4. phân tích các nguồn vốn sinh kế

55
BÁO CÁO TÓM TẮT Các Nhân Tố Hỗ Trợ và Cản Trở Hộ Nghèo Tiếp Cận các Nguồn Vốn Sinh Kế để Giảm Nghèo Bền Vững 1. Mở đầu 1.1. Lý do nghiên cứu Trong khuôn khổ thực hiện các dự án nâng cao năng lực phát triển cộng đồng của chương trình Chia Sẻ - SIDA, rất cần có các nghiên cứu về giải pháp nâng cao khả năng của hộ nông dân trong tiếp cận và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (vốn sinh kế) cho phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát triển cộng đồng bền vững. 1.2. Câu hỏi nghiên cứu 1) Người nghèo đang bị hạn chế trong tiếp cận các nguồn lực sinh kế như thế nào (như đã được thể hiện trong khung sinh kế)? 2) Những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo? Nhân tố nào đóng góp lớn nhất vào việc giảm nghèo trong ngắn hạn, nhân tố nào đóng góp lớn nhất đối với việc giảm nghèo trong trung hạn và dài hạn? 3) Có những điểm mạnh, điểm yếu gì trong các cách tiếp cận đã được Chương trình Chia Sẻ sử dụng trong các điểm nghiên cứu? Những cách tiếp cận nào có thể được nhân rộng cho những điểm khác? 4) Nên điều chỉnh hay cải tiến những gì trong các chính sách của Chính phủ có thể giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn các nguồn lực sinh kế? 1.3. Giả thiết nghiên cứu Hiện nay người nghèo đang bị hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn lực sinh kế; Ảnh hưởng của những nhân tố thuận lợi và những nhân tố cản trở những hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bao gồm các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài là khác nhau; 1

Upload: trinhlien

Post on 30-Jan-2017

234 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

BÁO CÁO TÓM TẮT

Các Nhân Tố Hỗ Trợ và Cản Trở Hộ Nghèo Tiếp Cận các Nguồn Vốn Sinh Kế để Giảm Nghèo Bền Vững

1. Mở đầu1.1. Lý do nghiên cứu

Trong khuôn khổ thực hiện các dự án nâng cao năng lực phát triển cộng đồng của chương trình Chia Sẻ - SIDA, rất cần có các nghiên cứu về giải pháp nâng cao khả năng của hộ nông dân trong tiếp cận và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (vốn sinh kế) cho phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát triển cộng đồng bền vững.

1.2. Câu hỏi nghiên cứu1) Người nghèo đang bị hạn chế trong tiếp cận các nguồn lực sinh kế như thế nào

(như đã được thể hiện trong khung sinh kế)?

2) Những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo? Nhân tố nào đóng góp lớn nhất vào việc giảm nghèo trong ngắn hạn, nhân tố nào đóng góp lớn nhất đối với việc giảm nghèo trong trung hạn và dài hạn?

3) Có những điểm mạnh, điểm yếu gì trong các cách tiếp cận đã được Chương trình Chia Sẻ sử dụng trong các điểm nghiên cứu? Những cách tiếp cận nào có thể được nhân rộng cho những điểm khác?

4) Nên điều chỉnh hay cải tiến những gì trong các chính sách của Chính phủ có thể giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn các nguồn lực sinh kế?

1.3. Giả thiết nghiên cứu Hiện nay người nghèo đang bị hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn lực sinh kế;

Ảnh hưởng của những nhân tố thuận lợi và những nhân tố cản trở những hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bao gồm các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài là khác nhau;

Các cách tiếp cận của chương trình Chia Sẻ về giảm nghèo là phù hợp trong bối cảnh của Việt Nam, cần được tổng kết để áp dụng tới các vùng nông thôn khác ở Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo.

Những bài học từ thực hiện Chương trình Chia Sẻ ở Việt Nam sẽ là những gợi ý quan trọng cho việc điều chỉnh các chính sách của Chính phủ để người nghèo tiếp cận tốt hơn các nguồn vốn sinh kế và nâng cao hiệu quả của các chương trình giảm nghèo.

1.4. Mục tiêu nghiên cứu1.4.1. Mục tiêu tổng quát:

Xác định những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn lực để giảm nghèo bền vững

1.4.2. Mục tiêu cụ thể:

1) Nghiên cứu những vấn lý luận và thực tiễn liên quan đến sinh kế nông dân nghèo, nhóm nguồn lực, tiếp cận nguồn lực và chiến lược sinh kế;

1

2) Xác định những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn lực để giảm nghèo. Đánh giá kết quả sinh kế của nông hộ sau khi tham gia dự án Chia Sẻ.

3) Nghiên cứu tiến trình và các cách tiếp cận của Chương trình Chia Sẻ trong thực hiện dự án XĐGN ở các vùng nông thôn, xác định những phương pháp nào có thể áp dụng rộng rãi trong các chương trình giảm nghèo của Chính phủ.

4) Đưa ra khuyến nghị chính sách để người nghèo tiếp cận tốt hơn những nguồn lực sinh kế.

1.5. Phương pháp nghiên cứuThu thập số liệu:

1) Thu thập tài liệu thứ cấp: Tài liệu về khung sinh kế bền vững, văn kiện Chương trình, báo cáo đánh giá chương trình Chia Sẻ, báo cáo đánh giá của các tổ chức/nhà khoa học về XĐGN.

2) Phương pháp chuyên gia: Nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia hay tổ chức các cuộc hội thảo lấy ý kiến rộng rãi của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý.

3) Phỏng vấn cấu trúc: Hệ thống câu hỏi phỏng vấn được soạn thảo và điều tra thử để kiểm tra mức độ thu thập thông tin có thể và kiểm tra tính chính xác của thông tin thu thập. Các câu hỏi in sẵn tập trung vào việc thu thập các tư liệu số liệu phục vụ nghiên cứu thực trạng, đánh giá nhu cầu nâng cao năng lực tiếp cận nguồn vốn sinh kế của người nghèo và những đề nghị của người nghèo về cơ chế, chính sách giúp họ trong việc tiếp cận nguồn lực sinh kế.

4) Phương pháp RRA, PRA: Nghiên cứu sử dụng các công cụ RRA, PRA để thu thập thông tin trong quá trình nghiên cứu như: Thăm thôn bản, thăm đồng ruộng, thảo luận nhóm, phỏng vấn bán cấu trúc, bản đồ thôn bản, sa bàn thực tiễn ...

5) Phỏng vấn sâu cán bộ và người dân: Thông qua việc thu thập những người nắm tin chính như cán bộ chương trình Chia Sẻ tỉnh, các Sở, Ban, Ngành liên quan, cán bộ Chia Sẻ huyện, xã, người có vai trò trong thôn, bản nhằm mục đích thu thập các thông tin chuyên sâu về tình hình đói nghèo của địa phương, thực trạng sử dụng các nguồn vốn sinh kế trong những năm qua, khả năng tiếp cận các nguồn vốn sinh kế của người dân. Yếu tố thúc đẩy và cản trở người dân tiếp cận nguồn lực. Đây là những thông tin định tính quan trọng phục vụ cho nghiên cứu. (Bảng 1)

Phân tích số liệu

• Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp này được vận dụng để mô tả bức tranh tổng quát về tình hình cơ bản các địa bàn nghiên cứu, thực trạng nghèo đói, thực trạng các nguồn lực sinh kế cho giảm nghèo bền vững tại các địa phương. Bằng phương pháp này chúng ta có thể mô tả được những nhân tố thuận lợi và cản trở sự tiếp cận các nguồn vốn sinh kế đối với người nghèo.

• Phương pháp phân tích so sánh: Từ việc phân tổ thống kê các nhóm hộ theo các tiêu chí phân tổ, chúng ta sẽ so sánh các nhóm hộ với nhau về điều kiện và khả năng tiếp cận nguồn vốn sinh kế. Trên cơ sở đó phân tích được mức độ ảnh hưởng, nguyên nhân của hạn chế giữa các vùng, các nhóm hộ. So sánh giữa các vùng tiếp cận dễ dàng hay khó khăn đối với từng nguồn lực và khả năng của người dân trong việc tiếp cận, và cuối cùng là so sánh giữa các hộ tham gia dự án Chia Sẻ và các hộ không tham gia dự án Chia Sẻ để có sự đối chứng.

2

* Phương pháp phân tích định tính: Dựa vào nguồn số liệu PRA, phóng vấn sâu, để phân tích định tính các vấn đề liên quan đến nghèo đói, những khó khăn trở ngại, các nhân tố hỗ trợ người dân tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bền vững.

Phân tích những khó khăn, tồn tại, cơ hội và thách thức (SWOT).

1.6. Giới hạn nghiên cứuVới phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng, lại chủ yếu ở vùng dân nghèo, dân trí thấp nên bên cạnh phỏng vấn hộ, nghiên cứu sẽ sử dụng chủ yếu phương pháp thảo luận nhóm để thu thập thông tin làm cơ sở để viết báo cáo. Phương pháp thảo luận nhóm (group discussions) có điểm mạnh là giúp hệ thống hóa được các vấn đề ở các vùng dân trí thấp vì có sự bổ sung, kiểm tra chéo thông tin trong quá trình thảo luận. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng sẽ tiến hành một số nghiên cứu điển hình (case studies) để minh chứng cho các nhận định trong báo cáo.

2. Tổng Quan Lý Thuyết Sinh Kế2.1. Khái niệm sinh kế

Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái niệm phát triển vào những năm đầu 1990. Tác giả Chambers và Conway (1992) định nghĩa về sinh kế bền vững như sau: Sinh kế bền vững bao gồm con người, năng lực và kế sinh nhai, gồm có lương thực, thu nhập và tài sản của họ. Ba khía cạnh tài sản là tài nguyên, dự trữ, và tài sản vô hình như dư nợ và cơ hội. Sinh kế bền vững khi nó bao gồm hoặc mở rộng tài sản địa phương và toàn cầu mà chúng phụ thuộc vào và lợi ích ròng tác động đến sinh kế khác. Sinh kế bền vững về mặt xã hội khi nó có thể chống chịu hoặc hồi sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp cho thế hệ tương lai.

2.2. Khung phân tích sinh kếHình 1: Phân tích khung sinh kế của nông dân nghèo.

Nguồn: DFID (2003)

Tự nhiên

Tài chính

Xã hội

Vật chất

Con người

3

Bối cảnh dễ tổn thương

- Xu hướng- Thời vụ- Chấn động (trong tự nhiên và môi trường, thị trường, chính trị, chiến tranh…)

Chính sách, tiến trình và cơ cấu

-Ở các cấp khác nhau của Chính phủ, luật pháp, chính sách công, các động lực, các qui tắc

-Chính sách và thái độ đối với khu vực tư nhân

-Các thiết chế công dân, chính trị và kinh tế (thị trường, văn hoá)

Các chiến lược SK

-Các tác nhân xã hội (nam, nữ, hộ gia đình, cộng đồng …)-Các cơ sở tài nguyên thiên nhiên-Cơ sở thị trường- Đa dạng-Sinh tồn hoặc tính bền vững

Các kết quả SK

-Thu nhập nhiều hơn-Cuộc sống đầy đủ hơn-Giảm khả năng tổn thương-An ninh lương thực được cải thiện-Công bằng xã hội được cải thiện-Tăng tính bền vững của tài nguyên thiên nhiên-Giá trị không sử dụng của tự nhiên được bảo vệ

2.3. Phương pháp tiếp cận giảm nghèo theo các nguồn vốn sinh kếHiện nay, “phương pháp sinh kế” đã được một số cơ quan phát triển áp dụng trong

các hoạt động phát triển. Như chúng ta thấy ở các phần sau, khó có thể nói là có một phương pháp thống nhất khi mà các cơ quan áp dụng một cách khác nhau, từ các hoạt động sơ khai như xây dựng các công cụ hay khung phân tích cho việc lập kế họach hoặc đánh giá ban đầu đến một số loại hoạt động cụ thể của chương trình.

Ba yếu tố dẫn đường giải thích lý do của việc áp dụng “Phương pháp sinh kế bền vững” trong công tác giảm nghèo.

Thứ nhất, thực tế cho thấy tăng trưởng kinh tế là cần thiết cho việc giảm nghèo nhưng không có một liên hệ trực tiếp giữa hai tác nhân này từ khi nó hoàn toàn phụ thuộc và khả năng của người nghèo tự tìm kiếm các cơ hội để phát triển kinh tế. Vì vậy, điều quan trọng là tìm ra chính xác cái gì đã ngăn cản hoặc thách thức người nghèo cải thiện sinh kế của họ trong điều kiện cụ thể để thiết kế các họat động hỗ trợ cho dự án.

Thứ hai, về nhận biết đói nghèo – như chính cảm nhận của những người nghèo- không chỉ là vấn đề thu nhập thấp mà còn bao gồm cả các yếu tố như chăm sóc y tế kém, giáo dục kém, thiếu các dịch vụ xã hội, v.v…, như là tình trạng dễ bị tổn thương và cảm giác của sự bất lực. Hơn nữa, đói nghèo hiện nay được xem là có sự liên kết giữa các yếu tố gây ra nghèo đói và cải thiện một yếu tố có thể có tác động tích cực đối với yếu tố khác. Cải thiện giáo dục có thể mang lại tác động tích cực cho việc chăm sóc y tế, mà nó có thể tăng khả năng sản xuất. Giảm tình trạng dễ bị tổn thương cho người nghèo bằng cách nêu rõ các rủi ro cho họ có thể gia tăng xu hướng để rơi vào các hoạt động rủi ro chưa được kiểm chứng trước đó nhưng mà có hiệu quả kinh tế hơn, và cứ tiếp tục như thế v.v….

Cuối cùng, ngày nay chúng ta nhận ra rằng chính người nghèo thường hiểu về họ và nhu cầu của họ tốt nhất và vì vậy phải lôi kéo họ tham gia trong việc thiết kế các chính sách và dự án để cải thiện số phận của họ. Khi thiết kế, chúng thường được cam kết nhiều hơn để thực hiện. Vì vậy, sự tham gia của người nghèo sẽ cải thiện kết quả của dự án.

Có ba điểm cơ bản hầu hết các phương pháp thường có. Thứ nhất là phương pháp chú trọng vào sinh kế của người nghèo, mà trong đó giảm nghèo phải là mấu chốt. Thứ hai là loại bỏ cách tiếp cận theo bộ phận đầu vào (nông nghiệp, nước sạch, hay y tế) và thay vào đó là bắt đầu bằng việc phân tích các sinh kế hiện tại để xác định các tác động phù hợp. Điểm cuối cùng là chú trọng sự tham gia của người nghèo trong việc xác định các họat động phù hợp để triển khai (Lasse, 2001)

Bên cạnh đó, sự tác động cải thiện nâng cao sinh kết của hộ được bằng các họat động nông nghiệp cho thấy rằng nông nghiệp chính là họat động sinh kế chính của người dân nông thôn. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, có đến 86% dân số nông thôn sống phụ thuộc vào nông nghiệp (WB, 2008).

3. Sơ Lược Về Địa Bàn Nghiên Cứu3.1. Tỉnh Yên Bái

Dự án Chia Sẻ ở Yên Bái được thực hiện trong 5 năm từ 2003 - 2008 với tổng ngân sách 134 tỷ đồng, đầu tư cho 6 lĩnh vực gồm: quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, giáo dục và đào tạo, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ, sản xuất tạo thu nhập và an sinh xã hội. Dự án này thí điểm một phương pháp tiếp cận mới trong xóa đói giảm nghèo, thực hiện phân cấp trao quyền mạnh cho cơ sở theo cơ chế phân cấp quản lý đến cấp xã, phân quyền đến cấp thôn; người dân tại thôn bản tham gia lập kế hoạch và quyết định việc

4

sử dụng nguồn lực. Trong quá trình đó, Ban quản lý cấp huyện chỉ đóng vai trò hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát việc lập kế hoạch ở cấp xã, thôn... Cách thức thực hiện này đã mang lại nhiều ưu điểm trong quá trình triển khai Dự án.

3.2. Tỉnh Hà GiangHà Giang là tỉnh miền núi cao, nằm ở cực Bắc của tổ quốc có tổng diện tích tự

nhiên là 7.884,37 km2, dân số trên 680.000 người. Tỉnh có 22 dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên một sự đa dạng về bản sắc văn hóa. Trong đó dân tộc Mông chiếm 30,6%, Tày chiếm 24,9%, Dao chiếm 15,2%, dân tộc Kinh chiếm 12%.... Về đơn vị hành chính: Hà Giang có một thị xã là trung tâm và 10 huyện, tổng số có 195 xã, phường, thị trấn, trong đó có 112 xã đặc biệt khó khăn .

3.3. Tỉnh Quảng TrịDự án “Chia Sẻ” được triển khai ở Quảng Trị từ tháng 11/2003 trên địa bàn các xã

có tỷ lệ hộ đói nghèo cao và điều kiện kinh tế xã hội kém phát triển của hai huyện Gio Linh và Vĩnh Linh được chọn tham gia với tổng kinh phí 13.328.835 USD, trong đó Chính phủ Việt Nam đóng góp 1.752.252 USD. Qua hơn 3 năm thực hiện, dự án đã đạt được nhiều kết quả khả quan, góp phần giúp người dân địa phương từng bước tiếp cận tốt các nguồn lực xóa đói giảm nghèo đúng theo mục tiêu đề ra.

4. Phân Tích Các Nguồn Vốn Sinh Kế4.1. Nguồn vốn con ngườiNhững nhân tố thúc đẩy

Lực lượng lao động tương đối đôngỞ các tỉnh, các hộ điều tra không thiếu lao động, phần lớn các hộ có từ 2-4 lao

động. Bình quân có khoảng 2,59 lao động/ hộ, thời gian làm việc trung bình 1 lao động đạt 9,91 tháng /1 năm, tuy nhiên thời gian làm việc trong 1 tháng thấp, chủ yếu tập trung vào thời điểm mùa vụ, chỉ có một số hộ ở những vùng có cây công nghiệp như cao su, hồ tiêu (Quảng Trị)… mới có làm việc nhiều ngày trong 1 tháng nhưng thời gian làm việc trong một ngày lại không nhiều (2-3 giờ/ngày/ lao động). Như vậy có thể khẳng định rằng ngoài thời điểm mùa vụ, các hộ vẫn còn dư thừa lao động. Đây là yếu tố thuận lợi cho việc phát triển ngành nghề, phát triển chăn nuôi hoặc phát triển các loại cây trồng yêu cầu sử dụng nhiều thời gian lao động.

Lao động trẻ là yếu tố thuận lợi cho việc đào tạo văn hoá và chuyên môn và nâng cao thu nhập cho nông hộ

Đa số lao động trong các địa phương là lao động trẻ, tập trung chủ ở độ tuổi dưới 45. Lao động có độ tuổi từ 46 trở lên chiếm tỷ lệ thấp, đặc biệt là lao động ngoài 60 tuổi rất ít, chỉ chiếm 4.7% tổng số lao động trong các hộ điều tra. Lực lượng lao động vừa có sức khỏe tốt vừa đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sản xuất và đời sống lại có cải thiện chất lượng bằng cách đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng thêm những kiến thức về đời sống và sản xuất. Do vậy có thể kết luận rằng trình độ lao động là yếu tố thuận lợi cho việc mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm. (Bảng 19)

Sự hỗ trợ của dự án Chia Sẻ là yếu tố thuận lợi để nâng cao chất lượng lao độngKhi nghiên cứu về trình độ văn hoá và chuyên môn của lực lượng lao động địa

phương cho thấy: Trình độ văn hoá, chuyên môn của lực lượng lao động ở xã có dự án Chia Sẻ thấp hơn ở xã không có dự án Chia Sẻ. Sự khác biệt về tỷ lệ lao động có chứng chỉ, bằng cấp về trình độ chuyên môn giữa xã có dự án Chia Sẻ và xã không có dự án Chia Sẻ là không nhiều vì dự án Chia Sẻ chỉ quan tâm đến việc tập huấn kiến thức thực tế về sản xuất và đời sống chứ ít quan tâm đến việc đào tạo bằng cấp. Điều này là hoàn toàn phù

5

hợp với trình độ thực tế của lực lượng lao động vì nếu muốn đào tạo bằng cấp thì đòi hỏi lực lượng lao động phải có một trình độ văn hoá nhất định mà ở các xã nghèo thì số lượng lao động này lại không phải là phần đông. Kết quả thảo luận PRA cho thấy, sau 3 -4 năm có dự án Chia Sẻ, các kiến thức về sản xuất và đời sống của người dân được nâng lên đáng kể đã góp phần làm cho quy mô và hiệu quả sản xuất của người dân từng bước được tăng lên. Như vậy có thể khẳng định rằng, sự có mặt của dự án Chia Sẻ là yếu tố thuận lợi để nâng cao chất lượng của lực lượng lao động. (Bảng 20)

Sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức trong nước và quốc tế là yếu tố thuận lợi hỗ trợ người dân tiếp cận nguồn lực

Sự công khai trong việc chọn đối tượng tham gia tập huấn, nâng cao trình độ. Đối với dự án Chia Sẻ, việc đào tạo tập huấn nâng cao trình độ được tiến hành và tổ chức xuất phát từ nhu cầu của người dân địa phương. Một số thôn xã ở Yên Bái còn thực hiện cả bằng tiếng dân tộc thiểu số tại địa phương. Đây là một phương pháp mới mang tính tích cực. (Hộp 8)

Những nhân tố cản trởCông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp không phát triển, sản xuất thuần nông là chủ yếu là

nguyên nhân cản trở việc chuyển đổi lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp

Phần lớn lao động nông thôn vẫn là lao động nông nghiệp (chiếm 90,52% tổng số lao động trong các hộ điều tra), tỷ lệ lao động phi nông nghiệp rất thấp, trong đó đa số là cán bộ địa phương, giáo viên, cựu chiến binh và cán bộ đã nghỉ hưu. Nguyên nhân chủ yếu là do ở các địa phương công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ không phát triển, bên cạnh đó số lượng lao động được đào tạo ngành nghề phi nông nghiệp ít cho nên đại đa số lao động đều phải tham gia vào các hoạt động của sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện hiện nay khi mà giá trị gia tăng của sản xuất nông nghiệp thấp thì đây là một cản trở đáng kể đối với việc chuyển đổi lao động sang các ngành phi nông nghiệp nhằm cải thiện kinh tế và nâng cao thu nhập của các hộ nông dân. (Bảng 21, Hộp 9)

Trình độ văn hoá và chuyên môn hạn chế của người lao động là một yếu tố cản trởKết quả điều tra cho thấy, đa số lao động có trình độ từ trung học cơ sở trở xuống, lực lượng lao động có trình độ từ trung học phổ thông trở lên thấp, chủ yếu là các cán bộ của địa phương. Do vậy trình độ văn hoá và chuyên môn thấp của lực lượng lao động ở các điểm điều tra hiện nay đang là cản trở lớn đến việc tiếp nhận các loại khoa học kỹ thuật mới nhằm thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng vụ, mở rộng quy mô sản xuất… góp phần cải thiện đời sống của các hộ nông dân. (Bảng 22)

Việc đến trường của trẻ em gặp nhiều khó khănHiện nay một số gia đình cần lao động để làm việc đã không cho con em đến

trường, nhiều gia đình không quan tâm tới việc học của con cái dẫn đến bỏ mặc chuyện học hành, bên cạnh đó người dân lại có tập quán sinh nhiều con, trong khi đó giá trị sản xuất tăng chậm đã làm cho nhiều hộ không đủ kinh phí cho con cái đi học, mưa lũ, sạt lở đường làm cho học sinh bỏ học thường xuyên kết hợp với chất lượng giáo viên thấp, trang thiết bị phục vụ công tác giáo dục hạn chế làm cho chất lượng giáo dục suy giảm, vì thế mà nhiều em đã không thể học lên các cấp học cao hơn, từ đó tạo tâm lý chán trường dẫn đến bỏ học…(Bảng 23)

Như đã phân tích ở phần trước, đa số trẻ em đều đi học đúng tuổi và tỷ lệ trẻ em phải nghỉ học trong độ tuổi ở mức độ trung bình. Tuy nhiên, vẫn còn một số hộ do điều kiện kinh tế khó khăn cho nên vẫn phải cho con em mình nghỉ học để lao động. Tỷ lệ này không cao, dao động từ 4,9-12,8%. (Bảng 24)

6

Kết quả điều tra cho thấy: Hộ có điều kiện kinh tế càng thấp thì tỷ lệ trẻ em nghỉ học càng cao. Điều này cho phép khẳng định điều kiện về kinh tế có ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ em đến trường. Tỷ lệ trẻ em nghỉ học do điều kiện kinh tế cao nhất là ở nhóm hộ có thu nhập dưới 10 triệu đồng/hộ/năm, chiếm 19% tổng số hộ điều tra và thấp nhất là ở nhóm hộ có thu nhập trên 25 triệu đồng. Hộ nghèo chủ yếu nằm trong nhóm có thu nhập dưới 10 triệu đồng/năm, do vậy nhóm hộ nghèo sẽ là nhóm hộ có tỷ lệ trẻ em phải nghỉ học cao nhất.

Những trở ngại do khoảng cách địa lý đối với hoạt động khám chữa bệnhĐa số các xã hiện nay đều có trạm y tế cho nên khi ốm đau mọi người đều đến

trạm y tế xã để chữa bệnh. Khoảng cách từ nhà đến nơi khám chữa bệnh chính là từ nông hộ đến trung tâm xã hoặc huyện. Khoảng cách này không xa và trung bình khỏang 5km. Trong điều kiện hiện tại đa số người dân đều phương tiện xe máy để đi lại thì thời gian cho họ đi khám hoặc cấp cứu những lúc ốm đau chỉ khỏang 20 phút. Tuy nhiên, một số hộ dân cứu ở xa trong điều kiện đồi núi đi lại khó khăn với với một số xã ở Hà Giang và Yên Bái thì thời gian cho họ đến trung tâm xã còn lâu hơn nhiều. (Bảng 25)

Có 8.2% số ý kiến cho rằng vẫn còn tình trạng có người bị chết do nhà ở xa nơi khám chữa bệnh. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì đa số điểm điều tra thuộc khu vực miền núi, có địa bàn rộng, dân cư lại sinh sống không tập trung, điều kiện kinh tế ở các vùng này còn nghèo nên không thể xây dựng nhiều trạm y tế trong 1 xã, bên cạnh đó điều kiện đi lại khó khăn cộng với việc tập quán thích sống ở trên cao của đồng bào dân tộc thiểu số nên khoảng cách từ nhà đến trạm xá của nhiều hộ nông dân khá xa, làm cho thời gian đi đến khám, chữa bệnh tại trạm y tế dài. Mặt khác do nhận thức của người dân về bệnh tật còn nhiều hạn chế, nhiều người khi mới chớm mắc bệnh đã chủ quan, không chịu đưa đi chữa trị sớm nên khi mắc phải các bệnh hiểm nghèo đã không kịp đưa người nhà đến các trung tâm y tế để chữa trị.

4.2. Nguồn vốn vật chấtNguồn vốn vật chất được phân chia làm 2 loại: Tài sản của cộng đồng và tài sản

của hộ. Tài sản của cộng đồng trong nghiên cứu này xem xét các cơ sở vật chất cơ bản phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt như: điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, công trình thủy lợi, thông tin liên lạc. Tài sản của hộ trong nghiên cứu này khá phong phú bao gồm cả các tài sản phục vụ sản xuất và các tài sản phục sinh hoạt của hộ.

Những nhân tố thúc đẩySự quan tâm của nhà nước và hỗ trợ của các chương trình, dự án trong việc

đầu tư cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho nông hộ tiếp cận dễ dàng hơnTrong những năm qua, được sự hỗ trợ của Chính phủ, các tổ chức trong nước và

quốc tế thông qua các chương trình, dự án, nhiều địa phương đã được cải thiện được hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, xây dựng mới được trường học, trạm xá, nhà văn hoá thôn, xã, các các loại thiết bị giáo dục và y tế đã được bổ sung… nhờ đó mà việc đi lại của bà con nông dân đã bớt khó khăn hơn, nhiều diện tích trước đây phải nhờ hoàn toàn vào tự nhiên, chỉ cấy, trồng được 1 vụ đến nay đã sản xuất được 2 vụ, hệ thống trường học và trạm y tế, nhà sinh hoạt cộng đồng được cải thiện cả về chất lượng và số lượng, cục diện nông thôn có những thay đổi rõ rệt. Các dự án như Chia Sẻ, 134, 135, dự án của World Bank v.v… đã xây dựng cho nhân dân địa phương nhiều trường học, công trình đường, trạm điện, trạm y tế…

Sự hỗ trợ của dự án Chia SẻSự có mặt của dự án Chia Sẻ ở một số địa phương không những đã làm thay đổi

cục diện nông thôn thông qua việc đầu tư xây dựng những công trình công cộng, mà còn làm thay đổi khả năng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần thông qua việc đầu tư kinh phí tổ chức các khoá tập huấn kiến thức đời sống xã hội cho nhân dân và đầu tư công cụ

7

sản xuất, vật tư đầu vào góp phần thay đổi khả năng sản xuất theo chiều hướng tích cực cho hộ nông dân, đặc biệt là đối với nhóm hộ nghèo và cận nghèo.

Dự án Chia Sẻ đáp ứng kịp thời các nhu cầu từ sản xuất đến đời sống của nhân dân như: Xây sân bê tông, làm mái che cho trường mầm non và trường tiểu học, xây mới trường mầm non, mua sắm trang thiết bị cho trạm y tế, xây dựng đường giao thông nội thôn, liên thôn hoàn thiện hệ thống kênh mương, xây dựng và mua sắm trang thiết bị cho hội trường thôn, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ hộ nghèo đào giếng, làm nhà vệ sinh, xử lý rác thải, hỗ trợ tiền cho hộ thuộc diện già cả, neo đơn và ốm đau, tai nạn đột xuất tổ chức các khoá tập huấn về kỹ thuật sản xuất, công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản, tuyên truyền luật giao thông…(Hộp 11)

Người dân tích cực tham gia xây dựng cơ sở hạ tầngKhi trao đổi với các hộ nông dân cho thấy, hầu hết các nông hộ đều mong muốn

cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Mặc dù điều kiện sống của người dân còn nhiều khó khăn nhưng họ vẫn sẵn sàng đóng góp sức người, sức của để xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng ở nơi mà họ đang sinh sống và sản xuất. Đây thực sự là nhân tố thuận lợi trong việc triển khai thực hiện các chương trình dự án hỗ trợ phát triển hạ tầng cho vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn cũng như việc quản lý và sử dụng, khai thác các công trình sau này. (Hộp 12)

Người nghèo được nhiều dự án quan tâm hỗ trợHầu hết các chương trình, dự án đều tập trung vào hỗ trợ nguồn lực cho các hộ

nghèo, đây là điều kiện thuận lợi để hộ nghèo tiếp cận nguồn vốn vật chất và phát triển sản xuất. Chúng ta hoàn có thể khẳng định được điều này vì

+ Đối tượng mà các dự án 134, 135, 139… lựa chọn là xã nghèo, trong đó việc xây bể nước, làm nhà vệ sinh, hỗ trợ gạo, xoá nhà tạm… chỉ có người nghèo mới được hưởng.

+ Đối tượng mà các dự án Tầm nhìn thế giới, PLAN.. lựa chọn chủ yếu cũng vẫn là người nghèo. Các dự án này hỗ trợ những người có trình độ thấp trong việc lập kế hoạch sản xuất, tập huấn kiến thức chuyên môn kỹ thuật… trong đó chủ yếu là hộ nghèo.

+ Đối tượng mà dự án Chia Sẻ đầu tư cũng là những hộ nghèo, cận nghèo, được bình bầu dân chủ trong những cuộc họp thôn với tinh thần hỗ trợ những người khó khăn nhất trước, không phân biệt giới tính, không phân biệt dân tộc, tôn giáo.

Người dân có ý thức cao trong việc phát triển sản xuấtQua điều tra cho thấy, đa số hộ nông dân có ý thức trong việc phát triển sản xuất

nâng cao thu nhập, từng bước tích luỹ, mua sắm công cụ, trang thiết bị phục vụ sản xuất. (Hộp 13)

Sự công bằng trong việc tiếp cận nguồn vốn cơ sở hạ tầngKết quả thảo luận PRA cho thấy không có sự phân biệt theo giới tính, dân tộc,

trình độ, điều kinh kinh tế của các hộ gia đình trong việc tiếp cận các nguồn vốn này. Tất cả các hộ nếu có nhu cầu chữa bệnh, nhu cầu cho con cái đi học hành đều được đáp ứng như nhau. Tất cả các loại hộ đều được sử dụng các công trình công cộng như điện, nước, nhà văn hoá thôn… và không có sự phân biệt nào.(Hộp 14)

Những nhân tố cản trở Cơ sở hạ tầng khó khăn là cản trở lớn nhất của người dânĐường giao thông nông thôn còn nhiều khó khăn, mặc dù tại tất cả các địa phương

đã có đường ô tô vào đến tận trung tâm thôn, xã. 100% số xã có đến trung tâm xã nhưng đến nay đường vào trung tâm các thôn có tỷ lệ bê tông hoá thấp, chất lượng đường vào thôn kém, người dân gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc đi lại vào mùa mưa. (Hộp 15)

8

Một số địa phương do xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia đã gây nên tình trạng rất khó khăn trong đi lại và sản xuất.

Về giao thông nội đồng: Tỷ lệ diện tích có giao thông nội đồng ở thấp và đường dẫn đến các vùng sản xuất chủ yếu là đường nhỏ, rất khó khăn cho việc vận chuyển vật tư sản xuất và mang máy móc đến vùng sản xuất. Mặc dù những năm gần đây nhà nước, nhân dân và các dự án, tổ chức hỗ trợ xây dựng đường giao thông nội đồng nhưng nhìn chung đến nay giao thông nội đồng vẫn là vấn đề nhức nhối đối với sản xuất của bà con nông dân.

Như vậy có thể kết luận rằng giao thông nông thôn và giao thông nội đồng chưa được đầu tư thỏa đáng thực sự là cản trở lớn đối với hộ nông dân, đặc biệt là hộ nghèo

Về thuỷ lợi: Trong những năm qua dự án Chia Sẻ, dự án 135 và nhiều dự án khác đã đầu tư cho bà con nông dân xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi như: Bê tông hoá hệ thống kênh mương, xây đập giữ nước… nhưng đến nay diện tích lúa không chủ động được nước tưới còn nhiều, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu kênh mương, thiếu nguồn nước dẫn vào, nhiều diện tích phụ thuộc vào nước trời nên chỉ có thể trồng được 1 vụ. (Hộp 16)

Hệ thống tưới, tiêu chưa đảm bảo, tỷ lệ bê tông hoá vẫn còn thấp, khi có lũ lụt thường xảy ra sạt lở gây mất chủ động trong tưới nước và tiêu nước khi ngập úng.

Nước sinh hoạt: Mặc dù đã được đầu tư khá nhiều nhưng nhìn chung nước sinh hoạt cho bà con nông dân thiếu khá nhiều, đặc biệt là vào mùa khô. (Hộp 17)

Điện: Tại các địa phương dân sống tập trung đông, địa hình không khó khăn cho việc xây dựng đường đây, trạm cao thế, hạ thế như Quảng Trị thì đa số nông hộ đều đã được kéo điện và sử dụng điện lưới quốc gia, tuy nhiên đến nay điện phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất vẫn còn thiếu trầm trọng, hệ thống đường dây kém chất lượng, vào mùa nóng xảy ra hiện tượng mất điện thường xuyên do thiếu điện cấp. (Hộp 18)

Tại một địa phương vùng sâu, vùng xa do tập quán thích sống ở trên cao, dân lại ở thưa thớt rất khó khăn cho việc mắc trạm điện đến từng khu vực người dân muốn mắc điện thì phải tự chuẩn bị dây, cột nên nhiều hộ nghèo vẫn chưa được tiếp cận mạng lưới điện quốc gia vì chi phí lắp đặt đường dây quá cao so với khả năng chi trả của họ. (Hộp 19)

Hệ thống truyền thông: Hầu hết các xã có loa đài truyền thông nhưng chủ yếu là loa truyền thông cấp xã, hệ thống này không đảm bảo được việc cung cấp thông tin cho người dân. Tỷ lệ thôn có loa phóng thanh thấp, chất lượng thiết bị kém, thời lượng phát ngắn, không đáp ứng được nhu cầu thông tin của nhân dân. Đây là một trong những điểm yếu của công tác truyền thông.

Các phương tiện truyền thông khác có sự khác biệt giữa các địa phương. Ở Quảng Trị hệ thống thông tin truyền thông tốt hơn 2 tỉnh còn lại. (Hộp 20)

Về nhà văn hoá thôn: Hiện nay còn rất nhiều thôn chưa có nhà sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt là những thôn thuộc các xã vùng sâu, vùng xa. Để tổ chức các cuộc họp, các lớp tập huấn, các buổi sinh hoạt cộng đồng, những thôn này phải nhờ gia đình của một ai đó trong thôn. Nhiều thôn tuy đã có nhà sinh hoạt cộng đồng nhưng phần nhiều trong số đó còn chật hẹp, xuống cấp trầm trọng, nhiều thôn có nguy cơ sụp, đổ, bên cạnh đó các trang thiết bị phục vụ sinh hoạt không đủ, nhiều nhà văn hoá thôn không có ghế để cho nhân dân ngồi mỗi khi đến dự họp. Chỉ có một số thôn do dự án Chia Sẻ hỗ trợ đảm bảo được về mặt diện tích và trang thiết bị phục vụ sinh hoạt. (Hộp 21)

Các cơ sở chế biến NLS, các cơ sở dịch vụ SX: Tất cả các địa phương điều tra đều không có cở sở chế biến nông lâm sản lớn, đa số nông sản được bán cho tư thương để đem đi chế biến, tiêu thụ ở nơi khác. Chỉ có một số hộ rất ít hộ nông dân làm nghề tiểu thủ công nghiệp nhỏ như: nấu rượu, làm đậu phụ, xay xát, phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Đây thực sự là cản trở đối với việc mở rộng quy mô sản xuất và tăng thu nhập trên một đơn vị sản phẩm.

Đô thị, khu CN: Trên địa bàn điều tra không có khu công nghiệp nào, đây là một cản trở trong việc tiêu thụ nông sản cũng như tìm kiếm việc làm của lực lượng lao động tại địa phương.

9

Các công trình dịch vụ công cộng: Nhìn chung, hệ thống trường học, trạm xá, chợ nông thôn, nhà văn hoá thôn… chưa đáp ứng đủ nhu cầu học tập và khám chưa bệnh cho nhân dân.

Hiện tại đã có nhiều trường học được xây dựng kiên cố nhưng các trường học ở các địa phương vẫn đang thiếu lớp học, đặc biệt là thiếu lớp cho học sinh mẫu giáo và học sinh tiểu học, có nơi còn thiếu cả trường cấp 2. Bên cạnh đó các trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy và học tập đã lạc hậu và xuống cấp, nhiều thiết bị đến nay đã không thể sử dụng được gây cản trở đáng kể cho công tác giảng dạy và học tập tại địa phương. (Hộp 22)

Hiện nay đa số xã có trạm y tế kiên cố, các trạm y tế tại các xã đều có từ 3-5 giường bệnh, đáp ứng được phần nào nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Tuy nhiên, hầu hết các trạm y tế đều không có bác sỹ chuyên khoa, các loại thiết bị y tế còn thiếu, chỉ có thể khám, chữa được những bệnh thông thường, do vậy khi có bệnh nặng người dân phải chuyển lên tuyến huyện, tỉnh hoặc trung ương.

Về chợ nông thôn: Hiện nay đang thiếu chợ nông thôn để giao lưu, trao đổi hàng hoá, trung bình khoảng 4-5 xã mới có 1 chợ nông thôn. Khoảng cách từ các hộ nông dân đến chợ tương đối xa, đường xá đi lại khá khó khăn, với khoảng cách này các hộ nông dân đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc mua bán sản phẩm vật tư đầu vào, đầu ra của các hộ nông dân.

Về máy móc phục vụ sản xuất: Hiện nay các hộ nông dân đã từng bước sử dụng máy cày, máy bừa vào sản xuất, tuy nhiên do hệ thống giao thông nội đồng kém chất lượng, trình độ sử dụng của bà con còn nhiều hạn chế nên việc đưa các máy móc hiện đại vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đưa máy móc vào vùng ruộng bậc thang. Việc sử dụng máy tuốt lúa, máy xay xát lúa đã được 100% hộ nông dân sử dụng, tuy nhiên đây mới chỉ là một khâu trong quá trình sản xuất. Vấn đề đưa máy móc vào phục vụ sản xuất cũng là một khó khăn đối với các hộ nông dân hiện nay. (Hộp 23)

4.3. Nguồn vốn tài chínhNhững khó khăn về tài chính làm cho khả năng trỗi dậy của kinh tế nông hộ bị

giảm sút, muốn cải thiện được kinh tế nông hộ thì việc tăng đầu tư nhằm mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm là một nhu cầu tất yếu. Trong điều kiện như hiện nay, khi mà khả năng tích luỹ của hộ nông dân rất thấp, sự hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ ngày càng giảm, thì việc vay vốn để đầu tư được coi là hành vi quan trọng nhất để thoả mãn về mặt tài chính. Những nhân tố thúc đẩy

Nhìn chung tỷ lệ hộ vay vốn là khá cao, đặc biệt là tỷ lệ hộ nghèo vay được vốn là tương đối lớn. Có được điều này là do có 3 sự tác động hỗ trợ: Thứ nhất, trên các địa bàn có nhiều nguồn tín dụng mà các hộ nông dân có thể tiếp cận như Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, các quỹ hỗ trợ phát triển, các dự án; Thứ 2, có sự đóng góp rất lớn của Ngân hàng Chính sách Xã hội thông qua việc áp dụng chính sách cho vay tín chấp với lãi suất ưu đãi; Thứ 3 là sự hỗ trợ của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội thông qua việc đứng ra bảo lãnh tín chấp cho nông dân vay vốn và hướng dẫn làm thủ tục vay vốn.

Qua điều tra cho thấy, ở các địa phương khác nhau thì tỷ lệ hộ vay được vốn của các nhóm hộ cũng khác nhau, điều này cho thấy tính đặc thù về nguồn vốn và khả năng tiếp cận các vốn của nông hộ ở mỗi địa phương. Tuy nhiên cho dù là ở địa phương nào đi chăng nữa thì hộ trung bình và hộ nghèo vẫn là 2 nhóm vay nhiều nhất. Đây chính là yếu tố thuận lợi thúc đẩy hộ nghèo tiếp cận nguồn vốn tài chính nhưng vấn đề là ở chỗ hộ nghèo có nhu cầu vay vốn hay không và hộ nghèo có biết sử dụng vốn vay hay không. (Bảng 40)

10

Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ hộ vay được vốn của các nhóm hộ thuộc xã có dự án Chia Sẻ và không có dự án Chia Sẻ ở các tỉnh có sự khác biệt. Nếu như tỷ lệ hộ vay được vốn ở của các hộ thuộc xã có dự án Chia Sẻ 2 tỉnh Hà Giang và Quảng Trị cao hơn hộ thuộc xã không có dự án Chia Sẻ thì điều này lại xảy ra ngược lại đối với trường hợp ở tỉnh Yên Bái. Do vậy không có minh chứng để chứng minh khả năng hỗ trợ của dự án Chia Sẻ trong việc tăng cường khả năng vay vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng của các nhóm hộ. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên số hộ được vay tín chấp ở vùng dự án cao hơn so với ở địa phương ngoài vùng dự án mà nguyên nhân có thể là do ở trong vùng dự án vốn xã hội đã được nâng cao đáng kể. (Bảng 41)

Nhìn chung, thủ tục vay vốn đơn giản, thời gian làm thủ tục vay vốn ngắn, bình quân khi vay vốn mỗi hộ phải đến ngân hàng 2.3 lần và thời gian trung bình từ lúc nộp hồ sơ đến lúc vay được là 19 ngày, có được điều này là do trong những năm qua các ngân hàng đã tinh giảm tối đa các thủ tục rườm rà khi cho nông hộ vay vốn và đặc biệt là do có sự hỗ trợ làm thủ tục vay vốn, đứng ra bảo lãnh tín chấp của các đoàn thể chính trị xã hội. Qua điều tra cho thấy, nhiều phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người không biết chữ - những người không có khả năng làm thủ tục vay vốn đều được các đoàn thể đứng ra hướng dẫn làm thủ tục vay vốn. Sự tồn tại của các đoàn thể chính trị xã hội thực sự là nhân tố hỗ trợ đối với việc tiếp cận vay vốn của hộ nông dân, đặc biệt là hộ nghèo, dân tộc thiểu số, phụ nữ và người mù chữ. (Bảng 42)

Được tập huấn sử dụng vốn có hiệu quả Với trình độ dân trí như hiện nay việc tập huấn sử dụng đồng vốn sao cho có hiệu

quả là một nhu cầu quan trọng và cần thiết. Việc thường xuyên mở các lớp tập huấn kiến thức sử dụng vốn sau khi vay cho hộ nông dân thực sự là nhân tố hỗ trợ có tác động tích cực đến hiệu quả sử dụng vốn của mọi nhóm hộ.

Có được điều này là do các khoá tập huấn của dự án Chia Sẻ được hình thành trên cơ sở nhu cầu kiến thức sản xuất của các hộ nông dân và đó cũng là động cơ chính mà nông dân vay vốn. (Bảng 43)

Tuy ở mỗi địa phương có tỷ lệ hộ được tập huấn ở các nhóm hộ có sự khác nhau nhưng nhìn nhóm hộ nào cũng có người được tập huấn. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh ở hộ nông dân khá đa dạng và phức tạp làm thời điểm vay vốn của các nông hộ cũng đa dạng theo thì việc tập huấn kiến thức sử dụng vốn sau khi vay cho hộ nông dân sẽ gặp phải nhiều khó khăn phức tạp vì thời gian vay vốn không đồng nhất nhưng tỷ lệ hộ được tập huấn sau khi vay vốn vẫn đạt được 32,12% là một sự nỗ lực rất lớn của chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, các dự án... Như vậy có thể kết luận rằng sự quan tâm của chính quyền và các đoàn thể, chính trị, các dự án trong việc tập huấn kiến thức sử dụng vốn cho nông hộ sau khi vay là một nhân tố hỗ trợ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. (Bảng 44)

Mặc dù tỷ lệ được tập huấn còn thấp song đa số các hộ đã sử dụng vốn đúng mục đích vì sau khi cho vay vốn một thời gian các ngân hàng và các tổ chức tín dụng luôn có chương trình phối hợp với các địa phương để kiểm tra các hộ vay vốn xem có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không, trong trường hợp hộ vay vốn không tuân thủ thoả thuận ban đầu mà sử dụng sai mục đích thì ngân hàng sẽ thu hồi lại vốn, thậm chí tiến hành xử phạt nên nhiều hộ nông dân không dám sử dụng vốn vay một cách tuỳ tiện. Tuy nhiên đến nay tại các địa phương điều tra chưa có trường hợp nào buộc ngân hàng phải tiến hành thu hồi lại vốn vay. (Bảng 45)

Những nhân tố cản trởHộ nông dân thiếu vốn sản xuất và tiêu dùng

11

Vốn là yếu tố quan trọng có vai trò quyết định trong sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của mọi đối tượng tham gia sản xuất, trong đó có nông dân. Mặc dù tỷ lệ hộ vay được vốn khá cao song người dân ở các tỉnh điều tra vẫn thiếu vốn (chiếm tới 88% tổng số hộ khảo sát), vậy nguyên nhân thực sự của vấn đề này là gì? Chúng tôi sẽ làm rõ các nguyên nhân đó ngay trong phần dưới đây:

Kết quả thảo luận từ các cuộc PRA và kết quả điều tra cho biết có 2 dạng thiếu vốn, trong đó có cả thiếu vốn sản xuất (chiếm 84% số trả lời) và thiếu vốn để tiêu dùng (4% số trả lời) nhưng thiếu vốn để sản xuất là chủ yếu. Có 2 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu vốn: Một là, người dân không có tích luỹ từ quá trình sản xuất; Hai là, người dân không vay được vốn vì nhiều lý do khác nhau, cụ thể là: Do người dân có tâm lý không dám vay ngân hàng vì lo sợ không trả được hoặc luôn nghĩ rằng mình thiếu vốn để sản xuất; Do một số hộ không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng; Do hộ nông dân có thể vay được từ tư nhân, HTX nhưng không thể vay được số lượng lớn và lãi suất vốn vay từ các nguồn khá cao; Một lý do nữa đó là nhiều người có thể vay được vốn từ Ngân hàng Chính sách Xã hội nhưng vay nguồn này thường có định mức thấp, lại không đáp ứng đúng thời điểm vì cho vay theo đợt, đối tượng vay được từ nguồn này phải tham gia các đoàn thể như (hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ…) vì ngân hàng vay tín chấp qua các đoàn thể nhưng tỷ lệ người tham gia các đoàn thể này lại không cao, bên cạnh đó đối tượng ưu tiên vay vốn ở nguồn vốn này lại là hộ nghèo nên nhiều hộ giàu và khá không tiếp cận vay vốn được từ nguồn này. (Bảng 46 và Hộp 24)

Nguồn vốn mà hộ nông dân dễ dàng vay vốn đó là vay từ họ hàng, anh em, bạn bè… tuy không mất lãi suất nhưng chỉ vay được số tiền rất ít với thời gian ngắn để phục vụ chi tiêu sinh hoạt trước mắt chứ không đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất. Một số hộ còn không có nguồn vốn để vay nhưng tỷ lệ này không nhiều.

Thiếu vốn là rào cản lớn đối với việc mở rộng quy mô sản xuất và tăng năng suất cây trồng vật nuôi ở các hộ nông dân điều tra hiện nay. Kết quả điều tra cho thấy: Các hộ điều tra thiếu cả vốn cho sản xuất và vốn để tiêu dùng, trong đó thiếu vốn cho sản xuất là chủ yếu. Tỷ lệ hộ thiếu vốn của các xã có dự án Chia Sẻ là 86.43% thấp hơn so với tỷ lệ hộ thiếu vốn ở xã không có dự án Chia Sẻ. Có được sự khác biệt này cũng là do có sự hỗ trợ vật chất (con giống, tiền, công cụ sản xuất...) của dự án Chia Sẻ. (Bảng 47)

Tỷ lệ hộ thiếu vốn cho tiêu dùng ở các xã có dự án Chia Sẻ thấp hơn so với các xã không có dự án Chia Sẻ và tỷ lệ hộ nông dân thiếu vốn cho sản xuất thấp hơn so với xã không có dự án Chia Sẻ, điều này cho thấy các hỗ trợ trực tiếp của dự án Chia Sẻ có tác dụng tích cực giúp hộ nông dân cải thiện điều kiện tài chính của mình. (Bảng 48)

Nghiên cứu về nguồn vay và khả năng vay vốn tối đa của các hộ nông dân tại các tỉnh điều tra cho thấy: Mặc dù người dân có thể vay vốn ở nhiều nguồn khác nhau nhưng khả năng vay vốn tối đa của họ lại rất thấp. Không có nguồn vốn nào mà hộ nông dân có thể vay được bình quân/1 hộ đến 21 triệu đồng vì chính sách đặc thù của từng ngân hàng và tổ chức tín dụng, vì người dân thiếu tài sản thế chấp… Mặt khác, người dân không thể vay cùng một lúc từ nhiều nguồn (loại trừ trường hợp vay người thân thì chỉ vay được ít và vay tư nhân thì phải chịu lãi suất rất cao). Trong 3 tỉnh điều tra, mức vốn tối đa có thể vay cao nhất là ở Quảng Trị nhưng mức vay bình quân cao nhất là vay ở Quỹ tín dụng cũng chỉ lên đến 20,23 triệu đồng/hộ. Khả năng vay vốn tối đa thấp thực sự là rào cản lớn đối với sự phát triển của kinh tế nông hộ vì vốn ít thì đương nhiên sẽ kéo theo hạn chế đầu tư mở rộng quy mô và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. (Bảng 49)

Đa số hộ nông dân có khả năng vay vốn nhưng mức vay vốn bình quân/ 1 hộ thấp, khả năng vay vốn giữa các hộ ở xã có dự án Chia Sẻ và xã không có dự án Chia Sẻ ít có sự chênh lệch. Kết quả điều tra cho thấy: 80,3% số hộ có khả năng vay vốn ngân hàng, 8% số

12

hộ có thể vay vốn từ Quỹ tín dụng, 27,4% số hộ có thể vay vốn từ người thân, 6,1% số hộ có thể vay vốn từ các nguồn khác. Bình quân mỗi hộ có thể vay ngân hàng tối đa là 13,8 triệu đồng, có thể vay quỹ tín dụng tối đa là 14,68 triệu đồng, vay người thân tối đa là 6,4 triệu đồng và vay các nguồn khác tối đa là 5,04 triệu đồng. Trong điều kiện giá cả leo thang và đặc thù sản xuất của các địa phương như hiện nay, với lượng vốn tối đa mà hộ nông dân có thể vay như vậy thì việc mở rộng quy mô sản xuất sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy có thể kết luận rằng hạn mức vốn mà hộ nông dân có thể vay được thấp là rào cản đối với sự phát triển kinh tế nông hộ.

Xem xét nguồn vốn có thể vay của hộ nông dân theo điều kiện kinh tế cho thấy: Hộ có thu nhập càng cao thì khả năng vay vốn càng lớn. Mặc dù đa số người nghèo đều có thể vay được vốn từ Ngân hàng Chính sách Xã hội nhưng khả năng vay được vốn của họ từ tất cả những nguồn vốn khác rất kém, bên cạnh đó việc vay vốn từ Ngân hàng Chính sách Xã hội luôn gặp phải những rào cản như: phải có đợt cho vay, hạn mức cho vay thấp, người vay vốn phải là người tham gia các tổ chức đoàn thể… Do vậy, thu nhập thấp cũng là rào cản trong việc vay vốn. (Bảng 50)

Trình độ học vấn cũng là rào cản đối với việc tiếp cận nguồn vốn nhưng nó không phải là rào cản trực tiếp mà gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng vay vốn của nông hộ. Chúng ta đã biết, mặc dù tại các địa phương luôn có các tổ chức đoàn thể hỗ trợ rất tích cực trong việc làm thủ tục vay vốn cho các nông hộ, các tổ chức đoàn thể không những giúp đỡ được phụ nữ và người nghèo có trình độ thấp vay vốn mà còn giúp đỡ được cả những người mù chữ, người không biết nói tiếng phổ thông vay vốn. Tuy nhiên với sự hỗ trợ của các tổ chức đoàn thể, những đối tượng này thường cũng chỉ vay từ 1-2 lần. (Bảng 51)

Như đã trình bày ở phần trước, có nhiều hộ nông dân vay được vốn, tuy nhiên vẫn còn có khoảng 19.7% số hộ không vay được vốn. Lý do mà các hộ này không vay được vốn có nhiều song chủ yếu vẫn là: thủ tục còn rườm rà, phức tạp, thiếu sổ đỏ để thế chấp vay vốn và thời hạn vay ngắn..., trong đó thời hạn cho vay ngắn được coi là rào cản lớn nhất đối với khả năng vay vốn của nông hộ. Thông thường thời gian vay vốn của các hộ chỉ được khoảng 3 năm, với khoảng thời gian này các hộ không kịp quay vòng thì đã phải trả cả lãi lẫn gốc, trong khi đó một số tổ chức tín dụng cho các hộ nông dân vay vốn với thời gian dài nhưng yêu cầu phải có tài sản thế chấp, lãi suất lại cao, nếu người nông dân vay được ở những nguồn vay thì cùng khó có khả năng trả nợ bởi lãi ngân hàng có thể cao hơn cả lãi của người sản xuất. Bên cạnh đó, không có sổ đỏ hoặc thủ tục rườm rà, thời gian xét duyệt lâu cũng là những lý do đáng kể để hộ không vay được vốn. Đây thực sự là rào cản trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay phục vụ cho nhu cầu sản xuất của bà con nông dân.

Trong toàn bộ các hộ thuộc đối tượng điều tra của dự án có 76 hộ không được vay vốn hay vay đủ vốn, trong đó có 43 hộ thuộc xã Chia Sẻ và 33 hộ thuộc xã không Chia Sẻ. Các hộ không được vay vốn do một số nguyên nhân như sau:Thứ nhất là, Do thủ tục giấy tờ quá phức tạp có 14,5% trong tổng số người không vay được vốn, cụ thể ở xã Chia Sẻ là 16,3%, xã không Chia Sẻ là 12,1% .Thứ hai là, Phải qua xét duyệt nhiều. ( Bảng 53)

Mặc dù các ngân hàng và tổ chức tín dụng đã tinh giảm tối đa các thủ tục vay vốn rườm rà, phức tạp và các hộ nông dân luôn có các tổ chức đoàn thể ở bên cạnh hỗ trợ nhưng vẫn còn tình trạng khó khăn trong khi làm thủ tục vay vốn, nguyên nhân chính là do năng lực xây dựng phương án xin vay của cả nông hộ và cán bộ hướng dẫn vẫn còn nhiều hạn chế. Đây cũng là một rào cản làm giảm khả năng tiếp cận nguồn vốn tài chính của nông hộ.

4.4. Nguồn vốn xã hộiTrong nghiên cứu này, nguồn vốn xã hội được xem xét trên các khía cạnh như:

quan hệ trong gia đình, tập quán và văn hóa địa phương, các luật tục và thiết chế cộng

13

đồng, vai trò của các tổ chức và chính trị xã hội cũng như sự tham của người dân vào các họat động tập thể, khả năng tiếp cận và cập nhật thông tin của người dân đối với sản xuất và đời sống.

Những nhân tố thúc đẩyTrưởng thôn và cán bộ địa phương có vai trò tích cực trong việc truyền tải thông

tin đến người dânNguồn cung cấp thông tin đóng vai trò quan trọng đối với nguồn vốn xã hội, nó

được thể hiện qua sự trao đổi qua lại, mạng lưới cung cấp thông tin và khả năng truyền tải các thông tin. Những thông tin giữa người trong cộng đồng với người ngoài cộng đồng, giữa những người có tiếp cận với nhiều thông tin ở trong cộng đồng với các thành viên khác trong cộng đồng… Một mạng lưới thị trường nông sản vận hành tốt, các bên tham gia điều được hưởng lợi công bằng sẽ bền vững, còn nếu có sự mất công bằng thì mạng lưới sẽ kém bền vững.

Các kênh thông tin chính hiện nay được chia làm 2 kênh là chính thống và không chính thống. Số liệu khảo sát cho thấy kênh thông tin chính để truyền tải các thông tin đến người dân vẫn theo hệ thống hành chính nhà nước từ cấp tỉnh, huyện, xã rồi đến thôn, thông qua cán bộ thôn và các cuộc họp thôn có tỷ lệ người dân trả lời cao nhất với 74,2% và 72,1% số hộ, tiếp đến là nguồn tin từ đài và ti vi với tỷ lệ 58%. Các nguồn tin từ cán bộ xã, cán bộ khuyên nông, các đoàn thể cũng có vai trò đối với người dân nơi đây. Đây là nhân tố hỗ trợ cho hộ nghèo trong việc tiếp cận các nguồn thông tin. Tuy nhiên, một số nguồn thông tin quan trọng như từ việc trao đổi sản phẩm mua bán vật tư, trao đổi với bạn bè hàng xóm vẫn còn hạn chế. Nếu so sánh mức độ tiếp cận các nguồn thông tin thì khả năng tiếp cận tăng dần từ Hà Giang đến Yên Bái và cao nhất là Quảng Trị, nó phù hợp với thực tế của các địa phương vì Yên Bái và Quảng Trị gần trung tâm và cơ sở hạ tầng tốt hơn so với Hà Giang. (Bảng 55 và 56)

Nhà nước có chủ trương chính sách phát triển các tổ chức quần chúng, thu hút các hội viên tham gia, thông qua các tổ chức đoàn thể để phát triển sản xuất, tăng cường mối liên kết của cộng đồng, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, hoà giải, đảm bảo an ninh trật tự... trong thời gian gân đây các tổ chức đoàn thể còn được uỷ thác cho vay vốn của Ngân hàng Chính sách Xã hội nhằm giúp người dân phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo.

Việc tham gia các tổ chức đoàn thể lợi ích mang lại mởi chỉ dừng ở việc mở rộng quan hệ và mang lại lợi ích chung cho cộng đồng, vấn đề ích ích tăng thu nhập cho người dân vẫn đang mức khiêm tốn. (Bảng 57)

Phân theo địa bàn nghiên cứu thì vấn đề lợi ích mở rộng quan hệ xã hội khi tham gia vào các đoàn thể, tỉnh Quảng Trị có tỷ lệ cao nhất (83,3%), sau đó là Yên Bái (73%) và Hà Giang chỉ (57%), các lợi ích khác cũng tương tự, Quảng Trị cao nhất sau đó đến Yên Bái và Hà Giang, tuy nhiên, vấn đề không mang lại lợi ích gì thì Hà Giang lại có tỷ lệ cao nhất, mà nguyên nhân có thể là do tại các địa phương khảo sát địa hình chia cách, thông tin liên lạc chưa đảm bảo, người dân ở xa rất khó tham gia. (Bảng 58)

Mạng lưới quan hệ gia đình, dòng họ của người dân địa phương khá mạnhViệc lan toả thông tin trong cộng đồng và hộ gia đình đóng vai trò quan trọng đối

với việc nâng cao vốn xã hội của người dân. Nếu thông tin được truyền tải kịp thời, đúng đối tuợng, đúng trọng tâm sẽ giúp người dân tăng khả năng hiểu biết về sản xuất, xu thế thị trường, hiểu biết xã hội, làm tăng sự tự tin, nâng cao hiệu quả sản xuất...

Số liệu khảo sát cho thấy phần lớn chủ hộ khi có thông tin thường trao đổi với gia các thành viên trong gia đình tỷ lệ 82,2%, kế tiếp là trao đổi với hàng xóm (52,9%), trao đổi họ hàng (47,1%), trao đổi với người trong làng xã (21,5%) và trao đổi với người khác chỉ có (4%). Tuy nhiên, phân theo địa điểm nghiên cứu thì có sự chênh lệch lớn về việc trao đổi thông tin với người trong gia đình ở Quảng Trị (96,5%), Yên Bái (90,8%) và Hà

14

Giang chỉ có 59,2%, tương tự như thế việc trao đổi với các tác nhân khác ở Quảng Trị và Yên Bái cũng có tỷ lệ cao hơn Hà Giang, duy chỉ có trao đổi với dòng họ Hà Giang có nhỉnh hơn so với Yên Bái. Có thể thấy rằng ở vùng gần trung tâm hơn thì việc Chia Sẻ thông tin tốt hơn. Việc trao đổi thông tin cho nhau ở Hà Giang vẫn còn rất hạn chế so với Yên Bái và Quảng Trị. (Bảng 59)

Có nhiều đối tượng đươc trao đổi sau khi chủ hộ biết thông tin về sản xuất, trong đó đối tượng đầu tiên được các chủ hộ trao đổi đó là người trong gia đình, tiếp đến là họ hàng và hàng xóm, người trong làng… Như vậy đối tượng mà chủ hộ trao đổi thông tin sau khi nắm được các thông tin về sản xuất khá đa dạng, thông qua đó chủ hộ sẽ nắm được nhiều thông tin phản hồi từ các phía do vậy việc ra quyết định chọn lựa các phương án sản xuất sẽ tốt hơn. (Bảng 60)

Quan hệ của người dân trong cộng đồng từ khi có dự án ngày càng tốt hơnTrong những năm vừa qua các địa phương khảo sát đã có nhiều chương trình dự án

hỗ trợ, đồng thời nhà nước cũng có nhiều chính sách giúp tăng cường nguồn vốn xã hội của người dân và cộng đồng. Điểm nổi bật là dự án Chia Sẻ đã hỗ trợ địa phương, người dân phát triển hạ tầng cơ sở nhằm tăng sự giao lưu kết nối thông tin như nhà sinh hoạt cộng đồng, hệ thống truyền thông, bên cạnh đó thì việc tăng cường năng lực cho cán bộ và người dân cũng được chú trọng. (Bảng 61)

Quan số liệu thống kê cho thấy sau khi có dự án quan hệ cộng đồng đã được nâng lên, thể hiện rõ nét nhất là ở Quảng Trị (91,8%), tiếp đến là Yên Bái (75,7%) và Hà Giang (67,2%). Tuy nhiên, vẫn có một số trả lời là tác động của dự án đối với quan hệ trong công đồng vẫn dữ nguyên hoặc xấu đi. Tỷ lệ này lại ngược khi Hà Giang có tỷ lệ cao nhất, sau đó đến Yên Bái và Quảng Trị. Không có người nào tham gia sự án ở Quảng Trị trả lời là là quan hệ xấu đi. Qua đó cho thấy hiệu quả trong hoạt động cộng đồng trong các dự án triển khai ở địa phương này, với lại Quảng Trị và Yên Bái cơ sở hạ tầng thuận tiện hơn, cùng với dân trí cao hơn so với Hà Giang.

Đa số người dân tham gia vào các tổ chức địa phươngTham gia vào các hoạt động đoàn thể sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người dân từ

việc mở rộng quan hệ trong cộng đồng, nắm bắt các thông tin kịp thời, Chia Sẻ giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn nạn cho đến các hoạt động cho vay vốn tạo thu nhập cho hộ gia đình... Các điểm khảo sát các tổ chức hoạt động tương đối tốt, nhất là hội nông dân và hội phụ nữ. So sánh giữa hai nhóm hộ có Chia Sẻ và không có Chia Sẻ không có sự khác biệt nhiều trong tỷ lệ hộ tham gia vào các tổ chức đoàn thể, duy chỉ có hội nông dân và đoàn thanh niên là có sự khác biệt giữa 2 nhóm Chia Sẻ và không Chia Sẻ. Phải chăng nhận thức của người dân trong dự án Chia Sẻ về vấn đề tham gia các tổ chức đoàn thể cao hơn so với nhóm hộ không có Chia Sẻ. (Bảng 62)

Mặc dù người dân tham gia các đoàn thể cũng mang lại khá nhiều lợi ích như: các đoàn thể đứng ra tín chấp cho hộ nông dân vay vốn, tuyên truyền chính sách xã hội, tập huấn kiến thức… nhưng nhìn chung mức độ tham gia các hoạt động đoàn thể của người dân chưa cao, người dân chưa ý thức được hết những lợi ích này và một phần là do nếu người dân không được hưởng những ưu đãi này từ phía các đoàn thể thì họ vẫn được hưởng những lợi ích này từ các tổ chức khác như: chính quyền địa phương (thôn, xã, huyện...), các cơ quan quản lý ngành và các dự án, các tổ chức phi chính phủ... Tỷ lệ hộ tham gia công tác đoàn thể của người dân ít có sự chênh lệch giữa hộ thuộc xã có dự án và không có dự án Chia Sẻ. Bảng trên cho mức độ tham gia các tổ chức đoàn thể của người dân Quảng Trị là rất cao, trong khi đó ở Yên Bái và Hà Giang vẫn còn nhiều hộ không tham gia và các hoạt động đoàn thể (18 và 26 hô cho mỗi tỉnh). Trong các tổ chức đoàn thể thì hội Nông dân và Phụ nữ được nhiều người tham gia nhất. Mọi phụ nữ của thôn Giàng Cài xã Nậm Lành

15

huyện Văn Chấn đều tham gia hội phụ nữ. (BBPRA trang 5). Ở thôn Nà Sài xã Minh Ngọc huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang cũng vậy các tổ chức quần chúng hoạt động tương đối hiệu quả nhất là vai trò của hội phụ nữ. (BBPRA Thon Na Sai trang 3) Vai trò của đoàn thanh niên rất hạn chế. Tham gia vào các tổ chức đoàn thể cũng là yếu tố mang lại lợi ích gián tiếp cho việc sản xuất, kinh doanh của hộ. Các tổ chức đoàn thể chủ yếu là Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh và Đoàn thanh niên. Các hộ thường tham gia hội nông dân nhất trong các hiệp hội. Chia theo các tỉnh, số lượng thành viên tham gia hội nông dân ở Hà Giang là 84, Yên Bái là 43 và Quảng Trị là 125.

Phong tục tập quán lạc hậu ngày càng được hạn chếCác phong tục khác như đám cưới, đám ma không còn kéo dài như trước từ chỗ ăn

3-4 ngày và thách cưới đến ăn 1-2 ngày và lễ cưới. Đám cưới ngày nay cũng chỉ ăn uống có một ngày, người dân không tốn kém nhiều chi phí cho họat động này nữa.Các luật tục địa phương ngày càng bị mờ nhạt, chỉ còn lại một số phong tục vẫn duy trì như: cúng, lễ hội…

Không có sự khác biệt lớn về tỷ lệ của các nhóm hộ phân theo trình độ học vấn. Qua bảng trên cho thấy sự công bằng giới trong việc ra quyết định đã được nâng lên, đồng thời vốn xã hội của dòng họ, cán bộ và những người sống trong cộng đồng đã được hình thành, tuy nhiên, vẫn đang ở mức thấp. (Bảng 64)

So sánh giữa hai nhóm hộ có Chia Sẻ và không Chia Sẻ chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy có sự khác nhau giữa 2 nhóm về các vấn đề tham khảo ý kiến đối với vợ chồng khi đưa ra quyết định, hộ có dự án Chia Sẻ thấp hơn so với không Chia Sẻ. Tuy nhiên, vấn đề tham khảo ý kiến của cán bộ thôn, xã, cán bộ dự án và Hàng xóm thì nhóm hộ có Chia Sẻ có tỷ lệ cao hơn nhóm hộ không Chia Sẻ. Qua đó cho thấy vốn xã hội của cán bộ, của người dân trong dự án Chia Sẻ đã được nâng lên. (Bảng 65)

Quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xóm… ảnh hưởng không nhỏ đến việc ra quyết định trong sản xuất của hộ nông dân. Các hộ thường tham khảo ý kiến của nhiều đối tượng trước khi ra quyết định trong sản xuất cũng như đời sống, tuy nhiên mức độ tham khảo của chủ hộ đến các đối tượng có sự khác nhau. Kết quả thảo luận PRA cho thấy: Mức độ tham khảo ý kiển cá nhân của hộ nông dân thuộc xã có dự án Chia Sẻ cao hơn với xã không có dự án Chia Sẻ.

Trước khi ra quyết định sản xuất, kinh doanh 100% số chủ hộ đều tham khảo ý kiến cá nhân, đã bàn bạc với những người thân như vợ hoặc chồng, họ hàng, hàng xóm.. thậm chí nhiều chủ hộ còn tham khảo ý kiến cán bộ địa phương hoặc cán bộ dự án… Để ra quyết định một số chủ hộ đã tham khảo ý kiến của rất nhiều người nhưng có những chủ hộ chỉ tham khảo ý kiến của 1-2 người. Người được các chủ hộ trao đổi nhiều nhất chính là vợ hoặc chồng của chủ hộ, đối tượng thứ 2 mà chủ hộ trao đổi là cán bộ địa phương - những người nắm được chủ chương, chính sách và thông tin đối tượng, thứ ba là họ hàng của chủ hộ, thứ tư là hàng xóm và thứ năm mới là cán bộ dự án. (Bảng 65)

Những nhân tố cản trởNgười dân vẫn còn bị ép giá do thiếu thông tin thị trường

Trong những năm qua khả năng tiếp cận thông tin của người dân đã được nâng lên thông qua các chương trình dự án như Chia Sẻ (Bảng 66). Các nguồn tin từ cán bộ xã, thôn, cán bộ dự án được người dân trong dự án Chia Sẻ tiếp cận tốt hơn, cùng với đó thì nguồn tin từ loa phóng thanh, sách báo tờ rơi, bạn bè và các nguồn tin từ trao đổi sản phẩm cũng tốt hơn. Điều này có thể khẳng định công tác hỗ trợ người dân tiếp cận thông tin của dự án là khá tốt. Tuy nhiên, mức độ tiếp cận các nguồn tin chung cho cả hai nhóm vẫn còn thấp. Để người dân các điểm khảo sảt tiếp cận tốt các nguồn thông tin nhằm tăng vốn xã hội lên thì còn phải nỗ lực nhiều từ phía nhà nước và người dân.

16

Hệ thống phân phân phối vật tư và thu mua sản phẩm nông sản giúp người dân tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường bên ngoài. Mua và bán các vật tư đầu vào và nông sản chủ yếu qua các kênh tại chợ, tại nhà, bán qua thương nhân, bán tại đường quốc lộ, bán cho khách vãng lai, bán nơi khác.

Hai kênh được dùng để trao đổi thường xuyên là bán tại chợ và bán cho khách vãng lai. Tuy nhiên, giữa các tỉnh có sự khác nhau về việc bán sản phẩm, người dân Hà Giang thường bán cho khách vãng lai và tại chợ, còn Yên Bái và Quảng Trị thường bán tại nhà. Qua đấy cho thấy việc thu mua các sản phẩm nông sản đã được các tư thương tiếp cận đến người dân, tuy nhiên, vấn đề này còn phụ thuộc vào hệ thống giao thông như ở Hà Giang1 do một số xã đường sá khó khăn không có người đến thu mua nên người dân phải mang đến chợ bán, trong khi đó ở Yên Bái và Quảng Trị tỷ lệ người dân đến chợ bán thấp hơn nhiều.

Đối với việc mua các vật tư đầu vào thì người dân Hà Giang chủ yếu mua ở chợ 57%, tiếp đến Yên Bái 32,9% và Quảng Trị chỉ có 23,4 %. Việc giao thương thể hiện rõ nét hơn ở Yên Bái và Quảng Trị nơi đã có các dịch vụ cung cấp vật tư đầu vào của tư nhân phát triển và vai trò của Hợp tác xã trong cung ứng vật tư tốt hơn như ở Quảng Trị.

Việc hộ gia đình bị ép giá xảy ra nhiều ở tỉnh Quảng Trị là 41%, ở Yên Bái là 35% và Hà Giang là 17%. Thông tin giá cả thị trường cập nhật là vấn đề cần quan tâm, vấn đề này được thể hiện rõ qua số liệu của điểm nghiên cứu Quảng Trị nơi sản xuất đã cho ra các sản phẩm hàng hoá như cao su, tiêu… hiện tượng tư thương thông đồng nhau để ép giá vẫn xảy ra thường xuyên, mặc dù khoảng cách từ nhà đến chợ, đường quốc lộ của người dân Vĩnh Linh là không xa. Mặt khác các tỉnh vùng sâu, miền núi như Yên Bái và Hà Giang khả năng sản xuất các sản phẩm hàng hoá còn hạn chế, địa hình chia cắt, thông tin tiếp cận ít nên nhiều khi người dân không biết mình bị ép giá hay không. (Bảng 67)

Việc trao đổi mua bán các sản phẩm nông sản cón phụ thuộc vào khoảng cách từ các hộ tiếp cận với hệ thông thị trường như chợ, đường quốc lộ, tư thương... Trao đổi hàng hoá có xu hướng giảm dân theo khoảng cách nếu hộ ở xa thì thường trao đổi nông sản và các vất tư đầu vào qua thương nhân là chính, nếu hộ ở gần thi việc trao đổi này chủ yếu là ở chợ hoặc tại nhà.

Việc tư thương ép giá là yếu tố phi chính sách tác động rất lớn tới giá cả của một số sản phẩm nông sản, đặc biệt là đối với những loại sản phẩm thu hoạch tập trung và khó khăn trong bảo quản. Qua thông kê cho thấy tình trạng người dân bị ép giá khi bán sản phẩm khá nhiều, đặc biệt là khi bán các sản phẩm tại nhà hoặc tại chợ (Bảng 69 và Hộp 26).

Tương tự thì việc mua các vật tư đầu vào người dân cũng bị ép giá khi mua ở chợ hoặc qua tư thương, nguyên nhân chủ yếu là do người dân thiếu tiền mặt để thanh toán ngay nên phần lớn là mua ghi nợ (với lãi suất cao), người nghèo thiếu vốn buộc phải chấp nhận mức giá mà các tư thương đặt ra. Mặt khác các tư thương trong cung cấp vật tư đầu vào luôn có quan hệ mật thiết với nhau, họ cùng nhau liên kết tăng giá bán buộc nông dân phải mua với giá cao, trong khi đó nông dân lại thiếu thông tin về giá cả thị trường, điều này dẫn đến tình trạng nhiều hộ nông dân bị ép giá mà không biết. Đây thực sự là cản trở lớn đối với nông dân trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất.

Vai trò của Hợp tác xã nông nghiệp trong cung cấp vật tư đầu vào ở Quảng Trị đã được người dân hưởng ứng, bởi vì giá cả hợp lý, nguồn cung cấp ổn định và kịp thời. Đây là mô hình cần được nhân rộng và áp dụng cho đồng bào vùng cao, nơi chịu rất nhiều thiệt thòi từ các yếu tố phi chính sách.

1 Tổng hợp các thông tin PRA cho thấy việc trao đổi hàng hoá gặp khó khăn đối với người dân, vì tư thương thường cân nhắc khi đến thu mua sản phẩm ở Bắc Mê, đường sá khó khăn, chi phí cước quá cao nên rất khó cạnh tranh giá cả với những đia phương khác.

17

Mối quan hệ mua bán, trao đổi sản phẩm được nhìn nhận theo nhóm hộ có Chia Sẻ và Không Chia Sẻ có sự khác biệt về việc mua bán đúng giá hay bị ép giá. Tuy khác biệt không lớn lắm, nhưng những hộ có Chia Sẻ tỷ hộ mua bán đúng giá cao hơn so với nhóm hộ không có Chia Sẻ, ngược lại thì tỷ lệ hộ Chia Sẻ bị ép giá ít hơn so với nhóm hộ không Chia Sẻ. Qua đó cho thấy khả năng nhận thức của người dân có dự án Chia Sẻ về thông tin thị trường tốt hơn nhóm không có dự án Chia Sẻ.

Khi trao đổi sản phẩm, người bán thường bị ép giá khi ở xa với trung tâm và chợ. Tuy nhiên, kết quả điều tra trên cho thấy khoảng cách không ảnh hưởng đến số lượng người bị ép giá.

Rất khó để có một phân ích rõ ràng do chọn mẫu ngẩu nhiên nên khi phân theo khoảng cách rất khó so sánh, vì khoảng cách địa lý gần thường có số mẫu lớn hơn hộ ở xã. Nhưng một thực tế cho thấy, những hộ ở xa, đường sá cách trở, thiếu thốn hạ tầng cơ sở, phương tiên truyền thông thiếu là những hộ tiếp cận với thông tin thị trường yếu hơn cho nên việc ép giá ở đây cũng nhiều hơn.

Do địa hình chia cắt, phân bố không tập trung nên khi kêu goi các hộ tham gia tiếp thu thông tin gặp khó khăn, phương tiện truyền thông chưa có... Các nguồn thông tin về giá chưa có nên người dân ở thôn bản hay bị hoang mang trước những tin đồn và bị ép giá sản phẩm. (Bảng 71)

Nguồn thông tin chính của các điểm khảo sát chủ yếu thông qua từ các cuộc họp, mặc dù vậy, việc tham gia họp hành trao đổi thông tin lại chỉ tập trung vào những người có vai trò trong gia đình có hiểu biết, thông thạo tiếng phổ thông... dẫn đến một số thành viên hộ gia đình không tiếp cận được thông tin hoặc tiếp cận thông tin không kịp thời nếu như những người đi họp không truyền tải lại. Đối với những người mặc cảm tự ti (thường là người nghèo) có tâm lý ngại đi họp hặc tham gia phát biểu ý kiến vì nghĩ rằng minh đóng góp ý kiến thì ai nghe khi mình sản xuất kém hơn người khác, hoặc nghèo hơn họ. Bên cạnh đó khả năng truyền tải thông tin không đuợc lưu loát cũng dẫn đến tình trạng này. Điều này dẫn đến khoảng cách ngày càng dãn ra giữa các nhóm hộ trong việc tiếp cận và truyền tải thông tin, vốn xã hội không phát triển thì mất kết các cơ hội tham gia vào xu thế chung. Tình trạng mất cân bằng về giới vẫn còn tồn tạiBảng trên cho ta thấy rằng phần lớn các ý kiến cho rằng nam giới đi họp nhiều hơn nữ giới, cùng với đó thì số nguời tham gia phát biểu nam giới cũng chiếm đa số. Do hiện nay kênh cung cấp thông tin chính là qua các cuộc họp thì đây là điều thiệt thòi cho chị em. Chưa tính đến vấn đề đi họp tiếp thu ý kiến của giới như thế nào, và về truyền đạt lại thôn tin ra sao cho các thành viên khác trọng hộ gia đình. (Bảng 72 và Hộp 27)

Hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội không rõ ràng, hoạt động chồng chéo kém hiệu quả và khiến người dân lúng túng khi cần được cung cấp thông tin.

Ví dụ như theo ý kiến của ông Phạm Quang Hưng CBHĐ BTK Quảng Trị, việc vay tiền qua tín chấp của các hội như đoàn Thanh Niên, hội Phụ nữ, hội Cựu chiến binh, hội Nông Dân gây cho người dân không biết phải làm như thế nào, bắt đầu từ tổ chức nào để việc tiếp cận các nguồn vốn. Các tổ chức đoàn thể tuy có, nhưng ở một số nơi rất khó kết nối các hội viên vì vai trò của các tổ chức này chỉ ở mức tạo quan hệ cho cộng đồng, hoặc vì mục đích chung chứ các vấn đề khác nhằm tăng thu nhập cho hộ vẫn chưa được phát huy.

Phụ cấp cho chi hội trưởng thấp, chỉ có 50 nghìn đồng/tháng. phụ cấp cho trưởng thôn rất thấp, chỉ đạt 80-120 nghìn đồng/tháng.

Phụ nữ bị hạn chế nhiều trong các hoạt động cộng đồng do gánh nặng gia đình và do trình độ nhận thức thấp.

Theo ông Nguyễn Văn Đĩnh xã Hạnh Sơn – Văn Chấn: Bệnh thành tích, báo cáo và những áp lực về con số, áp lực của cấp trên cần phải được xử lý

18

Việc được cung cấp thông tin và khả năng tiếp nhận, xử lý thông tin, ứng dụng thông tin còn có khoảng cách lớn. Nhiều hộ nông dân sau khi tiếp nhận được thông tin, đặc biệt là các thông tin về kỹ thuật sản xuất nhưng không có khả năng ứng dụng nên chỉ dừng lại sau khi tiếp nhận được thông tin, chính vì lý do này mà hiệu quả của công tác thông tin thấp và chưa đi vào đời sống. (Bảng 73)

Sự hòa nhập của người dân vào cộng đồng còn hạn chếTham gia các cuộc họp giúp hộ gia đình tiếp cận nhiều thông tin các chủ trương

đường lối của nhà nước, hoạt động sản xuất, thông tin kinh tế xã hội... Đây là nơi giúp người dân tiếp nhận và trao đổi các thông tin giữa những người dân trong cộng đồng. Số lần tham gia vào các cuộc họp/năm của Quảng Trị cao hơn so với Yên Bái và Hà Giang. Tuy nhiên, việc phát biểu thường xuyên ở Yên Bái lại cao nhất, tiếp đến là Hà Giang và cuối cùng là Quảng Trị. Tỷ lệ người dân hiếm khi phát biểu ở Quảng Trị và Hà Giang cao hơn Yên Bái nhiều, nhưng tỷ lệ người không bao giờ phát biểu ở Yên Bái lại cao nhất. (Bảng 75)

Số lần đi họp/năm và tỷ lệ phát biểu của nhóm hộ có Chia Sẻ cao hơn so với nhóm hộ không có Chia Sẻ, tuy nhiên, đối với nhóm hộ có Chia Sẻ vẫn tồn tại một tỷ lệ tương đối khi tham gia cuộc họp, hiếm khi phát biểu hoặc không bao giờ phát biểu. Đây là hạn chế của một số hộ trong dự án Chia Sẻ, một nguyên nhân sâu xa là xuất phát điểm của những nhóm hộ này thấp (nghèo và rất nghèo), dự án Chia Sẻ tập trung vào các xã nghèo, những xã không Chia Sẻ thường có dự án khác hỗ trợ hoặc có điều kiện kinh tế xã hội tốt hơn.

Hộ nông dân được tham gia đi họp, tập huấn ở các địa phương khá nhiều, bình quân đạt 12,5 lần/hộ/1năm, trong đó số lần đi họp, tập huấn của hộ nông dân thuộc các xã có dự án Chia Sẻ cao hơn xã không có dự án Chia Sẻ.

Mức độ tham gia đóng góp ý kiến của hộ nông dân khá cao, trong đó người nghèo chiếm đa số chỉ thỉnh thoảng phát biểu, thậm chí hiếm khi hoặc không bao giờ phát biểu ý kiến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này một phần là do nhận thức của nông dân còn hạn chế nhưng một phần cũng là do nội dung khoá học không đáp ứng nhu cầu của hộ nông dân, nhiều hộ nông dân đi tập huấn là để điểm danh, nhận tiền thù lao chứ không quan tâm đến nội dung khoá học. Nhiều hộ nông dân không có điều kiện để áp dụng các kiến thức đã được tập huấn do thiếu tư liệu sản xuất nên mức độ quan tâm đến nội dung của các khoá tập huấn giảm dần, có nhiều trường hợp sau khi kết thúc cuộc họp hoặc khoá tập huấn đã không nắm được nội dung cuộc họp hoặc nội dung khoá tập huấn, thậm chí có người còn không biết đến nơi tập trung để làm gì. (Hộp 28)

Số lần tham gia họp thể hiện tính dân chủ trong các công việc chung của cộng đồng. Trung bình số lần tham dự họp ở tỉnh Hà Giang là 10,06, tỉnh Yên Bái là 10,84, và tỉnh Quảng Trị là 16,79. Tuy nhiên, mức độ tham gia phát biểu ý kiến của người dân tại các cuộc họp vẫn còn trường hợp hiếm khi phát biểu hoặc không phát biểu bao giờ. Một số do không biết nói gì, một số khác ngại nói, cuộc họp đông quá, không đủ thời gian để góp ý. Đây là yếu tố cản trở trong Chia Sẻ và tiếp cận thông tin của người dân.

4.5. Nguồn vốn tự nhiên

Những nhân tố thúc đẩyDiện tích đất có khả năng khai hoang, phục hóa còn nhiều cùng với sự dồi dào

và đa dạng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên khácNguồn tài nguyên đất dồi dào là một thuận lợi lớn cho người dân các vùng nghiên cứu trong việc tiếp cận nguồn lực tự nhiên. Tại Hà Giang và Yên Bái diện tích đất có khả năng khai hoang còn rất lớn.

19

Về nguồn tài nguyên động thực vật, sự đa dạng và dồi dào cũng mang lại một nguồn lợi đáng kể cho người dân. Ví dụ tại Quảng trị, có giàu tiềm năng biển nên khả năng khai thác, đánh bắt và nuôi trồng hải sản ở ven bờ biển Quảng Trị tương đối lớn. Năng suất đánh bắt tôm, cá tự nhiên đạt khoảng 152 - 255 kg/ha và sản lượng đánh bắt hàng năm đạt tới hàng chục ngàn tấn. Hàng nghìn ha mặt nước ở những nơi có rạn đá ngầm có thể nuôi tôm hùm xuất khẩu.

Không có sự phân biệt của các dự án đối với các đối tượng hộ dân nhưng chính sự khác biệt giữa nguồn lực kinh tế, nhận thức, v.v… của các hộ gia đình dẫn đến việc khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên khác nhau giữa các hộ.

Thêm vào đó, việc người dân có ý thức tốt, tích cực tham gia vào các chính sách, các hoạt động của dự án là tạo điều kiện tốt hơn cho chính bản thân họ tiếp cận nguồn vốn. Tại huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang việc trồng, chăm sóc, khoanh nuôi và bảo vệ rừng được cán bộ và người dân thực hiện tốt, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Dự án Chia Sẻ trong quá trình triển khai đã quan tâm khá nhiều đến phát triển bền vững

Một yếu tố thuận lợi nữa cho người dân để tiếp cận nguồn vốn là việc các dự án tại địa bàn quan tâm đến việc phát triển bền vững. Đối với Dự án Chia Sẻ, việc nghiên cứu hỗ trợ phải luôn đi đôi với việc tìm ra hướng phát triển bền vững cho người dân. Dự án Chia Sẻ đầu tư cho người dân những hạng mục mang tính lâu dài như ở xã Yên Phong, Dự án đầu tư xây dựng hệ thống kênh mương dẫn nước, đào giếng cho người dân sử dụng, xây dựng hệ thống tưới tiêu, giúp cho người dân về cơ sở hạ tầng để người dân có thể tiếp cận các nguồn lực tự nhiên trong thời gian trước mắt và cả lâu dài. Hơn thế nữa, dự án còn rất quan tâm đến phát triển bền vững qua việc thực hiện kết hợp cả việc khai thác và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, vừa hướng dẫn người dân khai thác nguồn vốn tự nhiên một cách hợp lý và hỗ trợ người dân phục hồi, phát triển các nguồn tài nguyên ấy. Dự án hỗ trợ nhân dân trồng rừng, phát triển rừng để duy trì nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này. Ngoài ra dự án còn hướng dẫn các hộ dân các kiến thức để sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả hơn, những kiến thức này chính là hành trang lâu dài cho người dân trong việc nâng cao khả năng sử dụng, tiếp cận các nguồn vốn tự nhiên. (Bảng 31)

“Trong thời gian qua đời sống nhân dân đã được tăng lên, hộ nào cũng có nhà ở, chỉ còn đói bữa không còn hiện tượng đói triền miên như trước đây. Dân trí phát triển lên, nhiều nhà phát triển kinh tế tốt, chăn nuôi trâu bò lợn phát triển. Nhờ dân trí tăng lên do chính sách hỗ trợ và các dự án hỗ trợ. Vấn đề nhận thức được nâng lên là quan trọng nhất.” (Phỏng vấn sâu Ông Nông Đức Dinh, Yên Phong, Bắc Mê, Hà Giang) Những nhân tố cản trở

Vị trí địa lý không thuận lợiĐây là một trong những nhân tố gây cản trở người dân trong việc tiếp cận nguồn

lực tự nhiên. Vị trí địa lý không thuận lợi có thể gây khó khăn trong việc vận chuyển giống, các phương tiện kỹ thuật hay thậm chí cả sản phẩm. Vì vậy gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc sản xuất của người dân, thậm chí làm cho giá thành sản phẩm thấp, giảm khả năng tiêu thụ sản phẩm nên không khuyến khích được người dân tăng gia sản xuất. (Hộp 32)

Như vậy vị trí địa lý không thuận lợi không chỉ cản trở sự kết nối của người dân với những điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật, kiến thức sản xuất mà từ đó còn cản trở sự tiếp cận của người dân với các nguồn vốn tự nhiên.

Khí hậu khắc nghiệt và một số khó khăn khác từ việc thiếu một số loại tài nguyên

20

Khí hậu tại 3 tỉnh nghiên cứu đều gây ra rất nhiều khó khăn cho người dân. Tại 2 tỉnh vùng núi cao, do khí hậu khắc nghiệt nên các xã thường chỉ làm được 1 vụ. Về mùa đông và mùa xuân vùng cao có nơi có sương muối, băng giá, gió lạnh, không có mưa gây thiếu nước. Hiện tượng băng giá gây chết cây trồng vật nuôi hàng loạt khiến nhiều người dân phải lao đao lâm vào tình cảnh khó khăn, trâu bò chết, hộ dân mất sức kéo trong sản xuất, thậm chí có những gia đình trở nên nợ nần, không có khả năng tiếp tục tham gia sản xuất. Đối với tỉnh Quảng Trị bão lũ cũng xảy ra liên tiếp vào mùa mưa, hạn hán diễn ra thường xuyên vào mùa khô. Khí hậu khắc nghiệt còn ảnh hưởng xấu một cách gián tiếp tới việc tiếp cận nguồn tài nguyên của người dân thông qua việc đi lại, vận chuyển, xây dựng hệ thống thủy lợi, v.v…(Hộp 33)

Khó khăn về nguồn nước là một trong những khó khăn lớn đối với người dân tại 3 tỉnh nghiên cứu. Các sông ở hai tỉnh Hà Giang và Yên Bái đều có độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh, không thuận lợi cho việc sử dụng trong giao thông đường thủy và việc khai thác các nguồn lợi nước ngọt. Nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu thiếu trên toàn bộ các vùng nghiên cứu. Đất dốc lại ở vùng đồi núi cao nên việc đào giếng để lấy nước sinh hoạt là rất khó khăn đối với người dân Yên Bái và Hà Giang. Người dân Quảng Trị tuy có thể đào giếng nhưng mùa khô hạn ở đây nhiệt độ lên rất cao làm cho nguồn nước cạn đi, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của nhân dân. Trong khi đó tại 2 tỉnh vùng cao về mùa mưa hiện tượng lũ quét xảy ra thường xuyên gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới mùa vụ và đời sống.

Thị trường đất đai kém phát triển

Nhìn chung việc chuyển nhượng đất đai ở các địa phương vẫn còn nhiều khó khăn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do không có người bán đất hay cho thuê đất; việc làm thủ tục chuyển nhượng đất đai tại địa phương cũng gặp phải những khó khăn nhất định; giá cao cũng là một nguyên nhân làm cho việc chuyển nhượng đất đai gặp phải khó khăn. (Bảng 82)

Tại các xã có dự án Chia Sẻ khả năng chuyển đổi đất đai khó khăn hơn rất nhiều so với ở các xã không có dự án Chia Sẻ, nguyên nhân sâu xa của nó là do người dân đã thấy được hiệu quả sử dụng đất đai, thấy được giá trị thực sự của đất đai đối với sản xuất nên nảy sinh tâm lý không muốn bán đất. Đây là khó khăn trong việc tích tụ đất đai để tăng cường thúc đẩy sản xuất hàng hoá nhưng việc người dân tích cực “cày” trên mảnh đất của họ lại là yếu tố thuận lợi thúc đẩy kinh tế hộ phát triển.

Hiện nay đa số các hộ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặc dù hộ có quyền chuyển nhượng đất đai nhưng việc này diễn ra rất ít. Đa số các hộ khi cho rằng việc chuyển nhượng rất đai xảy ra ít là do không có người bán. Trong tình hình đất đai sản xuất ngày càng trở nên khan hiếm thì việc giao dịch chuyển nhượng càng khó khăn do giá cả tăng nhanh. Đất nông nghiệp cũng tăng giá nhanh làm cho người mua khó có thể mua được.

Ngoài các yếu tố như: sổ đỏ, thủ tục của xã, giá cả v.v… Nghiên cứu còn xem xét ảnh hưởng từ trình độ học vấn của người dân đến việc chuyển nhượng đất đai. Kết quả đánh giá được biểu diễn trong bảng sau:

Tuy dân trí không ảnh hưởng đến việc chuyển nhượng đất đai của người dân nhưng lại gây ra một số ảnh hưởng bất lợi cho người dân trong việc tiếp cận các nguồn lực tự nhiên. Trình độ dân trí thấp dẫn đến khó khăn trong sản xuất canh tác, trong việc tiếp thu các kiến thức về canh tác, sử dụng đất, rừng v.v… Một số người dân thiếu ý thức vẫn còn tham gia chặt phá trộm rừng, gây cháy rừng. Dân trí thấp còn là một trong những nguyên nhân gây tăng dân số. Dân số đông gây khó khăn lớn cho người dân tiếp cận các nguồn vốn tự nhiên. (Bảng 84)

Tập quán canh tác lạc hậu

21

Tại các xã vùng cao tập tục sản xuất quảng canh rất phổ biến. Việc này dẫn đến việc sản xuất không tranh thủ được nguồn nước tưới từ các công trình thủy lợi, lại ít được đầu tư về phân bón, công lao động nên sản lượng thấp và tình trạng đói ăn xảy ra thường xuyên. Tại xã Vĩnh Nam, Quảng Trị, không có doanh nghiệp nào đóng trên địa bàn, sản xuất độc canh không có sản phẩm hàng hoá, không áp dụng kỹ thuật, không đủ giống tốt để mua, không chủ động về giống.

4.6. Đánh giá vai trò giảm nghèo của các nguồn vốn sinh kếQua phần phân tích trên, sự đóng góp các nguồn vốn sinh kế vào trong quá trình

giảm nghèo đối với các nguồn vốn có sự khác nhau. Vì vậy, cần có cách điều chỉnh khác nhau trong việc tác động các nguồn vốn sinh kế vào mục tiêu giảm nghèo.

Xét trong ngắn hạn, nguồn vốn tài chính và một phần nguồn vốn con người có tác động tích cực trong quá trình giảm nghèo. Việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn tài chính từ các kênh khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của hộ. Và điều này mang lại giảm nghèo trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn con người từ việc đào tạo tập huấn ngắn hạn cũng có tác động nhanh chóng.

Xét về trung hạn, sự gia tăng nguồn vốn con người trên khía cạnh giáo dục, cơ sở hạ tầng sẽ mang lại kết quả giảm nghèo về trung hạn, ít nhất là trong thời hạn từ 3- 5 năm. Ví dụ, việc xây dựng đường giao thông hay cầu cống chỉ mang lại hiệu quả tốt cho giảm nghèo khi mà sản xuất của họ đã phát triển đến mức có thể tiếp cận với thị trường để gia tăng thu nhập. Hoặc là việc đào tạo chỉ có tác dụng tốt khi người dân được đào tạo đã có quá trình tích lũy kiến thức để có thể phát huy trong đời sống và sản xuất.

Cuối cùng, việc tác động vào việc gia tăng các nguồn vốn xã hội và vốn tự nhiên chỉ có thể giảm nghèo trong dài hạn. Ví dụ: Việc thay đổi một phong tục tập quán tiêu cực sẽ mang lại giá trị tốt trong dài hạn. Nguồn vốn tự nhiên là nguồn vốn khó có thể tác động để giảm nghèo nhất. Ví dụ: Khó có thể thay đổi được chất lượng tài nguyên đất hay khí hậu, khoáng sản. Việc thay đổi này dường như là không thể thực hiện được.

5. Phân Tích Kết Quả Sinh Kế

Từ các phân tích kết quả sinh kế, chương này sẽ trả lời các câu hỏi như sau: (1) Có những điểm mạnh, điểm yếu gì trong các cách tiếp cận đã được Chương trình Chia Sẻ sử dụng trong các điểm nghiên cứu? Những cách tiếp cận nào có thể được nhân rộng cho những điểm khác? (2) Nên điều chỉnh hay cải tiến những gì trong các chính sách của Chính phủ có thể giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn các nguồn lực sinh kế?5.1. Cải thiện mức sống và giảm nghèo, tăng cường an ninh lương thực

Cải thiện thu nhậpVới các nỗ lực hỗ trợ từ Chương trình giảm nghèo Chia Sẻ thông qua các họat động hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện. (Hộp 35)

Nâng cao đời sống và đảm bảo an ninh lượng thực (Hộp 36)

Đời sống người dân địa phương liên tục được cải thiên qua các năm. Các yếu tố này được đánh giá qua các đời sống vật chất và tinh thần, tài sản của hộ liên tục gia tăng.Bên cạnh những hỗ trợ từ bên ngoài, nỗ lực của người dân cũng đóng góp vai trò quan trọng trong việc cải thịện đời sống. Sự tự vươn lên của người dân là yếu tổ quyết định trong việc cải thiện đời sống (vấn đề ở đây là nhận thức của người dân được nâng lên, xoá đi các quan niệm lạc hậu và mặc cảm tự ty).

22

Tuy là những tỉnh sản xuất thuần nông, nhưng vấn đề an ninh lương thực chưa được đảm bảo, đặc biệt là ở Yên Bái2 và Hà Giang3 có tới 47,5% và 33,8% hộ trong diện khảo sát vẫn còn thiếu đói và Quảng Trị có đỡ hơn với chỉ 8,3%. Số tháng thiếu đói trong năm là rất cao trung bình tới 3,3 tháng/năm. Đây là trở ngại lớn để người dân thoát nghèo, khi mà giá cả lương thực ngày một leo thang, nhưng hộ đói phải vay nặng lãi, bán lúa non, khai thác lâm sản, đi làm thuê để đảm bảo cuộc sống hàng ngày.

Trước tình hình đó, dự án Chia Sẻ đã có những hỗ trợ cho người dân trong việc phát triển sản xuất lương thực để đảm bảo anh ninh lương thực như: khai hoang ruộng nước, hỗ trợ kênh mương, các hoạt động nâng cao thu nhập khác…(Hộp 37)

Giảm nghèo

Mục tiêu chính của Dự án Chia Sẻ là giảm nghèo. Qua các năm triển khai của dự án tình hình đói nghèo đã thay đổi đáng kể. Cảm nhận của người dân địa phương về tình trạng đói nghèo đã được cải thiện tốt hơn. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ các xã có thực hiện dự án Chia Sẻ và các xã không có dự án thì tỷ lệ này không thay đổi nhiều. Nguyên nhân chính là việc lựa chọn các xã để thực hiện dự án là các xã có tỷ lệ nghèo cao hơn. Đây là một tiêu chí để chọn xã thực hiện dự án Chia Sẻ. Vì vậy, qua các năm triển khai thì tỷ lệ nghèo của những xã này cũng chỉ giảm xuống tương với các xã không được hỗ trợ từ dự án. Đa số các hộ được phỏng vấn đều cho rằng tình hình đói nghèo đã được cải thiện tốt hơn từ khi có dự án Chia Sẻ. (Hộp 38 và Biểu đồ 1, Biểu đồ 2)

Đa dạng hóa nguồn thu nhậpBảng dưới đây phân tích mức thu nhập của hộ và các nguồn thu nhập của hộ trong

năm vừa qua. Trong tổng thể các hộ điều tra, số hộ được phân loại kinh tế trung bình chiếm 50% số hộ điều tra.

Do phần lớn lao động làm nghề nông nên qua bảng trên cho thấy số hộ có nguồn thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi chiếm tỷ lệ cao với 414/425 hộ có thu nhập từ trồng trọt và 349/425 hộ có thu nhập từ chăn nuôi. Số hộ có thu nhập từ làm thuê cũng tương đối với 141/425 hộ, thu nhập từ nguồn khác 113/425 hộ. Ngành nghề và dịch vụ tại các địa phương này còn kém phát triển, với tổng hộ khảo sát là 425 hộ nhưng chỉ có 26 hộ có thu nhập từ dịch vụ và 17 hộ có thu nhập từ ngành nghề. Mức thu nhập trung bình từ trồng trọt vẫn có giá trị cao nhất với 7,4 triệu đồng, tiếp theo là dịch vụ 6,5 triệu, chăn nuôi và làm thuê tương đương 6 triệu, khác 5,7 triệu và cuối cùng là ngành nghề chỉ có 4,7 triệu. Qua đây, có thể nhận xét là vai trò của nông nghiệp rất quan trọng đối với các nhóm hộ từ nghèo đến giàu tại các điểm nhiên cứu. Nguồn thu từ lao động làm thuê bắt đầu có vai trò trong kinh tế hộ, tuy nhiên mức lao động làm thuê vẫn chưa cao, vì các hoạt động làm thuê chỉ mang tính chất thời vụ lúc nông nhàn, chứ không phải lao động làm thuê thường xuyên. (Hộp 39 và Biểu đồ 3)

Nhìn vào cơ cấu thu nhập của các địa phương cho thấy có sự phân biệt rõ nét giữa cơ cấu thu nhập của 2 tỉnh miền núi là Hà Giang, Yên Bái và tỉnh miền xuôi Quảng Trị. Đối với Hà Giang và Yên Bái chăn nuôi lại mang về cho kinh tế hộ thu nhập cao hơn trồng trọt và cá (Bảng 86)

2 Điểm khảo sát Văn Chấn cho thấy nhiều hộ thiếu đất sản xuất lúa, họ đã chuyển qua sản xuất cây công nghiệp như trồng chè, tuy nhiên hiệu quả không cao do chi phí đầu vào lớn, và thị trường đầu ra lại không đảm bảo.3 Đối với người dân huyện Bắc Mê, Hà Giang thì ngược lại không phải là do thiếu đất mà do địa hình dốc, đất thiếu dinh dưỡng, không đủ nước tưới, phần lớn chỉ sản xuất được 1 vụ đã ảnh hưởng đến an ninh lương thực của người dân.

23

Qua bảng cơ cấu thu nhập phân theo điều kiện kinh tế hộ có sự phân hoá khá rõ nét các nguồn thu nhập chính giữa các nhóm hộ từ giàu đến rất nghèo. Đối với trồng trọt mức thu nhập trung bình của nhóm giàu là 11,5 triệu đồng, khá 8,5 triệu đồng, trung bình 8,3 triệu đồng, nghèo 5 triệu đồng và rất nghèo chỉ có 2,3 triệu đồng. Qua đó cho thấy khả năng sản xuất trồng trọt của hộ nghèo và rất nghèo là không hiệu quả. Chăn nuôi thì nhóm hộ khá lại có mức thu nhập trung bình cao hơn với 9,4 triệu, tiếp sau đó mới đến hộ giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo. Tuơng tự như trồng trọt, thì hiệu quả sản xuất từ chăn nuôi có sự chênh lệch lớn từ nhóm hộ khá, giàu và nhóm hộ trung bình, nghèo. Nguồn thu nhập khác chủ yếu rơi vào nhóm hộ khá, trung bình và nghèo, tuy nhiên mức thu nhập trung bình nhóm giàu cao hơn, kế tiếp là trung bình, nghèo, khá và rất nghèo. Đây là những hộ có người làm công ăn lương, người nghỉ hưu, gia đình chính sách, được hưởng các trợ cấp xã hội… Đối với nguồn thu từ làm thuê và dịch vụ cũng vậy nhóm hộ giàu có thu nhập bình quân từ nguồn này cao hơn nhóm khá, trung bình, nghèo và rất nghèo. Qua đó có thể khẳng định ngoài trừ thu nhập từ nguồn thu khác thì các nguồn thu còn lại nhóm hộ khá giả cao hơn hẳn so với nhóm trung bình và nghèo. Sự phân hoá này cho thấy khả năng sản xuất có sự khác biệt lớn giữa các nhóm hộ (nguyên nhân của sự khác biệt này có thể là vốn, khoa học và kỹ thuật hay tư liệu sản xuất)

Tính bền vững của hỗ trợ cải thiện sinh kế

Các họat động của Dự án mang lại lợi ích cho việc cải thiện và nâng cao mức sống của người dân địa phương. Đây là yếu tố ban đầu đảm bảo sự phát triển về kinh tế. Tính bền vững về kinh tế được đánh giá khi dự án kết thúc thì người dân còn các tiềm lực kinh tế do dự án hỗ trợ để tiếp tục phát triển sản xuất hay không? Phần này không đi sâu phân tích các tác động về mặt kinh tế của dự án mà đánh giá tính bền vững của các họat động đó trong dài hạn. (Bảng 87)

Những hỗ trợ mang tính đầu vào như tập huấn, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc các hộ trợ trực tiếp cho thấy rằng nó đảm bảo về mặt kinh tế trong tương lai. Ví dụ: Xây kênh mương cho người dân có thể sử dụng trong một thời gian dài.

Qua khảo sát người dân trong dự án Chia Sẻ, phần lớn người dân đánh giá chương trình Chia Sẻ có nhiều mặt tích cực. Vấn đề được đánh giá tích cực nhất đó là nâng cao năng lực, kiến thức cho người dân (nhận thức của người dân) với 91,3% trả lời có tốt hơn, 6,7% như cũ và chỉ có 2% trả lời là xấu đi (đây là trường hợp cá biệt, do họ chưa bằng lòng với cách làm của Chia Sẻ). Tiếp theo là vấn đề đói nghèo đã được cải thiện với 88,7% trả lời tốt hơn, tỷ lệ giảm nghèo qua các năm rất ấn tượng (Ví dụ: tỷ lệ giảm nghèo đạt 11%/năm ở Hà Giang trong những năm qua). Bên cạnh đó các vấn đề công bằng giới, an sinh xã hội, môi trường và chăm sóc sức khoẻ đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là vấn đề dân chủ cơ sơ, ý kiến của người dân trong các cuộc họp bàn đã được cộng đồng và chính quyền địa phương chấp nhận.

Ngoài ra, dự án Chia Sẻ còn hỗ trợ người dân trong việc lập kế hoạch, trực tiếp hỗ trợ sản xuất, xây dựng công trình phục vụ sản xuất, mở mang đất đai, qũy vay vốn quay vòng, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe và xây dựng chuồng trại. Các hỗ trợ chính mà hộ nhận được là nâng cao kiến thức, được tham gia lập kế hoạch, cơ sở hạ tầng được phục vu sản xuất và hỗ trợ trực tiếp. (Bảng 88)

Để đánh giá một phần gián tiếp hiệu quả các họat động của dự án mang lại với địa phương, việc so sánh các khó khăn của người dân gặp phải trước khi có dự án là một công cụ cho rằng sau khi có dự án thì tất cả các khó khăn trên đã được giải quyết.

24

Trước khi Chia Sẻ bắt đầu triển khai người dân gặp rất nhiều vấn đề khó khăn, có tới 55 ý kiến cho rằng vấn đề giao thông là trầm trọng nhất, sau đó đến kỹ thuật (37 ý kiến), tư liệu sản xuất (32 ý kiến), tiếp theo là các ý kiến về vấn đề nước sạch, chuồng trại, sản xuất gặp khó khăn và đói nghèo. Ngoại trừ vấn đề giao thông và kỹ thuật, nhóm hộ có thu nhập trên 25 triệu và nhóm hộ có mức thu từ 5 đến 10 triệu có nhiều ý kiến nhất. Các vẫn đề còn lại không có sự khác biệt lớn giữa các mức thu nhập. (Bảng 89)

Qua hai bảng trên cho thấy rằng kết quả mang lại của dự án Chia Sẻ đã giải quyết phần lớn các khó khăn gặp phải của người dân như: giao thông, chuồng trại, nước sinh họat, kỹ thuật sản xuất. Đồng thời còn hỗ trợ các mặt khác như: cơ sở hạ tầng, tăng cường năng lực, môi trường cho người dân địa phương. (Bảng 90)

Phân theo tỉnh thì ý kiến về các vấn đề khó khăn gặp phải của Quảng Trị và Hà Giang tương đương nhau, Yên Bái thì ít hơn. Nhưng vấn đề cải thiện giao thông thì ý kiến nhiều nhất là Quảng Trị, sau đến Yên Bái và Hà Giang. Nhưng vấn kề kỹ thuật thì cả 3 tỉnh có nét tương đồng. Vấn đề tư liệu sản xuất thì Hà Giang có nhiều ý kiến hơn, tiếp đó là Quảng Trị và Yên Bái. Vấn đề nước sạch đối với Hà Giang trầm trọng nhất so với 2 tỉnh còn lại. Đối với vấn đề chuồng trại thì Yên Bái có nhiều ý kiến nhất, kế tiếp là Quảng Trị và Hà Giang. Vấn đề sản xuất khó khăn thì các ý kiến của Quảng trị và Hà Giang gần như nhau, Yên Bái có ít ý kiến hơn. Do đặc điểm của mỗi miền mỗi vùng nên khó khăn gặp phải giữa các điểm nghiên cứu có sự khác nhau, tuy nhiên nhưng điểm chung ở đây là giao thông và kỹ thuật sản xuất.

Những khó khăn đối mặt của người dân trước khi có Chia Sẻ được nhìn nhận qua điều kiện kinh tế thực tế của hộ cho thấy số ý kiến rơi vào nhóm hộ trung bình là chính sau đó đến hộ nghèo, khá, giàu và rất nghèo. Các vấn đề gặp phải từ giao thông và kỹ thuật điều tương đồng với ý kiến tổng thể. Tuy nhiên, các vấn đề như tư liệu sản xuất, thiếu đói, khó khăn sản xuất và nước thì nhóm hộ giàu và khá không gặp phải hoặc ít hơn so với nhóm hộ trung bình và nghèo. Vấn đề chuồng trại thì nhóm nghèo là gặp phải nhiều hơn so với nhóm hộ khá, trung bình và giàu, do tập quán lâu đời của người dân, nhất là miền núi chủ yếu chăn nuôi thả rông, nên vấn đề chuồng trại là vấn đề lớn khi chuyển qua chăn nuôi tập trung. (Bảng 91 và Hộp 40)

5.2. Giảm thiểu tình trạng dễ bị tổn thương

Tình trạnh dễ bị tổn thương được tạo ra do các biến động (shock) về các yếu tố tự nhiện kinh tế xã hội, môi trường chính trị, hoặc các xu hướng biến đổi của dân số, tài nguyên, quốc tế và trong nước, khoa học kỹ thuật hoặc các yếu tố biến đổi mang tính mùa vụ như: sản xuất, giá cả, sức khỏe, cơ hội việc làm.

Trong nghiên cứu này, tình trạng dễ bị tổn thương của hộ được xem là các rủi ro mà hộ gặp phải trong đời sống và sản xuất. Các rủi ro hộ gặp phải như thiên tai, gia súc bị bệnh chết, gia đình có người đau ốm, đặc biệt trong những năm gần đây thời tiết thay đổi, giá rét kéo dài đã ảnh hưởng đến sản xuất trồng trọt và chăn nuôi. (Biểu đồ 4)

Nhìn vào biểu đồ có thể nhận thấy các khó khăn rủi ro gặp phải trong 3 năm qua tập trung chủ yếu vào nhóm hộ trung bình và nghèo. Rủi ro người dân thường gặp phải là mất mùa và vật nuôi chết. Đợt rét đậm đầu năm 2008 đã gây chết nhiều gia súc.

Các rủi ro mà hộ gia đình các điểm khảo sát gặp phải trong 3 năm qua, nhiều nhất là vật nuôi chết (185 hộ) với mức độ thiệt hại trung bình 4,4 triệu đồng/hộ, tiếp đến là mất mùa (176 hộ) mức độ thiệt hại 2,7 triệu đồng/hộ, người đau ốm (50 hộ) cso mức độ thiệt hại cao nhất với 8,3 triệu đồng/hộ, lũ quét (31 hộ) mức thiệt hại 4,5 triệu đồng/hộ, bão (23 hộ)

25

và rủi ro khác chỉ (4 hộ). Trong 3 năm qua do điều kiện thời tiết biến đổi dịch bệnh phát triển, nhất là bệnh tụ huyết trùng và đợt rét lịch sử vừa qua đã làm cho nhiều hộ gia đình mất hết đàn gia súc gia cầm. Do miền núi địa hình dốc, mưa lớn, lũ quét thường đến đột ngột đã ảnh hưởng đến mùa màng, nhà cửa và tài sản của người dân. Chi phí cho người nhà bị ốm đau do không có bảo hiểm y tế hoặc bệnh nan y là rủi ro cho các hộ gia đình. (Bảng 92)

Số hộ bị thiệt hại phần lớn nằm vào diện hộ trung bình và nghèo, vì lượng mẫu điều tra ở 2 nhóm hộ này khá cao. Tuy nhiên, mức độ thiệt hại có sự khác biệt giữa các nhóm, đối với vật nuôi nhóm hộ rất nghèo và giàu thì mức độ thiệt hại cao nhất, sau đó đến hộ khá, trung bình và nghèo. Ngược lại thì trồng trọt nhóm hộ trung bình mức thiệt hại cao nhất sau đó đến giàu, nghèo, khá và rất nghèo. Đối với rủi ro từ lũ quét thì hộ nghèo và khá có mức thiệt hại lớn nhất sau đó đến hộ trung bình và rất nghèo, không có hộ giàu nào bị rủi ro lũ quét trong những năm qua. Thiệt hại do gia đình có người ốm đau thì nhóm hộ khá có mức độ thiệt hại lớn nhất, tiếp đến trung bình, nghèo và rất nghèo. Nhóm hộ khá phải chi phí cao khi có người ốm đau vì nhóm hộ không thuộc diện ưu tiên để cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí (nằm ngoài diện 139).

Thiệt hại do những rủi ro gây nên đối với các hộ gia đình đã ảnh hưởng đến sinh kế của người dân như mất tư liệu sản xuất, giảm thu nhập, chi phí phát sinh… một số hộ gia đình khó khăn sẽ phải đi vay, đi làm thuê hay bán các tài sản mình có để khắc phục dẫn đến nghèo đói và bần cùng hoá.

Vượt qua rủi ro là một vấn đề nan giải của người nghèo, đây là những người dễ bị tổn thương do các tác động từ các rủi ro bất ngờ. Đối với các điểm khảo sát 2 giải pháp được nhiều hộ gia đình sử dụng là giảm tiêu dùng và vay bạn bè người thân với tỷ lệ tương ứng là 19,1 % và 18,3% số hộ chọn giải pháp này, tiếp đến là giải pháp tự gia đình xoay xở 10,3%, vay ngân hàng 9,3%, bạn bè người thân giúp 7,5%, hoãn đầu tư 6,2%, tìm nghề khác 5,9%, bán gia súc 5,8%, các giải pháp còn lại chiếm tỷ lệ không đáng kể. Tuy gặp nhiều rủi ro trong thời gian qua, nhưng số hộ chọn giải pháp bán đất là rất ít. (Bảng 93)

Phân theo mức thu nhập thì giải pháp giảm tiêu dùng đều được 3 nhóm thực hiện tương đồng, tuy nhiên, vay bạn bè người thân thì nhóm hộ có mức thu nhập dưới 10 triệu chọn giải pháp này nhiều hơn nhóm hộ ở mức 10-25 triệu và trên 25 triệu (người nghèo thi có thể vay người giàu hơn trong cộng đồng, còn người khá giả trong cộng đồng thì chỉ biết người ngoài cộng đồng và vay ngân hàng!). Giải pháp vay ngân hàng cũng vậy, nhóm hộ thu nhập dưới 10 triệu chọn ưu tiên giải pháp này hơn nhóm hộ có thu nhập cao trên 25 triệu (nguồn vốn chính sách chủ yếu tập trung cho người nghèo).

Bền vững về xã hội

Những hỗ trợ về mặt kinh tế mang lại các tác động gián tiếp cho xã hội. Nếu tác động vào một mặt có thể mang lại kết quả tích cực vào mặt khác. Việc nâng cao giáo dục và đời sống sẽ có tác động giảm các tệ nạn xã hội.

Theo cảm nhận của người dân, Dự án chia sẽ mang lại cho họ quan hệ tốt hơn trong cộng đồng. Đồng thời tạo ra các dịch vụ tốt về an sinh xã hội như giáo dục, y tế.

Ví dụ: Nguồn vốn CS đã hỗ trợ xã Nậm Lành xây dựng nhà bán trú cho người dân. Đây là một trong các tác động lâu dài mang tính bền vững về mặt xã hội.

Thông qua các hỗ trợ từ Dự án CS người dân cũng cảm nhận được rằng quan hệ của các cá nhân trong cộng đồng tốt hơn trước.

26

Hiển rõ nét nhất là tỉnh Quảng Trị, với gần 90% số hộ trong dự án trả lời có tốt hơn, và Hà Giang có trên 80%, tuy vậy, Yên Bái có tỷ lệ người trả lời cho rằng mối quan hệ đã được cải thiện là khá hạn chế chỉ ngoài 50%. Một thay đổi rõ nét như ở Quảng Trị, Hà Giang là nhà sinh hoạt của thôn đã được Chia Sẻ đầu tư xây dựng, tạo điều kiện cho người dân hội họp, tham gia trao đổi thông tin… bên cạnh đó thì năng lực, nhân thức được nâng cao, các mối quan hệ trong động đồng sẽ được thiêt chặt. Ở Yên Bái vẫn còn một số thôn vẫn chưa có nhà sinh hoạt thôn (nhà sinh hoạt cộng đồng), dẫn đến khả năng giao lưu giữa người dân vẫn còn hạn chế, đồng thời do địa hình cách trở đi lại khó khăn cũng là cản trở với người tăng cường các mối quan hệ trong cộng đồng. (Hộp 41 và Biểu đồ 5)

5.3. Bền vững về sử dụng tài nguyên thiên nhiên

Các họat động của dự án Chia Sẻ có một hạn chế là chưa quan tâm nhiều đến tác động về mặt môi trường. Dự án đã nỗ lực vào các mảng khác như nâng cao đời sống, trao quyền và đảm bảo ổn định xã hội. Trong khi đó, yếu tố môi trường không được quy định rõ trong khi triển khai các hoạt động của dự án. Những phân tích đánh giá sau đây đều dựa trên kết quả tham vấn từ người dân.

Theo kết quả khảo sát thì từ cán bộ và người dân cho rằng vấn đề môi trường không được quan tâm nhiều trong các họat động của Dự án. Tuy nhiên, họ cũng không có phàn nàn gì về tác động tiêu cực của Dự án mang lại về mặt môi trường.

Các bảng đánh giá sau đây cho thấy rằng tình hình môi trường ở địa phương không phải là vấn đề nghiêm trọng mà người dân phải đối mặt. Điều đó cho thấy rằng việc không chú trọng nhiều vào vấn đề môi trường cũng là điều hợp lý vì thực tế cho thấy rằng việc đầu tư vào các họat động khác còn mang tính cấp thiết hơn nhiều đối với nhu cầu của người dân địa phương. (Biếu đồ 6 và Bảng 94))

Tác động tích cực nhất của Chia Sẻ đến cơ sở hạ tầng là nhiều nhất, tiếp theo là nâng cao năng lực, giao thông, hỗ trỡ kỹ thuật, xây dựng kế hoạch, xây dựng chuồng trại, kênh mương… Tuy nhiên, so sánh theo mức thu nhập của hộ thì nhóm hộ có mức thu nhập trên 25 triệu hưởng lợi nhiều nhất, sau đó nhóm hộ 5-10 triệu, 15-20 triệu, 10-15 triệu, dưới 5 triệu và cuối cùng là 20-25 triệu. Việc đánh giá theo mức thu nhập này rất khó xác định là hiệu quả dự án tác động lớn tới hộ có thu nhập thấp hay cao. (Bảng 95)

Đánh giá tác động tích cực của chương trình Chia Sẻ theo các tỉnh thì Quảng Trị nhận được nhiều ý kiến nhất 206 ý kiến, tiếp theo là Hà Giang 101 ý kiến, cuối cùng Yên Bái chỉ có 67 ý kiến. Chi tiết vào từng lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, Quảng Trị chiếm phần lớn sau đó đến Yên Bái và Hà Giang. Đối với việc tăng cường năng lực hầu hết các ý kiến tích cực tập trung ở Quảng Trị, tiếp theo là Hà Giang và Yên Bái chỉ có 1 trường hợp trả lời có tác động tích cực. Vấn đề nước sạch và khai hoang các đánh giá tích cực là rất hạn chế tại cả 3 tỉnh. Vấn đề môi trường mới được phát huy ở tỉnh Quảng Trị và một phần ít ở Yên Bái. Đối với Quảng Trị các hoạt động cải thiện môi trường đã được phát huy thông qua phát triển hệ thống thu gom và xử lý rác thải.

Các tác động tích cực của chương trình Chia Sẻ phân theo điều kiện kinh tế thực tế của hộ thì phần lớn các ý kiến tích cực từ nhóm hộ trung bình, nghèo và khá, đối với nhóm hộ giàu và rất nghèo thì có ít ý kiến. Do người dân phần lớn thuộc 3 nhóm hộ trên nên có sự phản hồi nhiều hơn cũng là đương nhiên. Bên cạnh đó, nhóm hộ giàu thường là người có năng lực, kỹ thuật, đất đai, nguồn nước, thông tin cập nhật… tốt hơn cho nên họ chỉ cần hỗ trợ từ dự án về cơ sở hạ tầng và hưởng lợi từ những công trình này. (Bảng 96)

27

5.4. Trao quyền và tăng cường thể chế

Ở Việt Nam, trao quyền được thực hiện thông qua Nghị định 79/2003/ND-CP Ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã (cấp cơ sở). Nghị định này quy định về quyền hạn, trách nhiệm của trưởng thôn, đồng thời quy định về định kỳ và nội dung của các cuộc họp thôn. Qua đó, họp thôn được tổ chức định kỳ 6 tháng một lần và thảo luận các vấn đề “Thảo luận và quyết định các công việc của nội bộ cộng đồng dân cư về sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống, những vấn đề về văn hóa, xã hội, vệ sinh môi trường, an ninh, trật tự an toàn xã hội phù hợp pháp luật”

5.4.1. Tiếp cận thông tin

Thông tin là một lọai tài sản vô hình. Da dạng về các nguồn thông tin sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn cho người dân cải thiện sinh kế. Người dân địa phương được tiếp cận các thông tin sản xuất từ các nguồn như tivi, sách báo, và các bộ địa phương.Nguồn cung cấp thông tin cho thấy vai trò của các tổ chức trong vốn xã hội. Các thông tin được truyền tải từ ngoài cộng đồng vào cộng đồng, từ các cá nhân trong công đồng với nhau, sẽ giúp tăng vốn xã hội của người dân. Các kênh thông tin chính hiện nay được chia làm 2 kênh là chính thống và không chính thống. (Bảng 97 và Hộp 42)

5.4.2. Tăng cường thể chế, năng lực của chính quyền địa phương

Các tổ chức chính quyền địa phương thuộc địa bàn nghiên cứu này là chính quyền xã, thôn, các hiệp hội như hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên.

Thông qua việc triển khai dự án Chia Sẻ, năng lực của chính quyền địa phương đã được cải thiện khá nhiều. Các họat động của dự án giúp cho cán bộ địa phương học hỏi được phương pháp quản lý và triển khai các hoạt động của dự án. Nhờ có việc xây dựng năng lực địa phương mạnh cho nên các phong tục tập quán lạc hậu cũng không còn duy trì nữa. Người dân cũng nhận thức ra được các họat động ma chay, cưới xin gây ra tốn kém về kinh tế cũng cần phải hạn chế. (Hộp 43 và 44)

5.4.3. Tăng cường sự tham gia và quyền phụ nữ

Nghiên cứu của WB (2002) về trao quyền khẳng định rằng “trao quyền cũng có nghĩa là gia tăng sự tham gia, gia tăng phương pháp tiếp cận từ dưới lên để đạt được các mục tiêu phát triển. Hiện nay đã có sự thống nhất về phương pháp tiếp cận, trao cho người nghèo nhiều quyền tư do hơn trong các quyết định kinh tế, gia tăng hiệu quả của phát triển từ cấp địa phương từ thiết kế, thực hiện đến kết quả.

Tăng cường sự tham gia của người dân hay nâng cao dân chủ cơ sở, tạo ra cơ hội cho mọi người dân có quyền tham gia và quyết định trong tất các các họat động của dự án. Sự tham gia của người dân ngày càng được cộng đồng và chính quyền địa phương đánh giá cao trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển cộng đồng, xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển xã, thôn gắn với nhu cầu, đề xuất của người dân, khả năng vay vốn dựa trên đánh giá của người dân trong thôn, bản; sự tham gia nhiệt tình của người dân vào các tổ chức, các chương trình xã hội tạo ra động lực nâng cao năng lực. (Bảng 98 và Hộp 45)

Bình đẳng giới:

Trao quyền cho phụ nữ đi đôi với sự minh bạch của chính quyền và quản lý nhà nước tốt hơn. Đặc biệt là phụ nữ tham gia ngày càng sâu vào công việc công cộng thì mức độ tham

28

nhũng càng ít, kể cả đối với những nước có cùng thu nhập, tư do xã hội, giáo dục và thể chế (Ngân hàng Thế giới, 2002)

Phụ nữ bị hạn chế hơn nam giới trong việc tiếp cận vốn con người (nâng cao trình độ học vấn) và vốn tài chính (do thiếu hiểu biết, tỷ lệ phụ nữ được vay vốn hạn chế hơn), vốn tự nhiên (phụ nữ ít được đứng tên chủ hộ, chủ đất, chủ rừng,…). Đa số các quyết định liên quan đến các họat động kinh tế đều do nam giới làm. Trong khi đó phụ nữ phải làm những công việc vất vả hơn trong gia đình như: làm nương rẫy, chăm sóc con cái, chuẩn bị bữa ăn hàng ngày cho gia đình. Điều này cho thấy sự bất bình đẳng về quyền của phụ nữa là một rào cản để hộ tiếp cận với các nguồn lực từ bên ngòai. (Hộp 47)

Tuy nhiên, tiếng nói của người nghèo vẫn chưa được đặc biệt quan tâm. Trong một số trường hợp thì người nghèo chỉ là thiểu số trong cộng đồng. Vì vậy tiếng nói của họ chưa đại diện cho cộng đồng và không được cộng đồng chấp nhận. (Hộp 48)

5.4.4. Tăng cường tính minh bạch và công bằng

Sự giám sát của người dân trong quá trình thiết kế và triển khai chương trình, và sự tham gia của người dân trong suốt quá trình xây dựng và triển khai dự án cho thấy dự án được thực hiện một cách dân chủ và minh bạch. Đồng thời, người dân chính là người hưởng lợi từ các hoạt động dự án. Cho nên, đây là yếu tố quyết định thành công của các hoạt động. Sự chú trọng đúng mức đến nhóm đối tượng đói nghèo, nhóm sinh sống ở khoảng cách địa lý xa, nhóm dân tộc thiểu số và nhóm phụ nữ. (Hộp 49, Hộp 50)

5.5. Các bài học kinh nghiệm từ Dự án Chia Sẻ5.5.1. Một số hạn chế còn tồn tại

Các ý kiến cho rằng dự án Chia Sẻ vẫn còn những hạn chế nổi cộm như đường sá 20 ý kiến, không đủ vốn đề cung cấp cho việc xây dựng, vốn dàn trải và thời gian lâu. Vì bản thân nhưng điềm này xuất phát điểm về cơ sở hạ tầng thấp nên việc đầu tư của Chia Sẻ chỉ đáp ứng một phần. Các ý kiến tiêu cực không nhiều, nằm rải rác trong các nhóm hộ phân theo mức thu nhập, rất khó để chỉ ra rằng một cách lô gíc là mức thu nhập cao hay thấp có nhiều ý kiến nổi cộm về Chia Sẻ hơn. (Bảng 100)

Những hạn chế nổi cộm của Chia Sẻ phân theo địa phương cho thấy Quảng Trị có nhiều ý kiến nhất (56 ý kiến), sau đó là Hà Giang (33 ý kiến) và Yên Bái (28 ý kiến). Các ý kiến tập trung vào việc xây dựng đường sá với chiếm phần lớn Quảng Trị 14 ý kiến, Yên Bai 5 ý kiến và Hà Giang chỉ có 1 ý kiến. Có một sự nghịch lý rõ ràng, như 2 tỉnh miền núi thì điều kiện về giao thông gặp nhiều khó khăn hơn so với Quảng Trị, tuy nhiên vấn đề ở đây là nhận thức của người dân đối với tầm quan trọng của đường sá. Người dân của 2 tỉnh Hà Giang và Yên Bái đã bằng lòng với hệ thống giao thông hiện có? Việc không đủ vốn để cung cấp cho việc xây dựng thì Hà Giang và Quảng Trị có ý kiến ngang nhau, còn Yên Bái ít ý kiến hơn. Vấn đề vốn dàn trải chỉ có ý kiến phản hồi từ người dân Quảng Trị. Có sự lấn át ý kiến nổi cộm của Chia Sẻ giữa Quảng Trị và 2 tỉnh còn lại có lẽ là vấn đề nhận thác của người dân Quảng Trị cao hơn, hầu hết lao động điều học hết Trung học cơ sở và Trung học phổ thông trong khi đó tỷ lệ lao động mù chữ của 2 tỉnh kia còn cao.(Bảng 101)

Các vấn đề nổi cộm của Chia Sẻ phân theo điều kiện kinh tế của hộ phần lớn các ý kiến đều tập trung ở nhóm hộ trung bình và nghèo, các ý kiến từ nhóm hộ khá, giàu và nghèo là rất ít.

29

5.5.2. Bài học kinh nghiệm cho các họat động của dự án

Chia Sẻ đã mang đến không chỉ là người dân mà cả những nhà quan tâm đến vấn đề đói nghèo một cài nhìn sâu hơn về phương pháp xoá đói giảm nghèo. Thông qua dự án, năng lực con người tăng lên rõ rệt theo đó mức sống của người nghèo được nâng lên, nhiều hộ thoát nghèo, mô hình có thể nhân ra. Tuy nhiên, khả năng nhân rộng phương pháp của Chia Sẻ hạn chế vì vốn đầu tư quá lớn, bộ máy nhiều cấp nên chi cho bộ máy quản lý rất lớn. (Bảng 102)

Thăm dò ý kiến của người dân nếu dự án Chia Sẻ bắt đầu mới triển khai theo họ nên tập trung vào vấn đề gì thi hầu hết những người trả lời tập trung vào vấn đề vốn (65 ý kiến), tiếp đến là giao thông (39 ý kiến), nước sinh hoạt và tưới tiêu (38 ý kiến), công bằng (32 ý kiến), kỹ thuật vật tư (30 ý kiến), chăn nuôi (25 ý kiến, tăng hoạt động xoá đói giảm nghèo (20 ý kiến), các ý kiến như không hỗ trỡ người lười lao động (15 ý kiên) và hỗ trợ người dân làm nhà (11 ý kiến). (Biểu đồ 7)

Xét theo mức thu nhập của hộ thì các ý kiến tập trung nhiều với nhóm hộ thu nhập >25 triệu đồng, sau đó là nhóm hộ 5-10 triệu đồng, 15-20 triệu đồng, dưới 5 triệu đồng và cuối cùng là nhóm hộ ở mức 20-25 triệu đồng. Đối với các vấn đề cụ thể thì tỷ lệ này cũng khá tương đồng giữa các mức thu nhập so với tổng chung.

Tuy đã có chương trình Chia Sẻ nhưng vẫn chưa giải quyết triệt để được các vấn đề như vốn, giao thông, nước sinh hoạt tưới tiêu, tính công bằng, kỹ thuật vật tư hay một số vấn đề khác.

Nhìn nhận mong muốn thay đổi của người dân khi có Chia Sẻ mới bắt đầu sẽ làm gì theo các tỉnh nghiên cứu cho thấy Quảng Trị có nhiều ý kiến nhất (141 ý kiến), tiếp đến là Hà Giang (125 ý kiến) và cuối cùng Yên Bái chỉ có 61 ý kiến. Vấn đề vốn cần giải quyết trước tiên, nhiều ý kiến nhất là Quảng Trị, tiếp đến là Yên Bái và cuối cùng là Hà Giang. Vấn đề thứ 2 là giao thông, ý kiến khá đồng điều giữa các tỉnh. Đối với nước sinh hoạt và nước tưới thì Quảng Trị và Hà Giang nhiều ý kiến hơn Yên Bái. Vấn đề công bằng và hoạt động xoá đói giảm nghèo ở Quảng Trị vấn còn nhiều ý kiến hơn so với hà Giang và Yên Bái. Ngược lại thì vấn đề kỹ thuật, vật tư ở Hà Giang và Yên Bái nhiều ý kiến hơn Quảng Trị. Vấn đề vật nuôi ý kiến tập trung chủ yếu ở Hà Giang, hai tỉnh còn lại không đáng kể. (Bảng 103)

5.5.3. Bài học kinh nghiệm về trao quyền.

Để nhân rộng phương pháp tiếp cận của Dự án Chia Sẻ đối với các chương trình khác cẩn đảm bảo các yếu tố sau:

Xác định đúng đối tưọng hộ nghèo và các cản trở để tiếp cận nguồn lực mà hộ gặp phải:

Để xác định được chính xác đối tượng hộ nghèo trong cộng đồng, cần phải có sự tham gia đánh giá của người dân. Ngòai các tiêu chí hiện nay do nhà nước quy định dựa trên thu nhập. Cộng đồng có thể có các tiêu chí khác để đánh giá mức độ giàu nghèo của người dân. Ví dụ: nhà cửa, đất đai, gia súc, lao động… (Xem chi tiết ở phần phụ lục). Đây là yếu tố đầu tiên để đảm bảo rằng sự hỗ trợ của chương trình là đúng đối tượng.

Đối với các đối tượng hưởng lợi, cần có sự xác định chính xác những cản trở mà hộ gặp phải, nhằm đảm bảo rằng sự hỗ trợ của án là đúng hướng và mang lại hiệu quả cao cho giảm nghèo.

Tăng cường năng lực:

30

Trong quá trình triển khai họat động giảm nghèo, việc tăng cường năng lực cho người dân và cán bộ địa phương là hết sức cần thiết để đảm bảo hiệu quả của chương trình mang tính bền vững.

Phân cấp/phân quyền tối đa:

Phân cấp phân quyền là một trong những thành công lớn của Dự án Chia Sẻ như là tăng cường sự tham gia của người dân vào các hoạt động của dư án. Người dân được quyền quyết định các họat động hỗ trợ cho cộng đồng.

Tăng cường hợp tác và điều phối:

Sự hợp tác của các cấp quản lý trong các họat động của dự án đảm bảo rằng các quyết định đều được thống nhất và nhận được sự hỗ trợ của dự án cũng như các cấp chính quyền địa phương.

Nâng cao tiếng nói và vai trò của phụ nữ:

Phụ nữ thường là người ít được tham gia quyết định trong các họat động của gia đình và cộng đồng. Nâng cao sự tham gia của phụ nữ từ việc tiếp cận, Chia Sẻ thông tin đến các họat động giảm nghèo của dự án là một bài học kinh nghiệm cho các họat động phát triển.

Đảm bảo đáp ứng nguồn lực để xóa đói giảm nghèo:

Ngòai các yếu tố trên, việc đáp ứng đủ nguồn lực cho việc giảm nghèo là yếu tố mang tính quyết định cao nhất cho các họat động giảm nghèo. Các nguồn lực này như là: tài chính, con người, và kỹ thuật.

5.5.4. Phương pháp tiếp cận mới cho giảm nghèo bền vững

Công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta được bắt đầu triển khai từ những năm 1990s, cho đến nay chúng ta đã gặt hái được một sô thành công nhất định như giảm tỷ lệ đói giảm xuỗng một cách đáng kể như:công cuộc giảm nghèo triển khai mạnh mẽ từ những năm 1993 đã đem đến kết quả ngoạn mục về giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo từ 58% năm 1993 giảm xuống còn 37% năm 1998; 18,1% năm 2004; 15,5% năm 2006 và 14,87% năm 2007, trong vòng 15 năm Việt Nam đã giảm ba phần tư số người nghèo4; thu nhập bình quân đầu người đạt 830 USD năm 2007.

Phương pháp tiếp cận giảm nghèo theo các nguồn vốn sinh kế được đánh giá là mang lại kết quả tốt trong việc cải thiện sinh kế đối với người dân địa phương. Các tác động này được đo từ việc nâng cao năng lực của người dân và cán bộ địa phương, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và các hỗ trợ trực tiếp để giảm nghèo cho các hộ nghèo. Trong những năm qua, sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đạt được những thành tựu quan trọng, GDP hằng năm tăng cao từ 7,5% - 8,5%, tuy nhiên Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Nhờ có quá trình tăng trường kinh tế này mà công cuộc xóa đói, giảm nghèo tuy đã đạt được một số kết quả, tạo được sự đồng thuận của người dân và ủng hộ của quốc tế, song vẫn còn những thách thức, tồn tại lớn. Tình trạng nghèo đói vẫn đang còn tồn tại ở nhiều nơi, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số. Điều đó đặt ra câu hỏi là đâu là nguyên nhân sâu xa của tình trạng này và phương pháp tiếp cận giảm nghèo hiện nay có còn phù hợp với các vùng có tính chất đặc thù này không?

Trong quá trình phát triển, Việt Nam đã áp dụng các phương pháp tiếp cận giảm nghèo khác nhau theo từng thời kỳ như:

4 Nguồn Tổng cục thống kê (GSO)

31

Cách tiếp cận từ trên xuống: Tiếp cận từ trên xuống hay việc xây dựng kế hoạch giảm nghèo từ trên xuống là phương pháp giao chỉ tiêu, kế hoạch, giao nguồn lực và quy định các nhiệm vụ phải thực hiện của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới.

Cách tiếp cận từ dưới lên: Việc xây dựng kế hoạch giảm nghèo theo cách tiếp cận này đó là kế hoạch giảm nghèo của một giai đoạn dựa trên kế hoạch giảm nghèo hàng năm của các Ngành tham gia chương trình và của địa phương theo lộ trình cây vấn đề bắt đầu từ cấp cơ sở. Đây là phương pháp mà quá trình xây dựng kế hoạch dựa vào các kết quả của các ké hoạch thành phần theo những trình tự tổng hợp về mục tiêu, giải pháp, nguồn lực, thời gian,... Việc xác định các mục tiêu tổng

Cách tiếp cận xây dựng kế hoạch giảm nghèo có sự tham gia của người dân: Thực chất đó là cách tiếp cận từ người nghèo- xoá đói giảm nghèo bắt đầu từ người nghèo. Bởi người nghèo hiểu rõ tình cảnh của họ hơn ai hết và người nghèo biết rõ họ có thể làm gì và cần phải làm gì. Xây dựng kế hoạch giảm nghèo có sự tham gia của người dân là cách tìm ra các nguồn hạn chế nhất, những “nút thắt cổ chai” mà người nghèo đang gặp phải để qua đó các chuyên gia, các cơ quan quản lý nhà nước tìm cách tác động vào chúng nhằm đạt mục tiêu về xoá đói giảm nghèo. Tiếp cận này đôi khi được hiểu giống như tiếp cận từ dưới lên bởi đó cũng là cách xác định bắt đầu từ người nghèo- từ những nguồn lực khan hiếm của họ cần hỗ trợ, những vướng mắc chính mà người nghèo đang phải đối mặt để giúp họ thoát nghèo. Tuy nhiên tiếp cận theo phương pháp này khác với tiếp cận từ dưới lên: Tiếp cận từ dưới lên là tiếp cận toàn diện hơn, thường ở cấp tỉnh, cấp huyện, trong khi tiếp cận có sự tham gia lại chủ yếu được thực hiện ở các cấp cơ sở (thôn, bản, xã phường...).

Như vậy, các phương pháp tiếp cận xoá đói giảm nghèo hiện nay đang dần bộc lộ những điểm không phù hợp và hiệu quả chưa cao. Để đạt được những thành tựu to lớn trong công tác xoá đói giảm nghèo, đảm bảo mục tiêu giảm nghèo bền vững thì cần phải có phương pháp tiếp cận mới.

Phương pháp tiếp cận mới cho giảm nghèo cần đi theo hướng nào?

Quản lý dựa trên kết quả

Quản lý dựa trên kết quả đó là quá trình thực hiện chuỗi kết quả (Xem sơ đồ). Chuỗi kết quả cho thấy các hoạt động, thông qua chuỗi quan hệ nhân quả trung gian sẽ giúp thực hiện mục tiêu của chương trình hay dự án xoá đói giảm nghèo như thế nào. Tất cả các hoạt động, các hỗ trợ đầu vào đó được xây dựng và thực hiện trên cơ sở bắt đầu từ mục tiêu giảm nghèo - để trả lời câu hỏi: Nếu muốn giảm nghèo thì cần những hỗ trợ gì, cần hoạt động gì, cần cải tiến cơ chế, chính sách như thế nào,...Từ đó giúp người nghèo nhanh chóng thoát nghèo.

Kết hợp hài hoà vai trò của nhà nước, thị trường và cộng đồng

Nhà nước cũng cần xác định rõ đối tượng, vùng dự án cần có chính sách rõ ràng đối với DN, đơn vị sự nghiệp chuyển giao kỹ thuật, mô hình sản xuất tham gia xóa đói giảm nghèo, có thể đấu thầu theo nguyên tắc giao nhiệm vụ rõ ràng cho DN xây dựng hạ tầng, hướng dẫn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho hộ, sản xuất tập trung, bao tiêu sản phẩm. Chính sách đó có thể là giảm thuế, giảm tiền thuê đất hoặc điều kiện khác cho DN đó được thực hiện những dự án có lợi ở khu vực phát triển, hoặc tín dụng ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển cho DN và các tác nhân khác tham gia xoá đói giảm nghèo.

32

Bên cạnh đó, các dự án cần được đánh giá thường xuyên và điều chỉnh kịp thời, kết hợp lồng ghép để duy trì tác động của dự án đến xóa đói giảm nghèo. Đây là một kỹ năng có thể lấy ý kiến cộng đồng để chuyển hướng đầu tư sao cho thiết thực. Cộng đồng biết ai trong đó là đối tượng nghèo và cộng đồng giám sát được quá trình thực hiện, hoạt động chi tiêu. Bởi vậy, trong công tác xoá đói giảm nghèo cần chú ý đến chức năng của cộng đồng.

Tiếp cận theo chuỗi giá trị gắn với thị trường

Phương pháp tiếp cận mới theo chuỗi giá trị và gắn sự tham gia của người nghèo vào các mắc xích thị trường đó.

Phát triển chuỗi giá trị dựa trên việc lựa chọn cẩn thận các ngành hàng và việc sản xuất liên quan, hệ thống chế biến và tiếp thị mà có thể tạo ra việc làm cho người nghèo; mỗi vùng nên chọn sản phẩm có giá trị kinh tế cao, khuyến khích và quản lí rủi ro cho sự tham gia của người nghèo từ trang trại ra thị trường, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm; tiếp cận các dịch vụ tài chính (tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm); phát triển kỹ năng cho các hoạt động kinh doanh phi nông nghiệp (như chế biến, tiếp thị, du lịch); nâng cao cơ sở hạ tầng cộng đồng kết nối thị trường với cơ sở hạ tầng quốc gia và nâng cao khả năng kết nối với địa bàn xa thị trường; và có những sáng kiến để phổ biến và ứng dụng công nghệ phù hợp đem đến năng suất cao (chăn nuôi, sản xuất, sản xuất lâm nghiệp, và các hoạt động sau thu hoạch.

Liên kết nông dân với người kinh doanh, chế biến, buôn bán dọc theo chuỗi giá trị sẽ mang đến cơ hội kinh tế quan trọng cho sự phát triển kinh tế vì nông nghiệp và giúp nhiều gia đình nghèo thoát nghèo.

(Xem Hình 5: Báo cáo chính)

6. Kiến Nghị

Giáo dục: Để giảm tỷ lệ mù chữ ở các địa phương, đây là một thách thức lớn cho các cấp chính quyền. Tuy nhiên, một khó khăn lớn là trước hết cần phải cải thiện sinh kế cho các hộ nghèo thì việc cải thiện giáo dục mới mang lại hiệu quả cao. Tăng cường số lượng và chất lượng của các khoá tập huấn kỹ thuật sản xuất và đời sống, gắn nội dung tập huấn với nhu cầu thực tế của nông dân, thực hiện khảo sát nhu cầu trước khi tổ chức lớp tập huấn, nâng cao khả năng áp dụng kỹ thuật của hộ nông dân từ các khoá tập huấn bằng các mô hình trình diễn, thực hiện cầm tay chỉ việc đối với hộ nông dân có năng lực hạn chế.

Y tế: Hiện nay về cơ bản các dịch vụ y tế đã đến với các người dân vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, dịch vụ y tế đối với địa phương vẫn chưa được tốt. Cần phải tăng cường y bác sỹ cho tuyến cơ cở cũng như cải thiện cơ sở hạ tầng và các thiết bị chăm sóc y tế.

Cơ sở hạ tầng: Các cơ sở hạ tầng cơ bản khá đầy đủ. Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý là hiện nay cơ sở hạ tần phục vục nước sinh họat còn hạn chế. Một số lượng lớn các hộ địa phương vẫn còn dùng nước từ khe, suối để sinh họat. Vì vậy, cần có sự hỗ trợ lớn cho người nghèo được tiếp cận nguồn nước sạch là cần thiết.

Tín dụng nông thôn: Họat động tín dụng ở địa phương mang lại một số hiệu quả đáng kể. Đa số người dân được tiếp cận với nguồn vốn tài chính để nâng cao sinh kế của mình. Tuy nhiên các ngân hàng và tổ chức tín dụng cần quan tâm tập huấn cho các hộ nghèo về phương pháp hòan thiện hồ sơ cũng như cách sử dụng vốn có

33

hiệu quả. Mở rộng định mức cho vay vốn của Ngân hàng Chính sách Xã hội, thay đổi thời điểm cho vay cho phù hợp với nhu cầu của nhân dân, tránh tình trạng cho vay theo đợt. Tăng cường thời hạn cho vay (tối thiểu là 5 -10 năm), có như vậy hộ nông dân mới có đủ thời gian quay vòng vốn. Đối với hộ nông dân đã bị rủi ro, mất mùa cần tiếp tục cho vay vốn để tái sản xuất lần 2.

Tăng cường phân cấp phân quyền cho người dân: Đối với tất cả các chương trình dự án, mặc dù là của nhà nước hay các tổ chức phi chính phủ thì việc trao quyền và tăng cường sự tham gia của người dân là cần thiết và nên được phát huy. Sự tham gia của người dân cần được thể chế hóa trong các chương trình phát triển của nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và đảm bảo tính bền vững của các họat từ các chương trình này. Ví dụ, hiện nay các chương trình của nhà nước như chương trình 135 đang thực hiện vẫn theo hình thức “từ trên xuống”. Đây là cần phải thay đổi trong các chương trình giảm nghèo trong tương lai.

Phương pháo tiếp cận mới cho giảm nghèo: Kết quả để lại của dự án Chia Sẻ đáng được các chương trình khác áp dụng trên hai khía cạnh là áp dụng phương pháp tiếp cận mới trong cải thiện sinh kế. Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận giảm nghèo theo nguồn vốn sinh kế vẫn còn một số điểm cần cản tiến theo hướng (1)tiếp cận theo kết quả, (2) hài hòa lợi ích của nhà nước, thị trường và cộng đồng (3) tiếp cận theo chuỗi giá trị. Trong đó, người nghèo có thể tham gia vào các mắc xích của thị trường nhằm cải thiện đời sinh kế của mình.

Tài liệu tham khảo

Chambers, R. and G. R. Conway (1992). Sustainable rural livelihoods: practical concepts for the 21st century IDS, IDS Discussion Paper No 296

Diana Carney. 1998. ‘Implemeting the Sustainable Livelihood Approach’, chapter 1 in D. Carney (ed), Sustainable Rural Livelihoods: What Contribule Can We Make?, London: Department for International Development.

EMWG. 2005. A summary on Ethinic Minorities in 2005.

Frank Ellis. 2000. Rural Livelihoods and Diversity in Developing Countries. Oxford University Press.

Lasse Krantz. 2001. The sustainable livelihood approach and poverty reduction. SIDA.

Nhóm hành động chống đói nghèo-a. 2003. Báo cáo đánh giá đói nghèo có sự tham gia của cộng đồng tỉnh Hà Giang

Nhóm hành động chống đói nghèo-b. 2003. Báo cáo đánh giá đói nghèo có sự tham gia của cộng đồng tỉnh Quảng Trị

Frank Ellis and H. Ade Freeman. 2002. Rural Livihood and Poverty Reduction Policies

Bent D. Jorgensen. 2006. Development and “The Other Within”: The Culturelisantion of Polictiacal Economy of Poverty in the Northern Uplands of Viet Nam. PhD Thesis. Department of Peace and Development Research, School of Global Studies, Goteborg University.

-. 2008. Empowerment. http://en.wikipedia.org/wiki/Empowerment#Empowerment

34

UNDP. 2004. Đánh giá và lập kế họach cho tương lai: Đánh giá chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và chương trình 135.

P.R. Fourace. Transport and Sustainable Livelihoods. Internation Division, TRL

World Bank. 2008. Báo cáo phát triển thế giới: Tăng cường nông nghiệp cho phát triển. NXB Văn Hóa – Thông Tin.

World Bank 2002. Empowerment and Poverty Reduction: A Source Book.

Nghị định 79/2003/ND-CP của chính phủ Số 79/2003/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2003. Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.

William D. Sunderlin & Huỳnh Thu Ba, Giảm nghèo và Rừng ở Việt Nam, Nhà xuất bản: Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế, tháng 10 năm 2004. trang 39.

35