ mới đủ biên chế 1 đoàn nghệ thuật và chỉ có thể hoạt động theo mô hình 2 đội biểu diễn.

Được biết, từ nhiều năm nay Đoàn chèo Hà Nam trước đây và Nhà hát chèo Hà Nam hiện nay luôn luôn nhận được sự quan tâm thiết thực của lãnh đạo địa phương. Còn nhớ ngay sau khi tái lập năm 1997, tỉnh đã cho phép đoàn tuyển chọn và gửi đi đào tạo tại Trường CĐ nghệ thuật Thái Bình hơn 20 tài năng trẻ. Vậy nhưng trải qua năm tháng bươn trải trong cơ chế thị trường, hiện tại còn rất ít người trong số ấy trụ lại được với đoàn. Mới đây, đề án tuyển sinh tạo nguồn nhân lực của Nhà hát cũng đã được tỉnh phê duyệt và đôn đốc triển khai thực hiện. Tuy nhiên việc tuyển chọn, mời gọi, thu hút tài năng,

Page 318: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

388

nhất là tài năng trẻ, đối với Nhà hát chèo Hà Nam vãn vô cùng chật vật khó khăn. Và vì vậy hiện nay, bên cạnh những nghệ sĩ đã thành danh và lớn tuổi, như: NSND Lương Duyên, Mạnh Hùng, Tuyết Lan, Hải Yến, Trang Nhung, Thế Hiển, Bích Ngọc, Hồng Nhạn, Xuân Quý, Quang Vị, Mạnh Thắng, Việt Dũng v.v… thì Nhà hát chèo Hà Nam thật hiếm những gương mặt mới báo hiệu những ngôi sao triển vọng… Như vậy, về lâu dài thì công tác tuyển dụng, đào tạo diễn viên, nhạc công, công nhân kĩ thuật là vô cùng cần thiết, cần được tỉnh quan tâm hơn nữa, thiết thực hơn nữa, như: đầu tư trang thiết bị, tăng cường kinh phí sự nghiệp, có chế độ ưu đãi đặc thù cho các diễn viên, nhạc công; tích cực phát hiện vun trồng tài năng và có chính sách “thảm đỏ” thu hút nhân tài nghệ thuật như một số địa phương khác đã và đang thực hiện... Theo chúng tôi được biết, hiện tại nếu Lãnh đạo tỉnh có dự án nhà công vụ dành cho Nhà hát chèo thì chắc chắn không chỉ thiết thực giúp các cán bộ, nhân viên, nghệ sĩ của Nhà hát ổn định cuộc sống gia đình, yên tâm cống hiến phục vụ tỉnh nhà, mà còn là yếu tố góp phần thực hiện chính sách thu hút nhân tài, bổ sung nguồn nhân lực mới, trẻ cho lĩnh vực văn hóa-nghệ thuật của địa phương.

Với hiểu biết của một nhà báo nhiều năm theo dõi VHNT và tình cảm của một công chúng quê ở miền Trung nhưng yêu quý nghệ thuật chèo Hà Nam từ thủa thiếu niên, tôi xin có đôi lời bộc bạch thiển kiến trên đây.

Xin trân trọng cảm ơn!

Page 319: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

389

DỊU HƯƠNG, BẠCH TRÀHAI KỲ NỮ ĐẤT HÀ NAM

NHẬT ÁNH

Đó là hai người phụ nữ tài sắc bậc nhất của sân khấu Việt Nam trong thế kỷ XX. Họ cùng sinh trên đất Hà Nam, Dịu Hương ở Bình Lục, Bạch Trà ở Phủ Lý. Từ vùng đồng chiêm trũng “chiêm khe, mùa thối” họ đã đến Hà Nội và các đô thị lớn miềnBắc, gia nhập làng sân khấu chuyên nghiệp, làm mê mệt bao thế hệ khán giả, chinh phục ngoạn mục những đỉnh cao của tuồng và chèo. Dịu Hương bắt đầu là diễn viên tuồng, nhưng cuối cùng lại định vị như một đào chèo xuất chúng. Ngược lại, Bạch Trà vào nghề bằng diễn chèo, rồi số phận đẩy đưa, bà lại trở thành một nghệ sĩ và nhà quản lý danh tiếng của tuồng.

NGƯỜI LÀM BẤT TỬ SÚY VÂN, THỊ KÍNH

Dịu Hương tên thật là Trần Thị Dịu, sinh vào tháng 10 năm 1919 ở Bình Lục trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật. Ngay từ nhỏ, bà đã được dạy cả hát chèo và hát tuồng. Năm 1926, bà được cha mẹ đưa lên thi tuyển vào lớp đống ấu của rạp tuồng Quảng Lạc Hà Nội. Bà trúng tuyển và được theo học mới được ba năm thì do hoàn cảnh kinh tế khó khăn của gia đình, không thể theo học tiếp, bà phải trở về quê. Năm 1933, bà đến Hải Phòng, trúng tuyển vào rạp tuồng Lạc Mộng Đài. Năm 15 tuổi, bà bắt đầu diễn tuồng và để lại dấu ấn qua những vai tướng như Lã Bố, Triệu Tử Long… Năm 1940, bà tham gia

Page 320: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

390

gánh hát Đồng Tâm do nghệ sĩ kiêm bà bầu Hoa Tâm làm chủ gánh. Năm 1944, bà hát ở rạp Hiệp Thành. Bà vừa diễn chèo, vừa diễn tuồng, trở thành một ngôi sao sân khấu rất được hâm mộ ở thành phố Cảng.

Sau Cách mạng tháng 8, sau vài năm tản cư tham gia kháng chiến, năm 1952, khi Đoàn Văn công Nhân dân Trung ương thành lập tại chiến khu Việt Bắc, bà trở thành diễn viên của Đoàn, cùng tổ chèo với vợ chồng nghệ nhân Năm Ngũ, Năm Hảo, Cả Tam, Trần Bảng…Tại đây, bà và nghệ nhân Năm Ngũ đã cùng Trần Bảng tham gia viết kịch bản và dàn dựng vở Chị Trầm, vở chèo đầu tiên của sân khấu cánh mạng. Vở chèo này đã được Bác Hồ cùng các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng xem và rất khen ngợi. Năm 1955, Dịu Hương vinh dự được chọn vào Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Liên hoan sinh viên thanh niên thế giới,đi biểu diễn tại Tiệp Khắc, Trung Quốc, Mông Cổ và nhiều nước khác. Năm 1959, Ban nghiên cứu chèo của Bộ Văn hóa thành lập, Dịu Hương cùng các nghệ sĩ chèo gạo cội như Năm Ngũ, Cả Tam, Trùm Thịnh... về đây cùng các nhà nghiên cứu phục hồi những tinh hoa của chèo cổ. Tại đây, với sự giúp đỡ của Đoàn chèo Cổ Phong, bà đã phục hồi thành công hai trích đoạn Súy Vân giả dại trong Kim Nham và Thị Màu lên chùa trong Quan âm Thị Kính. Nói đến NSND Dịu Hương là người ta nói đến ngay hai vai diễn để đời này của bà. Đây được coi là hai sáng tạo kỳ diệu nhất của nghệ thuật chèo và Dịu Hương đã cùng chúng trở nên bất tử khi hai vai diễn của bà trong hai trích đoạn Súy Vân giả dại và Thị Màu lên chùa đã được giới chèo chọn làm hai vai mẫu để truyền dạy cho các thế hệ diễn viên chèo trong hơn nửa thế kỷ qua.

Từ những năm 1960, do điều kiện sức khoẻ không tốt, Dịu Hương không còn được trực tiếp đứng trên sân khấu nữa, bà chuyển sang làm công tác giảng dạy và nghiên cứu tại Trường Nghệ thuật Sân khấu, đào tạo nhiều thế hệ diễn viên. Bà đã giúp rất nhiều cho công trình nghiên cứu chèo của GS.NSND Trần

Page 321: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

391

Bảng, GS. Hà Văn Cầu, nhà nghiên cứn Trần Việt Ngữ cũng như đã góp phần đào tạo các nghệ sĩ chèo tài năng nhiều thế hệ như Diễm Lộc, Thanh Hoài, Thúy Ngần, Vân Quyền, Thu Huyền…

Dịu Hương đã được Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt đầu tiên năm 1984 cùng với những bậc thầy kiệt xuất khác của sân khấu truyền thống dân tộc như Năm Ngũ, Cả Tam, Hoa Tâm, Trùm Thịnh (Chèo), Nguyễn Nho Túy, Phạm Chương, Nguyễn Lai, Ngô Thị Liễu, Bạch Trà (Tuồng), Phùng Há, Ba Du, Ba Vân, Tám Danh, Sỹ Tiến (Cải lương)…

Năm 2010, tưởng nhớ người mẹ, người thầy và một nghệ sĩ kỳ tài của nghệ thuật chèo, nhà giáo ưu tú Nguyễn Thanh Tuyết con dâu bà và là con gái của NSND Năm Ngũ, đã cho xuất bản cuốn sách “Nghệ sĩ nhân dân Dịu Hương, nghệ sĩ và người thầy”. Cuốn sách đã được giới chèo đón nhận hết sức nồng nhiệt.

ÁNH ĐÈN SÂN KHẤU ĐẸP NGƯỜI TÊN HOA…

Năm NSND Bạch Trà 85 tuổi, NSND Song Kim đã có một bài thơ mừng thọ NSND Bạch Trà trong đó có những câu:

Việt Nam có hoa Bạch TràTên hoa, nào biết lại ra tên ngườiTám lăm xuân, hoa vẫn tươiÁnh đèn sân khấu đẹp người tên hoa…Đúng như cảm nhận của nữ nghệ sĩ kịch nói hàng đầu đất

nước, NSND Bạch Trà thật sự là một trong những đóa hoa rực rỡ, thắm sắc, ngát hương nhất của sân khấu Việt Nam thế kỷ XX.

Bạch Trà tên khai sinh là Nguyễn Thị Vóc, sinh trước Dịu Hương 7 năm, vào tháng 7 năm 1912 tại Kim Thanh, Phủ Lý. Cha bà là nhà nho nghèo Nguyễn Ngọc Liễn, mẹ bà là Đào Thị Ngấn, một đào chèo có tiếng ở Hà Nam - Ninh Bình khi đó. Sau khi sinh ít lâu, bà Ngấn đã đưa Bạch Trà lên Hà Nội sống. Ngay từ năm 6 tuổi, Bạch Trà đã được học chèo và yêu thích chèo, trở thành đào chèo ngay khi còn nhỏ. Năm lên 10 tuổi bà theo mẹ xuống diễn ở Hải Phòng và được gặp người cậu là một

Page 322: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

392

kép tuồng, thấy thích quá, liền xin theo cậu học tuồng. Sau khi ông cậu đột ngột mất, bà lại về với mẹ trong đời hát rong hết tuồng, rồi chèo, lại có lúc theo cả xiếc để kiếm sống. Năm 1934, bà trở lại Hà Nội, xin vào gánh chèo của ông Mỹ Kí, từ đây cái tên Bạch Trà ra đời. Nhưng được ít lâu, bà lại trở lại với tuồng, đi hát ở rạp Phúc Thắng, trở thành đào chính được nhiều người yêu thích, với những vai như Điêu Thuyền, Lâm Anh Nga, Ngu Cơ...Trên sàn diễn tuồng, Bạch Trà đã gặp và kết hôn với nghệ sĩ Quang Tốn. Hai người đã lập nên gánh hát mới mang tên Tôn Xuân Đài. Bà là đào chính, đóng nhiều vở tuồng cương như Mạnh Lệ Quân, Chiêu Quân cống Hồ, Phàn Lê Hoa, Tam khí Chu Du... Gánh Tôn Xuân Đài đã lưu diễn nhiều nơi cho đến khi Cách mạng tháng 8 thành công.

Sau khi kháng chiến bùng nổ, gánh Tôn Xuân Đài đã di cư lên Bố Hạ, sau đó nhập quốc doanh trở thành Đoàn ca kịch Quyết Thắng của tỉnh Bắc Giang. Năm 1953, Bạch Trà và Quang Tốn lại lập Đoàn cải lương Quyết Tiến ở Thái Nguyên. Đó là hai đoàn ca kịch rất ăn khách ở vùng kháng chiến và tên tuổi Bạch Trà ngày càng vang xa. Cũng trong năm 1953, bà được cử đi tham dự Đại hội liên hoan thanh niên sinh viên thế giới ở Bucharest và một năm sau, năm 1954, Bạch Trà và Đoàn Quyết Thắng dự Đại hội văn công toàn quốc, rất được hoan nghênh với vở tuồng vở tuồng Ngũ Vân Thiệu bị vây do bà đóng vai nữ chính. Năm 1959, Bộ Văn hóa có chủ trương tập hợp các nghệ sĩ tuồng trên đất Bắc thành lập Đoàn Tuồng Bắc (tiền thân của Nhà hát Tuồng Trung ương), Bạch Trà và Quang Tốn được giao nhiệm vụ lãnh đạo Đoàn, rồi sau là Phó Giám đốc Nhà hát Tuồng Trung ương kiêm Chủ nhiệm khoa Tuồng Trường Sân khấu Việt Nam. Kể từ đó, bà không chỉ là nghệ sĩ chính mà còn là người quản lý, và Bạch Trà lại tỏ ra rất xuất sắc ở vai trò này, góp phần quan trọng vào sự phát triển nhanh chóng của đơn vị nhất là về mặt nghệ thuật với việc phục hồi có kết quả hàng chục vở tuồng cổ, hàng trăm vai tuồng cổ, đặc

Page 323: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

393

biệt là dàn dựng thành công nhiều vở tuồng hiện đại rất đặc sắc của Đoàn Tuồng Bắc như: Má Tám, Đề Thám, Dấu chân người trước, Suối đất hoa, Tình mẹ, Không còn con đường nào khác…

Trong hơn 80 năm đứng trên sân khấu, Bạch Trà đã đóng hàng trăm vai đào thương, đào võ, đào điên… cũng như rất nhiều loại kép, tướng, và thành công nổi bật nhất là trên sân khấu tuồng với những vai để đời như Mộc Quế Anh, Đào Tam Xuân, Điêu Thuyền, Mạnh Lệ Quân, Chiêu Quân, Hồ Nguyệt Cô, Xuân Đào…trong tuồng cổ hay bà mẹ Lê, bà Ba, mẹ Định Công… trong tuồng hiện đại. Bạch Trà cũng đã góp phần quan trọng đào tạo nhiều thế hệ nghệ sĩ tuồng xuất sắc như các NSND Mẫn Thu, Đàm Liên, Tiến Thọ, Hoàng Khiềm, Gia Khoản, Minh Gái, Hồng Khiêm, Hương Thơm... Đạo diễn, NSƯT Đoàn Anh Thắng, Tác giả Xuân Yến, Đạo diễn Đặng Bá Tài…

Năm 1984, Bạch Trà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân cùng đợt đầu với Dịu Hương. Bà cũng đã được trao tặng huân chương Độc lập hạng Ba, huân chương Lao động hạng Nhất… NSND Bạch Trà đã về cõi vĩnh hằng năm 1997, nhưng tên tuổi bà sẽ mãi bất tử với nghệ thuật tuồng, bộ môn sân khấu tuyệt vời mà bà đã trọn đời say đắm, chăm lo gìn giữ, phát triển…

Page 324: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

394

ĐÀO THẮNG - NGƯỜI NỐI NGHIỆP NGUYỄN KHUYẾN, NAM CAO

NGUYỄN TRỌNG TẠO *

Tôi quen Đào Thắng từ 34 năm trước ở tuyến lửa Khu Bốn thời chiến tranh chống Mỹ. Anh là lính pháo binh, tôi là lính bộ binh. Anh làm nhiều thơ, nhưng xuất hiện trên tạp chí Văn nghệ quân đội bằng thiên ký sự Hướng phụ làm xôn xao làng văn quân đội. Rồi một dạo, hai đứa cùng về làm báo Quân khu Bốn, nhưng ngày nào cũng đàm luận văn chương. Kết thúc chiến tranh, hai chúng tôi đều được Tổng cục Chính trị điều về Hà Nội dự trại sáng tác ba năm liền, rồi cùng vào học Trường viết văn Nguyễn Du khóa đầu tiên. Giấc mơ lớn nhất của Đào Thắng là viết một cuốn tiểu thuyết về chính làng quê, dòng họ mình ở Bình Lục, Hà Nam. Nhưng để viết được cuốn tiểu thuyết mơ ước đó, anh đã phải “thử bút” bằng 2 cuốn tiểu thuyết khác: Điểm cao thành phố (1981) và Nước mắt (1991). Cuốn Nước mắt sau khi in ra liền đoạt 2 giải thưởng của Bộ Quốc phòng và Hội Nhà văn Việt Nam. Chục năm sau, Đào Thắng đưa cho tôi một tập bản thảo. Lần này, chính là tiểu thuyết mơ ước của anh, có cái tên là Dòng sông mía.

Câu chuyện xoay quanh gia đình ông Quỹ Nhất, chủ một lò mật lớn. Cùng với những mối quan hệ chằng chịt trong họ ngoài làng vô cùng phức tạp và sinh động. Những nhân vật nông dân

* Nhà thơ - Nhạc sĩ.

Page 325: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

395

ở đây đều mang một tính cách mạnh, khôn có, dại có, bản năng có và vô học cũng đầy rẫy. Những câu chuyện loạn luân, trả thù, chửi bới, xách mé, cưỡng hiếp, thông dâm, chòng ghẹo, trẫm mình, đấu tố xảy ra như cơm bữa. Xung quanh ông Quỹ Nhất là ông Nghĩa (em trai), bà Cả Thuần (con dâu), cô Bé (con đẻ), thằng Lẹp (con hoang của ông với bà mụ Mến), anh Khuê (cháu đích tôn), cô Côn (cháu dâu), cô Bê Lớn (vợ Lẹp), anh Các (con ngoại tình của bà Thuần) và những người làm công như Bếp Rỗ, Râu Đen, v.v… Xa hơn là bố con ông Đồi, người đã cưỡng dụ bà Thuần ngay khi chồng bà vừa mới qua đời, rồi ra đi không một lần ngoái lại. Những con người nhiều lúc tốt xấu lẫn lộn ấy cứ chung sống trong một không gian hẹp đời này qua đời khác. Những ước mơ vươn lên luôn bị trì kéo. Những ngả đường gập ghềnh của chiếc xe bò không chủ rướn lên trong đêm sấm chớp gió mưa. Nhưng xuyên suốt, câu chuyện được dẫn dắt bằng một tư tưởng nhân văn phương Đông. Những con người sống vô trách nhiệm, buông thả theo bản năng, tàn ác, dốt nát hay tham lam đều bị trả giá đắt trong cuộc đời. Những con người phúc hậu, chân thực, luôn hướng về phía thiện, dù có bị cưỡng bức, trắc trở, bi kịch vẫn có lúc được đáp đền, chia sẻ, để lại ấn tượng đẹp. Cái tia sáng có tên Hy Vọng vẫn lóe lên như phép nhiệm màu dẫn dắt những số phận hướng về phía chân thiện mỹ. Quan niệm đạo Phật và đạo Thiên Chúa được soi sáng bằng cái nhìn biện chứng, đều mang đến sự cứu rỗi tâm linh trắc ẩn của con người.

Có thể nói, theo ý của riêng tôi rằng, khá lâu rồi, tôi chưa thấy một cuốn tiểu thuyết nào của Việt Nam ta viết về nông thôn lại hấp dẫn và góc cạnh như tiểu thuyết Dòng sông mía của Đào Thắng. Những chi tiết độc đáo, những tính cách mạnh mẽ và riêng lẻ của các nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết tưởng như huyền thoại mà vô cùng chân thực và sinh động. Từ thằng Lẹp đáng yêu trở thành lão Lẹp đáng ghét và đáng thương là một quá trình sống được đắp đầy bằng xương bằng thịt của sự

Page 326: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

396

sống muôn màu muôn vẻ. Từ cô Bé ngây thơ, ngang tàng trở thành bà Nghĩa nhân từ là một sự tự ý thức trưởng thành của nhân vật…Ngòi bút văn xuôi của Đào Thắng sắc sảo và tỉnh táo, nhưng cũng rất dung dị và giàu chất thơ. Lối viết phục hiện, hồi tưởng khá linh hoạt được đắp bồi từ nhiều hướng, làm cho câu chuyện không nhàm chán. Đấy chính là biểu hiện của một cây bút văn xuôi có tài, đã bằng nghệ thuật của mình, đẩy tiểu thuyết ta đi xa hơn trên phương pháp hiện thực truyền thống.

Có nhà văn là lính đồng hương thời Nam Hà với Đào Thắng, đã nhận xét đại ý: “Dòng sông mía” của Đào Thắng như tiếng nấc âm thầm của con sông Châu Giang, con sông rất đẹp, rất thơ mộng của riêng quê hương Hà Nam. Tiếng nấc ấy từng phả vào tâm hồn con người, rồi cất lên ở những trang văn của những người con đất Hà Nam, trong thơ Nguyễn Khuyến, trong văn Nam Cao, và nay lại được nghe trong văn Đào Thắng.

Hà Nam là quê hương của những văn hào lớn Nguyễn Khuyến, Nam Cao. Điểm đặc biệt ở những văn tài tiền bối của xứ sở sông Châu núi Đọi này là họ đều viết rất hay về quê hương nghèo khó của mình và các tác phẩm về quê hương của hai ông hầu hết là các kiệt tác.

Sau khi đọc Dòng sông mía, tôi tin chắc chắn Nguyễn Khuyến, Nam Cao đã có một người nối nghiệp tài năng.

Đó là nhà văn Đào Thắng.

Page 327: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

397

NGỌN NGUỒN DÂN CA GIAO DUYÊN VÙNG NGÃ BA SÔNG MÓNG

NGUYỄN ĐÌNH LỢI *

Ngã ba sông Móng là địa danh nằm trên lưu vực sông Châu, nơi tiếp giáp ba xã thuộc ba huyện trong tỉnh Hà Nam: xã Bình Nghĩa (huyện Bình Lục), xã Văn Lý (huyện Lý Nhân) và xã Tiên Phong (huyện Duy Tiên). Từ xa xưa trong vùng đã có câu:

Một vùng sông rẽ ngã baTiếng con gà gáy nghe ba huyện cùngSở dĩ được gọi là Ngã ba sông Móng, bởi từ xa xưa ở nơi đây

đã có những người dân làng Móng (nay thuộc xã Tiên Phong) làm nghề chở đò ngang trên sông. Về địa lý, Ngã ba sông Móng là vùng đất mang đặc điểm của vùng chiêm trũng, nên việc đánh bắt thuỷ sản và giao thông đường thuỷ thuận lợi nhất Hà Nam. Là một vùng đất bãi thuộc châu thổ sông Hồng và sông Châu nên ngã ba nơi đây mang đặc trưng của nền văn hoá lúa nước và nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vải (hai đặc trưng cơ bản của văn minh Đại Việt xưa).

Một điều lý thú là, tuy là nguồn dân ca của chung ba huyện nhưng lại mang tên riêng của một làng - làng của những người chèo đò. Vì vậy, có thể cho rằng nguồn dân ca này được sinh ra trên mặt nước, mà làng Móng và bến đò Móng là điểm hội tụ những con đò qua lại sông Châu và những chiếc thuyền nan - phương tiện đi lại trong môi trường đồng chiêm trũng.

* Nhà NC văn hóa - Sở Văn hóa, Thê thao và Du lịch Hà Nam.

Page 328: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

398

Căn cứ vào công việc chèo đò của người làng Móng, sinh hoạt trên mặt nước của cư dân vùng chiêm trũng Hà Nam xưa, phương tiện đi lại chủ yếu bằng thuyền nan thì thấy, không gian mặt nước tạo môi trường cho hát đối (ở Hà Nam xưa đã có hình thức hát đối trên mặt nước, như hát Trống quân ở các huyện: Thanh Liêm, Bình Lục được tổ chức giữa các thuyền nan, sau này phát triển thành hát giao duyên). Vì vậy, dân ca vùng sông Móng hoàn toàn mang ý nghĩa sinh hoạt tinh thần, giao lưu tình cảm hay cảm hứng thăng hoa trong lao động; lúc đầu hát trên mặt nước, sau chuyển lên bờ, cả hình thức lẫn nội dung ngày càng phong phú hơn.

Chứng minh cho giả thiết trên, chúng tôi mượn lời của nghệ nhân hát giao duyên Nguyễn Thị Vỷ (118) (người làng Ngô Khê, xã Bình Nghĩa, huyện Bình Lục) cho hay: “Khi tôi đang gánh cỏ thì nghe thấy dân làng Mạc hát một câu có tính thách đố. Tôi hát đối lại. Hát cho đến bao giờ họ không đối lại được nữa thì mới gánh cỏ về…”.

Hát đối vùng Ngã ba sông Móng được mở rộng qua các hình thức sinh hoạt khác, ở nhiều môi trường. Nó thuộc loại nhóm dân ca sinh hoạt, gắn liền với các tập quán sinh hoạt xã hội, ngày càng phổ biến, được nhân dân ưa dùng trong sinh hoạt tập thể, trong lao động, vui chơi giải trí, trong các ngày lễ hội dân gian…

Hát giao duyên vùng Ngã ba sông Móng, như trên đã nêu, có nguồn gốc từ hát đối, nhưng tính chất đối đáp là thứ yếu, mục đích đối ý về sau mờ nhạt dần, chất trữ tình, tự sự trội hơn lên. Hát giao duyên Ngã ba sông Móng thuộc thể hát đối ca một giọng, tức là cả hai bên nam, nữ hát chung một bài hát có cùng một làn điệu. Ví dụ, trong làn điệu hát mời:

Nữ: Ba quan một chiếc thuyền nan Có về xóm bãi gái ngoan tầm chồng(118). Cụ Vỷ (đã mất) là mẹ của Nhạc sỹ Phạm Trọng Lực, người sưu tầm,

biên tập những làn điệu dân ca này.

Page 329: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

399

Có mấy dậu tình rằng Anh cả, anh hai nay đấy ơi!Nam: Cô cả, cô hai nay đấy ơi!Chất trữ tình trong các làn điệu dân ca giao duyên Ngã ba

sông Móng được cảm hứng từ môi trường lao động, sinh hoạt và trữ liệu lịch sử- xã hội. Các chất liệu lấy từ cuộc sống như bến sông, con đò, con thuyền, xóm bãi… là những hình ảnh gần gũi, thân thương, gợi cảm được nhắc đi, nhắc lại trong nhiều làn điệu, được nhân lên thành hình tượng của tình yêu. Kết hợp với câu chuyện dã sử, hình tượng này gắn với hình tượng nhân vật người con gái họ Đào có duyên phận lỡ làng như con đò lỡ chuyến, bến sông vắng thuyền.

Hình tượng lấy từ nghề tằm tang, canh cửi có thể thấy rất nhiều trong các làn điệu:

Đêm khuya sương đẫm cành dâuAnh kéo vạt áo che đầu cho em (Lời Hát ru)Hay:Đêm trăng thanh gió mát ta về làng Dâu (Lời Hát ngược)Trong tâm thức các cư dân trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, cũng

như trong tâm thức người Việt xưa, nương dâu, con tằm, cái kén, xe tơ, dệt vải có sự liên tưởng tương ứng với nhân duyên như ông tơ, bà nguyệt. Môi trường của nghề trồng dâu nuôi tằm là nguồn gợi cảm hứng trữ tình thứ hai (sau nguồn cảm hứng lấy từ chất liệu sông nước) cho những làn điệu hát giao duyên, hát ru của cư dân nơi đây.

Nguồn trữ tình trong hát giao duyên vùng Ngã ba sông Móng còn được khai thác từ câu chuyện dã sử. Chuyện kể rằng: có một viên tướng trẻ của Lê Hoàn (thời Tiền Lê) từ căn cứ Động Cõi đi qua bến sông Thọ Kiều ra trận đánh giặc, vào một ngày nước lũ kéo về. Viên tướng cưỡi ngựa trắng đi qua bến đò sông Móng. Người con gái họ Đào làm nghề lái đò đã chở viên

Page 330: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

400

tướng ấy. Không may ra đến giữa dòng, gặp nước xoáy làm tay lái quay tròn, đò đắm. Cô gái quen dòng nước, lao xuống dòng xoáy cứu được viên tướng trẻ, nhưng còn con ngựa bạch thì bị dòng nước cuốn đi.

Cứu người nên nghĩa, chuyến đò nên duyên. Cô gái lái đò và chàng tướng trẻ đem lòng yêu nhau, rồi cùng thề se duyên chồng vợ.

Thắng giặc, đại quân của Lê Hoàn trở về trong khúc khải hoàn ca, còn viên tướng trẻ đã hi sinh nơi chiến tuyến, bỏ lại lời ước hẹn với người yêu. Cô gái họ Đào đã toan thề chẳng se duyên cùng ai, nhưng vì gia cảnh lâm bước khốn khó, cha mẹ già nua, bởi giữ trọn chữ hiếu, cô đành gác bỏ mối tình xưa, gá duyên cùng một anh đánh dậm. Ví tưởng như một câu hát giao duyên tròn trịa:

Đôi ta cùng chung cảnh nghèoAnh cuốc, em cuốc, sớm chiều có nhauNào ngờ, gã đánh dậm vũ phu, nhiều phen đánh đập vợ,

nhằm xoá đi chuyện tình năm xưa còn in sâu trong trái tim cô gái. Nhiều lần chết đi sống lại, cuối cùng cô gái họ Đào đã bỏ làng, bỏ cả dòng sông và con đò ra đi.

Lấy chuyện trên, các nghệ sĩ dân gian trong vùng đã cảm tác nên một làn điệu hát giao duyên, nghe ai oán mà trữ tình, huyền ảo:

Trên trời có đám mây xanhCó con ngựa bạch chạy quanh gầm trờiĐôi ta muốn lấy nhau chơiCái duyên không định, ông trời không seNhững nơi chết dấp bờ treCái duyên cứ định trời se em vàoBa đồng một sợi chỉ đàoÁo gấm không vá, vá vào áo tơiCực lòng thiếp lắm chàng ơiBiết rằng lên ngược xuống xuôi cũng đành (Hát Mụa)

Page 331: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

401

Để tạo nên tính chất huyền ảo, các nghệ sĩ dân gian đã mượn các yếu tố huyền bí, khó lý giải của nhân duyên, số phận. Ví thử như kiếp hồng nhan của cô gái họ Đào năm xưa, giờ ứng với duyên số tiền định của các cô gái họ Đào nói chung, như câu tương truyền trong dân gian:

Con gái họ ĐàoLấy quan quan cáchLấy khách khách về Tàu,Lấy nhà giàu nhà giàu hết củaSuy rộng ra, chủ đề nhân duyên lỡ làng và oán trách số

phận trong hôn nhân, trách cứ tình yêu xuyên suốt những làn điệu hát giao duyên khác trong vùng, như một mô típ:

Về nhân duyên:Cái quạt có hai chữ hồngBác mẹ gả chồng nhưng trái nhân duyên(Hát vui)Hay:Cái cây nhà người, cái quả nhà ngườiNhìn lên mỏi mắt, với thời mỏi tay(Hát vọng)Tìm người yêu nhưng không thấy:Hẹn anh đến gốc cây đaAnh đến không thấy anh ra cây đềHẹn anh đến gốc cây đềAnh đến không thấy anh về cây mơ…(Hò Đối)Trách cứ tình duyên:Trách ai gió cuốn lời thềTóc mây chưa bạc tình kia nhạt dần…(Hát Ru)Hoặc trong lời hát Đèo, mượn tích câu chuyện dân gian

Đồng tiền Vạn Lịch ở vùng đồng bằng Bắc Bộ phù hợp với chủ

Page 332: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

402

đề này, các nghệ sỹ vùng sông Móng đã thổi làn điệu âm nhạc cho nó, làm tăng thêm sự hấp dẫn của chủ đề.

Tuy nói về chủ đề tình duyên, nhân duyên lỡ làng, lầm lỡ nhưng nội dung tư tưởng các khúc hát giao duyên vùng ngã ba sông Móng không bi lụy; ngược lại nó ca ngợi tình yêu, khát khao sự bền vững trong tình duyên đôi lứa, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống. Và điều cốt yếu là, chất trữ tình mượt mà, vương vấn đáng yêu, chính bởi sinh ra từ đấy.

Từ hát đối trên sông nước ở Ngã ba sông Móng, các làn điệu lại thấm đẫm chất trữ tình trong cuộc sống cư dân lúa nước và điệu hát giao duyên khắp một vùng rộng lớn gồm ba huyện Bình Lục - Lý Nhân - Duy Tiên. Âm hưởng ấy được ví như tiếng gà gáy chung vậy!

Vùng Ngã ba sông Móng nằm kề ngay núi Đọi, thuộc trấn Sơn Nam Thượng xưa, chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh phố Hiến (thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến) là vùng đất mà các vua thời Tiền Lê, Lý, Trần ban nhiều ân huệ. Sự kiện tịch điền của Lê Hoàn còn trầm tích ở lòng đất, lòng dân nơi đây; rồi công trình núi Đọi, chùa Đọi của Lý Càn Đức (vua Lý Nhân Tông) với Tháp Sùng Thiện Diên Linh, văn bia lưu giữ nghĩa chữ, ý văn bay bổng, trữ tình, giàu lòng nhân ái. Nơi đây cũng là quê hương của Nguyệt Nga công chúa, một nữ tướng thời Trưng Vương, vừa lãnh đạo nhân dân đánh giặc, vừa dạy dân cách trồng dâu, chăn tằm, dệt vải. Một vùng đất giàu cảnh quan trữ tình, giàu trầm tích, di tích lịch sử - văn hoá, nên cũng là quê hương của lễ hội, là ngọn nguồn của những làn điệu hát giao duyên nơi đây. Nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, dân ca giao duyên vùng Ngã ba sông Móng mang được âm hưởng chung của nhiều thể loại dân ca trong vùng và cả những nét riêng của vùng chiêm trũng Hà Nam.

Nhiều năm qua, dân ca giao duyên vùng Ngã ba sông Móng được ngành văn hoá Hà Nam sưu tầm, khai thác và giới thiệu

Page 333: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

403

qua các chương trình biểu diễn văn nghệ, liên hoan dân ca trong và ngoài tỉnh. Thực tiễn cho thấy, những làn điệu dân ca này đã thu hút được sự chú ý của đông đảo người xem, người nghe. Việc sưu tầm, biên tập và khai thác nguồn trữ liệu dân ca này chúng tôi thiết nghĩ, chính là việc làm cần thiết để góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, làm giàu thêm nguồn dân ca trữ tình trên đất Hà Nam.

Page 334: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

404

MẤY Ý KIẾN VỀ ÂM NHẠC DÂN GIAN HÀ NAM

MAI TUYẾT HOA*

Quê mẹ tôi ở huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, một miền quê với những con người nông dân thuần phác, một nắng hai sương, quanh năm lam lũ với ruộng đồng, nhưng lại mê đắm những câu dân ca. Mẹ tôi sinh ra và lớn lên tại nơi đây và bà là một người rất mê tuồng, chèo và văn nghệ dân gian nói chung. Bà thường đọc cho tôi nghe những câu ca dao:

Tháng ba ngày tám nằm suôngNghe giục trống tuồng cố lết đi xem. Hay: Ăn no rồi lại nằm quèoNghe giục trống chèo bế bụng đi xem.Bà xem nhiều đến thuộc những câu tuồng, tích tuồng, những

tích chèo hay trong những vở: Quan âm Thị Kính, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Viên… Mẹ tôi còn thuộc nhiều bài hát ru, hát chầu văn, hát xẩm...

Nhớ tự ngày xưa tuổi chín mười tôi ham học và cũng rất ham thích nghe hát dân ca. Rồi những câu dân ca, hát ru mà mẹ thường ru em tôi ngủ đã ngấm vào tôi từ lúc nào không hay. Đấy là những nốt nhạc, những lời ca vỡ lòng để sau này tôi tiếp nối nhiều bậc thầy mà tiêu biểu là nghệ nhân Hà Thị Cầu để rồi trở thành nghệ sĩ hát Xẩm hôm nay. Trong quá trình học và

* Nhạc sĩ - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc.

Page 335: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

405

diễn hát Xẩm, tôi tìm thấy những nét tương đồng giữa Xẩm và Chèo. Tôi nghĩ rằng, hai loại hình nghệ thuật nào là anh em cùng họ, sinh ra từ miền chiêm trũng Hà Nam. Điều này không phải là suy nghĩ của riêng tôi mà đã có nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng cái nôi của chèo, tuồng là Hà Nam, vì Hà Nam là cái nôi văn hóa ở đồng bằng Bắc Bộ. Đó cũng là nhận định của Giáo sư Hoàng Chương trong quyển Nghệ thuật Tuồng Bắc. Và theo tôi, nghệ thuật hát Xẩm cũng sinh ra từ mảnh đất này, mảnh đất sinh ra nhiều loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống, đặc biệt là dân ca. Không phải ngẫu nhiên mà Thăng Long - Hà Nội có một kho tàng nghệ thuật dân tộc phong phú như hôm nay ta thấy dù đã mai một, thất truyền không ít, là nhờ có nền văn nghệ dân gian ở các vùng phên dậu quanh Thủ đô xâm nhập vào, trong đó có Hà Nam. Nếu có cuộc điều tra điền dã thật kỹ thì sẽ thấy có hàng vạn người gốc Hà Nam đến Thăng Long - Kẻ Chợ sinh sống làm ăn, trong số đó có biết bao nghệ nhân hát chèo, hát tuồng, hát xẩm, chầu văn, ca trù…Các nhạc sĩ hiện đại như Phong Nhã, Bùi Đình Thảo, Ngô Quốc Tính, Nguyễn Tiến… đều quê ở Hà Nam, sống ở Hà Nội. Ngược lại, cũng có những văn nghệ sĩ quê Nam Định hay Hà Tây đến sống ở Hà Nam, tuy thời gian có thể không dài, song đã sáng tác ra được nhiều tác phẩm hay, trong số đó có thi sĩ Nguyễn Bính tác giả của những bài thơ nổi tiếng như Chân quê, Trăng sáng vườn chè, Lỡ bước sang ngang, mà chúng tôi đã lồng vào các điệu Xẩm rất thành công.

Âm nhạc dân gian Hà Nam vô cùng phong phú, ở mỗi xã, huyện đều có những loại hình âm nhạc khác nhau như hát Dậm Quyển Sơn (huyện Kim Bảng) một loại hình ca, múa, nhạc tổng hợp đã xuất hiện từ thời Lý đến nay vẫn còn, với hình thức biểu diễn tập thể từ 20 đến 30 cô gái trẻ cùng miệng hát, tay quạt, chân dậm theo nhịp điệu lời ca.

Cái cong cửi vàng, cái chân cô dày (đạp), cái tay cô mắc. Thoi đưa thoăn thoắt, cái duyên cô hỡi, duyên cô hỡi hời.

Page 336: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

406

Hời thư là ta có thư rằng Hời thư là ta có thư rằng, hời hời thư là ta có thư rằng Dầu tang tình, tang tính, tính tang ta lang a tang tình …Khi vào hội, thường thì người ta mở đầu bằng các điệu, như

vỡ nước trong chèo rồi đến các điệu hát Vãn, Bảy mừng, Hếp mây v.v.. Ví dụ hát Vãn:

Nước đã an khang, từ khi nước đã an khang. Khắp nơi thôn xóm làng ta mở hội, gió cuốn, cờ bay, ta mừng

là vậy đón xuân về, mừng xuân về …Hát dậm Quyển Sơn cũng như Quan họ Bắc Ninh không có

nhạc đệm theo, nhưng có dừng sên, phách gõ nhịp giữ tiết tấu, cho người múa hát, tạo nên không khí rộn ràng, vui tươi và cuốn hút người xem. Đặc biệt Hát dậm không phải là thể Hát ru, nhưng không phải hát ru của hát giao duyên, hoặc ru con thông thường. Hát ru ở đây là tên những làn điệu hát ru khác với ru con.

Các nhà quản lý văn hóa Hà Nam đã chỉ đạo bảo tồn được điệu hát Dậm Quyển Sơn là rất quý. Ở Hà Nam còn rất nhiều điệu múa hát dân gian mà ở nơi khác không có, như múa hát Lãi Lèn ở Bắc Lý (Lý Nhân). Trong điệu múa hát này còn có cả tích truyện Chiêu Quân cống Hồ bên Trung Quốc nhằm ám chỉ Triệu Việt Vương gả Cao Nương cho Nhã Lang để giữ sự thuận hòa với họ Lý. Việc mượn chuyện nước ngoài (Trung Quốc) để nói chuyện Việt Nam, thời xưa là phổ biến như Nguyễn Du với Truyện Kiều, Đào Tấn với nhiều vở tuồng nổi tiếng, nhưng không ai cho là tuồng Tàu. Hát giao duyên Sông Móng thuộc thể đối ca một giọng, tức là cả hai bên nam, nữ hát chung một bài hát có chung một làn điệu. Ví dụ trong làng điệu hát Mời:

(Nữ) Ba quan một chiếc thuyền nan, có về xóm bãi gái ngoan tầm chồng, có mấy dậu tình rằng, anh cả, anh hai này đấy ơi! Cô cả, cô hai này đấy ơi!. Điệu hát đầy ắp chất trữ tình, lạc quan, yêu đời của một vùng văn hóa đặc trưng vùng sông nước Hà Nam.

Page 337: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

407

Ở Hà Nam còn có hát Trống quân trên cạn và hát Trống quân trên thuyền phản ánh sinh hoạt văn hóa ở vùng sông nước:

Sống nằm giường tre, chết nghe sóng vỗ. Hay:Đưa mẹ mới tối hôm quaSáng ra chỉ thấy nước xa, nước gần.Nghệ thuật dân gian đã phát sinh trên miền sông nước,

miền lúa nước Hà Nam, mà đặc sắc nhất là nghệ thuật múa rối nước, loại hình nghệ thuật độc nhất vô nhị của nước ta mà cả thế giới hôm nay, ai ai cũng thích xem múa rối nước. Rất tiếc là hiện nay rất nhiều nơi lập phường đoàn, đội múa rối nước và đua nhau biểu diễn thu tiền, thương mại hóa một loại hình nghệ thuật mà đáng ra nó phải được UNESCO vinh danh từ lâu, cũng như hát Chầu văn một loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc, hiện nay cũng bị thương mại hóa. Thiết nghĩ, ngành văn hóa Hà Nam nên kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam mở hội thảo khoa học bảo tồn và phát huy hai loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc đất Hà Nam.

Âm nhạc dân gian Hà Nam là một đề tài lớn. Vì vậy, làm sao có thể nói đầy đủ trong vài ba trang giấy. Trước khi kết thúc bản tham luận, tôi muốn nhắc tới và nói lời tri ân Danh nhân văn hóa Nguyễn Khuyến và tác phẩm bất hủ của ông là Mục hạ vô nhân mà các nghệ sĩ hát Xẩm chúng tôi đã lồng điệu biểu diễn hàng thế kỷ qua.

Page 338: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

408

NHẠC SĨ NGƯỜI HÀ NAM NHỮNG GƯƠNG MẶT

VÀ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU

PGS. TS. NGUYỄN ĐĂNG NGHỊ *

Dòng âm nhạc mới Việt Nam từ ngày ra đời đến nay, nếu tính tròn đã được 85 năm. Trên chặng đường ấy, âm nhạc mới Việt Nam - mà chủ thể của nó chính là các nhạc sĩ - đã góp phần không nhỏ vào công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Bằng chứng gần đây nhất là ngày 28/12/2014, Hội Nhạc sĩ Việt Nam nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập, đã vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng. Đó là sự ghi nhận những đóng góp lớn lao của các nhạc sĩ nói chung, trong đó có các nhạc sĩ - những người con của Hà Nam.

Theo cuốn Hội Nhạc sĩ Việt Nam xuất bản năm 2007, thì nước ta có 1278 nhạc sĩ (đến nay số lượng chắc đã tăng hơn một trăm người nữa) hoạt động hoặc có liên quan đến hoạt động âm nhạc trên các lĩnh vực: biểu diễn, đào tạo, nghiên cứu, sáng tác. Nếu chia đều cho 63 tỉnh thành, thì trung bình mỗi tỉnh có 22 người là hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Thực tế thì lại khác, trong tổng số nói trên, đã có gần 50 nhạc sĩ là người Hà Nam. Chúng tôi xin điểm qua (theo vần a-b-c) nhạc sĩ người Hà Nam hoạt động trên các lĩnh vực âm nhạc như sau:

Lĩnh vực sáng tác có các nhạc sĩ: Nguyễn Đình Bảng, Văn Chi, Lê Anh Chiến, Trần Chung, Đào Ngọc Dung, Trịnh Vinh Dụ,

*Trường Đại học SP Nhạc - Họa Trung ương.

Page 339: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

409

Đoàn Tiến Dũng, Ngọc Đại, Minh Đoàn, Minh Đỗ, Trần Thanh Hà, Lương Hải, Trịnh Tuấn Khanh, Phong Kỳ, Phạm Đức Lộc, Phong Nhã, Ngọc Quang, Nguyễn Xuân Sinh, Văn Thành, Bùi Đình Thảo, Văn Thắng, Lê Xuân Thọ, Huy Thục, Trọng Thủy, Ngô Quốc Tính, Phạm Tịnh, Hữu Xuân…

Lĩnh vực biểu diễn: Nguyễn Đức Chính, Đặng Văn cường, Trương Đức Hà, Nhữ Thanh Hằng, Trần Mai Huyên, Huy Luân, Trần Minh, Nguyễn Văn Quỳ…

Lĩnh vực đào tạo: Lã Hữu Quỳnh, Văn Thư…Đến thời điểm hiện tại, trong số các nhạc sĩ nêu trên, người

mất người còn, đó là quy luật đương nhiên của cuộc sống, nhưng có một điều: những đóng góp của họ thông qua các tác phẩm hay sản phẩm âm nhạc vẫn còn song hành mãi với sự phát triển của lịch sử âm nhạc nước nhà. Trong số những nhạc sĩ nêu trên, đặc biệt là ở lĩnh vực sáng tác, một số nhạc sĩ đã để lại dấu ấn khá sâu đậm trong lòng công chúng nghe nhạc. Nhiều tác phẩm của họ đã đồng hành cùng dân tộc trong những thời đoạn lịch sử vô cùng khó khăn, và nay trở thành tác phẩm bất hủ đi cùng năm tháng, đó là niềm tự hào không chỉ dành riêng cho giới nhạc sĩ Việt Nam, mà cho chung toàn xã hội. Những nhạc sĩ sáng tác đã góp phần làm rạng danh lịch sử văn hóa Hà Nam trong thời đại mới. Trong số những nhạc sĩ là người con của Hà Nam, chúng tôi chỉ xin lược qua một số gương mặt tiêu biểu:

NHẠC SĨ PHONG NHÃ, tên thật là Nguyễn Văn Tường. Ông sinh ngày 4 thánh 4 năm 1924 tại một làng quê ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Phong Nhã không phải là nhạc sĩ chuyên nghiệp, do đó hoạt động âm nhạc là nghề tay trái, mang tính quần chúng. Đầu những năm 40 của thế kỷ XX, Phong Nhã tham gia âm nhạc trong phong trào Hướng đạo. Với vốn liếng âm nhạc đã được tích lũy từ cuộc sống kết hợp với năng khiếu vốn có, ông chuyển hướng sang sáng tác ca khúc cho thiếu nhi từ những ngày đầu Cách mạng tháng 8 năm 1945. Trên bước

Page 340: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

410

đường đi theo cách mạng, Phong Nhã đã giữ nhiều cương vị quan trọng: ông là người sáng lập, đồng thời là tổng biên tập đầu tiên của báo Thiếu niên tiền phong; ông được bầu và trúng cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa II và khóa III. Năm 1979, Phong Nhã tham dự cuộc họp mặt quốc tế của những nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật vì thiếu nhi trên thế giới với chủ đề Trẻ em ngày mai của hành tinh chúng ta. Mặc dù Phong Nhã đạt được những thành công đáng kể trên cương vị là nhà hoạt động chính trị, xã hội, nhưng có lẽ cái dệt nên tên tuổi của Phong Nhã lại chính là các ca khúc viết cho thiếu nhi. Cũng chính những ca khúc này mới thể hiện rõ trách nhiệm của nhạc sĩ trong việc giáo dục, cảm hóa và hướng thiếu nhi Việt Nam đi theo con đường cách mạng. Phong Nhã viết hàng trăm ca khúc cho thiếu nhi, mà tiêu biểu là: Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng, Nhanh bước nhanh nhi đồng, Kim Đồng, Lê Văn Tám, Anh còn sống mãi, Cùng nhau ta đi lên, Đội ta lớn lên cùng đất nước, Làng em xanh tươi, Em yêu Đội nhi đồng, Bác sống đời đời, Hành khúc đội, Ngàn hoa việc tốt dâng Đảng quang vinh, Bài ca sum họp, Du ca mùa hè, Hát với Thăng Long - Hà Nội 2000… Ông đã xuất bản cuốn: Đội ta lớn lên cùng đất nước (Nxb Văn hóa - 1970), Tuyển chọn ca khúc và Album Phong Nhã (Hội Nhạc sĩ Việt Nam và DIHAVINA). Với những cống hiến to lớn cho cách mạng Việt Nam nói chung và nền âm nhạc mới nước nhà nói riêng, Phong Nhã đã được tặng nhiều danh hiệu cao quý: Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật năm 2001, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy chương vì sự nghiệp âm nhạc, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng...

NHẠC SĨ TRẦN CHUNG sinh ngày 1 tháng 12 năm 1927, tại xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ngay từ khi còn trẻ, năng khiếu âm nhạc đã sớm bộc lộ trong ông. Trần Chung đã tìm sách và tự học âm nhạc là chính, bên cạnh đó,

Page 341: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

411

có lúc ông cũng được sự hướng dẫn tận tình của nhạc sĩ Hoàng Quý. Tri thức âm nhạc được bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn và ông quyết định bước chân vào con đường sáng tác. Với thái độ cầu thị, ngay những ngày đầu khi ông đã là biên tập viên âm nhạc của Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Trần Chung vẫn đi học bổ túc kiến thức âm nhạc qua một số giảng viên ở Nhạc viện Hà Nội. Chịu ảnh hưởng nhiều từ các nhạc sĩ đàn anh như Đặng Thái Phong, Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Văn Cao, Hoàng Quý… nhưng quan trọng hơn đó là tố chất văn hóa của Hà Nam đã ngấm vào con người của Trần Chung, điều đó đã làm cho âm nhạc của ông vừa có chất trữ tình, vừa có tính lãng mạn. Trần Chung sáng tác hàng trăm ca khúc ở các lĩnh vực khác nhau. Lĩnh vực nào ông cũng có những ca khúc để lại dấu ấn trong tâm trí của công chúng. Một số ca khúc tiêu biểu của ông: Hát lên cô gái xã viên, Tình yêu nông trường, Chúng tôi vào lò, Nắng trên mỏ thiếc, Bàn tay thợ xây, Đêm Trường Sơn nhớ Bác (thơ: Hoàng Trung Thông), Bài ca Trường Sơn (thơ: Gia Dũng), Chiều dài biên giới, Hành quân qua Bạch Đằng Giang, Hát mừng đất nước hôm nay, Mùa xuân đến rồi đó, Tiếng gọi sông Đà, Mùa xuân trên thành phố dệt, Trên biển trời Đông Bắc, Nỗi nhớ bên hồ Dầu Tiếng…

Đã xuất bản: Tuyển tập Mùa xuân đến rồi đó, Tuyển tập ca khúc Trần Chung và băng cassette Trần Chung (Hội Nhạc sĩ Việt Nam và DIHAVINA). Với những đóng góp cho nền âm nhạc nước nhà, ông đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật đợt 1 năm 2001.

NHẠC SĨ BÙI ĐÌNH THẢO sinh ngày 4 tháng 2 năm 1931 (mất 1997), quê ở Duy tiên, Hà Nam. Nguyên là cán bộ tuyên truyền, với cây đàn ghi ta Bùi Đình Thảo luôn gắn bó với phong trào quần chúng thông qua các buổi sinh hoạt văn nghệ ở thôn làng. Năm 1956, ông bắt đầu theo học sáng tác khóa đầu tiên tại Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc Quốc

Page 342: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

412

gia Việt Nam). Thời gian này ông viết ca khúc Tiếng hát quê ta, đã được thu và phát trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam qua giọng ca của nghệ sĩ Thương Huyền. Là nhạc sĩ suốt đời gắn bó với quê hương, chính mảnh đất Hà Nam đã một phần tạo nên tố chất Bùi Đình Thảo trong âm nhạc. Ở lĩnh vực khí nhạc hay thanh nhạc, các tác phẩm của ông đều chân chất đậm hồn quê. Ngoài một số tác phẩm khí nhạc mà điển hình là bản giao hưởng thơ Hồ Chí Minh - mùa xuân thống nhất, ông còn viết nhiều ca khúc mà tiêu biểu: Thư biên giới, Lúa uốn câu, Xôn xao Cúc Phương, Tiếng hát vào ca, Trong lời ru quê mẹ. Đặc biệt Bùi Đình Thảo có năng khiếu viết ca khúc cho thiếu nhi. Những ca khúc: Đi học (thơ: Minh Chính), Em đi giữa biển vàng (thơ: Nguyễn Khoa Đăng), Bà thương con, Chúng em làm chị Tấm, Bàn tay mẹ (thơ: Tố Hữu)… đã làm nên tên tuổi của Bùi Đình Thảo. Ông được Hội Nhạc sĩ và DIHVINA xuất bản cuốn Tuyển chọn ca khúc Bùi Đình Thảo và Album tác giả năm 1995. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng của các hội, ngành nghề, trong đó có giải Âm nhạc Nguyễn Khuyến.

NHẠC SĨ HUY THỤC, tên khai sinh là Lê Huy Thục, bút danh: Lê Anh Chiến. Ông sinh ngày 22 tháng 12 năm 1935, quê ở Chính Lý, Lý Nhân, Hà Nam. Nhạc sĩ Huy Thục tham gia hoạt động cách mạng từ những ngày nhân dân ta vùng lên giành lại chính quyền tháng 8 năm 1945. Với lòng say mê âm nhạc, ông tự học và biết chơi đàn violon từ năm 1950, đây là dấu mốc đầu tiên trên con đường hoạt động âm nhạc của Huy Thục. Năm 1954, Huy Thục vào Đoàn Văn công Quân khu Hữu ngạn. Năm 1956, ông theo học lớp sáng tác đầu tiên của Trường Âm nhạc Việt Nam, thời gian sau, ông được cử đi tu nghiệp tại Nhạc viện Liszt ở Hungari. Về nước, Huy Thục tham gia giảng dạy ở Trường Nghệ thuật Quân đội. Có thể nói Huy Thục là nhạc sĩ của chiến trường, bởi trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông lặn lội cùng các chiến sĩ trên mặt trận Đường

Page 343: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

413

9 - Nam Lào. Sau đó ông về làm Tưởng Đoàn Ca múa Tổng cục chính trị, cho tới khi về hưu, ông mang cấp hàm đại tá. Huy Thục còn là nguyên ủy viên Ban chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa III, khóa IV, hiện ông sống tại Hà Nội. Với kiến thức âm nhạc được trang bị từ các nhạc viện trong và ngoài nước, cộng với tinh thần làm việc không mệt mỏi của ngươi lính, Huy Thục là nhạc sĩ có khả năng sáng tác ở cả lĩnh vực khí nhạc và thanh nhạc. Về khí nhạc, ngoài những tác phẩm viết cho kịch nói, phim truyện, phim tài liêu, múa…ông còn có tác phẩm đáng ghi nhớ như Vì miền Nam - độc tấu đàn bàu, Nhịp điệu nước non - độc tấu trống dân tộc… Đặc biệt, Huy Thục là nhạc sĩ có một khối lượng tác phẩm thanh nhạc đồ sộ, riêng ca khúc có tới 450 bài. Các tác phẩm thanh nhạc tiêu biểu của ông, về hợp xướng có: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Tiến lên toàn thắng (chương 1); về vũ kịch: Ngọn lửa Nghệ Tĩnh (viết cùng Nguyễn Thành và Lương Ngọc Trác)…; về ca khúc: Kèn xuất trận (thơ: Tô Đức Chiêu), Tiếng hát trên đường quê hương, Dòng suối La La, Tiếng đàn ta lư, Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Tiến lên chiến sĩ đồng bào (thơ: Hồ Chí Minh), Đợi (thơ: Vũ Quần Phương), Trăng khuyết (thơ: Phi Tuyết Ba)…Nhạc sĩ Huy Thục đã xuất bản Tuyển tập ca khúc Huy Thục và Album Tiếng đàn ta lư. Ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật đợt 1, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng 3 và nhiều giải thưởng của các hội ngành nghề, đoàn thể ở trong và ngoài nước.

NHẠC SĨ NGUYỄN ĐÌNH BẢNG sinh ngày 27 tháng 12 năm 1942 ở Đạo Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông từng là nhạc công của Đoàn Chèo Trung ương, đã đi biểu diễn phục vụ bộ đội ở Trường Sơn và nhiều sân khấu trong, ngoài nước. Sau đó ông về học chuyên ngành sáng tác tại Nhạc viện Hà Nội. Ra trường, Nguyễn Đình Bảng về DIHAVINA làm biên tập âm nhạc cho đến khi nghỉ hưu. Hiện tại, nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng

Page 344: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

414

đang sống tại Hà Nội. Là người được đào tạo trong môi trường âm nhạc chuyên nghiệp, ngoài sáng tác ca khúc, Nguyễn Đình Bảng còn có khả năng viết khí nhạc. Ông là một trong những nhạc sĩ của thời kỳ đổi mới tạo được dấu ấn mạnh mẽ tronng tâm trí của công chúng nghe nhạc Việt Nam. Các tác phẩm của Nguyễn Đình Bảng có thể ví như bức tranh thủy mặc vừa xa, nhưng lại vừa gần, vừa có tính triết lý, lại vừa giàu chất thơ… Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu, về ca khúc: Thời hoa đỏ (phỏng thơ: Thanh Tùng), Hai nửa vầng trăng (phỏng thơ: Hoàng Hữu), Mùa xuân về, Tuổi mới yêu, Khỏa trần Trường Sơn, Tình quê (thơ: Hàn Mặc Tử), Du thuyền sông Lam... Về khí nhạc: Ngôi sao biển, Ballade giao hưởng Thị Kính - Thị Màu… Ông đã có Album Audio Thời hoa đỏ, Khỏa trần Trường Sơn và Tuyển chọn ca khúc Nguyễn Đình Bảng (Nxb Âm nhạc - 1995). Nguyễn Đình Bảng đã đoạt nhiều giải thưởng của Hội Nhạc sĩ Việt Nam, đặc biệt năm 2007, ông đã được tặng Giải thưởng về Văn học - Nghệ thuật.

NHẠC SĨ NGÔ QUỐC TÍNH sinh ngày 10 tháng 8 năn 1943 tại Hà Nội, quê gốc của ông ở Bình Lục, Hà Nam. Ông tốt nghiệp sáng tác hệ chính quy tại Nhạc viện Hà Nội. Năm 1970 - 1971, Ngô Quốc Tính đã đi sáng tác và biểu diển ở chiến trường B và C. Ông từng là chỉ huy của dàn nhạc Đoàn chèo, rồi sang làm việc tại Đoàn Ca Múa Kịch Ninh Bình. Sau này Ngô Quốc Tính chuyển về Nhà xuất bản Âm nhạc làm biên tập viên. Trước khi về hưu, Ngô Quốc Tính làm việc tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam với cương vị là Chánh văn phòng. Nay ông sống tại Bắc Ninh. Các tác phẩm âm nhạc của Ngô Quốc Tính luôn hàm chứa những nét tinh túy kế thừa từ âm nhạc dân tộc và có bản sắc riêng. Ông sáng tác nhiều tác phẩm khí nhạc, viết nhạc cho trên 100 vở diễn sân khấu kịch nói, tuồng, chèo cải lương, kịch hát dân ca. Riêng lĩnh vực thanh nhạc, Ngô Quốc Tính có những đóng góp nhất định, nhiều ca khúc của ông đã

Page 345: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

415

có đời sống lâu bền trong công chúng như: Niềm vui cô thợ dệt, Trên công trường rộn tiếng ca, Tình trăng tình biển, Hương hồi xứ Lạng, Hương tám xoan, Tiếng ru trong ánh điện sông Đà, Chùm hoa biển, Hồ Tây chiều nhớ, Mai em mười bảy, Phượng tím, Chiều chưa em…

NHẠC SĨ PHẠM TỊNH sinh ngày 22 tháng 6 năm 1944. Quê ông ở Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Hiện ông đã nghỉ hưu và sống tại Hà Nội. Nhạc sĩ Phạm Tịnh gia nhập lực lượng vũ trang năm 1963. Từ năm 1970 đến 1973, Phạm Tịnh theo học chuyên ngành sáng tác hệ đại học chính quy tại Nhạc viện Hà Nội. Năm 1974, Phạm Tịnh về Đoàn Nghệ thuật Công an nhân dân vũ trang. Năm 1975, ông chuyển về công tác tại Cục Chính trị thuộc Bộ Tư lệnh Biên phòng. Từ 1978 đến 1980, ông là biên tập viên Chương trình Ca nhạc dành cho chiến sĩ nơi biên cương và hải đảo của Đài Tiếng nói Việt Nam. Từ 1981 đến 1989, Phạm Tịnh là nhạc sĩ sáng tác của Cục chính trị Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Từ 1989, Phạm Tịnh chuyển sang làm việc tại Ban Văn nghệ Đài Truyền hình Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu. Phạm Tịnh là nhạc sĩ có thiên hướng khai thác những yếu tố dân gian của các tộc người thiểu số ở khu vực phía Bắc Việt Nam để đưa vào tác phẩm. Có thể kể một số ca khúc tiêu biểu của ông như: Lạng Sơn quê tôi, Đu đu điềng điềng, Đi chợ vùng cao, Nòn đắc nòn đi, Sli lượn tìm nhang, Tính then trảy hội lùng tùng, Điều chưa thấy trong văn tự người Dao, Tình yêu từ chân ruộng bậc thang, Trăng đầu núi, Xuống chợ, Bức tranh thổ cẩm, Những bông đỏ của rừng… Ông đã xuất bản: Tuyển tập ca khúc Lạng sơn quê tôi (Nxb Âm nhạc - 1995) và Tuyển chọn ca khúc Phạm Tịnh kèm băng âm thanh (Nxb Âm nhạc - 1996). Nhạc sĩ Phạm Tịnh đã đoạt được nhiều giải thưởng của Hội Nhạc sĩ, giấy chứng nhận nhạc sĩ có nhiều sáng tạo trong các Hội diễn Ca Múa Nhạc chuyên nghiệp năm 1999 và năm 2004...

Page 346: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

416

Nhìn chung các nhạc sĩ người Hà Nam, đa số sống và làm việc ở một số thành phố lớn mà chủ yếu là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Dẫu vậy, các nhạc sĩ đều có điểm chung, đó là trong lý lịch vẫn ghi rõ nơi sinh hoặc quê quán của họ tại Hà Nam. Điều đó phần nào cho thấy, các nhạc sĩ luôn tự hào và nhớ về quê hương bản quán của họ. Nhớ tới quê hương, nhớ tới cội nguồn cũng có nghĩa là chất văn hóa Hà Nam vẫn không ngừng chảy trong con người của mỗi nhạc sĩ. Đó cũng là cơ sở để lý giải cái sự mộc mạc dung dị nhưng đậm chất thơ trong lời ca, tính trữ tình mang nhiều yếu tố dân gian trong giai điệu âm nhạc ở hầu hết tác phẩm của nhạc sĩ người Hà Nam. Nhìn trên phương diện khuếch tán văn hóa, vô hình chung các nhạc sĩ - thông qua tác phẩm - đã đem chất văn hóa Hà Nam đến với công chúng mọi miền đất nước. Suy cho cùng, đó cũng là cách ứng xử có trước có sau của các nhạc sĩ đối với quê hương bản quán của họ. Ở chiều ngược lại, nếu văn hóa (trong đó có âm nhạc) vẫn được coi như một động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội hiện nay thì thiết nghĩ, Hà Nam cũng nên có những ứng xử cần thiết với nhạc sĩ là người con của quê hương, nhất là đối với các nhạc sĩ trẻ. Có như vậy mới tạo được sự gắn kết mật thiết giữa quê hương và các nhạc sĩ, đó cũng là điều vô cùng cần thiết/ cần có trong bối cảnh hiện nay.

Page 347: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

417

TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ BẮC LÝNÉT ĐẸP VĂN HIẾN HÀ NAM

NGÔ VĂN HẰNG *

Xã Bắc Lý - nơi có Trường Trung học cơ sở Bắc Lý, là một trong 22 đơn vị hành chính của huyện Lý Nhân. Bắc Lý cách trung tâm huyện lỵ - thị trấn Vĩnh Trụ khoảng 6km về phía đông; cách tỉnh lỵ thành phố Phủ Lý chưa đầy 20km. Là một trong những nơi trũng nhất, “chiêm khê mùa thối” của vùng đồng chiêm trũng Hà Nam, song Bắc Lý lại là vùng đất được hình thành khá sớm. Từ trước Công nguyên, người Việt cổ đã từ thượng lưu sông Hồng về cư trú, khai phá đồng đất này. Với bao mồ hôi, xương máu của lớp lớp thế hệ người dân Bắc Lý, đã khai phá, thau chua rửa mặn, cải tạo vùng đất chiêm trũng này thành đồng ruộng phì nhiêu, mầu mỡ, từ một vụ đến hai vụ chắc ăn, lúa mầu xen kẽ. Không chỉ thông minh, sáng tạo, cần cù trong lao động, người dân Bắc Lý còn anh dũng, bất khuất chiến đấu chống lại các kẻ thù xâm lược để bảo vệ quê hương, giữ gìn những thành quả lao động của mình.

Bắc Lý là vùng đất nghèo, người dân quanh năm chân lấm tay bùn lam lũ làm ăn, nhưng con người Bắc Lý có truyền thống trọng học và hiếu học. Kết tinh của truyền thống vẻ vang ấy là Trường Trung học cơ sở Bắc Lý - ngôi trường duy nhất trong cả nước hai lần được Đảng và Nhà nước phong tặng Danh hiệu cao quí Anh hùng Lao động và Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.

* Hiệu trưởng Trường THCS Bắc Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Page 348: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

418

Những ngày đầu mới thành lập, trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra quyết liệt, nơi trường đóng là vùng tranh chấp giữa ta và địch, nhà trường gặp nhiều khó khăn thách thức, đã nhiều lần phải di chuyển. Năm 1958, Trường được xây dựng ổn định ở thôn Tú Yên, xã Chung Lý, một thôn thuộc vùng đồng chiêm trũng nghèo khó, đi đến trường như đi đến một hòn đảo. Thời điểm này, trường có 12 giáo viên thì 5 người chưa dạy được toàn cấp, chưa có Đảng viên, tư tưởng mỗi người còn tản mạn; sống cách biệt với nhân dân; công việc dạy học với cái nghĩa chật hẹp nhất của nó: một số kiến thức ít ỏi đã có, cộng với quyển sách giáo khoa là “Vương quốc” riêng của mỗi người. Với tính cách thẳng thắn, chất phác, mang đậm nét văn hóa giao tiếp ứng xử của cư dân vùng nông nghiệp, người dân trong vùng đã thẳng thắn chê trách: “ Thầy giáo chỉ lo giặt giũ suốt ngày”, “Thầy giáo người ta sướng như tiên, hết dạy học lại đàn hát, nghe Ga-len thôi”. Thái độ thẳng thắn của người dân, cùng với tinh thần cuộc chỉnh huấn hè 1958 trong toàn ngành giáo dục, đã tác động mạnh mẽ, làm thay đổi tư tưởng, nhận thức và hành động của mỗi giáo viên (đây là điểm mốc quan trọng): Giáo viên đã thâm nhập thực tế, tìm hiểu điều kiện, hoàn cảnh gia đình học sinh, đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương, tham gia lao động sản xuất giúp dân, chia sẻ những khó khăn với nhân dân, từ đó nhà trường nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ của nhân dân và các cấp chính quyền; đã vận động các lực lượng xã hội đóng góp công sức, tre, gỗ, rơm rạ xây dựng các gian nhà tranh vách đất làm phòng học, phòng đồ dùng dạy học.

Năm 1959, Vụ Giáo dục phổ thông phát hiện nhân tố ban đầu là Bắc Lý dạy tốt môn Sinh vật và xây dựng vườn trường; đi sát hơn, Bộ Giáo dục nhận thấy Bắc Lý có yếu tố hiếm có là ý thức và quyết tâm của giáo viên và nhân dân địa phương thực hiện mục tiêu và phương châm giáo dục mới; tập thể giáo viên đầy sức sáng tạo, tự lực cánh sinh và cộng đồng trách nhiệm. Tiếp đó, ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

Page 349: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

419

III, cùng với khí thế lao động tự lực, tự cường của toàn dân đã lôi cuốn thày trò Bắc Lý, tiếp sức cho quyết tâm thực hiện mục tiêu, nguyên lý, phương châm giáo dục của Đảng và chủ trương đưa lao động sản xuất vào nhà trường, gắn giáo dục với thực hiện mục tiêu chính trị ở địa phương.

Trước hết, nhà trường lấy giáo dục tư tưởng chính trị làm gốc, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quê hương làng xóm, từ đó nâng lên thành tình yêu Tổ quốc, yêu Chủ nghĩa xã hội, xác định được trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước. Mặt khác, trường tìm mọi cách nâng cao chất lượng giảng dạy các môn văn hóa, khoa học kĩ thuật, kết hợp giảng dạy với thực tế sản xuất và hoạt động xã hội.

Về việc đưa lao động sản xuất vào nhà trường: Ban đầu, nhà trường tổ chức cho giáo viên, học sinh lao động đơn giản để giải quyết những khó khăn trước mắt về cơ sở vật chất cho dạy - học và góp phần giải quyết một số các mục tiêu về sản xuất nông nghiệp. Ví dụ: chăn nuôi, trồng trọt, đưa giống mới vào địa phương, trồng cây vụ đông, xen canh tăng vụ, làm thủy lợi, v.v... Vừa làm, vừa rút kinh nghiệm; trường phân công, giao trách nhiệm cho giáo viên phụ trách từng việc như: xây dựng xưởng mộc, xưởng rèn, vườn Sinh vật (với 350 loại cây xếp thành 15 khu khác nhau), vườn Địa lý, phòng đồ dùng dạy học, trại vớt trứng ươm cá bột, nuôi cá giống, dạy kỹ thuật nông nghiệp, công nghiệp, điện dân dụng. Giáo viên phải “tầm sư học đạo” để nắm được kiến thức, kỹ năng dạy cho học sinh; đồng thời, huy động các lực lượng địa phương tham gia; hướng dẫn viên là những lão nông giầu kinh nghiệm; chủ nhiệm, kĩ thật viên hợp tác xã. Quán triệt nguyên lý phương châm: “giáo dục phục vụ chính trị, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”, thầy trò Bắc Lý tự đặt ra các nguyên tắc xây dựng nội dung chương trình lao động sản xuất trong trường học.

Thực hiện chỉ tiêu sản xuất của địa phương (mỗi giáo viên, học sinh phải tự làm ra 10kg thóc), thày trò Bắc Lý đã khai

Page 350: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

420

hoang, cấy lúa, trồng khoai. Thí điểm thành công đưa giống lúa “Lương Đình Của” vào cấy đại trà ở vùng chiêm trũng; thí điểm lúa gieo thẳng, đưa các giống mới làm xen vụ Đông; rèn luyện cho học sinh kỹ thuật sử dụng phân bón. Những kết quả trong lao động sản xuất đã hỗ trợ tích cực cho việc làm ra phương tiện dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Các “Đội học tốt, làm tốt” của trường đã trở thành những hướng dẫn viên kĩ thuật cho gia đình trong sản xuất.

Những hoạt động ngoại khóa về thể dục thể thao, văn nghệ cũng được quan tâm. Đồng thời nhà trường sớm xác định nội dung môi trường giáo dục cần quan tâm xây dựng gồm: Môi trường gia đình (Tổ chức hội cha mẹ học sinh); môi trường xã hội; môi trường thiên nhiên; môi trường trong nhà trường: Chăm sóc cảnh quan, vườn cây, ao cá, đầm sen thông qua phong trào “Mỗi người một việc tốt”; Đội Thiếu niên “học tốt làm tốt”;

Kiểu dạy, kiểu học của Trường Bắc Lý bước đầu được hình thành, đó là:“Học đi đôi với hành, lý luận đi đôi với thực tiễn, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội”. Trải qua những năm phấn đấu kiên trì gian khổ, với khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh thân yêu”, nhà trường đã đạt nhiều thành tích trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh; phát huy tác dụng của trường như một trung tâm văn hóa của địa phương.

Bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), toàn miền Bắc đang hưởng ứng các phong trào thi đua sôi nổi: “Sóng Duyên Hải”, “Gió Đại Phong”, “Lửa Thành Công”, “Cờ Ba nhất”. Tháng 7 năm 1961, trong bài đăng trên Báo Nhân dân, Hồ Chủ tịch đã biểu dương “Thành tích vẻ vang” của ngành Giáo dục và gợi ý các trường cũng nên phát động một phong trào thi đua “Hai tốt”, tức là “Học thật tốt, Dạy thật tốt”. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, ngày 18/10/1961, Bộ Giáo dục và Công đoàn Giáo dục Việt Nam đã tổ chức Hội nghị tổng kết kinh nghiệm giáo dục tại thị xã Phủ Lý - Hà Nam. Trong hội nghị này, Bắc Lý được tuyên

Page 351: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

421

dương là Đơn vị lá cờ đầu của ngành giáo dục. Bộ Giáo dục phát động phong trào thi đua “Học tập trường Bắc Lý, thi đua dạy thật tốt, học thật tốt, xây dựng nhà trường Xã hội chủ nghĩa”. Hưởng ứng phong trào thi đua “Hai tốt”, các trường trên toàn miền Bắc đã thực hiện khẩu hiệu “Thi đua dạy thật tốt, học thật tốt, tiến kịp và tiến vượt Bắc Lý”. Từ đây “Trống Bắc Lý” hòa nhập vào phong trào thi đua của cả nước. Hội nghị (ngày 18/10/1961) phân tích quá trình phấn đấu đi lên của Bắc Lý và rút ra 4 bài học lớn:

Một là: Trường học phải có Đảng tính cao, luôn có ý thức đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong việc tiến hành xây dựng nhà trường, đảm bảo thực hiện tốt đường lối giáo dục của Đảng.

Hai là: Giáo viên phải đoàn kết nhất trí thành một khối vững chắc, có ý thức giác ngộ chính trị cao, yêu nghề, yêu trẻ.

Ba là: Trường học phải luôn có ý thức dựa vào quần chúng, xây dựng nhà trường đi đúng đường lối quần chúng của Đảng, biết kết hợp trí thức với công nông, nhà trường với cơ sở sản xuất.

Bốn là: Trường học phải luôn nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, dám nghĩ, dám làm, phấn đấu khắc phục mọi khó khăn, phát huy sáng tạo để xây dựng nhà trường.

Tại Hội nghị tổng kết thi đua "Hai tốt" của ngành Giáo dục phổ thông và Sư phạm (tháng 8 năm 1963), theo đánh giá của Bộ Giáo dục thì chưa bao giờ có một phong trào thi đua sôi nổi rộng khắp đến tất cả các cấp, các trường Phổ thông, Sư phạm từ Việt Bắc, Tây Bắc đến Vĩ tuyến 17 như vậy. Trong phong trào thi đua “Hai tốt” đã làm xuất hiện nhiều trường tiên tiến, nhiều kinh nghiệm giáo dục tốt ở các tỉnh, ở các miền; thành tích của các điển hình mới đã làm phong phú thêm những bài học của Bắc Lý. Tại Hội nghị này, Hồ Chủ tịch đã chỉ thị: “Cần phát triển kiểu dạy, kiểu học của trường Bắc Lý và các trường thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa”. Từ đó Bắc Lý trở thành “Quê hương của phong trào thi đua Hai tốt”.

Tại hội nghị Chính trị đặc biệt ngày 27/3/1964, Bác Hồ đã gặp gỡ, nói chuyện với giáo viên Bắc Lý (Tham gia đoàn đại

Page 352: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

422

biểu tỉnh Hà Nam dự Hội nghị theo lệnh triệu tập của Hồ Chủ Tịch). Bác căn dặn: “Các cháu ở nông thôn sớm biết lao động; 7,8 tuổi đã biết chăn trâu, cắt cỏ. Nếu khéo tổ chức thì các cháu sẽ làm được nhiều việc có ích và kết quả giáo dục cũng sẽ tốt; các cháu phải làm thế nào để Hà Nam ta và các nơi khác có nhiều trường tốt như trường Bắc Lý nhé...”.

Thành công của Bắc Lý trong giai đoạn này là đã hiện thực hóa đường lối, phương châm giáo dục của Đảng, nó xác nhận rằng: đường lối, phương châm giáo dục của Đảng là đúng và hoàn toàn có thể thực hiện được.

Năm 1964, Đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại Miền Bắc vô cùng ác liệt. Trường lớp phải sơ tán tránh bom đạn giặc. Sự hợp nhất hai tỉnh Nam Định và Hà Nam kéo theo sự thay đổi bộ máy lãnh đạo các cấp, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh có sự điều chỉnh. Bắc Lý như chững lại. Làm gì để thực hiện mục tiêu đào tạo trong tình hình mới? Bằng nội lực của ý chí vươn lên, bằng bài học kinh nghiệm về công tác tư tưởng, cùng với sự vào cuộc của báo chí, dư luần quần chúng nhân dân; sự thống nhất quyết tâm chỉ đạo của bộ máy lãnh đạo chính quyền mới (Sau khi hợp nhất); Bắc Lý đã nhanh chóng nhận rõ phương hướng nhiệm vụ mới, có những điều chỉnh về mục tiêu giáo dục: “Giáo dục học sinh Bắc Lý trở thành những người chiến sĩ giỏi, người cán bộ tốt, người lao động tốt xây dựng quê hương”. Nhà trường chuyển hướng giáo dục theo hướng: Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước. Gắn chặt hơn nữa quá trình giáo dục với đời sống, sản xuất và chiến đấu để đảm bảo chất lượng đào tạo và đồng thời phục vụ kháng chiến tích cực hơn. Chuẩn bị mọi mặt cho học sinh sau khi ra trường tham gia chiến đấu, lao động và tiếp tục học lên.

Trong điều kiện sơ tán, thầy trò vừa dạy - học, vừa phải sẵn sàng trú ẩn, hoặc tham gia chiến đấu, cùng dân quân du kích sơ cứu, tải thương, dập hỏa hoạn sau khi máy bay ném bom;

Page 353: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

423

trong điều kiện khó khăn gian khổ, giáo viên Bắc Lý được nhân dân giúp đỡ (Giáo viên ở nhà dân, được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc) nên đã vượt qua khó khăn và sáng tạo vươn lên; cải tiến nội dung và phương pháp theo hướng “Tinh giản, cơ bản, vững chắc”. Vấn đề mà hiện tại Bộ GD&ĐT hiện nay vẫn đang chỉ đạo thực hiện.

Cuối năm 1969, thầy trò Bắc Lý trở về trường cũ. Nhiệm vụ khôi phục kinh tế và đưa sản xuất tiến theo hướng sản xuất lớn XHCN ở miền Bắc đặt ra bức thiết, trong khi đó học sinh lại nhỏ hơn trước, chất lượng văn hóa khoa học có chiều hướng giảm sút. Tập trung sức bảo đảm chất lượng văn hóa khoa học đơn thuần hay kiên trì chất lượng giáo dục toàn diện, một số giáo viên có xu hướng thu hoạt động của mình vào lớp học. Nhưng từ tổng kết những bài học kinh nghiệm 10 năm (1961-1971), Bắc Lý lại vượt qua những băn khoăn dao động, tiếp tục thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện; đào tạo học sinh theo ba hướng đi, mà quan trọng là chuẩn bị cho học sinh tâm lý và năng lực đi vào lao động theo hướng sản xuất lớn XHCN.

Sau năm 1975, đặc biệt là cuối thập kỉ 70, sản xuất lớn ở nông thôn chậm phát triển. Việc hợp nhất trường cấp 2 có 9 lớp thành trường PTCS trên 30 lớp. So với yêu cầu mới, chất lượng giáo dục còn thấp, qui mô giáo viên tăng quá nhanh thì đồng thời phong cách người thầy giáo Bắc Lý không ổn định như trước. Cán bộ quản lý không chuyển kịp trước yêu cầu quản lý nhà trường trong thời kỳ mới, Bắc Lý chững lại. Một lần nữa, với tinh thần ý chí tự vươn lên; với sự nhiệt huyết, lòng yêu nghề và với truyền thống hiếu học của người dân địa phương; Bắc Lý lại trăn trở, lại tự mình đấu tranh, phê phán những lệch lạc về tư tưởng, khẳng định những nhận thức mới; đồng thời, với sự kích thích của Báo chí, của dư luận quần chúng nhân dân, sự hỗ trợ của cấp trên: Cuộc họp đặc biệt “Vì Bắc Lý” ngày 4/12/1979 giữa lãnh đạo cấp trên và lãnh đạo địa phương Bắc Lý đã giúp Bắc Lý vươn lên, Bắc Lý đã đón đầu được các chủ

Page 354: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

424

trương và phương hướng mới về cải cách giáo dục, điều chỉnh và cụ thể hóa mục tiêu, đưa ra những mẫu người cần đào tạo cho mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế xã hội trong hòa bình. Đó là: “Những người học tập tốt, rèn luyện tốt, dũng cảm vượt qua đói nghèo, có ước mơ trở thành những cán bộ khoa học kĩ thuật, những người quản lí giỏi, lao động giỏi làm giàu cho quê hương, đất nước”.

Những năm 1981-1986 là giai đoạn khó khăn, sự mất cân đối nền kinh tế xã hội dẫn đến đời sống cán bộ giáo viên, nhân dân, học sinh gặp nhiều thiếu thốn; biểu hiện mất cân đối trong ngành giáo dục thể hiện rõ: Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học có chiều hướng tăng, chất lượng giảng dạy có chiều hướng giảm sút, một số đông học sinh tốt nghiệp không có điều kiện tiếp tục học lên, tâm lý phụ huynh học sinh lo lắng. Trước tình hình đó Bắc Lý đã có những đánh giá, phân tích mức độ tác động và biểu hiện mất cân đối của Bắc Lý và đưa ra nhận định: “Do học sinh đã được thường xuyên rèn luyện, vừa học tập, vừa tham gia lao động sản xuất, đồng thời các em đã được chuẩn bị về kiến thức, kỹ năng lao động và tâm lý sẵn sàng đi vào cuộc sống, lao động sản xuất, nên mặc dù có bị chi phối về thời gian (Học sinh phải dành nhiều thời gian tham gia lao động sản xuất), nhưng không ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và kết quả học tập của các em”. Nhà trường quan tâm tuyên truyền nhằm ổn định tư tưởng cho phụ huynh về định hướng học tập của con em. Bắc Lý trở thành trọng điểm tiến hành cải cách giáo dục, xoay chuyển nhà trường, gắn quá trình giáo dục với mục tiêu kinh tế xã hội và quốc phòng. Về giáo dục hướng nghiệp và sử dụng hợp lý học sinh ra trường, Bắc Lý đã bước đầu làm rõ nét thêm tính chất hướng nghiệp, chuẩn bị nghề của nhà trường vùng nông thôn. Những quyết tâm cố gắng của nhà trường trong giai đoạn này, đồng thời cũng là sự ghi nhận trong cả quá trình phấn đấu từ khi thành lập trường là: năm 1985, trường được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.

Page 355: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

425

Sau nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, khi có chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, thực hiện khoán 10 trong nông nghiệp, trong từng gia đình cần những người có văn hóa, biết vận dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất. Mặt khác, vấn đề giáo dục dân số, môi trường, pháp luật, chống tệ nạn xã hội đang đặt ra cấp bách, hàng loạt các di tích lịch sử, các công trình kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan thiên nhiên bị tàn phá. Về đội ngũ: Chủ trương địa phương hóa giáo viên bên cạnh thuận lợi cũng tạo cho Bắc Lý khó khăn là mất đi nguồn bổ sung giáo viên có chất lượng. Trước các yêu cầu và bối cảnh đó, Bắc Lý đã phát huy, kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm trong giai đoạn 1958-1986: kiên trì giữ quan điểm giáo dục toàn diện, thực hiện sáng tạo Chỉ thị của ngành, cụ thể hóa mục tiêu về giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và chuẩn bị nghề, phân luồng học sinh cho phù hợp với hoàn cảnh điều kiện của trường PTCS Bắc Lý - trường ở vùng nông thôn đồng bằng Sông Hồng. Mục tiêu của trường là: vừa tạo nguồn học sinh cho trường THPT (đào tạo cho học sinh học lên để một số có thể trở thành cán bộ KHKT). Vừa tạo cơ sở nhiều mặt cho học sinh tiếp tục học nghề, hoặc trở về xây dựng quê hương, đi làm nghĩa vụ quân sự (Phù hợp yêu cầu nâng cao dân trí, tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài). Nét nổi bật trong việc phát triển kiểu dạy, kiểu học của Bắc Lý trong giai đoạn này là: điều chỉnh, bổ sung nội dung lồng ghép vào các môn học và các chủ đề hoạt động như: giáo dục dân số, môi trường, pháp luật, phòng chống tệ nạn xã hội... Tổ chức các hình thức dạy học đa dạng, lựa chọn các tiết học, các hoạt động phù hợp mà “kéo” học sinh ra khỏi không gian lớp học ( Phòng học bộ môn, vườn sinh học, vẽ cảnh quan trong khuôn viên trường, đầm hồ, các cơ sở sản xuất, các di tích lịch sử văn hóa…). Cập nhật, bổ sung các nội dung liên hệ vận dụng tiến bộ KHKT vào thực tiễn đời sống, sản xuất như: thí nghiệm cấy giống lúa mới, trồng nấm, mộc nhĩ, kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, các ngành nghề mới như Hàn, Điện dân dụng; tổ chức cho học sinh sưu tầm

Page 356: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

426

ca dao, tục ngữ, chuyện cổ tích. Tổ chức các hoạt động ngoài giờ nhằm hình thành trong các em tình yêu thiên nhiên, ý thức trân trọng các giá trị, đặc biệt là các di tích lịch sử (chăm sóc mẹ Việt Nam anh hùng; tham gia lễ hội, tìm hiểu giá trị các di tích lịch sử địa phương, điều tra các quần thể thực vật sông Hồng và vùng đồng chiêm trũng, sưu tầm các mẫu vật để bổ sung các phương tiện dạy - học)

- Huy động cả hệ thống chính trị; các tổ chức, lực lượng xã hội tham gia giáo dục: nhà trường đã tích cực tham mưu để xã Bắc Lý tổ chức Đại hội giáo dục lần thứ nhất vào năm 1990 (Đến nay đã qua 7 kỳ đại hội: 1990, 1992, 1995, 1999, 2004, 2009, 2012). Cấp xã có Hội đồng giáo dục, cấp thôn xóm có Ban giáo dục thôn (gồm bí thư chi bộ hoặc trưởng thôn, bí thư chi đoàn, chi hội trưởng Phụ nữ và chi hội trưởng phụ hunh xóm). Bắc Lý kiên trì duy trì quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa Đảng, chính quyền, các Hội, Đoàn thể, các cơ sở sản xuất trong tổ chức “Hội đồng giáo dục” để giải quyết các nhiệm vụ chiến lược trung hạn và ngắn hạn của trường. Nét đặc thù của hội phụ huynh học sinh trường Bắc Lý giai đoạn này là: về mặt tổ chức, có hai tuyến là Chi hội phụ huynh theo đơn vị lớp và Chi hội phụ huynh theo đơn vị thôn xóm. Khi họp phụ huynh thường triển khai 3 nội dung, họp chung toàn trường( nếu cần), họp theo lớp chủ nhiệm (do giáo viên chủ nhiệm lớp và chi hội trưởng phụ huynh lớp chủ trì), sau đó tách về vị trí họp phụ huynh theo thôn (xóm) do giáo viên phụ trách thôn và chi hội trưởng phụ huynh thôn xóm chủ trì. Ngoài ra, định kì giáo viên xuống họp phụ huynh dưới thôn xóm. Khi giáo viên xuống xóm buổi tối nắm bắt tình hình hoặc kiểm tra học sinh học tập sẽ có một số thành viên Ban giáo dục thôn đi cùng.

Năm 1997, Hà Nam tái lập tỉnh, cơ chế quản lý thay đổi, Trường Bắc Lý không còn dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Sở Giáo dục, mà trực thuộc sự quản lý của UBND huyện. Tiếp đó, cuối thập kỷ 90, đầu những năm 2000, trước sức ép của việc

Page 357: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

427

coi trọng thi cử, coi trọng tỷ lệ đỗ vào THPT. (hầu hết cha mẹ học sinh quan tâm nhiều đến việc con em có đỗ vào THPT hay không). Đồng thời Bắc Lý là một bộ phận khăng khít của một hệ thống giáo dục, giáo viên chỉ được chủ động trong những giàng buộc chung cho cả hệ thống; giáo viên phải dạy cho học sinh một chương trình với những nội dung, trình tự đã qui định chặt chẽ, chi li từng năm, từng tuần, từng giờ theo những phương pháp cơ bản áp đặt để học sinh thi đỗ với tỷ lệ cao nhất trong một hệ thống thi cử, khen thưởng đánh giá chậm thay đổi. Bắc Lý đã sớm nhận ra sự bất cập, kịp thời đưa ra những phân tích, nhận định (tranh luận để thống nhất hướng đi), vì vậy đã duy trì được chất lượng trí dục ổn định, đồng thời vẫn đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện.

Những cố gắng của nhà trường trong giai đoạn này được ghi nhận bằng phần thưởng cao quý: Năm 2000, trường được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới. Năm 2002 Bắc Lý được công nhận đạt chuẩn quốc gia, các điều kiện đảm bảo chất lượng của nhà trường ngày càng hoàn thiện. Về công tác xã hội hóa giáo dục: Bắc Lý đã có kinh nghiệm nhiều năm xây dựng Hội đồng giáo dục, trong đó đã liên kết được các lực lượng Đảng, chính quyền, Đoàn thể, nhân dân địa phương với nhà trường để giải quyết các công việc xây dựng cơ sở vật chất, môi trường giáo dục, huy động trẻ đến trường, giáo dục trẻ ở nhà và ngoài xã hội. Bắc Lý đã được coi là nhà trường của cộng đồng, là một trong những điểm sáng trong phong trào xã hội hóa giáo dục.

Trong giai đoạn 2002 đến nay (2015), trước sự phát triển nhanh chóng của kinh tế xã hội, công nghệ thông tin và truyền thông, trước yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học. Căn cứ điều kiện, hoàn cảnh nhà trường (về đội ngũ ở giai đoạn chuyển giao thế hệ, biến động nhiều do nghỉ hưu và chuyển công tác). Nhà trường đã thực hiện một số giải pháp sau:

Page 358: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

428

Điều chỉnh, bổ sung nội dung, cách thức phối hợp trong việc xây dựng môi trường và giáo dục đạo đức học sinh. Ví dụ: Về quan hệ thầy và trò, nhà trường đặc biệt chú ý duy trì sự tôn trọng và tin tưởng của trò với thầy (thông qua việc giữ gìn phẩm chất đạo đức nhà giáo; tránh thương mại hóa giáo dục, đặc biệt là trong dạy thêm học thêm, trong đánh giá học sinh), tiếp nữa là duy trì sự quý mến của trò với thầy thông qua các hoạt động giảng dạy, hoạt động ngoài giờ, sự quan tâm chia sẻ, sự bao dung của thầy với trò. Về môi trường gia đình, nhà trường đặc biệt quan tâm các gia đình có bố hoặc mẹ, hoặc cả bố mẹ đi làm ăn xa, đi nước ngoài, học sinh mồ côi, các cháu phải sống với ông bà, anh chị, cô gì chú bác, gia đình kinh doanh quán Internet, dịch vụ văn hóa, cà phê, giải khát. Điều chỉnh việc thầy cô giáo đến thăm gia đình học sinh: không dàn trải mà tập trung vào các học sinh có hoàn cảnh đặc biệt nêu trên.

Năm 2006, trước những vấn đề đặt ra cho ngành giáo dục về kiểm tra, thi cử, tuyển sinh, giảng dạy và học tập, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 33/2006 về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục. Trường Bắc Lý đã có những phân tích và khẳng định hướng đi của nhà trường trong thời gian qua là đúng đắn: việc kiểm tra, thi cử, tuyển sinh, giảng dạy và học tập luôn đảm bảo thực chất, được nhân dân tin tưởng, đồng thuận, unhr hộ. Năm 2008, khi nghiên cứu những nội dung của trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trường Bắc Lý nhận thấy, về cơ bản những nội dung này đã được trường Bắc Lý triển khai trong gần 60 năm qua, chỉ có điều là chưa xắp xếp các nội dung thành hệ thống và có một số nội dung, hoạt động cụ thể được diễn đạt bằng các thuật ngữ khác nhau. Năm 2009, trường vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất.

Ngày 8/11/2013, Bộ Giáo dục - Đào tạo phối hợp với UBND tỉnh Hà Nam tổ chức Hội thảo“ Làm theo lời Bác, phát huy truyền thống Bắc Lý, thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông”; tại Hội thảo,

Page 359: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

429

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển đã nhận định: Bắc Lý đã đặt mình vào vị trí trung tâm khoa học kỹ thuật, văn hóa của địa phương, là nơi tỏa sáng giá trị văn hóa, khoa học công nghệ cho địa phương, là nơi thu hút các lực lượng xã hội cùng làm giáo dục; Bắc Lý huy động xã hội hóa nhưng không đặt ra yêu cầu quá cao so với điều kiện địa phương, không vượt quá sức dân, quá khả năng đáp ứng của phụ huynh học sinh, vì vậy không có: thu góp bức xúc, dạy thêm học thêm bức xúc, bệnh thành tích bức xúc , nhà trường đã đi đúng vào bản chất của vấn đề là xã hội hoá quá trình giáo dục, thực sự đi vào đào tạo con người chứ không đơn thuần chỉ ở mặt xã hội hóa các điều kiện làm giáo dục... Những ý kiến của các nhà khoa học và kết luận hội thảo đã khẳng định những bài học kinh nghiệm của Bắc Lý vẫn còn nguyên giá trị; từ đó đã củng cố niềm tin cho định hướng phát triển nhà trường theo tinh thần nghị quyết Trung ương 8 khóa XI.

Tháng 11/2013, Trường vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất lần thứ hai.

Nhìn lại chặng đường xây dựng, trưởng thành và những thành tựu vẻ vang đã đạt được, Trường Cấp II Bắc Lý đã rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, thành tích giáo dục bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp. Trong suốt chặng đường xây dựng phát triển sự nghiệp giáo dục xã Bắc Lý, các thế hệ lãnh đạo nhận thấy: việc huy động lực lượng cộng đồng tham gia các hoạt động giáo dục, là hướng đi đúng đắn, phù hợp và đem lại hiệu quả nhất. Các nhà trường xã Bắc Lý là một bộ phận của cộng đồng nông thôn Bắc Lý, gắn bó máu thịt với đời sống thôn xã, cần gắn bó chặt chẽ với cộng đồng trong quá trình thực hiện chức năng đào tạo con người.

Hai là, thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia sự nghiệp giáo dục. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy xã, chỉ đạo của UBND xã, sự vận động tập hợp và đôn đốc của Mặt trận Tổ quốc, các nhà trường là trung tâm, đã tập hợp, huy động được các tổ chức đoàn thể, lực lượng xã hộ cùng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Cụ thể:

Page 360: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

430

- Đoàn thanh niên: phối hợp với nhà trường tổ chức các hoạt động Đoàn, Đội, hoạt động giáo dục ở thôn xóm như: sinh hoạt Đội dưới lũy tre xanh; vệ sinh đường làng ngõ xóm; chăm sóc các di tích lịch sử, Mẹ Việt Nam Anh hùng; hoạt động trại thu và đêm trung thu, lao động công ích, hoạt động lao động sản xuất, tìm hiểu các cơ sở sản xuất, xây dựng môi trường giáo dục thôn xóm khu vực ở; tổ chức các ngày lễ, kỷ niệm, bồi dưỡng phát triển Đoàn viên, hướng dẫn hoạt động Đội trong trường và ở địa phương… bằng nhiều hình thức vui chơi văn nghệ, thể dục thể thao. Ở Bắc Lý có sự thống nhất giữa chi đội trường lớp và chi đội thôn xóm tốt.

- Hội phụ nữ: Tổ chức các hoạt động hỗ trợ giáo dục thông qua các phong trào như: xoá đói giảm nghèo, chống bỏ học, chống suy sinh dưỡng ở trẻ em… cuộc vận động “xây dựng gia đình văn hóa mới”, phát huy vai trò người mẹ trong việc đảm bảo sự an toàn cơ cấu và bầu không khí gia đình, tạo nên môi trường giáo dục thuận lợi và trực tiếp chăm lo nuôi dưỡng con cái, thực hiện kế hoạch hoá gia đình.

- Mặt trận tổ quốc: bằng uy tín của mình, tập hợp và đôn đốc các tổ chức tham gia vào hoạt động giáo dục ở nhà trường và giữ kỷ cương, nề nếp, đạo lý trong từng thôn xóm, tạo nên môi trường giáo dục tốt cho trẻ.

- Hội khuyến học: Thông qua hoạt động của các chi hội khuyến học thôn xóm, dòng họ động viên khen thưởng kịp thời những học sinh có thành tích thuộc địa bàn, hoặc con cháu dòng họ, đồng thời giúp đỡ các cháu có hoàn cảnh khó khăn.

- Lực lượng cán bộ bộ hưu trí, hội cựu chiến binh: Giáo dục con cháu ở nhà và thôn xóm; phối hợp các nhà trương ôn lại lịch sử truyền thống quân đội.

- Lực lượng các ban Văn hóa, Công an, Lao động thương binh xã hội, dưới sựi chỉ đạo của chính quyền xã phối hợp với các nhà trường làm tốt công tác tuyên truyền về chủ trương của ngành giáo dục, kế hoạch các nhà trường; luật bảo hiểm y tế học

Page 361: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

431

sinh; quản lý hoạt động và nhắc nhở các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá, quán Internet trên địa bàn xã thực hiện đúng quy đinh.

- Trạm y tế xã và trước đây có bệnh viên đa khoa huyện nằm trên địa bàn phối hợp chặt chẽ với các nhà trường trong việc quản lý hồ sơ sức khoẻ, phân loại và khám chữa bệnh cho thày trò, hướng dẫn sơ cứu thương, phòng dịch bệnh, tham gia giáo dục dân số và kế hoạch hoá gia đình.

- Lực lượng cha mẹ học sinh: là chỗ dựa vững chắc, đóng góp thiết thực cho hoạt động giáo dục của các nhà trường. Vì lẽ đó xã đã chỉ đạo và phối hợp với các nhà trường, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường với cha mẹ học sinh, trở thành mối quan hệ truyền thống, tình cảm, gắn bó.

- Vận động các đơn vị sản xuất phối hợp xây dựng môi trường và tổ chức các hoạt động giáo dục lao động, hướng nghiệp và dạy nghề cho học sinh: các hợp tác xã nông nghiệp, các hộ sản xuất, chủ trang trại, công ty may… tham gia việc giáo dục lao động kỹ thuật, hướng nghiệp dạy nghề. Trước đây các hợp tác xã tổ chức cho học sinh tham gia một số khâu trong sản xuất hợp tác xã, giờ đây hợp tác xã tổ chức cho các cháu nắm bắt một số khâu dịch vụ kĩ thuật và diệt trừ sâu bệnh, phổ biến và áp dụng kĩ thuật mới về giống cây ,con, công tác thú y, phòng dịch, tham gia hướng nghiệp, giới thiệu về cơ sở sản xuất. Gia đình học sinh Bắc Lý trong điều kiện và trình độ sản xuất hiện nay đã giúp học sinh trưởng thành về lao động, sản xuất, cho học sinh tham gia sản xuất cùng người lớn trên đồng ruộng, vườn, ao của gia đình, áp dụng kĩ thuật mới vào sản xuất.

Việc phối hợp các lực lượng, lồng ghép các hoạt động giáo dục căn cứ vào các nội dung cụ thể để đem lại hiệu quả cao.

Ba là, chăm lo xây dựng môi trường giáo dục: Xã quan tâm chỉ đạo xây dựng 3 môi trường có tác động mạnh mẽ tới việc giáo dục học sinh đó là: Môi trường nhà trường, môi trường gia đình và môi trường khu vực ở của học sinh. Thường xuyên quán triệt các nhà trường giữ gìn các mối quan hệ thầy trò, thầy với

Page 362: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

432

thầy, bạn bè học sinh. Mặt khác xã tạo điều kiện để các nhà trường xây dựng trường lớp đảm bảo an toàn, cảnh quan “Xanh, sạch, đẹp”; dựa vào thế mạnh của các gia đình, truyền thống địa phương để kết hợp các lực lượng xây dựng các phong trào, các cuộc vận động trong khu dân cư, bên cạnh đó, dựa vào mặt tích cực của các mối quan hệ gia đình, làng xóm, dòng tộc, dư luận trong khu vực ở, để hướng dư luận ủng hộ cái tốt, cái truyền thống; phê phán cái xấu, cái lạ lẫm không phù hợp; nhằm tạo môi trường tốt để giáo dục trẻ trong gia đình, thôn xóm.

Bốn là, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục: Các hoạt động giáo dục đòi hỏi việc đầu tư về cơ sở vật chất và chăm lo đội ngũ giáo viên. Trước đây, bằng lòng quyết tâm và chủ yếu bằng sức người; Đảng bộ, nhân, các thầy cô giáo của các nhà trường đã biến không thành có, biến thiếu thành đủ; kêu gọi, huy động cơ sở vật chất tranh tre nứa lá để xây dựng trường lớp, bàn ghế, dụng cụ dạy-học. Tinh thần đó vẫn được tiếp nối đến ngày nay với phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Ở Bắc Lý, việc đa dạng hóa nguồn đầu tư đã được thực hiện đúng mức và hợp lí. Tuy là một xã nghèo, nhưng hằng năm, đầu tư cho giáo dục chiếm trên 30% ngân sách xã. Nhân dân đóng góp cho con em với thái độ vui vẻ, tin tưởng, người dân sẵn sàng hoãn mua sắm vật dụng gia đình để đầu tư cho con em học hành.

Năm là, tạo điều kiện để nhà trường có “tiếng nói” trong các Hội nghị của xã: Trong các đại hội, hội nghị của Đảng, chính quyền các tổ chức đoàn thể, các kì họp HĐND, các buổi tiếp xúc cử tri, xã thường triệu tập đại diện trường THCS Bắc Lý tham dự, phát biểu ý kiến và nêu đề xuất. Ví dụ: tuyên truyền về những quan điểm, chủ trương, mục tiêu, kế hoạch của nhà trường và những vấn đề nhà trường đang cần sự hỗ trợ, phối hợp của các tổ chức đoàn thể, các lực lượng xã hội.

Sáu là, giúp nhà trường xây dựng nôi dung “phần mền” giáo dục:

Page 363: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

433

- Phần mềm Giáo dục địa phương các bộ môn địa lý, lịch sử, kỹ thuật(Công nghệ), giáo dục công dân để học sinh có được những hiểu biết cơ bản về địa phương. Ví dụ: về điều kiện tự nhiên, môi trường, cơ cấu xã hội, dân cư; lịch sử, truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng, phong tục tập quán; cơ cấu sản xuất, lao động - ngành nghề, năng suất, ứng dụng khoa học kỹ thuật, phương thức quản lý và cập nhật bổ sung thành tựu đổi mới phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nông thôn mới… của xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân.

- Cung cấp các văn bản liên quan đến định hướng phát triển và mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tể xã hội, an ninh, quốc phòng của xã.

Bảy là, chỉ đạo sự phối hợp giữa nhà trường, Hội phụ huynh, Ban giáo dục thôn xóm và gia đình: Bắc Lý cũng như ở một số địa phương nông thôn khác, việc học tập văn hoá của học sinh cấp 2 dễ bị sao nhãng, bị lôi cuốn vào công việc sản xuất gia đình, vào làm giàu, hoặc sa vào các trò chơi điện tử, các tệ nạn xã hội, thậm trí có tư tưởng bỏ học, cho nên xã Bắc Lý càng phải đề cao yêu cầu học tập văn hóa ở gia đình, rất trú trọng tổ chức, quản lý học sinh; đồng thời có biện pháp ngăn chặn, hạn chế học sinh bỏ học. Để thực hiện tốt nội dung này, xã chỉ đạo nhà trường phối hợp chặt chẽ với 2 tổ chức là hội phụ huynh, Ban giáo dục thôn xóm và gia đình học sinh.

Trước đây hội phụ huynh học sinh cấp 2 hoạt động theo hai tuyến là chi hội lớp và chi hội thôn (xóm). Một trong những hoạt động phối hợp là tổ chức học tập văn hóa ở gia đình: Trường + Hội cha mẹ học sinh + các gia đình, quy định: Mỗi học sinh phải có nơi học tập ( góc học tập) yên tĩnh, có thời gian biểu và có đầy đủ các điều kiện học tập, giờ học được thống nhất trong thôn xóm cho từng khối lớp, nhà trường, gia đình, hội cha mẹ học sinh cùng đôn đốc cho con em thực hiện. Trước đây các gia đình phát động thực hiện “Ba không” khi con em đang học là: “Không làm ồn, không sai vặt, không lấy đèn”. Hiện nay đèn

Page 364: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

434

điện đã thay thế đèn dầu, mỗi gia đình đều có Ti vi, các gia đình thực hiện: “Không làm ồn, không sai vặt, không mở ti vi”. Trước đây, tiếng kẻng trong thôn báo giờ vào học, giờ kết thúc thời gian học buổi tối, hiện nay được thay thế bởi ý thức tự giác thực hiện thời gian biểu cho phù hợp yêu cầu từng khối lớp, từng nhóm đối tượng học sinh. Việc học ở nhà đã hình thành ý thức tự giác, độc lập suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo; đây là những yế tố cần thiết đáp ứng yêu cầu học tập suốt đời của các cháu.

Hoạt động của ban giáo dục thôn theo đơn vị thôn xóm, là hoạt động mang tính đặc thù, đặc biệt là với trường THCS Bắc Lý. Thành phần Ban giáo dục thôn gồm đại diện: Chi ủy hoặc trưởng thôn, BCH Chi đoàn, Chi hội Phụ nữ, Chi hội khuyến học, Chi hội trưởng phụ huynh; hoạt động chủ yếu là hỗ trợ giáo dục, phát hiện và phối hợp giải quyết những vấn đề nảy sinh như: Học sinh có dấu hiệu bỏ học, hòa giải những khúc mắc, mâu thuẫn của học sinh, của phụ huynh; kiểm tra đôn đốc học sinh học tập, nhắc nhở thực hiện quy định nề nếp…Ví dụ: Khi giáo viên xuống kiểm tra tình hình học tập của học sinh vào buổi tối, sẽ có thành viên Ban giáo dục thôn cùng đi. Khi học sinh có dấu hiệu bỏ học: Hội phụ nữ tìm hiểu, động viên, nếu là lý do tâm lý thì phối hợp giải tỏa, nếu là lý do kinh tế khó khăn thì huy động hội khuyến học hỗ trợ sách vở, quần áo, tài chính. Cuối mỗi học kì các nhà trường có trách nhiệm gửi danh sách học sinh đạt thành tích cao về các chi hội khuyến học để làm căn cứ khen thưởng…

Tám là, hình thành văn hóa địa phương trong hoạt động giáo dục: Thể hiện ở sự lưu truyền, tiếp nối qua các thế hệ về các vấn đề như, sự thống nhất về quan điểm chỉ đạo của bộ máy lãnh đạo, sự thống nhất về mục tiêu, nội dung, phương thức, phương pháp, giáo dục; sự đồng thuận tham gia vào cuộc của tất cả các lực lượng, sự phối hợp đa dạng nhưng không chồng chéo, việc định hướng dư luận tích cực cho nhà trường, sự quan tâm tham gia giáo dục của gia đình, dòng họ, làng xóm…đươc duy trì tiếp nối trở thành nét văn hóa địa phương Bắc Lý.

Page 365: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

435

Mỗi nhân tố, mỗi lực lượng xã hội ở Bắc Lý có điểm mạnh, điểm hạn chế, nhưng tất cả đã được thu hút, tập hợp tổ chức thành những lực lượng giáo dục có hiệu quả.

Chín là, giáo dục Bắc Lý với sự phát triển kinh tế, xã hội địa phương: Bắc Lý đã giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người công dân tốt, lao động tốt, chiến sĩ tốt, cán bộ tốt. Ở trường, các em được chuẩn bị chu đáo về phẩm chất đạo đức, về năng lực trí tuệ và học vấn phổ thông, về khả năng lao động, về sức khỏe…Ra trường các em sẵn sàng đi bất cứ đâu, bất cứ việc gì Đảng và cách mạng phân công. Nhiều học sinh học xong, yên tâm ở lại quê hương, trở thành người lao động có đạo đức, có văn hóa kỹ thuật, làm nòng cốt cho phong trào sản xuất, xây dựng hợp tác xã, xây dựng đời sống văn hóa mới ở nông thôn, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và củng cố Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng, góp phần thúc đẩy các cuộc cách mạng ở địa phương. Các em thực sự là người lao động tốt, lực lượng đáng tin cậy của Đảng trong việc xây dựng nông thôn mới hiện nay. Gần đây, lực lượng lao động trẻ là học sinh Bắc Lý tại địa phương có xu hướng chuyên môn hóa và đi vào các nghề như: Dịch vụ, Hàn, Nhôm kính, Điện nước. Những kết quả khảo sát trên cho thấy: học sinh Bắc Lý sau khi tốt nghiệp, ra sản xuất tại địa phương đã hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng..

Những học sinh lên đường đánh giặc cứu nước, không băn khoăn tính toán. Nhiều em lập chiến công xuất sắc, nhiều em đã anh dũng hi sinh. Khi cầm súng là những chiến sĩ tốt, góp phần làm đẹp thêm truyền thống của quê hương. (Xã Bắc Lý được Bộ tư lệnh quân khu 3 công nhận là xã có thành tích xuất sắc trong việc đóng góp sức người sức của cho kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất, trong đó có phần đóng góp của thế hệ trẻ xuất thân từ trường Bắc Lý). Khi trở về địa phương tiếp tục lao động sản xuất, tham gia vào các chức danh công tác Đảng, Chính quyền, đoàn thể góp phần xây dựng quê hương Bắc Lý.

Page 366: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

436

Một bộ phận học sinh tiếp tục học lên, đã học tốt và sau khi học xong đã trở thành những cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý hành chính, chuyên môn, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu ở huyện, ở tỉnh và tỏa đi khắp nơi trong nước. Nhiều người đã có những công trình nghiên cứu xuất sắc. Nhiều người trở thành cán bộ chủ chốt, lực lượng cốt cán của các cơ quan, xí nghiệp. Học sinh Bắc Lý dù ở lại quê hương sản xuất, đi chiến trường đánh giặc hoặc trở thành cán bộ khoa học kỹ thuật, lãnh đạo các cấp đều tuyệt đối trung thành với Đảng, giàu lòng yêu quê hương, đất nước, có ý chí phấn đấu cao, có năng lực làm việc, có cuộc sống tâm hồn phong phú và lành mạnh. Luôn hướng về quê hương.

Đơn vị Lá Cờ đầu ngành giáo dục - đào tạo đi lên từ truyền thống văn hóa một miền quê; ngày nay, các thế hệ cán bộ, giáo viên, học sinh Trường Bắc Lý đang nỗ lực phối hợp cùng người dân địa phương giữ gìn, phát huy giá trị và bảo tồn các di sản văn hóa cũng như những nét văn hóa đặc trưng của miền quê Bắc Lý. Cụ thể: Nhà trường thường xuyên tổ chức cho học sinh các hoạt động tìm hiểu, chăm sóc phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa địa phương: Tìm hiểu tư liệu, quét dọn vệ sinh Đình - Đền - Chùa; tham gia lễ hội...; chăm sóc Nghĩa trang- Thắp nến tri ân; chăm sóc Mẹ Việt Nam Anh hùng...; Tìm hiểu sách đồng; tìm hiểu múa hát Lải Lèn, phối hợp gìn giữ di sản văn hóa hát Lải Lèn (Tập hợp tư liệu, tổ chức cho học sinh tiếp cận và học hát). Tuy nhiên hiện tại, một số lễ hội đã bị mai một, như: Múa rối; Lễ hội bơi chải ở thôn Nội Đọ); còn một số di sản gặp khó khăn trong việc lưu truyền, tiếp nối; hoặc có di sản bị hạn chế trong việc tìm hiểu, chiêm ngưỡng do khâu bảo quản; vì vậy cần sự phối hợp của các cơ quan chức năng để bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa.

Với môi trường cảnh quan yên bình, khí hậu trong lành, Bắc Lý mang trong mình nét đặc trưng của một vùng quê đồng chiêm trũng truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc nhưng cũng

Page 367: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

437

chứa đựng đầy đủ những yếu tố của một nông thôn Việt Nam hiện đại. Truyền thống hiếu học, thành tựu giáo dục với đỉnh cao là hai lần được tuyên dương đơn vị Anh hùng Lao động của người Bắc Lý là một di sản vô cùng quý báu, đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử cả nước nói chung, lịch sử Bắc Lý nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, nhân dân Bắc Lý đã thực hiện thành công đường lối đổi mới phát triển kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, chất lượng cuộc sống được cải thiện. Người dân Bắc Lý tiếp tục phát huy những thế mạnh vốn có của địa phương, trong đó có giáo dục để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Page 368: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

438

LÀNG ĐẠI HOÀNG VÀ NHÀ VĂN VĨ ĐẠI NAM CAO

NGỌC ANH *

Cái lò gạch cũ ven bến đò sông Châu của làng Đại Hoàng xưa nay đã không còn, nhưng câu chuyện về những Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến… vẫn nguyên vẹn trong lòng người dân vùng chiêm trũng Hà Nam. Từ vùng đất nghèo với những ruộng lúa, bãi ngô, hàng cau, gốc chuối ấy, những nguyên mẫu, những con người, những số phận đã trở thành những nhân vật độc đáo trong văn chương Việt Nam và cả văn chương thế giới, dưới ngòi bút thiên tài của nhà văn Nam Cao.

CỘI NGUỒN SÁNG TẠO CỦA NHÀ VĂN NAM CAO

Xuôi dòng sông Châu đến với mảnh đất Cao Đà Phủ, Nam Sang Tổng xưa tìm về ký ức làng Đại Hoàng cùng những bối cảnh xuyên suốt cuộc đời bi hài những số phận trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao. Làng Đại Hoàng xưa (làng Vũ Đại trong nguyên tác của nhà văn Nam Cao) được xem là “nhất thôn, nhất làng, nhất xã”, nay là thôn Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Bên con đường làng với những khu vườn trĩu đỏ trái mận ngọt và những mảnh ao, bờ gạch là Nhà tưởng niệm nhà văn - liệt sĩ Nam Cao, một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn

* Nhà báo, Giám đốc Nhà xuất bản Sân khấu.

Page 369: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

439

học hiện thực phê phán nói riêng và của văn học Việt Nam nói chung thế kỷ 20. Giữa một khuôn viên rộng hơn 5000m2 với những hàng cây ngọc lan, hoa sữa, lộc vừng, chuối ngự tỏa bóng là khu Nhà tưởng niệm có bàn thờ, những kỉ vật của nhà văn lúc sinh thời và lăng mộ ông. Quê hương Đại Hoàng với những lễ hội, đình làng, chùa làng, nhà thờ họ cùng những truyền thống văn hóa, con người chất phác, thuần hậu… chính là chất liệu kết nên những trang viết giàu giá trị nhân văn mà nhà văn Nam Cao đã ký thác. Với một phong cách trữ tình, sâu lắng, hóm hỉnh mà tế nhị, sang trọng mà bình dị, 15 năm cầm bút, nhà văn Nam Cao đã để lại một văn nghiệp đồ sộ với 2 tiểu thuyết, 50 truyện ngắn, bút ký… trong đó có những tác phẩm nổi tiếng như “Lão Hạc”, “Đời thừa”, “Sống mòn” và kiệt tác “Chí Phèo”. Năm 1951, trong một cuộc vây ráp của giặc Pháp, nhà văn Nam Cao đã hi sinh trên đường đi công tác khi mới 36 tuổi. Sau gần nửa thế kỷ nằm hiu quạnh trong nấm mộ vô danh tại Ninh Bình, chương trình “Tìm lại Nam Cao” do Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Việt Nam tổ chức với quy mô chưa từng có gồm 35 đơn vị tham gia như Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, Báo Nhân dân… và Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) thực hiện, hài cốt của nhà văn - liệt sĩ Nam Cao được đưa về quê nhà yên nghỉ. Nhà tưởng niệm nhà văn Nam Cao cũng được khánh thành năm 2004 tại xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân để tưởng nhớ ông. Sinh ra và lớn lên ở chốn bùn lầy, nước đọng, Nam Cao đã sống và cảm nhận sâu sắc về những phận người nông dân lam lũ, thấp cổ bé họng, về bi kịch không chỉ của đói khổ mà còn của khát vọng làm người bị vùi dập. Với quan niệm văn chương nghệ thuật phải “vị nhân sinh”, ngòi bút Nam Cao sắc lạnh, tỉnh táo nhưng lại chan chứa yêu thương với người dân quê nghèo. Cùng với những hiện vật, tác phẩm viết về nhà văn Nam Cao, những hình ảnh về hoạt động tưởng niệm, tôn vinh nhà văn Nam Cao,

Page 370: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

440

Khu lưu niệm còn có ngôi mộ nhà văn nằm bình yên giữa những giàn trầu, vườn chuối ngự và rợp bóng mẫu đơn. Trên mộ là bản khắc bằng đá những dòng chữ đã mờ dần theo thời gian, nhưng ý nghĩa đã trở thành bất tử với hậu thế một tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm “Trăng sáng”: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”.

Nằm cách Khu lưu niệm Nam Cao khoảng 1km là “Ngôi nhà Bá Kiến” - được dùng làm bối cảnh để nhà văn Nam Cao khắc họa nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm “Chí Phèo” lấy từ nguyên mẫu có thật là Nghị Bính. “Ngôi nhà Bá Kiến” kiểu thôn quê Bắc Bộ những năm đầu thế kỷ 20, xây trên khu đất rộng chừng 900m2, nhà có 3 gian, 16 cột gỗ lim, mái lợp ngói nan, xà được trạm trổ hoa văn vảy rồng, vườn trước vườn sau đều trồng chuối ngự. “Ngôi nhà Bá Kiến” đã qua bảy đời chủ. Năm 2007, với mục đích lưu giữ ngôi nhà này, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Nam đã mua lại để bảo tồn và phát triển tuyến du lịch đền Trần Thương - Nhà tưởng niệm nhà văn, liệt sĩ Nam Cao - nhà Bá Kiến.

Cảnh cũ người xưa nay đã đổi thay nhiều, nhưng những nhân vật từ làng Đại Hoàng đã lên trang văn và từ trang văn đã đi vào lòng người dân Việt Nam như những gì thiết thân, quen thuộc xuyên qua cả hai thế kỷ và chắc chắn sẽ còn sống mãi trong lòng dân tộc. Được đánh giá là nhà văn ở vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi cách mạng Việt Nam thế kỷ 20, người con của làng Đại Hoàng xưa là Trần Hữu Tri với bút danh Nam Cao được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật - đợt I năm 1996. Cuộc đời lao động nghệ thuật vì lý tưởng nhân đạo, lý tưởng Cách mạng, và sự hi sinh anh dũng của Nam Cao mãi mãi là một tấm gương cao đẹp của nhà văn - chiến sĩ.

Page 371: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

441

VÀ SỨC VƯƠN LÊN CỦA LÀNG ĐẠI HOÀNG HÔM NAY

Dòng sông Châu hai bờ ngút ngàn những ruộng lúa, nương dâu… là những hình ảnh thân thương của miền quê Đại Hoàng. Đất Đại Hoàng xưa nổi tiếng về đặc sản chuối Ngự, nên tương truyền dùng để dâng vua, gọi là chuối “tiến vua”. Chuối Ngự quả nhỏ, buồng nải sai và đẹp mã, khi chín có mùi thơm, vị ngọt mát, đất nơi khác, dù là ở quanh vùng, trồng cũng không được chất lượng như vậy. Không chỉ là sản vật độc đáo giữa cuộc sống đời thường mà hình ảnh vườn chuối còn xuất hiện khá nhiều trong những trang viết của nhà văn Nam Cao khi miêu tả về làng Vũ Đại - Đại Hoàng, đặc biệt là trong tác phẩm “Chí Phèo”. Tình yêu quê hương tha thiết đã giúp nhà văn có được những áng văn sinh động giàu chất thơ: “…những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giẫy lên đành đạch như là hứng tình…”.

Ngoài chuối Ngự, Đại Hoàng còn nổi tiếng với giống hồng không hạt và đặc sản cá kho dân dã mang hương vị thơm ngon mà không nơi nào có được. Từ xa xưa, mỗi dịp gần Tết, bà con làng Đại Hoàng có nghề kho cá với hương vị riêng độc đáo. Hiện nơi đây có khoảng 30 hộ dân làm nghề kho cá và nhờ phát triển nghề truyền thống này mà nhiều hộ dân kinh tế ổn định. Giữa những ngôi nhà ngói cũ rặt vườn chuối xanh rì là những ngôi nhà cao tầng hiện đại như thổi sức sống tươi mới cho vùng chiêm trũng xưa. Xen lẫn không gian dân dã là tiếng máy dệt rầm rập, đều đặn tấu lên những khúc nhạc đồng quê. Đại Hoàng có nghề dệt lâu đời, nay không còn dệt thủ công mà chuyển sang dệt máy. Không còn tiếng thoi dệt lách cách thuở nào trong từng ngõ xóm, thay vào đó là những khu công nghiệp sầm uất với các công ty: Công ty TNHH may Tân Tiến Thành, Công ty Dệt may Châu Giang, Phong Lan, Phúc Tiến… với nhiều sản phẩm là vải chéo, vải bay, khăn rửa mặt, khăn tắm xuất khẩu… giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân địa

Page 372: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

442

phương. Năm 2004, làng nghề Đại Hoàng được UBND tỉnh Hà Nam công nhận và cấp bằng làng nghề dệt truyền thống với giá trị sản xuất lớn nhất so với các làng nghề trong tỉnh.

Hiện xã Hòa Hậu đóng góp nguồn thu ngân sách chủ yếu của huyện Lý Nhân. Thu nhập bình quân đạt trên 600.000đ/người/ tháng. Được biết, trong dự án quy hoạch phát triển xã đến năm 2015, xã Hòa Hậu sẽ lại tách ra làm hai xã Nhân Hậu và Nhân Hòa như trước. Trong đó, làng Đại Hoàng, tức xã Nhân Hậu, sẽ có điều kiện phát triển kinh tế mạnh mẽ để sớm hoàn thành mục tiêu trở thành thị trấn, nhằm thu hút đầu tư xây dựng và phát triển. Trong tương lai, đây sẽ là điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách. Tuy nhiên, để đạt điều này, người dân Đại Hoàng cần khai thác hết những lợi thế vốn có, đặc biệt là tour du lịch “Làng Vũ Đại” nhằm quảng bá và thu hút lượng khách tham quan trong và ngoài nước đến nơi đây ngày một tấp nập hơn. Quê hương của nhà văn vĩ đại, của những nhân vật bất hủ Lão Hạc, Giáo Thứ, Bá Kiến, Thị Nở, Chí Phèo… quê hương của chuối ngự, của cá kho, của dâu tằm, của tơ lụa đang có cơ hội giàu lên từ các đặc sản của mình.

Năm 2015 này, nhà văn Nam Cao đã “bước vào” tuổi 100 (1915 - 1951). Tôi tin huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam và cả nước ta sẽ có những hình thức tưởng niệm xứng đáng dành cho nhà văn vĩ đại của dân tộc. Và tất nhiên, làng Đại Hoàng yên bình, nơi ông sinh ra, yên nghỉ và làm cho nó rạng danh, sẽ có những ngày hội lớn - Ngày hội Nam Cao.

Page 373: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

443

PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NAM

TRONG CUỘC SỐNG HIỆN ĐẠI

TRUNG ĐÔNG *

Sản phẩm tinh hoa của làng nghề truyền thống là một bộ phận của di sản văn hóa dân tộc. Mỗi sản phẩm nghề truyền thống đều có hàm lượng văn hóa rất cao, thể hiện óc sáng tạo, bàn tay tài hoa của con người Việt Nam.

Hà Nam có hơn 40 làng nghề truyền thống, trong đó có nhiều làng lâu năm rất nổi tiếng. Trong bài viết ngắn này, chúng tôi xin điểm qua một số làng nghề có sản phẩm gắn liền với nông nghiệp Hà Nam.

- Làng Đọi Tam, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên có nghề làm trống da từ rất lâu đời, tương truyền khoảng một nghìn năm với vị tổ nghề là Nguyễn Đức Năng và Nguyễn Đức Bản. Vào năm 986, được tin vua Lê Đại Hành sửa soạn về làng cày ruộng tịch điền khuyến nông, hai anh am cụ Năng và cụ Bản đã tự tay làm một cái trống to để đón vua. Tiếng trống vang như sấm rền nên về sau hai ông được dân làng tôn là Trạng Sấm. Nghề làm trống ở Đọi Tam nổi tiếng khắp nước, thợ làng Đọi Tam đi khắp nơi làm đủ các loại trống: Trống dùng trong đình chùa, trống chèo, trống trường, trống dành cho trẻ em trong dịp Tết Trung thu… Trống Đọi Tam nổi tiếng nhờ độ bền, đẹp, nhờ bí quyết riêng cũng như tinh thần trách nhiệm của người thợ.

* Báo Nhân dân.

Page 374: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

444

Trống được làm từ gỗ mít (tang trống), da trâu, vải màu, sơn ta rất công phu, tạo nên những âm thanh vang rền chuẩn xác.

- Tiếng tăm của Làng lụa Nha Xá (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên) chỉ đứng sau làng lụa Vạn Phúc, Hà Đông. Từ đầu thế kỷ trước, các lái buôn làng lụa thị trường Sài Gòn - Chợ Lớn đã tín nhiệm những súc tơ lụa nõn bóng, mượt mà của làng nghề này. Quy mô sản xuất của làng nghề đang tiếp tục mở rộng, một phần lao động thủ công được thay bằng máy móc. Nhiều gia đình tiếp tục đóng thêm máy dệt, hoặc đầu tư thay khung gỗ bằng khung sắt để làm ăn lâu dài. Người làng dệt nhanh nhạy với thị hiếu người tiêu dùng luôn luôn chuyển đổi mặt hàng. Nhiều mặt hàng mới ra đời như hàng đũi, hàng tơ se, hàng lụa hoa, hàng lanh…

- Làng nghề thêu ren Thanh Hà, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm có hơn 70% số hộ tham gia nghề thêu ren, làm ra nhiều mặt hàng được ưa chuộng như ga trải giường, gối, khăn trải bàn…Từ năm 1975 đến năm 1989 là thời gian thịnh vượng của làng nghề với sản phẩm đa dạng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Từ năm 1990 đến nay, do chuyển đổi cơ chế kinh tế, làng thêu ren Thanh Hà đã phải vật lộn vượt qua thách thức để tồn tại trong điều kiện thị trường truyền thống bị thu hẹp và thị trường nước ngoài mới lại đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng và thời gian.

- Làng mây tre đan Ngọc Động, xã Hoàng Đông, huyện Duy Tiên. Làng chủ yếu sản xuất ghế mây mẫu mã đẹp phù hợp với khí hậu nhiệt đới. Tiếng tăm của làng nghề ngày càng vang xa, người về đặt mua sản phẩm, người bán nguyên liệu ngày càng tấp nập. Sinh thời, Bác Hồ được dân làng Ngọc Động biếu Người một bộ phô tơi gồm sáu chiếc ghế sa lông và một chiếc ghế chao. Bộ sa lông được Bác kê ở nhà sàn để tiếp khách. Trong khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, làng Ngọc Động đã cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm kiếm thị trường ở Tây Âu và các nước

Page 375: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

445

Đông Nam Á. Các sản phẩm như: bát, đĩa, khay, lọ hoa, lọ độc bình, lẵng hoa… rất đa dạng về chủng loại mẫu mã.

- Làng nghề bánh đa nem Chều, xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân nổi tiếng khắp nơi. Người biết làm bánh đa đều có bí quyết riêng được xem như bí quyết gia truyền trong công thức pha chế bột sao cho bảo đảm một tỉ lệ thích hợp với từng mùa trong năm. Vì thế bánh đa nem của Nguyên Lý luôn giữ được chất lượng tốt: bánh có độ dẻo cao, trắng mềm mà không dính… Đây là yếu tố quyết định đến việc chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm - Bánh của làng đã xuất khẩu sang Hàn Quốc, mỗi năm khoảng một trăm tấn.

- Làng nghề rượu Vọc ở huyện Bình Lục nấu rượu gạo truyền thống lâu đời. Từ bao đời nay, người Làng Vọc chỉ trung thành với một công thức chưng cất rượu. Rượu được nấu bằng gạo đặc sản ủ với men gồm 36 vị thuốc bắc. Công đoạn làm rượu rất công phu, từ lúc úp men phải trải qua 2, 3 ngày, chờ khi men dậy mới được mở. Cơm rượu nấu chín vừa, không khô hoặc nhão, đánh tơi để nguội trước khi rắc men, sau đó cho vào vỏ sành ủ 48 tiếng, khi có mọng mới được đổ nước, sau hai đêm thì đem nấu. Hiện nay có nhiều công nghệ sản xuất rượu hiện đại, nhưng người làng Vọc vẫn cất rượu theo phương pháp cổ truyền. Làng còn được thiên nhiên ban tặng nguồn nước quý để tạo nên sản phẩm rượu đặc trưng, những nơi khác không thể có được. Rượu chỉ đóng trong vò sành nậm gốm chứ không đựng trong can hoặc chai nhựa. Ông Nguyễn Văn Long đã có công xây dựng thương hiệu Vọc Long Tửu được nhiều giải thưởng và có mặt trên thị trường cả nước, nhất là các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh.

Hà Nam còn có nhiều sản phẩm ẩm thực đạt trình độ nghệ thuật như bánh trưng làng Đầm, huyện Thanh Liêm. Nói tới bánh cuốn hoa cải là người ta nghĩ ngay đến bánh cuốn Hà Nam. Bánh cuốn trắng tinh, thơm mùi gạo, mềm, mỏng tang, không ăn với chả quế, chả lụa mà ăn với chả thịt lợn nướng

Page 376: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

446

hình hoa cải. Nướng thịt sao cho vàng, các rìa ngoài của miếng thịt se lại như những cánh hoa đúng là nghệ thuật thật! Mới đây ở làng Đại Hoàng, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân lại có món cá kho với nước mắm cua, kho bằng niêu đất 11 tiếng đồng hồ, được mọi người khắp nơi tìm đến mua…

Mới điểm qua một số làng nghề tiêu biểu, chúng ta đã thấy nghề truyền thống ở Hà Nam có bề dầy lịch sử với nhiều sản phẩm nổi tiếng, có đội ngũ nghệ nhân đông đảo, giỏi tay nghề, tận tâm với nghề. Trong cuộc sống hiện đại, nghề thủ công đang đứng trước thách thức rất lớn khi hàng hóa tiêu dùng do máy móc hiện đại sản xuất ngày càng nhiều, chất lượng cao, đẹp đẩy lùi và lấn át hàng thủ công, nhiều lúc khiến cho ta có cảm giác hàng thủ công khó tồn tại trong cuộc sống hiện đại. Nhưng dần dần thực tế đã trả lời hàng hóa máy móc không thể thay thế hoàn toàn hàng thủ công, bởi vì sản phẩm thủ công chứa đựng tinh hoa, khối óc và bàn tay của nghệ nhân, mỗi sản phẩm được nghệ nhân thổi hồn vào đó đã trở nên sống động như một tác phẩm nghệ thuật vậy. Nghệ nhân làm nghề thủ công luôn đem tâm hồn và suy nghĩ của mình vào sản phẩm trong quá trình sáng tạo. Cho nên nhiều người ví họ chẳng khác gì nghệ sĩ. Tình trạng chung của làng nghề cả nước trong đó có Hà Nam là rất khó khăn đầu ra, khó tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu ngày càng ít dần. Để khắc phục tình trạng đó, điều đầu tiên quan trọng nhất là chúng ta phải có hàng chất lượng cao, hàng tinh hoa nhiều hàm lượng văn hóa và nhất là phải luôn luôn thay đổi mẫu mã đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Đặc biệt, phải xây dựng bằng được thương hiệu sản phẩm làng nghề. Từ đó quảng bá và xúc tiến thương mại. Thị trường nước ngoài rất khó tính không thể xuất khẩu “ hàng chợ”, hàng kém chất lượng, buộc chúng ta phải có sản phẩm tinh hoa đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng nhập khẩu. Để làm được điều đó phải dựa vào đội ngũ nghệ nhân mà người ta thường ví là linh hồn của làng nghề. Làm sao để nghệ nhân phải tận tâm với nghề Tổ, “ sinh vi nghệ, tử vi nghệ”.

Page 377: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

447

Việc làm của ông Nguyễn Văn Long vực dậy danh tiếng của rượu làng Vọc là một tấm gương. Sinh ra trong gia đình theo nghề nấu rượu lâu đời, ông Long rất buồn khi thấy rượu quê mình ngon mà chỉ bán quanh quẩn mấy vùng lân cận. Ông quyết tâm phải xây dựng một thương hiệu cho rượu Vọc để có thể tự tin mang sản phẩm quê mình đi xa hơn nữa, đó là thương hiệu Vọc Long Tửu. Nhờ thương hiệu đó mà rượu làng Vọc đã có mặt khắp nước, nhất là các đô thị, nhiều du khách cũng mua làm quà mang đi nước ngoài. Cho nên, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng tôn vinh nghệ nhân là công việc quan trọng phải làm thường xuyên. Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã tổ chức mấy đợt tặng danh hiệu nghệ nhân, làng nghề tiêu biểu xuất sắc. Nhà nước cũng đã xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu tú. Thiết nghĩ tỉnh Hà Nam cũng nên có những chính sách quan tâm đến đội ngũ nghệ nhân cả về vật chất lẫn tinh thần. Cần đẩy mạnh công tác đào tạo nghệ nhân hơn nữa. Nghề truyền thống truyền nghề theo phương thức “ cha truyền con nối”. Sự quan tâm của địa phương sẽ khuyến khích lớp trẻ giữ gìn phát huy nghề truyền thống của cha ông, tránh được tình trạng đã từng xảy ra “Cha muốn truyền mà con không muốn nối”.

Để mở rộng xuất khẩu thì phải tăng cường sự liên kết các hộ gia đình với nhau. Có một đơn hàng xuất khẩu lớn đòi hỏi phải liên kết mới giải quyết được vốn, nhân lực, hạn giao hàng đúng thời gian. Mặt khác có liên kết mới có điều kiện nắm bắt thông tin, phân công nhau đi tìm đầu ra, quảng bá thương hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại…

Liên kết cũng giúp giải quyết những vấn đề “ nóng” của làng nghề như bảo đảm vệ sinh môi trường. Làng mây tre đan Ngọc Động lúc nào cũng canh cánh mối lo về ô nhiễm môi trường và hỏa hoạn. Làng nghề bánh đa nem Nguyên Lý trung bình mỗi ngày các lò tiêu thụ 10 tấn than, khí thải CO2 làm ô nhiễm nguồn không khí trên mảnh đất chật hẹp. Rồi lượng nước thải trong quá trình vo gạo, chế biến bột… cũng ảnh hưởng đến nguồn nước

Page 378: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

448

đòi hỏi các cấp chính quyền địa phương tìm giải pháp thích hợp cho làng nghề như có thể xây dựng khu tráng bánh tập trung hoặc liên kết vài hộ gia đình với nhau.

Hiện nay, các làng nghề truyền thống ở nước ta, trong đó có Hà Nam đang đứng trước muôn vàn khó khăn đòi hỏi phải tự thân vận động, phải năng động sáng tạo mới tồn tại và phát triển. Rất mong chính quyền địa phương các cấp quan tâm hơn nữa và giải quyết những vấn đề lớn vượt qua tầm kiểm soát của làng như vốn vay ngân hàng, đào tạo nghệ nhân, nguồn nguyên liệu, mặt bằng sản xuất, giải quyết ô nhiễm môi trường, tiêu thụ sản phẩm. Để giải quyết hài hòa những vấn đề trên, bên cạnh tâm huyết và quyết tâm giữ nghề, phát triển nghề tổ của các làng nghề, các nghệ nhân, các địa phương nên có chiến lược phát triển làng nghề với những quy hoạch và giải pháp cụ thể . Quan trọng hơn, các nghệ nhân phải tâm huyết và quyết tâm giữ nghề, phát triển nghề tổ, dù ngoại cảnh có khó khăn thế nào.

Page 379: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

449

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ VÀ VĂN HIẾN, ĐƯA HÀ NAM

VỮNG BƯỚC ĐI LÊN TRÊN CON ĐƯỜNG MÀ ĐẢNG VÀ BÁC HỒ KÍNH YÊU ĐÃ CHỌN

TRẦN QUỐC HÙNG *

Hà Nam là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Trải qua năm tháng, con người trên mảnh đất nhỏ hẹp, đồng chiêm trũng vô cùng khắc nghiệt này đã vượt qua mọi thử thách, gian nan, làm nên những kỳ tích hào hùng trong công cuộc chinh phục vùng đất “chiêm khê, mùa thối” này để tồn tại, đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quê hương, đất nước. Trường kỳ lịch sử ấy, đã hình thành nên ở con người Hà Nam nhiều phẩm chất tốt đẹp, làm nên bản sắc riêng của Người Đồng Chiêm. Những phẩm chất truyền thống vô cùng quí báu đó là:

1. Truyền thống yêu nước, chống ngoại xâmNgay từ thời các Vua Hùng dựng nước, Hà Nam đã có nhiều

người tài danh võ nghệ đứng lên diệt giặc Ân bảo vệ đất nước Văn Lang, với những tên tuổi còn truyền đến ngày nay, như: Tả Giám Đàn, Trần Lao Láng, Nguyễn Thiện, Nguyễn Vực,…được nhân dân thờ là phúc thần. Những năm đầu Công nguyên, các tướng lĩnh, trong đó có nhiều nữ tướng người Hà Nam đã đầu quân dưới lá cờ đại nghĩa của Hai Bà Trưng, tiêu biểu là:

* UV BTV Tỉnh ủy - Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Nam.

Page 380: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

450

Lê Chân, Thụy Nương, Nguyễn Thị Quỳnh Chân, Nguyệt Nga, Cao Thị Liên, Trương Thị Cả… những người đã anh dũng cầm quân làm nên nhiều chiến thắng vang dội. Người Hà Nam có mặt trong cuộc khởi nghĩa của Triệu Quang Phục, mà một trong những dấu ấn còn đến ngày nay là ngôi đền thờ ông ngay bên bờ sông Long Xuyên, xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân. Tại nơi thờ Triệu Quang Phục và cũng là để phục vụ việc phụng thờ này đã ra đời một trong những làn điệu dân ca cổ nhất của Hà Nam (và của cả nước), là dân ca Lải Lèn (Lả Lê) còn truyền đến ngày nay. Hà Nam là quê hương của Lê Hoàn - Lê Đại Hành - vị vua sáng lập triều đại Tiền Lê. Trong cuộc đánh Tống, bình Chiêm để bảo vệ đất nước Đại Cồ Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn, luôn có mặt người Hà Nam. Bước sang thời Lý, người Hà Nam đã tham gia đội quân của Lý Thường Kiệt Nam chinh (chinh phạt quân Chiêm Thành ở phía Nam), Bắc chiến (kháng chiến chống xâm lược Tống). Một trong những di tích ghi lại sự kiện ấy là ngôi Đền Trúc thờ Lý Thường Kiệt ở Quyển Sơn (huyện Kim Bảng). Và, cũng tại nơi thờ Lý Thường Kiệt này đã ra đời một trong những làn điệu dân ca cổ nhất của nước ta là làn điệu hát Dậm ở Quyển Sơn, còn truyền đến ngày nay. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông ở thế kỷ XIII của nhà Trần, nhân dân Hà Nam đã tập hợp dưới ngọn cờ của Tiên Cương (Đồn Xá), Hồ Tố (An Lão, Bình Lục),…Không chỉ tham gia bằng sức người, Hà Nam còn tham gia bằng sức của. Một kho lương thực lớn ở Trần Thương (xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân) đã được xây dựng bằng sự đóng góp lúa gạo, lương thảo của người dân chủ yếu ở Hà Nam. Trong những trận chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông ấy, trên dòng sông Thiên Mạc (là con sông Mang Giang từ Cầu Giẽ chảy qua địa phận huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam rồi đổ vào sông Hồng ở địa điểm Tắc Giang hiện nay), Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo đã đánh trận A Lỗ mở đầu chiến dịch phản công quân Nguyên - Mông. Dòng sông này đã chứng kiến

Page 381: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

451

tinh thần yêu nước, khí phách oai hùng không đầu hàng giặc của danh tướng Trần Bình Trọng - một người con của đất Liêm Cần (Thanh Liêm), với câu nói nổi tiếng: “Ta thà làm quỉ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”.

Bước sang thời cận hiện đại, trong công cuộc chống thực dân Pháp đô hộ ở thế kỷ XIX, nhân dân Hà Nam đã không ngừng nổi dậy đấu tranh chống lại bọn thực dân phong kiến. Tiêu biểu là hàng ngàn nông dân đã tham gia nghĩa quân, từ khởi nghĩa của Đinh Công Tráng (1842-1887) ở Thanh Liêm đến khởi nghĩa của Lê Hữu Cầu (1860 - 1889) ở Kim Bảng…Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nổi bật trong số những thanh niên đi tiên phong trong phong trào yêu nước ở Hà Nam là Nguyễn Hữu Tiến - người vẽ lá cờ Tổ quốc (người Lũng Xuyên, Duy Tiên), Phạm Tất Đắc (ở Dũng Kim, Lý Nhân), Nguyễn Duy Huân,…Truyền thống yêu nước, anh dũng đấu tranh chống xâm lược của người Hà Nam càng được phát huy cao độ từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Bất chấp sự đàn áp của thực dân Pháp, phong trào yêu nước, chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng phát triển mạnh mẽ và lan rộng, diễn ra đều khắp trong tỉnh, góp phần làm nên Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, nhân dân Hà Nam đã tổ chức nhiều cuộc kháng chiến chống càn qui mô lớn của địch, tiêu biểu như trận chống càn mang tên Ămphibi địch tập trung hơn 5.000 quân phần lớn là lính Âu Phi, có xe tăng, xe lội nước, máy bay, pháo binh yểm trợ. Trong trận này, đã xuất hiện nhiều tấm gương anh dũng chiến đấu, hy sinh còn sống mãi trong lòng nhân dân Hà Nam, như tấm gương kiên cường, bất khuất của 30 cụ già và 2 thiếu niên thôn Đức Bản (xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân). Trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã xuất hiện những anh hùng chiến đấu người Hà Nam, như Trần Văn Chuông, thiếu niên Dương

Page 382: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

452

Văn Nội… Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Nam là một trọng điểm chiến lược, một địa phương giữ vị trí quan trọng trong đảm bảo giao thông thông suốt và bố trí các trận địa phòng không đánh trả máy bay Mỹ bảo vệ Thủ đô Hà Nội và trên con đường chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ. Trong mọi tình huống, quân và dân Hà Nam, tiêu biểu là 10 cô gái dân quân Lam Hạ, đã kiên cường, dũng cảm đánh trả máy bay địch, giữ vững mạch máu giao thông và đê điều, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, bảo vệ sản xuất. Đảng bộ và nhân dân Hà Nam đã huy động tới mức cao nhất nhân lực, vật lực cùng sức mạnh tinh thần, sát cánh cùng nhân dân cả nước chiến đấu kiên cường, hy sinh anh dũng làm nên chiến thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã có 47 tập thể và 21 cá nhân người Hà Nam được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, 4 đơn vị được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.

2. Tinh thần thượng võTrải qua mấy nghìn năm lao động cần cù và sáng tạo dựng

xây đất nước, kiên cường chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, anh hùng trong đấu tranh cách mạng và xây dựng CNXH, con người Hà Nam đã thể hiện nhiều phẩm chất cao quý, tốt đẹp và đặc sắc - đó là tinh thần thượng võ. Tinh thần thượng võ là một trong những nét đặc sắc của người Hà Nam. Điều này đã ghi dấu trong những chiến công chống giặc ngoại xâm và đọng lại với thời gian qua hàng trăm câu chuyện, hàng trăm phương ngôn về võ, qua những lễ hội như hội vật võ Liễu Đôi, hội trình khiên ở làng Cộ, làng Đùng (xã Liêm Sơn, Thanh Liêm), hội võ Cổ Lộng (thôn Cổ Động, xã Thanh Hải, Thanh Liêm). Cùng với lò vật Phúc Châu (Lý Nhân), An Bài (Bình Lục), hội vật võ Liễu Đôi là niềm tự hào gắn liền với lịch sử và con người Hà Nam.

Chỉ riêng kho tàng văn học dân gian Liễu Đôi đã có hàng ngàn tư liệu nói về kinh nghiệm đánh giặc, về binh pháp dân

Page 383: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

453

gian. Có thể nói không ngoa rằng, văn hóa dân gian Liễu Đôi là kho tàng binh thư, binh pháp. Bởi, từ việc lớn như thu phục nhân tâm, gây dựng sự đoàn kết, cho đến những việc, những chi tiết tưởng nhỏ nhặt như nước lã, cỏ ngựa đều được người Hà Nam lưu tâm đúc kết, như:

“Nhân tâm đặt trước, mưu lược đặt sau”“Bại nhân tâm thì nhân tâm phá” “Bại nghĩa cả thì rã phong hầu”“Tâm đồng như thiết thạch” (Đồng lòng thì vững như sắt đá)“Trăm họ cầm tay, trời lay đất lở” “Gáo nước dập lửa tắt, cỏ ngựa đốt cháy thành”…Kho tàng lý luận quân sự dân gian vô cùng quí giá trên là sự

đúc rút thành kinh nghiệm qua vô vàn cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của người Hà Nam. Những lý luận ấy cho thấy người Hà Nam không chỉ là đội quân chiến đấu, mà họ thực thụ là những nhà chiến lược, chiến thuật vĩ đại. Những lý luận đó vẫn là bài học làm nên bách chiến bách thắng trong thời đại hiện nay.

3. Truyền thống nhân văn sâu sắc, tâm hồn chứa chan lãng mạn

Là những người có tinh thần thượng võ, yêu nước, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ quê hương đất nước, người Hà Nam cũng là những con người giàu lòng nhân ái, khoan dung, tha thiết yêu hòa bình. Qua kho tàng trí tuệ dân gian ở Hà Nam cho thấy, người Hà Nam không chỉ lưu tâm đến vấn đề chiến đấu chống xâm lược, mà đã rất chú ý đến vấn đề kết thúc chiến tranh, ngăn chặn chiến tranh. Văn hóa Liễu Đôi không những dạy tướng cầm quân, dạy quân đánh giặc mà còn tiềm tàng những lời khuyên răn quý giá về sự tỉnh táo cần thiết để kết thúc chiến tranh, gây dựng hòa bình:

“Chớ cậy kiếm sắc mà róc đến xươngChớ quá dây cương mà nát đường thiên hạ”Và quyết liệt hơn, không chỉ khuyên ngăn mà là phê phán,

răn dạy thẳng thắn: “Cầm kiếm ba thu, còn một nỗi ngu tra vỏ”.

Page 384: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

454

Có thể thấy sự khát khao hòa bình của người Hà Nam thông qua những lời ca được ghi lại trong Hoàn Vương ca tích (sự tích về vua Lê Hoàn diễn ca):

“Đã rằng có nước có nhàTrong yên trị, ngoại dung hòa mới yênHay gì hòn đạn mũi tên?Cõi nhân gian nước mắt lên mấy tòa!Bây giờ lại cất quân raMột giọt máu nhỏ, trăm nhà khóc thương?”Có thể nhận ra tinh thần nhân văn, hòa hiếu, không muốn

chiến tranh của người Hà Nam qua việc người dân Hà Nam đã xây mộ, xây đền thờ “vợ giặc” và “giặc”, là Hoàng hậu Mỵ Ê và vua Sạ Đẩu của nước Chiêm Thành. Tấm lòng khoan dung, tư tưởng nhân văn sâu sắc, cao thượng, người Hà Nam đã trân trọng, tôn thờ tấm gương trinh liệt của bà Mỵ Ê, làm kẻ thù càng kính phục.

Lịch sử hình thành và phát triển của Hà Nam là lịch sử thấm đẫm mồ hôi, xương máu của biết bao thế hệ người Hà Nam. Gian khổ, hy sinh người Hà Nam đều không nề hà, đều sẵn sàng xả thân, bởi, người Hà Nam có tình yêu quê hương đất nước, khát vọng hạnh phúc, niềm tin vào tương lai và một tinh thần lãng mạn trong cuộc sống. Trong kho tàng ca dao Hà Nam có rất nhiều câu nói lên những điều đó:

- “Non cao, cao mấy từng mâyAnh đi bên ấy, bên này em trôngBao giờ lúa chín vàng bôngAnh về gặt hái gánh gồng cùng em”.- “Kể chi trời rét đồng sâuCó chồng có vợ rủ nhau cày bừaBây giờ trời đã đổ trưaChồng vác lấy bừa, vợ dắt lấy trâuMột đoàn chồng trước vợ sauTrời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng”…

Page 385: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

455

4. Truyền thống cần cù lao động, tinh thần trọng nôngTrước một vùng chiêm trũng mênh mông, đồng trắng nước

trong quanh năm lụt lội, người Hà Nam, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, “sống ngâm da, chết ngâm xương”, đổ bao mồ hôi và cả máu xương, không ngừng đắp đập, quai đê, thau chua rửa mặn, đã cải tạo đồng đất ấy thành những đồng lúa phì nhiêu mầu mỡ, một năm hai vụ chiêm, mùa. Thực tế ấy không chỉ thể hiện ý chí kiên cường bám đất, bám làng xây dựng quê hương, mà còn nói lên tinh thần trọng nông, coi “Dĩ nông vi bản” của người Hà Nam. Xưa kia, hàng năm vào dịp đầu Xuân, Hà Nam tổ chức tế Thần nông, mở hội cày để biểu hiện tinh thần trọng nông của các bậc Tiên đế. Hà Nam cũng được coi là nơi đất thiêng để các bậc đế vương chọn làm nơi cày ruộng tịch điền. Năm 987, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Lê Hoàn đã tổ chức dạy dân cày ruộng tịch điền ở chân núi Đọi.

Người Hà Nam nổi tiếng với nhiều sản phẩm nghề chăn nuôi. Từ vùng chiêm trũng các huyện Bình Lục, Duy Tiên, Lý Nhân đến những vùng đồi núi hai huyện Thanh Liêm, Kim Bảng đâu đâu cũng chăn nuôi gia súc, gia cầm, nhiều nhà có ao thả cá. Nuôi vịt đẻ và ấp trứng ở nhiều vùng thuộc hai huyện Kim Bảng, Duy Tiên. Người Hà Nam còn là những người thợ lành nghề của nhiều ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống, với những sản phẩm dân gian độc đáo, hấp dẫn. Nghề đan lát các mặt hàng bằng song mây đã tồn tại nhiều đời nay. Nghề mộc nổi tiếng ở Trịnh Xá (Bình Lục), Cao Đà (Lý Nhân); nghề khảm trai, chạm sừng ở Cẩm Bối (Thanh Liêm), Đô Hai (Bình Lục); nghề làm trống Đọi Sơn (Duy Tiên); nghề chạm đá ở Kiện Khê (Thanh Liêm); nghề thêu ren ở Thanh Hà (Thanh Liêm); làng tơ tằm Tiên Phong, làng dệt lụa Nha Xá (Duy Tiên).

Dù điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi, song với truyền thống cần cù lao động, với bàn tay tài hoa, khéo léo, người Hà Nam vẫn lưu truyền được cho đời nhiều sản vật nổi tiếng: Đậu Đầm, bún Tái, vải Lưu Xá, cá đầm Rạnh, lụa Nha Xá, cá sông

Page 386: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

456

Lảnh, gỏi cua làng Sải, dưa cải làng Nghè,… ; những hoa quả đặc sản như: hồng không hạt Nhân Hậu, chuối ngự tiến vua ở Đại Hoàng, quýt đỏ Tảo Môn (Lý Nhân), cam chanh, quýt giấy Tiên Phong (Duy Tiên)…

Ngày nay, xu thế CNH, HĐH mạnh mẽ đang diễn ra trên cả nước, nhưng truyền thống trọng nông vẫn được người Hà Nam duy trì. Việc nghiên cứu bảo tồn các loại giống cây trồng, vật nuôi quý đã được quan tâm. Nhiều ngành nghề mới được Hà Nam học tập, tiếp thu. Nhiều sản phẩm của Hà Nam đã nhận được giải thưởng tại nhiều hội chợ và triển lãm, được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng như đồ mây tre, đồ sừng, đồ đá chạm… Hà Nam đang từng bước hội nhập kinh tế thị trường, đi vào CNH, HĐH.

5. Truyền thống hiếu học Hà Nam là vùng đất nghèo, người dân quanh năm chân

lấm tay bùn lam lũ làm ăn, nhưng con người Hà Nam có truyền thống trọng học và hiếu học. Hà Nam đã sản sinh cho đất nước khá nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Riêng thời phong kiến, kể từ khoa thi đầu tiên (năm 1075) đến khoa thi cuối cùng (năm 1919) Hà Nam có đến 53 người đỗ đạt tại 36 khoa thi. Người khai khoa đất Hà Nam là Lý Công Bình (1091 - 1141) ở Đồn Xá, huyện Bình Lục. Ông đỗ Thái học sinh thời Lý, được vua ban Quốc tính, đã từng chỉ huy các cuộc chinh phạt Chiêm Thành, được vua gả công chúa. Hà Nam đã có nhiều dòng họ hai ba thế hệ nối tiếp nhau có người đỗ đạt. Tiêu biểu nhất là họ Bùi ở làng Châu Cầu (Tp Phủ Lý). Họ Bùi nhiều đời liên tục có người đỗ khoa bảng, với những tên tuổi: Bùi Văn Dị (Phó bảng khoa Ất Sửu, năm Tự Đức thứ 18 (1865), làm đến chức Thượng thư Bộ Lại), Bùi Thức, Bùi Quế, Bùi Kỷ.

Các nhà khoa bảng Hà Nam đã có đóng góp lớn cho sự nghiệp xây dựng đất nước, tiêu biểu như: Lý Trần Thản, người Lê Xá, Duy Tiên, trấn thủ Hưng Hóa đời Lê Hiến Tông, sau khi mất được truy phong Binh Bộ Thượng thư; Trương Công Giai

Page 387: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

457

ở Thiên Kiện, Thanh Liêm, 21 tuổi đã làm đến chức Binh Bộ Thượng thư đời Lê Duy Tông (1685)… Trong các nhà khoa bảng Hà Nam, có nhiều người trở thành học giả, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, như: Trần Thuấn Du ở Tân Hội, Duy Tiên, là người cùng học với Nguyễn Trãi, nổi tiếng uyên bác, đã có thời gian dạy vua, làm đến chức Nhập nội Hành khiển (Tể tướng); Dương Bang Bản ở An Cừ, Thanh Liêm, được vua ban Quốc Tính, đổi là Lê Tung, từng làm Phó sứ rồi Chánh sứ thời Lê Tương Dực, được cử làm Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu. Ông là nhà sử học tiêu biểu thế kỷ XV.

Hà Nam là quê hương của dòng thơ trào phúng mà Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, Kép Trà (tên thật là Hoàng Thụy Phương) là những gương mặt tiêu biểu của dòng thơ này.

Truyền thống hiếu học, tài thông tuệ của người Hà Nam là một di sản quý, di sản này tiếp tục được kế thừa và phát huy khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Hà Nam tự hào có Phạm Tất Đắc với tập Chiêu hồn nước bất hủ; Nguyễn Thượng Cát với bản lược dịch Tư bản luận; Nam Cao - nhà văn Liệt sĩ, một trong những người đầu tiên được Giải thưởng Hồ Chí Minh do có cống hiến to lớn đối với sự nghiệp văn học nước nhà. Hà Nam cũng tự hào với “Tiếng trống Bắc Lý”, ngọn cờ đầu của phong trào thi đua Hai Tốt “Dạy Tốt, Học Tốt” của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đơn vị hai lần được phong tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động. Hà Nam cũng tự hào với nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà nghiên cứu… đã và đang làm việc, cống hiến sức lực, trí tuệ cho quê hương đất nước. Cho đến nay, Hà Nam là một trong những tỉnh luôn đứng vững trong số những tỉnh thành có vị trí hàng đầu về giáo dục.

6. Năng lực dồi dào trong sáng tạo và tiếp biến văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng

Người Hà Nam không chỉ cần cù lao động, tạo ra những sản vật nổi tiếng mà còn là chủ nhân của những kho tàng phong phú đủ mọi thể loại vè, thơ, văn, hát, ca, lễ hội, cả trong văn hóa

Page 388: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

458

dân gian truyền thống và đương đại. Đất Hà Nam có nhiều lễ hội, trong đó có nhiều hội hát, tục hát truyền thống. Người Hà Nam thể hiện sự thông minh, sáng tạo, tinh thần lạc quan yêu đời, yêu người, yêu thiên nhiên của mình qua truyền thống này. Người Hà Nam đặc biệt thích hát, hò, kể vè, kể chuyện. Lễ hội ở Hà Nam là sự hòa quyện, kết hợp giữa những hình thức tín ngưỡng tôn giáo với các làn điệu dân ca đậm đà bản sắc, đồng thời cũng phản ánh những khía cạnh khác nhau của đời sống tinh thần của con người nơi đây. Hội Chùa Đọi, hội Lảnh Giang ở Duy Tiên; hội đền Trần Thương ở Lý Nhân; hội cướp cầu ở Lau Chảy, hội đình Công Đồng,…xưa nay luôn tạo cho vùng chiêm trũng này một sắc thái riêng, một tiềm năng du lịch phong phú.

Ngoài hát Dậm Quyển Sơn, hát Lải Lèn/Lả Lê ở Lý Nhân, Hà Nam còn nhiều hội hát đối đặc sắc. Hội hát của làng Vĩ Khách có riêng một ngôi đình để hàng năm mở hội hát đối, nên ngôi đình này gọi là Đình Hát. Hát Chầu văn và hát Trống quân có ở nhiều nơi, nhưng tiêu biểu hơn cả là ở Trần Bái (xã Đinh Xá, Bình Lục), Liêm Thuận (Thanh Liêm). Hát Cửa đình nổi tiếng ở làng Đậu Chuyền. Hát Giao duyên ở vùng Ngã Ba Sông Móng - Châu Giang…Ngoài các hình thức ca hát, người Hà Nam còn thi hò và thi kể vè. Ở Hà Nam có nhiều thể loại vè: vè nối đêm, vè con cúi, vè vận thừng, vè gõ lưới, vè bà Nàng, vè ông Cả Nhiễu, vè Xã Lãi, vè chim, vè cá, vè món ăn,…Những lời hát, câu hò, lời vè lúc bình dị, chân thực, lúc hài hước, dí dỏm, lúc hào hùng, khoa trương cho thấy tâm tư tình cảm, những suy tư về thân phận con người, về tình yêu nam nữ, quan niệm về hôn nhân gia đình, về công cuộc mưu sinh và cả về tình cảm với thiên nhiên, quê hương cũng như nghệ thuật ẩm thực tinh tế của người Hà Nam. Hơn thế nữa, đó cũng là một loại vũ khí của người Hà Nam trong công cuộc mở đất, dựng nước; trong đấu tranh với áp bức, bất công; trong cả cuộc chiến bảo vệ quê hương đất nước qua các thời đại, từ thủa Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh.

Page 389: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

459

Hà Nam có hàng trăm truyền thuyết về các danh nhân, hào kiệt của mọi thời. Mỗi truyền thuyết không chỉ được thể hiện bằng các hình tượng văn hóa phi vật thể mà còn được thể hiện ở hàng trăm đền thờ, miếu mạo, phủ thờ, bia đá. Có lý do để người Hà Nam tự hào vì đất Hà Nam đã sinh ra không ít nhân vật kiệt xuất, trong đó có những nhân tài văn chương nghệ thuật như Nguyễn Khuyến, Bùi Dị, Nam Cao... Những nhân vật văn học như Vũ Thị Thiết trong “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, những nhân vật như anh Giáo Thứ, Lão Hạc, Chí Phèo, Thị Nở… của Nam Cao đã trở thành hình tượng văn học Việt Nam về lớp người trí thức, người nông dân Việt Nam dưới thời thực dân, phong kiến.

Hà Nam có truyền thống tôn vinh, thờ phụng những người có công với dân, với nước. Bên cạnh việc tôn thờ những anh hùng dựng nước, giữ nước, những nho sĩ, nhà văn, nhà thơ, người Hà Nam luôn quí trọng, tôn vinh những người lao động giỏi, ghi nhận những nỗ lực tìm tòi, sáng tạo làm cho quê hương thoát khỏi đói nghèo, trở nên giàu đẹp. Thờ tổ nghề là nét đẹp văn hóa độc đáo mà người Hà Nam đã tạo lập và duy trì hàng ngàn năm nay. Có thể kể đến những vị tổ nghề được lưu truyền nhiều đời, như: Bà Nguyệt Nga (14-43) - Tổ nghề trồng dâu nuôi tằm (Loa Tổ) thờ ở Tiên Phong, huyện Duy Tiên; Nguyễn Đức Năng (Trạng Sấm) - Tổ nghề trống Đọi Tam ở xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên; Trần Khánh Dư (1264 - 1329) - Tổ nghề dệt lụa Nha Xá ở Mộc Nam, huyện Duy Tiên; Trương Hán Siêu (1274 - 1354) - Tổ nghề mộc ở Cao Đà, huyện Lý Nhân; Thái Văn Lập (1625-1700) - Tổ nghề thuốc gia truyền ở An Mỹ, huyện Bình Lục; Nguyễn Văn Tấn (1892 - 1972) - Tổ nghề chạm sừng làng Đô Hai, xã An Lão, huyện Bình Lục; Nguyễn Văn Tiền (1886 - 1945) - Tổ nghề song mây ở Ngọc Động, Hoàng Đông, Duy Tiên…

Hà Nam là một trong những địa phương ở Bắc Bộ diễn ra sự kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa của cộng đồng người Việt trồng lúa nước với Đạo Phật từ bên ngoài du nhập vào, tạo nên một

Page 390: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

460

loại hình tôn giáo có bản sắc riêng, độc đáo, đó là tín ngưỡng thờ Tứ Pháp. Những ngôi chùa Phật giáo chính thống ở Hà Nam không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng mà còn là thiết chế văn hóa, thể hiện cách ứng xử văn hóa của cư dân Hà Nam xưa chuyên trồng lúa nước ở một vùng chiêm trũng.

Hà Nam cũng là nơi đạo Thiên chúa du nhập vào khá sớm, từ thế kỷ XVI - XVII, có những nhà thờ có tuổi đời mấy trăm năm, tiêu biểu như Nhà thờ Kiện Khê mang dáng vẻ kiến trúc phương Tây nổi bật giữa chốn làng quê chiêm trũng.

Với sự ra đời và phát triển, hòa đồng của các tín ngưỡng, tôn giáo như vậy, cho thấy tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân Hà Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm.

Truyền thống lịch sử, văn hiến phong phú, dày dặn và giàu bản sắc của Hà Nam, là thành quả của nhiều thế hệ người dân Hà Nam xây đắp nên đã từ bao đời. Truyền thống ấy là niềm tự hào, là vốn liếng quý báu nhất để các thế hệ người Hà Nam hôm nay và mai sau phát huy trong công cuộc xây dựng Hà Nam ngày một giầu đẹp, cùng với các vùng miền và nhân dân cả nước vươn mình đứng dậy, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đưa nước Việt Nam phát triển nhanh, bền vững tới giàu mạnh, văn minh, xứng đáng với công lao khai phá, giữ gìn và vun đắp của tiền nhân.

Page 391: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

461

ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO “TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA” TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ NAM

THS. NGUYỄN ĐỨC TOÀN * Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”

là một trong bốn nhóm giải pháp lớn được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ khi phát động cho đến nay, phong trào đã được triển khai thực hiện ngày càng sâu rộng trong cả nước nói chung, tỉnh Hà Nam nói riêng, thực sự trở thành một cuộc vận động văn hóa lớn, có tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Năm 1997, tỉnh Hà Nam được tái lập sau 32 năm hợp nhất (Hà Nam Ninh, Nam Hà), nên việc triển khai thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được kế thừa thành quả xây dựng gần 20 năm qua. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song đến nay kinh tế của tỉnh có tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, cơ sở kỹ thuật hạ tầng được đầu tư, nâng cấp và xây dựng mới, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện, niềm tin của nhân dân vào lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới ngày càng củng cố và nâng cao.

* Giám đốc Sở Văn hoá, Thê thao và Du lịch Hà Nam.

Page 392: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

462

Hà Nam là tỉnh sớm triển khai phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa. Phong trào thi đua xây dựng Làng văn hoá đã nhanh chóng trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong phong trào thi đua yêu nước. Nếu như năm 1997, khi mới tái lập tỉnh, Hà Nam chỉ có 6 làng được công nhận là “Làng văn hoá”, thì đến hết năm 2014, Hà Nam đã có 1.018 thôn, làng được công nhận là “Làng văn hóa”. Phong trào xây dựng “Gia đình văn hoá” đã trở thành phong trào sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Các mô hình “Gia đình ít con”, “Gia đình vượt khó vươn lên”, “Gia đình ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”, “Gia đình làm kinh tế giỏi”… đã được nhân rộng và có tác dụng nâng cao chất lượng danh hiệu “Gia đình văn hoá” hàng năm. Năm 2014, toàn tỉnh có 219.583 gia đình đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”. Phong trào xây dựng thiết chế văn hoá cơ sở đã được tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng. Hoạt động của hệ thống nhà văn hoá cơ sở bước đầu đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Tính đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh có trên 2000 điểm vui chơi cho trẻ em, 109 điểm bưu điện văn hoá xã, 958 thôn, làng có nhà văn hoá và nhà văn hóa liên tổ độc lập; 116 xã phường, thị trấn có hội trường làm nơi sinh hoạt. Phong trào đã có sự kế thừa và phát huy, phát triển trong nhiều năm qua; công tác thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh; hàng năm in hàng ngàn bản tài liệu “Hỏi đáp về thực hiện phong trào”; tham mưu ban hành nhiều kế hoạch, hướng dẫn thực hiện hiện phong trào. Tập san văn hóa, thể thao và du lịch là diễn đàn trao đổi của ngành đã tập trung đề cập nhiều vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Đó là những bài học cụ thể, những bài học kinh nghiệm giúp cơ sở thực hiện. Mở các lớp tập huấn với nhiều chuyên đề thiết thực giúp cơ sở, nhất là các cán bộ văn hóa - xã hội cấp xã, phường, thị trấn triển khai tốt công việc. Đặc biệt từ khi thực hiện Chương trình phát triển toàn diện đời sống văn hoá cơ sở của Tỉnh uỷ Hà Nam, Đề án Xây

Page 393: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

463

dựng thiết chế văn hoá cơ sở, Đề án nâng cao chất lượng công nhận các danh hiệu văn hoá...các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao tăng về số lượng, đa dạng về loại hình, từng bước được đổi mới và nâng cao chất lượng; các giá trị văn hoá truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc được giữ gìn và phát huy. Ở nhiều địa phương, việc vận động thực hiện chương trình, đề án xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp, làm dấy lên khí thế cách mạng của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

Trên cơ sở tổng kết nhiều điển hình văn hóa, những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn trong cả nước, đặc biệt trong tỉnh Hà Nam, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã luôn chú ý tới các nội dung cơ bản: Đẩy mạnh phát triển kinh tế, giúp nhau làm giàu chính đáng, xóa đói giảm nghèo; xây dựng tư tưởng chính trị lành mạnh, giữ vững an ninh chính trị, chính quyền trong sạch vững mạnh, chấp hành tốt mọi chính sách pháp luật của Nhà nước; xây dựng hương ước, quy ước làng, xóm; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Phát huy thuần phong mỹ tục, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phong trào xanh, sạch, đẹp…

Đảng và Nhà nước ta đã chỉ ra mục tiêu, nhiệm vụ và phương châm, phương pháp xây dựng nông thôn mới nói chung. Đó là tiến lên xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, bền vững, xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhưng nhìn vào thực tế thì việc tìm bước đi và giải quyết các bức xúc, các mâu thuẫn đang đặt ra bằng chính sách, hành động đang diễn ra ở cơ sở, không phải là việc làm dễ dàng.

Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới của Chính phủ bao gồm 19 tiêu chí, có hai nhóm tiêu chí thuộc lĩnh vực ngành văn hóa, thể thao và du lịch; đó là tiêu chí về Cơ sở vật chất văn hóa và tiêu chí Văn hóa cũng là một trong nhiều giải pháp đang được các cấp, các ngành quyết tâm thực hiện.

Page 394: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

464

Phong trào đó bao gồm các phong trào hiện có như: Người tốt, việc tốt, Uống nước nhớ nguồn, Đền ơn đáp nghĩa, Xóa đói giảm nghèo và toàn bộ các phong trào ấy đều hướng vào cuộc thi đua yêu nước “Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong đó, nội dung xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đóng vai trò nòng cốt. Nhiều địa phương trong tỉnh có kế hoạch cụ thể, chỉ đạo, định hướng giữ nguyên các nhà văn hóa hiện có để chỉnh trang nâng cấp, vận động nhân dân hiến đất mở rộng diện tích khuôn viên nhà văn hóa, khu thể thao thôn. Chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của các nhà văn hóa thôn, làng hiện có; rà soát bổ sung hương ước, quy ước của làng phù hợp với nội dung xây dựng nông thôn mới. Đồng thời quan tâm chăm lo đến công tác cán bộ, giữ ổn định về an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, giải quyết kịp thời những mâu thuẫn phát sinh, góp phần ổn định trật tự an toàn thôn xóm, từ đó thúc đẩy các địa phương tập trung triển khai và sớm hoàn thành chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới.

Với quyết tâm của toàn Đảng bộ và nhân dân trong việc thực hiện xây dựng nông thôn mới, từ năm 2011 cho đến nay, Hà Nam có 18 xã đạt chuẩn “Nông thôn mới”. Nhiều thiết chế văn hóa - thể thao được xây dựng ngày một nhiều hơn, đẹp hơn, quy mô hơn đang làm thay đổi diện mạo xóm, làng. Điều đó đã góp phần rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.

Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh vực, nhất là văn hóa, thể dục - thể thao. Trong cộng đồng dân cư, mọi người dân phấn khởi yên tâm đóng góp xây dựng các thiết chế văn hóa và họ thấy rõ ý nghĩa của việc làm đó thiết thực phục vụ bản thân, gia đình và quê hương. Đặc biệt phong trào văn nghệ quần chúng phát triển mạnh về số lượng câu lạc bộ, bao gồm các loại hình, nội dung tổ chức hoạt động rất phong phú.

Trình độ dân trí và đời sống văn hóa tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt khi đã có các thiết chế văn hóa được xây dựng và hoạt động. Nhà truyền thống, mạng lưới thư viện,

Page 395: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

465

tủ sách pháp luật ở các Ủy ban nhân dân xã, ở các làng văn hóa đã thu hút hàng ngàn độc giả đến đọc sách, nghiên cứu tìm hiểu các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.

Tuy nhiên, tại các hội nghị đánh giá kết quả phong trào, nhiều ý kiến cho rằng: phong trào phát triển chưa đồng đều, bề rộng chưa đi đôi với chiều sâu, chất lượng chưa tương xứng số lượng, hiệu quả phong trào hạn chế. Điều đáng quan tâm là tỷ lệ “Gia đình văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” khá cao, nhưng nếp sống mới chậm hình thành, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội chưa có chuyển biến rõ rệt. Một số nhà văn hóa được xây dựng trước khi ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, hoặc sửa chữa từ nhà kho, nhà trẻ mẫu giáo nên quy mô nhỏ, thậm chí nhiều nhà văn hóa còn dột nát, khuôn viên chật hẹp, đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, nên số lượng nhà văn hóa thôn, xóm đạt tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chưa cao.

Từ kết quả đạt được của phong trào và thực tiễn cơ sở, tỉnh Hà Nam đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm, một số biện pháp thực hiện nhằm đẩy mạnh Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trong xây dựng nông thôn mới:

Một là: Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự quan tâm lãnh đạo của cấc cấp chính quyền. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, đoàn thể và các ban ngành. Sự thống nhất chỉ đạo từ Trung ương đến cơ sở.

Hai là: Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động quần chúng tham gia thực hiện phong trào. Kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện trên thực tế cho thấy phải có sự chỉ đạo quyết liệt của cấp uỷ Đảng, chính quyền, cán bộ có trình độ, nhiệt tình, tham mưu tốt thì phong trào tốt, phát huy được hiệu quả, kinh tế xã hội phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên. Do vậy, phong trào không còn là nhiệm vụ của riêng ngành nào, mà huy động được tổng lực hệ thống chính trị cùng tham gia chỉ đạo và thực hiện.

Page 396: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

466

Ba là: Phải tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc. Chú trọng nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, giải quyết những vướng mắc ở cơ sở, xây dựng mới, đi đôi với củng cố và nâng cao chất lượng xây dựng và công nhận các danh hiệu văn hóa.

Bốn là: Thường xuyên kiện toàn Ban Chỉ đạo từ tỉnh xuống cơ sở; xây dựng cơ chế hoạt động của Ban Chỉ đạo về chế độ giao ban: Cấp xã 1 tháng giao ban 1 lần để nắm bắt và chỉ đạo kịp thời phong trào; cấp huyện 3 tháng giao ban 1 lần; Ban chỉ đạo tỉnh 6 tháng giao ban một lần; Sau 1 năm (12 tháng), Ban Chỉ đạo tỉnh tiến hành sơ kết đề ra kế hoạch năm sau.

Năm là: Tăng cường quản lý nhà nước về kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa, thể dục- thể thao ở cơ sở để sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch phát triển theo định hướng của Đảng.

Sáu là: Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhân dân tự giác tham gia tạo đà cho phong trào phát triển vững chắc. Phát động thi đua trong toàn tỉnh học tập các điển hình tiên tiến. Động viên kịp thời địa phương có phong trào phát triển mạnh trong xây dựng nông thôn mới. Duy trì và nhân rộng làng văn hóa điển hình.

Bảy là: Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá cơ sở. Đặc biệt cán bộ văn hoá xã, phường, thị trấn, cán bộ văn hoá bán chuyên trách ở các địa phương trong tỉnh.

Với sự quyết tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, đoàn thể, đặc biệt sự tham gia hưởng ứng mạnh mẽ, đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, nhất định phong trào xây dựng đời sống văn hoá cơ sở sẽ tiếp tục phát triển, đạt được những kết quả, thành tựu to lớn hơn nữa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới.

Page 397: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

467

CÔNG TÁC QUẢN LÝ, BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HOÁ Ở

HÀ NAM TRONG THỜI GIAN QUAĐỊNH HƯỚNG TRONG THỜI GIAN TỚI

THS. LÊ XUÂN HUY *

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, tỉnh Hà Nam được hình thành, bồi đắp, tạo dựng nên một kho tàng di sản văn hóa đồ sộ, phong phú và giàu bản sắc riêng, cả về lĩnh vực vật thể và phi vật thể. Đó là hồn cốt, là “căn cước” của tỉnh Hà Nam mà không phải địa phương nào cũng có được. Những di sản văn hóa Hà Nam luôn được các thế hệ người Hà Nam giữ gìn, bồi đắp, trao truyền trong quá trình chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước, trong lao động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Trong kho tàng những di sản văn hoá của tỉnh Hà Nam đó, có nhiều di sản không chỉ là tài sản riêng của vùng đất và con người Hà Nam, mà còn là tài sản vô giá của đất nước Việt Nam. Cùng với thời gian, các giá trị kết tinh trong di sản văn hóa đó như một dòng chảy âm thầm, lặng lẽ nhưng có khả năng to lớn, là cội nguồn, nền tảng tạo nên hệ giá trị của văn hóa dân tộc hôm nay và mai sau.

Để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá, lịch sử của các di sản văn hoá của đất nước, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65 ấn định nhiệm vụ cho Đông Phương Bác Cổ Học Viện

* Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL Hà Nam.

Page 398: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

468

nhiệm vụ “Bảo tồn cổ tích trong toàn cõi Việt Nam”, đồng thời “cấm phá huỷ những đình, chùa, đền, miếu, hoặc những nơi thờ tự khác, cung điện thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá huỷ những bia ký, đồ vật chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính chất tôn giáo hay không, nhưng có lợi ích cho lịch sử mà được bảo tồn”. Phát huy nhiệm vụ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, nghị định, pháp lệnh, luật nhằm tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy di sản văn hoá của đất nước.

Trong thời gian qua, công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá của tỉnh Hà Nam luôn được xác định là một nhiệm vụ có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Hà Nam. Quán triệt các văn bản chỉ đạo của Trung ương, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp, giúp đỡ của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự tham gia ủng hộ của toàn thể nhân dân trong tỉnh, công tác quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa Hà Nam đã thu được nhiều kết quả.

Theo thống kê, hiện nay trên địa bàn tỉnh Hà Nam có 1.784 di tích, trong đó có 551 đình, 490 ngôi chùa, 306 ngôi đền và các loại miếu, phủ, văn chỉ, từ đường. Với một số lượng di tích lớn như vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa lịch sử của di tích không phải điều đơn giản. Những năm qua, đặc biệt là từ khi tỉnh Hà Nam được tái lập năm 1997, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất nhưng ngành Văn hoá, Thể thao và Du Lịch từ tỉnh đến cơ sở đã thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị của di tích.

Trước hết, Tỉnh đặc biệt chú trọng tới công tác lập hồ sơ xếp hạng di tích nhằm tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác bảo vệ, trùng tu và phát huy giá trị di tích. Công tác xếp hạng

Page 399: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

469

di tích được thực hiện theo một trình tự đảm bảo tính dân chủ, công khai chặt chẽ và khoa học. Nhờ đó, số lượng di tích lịch sử - văn hóa ở Hà Nam được xếp hạng di tích cấp Quốc gia, cấp tỉnh đã tăng nhanh, đạt và vượt mức so với chỉ tiêu đề ra. Mỗi năm bình quân tỉnh Hà Nam xếp hạng được từ 7-10 di tích cấp tỉnh, 1-2 di tích cấp Quốc gia. Tính đến nay, toàn tỉnh có 164 di tích, cụm di tích được xếp hạng, trong đó có 80 di tích cấp Quốc gia, 84 di tích cấp tỉnh. Đặc biệt, năm 2013, Bia Sùng Thiện Diên Linh đã được Nhà nước công nhận là Bảo vật Quốc gia.

Cùng với công tác lập hồ sơ xếp hạng di tích, công tác khoanh vùng bảo vệ di tích đã được Tỉnh quan tâm chú trọng. Từ năm 2000 - 2002, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tham mưu với Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức cắm mốc cho một số di tích trọng điểm là các cụm di tích kết hợp giữa công trình kiến trúc nghệ thuật và thắng cảnh: Đền Trúc - Ngũ Động Sơn (xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng); Núi Đọi (xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên); Kẽm Trống (xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm); Núi Châu (thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm). Đây là những di tích có giá trị tiêu biểu về mặt lịch sử và cảnh quan thiên nhiên đẹp. Số di tích xếp hạng cấp quốc gia, cấp tỉnh, trong quá trình lập hồ sơ đều được tiến hành khoanh vùng bảo vệ đảm bảo theo đúng quy định của luật. Để bảo vệ những vùng núi đá có cảnh quan đẹp, tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn và Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố tổ chức khảo sát, lập phiếu khu vục cấm, tạm thời cấm hoạt động khai thác khoáng sản đối với 13 di tích và danh thắng (di tích kiến trúc nghệ thuật, hang động, đồi núi có cảnh quan thiên nhiên đẹp, các công trình kiến trúc kết hợp với cảnh quan thiên nhiên).

Trong những năm qua, công tác tu bổ, tôn tạo di tích ở Hà Nam được các cấp, ngành và toàn xã hội quan tâm. Ngoài các văn bản có tính pháp qui của Nhà nước, tỉnh Hà Nam cũng ban hành nhiều quy định, chính sách cụ thể về việc tu bổ, tôn tạo di tích. Các di tích được trùng tu, tôn tạo có thiết kế, phê

Page 400: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

470

duyệt và có ý kiến đóng góp của các chuyên gia, cơ quan chuyên môn. Tính đến nay, đã có gần 80 di tích trong tỉnh được tu bổ bằng nguồn vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia; trong đó có 11 di tích được đầu tư tu bổ lớn, gồm: Chùa Long Đọi Sơn, Từ đường Nguyễn Khuyến, Đình Vị Hạ, Đình Đồng Du Trung, Đền Trần Thương, Đình Văn Xá, Đình Hoà Ngãi, Đình An Hoà, Chùa Quế Lâm, Đền Trúc, Chùa Bà Đanh... Hầu hết các di tích được tu bổ, tôn tạo đều khang trạng, đẹp đẽ nhưng vẫn giữ được những yếu tố gốc của di tích cổ, đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.

Xã hội hoá các hoạt động văn hóa, trong đó có việc trùng tu, tôn tạo di tích là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Quán triệt chủ trương đó, trong những năm qua, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Nam đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các địa phương, khuyến khích vận động các tổ chức, cá nhân trong việc xã hội hoá hoạt động tu bổ di tích. Vì vậy, cùng với nguồn kinh phí nhà nước thì nguồn vốn xã hội hóa ngày càng đóng vai trò quyết định đối với việc bảo tồn di tích. Theo thống kê những năm gần đây, mỗi năm nhân dân địa phương, các tổ chức xã hội trong và ngoài tỉnh công đức từ 20-30 tỷ đồng tu bổ, tôn tạo các di tích. Chỉ tính riêng từ năm 2013-2014, nguồn vốn do nhân dân đóng góp đã lên đến hàng vài chục tỷ đồng.

Nhằm tiếp tục phát hiện những trầm tích văn hóa của tổ tiên còn ẩn tàng trong đồng đất quê hương, nhiều năm qua, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Nam đã phối hợp với Viện khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tổ chức nhiều đợt điều tra thám sát khảo cổ học tại 03 huyện Thanh Liêm, Duy Tiên, Kim Bảng. Thông qua các cuộc nghiên cứu, khai quật khảo cổ đã thu được nhiều hiện vật, tư liệu có giá trị đưa về lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh và trưng bày tại điểm di tích. Theo thống kê, hiện nay tại Bảo tàng tỉnh đã lưu giữ trên 4.000 hiện vật, tài liệu gốc, được lập hồ sơ khoa học bảo quản và trưng bày phục vụ du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, học tập và nghiên cứu.

Page 401: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

471

Kho tàng văn hóa phi vật thể của Hà Nam vừa phong phú về loại hình, vừa có những nét riêng độc đáo của vùng đồng chiêm trũng. Đó là những làn điệu dân ca, chuyện kể dân gian, nghi thức lễ hội, những trò chơi, hình thức diễn xướng, âm nhạc, nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực,… đã và đang được người Hà Nam gìn giữ và trao truyền.

Những năm qua, cùng với việc nâng cao đời sống kinh tế của nhân dân, thì công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể cũng được tỉnh Hà Nam quan tâm và đầu tư. Để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể, năm 2007, 2008, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Viện Văn hóa - Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tiến hành tổng kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên toàn tỉnh. Trên cơ sở thực trạng đó, Tỉnh đã đề ra những giải pháp phù hợp để bảo tồn đối với những di sản đang có nguy cơ bị mai một. Đồng thời, lãnh đạo ngành văn hóa Hà Nam cũng quán triệt công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể Hà Nam phải gắn liền với việc xây dựng đời sống văn hóa, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, thực hiện tốt phương châm “xây” đi đôi với “chống”. Với những việc làm trên, nhiều di sản văn hóa phi vật thể như các làn điệu hát dặm, hát trống quân, hát chèo... nhiều lễ hội dân gian, làng nghề truyền thống được bảo tồn và phát huy có hiệu quả. Các điệu múa, điệu hát như hát múa Lải Lèn, hát Dậm Quyển Sơn, hát Chèo ngày được nhân rộng tại các địa phương. Tính đến thời điểm hiện nay, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Cục Di sản Văn hoá, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam thực hiện 10 dự án bảo tồn, gồm: Làng nghề Đồ Sừng Mỹ nghệ Đô Hai (huyện Bình Lục); Làng nghề trống Đọi Tam; Nghề Dệt Lụa Nha Xá; Làng nghề mây tre đan Ngọc Động (huyện Duy Tiên); Làng nghề gốm Quyết Thành, huyện Kim Bảng; múa hát Lải Lèn; Làng nghề Đan Cót Thọ Chương (huyện Lý Nhân). Đặc biệt, năm 2013 Nghi lễ Chầu văn của người Việt tại Hà Nam đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ghi vào Danh mục Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.

Page 402: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

472

Hà Nam là tỉnh thuần nông, diện tích không lớn, dân số không đông, nhưng trên địa bàn tỉnh lại có trên 100 lễ hội truyền thống, với đủ loại hình: lễ hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo - tín ngưỡng, lễ hội lịch sử. Trong những năm qua, phần lớn các lễ hội trên đã được Hà Nam phục dựng theo đúng những nghi thức truyền thống, thu hút được đông đảo nhân dân và khách thập phương tới dự. Trong số lễ hội được phục dựng, đáng chú ý nhất là Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn (huyện Duy Tiên), với sự phối hợp của Viện Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (Bộ VH-TT&DL), của tỉnh và huyện Duy Tiên. Đặc biệt, Hà Nam đã tổ chức Lễ Phát lương Đức Thánh Trần ở Đền Trần Thương, huyện Lý Nhân.

Đối với các lễ hội mang tính chất vùng, Sở VH-TT&DL đã phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân các huyện và Ban tổ chức lễ hội, chỉ đạo quản lý chặt chẽ nội dung hoạt động của lễ hội; tuyên truyền cho cán bộ, nhân dân và lực lượng tham gia phục vụ lễ hội thực hiện tốt quy định về thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội, trong giao tiếp ứng xử và quản lý tốt các dịch vụ tại lễ hội, đồng thời yêu cầu các đơn vị xây dựng các phương án bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông và đảm bảo vệ sinh môi trường. Sở VH-TT&DL luôn chủ động phối hợp với Ủy ban nhân các huyện, thành phố tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động của lễ hội, có biện pháp xử lý kịp thời những sai phạm trong lĩnh vực tổ chức và quản lý, ngăn chặn kịp thời các biểu hiện tiêu cực trong lễ hội như: mê tín dị đoan, đặt quá nhiều hòm công đức, đặt lễ, đặt tiền giọt dầu, lưu hành văn hóa phẩm trái phép, nâng giá, ép giá dịch vụ đối với một số lễ hội vùng.

Đạt được những kết quả trên, trong những năm qua, ngành văn hoá, thể thao và du lịch tỉnh Hà Nam đã xác định công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản là một trọng tâm và đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo hướng dẫn công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Cấp uỷ, chính quyền các cấp

Page 403: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

473

vào cuộc tích cực, kịp thời trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá Hà Nam. Công tác thanh, kiểm tra từ tỉnh tới cơ sở hoạt động thường xuyên, hiệu quả, đã xử lý kịp thời các biểu hiện tiêu cực trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Công tác tuyên truyền được nâng cao, hiệu quả. Sự tham gia tích cực của các nhà khoa học về sưu tầm, nghiên cứu các giá trị văn hoá trong lễ hội, điệu múa, điệu hát, phong tục tập quán...là cơ sở khoa học để các nhà quản lý tham khảo xây dựng chính sách và định hướng nâng cao nhận thức của nhân dân.

Trong bối cảnh đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; giao lưu, hội nhập ngày càng mạnh mẽ với khu vực và thế giới, di sản văn hóa của cả nước nói chung, Hà Nam nói riêng luôn tiềm ẩn nguy cơ bị mai một và có thể biến mất. Bởi vậy, bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc nói chung, Hà Nam nói riêng trong sự phát triển toàn diện đất nước, làm cho di sản văn hóa tiếp tục tỏa sáng trong giao lưu, hội nhập là vô cùng quan trọng. Để tiếp tục thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá ở Hà Nam trong thời gian tới, ngành văn hoá, thể thao và du lịch từ tỉnh tới cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng bảo tồn đảm bảo các nguyên tắc của Công ước quốc tế về bảo tồn và phát huy giá trị di sản và Luật Di sản văn hóa quy định; kết hợp đồng bộ giữa trùng tu di tích với xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật; tiến hành sưu tầm, tổ chức trưng bày các hiện vật độc đáo. Bên cạnh đó, cần tiếp tục tăng cường công tác nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng các yêu cầu về thiết lập dự án, hoạch định chương trình bảo tồn, cung cấp các luận cứ khoa học góp phần vào quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội; thẩm định các giá trị về văn hóa phi vật thể để có biện pháp bảo tồn các lễ hội, các loại hình nghệ thuật thiết thực, hiệu quả.

Năm 2012, Sở VH-TT&DL Hà Nam đã tham mưu xây dựng và trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt và ban hành Quy

Page 404: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

474

hoạch Phát triển văn hóa, thể dục thể thao tỉnh Hà Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030; trong đó xác định một số nhiệm vụ cụ thể trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Hà Nam, đó là:

- Đối với lĩnh vực di sản văn hoá vật thể: Xây dựng Quy hoạch tổng thể di tích lịch sử - văn hoá trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Mỗi năm tu bổ, tôn tạo từ 4-5 di tích. Đẩy mạnh nguồn vốn xã hội hoá trong công tác tu bổ, tôn tạo di tích. Thực hiện quản lý tốt các khu di tích trọng điểm. Đẩy mạnh công tác lập hồ sơ xếp hạng di tích, mỗi năm xếp hạng thêm 2-3 di tích cấp quốc gia, 10-15 di tích cấp tỉnh. Lập hồ sơ đề nghị công nhận bảo vật quốc gia. Hoàn thành giai đoạn II Dự án trưng bày nội thất Bảo tàng tỉnh và xây dựng nâng cấp Bảo tàng tỉnh thành Bảo tàng loại II. Phấn đấu đến năm 2020 có 70-80% tài liệu hiện vật được bảo quản và trưng bày bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại. Thành lập 01 Bảo tàng tư nhân hoặc bộ sưu tập tư nhân. Phấn đấu đến năm 2030, cơ bản hoàn thành công tác tu bổ, tôn tạo các di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh.

- Đối với lĩnh vực di sản văn hoá phi vật thể: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu sưu tầm, phục hồi các loại hình dân ca, dân vũ, dân nhạc; nghiên cứu phục hồi trò chơi dân gian múa rối nước tại thôn Nội Rối, múa rối cạn thôn Chương Lương thuộc xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân. Xây dựng Quy hoạch và thực hiện bảo tồn, phát huy 40 làng nghề thủ công truyền thống. Lập hồ sơ khoa học đối với di sản văn hoá tiêu biểu đề nghị Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia như: Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn huyện Duy Tiên, Hội Vật võ Liễu Đôi,…Xây dựng Quy hoạch lễ hội trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Tiến hành kiểm kê di sản văn hoá phi vật thể trên địa bàn tỉnh Hà Nam theo Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du Lịch Quy định việc kiểm kê di sản văn hoá phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hoá phi vật thể để đưa vào danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.

Page 405: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

475

Định hướng đến năm 2030: Nhiều di tích được phục hồi và phát triển bền vững. Tham mưu UBND tỉnh có văn bản gửi Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để đề nghị Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu Nghi lễ Chầu văn của người Việt là di sản văn hoá nhân loại.

Page 406: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

476

DU LỊCH HÀ NAMTIỀM NĂNG VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

TRẦN VĂN TIẾN *

Hà Nam là một vùng đất cổ, trũng nằm ở phía Tây Nam

đồng bằng Bắc Bộ. Cách nay trên dưới 5.000 năm, người Việt cổ đã tụ cư và khai thác vùng đất này. Thành lập năm 1890, sau nhiều lần tách, nhập thành Hà Nam Ninh, Nam Hà, ngày 1/1/1997, tỉnh Hà Nam đã được tái lập. Tỉnh Hà Nam hiện nay, phía Bắc giáp Hà Nội, phía Nam giáp Ninh Bình, phía Đông giáp Hưng Yên, Thái Bình, phía Tây giáp Hòa Bình; có diện tích tự nhiên 851,7km2, chia làm 5 huyện và 1 thành phố; Tổng dân số của tỉnh là 827.639 người (kết quả điều tra năm 2006), theo hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo.

Với vị thế nằm ở cửa ngõ phía Nam của Thủ đô Hà Nội; nằm bên Quốc lộ 1A, có đường sắt Bắc - Nam chạy qua; các tuyến đường thủy: sông Đáy, sông Hồng, sông Châu, sông Nhuệ tạo điều kiện thuận lợi cho Hà Nam giao lưu với các tỉnh, Hà Nam rất có lợi thế để phát triển du lịch; cả loại hình du lịch xuyên Việt, và du lịch cuối tuần của Hà Nội cũng như các tỉnh lân cận. Cùng với nó, tài nguyên du lịch của Hà Nam, cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đều rất phong phú và có nét riêng, đặc sắc không thể trộn lẫn với các địa phương khác trong cả nước.

* Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL Hà Nam.

Page 407: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

477

Về tài nguyên du lịch tự nhiên, thiên nhiên đã ưu đãi cho Hà Nam địa hình nhiều núi đá vôi kết hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều đã mang lại cho Hà Nam nhiều cảnh quan đặc sắc dạng Karst với những thắng cảnh nổi tiếng như: Hồ Tam Chúc, Hồ Ba Hang, Ngũ Động Sơn, Hang Luồn, Kẽm Trống, Bát cảnh tiên... Bên cạnh đó, hệ thống sông hồ dày đặc với vẻ đẹp thơ mộng của sông Hồng, sông Đáy, sông Châu… cùng với hệ sinh thái nông nghiệp vùng chiêm trũng điển hình là những nét độc đáo, có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch phong phú, hấp dẫn.

Về tài nguyên du lịch nhân văn, Hà Nam được biết đến với kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể hết sức phong phú. Các di tích lịch sử - văn hóa dày đặc, tiêu biểu là những di tích có giá trị nổi bật. Đó là Chùa Long Đọi Sơn, Đền Trúc, Đền Trần Thương, Đền Lảnh Giang, Chùa Bà Đanh, Đền Bà Vũ... Đó là tấm bia có từ thời Lý Sùng Thiện Diên Linh - Bảo vật Quốc gia. Trên đất Hà Nam, với gần 100 lễ hội truyền thống mang sắc thái vùng chiêm trũng tổ chức Xuân Thu nhị kỳ; trong đó có những lễ hội tiêu biểu, độc đáo cả nước, như Lễ hội Tịch điền - Đọi Sơn, Lễ phát lương đền Trần Thương. Hà Nam có các làng nghề đặc sắc như làng nghề làm trống Đọi Tam, dệt Nha Xá, gốm Quyết Thành, mây giang đan Ngọc Động, sừng mỹ nghệ Đô Hai... Hà Nam là quê hương của nghệ thuật độc đáo múa rối nước, được phản ánh trong tấm bia cổ có từ nghìn năm trước - Bia Sùng Thiện Diên Linh; là nơi sản sinh ra những làn điệu dân ca, dân vũ mang đậm dấu ấn sông nước đồng chiêm là múa hát Lải Lèn, hát Dậm Quyển Sơn, hát giao duyên Ngã Ba sông Móng... Hà Nam còn là đất khoa bảng với những danh nhân nổi tiếng trong lịch sử dân tộc như: Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, nhà văn hiện thực Nam Cao...; là quê hương của Phong trào thi đua “Hai Tốt” của ngành Giáo dục cả nước, với “Tiếng trống Bắc Lý” đến nay vẫn vang vang cả nước với hai lần được tuyên dương Anh hùng Lao động và Anh hùng Lao động thời kỳ Đổi mới. Ẩm

Page 408: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

478

thực Hà Nam dân dã, mang đậm hồn cốt của vùng quê chiêm trũng như: gạo tám, bánh đúc, cá kho, canh cua, trai, hến, bánh đa cá rô đồng, bánh cuốn chả, dưa cà, ốc đồng… Đặc biệt là món cá kho nổi tiếng của làng Đại Hoàng (hay còn gọi là cá kho Hòa Hậu). Mỗi món ăn thể hiện sự đậm đà, tinh tế, khiến du khách đến Hà Nam dù chỉ thưởng thức một lần cũng thật khó quên.

Một đặc điểm vô cùng thuận lợi cho phát triển du lịch là các tài nguyên du lịch Hà Nam phân bố khá tập trung và dễ tiếp cận, cách Hà Nội không xa, nằm trên các tuyến du lịch chính của quốc gia và gần các điểm du lịch nổi tiếng cả nước như: Chùa Hương, Chùa Bái Đính, Quần thể danh thắng Tràng An - Di sản văn hóa Thế giới, Cố đô Hoa Lư, Đền Trần Bảo Lộc (Nam Định), Phố Hiến (Hưng Yên)... Có thể nói, vị trí địa lý thuận lợi và tài nguyên du lịch đa dạng, phong phú là những điều kiện tốt để Hà Nam phát triển du lịch.

Trong thời gian qua, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch, UBND tỉnh Hà Nam đã tiến hành quy hoạch và tập trung đầu tư hạ tầng cho du lịch Hà Nam phát triển khá nhanh. Nhiều khu, điểm du lịch đã được quy hoạch, các dự án du lịch trọng điểm vẫn tiếp tục được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển sản phẩm như: Khu du lịch Tam Chúc, Khu du lịch Hồ Ba Hang, Khu du lịch Hoàng Sơn, các điểm du lịch Đền Trúc - Ngũ Động Sơn, Chùa Bà Đanh, Chùa Long Đọi Sơn, Đền Lảnh Giang, Đền Trần Thương, Từ đường Nguyễn Khuyến, Khu tưởng niệm nhà văn Nam Cao... Cơ sở vật chất của ngành cũng không ngừng được xây dựng. Hiện nay, Hà Nam có 71 cơ sở lưu trú (01 khách sạn 3 sao, 02 khách sạn 2 sao, 11 khách sạn 1 sao, 57 nhà nghỉ) với gần 1.000 buồng và 12 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa.

Số lượt khách du lịch đến với Hà Nam trong những năm qua không ngừng gia tăng, bình quân tăng đều qua các năm khoảng 20 đến 25%. Đơn cử, năm 2014, Hà Nam đón 650.000 lượt khách, trong đó có 636.350 lượt khách nội địa, 13.650 lượt khách quốc tế.

Page 409: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

479

Ngày khách lưu trú trung bình là 1,29 ngày. Doanh thu du lịch đạt 145 tỷ đồng.

Trong thời gian tới, Hà Nam tập trung đầu tư phát triển một số khu, điểm du lịch với các loại hình chính là du lịch văn hóa - tâm linh, nghỉ dưỡng và thể thao. Đặc biệt, huy động mọi nguồn lực để đầu tư xây dựng khu du lịch trọng điểm quốc gia Tam Chúc - Ba Sao với tổng diện tích quy hoạch là 5.100 ha thành khu du lịch đa chức năng, quy mô cấp vùng Thủ đô và định hướng quy mô cấp Quốc gia bao gồm các khu chức năng: Khu du lịch lòng hồ; khu văn hoá tâm linh; khu trung tâm đón tiếp, nghỉ dưỡng; khu sân gotf 36 lỗ; khu cây xanh và dịch vụ ven hồ; khu du lịch bảo tồn di tích và cảnh quan thiên nhiên và khu công viên đá kết hợp cây xanh cảnh quan và khu chức năng khác. Hiện nay đang gấp rút đầu tư xây dựng khu lòng hồ Tam Chúc, làng Việt Cổ và quần thể chùa Tam Chúc, cuối năm 2015 sẽ đón khách du lịch đến tham quan. Đây là điểm đột phá để thúc đẩy du lịch Hà Nam phát triển mạnh trong những năm tiếp theo. Bên cạnh đó, Hà Nam cũng tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống dịch vụ... để hỗ trợ cho sự phát triển của du lịch.

Về định hướng phát triển sản phẩm du lịch: Du lịch Hà Nam lấy khu du lịch Tam Chúc - Ba Sao là hạt nhân để phát triển nhóm sản phẩm chính (gồm: nhóm sản phẩm du lịch tự nhiên, nhóm sản phẩm du lịch văn hóa và nhóm sản phẩm du lịch đô thị) và nhóm sản phẩm liên kết (gồm: nhóm sản phẩm liên kết quốc gia, vùng, nhóm sản phẩm tổng hợp và nhóm sản phẩm chuyên đề).

Về định hướng tổ chức không gian và tuyến, điểm du lịch: Du lịch Hà Nam phát triển theo 2 trục chính: Trục Bắc - Nam (dọc theo tuyến du lịch xuyên Việt dọc quốc lộ 1A, đường cao tốc Bắc Nam và đường sắt Bắc Nam) và Trục Đông - Tây (dọc theo đường quốc lộ 21A, 21B cũng như khai thác các tuyến du lịch sông Đáy, sông Châu).

Page 410: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

480

Về các tuyến du lịch, Hà Nam đã và đang hình thành một số tuyến du lịch hấp dẫn như: Tuyến du lịch xuyên Việt (theo quốc lộ 1A); tuyến du lịch theo trục tâm linh (đường liên tỉnh Bái Đính - Tam Chúc - Chùa Hương); tuyến Quảng Ninh - Hải Dương - Hưng Yên - Hà Nam - Ninh Bình (theo quốc lộ 38); tuyến duyên hải Bắc Bộ: Quảng Ninh - Hải Phòng - Thái Bình - Nam Định - Hà Nam (theo quốc lộ 10); tuyến Hà Nội - Hà Nam - Nam Định - Thái Bình (theo quốc lộ 21); tuyến Tây Bắc: Các tỉnh Tây Bắc - Hoà Bình - Hà Nam - Hà Nội - Ninh Bình (về Hà Nam theo quốc lộ 21); tuyến du lịch sông Hồng kết nối Hà Nội - Hưng Yên - Hà Nam - Thái Bình - Nam Định.

Nằm trong xu hướng phát triển chung của du lịch Việt Nam và du lịch thế giới, du lịch Hà Nam cũng luôn coi trọng hướng phát triển bền vững. Theo Luật Du lịch: Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai. Đối với Hà Nam, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:

- Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước thông qua xây dựng và thực thi các chính sách khuyến khích, tạo ra sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vào lĩnh vực du lịch; Lập Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch trọng điểm quốc gia Tam Chúc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án tại khu du lịch Tam Chúc; Rà soát, đôn đốc triển khai nhanh các quy hoạch, dự án đầu tư du lịch hiện có; Tiếp tục rà soát, lập quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng tại các điểm có tiềm năng du lịch.

- Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cơ bản nhằm kích thích đầu tư từ bên ngoài và tạo tâm lý ổn định cho du khách cũng như doanh nghiệp; Đầu tư vào những điểm có khả năng phát triển du lịch cao và có khả năng mở rộng trong tương lai nhằm tránh sự phát triển nhỏ lẻ, không hiệu quả.

Page 411: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

481

- Thực hiện công tác thông tin xúc tiến du lịch thông qua các phương tiện truyền thông, các ấn phẩm giới thiệu về du lịch, các website; Tham gia các hội chợ, triển lãm, sự kiện du lịch; khảo sát phát triển sản phẩm du lịch; tổ chức mời các đoàn báo chí, doanh nghiệp lữ hành đến Hà Nam khảo sát; cung cấp thông tin cho khách du lịch trong nước và quốc tế.

- Hướng dẫn các doanh nghiệp du lịch nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch hiện có; Khuyến khích đầu tư xây dựng mới, mở rộng quy mô, tăng cường dịch vụ của các khách sạn, các khu, điểm du lịch đáp ứng được yêu cầu khi tỉnh đăng cai tổ chức các sự kiện lớn của khu vực và quốc gia.

- Chú trọng công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực: Chủ động hướng dẫn các doanh nghiệp kinh doanh du lịch xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ, nâng cao trình độ ngoại ngữ, từng bước tiêu chuẩn hóa đội ngũ lao động; Tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch, ngoại ngữ cho đội ngũ lao động của các doanh nghiệp du lịch; Cử cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về du lịch, xúc tiến du lịch tham gia các khóa đào tạo, tập huấn nghiệp vụ trong và ngoài nước.

- Tăng cường liên kết hợp tác phát triển du lịch với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc, trọng tâm là Ninh Bình, Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh; Tăng cường liên kết với các ngành, địa phương có liên quan và các đơn vị để triển khai công tác xúc tiến, quảng bá du lịch.

- Tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá, nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư về các lợi ích do du lịch mang lại; Tăng cường các biện pháp giáo dục tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân khi tham gia hoạt động du lịch nhằm làm cho họ nhận thức được rõ mối quan hệ qua lại chặt chẽ giữa lợi ích của họ với sự phát triển bền vững về du lịch của địa phương.

Page 412: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

482

- Thực hiện tốt việc bảo vệ tài nguyên du lịch, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự, văn hóa ứng xử trong các cơ sở kinh doanh du lịch, điểm tham quan du lịch. Phát triển kinh tế du lịch nhưng tuân thủ việc bảo vệ và phát huy giá trị các di sản tự nhiên, văn hóa. Sự phát triển bền vững của ngành sẽ phụ thuộc vào chính sự bảo đảm tất cả các bên liên quan đóng vai trò tích cực trong việc quản lý một cách thận trọng các nguồn lực tự nhiên và văn hóa. Có như vậy mới tạo ra được sức bật mà không làm mất đi hay hao mòn các giá trị sẵn có.

Trong tương lai gần, được sự quan tâm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh cùng với các tỉnh bạn trong việc liên kết phát triển du lịch chung của khu vực đồng bằng sông Hồng và nỗ lực vươn lên, du lịch Hà Nam sẽ có bước phát triển mới, bền vững, trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách bốn phương.

Page 413: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

483

HỘI THẢO “VĂN HIẾN HÀ NAM

TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI”LÀM SÁNG RÕ HƠN VỀ LỊCH SỬ MỘT

VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT CÓ BỀ DÀY VĂN HIẾN HÀNG NGÀN NĂM

CÓ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ VÀ CÁCH MẠNG HÀO HÙNG

(TỔNG KẾT HỘI THẢO)

PGS.TS NGUYỄN HỒNG VINH *

Qua một ngày làm việc, với tình yêu vùng đất Văn hiến Hà Nam, với ý thức nghiêm túc, trách nhiệm cao, Hội thảo “Văn hiến Hà Nam - Truyền thống và hiện đại” đến giờ phút này đã thành công tốt đẹp.

Được sự phân công của Đoàn Chủ tịch Hội thảo, tôi xin tóm lược những nội dung cơ bản đã được nêu lên tại Hội thảo này như sau:

I. VỀ MỤC TIÊU HỘI THẢO

1. Trên cơ sở kết quả các công trình nghiên cứu khoa học trong nhiều năm qua, các tham luận tại Hội thảo hôm nay làm sáng rõ hơn về lịch sử một vùng đất “địa linh nhân kiệt” có bề * Chủ tịch Hội đồng Lý luận và phê bình VHNT Trung ương.

Page 414: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

484

dày văn hiến hàng ngàn năm, có truyền thống lịch sử và cách mạng hào hùng nhằm giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân Hà Nam bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào về vùng đất chứa đựng bao kỳ tích quý hiếm, phong phú, đa dạng về văn hiến, đúng như ý kiến của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan - đó là “tài nguyên vô giá, sức mạnh quan trọng trong đổi mới, phát triển quê hương, đất nước hôm nay”.

2. Qua Hội thảo, giúp mỗi người thấy rõ hơn sức mạnh lớn lao của truyền thống văn hiến Hà Nam - đó là một trong những cơ sở rất quan trọng hun đúc tâm hồn, trí tuệ, bản lĩnh, khí phách con người Hà Nam - nền tảng tạo nên những chiến công chói lọi trong những năm đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc; đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong gần 30 năm đổi mới của Hà Nam vừa qua.

3. Đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm kế thừa và phát triển truyền thống văn hiến của Hà Nam lên tầm cao mới, biến nó thành động lực tinh thần mạnh mẽ, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tỉnh nhà vượt lên mọi khó khăn, thách đố, giành những thắng lợi to lớn hơn trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

II. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU ĐƯỢC ĐỀ CẬP TẠI HỘI THẢO

Các tham luận trong kỷ yếu cũng như các ý kiến phát biểu dù tiếp cận ở những lĩnh vực khác nhau, xem xét, phân tích ở các góc độ khác nhau, đều thống nhất cao về những nhận định cơ bản sau đây:

1. Qua Hội thảo,chúng ta đã làm rõ thêm những nét đặc sắc của vùng đất và con người Hà Nam, nơi có người Việt cổ từng cư trú cách đây 5000 năm:

- Đây là vùng quê núi Đọi - sông Châu, núi Quế - sông Ninh chứa trong lòng những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quí

Page 415: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

485

giá; Trong đó có những di sản độc đáo và nổi tiếng, như Trống đồng Ngọc Lũ - biểu tượng của nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ; Bi ký bia Sùng Thiện Diên Linh ghi chỉ dụ của vua Lý Nhân Tông; sách đồng Bắc Lý; lễ hội Tịch điền Đọi Sơn - Lễ hội nông nghiệp cổ nhất Việt Nam; văn hóa dân gian Liễu Đôi với bản trường ca 9.000 câu thơ “Hoàn vương ca tích”; đặc biệt là kho tàng di sản văn hóa Hán - Nôm đồ sộ…

- Hà Nam cũng là quê hương của các anh hùng dân tộc, như Thiện Công, Vương Công (thời Hùng Vương); Cao Thị Liên, Quỳnh Châu; các nữ tướng Nguyệt Nga, Lê Chân (Thời Hai Bà Trưng); Nguyễn Ninh, Nguyễn Tính (thời Đinh), Lê Hoàn (thời Tiền Lê); Trần Bình Trọng (thời Trần); Đinh Công Tráng, nhân vật lịch sử tiêu biểu trong phong trào Cần vương kháng Pháp cuối thế kỷ 19…. Trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, Hà Nam có 560 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 21 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, hàng trăm ngàn liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với nước.

- Hà Nam còn là vùng đất khoa bảng thời phong kiến với 94 vị đỗ đại khoa, trong đó có 2 vị xuất sắc nhất là Nguyễn Quốc Hiệu và Nguyễn Khuyến; có 5 vị quan hạng Tế tửu Văn Miếu - Quốc Tử Giám

- Hà Nam cũng là quê hương của những danh sĩ, nghệ sĩ xuất chúng trong lịch sử xưa, như Lý Trần Thân, Trương Công Giao, Dương Bang Bân, Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, nhà nghiên cứu xuất sắc Bùi Kỷ… Kể từ khi thành lập Đảng năm 1930, xuất hiện nhà văn Nam Cao, một trong những nhà văn xuất sắc nhất, độc đáo nhất, đặc sắc nhất của nền văn học Việt Nam; nhà báo, nhà chính luận tài ba Hoàng Tùng; là các nhạc sĩ được công chúng cả nước mến mộ, như Phong Nhã, Huy Thục, Trần Chung….; các nghệ sĩ sân khấu kỳ tài, như Dịu Hương, Bạch Trà - những bông hoa đẹp của sân khấu Việt Nam thế kỷ 20, cả hai đều được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân đợt đầu năm 1984; và nhiều nghệ sĩ tên

Page 416: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

486

tuổi khác, như NSND Lê Huệ, từng giữ cương vị là Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam Ninh.

- Hà Nam cũng là mảnh đất sinh ra những nhà khoa học xuất chúng, các nhà hoạt động chính trị, quân sự nổi tiếng, như đồng chí Lương Khánh Thiện, Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của Hà Nam, người chiến sĩ cộng sản kiên cường đã bị thực dân Pháp xử bắn ngày 1/9/1941 tại Kiến An, Hải Phòng; là Nguyễn Hữu Tiến, người vẽ lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên trong nhà tù thực dân; là Thiếu tướng Trần Tử Bình văn võ song toàn; là Trung tướng Phạm Xuân Thệ, một trong những người có mặt đầu tiên ở Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975 chứng kiến sự đầu hàng vô điều kiện của ngụy quyền Sài Gòn; là GS,TS. Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 2007 đến nay, vừa được Hội nghị thượng đỉnh Phụ nữ toàn cầu diễn ra ở Braxin tháng 5/2015, trao tặng danh hiệu cao quý “Lãnh đạo Nhà nước toàn cầu”… Đó còn là các nhà khoa học đầu ngành, mà tiêu biểu là GS Trần Quốc Vượng, người tiên phong sáng lập ngành khảo cổ học Việt Nam; người lúc sinh thời nặng lòng mến yêu hết thảy miền quê núi Đọi, sông Châu, đã trực tiếp nghiên cứu và nêu những định đề về nghiên cứu và khai thác những giá trị đặc sắc của văn hóa “đồng chiêm trũng”…

- Hà Nam còn là một trong những cái nôi của nghệ thuật truyền thống, như hát chèo ở Lý Nhân, Kim Bảng một loại hình nghệ thuật phát triển rộng ở đồng bằng Bắc Bộ, chèo Hà Nam theo nhiều người nhận xét là hay nhất, đặc sắc nhất; rồi hát tuồng ở Duy Tiên, Bình Lục; hát dậm ở Quyền Sơn; múa hát Lải Lèn ở Bắc Lý, Lý Nhân; Dân ca giao duyên ở Ngã ba sông Móng…

- Hà Nam cũng là quê hương của những làng nghề thủ công nổi tiếng, như: lụa Nha Xá, mây tre Ngọc Động, sừng mỹ nghệ Đô Hai; thêu ren An Hòa, mộc Cao Đà, gốm Đinh Xá, trống Đọi Tam…

- Về những phẩm chất của con người Hà Nam, một số tham luận trong đó có tham luận của đồng chí Trần Quốc Hùng, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy nhấn mạnh lòng yêu nước, thương nòi,

Page 417: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

487

yêu hòa bình, trọng tình nghĩa, ý chí bất khuất chống ngoại xâm; tinh thần thượng võ, tương thân, tương ái; đức tính cần cù, siêng năng, chịu khó học hỏi; khả năng sáng tạo, tiếp biến văn hóa và truyền thống hiếu học… Tất cả những phẩm chất tốt đẹp ấy làm nên sức mạnh nội sinh to lớn, biến vùng đất trũng từng là “chiêm khê mùa thối” ở đồng bằng Bắc Bộ xưa kia, thành một trong những vùng quê trù phú ở các tỉnh phía Bắc nước ta. Từ chỗ thiếu đói quanh năm, nay số đông nông dân đã có “của ăn của để”, cuộc sống được cải thiện rõ nét; nhà ngói, mái bằng mọc lên san sát, đường làng, ngõ xóm phong quang, làm thay đổi cả diện mạo làng quê vào thời công nghiệp hóa. Đây là cơ sở quan trọng để Hà Nam tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, giữ vững an ninh - quốc phòng, bảo tồn và phát huy mạnh mẽ bản sắc văn hóa dân tộc.

2. Việc kế thừa và phát huy một số truyền thống văn hóa nổi bật trong sự nghiệp xây dựng và phát triển Hà Nam hôm nay.

Bằng sự tiếp cận nhiều chiều cạnh của truyền thống văn hóa Hà Nam, một số tham luận tập trung phân tích, nêu rõ ý nghĩa và tầm lan tỏa rộng trong các tầng lớp nhân dân qua một số di sản văn hóa đặc sắc, như Lễ hội tịch điền Đọi Sơn thời Lê Đại Hành; truyền thống “Dạy tốt, học tốt” của Trường cấp 2 Bắc Lý từ những năm 60 của thế kỷ 20…

Với “Lễ hội tịch điền”, lần đầu được diễn ra tại vùng Đọi Sơn, do chính vua Lê Đại Hành, nhà chính trị - quân sự đại tài, đã từng “phá Tống, bình Chiêm”; nhà ngoại giao xuất sắc, nhà kinh tế nông nghiệp uyên thâm, đích thân chủ trì lễ hội. Đây là một nghi lễ khuyến nông quan trọng thời phong kiến ở các nước Á Đông, thể hiện ý thức “dĩ nông vi bản”. Vì vậy các triều vua sau này, như vua Minh Mạng đã từng xuống dụ xem việc này “thực là chính sự quan trọng”. Bác Hồ và Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh vai trò to lớn của việc phát triển nông nghiệp, nông thôn và nhấn mạnh nhiệm vụ không ngừng chăm lo, bồi dưỡng

Page 418: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

488

cả về vật chất và tinh thần đối với giai cấp nông dân, đội quân chủ lực của cách mạng nước ta. Theo hướng đó, trong thập niên gần đây, nhằm khai thác truyền thống đẹp của lễ hội Tịch điền, vào dịp đầu xuân, các đồng chí Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết; Trương Tấn Sang đã về Đọi Sơn chủ trì lễ hội này, thật sự làm bà con nông dân phấn chấn, cổ vũ tính tích cực, sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đáng mừng là, qua lễ hội này được tuyên truyền, quảng bá, nhiều địa phương ở nước ta đã tổ chức các lễ hội nhà nông tương tự vào dịp đầu Xuân.

Về truyền thống “Dạy tốt, học tốt” được “khai sinh” từ Trường cấp 2 Bắc Lý, huyện Lý Nhân từ năm 1961, Bác Hồ kính yêu đã phát động phong trào “Thi đua hai tốt” và biểu dương Bắc Lý là ngọn cờ đầu. Phong trào này đã lan rộng khắp miền Bắc thời chống Mỹ cứu nước; và đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự khi Hội nghị trung ương 8 (khóa XI) ra Nghị quyết về “ Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo”, trong đó nhấn mạnh việc giáo dục kiến thức văn hóa gắn liền với giáo dục đạo đức, lý tưởng sống cho học sinh, sinh viên là nhiệm vụ cốt lõi của giáo dục. Muốn đạt mục tiêu ấy, người thầy giáo có vai trò quyết định. Hơn nửa thế kỷ qua, nét đẹp văn hóa ấy từ mái trường Bắc Lý vẫn tiếp tục tỏa sáng trong cả nước và là minh chứng sinh động cho quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu là cốt lõi của văn hóa.

3. Những việc đã làm và cần tiếp tục làm để kế thừa và phát huy truyền thống văn hiến trên đất Hà Nam.

Nhận thức sâu sắc việc nghiên cứu, tiếp thu, khai thác, sử dụng có hiệu quả các giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể trên đất Hà Nam, ngành văn hóa tỉnh nhà cùng các ngành chức năng đã có nhiều cố gắng, làm được một khối lượng công việc lớn, đem lại tác dụng thiết thực, nổi bật là những việc làm có ý nghĩa sau đây:

Page 419: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

489

3.1. Tích cực bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống (cả vật thể và phi vật thể).

Hà Nam đã thực hiện 8 dự án bảo tồn văn hóa phi vật thể tiêu biểu; có 10 đề tài, dự án nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị di sản tiêu biểu thuộc chương trình mục tiêu quốc gia được triển khai; xuất bản gần chục cuốn sách về những công trình nghiên cứu có giá trị. Các lễ hội vùng và phần lớn các lễ hội làng truyền thống đã được khôi phục. Đáng chú ý là việc nghiên cứu, tôn vinh hai nhà văn hóa lớn của dân tộc - đó là nhà thơ Nguyễn Khuyến và nhà văn Nam Cao. Đã xây dựng Khu tưởng niệm nhà văn Nam Cao; sưu tầm, giới thiệu văn hóa Liễu Đôi; phục hồi lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, lễ hội đền Trúc và hát Dậm Quyển Sơn, lễ hội đền Trần Thương, lễ hội đền Bà Vũ, lễ hội vật võ Liễu Đôi…

3.2. Xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa mới:Đến nay bảo tàng tỉnh và hệ thống thư viện, nhà văn hóa,

Trung tâm văn hóa đã hình thành từ tỉnh đến huyện; 100% xã, phường, thị trấn đã quy hoạch đất dành cho sân tập thể dục thể thao…

3.3. Tổ chức nhiều hoạt động văn hóa nâng cao mức hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của nhân dân.

Tiêu biểu là phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng gia đình văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” … Kết quả lớn nhất của các phong trào nói trên là khơi dạy ý thức tự giác làm đẹp xóm thôn, phường, xã; tăng cường tình làng, nghĩa xóm; đoàn kết cộng đồng…, tạo ra sức mạnh nội sinh, góp sức giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội - điều kiện tiên quyết để Hà Nam tiếp tục đổi mới, mở rộng giao lưu văn hóa, liên kết sức mạnh địa phương và chủ động hội nhập quốc tế.

3.4. Xây dựng và phát triển văn hóa gắn với phát triển du lịchNgày 22/10/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam đã phê

duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030; triển khai quy hoạch gần chục các điểm,

Page 420: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

490

khu du lịch trọng điểm… Đó là một quyết định có tầm chiến lược nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 33 Hội nghị TƯ 9 về “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng nguồn phát triển bền vững đất nước”.

Tuy nhiên, đối chiếu với định hướng và yêu cầu nêu trong Nghị quyết 33 của Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI), nhiều tham luận đã nhấn mạnh một số công việc trọng tâm cần được tập trung sức triển khai như sau:

Thứ nhất, tiếp tục đầu tư sưu tầm vốn văn hóa dân gian cổ truyền còn tiềm ẩn, mà trước đây chưa được nghiên cứu bài bản và hệ thống.

Thứ hai, từ cuộc Hội thảo này, nên tiếp tục tổ chức những cuộc tọa đàm khoa học chuyên sâu, ví như việc khai thác và phát huy tính tích cực của 144 lễ hội, trong đó có lễ hội đền Trần Thương; việc bảo tồn các ngôi chùa đạo Tứ Pháp; ảnh hưởng của văn hóa Chăm Pa trên đất Hà Nam; việc tiếp tục nghiên cứu làm rõ nữ thần giải oan Vũ Thị Thiết trong môi cảnh tín ngưỡng thờ nữ thần ở Hà Nam; việc sưu tầm và khai thác nguồn di sản Hán - Nôm đồ sộ; việc tiếp tục nghiên cứu về quê hương vua Lê Đại Hành nhằm để đi tới kết luận chính thức về những tồn nghi từ mấy thế kỷ nay. Riêng về báo chí cách mạng, nên chăng tỉnh phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam, báo Nhân Dân, tổ chức Hội thảo khoa học về “Sự nghiệp báo chí và những đóng góp to lớn của Nhà báo Hoàng Tùng trên mặt trận tư tưởng - văn hóa”, v.v và v.v…

Thứ ba, làm tốt hơn nữa việc tuyên truyền, quảng bá sâu rộng, không chỉ trong tỉnh, mà cả trong nước và quốc tế về những giá trị văn hóa và phẩm chất tốt đẹp của con người Hà Nam.

Thứ tư, gắn kết chặt chẽ công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, con người Hà Nam với phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là gắn với phát triển du lịch; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường Văn hóa, biến tất cả các yếu tố đó thành nguồn lực nội sinh, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Hà Nam giầu mạnh.

Page 421: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

491

Thứ năm, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật của tỉnh với phương châm kết hợp giữa đầu tư có trọng điểm của Nhà nước với việc xã hội hóa các nguồn lực, tạo nên những “đòn bẩy” mới trong phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Điều đặc biệt là cần đưa những giá trị di sản và truyền thống văn hóa Hà Nam vào nội dung giảng dạy và học tập của các trường phổ thông, cao đẳng và đại học; vận dụng và phát huy các giá trị đó vào từng cộng đồng, từng phường xã… để nhân lên lòng tự hào và sức mạnh trong thời kỳ mới.

Thứ sáu, tăng cường sự phối hợp giữa địa phương với Trung ương, nhất là với Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quý báu; mở rộng giao lưu văn hóa với Hà Nội và các tỉnh cận kề, nghiên cứu, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các tỉnh bạn và thế giới tranh thủ thu hút nguồn lực mới trong liên kết và hội nhập quốc tế về văn hóa…

Thưa các quý vị đại biểu!Thời gian diễn ra Hội thảo không dài, nhưng chúng ta vui

mừng đón nhận hơn 40 tham luận và ý kiến đa dạng, thiết thực của nhiều nhà khoa học chuyên ngành, các nhà hoạt động và quản lý văn hóa, các văn nghệ sĩ, nhà báo… với mong muốn nghiên cứu toàn diện hơn nữa, sâu sắc hơn nữa những nét đẹp, quý giá từ vô số những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể trên vùng đất không rộng lắm, người không đông, nhưng từ những di sản, hiện vật đã có và tiếp tục khai thác, kiếm tìm, đã và đang là động lực tinh thần quý báu, thôi thúc cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh sống và hành động xứng đáng với vùng đất ngàn năm văn hiến. Chúng ta xúc động và trân trọng ghi nhận những ý kiến tâm huyết, trí tuệ, trách nhiệm của GS Anh hùng lao động Vũ Khiêu, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, của Nhà thơ, Nhạc sĩ Vũ Mão, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc

Page 422: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

492

hội; Đặc biệt lời phát biểu của Đại sứ Rumani ở Việt Nam, ngài Valeriu Arteni tất cả đều mang tính gợi mở định hướng cho sự phát triển kho tàng văn hóa giầu bản sắc của Hà Nam. Chúng ta đánh giá cao GS Hoàng Chương, Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và Phát huy Văn hóa dân tộc Việt Nam với lòng đam mê văn hóa dân tộc Việt Nam, với tình yêu quê hương Hà Nam sâu nặng, đã bền bỉ theo đuổi sáng kiến tổ chức cuộc Hội thảo có ý nghĩa này, được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đồng tình hoan nghênh và tạo mọi điều kiện thuận lợi để Hội thảo diễn ra thành công ngoài mong đợi. Chúng ta cảm ơn Nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, người con của Hà Nam đã minh họa tham luận của mình bằng 3 bài hát phổ thơ của thi sĩ Nguyễn Khuyến và Nguyễn Bính, truyền niềm tin yêu vào con người bằng tình cảm nhân văn sâu sắc, mà nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã nhấn mạnh. “Mọi cái đều qua đi, chỉ còn tình người ở lại”. Đúng như đồng chí Mai Tiến Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh đã khẳng định: “Cuộc Hội thảo diễn ra vào thời điểm này là rất đúng lúc và rất cần thiết”. Từ cuộc Hội thảo hôm nay, vang vọng đâu đây tiếng nói của các bậc tiền nhân Hà Nam: hãy tôn trọng, khai thác, phát huy tối đa những giá trị còn tiềm ẩn trong lòng đất, những di sản nghệ thuật, những giá trị đã và đang được phát hiện và đưa vào sử dụng, phục vụ có hiệu quả mục tiêu: dân giầu, tỉnh mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc làng, xã, quê hương Hà Nam và Tổ quốc Việt Nam yêu dấu!

Với ý nghĩa đó, cho phép tôi thay mặt Đoàn Chủ tịch, tuyên bố tạm khép lại Hội thảo “Văn hiến Hà Nam - Truyền thống và hiện đại”!

Xin hẹn gặp lại nhau ở các cuộc Hội thảo tiếp sau!

Page 423: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

493

PHỤ LỤC

Page 424: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

494

Page 425: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

495

TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ BẢO VẬT QUỐC GIA

NGUYỄN MINH HOÀNG

Trong lòng đất Hà Nam, đến nay, các nhà khảo cổ đã phát hiện được 19 chiếc Trống đồng Đông Sơn. Đó là: Trống Duy Tiên, Trống Thôn Tú, Trống Đồng Văn, Trống Vũ Xá, Trống Lũng Xuyên, Trống Thôn Đoài, Trống Thôn Trì, Trống Châu Sơn, Trống Ngọc Lũ I, Ngọc Lũ II, Ngọc Lũ III, Trống Vũ Bị, Trống An Nội, Trống An Lão, Trống Châu Sơn, Trống Bút Sơn I, Trống Bút Sơn II, Trống Bình Sơn, Trống Thọ Cầu. Phần lớn số trống đồng này tập trung ở các huyện Bình Lục, Duy Tiên và Kim Bảng. Đối với một tỉnh có diện tích không lớn như Hà Nam, 19 trống đồng phát hiện được là một con số đáng kể mà ít địa phương có được.

Trong số 19 chiếc trống đồng đã phát hiện được ở Hà Nam, có những chiếc trống đồng nổi tiếng như: Ngọc Lũ, Duy Tiên, Đồng Văn, Lũng Xuyên, Vũ Bị, An Lão…; trong đó đặc biệt là Trống đồng Ngọc Lũ.

Trước hết, cần một lời giải thích về tên gọi và nguồn gốc phát hiện chiếc Trống đồng Ngọc Lũ. Cách đây hơn thế kỷ, vào khoảng năm 1893-1894, người dân ở xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, Hà Nam được huy động đi đắp đê ở xã Như Trác, huyện Nam Xang (nay thuộc huyện Lý Nhân). Trong khi đào xuống độ sâu khoảng 2m, họ gặp chiếc trống đồng này và 1 chiếc nắp thạp đồng úp trong lòng trống. Dân làng Ngọc Lũ đã mang

Page 426: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

496

trống và thạp cúng vào đình làng Ngọc Lũ. Năm 1903, trống được đưa về Viện Viễn Đông Bác Cổ (Hà Nội) và nay đang tàng trữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia. Sau đó, Trống đồng Ngọc Lũ nổi tiếng đến nỗi không ai có ý định đặt lại tên là Trống đồng Như Trác theo đúng nguyên tắc đặt tên của di tích, hay di vật nữa. Sau thời điểm phát hiện trống đồng ở Như Trác trên, dưới lòng đất của địa danh Ngọc Lũ của huyện Bình Lục, các nhà khảo cổ học đã đào thấy 2 trống đồng. Do đã có Trống đồng Ngọc Lũ (Như Trác rồi), nên các nhà khoa học đặt tên chiếc trống được mang từ Như Trác về là Trống đồng Ngọc Lũ I, còn 2 chiếc trống phát hiện ở Ngọc Lũ thật kia là Trống đồng Ngọc Lũ II và Trống đồng Ngọc Lũ III. Song, trên thực tế, các nhà khoa học đã quá quen với tên Ngọc Lũ rồi, nên không ai gọi là Ngọc Lũ I nữa.

Cho đến nay, trong số hàng trăm chiếc trống đồng Đông Sơn đã phát hiện được, các nhà khảo cổ học, mỹ thuật học đều thống nhất khẳng định, không có chiếc trống nào đạt được sự tuyệt mĩ về nghệ thuật, đỉnh cao về kỹ thuật đúc đồng như Trống đồng Ngọc Lũ.

Trống có kích thước lớn: đường kính mặt trống 79cm, chiều cao 63cm; hình dáng cổ kính, hoa văn phong phú. Trống được tạo dáng cân đối, mặt hơi trành ra ngoài tang trống thành đường gờ nổi giữa mặt và tang trống. Thân trống chia làm ba phần: Phần trên phình ra gọi là tang trống nối liền với mặt trống. Phần giữa là thân trống hình trụ, thẳng đứng. Phần chân hơi loe, hình nón cụt. Gắn vào tang và phần giữa thân trống là 4 chiếc quai, chia làm 2 cặp ở hai phía, trang trí hoa văn bện thừng.

Hoa văn Trống Ngọc Lũ có 2 loại: Hoa văn hình học và hình người, động vật và vật. Tâm điểm hội tụ hoa văn và cũng là nơi những chủ nhân của Trống gửi gắm ý tưởng là mặt trống. Trên mặt Trống Ngọc Lũ là hình ảnh mà ngày nay chúng ta “đọc” được là người xưa có tục thờ Mặt trời - một tín ngưỡng phổ biến

Page 427: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

497

của cư dân nông nghiệp ở Đông Nam Á. Họ đã khắc hình mặt trời lên giữa mặt Trống đồng Ngọc Lũ, bằng hình tượng ngôi sao nổi có 14 cánh. Các cánh sao nhọn như những tia mặt trời tỏa đều ra vành tròn mặt trống.

“Dưới những tia nắng Mặt trời ấy” và, cũng chỉ trên mặt trống nhỏ và tang trống ấy, thông qua các hình khắc, tác giả Trống Ngọc Lũ đã phơi bày cho chúng ta thấy rất nhiều những lễ thức và sinh hoạt của xã hội đương thời - xã hội nông nghiệp lúa nước. Đó là cảnh lễ hội với từng đoàn người múa hóa trang, trên đầu có cắm lông chim, tay cầm vũ khí như cây giáo dài, cầm nhạc cụ như chuông đồng, khèn bè; Đó là cảnh đua thuyền được khắc họa trên tang trống với những chiếc thuyền to, cảnh người hóa trang đang chèo thuyền (nhiều người cho rằng là hoạt cảnh một cuộc đua thuyền cầu nước trong một ngày hội nào đó như hội cầu nước, hội mừng năm mới, hội ngày mùa…). Trên Trống đồng Ngọc Lũ, các tác giả còn khắc họa hình ảnh con người thời đó, với hình tượng đôi trai gái đang giã gạo chày tay trên mặt trống, hình ảnh đôi trai gái đang ngồi đối mặt trong nhà sàn tay chân đang giao vào nhau như trong một trò chơi dân gian nào đó. Rồi có cảnh 4 người đang cầm dùi đánh trống đồng. Cũng trên chiếc trống này, ta còn thấy hình ảnh của những con vật gần gũi với cuộc sống của cư dân thời Đông Sơn, như hươu (cả hươu đực và hươu cái), chim (giống hình loài cò, con đứng, con bay).

Cũng trên chiếc Trống đồng Ngọc Lũ, ta còn thấy bóng dáng những ngôi nhà sàn mái cong, mái tròn, mà ngày nay ta còn bắt gặp trong một số cộng đồng người miền sơn cước.

Hiện nay, hình ảnh mặt Trống đồng Ngọc Lũ xuất hiện trên hình hiệu Đài Truyền hình Việt Nam; bản sao Trống đồng Ngọc Lũ được bày ở Trụ sở của Liên Hợp Quốc ở New York (Hoa Kỳ). Trống đồng Ngọc Lũ đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Bảo vật Quốc gia đặc biệt của Việt Nam.

Page 428: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

498

BIA SÙNG THIỆN DIÊN LINHTẤM BIA THỜI LÝ

CÓ GIÁ TRỊ VỀ NHIỀU MẶT

NGUYỄN MINH HOÀNG

Khi xây xong Chùa Đọi và tháp Sùng Thiện Diên Linh, vua Lý Nhân Tông cho dựng một tấm bia đá lớn, có tên là Đại Việt quốc Lý đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (thường gọi là Bia Sùng Thiện Diên Linh). Bia Sùng Thiện Diên Linh được tạo tác để khắc bài bi ký do Thương thư Bộ Hình là Nguyễn Công Bật phụng soạn. Bia đề ngày mùng 6 tháng 7 năm Tân Sửu (tức ngày 20/8/1121, niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 3).

Đầu thế kỷ XV, trong thời gian giặc Minh xâm lược và đô hộ nước ta, chúng đã phá hủy hoàn toàn chùa Đọi và tháp Sùng Thiện Diên Linh. Riêng tấm bia Sùng Thiện Diên Linh do không phá được, chúng đã lật đổ xuống sườn núi. Phải đến thời nhà Mạc, vào cuối năm Tân Mão (1591), niên hiệu Hưng Trị, đời Mạc Mậu Hợp, các quan cai quản vùng Duy Tân (Duy Tiên) mới cùng dân 3 giáp Nhất, Nhị, Tam là Đội Sơn, Đội Trung, Đội Lĩnh, Trung Tín dựng lại bia, bắc lại xà nhà, vá tô lại tượng, làm cửa, xây tường, "khiến cho sau hơn năm trăm năm, một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại được mới mẻ".

Bia Sùng Thiện Diên Linh không chỉ có giá trị vì có tuổi nghìn năm, mà còn bởi nó có giá trị về nhiều mặt, cả về nghệ

Page 429: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

499

thuật điêu khắc, mỹ thuật, văn học, sử học, phản ánh văn minh thời Lý.

Về nghệ thuật điêu khắc đá:Bia cao 2,5m, rộng 1,6m, dày 0,3m, hiện được đặt trong nhà

bia trên khu đất phía trước Tam bảo chùa Đọi. Bia được chế tác có giá trị mỹ thuật rất cao, thể hiện bàn

tay khéo léo, tài hoa của người thợ chạm khắc đá thời Lý. Mặt trước bia là bi ký, khắc bài văn do Nguyễn Công Bật

soạn. Mặt sau bia ghi việc Thái hậu Phù Thánh Linh (tức Ỷ Lan phu nhân - mẹ đẻ của vua Lý Nhân Tông) đã cúng vào chùa 72 mẫu ruộng làm ruộng đèn nhang vào năm 1121 và khắc bài thơ của vua Lê Thánh Tông làm vào năm Quang Thuận thứ 8 (1467).

Phần trang trí tập trung ở mặt trước bia, tức là mặt có khắc bài văn của Nguyễn Công Bật. Trán bia chạm hai rồng chầu vào hàng chữ Hán "Đại Việt quốc Lý đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên linh tháp bi". Diềm bia tạc những hình rồng nối tiếp nhau. Bia dày 0,3m, hai mặt bia mỗi bên có 9 ô quả trám, trong đó chạm hình rồng thời Lý uốn khúc mềm mại ở mỗi ô.

Trong việc dựng bia (đá), phần / nơi để chủ nhân bia dồn nén sức sáng tạo (mỹ thuật, kỹ thuật chạm khắc) và gửi gắm tư tưởng triết học, tôn giáo, nhân sinh là mặt (trước), trán và hai thân bia. Họ chú ý tới những phần đó mà ít chú ý tới phần bệ bia. Tuy nhiên, có nhiều tấm bia cổ, bệ bia lại được tận dụng để khoe tài chạm khắc và gửi gắm tư tưởng của chủ nhân tấm bia. Có thể thấy các bệ bia - các Cụ Rùa - cõng bia Tiến sĩ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội và nhiều nơi khác. Đặc biệt là ở bệ bia Sùng Thiện Diên Linh - Chùa Đọi Sơn. Ở đây, bệ bia là một khối đá hình chữ nhật dài 2,40m, rộng 1,80m, cao 0,50m. Bệ bia chia làm 2 phần: phần nằm tiếp xúc với đất hình chữ nhật và phần phía trên, nổi trên mặt đất chạm khắc thủy ba (sóng nước). Sóng có 2 lớp, lớp trên cao, lớp dưới thấp. Trên mặt bệ bia tạc hình 2 con rồng uốn khúc, đuôi rồng ở đoạn sau xoắn thành 4 khúc khép kín. Mỗi con rồng có 4 chân. Đầu rồng có bờm. Rất

Page 430: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

500

tiếc là cổ rồng và đầu rồng đã bị vỡ nên ta không có cơ hội chiêm ngưỡng kiệt tác này.

Về giá trị tư liệu của bi ký:Bài văn do Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Công Bật phụng

soạn theo chỉ dụ của vua Lý Nhân Tông được khắc vào mặt trước bia Sùng Thiện Diên Linh. Nội dung văn bia: ca ngợi công lao, tài trí của vua Lý Nhân Tông trong việc cai trị, xây dựng, kiến thiết đất nước, đánh giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi; ca ngợi cuộc sống thanh bình, tết Trung thu có cảnh đua thuyền, bơi chải trên sông Châu Giang (“nghìn thuyền như chớp giật giữa dông; muôn trống tựa sấm vang mặt nước”), diễn trò vui mà ngày nay ta gọi là rối nước (“Thả rùa vàng đội ba hòn núi, trên mặt sóng dập dờn, phơi mai văn để lộ bốn chân, dưới dòng sông lững lờ. Liếc mắt nhìn bờ, mím môi phun bến. Ngửa mặt trông dải mũ nhà vua, cúi xét bầu trời lồng lộng”); mô tả chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) ở Thăng Long (“…chùa Diên Hựu ở tại vườn Tây. Dấu vết theo quy mô thuở trước, lo toan ý thánh ngày nay. Đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao chồi lên một cột đá, trên cột đá có một đóa hoa sen nghìn cánh xòe ra. Trên hoa dựng một ngôi đền nhỏ sẫm, trong đền đặt pho tượng sắc vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại đào ao Bích Trì, bắc cầu cong để đi lại. Ở bên trước cầu, hai bên tả hữu xây tháp báu lưu li. Để mồng một hàng tháng, để mùa xuân hàng năm, nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật”); kể lại việc vua Lý Nhân Tông về thăm Núi Đọi năm 1118, đích thân nhà vua xem xét địa thế, đặt tên núi là Long Đọi; kể lại việc vua Lý Nhân Tông cho xây chùa Long Đội (“Mặt chùa trông ra sông Kinh, gió lặng dòng sông như lụa biếc trải ra, lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan, dáng núi như gấm xanh thêm sáng. Bên hữu khống chế bình nguyên trông với lũy cũ Càn Hưng. Bên tả men theo sông nhỏ, quanh Hán thủy để ra khơi”); kể lại việc vua Lý Nhân Tông cho xây bảo tháp đặt tên là Sùng Thiện Diên Linh

Page 431: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

501

(“Xuống chiếu cho thợ giỏi căng dây nẩy mực…Lấy đá mâm làm đấu, dùng đá vũ dựng biên. Xây ba mươi tầng chọc trời; mở bốn mươi cửa hứng gió. Vách chạm rồng ổ, xà treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng xá lỵ, tỏa tường quang cho đời thịnh sau này. Đỉnh nóc xây tiên khánh bưng mâm, hứng mọc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chỉ tám tướng khôi ngô. Đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm. Chính giữa nhật đặt tượng Đa Bảo bản Như Lai…”); mô tả ngày khánh thành chùa, tháp nhà vua thân hành đến chùa cùng chia vui với trẻ già muôn nơi, đọc kinh kệ, cúng lễ, ca múa, “thổi cơm chay trắng muốt, thết khách đói qua đường, phát tiền quí ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn”. Văn bia ghi rõ tháp này bắt đầu xây dựng từ niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118), đến mùa Thu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (1121) thì hoàn thành.

Mặt sau bia ghi việc Linh Nhân Hoàng thái hậu Ỷ Lan đã cúng vào chùa 72 mẫu ruộng làm ruộng đèn nhang vào ngày 6 tháng 7 năm Tân Sửu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (năm 1121). Ở mặt sau bia, vào năm 1467 đã khắc bài thơ Yết Sơn Lăng và mấy lời tựa của vua Lê Thánh Tông làm vào năm Quang Thuận thứ 8 (1467). Cũng ở mặt sau bia này, năm 1591, có khắc thêm đoạn văn ghi lại việc dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà, vá những chỗ tượng hư hỏng,…của các Giáp Nhất, Giáp Nhị, Giáp Tam các xã Đội Sơn, Đội Trung, Đội Lĩnh, Trung Tín.

Bia Sùng Thiện Diên Linh là một trong số rất ít tấm bia cổ nhất nước ta còn lại đến hôm nay, có tuổi trên nghìn năm; là tấm bia có kích thước lớn nhất và quý hiếm nhất của thời Lý trên đất Hà Nam còn lại đến ngày nay. Năm 2014, bia Sùng Thiện Diên Linh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia.

Page 432: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

502

“CẦU KHÔNG TỪ KÍ” CUỐN SÁCH LÀM BẰNG ĐỒNG ĐỘC ĐÁO

VÀ CÓ GIÁ TRỊ NHIỀU MẶT

NGUYỄN THÙY LINH

Hiện nay, trên đất nước ta còn lưu lại 4 quyển sách đồng cổ (sách có "giấy" bằng đồng), có niên đại hàng mấy trăm năm, trong đó có 1 quyển "xuất bản" ở Hà Nam và nội dung sách liên quan đến Hà Nam. Sách hiện đang lưu giữ tại gia đình một người dân ở thôn Văn An, xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân.

Cuốn sách có tên “Khâm ban đồng bài” hay còn gọi là “Cầu không từ kí”. Sách có 2 lá / tờ bằng chất liệu đồng đỏ, có kích thước bằng nhau dài 45cm, rộng 18,5cm, dày 5cm. Qua thời gian, 2 lá/tờ đồng đã ngả màu rêu xám. Gáy sách đóng bằng bốn khuy tròn. Sách được hoàn thành vào ngày 6 tháng 3 thời Hồng Đức, năm 1472. Trên cả 4 mặt của 2 lá / tờ đồng là những dòng chữ Hán khắc chìm, chữ đẹp và sắc nét, tổng cộng có 527 chữ. Sách nặng 6,5kg.

Bản dịch nghĩa của cuốn “Cầu không từ kí”, như sau:“Khâm đúc đồng đài (Bài ký đền Cầu Không).Hoàng thượng ngự chế rằng: Từng nghe, trừ ác gây công

nghiệp lớn, núi Vũ Ninh tích sáng còn kia: giúp nước góp nhiều công lao, sông Như Nguyệt dấu thiêng vẫn đó. Công thần hiển hách đầu mối rõ ràng.

Trẫm kính hưởng ơn Trời, vào nối đại thống chỉ mong bên trong sửa sang nội trị, có muốn đâu hiếu chiến xâm lăng. Thế mà bọn Chiêm Thành ngu xuẩn lùa quân xâm lăng ngoài cõi,

Page 433: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

503

chúng nhòm sơ hở, dở trò cắn trộm. Đã nhiều lần thư ở biên thùy cấp báo, sao có thể trì hoãn đội quân tiến đánh.

Vào ngày 6 tháng 11 năm Canh Dần (1470) Trẫm thân xuất đại quân tiễu trừ Chiêm Thành. Đến ngày 8, thuyền rồng của Trẫm mới dừng lại ở Cửu Long Xuyên thuộc địa đầu của huyện Nam Xang. Đêm ấy Trẫm mộng thấy một vị tướng, tay cầm cờ vàng, hai chân (thần) một chân đứng bên tả ngạn, một chân đứng bên hữu ngạn sông, xin được theo để hỗ trợ uy vũ, cho tới khi biển ô sóng lặng mới thôi. Nhân khi tỉnh mộng, mới biết sông này có vị dực vận linh thần. Bèn sai Lại bộ Thượng thư Nguyễn Như Đổ theo bờ sông này xem xét sự thực. Trong chốc lát trở về, tâu rằng đã qua địa đầu Cầu Không, thấy có chợ, có sông, trên sông có một chiếc cầu, giữa cầu có đền thiêng, treo thờ cờ giấy vàng. Bèn sai quân đến đó cầu đảo. Nhân đó, lấy chiếc cờ vàng này treo ở thuyền rồng, thuyền rẽ biển vào sông như đi trên đất liền. Vào cửa Sa Kỳ, ra Tân Ấp. Phất cờ này thì biển yên, gió lặng. Phá đồn Thị Nại, đánh thành Đồ Bàn, Trà Toàn bị bắt. Xa giá vua trở về thắng lợi. Quả là do ứng nghiệm của vị thần này, thực giúp nước công lao hạng nhất. Một ngày tháng 8 năm Tân Mão (1471), ban phép được lấy gỗ lim ở Hoan Châu làm cầu, đưa về dựng lên cầu, trên cầu trùng tu đền. Vàng ngọc huy hoàng cho lâu dài được hưởng thờ tự. Điển lệ rõ ràng. Bao phong thần là Thượng đẳng linh thần. Tế xuân hàng năm, chuẩn ban nghi thức, công lao tỏ rõ làm khuôn mẫu, đặc ban việc tế thờ thần, tạo lệ thờ cúng. Các điều đầy đủ sẽ ghi ở phía dưới truyền lâu dài ức vạn năm không mất. Bèn nêu sự tích khắc vào đồng để ghi nhớ mãi trên đời vậy.

Một điều: Tế xuân hàng năm, chuẩn ban quan tiền 20 quan giao phủ, nha lĩnh phát. Dân tạo lệ biện lễ. Ngày tế, quan phủ, huyện khâm phụng làm lễ.

Một điều: Chuẩn cho thôn Quan Đoài xã Vân Xá, thôn Cửu Ngòi xã Tế Xuyên, thôn Kiều Không xã An Triều của huyện Nam Xang phủ Lý Nhân hợp vào đình Cầu Không, ba thôn cúng tế thờ. Cho 30 xuất tạo lệ Sái phu.

Page 434: Văn hiến Hà Nam - Phần hai - vanhien.vn

504

Một điều: Chuẩn cho ba thôn trên cùng được tiền hương của thương khách bày hàng trên các tòa chợ Cầu Không để dùng vào tế thờ.

Ngày 6 tháng 3 năm Hồng Đức 3 (1472)” (Theo Hà Nam di tích và danh thắng - Sở VHTT Hà Nam

xuất bản năm 2004, tr 109 - 110).Qua nội dung trên cho thấy, cuốn sách bằng đồng này là một

nguồn sử liệu vô cùng quí giá, cung cấp thêm tư liệu về sự kiện năm 1470 vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm quân đi chinh phạt Chiêm Thành, từ Hoàng Giang vào sông Long Xuyên chảy trên đất Lý Nhân, dừng chân ở Cầu Không. được thần âm phù, sau khi chiến thắng trở về cho đúc cuốn sách đồng ghi lại sự việc này. Sự kiện này đã góp phần khẳng định chắc chắn về việc trong dịp ấy, Vua Lê Thánh Tông đã viếng đền Vũ Điện cách Cầu Không không xa và đã để lại bài thơ: "Điếu Vũ Nương" nổi tiếng hiện còn treo ở Miếu Vợ Chàng Trương. Cuốn sách này cũng cung cấp nhiều chi tiết về một cây cầu bắc qua sông Long Xuyên, gọi là Cầu Không làm bằng gỗ, kiểu “Thượng gia hạ kiều” độc đáo, trên cầu có đền thờ thần rất linh thiêng, đã được xây dựng từ thế kỷ XV. Trong kháng chiến chống Pháp, cầu bị đại bác giặc bắn sập một nửa. Đến năm 1950, giặc Pháp đóng bốt ở Phú Khê đã dỡ phần cầu còn lại để xây bốt, từ đó cầu chỉ được bắc tạm bợ. Sau năm 1954, cầu được xây dựng lại bằng bê tông cốt thép, từ đó, sự uy nghi tráng lệ và bao truyền thuyết về cây cầu bị lãng quên. Song, tên địa danh Cầu Không vẫn còn tồn tại đến ngày nay, cách thị trấn Vĩnh Trụ khoảng 6 km.