63 bÀi vĂn hay trung hỌc phỔ thÔng lỚp 1163 bÀi vĂn...
TRANSCRIPT
63 BÀI VĂN HAY TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LỚP 11
63 BÀI VĂN HAYTRUNG HỌC PHỔ THÔNG LỚP 11
Bồi dưỡng học sinh giỏi & Trợ ôn thi tú tài,
thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng
TRẦN VĂN ĐỒNG
(Tuyển chọn, giới thiệu)
LỜI NÓI ĐẦU
Trong môn Văn - Tiếng Việt, Làm văn là phần rất quan trọng với tính thực
hành và tính tổng hợp của nó. Làm văn chính là "đầu ra", là kết quả của công
việc dạy văn, học văn trong nhà trường phổ thông. Những bài làm văn hay là
bằng chứng về sự cảm thụ văn học của học sinh, là những bậc thang đưa các
em từng bước vươn lên tầm cao của chất lượng học tập môn Văn. Những bài
làm văn hay còn có tác dụng động viên, khích lệ rất lớn như tục ngữ đã nói "học
thầy không tày học bạn". Đối với thầy, cô giáo dạy văn, những bài văn hay sẽ là
tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy.
Cuốn sách này tập hợp những bài văn đạt điểm cao trong các kì thi chọn
lọc học sinh giỏi, thi làm văn hay của các thế hệ học sinh trong cả nước. Với 63
bài gồm đủ các kiểu bài Làm văn trong chương trình lớp 11 (phân tích nhân vật
trong tác phẩm tự sự và phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình, bình giảng văn
học, thể loại tự do sáng tạo). Trong một số trường hợp tuy cùng một đề nhưng
có hai người viết, chúng tôi đã giới thiệu cả hai bài để các em thấy rằng với mỗi
đề văn có thể có nhiều cách tiếp cận, nhiều cách viết khác nhau nhưng vẫn đạt
kết quả cao chứ tuyệt đối không có một khuôn mẫu nào cả.
Khi tham khảo cuốn sách này, các em cố gắng phân tích những ưu điểm
cũng như hạn chế trong bài làm của các bạn đi trước để rút kinh nghiệm cho bản
thân. Tuyệt đối không coi đây là những bài văn mẫu để bắt chước. Khi nào các
em nhận ra những hạn chế trong bài làm của bạn thi kiến thức môn Làm văn của
các em đã có bước trưởng thành, các em sẽ viết được bài văn hay như các bạn
đã viết trong cuốn sách này.
Chúng tôi hy vọng đây sẽ là tài liệu bổ ích, thiết thực cho các em học sinh
và các thầy cô giáo dạy văn. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn và mong nhận
được ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Tác giả
Bài 1
ĐỀ BÀI
Em hiểu chủ nghĩa nhân văn trong văn học như thế nào? Hãy phân tích
một số dẫn chứng lấy trong hai đoạn trích của tác phẩm Hamlet, Romeo và
Juliet để làm sáng tỏ về chủ nghĩa nhân văn.
BÀI LÀM
Con người! Hai tiếng ấy vang lên mới đẹp làm sao! Thế mà trước đây
nhiều thế lực hắc ám, tàn bạo đã dựa vào nhà thờ Cơ Đốc giáo và triết học kinh
viện để chà đạp thô bạo lên quyền sống, quyền làm người của con người. Vì
thế, ở thế kỷ XIV - XV, ngọn gió nhân văn chủ nghĩa đã bùng lên trong văn học
nước Ý và sau đó lại thổi một luồng sinh khí mới sang văn học nhiều nước châu
Âu. Mãi đến thế kỷ XVI, nền văn học Anh mới thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn
mà đỉnh cao là Shakespeare (1564 - 1616).
Vậy thế nào là chủ nghĩa nhân văn trong văn học? Chủ nghĩa nhân văn đã
được thể hiện như thế nào qua hai vở bi kịch Romeo và Juliet và Hamletf
Chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu tư tưởng tiến bộ, tôn trọng và đề cao
con người trong cuộc sống trần thế. Nó đối lập với triết học kinh viện và tư tưởng
của nhà thờ Cơ Đốc giáo. Đây là một hệ tư tưởng chính thống của thời đại, là hệ
tư tưởng duy tâm khuyên con người phải tin vào những thế lực siêu nhiên,
huyền bí nhằm tìm hạnh phúc ở chốn thiên đàng. “Đây là vũng bùn hôi thối” và
các học giả đã nhận thấy những điều xuyên tạc, dối trá nên họ đã nghiên cứu và
phát hiện nền văn minh huy hoàng của Hy Lạp, La Mã cổ đại. Phương Tây bàng
hoàng và kinh ngạc trước những di sản văn hóa thời cổ đại… “trong những cuốn
sách viết tay còn cứu vớt được sau khi nền văn minh Bydangxơ đã sụp đổ, trong
những pho tượng thời cổ đại khai quật được trong những đống hoang tàn ở La
Mã, người ta đã thấy một thế giới mới lạ… đó là thời cổ đại Hy Lạp, những hình
thức chói lòa của nó đánh tan những bóng ma thời trung cổ”. Nhận thức rõ, sở dĩ
cha ông người Hy Lạp sáng tạo được một nền văn minh như vậy là vì họ đã
sống trong một xã hội tự do, dân chủ, quyền sống, quyền làm người được tôn
trọng.
Ở thế kỷ XIV, XV, nước Ý đã mọc lên nhiều đô thị nhờ kinh tế công
thương nghiệp phát triển, tầng lớp thị dân giàu có nên họ có ý thức về quyền lợi,
vai trò của cá nhân mình. Đây là tiền đề, là xuất phát điểm của ngọn gió nhân
văn chủ nghĩa. Chủ nghĩa nhân văn trong nền văn nghệ Ý đạt những thành tựu
rực rỡ ở các lĩnh vực như hội họa, kiến trúc, điêu khắc… Ngọn cờ đầu của chủ
nghĩa nhân văn là Dante, tác giả của kiệt tác Thần khúc.
Sang thế kỷ XV - XVI, ngọn gió nhân văn chủ nghĩa thổi một luồng sinh khí
mới vào nền văn nghệ của các nước Tây Âu và Trung Âu. Nước Anh bước vào
thời đại Phục hưng muộn so với Ý, Pháp nhưng nền văn nghệ Anh, nhất là thơ
ca, kịch đã phát triển rất nhạnh và rất mạnh, đỉnh cao nhất là nhà viết kịch
William Shakespeare, xuất thân tại thị trấn Stratfordonabon. Đấy là một thị trấn
nhỏ nhưng khá phồn thịnh. Bố của Shakespeare là một thương nhân buôn bán
đồ len khá giả. Về sau, gia đình bị sa sút nên ông phải nghỉ học, đi làm việc. Đến
Luân Đôn, ông đã từng giữ ngựa, nhắc vở, diễn viên rồi sau đó mới cải biên,
nhuận sắc và sáng tác hàng loạt vở kịch có giá trị lớn. Với ba mươi tám vở kịch
gồm kịch lịch sử, hài kịch, bi kịch ông đã trở thành một nhà viết kịch thiên tài. Ở
hai vở kịch Romeo và Juliet và Hamlet, Shakespeare đã đấu tranh cho sự tự do
của con người trong hạnh phúc yêu đương và trong hành động dũng cảm chống
lại cái ác.
Romeo và Juliet được sáng tác vào khoảng năm 1594, 1595, là một bản
tình ca bất tử, ca ngợi sức mạnh của tình yêu đã chiến thắng oán thù và những
thế lực xấu xa, đen tối trong xã hội. Bối cảnh câu chuyện xảy ra tại thị trấn
Verona ở Ý. Nơi có hai gia đình thế phiệt trâm anh là Capulet và Montague từng
có mối hiềm thù sâu xa đến nỗi những người đầy tớ của họ gặp nhau ngoài
đường cũng đánh và giết nhau bằng gươm. Những kẻ dùng gươm sẽ chết vì
gươm. Đây chính là dấu vết của sự hiềm thù trung cổ còn sót lại. Romeo vốn là
con trai của nhà Montague, yêu nàng Rosaline - một người con gái mà chàng
cho rằng đẹp nhất cõi trần gian. Nhưng tiếc thay, dòng suối tình yêu của chàng
không được nàng Rosaline đáp trả. Chàng đâm ra thất vọng. Nhưng Mercudio,
người bạn tốt bụng của chàng, hứa là sẽ giới thiệu cho chàng người con gái xinh
đẹp hơn, huyền diệu hơn Rosaline gấp bội.
Thế rồi, dịp đó đã đến. Bằng cách ngụy trang một chiếc mặt nạ, Romeo đã
lọt được vào một bữa tiệc ở nhà Capulet - một bữa tiệc mời tất cả những cư dân
trong thị trấn Verona, trừ những người thuộc dòng họ Montague. Thông qua ánh
mắt nụ cười, tiếng sét ái tình của chàng và Juliet đã bộc phát. Vì giết Tybalt -
một người cháu họ của Juliet - Romeo bị đày đến Mantua cách xa ngàn dặm.
Trước khi chịu án đi đày, chàng đã nhiều lần vượt qua bức tường cao của nhà
Capulet để được gặp Juliet. Đó là những đêm trăng thần tiên tô điểm thêm tình
yêu của họ.
Xa cách Romeo, Juliet bị gia đình ép gả cho Paris, một người giàu có mà
nàng không hề yêu. Nàng đã bí mật tìm đến nhà linh mục Laurence, để nhờ vị
linh mục này bày cho nàng cách để thể hiện tình yêu chung thủy với Romeo.
Trước đêm lễ cưới Paris, nàng đã uống hai viên thuốc ngủ để giả vờ chết trong
bốn mươi hai giờ đồng hồ. Người ta đem nàng ra nhà mồ. Tại Mantua, khi sứ giả
của vị linh mục chưa đến thì Romeo đã hay được hung tin, liền vội vã trở về
Verona bằng con đường tắt. Khi đến nhà mồ, chàng đã giết chết Paris và uống
thuốc độc tự tử. Chàng vừa ngã xuống thì Juliet tỉnh dậy. Thấy Romeo đã trở
thành người thiên cổ, Juliet bàng hoàng sửng sốt và cũng tự sát. Người đầy tớ
của Paris chạy đi loan tin cho mọi người biết. Vì hoàng tử và cả hai dòng họ
Montague và Capulet đều kéo đến và vô cùng xót xa. Dòng họ Capulet hứa sẽ
xây dựng một tượng đài cho Juliet và dòng họ Montague cũng vậy.
Rõ ràng là Romeo và Juliet chết nhưng lý tưởng và sự tự do trong hạnh
phúc yêu đương của họ vẫn còn tồn tại mãi mãi. Mối tình giữa Romeo và Juliet
đã chứng minh sức mạnh của tình yêu. Yêu Juliet, Romeo đã làm tất cả những
điều phi thường để mong sao Juliet có được hạnh phúc. Chàng đã vượt qua bao
bức tường cao của nhà Capulet, tức là vượt qua bóng đêm nghiệt ngã của sự
hiềm khích hận thù thời trung cổ. Sự lưu cữu hận thù này là một nhát cắt oan
nghiệt đè nặng lên đôi lứa đang yêu và sẵn sàng hy sinh vì tình yêu. Juliet cũng
vậy, cái chết của họ là một hồi chuông cảnh tỉnh cho toàn nhân loại phải tôn
trọng sự tự do hạnh phúc yêu đương của con người. Trong một hoàn cảnh xã
hội u ám, lạnh lẽo, đôi tình nhân Romeo và Juliet vẫn ấm áp bởi vì họ có tình
yêu. Tình yêu đem lại hơi thở và sức sống căng tràn cho tâm hồn, nếu đó là tình
yêu trong sạch. Họ chết rất bi thảm, cũng vì để bảo vệ tình yêu: “For never was a
story of more woe than this of Juliet and Romeo” (Chưa có chuyện tình nào bi
thảm hơn chuyện tình của Rome và Juliet).
Sau Romeo và Juliet vở kịch Hamlet được William sáng tác năm 1601 lại
chứng minh về sức mạnh phi thường của con người chống lại cái ác đang hoành
hành trong xã hội. Hamlet là một điển hình về kiểu con người có thái độ hoài
nghi khoa học và biết hành dộng dũng cảm, thông minh để diệt trừ cái ác. Từ nơi
xa nghe tin vua cha mất, Hamlet liền vội vã về kinh, về đến nơi, chàng choáng
váng vì thấy người chú ruột là Clodiut lên ngôi và mẹ chàng vội vàng tái giá với
hắn. Đêm đêm, Hamlet thơ thẩn và được hồn vua cha hiện về bảo cho chàng
biết về cái chết oan khốc của mình. Chàng phải giả điên, giả dại để tồn tại trong
kinh thành. Thấy vậy, Clodiut phái nhiều tên theo dõi chàng và hắn cùng tên cận
thần Poloniut rình rập để theo dõi cuộc gặp gỡ giữa chàng với con gái của
Poloniut. Đoán biết được âm mưu của chúng, Hamlet tiếp tục giả điên để tìm ra
sự thật. Chàng luôn luôn tâm niệm: “Thời đại tan hoang. Nhưng quái ác thay,
chính ta lại sinh ra để dựng nó lại ngay ngắn vững vàng”.
Chàng đã bố trí để nhà vua và hoàng hậu cùng xem một vở kịch có cảnh
mưu sát gần như cái chết của cha chàng. Clodiut ra sức cầu nguyện, Hamlet
không giết, chàng đã gặp hoàng hậu và phân tích cho bà thấy rõ những sai lầm.
Tên Poloniut rình mò để nghe trộm đã bị lưỡi gươm của chàng hạ sát.
Clodiut tin chắc rằng Hamlet chỉ giả điên và để trừ hậu họa, hắn đã phái
chàng sang Anh Quốc. Chàng phát hiện ra bức mật thư liền trở về Đan Mạch.
Thấy người yêu đã quá đau khổ trước đám tang của cha và ngã xuống vực chết
đuối, chàng đau khổ vô cùng. Anh trai nàng đã nhảy vào đánh chàng. Clodiut
nảy ra một quỉ kế trừ khử chàng bằng cách cho chàng và Laocte đấu kiếm.
Chàng đã đánh rơi kiếm của Laocte và hai bên đổi kiếm cho nhau. Đề phòng xa,
Clodiut đã chuẩn bị sẵn chén rượu độc để trừ khử chàng nếu chàng chiến thắng.
Hamlet đã đâm trúng đối phương và được biết âm mưu của hắn. Hamlet đã
xông đến đâm trúng Clodiut nên sau khi bàn giao mọi chuyện cho Foctinbrat
chàng đã ngã xuống trong sự thanh thản hoàn toàn.
Mượn câu chuyện về chàng hoàng tử Đan Mạch hoài nghi và dũng cảm,
thông minh, Shakespeare đã tố cáo một xã hội đảo điên, tan tác. Bấy giờ, nước
Anh đang ở trong thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến đi lên tư bản chủ nghĩa.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng ấy, nhiều thế lực hắc ám, tàn bạo đã xuất hiện
gây nên những tội ác đáng ghê tởm. Không thể chịu khoanh tay trước cái ác,
những người như Hamlet là một nhân vật có thái độ hoài nghi khoa học, dám
nghĩ dám hành động. Như Hegel đã viết một cách đúng đắn: “Hamlet tự mình
không kiên quyết, tuy nhiên, anh nghi hoặc không phải ở chỗ mình phải làm cái
gì, mà ở chỗ mình phải làm điều đó như thế nào”. Cuối cùng, chàng đã tiêu diệt
được kẻ thù và ngã xuống một cách anh hùng. Sự hy sinh của Hamlet chứng tỏ
rằng lực lượng tiến bộ, chính nghĩa còn non yếu nhưng tinh thần đấu tranh của
Hamlet đã từng làm bừng thức trái tim của loài người tiến bộ.
Nói tóm lại, nội dung nhân văn chủ nghĩa trong văn học ở các nước Tây
Âu là một trong những thành tựu rực rở của nền văn minh nhân loại. Nó đã làm
cho con người có ý thức mạnh mẽ về vai trò của cá nhân, về quyền được sống,
quyền hạnh phúc cho nên chủ nghĩa nhân văn được mọi người đón nhận một
cách nồng nhiệt.
Là một trong những nhà văn thiên tài giương cao ngọn cờ chủ nghĩa nhân
văn, William Shakespeare xứng đáng là một trong những nhân vật “khổng lồ”
của thời đại Phục hưng. Chủ nghĩa nhân văn trong văn học nghệ thuật càng có
giá trị hơn khi dân tộc ta và loài người tiến bộ đang khép dần cánh cửa của thế
kỷ XX để bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ mà chắc chắn là về mặt khoa học và nghệ
thuật sẽ còn có những thành tựu sáng ngời hơn nữa.
TRẦN BIỂU THỨC
(Lớp 11C Trường THPT An Nhơn 2, Bình Định)
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Đề bài khá “hóc”, đòi hỏi người viết phải có một tư duy sắc bén và cách
viết thuyết phục. Bài làm cho thấy Thức có rất cố gắng trong việc giải thích “chủ
nghĩa nhân văn trong văn học”. Bài viết đã bám rất sát vào giai đoạn lịch sử để
phân tích. Qua đó, chứng tỏ bạn có một vốn kiến thức về văn học, lịch sử…
phương Tây khá rộng. Tuy nhiên về nội dung, điều đầu tiên tôi cảm nhận được
khi đọc bài của Thức là hình như tôi được… đọc lại tác phẩm Hamlet và Romeo
và Juliet thì phải (?!). Biết rằng khi phân tích một tác phẩm, nhắc qua về nội dung
tác phẩm là cần thiết. Nhưng tôi nghĩ phần tóm tắt sơ về tác phẩm nên cô đọng,
chứ không phải là dành hết gần một nửa bài làm của mình chỉ để kể lại tác phẩm
như Thức đã làm. Trong khi đó, đề lại yêu cầu “Phân tích một số dẫn chứng lấy
trong hai đoạn trích của các tác phẩm Hamlet, Romeo và Juliet để làm sáng tỏ
về chủ nghĩa nhân văn”. Vậy là yêu cầu về dẫn chứng để phân tích trong bài làm
bạn chưa đáp ứng tốt, vì vậy, phân tích chưa có sức thuyết phục lắm.
Nhìn một cách tổng quát thì bài làm của Thức đã thể hiện một năng lực
viết văn tốt, cách viết khá lôi cuốn và chững chạc. Nếu như bạn biết bám đề
“chắc hơn” thì bài viết sẽ còn đạt hiệu quả cao hơn.
Đỗ Thị Minh Hòa, Lớp 10 Anh, Trường Phổ thông
Năng khiếu Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Bài viết của bạn Thức rất dài nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng tốt các
yêu cầu của đề. Thứ nhất, đề bài yêu cầu “Em hiểu thế nào về chủ nghĩa nhân
văn trong văn học”, đáng ra phải lý giải một cách sâu sắc thì bạn còn đề cập rất
ít.
Thêm nữa, một số câu của bạn diễn đạt còn chưa rõ nghĩa. Ngoài ra, nội
dung phân tích chưa được hoàn chỉnh, chưa có chiều sâu, sức thuyết phục chưa
cao, nhiều chỗ còn sa vào kể chuyện. Vì vậy mà không lôi cuốn, không có sức
hấp dẫn cao đối với người đọc.
Nguyễn Thanh Hương
Lớp 11 Trường THPT Quỳnh Lưu 3, Nghệ An
Bài 2
ĐỀ BÀI
Em hãy phân tích mâu thuẫn nội tâm trong nhân vật Hộ ở truyện ngắn Đời
thừa của Nam Cao để thấy rõ số phận bi đát của người trí thức trong giai đoạn
1930 - 1945.
BÀI LÀM
Lê-nin đã nói về cuộc đấu tranh của bản thân mình: “Tôi không sợ khổ,
không sợ chết. Tôi chỉ sợ không thắng được những phút giây yếu đuối của lòng
tôi, chiến thắng vẻ vang nhất là chiến thắng bản thân”. Và chúng ta lại một lần
nữa bắt gặp hình ảnh Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao là một người
trí thức nghèo luôn khao khát sự nghiệp nhưng lại gặp phải những lo âu tẹp
nhẹp đời thường. Vì thế mà thế giới nội tâm của Hộ luôn diễn ra gay gắt và hỗn
loạn. Cũng chính thế giới nội tâm đó đã làm bàn đạp để xoay tròn số phận bi đát
của những người tri thức trong giai đoạn 1930 - 1945. Có phải mâu thuẫn đó
được tạo ra từ cái xã hội mà người tài không được coi trọng? Chúng ta hãy cùng
phân tích để làm rõ vấn đề hơn.
Văn chương không chấp nhận cách viết sơ sài, cẩu thả, gấp rút, không
phải là những dòng ủy mị, thê lương khi chạy theo thị hiếu mà: “Văn chương chỉ
dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa
ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Phải, văn chương chỉ cần những người
có đầy đủ tư cách. Tư cách chính là cái nhân phẩm và đạo đức của con người.
Và ta ở đây ta bắt gặp mâu thuẫn trong tư cách nhà văn của Hộ. Một con người
nhận thức chính đáng về con đường mình đã chọn, một con người luôn say mê,
yêu cuồng nhiệt văn chương và hơn thế nữa: trọng nghề. Hộ khao khát có được
những tác phẩm sẽ trở thành kiệt tác “nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra
một thời”, một tác phẩm sẽ đoạt giải Nobel. Và cái khao khát ấy làm cho Hộ xem
thường tất cả: “Đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng”.
Hộ khinh thường tất cả những thứ tủn mủn, tẹp nhẹp ấy.
Nhưng rồi khi cuộc đời Hộ được gắn liền với cuộc đời Từ thì mọi chuyện
đều thay đổi như cái chén lật ngược. Hộ xuất hiện như một thiên thần, Hộ cứu
lấy cuộc đời Từ và ban cho Từ một chiếc phao. Hộ nghiễm nhiên trở thành ân
nhân và một người chồng cao thượng. Georgesco đã nói: “Hôn nhân là một cái
áo mới, được mặc vào trong một ngày lễ mà người mặc không được thử cái áo
ấy trước bao giờ”. Và dường như Hộ cũng vậy. Hộ chưa từng thử chiếc áo và
chính Hộ cũng ngỡ rằng nó sẽ rực rỡ, bóng bẩy. Nhưng cuối cùng nó đã dẫn Hộ
vào một ngõ tối. Bao nhiêu bộn bề, âu lo trong cuộc sống gia đình đã biến Hộ
thành một con người khác. Hộ lo toan những điều tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, những
thứ mà trước đây Hộ đã coi thường. Vòng xoáy của cơm áo gạo tiền đã biến Hộ
thành một kẻ tính toán từng li từng tí. Và rồi Hộ viết cẩu thả, vội vàng. Cả lối viết
đã khiến Hộ ray rứt, đau khổ: “Rồi mỗi lần đọc một cuốn sách hay một đoạn văn
ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên cau mày nghiến răng vò nát sách và mắng mình
như một thằng khốn nạn”. Ngày ấy, cái ngày mà lý tưởng của Hộ sôi nổi, bỏng
cháy. Hộ viết cẩn thận, chọn lọc, kiên nhẫn say mê tích lũy kiến thức. Hộ ý thức
được nghiệp viết văn của mình: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự
bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Vậy mà
giờ đây chính Hộ đã rơi vào sự “đê tiện” đó. Cái hiện thực phũ phàng ấy đã dập
tắt những ước mơ của Hộ và làm Hộ trở nên chai thô, tha hóa. Phải chăng chính
cuộc hôn nhân “cao thượng” ấy đã dẫn Hộ vào sự cùng quẫn, tẹp nhẹp hàng
ngày hay chính xã hội mà người tài đức không được trọng dụng đã dẫn đến một
bi kịch mà Hộ chính là nạn nhân?
Hộ không ăn năn hay hối hận về việc anh lấy Từ mà trái lại trong con
người Hộ đã diễn ra những mâu thuẫn sâu sắc, giằng xé. Chính Hộ đã có lúc
nghĩ rằng: “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền, khi Từ đã có một số vốn
con để làm ăn”. Rõ ràng trong con người Hộ đã hiện lên một đức tính hy sinh,
Hộ chấp nhận tạm gác cái khao khát cháy bỏng của sự nghiệp để lo cho cái vụn
vặt, tầm thường trước mắt. Nhưng càng có suy nghĩ ấy Hộ càng lún sâu vào lối
viết cẩu thả và trong Hộ lại xuất hiện cái khổ tâm, cái khổ tâm mà anh biết được,
anh cảm nhận được.
Bản chất của Hộ là một con người giàu lòng nhân ái, luôn phấn đấu vì lý
tưởng nhân đạo. Hộ xem tình yêu nhân loại như một nguyên tắc sống, mà thực
tế đó chính là sự cứu vớt cuộc đời Từ: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai
người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ người khác
trên đôi vai mình”. Và rồi Hộ hy sinh, hy sinh cả sự nghiệp văn chương hãy còn
cháy bỏng. Hàng ngày, Hộ phải chung sống với bao nhiêu mâu thuẫn, thậm chí
phải xem cái mâu thuẫn nội tâm ấy là bạn. Nhưng nếu nó là “bạn” thì Hộ không
phải ray rứt đến như vậy. Đằng này, có thể nói đó là kẻ thù. Hộ không thể dùng
súng, gươm để giết nó mà phải dùng chính lòng tự quyết, can đảm, lý trí để xua
tan. Thật là đáng thương cho Hộ và cuối cùng chính cái mâu thuẫn ấy của gia
đình, xã hội tạo ra cho Hộ đã biến Hộ thành một tên vũ phu, thô bạo. Hộ đối xử
với vợ con một cách tồi tệ. Hộ say sưa, la cà ở các quán rượu và tiêu pha lãng
phí. Hộ độc mồm, độc miệng với vợ con: “Ngày mai… mình có biết không? Chỉ
ngày mai thôi là tôi đuổi tất cả mẹ con mình ra khỏi cái nhà này… Tôi đuổi tất,
không chừa một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan nhất”. Con người của
Hộ cũng có lúc trở về với chính mình. Hộ rất thương yêu vợ con, số tiền lãnh
được từ tòa soạn Hộ định sẽ mua một ít thịt về nhà. Hộ tưởng tượng ra cái cảnh
con hắn ăn ngấu nghiến thức ăn: “Cái cảnh thô tục và cảm động”. Tận trong tâm
hồn Hộ, Hộ là một người cha gương mẫu, biết yêu thương vợ con nhưng rồi Hộ
lại không làm được điều này. Đêm đó Hộ trở về với cơn say, để rồi sau khi tỉnh
rượu, Hộ lại ăn năn, hối lỗi. Hộ đáng được thương hơn là đáng trách. Nhưng rồi
đồng tiền đã khiến Hộ điên lên, gia đình đối với Hộ chỉ gói gọn trong sự túng
quẫn. Mà những câu triết lý chẳng làm no những cái miệng ở nhà.
Xã hội ấy, cái xã hội mà Hộ phải sống, phải bươn chải, đã không mở ra
cho Hộ một con đường để ngước mắt nhìn đời, và đó cũng là số phận bi đát của
những người trí thức trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945. Nam
Cao xây dựng thành công nhân vật điển hình trong các tác phẩm của mình. Với
giọng văn giàu chất triết lý, suy tư, thấm đẫm chua chát, đắng cay và dạt dào
nươc mắt Nam Cao đã cho chúng ta thấy rõ số phận bi đát của những người trí
thức, bên cạnh họ không những thế còn có những Chí Phèo, lão Hạc cũng đã
rơi vào bước đường cùng tương tự.
Đọc truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao, ta thấy được cái băn khoăn, dằn
vặt lẫn âu lo, rối rắm của cuộc đời. Tại sao tác giả không đặt cho truyện ngắn
của mình là “người thừa”? Phải chăng; tác giả muốn nói: chính cái xã hội không
biết trọng người tài ấy mới “thừa”, còn tác giả hay chính Hộ là người “không
thừa”. Đời thừa là một chuỗi mắc xích nối tiếp nhau, những mâu thuẫn thắt rồi lại
mở, mở rồi lại thắt khiến người đọc cảm thấy đồng cảm với nhân vật hơn.
ĐỖ NGUYỄN HẢI YẾN
Lớp 11A10 Trường THPT Thanh Đa, Thành phố Hồ Chí Minh
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Đời thừa của Nam Cao là một tác phẩm hiện thực phê phán, tố cáo cái xã
hội Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 làm tha hóa con người. Quá chú ý vào Hộ,
vô tình Hải Yến đã biến Hộ thành một nhân vật cá biệt, riêng lẻ… chưa làm bật
được ý nghĩa điển hình của Hộ, đại diện cho tầng lớp trí thức đương thời - một
yêu cầu của đề tài.
Mâu thuẫn nội tâm nhân vật Hộ có nguyên nhân sâu xa là đâu? Hộ có bị
tha hóa về sau không? Làm sao để “cứu” Hộ? Những vấn đề cần thiết này chưa
được Hải Yến phân tích giải quyết đầy đủ trong bài viết của mình, do đó Yến
chưa hoàn toàn thuyết phục được người đọc.
Hải Yến còn sai lầm khi kết luận “cũng chính thế giới nội tâm đó đã làm
bàn đạp để xoay tròn số phận bi đát của những người tri thức giai đoạn 1930 -
1945”. Điều này phản lôgic vì bi kịch số phận dẫn đến mâu thuẫn nội tâm!
Còn những hạn chế trên nhưng cũng cần phải biểu dương tác giả bài dự
thi về sức đọc sâu tác phẩm - và đọc rộng - trích dẫn danh ngôn…
Võ Văn Lợi
Quận Bình Thạnh Thành phố Hồ Chí Minh
Sau khi đọc bài viết của Hải Yến, tôi cảm thấy bạn đã hiểu rất sâu, rất
chắc chắn tác phẩm, nhân vật và đề bài. Dưới ngòi bút của Hải Yến, nhân vật
Hộ hiện ra với những mâu thuẫn nội tâm gay gắt, nhưng bi kịch tinh thần của
một nhà văn “muốn làm một cái gì để nâng cao giá trị đời sống của mình (mà kết
cục chẳng làm được cái gì)”. Bằng sự phân tích, đào sâu, mổ xẻ tâm trạng, lời
nói, hành động của Hộ, bài viết đã thỏa mãn yêu cầu của đề một cách gần như
hoàn thiện, tuy nhiên, bạn vẫn còn một số lỗi về cách dùng từ, hành văn. Ví dụ
như sự lặp đi lặp lại bốn lần từ “tẹp nhẹp” dù rất chỉnh ý nhưng ít nhiều cũng gây
sự nhàm chán ở người đọc.
Đặc biệt, muốn làm rõ hơn số phận bi đát của người tri thức trong giai
đoạn 1930 - 1945, theo tôi cần liên hệ thêm một số nhân vật khác như Điền
trong Trăng sáng, Thứ trong Sống mòn của Nam Cao… nhưng Hải Yến lại chưa
làm được điều này.
Dù vậy, bài làm của Hải Yến cũng đã ít nhiều thành công, đã để lại ấn
tượng thật sâu sắc trong tôi.
Hồ Thị Trà Giang
Xóm 1, Quỳnh Lương, Quỳnh Lưu, Nghệ An
Bài 3
ĐỀ BÀI
Bình luận ý kiến sau đây về tiếng cười của Trần Tế Xương: “Tiếng cười
trong thơ trào phúng của Tú Xương có đủ sắc điệu nhưng nổi lên một cá tính
nghê thuật độc đáo là tính dữ dội, quyết liệt; khác với tiếng cười của Nguyễn
Khuyến, nghiêng về sự hóm hỉnh, thâm thúy, chế giễu có tính chất răn bảo, mặc
dù cả hai tiếng cười đều phát ra từ cội nguồn của tâm huyết với nước, với dân,
với đời”.
BÀI LÀM
Sống trong “buổi chợ chiều” của nền Nho học, trong cơn chuyển mình
phức tạp của đất nước, trước bao điều “kỳ lạ”, nhố nhăng mà xã hội thực dân
phong kiến đẻ ra, vì “tài cao, phận thấp, chí khí uất”… tất cả đã tạo nên ở nhà
thơ trào phúng, vĩ đại nhất Việt Nam - Trần Tế Xương một tiếng cười rất lạ, có
một thanh âm riêng mà không ai “theo” được. Như giáo sư Nguyễn Đình Chú đã
viết: “Tiếng cười trong thơ trào phúng của Tú Xương có đủ sắc điệu, nhưng nổi
lên một cá tính nghệ thuật độc đáo là tính dữ dội, quyết liệt; khác với tiếng cười
của Nguyễn Khuyến, nghiêng về sự hóm hỉnh, thâm thúy, chế diễu có tính chất
răn bảo, mặc dù cả hai tiếng cười đều phát ra từ cội nguồn của tâm huyết với
nước, với dân, với đời”.
Vấn đề đầu tiên đặt ra là: “Tiếng cười trong thơ trào phúng của Tú Xương
có đủ sắc điệu”. Quả như vậy, tiếng cười của Tú Xương rất đa dạng, dành cho
nhiều đối tượng khác nhau: có tiếng cười cay độc, thẳng thừng ném mạnh vào
những suy thoái, băng hoại của xã hội như trong Đất Vị Hoàng, Phố Hàng Song,
Năm mới chúc nhau… có tiếng cười pha lẫn tiếc nuối, xót xa cho những đạo
học, nếp cũ đã tàn tạ và đang trên đường bị phủ định: Lễ xướng danh khoa Đinh
Dậu, Đi thi, Than sự thi, Than đạo học… có tiếng cười uất ức, cay đắng ngạo
đời cho chính số kiếp lận đận, long đong chẳng phải vì kém tài của mình: Phú
hỏng thi khoa Canh Tý, Thủ cô đầu, May mà tớ hỏng… lại có tiếng cười yêu,
cười để mà nói lên lòng kính trọng, tình thương của mình với vợ: Ba cái lăng
nhăng, Văn tế sống vợ… Và dù trong tiếng cười nào, Tú Xương cũng thể hiện rõ
một con mắt nhìn đời tinh tế, một ngòi bút điêu luyện, tài năng, một cá tính nghệ
thuật độc đáo”. Cá tính nghệ thuật ấy là “tính dữ dội, quyết liệt”, tính chất là tiếng
cười của một thị dân uất ức, bất bình trước thế sự, khác với tiếng cười hóm
hỉnh, thâm trầm của Nguyễn Khuyến, tiếng cười của một nhà Nho đạo mạo,
thâm trầm.
Tính dữ dội, quyết liệt ấy xuất phát từ đâu nếu không phải từ hoàn cảnh xã
hội mà Tú Xương sống? Dù Nho học dần đi đến chốn suy sụp, quên lãng, nhưng
trước những trò “quái dị”, “lo lắng”, “dơ dáng” thừa cơ lẻn theo gót giày của thực
dân Pháp, một nhà Nho như Tú Xương hết sức ghê tởm, cảm thấy bàng hoàng
và bực bội tột đỉnh. Đó là cái cảnh:
Cờ kéo rợp trời quan sư đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Một trường thi của Quốc gia, nơi nuôi dưỡng các nhân tài đất Việt, tương
lai sẽ phục vụ cho đất Việt, chắc chắn phải do triều đình đứng ra tổ chức, thật
nghiêm túc, trang trọng. Thế mà hãy xem, cùng với quan sư của Pháp đến trong
sự tung hô nồng nhiệt của bọn bợ đỡ, ký sinh là một mụ đầm lôi thôi với “váy lê
quét đất”. Tú Xương quyết liệt mà rất sâu cay, coi đó là hình ảnh đối với “cờ kéo
rợp trời”. Tiếng cười phát ra từ đó, nhưng thấm đậm nỗi chua chát, đắng cay,
cười mà cứ chực trào nước mắt.
Quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa ở Đất Vị Hoàng:
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.
Thế là hết những đạo đức Khổng Tử, Nho gia. Mà hơn thế nữa, đã mất
hết những đạo đức tối thiểu mà một kẻ dù xấu xa bao nhiêu cũng cần có. Đâu
đâu cũng là sự đảo lộn của quy củ, phép tắc. Nơi nơi đều rặt những sức mạnh
của nén bạc, đồng tiền. Và Tú Xương đã thấy, đã cười quyết liệt, cay nghiệt như
thế nào.
Có lúc, ông không chỉ cười mà còn như chửi thẳng mặt, bêu chúng ra cho
toàn thiên hạ khinh bỉ:
Lẳng lặng mà nghe chúng chúc sang
Đứa thời mua tước đứa mua quan
Phen này ông quyết đi buôn lọng
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.
Nghĩ mà khinh thật. Mua bán quan tước để lấy danh hão rồi, chúng còn
chẳng chịu kém nhau, đua nhau nào lọng xanh, tán vàng, cờ ngũ sắc. Để làm gì
hỡi một lũ dốt nát, bất tài trong khi xã hội còn bao nhiêu phiền nhiễu, khổ đau?
Ấy thế mà có chửi vào mặt chúng, chúng cũng lăn vào mà mua, cốt sao cho
"bằng anh bằng em". “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Có cười như vậy mới hả dạ,
mới bằng lòng, mới đỡ uất ức và bực bội.
Đôi khi ông thẳng thừng “súc vật hóa” lũ quan lại, biến chúng thành những
kẻ dị dạng, dơ bẩn.
Thánh thì đen kịt, Đốc thì lang
Đen thì “đen kịt”, đen như trôn chảo, đít nồi. Nước da thì loang lổ, dơ bẩn,
bệnh hoạn. “Lang” khiến ta liên tưởng đến lũ lợn lang ở nông thôn. Ôi, những
phụ mẫu của dân! Tú Xương mạnh bạo, thẳng thừng thật!
Quả thật, ngoài Tú Xương, ta không tìm đâu được tiếng cười dữ dội, quyết
liệt như vậy. Ở Nguyễn Khuyến, một nhà Nho đạo mạo, tiếng cười khác xa Tú
Xương. Hãy nghe:
Ba vuông phấp phới cờ bay dọc
Một bức tung hoành váy xắn ngang.
(Lấy Tây)
Dù rất ác, rất thâm khi đôi quốc kỳ Pháp với chiếc váy của một cô gái Việt
Nam, nhưng xét ra, nó vẫn thâm thúy, trào lộng, không giống như “Cờ kéo rợp
trời…/ Váy lê quét đất…”.
Trước cảnh bán tước mua quan, Nguyễn Khuyến cũng chẳng đốp chát
vào mặt chúng, mà chỉ khẽ khàng: “Cái giá khoa danh ấy mới hỡi” hay “Nghĩ
rằng đồ thật hóa đồ chơi” (Vịnh tiến sĩ giấy), cũng như trước tầng lớp dân chúng
bị mê hoặc bởi “Hội Tây”, bởi trò hề của bọn thực dân, Nguyễn Khuyến cười
hóm hỉnh:
Bà quan tểnh nghếch xem bơi trải
Thằng bé lom khom nghé hát chèo
Cậy sức cây du nhiều chị nhún
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Và sau tiếng cười ấy, nếu có châm biếm thì cũng là châm biếm của nhà
Nho (khẽ khàng và thiên về răn bảo):
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu.
Rõ ràng, cùng là nhà Nho, nhưng bởi đỗ đạt cao, được trọng vọng, cũng
phục vụ hết sức cho Tổ quốc (dù tâm nguyện chẳng được hoàn toàn - có thể nói
là thất bại), cách nhìn của Nguyễn Khuyến khác nhiều cách nhìn của Tú Xương.
Và vì vậy cũng đã tạo nên một thang âm nhẹ nhàng mà sâu xa, thiên về răn bảo,
đưa Nguyễn Khuyến thành nhà thơ cổ điển nói riêng và thơ Việt Nam nói chung
vĩ đại nhất.
Dù khác nhau như vậy, nhưng chắc chắn phải nhìn nhận rằng “cả hai
tiếng cười đều phát ra từ cội nguồn của tâm huyết với nước, với dân, với đời”.
Ở Nguyễn Khuyến, có lẽ không cần bàn luận nhiều khi rõ ràng trong thơ
ông, cười là để răn bảo, để sống tốt hơn, yêu nước và ý thức sâu sắc hơn. Ở Tú
Xương thì điều này khó nhận thấy được. Phải chăng cay cú vì hỏng thi, vì nghèo
khó nên Tú Xương cười đời, chửi đời cho hả dạ, gột bỏ uất ức trong lòng? Dứt
khoát không. Ta cũng cần nên biết, một Tú Xương cười ngạo toang toang, dữ
dội như vậy cũng có lúc là Trần Tế Xương trầm mặc, ngẫm đời với bao trăn trở,
day dứt khôn nguôi. Một con người như vậy lẽ nào lại làm thơ để “trả thù xã
hội”? Thực sự, những tiếng cười của Tú Xương có sức mạnh rất lớn để tống tiễn
xã hội cũ về chỗ diệt vong trong vui vẻ, tạo điều kiện cho một xã hội tốt đẹp hơn
ra đời. Hãy xem, trong Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu sau tiếng cười dài là
nỗi lòng sâu nặng:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
Hay như tiếng cười đều nhắm vào lũ thực dân tàn bạo, bọn quan lại nhiễu
nhương, một tầng lớp xâu xa, thoái hóa, những cảnh dị hợm, nhố nhăng. Hoàn
toàn cười là để xây dựng, để nhân dân và cả lịch sử sau này nhìn rõ hơn, bao
quát hơn về một xã hội cũ nát đã qua và rất có thể trở lại nếu không cảnh giác.
Nếu không có một tâm huyết, một tấm lòng với dân, với nước, với đời thì
làm sao có thể viết nên những vần thơ như vậy, mạnh mẽ, quyết liệt và rất giàu
cảm xúc thật từ con tim.
Lời nhận định của giáo sư Nguyễn Đình Chú về sắc điệu, cá tính nghệ
thuật độc đáo riêng của Tú Xương là hoàn toàn đúng. Và tiếng cười của Trần Tế
Xương sẽ mãi mãi vang lên trong hiện tại, trong tương lai như đã từng vang
trong quá khứ. Tiếng cười ấy đã, đang và sẽ được kế tục với những Tú Mỡ, Đỗ
Phồn, Đồ Bì… để xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì lợi ích con người. Tú Xương
góp một phần công lớn, là lá cờ đầu của thơ văn trào phúng Việt Nam, có ý
nghĩa quan trọng cho sự tiến bộ của xã hội.
NGUYỀN XUÂN TÙNG
Lớp 11 Văn Trường Phổ thông Năng khiếu
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Bài 4
ĐỀ BÀI
Phân tích nhân vật quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM
Nguyễn Tuân với những trang anh hùng dũng liệt hiện lên dưới một lớp
ngôn ngữ dân tộc thuần khiết và chuẩn mực, luôn cố gắng hết sức mình để làm
sống dậy một thời quá khứ rực rỡ. Và dường như cảm thấy mình không đủ sức,
Nguyễn Tuân kéo cả những nhân vật của mình theo khuynh hướng ấy. Đó là
trường hợp của viên quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù (trong tập
Vang bóng một thời).
Quản ngục, không là một anh hùng cao đẹp như Huấn Cao, lại càng
không mang dáng vóc, tính cách của một tên đao phủ khát máu (Bữa rượu
máu), Con người đó là một hình ảnh trung gian giữa cái đẹp và cái không đẹp.
Dưới ngòi bút tài hoa của một bậc thầy về ngôn ngữ, hình ảnh trung gian ấy
cũng mập mờ, không có ranh giới rõ nét.
Thoạt tiên, viên quản ngục có vẻ như là một con người cam chịu, yên
phận và cũng chẳng có gì khác những kẻ cùng địa vị đương thời: “Truyện triều
đình quốc gia, chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lợi”. Cái khuôn khổ phong
kiến, cái “phen nước” đã khiến quản ngục quen với việc nhận tù, giao tù, với
“những mánh khóe hành hạ thường lệ”. Những lúc ấy, viên quản ngục cứ lạnh
lùng như một cỗ máy, ngoan ngoãn như một tên nô lệ trung thành với vai trò của
mình.
Nhưng có ai ngờ, bên trong con người đó vẫn tồn tại một mầm sống tươi
xanh của cái đẹp. Cái mầm ấy bị đè bẹp nhưng vẫn khắc khoải sống như chờ
đợi một lúc nào đó được vươn lên. Rồi thời điểm đó cũng đến. Huấn Cao - con
người văn võ song toàn xuất hiện với “cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”.
Quản ngục bắt đầu rơi vào một tâm trạng hết sức khó xử. Một sự đấu tranh âm
thầm trở thành nét tiêu biểu cho tính “hướng nội” mà chúng ta thường bắt gặp
trong tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Cuối cùng thì niềm đam mê cái đẹp cũng đã chiến thắng. Tuy cái chiến
thắng đó chưa phải là tuyệt đối nhưng vẫn đủ biến viên quản ngục thành một
con người khác: “Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lên khỏi mặt đất tới,
nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vì muốn từ biệt vũ trụ”. “Ngôi chính vị” dĩ nhiên là
ám chỉ Huấn Cao. Còn “thanh âm phức tạp” ngầm chỉ ai? Con người ấy chính là
quản ngục. Quản ngục muốn nâng niu cái đẹp nhưng lại sợ. Vì thế nên Nguyễn
Tuân đã để cho nhân vật này hóa thân thành một cái gì đó vô hình, hư ảo. Chi
tiết đó vừa bộc lộ nét mạnh của Vang bóng một thời lãng mạn và khát khao đánh
thức cái đẹp, vừa để lộ thấp thoáng yếu điểm về sự yếu đuối của Nguyễn Tuân
trong cái nhìn hoài vọng xa xôi. Nó khiến Nguyễn Tuân như tránh né, đem ông
trời ra mà trách: “Ông trời nhiều khi chơi ác đem đầy ải những cái thuần khiết
giữa một đồng cặn bã”..
Cũng từ ý niệm ấy, quản ngục nghĩ mình “chọn nhầm nghề mất rồi”.
Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp long lanh, mỏng manh giữa một vùng trời đen tối.
Việc miễn những mánh khóe hành hạ, miệt đãi những người tử tù, rồi bạo
dạn xin chữ, một cách khéo léo từng chút từng chút gắn thêm nét đẹp vào con
người quản ngục bởi vì: “Biết người tài, không phải là kẻ xấu”. Mặc dù vậy, khi
đã biệt đãi, đã toan tính cách xin chữ, quản ngục vẫn còn sợ, vẫn dẫn viện thơ
lại nói với Huấn Cao: “Miễn là ngài giữ kín cho”. Một chi tiết nhỏ nhưng chắc là
không thể thiếu. Một chi tiết vừa lãng mạn vừa hiện thực. Mến cái tài Huấn Cao,
như sợ “phép vua”. Phải tinh tế lắm, Nguyễn Tuân mới phát hiện được điều đó.
Nếu không viết về nỗi sợ ngấm ngầm thì là không thật, mà Nguyễn Tuân lại là
con người luôn vươn tới cái đẹp, cái thật. Nếu viết quá nhiều thì sẽ làm ngắt
quãng mạch chuyển biến đang cuồn cuộn, sôi sục trong nhân vật hình tượng.
Mến cái tài của Huấn Cao, khát khao “có được chữ ông Huấn mà treo là
có một báu vật trên đời”. Đến lúc này, quản ngục dường như không còn là quản
ngục mà là hóa thân của Nguyễn Tuân với nhịp tim và hơi thở dành trọn cho sự
nâng niu cái đẹp: “Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi
tiếp đọc công văn”. Không còn là thương tiếc, xót mà đạt đến đỉnh điểm của
niềm đau xót, thẫn thờ. Việc nhận công văn, quản ngục biết trước nhưng vẫn
thấy đột ngột, hụt hẫng. Thiên lương vừa sống dạy trong một con người đã thúc
giục quản ngục hành động. Một hành động trái ngược với những gì quản ngục
nói: “Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước”.
Tình yêu cái đẹp đến đam mê đã đánh thức khí phách tiềm tàng nằm im
suốt bao nhiêu năm.
Trong hoàn cảnh cho chữ hùng vĩ, có một chi tiết đáng nhớ: “người tù viết
xong một chữ, viên quản ngục vội khúm núm cất chữ trong những đồng tiền kẽm
đánh dấu ô chữ đặt trên phiên lụa ống”. “Khúm núm” không phải chỉ vì nịnh bợ
mà là vì cảm phục. Khi sự cảm phục lên đến đỉnh điểm cũng là lúc kết thúc
truyện; “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Một nghệ thuật tài hoa, kết thúc truyện ở
cao trào. Chính nghệ thuật độc đáo đó đã nêu bật cái đẹp toàn diện, toàn mỹ và
rất đặc sắc của cả người xin chữ và người cho chữ.
Dọc theo suốt chiều dài của truyện, nhân vật quản ngục luôn tồn tại với
một ý nghĩa nhất định. Quản ngục không chỉ là một hình tượng độc đáo mà còn
là nhân vật hội đủ những đặc điểm chung nhất của Vang bóng một thời, của
“quan niệm và phong cách Nguyễn Tuân”: lãng mạn mà vẫn hiện thực, là tiếng
nói của thiên lương, của tinh thần dân tộc, là biểu hiện của sự “yêu mến và
thương tiếc những cái đã qua và cố sức làm sống lại một thời xưa cũ”.
NGUYỄN THỊ NHƯ NGỌC
Lớp 11 Toán, Trường THPT chuyên Tiền Giang
Bài 5
ĐỀ BÀI
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
BÀI LÀM
Nguyễn Tuân, một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam có những
sáng tác xoay quanh những nhân vật lý tưởng, có tài năng xuất chúng như:
Chiếc ấm đất, Hương cuội, Chén trà trong sương sớm… Và một lần nữa, chúng
ta lại bắt gặp hình tượng kỳ vỹ, phi thường trong thiên hạ: đó là nhân vật Huấn
Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
Nhà văn lấy nguyên mẫu từ hình tượng của Cao Bá Quát, là một lãnh tụ
nông dân chống lại triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao, hiện thân của Cao Bá
Quát với văn chương “vô tiền hán”, còn nhân cách “một đời chỉ cúi trước hoa
mai”.
Nhân vật Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp: đẹp từ cái tài
viết chữ của một người nghệ sĩ, cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc
trượng phu đến tấm lòng trong sáng của kẻ biết quí trọng cái tài, cái đẹp.
Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết
chữ có một không hai. Chữ viết ở đây không chỉ là ký hiệu ngôn ngữ không thôi
mà chữ viết còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao “vuông
lắm” cho thấy ông có khí phách hiên ngang. Ý chí kiên cường và khát vọng, hoài
bão tung hoành bốn bể. Cái tài viết chữ của ông Huấn được thể hiện qua đoạn
đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ của Huấn Cao đẹp và quí
mến đến nỗi viên quản ngục hằng ao ước suốt đời. Viên quản ngục phải “mất
ăn, mất ngủ”, không nề hà đến tính mạng của mình chỉ để có được chữ của ông
Huấn, “một báu vật trên đời”. Chữ mà như vật báu trên đời thì chắc hẳn chủ
nhân của nó phải là một người kỳ tài có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa,
khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành.
Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao còn đẹp
hơn nữa. Ông Huấn trong cái cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc
trượng phu. Huấn Cao theo học đạo Nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung
quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại
triều đình để giờ đây bị khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn
Cao có tấm lòng nhân ái, cao cả. Ông thương cho một người dân vô tội “thấp cổ
bé miệng” đang chịu cảnh lầm than, đói khổ lại phải chịu áp bức, bóc lột bởi bọn
thống trị phong kiến thôi nát, tàn bạo. Ông Huấn vô cùng căm ghét bọn thống trị
và ông rất hiểu nỗi thống khổ của nhân dân. Nếu như Huấn Cao chịu phục tùng
cho bọn chúng thì ông sẽ được sống an nhàn, hưởng vinh quang, phú quí.
Nhưng không, ông đã lựa chọn cho mình con đường khác: con đường đấu tranh
chống lại giai cấp thống trị. Đem lại quyền sống, đem lại ấm no, hạnh phúc là lẽ
của cuộc đời ông. Cuộc đấu tranh không thành công, ông bị bọn chúng bắt: giờ
đây phải sống trong ngục tối chờ ngày lãnh án chém. Trước khi bị đưa vào ngục,
viên quản ngục đã từng nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, lại có tài “bẻ khóa,
vượt ngục” chứng tỏ ông Huấn là con người văn võ toàn tài, quả là tài năng hiếm
có trên đời.
Nhà văn miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những
ngày còn lại cuối cùng của cuộc đời. Trong lúc này đây, người anh hùng “sa cơ
lỡ vận” ấy vẫn giữ được nguyên vẹn bản chất của mình. Tuy bị giam cầm về thể
xác nhưng ông Huấn lại hoàn toàn tự do về tinh thần.
Lần đầu tiên, Huấn Cao xuất hiện trước mặt viên quản ngục bằng hành
động “dỗ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh huỵch một cái” và “lãnh
đạm”, “không thèm chấp” trước sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông
Huấn, bọn kia chỉ là một lũ “tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ
của bọn chúng, ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, hứng lấy phần
nặng nhất của gông. Trong mắt những tội nhân còn lại, ông vẫn mãi mãi mang
hình dáng của một vị chủ soái, một vĩ lãnh đạo. Người anh hùng ấy cho dù thất
thế mà vẫn giữ được uy quyền, thế lực của mình. Thật đáng khâm phục.
Mặc dù ở trong tù, ông Huấn vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một
việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Ông Huấn Cao vẫn giữ được tư tưởng tự
do, phóng khoáng như ngày nào. Khi viên coi ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông
trả lời:
“Người hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân
vào đây nữa thôi”.
Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi Huấn
Cao vốn hiên ngang, kiên cường, “đến cái chết chém cũng chẳng còn sợ nữa
là…”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Đối
với ông, uy thế của kẻ cầm quyền chẳng có nghĩa lý gì. Huấn Cao rất ý thức
được vị trí, tầm vóc của mình, biết đặt mình lên cao so với những kẻ hèn hạ,
“cặn bã” trong xã hội:
“Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Nhân cách của ông Huấn quả là trong sáng như pha lê không hề có một
chút vết trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con
người mới là đáng quí trọng.
Thế nhưng, khi biết được tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao không
những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt lên:
“Ta cảm tấm lòng biệt nhân liên tài của các ngươi. Ta đâu biết một người
như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quí đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã
phụ một tấm lòng thiên hạ”.
Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm vì “tính ông vốn khoảnh”. “Ta
không vì vàng bạc hay quyền uy mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao không chỉ hết sức
quí trọng cái tài, cái đẹp mà còn biết nâng những con người tầm thường lên
ngang hàng với mình.
Quang cảnh cho chữ diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa
từng có”. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô từng nét chữ
trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung, tự tại. Ông Huấn đang dồn
hết tài năng, tinh hoa của mình vào từng nét chữ. Đó là nét chữ cuối cùng của
Nho sĩ tài hoa. Những nét chữ kia chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm
đầy nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới
cho chữ ba lần đầu trên đời sao đã vội vã bỏ đi mãi mãi để lại biết bao nuối tiếc
cho người đời. Qua hiện thực xót xa đó. Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã
hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người. Và người tử tù kia bỗng trở
nên có quyền uy nhất. Ông Huấn đã khuyên bảo viên quản ngục như lời cha
khuyên bảo con:
“Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi
chữ. Ở đây, khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem
nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
Theo Huấn Cao cái đẹp không thể nào ở chung được với cái xấu. Con
người chỉ thưởng thức cái đẹp khi bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng
mà thôi.
Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng cũng đã nói
rồi: Huấn Cao, người anh hùng tài hoa xuất chúng kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng
đã để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã từng thấy, từng nghe và đã từng
được biết ông cùng với tài năng phi thường của một con người có một không hai
trên đời.
Sống trên đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải, đã xóa tan
bóng tối hắc ám bao trùm lên số phận người dân vô tội. Chính vì vậy, hình tượng
của Huấn Cao càng trở nên lộng lẫy, trở nên bất tử, Huấn Cao sẽ không chết mà
bước sang một cõi khác để tiếp tục thực hiện lý tưởng, hoài bão cao cả của
mình.
Nhìn chung, những nét đẹp trong nhân cách của Huấn Cao rất thống nhất
với nhau. Trong cái “tài” có ánh lên vẻ đẹp của cái “tâm”, tâm ở đây là một kẻ có
tài. Có tài, có tâm đã là đẹp rồi mà cái tài, cái tâm phải đi song đôi với nhau thì
cái đẹp mới có ý nghĩa thực sự. Huấn Cao quả là một nhân vật đã thể hiện đầy
đủ quan niệm của nghệ thuật về một mẫu người cao quí trong xã hội, một đối
tượng thẩm mĩ trong văn học nghệ thuật.
Phải nói là Nguyễn Tuân và Vũ Đình Liên có chung một tấm lòng đồng
cảm sâu xa về quá khứ, thời đại vàng son của nền nho giáo. Ông đồ và Huấn
Cao đều khiến cho người đọc hôm nay và thế hệ mai sau cảm thấy xót xa, day
dứt, trăn trở, tiếc nuối không nguôi…
NGUYỄN TỐ OANH, Lớp 11D2
Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong Thành phố Hồ Chí Minh
Bài 6
ĐỀ BÀI
Tố Hữu đã viết về thơ Nguyễn Du: “Tiếng thơ ai động đất trời…”. Bằng
một số tác phẩm đã học của Nguyễn Du, hãy làm rõ tiếng thơ ấy.
BÀI LÀM
Dưới chế độ xã hội phong kiến cũ, khi mà văn học còn chịu ảnh hưởng
nhiều của tư tưởng tôn giáo, giai cấp thì Nguyễn Du chính là người phá bỏ rào
chắn ấy. Cũng xuất phát từ giai cấp phong kiến, nhưng ông có tư tưởng thấm
nhuần chủ nghĩa nhân đạo. Cảm nhận sâu sắc cuộc sống cùng khổ của những
người chung quanh mình, ông đã đưa tất cả vào thơ của mình, vẽ lại hiện thực
đen tối với đầy rẫy những bất công bằng chính dòng máu trái tim. Đồng cảm với
bậc tiền bối về thi ca, trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du, Tố Hữu đã viết:
Tiếng thơ ai động đất trời…
Có thể nói hầu hết tác phẩm của Nguyễn Du, tiêu biểu là Truyện Kiều, đã
thể hiện được phần lớn những nét đặc trưng nhất của thơ Nguyễn Du, bút pháp
xây dựng nhân vật của ông rất cụ thể, linh hoạt. Nhân vật hiện ra bộc lộ rõ tính
cách của mình. Mỗi nhân vật, qua sự miêu tả của Nguyễn Du, trở thành biểu
tượng với những nét đặc thù nhất của hình tượng. Từ Hải hiện ra với khí phách,
diện mạo, tính cách tiêu chuẩn của người anh hùng: Thúy Kiều là nhân vật trung
tâm với sắc đẹp tươi thắm và tính cách tuyệt vời: Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Tú
Bà… những nhân vật phản diện với tất cả sự xấu xa độc ác… Mỗi nhân vật một
vẻ, được khắc họa rõ nét trong thơ Nguyễn Du. Không chỉ thế, thơ Nguyễn Du
còn có nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc.
Thế nhưng những đặc điểm ấy chỉ là những nét điểm xuyết cho thơ thêm đẹp,
còn cái đã làm cho tiếng thơ Nguyễn Du trở nên động đất trời chính là giá trị
nhân đạo sâu sắc trong từng câu, từng bài thơ như ở đoạn đầu Truyện Kiều ông
đã viết:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Sự đồng cảm với con người thể hiện ngay từ đầu bài. Không vì chỗ đứng
giai cấp của mình, Nguyễn Du đã đồng cảm sâu sắc, cảm nhận được tất cả số
phận bi kịch của những con người chung quanh, nhất là những người phụ nữ tài
hoa bạc mệnh:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Nguyễn Du nhìn thấy được số kiếp tài hoa bạc mệnh không chỉ ở một
Thúy Kiều:
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa
mà còn ở rất nhiều người phụ nữ khác, như Đạm Tiên chẳng hạn:
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
hay một Tiểu Thanh:
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
(Độc Tiểu Thanh ký)
Không chỉ có thế, Nguyễn Du còn thấy trái tim thương cảm của mình đau
đớn trước những người phụ nữ phải mang thân sống kiếp “buôn nguyệt, bán
hoa”. Nguyễn Du không nhìn nhận họ như mọi người nhìn. Trong đôi mắt thơ rất
nhân hậu của ông, họ là những người đáng thương hơn là đáng giận:
Sống đã chịu một đời phiền não
Chết lại nhờ hớp cháo lá đa.
(Văn chiêu hồn)
Sự đồng cảm sâu sắc đối với số phận con người trong thơ Nguyễn Du đã
thể hiện rất rõ ràng không chỉ với Thúy Kiều, Đạm Tiên trong Truyện Kiều mà
còn với Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh ký hay với những người phụ nữ lầu
xanh trong Văn chiêu hồn… Ngoài đại diện của những số phận bi thảm, thơ
Nguyễn Du còn có biết bao kiếp người đau khổ nữa, như những con người trong
Văn chiêu hồn: những người có chí lớn nhưng thất bại, những đứa trẻ vô tội “lỗi
giờ sinh lìa mẹ lìa cha”, những người hành khất lang thang:
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quán.
Thơ Nguyễn Du còn nêu lên được những điều nghịch lý trong xã hội
phong kiến, như cảnh ba mẹ con nghèo khổ lang thang, sắp chết đói, trong khi
bọn quí tộc phong kiến ăn uống xa xỉ, chó còn được no (Sở kiến hành). Không
chỉ đồng cảm với họ, mà chính từ sự đồng cảm sâu sắc ấy, Nguyễn Du đã có tkể
vượt lên trên chỗ đứng giai cấp của mình để đứng về phía nhân dân, mơ ước
cuộc sống tự do công bằng, tự do công lý. Ông đã xây đắp tình yêu tự do - một
quan niệm hết sức mới mẻ qua hình tượng người anh hùng:
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.
Hơn thế nữa, thơ Nguyễn Du đã đứng về phía nhân dân để tố cáo chế độ
phong kiến thối nát. Truyện Kiều chính là bản cáo trạng đanh thép bằng thơ,
vạch trần bộ mặt xấu xa của bọn quan lại, phong kiến, bọn buôn người, phê
phán bạo lực đồng tiền. Những nhân vật đại diện cho thế lực phong kiến hiện ra
xấu xa đê tiện:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…
(Mã Giám Sinh)
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Bề trong nham hiểm giết người không dao
(Hoạn Thư)
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình
(Hồ Tôn Hiến)
Những người thuộc giai cấp phong kiến khác trong Văn chiêu hồn. Độc
Tiểu Thanh ký hay Sở kiến hành cũng là những kẻ độc ác, xấu xa. Chế độ
phong kiến hủ lậu đã xô đẩy con người vào chỗ bế tắc của cuộc đời. Mỗi bài thơ
của Nguyễn Du là một bản cáo trạng lên án chế độ phong kiến đầy rẫy áp bức
bất công. Tuy rằng Nguyễn Du cũng chưa thể vượt hẳn ra khỏi giai cấp của
mình, yêu nhân dân đó, nhưng ông chưa dám tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân.
Thơ ông cũng phần nào chịu ảnh hưởng của thuyết luân hồi, định mệnh. Ông
phải hy sinh nhân vật mơ ước của mình, nhân vật mà ông yêu mến. Nhưng
Tiếng thơ Nguyễn Du vẫn là một sự đổi mới sâu sắc đối với xã hội.
Thơ Nguyễn Du đã thể hiện được sự đồng cảm sâu sắc với số kiếp đau
thương của con người. Đồng cảm với mơ ước nguyện vọng của con người: và
cao nhất là thơ Nguyễn Du đã tố cáo bộ mặt xấu xa thối nát của chế độ xã hội
phong kiến. Vì thế lời thơ ông đã làm xúc động lòng người và xúc động cả trời.
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Viết về Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc Việt Nam - luôn là một thách
thức đối với người học văn. Nguyên Tú đã thể hiện được kiến thức, đã minh
chứng rằng mình hiểu nhiều về tác phẩm, hiểu nhiều về tấm lòng của nhà thơ
nhưng đây là bài làm văn "hay nhất lớp" nên tôi muốn bàn thêm về những điều
còn khiếm khuyết.
Cảm giác đầu tiên của tôi là Tú có dùng những từ rất lạ nhưng đọc lại thì
chưa ổn như: “Sự đồng cảm với con người thể hiện ngay từ đầu bài”. Một tác
phẩm lớn như Truyện Kiều có thể dùng chữ “đầu bài” được chăng?
Huỳnh Thị Ánh Hồng
(Tam Kỳ, Quảng Nam)
Có một số điểm nếu Tú lưu ý thì bài văn sẽ hay hơn. Chẳng hạn, phần mở
bài. Lối vào đề của Tú chưa được mới lạ và thu hút. Tôi đã từng phải đọc khá
nhiều bài văn đều bắt đầu với “Dưới chế độ xã hội phong kiến cũ…”. Ở phần
thân bài, Tú viết cái đã làm cho tiếng thơ Nguyễn Du…”, hình như từ “cái” dùng
ở đây không được ổn và đã làm mất đi vẻ thẩm mỹ của câu văn. Chẳng lẽ chúng
ta lại có thể gọi “giá trị nhân đạo” là… cái được sao?
Huỳnh Thụy Thiên Thanh
(Bình Thuận)
Người viết chưa phát hiện ra chỗ tinh tế trong lời nhận định của Tố Hữu.
Ông viết là tiếng thơ chớ không phải là lời thơ hay câu thơ. Mà tiếng thơ ở đây
nên hiểu là những tiếng lòng cảm thông sâu sắc cho những số phận bất hạnh…
nó thể hiện tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du.
Nguyên Tú có đi vào vấn đề chủ nghĩa nhân đạo, nhưng khi phân tích để
làm sáng tỏ thì còn chung chung. Cần phải hiểu rằng từ xúc cảm: "Nửa đêm qua
huyện Nghi Xuân / Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều". Tố Hữu đã đi
đến khái quát và nhận định về tiếng thơ của Nguyễn Du. Vì thế khi làm sáng tỏ
nhận định này, người viết phải đi sâu phân tích bi kịch cuộc đời của Thúy Kiều là
chính. Bên cạnh đó, cũng phải phân tích một số tác phẩm khác (để đáp ứng
được yêu cầu của đề bài), ở mặt này Nguyên Tú chưa đạt được.
Trương Thanh Tòng
(Lớp Văn 96 CĐSP Trà Vinh)
Bài 7
ĐỀ BÀI
Trong tác phẩm Đời thừa Nam Cao có viết: “Một tác phẩm thật giá trị phải
vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả
loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa
phấn khởi, nó ca ngợi lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho gần
người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay”.
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
BÀI LÀM
Lớp thời gian cứ kéo nhau mải miết trôi. Bốn mùa cứ thay nhau luân
chuyển. Nhịp đời cứ thế vội vã trôi đi cuốn theo tất cả những sinh vật hiện hữu
trong cuộc sống. Cứ tưởng rằng điều đó đã trở thành quy luật không thể nào
tránh khỏi. Thế nhưng giữa cơn lũ thời gian ấy, vẫn có những tác phẩm nghệ
thuật vĩnh viễn tồn tại bởi nó tiềm ẩn trong mình một sức sống mãnh liệt, có khả
năng phá tan mọi giới hạn, của không gian và thời gian. Song chỉ có những tác
phẩm thật giá trị mới có được sức sống đó là những tác phẩm như Nam Cao đã
nhận định: “Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và
giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái
gì lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi, nó ca ngợi lòng thương,
tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho gần người hơn. Như thế mới thật là một
tác phẩm hay”. (Đời thừa).
Ngày còn bé, bà tôi thường kể cho tôi nghe rất nhiều câu chuyện cổ. Cùng
tôi lớn lên là cô Tấm dịu dàng và rất mực nhân từ, là chàng Thạch Sanh dũng
cảm, là Bạch Tuyết và bảy chú lùn, là cô bé bán diêm nơi góc đường trong đêm
mùa đông lạnh lẽo, lạnh ngoài trời và lạnh cả tình thương!… Tâm hồn tôi tràn
ngập thế giới thần tiên theo cánh võng ru hời của bà và của mẹ. Tôi yêu cô bé
bán diêm bởi em cũng nhỏ như tôi, cùng là trẻ thơ như tôi nhưng em và tôi lại
khác nhau quá đỗi. Tôi yên ấm trong vòng tay ba mẹ, còn em vất vưởng nơi lề
đường, thèm thuồng nhìn ngọn nến Giáng sinh mà mơ một gia đình đầm ấm.
Ông An-đéc-xen sao mà hay đến thế! Ông đã đem cả mùa đông xứ Đan Mạch
xa xôi vào tâm hồn tôi, đánh thức những tình cảm bé bỏng trong tôi và nuôi tôi
lớn lên. Những câu chuyện nhỏ của ông đã không còn của thiếu nhi Đan Mạch.
Nó đã “đã vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn” để trở thành tài sản của tôi,
của thiếu nhi trên toàn thế giới. Mác và Ăng-ghen đã từng đánh giá rất cao bộ
tiểu thuyết Tấn trò đời của Ban-zắc. Xung quanh bức tranh này Ban-zắc tập
trung toàn bộ lịch sử nước Pháp, trong đó ngay cả về phương diện các chi tiết
kinh tế, tôi cũng đã được biết nhiều hơn các sách của tất cả các chuyên gia, các
nhà sử học, kinh tế học, thống kê học thời ấy cộng lại. Vì vậy Tấn trò đời trở
thành nguồn tư liệu phong phú cho những ai muốn tìm hiểu về xã hội Pháp thế
kỷ XIX. Và nó cũng vì thế mà bứt lên trở thành tác phẩm mang tầm vóc nhân
loại. Có lần ba tôi đọc cho tôi nghe bài thơ Nghe tiếng tắc kè trong lòng thành
phố của Nguyễn Duy:
… Anh bạn tôi không về đến nơi này
Anh gục ngã bên kia cầu xa lộ
Anh nằm lại trước cổng vào thành phố
Giây phút cuối cùng của cuộc chiến tranh…
Có cái gì như là cảm giác nghẹn ngào và đau đớn lắm. Sự oan nghiệt của
cuộc chiến như bóp nghẹt trái tim tôi:
… Đồng đội bao người không về tới như anh
Nằm lại Cầu Bông, Đồng Dù và xa nữa…
Tất cả họ suốt một thời máu lửa
Đều ước mơ giản dị: sắp về!…
Tôi yêu bài thơ này vì những cảm tình rất chân thành của nó. Bài thơ
mang trong mình dòng cảm xúc nghẹn ngào nhưng lại phơi phới niềm tin yêu.
Nó giúp tôi hiểu và trân trọng thành quả của những người lính Trường Sơn năm
xưa. Đó là nền độc lập tự do hôm nay cho cả dân tộc tôi. Tôi tự hào về đất nước
và quê hương tôi bởi trên mảnh đất này có những con người đã xem hạnh phúc
của mình là cuộc sống yên bình của nhân dân:
… Hạnh phúc là gì?
Bao lần ta lúng túng
Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra
Cho đến ngày cất bước đi xa
Miền Nam gọi chúng mình có mặt…
(Bài thơ về hạnh phúc - Dương Hương Ly)
Vậy đó, từ trong tác phẩm, những dòng chữ lung linh bước ra lay động
tâm hồn người đọc. Có ai lại không đau xót đến nghẹn lời khi đôi mắt trong veo
chạm vào hình ảnh “giặc bắn em rồi quăng mất xác” (Quê hương - Giang Nam)
hay bắt gặp bóng dáng một bà mẹ già:
… Nửa lời không hé
Mẹ lặng thinh trước trận đòn thù
Trên mình mẹ mang nhiều thương tật
Tóc mẹ bạc rồi lại bạc thêm…
(Đất quê ta mênh mông - Dương Hương Ly)
“Mẹ lặng thinh” kiên quyết giữ trọn an toàn cho những đứa con thân yêu
đang nằm sâu trong hầm bí mật. Từng nhát roi “bầy giặc Mỹ xúm vào đánh mẹ”
như chà xát trái tim tôi. “Mẹ lặng thinh” bởi mẹ là mẹ của chúng tôi: bà mẹ Việt
Nam anh hùng. Bạn có cảm nhận được những tình cảm đó không? Đau thương,
mất mát nhưng tràn đầy niềm kiêu hãnh. Đã bao đời nay dù cuộc sống có đổi
thay, tình thương vẫn là tình cảm thiêng liêng nhất nơi sâu thẳm trái tim con
người. Nó kéo con người xích lại gần nhau, hiểu nhau và yêu thương nhau chân
thật. Chẳng phải thế sao khi cầm trên tay bát cháo hành của thị Nở, “con quỉ”
Chí Phèo bỗng thấy mình lại được trở thành người. Một lần được làm người với
những ước mơ bình dị nhất. Một lần được biết trên đời còn có tình thương! Nếu
như không xuất phát từ tình thương và sự đồng cảm chân thành thì có lẽ
Nguyễn Du sẽ không bao giờ kể lại được một cách tài tình quãng đời mười lăm
năm lưu lạc của Kiều. Biết bao nhiêu là oan trái, tủi nhục đã đổ ập xuống thân
phận Kiều, dìm nàng xuống tận đáy của xã hội. Thế nhưng trong cuộc sống vẫn
còn rất nhiều những Từ Hải, những vãi Giác Duyên… thấp thoáng trong từng tác
phẩm, từng hình tượng nhân vật, ta thấy được những ước mơ giản dị về một
cuộc sống trong lành và nhân ái hơn. Cô Tấm rồi cũng trở thành hoàng hậu;
Thạch Sanh rồi cũng cưới được công chúa và trở thành vua; Lục Vân Tiên rồi
cũng tròn duyên cùng Nguyệt Nga chung thủy… Những lẽ sống công bình như
thế vẫn luôn tồn tại. Nó giúp người ta tin hơn vào cuộc sống. Tôi rất thích những
truyện ngắn của Thạch Lam. Trong thế giới nhân vật rất thật và rất “đời” của ông,
ta nhận ra rằng con người ta rất dễ dàng vượt qua ranh giới tưởng chừng như
sợi tóc của cái thiện và cái ác. Ta bắt gặp trong chuyện Thạch Lam những cảm
giác “rung động như cánh bướm non” trước những tình cảm giữa con người với
con người và ta học được ở Thạch Lam những giá trị sống đích thực. Đó chẳng
phải là những, “tác phẩm thật giá trị” hay sao? Có lần tôi đọc được những dòng
này: “Tôi thích chia sẻ với nỗi lung linh đang ngắn dần của một ngọn nến. Tôi
không chịu được niềm kiêu hãnh vì sự vẹn nguyên của một cây đèn cầy không
có ánh lửa” (Nguyễn Thái Dương). Những dòng ấy riêng đối với tôi, bỗng trở
thành mục đích, để tôi hướng đến mà sống đẹp. Sống ở trên đời phải biết “chia
lửa” cho nhau, phải biết tự thắp sáng mình và làm không gian chung quanh tươi
sáng, ấm áp hơn bằng nhiệt thành tuổi trẻ. Nói như thế để thấy rằng dù là một
thiên truyện dài như Truyện Kiều hay một truyện ngắn như Chí Phèo hay chỉ đơn
thuần chỉ là một vài dòng ngăn ngắn như của Nguyễn Thái Dương, văn học
muôn đời vẫn mang một giá trị nhân văn sâu sắc và một tác phẩm có giá trị tự
bản thân nó cũng “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn lại
vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho
người gần người hơn”.
Nhưng nói như Nam Cao thì có lẽ đã để sót hết một phần. Một tác phẩm
có giá trị đích thực phải bao gồm cả những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Bởi “nội
dung của một tác phẩm văn học như một cái thuyền, chở ít nhiều mặc sắc,
nhưng không có những bơi chèo nghệ thuật thì nó đứng im bất động. Nghệ thuật
không là đầy tớ của nội dung, nó là bạn đường, một bạn đường giúp sức không
thể thiếu được” (Nguyễn An Định). Cuối cùng tôi muốn nhắc đến các tác giả,
những người đã tạo ra những tác phẩm “thật giá trị”. Họ phải có một vốn kiến
thức và vốn trải nghiệm thật phong phú cũng như phải mang trong mình một con
tim biết hòa nhịp với cuộc sống, với mọi người. Chúng ta trân trọng tác phẩm
của họ nhưng mấy ai nhớ đến tên họ. Những An-đéc-xen, Ban-zắc, Nguyễn Du,
Thạch Lam, Nam Cao… đã mang đến cho chúng ta những tình cảm đẹp. Phải
chăng họ chính là thiên sứ của nhân văn?
Đọng lại trong tôi sau mỗi tác phẩm là một tình cảm mới. Có khi nó mãnh
liệt dâng trào nhưng cũng có lúc nhẹ nhàng tình tứ, có lúc thỏa mãn, hài lòng
nhưng cũng có lúc sục sôi căm giận. Văn học sống trong tôi, đánh thức những
tình cảm của tôi và rèn giũa nó và tôi biết rằng những “tác phẩm thật giá trị” đã
giúp tôi sống tốt hơn hôm qua bởi hôm nay tôi đã biết sống vì những người xung
quanh tôi.
NGUYỄN THỊ LONG HÒA
Lớp 11 Văn Trường Phổ thông Năng khiếu
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Lời bài viết của Long Hòa, tôi tưởng rằng như chính mình đang đi cùng cô
bé qua những miền ấu thơ, miền cổ tích và cả những tác phẩm bất hủ của văn
chương mà tôi đã từng đọc và học qua.
Ngày ấy, tôi là một cô bé yêu văn học và có một say mê duy nhất là đọc
sách. Chính ba tôi đã gieo mầm trong tôi tình yêu ấy. Cứ mỗi chiều tan sở ba lại
ghé vào quán sách nho nhỏ mượn cho tôi những quyển truyện cổ tích.
Rồi tôi lớn dần theo từng trang sách nhỏ và cả những tuyệt tác văn học
của những nhà văn trong cũng như ngoài nước. Mỗi bài văn viết của tôi ở lớp
đều bay bổng với những ý tưởng mà tôi đã cảm nhận được từ những tác phẩm
tuyệt vời ấy. Những bài viết của tôi thường được cô giáo đọc cho cả lớp nghe để
làm mẫu. Tôi sung sướng, vô cùng. Làm văn mà đạt được điểm tám, chín quả
thật không phải là chuyện dễ dàng. Những lời khen, những ánh mắt khâm phục
của bạn bè lung linh trong những giấc mơ của tôi. Tôi nghĩ giá mà ngày ấy Mực
Tím phát động cuộc thi này thì chắc tôi sẽ chọn một bài thật hay để tham gia vào
cuộc chơi văn chương thú vị và bổ ích này.
Với bài viết của Long Hòa tôi cảm nhận sâu sắc được một hồn vừa lãng
mạn vừa mạnh mẽ. Mạnh mẽ trong mỗi câu văn khi nêu ra ý kiến của riêng
mình. Với tôi, ngày ấy như Long Hòa, có lẽ tôi cũng chẳng làm hay hơn được
như vậy. Giờ đây tôi đã là cô sinh viên vừa mới ra trường, đang tự tìm cho mình
một con đường đi, đi trên chính đôi chân của mình. Tôi biết, hiện tại còn có nhiều
khó khăn. Nhưng dù khó khăn mấy tôi tin tôi sẽ vượt qua vì trong tôi luôn có
niềm tin và cuộc sống. Cũng như một tác phẩm có giá trị phải vượt lên trên tất
cả… như Nam Cao đã từng viết và cả cô bé Long Hòa đã nói hộ giùm tôi.
Nguyễn Anh Quyên
Tôi thật sự rất thích thú khi đọc bài văn bình luận ý kiến của Nam Cao
trong tác phẩm Đời thừa của bạn Long Hòa. Bạn đã đưa ra những dẫn chứng và
lời lẽ khá thuyết phục. Tôi đã bị bạn chinh phục bằng những lập luận và bằng cả
tình cảm của bạn gửi gắm trong bài văn. Quả đúng như vậy, lớp bụi thời gian
khó có thể làm mờ được “cái lớn lao mạnh mẽ” mà tác giả văn học đem đến cho
cuộc sống này. Bằng những câu chuyện cổ An-đec-xen đã mang mùa đông của
xứ Đan Mạch xa xôi vào tâm hồn bạn và bạn đã cho tôi thấy được những câu
chuyện cổ tích ấy đã vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn của đất nước Đan
Mạch xinh tươi để đến với tất cả chúng ta. Ở phần sau bạn đã sử dụng những
nhân chứng khá thuyết phục để chứng minh những tình cảm chứa đựng trong
tác phẩm văn học. Và văn học - “Nó làm cho người gần người hơn” như chính
lúc này đây khi đọc bài văn của bạn tôi nhận được một sự đồng cảm. Phải chăng
chính những tác phẩm có giá trị ấy đã mang chúng ta đến gần nhau hơn!
Nguyễn Thị Tuyết Hà
Bài 8
ĐỀ BÀI
Chọn và phân tích một đoạn văn để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam
Cao.
BÀI LÀM
Cùng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ… trong giai
đoạn văn học trung đại, Hồ Chí Minh, Tố Hữu… trong giai đoạn văn học hiện đại,
Nam Cao là gương mặt quen thuộc, điển hình trên văn đàn Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945. Phong cách của Nam Cao không thể lẫn vào đâu được: bình dị,
chân thực nhưng thấm đượm tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Một trong những
mảng đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Nam Cao là sự tha hóa của người
nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Trong số các truyện ngắn đó, phải
kể đến Chí Phèo - tấn bi kịch chung cho những người nông dân nghèo bị tha
hóa. Đặc biệt trong phần cuối của câu chuyện, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người của Chí Phèo càng đau đớn xót xá hơn.
Mở đầu trang viết, hình ảnh một Chí Phèo bất hạnh, đơn độc đập vào mắt
người đọc “trần truồng” và “xám ngắt” “trong một cái váy” để bên cạnh lò gạch
cũ. Chí không hề biết bi kịch cuộc đời mình bắt đầu từ đâu, không cha, không
mẹ, không chốn nương thân rồi sau đó trải qua bao năm cay đắng vất vả. Chí
trở thành một chàng thanh niên theo đúng nghĩa. Nhưng ngờ đâu, chính vì là
thanh niên nên Chí phải đi tù bởi cái xã hội quái gở. Sau 7, 8 năm biệt tích, Chí
trở về làng Vũ Đại với một con người hoàn toàn khác: một con quỉ dữ của làng
Vũ Đại. Vậy là cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó là cha mẹ đẻ ra Chí Phèo,
đẻ ra nhân cách tha hóa Chí Phèo. Và sau cái đêm yêu thị Nở, Chí Phèo đã cay
đắng nhận ra bi kịch cuộc đời mình. Cuộc gặp gỡ với thị Nở đã lóe sáng như
một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối đằng đẵng của Chí Phèo. Bằng sự chăm
sóc ân cần chu đáo và tình yêu thương mộc mạc giản dị, đã khơi dậy bản chất
lương thiện đã bị đánh mất trong con người của Chí. Lần đầu tiên sau nhiều
năm, Chí nhận ra những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hàng ngày: tiếng
chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo
đuổi cá… Những âm thanh quá đỗi quen thuộc và gần gũi với con người lại hết
sức lạ với Chí. Nhưng dù thế nào đi nữa Chí Phèo cũng là người lao động cùng
khổ với bản tính chân chất, thật thà nên với những động tác giản đơn của cuộc
sống thường nhật như vậy, linh hồn quỷ dữ trong con người Chí biến mất mà
thay vào đó là vẻ mặt và nụ cười thật hiền. Hắn nhớ lại những ngày xa xưa,
những ngày mà hắn đã từng mơ ước có được “một gia đình nho nhỏ, chồng
cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Càng hồi tưởng càng buồn, buồn đến não ruột.
Nếu thị Nở không mang bát cháo sang thì có lẽ “nó khóc mất”. Có lẽ đây là lần
đầu tiên Chí được nếm mùi cháo hành thơm ngon và cũng là lần đầu tiên Chí
được chăm sóc bởi bàn tay người đàn bà. Bát cháo nóng mới ngon làm sao.
Trước đây, muốn được ăn thì phải dọa, phải cướp, phải rạch mặt ăn vạ… Càng
nghĩ Chí càng thấy cay đắng. Nhưng giờ đây, vị thơm của hành và tình người
tha thiết, nhân hậu đã hoàn toàn dành cho Chí. Chí cảm động biết bao. Đây là
hương vị của cháo hành hay là vị ngọt của một tình yêu chân thành mà Chí hằng
mơ ước? Hạnh phúc thật giản dị mà thấm thìa nhường nào. Lần đầu tiên “mắt
Chí ươn ướt” và cười thật hiền. Chính lúc này đây, Chí Phèo đã tỉnh, tỉnh sau
bao cơn say và đã thực sự là một con người. Anh “thèm lương thiện và muốn
làm hòa với mọi người biết bao”. Dường như Chí đã thực sự hoảng sợ cho quá
khứ của mình khi mà Chí biết đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không
nhìn nhận là một con người. Quay về với thực tại, với một vẻ mặt rất phong tình,
hắn bảo thị Nở “hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Thật tội nghiệp!
Qua câu nói đó đủ thấy cái khát khao muốn được làm người bình thường của
Chí. Có nghe hắn chửi, có nhìn hắn rạch mặt ăn vạ, có mục kích được cái cảnh
hắn vác dao đâm thuê cho người khác… thì chúng ta mới xúc động thực sự
trước cái khát khao hết sức bình dị ấy. Lòng yêu thương, cái tình người cảm
động đã thức dậy trong con người của Chí. Phần sâu kín nhất của tâm hồn và
cái bản chất đẹp đẽ nhất của người nông dân đã bị vùi dập bấy lâu nay lại bừng
sáng. Tình yêu đã thức tỉnh được con người mà trước nay xã hội chối bỏ. Tình
yêu đã nhẹ nhàng hé mở cho anh con đường trở lại làm người. Anh lo sợ, hồi
hộp… Đây chính là cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của
Nam Cao đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào
con đường lưu manh tội lỗi. Nhưng khốn nạn thay cho những kẻ khó, hạnh phúc
chưa được bao lâu thì Chí bị thị Nở phụ bạc. Tuy nhiên người đàn bà tội nghiệp
kia đâu có tội gì mà chỉ vì hoàn cảnh của thị. Thị nghĩ bụng “hãy đừng yêu để hỏi
cô thị đã”. Vậy là, cánh cửa duy nhất đi vào thế giới lương thiện chỉ vừa hé mở
đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở mặc sức đay nghiến, chửi bới đôi trai gái khốn
khổ. Bà thấy nhục nhã và “gào lên như một con ma dại”. Bà cô thị Nở đã đang
tâm dập tắt ngọn lửa tình yêu vừa chớm sáng giữa Chí Phèo - Thị Nở một cách
cay nghiệt. Mà xét cho cùng thì cũng đúng thôi, đã từ lâu rồi, cả cái làng Vũ Đại
này có ai xem Chí là người đâu. Chí chỉ là một thằng chuyên “rạch mặt ăn vạ” thì
làm sao bà cô thị Nở cho phép cháu mình lấy Chí. Chí thật sự rơi vào một bi kịch
tinh thần, đau đớn, quằn quại. Chí đang chuẩn bị tinh thần bước vào căn nhà
lương thiện thì chính xã hội vạn ác đã vô tình hay cố ý đẩy Chí ra xa. Chí càng
với thì nó càng xa thêm, cứ như vậy cho đến khi nó vụt hẳn ra khỏi tầm tay của
Chí. Chí cảm thấy hết sức hụt hẫng rồi quyết định vác dao đến nhà bà cô thị Nở
để “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, nhưng càng uống càng
tỉnh, tỉnh để thấm thía hết nỗi cay đắng của cuộc đời mình và quan trọng hơn,
tỉnh để nhận ra kẻ đã làm tha hóa nhân cách, hủy hoại cuộc đời mình. Vậy thì
lần thứ ba Chí đến gặp bá Kiến không phải đến để xin tiền như mọi khi mà đến
để đòi lương thiện, đòi quyền làm một con người đúng nghĩa. Đau đớn, Chí hét
lên: Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai
bên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!..”. Đây chính
là những lời vạch mặt Bá Kiến hết sức đanh thép, là bản cáo trạng đầy đủ nhất
về tội lỗi của tên cường hào xảo quyệt bá Kiến. Tội ác của hắn không gì thâm
độc hơn là hủy hoại nhân cách của một con người, khiến Chí là một con người
nhưng sống kiếp sống của thú vật. “Nó phải chết” là bản án dành cho nó, vậy là
Chí vung dao giết bá Kiến. Lúc này đây, ý thức về nhân phẩm đã trỗi dậy trong
anh - dẫu quá muộn màng và Chí biết rằng, tội lỗi đã hằn sâu trên khuôn mặt,
anh không thể sống lưu manh, sống như thú vật được nữa, nên một lần nữa,
lưỡi dao oan nghiệt đã kết thúc một kiếp người. Chí đã chết bi thảm trong đau
đớn cả tinh thần lẫn thể xác, chết trong tiếng kêu uất hận đầy đau thương,
nhưng cho dù đã chết đi. Chí vẫn luôn thắp sáng ngọn lửa khao khát được làm
người lương thiện của một người nông dân bị tha hóa.
Những câu hỏi cuối cùng của Chí là tiếng kêu đau thương tuyệt vọng của
cả một kiếp người đau khổ. Những câu hỏi sẽ mãi mãi làm day dứt lòng người
đọc. Qua đó đủ thấy được toàn cảnh bức tranh hiện thực trong xã hội cũ - những
con người lương thiện bị cái xã hội tàn bạo, vô nhân đạo vùi dập nhân tính. Chí
Phèo không phải là hiện tượng ở một con người mà là hiện tượng lưu manh hóa
của thanh niên ở nông thôn Việt Nam trong xã hội nửa thực dân nửa phong kiến.
Câu chuyện chứa chan tình cảm nhân đạo, mang tính nhân văn sâu sắc qua
nghệ thuật viết truyện hết sức độc đáo, xứng đáng là một tác phẩm có thể làm
mờ hết các tác phẩm truyện ngắn khác cùng thời, đưa Nam Cao trở thành bậc
thầy viết truyện ngắn trong các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 -
1945.
TRỊNH THÁI ĐÔNG KHUÊ
Lớp 11B Trường THPT Herman Gmeiner Đà Nẵng
Bài 9
ĐỀ BÀI
“Một nhà văn có tài luôn để lại dấu ấn riêng trên từng trang viết”. Hãy phân
tích một trong ba tác giả: Thạch Lam, Huy Cận, Nguyễn Tuân để nhận định bình
luận trên.
BÀI LÀM
Văn chương, nghệ thuật là “sự sáng tạo của sáng tạo”, chính vì vậy, nó
đòi hỏi người cầm bút bao giờ cũng có cái riêng, cái độc đáo của mình, “một nhà
văn có tài luôn để lại dấu ấn riêng trên từng trang viết”. Phong cách nghệ sĩ sẽ
tạo nên thần, hồn cho tác phẩm, sẽ mãi mãi khắc sâu vào trong tâm trí người
đọc.
Vậy “một nhà văn có tài” là một nhà văn như thế nào? Và dấu ấn riêng là
gì? Trên một bình diện nào đó, một nhà văn thực sự có tài được đánh giá bằng
mức độ giá trị tác phẩm của anh ta. Đó là một tác phẩm hay, có giá trị cao về cả
nội dung và cả nghệ thuật, được nhiều người, nhiều thế hệ biết đến, anh và tác
phẩm không chỉ sống trong thời đại của mình, mà phải sống đến muôn đời sau,
phải bất diệt với không gian và thời gian. Nhà văn phải khắc được, tạo được
chân dung nghệ thuật vào trong tác phẩm văn học. Muốn vậy nhà văn ấy phải có
dấu ấn riêng. Nghĩa là anh ta phải có nét độc đáo, sáng tạo, phải có khám phá,
tìm tòi mới mẻ tất cả mọi yếu tố của tác phẩm, nói cách khác, nhà văn phải có
phong cách. Có người quan niệm phong cách là cách thức chiếm lĩnh hình
tượng nghệ thuật của nhà văn và chuyển tải ấn tượng của hình tượng đó tới độc
giả. Cũng có người cho rằng phong cách là cái riêng của một nhà văn và chỉ duy
nhất là của nhà văn đó, được lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm nhưng ở mỗi tác
phẩm phải có cái độc đáo, mới mẻ trong cái nền chung. Tuy có nhiều cách định
nghĩa khác nhau nhưng đều trên một cơ sở chung ra lấy cái riêng độc đáo của
nhà văn để xác định. Trên cơ sở ấy, những cây bút có tài trên khắp thế giới như
Baudelaire, Aragon, Hemingway đã được khẳng định và mãi mãi sáng chói,
riêng trên văn đàn Việt Nam, biết bao nhà thơ, nhà văn đã “khơi những nguồn
chưa ai khơi, đã sáng tạo những gì chưa có”, Nam Cao, Xuân Diệu, Nguyễn
Tuân… và chẳng biết từ bao giờ những trang văn mang đậm dấu ấn rất riêng
của Thạch Lam đã để lại trong tôi một dấu ấn riêng không thể phai mờ. Đến với
Thạch Lam, linh hồn của truyện ngắn lãng mạn 1930 - 1945 đến với “một sợi tơ
giăng giữa trời giông bão” ấy (Nguyễn Tường Giang) ta sẽ bắt gặp một dấu ấn,
một phong cách đặc biệt.
Đầu tiên, phải nói đến cách dựng truyện tài tình, độc đáo của Thạch Lam.
Truyện ngắn của ông đa phần không có cốt truyện, không có những tình tiết éo
le, ly kỳ như phần lớn các truyện ngắn, tiểu thuyết thời bấy giờ. Cứ thử tóm tắt
những truyện ngắn Thạch Lam thì dường như chẳng có gì. Ông viết truyện nhiều
khi chỉ từ một dòng cảm xúc, một dòng tâm trạng. Ấy là một tình yêu kỳ diệu nảy
nở trong lòng một người cha với “Đứa con đầu lòng”, là nỗi buồn hiu hiu lặng
lặng của Hai đứa trẻ trong đêm phố huyện vắng lặng, heo hút, là nỗi tủi cực,
nhục nhã của hai cô gái giang hồ trong Đêm 30, là sự trăn trở dày vò của một
con người lỡ lầm lỗi vì Một cơn giận. Chỉ như vậy thôi nhưng đã gợi lên trong
lòng người đọc bao suy tư xao động. Bởi nơi ấy, ta như nhìn thấy mình, hiểu
được mình hơn từ những trang viết đầy khám phá sâu sắc, tinh tế về nội tâm. Ta
bắt gặp trong ấy những biến đổi tâm lý phức tạp, bất ngờ, tế vi. Có một người
bỗng chốc trở thành kẻ ăn cắp, bỗng chốc thành kẻ tàn nhẫn, bỗng thành đứa
con bất hiếu, bỗng thành một người cha vô trách nhiệm… Và từ đó, đi theo là
những khoảnh khắc tâm lý cực kỳ sắc nét, tài tình, ở đấy, tâm tư, tình cảm nhân
vật được kéo dãn ra, được phóng to lên hiện rõ trước mắt người đọc. Ở đấy có
hai cô gái giang hồ bấy lâu trụy lạc, trác táng ngồi khóc lặng trong đêm 30, đau
đớn cho cái thân xác ô nhục, nhơ bẩn, khóc cho kiếp đời “sống mà như chết
trong cõi sống” (Đêm 30). Ở đấy, một người đang đứng ở ranh giới của một
người lương thiện và một tên ăn cắp, anh ta đấu tranh, giằng co trên cái ranh
giới mong manh như một “sợi tóc”, cái ranh giới phân định nhập nhòa nhưng rất
rõ ràng ấy đã thử thách nhân cách làm người (Sợi tóc). Phát hiện của Thạch
Lam thật tài tình, độc đáo, mà chỉ riêng ông mới có được.
Đọc Nam Cao, ta cũng thấy những khám phá tâm linh sâu sắc. Nhưng
khác với Thạch Lam, Nam Cao đi vào nỗi đau day dứt, dằn vặt tột cùng của con
người bị tha hóa, còn Thạch Lam lại đi vào chỗ tế vi nhất của tâm hồn con
người. Nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam hiện lên đầy chất người, thật sự
là người “với những sự cao quí và hèn hạ của người”. Gorki đã từng nói: “Một
trong những sai lầm vĩ đại nhất của con người khi nhận định về con người là
người ta thường cho người này thì tốt, người kia thì xấu, người này thông minh,
người kia ngu xuẩn. Trong khi con người lại là tất cả, tất cả những cái ấy luôn
luôn biến đổi”. Có lẽ cũng cùng quan điểm đó, Thạch Lam đã định hướng cho
ngòi bút của mình, ông đi tìm cái đẹp “man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang
cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở những vật bình thường”, tìm cái đẹp ở chỗ “không ai
nhìn thấy, cho người đọc bài học trông nhìn và thưởng thức” (Thạch Lam). Cái
đẹp ngay ở trong sự thực con người.
Và cũng chính vì vậy, chính vì đi tìm cái đẹp bình thường ấy, nhân vật
trong truyện Thạch Lam thường là những con người nhỏ bé, khuất lấp trong
cuộc đời, họ chỉ là cô hàng xén, bà mẹ nghèo, anh phu xe, viên chức nhỏ… Thế
nhưng trong những con người sống như những cái bóng mờ của xã hội ấy lại
mang những số phận đầy đau khổ, bất hạnh đến buốt lòng giữa đời thường của
những người thường. Một mẹ Lê với đàn con nheo nhếch lây lất trong nghèo
hèn xác xơ đeo đẳng, để rồi cuối cùng mẹ Lê phải chết đau đớn và cái chết bi
thảm ấy mở ra cái chết ngấm cho cả đàn con (Nhà mẹ Lê). Chỉ vì một cơn giận
bâng quơ vô cớ của người khách, một anh phu xe vốn đã nghèo, đã cực nay lại
thêm điêu đứng (Một cơn giận). Một anh Sinh đói, đói quay đói quắt, đói đến nỗi
ăn không kịp muốn cái mà anh đã vất xuống đất kia, cái mà anh đã khinh bỉ là
khốn nạn kia, để rồi chính anh cũng trở thành kẻ đáng khinh, kẻ khốn nạn (Đói).
Một cô Tấm hàng xén, thấy cuộc đời mình chỉ như tấm vải thô từng ngày dệt sợi
dọc, sợi ngang (Cô hàng xén). Những con người nhỏ bé, không ai biết mặt biết
tên ấy đã làm nên một xã hội trong truyện ngắn Thạch Lam và đấy cũng chính là
xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
Cũng như nhân vật của mình, ngôn ngữ trong truyện Thạch Lam thuần
hậu, chất phác, nhẹ nhàng, không gay gắt, khoa trương, lúc nào cũng buồn nhè
nhẹ, trầm lắng như làn gió thoảng hiu hắt. “Thạch Lam đã làm cho tiếng Việt gọn
ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra, đã đem sinh sắc vào cho tiếng Việt” (Nguyễn
Tuân). Câu chữ chân thành, tha thiết, làm cho người đọc “rùng rợn cả tâm hồn vì
sự thành thực” (Khái Hưng). Ông có biệt tài sáng tạo câu văn dồi dào cảm giác,
nhiều câu như tâm trạng lấp lửng, mơ hồ, nhiều câu so sánh tâm trạng, với một
sự vật cụ thể, đọc lên thật gợi, thật êm: “có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây
khiến chàng vướng phải”, “lòng chàng như một cánh bướm non khẽ đập” (Dưới
bóng hoàng lan).
Những sáng tạo mới mẻ riêng biệt của nhà văn hẳn đã đi ra từ tấm lòng
gắn bó với cuộc đời, vì cuộc đời, vì cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Càng làm cho xã
hội, cho lòng người được trong sáng, phong phú hơn thì tác phẩm càng mang
chất nhân văn và càng mang được dấu ấn thực sự của nhà văn. Bằng những
nét riêng độc đáo, đầy khám phá trong hình tượng, nội dung, nghệ thuật…
Thạch Lam đã khắc tạc vào văn đàn dân tộc, vào người đọc dấu ấn một ngòi bút
Thạch Lam chỉ của riêng Thạch Lam và rất Thạch Lam, một ngòi bút tinh tế, tài
hoa.
“Khi nhà văn viết văn mà chẳng có cái gì thì anh chẳng có cái gì cả” (Sê-
khốp). Thực vậy, “một nhà văn có tài luôn để lại dấu ấn riêng trên từng trang
viết”, điều này rất đúng, rất xứng đáng. Đây cũng là thước đo để nhìn nhận,
đánh giá giá trị thực sự của một tác phẩm, một ngòi bút.
HỒ KHÁNH VÂN
Lớp 11 Văn Trường Phổ thông Năng khiếu
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Bài 10
ĐỀ BÀI
Phân tích đoạn thơ:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm của tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng - Xuân Diệu)
BÀI LÀM
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và lòng yêu đời tha thiết. Cái “say đắm
đuối” và “non xanh” mơn mởn đã hòa vào nhau thành những bản tình ca réo rắt.
Đó không phải là đơn giản là tình ca của tình yêu mà còn là khúc hát giao hòa
của con người và thiên nhiên, cuộc sống “vội vàng”, mà đặc biệt là những câu
cuối dài, bằng bút pháp sôi nổi và đầy biến hóa, đã thể hiện rõ cái chất mãnh liệt
nồng nàn rất riêng của Xuân Diệu:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm của tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
(Vội vàng)
Mỗi dòng thơ là một cung bậc của vẻ đẹp thiên nhiên, là một giai điệu của
niềm đắm say vô tận.
Cũng là thiên nhiên và tình yêu thiên nhiên, cuộc sống nhưng Xuân Diệu
có cách thể hiện rất mới lạ, độc đáo. Xưa nay từ cảnh mới sinh tình nên các nhà
thơ luôn “tả cảnh” trước rồi mới “ngụ tình” sau. Còn Xuân Diệu đã làm điều
ngược lại, nhà thơ đã dùng cảm xúc rạo rực của mình để thổi vào thiên nhiên
một sức sống tràn đầy. Chính yếu tố đặc biệt đó đã biến những dòng thơ thành
đào phách, nổi lên giữa những khúc nhạc vốn đã rất đặc sắc:
Ta muốn ôm
Ta muốn riết…
Ta muốn say…
và hơn thế nữa:
Ta muốn thâu…
Thiên nhiên thật là tuyệt vời! Xuân Diệu ngây ngất, khát khao muốn tận
hưởng tất cả. Chính xác xơ là tất cả những gì tươi đẹp nhất.
Xuân Diệu muốn hòa nhập vào “cả một cuộc sống mới bắt đầu mơn mởn”.
Từ “ôm” thể hiện cái khát khao đến cháy bỏng và nó cũng làm cho chúng ta có
cảm giác rằng lúc Xuân Diệu viết nên dòng thơ cũng là lúc Xuân Diệu hòa quyện
tâm hồn mình vào “sự sống”. Sự sống đã bắt đầu từ lâu, từ triệu triệu năm trước,
nhưng với Xuân Diệu sự sống “mới bắt đầu”. Mới bắt đầu bởi chỉ hôm nay đây,
lúc này đây, Xuân Diệu mới nhìn được hết từng khía cạnh từng chi tiết nhỏ của
cuộc sống. Vì “mới bắt đầu” nên cái gì cũng non xanh, tất cả đều mang một dáng
vẻ hồn nhiên, ngây thơ, trữ tình: “Mây đưa gió lượn”, “cánh bướm của tình
yêu”… Cảnh vật không quá động mà cũng không quá tĩnh: “mây đưa”, “bướm
lượn”.. Những chuyển động nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng. Xuân Diệu sợ cái bình
yên tẻ nhạt bởi vì nó khơi dậy nỗi cô đơn ẩn náu trong nhà thơ, Xuân Diệu cũng
sợ cái gì quá mạnh mẽ phá vỡ “thiên đường trần thế”. Nỗi ám ảnh đó dường
như luôn luôn tồn tại trong suy nghĩ của nhà thơ.
Đúng như người ta nói: thơ không có tình yêu thì không phải là thơ Xuân
Diệu. “Cánh bướm tình yêu” khẽ khàng xuất hiện, dường như vô tình se duyên
cho Xuân Diệu và cuộc sống. Để rồi lòng Xuân Diệu chuyển sang đắm say mãnh
liệt: “thâu”, “một cái hôn nhiều”… Thiên nhiên hiện lên từng chi tiết sắc sảo: non
nước, cây, cỏ rạng… Hạnh phúc như tràn ngập tuôn ra bắt đầu từ “cái hôn
nhiều”. Đó cũng là nghệ thuật thể hiện của Xuân Diệu. Xuân Diệu thật sự “say”:
“chuếnh choáng mùi thơm”, “đã đầy ánh sáng”, “no nê thanh sắc của đời tươi”.
Xuân Diệu đã hoàn tất bức tranh thiên đường hạnh phúc bằng ánh sáng rực rỡ
mà dịu dàng lan tỏa khắp nơi. Đó cũng là lúc khép lại bức tranh theo cách riêng
của Xuân Diệu. Ông kết thúc vào đúng lúc thiên nhiên đẹp nhất vì như vậy vẻ
đẹp sẽ như vĩnh cửu không bao giờ phai nhạt. Xuân Diệu thiếu thốn hạnh phúc
nên ông nâng niu từng phút giây hạnh phúc. Ông xúc động thốt lên:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Từ “cắn” làm cho lòng thơ trở nên độc đáo, nó in thành dấu ấn của riêng
Xuân Diệu, dấu ấn của niềm khát khao hạnh phúc mãnh liệt.
Chỉ với một nghệ thuật duy nhất là nghệ thuật dùng từ. Xuân Diệu đã tạo
nên những dòng thơ ngập tràn sức sống. Xuân Diệu khuyên người ta hãy tận
hưởng, hãy sống hết mình. Đó không phải là lối sống gấp gáp vội vàng mà là
nhịp sống sôi nổi hăng say. Cái gì người ta yêu thì người ta mới có thể ra sức
đắp xây. Bằng hồn thơ sôi nổi, cặp mắt non xanh và cái mỹ học lấy con người
làm chủ đạo, Xuân Diệu tạo nên những dòng thơ rất riêng, thổi vào cuộc sống
tình yêu và hạnh phúc.
NGUYỄN THỊ NHƯ NGỌC
Lớp 11 Toán Trường THPT chuyên Tiền Giang
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Chỉ phân tích một đoạn thơ nhỏ trong Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu mà
Như Ngọc đã phát hiện ra một điều hết sức tinh tế: « … xưa nay từ cảnh mới
sinh tình nên các nhà thơ luôn “tả cảnh” trước rồi mới “ngụ tình” sau. Còn Xuân
Diệu đã làm điều ngược lại”. Thật là một ý kiến hay! Đọc xuyên suốt bài văn của
Ngọc tôi rất thích những đoạn văn bạn viết - rất có hồn như: “cánh bướm tình
yêu” khẽ khàng xuất hiện, dường như vô tình se duyên cho Xuân Diệu và cuộc
sống”.
Riêng ở cuối bài, Ngọc viết: “Chỉ với một nghệ thuật duy nhất là nghệ thuật
dùng từ…”. Thế nhưng, bạn chưa nói rõ được nghệ thuật dùng từ của Xuân
Diệu độc đáo, khác lạ với các nhà thơ khác như thế nào…
Bùi Trường Trí
Tôi đã đọc đi đọc lại bài viết của bạn nhiều lần mà không chán bởi cách
diễn đạt khá lôi cuốn của bạn. Bạn đã nêu bật được sự khát khao muốn ôm tất
cả, muốn tận hưởng tất cả cái gì đẹp nhất, thơm tho nhất của thiên nhiên mà
Xuân Diệu đã đề cập đến. Tuy nhiên, theo tôi bạn nên so sánh giữa những bài
thơ của những nhà thơ nổi tiếng viết về thiên nhiên, về tình yêu đời, yêu người
để làm bật lên cái hay, cái đẹp trong thơ Xuân Diệu, nó khác hơn những bài thơ
của những nhà thơ khác ở chỗ nào (bởi trong thơ Nguyễn Khuyến, Bà Huyện
Thanh Quan… cũng có nói nhiều đến tình yêu thiên nhiên)? Ngoài ra cũng nên
liên hệ một chút đến những khổ thơ trước để thấy rõ hơn cái lý do vì sao Xuân
Diệu muốn ôm, muốn say, muốn thâu… “mọi thứ” như vậy!
Tuyết Mai
11A6 trường cấp II - III Bến Lức
Bài viết của Ngọc phân tích rõ ràng, sáng tạo, sâu sắc với lời văn chân
thật, cảm xúc tự nhiên không gò ép: bố cục khá chặt chẽ, mạch lạc. Và tôi cũng
rất lấy làm tâm đắc với kết luận biết gợi mở, liên hệ: “Xuân Diệu khuyên người ta
hãy tận hưởng, hãy sống hết mình. Đó không phải là lối sống gấp gáp, vội vàng
mà là nhịp sống sôi nổi hăng say”..
Nhưng để bài văn tăng sức thuyết phục tôi xin được góp ý cho Ngọc một
vài ý kiến sau:
- Mặc dù đề chỉ yêu cầu phân tích đoạn thơ cuối nhưng Ngọc cũng cần
liên hệ với đoạn mở đầu để cho thấy: đoạn cuối vẫn tiếp tục khai thác những
ước mơ táo bạo, mạnh mẽ ở đoạn đầu tuy nhiên cũng có sự thay đổi. Dòng thơ
vươn dài ra để có thể chuyển thơ hết những tình cảm đang ngập tràn trong lòng
Xuân Diệu.
- Khi phân tích dòng thơ cuối, Ngọc đã viết: “từ “cắn” làm cho dòng thơ trở
nên độc đáo, nó in lên bài thơ dấu ấn của riêng Xuân Diệu…”. Đồng ý đây là
cách sử dụng từ táo bạo, độc đáo và chỉ riêng Xuân Diệu mới có nhưng độc đáo
ra sao thì Ngọc chưa nói được.
Liêu Thị Thanh Trúc
Thị trấn Ba Tri, Bến Tre
Bài 11
ĐỀ BÀI
Bàn về sự tấn công của những thói hư tật xấu, có ý kiến cho rằng: “Tập
quán xấu ban đầu là khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà
và kết cục biến thành một ông chủ nhà khó tính”.
Em hiểu câu nói trên như thế nào? Từ đó em hãy nêu bài học mà mình có
thể rút ra ở đây.
BÀI LÀM
Trong thực tế cuộc sống, con người luôn có những thói quen, tập quán
sống. Bên cạnh những tập quán, thói quen tốt, con người còn có những tập
quán, thói quen xấu. Những thói quen xấu có sức quyến rũ, lôi cuốn ghê gớm
đối với con người. Nếu không tự chủ được bản thân, dần dần từng bước ta sẽ bị
chi phối, ràng buộc trong mọi ý nghĩ và hành động bởi những tập quán xấu.
Những thói quen, tập quán xấu sẽ ảnh hưởng không tốt tới tư cách đạo đức,
thậm chí còn nguy hại tới sức khỏe và tính mạng của bản thân, làm ảnh hưởng
xấu cho gia đình và xã hội. Có ý kiến cho rằng: “Tập quán xấu ban đầu là khách
qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành một
ông chủ nhà khó tính”.
Tập quán là thói quen đã trở thành nếp trong sinh hoạt thường ngày và
trong đời sống xã hội được mọi người, mọi tầng lớp công nhận và làm theo một
cách tự nhiên có ý thức và đôi khi không có ý thức. Có những tập quán tốt và có
những tập quán xấu. Mỗi con người đều có một sở thích, một thói quen về
những nhu cầu vật chất và tinh thần, thói quen đó sẽ ảnh hưởng tốt đến con
người nếu đó là những thói quen tốt như: nghe nhạc để giải trí, tập thể dục buổi
sáng, kiên trì trong lao động… Bên cạnh những tập quán tốt còn có những tập
quán xấu. Những tập quán xấu có sức hấp dẫn ghê gớm và đã đẩy không ít
người rơi vào cạm bẫy như: nói tục, chửi thề, nhậu nhẹt… Thói hư tật xấu ban
đầu chỉ là những khách qua đường, nó đến một cách tự nhiên, vô tình, mà
không báo trước, không có quan hệ quen biết gì với ta, gặp rồi quên ngay và
không để lại chút ấn tượng nào cho ta. Nhưng sau đó, thỉnh thoảng nó lại đến và
nhiều lần như thế, dần dần nó trở thành người bạn thân thiết, thậm chí như
người thân trong nhà. Thói hư tật xấu đến với ta theo con đường diễn biến từng
bước, ban đầu có vẻ nhẹ nhàng như cơn gió thoảng nhưng rút cuộc “cột chặt” ta
bao giờ không biết. Khi đã gắn bó rồi thì đến một lúc nào đó, thói xấu sẽ trở
thành “ông chủ nhà khó tính”, điều khiển ta và biến ta thành kẻ phụ thuộc. “Ông
chủ” ấy nghiễm nhiên biến ta thành kẻ nô lệ và sai khiến điều gì ta cũng phải làm
theo, luôn tuân thủ, bất chấp tất cả mà không cưỡng lại được.
Trong mỗi con người, thường có cả hai mặt tốt và xấu. Lối sống buông thả
là mảnh đất màu mỡ cho những thói quen xấu nảy nở và phát triển. Lúc đầu,
những thói quen xấu không đến với ta ngáy một lúc mà đến rất tình cờ, ngẫu
nhiên khiến ta không để ý tới. Một lần quay cóp khi kiểm tra để tránh điểm kém,
một lần dối cha mẹ để gỡ thế bí, một lần ham vui tham gia đánh bài ăn tiền, một
ly rượu để giải sầu, một điếu thuốc lá bạn mời… Tất cả đều trót lọt, đều là sự
tình cờ, thật bình thường không đáng quan tâm, chỉ là người “khách qua đường”
mà thôi. Bản thân ta đâu biết được hậu quả của sự qua đường đó như thế nào
mà đâu ngờ đến tác hại ngấm ngầm của nó.
Trong một lần kiểm tra khác, vì sợ điểm kém sẽ bị thầy cô mắng, cha mẹ
buồn, bạn bè cười, mà bản thân ta lại không lo học với khả năng thật sự của
mình. Cuối cùng để tránh điểm kém ta phải làm sao đây? Và lúc này ta chợt nghĩ
tới người khách qua đường kia. Ta cảm thấy cần tới nó để giải quyết tình huống.
Cứ thế, những lần quay cóp tiếp theo sẽ được diễn ra và lập lại nhiều lần.
Nhưng lúc này không còn là người “khách qua đường”, không phải chỉ vô tình
mà dần dần thói xấu này sẽ trở thành thói quen, nhu cầu bức thiết mà ta khó có
thể dứt bỏ. Nhưng hậu quả của nó sẽ ra sao? Rồi một ngày nào đó ta sẽ tham
gia vào cuộc thi thực sự với khả năng của mình, chẳng hạn như tốt nghiệp, thi
đại học… làm sao có kết quả tốt được?
Mọi thói xấu đến với ta từ chỗ là khách qua đường đã nhiễm vào đời sống
sinh hoạt của ta. Nó nghiễm nhiên trở thành người bạn thân chung nhà với ta.
Khi đã là bạn thân thì gắn bó với ta như hình với bóng. Thiếu vắng nó thì ta cảm
thấy không an tâm, nhớ nhớ, buồn bã và lại phải tìm đến nó như tìm đến một
nguồn vui, một cứu cánh, dù có đôi lúc ta đã nhận ra là nó không lành mạnh. Có
một lần nào đó, trong khi vui chơi với bạn bè, ta đã hút thử một điếu thuốc lá,
qua một vài lần sau đó ta trở nên là người biết hút thuốc, dần dần ta trở nên
thích, và xa hơn nữa ta lại cảm thấy cần đến (nghiện) trong một thời gian không
bao lâu. Thế rồi, đến một ngày nào đó, ta sẽ bị biến thành tên nô lệ của thói xấu.
Nó là ông chủ vô hình nhưng khắc nghiệt và tàn bạo. Nó sẽ chi phối tàn bộ tình
cảm và hành động của ta và ta khó có thể thoát khỏi nanh vuốt ghê gớm của nó.
Một khi ta đã trở thành bạn của nghiện ngập, chích hút xì ke, ma túy cũng
có nghĩa ta sẽ bị chi phối bởi những thói xấu và là nô lệ của ông chủ khắc nghiệt,
tàn bạo. Mỗi khi cơn nghiện ập đến, nó hành hạ thân xác đến mức người nghiện
khó có thể chịu đựng nổi, lúc này ta không còn cách nào khác, đành xuôi tay bất
lực tuân theo. Muốn đáp ứng nhu cầu chích hút thì phải có tiền. Không có tiền thì
phải xoay xở bằng đủ mọi cách, bất chấp mọi thủ đoạn dù là đê hèn nhất, dù
việc làm đánh mất tính người cũng chấp nhận. Đầu tiên chỉ lấy đồ ở nhà đem
cầm bán, sau thì ăn trộm, ăn cắp, cướp giật, thậm chí giết người… Như vậy, vô
tình ta đã đi sâu vào con đường tội lỗi.
Những thói xấu ban đầu đôi khi cũng mang đến cho ta sự hấp dẫn, thậm
chí còn cho ta sự khoái cảm, chẳng hạn thói xấu hút chích xì ke, ma túy, trước
tiên nó sẽ cho ta cái cảm giác lâng lâng, bay bổng như đang ở cõi thần tiên…
Thói xấu đó rất dễ tạo thành thói quen cho ta. Nhưng cũng dễ biến ta thành kẻ
thoái hóa đạo đức làm ảnh hưởng xấu cho gia đình, xã hội. Những ai thiếu nghị
lực, thiếu bản lĩnh thì khó từ bỏ được, thậm chí bị các thói xấu hành hạ mà vẫn
không xa lánh được.
Từ xa xưa, ông cha ta đã dạy: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Những thói hư tật xấu ta không nên gần nó sẽ bị vấy bẩn, vì đó là mực. Ta cần
tránh xa cạm bẫy, cám dỗ của thói hư tật xấu và không được xem đó như một
trò đùa, cần nhìn trước những hậu quả, tai hại để tránh xa và đấu tranh kiên
quyết với các thói hư, tật xấu để bảo vệ phẩm cách tốt đẹp, góp phần bảo vệ gia
đình, xã hội, bảo vệ truyền thống đạo đức của toàn dân tộc.
Chúng ta đi học là để tiếp thu kiến thức, nâng cao hiểu biết, học đạo lý,
nhân nghĩa… Để có khả năng làm việc, tạo dựng sự nghiệp lâu dài. Mọi công
sức mà ta cố gắng hôm nay sẽ đem lại lợi ích cho ta sau này. Phải cố gắng rèn
luyện để sau này, khi bước vào đời, ta sẽ không bị coi là gánh nặng của gia đình
và xã hội.
Trên thực tế, hiện nay vẫn có một số thanh thiếu niên, học sinh hư hỏng
không lo học hành mà chỉ biết ăn chơi sa đọa. Chúng rủ nhau cùng tham gia vào
những trò cờ bạc đỏ đen, chích hút ma túy, tụ tập lại đánh nhau, đua xe gây rối
loạn an ninh trật tự, gây ra tai nạn giao thông. Tất cả những thói xấu đó nhanh
chóng đẩy những người tham gia vào vực thẳm của sự sụy đồi đạo đức, nhân
cách, dẫn đến những việc làm bỉ ổi như trộm cắp, lừa đảo…
Để không bị cuốn hút bởi những thói hư tật xấu, mỗi con người phải không
ngừng rèn luyện và nâng cao nhận thức của bản thân, đấu tranh tiêu diệt những
tập quán xấu. Sống có lý tưởng, mục đích cao đẹp.
Câu nói: “Tập quán xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở thành
người bạn thân ở chung nhà, và kết cục biến thành một ông chủ nhà khó tính” là
bài học thiết thực đối với mỗi chúng ta. Đó là lời thức tỉnh đối với những ai có lối
sống buông thả, lười biếng… nhất là những thanh thiếu niên, học sinh bắt đầu
bước vào đời. Và không chỉ riêng thanh thiếu niên, học sinh mà tất cả chúng ta,
không phân biệt tuổi tác, đều phải cảnh giác.
NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN
Lớp 11A4 Trường THPT Kế Sách, Sóc Trăng
Bài 12
ĐỀ BÀI
Phát biểu cảm nhận về bài thơ Sông lấp của Trần Tế Xương:
Sông kìa rày đã lên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
BÀI LÀM
Người ta nói rằng ở Trần Tế Xương có thể tìm thấy hai con người khác
nhau: một con người ban ngày lúc nào cũng lùng sục, len lỏi khắp nơi ngõ ngách
để tìm ra những cái xấu xa, ngốc nghếch và trên môi luôn phát ra tiếng cười mỉa
mai, chua chát đến độc địa, đồng thời một con người về đêm đầy ắp những trăn
trở, nhức nhối. Những u uất mà chỉ với bóng đêm tĩnh mịch, con người ấy mới
có thể trút hết tâm ý của mình. Sông lấp là một bài thơ của “con người đêm” ấy.
Khi đọc bài thơ lần đầu, Sông lấp không để lại ấn tượng gì trong tôi, hình
như tôi thích cái:
Ngủ quách sự đời thây kể thức
Chùa đâu chú trọc đã hồi chuông.
(Đêm hè)
hơn những từ ngữ dường như quá đơn sơ, bình thường của Sông lấp. Lâu lắm
rồi tình cờ tôi gặp lại Sông lấp, sau cảm giác bình thường như khi tôi đọc lần
trước ở hai câu đầu bài, tôi bất chợt “giật mình” khi nghe âm tưởng:
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Tôi bắt đầu hiểu tại sao người ta nói Sông lấp là bài thơ hay nhất của Tú
Xương. Và cũng từ đó, những dòng thơ mộc mạc giản dị mà chất chứa đầy tình
cảm, tâm sự của nhà thơ thấm dần vào tâm hồn, vào suy nghĩ của tôi. Dường
như quanh đây bao trùm một không khí tĩnh lặng của một đêm khuya, im phăng
phắc đến lạ kỳ, đến nỗi tiếng ếch ngoài đồng nhỏ thôi, văng vẳng thôi mà nghe
như gần sát bên tai, đến nỗi một cái “giật mình” rất nhẹ của tác giả cũng đủ làm
cho người đọc phải “giật mình” theo. Trong khung cảnh ấy, một con người giật
mình thức giấc vì một sự nhầm lẫn có lẽ là rất buồn, buồn thương, tiếc nuối
“tiếng ai” mỗi đêm gọi đò sang sông bây giờ nào còn đâu, thay vào đó là tiếng
ếch kêu ngoài đồng xa vọng lại mà khi giữa cơn mê trong giấc ngủ, tác giả ngỡ
là tiếng gọi đò quen thuộc trước kia. Chắc hẳn ông quên rằng ông Vị Hoàng nay
đã bị lấp lại rồi, làm gì còn tiếng gọi đò. Quên rồi hay là ông cố quên, cố tìm lấy
chút dư âm xa xưa trong tiếng ếch vọng văng vẳng giữa đêm khuya. Lòng dâng
trào một nỗi xót xa, nuối tiếc với nỗi lòng của tác giả trước cái đổi thay của dòng
sông quê hương mới ngày nào dòng nước trong mát còn chảy hiền hòa soi bóng
những hàng cây chung quanh, bây giờ đã bị lấp phẳng lì, không còn chút dấu vết
cũ: “Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai”. Chắc hẳn sau khi “giật mình còn
tưởng tiếng ai gọi đò”, thực tại đã kéo ông ra khỏi sự nhầm lẫn và trở về quá khứ
ngọt ngào. Trần Tế Xương đã phải nén một tiếng thở dài, buồn lắm, thương lắm
mà cũng tiếc lắm chứ khi không chỉ một dòng sông Vị Hoàng, có thể còn nhiều
dòng sông khác nữa, thậm chí cả cái xã hội nhỏ bé này cũng đã thay đổi. Không
biết còn có ai tiếc nhớ một thời đã qua hay không. Tôi ước ao mình có thể hòa
nhập vào dòng tư tưởng của Trần Tế Xương để có thể cùng ông thở than, tiếc
nuối. Nếu nói là cảm nhận hoàn toàn mọi suy nghĩ, tình cảm của tác giả trong
Sông lấp tôi nghĩ rằng mình chưa được như thế, có chăng chỉ là chút xúc cảm
nhỏ bé và bất chợt đến trong lòng chứ làm sao tôi có thể hiểu hết tất cả được.
Tiếng người gọi đò trong Sông lấp dường như vẫn còn vang vọng, văng
vẳng trong tâm trí tôi. Sức gợi cảm của bài thơ đặc biệt là câu thơ cuối thật hơn
sức tưởng tượng của tôi rất nhiều. Đọc hết bài thơ, tôi mang một tâm trạng xót
xa, buồn mênh mang với tâm sự của tác giả. Tôi tiếc mình không thể dùng lời lẽ
để diễn tả hết những cảm xúc của mình, để nói cho hết cái hay, cái đẹp, cái sâu
sắc của bài thơ. Chỉ biết là Sông lấp đã cho tôi một ấn tượng mới về nhà thơ của
non Côi sông Vị.
NGUYỄN HOÀNG NGUYÊN TÚ
Lớp 11C2 Trường THPT Châu Văn Liêm, Cần Thơ
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Từ mảnh đất non Côi sông Vị, xin gửi đến Nguyên Tú lòng đồng cảm sâu
sắc đối với những cảm nhận của bạn về bài thơ Sông lấp của Tú Xương. Cứ mỗi
lần đạp xe trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (con Sông lấp khi xưa), lòng tôi lại
gợn lên những cảm xúc miên man rất khó diễn tả. Và khi đọc được đoạn văn:
“Không biết có ai còn tiếc nhớ một thời… làm sao tôi có thể hiểu hết tất cả
được”, của bạn, tôi có cảm giác như đang được đối diện với chính lòng mình.
Đối với thể loại “phát biểu cảm nghĩ”, tôi nghĩ Nguyên Tú đã khá thành
công trong bài văn này. Bài văn thực sự là sự giãi bày tấm lòng trước tấm lòng
của người thiên cổ.
Dương Thị Ngà
Lớp 12 văn
Trường THPT Lê Hồng Phong, Nam Định
Nếu trong thơ Tú Xương có cả hiện thực, có cả trữ tình thì riêng trong bài
Sông lấp điều đó càng hiện rõ. Bạn Nguyên Tú thật tinh tế khi nhận ra trong con
người Tú Xương tồn tại hai bản chất khác nhau, đối lập nhau: một là cái bản tính
ngang ngược có vẻ như bất cần đời “lúc nào cũng lùng sục len lỏi”, và một là
tâm sự thầm kín của ông trước thời thế, vận nước đổi thay”. Tôi không thuộc
nhiều thơ của ông nhưng qua bài viết của Tú, tôi nhận ra được một điều gì đó cứ
chảy trong dòng suy nghĩ. Bài thơ có thể là bình thường trong cái nhìn đầu tiên
nhưng nó để lại trong lòng người đọc một cảm giác sâu xa, lắng đọng. Những
câu văn của Nguyên Tú như lẫn vào nỗi niềm tâm sự của nhà thơ “để có thể
cùng ông thở than, tiếc nuối”. Bạn đã viết những điều bạn có thể cảm nhận, đã
bộc lộ được suy nghĩ, ấn tượng của bạn về một bài thơ đầy tâm sự và về tác giả:
một người mang nặng trong tâm hồn những cảm hoài bi đát suốt đời có thể rầu
rĩ, khóc than nhưng tâm tính của ông Tú đã khiến ông phản ứng một cách khác,
và thơ của ông cũng là một cách bày tỏ nỗi đau của ông Tú Vị Xuyên trước
những nghịch cảnh mà ông đã chứng kiến. Thơ của ông chính vì thế mà có một
ý vị thấm thía đặc biệt, cũng như tình cảm cũng hết sức đặc biệt mà Nguyên Tú
đã dành cho Tú Xương.
Nguyễn Ngọc Phương Trang
Lớp 10 Văn Trường Phổ thông Năng khiếu
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Bài làm của Nguyên Tú đã khơi gợi cho tôi một nỗi nhớ, mà tôi vẫn còn
luyến tiếc. Đó là hồi còn nhỏ, tôi rất thích một khu rừng gần nhà, mà ở đó, tôi có
nhiều kỷ niệm khó quên. Nhưng dần dần người ta đã khai phá rừng để làm
nương rẫy. Đứng trước cảnh người ta nhẫn tâm tàn phá thiên nhiên, lòng tôi
luôn dâng lên một nỗi tiếc nuối vô biên. Bây giờ, cứ mỗi khi nhìn bãi đất trống
không đó, hình ảnh khu rừng ngày xưa cứ như hiện ra trước mắt tôi. Phải chăng
đó chính là nỗi xót xa, tiếc nuối của những người đã có nhiều tình cảm sâu nặng
với “dĩ vãng”, cũng như Trần Tế Xương khi nghe tiếng ếch ngoài đồng vẳng kêu
đã phải “Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”.
Nguyên Tú đã có một cảm nhận sâu sắc, mạch lạc đầy đủ về từng ý thơ,
câu thơ và cũng có một hoài cảm xây nặng đầy đồng cảm với tác giả.
Nguyễn Thanh Cường
Lớp 11C Trường PTTH Nguyễn Trãi Trảng Bàng, Tây Ninh
Tôi thật sự cảm phục bởi Nguyên Tú đã nói lên những điều mà tôi chưa
hiểu biết về bài Sông lấp. Tế Xương không còn nữa, nhưng tôi đã đọc được
những cảm xúc của Tế Xương trong bài viết của Nguyên Tú. Nguyên Tú đã góp
nhặt những gì tinh tế nhất, để dựng nên những cảm nhận sâu sắc về Sông lấp
của Tế Xương. Với tôi, như vậy là đủ, bởi Nguyên Tú đã làm cho người đọc
cùng xúc động, suy ngẫm về một điều gì nữa! Theo tôi thì Tế Xương viết nên
Sông lấp còn Nguyên Tú thì viết lên được phần nào cảm xúc về Sông lấp của Tế
Xương.
Trần Quang Lĩnh
Nha Trang
Bài 13
ĐỀ BÀI
Trình bày cách hiểu của em về nội dung câu ca dao:
Trèo lên cây bưởi hái hoa.
BÀI LÀM
Trèo lên cây bưởi hái hoa là bài ca dao được viết theo thể thơ lục bát. Cấu
tứ của bài theo lối hát đối đáp giao duyên của những chàng trai cô gái. Hình
tượng của bài là hình tượng “chim vào lồng, cá cắn câu”. Tất cả điều đó góp
phần nói rõ tiếng hát sâu hằn, tiếc nhớ, cảm hoài về cuộc tình xa xưa, về cảnh
ngộ hiện tại với mơ ước làm lại cuộc đời của chàng trai:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay.
Ở một bài ca dao khác, ta cũng bắt gặp những lời tâm sự tương tự:
Anh đến tìm hoa thì hoa kia đã nở
Anh đến tìm đò thì đò đã sang sông
Đến em, em đã lấy chồng…
Phải rồi, trong xã hội cũ có biết bao cuộc tình éo le. Những người yêu
nhau không lấy được nhau là chuyện bình thường. Chàng trai, cô gái trong bài
ca dao này cũng thế.
Nhưng tại sao khi nhớ về người xưa, tiếc nuối những tháng ngày tươi đẹp,
chàng trai không nói thẳng với người yêu là “anh nhớ” mà chàng lại “trèo lên…
hái hoa… bước xuống… hái nụ…”. Một loạt hành động đó nói lên điều gì nếu
không phải là thể hiện những khó khăn, vất vả mà chàng trai phải vượt qua để đi
tìm người thương, tìm kiếm hạnh phúc. Theo sách Bình giảng văn học lớp 10 thì
hai câu đầu sử dụng thi pháp ca dao cổ, ca dao trữ tình. Đó là tiếng hứng: trông
cảnh này, tình này vẫn là cho câu sau. Và cũng theo sách trên thì thay “cây
bưởi” bằng “cây đa” cũng được và nội dung của bài ca dao không đổi? Phải
chăng những hành động của anh là những hành động vu vơ bởi anh đang trong
tâm trạng rối bời? Hay đó là những hành động có ý nghĩa “chiếm lĩnh kiếm tìm,
khát vọng thiên nhiên, khát vọng tình yêu”.
Rất nhiều ý kiến như trên, tương đồng có, đối lập có. Theo tôi “cây bưởi”,
“vườn cà” có thể là nơi hò hẹn xưa của đôi trai gái và chúng đã trở thành những
kỷ niệm khó quên với tất cả hai người. Cây bưởi kia có phải anh đã từng hái hoa
tặng cô? Vườn cà kia anh đã từng ngắt hoa tầm xuân cài lên mái tóc cô? Tất cả
cảnh vật thân quen còn đây và khi gặp cô, những kỷ niệm đẹp lại chợt in vào
tâm trí anh, xâm chiếm lòng anh. Thế nhưng anh lại chợt “tỉnh” ra bởi hiện thực
phũ phàng: cô gái yêu anh đã có chồng. Đó là “dấu chấm hết” kết thúc những
ngày tháng mơ mộng khi xưa:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay!
Nụ tầm xuân hay còn gọi là hoa hồng thường có màu đỏ, trắng hay vàng
và không có màu xanh. Vậy trong mắt chàng trai tại sao nụ hoa lại có màu “xanh
biếc”. Một mùa xuân mới lại về, trăm hoa đua nở và đó là lẽ thường tình. Nhưng
với chàng trai dường như mùa xuân đẹp này lại mang đến cả niềm đau như “cây
tốt lại cho trái đắng”, vì người yêu anh đã đi lấy chồng. Màu “xanh biếc” anh nhìn
thấy không phải là do ảo giác, mà là màu xanh của tâm trạng, của thái độ: sắc
“xanh biếc” đã gợi lên bao đau đớn, xót xa, tuyệt vọng, sự trớ trêu của tạo hóa
cũng như cảnh ngộ của anh - khi người yêu đã là vợ của người ta rồi. Màu “xanh
biếc” cũng có thể là bức thông điệp anh gởi tới người yêu dù thời gian thay đổi,
dù cô đã có chồng, dù hai người đã phải chia tay nhưng tình anh dành cho cô
vẫn không bao giờ thay đổi.
Câu nói cuối cùng của anh là lời than thở, tiếc nuối, day dứt không nguôi:
Em có chồng anh tiếc lắm thay!
Anh đã dành trọn vẹn tình yêu cho cô nhưng cô lại đi lấy chồng, bảo sao
anh không đau, không tiếc cho được. Hình như trong lời than thở của anh còn
hàm chứa một ý nghĩa sâu xa: cô đã lấy chồng rồi và anh không thể thay đổi số
phận được nữa, nhưng không ai có thể ngăn nổi trái tim anh không nghĩ về cô,
không nhớ tới cô.
Thấu hiểu được tình cảm, suy nghĩ của anh, ta càng thêm mến phục nhân
cách của chàng “thất tình” nhưng thủy chung ấy.
Còn cô gái thì sao? Qua lời tâm sự của chàng trai thì vì một lý do nào đấy
cô gái phải chia tay người yêu để đi lấy chồng. Trước nỗi niềm tiếc nuối của anh,
cô có suy nghĩ và phản ứng ra sao? Cô sẽ phủ nhận tình cảm đó và bỏ đi vì sợ
người chồng nghi ngờ? Cô sẽ khuyên anh quên đi tất cả mà tìm cho mình hạnh
phúc mới? Không, cô là người yêu của một con người chung thủy, lẽ nào cô lại
thế! Cô đã trách anh:
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra.
Hai tiếng “ba đồng” vang lên nghe sao đầy chua chát, trách móc, dỗi
hờn… Có lẽ đó là kỷ niệm đau buồn dày vò chàng trai, cô gái của chúng ta. Hai
tiếng “ba đồng” như kéo chàng trai từ nỗi nhớ thời xa xưa với những kỷ niệm
đẹp về với thực tại. Tại vì anh thiếu quyết đoán trong tình cảm hay vì anh nghèo
không đủ tiền cưới cô trong khi phong tục, lễ giáo khắt khe xưa kia đã quy định?
Dù là lý do gì, thì giờ đây anh vẫn phải nuối tiếc. Ngày xưa, khi cả anh và cô đều
“còn không”, họ đã được tự do yêu thương như chim trên trời có đôi, như cá
dưới nước có bạn. Ranh giới giữa tình yêu và hôn nhân đối với họ là rất mong
manh, chỉ cần “ba đồng” và “một mớ trầu cay” là có thể phá vỡ được. Nhưng mơ
ước và hiện thực lại cách nhau quá xa.
Chàng trai đã phải khổ sở dằn vặt vì không lấy được cô, ngược lại cô gái
cũng chẳng sung sướng gì trong cái cảnh “cá chậu chim lồng” đầy tù túng. Chỉ
qua hai hình tượng “chim vào lồng”, “và cắn câu” ta cũng phần nào hiểu được
cuộc sống hiện tại của cô. Suốt ngày quanh quẩn trong bốn bức tường nhà
chồng, lại phải sống bên cạnh người mình không yêu, chắc hẳn cô rất buồn và
lại càng thêm nuối tiếc tháng ngày đã qua. Có thể là suy diễn quá chăng khi ta
nói ra điều này nhưng hãy nhìn vào hiện thực trong xã hội xưa, ta sẽ thấy rõ hơn
tình cảm của cô, những cô gái bị ép duyên, những cô gái bất hạnh: yêu người
mình “không được” lấy, lấy phải người mình không yêu.
Từ “biết đâu”, “biết thuở nào” ở những câu thơ cuối láy lại hai lần là lời
tuyệt vọng, bế tắc:
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra.
Câu than thở nhuốm đầy nỗi tuyệt vọng chán chường như câu hỏi không
có lời giải đáp, như mũi dao xoáy sâu vào tâm hồn ta dù đã qua rồi hàng thế kỷ.
Ai sẽ trả lời cho câu hỏi của cô đây?
Không thể là cô, không phải là chồng cô, không phải là chàng trai… mà là
chế độ phong kiến. Chính “nó” là kẻ đã gây ra cảnh chia ly bởi những hủ tục lễ
giáo của “nó”: thách cưới, ép duyên… Giờ đây chàng trai, cô gái chỉ có thể nhớ
đến nhau qua những kỷ niệm âm thầm, tiếc nuối những ngày đã qua.
Không chỉ là chàng trai mà cô gái cũng rất đáng trân trọng bởi lòng chung
thủy son sắt. Ta có thể dễ dàng thấy điều đó ngay cả trong lời “trách móc”:
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không.
Đó là lời than thở tiếc nuối “bây giờ em đã có chồng”, và lời tuyệt vọng
“biết đâu mà gỡ, biết thuở nào ra”.
Bài ca dao chỉ dừng lại ở sự than thân trách phận là hợp lý bởi vì trong xã
hội cũ, ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến quá sâu sắc. Đôi trai gái dù có yêu
thương nhau đến mấy, cũng không dám cùng nhau bước ra khỏi lễ giáo phong
kiến. Nhưng có lẽ chính vì thế mà nó nâng cao hơn lên nhân cách của chàng
trai, cô gái. Nếu như được phép bỏ chồng đi theo chàng trai, cô gái sẽ không
làm như vậy bởi cô còn có trách nhiệm với gia đình. Hai người đều có sự hy sinh
thật cao cả. Họ hy sinh hạnh phúc riêng mình để gìn giữ nhân cách, phẩm giá
cho nhau. Đó là điều đáng quí nhất.
Bài ca dao cất lên tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến và phản ánh ước mơ
khát vọng tự do yêu thương, kết hôn của lớp trẻ mọi thời đại. Với triết lý nhân
sinh sâu sắc, những dòng lục bát ấy là những dòng suối nhỏ tắm mát tâm hồn
khô khan của tôi.
TRỊNH HƯƠNG LAN
Lớp 11 Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Hương Lan đã phân tích khá sâu sắc bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái
hoa. Đặc biệt là tâm trạng nuối tiếc của chàng trai khi biết người yêu đã đi lấy
chồng. Và lời trách móc nhẹ nhàng mà đầy chua xót của cô gái. Bạn đã giúp
chàng trai và cô gái tìm thấy sự đồng cảm của người đọc. Sự thật éo le, phũ
phàng đó đã làm nhen lên trong lòng người sự ai hoài cho một tình yêu đẹp mà
phải tan vỡ. Lan đã khéo léo để màu “xanh biếc” của nụ tâm xuân trở thành
“màu xanh của tâm trạng, của thái độ” của chàng trai. Màu xanh đó đã làm tình
yêu của chàng da diết, sâu đậm hơn. Và trước tình yêu đầy chua xót đó thì sự
lên án những hủ tục của xã hội phong kiến bất công, áp đặt số phận con người
càng giàu tính nhân bản.
Nhưng khi đề cao đến sự hy sinh của chàng trai, phải chi Hương Lan liên
hệ đôi chút về tình yêu và đạo đức ở hiện tại để tăng tính thuyết phục trong khái
niệm “khát vọng tự do yêu thương, kết hôn” để đối chiếu thì có lẽ bài sẽ hoàn
chỉnh và chặt chẽ hơn chăng?
Trần Thị Thanh Xuân
Lớp Báo chí I, khóa 99
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Bài làm của Hương Lan có nhiều ưu điểm. Bạn đã mở bài bằng cách khái
quát nghệ thuật và nội dung của bài ca dao, điều đó khiến cho người đọc có ấn
tượng khá đầy đủ về bài ca dao bạn sắp trình bày, hơn nữa đã làm cho kết bài
gọn gàng. Cách hiểu và cảm nhận về bài ca dao của bạn khá sâu sắc, mà tôi
tâm đắc nhất là về hình ảnh “nụ tầm xuân”: “Sắc xanh biếc” đã gợi lên bao đau
đớn, xót xa, tuyệt vọng, sự trớ trêu của tạo hóa cũng như cảnh ngộ của anh”. Lời
văn của Hương Lan thật mượt mà, có cảm xúc. Bạn dùng nhiều câu hỏi tu từ
“Phải chăng những hành động của anh là những hành động vu vơ bởi anh đang
trong tâm trạng rối bời?” hay “Cây bưởi kia có phải anh đã từng hái hoa tặng
cô?”… để thể hiện suy nghĩ của mình. Bạn có so sánh, đối chiếu với bài ca dao
khác có nội dung tương tự, và với những cách hiểu khác về hai câu đầu của bài
ca dao. Bài viết khá hoàn chỉnh, đúng trọng tâm.
Tuy nhiên, cách mở bài như vậy liệu có đột ngột quá hay không? Và trong
bài có một mâu thuẫn nho nhỏ: Ở phần mở bài bạn có đề cập đến “ước mơ làm
lại cuộc đời của chàng trai cô gái” ở phần sau bạn lại cho rằng “Đôi trai gái dù có
yêu thương nhau đến mấy cũng không dám cùng nhau bước ra khỏi vòng lễ
giáo phong kiến” (?).
Nguyễn Thị Hương Trà
(Trường Phổ thông Năng khiếu
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)
Bài 14
ĐỀ BÀI
Chọn và phân tích một hoặc một số tác phẩm tiêu biểu để làm nổi bật cảm
hứng nhân văn, nhân đạo của văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến
nửa đầu thế kỷ XIX.
BÀI LÀM
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX gắn liền với
việc ý thức về quyền sống được thức tỉnh. Vì vậy cảm hứng nhân văn, nhân đạo
được thể hiện rất sâu sắc, đa dạng và trở thành cảm hứng chủ đạo trong những
tác phẩm ở giai đoạn này, một giai đoạn văn học lớn và phát triển rực rỡ với
nhiều kiệt tác.
Tác phẩm là tiếng nói của con tim, là những rung động tinh tế của tâm
hồn. Qua những áng thơ văn, các tác giả bộc lộ trọn vẹn và chân thành nhất sự
đồng cảm, thông cảm của mình đối với những số phận, những kiếp người. Họ
đã để lại những câu chữ thấm đượm tinh thần nhân đạo và đánh thức tình yêu
thương đồng loại trong mỗi con người chúng ta.
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Đứng trước số phận lưu lạc, “hồng nhan bạc mệnh” của Thúy Kiều,
Nguyễn Du đã nói lên những lời cảm thương cho bao người phụ nữ cùng cảnh
ngộ. Ông tiếc cho cái nhan sắc “một hai nghiêng nước nghiêng thành” chỉ đem
đến cho phụ nữ tai họa và bất hạnh. Ông thương cho những số phận truân
chuyên, lênh đênh và đau khổ. Nguyễn Du không thể làm gì hơn là chia sẻ để
nỗi buồn của những “nàng Kiều” ấy vơi đi. Chính tấm lòng nhân ái đáng trân
trọng ấy đã khiến những câu thơ của ông vẫn còn nguyên giá trị qua năm tháng.
Cũng với tấm lòng cao đẹp ấy, Hồ Xuân Hương đã viết:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm.
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
(Làm lẽ - Hồ Xuân Hương)
Đó là lời của Bà chúa thơ Nôm nhưng cũng là lời than thân trách phận của
những người làm thiếp, những con người đã chịu đựng nhiều thiệt thòi để
hưởng chút duyên thừa. Nhưng ngay cái tình nghĩa vợ chồng ấy cũng hẩm hiu,
lạt lẽo để rồi họ trở thành những con ở không công. Bà dùng ngòi bút ngang
ngạnh rất Hồ Xuân Hương, vừa đậm chất tâm sự để tạo nên những câu thơ
thấm đẫm nước mắt của sự tủi thân, của nỗi oán hờn giấu kín trong tâm khảm.
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ thứ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX đã ca
ngợi, khẳng định vẻ đẹp đáng yêu của con người Việt Nam, không chỉ về hình
thức mà còn ở tâm hồn. Chính những phẩm chất cao quí đã tôn thêm vẻ đẹp
hình thể:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
…
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đã mùi ca ngâm.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Vẻ đẹp sắc sảo, đằm thắm, mượt mà kết hợp với tài năng, sự thông minh
đã đem đến cho Kiều nét hoàn hảo mà mọi tác phẩm văn chương muốn vươn
tới. Thêm vào đó, khiếu đánh đàn cũng cho thấy nàng có một tâm hồn nhạy
cảm, dễ xúc động và nhân hậu. Không quí trọng, không ưu ái, không yêu
thương, không có tấm lòng, liệu Nguyễn Du có thể vẽ Kiều đẹp như thế, giúp
nàng sống mãi trong lòng người đọc? Kiều sống với vẻ đẹp kiêu sa của trời đất,
thuần hậu của Việt Nam, sống với một tâm hồn trong trắng và cao đẹp.
Từ những cảm nhận sâu xa về vẻ đẹp, về số phận, về cuộc đời con người
của tác giả với ngòi bút giàu tính nhân văn đã thừa nhận và ca ngợi những khát
vọng chính đáng cũng như các nhu cầu tự nhiên của con người. Họ đã góp phần
giải thoát con người khỏi sự trói buộc của những xiềng xích trong xã hội phong
kiến:
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã can đảm vượt qua quan niệm lễ giáo
khắc nghiệt để lột tả Kiều trong tình yêu mãnh liệt. Qua đó ông muốn khẳng định
khát vọng tự do yêu thương của cả thế hệ nam thanh nữ tú lúc bấy giờ. Bỏ lại
sau lưng những định kiến đã bám rễ trong xã hội Việt Nam từ lâu, ông viết về
Kiều cũng là viết cho ước mơ, khát vọng đáng trân trọng của những đôi yêu
nhau:
Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đây đã chịu già tom.
(Tự tình I - Hồ Xuân Hương)
Đặt những câu thơ trên vào xã hội phong kiến đầy khuôn khổ đương thời,
ta mới thấy được nét đáng quí ở một Hồ Xuân Hương của sự đột phá, sự khẳng
định mình và của những bước đi táo bạo. Việc bà muốn vượt lên trên số phận,
muốn thoát ra khỏi vòng cổ để đi tìm hạnh phúc cho chính mình như một “dấu
ngoặc” của văn học: cái tôi đã bắt đầu cựa quậy. Khao khát và là một nhu cầu tự
nhiên về thiên chức làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ.
Biết yêu thương đồng nghĩa với biết căm ghét. Vì vậy, nhân danh con
người và vì con người, các tác giả đã hướng ngòi bút của mình vào những lễ
giáo, những thế lực đã chà đạp lên nhân phẩm và quyền sống của con người để
tố cáo, lên án và vạch mặt chúng:
Dấu binh lửa nước non như cũ
Kể hành nhân nào đó chạnh thương
Phận trai già ruổi chiến trường
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
Là một tác phẩm tiêu biểu cho dòng văn học chống chiến tranh, Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm(?) là cái nhìn đầy đủ nhất về tội ác
của các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Chính chiến tranh đã làm tan nát bao gia
đình hạnh phúc, làm vợ xa chồng, làm con mất cha. Những cuộc chiến phi nghĩa
qua đi, chỉ còn lại những nấm mồ vô danh, những con người tàn tật suốt đời và
những nỗi đau khổ của người thân. Những thế lực tàn bạo đã cướp đi cuộc đời,
tuổi xuân, hạnh phúc của con người chỉ để tranh giành quyền lực. Căm thù chiến
tranh nói riêng và những kẻ cướp đi quyền sống của bao người nói chung cũng
là một phương thức thể hiện tình thương yêu và trân trọng với con người.
Ác độc hơn, những thế lực tàn bạo đàn áp con người bằng sự hành hạ về
tinh thần với những cuộc tra tấn dài dằng dặc:
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Trong mười lăm năm đời mình, Kiều chịu nhiều đau khổ và nhục nhã.
Nguyễn Du đã vạch ra những xấu xa của xã hội phong kiến, những tàn nhẫn của
số phận lưu lạc ấy. Xã hội Kiều sống là xã hội của lầu xanh nhan nhản, nơi mà
công bằng được đổi bằng tiền, quyền lực trong tay kẻ giàu có… Sống trong xã
hội ghê tởm ấy, những số phận như Kiều không phải là ít. Kết thúc của cuộc đời
họ có thể là những cái chết không có sự khóc thương của người thân, những
nấm mồ nơi đất khách quê người, cũng có thể là cái chết mòn mỏi trong tâm hồn
cô độc, bị nỗi buồn gặm nhấm và loại ra ngoài xã hội. Không phải ai cũng có
được cái kết thúc may mắn như Kiều.
Những tác phẩm của những cảm hứng nhân văn, nhân đạo giai đoạn nửa
cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX là đóng góp quí giá cho nền văn học dân
tộc. Nó đã thực hiện được một phần nhiệm vụ muôn đời của văn học: cải tạo xã
hội và đem đến niềm vui sống, những ước mơ khát vọng tốt đẹp của con người
trong xã hội đầy loạn li, xấu xa lúc bấy giờ.
LÊ NILA
Lớp 11 Văn Trường Phổ thông Năng khiếu
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Bài dự thi của bạn Nila diễn đạt rành mạch, rõ ràng có sức thuyết phục,
phân tích nêu bật được nội dung của chủ đề cần nói lên (cảm hứng nhân văn,
nhân đạo…). Phần nhập đề và kết thúc bài nhẹ nhàng, không gượng ép. Phần
thân bài phân tích rất trôi chảy, thuyết phục, tuy nhiên, tôi xin có vài góp ý để
phần thân bài của bạn Nila hoàn thiện hơn.
Đề bài chỉ yêu cầu ta chọn, phân tích một (hoặc một số) tác phẩm tiêu
biểu để làm nổi bật cảm hứng nhân văn, nhân đạo của văn học Việt Nam từ cuối
thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Nhưng để bài viết của ta đầy đủ hơn, ta
nên nêu vài nét về hoàn cảnh xã hội lịch sử của nước ta ở giai đoạn này, từ đó
xuất hiện những tác phẩm mang tính nhân đạo của tác giả đương thời…
Trịnh Ngọc Như Uyên
Lớp 11, Trường Nguyễn Thượng Hiền Thành phố Hồ Chí Minh
Bài 15
ĐỀ BÀI
Phân tích khổ thơ thứ hai trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
BÀI LÀM
Nếu ví Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là một bức tranh thu thì bốn khổ
thơ có thể coi là bộ tứ hình làm nên kiệt tác ấy. Trong đó, khổ thơ thứ hai tuy chỉ
là một màn nhỏ nhưng là màn sâu đậm nhất, sống động nhất, đã thâu tóm bước
đi của mùa thu trong một góc vườn:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Mùa thu đã đến thật rồi. Từ phút giao mùa đầy ngỡ ngàng “Đây mùa thu
tới, mùa thu tới”, sang khổ hai, mùa thu đã bắt đầu hành trình xâm chiếm của nó
ở cấp độ vi mô, từ những tế bào của sự sống:
Hơn một loài hoa đã rụng cành.
Câu thơ mang đậm phong cách Xuân Diệu. Tại sao lại là “hơn một loài
hoa” chứ không phải “đã mấy loài hoa rụng dưới cành” như Thế Lữ đã từng sửa
cho Xuân Diệu? “Một” là duy nhất nhưng “hơn một” thì cái thế độc tôn ấy đã bị
phá vỡ. “Hơn một” chứ không phải “nhiều” vì mùa thu chỉ mới vừa chạm ngõ đất
trời, chỉ mới dệt những đường chỉ đầu tiên của chiếc “áo mơ phai” tuyệt đẹp.
Cách diễn đạt mới lạ, độc đáo và tinh tế và chính xác vô cùng. Nhưng không chỉ
lại ở sự tàn phai, rơi rụng của “bông hoa rứt cánh rơi xuống giếng” (ý thu), mùa
thu còn tràn sang những cảnh vật khác.
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh.
Thu đến thì lá chuyển màu, điều này Xuân Diệu không phải là người đầu
tiên nhắc tới, nhưng khác một chữ “rủa” với âm vựng thấp, nặng để miêu tả
những biến chuyển tinh vi ấy, chàng thi sĩ say mê Rimbaud và Verlain đã mượn
cách diễn đạt của Pháp để tạo nên thế xung đột gay gắt và sự thắng thế từ từ
của mùa thu Thế đòn bẩy ở đây đã làm cho sự tương phản giữa sức sống và tàn
phai, giữa hạ và thu càng thêm mãnh liệt. Bức tranh dịu dàng vớ: sắc “mơ phai”
ở khổ một đã được chấm phá thêm hai mảng màu đậm, làm nổi bật lên hình hài,
dấu vết của mùa thu. Chính vì vậy mà tuy không có một chữ “thu”, bước đi của
mùa thu trong câu thơ vẫn hiện lên rõ nét.
Và không chỉ cảm nhận mùa thu bằng thị giác, Xuân Diệu còn mở rộng
hồn mình để đón nhận “những luồng run rẩy” của cảm xúc, của mùa thu:
Những luồng run rẩy rung rinh lá.
Biện pháp điệp phụ âm ở khổ đầu lại một lần nữa tỏ ra vô cùng đắt địa.
Bốn âm rung “r” liên tiếp không chỉ khắc họa tinh tế chuyển động run rẩy của lá
cây mà khiến câu thơ đọc lên cũng nghe rung rinh một điệu nhạc. Có người võ
đoán rằng “luồng run rẩy” ở đây là luồng gió nhưng nếu vậy thì câu thơ chỉ dừng
lại ở việc tả gió chứ không gợi rét, đâu thể chuyển tải được những cảm nhận tinh
vi, bén nhạy của nhà thơ. “Luồng run rẩy” ở đây chính là cái rùng mình của cây
lá, là luồng run rẩy của cảm xúc “khắp mình tôi run rẩy tựa dây đàn”. Tâm hồn
nhà thơ mỏng manh quá, đa cảm quá, tưởng như chỉ cần chạm khẽ, đụng hờ
cũng rung lên những tiếng tơ lòng. Lấy chuyển động của cây để tả gió, gợi rét,
làm cái rét tuy không hiện ra mà như thấm sâu, ngấm vào từng dòng nhựa sống.
Cái tài, cái độc đáo của Xuân Diệu chính ở chỗ đó.
Khổ thơ kết thúc ở hình ảnh những nhánh cây khô gầy, gân guốc như
chạm khắc lên nền trời. Mùa thu đã hoàn tất giai đoạn của một hành trình đi tới.
Nó không chỉ tước hết lá trên cành mà còn tước đi cả sự sống, cả dáng vẻ mạnh
mẽ của những thân cây. Cây cối dường như cũng trở nên yếu đuối hơn, như thu
mình lại trong nỗi cô đơn, buồn bã:
Cây bên đường trụi lá đứng tần ngần
Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái.
(Tiếng gió)
Và lòng người cũng chùng xuống, nao nao trong nỗi buồn man mác mà
lắng sâu.
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Câu thơ bảy chữ mà đã có đến sáu thanh bằng, tạo cảm giác ngưng đọng,
ngừng nghỉ như dấu lặng giữa bản nhạc để dư ba, dư âm của khổ thơ ngân mãi
và bắc cầu sang khổ thứ ba.
Tuy chỉ là bốn câu trong bài Đây mùa thu tới nhưng nếu đứng một mình,
khổ thơ trên có thể sánh ngang với một bài tứ tuyệt hoàn mỹ bởi sự dồn nén của
cảm xúc, nói ít nhưng gợi nhiều. Vẫn là hoa lá, cỏ cây, thi liệu cổ điển, nhưng
đến đây Xuân Diệu, dưới lăng kính một tâm hồn “dào dạt sức sống”, chúng bỗng
như được thổi một luồng gió mới, mang nặng cảm quan của tác giả: Và đằng
sau những dòng chữ run rẩy, xao động kia phải chăng là nỗi ám ảnh không
nguôi về thời gian của Xuân Diệu, là sự “vội vàng”, cuống quít trước “độ phai tàn
sắp sửa” của cái đẹp, của thiên nhiên. Bức tranh mùa thu không chỉ đóng khung
trong 28 chữ mà như cựa quậy, xôn xao trên mặt giấy, trong lòng người. Ngòi
bút tài hoa của Xuân Diệu như tung hoành trên trang giấy, phác đường này,
chấm phá mảnh kia mà tạo nên cái hồn của khung cảnh. Khổ thơ đã góp một
phần không nhỏ làm nên thành công cho toàn bài cũng như chứng tỏ lời nhận
định của tác giả Thi nhân Việt Nam: “Xuân Diệu - mới nhất trong các nhà thơ
mới” là hoàn toàn chính xác.
NGUYỄN THANH HƯƠNG
Lớp 11 Trường THPT Quỳnh Lưu, Nghệ An
Bài 16
ĐỀ BÀI
Bình giảng bài thơ Nắng mới của Lưu Trọng Lư.
BÀI LÀM
Giữa những cung bậc rộn ràng của phong trào “Thơ mới” Lưu Trọng Lư
chỉ ra “một nốt trầm xao xuyến”, vang lên rất nhẹ, rất êm nhưng lắng đọng và lan
tỏa mãi trong lòng người. Không thoát lên như Thế Lữ, không điên cuồng như
Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư lặng lẽ tìm cho mình một lối rẽ về quá khứ, về
những hồi ức lung linh, sâu lắng trong tâm hồn. Nắng mới là một trong những bài
thơ như thế. Ta bắt gặp ở đây một tâm hồn đằm thắm, mỏng manh và một nỗi
buồn sâu lắng khiến ai đọc qua chỉ dù một lần cũng không thể nào quên.
Bài thơ trải dài theo mạch cảm xúc, kết cấu đan xen giữa quá khứ và hiện
tại như một hồi ức về người mẹ thân yêu của nhà thơ. Không cần phải là “yên ba
giang thượng” như của Thôi Hiệu, cũng không phải là cái ám ảnh “chiều chiều ra
đứng ngõ sau” trong ca dao - không gian - thời gian nghệ thuật ở đây chỉ là một
buổi trưa buồn bên song cửa. Bình dị nhưng cũng đủ sức lay động lòng người
con nhớ mẹ “ruột đau chín chiều”. Trong tiếng gà trưa xao xác, kỷ niệm chợt ùa
về, đọng đầy trong nỗi nhớ - khúc dạo đầu cất lên đã nghe dìu dặt vang ngân
một nỗi buồn man mác, thiết tha:
Mỗi lần nắng mới hắt lên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không.
Từ “nắng mới” trong tựa lại để một lần nữa được chọn để mở đầu bài thơ
như một sợi dây liên khúc, một nhịp cầu nối về quá khứ xa xưa. Nhưng “nắng
mới” là nắng như thế nào? Người đọc chưa hiểu, chỉ cảm được rằng nắng ở đấy
buồn lắm. Nắng không tươi tắn như trong thơ Hàn Mặc Tử: “Nhìn nắng hàng cau
nắng mới lên”. Dưới con mắt duyên của Xuân Diệu, nắng chỉ là một ảnh hình
quen thuộc, soi rọi vào tiềm thức nhà thơ, gọi về những kỷ niệm xa xưa của một
thời tươi đẹp. Cộng hưởng với màu sắc mới ấy còn có một âm thanh, cũng quen
thuộc và buồn không kém là tiếng gà trưa xao xác não nùng. Từ hình ảnh “nắng
mới hắt” có phần gắt với ba thanh trắc liền ở trên, câu thơ đến đây chợt chùng
hẳn xuống, nặng trĩu một nỗi buồn qua hai từ láy gợi âm nhiều hơn gợi tả “xao
xác”, “não nùng”. Lời thơ viết giản dị, tự nhiên, không một chút cầu kỳ, gọt giũa
đúng như Hoài Thanh đã nhận định: “Lư để lòng mình tràn lan trên mặt giấy”
nhưng vẫn sức lay động lạ kỳ. Kỷ niệm ùa về, lung linh trong màu nắng mới,
đánh thức dậy trong tâm hồn nhà thơ cả một thời dĩ vãng tưởng đã nhạt nhòa:
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không.
Hiện tại trước mắt mờ dần, nhường chỗ cho quá khứ tràn về. Nhịp cầu đã
bắc, hoài niệm mênh mang… “Những ngày không” phải chăng là những ngày ấu
thơ, khi tác giả còn nhỏ, lòng chưa vướng bận điều gì. Vậy tại sao nó lại khắc
sâu trong tâm khảm nhà thơ đến vậy? Bởi vì “những ngày không” ấy đã in dấu
một kỷ niệm hay hình ảnh một người nào?
Mạch thơ liên tục, trải dài sang khổ hai để chuyển hoàn toàn về quá khứ.
Thuyền hồn đã cập bến “ngày xưa”, câu chuyện cổ tích về một người mẹ đã bắt
đầu:
Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ Người đưa trước giậu phơi.
Hình ảnh người mẹ thân yêu của tác giả hiện lên, lúc đầu còn mờ nhạt
nhưng càng về sau càng rõ nét và choán đầy tâm trí. Qua cách nói dường như
đang cố nén niềm thương nhớ chỉ chực dâng trào, ta chợt hiểu ra và đồng cảm
sâu sắc với nỗi buồn của tác giả: người mẹ ấy không còn nữa và tất cả những gì
nhà thơ còn nhớ về mẹ chỉ là chút kỷ niệm nhạt nhòa đọng lại trong tâm hồn non
nớt, thơ ngây của đứa trẻ lên mười. Từ “nắng mới” là cái nắng mỗi độ xuân về,
khi mẹ tác giả thường mang áo ra phơi để áo thơm mùi nắng sau những ngày
đông rét mướt. Nắng thì năm nào chẳng có, sao gọi là “mới”? Nhưng như người
ta thường chờ ngày mùa để ăn “gạo mới”, lòng trẻ vẫn náo nức chờ mong ngày
nắng lại về, để cùng mẹ phơi áo bên giậu thưa. Cũng là “nắng mới” nhưng cái
nắng của quá khứ không “hắt bên song” buồn bã mà tràn đầy sức sống, niềm vui
“reo ngoài nội” vì đó là nắng của những ngày còn mẹ. Từ “reo” như một nốt nhạc
lảnh lót, tươi vui khiến câu thơ chợt bùng lên sức sống. Hình ảnh người mẹ
chưa hiện lên trực tiếp mà chỉ thấp thoáng, lung linh sau màu áo đỏ, sau lưng
giậu nhưng đã gây một ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc. Đó có lẽ cũng
là hình ảnh đẹp đẽ nhất, trìu mến thương yêu nhất mà nhà thơ còn lưu giữ, khắc
sâu trong tâm trí.
Hình dáng mẹ tôi chửa xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.
Mạch thơ lại quay về hiện tại, nhà thơ sực tỉnh nhưng vẫn chưa hết thổn
thức, bồi hồi. Hình ảnh người mẹ vẫn còn đó, nơi đồng nội, giậu phơi, nơi hiên
nhà, song cửa… Dường như đâu đâu cũng in bóng dáng mẹ, vương hơi ấm của
mẹ nên nỗi nhớ lúc nào cũng chỉ chực dâng trào. Và phải chăng “nắng mới” chỉ
như cái cớ, chỉ là giọt nước làm tràn đầy ly thương nhớ.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “nét cười đen nhánh”, như một nốt lặng
cuối bản nhạc để dư ba, dư vị của ý thơ còn lan tỏa mãi trong lòng người đọc.
Đây là chi tiết duy nhất miêu tả người mẹ nhưng nó cũng là điểm son hội tụ tất
cả cái hồn của bức chân dung. Không phải là “nụ cười” hay “miệng cười” mà là
“nét cười” vì cái cười ấy rất kín đáo, rất nhẹ, rất nhanh, dường như chỉ lướt qua
trên khuôn mặt chứ chưa kịp đọng lại thành một nụ cười, mà lại là “nét cười đen
nhánh” nữa. Lưu Trọng Lư không nói thẳng như Hoàng Cầm:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng.
(Bên kia sông Đuống)
Mà lại “đi tắt” để tạo nên một kết hợp từ độc đáo và thú vị, hay nói theo
cách của Hoài Thanh: “câu thơ mất đi một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều mơ
mộng”. Hình ảnh “tay áo” đã đẩy “nét cười” ra phía sau, tạo nên độ sâu cho bức
tranh, đồng thời tăng thêm sức duyên dáng, gợi cảm cho “nét cười”. Ta đã từng
bắt gặp trong thơ Hàn Mặc Tử một hình ảnh cũng đẹp và tinh tế như thế; “Lá
trúc che ngang mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ Dạ) nhưng có lẽ hình ảnh “nét cười”
ở đây có hồn, có sức gợi cảm hơn nhiều vì đó là khoảnh khắc, là hình ảnh đẹp
đẽ nhất mà ống kính tâm hồn nhà thơ đã chụp được và lưu trữ mãi. Hình ảnh
người mẹ quá cố của nhà thơ từ đầu đến cuối chỉ được phác họa qua ba chi tiết:
“nắng mới”, “áo đỏ” và “nét cười”, trong những giây phút xuất thần của họa sĩ -
thi sĩ Lưu Trọng Lư, nó đã để lại một ấn tượng đẹp và sâu sắc. Phải chăng là vì
ta chợt bắt gặp trong hình ảnh đó một cái gì rất đỗi thân quen như của mẹ ta mà
cũng là của tất cả nhưng người phụ nữ Việt Nam thầm lặng hy sinh, thương yêu,
chăm sóc chồng con suốt cả cuộc đời.
Nắng mới là một bài thơ thoạt đọc qua không có gì đặc biệt, nhưng nếu có
một tâm hồn đồng cảm, một tình yêu sâu nặng với người đã sinh thành ra mình
thì bài thơ thực sự là một tiếng đàn đồng điệu. Hoài Thanh đã từng nói: “Thơ
Lưu Trọng Lư không phải là một bài thơ, nghĩa là không phải là một công trình
nghệ thuật mà là tiếng lòng thổn thức hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”.
TRẦN THỊ NHƯ THẮNG
Lớp 11C Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong
Thành phố Hồ Chí Minh.
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Bài viết của bạn có chiều sâu, sự đồng cảm sâu sắc về bài thơ cũng như
tâm trạng nhớ mẹ của tác giả. Sự tìm tòi khá công phu của bạn được minh
chứng qua việc dẫn chứng thơ văn của các tác giả Hoàng Cầm, Hàn Mặc Tử…
một cách khéo léo. Người đọc không chỉ bị thu hút ngay ở phần mở bài - một mở
bài nhẹ nhàng gây ấn tượng, mà còn bị thuyết phục bởi cách lập luận phân tích
chặt chẽ sau đó. Bài viết đã thật sự khám phá, lột tả được tâm trạng của tác giả
gửi gắm trong thơ, chuyển tải được những xúc cảm, nghĩ suy của nhà thơ đến
người đọc. Bài viết càng tinh tế hơn khi bạn phân tích chi tiết “nắng mới”, “nét
cười đen nhánh sau tay áo” của người mẹ bằng nhận định thật đích xác, diễn
đạt hay như “nắng mới chỉ như cái cớ, chỉ là giọt nước làm tràn đầy ly thương
nhớ”. Và bạn thật tài tình khi chọn cho mình một cách kết khép lại bài viết làm
cho người đọc cứ day dứt mãi…
Trịnh Nga Như Uyên
Lớp 11 Trường Nguyễn Thượng Hiền
Thành phố Hồ Chí Minh
Bài 17
ĐỀ BÀI
Dòng sông trôi đi mang theo bao kỷ niệm của con người. Em hãy trở về
dòng sông ấy để hồi ức một kỷ niệm sâu sắc của em.
BÀI LÀM
Dòng sông giống như một dòng thời gian, trôi đi mang theo những kỷ niệm
của con người. Dù thời gian có là vô thủy vô chung vẫn có những kỷ niệm người
ta không bao giờ và không thể nào quên. Với riêng tôi, đó là một ngày định
mệnh.
Quê hương tôi là một xã nghèo ven thị trấn. Nơi ấy có dòng sông xanh
mát, nước xanh thăm thẳm. Con sông đã ru êm tôi suốt những ngày thơ dại,
nghe tôi rủ rỉ mỗi khi buồn vui. Con sông lớn cùng tuổi hồn nhiên thơ mộng của
tôi. Cho đến một hôm…
Bữa ấy như thường lệ, sau giờ tan học, tôi ngồi bên bờ sông. Đó là một
buổi chiều rất đẹp. Nắng đã tắt. Gió thổi vi vu mát rượi. Hoàng hôn tím thẫm.
Yên tĩnh và vắng vẻ. Cảnh hoang sơ làm lòng người thanh thản, không gợi chút
âu lo. Còn gì đẹp hơn là đồng quê yêu dấu? Còn gì ngọt mát như nước sông
xanh thắm? Ý nghĩ được vục nước rửa mặt làm tôi thấy tỉnh táo hẳn lên. Men
theo những phiến đá bắc ngang sông, tôi không chú ý rằng mùa này đá đã phủ
đầy rêu xanh trơn ướt… Khi tới giữa dòng, tôi thích thú ngồi tụt xuống, vốc từng
hợp ngọt mát lên mặt. Nước sông như dòng sữa mẹ dịu hiền, vị ngọt thấm lên
bờ môi. Tôi vui sướng cất tiếng cười sảng khoái. Ôi! Sông của tình thương da
diết, sông mẹ hiền của muôn đời. Có ngờ đâu trong một phút vô ý, rêu xanh đã
làm tôi trượt bước, sông mẹ hiền thành nước xoáy hung dữ. Tôi hoảng sợ không
biết phải làm gì. Dân miền sông nước nhưng tôi nào biết bơi. Tôi chỉ biết kêu la
cho đến khi bị nước xiết nhấn chìm. Trong giây phút kinh khủng ấy, rất nhiều kỷ
niệm, nhiều gương mặt thân quen tràn về trong mắt tôi. Nào là những ngày đi
học, những buổi hái sim trên đồi. Nào là những trận cãi nhau với con Tý nhà
bên, cái thói ăn gian của thằng Cò… Và trên hết là gương mặt âu lo của cha mẹ
tôi. Cha mẹ thương tôi lắm, làm sao có thể sống được nếu thiếu tôi?… Cứ thế
dòng nước xoáy và dòng kỷ niệm nhấn chìm tôi, nhấn chìm cho đến khi tôi
không còn biết gì…
Khi tôi tỉnh dậy đã thấy cha mẹ ngồi bên giường. Thấy tôi mở mắt, đôi mắt
ưu tư của mẹ vụt sáng lên rồi lại buồn thảm hơn. Cha trầm ngâm đau đớn bảo
tôi:
“Con có biết anh Mẫn nhà bác Đức đã cứu con không?”.
Anh Mẫn là hàng xóm của tôi. Anh mới xuất ngũ về và rất hay cùng tôi ra
sông ngắm hoàng hôn. Anh bảo: “Sông cũng là tâm hồn của con người, sau này
lớn lên em sẽ hiểu”. Dạo gần đây, bệnh lao của anh tái phát mạnh nên bác Đức
không cho anh ra ngoài. Theo lời cha kể, tôi biết buổi chiều ấy, anh cảm thấy
người hơi khỏe lại nên mới ra sông để hít thở khí trời.
Nghe tiếng tôi kêu cứu, anh đã… Nhưng sức anh chỉ đưa tôi vào đến bờ
chứ đương cự làm sao với dòng nước rộng lớn. Anh cứu được tôi nhưng bệnh
tình anh càng nặng. Khi được đưa đến bệnh viện, anh chỉ còn thoi thóp thở. Anh
đã ra đi trước khi tôi nói lời cảm ơn.
Bầu trời vẫn xanh và cao, con sông vẫn xuôi dòng nước chảy nhưng
không bao giờ anh còn có thể nhìn thấy chúng. Đối với mọi người trên thế gian
này, đó là một cái chết bình thường nhưng với riêng tôi đó là một điều day dứt,
sự biết ơn khôn nguôi đối với một người rất cao cả. Một cái ơn không bao giờ trả
nổi.
Hoa vẫn đua thắm, chim vẫn hót xang, mọi vật vẫn tuần hoàn nhưng anh
đă không còn. Đêm qua trên bầu trời có một ngôi sao vừa tắt. Phải chăng là ngôi
sao định mệnh của anh?
Chuyện xảy ra lâu lắm rồi. Tôi vẫn yêu quí con sông quê hương. Nhưng
tôi biết: thiên nhiên chẳng bao giờ cũng hiền hòa dịu êm, chỉ có tình thương lòng
cao cả của con người là vĩnh cửu. Và tôi tin rằng, linh hồn anh là một ngôi sao
bất tử.
Bây giờ tôi đã rời xa quê hương, theo gia đình vào Nam sinh sống. Tám
năm rồi tôi chưa có dịp về thăm quê, thăm lại con sông với những kỷ niệm vui
buồn. Nhưng tôi biết, sẽ có một ngày, tôi tìm về lại chốn xưa, sống với nguồn
cội, và… thắp nén nhang lên mộ anh - tri ân một tấm lòng. Xin mượn lời thơ Tố
Hữu viết cho một con người vĩ đại để gửi đến anh:
Chỉ biết quên mình hết thảy
Những dòng sông chảy nặng phù sa.
PHẠM THỊ THANH NGA
Lớp 11 Văn Trường Phổ thông Năng khiếu
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Dòng sông tuổi thơ: có lẽ đó là niềm cảm xúc lớn mỗi khi chúng ta viết về
nó. Tôi thật sự đồng cảm với bạn Nga bởi tôi nghĩ: trong cuộc sống, ai cũng có
những điều gì đó để nhớ, để thương, để hoài niệm và hy vọng. Và thật đáng quý
khi những ký ức ấy giúp chúng ta ngày càng sống tốt hơn, nhìn lại nó để thấy
rằng mình phải có trách nhiệm hơn với cuộc sống này, với những gì mà ta đã
nhận được. Tôi thấy đó là điều tốt mà bài văn đã tác động tới bạn đọc. Tuy
nhiên, trong câu “Men theo những phiến đá bắc ngang sông” hình như có điều gì
không ổn. Người ta thường nói “cây cầu bắc ngang sông”, còn “những phiến đá”
chúng ta có thể dùng từ khác để diễn đạt có lẽ sẽ xuôi tai hơn.
Dù sao thì tôi cũng trân trọng và chia sẻ với bạn về một kỷ niệm sâu sắc
của tuổi thơ. Tuy bài văn chưa thật hoàn hảo nhưng là tấm lòng khi chúng ta biết
“… thắp nén nhang lên mộ anh - tri ân một tấm lòng”. Bởi biết rằng: dù anh đã
vĩnh viễn rời xa nhưng những gì anh đã làm sẽ làm điểm tựa cho ta sống tốt
hơn!
Phan Thụy Duy Ngân
Sinh viên Trường Đại học Đà Lạt
Bài 18
ĐỀ BÀI
Hãy chứng minh rằng, truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam là một bài
thơ trữ tình đầy xót thương.
BÀI LÀM
Văn chương là thế giới rộng lớn của tâm hồn. Bạn có thể yêu thơ Xuân
Diệu, những vần thơ tình “tình nhất” cũng có thể bâng khuâng, u buồn trong nỗi
nhớ “trời rộng sông dài” cùng Huy Cận… còn tôi, tôi lại yêu văn Thạch Lam, yêu
cái chất dịu dàng sâu lắng và đằm thắm ấy. Thạch Lam viết văn như làm thơ và
Hai đứa trẻ đã là một bài thơ buồn phố huyện làm rung động hồn người hơn nửa
thế kỷ qua…
Thạch Lam tuy là thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng tư tưởng nghệ
thuật cũng như khuynh hướng thẩm mỹ của ông lại đi theo một hướng khác.
Ngòi bút của ông chứa đựng biết bao nhiêu xúc cảm chân thành, những suy tư,
trở trăn, ray rứt khi tìm đến với những kiếp người bé nhỏ, tối tăm và lặng lẽ.
Thạch Lam đã sống cùng những buồn vui của những con người mà nhà văn hết
lòng yêu mến. Những trang viết thắm đượm tình thương yêu đồng loại, còn nóng
bỏng biết bao nhiêu nước mắt xót thương đã làm cho Thạch Lam không còn chỉ
đơn thuần là cây bút lãng mạn, đã làm cho truyện không còn chỉ là truyện.
Truyện đã thành thơ, những bài thơ trữ tình đầy xót xa và thương cảm…
Được trích từ tập Nắng trong vườn, có thể nói Hai đứa trẻ là một trong
những sáng tác thành công nhất của Thạch Lam. Giống như bao truyện tâm
trạng khác, Hai đứa trẻ là một chuỗi những nghĩ suy nội tâm, là sự phát triển liên
tục và sinh động tình cảm của nhân vật trữ tình, ở đây, tất cả khung cảnh phố
huyện, thiên nhiên, con người được hiển hiện qua tâm hồn ngây thơ bé bỏng
của Liên, trong những nghĩ suy triền miên dai dẳng của chị và tất cả lại được đặt
dưới cái nhìn đầy cảm thương của nhà văn.
… “Khi tiếng trống thu không gọi buổi chiều, phương tây đỏ rực như lửa
cháy, tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời…”. Thạch Lam đã mở đầu truyện bằng
những câu văn đậm chất thơ như thế! Chiều. Chiều rồi, một buổi chiều “êm ả
như ru” có âm thanh, có sắc màu của ánh sáng song sự tồn tại của nó lại không
dài lâu. Sự vật đang lụi tàn dần đi nhường chỗ cho bóng tối. Bóng tối đã đong
đầy đôi mắt của Liên, đã ngập tràn phố huyện và cái buồn của buổi chiều quê
thấm dần vào hồn người đọc. Thiên nhiên trở thành cái nền của bài thơ phố
huyện và cứ thế bỗng chốc, buồn cảnh, buồn tình - những nỗi buồn đan xen và
lan tỏa mênh mông. Thạch Lam đã miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống
nghèo đói đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra, lặp đi lặp lại hàng ngày của phố huyện
bằng tấm lòng trân trọng xót thương. Nghĩa là ngày nào Liên cũng sẽ thấy nỗi
buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn, thấy cái vẻ đìu hiu, ảm đạm và thấy
cả cái mùi “âm ẩm bốc in”, cái mùi của quê hương. Đọc đến câu văn này, làm
sao có thể nén được xót đau. Mùi nghèo đói xác xơ, mùi ẩm, mùi chợ búa thành
mùi quê hương… Đặc biệt Thạch Lam đã dựng lên một nhân vật có sức chi
phối, ám ảnh và có tính hiện thực cao. Đó là nhân vật “bóng tối”. Bóng tôi ấy bao
trùm, vây lấp toàn bộ cuộc sống phố huyện. Nó đè nặng lên những mảnh đời
nhỏ bé lắt lay, heo hút. Tất cả mọi sinh hoạt đều diễn ra dưới màn đêm ấy. “Một
đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”, đẹp thật, thơ thật và cũng
rất buồn. Thiên nhiên nơi phố huyện không thoát được ra ngoài bóng tối. Bóng
tối như một con quái vật nuốt chửng cuộc sống vốn đã thầm lặng vào miền tối
tăm. Những cuộc đời như cuộc đời của chị Tí, vợ chồng bác hát xẩm, bác Siêu,
bà cụ Thi điên rồi cả An và Liên nữa là những dấu chấm nhỏ xíu, bỏng rát chìm
vào cái nền đen đặc của bóng đêm. Chị Tí ngày đi mò cua bắt ốc, tối đến mới
dọn cái hàng nước đơn sơ, bác Siêu kẽo kẹt với gánh phở, cụ hồng bác xẩm với
tiếng đàn bầu rơi vào quạnh hiu, bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách lẫn
trong bóng tối, còn An và Liên cùng gian hàng bé tí tẹo với vài thứ đồ lặt vặt.
Ngần ấy con người trông chờ vào một cái gì tươi sáng nhưng cái “tươi sáng” ấy
là cái gì? Có phải là một chuyến tàu đêm ngang qua phố huyện Cẩm Giàng, nằm
nghiêng nghiêng bên con đường sắt Hà Nội - Hải Phòng. Nơi đó, một thời Thạch
Lam đã sống cùng gia đình. Nhà văn đã thật xót xa khi miêu tả cuộc sống quẩn
quanh tù động, ế ẩm và ngao ngán nơi đây. Không phải ngẫu nhiên Thạch Lam
lại để cho cái “ánh sáng từ ngọn đèn chị Tí” trở đi trở lại trong truyện tới bảy lần
mà đó là biểu tượng về cuộc đời của những con người nơi đây, leo lét nhỏ bé
mong manh như ánh sáng yếu ớt nhờ nhờ từ ngọn đèn ấy.
Trong số những người chờ đợi chuyến tàu đêm, tác giả đã đặc biệt khắc
họa An và Liên. Hai chị em tối nào cũng ngồi trên cái chõng tre ngắm nhìn khung
cảnh phố huyện và đợi chờ chuyến tàu qua. Những câu văn đậm chất thơ trải
dài và dìu dịu nỗi buồn thương. Liên nhìn trời đêm, nhìn vũ trụ bao la và trong
đôi mắt dịu dàng, thơ ngây của chị đong đầy bóng tối nhưng cũng đong đầy cả
niềm khao khát nữa. An và Liên đợi chờ chuyến tàu như đợi chờ một điều gì
thiêng liêng nhất, dù buồn ngủ níu cả mắt mà vẫn cố thức. Chẳng phải là chua
xót lắm sao? Một chuyến tàu đêm ngang qua lại là tất cả những gì mơ ước của
trẻ thơ. Bởi lẽ cuộc sống lạc lõng, quẩn quanh tù đọng này đã chẳng cho phép
người ta mơ tới một điều gì cao hơn. Tất cả, vâng, tất cả là một chuyến tàu đêm
mang theo ánh sáng, mang theo tiếng còi vang vọng, vụt đến rồi đi, chuyến tàu
làm Liên nhớ về Hà Nội, một Hà Nội xa xăm đầy ánh sáng, một thế giới khác rất
xa, rất xa..
Truyện chỉ có thế, như là không có truyện, một thoáng đời nghèo đến xót
xa được viết ra bằng những dòng thương cảm, bằng những rung động lặn sâu ở
bên trong. Hai đứa trẻ đợi chờ một chuyến tàu đêm đầy ánh sáng, chỉ thế thôi
nhưng Thạch Lam đã đẩy truyện ngắn Hai đứa trẻ thành một bài thơ trữ tình đầy
xót thương.
TRẦN THỊ NHÂM
Lớp 12B Trường THPT Chí Linh, Hải Dương
CÁC Ý KIẾN NHẬN XÉT
Theo yêu cầu của đề thi có hai ý cần chứng minh: truyện ngắn Hai đứa trẻ
của Thạch Lam là một bài thơ, và bài thơ ấy là bài thơ trữ tình đầy xót thương.
Sở dĩ gọi là “bài thơ” vì chất giọng nhẹ nhàng, sâu lắng, câu văn giản dị mà thấm
thía, nhiều hình ảnh, cảm khi tác giả đi sâu khám phá thế giới nội tâm đầy rung
động tinh tế của những con người nơi phố huyện. Đây là đặc trưng của văn
Thạch Lam. Về ý này, Nhâm đã làm nhưng chưa rõ lắm, chưa đi sâu phân tích
câu văn (chẳng hạn như đoạn tác giả tả cảnh chiều muộn ở miền quê với phần
nhiều vần bằng, phác họa nên bức tranh thiên nhiên đẹp, thơ mộng và trữ tình).
Về ý hai thì Nhâm - với câu văn trong sáng, tự nhiên đã lột tả được niềm
cảm thương pha lẫn nỗi xót xa của Thạch Lam đối với những mảnh đời nhỏ bé,
tội nghiệp trong vòng tù đọng, quẩn quanh và bế tắc. Đây là điều đáng trân trọng
ở bài viết. Tuy nhiên, còn hạn chế nhỏ: đó là khi nhắc đến tâm trạng đợi tàu của
chị em Liên, Nhâm chưa nhấn mạnh đến giá trị cao nhất của tác phẩm: giá trị
nhân đạo sâu sắc. Tác giả từ cảm thương đến trân trọng và phát hiện ra khát
vọng sống, niềm tin và sự tha thiết với cuộc đời, tương lai… trong tâm hồn
những con người nơi phố huyện nghèo nàn.
Dù còn hạn chế, bài làm của Nhâm khá hay và Nhâm đã thực sự sống
cùng nhân vật và tác giả Thạch Lam khi đến với Hai đứa trẻ.
Giang Tử Bình
(Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh)
Cảm nhận nổi bật từ bài văn là sự nhẹ nhàng - nhẹ nhàng bởi giọng điệu,
bởi cách viết văn mà bạn Nhâm mang đến cho người đọc. Truyện ngắn Hai đứa
trẻ của nhà văn Thạch Lam là bài thơ trữ tình đầy “xót thương” được bạn chứng
minh với những chi tiết chọn lọc, đặc sắc nhất của truyện ngắn: “mùi nghèo đói
xác xơ, mùi ẩm, mùi chợ búa thành mùi quê hương…” hay như là phát hiện độc
đáo: “một nhân vật có sức chi phối, ám ảnh và có tính hiện thực cao. Đó là nhân
vật “bóng tối”… đè nặng những mảnh đời nhỏ bé lắt lay, heo hút”. Câu văn viết
ra giàu cảm xúc với những câu hỏi mà bạn tự trả lời: “Ngần ấy con người trông
chờ vào một cái gì tươi sáng nhưng cái “tươi sáng” ấy là cái gì?…” cũng gợi lên
ở người đọc không ít băn khoăn đồng cảm!
Nhìn chung, bài viết của Nhâm đi sâu và đáp ứng được khá tốt yêu cầu
của đề bài nhưng, giá như Nhâm liên hệ so sánh thêm với vài nhà văn gần gũi
cùng thời như Khái Hưng, Nhất Linh… để làm nổi bật chất thơ trong lối văn của
Thạch Lam thì bài viết sẽ phong phú và đầy đủ hơn…
Bổ sung đôi nét về bối cảnh xã hội, tình hình chung văn học 1930 - 1945
hoạt động, ảnh hưởng của nhóm Tự lực văn đoàn (mà Thạch Lam là một trong
những thành viên) thì bài viết càng tạo ấn tượng sâu nơi người đọc…
Vũ Thị Kim Trang
Lớp 11 Văn Trường Phổ thông Năng khiếu
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Bài 19
ĐỀ BÀI
Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
BÀI LÀM
Chàng không say đắm tình yêu, không “vội vàng” tận hưởng như Xuân
Diệu:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân con non nghĩa là xuân sẽ già.
Cũng không điên cuồng, “đau thương” chất ngất như Hàn Mặc Tử:.
Tôi vẫn còn đây hay đã ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao không phượng nở trong màu huyết?
Nhỏ xuống hồn tôi những giọt châu.
Đến với thơ, không biết chàng có tự hào không khi tâm sự:
Chàng là con một người mẹ hay sầu
Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ.
Vâng! Biết tới chàng, biết tới Huy Cận, người ta luôn bắt gặp một hồn thơ
“mang mang thiên cổ sầu” mà rõ nhất là ở không khí “lửa thiêng của tự ngàn xưa
mà Huy Cận đã đem về nhóm lên trong lòng người một nỗi buồn triền miên day
dứt”. Ngọn “lửa thiêng” ấy bốc lên từ những rung động với tình cảm đẹp quê
hương, bốc lên từ những giao cảm của hồn thơ với nước biếc sông tanh mênh
mông và cũng đẹp vô cùng khi in sâu vào lòng thi sĩ. Tràng giang chính là một
trường hợp riêng!
Thoạt nghe, hai chữ Tràng giang dễ làm cho người đọc nhớ đến một con
sông dài hun hút chảy tận cuôí trời, thấp thoáng ven vài rặng liễu đang xõa mớ
tóc buồn vời vợi, đâu đó những chiếc thuyền con vút ẩn vụt hiện rất hữu hình mà
cũng rất nỗi vô hình? Phải chăng nơi đây, đại thi hào Lý Bạch đã ngâm vang:
Cô phàm viễn ảnh bích không tân
Duy kiến Trường giang thiền tế lưu.
(Trời xanh tít cánh buồm xa
Thấy dòng sông chảy ngang qua bầu trời).
Nhưng không! Những đường nét trên chỉ là những thứ “cổ điển” còn sót lại
trong tâm trí, những đường nét ấy cho đến bây giờ đã thật sự mờ phai lâu rồi.
Không, Tràng giang trong thơ Huy Cận không thể nào là Tràng giang (hay từ
“tràng giang”) là do những giao cảm của sông Hồng với nhà thơ. Nhưng đó cũng
chỉ là một ý kiến. Còn với Huy Cận? Khi bàn về thơ mình, nhà thơ đã nói: “Nó có
được cái cảm xúc của muôn vàn dòng sông khác của quê hương”. Vậy ai trả lời
cho ta biết Tràng giang đã có từ đâu? Không biết được, chỉ biết đấy là một dòng
sông dài thăm thẳm, có thể là sông Hồng, cũng rất có thể là một dòng sông nào
đó tự ngàn xưa chảy về hiện tại. Phải chăng, vì thế mà dưới tiêu đề Huy Cận đã
viết: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Hai câu thơ dưới đây cũng đã từng
gây rất nhiều tranh cãi;
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Hai câu thơ như một bức tranh, nhưng lại là một bức tranh có hồn, biết
buồn, biết khóc. Trong bức tranh đó, Huy Cận đã làm gợn lên một lớp sóng, mà
cái “thế” sóng lại rất khó miêu tả. Nó đều đều đồng loạt, không phải là “lăn tăn”,
nó phần nào giống cái thế “nhất là phi”, chỉ khác mỗi chỗ là “nó” nhẹ nhàng, êm
ả. Đó là cái hay khi nhà thơ đã chọn cho thơ một từ láy thật hay: “điệp điệp”. Với
thơ thất ngôn, dĩ nhiên Huy Cận đã sử dụng phép tiểu đối, nhưng lại không đối
cảnh mà lại sử dụng vào việc miêu tả trạng thái. Từ láy “song song” hay không
kém, nó làm tách bật được cái cảnh giữa thuyền và nước trên sông. Từ muôn
đời nay, thuyền và nước luôn quyện vào nhau, nước chở thuyền, thuyền trang
điểm cho bức tranh sông nước. Ấy vậy mà, đọc hai câu trên ta lại thấy một sự
thật phũ phàng: thuyền và nước như hai đối tượng đang di chuyển ngược phía,
lúc nào cũng gần nhau, nhưng tưởng như không bao giờ thấy mặt: “Hữu hình
sao khéo lẩn sau vô hình” - (Lưu Vũ Tích). Phải chăng, cũng vì trả giá cho sự vô
tình ấy mà khi “thuyền về” thì nước lại phải buồn man mác:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng?
Không biết có phải là “buồn man mác” hay không khí thật sự là “sầu trăm
ngả”? Thế mới biết, nước trên sông không chỉ một dòng, mỗi dòng chảy một
phương chính là khi cái sầu đan lại thành “trái sầu rụng rơi” mà rơi vào lòng thi
sĩ. Để rồi trong một tâm trạng buồn, chàng nhìn vào đâu lại thấy ở đó buồn
không kém. Bằng chứng là trên sông, theo như ta trông thấy thì luôn có những
cánh hoa tím trôi xuôi, loại hoa lục bình cũng thật đẹp xinh vậy mà thi nhân -lại
thấy “củi một cành khô” mà lại “lạc mấy dòng”. Vốn dĩ “củi khô” đã không còn
sức sống, mà lại không biết trôi về đâu thì thật là buồn. Câu thơ như gợi nên một
nỗi buồn “dưới đáy sầu nhân thế”. Buồn cho những thân phận bé nhỏ bơ vơ lạc
lõng giữa dòng đời, để rồi một ngày nào đó, hương sắc phai tàn, những gì còn
lại chỉ giống như cái “khô” của một cành cây, vẫn phải còn trôi trong sóng nước
bao la, muôn phương vô định, biết tìm nơi đâu để thấy được bến đỗ yên bình.
Những cái buồn mà dứt câu khi:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Không gian vốn đã rộng nay càng rộng. Có lẽ ở nơi “lơ thơ cồn nhỏ” này
đã từng có một phiên chợ nhộn nhịp. Thế mà nay, tác giả chỉ ước ao được nghe
cái âm thanh ấm áp của con người dù chỉ là những “âm thanh” của một buổi
“vãn chợ chiều” cũng không biết tìm đâu, đến nhà thơ phải cất lên tiếng hỏi đau
lòng: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”; Hai câu cuối lại càng độc đáo, vốn đã
biết trời thì cao, sông thì sâu nay lại nghe “nắng xuống trời lên sâu chót vót” thì
thật lạ. Đã có hơn một lần ta bắt gặp “trời sâu” trong thơ Huy Cận… “Quay theo
tám hướng hỏi trời sâu”. Sao không là “trời cao” mà là “trời sâu”, lại là “sâu chót
vót”? Có lẽ “trời sâu” ở đây chính là những gì in ở đáy sông mà nhà thơ trông
thấy được. Quả nhiên, câu thơ mới “thực” làm sao!
Ta đã từng tiếc bức tranh sông nước đẹp nhưng buồn bởi không có
những cánh lục bình tim tím điểm xuyết, nay vui mừng thấy chút mới mẻ trong
thơ:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng.
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lại thất vọng làm sao khi tất cả những dấu hiệu gì của con người vốn cần
có thì Huy Cận - hay nói đúng hơn là tạo hóa - đã mang đi. “Một chiếc cầu”
không có đã đành nhưng sao lại cũng “không một chuyến đò ngang”? Những gì
có được chỉ là “bèo dạt về đâu” và “bờ xanh tiếp bãi vàng”. Nỗi buồn vì thế mà
tăng lên một bậc. Ngày xưa Trần Tử Ngang khóc:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi lệ hạ.
Dịch nghĩa:
Trước không thấy người đưa
Sau không thấy người đến
Nghĩ trời đất rộng mênh mang
Một mình buồn thương rơi lệ.
Để đau xót cho cái bơ vơ, lạc lõng của con người trong không gian to lớn,
thì nay Huy Cận lại càng buồn đau hơn trước không gian mỗi lúc mỗi rộng thêm
mà con người thì bơ vơ xa vắng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
Có lẽ ba khổ đầu buồn bao nhiêu, thì khổ cuối như tổng hợp tất cả cái
buồn nhân thế. Trong Thu hứng, Đỗ Phủ có viết: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”,
phải chăng là có liên hệ nhân quả đến câu “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” ở
đây? Không biết, chỉ biết cái hoàng hôn bây giờ lại dày đặc hơn bao giờ hết. Mà
cũng lạ, tại sao các khổ thơ trên nhà thơ không nói đến hoàng hôn mà ở đây lại
“nhiều” đến thế! Phải chăng vì bóng chiều sa nhanh quá nên vô tình đã đè cánh
chim bé bỏng, làm cánh chim phải chao nghiêng tưởng chừng sắp gãy. Nhà thơ
Hàn Mặc Tử cũng có một câu tương tự:
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.
(Mùa xuân chín)
Cái “bóng xuân sang” cũng như “bóng chiều” ở đây mới tuyệt làm sao. Nó
tạo cho cái sầu của nhà thơ có một cái thế để rồi:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Nhà thơ đã mượn cái buồn của Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai…
để cộng thêm vào đó nỗi lòng của mình mà kết lại thành một khúc nhạc sầu miên
man không dứt.
Tràng giang thật sự là một bài thơ rất hay trong trào lưu văn học lãng mạn
1930 - 1945. Nó như một ngọn “lửa” rất có hồn góp một phần quan trọng vào sự
thành công của tập Lửa thiêng, vào sự thành công của Huy Cận. Có Tràng
giang, Huy Cận đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng đương thời, có Tràng giang,
lòng người Việt Nam càng thêm yêu quê hương đất nước. Ai đó thật có lý khi nói
rằng: Thơ mới là tiếng nói yêu nước thiết tha của một lớp thanh niên - một lớp
thanh niên mà ngoài những gương mặt tiền phong như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư…
Ta còn bắt gặp trong đó một chàng trai “trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”:
Huy Cận!
PHẠM QUỐC LIÊM
Lớp 12T3 Trường THPT chuyên Hùng Vương
Thị xã Thủ Dầu Một - Bình Dương
Bài 20
ĐỀ BÀI
Phân tích tình cha con qua hai nhân vật Sửu (người cha) và Tí (người
con) trong trích đoạn tác phẩm Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh.
BÀI LÀM
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất quen thuộc của nhân dân Nam Bộ. Ông
là tác giả của hơn 60 cuốn tiểu thuyết, ông được xem là một trong số ít người
tiên phong đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông
chẳng những đã phản ánh một cách phong phú và chân thật cuộc sống của
nhân dân Nam Bộ mà còn thể hiện đạo đức tốt đẹp của con người giữa cuộc
đời. Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng đã nêu bật tình cảm xúc động của nhân vật
cha Sửu và nhân vật con Tí mà đoạn hiện in trong sách Văn 11 là một trường
hợp tiêu biểu.
Trước hết ta thấy đoạn trích hiện lên trước mặt người đọc hình ảnh của ba
nhân vật, song điều đáng quan tâm thì chỉ có hai (Sửu và Tí). Mặc dù chỉ qua
một đoạn trích song số phận nhân vật Sửu hiện lên khá đầy đủ. Trần Văn Sửu
sống trong hoàn cảnh thật éo le. Do vô tình, ông mang tiếng là người giết vợ. Sợ
pháp luật săn đuổi trừng trị, Trần Văn Sửu phải sống chui lủi, đến tên tuổi tung
tích của mình cũng phải tìm cách xóa sạch. Trên 10 năm trời, Trần Văn Sửu phải
chịu đau khổ về thể xác, tâm hồn, chịu cảnh cắn rứt dằn vặt của lương tâm.
Những điều này được thể hiện qua lời nói của nhân vật khi gặp lại bố vợ và đứa
con trai yêu quý của mình. Tác giả chưa miêu tả chiều sâu của nội tâm nhân vật
mà chủ yếu dùng hành động và lời nói để thể hiện phẩm chất đạo đức của Trần
Văn Sửu. Trong hoàn cảnh cuộc sống không đáng sống, thậm chí Trần Văn Sửu
đã sống những ngày không ra cuộc sống của con người nhưng ông đã không
chết được vì lòng thương con, vì sự cắn rứt của lương tâm. Ông vốn là người
lương thiện, hiền lành, chất phác, thương vợ, thương con mà vợ ông lại là con
người đàng điếm lăng loàn. Ông sợ là khi mình chết đi mà các con ông không
hiểu được cha của nó một cách đúng đắn, chúng sẽ sống trong đau khổ vì là con
của người cha tàn bạo. Rõ ràng Trần Văn Sửu có cõi tâm cao thượng chỉ muốn
riêng mình nhận lấy nỗi khổ đau cùng với người vợ bất hạnh, không muốn
những đứa con ngây thơ trong trắng của mình phải chịu vạ lây, không muốn cho
tâm hồn chúng vẩn lên những nỗi đau u uất. Thì ra những năm tháng sống đau
khổ về thể xác, về tâm hồn, ông Sửu đã không chết, vì thương con, vì ý muốn tốt
đẹp cho con.
Ông Sửu bươn bả về làng tìm gặp lại những đứa con sau bao năm tháng
chờ đợi con khôn lớn để có thể giãi bày cùng chúng. Đây là lúc ông có thể thực
hiện được điều tâm niệm ấy. Gặp lại bố vợ, ông Sửu chấp nhận tất cả những lời
mắng nhiếc, sỉ nhục để đạt được mục đích của mình. Trần Văn Sửu đã nói với
cha vợ những lời chứa chan nước mắt đau khổ; làm hiện lên nguyên vẹn tấm
lòng thương con vô hạn của người cha. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến
ông trở thành người cương quyết: “xăm xăm bước đi về cửa”, “lột nón xuống mà
cầm trên tay”. Mặt khác cũng chính vì lòng nhớ thương con, khao khát được gặp
mặt con khiến ông trở thành người mềm yêu một cách chân thực: “… cúi mặt
ngó xuống đất, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng… Trần Văn Sửu nói tới đó rồi
khóc rấm rứt”. Trần Văn Sửu ngồi khóc và than rằng: “Mười một năm nay cực
khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày thấy được mặt con.
Nay về đến đây, chưa gặp con được mà phải đi, thì làm sao được, trời đất ơi!”.
Chỉ bằng một lời than thế thôi mà cũng gợi ra trước mắt ta cuộc đời khổ ải của
Trần Văn Sửu và nỗi lòng yêu thương con da diết, muốn gặp mặt con dù một
chút mà cũng không được. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến Sửu không kiềm
giữ được đã thốt thành lời: (3 lần với Hương thị Tào):
… Con thương sắp nhỏ quá
… Con thương nhớ chúng nó quá tía ơi!
… Con nhớ sắp nhỏ quá.
Chính tấm lòng yêu thương con của ông Sửu đã lay thức và làm bừng tỉnh
những tình cảm tốt lành trong Hương thị Tào. Từ chỗ ông nhiếc mắng ban đầu
“Mày thiệt là đồ khốn nạn lắm. Đi liền bây giờ đi… đừng có về đây nữa” đến chỗ
ông già cũng nghẹn ngào xúc động cùng Sửu: “Hương thị Tào nghe mấy lời
thảm thiết ấy thì cảm động quá, chịu không nỗi, nên ông cũng khóc”. Sau khi
nghe Hương thị Tào cho biết là các con vẫn thương mình, Trần Văn Sửu chỉ
muốn được nhìn thấy mặt chúng dù phải dấu hình mình dưới dạng người Thổ.
Chi tiết đó thể hiện rất rõ nỗi lòng thương con của người cha bất hạnh. Sửu trở
về nhà khao khát gặp con bao nhiêu thì sẵn sàng vui vẻ lặng lẽ ra đi bấy nhiêu
khi biết được các con đã hiểu đúng mình và chúng sắp sửa được sống sung
sướng hạnh phúc. Vì sợ liên lụy đến con, ông Sửu sẵn sàng từ bỏ khát vọng
cháy bỏng trong lòng mình là được gặp lại chúng. Trần Văn Sửu vui lòng “lãnh
các sự đau đớn cực khổ, buồn rầu đó, miễn là con được giàu có, sung sướng thì
thôi”. Vĩnh biệt người bố vợ hiền từ nhân ái, ông Sửu ra đi với quyết tâm không
về nữa.
Bằng một đoạn văn độc thoại nội tâm: “Bây giờ mình còn sống nữa làm gì!
Bấy lâu nay mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống, ấy là vì mình thương con, mình
sợ nó bơ vơ, đói rách, mà tội nghiệp thân nó. Bây giờ mình biết rõ nó thương
mình, nó còn kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy
nữa, vậy thì mình nên chết rồi, chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng hết
buồn rầu, cực khổ nữa”. Một đoạn văn rất mới so với văn học trung đại, Hồ Biểu
Chánh đã tái hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người cha: Sửu trở về cũng là vì
muốn gặp được con, lầm lũi ra đi vĩnh viễn cũng là vì con. Hai thái cực đó làm
hiện lên tấm lòng nhân ái của người cha bất hạnh trong một tình huống éo le. Và
bây giờ ông muốn chết đi, nên chết để. “quên hết việc cũ”, “hết buồn rầu, cực
khổ”, chết để khỏi liên lụy đến con! Tiếp đó Hồ Biểu Chánh đã để cho nhân vật
hồi tưởng lại quá khứ sống vì con, chết vì con của đời mình: (Anh ta nghĩ như
vậy rồi nhắm mắt lại…). Trong trí tưởng tượng của ông Sửu, hình ảnh của người
vợ khi chết như là nỗi ám ảnh về tội lỗi dai dẳng, giày vò tâm can ông. Điều đó
làm cho ông muốn chết và quên đi chuyện cũ để hết nỗi đau khổ. Mặt khác hình
ảnh ngây thơ của những đứa con ngoan ngoãn làm cho ông đau đớn trong lòng,
trong tận cùng của nỗi đau ấy, cái đẹp của lòng lương thiện và tình thương con
cũng ngời sáng. Nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn trích Cha con nghĩa nặng
như là hiện thân của những phẩm chất đạo đức truyền thống giàu tính nhân bản.
Con người hiền lành lương thiện ấy đã phải sống một cuộc đời bất hạnh, song
tình thương con, lòng lương thiện, đức vị tha bao dung của người cha hiện lên
vừa có tác dụng truyền cảm vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Câu chuyện được
kết cấu theo trật tự thời gian, nhân vật được khắc họa chủ yếu qua hành trạng
và lời nói, mục đích sáng tác nhằm giáo huấn, tuyên truyền đạo đức. Đó là
những điều chúng ta thường gặp trong văn học dân gian và văn học trung đại.
Nhìn chung cuộc gặp gỡ giữa Sửu và bố vợ là một trường đoạn bộc lộ tâm
trạng. Đó là một nỗi khao khát tình cảm của người cha đối với con, là sự giãi bày
những uẩn khúc đã giấu trong lòng suốt 11 năm trời. Sở dĩ 11 năm qua Trần
Văn Sửu chưa muốn kết thúc cuộc đời mình chính là mong có phút gặp gỡ cùng
con. Nhưng chưa được gặp con mà đã gặp lại người bố vợ. Ngôn ngữ đối thoại
ở đây đầy tâm trạng và rất xúc động đồng thời mang sắc thái ngôn ngữ Nam Bộ
đặc sắc. Sự phát triển tính cách nhân vật ở đoạn này dựa trên quy luật tâm lí và
hoàn toàn hợp lí. Đó là một thành công trong xây dựng nội tâm nhân vật của tác
giả. Tác giả khéo léo tạo tình huống để nhân vật có thể bộc lộ nội tâm của mình.
Bên cạnh tình cảm của người cha đối với con thật sâu sắc, là tấm lòng
hiếu nghĩa của đứa con khi gặp lại người cha sau 11 năm xa cách. Dường như
11 năm trời hình bóng người cha không thể nào phai mờ trong đứa con hiếu
nghĩa. 11 năm trôi qua, Tí (con) phải sống thiếu tình thương yêu của người cha
đối với mình, chính vì thế khi gặp lại người cha, tình phụ tử trào dâng choán
ngập hết tâm hồn Tí. Lúc này đây Tí chỉ biết có mình cha, khao khát được sống
trong tình thương yêu của người cha.
Tình sâu nghĩa nặng giữa hai cha con Tí đem đến cho ta niềm xúc động
thật thấm thìa. Bởi tình nghĩa đó không hiện diện một phía (Sửu) mà đến từ hai
phía như một sự gặp gỡ vừa tất yếu vừa thiêng liêng. Trước hết tình thương
cha, hiểu cha, muốn gắn bó với cha khiến cho Tí trở nên đĩnh đạc và chủ động.
Nó đĩnh đạc và chủ động hỏi ông ngoại: “Cha tôi đi đâu rồi ông ngoại?”. Đĩnh lạc
và chủ động chạy theo cha khi Sửu bỏ đi. Nó đâm đầu chạy riết theo, tiếng nói
cất lên từ miền sâu thẳm của tình nghĩa phụ tử sao mà xúc động: “Ai đó? Phải
cha đó không, cha?”. Trong khi Trần Văn Sửu muốn tự tử kết thúc cuộc đời đau
khổ của mình thì Tí đến với tấm lòng yêu cha chân thành, đã cứu cha trở về với
cuộc sống. Cảnh cha con gặp nhau thật cảm động, sinh động và giản dị: “Thằng
Tí chạy riết lại nắm tay cha nó, dòm sát trong mặt mà nhìn, rồi ôm cứng trong
lòng mà nói: “Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu dữ vậy”. Lúc ấy Trần Văn Sửu mất trí
khôn, hết nghị lực, máu trong tim chảy thình thịch, nước trong con mắt tuôn ròng
ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết”. Khi gặp được cha rồi,
Tí nhất quyết không rời cha nửa bước. Cậu ta kiên quyết: “cha đi đâu con theo
đó”, “Hễ cha đi thì con đi theo”, “Đi theo đặng làm mà nuôi cha; chừng nào cha
chết rồi con sẽ về”. Mặc dù đã 11 năm không gặp cha, không được cha âu yếm,
nuôi nấng, nhưng khi được gặp, mối tình phụ tử lập tức tràn đầy. Như vậy, Trần
Văn Sửu trở về cũng vì con mà ra đi cũng vì con, cho nên Tí cũng vì cha mà sẵn
sàng đi theo cha để chăm sóc cha quên đi cuộc sống hiện tại của mình… Ấy
chính là cái “nghĩa nặng” của tình cha con thể hiện ở đây.
Tóm lại: Đoạn trích Cha con nghĩa nặng in trong sách giáo khoa Văn 11 là
một cuộc gặp gỡ đầy xúc động và chứa chan nước mắt giữa cha con ông Sửu.
Qua những tình huống đầy kịch tính, tác giả đã nêu bật cái đẹp nội tâm của hình
tượng nhân vật cha và con. Ở đây cha nghĩ về con cũng hết lòng và con đối với
cha cũng hết nghĩa. Đoạn trích bên cạnh nghệ thuật miêu tả dựng cảnh khá hấp
dẫn phải nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả. Cha con nghĩa nặng mang
dấu ấn của thời kỳ đầu văn chương đổi mới theo xu hướng hiện đại. Trước hết
nó được viết bằng chữ quốc ngữ, bằng lời ăn tiếng nói đời thường (bởi ngôn
ngữ đời thường), bằng những câu văn xuôi rất mới mẻ, tuy nhiên vẫn còn rơi rớt
của lối văn biền ngẫu “Trên trời trăng thanh vằng vặc, dưới sông dòng bích nao
nao…”. Truyện mang dấu ấn của buổi giao thời…
VŨ THỊ LOAN
(Lớp 11D, Trường PTTH Xuân Trường, Nam Hà)
NHẬN XÉT
Bài viết đã biết bám sát một số chi tiết trong tác phẩm (trích đoạn) để làm
rõ mối quan hệ tình cảm cha con và nét riêng trong tâm tư của hai nhân vật.
Phân tích tình cảm, tâm trạng người cha khá kĩ, phần phân tích nhân vật “con”
còn sơ lược.
Diễn đạt khá trôi chảy, có cảm xúc. Tuy vậy sự chuyển ý, chuyển đoạn
trong bài chưa thật linh hoạt, tự nhiên. Khả năng bình giá tổng hợp qua phân tích
còn hạn chế.
Bài 21
ĐỀ BÀI
Phân tích nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn trích Cha con nghĩa nặng, từ
đó hãy nêu ý nghĩa “biểu chánh” của tác phẩm.
BÀI LÀM
Ai đã từng đọc tác phẩm Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh hẳn
không khỏi xúc động trước tình cha con thắm thiết của ông Trần Vàn Sửu với hai
người con là Quyên và Tí. Mặc dù gặp hoàn cảnh éo le, trôi dạt, bỏ quê hương
ra đi hơn 11 năm nhưng ông Sửu vẫn luôn hướng về các con, lo cho cuộc sống
vật chất cũng như tinh thần của con mình. Có thể nói, ông Sửu là một người cha
đã chịu bao đau khổ nhưng vẫn luôn nêu cao tình cảm thương con, luôn hi sinh
vì các con. Ông là một người cha thật điển hình, gặp bao khó khăn, khổ ải, thay
tên đổi họ, sống cũng như chết - chết thể xác nhưng tâm hồn vẫn ngời sáng
hướng về các con.
Ông Sửu là một người cha phải chịu đựng bao nỗi đau khổ. Từ lúc còn trai
trẻ, ông đã phải chịu đựng một cuộc sống chung với người vợ thiếu đạo đức.
Nếu đọc từ đầu tác phẩm, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều này. Một con người thật
thà, chăm chỉ, thương vợ thương con như ông mà phải sống với người vợ đàng
điếm, lăng loàn, lại có tính ngoại tình thì thật là bất hạnh. Ngay trong lời nói của
Trần Văn Tí — người con trai ông cũng thể hiện rõ điều đó: “Cưới vợ làm gì?
Cưới vợ đặng báo hại như má báo hại cha hồi trước đó sao?”. Cũng vì người vợ
thiếu đạo đức này cùng với sự nóng tính của mình, ông lại phạm tội ngộ sát vợ
(do một lần Trần Văn Sửu bắt được vợ ngoại tình lại ăn nói láo xược, tức quá,
Sửu xô vợ và không may vợ bị chết). Thế rồi, ông phải bỏ quê hương trốn đi
biệt, sống chui lủi 11 năm trời, thay tên đổi họ. Cuộc đời ông thật bất hạnh, có
nhà cửa, con cái mà cũng như không, phải sống đơn độc nơi đất khách quê
người, từ người Kinh biến thành người Thổ. Ngay cả cái tên Trần Văn Sửu ông
đã mang từ khi lọt lòng mẹ, ông cũng không được giữ lấy mà đành đổi thành
Sơn Rùm. 11 năm ấy ông cũng không được sống thanh thản với cõi lòng mình,
trong ông luôn canh cánh một nỗi lo không dứt: lo cho hai đứa con còn đang ở
quê nhà, lo cho nỗi oan khuất của mình chưa được giải tỏa. Tuy nhiên, cuộc đời
đầy khổ ải trong 11 năm qua của ông cũng chưa được kết thúc khi ông trở lại
quê nhà thăm con. Mục đích trở về làng của ông thật giản dị, trong sáng. Vậy
mà, ông vẫn không được chấp nhận. Ai đã từng là người cha chắc đều thấu hiểu
nỗi đau xót của ông: xa cách con bao nhiêu năm, bây giờ chỉ chờ một lúc nữa
thôi, ông sẽ thỏa lòng mong nhớ, ông sẽ gặp được con, sẽ giải đáp được bao
nhiêu câu hỏi mà ông luôn mong có ngày được trả lời. Không biết giờ đây chúng
còn nhớ đến ông không? Bấy lâu nay chúng sống ra sao, giờ đây chúng lớn
bằng chừng nào? Nhưng do lời khuyên ngăn của bố vợ mà ông đành gạt nước
mắt quay trở lại: “Sống làm chi, rồi quan làng họ bắt, dây sinh chuyện ra nữa.
Mày thiệt là khốn nạn lắm. Đi liền bây giờ đi. Vô Rạch Giá, Cà Mau mà trốn cho
biệt tích, đừng có về đây nữa…”. Như vậy, cuộc gặp gỡ không hẹn trước của
ông đã tan vỡ trong sự đau xót. Bao mơ ước có ngày gặp lại con của ông đã tan
tành. Nỗi đau khổ của ông không chỉ có vậy. Ông ra đi dưới ánh trăng trong trẻo,
sáng sủa lại phải hoảng hốt bỏ chạy mà người đuổi lại chính là con trai mình.
“Cha chạy trước, con chạy sau, nhưng vì cha sợ chúng bắt phải chạy đặng thoát
thân, nên chạy mau quá, con theo không kịp”. Ông chạy trốn con như một kẻ
phạm tội bị truy bắt. Ông chạy trước để tránh gặp mặt con (điều mà ông không
hề muốn); con chạy sau đuổi theo cha để kịp ngăn chặn những hành động
buông xuôi của cha và mong gặp lại cha sau bao năm xa cách. Có thể nói, Trần
Văn Sửu là một người cha chịu bao cay đắng bất hạnh của cuộc đời, những cay
đắng, bất hạnh không biết bao giờ mới hết.
Tuy phải chịu cực khổ nhưng Trần Văn Sửu vẫn luôn là người cha thương
yêu các con, 11 năm trời thể xác ông như tàn tạ, như đã chết, nhưng tâm hồn,
tình thương vẫn sống, vẫn lớn dần, ngời sáng hướng về các con. Có thể nói, 11
năm trời ấy, tình thương yêu nhớ các con cứ lớn dần lên trong ông, tích tụ lại và
đến một ngày nó thôi thúc ông quay về làng tìm gặp con mình. Động cơ trở về
làng của ông Sửu là tìm hiểu cuộc sống và giải toả nỗi băn khoăn cho những
đứa con. Đó là một người cha đầy trách nhiệm, biết quan tâm đến cuộc sống vật
chất và tinh thần của con. Tuy sống trong khổ cực, sống cũng như chết, nhưng
không vì thế mà ông buông xuôi, quên lãng các con. Phút đầu gặp bố vợ, ông
nói: “Mười mấy năm con thương nhớ chúng nó quá tía ơi”, “Con nhớ sắp nhỏ
quá”… Qua những câu nói của ông Sửu, ta càng thấm thìa hơn tình yêu thương
của ông với các con. Trong câu nói của ông dường như có nước mắt, như van
nài năn nỉ người bố vợ vì một mục đích duy nhất: được gặp con. Có lẽ, 11 năm
qua ông đã cố sống để mong có ngày này: “Mười một năm nay cực khổ hết sức,
song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày thấy được mặt con”.
Khi biết những điều lo lắng của mình đã được giải toả, ông đã chấp nhận
cái chết để mong con mình được sung sướng, không phải liên lụy vì ông - một
người cha đã từng bị người đời cho là kẻ phạm tội. Hành động của ông có thể
hơi kỳ quặc nhưng cũng thật hợp lí, đúng với tâm lí và phẩm chất của người cha
luôn luôn cầu mong cho con được hạnh phúc. Ông ra đi tìm cái chết trong sự
sung sướng, thỏa mãn vì các con ông giờ đây đang được hạnh phúc. Chính vì
vậy, cảnh dòng sông - nơi ông định trầm mình được Hồ Biểu Chánh tả lại thật
đẹp. Nó như tô đậm thêm hình ảnh đáng thương đáng quý của người cha: “Bây
giờ mình còn sống làm gì nữa! Bấy lâu nay mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống,
ấy là vì mình thương con, mình sợ nó không hiểu việc xưa (…) chết mới quên
hết việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu, cực khổ nữa”. Tuy nhiên, ý định của
ông không thành vì người con trai đã kịp ngăn lại. Ông Sửu gặp được con,
mừng mừng tủi tủi. Có lẽ đây là giờ phút vui sướng nhất của ông sau 11 năm.
Hai cha con bàn bạc về việc Tí sẵn sàng đi nuôi cha nhưng ông Sửu vẫn tỏ ra là
một người cha hết lòng vì con, ông khuyên Tí về nhà với ông ngoại, còn ông lại
tiếp tục cuộc đời mai danh ẩn tích, chấp nhận cuộc đời tha phương lặng lẽ,
không tên tuổi, họ hàng, sống cũng như chết, bởi ông nhận ra rằng: chỉ có như
vậy hạnh phúc của con ông mới được trọn vẹn, các con sẽ không phải bận bịu,
liên lụy vì ông. Có thể nói, đến giây phút này, được gặp con, được biết những
điều mà ông hằng mong ước cho cuộc sống của các con, ông vẫn từ chối quay
về làng cùng chung hưởng cảnh sum họp gia đình. Ông chấp nhận cảnh chia ly
là để con được hương hạnh phúc trọn vẹn. Ông luôn luôn hy sinh bản thân mình
để giành lấy hạnh phúc cho hai con.
Tìm hiểu nhân vật người cha - ông Trần Văn Sửu, một con người chịu đau
khổ nhưng luôn mong cho con được hạnh phúc, hy sinh tất cả vì con, ta lại nhớ
đến nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Lão Hạc cũng là
một người cha đầy đau khổ vì nghèo quá mà đành phải để con đi làm ở đồn điền
cao su, cuối cùng lão đã tìm đến cái chết để giữ lại cho con mảnh vườn và sô
tiền bấy lâu ông dành dụm được mà không muốn tiêu phí vào việc chữa chạy
bệnh tật ốm đau của mình.
Tóm lại, Cha con nghĩa nặng là một tác phẩm đề cao tình cảm con người.
Đó là tình cảm cha con, nêu cao ý nghĩa nhân bản nhân văn thật xúc động. Qua
tác phẩm, ta hiểu thêm về ý nghĩa “biểu chánh”, đó là đề cao tình người với
người, khuyên con người sống có tình có nghĩa thủy chung với nhau, biết hy
sinh bản thân mình để đem lại, giành lại niềm vui cho mọi người, cho những
người trong gia đình cũng như những người khác. Đặc biệt trong tình cảm giữa
những người cùng chung một gia đình: hãy sống với nhau chân thành, tình sâu,
nghĩa nặng, bỏ qua những thiếu sót sai lầm của nhau để cùng chung hưởng
cuộc sống hạnh phúc. Đọc đoạn trích của tác phẩm, chúng ta thêm khâm phục
Hồ Biểu Chánh - con người của đạo đức cao cả; khâm phục, cảm thông với Trần
Văn Sửu - người cha điển hình, của tình thương yêu vợ con, hết lòng vì hạnh
phúc của người thân.
NGỌC DIỆP
(Lớp 11A, Trường PTTH Quang Trung, Hà Nội)
NHẬN XÉT
Ưu điểm
Bài viết nêu khá đầy đủ hai khía cạnh đặc điểm và phẩm chất nhân vật,
đồng thời khái quát nêu rõ ý nghĩa “biểu chánh”, tác dụng giáo dục của tác phẩm
như yêu cầu của đề.
Bố cục sáng sủa, đoạn mạch rõ ràng và khá chặt chẽ.
Vận dụng phương pháp phân tích nhân vật nhuần nhuyễn, dẫn chứng và lí
lẽ hài hòa, khá tự nhiên. Có ý nghĩa mở rộng (phần so sánh ông Sửu với lão
Hạc).
Diễn đạt tự nhiên, nhưng chưa thật gọt rủa và nhìn chung chưa có gì đặc
sắc.
Nhược điểm
Chưa biết đặt nhân vật và tác phẩm trong bối cảnh lịch sử và liên hệ với
quan điểm sáng tác của tác giả (viết văn để giáo dục đạo đức). Do đó thiếu một
vài câu bình luận về mặt hạn chế của hình tượng cũng như quan điểm thẩm mĩ
của tác giả.
Trong phân tích, nhất là phần khái quát ở cuối bài, có thể liên hệ với cuộc
sống ngày nay, hoặc cảm nghĩ cá nhân… bài sẽ mềm mại, truyền cảm hơn, bớt
phần giáo lí khô khan.
Bài 22
ĐỀ BÀI
Bình giảng bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
BÀI LÀM
Thơ Xuân Diệu là cả một bầu xuân, là cái bình chứa muôn hương của tuổi
trẻ. Thi sĩ không ngớt chào mời giục giã mọi người hãy tận hưởng Tuổi trẻ và
Tình yêu - “phần ngon nhất của cuộc đời”. Xuân Diệu đã từng bỏng môi, rát lưỡi,
đau răng vì đã uống tham lam vào suối mặt trời, đã ăn hăm hở vào trái mùa
xuân. Là con người yêu sống, ham sống, cho nên khi cảm nhận được sự trôi
chảy không ngừng của thời gian, sự tàn lụi của cảnh vật (dù là mới chớm) nhà
thơ hốt hoảng, buồn sầu cũng là điều dễ hiểu. Đây mùa thu tới tiêu biểu cho tâm
trạng ấy của nhà thơ.
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Mây vẫn từng không, chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
Mùa thu là người bạn muôn đời của thi ca. Cái rét buốt tái tê của mùa
đông qua đi để nàng xuân đến với bao nhiêu niềm vui và sự sống, có lẽ sẽ gây
ấn tượng mạnh hơn trong lòng người, nhưng lại không gợi thi tứ nhiều như mùa
thu, phải chăng vì thu dịu dàng, thu buồn hơn. Với những tâm hồn thi sĩ đa cảm,
đa tình, niềm vui phơi phới đã dễ rung động, nhưng nỗi buồn thì càng gợi cảm
xúc nhiều hơn. Xuân Diệu cũng vậy. Thi sĩ đã để cho lòng mình, hồn mình rung
lên những nhịp đập xôn xang khi mùa xuân đến. Đây mùa thu tới phảng phất một
nỗi buồn nhưng lại đẹp đến nao lòng.
Nhà thơ cảm nhận mùa thu tới trong vẻ đẹp của nỗi buồn:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh liễu - một hình ảnh quen thuộc trong Đường
thi. Trước đó Nguyễn Du đã từng có câu thơ rất hay về liễu: “Lơ thơ tơ liễu
buông mành”. Mặc dù học tập hình ảnh ước lệ trong văn chương cổ, nhưng
“liễu” của Xuân Diệu, không có vẻ gì là vay mượn. Cảnh mang hồn của Xuân
Diệu, hồn Việt Nam tuy quen mà lạ, tuy ước lệ mà lại rất cụ thể bởi cách liên
tưởng sáng tạo và độc đáo: “đìu hiu đứng chịu tang”. Với nét bút mềm mại và
khoáng đạt, nhà thơ đã vờn vào không gian dáng hình yểu điệu, lả lướt của
những rặng liễu thả dài sóng tóc gội đầm đìa trong những cơn mưa lệ. Từ láy
“đìu hiu” cùng với nghệ thuật láy âm “buồn “ngàn hàng”… đầy sức gợi. Câu thơ
gợi cảm giác nhiều hơn là tả. Liễu buồn nhưng đẹp ảo não, thướt tha. Càng
buồn, càng đẹp. Cảnh thấm đẫm tâm trạng khiến cho người đọc không khỏi vấn
vương chút tơ lòng. Cái tài của tác giả là cảnh buồn nhưng không chết lặng mà
có hồn.
Câu thơ thứ ba cất lên tiếng lòng thi sĩ: “Đây mùa thu tới - mùa thu tới”.
Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của thi sĩ đã bắt kịp bức thông điệp của đất trời.
Dường như giữa im lìm của vạn vật, chỉ một mình nhà thơ lắng nghe được bước
chuyển rất nhẹ của thời gian. Câu thơ có giá trị như một lời thông báo, xác nhận
sự hiện diện của thời gian. Trong một câu mà có đến hai lần “mùa thu tới”, thi sĩ
như vội vàng, cuống quýt thốt lên khi mùa thu vừa bước đến. Như đã chờ đợi từ
lâu, Xuân Diệu mở rộng lòng mình để đón thu. Ông cảm nhận thêm một dáng vẻ
nữa của mùa thu:
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Xuân Diệu đã khoác lên mùa thu một chiếc áo vàng sáng rạng rỡ, kiều
diễm và sang trọng. Không gian như oà sáng bởi màu vàng mơ đầy gợi cảm.
Mùa thu đẹp, thơ mộng, cảnh sáng nhưng buồn. Màu vàng như xoáy vào mắt
người đọc, đẹp thì đẹp vô cùng nhưng buồn thì cũng buồn vô tận.
Bức tranh chớm thu có đường nét mềm mại của liễu, có màu sắc, có tình
người. Hình ảnh liễu cùng với màu áo mơ phai mở đầu đã gây một ấn tượng
ban đầu cho người đọc để đến khổ thứ hai, lại được cảm nhận tinh tế và đầy
cảm giác về mùa thu:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Cảnh thu có hoa, có lá, có gió, trổ vào không gian những cành cây trơ trụi
khẳng khiu trong rét mướt. Ấn tượng lớn nhất trong khổ thơ là cách diễn đạt rất
mới, rất tinh vi: “hơn một loài hoa”, “rủa màu xanh”… Tất cả đều đang ở độ mới
chớm, mới bắt đầu. Hơn một loài hoa chứ không phải tất cả các loài hoa, trong
vườn sắc đỏ mới “rủa” màu xanh, chứ không phải “rữa”. Ta có cảm giác màu đỏ
đang lấn dần, lấn dần để cuối cùng tràn ngập, khắc khoải một sắc đỏ lụi tàn. Câu
thơ gợi cảm giác, như có sự nhói buốt trong tâm hồn. Lẽ ra, vào thu màu vàng là
màu hợp hơn nhưng Xuân Diệu đã chọn màu đỏ để đối chọi với màu xanh đang
bị lấn dần tạo ấn tượng trong lòng người.
Hai câu thơ sau mới thật là tuyệt bút, với sự quan sát tinh vi mang hồn
Việt Nam. Sự thật chỉ có gió thổi làm cho lá rung rinh nhưng Xuân Diệu đã tưởng
tượng làm cho gió cũng như run rẩy vì rét. Bốn âm “r” đã phát huy tác dụng.
Người đọc như run lên vì rét, sau rung động vì hay. Như một nhà điêu khắc tài
ba, Xuân Diệu đã trổ, đã khắc vào không gian những nhánh khô không còn sức
sống, xương xẩu, gầy guộc, khắc khổ, mà không phải nhiều nhánh, chỉ có “đôi
nhánh”, lại đặt trong cái rét đến buốt lòng, nên càng nhỏ nhoi, mỏng manh, càng
buồn gấp bội. Câu thơ có bảy chữ thì có đến sáu chữ gây ấn tượng. Trong ca
dao đã không ít lần xuất hiện hình ảnh cành trúc, đến Nguyễn Khuyến đã tiến lên
một bước: “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”, và đến đây, Xuân Diệu đã đẩy lên một
mức. Có lẽ là cao nhất: “nhánh”, nghe đã thấy nhỏ nhoi chứ không nói gì đến
một loạt các từ cùng trường nghĩa sau “khô gầy xương mỏng manh”. Câu thơ
đầy chất tạo hình của Xuân Diệu đã mài nhọn các giác quan cho ta. Tất cả đều ở
mức độ khởi sự, các thông tin đều mang tính vi lượng. Tác giả đã để lại trong
lòng người đọc cảm giác tê buốt thấm thía đến từng thớ thịt, chạm vào chỗ da
non của lòng người. Đây là thời điểm giao mùa. Nếu như không có một tâm hồn
tinh tế thì thi sĩ không thể cảm nhận được tinh vi đến vậy. Cảnh vật đang dần
dần tàn lụi, thời gian không ngừng trôi, nên một con người ham sống như Xuân
Diệu làm sao không buồn. Có lẽ, do lòng yêu tuổi trẻ, do muốn ngăn sự già nua
tàn tạ nên nhà thơ luôn luôn cảnh giác và báo động:
Dưới gốc nào đâu thấy xác ve
Thế mà ve đã tắt theo hè.
hay:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Chính vì vậy mà nhà thơ cảm thấy cô đơn, buồn sầu khi thu tới:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Cảm giác cô đơn được khơi gợi từ mọi cảnh vật, vầng trăng được miêu tả
trong câu thơ độc đáo và tinh nghịch: trong một phút thả lòng, bâng khuâng,
ngẩn ngơ khó nói thì bị thi nhân tinh quái bắt quả tang. Giữa thiên nhiên và con
người như có sự hoà đồng, giao cảm nên con người mới có thể hiểu được giây
phút tự “ngẩn ngơ” của thiên nhiên. Hình ảnh non xa sương mờ thấp thoáng,
nhạt nhoà gợi không khí sương khói bảng lảng, mơ hồ thật đẹp nhưng vẫn
thoảng buồn.
Lại một lần nữa, Xuân Diệu nói về gió:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Có gió thì mới rét và rét vì có gió, nhưng ở đây, Xuân Diệu đã tách gió và
rét ra làm hai, cái rét luồn, ẩn trong gió, chưa thực sự hiện diện, chưa lộ mặt bởi
đây mới chỉ là bắt đầu. Xuân Diệu đã phát huy cao độ khả năng cảm thụ với
nhãn lực tinh tường. Thực ra là cảm thấy cái rét lẩn khuất trong gió nhưng thi
nhân lại nói là “đã nghe”. Dường như giữa con người và thiên nhiên có một mối
dây vô hình gắn bó và am hiểu. Đây là gió từ hồn thổi ra. Hình như, tác giả cố
tìm bóng dáng cuộc sống của con người nhưng không có:
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Con thuyền trong thơ Nguyễn Trãi đã buồn “Cô chu trấn nhật các sa miên”
(Con truyền gối đầu trên bãi cát ngủ suốt ngày) nhưng ở đây, hình ảnh con
truyền còn buồn hơn vì nó lênh đênh trên sông nước, đợi chờ khắc khoải một
bóng người nhưng “đã vắng”, không phải chỉ “vắng” trong hiện tại mà “đã” từ
trước đấy.
Tất cả đều vắng vẻ, xa vời. Đấy là sự cô đơn chia lìa trên mặt đất, của
người vì không đoàn tụ. Ở khổ cuối là sự chia lìa của thiên nhiên:
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li.
Nhà thơ đã cảm thấy bước chuyển rất nhẹ của thiên nhiên: “mây vẫn”, có
sự xuất hiện của sự sống: đàn chim nhưng là “chim, bay đi”. Đò đã vắng, chim
lại bay đi, để lại một khoảng trống không mênh mông, xa vắng. Nỗi buồn thương
tràn sang cảnh vật và quay trở lại xoáy vào lòng người, da diết thấm thía khôn
cùng. Không chỉ riêng thiên nhiên nói lên cái u uất chia li mà chính lòng người
cũng phải cất lên thành lời: “khí trời u uất hận chia li”. Nỗi đau xót, u uất dằn
xuống.
Hai câu kết bài thơ đầy sức gợi:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
Con người đẹp nhất khi có niềm vui và nụ cười, còn ở đây, thiếu nữ “buồn
không nói”, trầm ngâm suy tư. Câu thơ không xác định ở số lượng “ít nhiều”, ở
hướng nhìn “nhìn xa”, “không nói”, "nghĩ ngợi gì”. Người thiếu nữ này cũng là
một cảnh quan, nhưng là nét cao nhất của cảnh quan, biết cảm thụ, nghe được
tất cả những cái vắng lặng từ những cảnh quan khác dồn tới mà buồn, chữ
“hành khách” ở câu thơ của Nguyễn Trãi: “Dã kính hoang lương hành khách
thiểu” (Đường nội vắng teo hành khách ít) còn là người nói chung, nhắc đến nó
để nói sự không có. Còn ở đây, hình ảnh thiếu nữ là cụ thể, là có thật, đang tồn
tại. Trạng thái buồn không xác định lí do, tư thế nhìn cũng không xác định duyên
cớ. Bài thơ khép lại ở một trạng thái, một tư thế.
Đây mùa thu tới có lúc sử dụng thi liệu ước lệ của thơ Đường nhưng kết
thúc lại không giống thơ Đường, câu cuối của thơ Đường thường đóng lại, khép
kín ý thơ toàn bài. Nhưng ở đây, tác giả lại mở ra, khơi gợi ở người đọc cảm
hứng đồng sáng tạo. Nó để ngỏ dành cho sự liên tưởng, cảm nhận của từng
người đọc. Bài thơ kết thúc cũng là lúc ta bắt đầu cảm thấy được cái điều “ít
nhiều thiếu nữ buồn không nói” và bài thơ cũng không nói. Đó chính là tài năng
của Xuân Diệu.
Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cách diễn đạt truyền thống và mới mẽ
do học tập văn hóa phương Tây, với tâm hồn thi sĩ giàu cảm xúc và tài năng
Xuân Diệu đã đóng góp cho Thơ mới nói riêng và nền văn học nói chung một tác
phẩm có giá trị: Đây mùa thu tới. Bài thơ mang hồn thơ Xuân Diệu, hồn Việt
Nam.
Đây là “tiếng thở dài của những tâm hồn cô đơn tội nghiệp đi tìm nhau”.
Có lẽ, tác giả muốn gởi gắm một lời khuyên mang ý nghĩa nhân bản:
những con người lẻ loi cô đơn hãy xích lại gần nhau để giải tỏa nỗi cô đơn này.
Đây mùa thu tới như một bức tranh lụa cổ hoà sắc lạnh. Hình ảnh mùa thu
nên thơ, nên hoạ trong tác phẩm không phải không liên quan đến những cảnh
quan mĩ lệ của đất Việt. Phải chăng hồn dân tộc của bài thơ không nói mà hiện
ra ở điều đó. Xuân Diệu đã đem đến cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên u
buồn mà rất đỗi xinh đẹp, một tâm tình chân thành và tha thiết, nỗi buồn trong
sáng, nỗi cô đơn tràn ngập trong thơ ấy là một nỗi buồn chung của cả một thế hệ
thanh niên mất nước ngày đêm khao khát sự hoà nhập với cuộc đời.
ĐẶNG THU THỦY
(Trường PTTH Lê Hồng Phong, Nam Định)
NHẬN XÉT
Cảm nhận và bình khá tinh, sâu một bài thơ của Xuân Diệu - “nhà thơ mới
nhất trong những nhà thơ mới”. Hành văn trong sáng, sôi nổi phù hợp giọng điệu
thơ Xuân Diệu. Cần quan tâm đến việc so sánh với chính tác giả ở những bài
thơ khác vì đây là một tác gia rất có cá tính trong sáng tạo nghệ thuật.
Bài 23
ĐỀ BÀI
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
Tôi muốn tắt nắng đi
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
BÀI LÀM
Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu, được in
trong tập Thơ thơ, xuất bản lần đầu năm 1938. Vội vàng là tiếng nói của một tâm
hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt và quan niệm nhân sinh mới chưa từng
thấy trong thơ ca truyền thống. Đoạn thơ đầu của bài thơ thể hiện cảm xúc: vui,
rộn ràng, say đắm của nhà thơ khi mùa xuân đến.
Mở đầu đoạn thơ là ý nguyện của thi sĩ - một tâm hồn yêu đời:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Bằng biện pháp điệp ngữ, bài thơ khẳng định ý chí của chủ thể trữ tình cái
“tôi” muốn tắt nắng để đừng mất màu đẹp rực rỡ, buộc gió không cho hương bay
đi, để được hưởng thụ nó, thưởng thức nó. Ý nguyện của thi sĩ là muốn tác động
vào vũ trụ để giữ nguyên vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp thực của nó trong hiện
tại, vẻ đẹp chóng mất, chóng phai tàn. Đó là một ý nguyện chủ quan của thi sĩ.
Điều đó dường như vô lí, “xa rời cuộc sống”, “thoát li hiện thực” nhưng nó lại có
lí trong tâm hồn: say mê thiên nhiên, say mê cuộc sống của thi sĩ. Đó là những
vần thơ dạt dào cảm hứng của một tâm hồn thi sĩ yêu đời, trân trọng và nâng niu
cuộc sống.
Tình yêu thiên nhiên - một tình cảm muôn đời của người nghệ sĩ nhưng sự
cảm nhận của Xuân Diệu - thi sĩ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh)
thật lạ. Dường như mọi giác quan của thi sĩ đều run lên đón nhận mọi âm thanh,
mọi sắc màu, đón nhận cái hữu hình và cả cái vô hình vấn vương của tạo hoá.
Từ ý nguyện dẫn đến hành động: ý nguyện giữ mãi cuộc sống, để hưởng thụ
cuộc sống. Điều đó thể hiện nhiệt tình sống của tác giả khi chợt đến mùa xuân.
Rồi đây nữa, hình ảnh của sự sống muôn màu sắc, thật tốt tươi, thật ngon
lành đang dạt dào ùa vào tâm hồn thi sĩ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc si tình;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Điệp ngữ “này đây” liệt kê một loạt những hình ảnh đẹp miêu tả mùa xuân:
hoa của đồng nội xanh rì; lá của cành tơ phơ phất; của yến anh khúc hát tình ca
say mê cuồng nhiệt trong tình yêu; ánh sáng chớp hàng mi.
Trước mùa xuân tươi đẹp ấy ai mà không rung động? Vậy thì tâm hồn thi
sĩ Xuân Diệu sao lại không say trong chập chờn của “ong bướm” ngày xuân
đang vào độ tràn đầy hạnh phúc bên “yến anh” quấn quýt để hưởng “khúc tình
si”? Không xao xuyến đến nao lòng sao được trước cái mát mẻ, tươi non của
sắc “hoa của đồng nội xanh rì” và lá non bên “cành tơ phơ phất”?
Những hình ảnh thơ thật chân thật, tươi nguyên và tràn trề nhựa sống.
Nhà thơ lãng mạn đón nhận sự sống thanh xuân bằng cặp mắt - cặp mắt “xanh
non”, cặp mắt “biếc rờn” ngơ ngác và đầy vui sướng. Nhà thơ đã phát hiện ra
biết bao vẻ đáng yêu, đáng say đắm của thế giới thiên nhiên và con người trần
thế rất đỗi bình dị và gần gũi này. Phát hiện ra nó, đón nhận nó và cao hơn nữa
là sự níu giữ sự sống bằng cả tấm lòng, bằng cả ý muốn chủ quan của mình.
Điều đó giải thích tại sao “tôi muốn”, lí giải ý nguyện của mình vì: mùa xuân đẹp
lắm.
Sự sống mùa xuân quanh ta thật hấp dẫn, thật say lòng người khiến tâm
hồn thi sĩ như cất lên tiếng reo vui:
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.
Vẻ đẹp mùa xuân - một vẻ đẹp say mê, xanh non, tươi trẻ, vẻ đẹp thực
của trần thế rất bình dị và gần gũi, nó không phải là vẻ đẹp ở chốn tiên thơ
mộng, huyền ảo và hấp dẫn mà Thế Lữ đã tìm ra:
Trời cao, xanh ngắt - Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo dòng suối bên người tiên nga.
(Tiếng sáo Thiên Thai - Thế Lữ)
Vẻ đẹp mà Xuân Diệu cảm nhận thấy là vẻ đẹp của thiên nhiên quanh ta
nhưng nó đẹp - một vẻ đẹp tươi trẻ, say mê, nó hợp với con người nơi trần thế
và trong vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân ấy, cảm xúc của nhà thơ thật vui, rộn ràng
và say đắm.
Niềm say mê ấy thật cuồng nhiệt và mãnh liệt biết bao khi thi sĩ thốt lên:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Hình ảnh thơ thật độc đáo, hình ảnh so sánh rất Xuân Diệu. Nhà thơ đã so
sánh khái niệm thời gian “tháng giêng” - một hình ảnh vô hình với một hình ảnh
cụ thể “ngon”, “gần”.
Sau cái phút giây bồng bột cảm hứng ấy, nhà thơ chợt tỉnh lại được và tự
ý thức được về thời gian:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Một trạng thái đối lập mở ra một trạng thái tâm hồn mới: mùa xuân đẹp
hấp dẫn làm cho thi sĩ “sung sướng” nhưng rồi có cái gì đó khiến cho thi sĩ phải
“vội vàng”, phải hưởng thụ mùa xuân ngay lúc mùa xuân đến, phải hưởng thụ
ngay cái vẻ say mê của nó trong hiện tại, phải tận hưởng mùa xuân khi nó còn
tươi non, hấp dẫn và phải hưởng thụ ngay khi nó còn “mới bắt đầu” để sau này
khi mùa xuân đã qua, mùa hạ đến không phải nuối tiếc, ân hận.
Nhà thơ bộc lộ niềm say mê, vui sướng bất chợt khi mùa xuân vừa đến
nhưng rồi nhà thơ chợt tỉnh lại được, ý thức được về thời gian mà từ đó hưởng
thụ mùa xuân ngay trong thực tại.
Đoạn thơ làm nổi bật phong cách thơ Xuân Diệu: dùng điệp ngữ, sử dụng
biện pháp thậm xưng, hình ảnh đẹp, độc đáo, táo bạo. Thơ xưa nào đã mấy ai
dám bộc lộ tiếng nói cương quyết và dứt khoát như sự lên tiếng của Xuân Diệu?
Và đã mấy ai dám so sánh mùa xuân với một hình ảnh cụ thể, rất thực “cặp môi
gần” trong tình yêu lứa đôi, vật chất hoá khái niệm trừu tượng là thời gian để ca
ngợi vẻ hấp dẫn của mùa tháng giêng, mùa xuân. Không có tình yêu tha thiết,
yêu cuộc sống đến mức cuồng nhiệt làm sao có được những vần thơ mê say và
cháy bỏng ấy.
Ta hãy lật giở những trang thơ mùa xuân của các thi sĩ xưa và nay xem họ
tìm thấy và cảm nhận được những gì ở mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Một vẻ đẹp kiều diễm. Còn đây hình ảnh rất gần gũi, bình dị nhưng gợi
buồn:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên hàng xoan hoa tím rụng tơi bời”.
(Chiều xuân - Anh Thơ)
Còn mùa xuân ở đây rất đẹp, tràn trề sức sống, rạo rực niềm vui:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay, tôi hứng
(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
“Nhà thơ thực đã đón nhận mùa xuân với tất cả tài hoa của ngòi bút, sự
thăng hoa của tâm hồn… Nghe bằng tai chưa đã, anh nghe cả bằng trái tim xáo
động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo” (Vũ Dương Quỹ).
Còn đây nữa, sự cảm nhận mùa xuân của một tâm hồn cách chúng ta sáu
thế kỷ đó là Nguyễn Trãi:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình tliư một bức phong còn kín
Gió nơi đău gượng mở xem.
(Cây chuối)
Một sự giao cảm của thiên nhiên, một hình ảnh rất thực, đẹp đẽ và thanh
tú nhưng cũng hết sức phong tình. Bài thơ làm ta liên tưởng đến một mối tình
vừa chớm nở trong trắng, say mê, kín đáo, e ấp. Điều đó càng làm cho chúng ta
thấy rõ: xưa và nay các nhà thơ đã viết và viết nhiều về mùa xuân nhưng nó rất
giản dị, rất đời thường và có chăng cũng chỉ bộc lô một cách kín đáo, tế nhị như
Nguyễn Trãi dã viết trong bài thơ trên mà thôi. Và càng chứng minh cho chúng ta
thấy sự táo bạo của Xuân Diệu.
Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên, cuộc sống bằng con mắt tươi non và từ đó
diễn tả niềm ham sống say mê, mãnh liệt, một khát vọng hưởng thụ vẻ đẹp có
thực nơi trần thế.
Niềm khao khát giao cảm với đời đặt vào hoàn cảnh thanh niên sống trong
nỗi sầu thế kỉ, nỗi buồn thời đại, nhừng dòng thơ này có ý nghĩa giúp cho con
người tình yêu cuộc sống và tận hưởng niềm hạnh phúc trần thế, giúp cho
chúng ta - mỗi con người phải biết quý trọng tuổi thanh xuân của mình, tuổi
thanh xuân không bao giờ trở lại để cho mỗi chúng ta sau này không phải ân
hận, nuối tiếc. Đoạn thơ cũng thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Tuy
Xuân Diệu không nói đến sự cống hiến nhưng chúng ta phải nhận thức được
điều đó: yêu đời, yêu cuộc sống để có trách nhiệm với đời, để làm cho cuộc
sống có ý nghĩa xứng đáng chứ không phải chỉ tận hưởng, hưởng thụ những gì
tốt đẹp nhất của mùa xuân, của tuổi thanh xuân cho thoả mãn.
Đoạn thơ càng làm cho chúng ta hiểu hơn về Xuân Diệu một tâm hồn yêu
đời, yêu sống đến cuồng nhiệt và hiểu được cách nhìn, đón nhận và cảm xúc
của ông khi mùa xuân đến. Đoạn thơ cũng giúp cho chúng ta càng yêu thiên
nhiên, yêu cuộc sống hơn. Thật đáng trân trọng biết bao một tâm hồn - một nhà
thơ của mùa xuân và tuổi trẻ, luôn luôn sôi nổi tình yêu, dạt dào tình đời đã,
đang và sẽ mãi mãi sống trong lòng những người biết và yêu thơ ông.
TRẦN THỊ MINH NGUYỆT
(Lớp 11B, Trường PTTH Hà Nam, Nam Hà)
NHẬN XÉT
Bài viết khá tốt, đúng hướng và giàu cảm xúc. Tuy nhiên cũng cần nói rõ
hơn phần hạn chế về nhân sinh quan. Người viết có khả năng thẩm bình và
đánh giá khá tinh tế. Bài viết cũng có sự phân tích liên hệ mở tuy còn thiếu sự
sắp xếp hợp lí và có chọn lọc.
Bài 24
ĐỀ BÀI
Phân tích Thơ duyên của Xuân Diệu.
BÀI LÀM
Có ai đó đã nói “Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu”. Quả đúng là như thế.
Dù rằng trong suốt cuộc đời mình cho đến những giây phút cuối cùng, Xuân
Diệu không được hưởng trọn vẹn cái ngọt ngào say đắm của tình yêu hạnh phúc
nhưng trong thơ ông thì chan chứa cái say mê của tình yêu tuổi trẻ với nhiều
cung bậc khác nhau. Từ nỗi đam mê cuồng nhiệt của một mối tình nồng cháy
đang ở độ chín muồi như: “xa cách” đến những rung động ban đầu của một tâm
hồn còn nguyên sơ trong trắng với trái tim đang e ấp yêu đương như trong Thơ
duyên. Đây là một bài thơ tình yêu rút trong tập thơ đầu tay: Thơ thơ của Xuân
Diệu, diễn tả sự hòa hợp giữa hai trái tim đang yêu với tình yêu vừa chớm nở rất
tinh tế và cũng rất thơ mộng:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.
Bài thơ mở đầu bằng một bức tranh thiên nhiên đẹp rực rỡ, bức tranh về
một buổi chiều của tình yêu đẹp như trong mộng: có âm thanh ríu rít của tiếng
chim, có màu xanh ngọc trong suốt của bầu trời trút qua ngàn lá, có cả đường
nét hài hòa của những vần thơ “hòa” xao xuyến trên những “nhánh duyên” trong
chiều mộng và hơn nữa có cả những âm thanh huyền dịu của đất trời ngân nga
trong những tiếng đàn tình yêu rạo rực. Bức tranh ấy được vẽ ra bởi đôi mắt của
một con người với trái tim lần đầu rung động. Hình như, hơi thở của tình yêu làm
cho người trở nên vui hơn. Tình yêu thổi vào cảnh vật hơi ấm của sự sống tràn
trề, nhuốm vào cảnh vật vẻ đẹp diệu kỳ làm cho cảnh sắc bừng lên tươi tắn:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên.
Câu thơ nghe rạo rực tiếng lòng của một con người đang ngập tràn hạnh
phúc. Chiều trong mắt người sao mà đẹp thế, không phải là một buổi chiều bình
thường mà là buổi chiều “mộng” - chiều đẹp - chiều đẹp như giấc mơ hồng của
tình yêu. Những vần thơ trữ tình đang ngân nga trong lòng người cũng như xao
xuyến, hòa quyện, quấn quýt trên cành cây, ngọn lá xao xuyến cả trời chiều. Và,
những nhánh cây cũng trở thành “nhánh duyên”, nhánh tình yêu, nhánh cây
mang vào hạnh phúc.
Khắp không gian rộn vang những âm thanh tươi vui của chim chóc!
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Không phải là chim chuyền ríu rít mà là “ríu rít chim chuyền”, đảo từ “ríu
rít” đã làm cho âm thanh của tiếng chim vang hơn, rộn ràng hơn, tươi vui hơn,
âm thanh như chan hòa cả trời chiều thơ mộng. Đâu phải chỉ có con người mới
tìm về hạnh phúc, đâu phải chỉ có con người mới say trong đôi lứa, đâu chỉ có
con người mới ngây ngất với tình yêu mà chim chóc cỏ cây cũng có đôi lứa,
cũng hạnh phúc ấm êm: “cặp chim chuyền”.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.
Gam màu pha nặng nhưng thanh, tạc cho bức tranh một màu rực rỡ mà
không làm người đọc chói mắt: màu “xanh ngọc” của trời. Bầu trời trong con mắt
người đang yêu xanh một màu xanh trong suốt thanh khiết vời vợi như rót qua
muôn ngàn kẽ lá, rót vào đôi mắt mênh mang của người yêu khiến người ta như
muốn hứng lấy, muốn uống lấy màu trời, cảm tưởng dòng xanh đang thấm dần
dịu ngọt trong tâm khảm.
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.
Có người cho rằng “tiếng huyền” ở đây là tiếng đàn, mùa thu đến nơi nơi
ngân vang tiếng đàn. Có lẽ là tiếng đàn thật như là tiếng đàn của đất trời, cỏ cây,
cảnh vật - những âm thanh huyền dịu của không gian tình yêu chớm nở giữa
mùa thu đem đến cho đất trời lung linh những âm thanh tuyệt diệu, náo nức, tươi
vui, những âm thanh chỉ có thể nghe thấy được bởi trái tim đang rạo rực niềm
yêu:
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Rõ ràng bức tranh thiên nhiên ở đây không phải là một bức tranh tĩnh mà
là một bức tranh động, một bức tranh thiên nhiên biến đổi rất tinh tế. Ngòi bút
nhạy bén của Xuân Diệu đã miêu tả rất chính xác những biến thái tinh tế đó.
Những từ láy “nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả” diễn tả sự chuyển động nghiêng
nghiêng của cảnh vật dưới con mắt nhìn say say gần như là chếnh choáng; phải
chăng đó là cái say của tình yêu, là độ nghiêng của trái tim trong hạnh phúc?
Con đường như nhỏ đi, chật hẹp với tình yêu của hai người, gió lướt nghiêng
làm lung lay cành lá, cảnh vật chuyển động thật tự nhiên.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Hình như người con trai cũng ý thức được rằng người bạn gái đó cũng rất
mến mình, dè chừng trái tim kia cũng đang hồi hộp « đập”. “Hai trái tim chung
một điểm tình”, và trái tim anh xao xuyến những nhịp rung tình yêu đầu: “Lần đầu
rung động nỗi thương yêu”.
Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần.
Xuân Diệu thật tài tình khi đi sâu miêu tả tâm trạng của hai người. Tác giả
hóa thân vào cả hai nhân vật, tự phân tích diễn biến của lòng mình, cũng là tâm
lí chung của bao nam thanh nữ tú buổi đầu biết yêu. Cả hai đều cố tỏ ra vô tâm,
vô tình. Người con gái thủng thẳng bước đi như không để ý đến ai, như chẳng
quan tâm đến ai và cũng chẳng cần biết có ai quan tâm đến mình. Anh con trai
cũng thế: “lững đững” bước theo sau, không tiến nhanh, cũng không đi chậm,
thủng thẳng bước có ý dè chừng người con gái, luôn luôn giữ một khoảng cách
nhất định chỉ đủ để nhìn thấy người con gái chứ không dám làm phiền lòng
người mình yêu.
Song đằng sau cái “điềm nhiên không vướng chân” ấy, đằng sau cái “lững
đững chẳng theo gần” ấy là tất cả những rung động e ấp mà thiết tha, trìu mến
của tình yêu vừa chớm nớ. Đến đây câu thơ như có sự bộc bạch:
Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần.
Xuân Diệu đã sáng tạo ra một hình ảnh rất mới lạ và độc đáo. Tình giữa
“anh và em” như một cặp vần quấn quýt giữa bản nhạc êm. Cuộc đời là một bài
thơ dịu, một bài thơ không lời, êm ái và hai người như một cặp vần, như đôi nốt
nhạc hài hòa, quyện nhau dìu dặt. Còn gì hạnh phúc hơn thế, còn gì thiết tha
hơn thế.
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Nét bút tác giả chuyển hướng tả cành, nhịp thơ có sự chùng xuống, cảnh
cũng như lắng lại, trầm, buồn hơn.
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Ở đây có sự đối lập giữa “mây” và “cánh cò”; mây thì “bay gấp gấp” còn
cánh cò thì lại “trên ruộng cánh phân vân”, nửa muốn bay, nửa lại muốn không.
Hai hình ảnh trái ngược của thiên nhiên hay đó chính là mâu thuẫn trong lòng
người. Cuộc sống, tình đời hối hả trôi rạo rực, náo nức, con người muốn bay
gấp tới tình yêu nhưng lại rụt rè, e lệ thậm chí còn có xen cả sự lo lắng. Tác giả
hiểu và biểu hiện rất tế nhị điều này. Cái thoáng phân vân của cánh, cò trên
ruộng lúa đồng quê được đặt đối xứng với cái “bay gấp gấp” của mây biếc tạo
nên một vẻ đẹp mới lạ nhưng lại gắn với hình ảnh thơ ca truyền thống. Đúng là
“Cũng chì có Xuân Diệu mới tìm được nơi đồng quê cái cảnh “Mây biếc về đâu
bay gấp gấp, Con cò trên ruộng cánh phân vân”. Từ con cò của Vương Bột lặng
lẽ bay với ráng chiều, đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân
có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và hai thế giới” (Hoài Thanh).
Hai câu sau, sự can thiệp của chủ thể trữ tình đã rõ hơn nhưng vẫn rất tế
nhị, khéo léo:
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Trời dần về chiều, không gian xám bạc trong màu sương giăng giăng, trời
càng như rộng hơn, cánh chim nhỏ như đuối sức. Hai con người bỗng cảm thấy
trời tình, cuộc tình mênh mông quá, đôi người nhự đôi cánh chim bé nhỏ ngợp
mình giữa bạt ngàn mênh mông trời đất, muốn giang cánh rộng thêm để bay
giữa bầu trời bao la.
Mặc cảm buồn thoáng hiện kín đáo trong câu thơ trên thì đến câu thơ tiếp
theo đã thấm dần vào hồn người qua cảm giác lạnh của hoa trong sương và
trong ánh nhạt ban chiều.
Bài thơ kết thúc bằng những vần thơ dịu dàng, êm ái, bằng một khúc nhạc
tình không lời mà tha thiết:
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
Chiều thu theo bước chân âm thầm của hai người kết nên một tình đẹp
đẽ, mối tình bắt nguồn từ hai trái tim hòa hợp gắn bó, mối tình không cần mai
mối. Đây chính là một mối tình hiện đại lí tưởng, biểu hiện của một tình yêu đích
thực lần đầu xuất hiện trong thơ. Giữa buổi chiều thơ mộng ấy, dù là tình yêu
vừa chớm nở “Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” dù chẳng nói lên lời “Ai hay tuy lặng
bước thu êm” nhưng đã hứa hẹn một điều gì rất tha thiết, bền chặt:
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
Có thể nói, Xuân Diệu đã thành công tuyệt đối trong việc mô tả những biến
thái tinh tế của cảnh sắc thiên nhiên và của lòng người. Những hình ảnh, từ ngữ
mới lạ, rất thơ, rất Xuân Diệu đã giúp chủ thể trữ tình tự phân tích thế giới tâm
hồn mình một cách tinh tế để biểu hiện một tình yêu chớm nở chưa hẹn thề, còn
e ấp nhưng đã tha thiết, gắn bó.
Bài thơ cũng nói đến sự giao duyên của đất trời đó là sự hòa quyện giao
cảm của tâm hồn người, tâm hồn đang yêu với thiên nhiên, vũ trụ.
Bài thơ kết thúc nhưng dư âm của một tình yêu tha thiết thì vẫn còn vấn
vương mãi. Những rung động tinh tế, những xúc cảm mạnh mẽ của chủ thể trữ
tình trước một tình yêu say đắm khiến cho bài thơ thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn
người đọc. Bài thơ đẹp mãi trong lòng người đọc đặc biệt là trái tim tuổi trẻ và
biết đâu, nó đã chẳng lời thổ lộ tâm tình lúc ban đầu của duyên thắm bao đôi
lứa.
PHẠM THỊ DIỆP
(Lớp 11 chuyênVăn Trường PTTH Công nghiệp Hà Đông)
NHẬN XÉT
Hiểu ý chính của bài thơ: mô tả tâm trạng của đôi lứa lần đầu chớm yêu.
Tuy nhiên ý: sự giao duyên của đất trời là khung cảnh, là không khí của tình yêu
đó, còn chưa rõ lắm.
Phân tích kĩ và khá chính xác những yếu tố nghệ thuật, những biểu hiện
tâm lí.
Phần khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật cần nâng lên nữa. Ví dụ:
+ Những biểu hiện tâm lí trong bài thơ là biểu hiện của một tình yêu đích
thực chỉ có ở Con người.
+ Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và chỉ riêng ở phương diện này, ông
đã tỏ ra là một nhà thơ có tài năng, “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới”.
Lời văn khá, có chỗ đạt tới sự tinh tế. Ví dụ:
“Những từ láy “nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả” diễn tả sự chuyển động
nghiêng nghiêng của cảnh vật dưới con mắt nhìn say say gần như là chếnh
choáng; phải chăng đó là cái say của tình yêu, là độ nghiêng của trái tim trong
hạnh phúc”.
Bài 25
ĐỀ BÀI
Hãy phân tích bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu. Từ đó nêu cảm nghĩ của
em về hồn thơ và đặc sắc nghệ thuật của thơ Xuân Diệu.
BÀI LÀM
Xuân Diệu nghĩa là hăm hở, sôi trào, là tràn trề khao khát. Nhưng Xuân
Diệu ấy cũng là buồn tê tái, là vắng lặng, hoang vu. Mảnh hồn thứ hai của thi sĩ
ta gặp ở Nguyệt cầm, ở một đêm thu trăng trong và tê lạnh.
Đêm ấy, cô đơn giữa đời, đối mặt với thực cảnh buồn bã, con người đa
sầu trong Xuân Diệu thức dậy, tha thiết và lặng lẽ, tâm tình ủ ê, sầu não theo đôi
mắt của thi nhân bay tới vầng trăng ngà, hoà tan trong đó. Thế rồi nhà thơ lặng
hồn lắng nghe từng giợt âm thanh nguyệt cầm, nghe bằng chính những sầu
muộn của lòng mình và lúc ấy là khi:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh.
Trăng sáng ngời mang tâm sự của thi nhân nhập vào cung đàn, quyện vào
dòng âm thanh trầm bổng, nên trăng đàn và hồn thơ đồng điệu sầu chan chứa,
vầng trăng, hay nói đúng hơn là hồn thi sĩ đượm đầy niềm thương nỗi nhớ; còn
giọng đàn lặng trầm và da diết. Dường như bao buồn đau chứa chất trong lòng
thi nhân đang kết tụ lại; nhịp tim trở nên sầu muộn, nhịp đàn nghe chậm, lặng và
nhịp thơ tha thiết, buồn buồn:
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm.
Nhịp thơ (2/2/3) khiến ta tường tới những buồn thương mà trăng, mà đàn
đã nói hộ thi nhân cứ nao nao, từng đợt, từng đợt như chực trào ra khoé mắt.
Âm thanh nguyệt cầm được cảm nhận sâu sắc chính bới tâm hồn thi sĩ hòa nhập
với tâm tình nghệ sĩ:
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Ấn tượng đậm nhất mà lời thơ gieo vào lòng ta ấy là niềm đau nghẹn
ngào, vô biên. Âm thanh tích tụ mối sầu ở cảnh, ở tình, kết thành giọt rơi giữa
đêm vắng. Giọt âm thanh cứ chơi vơi giữa vũ trụ, giữa lòng thi sĩ. Dư âm của nó
cứ nhẹ lay động trái tim thơ, cứ đọng dần, đọng dần cho đầy tâm hồn cô vắng.
Chợt một cảm giác ghê sợ xâm chiếm dần nỗi buồn miên man khi bóng
sáng lung linh bỗng rùng mình:
Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Linh lung bóng sáng bỗng rùng mình,
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Dòng âm thanh diễn tả tuyệt vời số phận của người xưa mệnh bạc. Tác
giả mang tới cho trăng cảm nhận được cái rợn lạnh từ câu hát, từ tiếng đàn, cảm
giác ấy khiến trăng như rùng mình xót xa cho kiếp đời thảm thương của người
đã khuất; cảm giác ấy cứ theo mãi trong ý thơ, chi phối cách nhìn của thi nhân
với cảnh, với giọng đàn:
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi.
Câu thơ thảng thốt, run rẩy, bởi âm thanh ghê ghê rờn rợn. Âm thanh như
dòng “nước xanh”, dòng nước đã cuốn đi tuổi thanh xuân, đã nhận chìm một
kiếp người. Suy tưởng ấy khiến thi nhân thấy hồn lạnh hơn trong đêm dài, thấy
lòng trống trải giữa ánh trăng, thấy mình thêm nhỏ bé, cô đơn trước vũ trụ.
Đàn ghê như nước, đàn nhập vào nước, đàn rơi tận đáy lòng:
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận;
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người.
Thi nhân đã thu vào lòng mình khí thu lạnh lẽo, ánh trăng tỏ ngời và cả nỗi
uất hận trong tiếng đàn, mà không chỉ trong tiếng đàn, niềm đau và sự uất ức tồn
tại ngay ở sỏi đá, những vật chai cứng nhất. “Thế mới hiểu cảm xúc của thi sĩ
sâu đến mức nào. Mối hận đời đối xử bạc bẽo trong Nguyệt cầm cũng giống như
hình tượng siêu nhiên miêu tả ẩn sau tiếng đàn, ẩn sau sự chiếu ứng, sau quan
hệ giữa hai cuộc đời” (Nguyễn Khải Thi) ở Tì bà hành. Vì thế trăng đêm thu trong
Nguyệt cầm nhớ trăng bến Tầm Dương: giữa nghệ sĩ với Bạch Cư Dị có mối liên
quan, có sự liên tưởng và có niềm đồng cảm.
Thi sĩ bị chi phối bởi cảm xúc và cảm giác của nhà thơ nên một loạt những
hình ảnh đánh mạnh vào giác quan người đọc đã được sử dụng (thu lạnh, tỏ
ngời, ghê như nước, long lanh tiếng sỏi vang vang hận…). Điều đó khiến ta cảm
thấy thấm thía cái lạnh lẽo và sự cô vắng của đêm thủy tinh. Chính những cảm
giác trên đã khiến thi nhân (và khiến cả ta) thấy rợn ngợp, thấy lẻ loi hơn giữa
không gian:
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…
Hình ảnh thơ được cấu tạo từ sự tương giao, từ sự chuyển đổi của các
giác quan: âm nhạc lan tỏa trong không gian mà lại mang cả màu sắc, mang cả
đường nét, hình khối. Ấy là “ánh nhạc”, là “biển pha lê”. Âm thanh giờ tràn trề,
giờ bao la như đại dương, một đại dương nhạc. Và từng đợt sóng vỗ, từng nốt
đàn trầm bỗng đều như tỏa ra ánh sáng. Ánh sáng lấp lánh từ biển, ánh sáng tê
lạnh từ trăng như đang đẩy không gian đêm rộng hơn ra. Giữa không gian mênh
mông, giữa biển nhạc không bến bờ ấy, một tâm hồn cô đơn thấy rợn ngập hơn,
thấy lẻ loi hơn. Thi nhân ngầm so sánh hồn mình, một tâm hồn đơn chiếc giữa
không gian như một hòn đảo chơ vơ giữa biển nhạc. Từng âm thanh pha lê lọt
vào tim thi nhân, và về ở nơi ấy; nên hòn đảo nhỏ càng thấm sâu nỗi niềm đau
buồn, trống vắng.
Đây không phải là lần duy nhất Xuân Diệu thấy cô đơn, lạnh lùng. Cảm
giác ấy như theo về trong nhà thơ trong từng đêm trăng buồn:
Chỉ biển trời xanh, chẳng bến trời
Mắt tìm thèm rợn ánh khơi vơi.
(Buồn trăng - Xuân Diệu)
Cái vô biên của trời, cái bất tận của biển xanh, cái không cùng của không
gian luôn tác động mạnh đến cảm giác, cảm xúc của Xuân Diệu. Và khi ấy
phương cách giãi bày, bộc lộ tuyệt vời nhất ấy là thơ.
Toàn bài, im ắng và lặng lẽ. Cái tịch mịch nhưng lên đến cao độn ở hai
câu thơ kết:
“Sương bạc lặng thinh, khuya nín thở, tất cả như đang chăm chú theo dõi
hướng đi của dòng âm thanh; và rồi như chợt nhận ra rằng sao Khuê đang bị lu
mờ dần bởi mối sầu trong nhạc. Lúc này giọng đàn sầu não đã chiếm lĩnh cả
trong những vì tinh tú, nghĩa là niềm sự đã trở nên quá sâu sắc. Và cảm nhận
được như thế nghĩa là Xuân Diệu có một trái tim rất nhạy cảm.
Qua Nguyệt cầm, ta càng thấy rõ Xuân Diệu đúng là nhà thơ của cảm giác
và cảm xúc, mới thấy nét đa dạng trong tâm hồn nhà thơ. Ông quả không hổ
danh là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
NGUYỄN THU HƯỜNG
(Lớp 11B, Trường PTTH Kim Liên, Hà Nội)
NHẬN XÉT
Bảo đảm được những nội dung cơ bản mà đề yêu cầu.
Ưu điểm
Trong phân tích, có ý sáng tạo, suy nghĩ độc lập. Đôi ý viết có chiều sâu
(Ví dụ: phân tích sự hài hoà nhịp thơ, nhịp đàn với những xao động, cảm nhận
tinh tế của tâm hồn thi sĩ ở khổ 1)
Hành văn trôi chảy, lưu loát, có cảm xúc; tỏ ra là người biết thưởng thức
thơ.
Nhược điểm
Bố cục chưa sáng, đoạn mạch chưa uyển chuyển, nhấn lướt mờ nhạt nên
đọc bài có cảm giác giản đều.
Đôi câu, đôi từ tối nghĩa (Ví dụ: câu mở đầu: “Xuân Diệu nghĩa là hăm hở,
sôi trào, là tràn trề khao khát”; hoặc câu: “Dòng âm thanh diễn tả số phận của
người xưa bạc mệnh”. Nên viết rõ “người xưa” ở đây là “là người kĩ nữ” ở bến
Tầm Dương trong Tì bà hành…)
Bài 26
ĐỀ BÀI
Phân tích bài thơ Nguyệt cầm của Xuân Diệu.
BÀI LÀM
Thi ca luôn cần đến cái mộc mạc, tươi rói của một màu phù sa, một
thoáng hương đồng để hình tượng thơ có tính chất cảm tính cụ thể. Thơ đòi hỏi
ở nhà thơ sự tìm tòi, cảm nhận thực tinh tế của cảm quan nhằm đem vào thơ cái
vẻ phong phú của cuộc sống và thiên nhiên đầy hương vị, màu sắc, âm thanh.
Tuy nhiên, sự “tìm tòi, cảm nhận” của nhà thơ như thế nào là một vấn đề tế nhị
và phức tạp, nó phụ thuộc vào tư tưởng, thi pháp thời đại và cá tính sáng tạo
của thi nhân. Xuân Diệu nhà thơ tiêu biểu của thơ ca lãng mạn trước Cách mạng
tháng Tám trong bài thơ Nguyệt cầm đã biểu lộ tâm trạng cô đơn của mình trước
vũ trụ qua sự cảm nhận hết sức tinh tế về tiếng đàn sầu não trong đêm trăng tê
lạnh.
Bài thơ toát lên một “vẻ lạnh” - cái lạnh thấu suốt và thấm thía. Nó “nhập”
vào hồn người từ những câu thơ đầu:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh.
“Trăng nhập” - hình như trăng ở đây là một linh hồn nhạy cảm, bơ vơ đang
tìm chỗ tựa nương. Buồn thay, linh hồn ấy lại “nhập” vào cung đàn “lạnh”. Từ
“nhập” và “lạnh” gợi một cảm giác rợn rợn trong người đọc. Bản thân ánh trăng
đã tạo một cảm giác lạnh lạnh nay lại thêm tiếng đàn lạnh, hai thứ đi với nhau
gây nên cái lạnh lẽo cô đơn trong hồn người, cái lạnh lẽo cô đơn toát ra từ cả
câu thơ.
Hai câu tiếp theo nhịp nhàng như tiếng đàn dìu dặt, xa vắng trầm lắng:
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buôn, đàn lạnh, ôi đàn chậm.
Cái giai điệu lặp đi lặp lại ấy dễ gây cho người ta cảm xúc buồn. Nếu như
ở câu thơ trên, từ “ngần” đặt ở cuối như là tiếng đàn trải dài, trầm vọng, thì ở câu
dưới với từ “chậm” (thanh nặng) đặt ở cuối, tiếp theo từ “lạnh” (thanh nặng) và từ
“buồn” (thanh huyền), tiếng đàn như nghẹn lại, như buồn thảm hơn. Những điệp
khúc ấy cứ xoáy sâu vào ta, da diết lạ. Tiếng đàn là sự đồng vọng của “tiếng
hồn” tới vầng trăng, cái vầng trăng vẫn có tự muôn đời: trăng của quá khứ, trăng
của thực tại, trăng của những áng thơ… Tiếng đàn “buồn”, “lặng”, “chậm” cứ
khắc khoải và sầu não làm sao, để rồi:
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Chính tâm hồn tinh tế của thi nhân đã “kết” tiếng đàn kia thành giọt, “giọt
đàn” sao nghe nặng nề và rã rời đến vậy, buồn bã đến vậy, tựa như những giọt
lệ trong suốt đang rơi và tan ra. Cái “phi lí tính” ấy ta bắt gặp rất nhiều trong thơ
Xuân Diệu, là thế mạnh của thơ Xuân Diệu. Tất nhiên, nếu hiểu theo logic hình
thức thì rõ ràng là vô lí nhưng thực ra nó xuất phát từ cảm xúc thơ, nó phục vụ
cho chủ đề bài thơ, có tăng sức gợi cảm cho bài thơ. Phải phục ngòi bút Xuân
Diệu tả cái buồn thì tuyệt vời mà tả cái trong cũng rất nghệ thuật. Buồn đấy mà
không hề tối tăm, u ám.
Nỗi buồn lan tỏa trong không gian thanh sáng quá thành ra như không có
gì lấp vào được, không vơi đi mà cứ tăng lên. Không có con người, không có
một làn gió buồn, không có âm thanh nào ngoài tiếng đàn, càng không lần đâu ra
bóng dáng và hơi ấm của cuộc sống con người. Ngước lên cao, bầu trời trong
vắt, đối diện với tâm hồn. Mây không phải không có mà đi vắng, nghĩa là mọi
đêm vẫn có mây nhưng đêm nay không có, sự hẫng hụt như tăng lên. Không
gian trong đến choáng ngợp. Hình như giữa âm thanh và ánh sáng có sự tương
đồng hòa điệu. Chính tiếng đàn thánh thót mà trầm lắng, chậm rãi làm cho ánh
trăng kia rung lên hay chính tiếng đàn run lên trong cái không gian quá rộng, quá
trong? Hai vần “ung”, “inh” được đặt trong cùng một câu, một ở đầu câu, một ở
cuối câu dễ gây cho người ta cái cảm giác “rug rinh” ấy.
“Bỗng rung rinh” chuẩn bị cho tứ thơ dưới:
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Ra đây là nguyên nhân của tiếng đàn buồn, ra là thi nhân vẫn đang hướng
tới con người. Nghe tiếng đàn “rơi”, trong ánh trăng, Xuân Diệu nghĩ tới những
kiếp người bạc mệnh. Số phận của họ có phải như tiếng đàn kia vang lên mong
manh, lẽ loi rồi tan vào trong vũ trụ như đời họ sớm mất đi để tan vào quên lãng.
Khi hạ bút viết từ “xanh” không biết thi nhân có thấy nhói trong tim mình. Nước
“xanh” chứ không phải một dòng nước trong trẻo, dịu êm; nước xanh là dòng
nước vẫn còn mang cái vẻ hoang dại và vô tình của tạo hóa. Ấy lại là nơi đón
những linh hồn còn màu xanh của sức sống của tuổi trẻ. Cái sự thật phũ phàng
ấy đã bao lần văn học trung đại nói tới. Và giờ đến Xuân Diệu, phải chăng chính
điều đó đã giữ Xuân Diệu lại với tâm hồn Việt Nam, bởi lẽ, trong thơ Xuân Diệu
in dấu chủ nghĩa nhân văn dân tộc.
Nghĩ thế tưởng dễ làm cho người đọc tìm thấy chút gì ấm áp nhưng tiếng
đàn buồn và ánh trăng lại lấn át mất, nghĩa là không gian kia vẫn ám ảnh và đập
vào giác quan nhà thơ, cảm giác lạnh cứ tăng lên:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi.
Bài thơ có đến ba từ “lạnh”. Nhưng phải đến từ “lạnh” thứ ba này, đặt độc
lập trong câu, mới thấy cái lạnh toát ra mạnh mẽ nhất, đến người cũng cảm thấy
hơi lạnh bốc lên từ câu thơ, cái lạnh lọc trong ánh trăng, cái lạnh rùng mình như
dúng vào nước lạnh. Cái rùng ấy đã được diễn tả bằng nhịp ngắt từ “lạnh” được
tách riêng thành một nhịp. Giọt “lệ đàn” giờ đã hóa thành nước, dòng nước tê
lạnh cứ ngấm dần vào tim người ta… Tiếng “trời ơi” vang lên như tiếng kêu
thảng thốt của một tâm hồn mềm yếu trước cái lạnh dễ sợ ấy, cái rùng mình của
một thân phận cô đơn giữa một thế giới tưởng như quá bao la, thế giới thiếu
vắng con người, thế giới lạnh lẽo với đầy kí ức buồn thương. Phải chăng đó là
cái xã hội mà nhà thơ đang sống?
Hai câu tiếp khơi sâu vào nội tâm tác giả:
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhá Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Trăng và nhạc cũng là tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ trở lại với bến Tầm
Dương dạo nào trong trang thơ của thi sĩ họ Bạch tài hoa với tiếng đàn sầu
thương của người kĩ nữ. Tiếng đàn cất lên từ mối hận đời, hận cái xã hội đầy bất
công, ngang trái. “Cùng một lứa bên trời lận đận”, tiếng đàn và vần thơ là sự gặp
gỡ giữa hai người tài hoa bạc phận, hai tâm hồn nghệ sĩ đang bế tắc trước cuộc
đời. Dù nhà thơ có tìm được người bạn trong tâm tưởng nhưng sự cách biệt thế
giới, cách biệt thời gian càng làm cho thi nhân cảm thấy buồn hơn, cô độc hơn:
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê;
Chiếc đảo hồn tôi rợm bốn bề…
Câu thơ như vút cao lên. “Ánh nhạc” - ánh sáng trong như tiếng nhạc hay
như tiếng đàn đang lấp lánh sáng? Không gian tràn ngập ánh trăng, tràn ngập
tiếng đàn, không gian trở nên trong suốt và ánh lên như một “biển pha lê”.
Nhưng từ nãy giờ, cả ánh trăng và tiếng đàn chỉ gây trong lòng nhà thơ cảm giác
ớn lạnh và mặc cảm thù hận, vậy thì cái biển pha lê kia cũng chỉ là một bể sầu
vô định mênh mông choáng ngợp mà trên đó chỉ có một linh hồn - chiếc đảo -
cũng đang bơ vơ và cũng… vô định. Hai từ “bốn bề”, đặt ở đầu câu thứ nhất và
lặp lại cuối câu thứ hai của khổ thơ, vừa đóng khung cuộc đời con người lúc đó,
con người thật nhỏ bé, khó xác định cho mình một chân trời mà cứ bị ngợp dần,
lấp dần. Như trong thơ Huy Cận:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
(Tràng giang)
Mặc cảm cô đơn, bế tắc luôn ám ảnh trong các nhà thơ mới. Nhưng đó
cũng là sự thật cuộc đời. Hình ảnh “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề” là nỗi lòng tự
bạch của cả một tầng lớp thanh niên lúc bấy giờ. Tiếng “rợn” như một cái rùng
mình trước sự thật ấy. Thế nhưng dường như họ vẫn thích cái cảm giác cô đơn
kia. Xuân Diệu khi viết:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(Hi Mã Lạp Sơn)
hẳn có một niềm kiêu hãnh. Nhưng sự kiêu hãnh kia chỉ che đậy tạm thời cho
một tâm hồn cô đơn, yếu ớt, sợ cả sự tự bắt gặp mình (“Chớ để riêng em phải
gặp lòng anh” - Lời kĩ nữ). Có lẽ vậy mà:
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê
Giờ chỉ còn lại tiếng đàn sầu não với một tâm hồn bơ vơ. Không gian nín
lặng vì xúc động. Nỗi buồn tràn ngập, lan tỏa, lắng sâu vào tâm Hồn người đọc.
Tiếng đàn ngân mãi, vọng vào cái không gian xa kia làm nó thêm vời vợi mà con
người thì cứ nhỏ đi, chìm đi mãi.
Thế giới không có mặt trời ấy sao mà hoang vắng quá. Chỉ có những sợi
ánh sáng, những giọt âm thanh lấp lánh trên trang thơ, cái tài của Xuân Diệu là
ở đó. Cái hồn của Xuân Diệu cũng là ở đó, vẫn biết thoát li đấu tranh xã hội là
không đúng, nhưng thi nhân không trốn vào hưởng lạc, suy đồi mà hướng tới vẻ
đẹp thanh cao, trong sáng của thiên nhiên, của nghệ thuật, của tiếng mẹ. Bởi
vậy, hôm nay khi “Những đảo cô đơn Đảng nối nhịp cầu” (Lệ - Xuân Diệu), ta
vẫn tìm thấy ở Nguyệt cầm những vẻ đẹp cần có để tâm hồn thêm trong sạch và
phong phú hơn” (Thạch Lam).
NGHIÊM XUÂN HUY
(Lớp 11 chuyên Văn, Trường PTTH Công nghiệp Hà Đông)
NHẬN XÉT
Cảm thụ khá tinh tế, khá sâu sắc hồn của bài thơ qua từ ngữ, hình ảnh,
nhịp điệu của thơ và những cảm giác, những liên tưởng của tác giả. Ví dụ: “Bài
thơ toát lên một vẻ lạnh - cái lạnh thấu suốt và thấm sâu”; “Từ “nhập” và “lạnh”
gợi một cảm giác rợn rợn trong người đọc…”; “cái lạnh lọc trong ánh trăng, cái
lạnh rùng mình như dúng vào nước lạnh. Cái rùng mình ấy đã được diễn tả bằng
nhịp ngắt từ “lạnh” được tách riêng thành một nhịp”.
Hoặc: “Hai vần “ung”, “inh” được đặt trong cũng một câu, một ở đầu câu,
một ở cuối câu dễ gây cho những ta cảm giác “rung rinh” ấy”.
Hoặc: “Hai từ “bốn bề” đặt ở đầu câu thứ nhất và lặp lại cuối câu thứ hai
của khổ thơ, vừa đóng khung cuộc đời con người lúc đó, vừa mở ra một không
gian vô tận mà ở đó, con người thật nhỏ bé khó xác định được mình một chân
trời mà cứ bị ngợp dần, lấp dần”.
Còn vài chỗ phân tích chưa kĩ. Ví dụ, chưa phát hiện được nhịp ba trong
hai câu tả tiếng đàn dìu dặt:
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lạnh, ôi đàn chậm.
Hoặc chưa phân tích được hình ảnh “lung linh bóng sáng bỗng rùng
mình”.
Về nội dung hiểu đúng tư tưởng, cảm xúc của bài thơ nhưng cần chỉ rõ
hơn sự phát triển của hình tượng cảm xúc.
Về nghệ thuật, cần nêu bật hơn sự tương ứng, hòa quyện giữa âm thanh
và ánh sáng, giữa thính giác và thị giác để diễn tả thế giới tâm linh đầy ấn tượng
và liên tưởng.
Lời văn có cố gắng chuốt lời để diễn tả những điều tinh vi khó diễn tả về
nội dung cũng như nghệ thuật, tuy nhiên vẫn có những chỗ tỏ ra chưa nhuần nhị
hoặc bất cập.
Bài 27
ĐỀ BÀI
Phân tích tác phẩm Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu.
BÀI LÀM
Đọc xong thiên truyện, gấp sách lại rồi mà nỗi buồn hiu quạnh, nỗi buồn
lạnh lẽo mênh mang lan tỏa… cứ vây vất lòng ta. Tỏa nhị Kiều đến với ta đâu
phải bằng cốt truyện cầu kì, những chi tiết sâu sắc. Cái độc đáo còn lại là dư âm
tấm lòng của người nghệ sĩ, là tình thương chân thành với những cảnh đời
quanh quẩn tù túng trong xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 — 1945. Tỏa nhị Kiều
của Xuân Diệu có một sức cảm hoá, một mối dây liên hệ với trái tim độc giả
bằng vẻ đẹp nội tại trong linh hồn của nó.
Bài thơ hay trước hết phải đẹp: đẹp ở lí tưởng, ở câu chữ, cái đẹp toát ra
từ tâm hồn người thi sĩ. Nhưng một tác phẩm truyện ngắn, muốn lay động lòng
người, thức tỉnh và làm bừng sáng phần lương tri con người lại phải tiếp cận
cuộc sống, khám phá và biểu hiện cuộc sống ở một góc độ riêng biệt. Xuân Diệu
có cách nói riêng của mình, rất nghệ sĩ. Tác giả chớp lấy những mặt cắt, những
sự việc cụ thể để mà trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ, suy tưởng của mình về cuộc đời,
về con người. Tỏa nhị Kiều trong tập Phấn thông vàng (1938) thuộc loại thể
“truyện ý tưởng”. Ý nghĩa tư tưởng tác phẩm được bộc lộ qua cảm nghĩ của chủ
thể trữ tình.
Xuyên suốt thiên truyện là một nỗi thương vay nhưng là một nỗi thương da
diết và day dứt. Thiên truyện tự chia làm 5 khúc. Nhưng thực ra, xét đến cùng,
nó tự hoàn tất ý nghĩa bộc lộ trong hơi văn liền mạch, ở chất thơ lan tỏa trong
mạch nối từng đoạn. Không hiểu sao, lần đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm, sức lôi
cuốn của nó với tôi chưa phải là tư tưởng mà lại ở chính chất thơ, chất tình man
mác mà sâu lắng. Nó như một chất men say cuốn hút người ta, bắt người ta
phải đọc lại, cảm nhận và nắm bắt trong trường liên tưởng sâu xa, trong cái toàn
khối. Phải chăng, khi sáng tác văn xuôi, thi nhân đã để cho “hồn thơ bát ngát và
mơ màng” (Vũ Ngọc Phan) của mình chi phối vào câu chữ lúc nào không hay
biết. “Nó là bài thơ trường thiên không vần, không điệu, nó là những bài thơ tự
do để phô diễn hết cả cảm tưởng của tác giả về những người, những vật, tuy chỉ
có những cuộc đời rất nhỏ, nhưng gợi hứng cho thi nhân lại nhiều”.
“Tôi thương hai cô như hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh, khi chiều
giăng lưới qua muôn gốc cây. Buổi chiều của hai cô mờ nhạt và kéo dài, hai cô
lẫn trong sương mù (…) Không, hai cô là hai cô gái, chỉ biết buồn mờ, buồn lặng,
nhưng buồn lâu. Hai cô là hai cánh đồng…”.
Câu chữ trải dài theo không gian… Không thể rạch ròi phân biệt ý nghĩa
nội dung và hình thức ở đây được. Chỉ có cái dư âm, dư vị, cái hơi gió, hơi mây,
hơi sương. Chỉ có Xuân Diệu ùa tràn tâm trí mình mà đón nhận, chấp nhận và
đồng cảm cùng nỗi buồn da diết. Chất thơ trữ tình ấy, tôi đâu đám đọc to, chỉ
muốn thu nhận, cảm nhận nó bằng linh hồn và trái tim mình, để rồi lắng vào
trong suy tưởng. Dường như trong cái giây phút thăng hoa tuyệt đỉnh đó, chỉ có
sự giao hòa giữa trái tim với trái tim, linh hồn với linh hồn, tinh thần người cảm
thụ và nhạc điệu say nồng trong cấu tứ bài văn. Nhưng cảm nhận cái buồn buồn
lan tỏa, cái hiu quạnh tù đọng đang giăng trải, lây lan cùng chất thơ ấy, ta mới
càng khâm phục tác giả - khâm phục một tài năng có độ chín trong sáng tạo
nghệ thuật.
Chất thơ trong Tỏa nhị Kiều đã hòa trong nỗi “thương vay” của Xuân Diệu.
Thi nhân thương từ những con người đến con đường, thương những lối ngõ,
những ngôi nhà… thương tất cả những cái gì “lỡ cỡ” (chữ dùng của Xuân Diệu).
Thi nhân thương cái “buồn buồn đến khó chịu”, thương anh bạn “âm thầm” khiến
tác giả “bùi ngùi”, “ngùi ngùi” một cách tưởng như là vô lí. Lòng thi nhân mênh
mông, tình thi nhân rộng mở mà trái tim thi nhân thổn thức chấp nhận ôm nỗi
“thương vay”. Phải chăng, trái tim ấy đồng điệu với những tâm hồn nghệ sĩ, sinh
ra để yêu con người, yêu thế giới tạo vật, yêu tất cả những gì thuộc về Chân,
Thiện, Mĩ. Tư tưởng nhân văn cao quý của tác phẩm được bộc lộ ở đó.
Ở đoạn đầu, tình thương chưa được triển khai cụ thể và hơi sâu. Mới chỉ
là “bùi ngùi” đã từ tác phẩm đi vào lòng tôi mạnh mẽ đến lạ lùng. Ở đây không
phải Xuân Diệu để lòng mình cảm thương cho số kiếp đói nghèo, cho những
mãnh đời quằn quại trong xã hội phong kiến hay cái bất công, giả dối, tàn ác
đang bày ra, đang lấn át, chèn ép; rõ ràng từ cách nhận thức đến bộc lộ, nỗi
thương ấy xuất từ cái “lỡ cỡ” “lưng chừng” “xui lòng tôi không đủ cớ mà buồn
nữa kia”. Những con người, những sự vật - tất thảy đều không trọn vẹn, hoàn
tất, không nằm trong cái toàn bích của tạo hóa tự nhiên. Anh bạn âm thầm có
tên là Phan cũng không ranh mãnh, không ồn ào, nghịch ngợm, thảng hoặc ta
mới gặp trên môi anh một phần sáu nụ cười. Mọi vật đều buồn buồn một cách
lưng chừng, cái buồn không hoàn thiện, không trọn vẹn - cái buồn một nửa.
Nếu biết rằng, trong cả cuộc đời mình, thi nhân đều sống Vội vàng, cuống
quýt, gấp gáp, khẩn trương:
Mau với chứ vội vàng lên với chứ…
và khao khát giao hòa linh hồn cùng trời đất, cỏ cây, giao hòa cùng vũ trụ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
hay:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
(Vội vàng)
thì mới hiểu hơn bao giờ hết nỗi chán chường tuyệt vọng trong cái lưng chừng
lỡ cỡ. Hầu như trong cả thế giới ấy, không có cái gì đặc sắc không có cái gì đi
hết bản thân. Một phố hẻo lánh, một mảnh sân nhỏ, con đường sắc xanh không
rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chút đặc biệt, căn phòng không sáng
sủa… Có cái gì không vĩnh viễn trong cả những cái đang tồn tại… Nhưng tất cả
không hề in dấu ấn của chủ nghĩa bi quan, đối lập cái hữu hạn của đời người với
cái vô hạn của vũ trụ. Chỉ là một niềm thương cảm, thương đến vô cùng con
đường không đủ rộng cũng không đủ hẹp. Và nữa, thương cái vẻ hơi gập ghềnh
đến nét phong lưu nghèo nghèo một ít. Nỗi niềm tâm trạng ấy cứ lan ra, mênh
mang khôn cùng. Tôi cứ nghĩ về tấm lòng người nghệ sĩ, chân thật mà nhân ái
đến nhường nào. Tâm hồn họ bao trùm mọi hoa lá, cỏ cây… Chỉ ngần ấy thôi,
cũng đã đủ làm cho Xuân Diệu tinh tế cảm nhận “cuộc đời bỗng quạnh hiu làm
cho nhà cửa ngẩn ngơ”. Dưới con mắt nhà thơ, mọi vật đều có linh hồn, có trái
tim và cần thiết có sức sống, có vẻ đẹp trong sự toàn vẹn. Thi nhân không muốn
chấp nhận cái lưng chừng đến khổ sở. Dù là một giây, một phút, một khoảnh
khắc thôi, cũng xin phát huy hết mình, đem lòng mình hoà nhập trong cái tuyệt
đối vĩnh hằng:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt quanh năm.
Từ nỗi “thương vay” chưa có sức khái quát, chưa tạo nên bề sâu, sang
đoạn hai, tình thương ấy cụ thể mà sâu sắc hơn trong quan niệm triết lí nhân
sinh. Xuân Diệu thương hai cô gái - thương “hai cánh đồng”. Hai người hiền
ngây ngây, thơ thơ, lặng lẽ, ngơ ngác như một thứ hư vô. Trong cái không vẹn
toàn của sự vật, Quỳnh cũng chỉ hơi hơi xinh, bước chân Giao cao thấp không
đều; cô không giữ mà cũng không hiền. Tuổi trẻ của hai cô mờ lẫn, hòa trong cái
buồn mờ, buồn lặng nhưng buồn lâu. Không có tiếng cười, không có niềm vui
sống, con người như phôi pha trong dáng chiều ngẩn ngơ. Và thi nhân tinh tế
nhận ra “hai cô ngồi trong một buổi chiều rất đỗi ngẩn ngơ, một buổi chiều triền
miên của sự vật và của linh hồn, một buổi chiều trong nhà và trong tâm lí”. Trong
hai cô, tác giả cảm nghe sự mờ nhạt của cuộc đời - nhòa lẫn cùng đời, như tan
ra trong cát bụi. Có nỗi buồn nào hơn, còn niềm trăn trở nào sâu lắng, bức xúc
hơn.
Tạo hóa đã sinh ra con người, ban phát cho con người trái tim và một
niềm vui sống, một sự tự ý thức về bản thân và về những sự việc đang diễn ra
xung quanh mình. Nhưng có đáng sợ chăng, khi Xuân Diệu nhận ra rằng: chính
Quỳnh và Giao cũng không biết mình buồn nữa! Hai cô lặng lờ hết vào ra. Hai cô
không có việc làm. Hai cô không có niềm vui, không có niềm hạnh phúc. Thi
nhân “cảm giùm cho hai kẻ ngơ ngác và lặng thinh ngắm một cảnh tà dương”.
Thương hai cô gái, tác giả chợt liên tưởng tới những cuộc đời đã phôi pha theo
thời gian mà “cái chết đã nhận những linh hồn kia, cái chết đã là một mục đích”.
Sống mà như không sống, sức tàn tạ, phai nhạt theo dòng đời nghiệt ngã vẫn
cuốn trôi. Đến như ta, một lúc nhìn lại, chợt giật mình khi nghĩ tới những ngày đã
qua. Và ta, khao khát sống, khao khát cống hiến đến nhường nào! Vậy mà, trong
xã hội Việt Nam 1930 - 1945, đâu chỉ có cuộc đời lẫn trong mù sương của hai cô
gái Quỳnh — Giao. Nó đã phổ biến, đã tràn lên trên bề mặt cuộc sống trong “nỗi
đìu hiu của cái Ao Đời bằng phẳng”. Cuộc sống quanh quẩn ở trong cả việc
“Cơm mai rồi cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm”. Một nỗi buồn mơ hồ
nhạt nhẽo của ngày này tiếp theo ngày nọ, buồn trong tiếng kêu vo vo của đôi
con ruồi lơ thơ đậu dưới đất. Trong cái thê lương ấy, một nét lặng thinh choáng
ngợp tâm hồn Xuân Diệu. Thì ra, thương người, thương đời chính là thương
mình, thương thân. “Ao Đời bằng phẳng” ấy dù có khuấy động lên đôi chút, rồi
cũng chỉ chìm vào tĩnh lặng mà thôi. Xã hội ấy đối lập và không chấp nhận cái tôi
mạnh mẽ, khao khát sống, khao khát bộc lộ, giao cảm với đời của Xuân Diệu. Vì
thế thái độ sống gấp gáp vội vàng đến cuồng nhiệt ta bắt gặp ở thi nhân cũng là
điều dễ hiểu. Nhưng tài năng, ý thức của bản thân cá nhân, xã hội ấy đâu dễ
dàng đã hiểu. Cái tù đọng của một tầng lớp trí thức - tiểu tư sản lúc ấy (trong đó
có Xuân Diệu) là nguyên nhân sâu sắc để cảm thông những người xung quanh -
chỉ biết buồn - buồn mờ, buồn lặng nhưng buồn lâu.
Bài văn có tính chất hướng nội, một cảm hứng nhân đạo sâu sắc, Xuân
Diệu đã tìm được tên cội nguồn của nỗi thương vay. Trong một giây phút “Giật
mình mình lại thương mình xót xa”, Xuân Diệu đã kịp nhận ra những con người
đồng cảnh cùng mình cũng đáng thương biết bao trong xã hội “Điêu tàn” (Chế
Lan Viên) thuở ấy.
Độc giả thưởng thức câu chuyện, sau khi để cho cái toàn khối “ập vào tâm
tư một giây” (chữ dùng của Sêkhôp) đã chợp bừng tĩnh, chợt nhận ra điều sâu
xa thi nhân muốn gửi gắm, tâm sự, giãi bày. Xuân Diệu kết thúc thiên truyện,
đóng khép lại trang văn làm người đọc có chút gì luyến tiếc. Nó chỉ mở ra cái
buồn lan, buồn tỏa. Một giọt nước mắt nhòe mi của cô em cũng như chạy đến
mạch cuối truyện rồi cũng ngưng đọng vĩnh viễn - một trạng thái ngưng đọng của
tâm hồn mà không có cách nào giải quyết.
Tỏa nhị Kiều là một thi phẩm có giá trị trong cách miêu tả bề sâu tâm hồn
con người và cuộc sống của họ. Đó là một niềm mong mỏi được giải thoát, được
“cứu nạn” hay được quẫy ra khỏi Ao Đời tù đọng. Xuân Diệu muốn Quỳnh và
Giao là đối tượng để thực hiện tư tưởng tiến bộ của một cuộc “vật loan” mà
“thoát xác”. Nhưng hai cô lại không biết mình buồn; không biết mình đang chết,
đang “chết mòn” dù là còn đang sống. Hai cô lặng lẽ, ngơ ngác, không ý thức về
mình. Phải chăng, cuộc sống ấy, hai cô dễ dàng chấp nhận và đồng tình mà
không hề muốn thay đổi, muốn cải tạo nó. Không! Xuân Diệu thì khác! Dưới tầm
nhìn của thi nhân, cuộc sống của hai cô không những nó làm cho tác giả thương
mà còn nhận ra một sự đồng cảm, đồng cảnh ghê ghớm. Thi nhân quẫy đạp,
chạy trốn cái đơn điệu nhưng cuối cùng rơi vào bất lực tuyệt vọng. Thiên truyện
khép lại hiện tại mà không mở ra tương lai…
Trong Tỏa nhị Kiều, nhân vật “tôi” muốn làm một vị cứu tinh để gây sự đảo
lộn cuộc sống hai cô Kiều. Anh sẽ trêu ghẹo hai cô, sẵn sàng nhận ở đó một lời
chửi mắng chua ngoa hay một lời trêu ghẹo, bất cứ là gì ngoài cái “hiền lành,
hiền hậu làm tôi khó chịu quá”. Để rồi, ý định ấy lại thất vọng. Đó chỉ là một mong
ước - duy nhất mà không thành. Sự thất vọng và thất bại hoàn toàn của nhân vật
“tôi” đẩy sự “thương vay” của anh ta đến chỗ bế tắc. Hạn chế của Xuân Diệu là
đã không chỉ ra một con đường, một lí tưởng xã hội, một hướng giải quyết đúng
đắn, để thay đổi, xoá bỏ cuộc đời vô nghĩa, mờ nhạt. Nếu chỉ dùng biện pháp có
tính cải lương êm ái, trong phạm vi chủ nghĩa cá nhân thì tình yêu cũng chưa đủ;
mặc dù Xuân Diệu có đặt vấn đề “còn hai cô - hai cô lại cần tình yêu” nhưng nếu
có ai đó đem tình yêu đến cho hai cô thì liệu cái “Ao Đời” kia có sóng lên được
bao nhiêu và bao lâu? Xuân Diệu chẳng từng đã “Hai người nhưng chẳng bớt
bơ vơ” đó sao?
Chính cái khát vọng sống mạnh mẽ trong cái cuộc sống không ra sống ấy
đã đưa Xuân Diệu đến với cách mạng, và ông đã sống sôi nổi, sống hết mình
như ông hằng mong muốn, duy có điều, đó không phải là sự cựa quậy trong “Ao
Đời bằng phẳng” mà là sự phát huy tất cả những tiềm năng trong mình để góp
sóng với biển đời rộng lớn. Và chắc ông đã cứu được bao cuộc đời như Quỳnh,
như Giao - điều mà trước kia, ông rất tha thiết nhưng chưa làm được.
CHU THÚY HẰNG
(Lớp 11 chuyên Văn, Trường PTTH Công nghiệp Hà Đông)
NHẬN XÉT
Nêu được ý chính, nội dung chính của tác phẩm qua nhân vật chính “tôi”
và “hai cô gái”, có chú ý một số hình ảnh gây ấn tượng trong truyện.
Nắm được đặc điểm chính của truyện và thể loại về nghệ thuật, từ đó có
cách và hướng khai thác đúng.
Phân tích chưa đầy đủ (nỗi thương mình, nhân vật Phan). Phần đầu nói về
chất thơ không rõ lắm, cũng không hữu ích lắm.
Lời văn đôi chỗ sính chữ nghĩa.
Bài 28
ĐỀ BÀI
Bình giảng bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
BÀI LÀM
Huy Cận đã có lần tự viết về mình:
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi.
Nỗi buồn trong thơ Huy Cận (trước Cách mạng) là nỗi buồn trước một
buổi chiều tà, trước cảnh sông nước mênh mông, trước thiên nhiên cao rộng.
Tiêu biểu cho nỗi buồn đó là bài Tràng giang. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả
đã viết đề từ cho bài thơ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
Tràng giang là một bài thơ mang phong vị Đường thi khá rõ. Ngay từ hai
câu đầu:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Ta đã thấy phảng phất nhạc điệu, tứ thơ của Đỗ Phủ trong bài Đăng cao:
Vô biên lạc mọc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Dịch thơ:
Rào rào lá trút rừng cây thẳm
Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn.
(Theo bản dịch của Nam Trân)
Nhưng dòng sông trong thơ Huy Cận buồn hơn nhiều so với dòng sông
của Đỗ Phủ. Nỗi buồn đã thấm vào từng con sóng, nỗi buồn nối tiếp nhau, đan
chéo vào nhau:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp.
Nỗi buồn đó còn có ngay cả trong tâm hồn của tác giả, nó cũng dâng lên
điệp điệp theo con sóng. Từ “gợn” được đặt ở đầu câu đã mở ra một cảnh sông
nước buồn, vắng lặng. Huy Cận đã khéo léo đặt từ “điệp” ở cuối câu, không
những khép nỗi buồn của con người lại mà càng mở ra để cho nỗi buồn được
trải dài theo từng con sóng. Kết cấu “đầu gợi, cuối mở” của câu thơ càng làm
cho nỗi buồn ấy triền miên vô tận. Tâm hồn của người thi sĩ mang nặng nỗi buồn
của cảnh sông nước mênh mông nên nhà thơ nhìn dòng sông mà thấy:
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Hình ảnh con thuyền bơ vơ quá, lạc lõng quá bên dòng sông hoang vắng.
Nó hoàn toàn không có một tác động nhỏ nhoi đến cảnh vật xung quanh vì nó đã
“xuôi mái nước song song”. Câu thơ gợi trọn trong ta hình ảnh của một dòng
sông rộng lớn, hai bên bờ vắng, hoang sơ, những con sóng cũng thật lặng lẽ,
trên cảnh sông nước hiu quạnh đó có một con thuyền thoi mái chèo xuôi theo
dòng nước yên lặng, để mặc cho những con sóng xô đi xô lại. Hình ảnh của con
thuyền chỉ là một hình ảnh tĩnh chứ không phải hình ảnh động. Hình ảnh của
cảnh vật chứ không phải hình ảnh của con người. Chính vì thế mà những con
thuyền đó chỉ mang lại mối sầu của trăm ngã, rồi những con sóng đó lại mang
những nỗi buồn đó đến muôn phương:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả.
Sự lặp đi, lặp lại đó làm cho nỗi buồn mênh mông quá, dằng dặc quá: nỗi
buồn trong tâm hồn nhà thơ là nỗi buồn trước cảnh “Sông dài, trời rộng, bến cô
liêu”, là cái buồn vũ trụ. Trong cảm quan nỗi buồn đó thì bất cứ một hình ảnh nào
trên dòng sông cũng gợi sự lênh đênh, trôi dạt:
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ thật hiện đại, hiện đại cả về cách sử dụng hình ảnh và sắp xếp từ.
Ở đây chỉ có một cành củi mà thôi mà lại là cành củi khô thì thật lá đáng thương
quá! Từ “một” gợi lên hình ảnh của một sự lẻ loi, cô độc. Giữa dòng chảy mênh
mông, nước chia đi trăm ngã như vậy thì số phận của một cành củi khô rồi sẽ ra
sao? Thân phận của nó rồi sẽ trôi nổi đi đâu. Hình ảnh “củi một cành khô” trôi đi
trên sông nước mới mẻ và đỡ ước lệ hơn. Hơn nữa từ một cành cây xanh tươi
trên núi rừng đầu nguồn đến một cành củi khô bập bềnh, trôi nổi, thân phận của
nó đã trải qua mấy lần thương đau, khô héo, mấy lần trôi dạt, đổi thay. Do đó
sức diễn tả của câu thơ thật gợi cảm và thấm thía. Sự lênh đênh trôi dạt của
cành củi khô hay là sự lênh đênh trôi dạt của những số phận con người - những
con người sống trong xã hội đầy lố lăng và bế tắc. Nỗi mặc cảm buồn đau tràn
ngập tâm hồn Huy Cận lại gặp, lại gặp một dòng sông mênh mông hoang vắng
thì nỗi buồn đó càng tăng lên gấp bội. Những dòng sông gắn liền với quê hương
đất nước thân yêu, những xóm làng trù phú, những khóm tre thân quen đã mọc
lên từ bao đời bên dòng sông êm ả. Những cảnh chợ chiều xao xác bên sông
sao mà thân quen quá, những âm thanh đó đã thấm vào hồn ta từ thuở bé thơ,
cùng ta lớn lên theo năm tháng… Nhưng giờ đây nghe lại những âm thanh đó lại
làm lòng ta buồn đến nao lòng:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu…
Tràng giang là một bài thơ của phong trào Thơ mới nhưng ta vẫn thấy có
dáng dấp cổ điển. Vì những dòng sông trong thơ Huy Cận thường là những
dòng sông mênh mông bát ngát “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” như Xuân Diệu
đã nhận xét: “Bài thơ hầu như đã trở thành cổ điển của một nhà thơ mới. Vào
một cách dõng dạc, đàng hoàng vì đây là “đại giang” là sông lớn ví dụ như sông
Hồng, là tràng giang: rộng bao gồm cả trường giang; dài, sầu trăm ngả vì là sông
lớn… Hơi thơ cổ điển là đúng… Duy câu thứ tư là hiện đại, thơ truyền thống của
ông cha ta không đưa nét hiện thực, thực tế nôm na chân thật đến sống sít là củi
một cành khô trôi trên sông”.
Thơ Huy Cận trước Cách mạng thường buồn. Đó là nỗi buồn và nỗi cô
đơn của những nhà thơ lãng mạn. Tuổi trẻ của Huy Cận trước Cánh mạng mang
cái buồn hun hút của một miền sơn cước cách Linh Cảm bốn cây số và cái buồn
của một nhà nho tàn tạ có nhiều chuyện bất hòa không vui. Những kỉ niệm đau
buồn thời thơ ấu để lại ấn tượng khá sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ. Vào đời, lại
gặp cái đau buồn của xã hội, cái tuổi nhục của người trí thức mất nước. Bản
thân thì hoang mang bế tắc không tìm thấy đường đi. Cái buồn trong đời thực tế
biến thành những dòng lệ trong văn chương. Cái buồn da diết và ảo não nhất là
cái buồn trong Lửa thiêng, ở đây, cái buồn bàng bạc cả không gian và thời gian:
sóng gợn tràng giang, tiếng đìu hiu của bờ lao khóm trúc, nỗi buồn từ ngàn xưa
theo gió thổi về… Cái buồn của Huy Cận là “cái buồn vũ trụ” là cảm giác cô đơn
của con người trước không gian mênh mông, bát ngát:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Buổi chiều là sự tàn tạ của một ngày và con người ta cũng dễ buồn nhất
vào buổi chiều tà. Đứng trước dòng sông rộng bao la, tâm hồn ta như được lắng
xuống, bỗng đâu đó trong tâm hồn vẳng lại những âm thanh mơ hồ, xa xăm của
cảnh chợ chiều quê:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Câu thơ gợi lên một không khí quen thuộc của Việt Nam. Không khí đó
làm Huy Cận gợi nhớ đến quê hương - một làng sơn cước heo hút tận Hương
Sơn, Hà Tĩnh, ở tả ngạn sông Thâm bên núi Mồng Gà. Nhưng còn đâu nữa sự
trù phú của đất đai, giờ đây chỉ còn lại sự trơ trụi của những “cồn nhỏ thơ lơ”.
Những “ngọn gió đìu hiu” như mang theo nỗi buồn từ ngàn xưa trở lại. Mở đầu
câu thơ bằng từ “lơ thơ” và kết thúc câu bằng hình ảnh gió “đìu hiu” làm cho nỗi
buồn thêm se lạnh, quạnh hiu. Nỗi cô đơn, vắng lặng bao trùm lên tất cả, cả
cảnh chợ búa, nhộn nhịp cũng chỉ còn lại những âm thanh “xao xác”. Tất cả
cảnh vật như chìm trong nỗi buồn của không gian mênh mông vô tận: “Sông dài,
trời rộng, bến cô liêu”. Con người như bị hút vào cái không gian đó, bị hút vào
bầu trời “sâu chót vót”. Phải chăng đây chính là sự choáng ngợp của tâm hồn thi
sĩ trước không gian bao la của vũ trụ, của cuộc đời. Và đã có biết bao lần Huy
Cận đã phải buồn bã thốt lên: “Không gian ơi! Xin hẹp bớt mênh mông”, ở đây
dùng từ “sâu” mà không dùng từ khác đã làm tăng giá trị của câu thơ lên rất
nhiều. Nếu như ta đổi từ “sâu” bằng từ “cao”:
Nắng xuống, trời lên cao chót vót
thì ta không thể thấy được cái thăm thẳm của bầu trời. Vì “cao chót vót” thì ta
tưởng tượng được độ cao của nó. Nhưng từ “sâu” thì không những thấy được
bầu trời sâu thẳm mà ta còn thấy được nỗi sợ hãi của con người trước cảnh
thiên nhiên thật quá bé nhỏ, họ như sắp bị hút vào cõi không gian vô tận và sâu
thẳm kia. Không gian thì mênh mông, cảnh vật lại hiu quạnh, con người thì bé
nhỏ, như vậy con người làm sao mà tránh khỏi được những mặc cảm về số
phận:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng.
Các nhà thơ lãng mạn đã mang cái tâm trạng buồn và cô đơn của mình
phủ lên thiên nhiên. Cho nên thiên nhiên trong Thơ mới nói chung và trong thơ
Huy Cận nói riêng thường mênh mông rợn ngợp hoặc xa vắng hiu quạnh, ở đây
con người thường tan biến đi, mất hút đi trong thiên nhiên. Kiếp người như cánh
bèo trôi dạt, như “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh “Bèo dạt về đâu,
hàng nối hàng” là hình ảnh thực của cuộc sống. Hình ảnh ấy bắt nguồn từ chính
sự mặc cảm về số phận trôi dạt, không phương hướng giữa dòng đời của nhà
thơ lãng mạn. Tác giả đã tập trung tất cả những hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi
bật lên nỗi buồn cô liêu của con người trước cảnh “sông dài trời rộng”. Ngay từ
đầu nhà thơ đã dùng chữ “tràng giang” chứ không phải là “trường giang” mặc dù
cả hai đều có ý nghĩa là dòng sông mênh mông rộng lớn. Nhưng vì âm vang của
chữ “tràng giang” nghe nó mênh mông bát ngát hơn. Hai bờ sông ở đây hoang
vắng cô liêu như thời tiền sử vì không một chiếc cầu, không một chuyến đò
ngang làm dấu nối:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hai bờ của một dòng sông cứ thế chạy dài về phía chân trời xanh như hai
thế giới cô đơn, xa lạ như không bao giờ gặp gỡ nhau, không “một chút niềm
thân mật” của những tâm hồn đồng điệu. Con người giữa hai thế giới vốn đã
mênh mông hiu quạnh nhưng họ không đến với nhau, không tìm đến nhau nên
con người càng trở nên bơ vơ giữa đại dương của cuộc đời. Đó chính là sự bế
tắc của tầng lớp tiểu tư sản trí thức lúc đó. Cảnh mênh mông buồn vắng càng
được nhấn mạnh hơn nữa qua hai lần phủ định: “Không một chuyến đò ngang…
Không một niềm thân mật…”. Huy Cận đã miêu tả cái hư vô bằng cách tái hiện
sự có mặt của cái không. Sợi dây thân mật nối liền giữa những con người trong
cuộc đời tuyệt nhiên bị mất hút. Nỗi niềm nhớ quê đến đây bỗng thành niềm
khao khát tình đời, tình người, nhưng tình đời, tình người lại hoàn toàn trống
vắng: không tiếng, không đò, không cầu và cả không khói, không niềm thân mật.
Tràng giang trống trải cô đơn từ nguồn mạch của nó, nỗi cô đơn của con người
bơ vơ giữa dòng đời. Nhưng khi cách mạng đến, ánh sáng của Đảng soi rọi
những tâm hồn lạnh lẽo, bơ vơ thì:
Những đảo cô đơn Đảng nối nhịp cầu
Yêu nhau quá ta để tràn tâm tưởng
Lòng càng khóc, càng nhẹ nhàng sung sướng.
Trong suốt cả bài thơ, Huy Cận chỉ dành một câu để nói về màu sắc của
cỏ cây:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Những màu sắc đó thật ít ỏi, lẻ loi không đủ để làm giảm đi cái buồn mênh
mông đã thấm vào từng câu, từng chữ bài thơ. “Bờ xanh” và “bãi vàng” kia cũng
không thể gợi lên một niềm vui nho nhỏ vì đó là màu sắc của “lặng lẽ”, cô đơn.
Nỗi buồn mênh mông, trùm lên cả màu xanh sắc vàng của cây cỏ, đó cũng chính
là sự nối tiếp nỗi buồn có sẵn, một màu sắc hiếm hoi của sự sống “lặng lẽ”
không ai biết đến. Dưới đất là cảnh sông nước mênh mang, hiu quạnh, còn trên
trời:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Trên bầu trời xanh mênh mông, mây đùn lên thành những ngọn núi trắng
xóa, xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà “bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải
nghiêng lật cánh” (Xuân Diệu). Hình ảnh của bầu trời gợn lên cảm giác hãi hùng
hơn là hùng vĩ. Một hoặc quá mỏng manh “chim nghiêng cánh nhỏ” đặt cạnh
hoặc quá dữ dằn “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên sự hãi hùng của con
người trước thiên nhiên cao rộng. Cánh chim quá nhỏ nhoi giữa bầu trời đầy dữ
dội và sâu thẳm. Buổi chiều rồi sẽ rơi vào màn đêm, còn cánh chim nhỏ kia sẽ
bay về đâu?… ở câu thứ nhất một lần nữa ta lại thấy Huy Cận học tập thơ Đỗ
Phủ xưa:
Lưng trời sóng cuộn lòng sâu thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Hình ảnh những cánh chim nghiêng trên bầu trời vào buổi chiều tà đã quá
quen thuộc với chúng ta:
Chim hôm thoi thót về rừng
(Nguyễn Du)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Những cánh chim thân thương làm sao, một cánh chim nhỏ trên bầu trời
cũng đủ làm cho lòng ta nhớ quê da diết:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trong hai câu cuối cùng này, tứ thơ đã có một nét mới so với bài Hoàng
Hạc lâu của Thôi Hiệu. Trong bài thơ của Thôi Hiệu, khách nhìn thấy khói tỏa
sóng gợn mà trong lòng nhớ quê hương:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng - sử nhân sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trẽn sông khói sóng cho buồn lòng ai)
(Bản dịch của Tản Đà)
còn Huy Cận thì “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Như vậy phải nói rằng
lòng nhớ quê hương trong tâm hồn thi sĩ nó da diết lắm… ngọn khói, con sóng…
của quê hương đã thấm sâu vào tâm hồn của tác giả. Có thể nói hồn thơ Đường
đã thấm sâu vào thơ của Huy Cận. Tuy học tập Đường thi nhưng Huy Cận vẫn
tạo nên trong thơ mình một nét riêng độc đáo của Huy Cận, cái buồn của Huy
Cận lớn lắm, nỗi nhớ nhà của Huy Cận da diết lắm. Nỗi nhớ một miền quê ven
đê hoang vắng lúc chợ chiều đã vãn nghe mà đứt ruột! Cái buồn trong thơ Huy
Cận là cái buồn đau đớn “Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi” (Mai sau). Và
có lẽ chỉ đến Thơ mới thì nỗi nhớ quê hương mới có được cái cảm giác “dợn
dợn” như vậy. Nếu ai đã từng sống ở vùng đồng bằng thì mới thấy được Tràng
giang quen thuộc với chúng ta biết chừng nào. Như đó chính là cảnh sông nước
của quê hương một miền quê mà mình đã đi qua. Tất cả đều có cách nhìn quen
thuộc quá, Việt Nam quá! Từ hình ảnh “cành củi khô”, những cánh bèo dạt trôi
trên sông nước mênh mang, cảnh chợ chiều xao xác, một làng nhỏ ven sông,
những cánh cò nghiêng cánh trên bầu trời xanh thẳm. Tất cả đều thân thương
và đáng yêu biết chừng nào!
Huy Cận đã gửi vào Tràng giang một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất
nước. Tràng giang đó là một bức tranh đẹp nhưng thật buồn về cảnh sông nước
của quê hương đất nước. Bài thơ được viết trong tâm trạng buồn và cô đơn của
người trí thức tiển tư sản trước Cách mạng nhưng xuất phát từ tấm lòng yêu
mến quê hương. Nỗi buồn đau thấm đượm bài thơ chính là nỗi buồn mất nước
nhưng còn có phần yếu đuối của những con người chưa nhìn thấy tiền đồ của
đất nước. Nhưng nói chung, Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất
nước, và do đó dọn đường cho tình yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu).
Chính trong cảm xúc, buồn mà đẹp, cổ điển mà hiện đại, đậm đà chất dân
tộc trong chất liệu và thể điệu, Tràng giang xứng đáng là một bài thơ hay tiêu
biểu cho thơ lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 và thơ Huy Cận trước Cách mạng.
TRẦN THU HẰNG
(Trường PTTH Công nghiệp Hà Đông)
NHẬN XÉT
Bài viết khá phong phú về ý, về kiến thức (liên hệ so sánh, mở rộng).
Nhìn chung bám sát bài thơ, vận dụng đúng kiểu bài.
Lời văn gẫy gọn, ít nhiều có cảm xúc. Tuy nhiên, lời văn chưa thật nhuần
nhị, uyển chuyển nhất là khi liên hệ hoặc chuyển ý.
Bài 29
ĐỀ BÀI
Bình giảng bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
BÀI LÀM
Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất và tiêu biểu nhất cho hồn
thơ Huy Cận trước Cách mạng. Những thi sĩ “ảo não” nhất trong phong trào Thơ
mới ấy đã cất lên tiếng nói của lòng mình trước cảnh sông nước mênh mang,
trong cái bao la của vũ trụ. Bài thơ là một nỗi buồn mênh mông rợn ngợp, bao
trùm cả không gian và thời gian, như thấm vào linh hồn của tạo vật, mà ở đó mỗi
cảnh, mỗi tình đều như chứa chất “Cái lớp sâu dưới đáy hồn nhân thế” (Xuân
Diệu).
Huy Cận thường lấy cảm hứng từ cái bao la của vũ trụ, cái mênh mang
của sông nước. Nhà thơ muốn từ đó để nói lên nỗi “sầu vạn kỉ” của mình. Bài
thơ Tràng giang cũng có chung nguồn cảm hứng, nhưng ở đây, nỗi buồn, nỗi
sầu và cái bao la của trời đất đã được đẩy cao, trở thành tiêu biểu cho hồn thơ
Huy Cận. Cảm giác đó được mang lại ngay từ tiêu đề Tràng giang và lời đề từ
“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Sự kết hợp hai âm “ang” tạo độ mở, gợi
hình ảnh con sông dài và rộng, đượm màu sắc cổ kính như từ xa xưa chảy về.
Lời đề tựa là cảm xúc chính của nhà thơ, vừa góp phần tạo cảm giác mênh
mông rộng mở, vừa để nói lên linh hồn của tạo vật. Chỉ với một câu, Huy Cận đã
dẫn người đọc vào một khoảng không gian bao la, nơi mà “trời rộng”, “sông dài”
cũng chất chứa tâm trạng.
Bài thơ mở đầu là cảnh Tràng giang mênh mang sóng nước:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Cảnh vật không chỉ đơn thuần là cảnh nữa, mà đã thấm đẫm tâm trạng.
Nhà thơ bắt đầu bộc lộ cảm xúc bằng cách miêu tả những con sóng sông,
nhưng cùng với những con sóng thiên nhiên, những con sóng lòng đã ùa theo,
và lập tức trải ra nỗi buồn “điệp điệp”. Nỗi buồn mênh mang và dường như
không dứt, như sông, như những con sóng trên sông.
Từ xưa, hình ảnh thuyền và nước diễn tả sự gắn bó, thế nhưng, đến Huy
Cận, thuyền và nước trở nên có linh hồn, trở nên chia lìa, tan tác:
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả.
Trên dòng sông rộng lớn, hình ảnh con thuyền nhỏ bé đem lại cho người
đọc cảm giác buông xuôi, thụ động. Ở đây, sự đối lập giữa dòng sông mênh
mông và con thuyền nhỏ nhoi, cô độc càng làm tăng vẻ trang nghiêm, cổ kính.
Nhạc điệu và tứ thơ phảng phất như trong thơ Đỗ Phủ:
Ngàn cây bát ngát lá rụng xào xạc
Dòng sông dằng dặc nước cuồn cuộn trôi.
(Đăng Cao)
nhưng thấm đượm một nỗi buồn da diết. Cùng diễn tả sự chia lìa, Hàn Mặc Tử
trong bài Đây thôn Vĩ Dạ viết:
Gió theo lối gió, mây đường mây
nhưng gió, mây đã như rạch vào nỗi đau thân phận của người thi sĩ có những
cơn “điên loạn thần thánh”. Còn Huy Cận, ông vừa diễn tả sự sum họp, sự đồng
nhất “Con thuyền xuôi mái nước song song” vừa thể hiện nỗi buồn của tan tác,
chia li: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Nỗi buồn, nỗi sầu vì thế mà nhân lên
gấp bội. Ở đây, có sự gặp gỡ giữa Huy Cận và Xuân Diệu, ngay giữa sự hòa
hợp cũng có sự chia li.
Câu thơ thứ tư đặc tả hình ảnh một cành củi khô, “lạc mấy dòng”. Trên
dòng Tràng giang giàu màu sắc cổ điển ấy, Huy Cận đã thả một chi tiết “sống
sít”, chân thực đến mức nôm na mà chỉ ở thơ hiện đại mới có được. Hình ảnh
“củi một cành khô, lạc mấy dòng” đầy ấn tượng thể hiện nỗi buồn sâu sắc, thấm
thía của một nhà Thơ mới. Một cành củi khô héo lênh đênh trên dòng Tràng
giang mênh mông sóng nước gợi nỗi buồn tủi về những thân phận nổi trôi vô
định. Nhà thơ đã đẩy cao đến mức tuyệt đối sự nhỏ nhoi, cô độc, không còn sức
sống của “cành củi khô”. Câu thơ tràn đầy tâm trạng. Nhà thơ buồn trước sự nổi
nênh của kiếp người trước dòng chảy thời gian, trước sự dập vùi của những
thân phận đau thương trong xã hội. Huy Cận đem lại cho người đọc sự thấm
thìa, sự xót xa về kiếp người, về dòng đời. Cái tôi tội nghiệp, cô đơn trong Thơ
mới đã tìm được sự đồng vọng trong hình ảnh cành củi khô lạc loài trong thơ
Huy Cận.
Ở khổ tiếp theo, nỗi buồn được tiếp tục thấm sâu vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Cảnh vật được hiện lên với đôi nét phác họa. Cảnh như trong một bức
tranh cổ điển. Có hình khối, đường nét nhưng sao thiếu vắng thế nào. Huy Cận
đã học được trong Chinh phụ ngâm từ “đìu hiu” (Non Kì quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò). Sự ít ỏi về số lượng “lơ thơ”, bé nhỏ về khối
lượng: “cồn nhỏ” và cái “đìu hiu” của gió đã đem lại nỗi buồn, sự cô đơn cho
người đọc. Dường như cảnh vật được nhìn dưới một ống kính xa, nên mọi
đường nét đều lặng thầm. Tuy có hoạt động đấy nhưng chỉ là sự chuyển động
nhẹ nhàng của gió. Không gian như được lắng xuống, và khi đó, tác giả lắng
nghe tiếng “làng xa vãn chợ chiều”. Điều đó chỉ có được ở một “tâm hồn biết
lắng nghe”. Nhưng thật đáng tiếc, khi sự lắng nghe, sự mong chờ những màu
sắc của sự sống ấy lại rơi vào một khoảng không vắng lặng. Ngay cả cảm giác
của nhà thơ cũng không rõ ràng: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Nguyễn Trãi
cũng lắng nghe, nhưng ông được đáp lại: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”. Cũng
là âm thanh mơ hồ, không rõ ràng nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi tràn đầy niềm
vui, tràn đầy sự sống. Còn Huy Cận, cảm giác của nhà thơ lại chìm vào cái
mênh mông của trời đất, và vì thế, nỗi buồn thấm thía hơn. Lấy cái động để tả
cái tĩnh, đấy là thủ pháp quen thuộc của thơ cổ, nhưng với Huy Cận, nó có tác
dụng đặc biệt, gợi ra một không gian trống vắng, làm tăng thêm không khi vắng
lặng, chia lìa của cảnh vật.
Với đôi nét phác hoạ, Huy Cận cũng đã tạo được ít nhiều màu sắc của
cuộc sống. Thiên nhiên trong một buổi chiều giữa cảnh “Sông dài, trời rộng, bến
cô liêu” cũng thật lạ lùng:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.
không được mở rộng đến ba chiều, dường như ở đây có sự vận động của thiên
nhiên, của vũ trụ. Với sự vận động “nắng xuống, trời lên”, Huy Cận đã mở ra một
không gian cao rộng đến khôn cùng. Đây là một câu thơ rất hay của Huy Cận.
Nó vừa nói lên được sự bao la của vũ trụ, vừa tạo cảm giác vũ trụ ở trong lòng
sông. Cảm giác choáng ngợp trước thiên nhiên càng làm tăng thêm cái nhỏ nhoi
của con người. Và “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” - cảm giác buồn cô độc
được đẩy cao. Câu thơ diễn tả ý thơ của lời đề từ nhưng rõ ràng ở đây, nỗi buồn
đã trở thành mối sầu vạn kỉ.
Trước cái mênh mông của vũ trụ, con người tìm đến những hình ảnh gần
gũi của cuộc sống:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Trái với sự mong chờ của con người, cảnh vật hiện lên tàn lụi, héo úa.
Hình ảnh “bèo dạt” gợi cảm giác “bèo dạt hoa trôi” đến những thân phận khổ đau
trong xã hội cũ. Nhà thơ cảm nhận cảnh vật nghiêng về sự tàn lụi. Sự phủ nhận
liên tiếp “không một chuyến đò ngang”, “Không cầu gợi chút niềm thân mật” càng
thể hiện sự vắng vẻ, cô đơn, hoang vắng. Bức tranh có màu sắc nhưng là sự
héo úa: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Tuy nhà thơ tách riêng hai màu xanh và
vàng nhưng ta cũng có cảm giác đó cũng là màu sắc của “Rầu rầu ngọn cỏ nửa
vàng nửa xanh” trong thơ Nguyễn Du. Dường như chính nhà thơ đã đem lại màu
sắc cho cảnh vật từ thế giới chủ quan của mình. Sự nổi nênh, trôi nổi của “Bèo
dạt về đâu, hàng nối hàng” tuy liên tiếp nhưng không gợi sự đông đúc, cùng với
sự phủ nhận sự đoàn tụ, sum họp của nhà thơ không những đem lại ấn tượng
buồn mà còn là thái độ, là tâm trạng của nhà thơ trước sự sống: đó là sự bế tắc,
lụi tàn.
Không ai trong Thơ mới có nỗi “sầu vạn kỉ” như Huy Cận. Đối với ông, mọi
cảnh vật đều nhuốm màu sắc buồn thương. Vì thế mà trong khổ kết, cảnh vật có
bừng lên rực rỡ, huy hoàng chốc lát, rồi lại sẫm xuống thấm đẫm tâm trạng:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dọn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ở đây có sự liên tưởng thật độc đáo: từng đám mây trắng đùn lên ở phía
chân trời trông như núi bạc. Huy Cận đã học được trong thơ Đỗ Phủ: “Mặt đất
mây đùn cửa ải xa” nhưng không gian trong thơ Huy Cận rợn ngợp hơn. Trong
buổi chiều, hình ảnh một cánh chim nhỏ nhoi, cô độc, như một chấm buồn giữa
vũ trụ bao la. Không gian vũ trụ càng lớn lao, càng hùng vĩ thì càng làm nổi bật
sự đơn lẻ của cánh chim chiều. Bóng chim trong thơ Huy Cận có nét giống với
cánh chim bay mải miết trong ráng chiều của Vương Bột vì như cùng bị tan biến
vào không gian, song là một nhà Thơ mới, Huy Cận có cách thể hiện hết sức
mới mẽ. Cánh chim dường như lệch đi dưới sức nặng của buổi chiều. Cái cô
đơn, cái buồn dường như trĩu nặng trước một không gian bao la nhưng trống
vắng. Cánh chim tuy gợi một cảm giác ấm cúng cho cảnh vật nhưng nhỏ bé,
mông lung quá, vì vậy mà càng nhỏ bé, tội nghiệp.
Trong cái buồn của ngoại cảnh, Huy Cận còn có cái buồn của tâm hồn -
cái buồn của một con người xa quê hương:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Nỗi buồn nhớ quê hương xuất phát từ nỗi buồn của cảnh vật, của kiếp
người… cũng là điều dễ hiểu. Điều đáng nói ở đây là sự thể hiện nỗi buồn đó.
Huy Cận đã họa tập được ý thơ này trong thơ Thôi Hiệu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
nhưng đi xa hơn Thôi Hiệu còn cần phải có ngoại cảnh tác động chứ Huy Cận
thì nỗi buồn từ trong lòng mà ra. Nỗi sầu, nỗi nhớ vì thế mà thêm da diết. Quê
hương khuất trong nỗi niềm, trong tâm tưởng nhà thơ, đó là nỗi sầu vạn kỉ, là cái
buồn hết sức trong sáng và đáng quý của tâm hồn nhà thơ. Huy Cận luôn ấp ủ
tình thương nhớ với quê hương nên không cần đến khói sóng trên sông “cũng
nhớ nhà”. Đó là tấm lòng của nhà thơ, là sự hướng tới quê hương, đất nước, và
vì thế, Tràng giang là một bài thơ ca hát giang sơn đất nước, và do đó dọn
đường cho tình yêu non sông “Tổ quốc” (Xuân Diệu). Những tình cảm Tràng
giang hết sức gần gũi với người dân Việt Nam, và điều đó làm nên giá trị nhân
bản của bài thơ.
Huy Cận đã kết hợp nhuần nhị những tinh hoa của thơ hiện đại với thơ ca
truyền thống. Có thể nói chất Đường thi đã thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ, từ
thời niên thiếu. Tràng giang chính là sự học tập thơ Đường và thơ hiện đại, chủ
yếu là thơ Pháp. Bài thơ đã để lại dư ba trong lòng người đọc về một không gian
mênh mông, rợn ngợp và nhất là nỗi buồn “sầu van kỉ”. Đó là một đóng góp của
Huy Cận với Thơ mới và nền văn học nước nhà.
TRẦN THÚY NGA
(Lớp 11 chuyên Văn, Trường PTTH Lê Hồng Phong, Nam Định)
NHẬN XÉT
Khả năng cảm thụ khá tinh tế bài thơ trên cơ sở nắm được đặc điểm của
phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng. Bài viết có ý thức đối chiếu, so sánh
trong từng câu, từng hình ảnh thơ của Huy Cận với tác giả khác.
Tuy vậy vẫn có cảm giác bài viết thiếu tầm bao quát để có thể rút ra những
ý tưởng lớn của thời đại từ một bài thơ cụ thể.
Bài 30
ĐỀ BÀI
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
BÀI LÀM
Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã
bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút
giây đau xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong
thơ, những phút giây ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình
để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời
ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong
sáng đã hòa qụyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình
chung mà hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử.
Một tình yêu thiết tha man mác, được vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên
nhiên hòa với lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau.
Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao
yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái
đối với người yêu vì đã bỏ qua không được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấp
áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, mộ
phương diện của cảnh Huế.
Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nét đặt sác của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên
đến đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước
mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức
sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút
vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng vàng
buổi bình minh. Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng
mạc quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ
của Tố Hữu trong bài Xuân lòng:
Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẻ lá cành chanh.
Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một
năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng
đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê mà trước hết nó chiếu vào những vườn cau
làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc
được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mịn:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
“Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự
ngạc nhiên đến thẫn thờ”. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã
hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược
hiện ra, nhắm mắt vào ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ
màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó
còn tràn trề sự sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gội rửa
trở thành cành vàng lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ
màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống
của vườn tược. Một màu xanh cao quý, không một chút gợn, một màu xanh tỏa
ánh tạo nên vẻ đẹp óng ánh, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng
bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy
sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ
hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu
không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đôi với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không
thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở
Việt Nam, đặc biệt là ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia nhánh lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có
mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che
ngang khuôn mặt chữ điền. “Mặt chữ điền” - khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp
thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.
Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả
cảnh làng quê ở khổ đầu đã hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông,
với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Gió và mây đã gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn
hơn: gió đi theo đường của gió, mây đi theo đường của mây, gió và mây xa
nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ
với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm quan của nhà thơ trong
xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong
cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, giã biệt đọng lại trong lòng người phảng phất
buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi
mát đầy sức sống như ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một
tâm hồn đau buồn, u uất:
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp
màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn
Mặc Tử thì dòng sông trôi lửng lờ của xứ Huế chỉ là “dòng nước buồn thiu” gợi
cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn
xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những con người sống trong
vòng đời tối tăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bến bờ
xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp con người. Tâm trạng
thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gắp rất nhiều ở các nhà thơ
lãng mạn khác sống cùng thời với Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp
trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng
đấy:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh
vật thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu xuống dòng
sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ
quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! “Dòng nước buồn thiu” đã hoá thành
dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã hoá thành thuyền trăng. Tác giả
đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền
trăng, vào cả dòng sông trăng. Ý thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài hoa, thật
là thơ đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ
nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng.
Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước
mảnh tình quê chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở
các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh
trăng khêu gợi, lả lơi:
Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô.
hay:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.
“Trăng trở thành một khí quyển bao la mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn
Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông”. Nó là ông, là trời đất, là người
ta. Trăng biến hoá vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc
khi kinh hoàng.
Trở lại với dòng sông trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ. Ở đây sông là sông
trăng nhưng thi nhân lại xót xa hỏi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền
không kịp chở trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của
một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông
mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc
Tử cũng không đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh
biệt cuộc đời.
Nhưng hiện tại, con người còn đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã
gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ ước
ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác
giả thấy choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý
của người yêu.
Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng
cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Câu thơ tả thực cảnh Huế. Huế - kinh thành sương khói. Trong màn
sương khói đó có như nhòa đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà thơ
không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong những câu thơ ấy.
Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá,
liệu khi họ yêu, họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm
của người con gái Huế, ông chỉ hỏi:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hi vọng,
đó chỉ là sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ
và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã
khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ “ai”,
mở đầu: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”; tiếp đến “Thuyền ai đậu bến sông
trăng đó” và kết thúc là: “Ai biết tình ai có đậm đà?” càng làm cho Đây thôn Vĩ
Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền quê đất
nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ
với nghệ thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người.
Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng
hổi, lay động day dứt lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người
đau thương ấy có sức bay bổng lạ kì” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng, tươi
đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Xin thành kính thắp một nén nhang trước một nghệ sĩ
tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời thổn thức vì tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã
thăng hoa nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đoá hoa thơ mà
trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là Đây thôn Vĩ Dạ.
VŨ MINH HUYỀN
(Lớp 11 chuyên Văn, Trường PTTH Công nghiệp Hà Đông)
NHẬN XÉT
Có cố gắng để cảm thụ bài thơ. Nhìn chung không có chỗ nào rơi vào cực
đoan, suy diễn hay áp đặt mà cố gắng đi vào hình tượng, cảm hiểu, liên tưởng
và suy tưởng từ hình tượng.
Tuy nhiên, cảm thụ và phân tích nhiều chỗ chưa kĩ, chưa sâu, ví dụ ở các
câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, “Áo em trắng quá nhìn không ra”; sự thay
đổi đột ngột từ vui sang buồn, từ thực sang mộng giữa khổ 1 và 2 cũng cần giải
thích rõ hơn.
Về lời văn, người đọc thấy được sự cố gắng của người viết để diễn đạt
đúng ý định nói song đồng thời cũng cảm thấy hạn chế của bút lực người viết khi
phân tích những câu thơ quá tinh tế, những câu thơ phải cảm hiểu bằng hồn,
bằng nội tâm của người làm bài. Khi đó mạch suy nghĩ cũng như mạch văn phần
nào bị lúng túng, bị rối như là trong đoạn phân tích khổ thơ thứ 2.
Bài 31
ĐỀ BÀI
Phân tích bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.
BÀI LÀM
Ô hay, buồn vương cây ngô đồng,
Vàng rơi! Vàng rơi thu mênh mông.
(Bích Khê)
Không hiểu sao mùa thu trong thơ lãng mạn thời kì 1930 - 1945 lại buồn
đến thế. Từ Thu của Chế Lan Viên, Thu rừng của Huy Cận, Chiều thu của Yến
Lan đến Đây mùa thu tới của Xuân Diệu… tất cả, tất cả đều nao nao trong nỗi
buồn xa thẳm vu vơ và đây, ta gặp lại nỗi buồn ấy trong Tiếng thu - một tuyệt tác
của Lưu Trọng Lư.
Tựa như có chất men, bài thơ cuốn hút đến say lòng người đọc. Câu chữ
không nhiều, nhưng bài thơ đã gợi trọn những cảm nhận tuyệt vời của Lưu
Trọng Lư về mùa thu. Qua vài nét chấm phá, bức tranh mùa thu hiện ra ảo não
mà trong trẻo và đẹp đến lạ lùng. Cũng là những cảm nhận về mùa thu, nếu
Xuân Diệu đón nhận vẻ đẹp của nàng tiên áo vàng ấy bằng các giác quan
(Hồn… mỏng manh) thì Lưu Trọng Lư mở rộng tâm hồn đưa mùa thu vào bằng
trí tưởng tượng, bằng sự cảm thông, bằng tiếng “thổn thức” của chính con tim
mình. Thi sĩ ru hồn ta trong “bể sầu” mênh mông, không bờ bến.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức.
Mùa thu “thổn thức”, ý thơ thật hay và bất ngờ. Bằng từ “thổn thức” kia,
mùa thu đang từ một khái niệm bỗng trở nên có hồn như con người vậy. “Mùa
thu” thổn thức phải chăng đó là sự thổn thức của những chiếc lá lìa cành, những
chùm hoa rũ cánh. Hay mùa thu thổn thức chính là những cơn gió buồn đìu hiu,
những buổi nắng chiều nhạt nhạt? Còn nhiều, còn nhiều nữa nhưng điều đáng
chú ý hơn cả là “mùa thu” đang “thổn thức” dưới “trăng mờ”. Liệu có nhầm không
khi giữa mùa thu, mùa trăng, ta lại gặp một ánh trăng mờ đầy ảo não! Không,
đây chính là cảm giác chủ quan của tác giả, là tâm hồn và cảm quan nghệ thuật
của nhà thơ. Đứng giữa câu thơ, đồng thời lại bắt vần không chính thức với
tiếng “thu” ở câu trên, chữ “mờ” vô tình được đọc với âm trầm, mạnh và kéo dài
hơn các chữ khác. Chính nó tạo nên ấn tượng “thu” cho cả khổ thơ và các câu
thơ như cũng “mờ” đi theo ánh trăng huyền ảo. Kết hợp một cách tuyệt diệu từ
“mờ” với từ “thổn thức”…, thi sĩ làm cho nỗi buồn từ đó cứ lan toả ra nhè nhẹ mà
thấm đượm khắp khổ thơ. Phải có một trái tim nhạy cảm như thế nào, có sự hòa
nhập với thiên nhiên và nhìn nhận thiên nhiên qua lăng kính tâm hồn như thế
nào, thi sĩ mới có thể cảm nhận về sự thổn thức của mùa thu - một điều trừu
tượng - một cách sâu sắc và tài tình đến thế.
Nhưng nỗi buồn đâu đã dừng lại ở đây. Ba câu thơ tiếp theo lại tiếp tục
trôi trong nỗi buồn:
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh để chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
Nếu ở hai câu thơ trên, sự cảm nhận chủ yếu ở những hình ảnh mùa thu
thì ở đây sự cảm nhận nghiêng nhiều về cảm xúc “chinh phu”, “cô phụ”, những
hình ảnh của quá khứ bỗng vụt trở về đậu trên trang Thơ mới. Tưởng như hình
ảnh rất xưa ấy sẽ làm “cũ” mất trang thơ, nhưng không, chỉ với một từ thôi, câu
thơ đã lại có một cách diễn đạt vô cùng mới mẽ, đó là từ “mới mẽ”. Giữa “rạo
rực” và “chinh phu”, “cô phụ” tưởng chừng có sự đối lập tuyệt đối. Từ dùng mạnh
bạo không ngờ nhưng vẫn không hề vượt ra ngoài hiện thực. Bởi giây phút
người vợ nhớ chồng đến “rạo rực” đâu phải là hiếm. Trong thơ xưa, Lí Bạch
từng viết:
Đương khi chàng nhớ nhà
Chính lúc thiếp dứt ruột
Gió xuân chẳng quen nhau
Việc chi lọt vào màn the
Trong Chinh phụ ngâm giây phút ấy cũng được miêu tả nhiều và đậm:
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trên hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu
Sự rạo rực này cũng là cung bậc cao của nỗi lòng thổn thức. Đây là tiếng
“thổn thức” đau đớn sâu sắc nhất của mùa thu bởi đó là tiếng lòng của một con
người đang nhớ mong, sầu tủi, của một người chinh phụ đơn chiếc, lẻ loi. Mọi
nỗi nhớ thương đều khiến cho người ta buồn mà đây lại là nỗi nhớ nhung của
người vợ cô đơn, âm thầm thì càng làm nỗi buồn nặng nề biết mấy.
Có thể nói trong cả ba câu thơ, không thể tìm từ nào đạt hơn từ “rạo rực”.
Tìm được từ đó và nhất là sử dụng phép đảo từ để đưa nó lên đầu câu nhắm
nhấn mạnh, Lưu Trọng Lư đã tạo được một nửa nét đẹp của khổ thơ. Tuy là một
từ mạnh và táo bạo đặt ở khổ thơ này, từ “rạo rực” cũng không vớt được khổ thơ
ra khỏi nỗi buồn u ẩn kia. Không những thế nó còn làm tăng thêm độ sâu thẳm
của nỗi buồn. Với một loạt nguyên âm “u” - một âm rất tối - làm vần, nỗi buồn từ
trong tâm linh tác giả lại tràn lên khổ thơ, não nề, trĩu nặng.
Nhưng nỗi buồn chưa kịp lắng trong ta thì vẻ đẹp diệu kì của khổ thơ cuối
đã cuốn hút hồn ta:
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Có thể nói rằng đây là khổ thơ đẹp nhất của bài thơ. Mọi âm thanh, hình
ảnh đều mê đắm hồn người trước khi con người ý thức được về nó. Hãy lắng
nghe, lắng nghe âm thanh mùa thu qua tâm hồn thi sĩ. Từ láy tượng thanh “xào
xạc” đặt ở cuối dòng thơ có giá trị gợi tả đặc biệt. Trên đầu ta như có những
chiếc lá khô chạm vào nhau và trước mắt ta, những chiếc lá đang rơi thành tiếng
- tiếng kêu của rừng thu, của mùa thu.
Tả về rừng thu, Yến Lan cũng đã từng viết:
Tôi nhớ trên đường bao vây lá
Mùa thu vàng rụng giữa rừng khô
Câu thơ của Yến Lan đã đẹp rồi nhưng so với câu thơ của Lưu Trọng Lư
còn thua nhiều lắm.
Ngòi bút của Lưu Trọng Lư còn điêu luyện ở chỗ tả âm thanh mà không
cần đến những từ gợi âm. Thi sĩ đã xếp từ “đạp” ở đầu câu, dưới vần không
chính thức với từ “ngác” ở khổ thơ trên, âm thanh bị dằn xuống gợi lên tiếng lá
khô bị vỡ vụn dưới bước chân nai. Đồng thời từ “khô” với phụ âm “khờ” cũng tạo
nên sự lao xao của rừng thu lá rơi. Nhan đề của bài thơ là Tiếng thu nhưng
“tiếng” chỉ vang lên ở khổ thơ cuối cùng với âm thanh khẽ khàng, mơ hồ, còn chỉ
được nghe bằng hồn, một tâm hồn thơ có khả năng cảm thụ tinh tế và sức khám
phá, phát hiện, sáng tạo độc đáo.
Cùng với nét bút tài hoa, thi sĩ tạo nên một vẻ đẹp khiến ta phải ngẩn ngơ:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Hình ảnh đẹp nhưng sao cô đơn, bơ vơ quá. Có sự giống nhau đến lạ
lùng giữa con nai của Tiếng thu và con nai ở Chiều buông lưới của Xuân Diệu:
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.
Bởi chúng đều là hiện thân của người tiểu tư sản trước kia, là sản phẩm
của trí tưởng tượng của người thi sĩ cô đơn, bơ vơ quanh quẩn giữa dòng đời
chật hẹp. Chính vì vậy con nai được hoạ nên bằng từ “ngơ ngác”. Hồn thơ như
được dồn tụ cả vào đấy. Có một cái gì trong trắng, ngây thơ, bơ vơ, tội nghiệp
quá chừng. Ngoài hình ảnh con nai và tiếng lá ra, còn gì khác nữa đâu? Và tiếng
lá kia chẳng qua cũng chỉ để nói lên vẻ tĩnh lặng của rừng thu mà thôi. Dùng âm
thanh để diễn tả sự tĩnh lặng là một nghệ thuật tài hoa mà nhà Thơ mới đã kế
thừa một cách sáng tạo ở thơ ca cổ điển.
Đặt con nai vàng lên thảm lá vàng là bao trùm lên mùa thu cả một màu
vàng. Trong sự phối hợp giữa hình ảnh, âm thanh và màu sắc từ hồn thơ Lưu
Trọng Lư, màu vàng ở cuối bài thơ vẫn đượm buồn, buồn mà đẹp như cảm xúc
thẩm mĩ trong nhiều bài thơ lãng mạn.
Tiếng thu là một thành công rực rỡ của Lưu Trọng Lư trong đó nhạc điệu
bài thơ chiếm một phần đáng kể. Cũng là thanh bằng, thanh trắc, là câu chữ đó
thôi nhưng kì lạ chưa, bài thơ bỗng trở nên một bản đàn bất tuyệt, dưới ngón tay
tài hoa của nghệ sĩ, lúc lên bổng, lúc xuống trầm, cuốn hồn ta theo mãi dòng
nhạc thơ du dương, êm dịu.
Kết hợp với khổ thơ năm chữ, điệp khúc “em không nghe” tạo nên lời thơ
thủ thỉ, thiết tha. Và thật là độc đáo, khi Lưu Trọng Lư xếp câu thơ ở các khổ
theo trình tự hai, ba, bốn rất tự nhiên; nhạc điệu của nghệ thuật cứ ngân dài,
ngân dài mãi, cuốn hút đến say lòng người. Từ dòng nhạc diệu kì ấy, ta bắt gặp
nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn thi sĩ, một nỗi buồn tưởng như vu vơ khó cắt
nghĩa nhưng là nỗi buồn của một lớp người, một thế hệ nhà thơ.
Qua Tiếng thu, tinh hoa của hồn thơ Lưu Trọng Lư đã được bộc lộ trọn
vẹn. Bút pháp chấm phá, tượng trưng, âm điệu trầm lắng, bài thơ như mở ra một
khoảng trời bé nhỏ, yên tĩnh. “Khoảng trời mơ ước của những tâm hồn quá mệt
mỏi, bơ vơ” (Nguyễn Xuân Nam).
Không riêng gì Tiếng thu, hầu hết những bài thơ trước Cách mạng của
Lưu Trọng Lư đều buồn đến não ruột. Lánh xa xã hội điêu tàn, thối nát, cái “tôi”
của thi nhân cứ chơi vơi mãi trong bể sầu không bờ bến để lòng buồn buồn mãi
không thôi. Sẽ ra sao đây nếu hồn thơ của Lưu Trọng Lư không gặp được cách
mạng, không đón được ánh sáng của tự do. Sau Cách mạng, hồn thơ Lưu Trọng
Lư được chắp thêm đôi cánh và niềm vui bừng nở rạng rỡ trên trang thơ:
Hoa ơi, hoa lại nở trên cành,
Này mẹ đời con lại tái sinh.
Nhưng trong niềm vui, ta cũng đừng bao giờ quên nỗi buồn kia, nỗi buồn
của một thời đau thương quằn quại, hãy đón lấy chúng như những giọt máu rơi
trên lộ trình đầy gian khổ của dân tộc ta. Đó là những tài sản vô giá còn được
gìn giữ cẩn thận để làm cho tâm hồn con người được phong phú và trong sạch
hơn, để xây dựng và sáng tạo những vẻ đẹp mới của cuộc sống, của văn hoá và
thơ ca dân tộc.
ĐỖ THỊ THẠCH
(Trường PTTH Công nghiệp Hà Đông)
NHẬN XÉT
Cảm thụ âm thanh và hình tượng khá tốt, có vận dụng kiến thức về văn
học, về ngôn ngữ để hiểu và thấy cái hay của nội dung và nghệ thuật của bài
thơ. Tuy nhiên, còn bỏ qua một số yếu tố nghệ thuật như câu hỏi tu từ, thể thơ,
khổ thơ.
Lời văn trong sáng, phần nào đã kết hợp được lí trí và cảm xúc tuy chưa
được nhuần nhị, mượt mà.
Bài 32
ĐỀ BÀI
Những cảm nhận sâu sắc nhất về giá trị nhân bản của truyện ngắn Hai
đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam.
BÀI LÀM
Có những tác phẩm, người đọc có thể quên luôn ngay sau đó, nhưng
cũng có những tác phẩm đọc rồi nó cứ ở lại mãi trong kí ức của chúng ta, bởi nó
đã đưa đến cho người đọc những điều cần biết và được biết. Nó gợi lên cho độc
giả những tình cảm trong sáng, lành mạnh, hoặc những băn khoăn, day dứt về
cuộc đời, về những kiếp người bình thường, nghèo khổ. Hai đứa trẻ của Thạch
Lam là một tác phẩm thuộc loại như thế. Nhẹ nhàng thôi, nhưng rất tinh tế, bút
pháp Thạch Lam đưa ta trở về với cuộc sống của những con người quá đỗi bình
thường ở một phố huyện nghèo dưới chế độ cũ - tẻ nhạt, tù bức. Bình luận về
truyện ngắn Hai đứa trẻ, Nguyễn Tuân có nói: truyện đã thể hiện một tấm lòng
“êm mát mà sâu kín” của Thạch Lam về con người và quê hương. Còn Thế Lữ
thì khẳng định: “Lòng yêu quê hương là niềm quá vãng tồn tại mãi mãi ở trong
anh”.
Giá trị của truyện ngắn Hai đứa trẻ không chỉ đơn thuần ở sự miêu tả một
cuộc sống nghèo nàn, tù túng ở một phố huyện nhỏ mà chủ yếu là nêu lên
những khát vọng được sống với thế giới khác lạ, tươi sáng hơn dù chỉ trong giây
lát của những con người bình thường.
Nhưng những tâm hồn khao khát ấy vẫn gắn bó với quê hương, với
những còn người nghèo khổ ở quê hương. Điều đó làm cho những khao khát kia
càng có giá trị nhân bản và xã hội sâu sắc.
Mở đầu truyện ngắn này là một tiếng trống thu không vang xa để gọi buổi
chiều, phương tây mặt trời đỏ rực nhưng tất cả những cảnh vật ấy chỉ như là
“một hòn than sắp tàn”. Một ngày tàn hiện lên trước mắt ta bằng cả không gian
lẫn thời gian, cảnh tàn của thiên nhiên và của cuộc sống con người gợi lên trong
ta một nỗi buồn man mác từ đầu đến cuối thiên truyện. Thiên nhiên mờ nhạt
dưới hoàng hôn, cuộc sống con người cũng bắt đầu chìm vào trong bóng tối
“Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên
đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Những cảnh tượng đó
đập vào mắt ta và bắt ta phải kêu lên: một phố huyện thật nghèo. Nhưng những
cảnh tượng đó chưa dừng lại và chưa bắt ta phải day dứt, ngòi bút tinh tế của
Thạch Lam từ tốn vẽ lên những kiếp người nghèo khổ, bức bối, bắt ta phải băn
khoăn, trăn trở và xót xa: đèn hoa kì leo lét trên gian hàng của chị Tí và những
ánh sáng thưa nhặt lọt qua khe hở của gian hàng nhà Liên lập lờ rọi xuống
đường. Cuộc sống của chị em Liên dẫu sao cũng khấm khá hơn những người
như chị Tí “ngày đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới
gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch. Để bán cho ai? Mấy người phu gạo hay
phu xe, thỉnh thoảng mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa đi gọi
chân tổ tôm” cũng “chẳng ăn thua gì” nhưng vẫn cứ phải kiên trì vì cuộc sống
thường nhật. Đâu đã hết, vợ chồng bác Xẩm “ngủ gục trên manh chiếu rách” và
tiếng đàn bần bật trong đêm, chi tiết ấy có lần làm tôi rơi nước mắt. Tôi nghĩ đến
con người, nghĩ đến lẽ sống, nghĩ đến những vấn đề nhân đạo đối với con
người. Và cụ Thi nữa, một con người hơi điên đến và đi trong tiếng cười khanh
khách ghê sợ. Cuộc sống của họ, chẳng có tương lai, tăm tối và tàn tạ đến xót
xa, họ như đứng trên bờ vực chao đảo của sự sống, trước mắt họ, hiện tại và
tương lai đang lụi tàn. Hình ảnh hai chị em Liên được khắc hoạ đậm nét như
chính những ước vọng khao khát về một cuộc sống mới, một thế giới mới của
những con người nghèo khổ. Chính vì thế mà Liên “thấy lòng mình buồn man
mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Và đêm đến, để rồi họ - những con người
ấy khắc khoải chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua - chuyến tàu là hình ảnh tươi
sáng của ngày mai, của một tương lai đẹp đẽ ở phía trước. Dẫu rằng nó chỉ “rầm
rộ” phút chốc đi qua và “ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”, nhưng
ánh sáng của con tàu mang theo một thế giới khác đi qua, một thế giới đẹp đẽ
và rộng mở. Nó khác hẳn ngọn đèn của chị Tí, leo lét và hiu hắt “cái thứ ánh
sáng nhẫn nại uất ức trời thôn quê” (Thế Lữ). Ánh sáng ngọn đèn ấy được nhắc
đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm không phải là một sự ngẫu nhiên. Tác giả
muốn nói với chúng ta rằng: cuộc sống của chị em Liên cũng như những con
người ở đây chỉ là le lói như ánh đèn kia, lay lắt, bé nhỏ và chỉ sáng mờ trong
một khoảng nhỏ, nó không có sức sống, nó không có sự lâu dài. Chao ôi, tù
túng, tẻ nhạt. Và tôi, cảm thấy lòng mình ứ nghẹn, xót xa, thương cảm, cảm thấy
nghẹt thở khi phải chứng kiến những quãng đời như thế. Giá trị nhân bản của
truyện ngắn là ở chỗ Thạch Lam đã gửi gắm những tình cảm sâu xa, tình
thương thầm kín của mình trong từng câu chữ về những kiếp người nghèo khó
đang sống trong phố huyện nghèo tàn tạ, nói rộng hơn là sự cảm thông sâu sắc
và một tình thương vô bờ về những con người sống trong cảnh đất nước đang
đắm chìm trong đói nghèo và nô lệ. Đúng như lời Thế Lữ đã nói: “Lòng yêu
thương con người của Thạch Lam ở trong văn chương thật phức tạp và muôn
màu muôn vẻ nhưng ở đâu cũng bộc lộ một tâm hồn nhân hậu, đằm thắm và
nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương”. Đó là lòng thương những con
người nghèo khổ, lòng thương giữa người với người. Giá trị nhân bản của
truyện ngắn Hai đứa trẻ không chỉ dừng lại ở đó mà được thể hiện trong những
khát vọng vươn tới cuộc sống; cuộc đời tươi sáng hơn của những con người
bình thường. Trong nghèo khó, họ vẫn hi vọng và ao ước một ngày mai, họ
không chán nản và cứ tiếp tục sống để hi vọng, dẫu cho đó là một hi vọng mong
manh, mơ hồ và khó thành hiện thực. Điều đó thể hiện rõ ở hình ảnh hai chị em
Liên “buồn ngủ ríu cả mắt” mà vẫn cố thức để đón đợi chuyến tàu đi qua. Ánh
sáng đèn ghi đã làm An tỉnh hẳn ngủ. Đêm nào cũng thế, hình như niềm mong
đợi ấy trở thành một thói quen cố hữu, ăn mòn trong tâm trí của những con
người ở đây, và nhất là hai chị em Liên, không phải chờ đợi để bán hàng, vì “họ
chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Họ cố đợi vì một lẽ khác. Khi chuyến
tàu đêm đi qua, không đông như mọi khi, nhưng Liên nghĩ “Họ ở Hà Nội về”. Bao
kỉ niệm nhạt nhoà trong Liên, kỉ niệm của một thời quá vãng chìm đắm trong suy
tư và thực tại. Liên chỉ còn nhớ “Hà Nội nhiều đèn quá”. Một cảm giác nuối tiếc
mơ hồ chợt dâng lên trong lòng cô thiếu nữ thôn quê ấy “Hà Nội xa lắm, Hà Nội
sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Nhưng đó cũng chỉ là kỉ niệm, chợt đến rồi chợt
đi làm cho lòng Liên thêm khắc khoải, chập chờn giữa hiện thực và tương lai. Và
rồi thực tại đã kéo Liên về, cuộc sống tối tăm mênh mang của ruộng đồng vẫn
bám lấy tâm hồn và cuộc sống của cô. Nó không đi xa, quanh quẩn nơi phố
huyện nghèo, bế tắc. Khát vọng cháy bỏng ấy đã khiến Liên đêm nào cũng đợi,
đợi một ngày mai tươi đẹp, đợi một khung trời mới để thoát khỏi cuộc sống le lói,
thoát khỏi ngọn đèn hiu hắt mờ mờ lay động trên chiếc chõng tre của chị Tí.
Nhưng giữa hiện thực và mơ ước, nó khác nhau quá xa, con người chỉ miệt mài
trong suy tưởng, vẫn hi vọng và chờ đợi, khao khát. Qua truyện ngắn này, Thạch
Lam đã thể hiện thành công “những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ
dại” trước cuộc sống. Đó cũng là một khía cạnh cơ bản để tạo nên giá trị nhân
bản của Hai đứa trẻ. Qua truyện ngắn, những câu chuyện về đời người, về cuộc
sống con người, qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, tác giả muốn đưa đến cho
chúng ta những bức xúc về cuộc đời, giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về cuộc
sống, về những số phận. Một tác phẩm có giá trị phải “chứa đựng một cái gì lớn
lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác
ái, sự công bình… nó làm cho người gần người hơn”. Thạch Lam không đi sâu
khai thác nhiều khía cạnh như thế, truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện ngắn
nhẹ nhàng, tinh tế, nó đưa đến cho chúng ta những khao khát về cuộc sống mới
của những con người bé nhỏ dưới chế độ cũ. Nó đã gợi lên cho một tình thương
về con người, cảm thông sâu sắc với họ. Có những lúc, tôi ngồi lặng suy nghĩ về
họ - những con người đáng thương ấy. Có lúc tôi chợt day dứt nghẹn ngào đặt
mình trong hình dáng của Liên, buồn tẻ, man mác sau một ngày tàn rồi lặng lẽ
và khắc khoải chờ màn đêm buông xuống, nao nao lòng trước âm thanh xình
xịch của tiếng tàu đêm. Mơ màng về kỉ niệm ngày nào ở Hà Nội. Mới chỉ là giả
thiết thôi mà sao tôi thấy bế tắc, uất ức trước cảnh mênh mông và yên tĩnh tràn
đầy bóng tối của đồng quê. Trước sự bất lực và chán nản đó, lòng tôi lại càng
trào dâng một tình thương vô bờ với họ, với chị em Liên, với chị Tí, cụ Thi với vợ
chồng bác xẩm… Họ sống mãi trong tôi: những người nông dân nghèo khó, bế
tắc ấy, họ làm tôi phải trăn trở, phải nghĩ đến tình người, nghĩ đến cuộc sống
tươi đẹp hôm nay, giúp cho tôi có nghị lực hơn trên đường đời.
Lòng yêu thương con người - cơ sở đầu tiên và là cái cốt lõi đã tạo nên
cho truyện ngắn Thạch Lam có chiều sâu về tư tưởng phong cách, rất nhẹ
nhàng nhưng cũng rất tinh tế, giúp cho người đọc tìm thấy những tình cảm trong
sáng lành mạnh, tạo cho người đọc những cảm nhận sâu sắc, để ta có những ý
tưởng tốt đẹp hơn về con người, về cuộc sống, về cuộc đời. Để tôi hiểu hơn
những khái niệm “Văn học là nhân học”, tôi nhận thấy rất rõ ràng: “Văn chương
thực chất là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học”.
Hai đứa trẻ in mãi dấu ấn trong tôi về cuộc sống tàn tạ của những con người ở
phố huyện nghèo tàn tạ, giúp cho tôi hiểu rõ hơn về những khao khát vươn tới
một cuộc sống tươi đẹp dù chỉ là trong giây phút của những con người như Liên
- của tất cả những con người ở phố huyện trong Hai đứa trẻ.
PHAN THỊ HUẾ
(Trường PTTH Phan Đăng Lưu, Nghệ An)
NHẬN XÉT
Học sinh đã biết dựa vào những chi tiết, những hình ảnh của truyện để
phân tích và có những nhận xét khá sâu sắc. Đó là cảnh một phố huyện nghèo
vào một buổi chiều tàn, cảnh sinh hoạt của những con người lúc chợ đã vãn
người, hoàng hôn đã phủ xuống và những ngọn đèn lay lắt đã được thắp lên ở
cấc quán hàng mặc dầu rất vắng khách mua. Bài làm đã tập trung phân tích tâm
trạng của chị em Liên, thắc thỏm chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua, mặc dầu đêm
nào cũng chỉ có thế. Dẫu rằng nó chỉ “rầm rộ” trong phút chốc đi qua và ngoài kia
động ruộng mênh mang và yên lặng nhưng ánh sáng của con tàu mang theo một
thế giới khác đi qua, một thế giới đẹp đẽ và rộng mở. Nó khác hẳn ngọn đèn của
chị Tí, leo lét và hiu hắt, “cái thứ ánh sáng nhẫn nại uất ức trời thôn quê” (Thế
Lữ). Trên cơ sở phân tích, đã cảm nhận được giá trị nhân bản của tác phẩm, đó
là cách nhìn, cách nghĩ, thái độ trân trọng, thương xót của nhà văn Thạch Lam
đối với những kiếp người nghèo khổ, sống âm thầm, buồn tẻ nơi phố huyện, đó
là sự khơi dậy trong lương tri con người lòng kháo khát sống và được sống khác
đi.
Đã trích dẫn được một số ý kiến của Nguyễn Tuân, của Thế Lữ bình luận
về truyện ngắn Hai đứa trẻ, một số ý kiến của các nhà lí luận phê bình bàn về vai
trò của văn học và mối quan hệ giữa văn học và cuộc đời, điều này chứng tỏ
người viết đã biết vận dụng các tri thức đã tham khảo được ở các tài liệu khác
vào bài làm của mình.
Diễn đạt khá trôi chảy, cấu trúc câu văn khá đa dạng, ngôn ngữ trong sáng
và có sức gợi cảm đối với người đọc.
Tuy nhiên cần rút kinh nghiệm để tránh được những hạn chế sau đây:
Có một số ý trùng lặp như ý “phố huyện nghèo” được nhắc hai, ba lần…
Phần phát biểu cảm xúc trực tiếp của người viết có chỗ còn lạm dụng, có đoạn
dài đến 14 dòng, vả lại có chỗ chưa được chín, còn gượng gạo, ít nhiều còn
cường điệu, làm hạn chế tính chân thật, yêu cầu số một khi phát biểu về cảm
nghĩ.
Một số câu văn còn chưa gọn, thừa lời, hoặc chưa thật trong sáng. Ví dụ:
“Trước sự bất lực và chán nản đó, lòng tôi lại càng trào dâng một tình thương vô
bờ đối với họ, với chị em Liên, với chị Tí, cụ Thi với vợ chồng bác xẩm…”.
Kết cấu bài có chỗ chưa thật chặt chẽ. Ví dụ hình ảnh chuyến tàu đêm đi
qua, được phân tích hai lần. Cho dù còn những thiếu sót, nhưng so với yêu cầu
và trình độ thực tế của học sinh thì đây là một bài văn khá giỏi, nhất là trong điều
kiện làm ba tiết ở lớp.
Bài 33
ĐỀ BÀI
Chất thơ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
BÀI LÀM
Giản dị mà nồng nàn, mộc mạc mà trữ tình. Hai đứa trẻ của Thạch Lam đã
đi vào niềm cảm mến của tôi từ lúc nào không biết nữa. Như một dòng sông lặng
lẽ dịu êm, thiên truyện trôi qua hồn người, lắng đọng lại biết bao tinh hoa ngọt
ngào đằm thắm. Những kết tinh kì diệu đó chính là chất thơ bồi hồi, man mác -
chất men say ngây ngất của truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều nhân tố. Chất
thơ bay lên từ những tầng nguồn cảm xúc dồi dào, chất thơ sóng sánh trong
từng biểu hiện của “cái đẹp”, chất thơ gắn liền với trí tưởng tượng nhưng chất
thơ cũng là tính chất của cuộc sống sôi động và chân thực…
Chất thơ trong Hai đứa trẻ cũng vậy. Nó là sự kết tinh hoàn hảo vẻ đẹp
của ngòi bút Thạch Lam và tâm hồn nhân vật, sự hoà quyện giữa cảm xúc dạt
dào của nhà văn và tình người ấm nồng trên trang sách, chất thơ ở đây còn là
“cái nhụy của cuộc sống” nghèo nàn, quanh quẩn nơi phố chợ đìu hiu, là những
phút giây mơ mộng của Liên khi nghĩ về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ
và huyên náo…”.
Đến với Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ta bước vào một cuộc sống nghèo
nàn, bế tắc; nhưng bên cạnh đó, ta còn đến với một thế giới mới - thế giới của
tình người, tình đời đầm ấm, thiết tha. Giữa cái lạnh lùng, hiu hắt của phố chợ
lúc chiều tàn, tình người cứ cháy lên nồng nàn, sưởi ấm những tâm hồn hiu
quạnh. Nghèo khổ làm cho con người khốn đốn, quẫn cùng, nhưng nghèo khổ
không thể dập tắt được tấm lòng cảm thông giữa những người cùng cảnh ngộ.
Mối quan hệ của chị em Liên với những người xung quanh: chị Tí, bác Xẩm, bác
Siêu… tưởng như rất đỗi bình thường, nhưng càng đọc, càng suy nghĩ ta càng
thấm trọn “cái tình người chân chất, bàng bạc khắp thiên truyện”. Tình cảm giữa
Liên và An cũng vậy, không một lời bình, không một câu ngợi khen của Thạch
Lam, nhưng từng cử chỉ, lời nói của họ đối với nhau đều gợi lên những làn sóng
yêu thương nhẹ nhàng mà đằm thắm. Khi Liên dịu dàng hỏi thì An lễ phép trả
lời, Liên quạt cho em thì An tin cậy nghiêng đầu ngả vào chị… chỉ một vài chi tiết
như thế cũng gợi cho ta bao xúc động chân thành. Có thể nói Liên sinh ra như
để yêu thương vậy. Tình cảm của cô không chỉ nghiêng tràn cho An, cho chị Tí,
bác Xẩm, bác Siêu… nó còn được san sẻ cho bà cụ Thi - một bà già hơi điên
cùng những đứa con nhà nghèo bới rác nơi chợ tàn hiu quạnh. Và đâu chỉ yêu
thương con người, trong Liên còn có tình yêu quê hương mặn mà, sâu sắc. Đã
mấy ai đã cảm nhận được như Liên về một “mùi âm ấm bốc lên”, “hơi nóng của
ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá”. Chỉ những tâm hồn thực sự gắn liền
với mảnh đất quê hương mới có được cảm giác như vậy.
Tình người, tình đời trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam là như vậy đấy.
Không chút ồn ào, dồn dập mà cứ lắng dần, lắng dần trên trang sách, tạo nên
một ấn tượng cảm giác khó phai mờ. Nhưng những yếu tố cảm xúc trong Hai
đứa trẻ đâu chỉ dừng lại ở đây, bên cạnh cái tình người, tình đời, tình quê, truyện
còn xao xuyến cái tình của tác giả. Cũng là cảnh sống nghèo nàn của những con
người khốn khổ trong cái phố chợ đó thôi nhưng những cây bút lãng mạn “Tự
lực văn đoàn” dành cho họ sự thương hại, ban ơn bao nhiêu thì Thạch Lam lại
cảm thông, gần gũi họ bấy nhiêu. Trong “Lời nói đầu” của tập Gió đầu mùa, ông
đã từng tâm sự: “Tôi lại nghĩ đến những người nghèo khổ đang lầm than trong
cái đói rét của cả cuộc đời. (…) Và lòng tôi se lại trong khi nghĩ rằng chỉ một chút
âu yếm, một chút tình thương, cũng đủ nâng đỡ, an ủi những người khốn cùng
ấy”… Trên những dòng viết về cuộc sống nghèo nàn của người dân phố chợ, ta
bắt gặp những rung động thực sự của một tâm hồn dạt dào cảm xúc, bao nhiêu
thắm thiết yêu thương, Thạch Lam dồn cả vào đầu ngọn bút. Nó giúp ông tìm tòi,
chắt lọc được những tính chất của cuộc sống, tạo nên chất thơ tinh tế, nhẹ
nhàng. Gửi gắm tình cảm vào những cảnh cụ thể của đời sống ngày thường,
Thạch Lam đã nâng nó lên một tầng nguồn ý nghĩa lớn lao hơn. Ông đã đạt
được cái thành công rực rỡ như Tú Xương, khi tạo ra được những hình ảnh
“cùng mọc lên từ những đống tài liệu thực tế”, nhưng từ một cái hữu hình nó
thức dậy những cái vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định, mà nó mở ra một
cái diện không gian, thời gian, trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” (lời
Nguyễn Tuân bình thơ Tú Xương). Tấm lòng ấy cũng là cảm xúc dạt dào trong
Hai đứa trẻ, là một nhân tố không thể thiếu được tạo dựng chất thơ của thiên
truyện.
Đi vào thế giới của Hai đứa trẻ, nếu “cái tình” trong đó làm ta xao xuyến
ấm áp bao nhiêu thì “cái đẹp” lại làm ta ngây ngất, mê say bấy nhiêu. Như một
cô gái e ấp với nét duyên thầm, “cái đẹp” ở đây kín đáo và tinh tế nhưng đậm nét
truyền cảm. Trên cái nền tối sẫm, nghèo nàn nơi phố chợ, “cái đẹp” vẫn vươn
lên như một nét thần diệu kì. Biểu hiện đầu tiên của “cái đẹp” không phải gì xa lạ
mà chính là tâm hồn. con người giữa chốn đìu hiu ấy. Có thể nói ngòi bút của
Thạch Lam đã đạt tới trình độ tuyệt vời khi mô tả “những rung động cực điểm
của tâm hồn trẻ dại” (lời Thạch Lam khen Nguyên Hồng). Tâm trạng của Liên, cô
thiếu nữ mới lớn được thể hiện một cách đầy đủ tài hoa, tinh tế. Vô hình trung
cây bút Thạch Lam trở thành chìa khoá giúp ta hé mở tâm hồn Liên, với bao
rung động nhỏ bé. Chỉ mới bắt gặp “mùi âm ấm bốc lên hơi nóng của ban ngày
lẫn mùi cát quen thuộc”, cô đã liên tưởng đến “mùi riêng của đất quê hương”, chỉ
hình ảnh một vài đứa trẻ bới rác bên đường mà lòng cô đã trào lên mối xót xa,
thương cảm, và chỉ một chiếc xà tích, một chiếc khóa được mẹ giao cũng gợi lên
trong lòng cô sự “quý mến, hãnh diện vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn đảm
đang”. Những rung động như thế chỉ có được ở một tâm hồn trong sáng, cao
đẹp và nhạy cảm.
Nét đẹp của tâm hồn Liên đã được Thạch Lam thể hiện một cách tuyệt
vời, nhưng nó còn hoàn hảo hơn cả những dòng văn ghi lại những ước mơ chập
chờn chưa định hình hẳn trong tâm hồn Liên khi con tàu đêm lước qua, ước mơ
về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo…”.
Ở đây trí tưởng tượng phong phú của Thạch Lam đã đưa tâm hồn Liên
vượt ra khỏi sự kiềm tỏa của hiện thực cuộc sống, nâng nó bay lên “Một thế giới
khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của
bác Siêu”. Tâm hồn Liên chợt rung lên trước những hình ảnh quá vãng. Chất
lãng mạn của những nhà văn “Tự lực văn đoàn” đến giờ mới hé mở trên trang
sách, tạo cho thiên truyện, một vẻ đẹp thanh nhã, giàu chất thơ.
Nếu “cái đẹp trong thơ là sự thống nhất thẩm mĩ giữa những phẩm chất
thực tại khách quan và cái đẹp trong tâm hồn nhà thơ “thì cái đẹp trong Hai đứa
trẻ là sự kết hợp tuyệt diệu giữa vẻ đẹp tâm hồn con người, vẻ đẹp thiên nhiên
và vẻ đẹp của ngòi bút Thạch Lam. Cảnh vật miêu tả không nhiều song vẫn có
sức hấp dẫn lạ kì, mỗi hình ảnh đều chứa chất cảm xúc của nhà văn, gợi lên
trong người đọc bao suy nghĩ. Những câu văn tả cảnh ở đây có thể coi là mẫu
mực trong văn học Việt Nam: “Chiều, chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru,
văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”.
“Phương tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than
sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. “Trời đã
bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Phải có
một tâm hồn nhạy cảm và ngòi bút tài hoa như thế nào mới có thể miêu tả được
những cảnh vật tuyệt vời như thế. Một nét buồn êm ả láng nhẹ trên cảnh vật.
Một dòng cảm xúc tinh tế cứ đẩy con thuyền thời gian trôi mãi từ chiều đến đêm,
và hai bên bờ là biết bao hình ảnh kì diệu của không gian. Đọc Hai đứa trẻ của
Thạch Lam, bên cạnh ngòi bút tả cảnh tuyệt vời, tài hoa như thế còn là một
giọng văn “bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống rỗng, những cái giả
dối đẹp đẽ, đi tìm những cái giản dị, cái sâu sắc và cái thật bằng cách quan sát
và rung động đúng… Cái đẹp của nghệ thuật trong Hai đứa trẻ là cái đẹp của
giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm, có sự phân tích tinh tế, sâu sắc, lắng nghe
lòng mình và chiêm nghiệm cuộc đời. Giọng văn ấy khơi sâu vào cảm giác người
đọc, mở ra một chân trời bát ngát đầy chất thơ.
Được tạo nên từ những cảm xúc sâu lắng, những vẻ đẹp hoàn mĩ, là kết
tinh của cuộc sống bình thường hoà điệu với trí tưởng tượng bay bổng, chất thơ
trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam đọng lại trong tâm hồn người đọc một cảm giác
tinh tế, sâu lắng và nhẹ nhàng, ý nhị. Gấp trang sách lại, dư vị ngọt ngào của nó
vẫn còn phảng phất mãi trong ta. Chất thơ đó góp phần tạo nên sự trường tồn
của Hai đứa trẻ.
Cái chất kì diệu này đã trở thành một trong những đặc điểm của phong
cách Thạch Lam. Có người cho là nhà văn đã thi vị hoá hiện thực một cách thái
quá. Không, Thạch Lam vẫn đưa hiện thực cuộc sống vào trang viết một cách
chân thành sâu lắng. Nhưng bên cạnh hiện thực ấy, chất thơ đã góp phần mở
rộng tâm hồn, “đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành và mát
dịu” (Nguyễn Tuân). Cây bút thiên về cảm giác ấy vẫn chỉ gợi lên những gì trong
lành, không phải chìm lặn trong cõi vô thức tối tăm, bệnh hoạn như một số nhà
văn khác. Trước sau, Thạch Lam vẫn thiết tha hướng tới cái chân, cái thiện, vẫn
tin ở thiện căn của con người. Và đây chính là điều làm cho tác phẩm của ông
sống mãi trong lòng chúng ta…
ĐỖ THỊ THẠCH
(Trường PTTH Công nghiệp Hà Đông)
NHẬN XÉT
Nắm được các yếu tố của chất thơ, vận dụng nhuần nhị vào bài văn.
Hiểu được linh hồn của bài văn, nắm được những chi tiết có vẻ như nhỏ
bé nhưng quan trọng, nó làm nên nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của
bài văn. Tuy nhiên phần nói về cảnh đợi đoàn tàu đi qua cần kĩ hơn, sâu hơn, có
sức ngân vang hơn.
Làm đúng kiểu bài phân tích, chứng minh và bình luận. Kết hợp nhuần nhị
ba yêu cầu đó.
Lời văn trau chuốt, mượt mà, có hình ảnh, có âm điệu, nhìn chung có sức
cuốn hút.
Bài 34
ĐỀ BÀI
Phân tích truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam.
BÀI LÀM
Bạn đã đọc Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam? Và hẳn là bạn thấy “có
cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây”? Vâng, đó chính là sự dịu ngọt toả ra từ
những tâm hồn hết sức đẹp đẽ, những tâm hồn giàu lòng nhân ái, giàu tình yêu
thương của những con người trong một làng quê bé nhỏ. Họ đối với nhau dịu
dàng, đằm thắm, tình cảm đó tuy mộc mạc nhưng ngấm sâu và lan tỏa, êm đềm
như hương hoa hoàng lan vậy.
Dưới bóng hoàng lan là một câu chuyện ngắn nhưng ấm áp tình người.
Nhân vật Thanh phải đi làm trên tỉnh xa nhưng lúc nào anh cũng nhớ về quê
hương, nhớ về người bà tóc đã bạc, lưng đã còng của mình, và nhớ về cô Nga -
cái cô bé ngày xưa vẫn tranh nhặt hoa hoàng lan cùng chàng ấy.
Cũng như bao lần, nay Thanh lại trở về ngôi nhà cũ với mảnh vườn xưa,
mà sao chàng thấy hồi hộp quá, mến thương và cảm động quá! Khu vườn xưa
hiện ra trước mắt chàng với “con đường gạch Bát Tràng rêu phủ”, với “những
vòng ánh sáng lọt qua vòm cây”, với “bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu
nhà” và với cả “một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí”. Tất cả, tất cả
đang hiện ra trước mắt chàng đây, sao mát mẻ và dịu dàng kì lạ. Không gian
trong này khác hẳn với cái không khí ngoài kia: không ồn ào, bụi bặm mà trong
lành, thơm mát thanh lọc tâm hồn chàng. Chàng cảm thấy “tựa như bao nhiêu
sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bậc cửa”.
Đối với Thanh, quê hương đẹp trong từng chi tiết rất nhỏ, một con đường,
một bức tường rêu xanh cũng làm cho chàng say sưa nhìn ngắm, và chỉ một mùi
lá tươi non phảng phất cũng khiến chàng cảm nhận bâng khuâng.
Khác với Tâm trong Trở về, quê hương trong tâm trí Thanh không là
những gì nhàm chán, tẻ nhạt, quê hương chính là nơi mát mẻ ru dỗ tâm hồn
chàng. Nếu đối với Tâm về thăm quê hương chỉ là bổn phận, là việc bất đắc dĩ
phải làm thì ở Thanh lại khác, cuộc sống ồn ào xa hoa trên tỉnh không làm chàng
quên được quê hương - nơi ngày xưa đã nuôi nấng, đã để lại cho chàng bao kỉ
niệm đẹp về bà, về cô bé Nga bên hàng xóm. Nhớ lắm, cảm động lắm, chàng
gọi: “Bà ơi!”. Bà Thanh xuất hiện dưới giàn thiên lí với “mái tóc bạc phơ, chống
gậy trúc”. Bà của Thanh đây, hiền từ và nhân hậu, bà hỏi cháu với cả tình
thương yêu: “Cháu đã về đấy ư?” và nhắc nhở: “Đi vào trong nhà không nắng,
cháu!”. Bà thương yêu cháu quá, coi cháu vẫn như cậu bé Thanh ngày nào, nhỏ
bé, non nớt, luôn cần sự che chở của bà, cho đến tận bây giờ cũng vậy.
Có cái gì như sự đối lập giữa bà và Thanh: “Thanh đi bên bà, người thẳng,
mạnh, cạnh bà cụ gầy còng”, nhưng sự đối lập ấy không ngăn cách, trong tâm trí
“chàng cảm thấy chính bà che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn
nhỏ”. Thanh vẫn thương yêu bà, kính trọng bà, dường như không có gì có thể
làm phai giảm được tình bà và cháu. Bà vẫn thương mến, chăm sóc cháu, và
cháu cũng dành bao tình thương, sự kính trọng cho bà. Không như những người
sống nơi tỉnh thành, càng không như Tâm coi sự về thăm mẹ chỉ là để đưa tiền,
cho xong bổn phận làm con, Thanh luôn coi bà là người bà đáng kính, đồng thời
là người đã chăm bẵm, nuôi chàng khôn lớn; và quê hương chính là dòng sữa
ngọt ngào, êm đềm nhất, trong lành nhất để chàng gột rửa bụi bặm, làm dịu mọi
mệt mỏi trong những ngày làm ở tỉnh xa.
Thạch Lam tài tình ở chỗ đã biểu hiện được những tình cảm đẹp đẽ giữa
bà và cháu, rất tế nhị mà tinh vi: “Nghe tiếng bà đi vào, Thanh nằm yên giả vờ
ngủ. Bà lại gần săn sóc buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi. Gió quạt đưa
nhẹ trên mái tóc chàng. Thanh vẫn nằm yên, nhắm mắt nhưng biết bà ở bên
mình. Chàng không dám động đậy, yên lặng chờ cho bà lại đi ra”. Bà săn sóc
cho từng giấc ngủ của cháu - đứa cháu dù đã lớn khôn của bà. Và Thanh không
dám động đậy để tận hưởng cái tình cảm ngọt ngào ấy, và phải chăng chàng
không muốn bà mình lo lắng khi chàng trằn trọc không yên. Chàng cứ nhắm mắt
như vậy mà đón nhận ngọn gió lành dịu mát từ cánh tay bà, cứ nhắm mắt như
vậy mà tìm về với mùi hoàng lan xưa, thoang thoảng sao quen thuộc quá. Bà đã
xuống bếp làm cơm. Hương hoa hoàng lan đưa chàng về với vùng kỉ niệm ấu
thơ, giữa chàng và Nga… Chàng nghe đâu đây tiếng “trong và mau”, rồi “một
tiếng cười sẽ đưa lên”. Âm thanh khiến chàng cảm nhận, đúng là Nga rồi, Thanh
khẽ reo lên: “Cô Nga!” rồi chạy vùng xuống nhà ngang. Thanh không quên và
càng không xem thường cô gái quê mùa ấy, Nga vẫn ở trong trái tim chàng,
cùng với những ngày xưa êm ấm. Chàng nhìn người thiếu nữ, đôi mắt nàng ánh
lên là cả sự trìu mến; Nga thật đẹp: « … đôi mắt trong sáng lên, rồi tiếng nhẹ
nhàng », “tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ”, một vẻ đẹp dịu dàng
của người con gái quê, một vẻ đẹp trong trắng, thanh khiết mà hồn nhiên như sự
sống miền quê: “Lá rau xanh tươi ngắt bên bàn tay trắng hồng nhỏ nhắn”, “đôi
môi thắm”, “hai má hồng”. Và “nụ cười tươi nở…”. Nga là quê hương, là tuổi thơ,
là kỉ niệm, kỉ niệm về một tình bạn ngây thơ, trong trắng, tươi đẹp đã trở thành
nỗi nhớ và có thể là nơi bắt đầu của một tình yêu. Thanh nhớ lại ngày nào, bàn
chân xinh xắn của Nga đi trên sân gạch Bát Tràng rêu phủ, sao thấy mến
thương kì lạ. Chàng khẽ hỏi Nga: “Cô Nga có còn hay đi nhặt hoa hoàng lan rơi
nữa không?” - “Vẫn nhặt đấy. Nhưng không có ai tranh nữa”. Phải rồi, Thanh
phải đi làm trên tỉnh, chàng không thể cùng Nga chơi lại trò chơi thuở bé nhưng
Nga hãy tin rằng: Thanh luôn nhớ về kỉ niệm xưa, những kỉ niệm có hình ảnh
Nga trong đó.
Thanh khẽ vít cành hoàng lan “giữ trong tay để Nga tìm hoa”. Hoa hoàng
lan còn xanh lắm, nhưng những bông hoa đang tỏa hương thơm ngát trong bàn
tay nhỏ nhắn kia. Thanh và Nga đang giữ trong tay mình một tình yêu chớm hé
ngọt ngào mà êm dịu hoà lắng trong mùi hoàng lan ngan ngát giữa vườn quê.
Dưới ngôi nhà tranh bé nhỏ, trong một miền quê yên tĩnh tiếng nói của một
bà lão với hai người trẻ tuổi vang lên, quyện vào nhau mang đầy tình săn sóc và
mến thương. Cây hoàng lan ngoài vườn gửi mùi hương theo gió hoà vào mối
tình của họ đưa lên một sự ấm cúng, êm đềm mà sáng trong. Hoàng lan sẽ là
sợi dây tơ nối liền tình cảm của Thanh với quê hương, xóm làng, với người bà
của mình và với Nga. Nga cũng vậy, Nga sẽ đợi Thanh “Mỗi mùa, cô lại giắt
hoàng lan trong mái tóc để tưởng nhớ mùi hương”.
Cảnh quê trong Dưới bóng hoàng lan với ngôi nhà yên tĩnh, với khu vườn
râm mát phảng phất hương hoa ngọc lan thật đậm đà tình người: tình bà cháu,
tình gái trai, tình bè bạn, tình quê hương… đem tác phẩm đối chiếu với hiện
thực, ta thấy có phần mơ mộng, nhưng đó là một hương vị đầy chất thơ, không
tiêu cực, nó mong muốn cho sự thủy chung, sự gợi thức ở con người niềm vui
sống, một sự sống trong sạch. Thoáng hương hoàng lan phảng phất trong thửa
vườn im mát như ru lòng người vào những tình cảm êm đẹp, một thoáng bình
yên mà xôn xao gợn mãi.
Câu văn của Thạch Lam nhuần nhị, tinh tế, gọn và rõ ràng gợi được
những trạng thái, sắc thái trong sinh hoạt cũng như trong xúc cảm, tâm hồn. Văn
ông không nặng vì những chữ dùng to tát hay những cấu trúc gấp gáp vội vã mà
câu văn của ông có sức gợi mở, có sự khơi sâu vào cảm giác vừa để cho ta
nhìn lại vừa hướng cho ta cảm:
“Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng”; “Bà lại gần
săn sóc buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi”… Tất cả cứ nhẹ nhàng đi vào
lòng người đọc, để cho ta một xúc cảm thấm thìa.
Trong khi nhiều nhà văn cùng thời Thạch Lam náo nức đi tìm sự tân kì thì
ông vẫn cứ lặng lẽ bước theo một lối đi riêng, bình thản qua khoảng sân gạch
Bát Tràng phủ rêu, qua bóng hoàng lan dịu mát mà khơi sâu vào lòng người.
Văn Thạch Lam cứ chậm rãi, nhẹ nhàng như thoáng qua mà lại có sức níu kéo
da diết. Nó như hương hoàng lan cứ thoang thoảng, thoang thoảng mà thơm
lâu, thơm mãi…
Với Dưới bóng hoàng lan, Thạch Lam đã để lại trong lòng người đọc là
một tình cảm trong sáng, bình dị mà không kém phần xúc động. Để mỗi khi ta
nhớ về quê hương ta lại không thể quên cái vị “ngọt ngào chăng tơ ở đâu đây”
và không thể quên bóng cây hoàng lan - cái bóng mát ở một chốn quê bình yên
giúp cho người bộ hành nghỉ chân và suy ngẫm về đường đời trước khi tiến lên
nhiều chặng, nhiều quãng mới.
HOÀNG QUÝ HƯƠNG
(Lớp 11 chuyên Văn năm học 1993 - 1994,
Trường PTTH Công nghiệp Hà Đông)
NHẬN XÉT
Cảm nhận được nội dung tư tưởng — cảm xúc của tác phẩm. ít nhiều hoà
cảm với cảm xúc của nhân vật và tác giả ở từng chi tiết.
Lời văn khá mượt mà, phân tích khá nhuần nhị. Tuy nhiên phân tích chưa
sâu, có chỗ như mới cảm lại, kể lại chi tiết tác phẩm, một số chi tiết hay bị lướt
qua.
Phần khái quát và liên hệ mở rộng còn bị hạn chế.
Bài 35
ĐỀ BÀI
Cái đẹp trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân đến với ta bằng sức gợi của cái đẹp
hoàn thiện và chân thực. Đọc xong thi phẩm, một sức mạnh không ồn ào mà
lặng lẽ, không bất ngờ mà dung dị, thâm trầm đã cảm hoá ta, lôi cuốn tâm hồn
ta. Từ thi phẩm toát lên một vẻ đẹp cao quý, thanh khiết của “thiên lương” (chữ
dùng của Nguyễn Tuân), của cái thiện căn, của ánh sáng đối lập với bóng tối. Vẻ
đẹp của Chữ người tử tù chính là ở đó.
Cái đẹp phản ánh chân thực, gần gũi hiện thực, có sức sống, thống nhất
được các mặt đối lập và đa dạng của sự vật, có khả năng đưa đến cho con
người một khoái cảm, một thích thú, một niềm xúc động. Cái đẹp làm toát lên
chiều sâu bản chất, tính đa dạng, tính điển hình của đối tượng miêu tả. Cái đẹp
giúp người đọc vừa hiểu biết hiện thực, vừa nâng cao tư tưởng, tình cảm, vừa
thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật. Cái đẹp đòi hỏi sự cảm nhận của trái
tim, của thị hiếu thẩm mĩ, đòi hỏi bề dày kinh nghiệm. Nó được cảm nhận bằng
hiệu lực nghệ thuật cho nên mang tính đa hình của tâm năng thuộc mọi thời.
Đến với Chữ người tử tù ta nhận ra điều đó qua tư tưởng nhà văn, qua ngòi bút
miêu tả và xây dựng nhân vật điển hình: Huấn Cao.
Là một trong “mười nén tâm hương nguyện cầu cho cái Đẹp cổ truyền Việt
Nam” (Văn Tâm), nếu các tác phẩm kia đều phản ánh một nghệ thuật uống đẹp,
nhắm đẹp, chơi đẹp hay tài nghệ đẹp thì với Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã
xây dựng một nhân cách đẹp - một nghị lực, một tấm lòng biết trân trọng tâm
hồn con người đúng với nghĩa Người nhất.
Nguyễn Tuân là một nhà văn tôn thờ cái Đẹp, luôn băn khoăn trăn trở đi
tìm cái Đẹp. Tự nhận mình là một con người “xê dịch”, Nguyễn Tuân đã chẳng
thể hiện một khao khát, một ước vọng thoả nguyện thị hiếu thẩm mĩ của mình đó
hay sao?
Dựng lên một hình tượng nhân vật Huấn Cao với “vẻ đẹp rực rỡ giữa chốn
ngục tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu xa đối với những bậc anh
hùng xả thân vì nghĩa lớn” (Nguyễn Hoành Khung). Huấn Cao phi thường trong
bản lĩnh và nhân cách. Từ thái độ ngạo mạn rất kiêu bạc đến lạnh lùng đối với
bọn lính ngục, Huấn Cao đã bộc lộ một tính cách, bản lĩnh của một con người
không chịu bó hẹp mình trong khuôn khổ xã hội, “băn khoăn đi kiếm lẽ đời” — lẽ
đời tự do, chân thật, cao đẹp nhất. Thầy thơ lại cũng đã từng “tiêng tiếc”: “Tôi
thấy những người có tài thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm”. Nỗi buồn ấy gắn
với một nhận thức có phần sai lệch, chưa đi sâu vào bản chất hành động. Bên
trong việc “làm giặc” kia là cả một khát vọng, một lí tưởng mà Huấn Cao muốn
đạt tới và chiếm lĩnh nó: thế giới của tự do, hạnh phúc. Huấn Cao “lạnh lùng”,
chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống thềm đá tảng
đánh thuỳnh một cái”. Đâu chỉ dừng lại là một hành động, một cử chỉ. Đó phải
chăng là một cách phản ứng, một thái độ không thèm để ý đến thế giới tù ngục
của Huấn Cao, vẻ đẹp nội tại của ông từ đó mà bật ra, có lẽ ngoài chủ ý tác giả.
Sức sống tiềm tàng bên trong hình tượng ấy đã có sức lay chuyển, xây dựng
một tính cách hoàn thiện đến tự nhiên.
Huấn Cao là người mà “văn võ đều tài cả” (lời thầy thơ lại). Tác giả không
trực tiếp đứng ra để kể, không cố khơi, cố gợi. Nguyễn Tuân để nhân vật nhận
xét lẫn nhau, tạo nên tính khách quan: vừa chân thực, vừa có khả năng giao
truyền tới lòng người đọc tự nhiên mà sâu sắc: “Thầy có nghe thấy người ta đồn
Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khoá và vượt ngục nữa
không”. Hãy khoan nói tới cái tài về “võ”. Với Huấn Cao, vẻ đẹp của nghệ thuật,
của văn hoá cổ truyền cũng đã đủ gây sức truyền cảm mạnh mẽ lắm rồi. Từ hình
thức nghệ thuật hướng thiện ấy, toát lên chân dung một con người với một tâm
hồn, một khí phách, một tài năng… Tài viết chữ của Huấn Cao đã lan khắp vùng,
tiếng tăm của ông được “gió lành” ban phát, gieo hạt muôn nơi, để từ đó, trong
lòng người nảy lên những mầm sống, những hi vọng, khát khao vươn tới cái
Đẹp, chiêm ngưỡng và thưởng thức nó. Sức mạnh vươn tới cái Đẹp đã cảm hoá
con người, xây dựng nhân cách con người, về chức năng giáo dục, về sự biểu
hiện và truyền thụ cái Đẹp, Chữ người tử tù đã đạt tới trình độ sâu sắc, "toàn
thiện, toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan). Nguyễn Tuân đã đi tìm cái Đẹp trong đời sống
xã hội và văn hoá cổ truyền dân tộc. Chữ người tử tù là thái độ luyến tiếc một
nhã thú văn hoá cổ truyền: thưởng ngoạn thư pháp. Không phải ngẫu nhiên tác
giả chọn cảnh cho chữ để tập trung đặc tả. Thời gian viết chữ là những khoảnh
khắc để ba con người hiểu nhau hơn và đồng cảm cùng nhau. Dòng chữ Huấn
Cao ghi lại là một nét đẹp tuyệt đích. Nó xuất hiện để rồi lưu giữ lại cho đời, nhắc
nhở “thiên lương” viên quản ngục… Nét chữ bình dị biết bao mà cao quý, thanh
khiết biết bao. Nó như một thứ ánh sáng mà không một bóng đêm nào che lấp,
chèn khuất được và không gì có thể tàn phá nổi… Đã có lần, Chữ người tử tù
xuất hiện trên văn đàn bằng cái tên Dòng chữ cuối cùng hẳn không phải không
có ý nghĩa. Chữ Nho là một chữ tượng hình, đòi hỏi người viết phải có trình độ
uyên thâm và cái “tâm” khi thể hiện. Tâm hồn, nhân cách, nghị lực và “thiên
lương” người viết có khả năng được “tái tạo”, “phục hồi” qua những dòng chữ,
những nét bút “Như phượng múa rồng bay” (Ông đồ - Vũ Đình Liên).
“Ông Trời nhiều khi hay chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào
giữa một đống cặn bã”. Nhưng chính giữa chốn “tối tăm mù mịt ấy” (Nhật kí
trong tù - Chủ tịch Hồ Chí Minh), tài hoa và khí phách đã chiến thắng bạo tàn.
Cái Đẹp chính thức đăng quang và “cứu vớt con người” (Đôxtôiepxki). Một cái
Đẹp tròn trịa, viên mãn chứa đựng sức sống tỏa ra từ tài nghệ Huấn Cao đã là
uy quyền đầu tiên để giúp con người nhân ái hơn, giúp họ hiểu và thông cảm với
nhau hơn. Thái độ khác thường của quản ngục và hành động biệt đãi đặc biệt
đối với Huấn Cao nếu không là một cái cúi đầu trước cái đẹp cao khiết thì cũng
là sự khuất phục trước “thiên lương”, trước thiện căn. Viên quản ngục sẵn sàng
chấp nhận sự hiểu lầm nghi ngờ của ông Huấn. Nhưng mặt khác, với Huấn Cao,
đó là bản lĩnh của cái Đẹp. Trước thái độ ưu tiên đối với mình, ông Huấn vẫn
thản nhiên nhận rượu thịt như thường. Ông không coi miếng ăn là lớn và điều
quan trọng hơn, ông “miễn dịch” với sự mua chuộc. Ông cũng không sợ trả thù,
trả đũa vì ông đã không sợ cái chết.
Thi phẩm Chữ người tử tù dựng lên hình tượng chính Huấn Cao. Có một
lúc nào đó, ta đã quên hai nhân vật thơ lại và viên quản ngục. Nhưng sau đó, tri
giác nghệ thuật của ta đã biết khám phá, tìm tòi trong đống cặn bã xô bồ của thế
giới tù ngục, một ánh sáng không chỉ là le lói. Tưởng chừng trong hoàn cảnh ấy,
cái Đẹp không còn chỗ tồn tại. Nhưng ta hiểu rằng: cái Đẹp là thẩm mĩ, bản chất
nghệ sĩ là nét tiềm tàng trong mỗi người. Có điều cái Đẹp tồn tại sẵn và rất cần
sự đánh thức của “thiên lương”. Giữa bóng tối bao trùm của rác rưởi, ba đốm
sáng gặp nhau, tỏa ra một ánh hào quang. Một cái Đẹp viên mãn, đầy đặn, cái
Đẹp trong độ căng tròn nhất. Cái Đẹp ấy đáng trân trọng nhất, đáng được giữ
gìn và phục hồi.
Quản ngục là người có tâm hồn đẹp - một tâm hồn trong sáng, thân thiết
biết nhường nào. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng
lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên
quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà
nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Thanh âm ấy cất lên nhưng không làm cho người
ta say mê. Có chút gì đó nghẹn ngào với một niềm thương cảm. Viên quản ngục
khao khát ánh sáng của lương tri, lương năng, khao khát bộc lộ mình nhưng
phải chịu “tù chung thân”. Một cuộc đời “sống mòn” (chữ dùng của Nam Cao)
hay chết mòn cũng đến thế thôi. Nó làm mòn mỏi kiếp sống, mòn mỏi trí tuệ, tâm
hồn. Chỉ cần một chút le lói thôi, nhiệt lượng ấy cũng đủ để tỏa ấm và cháy lên
thành ngọn lửa của khao khát tình đời, tình người, khao khát vươn tới quyền làm
người chân chính - con người đúng với nghĩa của nó.
Sự xuất hiện của Huấn Cao, của cái Đẹp đã giúp viên quản ngục nhận ra
“thiên lương” của thơ lại. Thì ra, bấy lâu nay, hai con người ấy đâu đã hiểu được
nhau, đâu đã cùng nhau thông cảm. Uy quyền của cái Đẹp, của khả năng phục
thiện đã giúp họ gần nhau và hiểu nhau hơn. Đã có lần, Huấn Cao đã hiểu lầm
trước tấm lòng “người biệt nhỡn liên tài”: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có
một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Sau câu hỏi ấy, Huấn Cao sẵn
sàng chờ đợi một thái độ ứng xử, một lời sỉ mắng. Nhưng không, bản tính thiện
của người coi ngục đã thức tỉnh từ khi gặp Huấn Cao, bây giờ đã le lói, đã tỏa
chút nhiệt lượng hiếm hoi. Huấn Cao đã nhiều đêm trăn trở vì thái độ rất người
ấy. Còn quản ngục cũng nhiều đêm day dứt trước cái Đẹp mà không biết làm thế
nào? Hai thái độ ấy đã cùng gặp nhau một điểm: trân trọng tài năng và trân trọng
những con người biết tôn trọng tài năng. Nhưng thực ra, với Huấn Cao, điều ấy
chỉ bộc lộ rõ khi tên thơ lại hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng quản
ngục. Huấn Cao đã mỉm cười và hiểu ra tấm lòng đó, vẻ đẹp của trái tim có cái
tâm cao thượng, có ý thức tôn trọng những tấm lòng khát khao vươn tới cái Đẹp,
tính vị tha và ý thức phục thiện của Huấn Cao đã làm trang truyện toát lên một
tinh thần nhân đạo cao quý. Tấm lòng ấy phải chăng Nguyễn Tuân đã hóa thân
và tự mình bộc lộ. Ba nhân vật đầu mang một ít tấm lòng nhà văn. Văn Tâm rất
có lí khi gọi “tam vị nhân vật, nhất thể Nguyễn Tuân”. Đến với cái Đẹp trong
truyện ngắn Chữ người tử tù, ta tìm đến tấm lòng Nguyễn Tuân, tấm lòng một
con người khao khát vô biên hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ. Ông suy nghĩ:
“Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài hẳn
không phải là kẻ xấu hay vô tình”. Thân phận không phải là hệ quả của bản chất
con người - đó là điều Huấn Cao đã từng hiểu ra:
“Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu
một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu
chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
Chỉ một lời nói thôi mà chất chứa một tấm lòng, một trái tim tha thiết, chân
thành, một thái độ vị tha, trọng nghĩa rất đáng trân trọng. Thay đổi cách nghĩ là
cả một quá trình, một diễn biến để rồi cảm, rồi mến và nhận bạn lòng tri kỉ, tri
âm, vẻ đẹp tâm hồn ấy đủ tỏa sáng. Ba đốm sáng tụ lại thành ánh sáng đỏ rực
như một bó đuốc: ánh sáng của lương tri, của cái thiện căn, của những tấm lòng
khát khao vươn tới cái Đẹp để hóa giải trạng thái phi mĩ. Một tấm lụa bạch còn
nguyên vẹn lần hồ trong sáng, tinh khiết nhường ấy… được trải ra « … một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường
đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Cái Đẹp đã vượt lên
trên hiện thực để biểu hiện mình. Đối lập với nó là bao cảnh xấu xa, bao cái bừa
bãi, bẩn thỉu nơi tù ngục. Cái Đẹp toát lên từ trí tuệ, tri thức, từ nhân cách, tâm
hồn. Cái Đẹp đi tìm sự sống. Cái Đẹp chính thức thăng hoa, vẻ đẹp chân chính
với khát vọng hóa giải hoàn cảnh đã tô điểm thi vị cho một không gian ẩm mốc.
Những kiếp người đang bị mòn đi, rỉ ra đã dần dần bừng sáng lên như ánh hào
quang của vàng nguyên chất. Thứ vàng ròng chắt lọc qua thời gian, năm tháng
mà còn giữ nguyên bản chất để đúc lại cho ngày hôm nay một “bông hồng vàng”
(Pautôpxki) - một thứ vàng mười dù lẫn trong bụi rác…
Viết chữ tặng quản ngục, Huấn Cao thực sự đã tìm đến những tấm lòng tri
âm, tri kỉ. Xây dựng những hình tượng đối lập với hoàn cảnh, Nguyễn Tuân hẳn
có dụng ý nghệ thuật rõ ràng: “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng,
đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván”. Nhân
vật đang biểu hiện cái Đẹp trong một hoàn cảnh không bình thường. Ánh sáng
tỏa ra từ ngọn đèn hay từ một góc kín thẳm sâu của tâm linh, trăn trở, day dứt
để rồi bật ra không kìm được. Sức mạnh trì níu của lí trí không cho phép vượt
lên trên tình cảm nhưng cái Đẹp có một uy quyền ghê gớm làm lương tri không
thể tự dối lừa. “Ba người nhìn bức châm, rồi nhìn lại nhau”. Cái nhìn của sự cảm
thông, đầy trìu mến trong một thoáng yên lặng. Trong truyện có những chi tiết
thật hay, để rồi lắng sâu vào ta, như mạch nước ngầm thấm mãi, thấm mãi.
Đừng bắt mạch phải chảy ngược dòng… Cái im lặng ngàn vàng ấy, tôi suy nghĩ
mà gợi lên một niềm đau xót. Nó là bi kịch của thân phận và tự do, của sự sống
và cái chết. Bi kịch ấy là ngàn đời trong kiếp sống người ta…
Kết thúc truyện, Nguyễn Tuân để “Ngục quản cảm động, vái người tù một
vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẻ miệng làm cho nghẹn
ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Cúi đầu chắp tay trước cái đẹp, viên quản ngục không bé nhỏ đi mà trở
nên cao thượng, lớn lao hơn. Cái chắp tay ấy thể hiện niềm cảm phục và tấm
lòng trân trọng tài hoa. Cao Bá Quát (nguyên mẫu của Huấn Cao) sinh thời cũng
chỉ “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Trước cái cao đẹp, tinh khiết, con người chịu
cúi mình hẳn không phải là một tình cảm nhân bản hay sao?…
“Cái đẹp là cuộc sống” (Secnưsepxki). Cái Đẹp mang tính chân thực, điển
hình. Đó là thiên chức cao quý của nghệ thuật. Nói đến chức năng cải tạo cuộc
sống của văn học thì phải được hiểu là cải tạo theo yêu cầu thẩm mĩ. Cái Đẹp
gắn liền với cái Chân, cái Thiện, là vì thế.
Nếu như thời gian trước, Nguyễn Tuân quan niệm cái Đẹp đơn thuần là ở
hình thức, rơi vào chủ nghĩa duy mĩ thì nay, đến với Chữ người tử tù, ta đã bắt
gặp một quan niệm toàn diện về nó. Vẻ đẹp ấy toát lên từ bản chất vấn đề, từ
nội dung sự vật. Cái Đẹp phải chứa đựng trong đó sức sống nội tại, một sức bật,
sức khám phá riêng. Nét độc đáo trong phong cách biểu hiện “rất Nguyễn Tuân”
đã tạo cho thi nhân có cách truyền cảm sâu sắc.
Với Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật thành một trung
tâm tỏa sáng từ cách tưởng tượng, hư cấu trên tinh thần một nguyên mẫu lịch
sử. Huấn Cao là hiện thân của tư tưởng, nhân cách cao thượng, là nét đẹp trong
tâm hồn cũng như cái ngang tàng, khát vọng vươn tới tự do của Cao Bá Quát.
Bằng giọng điệu từ tốn, nghiêm trang, một văn phong đạt tới sự hoàn mĩ trong
các đoạn tả cảnh, đối thoại, Nguyễn Tuân đã cố gắng vươn tới sự thể hiện cao
đẹp của mình. Cái Đẹp của nội dung thi phẩm được toát ra, bật lên từ hình thức
nghệ thuật độc đáo, với cách vào đề bất ngờ, gây kích thích mạnh mẽ. Lời văn
Nguyễn Tuân chính xác đến tuyệt đối, đặt đúng văn cảnh, đúng tâm trạng hơn
bao giờ hết. Hơn nữa, ngòi bút nhà văn rất đặc sắc trong đoạn tả cảnh viết chữ
như một đỉnh sáng của nghệ thuật.
Cái Đẹp chân chính luôn luôn không bao giờ chỉ làm rung động lòng người
mà qua đó, phải làm cho “lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch
Lam). Bằng tác phẩm Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân hoàn thiện hơn quan điểm
của mình đối với cái Đẹp - cái Đẹp của nhân cách, của cái tâm và cái tài, thống
nhất trong cái Cao thượng.
CHU THÚY HẰNG
(Lớp 11 chuyên Văn năm học 1993 - 1994,
Trường PTTH Công nghiệp Hà Đông)
NHẬN XÉT
Có hiểu đề và hiểu bài, nêu được một số ý chính. Bài viết có lí luận. Tuy
nhiên, cần nêu bật hơn từng luận điểm trước khi triển khai. Phần “cái đẹp của
nghệ thuật” còn sơ sài. Có vài chỗ cần nhấn mạnh thêm ví dụ nghệ thuật viết
chữ, cảnh cho chữ trong ngục.
Văn hơi cứng. Có một số chỗ lạm dụng thuật ngữ, ví dụ: “tâm năng”, “hóa
giải”.
Bài 36
ĐỀ BÀI
Đọc truyện Chí Phèo của Nam Cao, em thích nhất chi tiết, hoặc hình ảnh
nào? Hãy viết một bài phân tích, hoặc bình giảng chi tiết, hoặc hình ảnh đó. (Có
thể đặt tên cho bài viết, xem như một “tiểu luận” đăng trên các báo, tạp chí
Nghiên cứu Văn học).
BÀI LÀM
BÁT CHÁO HÀNH, LIỀU THUỐC GIẢI ĐỘC
Tác phẩm Chí Phèo của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao là một
bức tranh thê thảm đầy bi thương của kiếp sống đói nghèo nhưng lương thiện, bị
xô đẩy, tha hóa rất đáng cảm thương của những người nông dân.
Xuyên suốt toàn tác phẩm là những hành động ngang ngược, độc ác, xấu
xa của nhân vật Chí Phèo - một con người lương thiện bị tước đoạt, xô đẩy và
lưu manh hóa. Nhưng ở đoạn cuối của tác phẩm (Chí Phèo say rượu rồi gặp thị
Nở…), Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện.
Động lực thúc đẩy ở đây là tình thương của thị Nở và bát cháo hành của thị. Nếu
như trước đây, Chí chỉ biết uống rượu, chửi bới, dọa nạt, cướp giật, nằm vạ…
thì giờ đây khi được ăn bát cháo hành của thị Nở, hắn thấy lòng thành trẻ con.
Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền…? Bát cháo có gì
đâu: một chút gạo, vài cọng hành, vài ba hạt muối mà hiệu quả thật không ngờ,
bát cháo hành quả là liều thuốc giải độc. Nó vừa giúp Chí Phèo thoát ra khỏi cơn
ốm sau khi say rượu vừa khơi dậy bản chất ý thức con người ở Chí. Phải chăng
bát cháo hành đơn sơ chân quê đó đã được nấu bằng tất cả tấm lòng yêu
thương chân thật của thị Nở? Đúng vậy “bát cháo hành” tượng hình cho tình
cảm của thị Nở với Chí Phèo, một tình cảm dịu dàng, giản dị nhưng đong đầy ân
tình, nhân nghĩa…
Khi nhận được bát cháo hành, Chí rất ngạc nhiên. “Hết ngạc nhiên thì hắn
thấy mắt hình như ươn ướt”. Và Chí Phèo đã khóc, dòng nước mắt xúc động
nghẹn ngào. Hằn đã khóc vì “lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa
nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì…”. Hắn đã nhìn bát cháo bốc khói mà
“bâng khuâng”, “vừa vui vừa buồn”. Và một cái gì nữa giống như là “ăn năn”. Tự
bao giờ, những tình cảm con người đã thức dậy trong tâm can “con vật lạ, con
quỷ dữ” của làng Vũ Đại ấy. Bên cạnh Chí, thị Nở múc cháo “nhìn trộm hắn rồi
lại toe toét cười. Trông thị thế mà có duyên…”. Lần đầu tiên, Chí đã biết đến cái
duyên của một con người. Rồi hắn nhớ lại khi xưa, nghĩ về quá khứ của mình
khi phải săn sóc cho bà ba, phải làm những việc xấu xa, hắn đã thấy nhục hơn là
thích, rồi hắn thấy sợ. Xưa kia, cũng như bây giờ, hắn thật trong sáng, lương
thiện. Vì vậy, “bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm
bạn được, sao lại chỉ gây thù?”. Thật kì diệu, những sự chăm sóc giản dị đầy ân
tình và tình yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản
chất lương thiện của người nông dân lao động trong anh. Đây là một đoạn văn
tuyệt bút, đầy chất thơ.
Đồng thời khi ăn bát cháo ấy, “hắn càng ăn mồ hôi lại càng nhiều”. Và tất
nhiên với một người cảm gió, mồ hôi ra được nhiều là sẽ khỏi hẳn. Hắn cũng
thế, đã khỏi bệnh. Hắn đã cảm nhận được vị ngon của cháo “Trời ơi, cháo mới
thơm làm sao!… những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng
cháo ăn rất ngon…”. Nhưng tại sao mãi đến bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo
“Hắn tự hỏi rồi tự trả lời… Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay “đàn
bà…”.
Câu trả lời của Chí một lần nữa khẳng định sự kì diệu mà thị Nở đã đem
đến cho Chí Phèo. Một tình cảm ngàn vàng giữa hai con người cùng cảnh ngộ
khốn cùng.
Cuộc gặp gỡ thị Nở đã loé sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối
của anh. Tình yêu thương đã thức tỉnh Chí và linh hồn của Chí lâu nay phải bán
cho quỷ dữ để đổi lấy miếng cơm, manh áo thì nay đã trở về với bát cháo hành
và tình thương của thị Nở là một liều thuốc quý không gì so sánh được mà nhà
văn đã ban cho Chí Phèo bằng tấm lòng nhân đạo của mình.
TỐNG THU HIỀN
(Lớp 11D2 Trường PTTH - Lương Thế Vinh, Hà Nội)
NHẬN XÉT
Ưu điểm:
Chọn được hình ảnh đặc sắc, có ý nghĩa. Đặt tiêu đề và phân tích tương
đối khá, nêu bật được chủ đề bài viết, khai thác đúng ý nghĩa, giá trị của tác
phẩm, sát với yêu cầu nội dung.
Kĩ năng phân tích và hành văn khá trôi chảy, có đôi câu tốt (Ví dụ: "… bát
cháo hành quả là liều thuốc giải độc”., “bát cháo hành” tượng hình cho tình cảm
của thị Nở với Chí Phèo, một tình cảm dịu dàng, giản dị, nhưng đong đầy ân
tình, nhân nghĩa.. ”).
Nhược điểm:
Kết cấu chưa thật rành mạch, chặt chẽ, có đôi ý quẩn quanh.
Kết hợp phân tích nội dung, ý nghĩa và giá trị nghệ thuật của văn chương
Nam Cao còn lúng túng.
Bài 37
ĐỀ BÀI
Nói về nội dung và tác dụng của văn chương, trong truyện ngắn Đời thừa
Nam Cao viết: Một tác phẩm thật giá trị… phải chứa đựng một cái gì lớn lao,
mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái,
sự công bình… nó làm cho người gần người hơn”.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua những tác phẩm của Nam Cao em
hãy chứng minh rằng: Nam Cao đã cố gắng sáng tạo được những tác phẩm văn
chương có giá trị như ông từng mơ ước.
BÀI LÀM
Đời thừa là một truyện ngắn. Nhưng truyện ngắn này lại chứa đựng những
tư tưởng nghệ thuật quan trọng của Nam Cao. Trong đó có một “tuyên ngôn”
của ông về nội dung và tác dụng của văn chương: “Một tác phẩm thật giá trị…
phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi.
Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… nó làm cho người gần
người hơn”. Đây là một ý kiến đúng và chính vì vậy Nam Cao đã cố gắng sáng
tạo được những tác phẩm văn chương có giá trị như ông từng mơ ước.
Thật vậy, trước hết chúng ta nên hiểu: thế nào là một tác phẩm thật giá
trị? Như nhà văn đã viết: “nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa
đau đớn lại vừa phấn khởi”. Có nghĩa là một tác phẩm phải tái hiện được một
hiện thực cuộc sống, phải miêu tả hết sức chân thực tình cảm, đời sống của
nhân dân, xã hội lúc bấy giờ. Đó là một hiện thực đầy bi thương, nhưng không
tuyệt vọng. Sống trong cái xã hội 1930 - 1945, Nam Cao ngày càng nhận rõ tính
chất tàn bạo, bất công của xã hội thực dân phong kiến. Do đó trong ông ngày
càng nảy sinh tâm trạng bất hòa sâu sắc đối với xã hội đó và ngày càng mang
nặng nỗi đau của người trí thức không được sống như mình mong muốn. Đặc
điểm này đã ảnh hưởng đến các tác phẩm của ông, ông mong muốn một cái gì
tươi đẹp hơn. Chính vì vậy, ông đã cho rằng một tác phẩm phải “ca tụng lòng
thương, tình bác ái, sự công bình…”.
Mặt khác, Nam Cao cho rằng một tác phẩm có giá trị phải là những tác
phẩm có tác dụng sâu sắc tới độc giả, là làm cho người xứng đáng với con
người và đọc xong phải cảm thấy gần gũi, yêu thương, cảm thông với con người
hơn. Tóm lại phải là một tác phẩm có nội dung nhân đạo sâu sắc. Chính vì vậy,
các truyện ngắn Trăng sáng, Đời thừa, Chí Phèo được xem như những tác
phẩm văn chương có giá trị mà ông từng mơ ước. Qua nhân vật Điền trong tác
phẩm Trăng sáng, Nam Cao đã chỉ ra một cuộc sống bế tắc, luẩn quẩn của
những người tiểu tư sản trí thức, chỉ ra được những mặt tiêu cực của họ: Điền
phải sống trong cảnh túng thiếu, phải lo ăn từng bữa. Trong cảnh túng thiếu này,
Điền luôn tự trách mình không giúp được gì cho gia đình mà trở thành gánh
nặng. Điền luôn cảm thấy mình ích kỉ dù rằng Điền ra sức tiết kiệm và lao động
kiềm tiền. Điền yêu văn chương, khao khát trở thành văn sĩ, anh luôn luôn khao
khát cuộc sống an nhàn, những tình cảm thơ mộng, chán cảnh tầm thường thô
thiển. Đã có lúc Điền dùng cái đẹp của nghệ thuật để che phủ lên những cái xấu
xa trong cuộc sống hiện tại. Nhưng thực tế phũ phàng, bản chất nhân đạo trong
anh đã giúp Điền nhận ra được rằng một tác phẩm đích thực phải phản ánh
chân thực thân phận nghèo khổ, buồn thảm. “Chao ôi! Nghệ thuật không cần
phải là ánh trăng lừa dối… Điền chẳng cần trốn tránh. Điền cứ đứng trong lao
khổ, mở hồn ra, đón lấy tất cả vang động của cuộc đời…”, qua nhân vật Điền,
Nam Cao giúp chúng ta hiểu hơn về con người, trân trọng hơn tài năng và tấm
lòng của Nam Cao. Cũng như Điền, ở nhân vật Hộ trong Đời thừa, ngòi bút của
Nam Cao đã sáng tạo nên một nhân vật văn sĩ rất thành công. Đó là một con
người say mê văn chương, khát khao sự nổi tiếng và bất tử, vừa chủ quan kiêu
ngạo, vừa dễ bi quan, thiếu tự tin, cũng có thể rất dễ bốc đồng, nhưng trước sau
đó cũng là con người nhạy cảm, giàu lòng nhân ái. Nhân vật Hộ có phần nào đó
là bóng dáng của tác giả và qua đó Nam Cao muốn đặt và giải quyết một vấn đề
tư tưởng: bi kịch tinh thần của con người có ý thức về một cuộc sống cao đẹp
nhưng đã bị nhấn sâu, nghiền nát trong cái môi trường xã hội đối nghịch với nó.
Tóm lại, Nam Cao đã phản ánh chân thực, xúc động thân phận nghèo
cực, buồn thảm của người trí thức nghèo trong hoàn cảnh ngột ngạt, bế tắc của
một xã hội đang trượt nhanh xuống vực thẳm khủng hoảng nhưng họ lại là
những người muốn phát triển tài năng, sống bằng tình thương và những khát
vọng tốt đẹp, lành mạnh. Cuộc sống con người trong tác phẩm của Nam Cao dù
có tăm tối nhưng cái khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, nhân hậu vẫn khi thì le
lói, khi thì rạng rỡ tràn ngập trong tâm hồn họ. Thật là những tác phẩm tràn đầy
tính nhân đạo.
Tuy nhiên để hoàn thiện một tác phẩm có giá trị. Nam Cao thật gắn bó
thiết tha, quan tâm sâu sắc đến số phận của những người nghèo khổ, bị áp bức,
đặc biệt là những người nông dân ở quê hương ông. Chính đây là cái gốc nhân
đạo sâu sắc của ngòi bút Nam Cao, thể hiện đậm đà, xúc động qua truyện ngắn
Một đám cưới. Tác phẩm tái hiện lại một cảnh đời đắng cay, chua xót của những
người nông dân nghèo khổ. Họ tổ chức ngày cưới, ngày vui hạnh phúc của tuổi
trẻ mà “như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ”. Tác phẩm
toát ra một tình thương thấm thía của nhà văn đối với kiếp người đau khổ.
Đọc xong ba tác phẩm này của Nam Cao, chúng ta cảm thấy gần gũi, yêu
thương và cảm thông với các nhân vật của ông nói riêng và với con người nói
chung. Hộ - một nhân vật giàu tâm trạng, rất chân thực cứ “ám ảnh” mãi độc giả.
Qua nhân vật Điền, chúng ta hiểu hơn con người nhà văn, trân trọng hơn tài
năng và tấm lòng của Nam Cao. Còn Dần để lại trong ta một lòng thương vô
bờ… Các câu văn như thấm đẫm nước mắt của tác giả.
Nam Cao đã thành công rực rỡ trong việc khắc họa những hình tượng
điển hình của người trí thức nghèo (là những con người tốt đẹp) bị đẩy vào hoàn
cảnh cùng cực vẫn tiếp tục vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, người nông dân
có cuộc sống và hoàn cảnh cùng cực nhưng vẫn lấp lánh ánh sáng của lương
tri. Do đó, những sáng tác của Nam Cao là một bức tranh chân thực về xã hội
đương thời và tràn đầy tinh thần nhân đạo cao cả. Đồng thời qua những sáng
tác này làm cho độc giả phải tự suy nghĩ về bản thân mình mà từ đó cảm thấy
mình hoà nhập vào cộng đồng dân tộc, gắn bó với con người hơn.
NGUYỄN KHÁNH LINH
(Lớp 11D, Trường PTTH Lương Thế Vinh, Hà Nội)
NHẬN XÉT
Ưu điểm:
Bài biết đảm bảo những yêu cầu cơ bản về nội dung. Bố cục sáng, vận
dụng kĩ năng giải thích, phân tích và chứng minh tương đối linh hoạt, khiến cho ý
được rõ, bám sát đề. Hành văn trôi chảy. Phần tác dụng, cảm nghĩ có đôi câu
viết tốt (Ví dụ: “Hộ - một nhân vật giàu tâm trạng, rất chân thực cứ “ám ảnh” mãi
độc giả… Còn Dần để lại trong ta một lòng thương vô bờ… Các câu văn như
thâm đẫm nước mắt của tác giả…”).
Nhược điểm:
Đôi đoạn dẫn chứng sơ lược, chung chung (Phần phân tích Trăng sáng)
thiên về tóm tắt chủ đề, nội dung tác phẩm. Do đó hạn chế sức thuyết phục của
lập luận.
Dẫn chứng cả hai tác phẩm cùng đề tài người trí thức (Trăng sáng, Đời
thừa) là trùng lập. Đáng tiếc là không nói ý gì về Chí Phèo - tác phẩm thành công
nhất của Nam Cao.
Đôi câu chuyển ý vụng (“Chính vì vậy, các truyện ngắn Trăng sáng, Đời
thừa, Chí Phèo được xem như những tác phẩm…”). Đôi từ dùng thô (“… Qua
nhân vật…, Nam Cao đã chỉ ra một cuộc sống…”. Nên đổi là đã dựng lại…”).
Bài 38
ĐỀ BÀI
Những ấn tượng sâu sắc nhất của anh (chị) về hình tượng người nông
dân trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
BÀI LÀM
Có những tác phẩm văn học đọc xong, gấp sách lại và ta quên đi, khép
luôn cả trí nhớ của mình về nó. Cho đến lúc cầm lại nó, ta mới chợt nghĩ là mình
đã đọc rồi. Nhưng có những khi, có những cuốn sách như dòng sông chảy qua
tâm hồn ta, để lại một lớp phù sa, để lại những ấn tượng khắc chạm trong tâm
khảm. Như con người nông dân trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945
đọc rồi thì không thể quên được, nó cứ ám ảnh, đeo đuổi ta mãi.
Người nông dân bước vào văn học từ những câu ca xưa, từ những áng
văn cổ điển. Đến với dòng văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 ta gặp lại
những chị Dậu, anh Dậu, cái Tí, cái Dần, Chí Phèo, thị Nở, lão Hạc, anh Pha…
Họ đến và họ không ra đi, họ bắt ta phải xót xa, cay đắng mãi với cuộc đời của
họ. Họ bắt ta phải ngẫm nghĩ mãi về ánh sáng lương tâm, lương tri trong con
người họ, về sự cựa mình để bứt ra cuộc sống ngột ngạt ấy của họ.
Sao cuộc sống của những con người ấy lại có thể khổ đến thế? Có những
lúc ta vẫn buột miệng nói: “khổ như chị Dậu”. Cái nghèo khổ đè nặng, ấn mãi
cuộc đời chị xuống. Cuộc đời được nảy sinh, tồn tại trong túp lều như nhà chứa
tro hoặc chứa phân, cuộc đời “quanh năm không dám chơi không ngày nào” mà
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Cái nghèo khổ dồn nén, chất chứa trong
hai đồng bảy bạc sưu. Hơn cả sự nghèo đói, trong đêm đen Tắt đèn, chị đã quằn
quại, chị đã đau cái nỗi đau lớn nhất của người mẹ: bán con. Ôi đứa con nuôi từ
hòn máu nuôi đi, mang nặng đẻ đau, bán nó đi chị rứt từng khúc ruột. Đó là một
phần máu mủ? một phần xương thịt của chị. Tiếng kêu trời của chị cứ bám lấy
ta, cào cấu trong ta: “Trời ơi tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được
hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nạp SƯU cho chồng thì chồng tôi khỏi bị
hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa, khốn nạn thân
tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng SƯU hở trời! Tôi biết đâm đầu vào đâu
cho được hai đồng bảy bạc bây giờ?”. Đâm đầu vào đâu? Câu hỏi của chị khoan
nhức nhối vào lòng ta. Ta phải thốt lên “trời ơi là trời, sống làm sao được đây?”.
Quanh năm chị Dậu, quanh cái thẻ SƯU, thực cả một “thiên la địa võng bóc lột
sự sống, bức tử sự sống” (Nguyễn Tuân). Có ai trong chúng ta khi bưng bát cơm
ăn mà không nghẹn ngào nghĩ đến chị Dậu. Có ai trong chúng ta khi sà vào lòng
mẹ mà không thổn thức cùng cái Tí “con van thầy, con van u, thầy u cho con ở
nhà chơi với em con”, “con ăn với ai, con ngủ với ai”. Tí khổ lắm, bảy tuổi đầu Tí
đã phải toan lo, bảy tuổi đầu Tí đã phải chia lìa gia đình, cắp sách đến trường
sung sướng, ta lại càng xót xa khi nghĩ đến cái Tí. Đọc Tắt đèn rồi cứ đêm đêm,
điện sáng lên, cái tối tăm, cái cay cực của cuộc sống lại giày vò ta. Sống lại cuộc
đời của họ ta lại thấy ngột ngạt, tức thở.
Còn Chí Phèo, cái anh Chí Phèo ấy đã găm lại trong ta bởi cái kì dị, quái
gỡ của cả hình thức, lẫn cuộc đời và con người. Những cái đó, làm cho tôi, lần
đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm, cảm thấy sợ hãi. Sợ hãi cái con quỷ du đãng ấy,
sợ hãi cái thằng người say triền miên, sợ hãi, ám ảnh cái bóng Chí Phèo vật vờ
dưới chân hắn trong đêm trăng. Tưởng như ngửi thấy mùi rượu, thấy được máu
đang tứa ra trên khuôn mặt không tuổi ấy. Rồi cái sợ ấy ngấm mãi vào người và
dần dần, trở thành sự chà xát ghê gớm. Chua xót lắm chứ, cái chua xót lớn nhất
- Chí Phèo không được sống như một con người. Chị Dậu khổ, nhưng chị là một
con người, là người mẹ, là người vợ. Còn Chí Phèo, hãy hỏi thử xem có nỗi lau
đớn nào lớn hơn thế nữa! Không có gì khốn nạn và cùng cực hơn anh nông dân
Chí Phèo ấy. Cho đến bao giờ, tiếng thét, tiếng kêu của anh ta mới nguội đi
trong tôi “tao muốn làm người lương thiện”. Không, tiếng kêu đó sẽ chẳng bao
giờ dịu đi, nó vật vã cái phần nhân bản cao quý của con người, nó giày vò cái
phần lương tri, lương năng trong con người. Nó không còn là khổ, là đau nữa,
nó sâu, đau tận trong tâm can ta.
Những con người nông dân ấy đã phải sống quằn quại trong lòng chảo
của xã hội xấu xa. Xã hội không cho họ con đường sống. Đọc rồi ta nhớ măi
những con người, những cuộc đời, những số phận bi thảm, những kết cục đau
đớn của họ. Nhát dao của Chí Phèo cho đến bây giờ vẫn còn đau trong tôi. Cái
nhát dao kết liễu cuộc đời anh Chí, và đó cũng là cái nhát dao khoét sâu trong
ta. Nam Cao đã để cho lão Hạc cào cấu ta bởi cơn chết giãy điên dại của lão.
Sao họ khổ đến thế, đến cái chết, cũng cứ phải khổ, cũng cứ phải vật vã. Cái
chết đớn đau, cái chết rùng rợn, bao nhiêu cái khắc nghiệt của cuộc sống đã dồn
trong hai tiếng đồng hồ giãy chết của lão Hạc. Và cho đến khi đã vào hòm rồi,
người nông dân vẫn cứ còn phải khổ (Chiếc quan tài - Nguyễn Công Hoan).
Cuộc sống của những người nông dân ấy tăm tối đau đớn. Làm gì có
cảnh:
Trên đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay lên
Làm giật mình những cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
(Anh Thơ)
“Cô nàng yếm thắm” ấy chợt đến rồi chợt đi, trong ta những chị Dậu, Chí
Phèo thì sống mãi. Ôi những người nông dân thuở ấy càng nghĩ lại càng
thương, càng đau. Càng sung sướng trong cuộc sống “Lúa mượt đồng ấm áp
làng quê” lại càng xót xa cho họ.
Họ không chỉ găm lại trong ta bởi cái khổ, họ còn trong ta bởi cái ánh sáng
lương tâm, lương tri trong họ, bởi sức sống ngầm trong con người họ, cuộc đời
có cay cực, bất công, dù cuộc sống quá tối tăm, chị Dậu vẫn sáng lên những
phẩm cách trong sạch. Tôi nhớ mãi ánh mắt của chị điềm tĩnh “quét” năm gian
đình. Đó không chỉ là một ánh mắt, là nghị lực, là sức sống của chị. Ánh mắt
sáng rực nhân cách ấy rọi chiếu như tia đèn pha, dường như muốn thiêu đốt
những rác rưỡi trong đình làng, trong xã hội. Ánh mắt đầy sức mạnh theo sát ta
trên chặng đường đời, góp sức đốt trụi những ý nghĩ thấp hèn, những lời van vỉ,
dựng ta dậy, xốc ta đi. Giữa bãi bùn lầy nhơ nhuốc của lòng chảo Tắt đèn, chị là
thứ “hương sen dã ngoại”. Một mùi hương không thể lẫn, một mùi hương thoang
thoảng thôi nhưng không bao giờ hết. Cuối tác phẩm, chị Dậu rứt ra, lao vào
đêm đen. Nhưng chính chị, bằng cuộc đời bị dồn đến chân tường ấy, vẫn gieo
trong ta một niềm tin mãnh liệt: dù hiện thực có nghiệt ngã hơn thế nữa thì chị
Dậu vẫn đẹp, vẫn trong sáng. Niềm tin ấy hòa trong máu ta đốt thành niềm yêu
say cuộc sống.
Có phải vì Chí Phèo được mô tả như một con quỷ, một con vật không tuổi,
nên cái phần “người” trong hắn làm ta bàng hoàng, chỉ một bát cháo hành của
thị Nở, một “đặc ân” mà cuộc đời ban cho hắn cũng đủ thức dậy cái phần lương
tâm, lương tri cái bản chất con người, trong lúc tưởng như nó dã hủy diệt trong
cái vỏ kì quái, gớm ghiếc. Không, nó vẫn sống và sống mãnh liệt. Tôi nhớ mãi
cái buổi sáng Chí Phèo tỉnh dậy, lần đầu tiên tỉnh dậy, lắng nghe âm thanh cuộc
sống, tâm hồn rung lên những nhịp rung mới lạ. Chí nhớ lại có một thời Chí cũng
có những ước mơ nho nhỏ, có một thời Chí cũng là người: là “con người” trong
Chí đòi một cuộc sống lương thiện, muốn hòa mình, gia nhập cái xã hội bình dị
của những người dân. Cái phần nhỏ bé nhưng kì diệu ấy có sức đốt nóng ghê
gớm. Cái ấn tượng ấy không mất đi, nó thì thầm trong tôi: dù người ta có nói gì
với bạn đi nữa thì bạn hãy tin rằng cuộc sống vẫn đẹp và con người vẫn đẹp. Tôi
lại thấy thoang thoảng đâu đây mùi cháo hành thơm nồng, thấy rạo rực như
được sống cái buổi sáng mà Chí Phèo tỉnh giấc, có tiếng chân, có tiếng người đi
chợ về hỏi nhau…
Và lão Hạc nữa, lão Hạc có cuộc đời khổ cực, đến giọt nước mắt cũng
phải dồn hai gò má lại mà “ép” ra. Có những lúc đói, nếu đào được củ gì ăn củ
nấy nhưng lão vẫn không bán một tấc đất, mảnh vườn của con. Giữa lúc con
người sống với nhau như thú vật ấy, cái tình của lão với con chó vàng mới đẹp
làm sao. Đôi mắt van vỉ của con chó là cái tình của lão Hạc đấy, nói với lão Hạc
là nói với chúng ta, và cái đẹp nhất, cái in đậm nhất trong ta chính là cái tình ấy.
Có một thời tôi không dám đọc Lão Hạc vì nó khủng khiếp quá, vì cái chết của
lão ghê gớm quá. Nhưng, cái tình, cái đẹp trong câu chuyện ấy cũng nhiều lắm.
Cái ân tình trĩu nặng như chính mãnh đất lão đã sống, đã chết để gìn giữ.
Tôi muốn giữ chặt lấy thân hình lão đang cào cấu, nắn thẳng lại những
cánh tay, bàn chân co quắp, và tôi thấy rõ ràng từ đôi mắt lão ứa ra những giọt
nước mắt hiếm hoi, tôi thấy đôi tay lão từ từ nhấc dậy vuốt ve con chó Vàng, tôi
thấy miệng lão mấp máy dặn dò ông giáo canh giữ mảnh vườn. Lão Hạc ơi, lão
hãy yên lòng mà nhắm mắt!…
Trong đêm tối một tia sáng cũng đủ rạch màn đêm, trong khổ đau, người
nông dân vẫn giữ cái phần “người”, đốt sáng cái phần “người” ấy. Làm cho
chúng ta, người đọc không thể nào quên được đôi mắt của chị Dậu, bát cháo
hành của thị nở, nụ hôn đẫm nước mắt của con Tí với em nó. Những cái đó
thấm mãi vị ngọt ngào trong ta.
“Bát cơm chan đầy nước mắt” của người nông dân xưa ấy, ta ăn và thấy
nghẹn ngào, đắng chát. Cái ý nghĩ họ sống khổ! Cứ bám riết lấy ta, bắt ta đau.
Và chính họ cũng đã thốt lên, hằn sâu trong ta những tia sáng cao đẹp của nhân
phẩm. Ta sống, ta lớn lên, mang theo mãi trong mình những ấn tượng, những
cảm xúc sâu sắc ấy. Và mỗi lần nghĩ về họ, những người nông dân ấy, ta lại
thấy tất cả còn mới nguyên như lần đầu ta bước vào đêm đen Tắt đèn, như lần
đầu ta đến làng Vũ Đại…
Và họ đứng bên nhau, hoà vào nhau, trở thành một bức tượng son sắt
trong ta: người nông dân thuở ấy.
TRẦN THỊ NGỌC HOA
(Trường PTTH Phan Bội Châu, Nghệ An)
NHẬN XÉT
Bài văn đã viết đúng kiểu bài “ấn tượng”. Không sa vào phân tích đặc
điểm nhân vật, hoặc tái tạo lại hình tượng mà đã thực sự tập trung vào những
nét mà mình thấy xúc cảm mãnh liệt nhất về đời sống cũng như nội tâm của hình
tượng.
Vốn kiến thức văn học về giai đoạn 1930 - 1945 khá phong phú, chọn 3
tác phẩm Tắt đèn, Chí Phèo và Lão Hạc là những tác phẩm tiêu biểu nhưng
không dàn trải mà đã biết xoáy vào những nét gợi cảm nhất. Ví dụ: với chị Dậu
chọn chi tiết đứt ruột bán con và cái nhìn suốt năm gian đình; với Chí Phèo khai
thác sự hủy hoại nhân tính, cái bóng vật vờ quấn dưới chân hắn, máu từ nhát
dao đâm tứa ra, đến bát cháo hành buổi sáng; với lão Hạc là cái chết khổ sở, vật
vã đến hai tiếng đồng hồ.
Bố cục rõ ràng, chặt chẽ, tập trung làm nổi bật “ấn tượng”, không có đoạn
nào rườm rà hoặc nhạt nhẽo.
Lời văn trong sáng, giàu tính trữ tình, phù hợp với kiểu bài “ấn tượng”, tình
cảm người viết biểu hiện khá rõ trong từng ý, từng câu. Có những đoạn viết hấp
dẫn, lay động được trái tim người đọc. Ví dụ đoạn viết về chị Dậu: “Hơn cả sự
nghèo đói, trong đêm đen Tắt đèn, chị đã quằn quại, chị đã đau cái nỗi đau lớn
nhất của người mẹ: bán con. Ôi đứa con nuôi từ hòn máu nuôi đi, mang nặng đẻ
đau, bán nó đi chị rứt từng khúc ruột. Đó là một phần máu mủ, một phần xương
thịt của chị. Tiếng kêu trời của chị cứ bám lấy ta, cào cấu trong ta: “Trời ơi tôi
bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc… lại còn suất
SƯU của người chết nữa… Trời ơi! Tôi biết đâm đầu vào đâu…?”. Câu hỏi của
chị khoan nhức nhối vào lòng ta”. Với Chí Phèo, có đoạn viết thật xúc động,
không cảm thông sâu sắc, không đồng cảm với tác giả thì không thể viết nổi:
“Những cái đó, làm cho tôi, lần đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm, cảm thấy sợ hãi.
Sợ hãi cái con quỷ dữ ấy, sợ hãi cái thằng người say triền miên, sợ hãi, ám ảnh
cái bóng Chí Phèo vật vờ dưới chân hắn trong đêm trăng. Tưởng như ngửi thấy
mùi rượu, thấy được máu đang tứa ra trên khuôn mặt không tuổi ấy!”. Còn với
lão Hạc, em đã thực sự hóa thân vào hình tượng để có thể viết: “Tôi muốn giữ
chặt lấy thân hình lão đang cào cấu, nắn thẳng lại những cánh tay, bàn chân co
quắp, và tôi thấy rõ ràng từ đôi mắt lão ứa ra những giọt nước mắt hiếm hoi, tôi
thấy đôi tay lão từ từ nhấc dậy vuốt ve con chó Vàng, tôi thấy miệng lão mấp
máy dặn dò ông giáo canh giữ mảnh vườn. Lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng mà
nhắm mắt!…”.
Bài 39
ĐỀ BÀI
Bàn về nghề văn, có người đã mượn một câu thơ trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Nhưng có người lại cho rằng:
“Văn chương trước hết phải là văn chương”.
Anh (chị) hiểu thế nào về những ý kiến đó và có suy nghĩ gì về mối quan
hệ giữa chữ “tâm” và chữ “tài” của người sáng tác văn chương.
BÀI LÀM
Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Để sáng tạo, người nghệ sĩ phải có
tài năng và tâm huyết. Bàn về văn chương nói riêng, cũng như nghệ thuật nói
chung, xưa nay có rất nhiều ý kiến. Có người đã mượn một câu trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”; lại có người cho rằng:
“Văn chương trước hết phải là văn chương”… hiểu như thế nào về những ý kiến
đó là điều không phải dễ dàng.
Biết bao người đã nói đến cái “tâm” trong quá trình sáng tạo văn chương,
nghệ thuật của người nghệ sĩ. Tâm hồn, tấm lòng của nhà nghệ sĩ là hết sức
quan trọng. Có người khẳng định rằng: cái “tâm” ấy là yếu tố trước hết của nghệ
thuật, là điều không thể thiếu trong tác phẩm của nghệ sĩ.
Cần có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc trước những ý kiến này, ta mới
có thể đánh giá một cách đúng đắn và chân thực được. Đối với nhà văn, hơn
bao giờ hết là phải có một tấm lòng nồng hậu với cuộc đời. Vì thế “Chữ tâm kia
mới bằng ba chữ tài” là một quan niệm không xa lạ với chúng ta cũng như với
người sáng tạo. Ai đó đã nói rằng: “Trước một trí tuệ vĩ đại tôi cúi đầu, trước một
trãi tim vĩ đại tôi quì gối”: Trân trọng sức mạnh, trí tuệ của con người, nhưng
trước một trái tim cao cả, ta cần phải trân trọng và yêu quý hơn.
Trong văn chương, quả thực chữ “tâm” chiếm một vai trò rất lớn. Đó là
điều không ai có thể phủ nhận được. Nhưng tất nhiên, không thể đưa nó lên vị trí
độc tôn mà xóa nhòa hết các yếu tố khác. Dù cái tâm có cao đến đâu, tấm lòng
có rộng mở đến chừng nào cũng không thể quên cái tài năng của người nghệ sĩ.
Không có tài năng, không thể gọi đó là văn chương. Anh phải có cả hai điều ấy
anh mới sáng tạo lên một tác phẩm có giá trị. “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
là đề cao chữ tâm nhưng vẫn khẳng định ví trí của tài năng, khẳng định cái thiên
phú của người cầm bút. Có thể nói, ý kiến này đã bao quát cả quá trình sáng tạo
tác phẩm nghệ thuật, đặt ra yêu cầu lớn với nghệ sĩ: phải kết hợp giữa cái tài
năng với cái tâm huyết của mình.
Nhưng khi đề cao cái tâm, lại cần chú ý đến quan niệm cho rằng: “Văn
chương trước hết phải là văn chương”. Điều ấy liệu có đối lập với “Chữ tâm kia
mới bằng ba chữ tài” của Nguyễn Du hay không? Một bên đề cao cái tâm, cái
lòng người nghệ sĩ; một bên lại đặt ra cái tài là cái “trước hết” của văn chương.
Nếu chú ý đến cái “trước hết” này ta sẽ không phủ nhận ý kiến đó. “Văn chương
trước hết phải là văn chương” có nghĩa sau nữa mới đến tấm lòng tâm huyết,
sau nữa mới vì cuộc đời, vì con người… Nếu nó chưa làm văn chương thì nó
còn vì ai được nữa, nó đã là một cái gì khác mất rồi. Một thứ thuyết giáo, một sự
thật lịch sử hay có khi là những dòng, những chữ vô nghĩa, tức cười… ta không
thể cho ý kiến này là sai, nhưng rõ ràng nó chưa đầy đủ. Văn chương phải đặt
song hành tài năng và tâm huyết của người sáng tạo. Nêu chỉ là “văn chương”
hiểu theo nghĩa một chiều nó sẽ chỉ như một bông hoa đẹp mà vô hương, nó
không có hồn của lòng người và tạo vật. Lời văn óng ả, kết cấu hấp dẫn nhưng
không có linh hồn thì loại văn ấy cũng như không. Phải có cái tâm trong sáng
cao đẹp, chi phối thì cái tài năng mới có đất mà “dụng võ”. Đọc một câu văn, ta
ngạc nhiên khâm phục trước sự sử dụng câu chữ tài tình của tác giả; độc một
cuốn truyện ta sửng sốt thấy nhà văn sắp đặt ra nhiều diễn biến bất ngờ…
nhưng nếu nhận ra tấm lòng thiết tha của tác giả đằng sau từng câu chữ, ta sẽ
thấy yêu quý câu chuyện đó biết bao nhiêu… Ta thấy rằng chính tư tưởng đẹp
đẽ của tác giả đã làm sáng lên tài năng, sáng lên cốt truyện… “Văn chương” -
nếu hiểu theo một nghĩa thật đầy đủ thì chính nó đã bao hàm cả tài năng và tâm
huyết của tác giả rồi, thiếu một trong hai yếu tố ấy “văn chương” đâu còn là văn
chương nữa.
Như thế không thể coi “Văn chương trước hết phải là văn chương”; cái
“trước hết” ấy phải là tấm lòng, tư tưởng của người nghệ sĩ. Nguyễn Tuân, cũng
chính là nhà văn đã từng quan niệm: văn chương trước hết phải là văn chương,
nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, nhưng cũng chính ông, hơn ai hết đã
suốt đời cống hiến cho một nền nghệ thuật vì con người, mỗi tác phẩm của ông
rực rỡ nhất, lấp lánh nhất vẫn là ánh sáng hướng con người tới cái “thiên
lương”.
“Văn chương trước hết phải là văn chương” chưa đủ, văn chương trước
hết còn phải là cái tâm trong sáng và tha thiết. Đó là điều chúng ta cần bàn tới
trong quan niệm về mối quan hệ giữa chữ “tâm” và chữ “tài” của người sáng tác
văn chương.
Ranxun Gamzatop trong Đaglietxtan của tôi đã nói rằng: “Giống như ngọn
lửa bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ
của con người. Tình yêu và lòng căm thù, thơ sinh ra từ nụ cười trong sáng hay
từ những giọt nước mắt cay đắng” thơ ca cũng như văn chương, nghệ thuật nói
chung đều phải bắt nguồn từ tấm lòng và tài năng người nghệ sĩ. Tài năng và
tấm lòng là hai cánh chim nâng tác phẩm của anh ta lên đỉnh cao. Hai cánh chim
ấy mạnh mẽ bao nhiêu, tác phẩm của anh ta sẽ bay cao và bay xa bấy nhiêu.
Tài năng và tâm huyết, đó là hai yếu tố không thể tách rời trong sáng tạo
nghệ thuật. Cái tài nhờ có cái tâm để “cháy lên”, cái tâm nhờ có cái tài mà “tỏa
sáng”. “Cháy lên để mà tỏa sáng” (Ranxun Gamzatôp) là nội dung của tác phẩm
anh, là đích sáng tạo của anh…
Anh không thể nói rằng: “Tôi có tài năng của tôi, tôi chẳng cần cái gì cả.
Có tài năng tôi sẽ làm được cái điều mà tôi muốn…”. Đừng có vội vỗ ngực khoe
khoang cái tài năng của anh. Chỉ có tài năng thôi ư? Chưa đủ! Thế còn cái tâm
của anh, anh để nó ở đâu? Anh sẽ thất bại, không có cái tâm, tài năng của anh
giống như viên ngọc quý mà tự tay mình anh ném nó xuống vực sâu.
Hãy sáng tác bằng cả tâm hồn mình! Hãy huy động hết tài năng và trí tuệ!
Tác phẩm của anh sẽ không rơi vào quên lãng đâu. Hay như Lecmôntốp: “Có
những đêm không ngủ, mắt rực cháy và thổn thức khi đó tôi viết”; như
Nhêkraxôp: “Nếu những gì đau khổ từ lâu bị kiềm chế, nay sôi sục dâng lên
trong lòng thì tôi viết”; như Tố Hữu: “Mỗi khi có cái gì chất chứa trong lòng,
không nói ra, không chịu được thì lại thấy cần làm thơ”.. Đưa hết tâm linh vào
sáng tác, suy nghĩ, dằn vặt, trở trăn cho vấn đề sáng tác sẽ có lúc anh có được
những giây phút “xuất thần”. Tài năng sẽ bừng sáng. Tất nhiên anh phải có
“thiên lương”. Sáng tác của anh phải vì con người, vì cuộc đời, nó không được
phép xa lạ với thế giới anh.
Cái tâm và cái tài sinh ra để phục vụ con người. Con người là sự tồn tại
bất diệt của vũ trụ này. Cái tài và tâm của người nghệ sĩ đều phải hướng vào
con người tìm hiểu, khám phá cái “thế giới bên trong mỗi tâm hồn con người,
làm cho con người sống với nhau tốt đẹp hơn, nhân ái hơn.
Biêlinxki nói rằng: “Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải
đồng thời là nhà tư tưởng” mà “tư tưởng ấy chính là tư tưởng mang lại hạnh
phúc cho con người”. Tài năng đến đâu cũng phải gắn với cái tâm.
V. Huygô - một nhà văn lãng mạn Pháp đã viết nên Những người khốn
khổ không chỉ bằng tài năng của ông mà còn chính bằng tấm lòng của ông trước
cuộc đời: nỗi đau đớn trước những số phận bị chà đạp; sự căm giận trước kẻ
tàn ác bất công… Chính vì sự hiểu và cảm thông sâu sắc của mình, bằng tâm
hồn cao cả và tài năng bậc thầy của mình, ông đã dựng lên bộ mặt xã hội tư sản
Pháp thế kỉ XVIII; làm cho người đọc yêu thương và xót xa cho Phăngtin, thấy
được ở cô sự tuyệt vời của người mẹ và sự lầm lỗi của người con gái nhẹ dạ cả
tin; hiểu ra ở Êpônin tình yêu cao cả của cô với chàng sinh viên Mariúyt: tình yêu
ấy đã khiến cô đưa tay lên che họng súng bắn vào anh; xúc động thấy ở chú bé
Gavrôt hạt bụi của thành Pari - những vẻ đẹp trong sáng nhất, cao thượng nhất
và rạng ngời nhất của tất cả các viên ngọc trên thế gian này… Có cái tâm để
người nghệ sĩ nhận ra “những con người mặc bộ đồ tôi tớ nhưng tâm hồn không
tôi tớ”. Đó cái tài để làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn ấy; sáng lên những cái gì vốn
đã trong sáng, lung linh.
Nhà văn phải là người “đi tìm cái hạt ngọc ẩn dấu bên trong tâm hồn con
người” (Nguyễn Minh Châu). Quá trình “đi tìm” ấy không đơn giản, người nghệ sĩ
ngoài cái tâm ra, phải có tài năng khám phá, nắm bắt, phải nhận ra cái viên ngọc
quý lấp lánh bên trong. Viên Mai nói rằng: “Tài giả tình chi phát, tài thịnh tình tắc
tâm” (Tài là ở tình phát ra, tài cao ắt tình sâu). Cái tài đi liền với cái tâm, lời văn
óng ả câu văn trau chuốt là ở tài năng nhưng cái thần diệu cốt là ở tấm lòng…
anh không thể trở thành nhà văn nếu anh không có tài năng, nhưng để trở thành
một nhà văn vĩ đại thì không chỉ cần có bản lĩnh vững vàng, mà phải dũng cảm
nhìn vào sự thật; và phải biết “khơi lên ở con người niềm trắc ẩn. ý thức phản
kháng cái ác; khát vọng khôi phục, bảo vệ những cái tốt đẹp” (Aimatốp). Khi
cuộc sống đau thương anh không thể cho phép mình rời làng “xa những cái đau
thương” (Paplô Nêruđa). Nếu anh là nhà văn thì anh phải gắn bó với cuộc đời
này, gắn bó với sự thực này; đừng để cho cái tài của mình sa vào cái “ánh trăng
lừa dối”; anh hãy để cái tài hướng vào “tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp
lầm than” (Nam Cao).
Nam Cao là một nhà văn có tài; nhưng hơn hết, ở ông là một nhà văn
chân chính, cùng viết về đề tài xã hội Việt Nam đau thương và tăm tối trước
Cách mạng tháng Tám, nhưng ông không dùng cái tài của mình để viết về Con
đường sáng như Hoàng Đạo, ông không tự lừa dối lòng mình, vẽ nên cái ảo
tưởng hư vô. Nếu ở Con đường sáng, Hoàng Đạo không mang một cách nhìn
chân thực và gần gũi với cuộc sống thực tại của xã hội, ông ta có tài nhưng đặt
nhầm chỗ, thì ở Nam Cao cái tài và cái tâm hết sức nhuần nhuyễn với nhau. Từ
một câu chữ, một chi tiết, một cuốn truyện… chỗ nào cũng thấm nhuần tình cảm,
tâm hồn của nhà văn. Chính tài năng và tâm huyết ấy đã giúp ông dựng lên một
Đời thừa, một Sống mòn… với những cuộc sống “áo cơm ghì sát đất”, “chất độc
ở ngav trong sự sống”. Người đọc đau đớn nỗi đau đớn của nhân vật, dằn vặt
trở trăn trước nỗi khắc khoải của mỗi số phận, cuộc đời… có ai không nhức nhối
khi chứng kiến một Hộ luôn đề cao nguyên tắc tình thường nhưng chính cái cuộc
đời này lại xô đẩy họ, khiến anh lại phải vi phạm nguyên tắc tình thương; một
Thứ hơn một lần nhận ra mình nhỏ nhen, ích kỉ thậm chí độc ác, Thứ đã khóc
cho cái chết của tâm hồn y… Cái tâm hồn luôn giữ vững niềm tin vào con người
của Nam Cao đã khiến nhà văn hiểu sâu xa cuộc vật lộn dữ dội giữa cái thiện và
cái ác, giữa lí trí cao cả và dục vọng thấp hèn của mỗi con người; nhận ra khát
vọng hướng về ánh sáng của con người. Trong truyện ngắn Chí Phèo khi dựng
lên hình ảnh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, nhà văn đã phát hiện ra cái ánh sáng
lương tri còn le lói trong con người hắn, để lúc nào đó bùng cháy lên dữ dội
mãnh liệt: “Ai cho tao lương thiện?”, “làm thế nào để mất được những mảnh chai
trên mặt này?”… Câu hỏi nhức nhối đau đớn ấy của Chí, phải chăng cũng chính
là câu hỏi xoáy sâu trong lòng Nam Cao về số phận của con người trước cuộc
đời. Nam Cao được xếp hàng những nhà văn lớn của chúng ta vì những tác
phẩm của ông sinh ra từ tài năng, từ nước mắt, từ khát vọng hạnh phúc cho con
người, và sự thãu hiểu con người: “Chao ôi! Đối với những người ở xung quanh
ta nếu ta không cố tâm mà tìm hiểu họ, ta chỉ thấy họ gàn gở, ngu ngốc, bần
tiện… toàn những cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ đáng thương,
không bao giờ ta thương”.
Nhà văn phải là người: “Kĩ sư tâm hồn” nghĩa là anh vừa phải có tài năng,
vừa phải có tâm huyết, phải khám phá bí ẩn trong tâm hồn con người… Tâm và
tài của nhà văn phải hướng về cuộc đời này. “Nhà văn là người cho máu” (Enxa
Triôlê), nhà văn phải lấy máu nóng của mình tiếp cho dòng máu cuộc đời tiếp tục
dạt dào chảy. Nhà văn phải cống hiến tài năng của mình để vun đắp cho “cây
đời mãi mãi xanh tươi”.
Thơ cũng như văn chương, cái gốc phải là tình cảm (Bạch Cư Dị), và
“phải xúc động hồn thơ thì ngòi bút mới có thần” (Ngô Thì Nhậm). Muốn sáng tạo
nên một tác phẩm có giá trị. Điều cần thiết hơn là cái tấm lòng của người nghệ
sĩ. Cái tâm không trong sáng, điều tác giả viết ra sẽ vô giá trị; cái tâm không rung
động mãnh liệt sâu xa, điều tác giả viết ra cũng chỉ vô hồn. Nguyên Hồng tâm sự
rằng: “Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những mong ước
nhức nhối của tôi”, yêu thương ấy là yêu thương cuộc sống con người; và ước
mong ấy là về hạnh phúc và nhân ái… Song cái tâm không phải là tất cả, cái tâm
người nghệ sĩ muốn được thể hiện sâu sắc thì phải có tài năng. Makhamat
Khatđa trước kia yêu thương một cô gái trong làng, nhưng tình cảm không được
đền đắp. Ông thất vọng và thơ ông từ đây được ra đời: “Thơ tôi là hợp chất
được làm từ tức giận, tình yêu và xấu hổ. Ông trở thành một nhà thơ nổi tiếng…
Nhưng một ngày kia, có nghĩa là hàng chục năm đã trôi qua ông gặp lại cô gái
bây giờ đã trở thành một bà già, bà ta kiêu căng nói rằng: “Ông Mukhamát, nếu
không có tôi, ông có trở thành một nhà thợ được như thế này đâu… Nhờ có tôi
mà ông được mọi người biết đến…” Mukhamat đã cười nói rằng: Nếu bà có tài
làm cho tôi trở thành nhà thơ, sao bà không làm cho mấy đức ông chồng đã chia
tay với bà thành nhà thơ được… Quả thực, cái tài năng của nhà thơ không ai có
thể cho được, và không ai có tài năng mà lại sáng tạo ra được những bài thơ
đến được với lòng người. Nếu Mukhamat Khatđa chỉ có “tức giận, tình yêu, xấu
hổ” mà không có tài năng thì ông sẽ chẳng viết lên bài ca làm rung động mọi tâm
hồn… Tài năng và tâm huyết - đó là những yếu tố vĩnh cửu làm nên nghệ thuật;
đó là cái không thể thiếu đối với người nghệ sĩ. Trong sáng tạo văn học, người ta
hay nhắc đến những khoảng vô thức trong con người nghệ sĩ.
Puskin làm thơ ngay cả trong giấc ngủ, Hoàng Cầm viết bài Lá diêu bông
trong tâm trạng hết sức lạ lùng… Những giây phút vô thức ấy không chỉ là vô
thức; không chỉ là “trời cho” mà là sự kết tinh tài năng và tâm huyết trong một
mức độ nào đó của người sáng tạo. Những trăn trở, suy tư, những dự định bao
ngày đến một giờ khắc nào đó bỗng bừng dậy; tài năng đến phút xuất thần… Khi
đó, xúc cảm trào dâng, người nghệ sĩ sáng tạo ra những tác phẩm, mà chính
mình cũng không ngờ tới. Cái tâm và cái tài kết hợp nhuần nhuyễn và phát huy
cao độ, những bài thơ, những chi tiết xuất hiện trong lúc bao giờ cũng có giá trị
muôn đời.
Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng tài năng vĩ đại, nhưng cũng chính là
bằng “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Có tài năng mà không có tâm
huyết, anh sẽ chỉ tạo ra được những tác phẩm vô giá trị, có khi còn là “những
niềm tin mù quáng” nói như Pôn Ôluya. Nhưng có tâm huyết cũng phải có tài
năng thì tác phẩm mới đứng vững được trước những thử thách của cuộc đời.
Mỗi nhà văn có cá tính sáng tạo riêng, nhưng bao giờ cá tính sáng tạo ấy
cũng phải là “hợp chất” gắn bó giữa tài năng và tâm huyết. Không chỉ đối với các
nhà văn mà tất cả các nghệ sĩ cái tâm - cái tài là điều không bao giờ thiếu được.
Người nghệ sĩ không thể tạo ra con Xiphanh nếu không có tài năng, không có
một ước mơ về con người thông minh và cũng rất mạnh mẽ như sư tử.
Cái tâm và cái tài là vấn đề đặt ra đối với người nghệ sĩ muôn đời. Dù xưa
và nay, dù phương Tây hay phương Đông, đã là nghệ sĩ thì anh phải có tài năng
và tâm huyết.
Nói riêng về văn chương hôm nay, nhiều tác phẩm viết ra không phải từ
một tài năng thực thụ, không bắt nguồn từ cái tâm thưc sự của người nghệ sĩ, nó
ra đời và bị chìm ngay vào quên lãng.
Thời gian và cuộc đời… Đó là thử thách khắc nghiệt cho các tác phẩm của
anh. Đó là sự đánh giá tài năng và tâm huyết của anh công bằng và trung thực
nhất. Người nghệ sĩ nói chung và nhà văn nói riêng muốn có một tác phẩm bất
tử, có ý nghĩa với cuộc đời thì nhất định tài năng của anh phải luôn rực sáng và
trái tim anh, tâm hồn anh phải luôn rộng mở thiết tha với cuộc đời. Văn chương
phải là văn chương và văn chương phải vì cuộc đời. Hiểu điều đó ta càng khẳng
định hơn “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” trong quá trình sáng tác của người
nghệ sĩ.
HỒ THỊ NGỌC THÀNH
(Trường PTTH chuyên Thái Bình)
Bài 40
ĐỀ BÀI
Nhà văn Nguyễn Khải đã phát biểu: “Văn chương có quyền, nhưng không
chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi
thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. (Báo Văn nghệ, số Tết
Tân Mùi, 18-2-1991).
Từ thực tế cảm nhận văn học của mình, anh (chị) hay bình luận và làm
sáng tỏ quan niệm trên đây.
BÀI LÀM
Con người là một đối tượng phong phú, phức tạp và đầy bí ẩn của văn
chương, nghệ thuật. Các thế hệ những người cầm bút đã dành không ít thời
gian và tâm huyết cho việc tìm hiểu con người, khám phá những tiềm ẩn trong
con người. Trên bước đường khám phá âm thầm, nhưng không ít gian truân ấy
của nghệ sĩ có một; tất nhiên là trong số rất nhiều vấn đề đặt ra: văn chương nên
nói về cái tốt hay cái xấu của con người và cái nào cần nói tới nhiều hơn?
Đã không ít ý kiến bàn luận về vấn đề này. Ý kiến của nhà văn Nguyễn
Khải gần đây, theo tôi là một ý kiến đáng được ghi nhận: “văn chương có quyền,
nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm
thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”.
Ý kiến trên đây của Nguyễn Khải có cơ sở, không chỉ trên phương diện lí
luận mà cả trên thực tế văn chương, nó được đúc rút từ sự trắc nghiệm của một
nhà văn tài năng có bản lĩnh. Cũng cần phải nói thêm, Nguyễn Khải là một trong
số những nhà văn có đóng góp cho xu hướng đổi mới văn nghệ của chúng ta
những năm gần đây.
Trước hết, có lẽ Nguyễn Khải muốn khẳng định cái “quyền” được nói về
“cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát” mà cho đến nay đâu phải nhà văn nào
cũng dám nói. Có một thời chúng ta cho rằng văn chương chỉ được nói về “cái
tốt đẹp”, “cái cao thượng”, “cái chung thủy”. Đã có lúc ta cho những tác phẩm
viết về những cái xấu là “bôi đen”. Phải chăng quan điểm có tính chất ấu trĩ ấy
bắt nguồn từ việc hiểu con người không thật đầy đủ, thấu đáo? Chúng ta nghĩ
rằng: Con người là tốt đẹp, là cao thượng trong khi con người là tất cả cái tốt và
cái xấu, cái cao thượng và cái hèn hạ… Vậy thì văn chương vì lẽ gì lại chỉ nói về
cái phần tốt đẹp? Để thực hiện chức năng “Nhân đạo hóa con người” văn
chương trước hết phải giúp cho con người nhận thức và tự nhận thức. Chỉ nói
về cái tốt thì vô tình văn chương đã làm cho con người chỉ thấy một nửa sự thật
về con người mình. Cho nên văn chương cần nói về cả cái xấu và phải được
quyền nói về cái xấu. Lỗ Tấn đã không ngần ngại chỉ ra cho người dân Trung
Quốc nói riêng và nhân loại nói chung một thói tật của con người, một căn bệnh,
đó là phép thắng lợi tinh thần. Sêkhôp qua những trang viết của mình muốn “nói
thẳng nói thật với mọi người: hãy nhìn xem chúng ta sống tồi sống tệ như thế
nào?” (Lời Sêkhốp nói với một sinh viên). Vũ Trọng Phụng với những chân dung
biếm họa đã lên án cái kệch cỡm, cái thớ lợ của con người. Raputin trong Hãy
sống và nhớ lấy muốn nói với chúng ta rằng con người cũng có khi hèn nhát như
Anđrây Guxcốp và đó là những đầu mối của những bi kịch cho chính mình và
cho những người xung quanh.
Nhà văn được phép viết về cái xấu, nhưng theo Nguyễn Khải “không chỉ
miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát”. Con người là đỉnh cao của tự
nhiên, là báu vật của tạo hóa, cho nên bản chất của con người là tốt đẹp. Văn
chương chỉ viết về cái xấu xa của con người là phiến diện, văn chương cần phải
viết cả cái tốt. Nhà văn phải nhận thức được điều này để viết về con người với
tất cả những gì họ có. Vấn đề này theo ý kiến của Nguyễn Khải, “Thanh nam
châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”, vấn
đề mà con người. Goocki đã rất ý thức được điều này khi ông nhận thấy nhiệm
vụ của mình là phải làm cho con người nhận thấy trong cuộc sống “họ là cái tốt
đẹp nhất, có ý nghĩa nhất… ngoài họ ra không còn cái gì đáng chú ý cả”.
Văn chương xưa nay nói nhiều điều tốt đẹp, cái mà Tản Đà, Nguyễn Tuân
gọi là “thiên lương" của con người. Nguyễn Du qua hình tượng Thúy Kiều ca
ngợi vẻ đẹp của con người đẹp, đẹp nết, con người hy sinh cả hạnh phúc đời
mình để làm tròn chữ “hiếu” con người biết nhỏ nước mắt khóc thương cho số
phận đắng cay của một con người Đạm Tiên. Với Thúy Kiều, tôi như muốn nói
về sự thủy chung của con người đã mười lăm năm lưu lạc mà không lúc nào
không hướng về người mình yêu. Trong số bao nhiêu điều muốn gửi gắm, Nam
Cao qua Chí Phèo muốn có một lời thanh minh, một sự khẳng định đối với con
người đáng thương hơn là đáng giận ấy. Nhà văn đă nhận ra cái phần người
còn sót lại trong quỷ dữ. Nam Cao đứng vững trên miệng vực khi ông đi vào
miêu tả mối tình Chí Phèo, thị Nở không phải để khai thác cái phần lưu manh
trong Chí. Cái mà tác giả dụng công làm nổi lên ấy chính là từ những giây phút
thức tỉnh hiếm hoi khi lần đầu tiên sau bao nhiêu ngày Chí nghe thấy những âm
thanh cuộc sống, từ nỗi buồn của con người đã từ lâu làm mất cái khái niệm
“buồn vui” từ tiếng thét nhức nhối tâm can “ai cho tao lương thiện”, cho người
đọc nhận ra cái phần người trong một kẻ tưởng như đã mất hết cả nhân hình và
nhân tính. Thạch Lam trong những trang viết giàu chất thơ, rất tinh tế đã nói lên
cái khao khát rất đẹp của người dân phố huyện khắc khoải đợi chờ ánh sáng
của một thế giới khác tốt đẹp hơn đến với cuộc sông tù túng, tẻ nhạt của mình
(Hai đứa trẻ).
Cái phần tốt đẹp trong mỗi con người dù rất nhỏ cũng làm cho các nhà
văn chú ý và lưu tâm đưa vào sáng tác của mình. Victô Huygô với mong muốn
một thế giới có những con người giàu lòng nhân ái đã dựng lên hình tượng
Giăng Vangiăng, bảo mẫu của lòng từ thiện. Con người ấy lấy việc hy sinh vì
người khác làm hạnh phúc của mình. Giăng Vangiăng đã quên đi tai họa giáng
xuống đời mình để vì niềm vui, một chút hy vọng dù rất nhỏ của con người sắp
từ giã cõi đời - Phăngtin. Đến với Pautôpski, ta hãy lắng lòng, hãy bình tâm để
được sống với một thế giới những con người giàu lòng nhân hậu như hạm đội
trưởng Âm nhạc Vécđi, như Anđécxen Chuyến xe đêm. Văn học của ta những
năm chiến tranh nói nhiều đến cái đẹp trong cuộc sống con người, cái đẹp trong
mỗi tâm hồn con người. Điều những người cần biết trong chiến tranh chú ý khai
thác là sự hy sinh hạnh phúc cá nhân cho vận mệnh của dân tộc:
Khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau
(Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ)
đó là sự cao thượng sẵn sàng tha thứ của Lượng (Thư nhà - Hồ Phương), đó là
việc tìm thấy niềm vui trong chiến đấu của những chị Sứ (Hòn đất - Anh Đức),
Chị út Tịch (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi), đó là cái lạc quan của anh chiến
sĩ ép một cành xấu hổ trong trang sổ khiến cuộc sống đầy gian khổ của mình
thêm một chút thi vị (Cây xấu hổ - Anh Ngọc)… Sống trong không khí hào hùng
của đất nước, các nhà thơ, nhà văn đã đi sâu thể hiện cái tốt đẹp của con người.
Chúng ta chấp nhận thứ văn chương như thế trong hoàn cảnh chiến tranh,
nhưng sự kéo dài của thứ văn chương nghiêng về ca ngợi trong bối cảnh của
đời sống bình thường lại dẫn đến sự nghèo nàn đơn điệu, sự thiếu phong phú
cho một diện mạo của nền văn học. Khi trong cuộc đời tiếng súng đã dứt và bom
không nổ nữa người đọc thấy văn chương xa lạ đến với mình. Cuộc sống bộn
bề, bên cạnh những người phần tốt đẹp nhiều là những kẻ ít tính người, trong
khi đó người vẫn chỉ thấy trong văn chương những điều đẹp đẽ như cái cao
thượng của con người. Trên bước đường đổi mới văn học chiến tranh, các nhà
văn đã đưa vào tác phẩm của mình những cái xảy ra trong mỗi con người: cái
xấu, cái tốt, cái hèn hạ, cái cao cả. Ta đã có Biển gọi của Hồ Phương, Đất trắng
của Nguyễn Trọng Oánh. Tuy nhiên cái tốt đẹp, cái cao thượng vẫn là một đề tài
lớn có sức thu hút không nhỏ đến với các nhà văn, nhà thơ. Ta vẫn gặp trong
văn chương những nét đẹp vốn đã là bản chất của con người.
Đúng như Nguyễn Khải đã nói: điều mà những người cầm bút ở mọi nơi
mọi thời hay nói đến đó là “cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái “thủy chung”, những
cái đẹp mà chỉ Con người mới có. Chúng ta đã xem xét qua một số tác phẩm mà
dụng ý viết về cái tốt đẹp của tác giả bộc lộ rõ nét. Cũng cần phải nói đến điều
có một số nhà văn được đánh giá là thiên về xu hướng phủ định, nhưng những
trang viết của họ vẫn đôi chỗ khẳng định cái đẹp của con người - cái tốt đẹp bao
giờ cũng có một sức thu hút rất lớn.
Những điều mà chúng ta bàn trên đây mới chỉ xét trên những phương diện
“miêu tả” cái tốt hay cái xấu. Điều quan trọng trong sáng tác văn học chưa hẳn ở
chỗ viết về cái gì. Phản ánh để làm gì? Câu hỏi đó có lẽ còn khó trả lời hơn bản
thân sự phản ánh. Sẽ rất sai lầm nếu cho rằng nhà văn phản ánh để mà phản
ánh. Nhà văn viết về cái xấu đâu phải như thế là không tốt.
Để tránh sự hiểu lầm có lẽ cũng cần phải nói thêm: nhà văn viết về cái xấu
cũng có thể thành công như người viết về cái tốt. Đừng bao giờ lấy đề tài ra làm
chuẩn mực để đánh giá văn chương. Sai lầm của chúng ta một thời gian là sai
lầm của việc xét đoán, thẩm định giá trị của tác phẩm văn chương qua đề tài của
nó. Điều nhà văn đề cập đến trong tác phẩm có thể là cái xấu xa, nhưng mục
đích hướng tới của người cầm bút lại chính là cái “cao thượng”, tốt đẹp và thủy
chung kia. Lê Lựu khi viết về cái Thời xa vắng đã nói lên cái xấu của ta một thời
là không đủ bản lĩnh để sống với cái tôi của mình. Nhưng tác phẩm không vì thế
mà thành “xấu”. Người ta vẫn đọc, vẫn thích Thời xa vắng bởi tấm lòng nhà văn,
dụng ý nhà văn ở đó là đẹp. Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng đặt ra
một vấn đề nhức nhối, đó là sự xuống cấp của xã hội, nhưng tác phẩm không chỉ
dừng lại ở sự phản ánh đơn thuần. Nhà văn muốn cảnh tỉnh con người, hướng
con người tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tác phẩm của nhà văn sẽ có ích cho đời nếu nhà văn có những mong
muốn đẹp, hướng con người tới sự hòa thuận, dù điều nhà văn nói đến trong
trang viết là tốt hay xấu. Hãy viết về cái tiêu cực bằng một thái độ tích cực, nói
về cái xấu với một dụng ý đẹp, nhà văn sẽ tìm thấy niềm vui mà Pautôpxki đã
nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ
sở của cái đẹp”.
Dù viết về cái gì, thứ văn chương chân chính cùng hướng tới con người,
viết về cái xấu để cảnh tỉnh con người, để báo động, giúp con người sống với
bản tính tốt đẹp của mình. Viết về cái tốt để con người tự tin ở mình và đó chính
là hành trang cần có ở con người trong cuộc hành trình tới tương lai. Nhà văn
chân chính phải là người ý thức được thiên chức của mình trong quá trình sáng
tạo, là “Nâng đỡ cái phần tốt đẹp để trong đời có nhiều công bằng và yêu
thương hơn”. Cho nên để tạo cho đời những giá trị nghệ thuật đích thực, người
cầm bút phải yêu thương và tin yêu con người. Phải biết nhìn ra từ cái bên ngoài
có khi bình thường, thậm chí xâu xé vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Phải có
niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người, cho dù điều nhà văn viết có xấu xa,
ghê tởm và hèn nhát đến đâu. Giữa những trang viết về sự xấu xa, hèn hạ của
con người một có một số người không chịu được, Nguyễn Huy Thiệp vẫn có một
niềm tin vững chắc ở con người. Nguyễn Minh Châu tạo ra được những tác
phẩm có sức ám ảnh lớn đối với người đọc, phải chăng có phần do tình yêu
thương và niềm tin với con người: “tôi tin ở lương tri của con người” (Lời tâm sự
trên giường bệnh).
Phải có tấm lòng, nhưng để trở thành “nhà văn” anh còn phải có tài năng.
Chỉ có tài năng mới có thể làm cho những trang viết đi vào lòng độc giả và sống
với thời gian.
Tuy nhiên như thế chưa đủ. Cuộc sống và nghề văn đòi hỏi người cầm bút
còn phải có bản lĩnh. Viết về cái tốt thì dễ được chấp nhận, nhưng viết về cái xấu
đâu phải ai cũng bằng lòng. Nhà văn phải có bản lĩnh để sống và viết đúng với
cái tôi của chính mình; phải dám đi vào những vấn đề nóng bỏng, nhức nhối của
cuộc đời, như Ma Văn Kháng trong Đám cưới không có giấy giá thú, như Tạ Duy
Anh dám Bước qua lời nguyền.
Chúng ta đã qua cái Thời xa vắng. Cuộc sống và người đọc đang rất cần
những tác phẩm văn học đích thực, những tác phẩm như những thanh nam
châm thu hút không chỉ một thế hệ, những tác phẩm luôn cổ động cho cái cao
thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung.
NGUYỄN BÍCH THẢO
(Trường PTTH chuyên tỉnh Thái Bình)
Bài 41
ĐỀ BÀI
Phân tích một đoạn trong bài Chí nam nhi để làm rõ quan niệm của
Nguyễn Công Trứ về lẽ sống của kẻ làm trai:
Đô kị sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung
Làm cho rõ tu mi nam tử
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh gì với núi sông
Đi không chẳng lẽ trở về không!
BÀI LÀM
Thơ văn Nguyễn Công Trứ là tiếng nói khá lạ trên văn đàn Việt Nam ở
nửa đầu thế kỉ XIX.
Nguyễn Công Trứ chứng kiến sự xuống dốc không gì cưỡng được của
chế độ phong kiến chuyên chế; nhưng thơ văn ông ở thời kì đầu là tiếng nói hăm
hở mong muốn thực hiện chí nam nhi.
Chí nam nhi là bài thơ tiêu biểu cho quan niệm trên của Nguyễn Công Trứ.
Sau đây là đoạn trích từ bài thơ ấy:
Đố kị sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung
Làm cho rõ tu mi nam tử
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh gì với núi sông
Đi không chẳng lẽ trở về không!
(Chí nam nhi)
Đối với hiện tựong Nguyễn Công Trứ, muốn hiểu sâu bài Chí nam nhi, nên
biết sơ qua vài nét về cuộc đời của ông, hoàn cảnh xã hội ông sống và sáng tác.
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1869), quê ở Hà Tĩnh, đỗ giải Nguyên, thi
Hương lúc đã 41 tuổi. Khi làm quan văn, lúc làm tướng võ, hoạn lộ chìm nổi. Đặc
biệt, ông có công chiêu dân lập ấp, khai hoang lấp biển, lập nên hai huyện Tiền
Hải, Kim Sơn (Thái Bình). Năm 1858, lúc giặc Pháp gây hấn ở Đà Nẵng, tuy đã
ở tuổi tám mươi, ông vẫn xin tòng quân đánh giặc. Đời ông, ông đã thực thi hoài
bão:
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Buổi đầu vào đời, bị ảo tưởng về chế độ phong kiến vừa ổn định sau một
trăm năm đầy biến cố lịch sử hết sức dữ dội, cái thời mấy phen “thay đổi sơn hà”
(chữ của Nguyễn Du), Nguyễn Công Trứ hăm hở thực hiện chí làm trai:
Đố kị sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
“Đố kị sá chi con tạo” là cần chi phải quan tâm đến sự ghen ghét của tạo
hóa! Đã làm trai thì hãy như mũi tên bằng cỏ bồng trên cái cung gỗ dâu, cứ mặc
sức tung hoành ngang dọc:
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Ca dao từng có câu:
Làm trai cho đáng nên trai;
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.
Nguyễn Công Trứ có quan niệm nhập thế tích cực, một thái độ sống chủ
động, dám cả chuyện thách thức với số phận, điều mà cho đến nay một số lớn
người, nếu không cam chịu thì cũng giữ thái độ “kính nhi viễn chi”.
Hồi còn hàn vi, chưa làm nên danh phận gì, ông cũng đã viết:
… Dở đem thân thế hẹn tang bồng.
(Đi thi tự vịnh)
Và, cái “nợ tang bồng” của đời ông đã lắm lúc truân chuyên: “Khi thủ khoa,
khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông”., rồi có lúc bị cách tuột, trở thành anh lính
“trụi” đi đồn thú biên thùy với cái án “tiền quân hiệu lực!”.
Thái độ chọn lẽ sống của ông là một thái độ dứt khoát, rõ ràng không ba
phải, không dựa dẫm… Làm trai thì phải trả nợ đời. Đời sinh ra ta, nuôi sống ta
thì ta phải có trách nhiệm, “quyết trả nợ cho xong” cái món “nợ tang bồng”.
Trót sinh ra thời phải có chi chi
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu?
Từ thái độ sống chủ động, ông chủ trương sống thì phải hành động tích
cực:
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung.
Ông đã có lần viết “Cái nợ cầm thư phải trả xong”, cho nên đã làm thì phải
“xông pha”, phải “gắng gỏi”. “Làm cho rõ tu mi nam tử”.
Điểm then chốt trong quan niệm của ông là:
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh)
Thơ văn ông, buổi đầu mới vào đời, là tiếng nói hăm hở thực hiện chí nam
nhi, ca ngợi con người hành động tích cực, con người trung hiếu của đạo Nho:
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thời nát với cỏ cây
Đã mang tiếng đứng trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
“Phải có danh gì” là câu hỏi lớn của đời ông, ông không cam chịu “nát với
cỏ cây”, không cam chịu cảnh: “Đi không chẳng lẽ trở về không”.
“Từ cát bụi trở về cát bụi” (Kinh Thánh), nhưng phải “Nợ tang bồng quyết
trả cho xong”.
Ngày vào đầu bài Chí nam nhi, Nguyễn Công Trứ đã khẳng định vị trí của
người con trai:
Thông minh nhất nam tử
Hiếu vi thiên hạ kì.
Bậc nam nhi thì phải làm cho thiên hạ biết:
Làm cho rõ tu mi nam tử
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh gì mà đối với núi sông.
Nguyễn Công Trứ tự hào mình là “tu mi nam tử”, xác định lẽ sống tích cực
và chủ trương hành động để thực hiện “chí nam nhi”. Chí nam nhi ấy là lí tưởng
làm trai của phong kiến, không ra ngoài vòng phò vua giúp nước và cả chút ham
muốn quyền lực.
Thế là ông hăm hở vào đời, nói nhiều, nói mạnh đến “chí”, đến “danh” là
lúc ông chưa thấy hết mặt trái của một chế độ xã hội đã lỗi thời. Cuối đời, ông
than thở:
Ôi! Nhân sinh là thế đấy
Như bóng đèn, như mây nổi như gió thổi, như chiêm bao.
Và, ông ước:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông dứng giữa trời mà reo.
Nguyễn Công Trứ là con người hành động; thơ văn ông, ở thời kì đầu, là
tiếng nói hành động. Dĩ nhiên, đấy cũng chỉ vì lí tưởng phong kiến của một chế
độ quân chủ chuyên chế đã đến thời tàn mà Nguyễn Công Trứ không nhìn thấy.
Tuy vậy, quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ - cống hiến hết mình cho
“núi sông” - là một quan niệm tích cực.
Chí nam nhi là bài thơ theo thể hát nối. Nguyễn Công Trứ có công chuyển
thể hát nói thành một thể thơ dân tộc, ông là một cây bút vận dụng ngôn ngữ
dân tộc có tài.
(Trích Những bài làm văn mẫu lớp 11,
NXB Đại học Quốc gia TPHCM 2000)
Bài 42
ĐỀ BÀI
Hãy tìm hiểu chí anh hùng qua bài thơ cùng tên của Nguyễn Công Trứ.
BÀI LÀM
Trong các nhà thơ xưa, ít có ai được giọng thơ sôi nổi như Nguyễn Công
Trứ. Cũng lạ, khi chán đời thì không ai chán bằng Nguyễn Công Trứ, mà yêu
đời, hăm hở hoạt động thì cũng không ai hăng hái bằng ông, lúc nào cùng hăng
say cho một khát vọng cho một sự nghiệp mà ông gọi đó là chí anh hùng, chí
nam nhi. Chí anh hùng ấy như thế nào? Ông đã nói rõ nó ra một trong bài thơ,
mà chúng ta hôm nay cũng nên tìm hiểu, đánh giá để hiểu rõ hơn chí anh hùng
của ông cha xưa.
Ngay trong khổ thơ đầu bài, Nguyễn Công Trứ tuyên bố:
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay giả, giả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể.
Lời tuyên bố rõ ràng, sôi nổi, bộc lộ quan niệm đầu tiên cũng là quan niệm
chủ yếu của ông về chí anh hùng. Chí anh hùng chính là phải trả một món nợ:
nợ làm trai, nợ tang bồng. Cách trả món nợ ấy, hay nói cách khác, cách thực
hiện chí anh hùng ấy là: vẫy vùng trong bốn bể, nghĩa là hoạt động hết sức
mình, cho phỉ sức mình giữa cuộc đời rộng lớn này. Nguyễn Công Trứ đã nói về
chí anh hùng của mình với một giọng thơ mới say mê và tin tưởng làm sao!
Trong hai khổ thơ tiếp theo, nhà thơ mở rộng nói rõ hơn về quan niệm của
mình:
Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh
Đã chắc rằng ai nhục ai vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ
Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong
Chí những toan xể núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.
Nhà thơ cho rằng trên đời này ai cũng phải có một công việc, nhưng điều
quan trọng hơn cả là để lại trong sử sách tấm lòng son của mình đối với đời. Khi
mới sinh ra, chưa gặp hoàn cảnh cần thiết, chưa thể đoán ai nhục ai vinh, chưa
thể biết được ai anh hùng ai không anh hùng. Nhưng khi gặp hoàn cảnh, người
anh hùng phải là người biết đụng đầu với mọi khó khăn thử thách, bão to sóng
lớn của cuộc đời, những công việc vượt lên trên tầm vóc bình thường, làm nên
sự nghiệp anh hùng được người đời tán dương khâm phục.
Nguyễn Công Trứ đã kết thúc bài thơ của mình bằng một hình ảnh sảng
khoái, lâng lâng:
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơ thơ túi rượu bầu.
Người trai anh hùng cần hoạt động sôi nổi cho đến khi đường công danh
trọn vẹn, ấy là đã trả xong “nợ” anh hùng, kẻ làm trai có thể hoàn toàn mãn
nguyện để vui thú cho mình: một túi thơ, một bầu rượu, hoàn toàn không còn gì
để bận tâm nữa.
Bài thơ này, Nguyễn Công Trứ viết trong những năm còn trẻ, là một anh
học trò nghèo, muốn hăng hái đem tài trí của mình ra phò vua giúp nước. Có thể
coi đây là một bản “tuyên ngôn vào đời” của ông và có thể nói chính ông đã thực
hiện tuyên ngôn ấy khá triệt để.
Sau hơn một trăm năm, đọc bài thơ chúng ta vẫn còn thấy cuốn hút và
nghệ thuật cũng gợi ra cho thanh niên chúng ta nhiều suy nghĩ thiết thân.
Trước hết ta tán thành cách đặt vấn đề của Nguyễn Công Trứ: làm người,
nhất là làm trai, phải có chí anh hùng, phải có khát vọng trở thành anh hùng. Đó
là một quan niệm có ý nghĩa rất tiến bộ và tích cực. Với Nguyễn Công Trứ, chí
anh hùng không chỉ là vấn đề nên hay không nên mà là một điều ắt phải có, một
món nợ ở đời, ai cũng mắc và vì thế ai cũng phải trả. Không có chí anh hùng,
không thực hiện được chí ấy, chưa phải là kẻ làm trai, ấy là kẻ không làm tròn
nhiệm vụ là người trong xã hội.
Quan niệm đó thật tiến bộ, chính xác đáng để người đời suy nghĩ. Nguyễn
Công Trứ đã đặt ra một cách đúng đắn mối quan hệ giữa con người với xã hội,
trách nhiệm của mỗi thành viên đối với xã hội mà mình đang sống. Điều thiếu sót
trong cách đặt vấn đề của ông là đã coi chí anh hùng như yêu cầu chỉ dành cho
kẻ làm trai, với chúng ta ngày nay, anh hùng dành cho tất cả mọi người, nam
cũng như nữ. Chắc Nguyễn Công Trứ cũng không quên rằng mở đầu cho cuộc
đấu tranh chống nô lệ trong lịch sử nước nhà là hai vị nữ anh hùng Trưng Trắc,
Trưng Nhị và nối gót hai bà cũng là một vị phụ nữ - bà Triệu Thị Trinh. Nhưng
hẳn tư tưởng phong kiến trọng nam khinh nữ đã khiến ông bỏ qua. Còn chúng ta
thì không thể không nhắc đến họ, càng không thể quên những người phụ nữ đã
biết sống chết kiên cường, không chỉ làm rạng rỡ hình ảnh người phụ nữ mà còn
làm rạng rỡ cho dân tộc Việt Nam: Bùi Thị Xuân, Cô Giang, Cô Bắc, Nguyễn Thị
Minh Khai, Võ Thị Sáu… và hàng triệu người con gái anh hùng trong hai cuộc
kháng chiến chống xâm lược vừa qua. Chính bà Hồ Xuân Hương, một phụ nữ
trong xã hội phong kiến từng bày tỏ quan điểm của mình:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?
Nhà yêu nước Phan Bội Châu trong những năm đầu thế kỉ này đã từng
nồng nhiệt ca ngợi chí khí anh hùng của người phụ nữ và coi vai trò của họ là
không thể thiếu được trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng phong tặng phụ nữ miền Nam tám chữ vàng chói lọi: “Anh hùng,
bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Cách đặt vấn đề của Nguyễn Công Trứ, dẫu có thiếu sót, vẫn đáng hoan
nghênh. Chúng ta cũng tán thành về cơ bản nội dung của chí anh hùng của ông:
sống anh hùng là sống với những khát vọng cao lớn, thực hiện những hoài bão
to tát, hoàn thành những công việc nặng nề, xông pha vào những chốn hiểm
nguy, vùng vẫy ngang dọc trong trời đất. Thật là hào hùng, thật là đẹp đẽ và hấp
dẫn! Có khát vọng lớn thì mới có thể có sự nghiệp lớn. Có dám thực hiện khát
vọng đó thì mới đem hết sức lực, trí tuệ của mình ra để biến khát vọng thành
hiện thực. Không dám xông vào khó khăn, nguy hiểm, làm sao có thể biết hết
được khả năng của mình.
Vả lại, không có gì đào tạo, tôi luyện con người hiệu quả cho bằng thử
thách của đời. Hành động cho một khát vọng lớn thì dẫu cho có thất bại, bản
thân hành động ấy cũng đã làm cho đời người trở nên đẹp đẽ và đầy ý nghĩa
lắm rồi, Bác Hồ chẳng từng đã viết đó sao:
Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.
(Nghe tiếng giã gạo)
Chính Bác là tấm gương về anh hùng có chí lớn: giả thử năm 1911, Bác
Hồ không dám dơ hai bàn tay trước thử thách, mạnh dạn bước xuống tàu, sẵn
sàng đi tới phương trời chưa hề biết, thì lấy ai để “tìm đường đi cho dân tộc theo
đi?”. Cho nên, sống hào hùng, sống vì khát vọng anh hùng, để làm nên sự
nghiệp anh hùng, lối sống ấy bao giờ cũng đẹp, cũng cần thiết cho đời. Tuy
nhiên, ta tán thành Nguyễn Công Trứ nhưng ta cũng không thể không trách ông.
Bởi vì trong quan niệm lối sống anh hùng của ông, ông không cho ta rõ cái mục
đích của lối sống ấy. Sống hào hùng, làm nên sự nghiệp lớn, nhưng cho ai mới
được chứ? Vì sự vững bền và phồn vinh của Tổ quốc, vì no ấm hạnh phúc của
nhân dân, hay vì kẻ ngoại bang xâm lược Tổ quốc, vì vua chúa đàn áp nhân
dân? Đó là điều hoàn toàn khác biệt giữa Nguyễn Công Trứ và quan niệm của
chúng ta ngày nay về chủ nghĩa anh hùng. Những người anh hùng mới sống và
làm việc anh hùng với mục đích vì dân vì nước rõ ràng chứ không phải vì được
tiếng anh hùng. Có người sống, hoạt động một cách thầm lặng, có khi cả đời
không ai biết tới, không ai ca ngợi, nhưng để lại những kết quả to lớn và cao đẹp
vô cùng cho đất nước và nhân dân. Nếu vì “tiếng anh hùng”, làm sao có những
con người như thế?
Động cơ cá nhân còn bộc lộ trong phần kết bài thơ của Nguyễn Công Trứ:
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trăng trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
Tiếng anh hùng đã có, công danh đã đạt, thế là cũng đã đạt được cái đích
sau cùng của chí anh hùng. Sau đó là mãn nguyện, là nghỉ ngơi và hưởng thụ?
Không, nếu có một mục đích, một lí tưởng cao đẹp hơn cho chí anh hùng, người
ta không thể có tâm lí mãn nguyện ấy được. Cuộc chiến đấu cho hạnh phúc
chung không bao giờ có thể nói là đã hoàn thành, là đã kết thúc. Cuộc sống luôn
luôn đặt cho người anh hùng những yêu cầu giải quyết, những nhiệm vụ phải
hoàn thành, những khó khăn cần khắc phục, những gian khổ cần vượt qua.
Cuộc chiến đấu ấy là vô cùng, là mãi mãi và thực sự chỉ chấm dứt khi con người
nhắm mắt xuôi tay.
Quan niệm về chí anh hùng của Nguyễn Công Trứ rõ ràng là có nhiều
thiếu sót. Lược đi hạn chế, ta nhận được không những yếu tố tích cực, có lợi
cho chúng ta. Ta tiếp nhận ở ông cái khát vọng cháy bỏng được sống có ý
nghĩa, sống hào hùng, sống để không mục nát như cỏ cây. Ta yêu Nguyễn Công
Trứ ở cái tinh thần dám sống, dám làm anh hùng, dám đương đầu với muôn vàn
trở lực khó khăn, không sợ gai chông, không sợ nghèo đói, không sợ khuất phục
uy vũ… Bổ sung vào quan niệm của Nguyễn Công Trứ, có lí tưởng cao thượng
của thời đại chúng ta, ta sẽ có một hướng đi đẹp đẽ để cho cuộc sống ngày
càng tốt đẹp hơn.
Ngày nay, đọc bài thơ của Nguyễn Công Trứ, ta vẫn cảm nhận tấm lòng
cao quý của ông. Rõ ràng, ông đã sống hết mình, sống có trách nhiệm với đời.
Bài học ấy mãi mãi quý báu cho các thế hệ về sau.
PHAN QUỲNH NHƯ
Bài 43
ĐỀ BÀI
Phân tích bài thơ Ông nghè tháng tám của Tam Nguyên Yên Đổ.
BÀI LÀM
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ của nông thôn. Mảng thơ trào phúng chỉ
chiếm một phần nhỏ trong hàng loạt các tác phẩm của ông. Tuy nhiên, nét chấm
phá ấy không phải là không đặc sắc. Trái lại, nó miêu tả khá chân thật một khía
cạnh khác trong tâm hồn của người thi sĩ.
Tiêu biểu cho phong cách trào phúng của Nguyễn Khuyến là bài thơ Ông
nghè tháng tám:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mắt văn khôi
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh thế mới hời!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọc,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Bài thơ không chỉ dành cho những ông tiến sĩ giấy.
Ngày trước, vào dịp Tết Trung thu, người ta thường làm những ông tiến sĩ
bằng giấy để bán cho các ông bố bà mẹ muốn nhờ vào thứ đồ chơi ấy để dạy
dỗ, vun đắp cho con cái họ ước mơ một ngày vinh quy, võng lọng về làng. Tập
tục ấy đã ít nhiều gây sự chú ý nơi Nguyễn Khuyến. Tôi tưởng tượng vào một
đêm rằm Trung thu, ông cũng quan sát một ông tiến sĩ giấy, và dưới ánh trăng
sáng, ông ngắm nghía thứ đồ chơi mà mình đang cầm:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Ông buông lời nhận xét, vì chỉ:
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Nguyễn Khuyến đã vào đề thật tự nhiên, như lời nói bình thường buột ra
khỏi miệng, ừ nhỉ, “cũng”, “cũng”, “cũng”và “cũng”, có lẽ ông đang nhếch mép
cười, “cờ”, “biển”, “cân đai” là những thứ khiến người ta nhận ra cái hình người
bằng giấy mà họ cầm trên tay là một ông nghè. Và quan trọng hơn nữa, người ta
cũng gọi thứ đồ chơi ấy là “ông nghè”. Nào có kém ai đâu! Suy ra được, chỉ cần
cờ, biển, cân đai là dễ dàng được gọi bằng “ông nghè”. À, thế thì ở đây không
còn đơn thuần nhắc đến một thứ đồ chơi nữa rồi. Vấn đề ông nêu ra đã mang
tính xã hội rồi, một xã hội đang hiện hữu hẳn hoi đấy nhé. Thì đó, thời buổi ấy có
thiếu gì những chàng tiến sĩ “vinh qui bái tổ về làng”, cũng cờ, biển, võng lọng,
cân đai, cũng đón rước linh đình và được xưng tụng “ông nghè”!
Nhưng gượm đã, xem nào:
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mắt văn khôị.
Đấy, hình dáng ông tiến sĩ mà Nguyễn Khuyến đang ngắm nghía đấy. Ờ
hoá ra, cờ, biển, cân đai, những thứ làm nên “thân giáp bảng” chỉ là “mảnh giấy”
tầm thường thôi. Có chăng chỉ được thêm phẩm màu lòe loẹt vào cho lộng lẫy,
và được “điểm” vào “mặt văn khôi” một “nét son”. Ta thấy cả hai câu “thực” đều
mất cân xứng. Một vế toàn thứ tầm thường đối với một vế toàn những khái niệm
cao quý. Nào là “giáp bảng”, nào là “văn khôi”. Đến đây thì ta có thể thấy thấp
thoáng ý tứ của nhà thơ rồi. Đồ chơi đã thế thì những chàng tiến sĩ thật ra sao?
Phải chăng các ông ấy cũng nhờ vào một vài mảnh giấy làm bài, vịnh thơ,
làm phú mà được nên “thân giáp bảng”, và chính nét son phê của các giám khảo
trường thi đã chỉ ra rõ “mặt văn khôi”. Hai câu thơ tả rất thực. Thực ở ý đen và
cả nghĩa bóng nữa. Nhưng than ôi! Người ta vẫn bị khiến hiểu theo một nghĩa
khác - nghĩa đánh đồng giấy bìa bình thường với bài thi nét son của các ngài
giám khảo với thứ phẩm màu rẻ tiền tô điểm thêm cho hình giấy và nhất là
những ông tiến sĩ sang trọng kia với một hình nhân bằng giấy tầm thường:
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh thế mới hời!
Nguyễn Khuyến cầm chơi ông tiến sĩ giấy trên tay, và cho lời nhận xét: Ô,
hóa ra ông ta thật là nhẹ, nhẹ hang. Các ông bố bà mẹ thật là hời, mua cả một lí
tưởng cho con trẻ mà chỉ tốn ít tiền thôi. Giá ấy thật hời!
“Nhẹ” vừa mang nghĩa thực, vừa thể hiện ý “luận” của tác giả: ông xem
nhẹ “tấm thân xiêm áo” ấy đấy. Và ở đây, tứ thơ của tác giả đã bật ra, thoát khỏi
hình ảnh ẩn dụ từ đầu bài. Ông biết rõ rằng tấm bằng tiến sĩ mà các ông nghè
đương thời có được chẳng phải dựa vào đôi vần thơ hay hay bài phú xuất thần
(các thứ ấy chỉ tương đương với mảnh bìa vứt đi mà thôi) mà hoàn toàn dựa
trên sức mạnh của đồng tiền. Người ta mua một “cái ghế” trên cao, mua chức
phận địa vị, mua “tiếng thơm”, sự trọng vọng bằng bạc nén, và cái quý giá ấy
thật hời. Vài trăm lạng bạc dâng cho giám khảo là có ngav những “nét son” đỏ
chói cho “mảnh giấy” thôi mà, quá hời còn gì!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!.
Những ông nghè tháng tám ấy ngồi đường hoàng, vắt chân chữ ngũ trên
ghế thật oai, có lọng che trên nữa, ai mà nghĩ là đồ chơi nhỉ. Nhưng không phải
là đồ thật đâu, đồ chơi đấy. Vinh qui về làng, các ông nghè ngất ngưỡng trên
ngựa, tiền hô hậu ủng, dân chúng để ra đón mừng. Ta bật cười khi tưởng tượng
ra, Nguyễn Khuyến xuất hiện bên những người dân, rỉ tai họ nhắc: đừng lầm
nhé, không phải “đồ thật” đâu, “đồ chơi” đấy, cười đấy rồi thấm thía đấy. Vì sau
một cuộc chơi như thế, nạn nhân chính là nhân dân, là đất nước đang thời rối
ren, loạn li, đồng tiền lên ngôi tha hồ thao túng. Cái thời mà:
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
(Vịnh khoa thi Hương - Tú Xương)
Cười đấy rồi ngậm ngùi đấy, vì những anh tài trong thiên hạ, mai sau là trụ
cột của nước nhà ấy, lại “sao mà nhẹ”, “hóa đồ chơi”, Chính bản thân họ cũng
không biết được mình là con tốt trong bàn cờ người, là đồ chơi trong bàn tay bọn
vua quan và thực dân đang chực chờ bán nước và xâm lược.
Cười đấy rồi hiểu ra, bài thơ này không phải là tác phẩm trong một lúc
hứng thú nhất thời, mà là kết quả của biết bao đêm trằn trọc, mất ngủ, lo lắng
cho vận mệnh nước nhà của một con người yêu nước.
Bên cạnh một Tú Xương sắc sảo, bản lĩnh, cay chua, độc đáo một Tú
Xương của những lời chửi thẳng vào mặt bọn người bần tiện của:
Cô Ký sao mà đã chết ngay
Ô hay giời chẳng nể ông Tây.
(Mùng hai Tết viếng cô Ký - Tú Xương)
thì Nguyễn Khuyến là một phong cách đối lập. Thơ trào phúng của ông nhẹ
nhàng, thâm thúy và sâu sắc. Đọc thơ Tú Xương ta hả hê, bọn người ấy thì bẽ
mặt, còn đọc thơ Nguyễn Khuyến ngẫm nghĩ thơ Nguyễn Khuyến ta đồng cảm
với nỗi xót xa, ngậm ngùi của ông trước xã hội, mà bản thân ông cũng từng là
một ông nghè, một anh tài thực sự, muôn đem tài năng góp mặt cho đời, xây
dựng đất nước. Cũng là một ông tiến sĩ, khi nhìn thấy cảnh nhố nhăng, lập lờ
trong chốn quan trường nỗi đau đớn tăng lên gấp bội, Thơ trào phúng của ông
không gây cười, mà khiến người ta phải nghĩ, phải thấm thía cái nhục của một
người mất nước, cái đau vì bản thân mình bất lực không làm gì được của ông.
Giữa những bài thơ trào phúng khác thì Ông nghè tháng tám là một bài
thơ nổi bật, vì nó diễn tả khá rõ cái nhìn quan điểm của tác giả. Người đỗ đầu
tam trường đã cười ông tiến sĩ giấy qua hình ảnh ẩn dụ thật tài tình và rất thú vị.
Ngòi bút tài hoa của người thi sĩ đã từng bước vạch rõ sự thật ẩn đằng sau
những cái giả của “ông tiến sĩ giấy”.
Như đã nói, thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến thể hiện một nét khác
trong tâm hồn, tình cảm của ông. Ông không chỉ là một người yêu thiên nhiên,
yêu người dân cần cù, yêu quê hương nghèo khổ mà chân tình của mình. Đêm
đêm, ông vẫn không nguôi nghĩ đến vận mệnh đất nước, vẫn đau nỗi đau của
đất nước, thấm thía cảnh mất nước của mình. Tất cả tâm sự trên được thể hiện
qua những vần thơ trào phúng. Cười để mà khóc, để mà hiểu mình hơn.
Nhưng thái độ ngậm ngùi của ông chưa đủ, bản thân ông cũng biết là
chưa đủ. Cười để khóc, và khóc xong thì phải hành động, phải đứng lên làm
nhiệm vụ của một người yêu nước. Tuy nhiên, với ngòi bút thâm trầm của mình,
những tác phẩm của ông cũng là một tiếng nói thức tỉnh.
Hiểu thơ Tam Nguyên Yên Đổ ta thông cảm cho một tấm lòng chân thành,
một tài năng bị thui chột, mai một trong hoàn cảnh đất nước thời ấy. Mảng thơ
trào phúng của ông góp thêm một tiếng nói đặc sắc cho dòng văn học cuối thế
kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, khiến những người trẻ ngày nay hiểu, cảm thông và
yêu thêm đất nước, biết quý được những gì mình đang có được hôm nay.
ĐẶNG THIÊN THƯ
(Trường PTTH chuyên Lê Hồng Phong
Thành phố Hồ Chí Minh)
NHẬN XÉT
Em đã tìm một cách riêng để hiểu bài thơ. Cách làm này có ưu đồng thời
cũng bộc lộ nhược điểm là dễ nghiêng về bình hơn phân tích. Thật vậy, hai câu
luận và kết chưa được khai thác, nhận biết sâu một cách cụ thể trên văn bản thơ
(Thí dụ: các từ ngữ “cái giá”, “hời”, “thế mới hời”; hình ảnh “ngồi bảnh chọe”
chưa được phân tích thật rõ).
Có một số cảm nhận tinh: Nguyễn Khuyến ngẫm nghĩ là cười: cười đấy rồi
ngậm ngùi đấy, thấm thía đấy…
Nhưng đôi ý cần hiểu và viết ra thận trọng hơn, thỏa đáng hơn (Thí dụ:
Thơ trào phúng của ông không gây cười…).
Văn linh hoạt.
Bài 44
ĐỀ BÀI
Trong các bài thơ đọc thêm của thi sĩ Tản Đà in trong sách Văn 11, em
thích bài nào nhất? Chép nguyên văn và phân tích bài thơ đó.
BÀI LÀM
TỐNG BIỆT
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…
Trong lịch sử thi ca Việt Nam, có rất nhiều nhà thơ sống bằng mộng tưởng
nhưng hiếm có ai lại gắn liền với chữ mộng như thi sĩ Tản Đà. Bắt đầu bằng
Giấc mộng con, kết thúc bằng Giấc mộng lớn. Mơ mộng và trống không. Thế rồi,
mộng vẫn hoàn là mộng. Cứ mỗi khi sực tỉnh, thấy mọi ước mơ chỉ là mộng
tưởng thì một nỗi cô đơn, thất vọng lại dè nặng tâm hồn thi nhân. Cuộc đời Tản
Đà là một cuộc hành trình dài đi tìm những người tài tử, giai nhân làm tri kỷ, gặp
gỡ các người đẹp chốn bồng lai, viết thư cho những “người tình nhân không
quen biết” nhưng rồi mọi mơ ước vỡ tan, thi sĩ sống trong buồn đau và tuyệt
vọng. Tống biệt là bài thơ cũng nằm trong mạch cảm xúc ấy.
Bài thơ Tống biệt trích trong vở tuồng Thiên Thai của Tản Đà. Vở tuồng
được viết dựa trên tích cổ của Trung Quốc. Hai chàng Lưu Thần và Nguyễn
Triệu vốn là người trần thế, nhân tết Đoan ngọ (5-5) rủ nhau đi hái thuốc, gặp và
kết duyên cùng hai tiên nữ. Sống trên tiên giới một thời gian, vì nhớ quê hương,
hai chàng từ biệt các tiên nữ trở về trần thế thăm nhà. Khi quay lại thì không tìm
thấy đường lên tiên giới nữa. Tống biệt là khúc ngâm từ giã trong buổi biệt li. Bài
thơ xen kẽ cả lời của hai tiên nữ với lời của khách trần (Lưu - Nguyễn). Từ khúc
điệu phong lạc được thi sĩ Tản Đà sử dụng trong bài thơ với những câu dài,
ngắn khác nhau rất gợi cảm xúc. Các thanh điệu âm vực cao (thanh ngang,
thanh sắc, thanh hỏi), tạo nên cái nhạc điệu du dương, cái không gian chơi vơi,
nhẹ nhàng nơi tiên giới. Với bài thơ Tống biệt, Tản Đà rất xứng đáng với cái tên
“thi sĩ tài tử đa tình”.
Cần nói qua một chút về nhan đề bài thơ Tống biệt là cuộc chia tay không
hẹn ngày về, là cuộc ra có mặt của cả người đi và kẻ ở, nó mang sắc thái hoàn
toàn khác với “tạm biệt”, “tử biệt”… Mở đầu bài thơ là tâm trạng của hai tiên nữ:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi.
Khả năng tưởng tượng của thi nhân mới phong phú làm sao. Chúng ta
như đắm mình vào thế giới bồng lai tiên cảnh, với lối đi phủ kín lá đào, với chim
chóc, suối tiên… Đối với người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói
riêng, tiên giới là nơi ngọt ngào, thanh bình nhất và cũng là nơi người ta được
hưởng hạnh phúc một cách toàn vẹn. Nhưng ở đây, ngay trên chốn bồng lai này
lại diễn ra một cuộc tiễn biệt đầy nghẹn ngào, chua xót. Có lẽ khi hai chàng đến
là lúc hoa đào nở, lá xanh tươi để đón hai chàng thì nửa năm trôi qua, khi khách
trần giã biệt cảnh tiên thì hoa đào đang độ vào thay lá. Nếu như chỉ có “lá vàng
rơi” thì kể là chuyện thay hoa đổi lá thông thường của cây xanh nhưng lại thêm
chữ “rắc” làm cho sắc thái câu thơ có phần thay đổi. “Rắc” mang tính chủ động
như là thiên nhiên, cảnh vật cũng buồn với nỗi buồn li biệt của hai nàng mà “cố
tình” rụng lá. Nhịp thơ 2/2/3 đều đều, chậm lại như muốn níu kéo bước chân của
người đi.
Mới đọc, ta tưởng như hai tiên nữ rất lạnh lùng trước cuộc chia tay vì
không có những hành động kiểu như “người lên ngựa, kẻ chia bào” (Truyện
Kiều), không một lời nói, không có “nước mắt rơi”, chỉ có “lá đào rơi”. Nhưng
đằng sau cái vẻ lạnh lùng kia lại là một niềm tiếc nuối vô bờ, một sự nghẹn ngào
cứ cố che lấp, nhấn chìm đi nhưng chỉ chưa tuôn trào. Hai chữ “ngậm ngùi” -
thanh trắc ở cuối câu như hai dấu lặng đơn, chùng xuống, nghẹn lại. Đó là cái
“tình” sâu kín của “kẻ ở” trong buổi tiễn đưa, rồi quá khứ chợt hiện về:
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai.
Một ngày trên tiên giới bằng một năm dưới trần gian. Đối với người hạnh
phúc thì bao nhiêu thời gian kể cũng vẫn là ngắn ngủi. Huống hồ lại chỉ có nửa
năm sống hạnh phúc ở chốn bồng lai. Hai thanh trắc ở đầu và cuối câu khiến
câu thơ như một tiếng kêu nhẹ thảng thốt.
Thảng thốt trước tốc độ của thời gian, thảng thốt trước sự kết thúc bất ngờ
của hạnh phúc. Nửa năm lại ngắn, một bước đã tránh xa. Chỉ cần đưa một bước
chân là khách mộng và người tiên, cảnh tiên đã ở hai thế giới hoàn toàn xa lạ.
Câu thơ chuyển sang lời của người ra đi:
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Dường như những cái gì tròn trịa, viên mãn quá cũng trở nên nhàm chán
đối với con người. Trước đây, khi sống ở trần gian, “người mộng” vẫn mong có
ngày được hưởng cuộc sống bồng lai tiên cảnh. Nhưng khi mộng ước đã thành
thì nó không còn đẹp đẽ nữa và mơ ước ngày xưa trở thành “ước cũ”, mối
duyên kia cũng trở nên “thừa”. Chữ “duyên” trong quan niệm triết học không chỉ
là quan hệ nam nữ thông thường, nó còn chỉ sự gắn kết, giao thoa giữa hai sự
vật, hai con người nào đó. Hiểu theo cách ấy, chữ “duyên thừa” sẽ bớt nặng nề
hơn. Bởi vì duyên ở đây không chỉ nói đến mối duyên giữa Lưu Thần, Nguyễn
Triệu với các nàng tiên mà còn là sự gắn kết, “có duyên” giữa người mộng và cõi
mộng. Mối duyên ấy đối với khách mộng không còn ý nghĩa nữa. Nhưng trong
phút chia tay lưu luyến, khách vẫn cảm thấy nuối tiếc mà cất lời than:
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Cảm giác thời gian bây giờ mới trở nên rõ rệt vì người mộng đã ở ranh
giới giữa tiên cảnh và trần gian:
Đá mòn rêu nhạt
Nước chảy huê trôi.
Câu thơ ngắn, chắc, gọn, khắng định. Thời gian có một sức băng hoại vô
cùng lớn, nó đủ sức tàn phá đi những gì trường cũ nhất (đá, rêu), hơn thế nó
làm tàn phai cả những vẻ đẹp đẽ, xuân sắc, tươi non nhất và làm thay đổi cả
lòng người… Nhận ra sức mạnh ghê gớm của thời gian, người mộng càng thấm
thìa cảnh ngộ của mình:
Cánh hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Tâm trạng của khách mộng ở đây có cái gì giống với tâm trạng nàng Ngọc
Châu của Thế Lữ:
Trời cao, xanh ngắt - ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.
(Tiếng sáo Thiên Thai)
Bây giờ, khách mộng đã bị thả hẳn xuống trần gian, cảm giác về sự xa xôi,
cách trở thành tuyệt đối. Tiếng vỗ tay của chim hạc làm người mộng sực tỉnh,
khoảng cách giữa “trời” và “đất” được đẩy xa theo cánh chim và những dấu tích
cuối cùng của chốn thiên thai đã mờ khuất theo dấu chim bay. Nếu chữ “trời” ở
câu trên chỉ là một danh từ chỉ không gian cao rộng thì “trời” ở câu dưới lại mang
cả cái tình của người mộng, nó làm nên sự xa xôi, nghiệt ngã của trần gian và
tiên cảnh. Chữ “mãi” với thanh ở cuối câu như mang nặng cả một “khối tình” u
uất của kẻ ra đi không biết có ngày về.
Khách mộng lúc này đã hoàn toàn trở về với hiện thực, chàng về nơi làng
cũ tìm bóng dáng người xưa, tìm mái nhà thân thuộc mà chàng vẫn ước mong
có ngày gặp lại, thì cảnh xưa đã khác, không ai còn nhận ra chàng. Chàng buồn
rầu, thất vọng quay về lối cũ, định tìm cách về lại cảnh tiên thì “cửa động” không
còn, “đường lối” xưa cũng mất. Chàng lâm vào tình trạng bế tắc, cô đơn đến
tuyệt vọng:
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Nghìn năm cũng thế mà vạn năm vẫn vậy, trăng vốn là vật vô thủy vô
chung, vô tình vô nghĩa trường tồn mãi mãi. Trăng chỉ trở nên hữu tình khi có
cảm nhận, có tình cảm của con người trong đó. Đây là Tản Đà đã cố gắng khách
quan hóa cái chủ quan của mình. Trăng làm sao mà “thơ thẩn”? Chỉ có con
người “thơ thẩn” mà thôi. Cảm giác cô đơn mênh mông, vô tận, kéo dài "nghìn
năm”đã được lồng ghép vào một cái gì mang tính quy luật, trường tồn. Đó là ánh
trăng. Như vậy, tình cảm chủ quan mà được diễn đạt như một quy luật khách
quan. Nếu thay từ “thơ thẩn” bằng hai tiếng “dầu dãi” thì cảm giác đau đớn chủ
quan quá, còn nếu là hai tiếng “hờ hững” thì lại dửng dưng - khách quan quá.
Tản Đà đã dung hòa được bằng hai tiếng “thơ thẩn” rất đắt. Nhưng dù sao, câu
thơ vẫn mang nặng tâm trạng cô đơn, li biệt của người mộng khi phải từ giã cõi
tiên, họ vẫn ước mơ được tiếp vục quay lại với cuộc sống Bồng Lai tiên giới.
Bài thơ kết thúc nhưng âm điệu du dương, uyển chuyển lảng lảng của nó
vẫn còn đọng lại mãi. Tuy nhiên, Tống biệt hay không chỉ ở câu chữ được sắp
xếp tài tình ở cảm xúc biệt ly mơ mộng mà còn ở ý nghĩa sâu xa của nó. Thi sĩ
Tản Đà như muốn nói với tất cả chúng ta rằng: hạnh phúc là ở trần gian, mặc dù
nhiều lúc thi nhân cũng mơ mộng mà muốn thoát trần lên tiên giới. Và, trần gian
và tiên cảnh là hai thế giới hoàn toàn cách biệt, sống trên tiên giới, đó mãi mãi
chỉ là ước mơ.
Người ta đã đánh giá, Tản Đà là “nhà thơ của hai thế kỉ” (Hoài Thanh), ông
là người khai sơn phá thạch cho phong trào Thơ mới lãng mạn những năm 30 -
45. Thơ ông và bài Tống biệt đã khẳng định điều đó. Cái ngon được ông nói đến
nhiều. Sinh thời, thi sĩ đã tự coi mình là đấng “trích tiên” nên ở đây, ông cho
phép mình được gặp gỡ, kết duyên với các nàng tiên, sống cuộc đời Bồng Lai
tiên cảnh. Cái mới của Tản Đà còn ở cách dùng từ, ngắt nhịp, phá cách thể thơ.
Phải chăng, những nỗi buồn mênh mang, mối cô đơn “thiên cổ” của thi nhân là
những nốt nhạc dạo đầu cho khúc hợp ca buồn của thơ lãng mạn sau này:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu.
(Huy Cận)
hay:
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
(Xuân Diệu)
HOÀNG HUỆ ANH
(Trường PTTH Hà Nội - Amsterdam)
NHẬN XÉT
Chọn, chép chính xác một bài thơ hay của Tản Đà.
Tỏ ra cố gắng đi sâu vào nghệ thuật thơ, đặc biệt là đã phân tích thanh,
âm, nhịp điệu vốn thơ sức mạnh của thơ nói chung và thơ Tản Đà nói riêng. (Thí
dụ: - Nhịp 2/2/3 đều đều, chậm lại như muốn níu kéo bước chân của người đi.
Hai thanh trắc ở đầu và cuối câu thơ như một tiếng kêu nhẹ và thảng thốt).
Ý cuối bài làm là ý tốt nhưng nên kết bài hoàn chỉnh hơn.
Văn truyền cảm, nhiều đoạn thanh thoát.
Nên xem lại một số ý (Thí dụ: Mở đầu bài thơ là tâm trạng của hai tiên nữ.
Đến câu “ước cũ duyên thừa có thế thôi” chuyển sang lời của người ra đi). Hiểu
như vậy liệu có áp đặt không?
Đã cảm nhận sâu một số từ (rắc, thơ thẩn…), cần phân tích thêm những
từ ngữ đầy hiệu năng khác (huê trôi, bóng trăng chơi…).
Bài 45
ĐỀ BÀI
Bình giảng bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương.
BÀI LÀM
Có thể nói không ngại quá lời rằng: đã có mấy ai trên cõi đời này viết về
vợ mình vừa ân tình vừa hóm hỉnh, tài giỏi đến thế, như Tú Xương, qua bài
Thương vợ.
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công,
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!
(Theo Thơ văn Trần Tế Xương - NXB Giáo dục, 1994)
Ngoài bài trên, Tú Xương còn có mấy bài nữa viết về vợ, đặc biệt cả một
bài Văn tế sống vợ, một điều mà xưa nay, trong văn chương chưa mấy ai làm
(?).
Bà Tú cũng rất xứng đáng để nhà thơ của chúng ta yêu quý và nể trọng.
Tương truyền bà là một phụ nữ hiền thục, đảm đang và đặc biệt là rất quý trọng
chồng, mặc dù suốt đời ông chẳng làm nên danh phận gì, đặt tất cả gánh nặng
lên vai bà:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Câu thơ mở đầu bao quát đủ hai chiều thời gian và không gian: đầu này là
thời gian - quanh năm - đầu kia là không gian - ở mom sông - Trong ngôn ngữ
thi ca, viết như vậy là đã tổng quát đầy đủ, cũng như trong văn xuôi khi viết:
ngày đêm nghỉ, đói ăn khát uống… Một câu thơ thất ngôn đã tóm lược đủ sự tần
tảo, nỗi vất vả của bà Tú với trách nhiệm người lao động chính trong gia đình,
để:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Thời gian bài Thương vợ ra đời, ông bà Tú đã có năm mặt con: bốn trai
một gái. Nhà thơ cũng có một lần ghi tên con mình vào một bài phú:
Tên Uông, tên Bái, tên Bột, tên Bành.
(Thầy đồ dạy học)
Bà Tú, tên là Phạm Thị Mẫn, người quê gốc Hải Dương, vốn là:
Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ.
(Văn tế sống vợ)
“Lấy chồng kẻ chợ”, theo nghề buôn bán nhưng không có cửa hiệu cửa
hàng để có thể thong dong ăn trắng mặc trơn, mà:
Quanh năm buôn bán ở mom sông.
“Quanh năm” lo chạy chợ, tảo tần không ngừng không nghỉ lấy một ngày.
Mở mắt là lo thuế lo má, lo ăn lo làm, để:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
“Nuôi đủ” là nuôi hết mọi người trong nhà, nuôi từ cái ăn đến cái mặc, trăm
thứ bà làm, nuôi tất tần tật… Tóm lại là nuôi bao trọn gói, cũng là một kiểu “bao
cấp”. Và, không phải bao cấp bình thường đâu nhé, mà là bao cấp “quan và lính
tại gia” đó.
Bốn con làm lính, bố làm quan.
Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa,
Trống chầu vừa dứt, bố lên thang.
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ,
Đem truyện trăm năm giở lại bàn”.
(Quan tại gia)
Nhà thơ kể một danh sách mà vợ phải nuôi: năm con với một chồng”. Một
điều ngẫu nhiên đáng yêu đã xảy ra khi nhà thơ viết câu thứ hai:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Nhà thơ tự đứng ở cuối bản tên vợ phải nuôi.
Tác giả đặt mình ở cuối cùng là vì nhu cầu của vần điệu. Không ngờ niêm
luật lại giúp nhà thơ cười cợt mình là “đồ vô tích sự”, “đàn ông đàn ang” sức dài
vai rộng mà phải sống nhờ vợ, trở thành một thứ gánh nặng cho người đàn bà.
Người đàn bà thì thường sức yếu, vai mềm, “tài hèn trí đoản”… Hóm hỉnh và xót
xa biết bao.
Nguyễn Đình Chiểu trong Tú Xương, nhà thơ lớn của dân tộc (Theo Thơ
văn Trần Tế Xương - NXB Giáo dục, 1994) có viết: “Có người nhận xét rằng: Tú
Xương tự nhận mình là một “thứ con đặc biệt” của vợ mà không chút ngượng
ngập, sĩ diện”.
Ngày trước, các văn nhân thi sĩ không phải họ không biết quý trọng vợ.
Nhưng vì lễ giáo ràng buộc, họ chỉ dám ca tụng công đức các bà lúc các bà quy
tiên. Tú Xương công khai ghi nhận công lao của vợ lúc bà còn trẻ (Về sau, bà
còn có với ông những ba mặt con nữa).
Kế đó, ở hai câu thực nhà thơ hình dung hình ảnh “lặn lội thân cò” để miêu
tả sự vất vả của vợ. Tiếng là dân kẻ chợ, ở phố hẳn hoi - “ở phố hàng Nâu…”
nhưng phải:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng.
Con cò từng có mặt trong ca dao:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.
Nó được ví với người lao động côi cút lam lũ, cần cù…
Tú Xương mượn hình ảnh con cò để nói lên thân phận vất vả lo toan của
vợ mình. Tác giả còn dùng phối hợp biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh một cuộc
sống nhẫn nại của vợ trong một cảnh đời xô bồ, phức tạp. Hai câu thơ ba và bốn
như những nét khắc, nét chạm, có giá trị tạo hình lớn:
Lặn lội thăn cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Tú Xương đã đưa vào văn chương bức “chân dung” đẹp đẽ của vợ mình.
Đã có mấy người phụ nữ có cái may mắn như bà Tú? Ngẫu nhiên, nhà thơ đã
làm cho vợ mình bất tử. Âu cũng là nhà thơ yêu quý của chúng ta đã “trả” được
“món nợ” tinh thần đối với người bạn đời cũng đáng công cho bà Tú, người vợ,
người mẹ suốt đời hy sinh cho chồng, cho con. Tinh thần hy sinh ấy là nét đẹp
trong truyền thống văn hóa dân tộc.
Vấn đề đặt ra ở hai câu luận là chuyện duyên và nợ. Người đời có nói:
“đàn bà mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu”. Khi đã về nhà chồng, thì hoặc
là được “duyên may phận đẹp” hoặc là chịu “phận ẩm duyên ôi”. “Kiếp sinh ra
thế” (Nguyễn Du) thì chấp nhận thế, vươn lên làm chủ mình, làm chủ cuộc sống,
quản chi vất vả nhọc nhằn!
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”.
Lời thơ dung dị, tự nhiên, chữ nghĩa trong sáng, giản dị chuyển tải những
cảm xúc hết sức chân tình: “Một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa”, “âu đành
phận”, “dám quản công”.
Mạch thơ đang tiến triển uyển chuyển, tha thiết, bỗng văng ra một câu
chửi:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Nhà thơ tự chửi mình, chửi cái anh chàng đoảng và vô tích sự là mình.
Cũng vì cái đời này có “bạc”, nó mới ra cơ sự, mới nên nông nỗi này. Người đọc
sẽ suy ngẫm ý nghĩa sâu sắc của lời chửi độc ấy. Còn nhà thơ chỉ vì ân hận và
bối rối mà buột ra lời chửi đó, âu cũng là một cánh tạ ơn vợ ân tình và hóm hỉnh
biết bao!
Các câu kết đã đem đến cho người đọc khoái cảm vì bất ngờ. Bất ngờ là
yếu tố thường gặp trong bút pháp Tú Xương. Điều ấy giải thích vì sao thơ văn
ông luôn luôn đem đến cho người đời thú vị sâu xa.
HOÀNG THU THỦY
(Những bài văn mẫu lớp 11, NXB Giáo dục, 1996)
Bài 46
ĐỀ BÀI
Hãy phân tích bài thơ sau:
ĐẤT VỊ HOÀNG
Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông
Nhà kia lỗi phép, con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh:
Có đất nào như đất ấy không?
(Trần Tế Xương)
BÀI LÀM
Là một con người nhạy cảm và có lòng với quê hương đất nước, Trần Tế
Xương đã cảm nhận được sự thay đổi của làng quê mình, một vùng đất có tầm
quan trọng của cả đất nước, giờ đây đang ngày một suy sụp, ông đau xót và
căm giận vô cùng. Bài thơ Đất Vị Hoàng của ông nói lên điều đó:
Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông
Nhà kia lỗi phép, con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng
Bắc Nam hỏi khắp người bao tính:
Có đất nào như đất ấy không?
(Trần Tế Xương)
Bài thơ đã nói lên sự thay đổi, đổ vỡ về đạo lý, nếp sống và bản chất con
người, châm biếm thói xấu xa đang hình thành trong xã hội. Ngoài ra nó còn bộc
lộ tâm trạng của nhà thơ, nỗi đau xót, tiếc thương và căm tức.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã đi ngay vào vấn đề, bằng câu hỏi tu từ “Có đất
nào như đất ấy không?” ta thấy được sự đau xót lẫn căm tức của tác giả, tại sao
lại như thế, một mảnh đất trước kia tốt tươi là thế mà bây giờ chỉ còn lại sự lố
lăng do thực dân gây ra. “Có đất nào” - đau xót, tức giận. Làng Tú Xương giờ đã
thành ra phố nhưng phố này lại của bọn xâm chiếm lập nên và thống trị. Cái bất
công là ở chỗ đó, Sông núi nước Nam giờ chẳng phải là người Nam. Phố
phường tiếp giáp làm tác giả nhức mắt và thương cho đất nước mình.
Nhưng thảm họa này vẫn còn chưa đủ, nó còn kéo thêm cả đạo lí, nếp
sông và bản chất vốn có của người dân. Tất cả giờ đây chỉ còn sống vì đồng
tiền, một xã hội suy đồi khủng khiếp, tôn ti trật tự bị phá vỡ, xã hội trở nên xô bồ
đảo điên:
Nhà kia lỗi phép, con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
Con người giờ đây không còn yêu thương, đùm bọc nhau nữa. Họ sống
lạnh nhạt, tách rời nhau. Nghệ thuật so sánh kết hợp với phép đối đã cho ta thấy
một bản chất của con người lúc bấy giờ: ích kỉ, nhỏ nhen, chà đạp lên nhau để
sống. “Người đâu” nghe như một lời than thở cho xã hội suy đồi, một xã hội con
người như “cứt sắt” phế thải. Không còn đạo đức. Vì đâu ra thế? Tất cả chỉ do
đồng tiền mà ra. Đồng tiền lúc này là tất cả, đồng tiền bất nhân lăn tròn trên nhân
nhẩm con người, hơi tiền luôn phảng phất trong xã hội thực dân-phong kiến.
“Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng” - tất cả chỉ có tiền, con người “tham lam”,
“ích kỉ” vì tiền. Tác giả vô cùng hoảng sợ vì điều đó. Ông sử dụng những từ
mang tính phê phán để khẳng định “keo cú”, “tham lam”, “rặt” làm cho người đọc
hình dung được xã hội lúc bấy giờ thật đáng chê, đáng ghét.
Nhưng đằng sau nội dung trực tiếp của bài thơ còn là tấm lòng nhà thơ,
với nỗi đau của người trong cuộc, người bị mất mát tổn thương. Đứng trước
thực tế đau buồn và hồi tưởng về những truyền thống tốt đẹp xưa kia, tác giả
buông ra một tiếng kêu đầy thương xót “Có đất nào như đất ấy không?”. Từ “đất”
ở đây không những mang nghĩa là một mảnh đất bình thường mà nói “đất” còn
là để nói về “người” về “đời” nữa. Đất nước quê hương đã thay đổi và trở nên dị
dạng làm cho tác giả cảm thấy như bị mất đi những gì thiêng liêng nhất của vùng
đất văn hóa nơi tác-giả sinh ra và lớn lên này.
Ta thấy đó, bài thơ ngắn gọn với kết cấu Đường luật chặt chẽ và bút pháp
hiện thực đã giúp ta thấy được thời đại Tú Xương đang sống, một thời đại bất
công, bạc bẽo, đạo lí bị đảo loạn, đồng tiền là trên hết, đồng tiền đảo lộn tất cả
những điều tốt đẹp mà những người như tác giả hằng khao khát ước mong. Đọc
tác phẩm này ta hiểu thêm được nhiều về lịch sử một thời của nước mình và tâm
sự ông Tú thành Nam.
ĐẶNG NGỌC HÂN
(Trường PTTH chuyên Lê Hồng Phong)
NHẬN XÉT
Em hiểu bài thơ.
Phân tích, lập luận, kết cấu rõ ràng, mạch lạc. Có ý sâu. Văn viết xuôi,
sáng tỏ. Chữ nghĩa chính xác, thỏa đáng. Để bài làm tốt hơn, hoàn chỉnh hơn
cần chú ý:
Có phần liên hệ, kết thúc. Liên hệ thêm một vài câu thơ khác của Trần Tế
Xương để rõ thêm thời Tú Xương và bài này.
Dụng ý nghệ thuật và ý tưởng khi dùng câu kết lặp lại câu mở đầu?
Bài 47
ĐỀ BÀI
Phân tích bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu.
BÀI LÀM
Khao khát giao cảm với đời, ham muốn sống mãnh liệt trong tuổi trẻ và
tình yêu là một đặc điểm của thơ Xuân Diệu, ở mỗi sáng tác, mỗi vần thơ của
ông, ta đều thấy cái chất Xuân Diệu ấy. Nếu trong Tỏa nhị Kiều đó là một tấm
lòng yêu cuộc đời thương người phải sống một cuộc sống buồn tẻ, mờ nhạt
trong Vội vàng, đó cũng là một tấm lòng, một tâm hồn yêu đời, yêu người, yêu
người đến cuồng nhiệt trước cuộc sống “mới bắt đầu mơn mởn”. Ngay tựa đề
của bài thơ, ta đã thấy cái gì đó “vội vàng”, cuống quýt, ham muốn của một hồn
thơ yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân Diệu!
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Ý muốn táo bạo quá? Phải chăng hồn thơ thiết tha với đời ấy đang lo lắng
trước sự đổi thay của đất trời cảnh vật nên muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả
với vẻ đẹp vốn có của nó?… Ý muốn của Xuân Diệu quá lớn, mạnh mẽ quá như
chính hồn ông vậy? “Muốn tắt nắng đi”, “muôn buộc gió lại” có lẽ không ngoài ý
muốn giữ cho vũ trụ ngừng quay, ý tưởng giữ lại cái đẹp, giữ lại thời gian…
Những ý muốn, những hành động của ông cứ mạnh dần lên, lớn hơn lên.
“Tắt nắng” rồi lại “buộc gió” cũng như sự “lớn” của lòng ham muốn của
niềm khao khát trước cuộc sống trần thế xung quanh ta bỗng được phát hiện
như một thiên đường, phong phú giàu có. Cuộc sống tình yêu và hạnh phúc,
những cái giá trị nhất của cuộc đời đang được Xuân Diệu phát hiện. Cái gì cũng
“biếc rờn”, “mơn mởn”. Khác với những nhà thơ cùng thời, Xuân Diệu cũng chịu
“nỗi buồn thế hệ” nhưng có phần không chán chường, buồn nhưng ông vẫn nhìn
thấy cuộc sống tươi đẹp, đáng sống. Không như Chế Lan Viên trong Điêu tàn I
có phần quay lưng lại thực tại một cách gay gắt, quyết liệt; hay chán nản, bế tắc
như trong những vần thơ Huy Cận, hoặc tìm đến một nơi tiên cảnh như trong
thơ Thế Lữ, thơ Xuân Diệu luôn toát lên niềm ham sống mãnh liệt. Đó là nét bao
trùm của hồn thơ ông. Tất cả như gợi lên sự tận hưởng, gợi đến niềm tha thiết
với tình yêu, và cuộc sống. Cảnh vật đầy hứa hẹn về tương lai, về hạnh phúc và
với Xuân Diệu, cuộc đời đầy đáng yêu, tháng giêng thật thi vị, hấp dẫn.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Một câu thơ gợi cảm thật đắc! Xuân Diệu không nói cả mùa xuân mà chỉ
nói mỗi tháng giêng - tháng đẹp nhất, tháng mở đầu cho cả mùa xuân. Nói tháng
giêng, nhưng Xuân Diệu gợi đến cả mùa xuân, mùa mà vạn vật căng đầy sức
sống: cây cối đâm chồi nẩy lộc, hoa lá xanh tươi, con người trẻ trung, yêu đời;
tất cả như trỗi dậy một sức sống mạnh mẽ, một niềm say sưa sống, thiết tha với
đời. “Tháng giêng” là tháng đẹp nhất của mùa xuân; mùa xuân là “mùa” đẹp nhất
của con người, cuộc đời. Thiên nhiên đẹp được Xuân Diệu ví với “cặp môi gần”.
Như vậy, nếu như trong thơ truyền thông, chuẩn mực của cái đẹp lại là con
người. Cái hay, cái đẹp, của hồn thơ Xuân Diệu; cái rất Xuân Diệu có phần là ở
đó! Khác với Nguyễn Du, tả mùa xuân đẹp với chuẩn mực là thiên nhiên, khác
với Chế Lan Viên trong Điêu tàn; mùa xuân đẹp, hấp dẫn là thế mà thi sĩ chối bỏ
gay gắt, quyết liệt. Đối với Xuân Diệu, mùa xuân thật tươi đẹp, thật quyến rũ. Ở
đây, Xuân Diệu không có sự phủ nhận thực tại như Chế Lan Viên, mà trái lại,
trước thực tại, ông luôn đón nhận nó một cách mãnh liệt, thiết tha. Bởi lẽ, ông
đang trong thời Xuân. “Cặp mắt xanh non”, “biếc rờn” của nhà thơ nhìn vào cái
gì cũng đẹp, cũng thấy thú vị, hấp dẫn, “ngon như một cặp môi gần”. Lời thơ táo
bạo quá chăng? Không ví “tháng giêng ngon” với cái gì khác mà Xuân Diệu lại ví
với “cặp môi gần”. Đây là một câu thơ rất Xuân Diệu, khác hẳn, mới hẳn so với
thơ ca truyền thống. Nếu thơ ca truyền thống lấy chuẩn mực của cái đẹp là thiên
nhiên là cỏ cây hoa lá, thì với Xuân Diệu chuẩn mực của cái đẹp là con người -
con người trong độ đẹp nhất, căng đầy sức sống. Cái hiện đại của bài thơ là
đấy! “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” là một câu thơ trong sáng. Xuân
Diệu đã mang đến cho người đọc một cảm nhận trước phần “ngon nhất” của
cuộc đời. Câu thơ vừa tả cảnh lại vừa ngụ tình - tình Xuân Diệu, khao khát hạnh
phúc, khao khát yêu đương, thiết tha cuộc đời đến cuồng nhiệt. Xuân Diệu đã
“say sưa”, “chếnh choáng” trước vẻ đẹp “no nê”, “đã đầy” của mùa xuân. Nhưng
vì lẽ thường, xuân chỉ là một trong bốn mùa của một năm, chỉ tồn tại một thời
gian để mùa hạ, mùa thu, mùa đông sẽ đến; nên xuân mang trong nó tính thời
gian, mang ý nghĩa trôi chảy:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Khao khát giao cảm với đời nên Xuân Diệu nhạy cảm, khám phá được
nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên. Ông đang chứng kiến sự chuyển vận, thay
đồi nhanh chóng của trời xuân, đang chứng kiến thời gian trôi qua và cái hữu
hạn của cuộc đời con người. Cuộc đời sẽ mất đi, mỗi xuân sẽ qua đi, nhưng thời
gian vẫn mãi là thời gian, trường tồn cùng vũ trụ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu lúc
nào cũng hấp dẫn, vội vàng, giục giã để tận hưởng hết phần quý nhất, đẹp nhất
của đời. Lúc nào Xuân Diệu cũng cuống quýt, vội vã:
- Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!
- Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai!
- Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm.
“Mau đi thôi” vì xuân của cuộc đời cũng phải qua đi, mà bi đát thay, lại
không được tuần hoàn như xuân của đất trời. Cuộc đời, tuổi xuân đi qua là
không bao giờ trở lại. Nhịp thơ, câu thơ cũng đang “vội vàng” gấp gấp, nhanh
nhanh dồn dập. Lúc nào cũng cuống quýt, cũng “gấp đi em” nên lúc nào Xuân
Diệu cũng muốn muốn níu kéo, muốn giữ lại tuổi trẻ, tình yêu. Tấm lòng Xuân
Diệu lớn quá, hồn thơ ông mênh mông quá “nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất
trời”. Xuân Diệu là thế đấy!
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn.
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.
Chữ “ôm” như gói trọn “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, như ghì riết,
ôm đồm tất cả để giữ lại tất cả. “Cặp mắt biếc rờn” của nhà thơ như đang khám
phá hết những bí ẩn của thế giới thiên nhiên, như thấy tất cả đều căng đầy, tràn
trề nhựa sống. Nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) đang làm
cho những bạn đọc trẻ lòng, trẻ tuổi kinh ngạc khi thưởng thức thơ ông đó sao?
Lời thơ mạnh mẽ, trần thế quá. Nhưng đó là cái tâm, cái hồn nhà thơ thiết tha sự
sống, yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt, muốn được “chuếnh choáng”, “no nê” trong
sự tận hưởng hết giá trị, hết cái đẹp của cuộc sống và tình yêu. Ta cảm giác như
Xuân Diệu đang hạnh phúc, đang sung sướng đón nhận một món quà, một niềm
vui tột bậc khi nhà thơ buông câu kết:
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Mùa xuân như một trái chín ửng hồng, như mời mọc ta, hấp dẫn ta, thôi
thúc ta hành động để đến cái đích: “cắn vào ngươi!”. Ham muốn mãnh liệt trong
hồn thơ Xuân Diệu trước tình yêu, trước cuộc đời mãi mãi là khát vọng, là ham
muốn chưa toại nguyện. Xuân đẹp quá, gần quá mà chưa với tới được.
Như thế Vội vàng không chỉ thể hiện trước một hồn thơ Xuân Diệu, một
tấm lòng Xuân Diệu trước cuộc đời mà còn thể hiện một quan niệm nhân sinh
mới “chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống”. Đó là thái độ sống tích cực,
sống hết mình, sống “say sưa” sống cuồng nhiệt của Xuân Diệu. Vội vàng đúng
là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát giao cảm với đời. Mặc
dù có thể còn không ít cách cảm nhận khác nhau, nhưng nhìn chung, bài thơ
này khiến phần lớn người đọc biết yêu cuộc sống trần thế, biết tận hưởng niềm
hạnh phúc được sống trên trái đất này, và thêm quí trọng tuổi thanh xuân một đi
không bao giờ trở lại, để về sau không bao giờ phải ân hận xót xa, bởi những
năm tháng sống hoài phí. Xuân Diệu mãi mãi là nhà thơ của tình yêu, của tuổi
trẻ chính có phần bởi lẽ đó.
ĐẶNG THÙY NHƯ
(Trường PTTH chuyên Hạ Long, Quảng Ninh)
Bài 50
ĐỀ BÀI
Bàn về thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám; sách giáo khoa Văn
11 viết: “Kinh nghiệm Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, kết tinh ở một hồn
thơ nghệ sĩ khao khát giao cảm với đời đã giúp Xuân Diệu khám phá được nhiều
biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm con người và thể hiện được
trong những vần thơ ít lời, nhiều ý, súc tích như đọng lại bao nhiêu là tinh hoa
(Thế Lữ).
Bằng sự hiểu biết về thơ Xuân Diệu trước Cách mạng, anh (chị) hãy bình
luận ý kiến trên.
BÀI LÀM
Trong chúng ta có lẽ không mấy ai là không biết đến những câu thơ của
Xuân Diệu, những câu thơ khiến cho bao thế hệ trẻ phải say đắm. Điều gì đã
giúp cho Xuân Diệu dành được sự ngưỡng mộ mê say của bạn thơ? về điều này
sách giáo khoa Văn 11 đã nói rất rõ: “Kinh nghiệm Đông và Tây, truyền thống và
hiện đại, kết tinh ở một hồn thơ nghệ sĩ khao khát giao cảm với đời đã giúp Xuân
Diệu khám phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm
con người và thể hiện được trong những vần thơ ít lời, nhiều ý, súc tích như
đọng lại bao nhiêu là tinh hoa” (Thế Lữ).
Kinh nghiệm Đông và Tây, hay nói cách khác là truyền thống và hiện đại,
lại được “kết tinh ở một hồn thơ nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời”, những điều
kiện tuyệt vời đó đã khiến Xuân Diệu “khám phá được nhiều biến thái tinh vi của
thiên nhiên cũng như nội tâm con người” và viết nên những câu thơ “ít lời, nhiều
ý, súc tích như động lại bao nhiêu là tinh hoa”. Chính sự kết hợp hài hòa truyền
thống giữa tài năng và tâm hồn đã giúp Xuân Diệu viết nên những câu thơ đạt
đỉnh cao trong sự tương ứng giữa nội dung và nghệ thuật. Vậy thì làm sao mà
không nhớ, không yêu, không say mê những câu thơ như vậy. Đương thời, khi
Xuân Diệu mới xuất hiện, Hoài Thanh đã viết như vậy: “Xuân Diệu đến giữa
chúng ta tới nay đã ngót năm năm mà tiếng khen chê vẫn chưa ngớt. Người
khen, khen hết sức, người chê, chê không tiếc lời”. Song với những người chê,
Xuân Diệu có thể trả lời theo kiểu Lamartine “Đã có những thanh niên thiếu nữ
hoan nghênh tôi” (Hoài Thanh). Không chỉ có thế, không chỉ có những “thanh
niên, thiếu nữ” ủng hộ, say mê Xuân Diệu, mà ngày nay, tựu trung chúng ta đều
công nhận ý kiến của Hoài Thanh; Xuân Diệu là đỉnh cao trong phong trào Thơ
mới, “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ý kiến của sách giáo khoa Văn 11 được
đưa ra hoàn toàn đúng đắn, giúp ta có một cách nhìn đúng đắn trong sự nghiệp
văn chương đồ sộ của Xuân Diệu.
Vốn sinh ra ở một thời đại phức tạp “Âu Á tranh nhau, Đông Tây xáo trộn”
mà trong đó phương Tây đã dần dần thắng thế, Xuân Diệu đã hấp thụ một nền
văn hoá phương Tây, đặc biệt là văn hoá Pháp và chịu ảnh hưởng sâu đậm thi
ca Pháp là một điều tất nhiên. Song, Xuân Diệu lại còn xuất thân trong một gia
đình nhà nho, mà bố là ông đồ xứ Nghệ nên ảnh hưởng của phương Đông vẫn
bắt rễ sâu trong lòng Xuân Diệu, mặc dù không bằng ảnh hưởng tư tưởng thẩm
mĩ phương Tây. Có như vậy, thì chúng ta mới có những câu thơ lục bát dân dã
và duyên dáng này:
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả hiu hiu khẽ buồn…
(Chiều)
Những câu thơ lục bát của ông cha để lại vào thơ Xuân Diệu thật nhuần
nhuyễn, tự nhiên. Nỗi buồn “ngẩn ngơ”, “hiu hiu” của buổi chiều tà này cũng rất
gần với buổi chiều Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, một nỗi buồn
truyền thống. Song với Xuân Diệu thì nỗi buồn ấy đã có những nét khác biệt, nó
run rẩy, nhẹ nhàng muốn nép mình lại “Không gian như có dây tơ; bước đi sẽ
đứt động hờ sẽ tiêu”. Mối rung cảm quá ư tinh tế này ta chỉ có thể bắt gặp ở
Xuân Diệu mà thôi. Thế đấy, trong cái cũ có cái mới, trong cái truyền thống có
cái hiện đại, trong cái buồn từ ngàn xưa lại có những rung cảm rất riêng của cái
tôi thi sĩ.
Và những câu thơ, tưởng như quá mới của Xuân Diệu, ta cũng vẫn bắt
gặp một chút “hương hồn xa xưa của đất nước” nghìn năm vạn vật.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh.
“Hơn một”, “rủa”, những cách dùng từ rất Pháp khiến cho câu thơ mang
một sắc thái khác hẳn với thơ cổ điển. Song nỗi buồn mùa thu, nỗi buồn “truyền
kiếp” của văn chương vẫn cứ lộ ra kín đáo trong sự hoang tàn héo hon dần của
cỏ cây…
Có thể nói trong những câu thơ tuyệt đỉnh của Xuân Diệu, có cả những
câu thơ cũ và mới, và trong cái cũ thì có cái mới, trong cái mới vẫn có cái cũ. Cái
mới và cái cũ đan cài vào nhau, kết hợp hài hòa với nhau trong thơ và trong con
người thi sĩ của Xuân Diệu. Sự kết tinh giữa hai nền văn hóa Đông và Tây lại
giao nhau đúng ở một tâm hồn nghệ sĩ đầy khao khát giao cảm với đời, đầy
nhiệt huyết rạo rực với cuộc sống, thì thành công là điều tất yếu. Với Xuân Diệu,
điều kì diệu nhất là cuộc sống, điều đẹp nhất là con người tuổi trẻ, tình yêu. Ông
yêu cuộc sống với tất cả những gì bình dị mà trong trẻo, nồng nàn nhất của nó
với một trái tim bốc lửa cho tới phút chót cuộc đời ông vẫn yêu đến cuồng nhiệt:
Hãy để cho tôi được giã từ,
Vẫy chào cõi thực tế để vào hư.
Trong hơi thở chót dâng trời đất,
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.
(Chấp nhận)
Tâm hồn của ông luôn khao khát được giao cảm với đời, một khát khao
khẩn thiết đến đau đớn (ý của Hoài Thanh). Với ông, người thi sĩ là một con
người kì lạ do Thượng đế sinh ra và được ban phát cho những khả năng nghe
được, thấy được cái gì mà người đời không thấy được. Người thi sĩ là người
đem lại cái đẹp huyền diệu của cõi đời sáng láng diêu nhiên tới cõi trần, tới
những con người bình dị. Cõi trời ở đây hoàn toàn không phải là cõi tiên: “Với
Thế Lữ, thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân
Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới” (Hoài Thanh). Cõi trời ở đây là
những điều đẹp đẽ, mầu nhiệm nhất của cuộc sống và con người. Người lắng
nghe những tiếng nói “huyền diệu” của đất trời với tất cả tâm hồn mình.
Hãy lắng nghe em khúc hát nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
Như hương thấm tận qua xương tủy
Âm điệu thần tiên thấm tận hồn.
Và khi khúc nhạc đã ngừng, lòng nhà thơ vẫn run hoài cái run rẩy rất Xuân
Diệu: “Lòng cứ run hoài, như chiếc lá”.
Với tâm hồn, với niềm khát khao giao cảm với đời đó, Xuân Diệu đã hiểu
thầm, đã thấy đã nghe được những rung động, biến thái tinh vi của thiên nhiên
cũng như nội tâm con người. Thiên nhiên hay lòng người thì cũng là một vậy
thôi. Trong cái run rẩy của cành lá có cái run rẩy của nỗi lòng thi sĩ, trong cái
buồn thảm của thi sĩ, của con người thì thiên nhiên cũng ngẩn ngơ, lạnh lẽo:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
“Câu thơ đọc lên làm người ta xuýt xoa, trước hết vì lạnh, sau là vì hay”
(Vũ Quần Phương). Cái gợn rất nhẹ của lá cành trước một cơn gió mùa thu nhẹ
nhàng cũng không qua khỏi mắt thi sĩ, cái rùng mình khe khẽ, cái “run rẩy rung
rinh” ấy đã được nhà thơ tóm gọn vào hai câu thơ, đọc hai câu thơ mà ta cảm
thấy được cả cái thần thái của mùa thu. Thơ Xuân Diệu ít lời, nhiều ý, súc tích
cũng là vì vậv.
Dường như, cơn gió thu không phải là nguyên nhân của cái rùng mình của
cành lá, mà cành lá đang run lên trước những luồng rét bất chợt của mùa thu.
Lòng thi sĩ cũng run lên…
Chỉ có Xuân Diệu mới thấy cái run rẩy khẽ khàng của mùa thu, cái phân
vân của cánh cò trắng muốt… Chỉ có Xuân Diệu mới nghe được tiếng lòng của
những kẻ yêu nhau như vậy.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
“Nào ai đã một lần dám nói”, “lần đầu rung động”… tiếng nói không còn có
hiệu lực và trở nên thô thiển. Bởi vậy, Xuân Diệu đã “nghe”, nghe với tất cả tâm
hồn nhạy cảm của mình và anh đã nghe được sự rung động của sợi dây tình
cảm. Thi sĩ nghe trong lòng và nghe trong ý:
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
Xuân Diệu đã nghe được, cảm nhận được sự hòa hợp giữa hai tâm hồn
mà bề ngoài tưởng như là “điềm nhiên” ấy; cảm nhận được sự hòa hợp, gắn bó
chắc chắn và mãi mãi của hai tâm hồn đồng điệu. Ai nói thơ Xuân Diệu thiên về
cảm giác, đúng vậy, nhưng ở đây Xuân Diệu đã vượt lên trên cảm xúc mà đi đến
cả một thế giới tâm linh huyền diệu và đẹp đẽ.
Trong thơ Xuân Diệu, ta thấy được cả một thế giới, nội tâm con người đầy
bí ẩn với mọi cung bậc tình cảm của nó. Song “khi vui cũng như khi buồn, người
đều nồng nàn tha thiết” (Hoài Thanh). Nỗi buồn của người kĩ nữ dường như đã
tới điểm cùng cực:
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da.
Thế giới phủ đầy băng giá, phủ đầy ánh trăng sáng tới lạnh lẽo, tới ghê
người. Trong cái thế giới đó, người kĩ nữ run lên trong đau khổ và cô đơn. Trước
đó, dường như kĩ nữ cũng đã linh cảm được nỗi buồn sắp tới:
Gió theo trăng từ biển thổi qua non
Buồn theo gió lan xa từng thoáng gợn.
Chỉ trong thơ Xuân Diệu mới có nỗi buồn rờn rợn như vậy. Chỉ con người
Xuân Diệu mới nghe được nỗi buồn từ thấp lên cao trong lòng người kĩ nữ cô
đơn kia. Bởi vì chỉ có Xuân Diệu mới có một nỗi khát khao giao cảm với cuộc đời
mãnh liệt, khẩn thiết, chỉ có Xuân Diệu mới có một tâm hồn nhạy cảm vô cùng và
tràn đầy tình thương mến. Chính Xuân Diệu đã từng viết:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
Để tâm hồn ràng buộc với muôn dây
Hãy chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
“Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước
non lặng lẽ này. Xuân Diệu đắm say tình yêu, đắm say cảnh trời, sống vội vàng,
sống cuống quýt muốn tận hưởng hết cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi buồn
cũng như khi vui, người đều nồng nàn tha thiết” (Hoài Thanh).
Nguồn sống dồi dào đó lại được thể hiện trong những câu thơ kết tinh
giữa hai luồng nghệ thuật Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, nhưng câu thơ
“thơ ít lời, nhiều ý, súc tích như đọng lại bao nhiêu là tinh hoa”. Nghe qua tưởng
chừng như mâu thuẫn: cổ điển lại kết hợp với hiện đại? Nguồn sống mạnh mẽ
lại nằm trong những câu thơ ít lời, hàm súc? Song Xuân Diệu đã vượt lên những
lẽ thường tình đó mà viết nên những câu thơ “còn lại mãi vời thời gian”:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già…
Nhà thơ say sưa yêu và muốn tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống, nhà thơ
vội vàng cuống quýt “mau lên chứ vội vàng lên với chứ”, nhà thơ tiếc nuối trước
bước đi của thời gian. Vì cảm nhận được rất rõ bước đi của dòng chảy thời gian
khắc nghiệt, Xuân Diệu đã đi trước cả thời gian “Tôi không chờ nắng hạ mới
hoài xuân”. Hai câu thơ sau là cả một triết lí, một phép suy luận biện chứng và
thời gian rất mới mẽ, làm kinh ngạc cả thế hệ bây giờ. Thơ Xuân Diệu ít lời,
nhiều ý, súc tích là vậy.
Dù đối với người khen hay chê, Xuân Diệu vẫn luôn là nhà thơ gây cho
mọi người một nỗi kinh ngạc lớn trước thơ ông. Cái đáng quí nhất của ông mà ta
nhận thấy, đó là một tâm hồn tràn ngập tình yêu cuộc đời, yêu con người với tuổi
trẻ và tình yêu. Bởi tình yêu đó mà người đã làm nên tất cả. Bởi tình yêu đó mà
người được người đời sau mãi mãi ngưỡng mộ và mê say mà người đã “khám
phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm con người” và
làm nên những câu thơ “ít lời, nhiều ý, súc tích như- đọng lại bao nhiêu là tinh
hoa”, ý kiến của sách giáo khoa Văn 11 đã giúp ta đánh giá “đúng” và yêu mến
thêm Xuân Diệu.
ĐẶNG THỊ THU HẢI
(Trường PTTH Năng khiếu Hà Tĩnh)
Bài 51
ĐỀ BÀI
Bàn về thơ Xuân Diệu, nhà phê bình Hoài Thanh đã khẳng định: …Thơ
Xuân Diệu còn là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng
lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống
cuống quýt muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi
buồn, người đều yêu nồng nàn, tha thiết…”. (Hoài Thanh và Hoài Chân, Thỉ
nhân Việt Nam, NXB Văn học (tái bản), Hà Nội, 1988).
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên đây, thông qua sự hiểu biết về
thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
BÀI LÀM
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Không hiểu những vần thơ như thế đã đến với em tự lúc nào, chỉ nhớ lúc
đó em vẫn còn chưa biết tác giả là ai. Mọi người yêu thơ, bởi thơ có khả năng
rung động mạnh mẽ hơn cả, và ở nhà thơ Xuân Diệu đã hội tụ được điều quan
trọng nhất: nói tiếng nói của con người, những điều mà ta vẫn thấy, vẫn biết
hàng ngày được hồn thơ nhà thơ tô điểm bằng tình cảm chân thật mãnh liệt tạo
nên những âm điệu thật huyền diệu, truyền đến người đọc những rung cảm đối
với cuộc đời, đối với tình yêu con người và thiên nhiên. “Thơ Xuân Diệu còn là
một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân
Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt muốn
tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều
yêu nồng nàn, tha thiết…” (Hoài Thanh - Hoài Chân).
Người ta yêu thơ Xuân Diệu, bởi chỉ đến Xuân Diệu, cái “tôi” mới được
bộc lộ hết mình: đắm say và lãng mạn. Nhưng ông vẫn muốn khẳng định cái “tôi”
ấy trong niềm giao cảm với đời:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Trong đôi mắt thi sĩ, cuộc sống ở xung quanh ta diễn ra thật sôi động, vạn
vật như đang tuôn trào nguồn nhựa sống, vô tận, tất cả đều đẹp lắm chứ, đáng
tận hưởng lắm chứ: tuần tháng mật đẹp tuyệt vời với biết bao niềm vui hạnh
phúc, “hoa của đồng nội” trang điểm cho không gian bao la, tô điểm cho cuộc đời
thêm tươi mát. Màu xanh lá, non tơ kia cũng đáng để ngắm nhìn, và cả khúc
nhạc “tình si” nữa cũng rộn rã lòng người, rộn rã một tình yêu, và hàng mi kia
nữa, khi đôi mắt chớp chớp là cả một vầng ánh sáng lấp loáng không gian. Cuộc
đời vẫn đều đặn, nhịp nhàng trôi đi, đối với kẻ biết sống, biết yêu, biết tận hưởng
thì mới thấy cuộc đời rộn ràng và ý nghĩa, đầy ắp niềm vui khi mỗi sớm mai, bình
minh lên, bắt đầu của một ngày mới bằng tiếng gõ cửa của “thần Vui”. Bắt đầu
của một năm hay một đời người bằng mùa xuân tuổi trẻ, quãng thời gian thanh
xuân nhất, giàu khát khao nhất được cụ thể hóa thành:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Đối với người đã yêu và chưa yêu, đều hiểu hai chữ “nụ hôn”, mà đã là nụ
hôn đặt trên môi thì đấy là tình yêu, và người ta đã nói: “nó ngọt ngào hơn tất
cả”. Vậy, ở quãng đời thanh xuân quí báu và vô giá kia bạn hãy biết sống sao
cho khỏi hối tiếc khi xuân đã qua:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
… Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Cái bất biến là vũ trụ, vũ trụ chứa đựng cả cuộc đời. Tác giả đau đớn khi
biết rằng “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi” nên “bâng khuâng”, nên “tiếc cả
đất trời”. Nhà thơ nuối tiếc tất cả, lưu luyến với tất cả, nhưng không đắm chìm
trong ảo tưởng mà phải thực hiện bằng hành động. Vì thế mà ông phải vội vàng,
phải cuống quýt như sợ không kịp với thời gian, nhà thơ chạy đua với thời gian,
muốn níu kéo lại thời xuân sắc của đời người “một đi không trở lại”. Cái ước
muốn ấy rất trần thế, rất con người, nhưng cũng trong sáng, xa lạ với những
ham muốn tầm thường. Xuân Diệu chống lại cả vòng quay của tạo hóa, muốn
“tắt nắng đi” để hoa được thắm mãi trên cành, muốn giữ cho mình mùi hương
hoa nồng nàn ngây ngất, muốn “buộc gió lại”, “cho hương đừng bay đi”, muốn
bộc lộ một khẳng định cái “tôi” trong cuộc đời… Những ước muốn ấy luôn gắn
liền với đời, hòa trong cuộc đời.
Trong thơ, Xuân Diệu luôn thể hiện một tâm hồn tận hưởng những gì là
thanh tao, cao quý, tinh tuý nhất mà cuộc đời ưu đãi con người. Ông vồ vập,
đắm sâu trong tình yêu:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.
Đã có ai từ trước đến nay, có được cái cuồng nhiệt, có được những ham
muốn dữ dội mãnh liệt đến thế chưa? Chỉ có Xuân Diệu, chỉ Xuân Diệu mới có
được cái ý muốn độc đáo, đáng yêu sâu sắc như vậy. Muốn ôm trong vòng tay
mình cả sự sống “mới bắt đầu mơn mởn”. Rõ ràng, câu thơ gợi lên sự ham
muốn đến tuyệt đỉnh. Cái ham muốn ấy ngày càng tăng lên, mạnh mẽ và dữ dội
hơn khi nhà thơ đã bước chân vào đời, từ muốn “ôm” chưa đủ, tác giả còn muốn
“riết”, vẫn chưa thỏa, muốn “say” (men say tình yêu) “muốn” thâu trong “một cái
hôn nhiều”.
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Và lên tới cùng đỉnh cao chót vót là hành động thật mãnh liệt: Hỡi xuân
hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Chỉ đến thế, nhà thơ mới hả hê với cảm giác “đã đầy”, “no nê” và “chuếnh
choáng”. Cuộc đời tuyệt mĩ biết bao, con người sung sướng và hạnh phúc biết
bao.
Nhưng hãy hiểu, những ham muốn của nhà thơ không thấp kém tầm
thường mà trong sáng và đáng quí. Nhà thơ luôn rạo rực, hối hả, vội vàng đến
cuống quýt, lúc nào cũng thúc giục mình nhanh hơn nữa: “Mau đi thôi, trời chưa
ngả chiều hôm” và ý nghĩa hơn, nhân bản hơn bởi lời thúc giục ấy còn là lời giục
giã đối với đời, với tất cả chúng ta; rằng: cuộc đời đáng yêu, đáng tận hưởng
biết chừng nào, hãy mau nữa lên để cho thời gian có giá trị, để sau này khỏi hối
tiếc, khi tuổi xuân trôi qua.
Ngay lúc buồn thì sự nồng nàn, lãng mạn cũng vẫn không hề vơi đi trong
hồn thơ Xuân Diệu:
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới - mùa thu tới!
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Ông luôn tin tưởng vào cuộc đời tươi sáng, lúc nào cũng ở trong tư thế
háo hức đón chào tương lai. Trong nỗi buồn, trong muôn ngàn dòng lệ tuôn rơi,
ta vẫn nghe thấy tiếng reo vui như trẻ nhỏ được quà: “Đây mùa thu tới - mùa thu
tới!”. Mùa thu đến mang theo bao vẻ đẹp, lẽ nào lại không sướng vui, tấm áo
choàng của “nàng thu” có màu “mơ phai” được dệt từ những chiếc lá vàng. Thơ
quá! Mơ quá! Một tâm hồn tinh tế, nhạy bén tuyệt vời. Cái buồn của Xuân Diệu
trong thời điểm trước Cách mạng là cái buồn tích cực, là nỗi buồn chung của
thời đại. Hơn nữa, đây là con người giàu mộng mơ, giàu khát khao yêu đương
nên càng dễ buồn ngẩn ngơ khi mùa thu tới! sắc thái tình cảm trong thơ Xuân
Diệu tinh vi, không thuần nhất bởi tâm hồn ông như chứa đựng cả thế gian,
nhưng thật đáng tiếc không tìm được người tâm đắc chia sẻ nên ông càng khao
khát yêu đương. Mặc dù ông biết rằng:
Yêu là chết ở trong lòng một ít.
Nhưng ông lại sống không thể thiếu tình yêu:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kể nào.
Cũng bởi vì:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu.
Bên cạnh tình yêu lứa đôi, thơ Xuân Diệu vẫn trọn vẹn một tình yêu thiên
nhiên mà dường như không bao giờ cạn.
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
Nhưng cái đẹp của thiên nhiên phải lấy cái đẹp của con người, cụ thể xinh
đẹp là người thiếu nữ chuẩn mực:
Lá liễu dài như một nét mi
Hơi gió thở như ngực người yêu đến.
Đối với đời, nhà thơ say đắm bao nhiêu thì đối với tình yêu lứa đôi càng
mạnh mẽ bấy nhiêu:
Anh nhớ em, anh nhớ hình anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi.
Chỉ hai câu mà tiếng nhớ vang vọng bao lần, nhớ từ tiếng nói tiếng cười
đến cả dáng đứng, bước đi, bởi vì:
Yêu đến cuồng nhiệt, đến mức không còn gì để diễn tả hơn được nữa,
nhưng cũng có lúc, nhà thơ tự thì thầm:
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.
Và khi tình yêu mãnh liệt ấy không được đáp lại nhà thơ cảm nhận được
sâu sắc sự cô đơn:
Dẫu tin tưởng: chung một đời, một mộng
Anh là anh, em vẫn cứ là em.
Chỉ thì thào, rủ rỉ nhẹ nhàng thế thôi, nhưng là cả một nỗi hờn tủi, trách
móc, buồn bã. Nỗi buồn của nhà thơ xuất phát từ một con người giàu khát khao
yêu đương, say đắm với tình yêu. Điều đó đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn lớn
lao của thơ Xuân Diệu đối với bao thế hệ độc giả, đặc biệt là đối với tầng lớp
thanh niên. Đồng thời nó cũng ghi nhận sự đóng góp độc đáo mới mẽ của ông
trong lịch sử phát triển của thơ Việt Nam hiện đại nói riêng và phần nào lịch sử
phát triển tư tưởng của dân tộc nói chung.
TRẦN HỒNG LAN
(Lớp 11A, Trường PTTH Thiệu Sơn, Thanh Hóa)
Bài 52
ĐỀ BÀI
Trong bài thơ Giục giã, nhà thơ Xuân Diệu viết:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Qua bài thơ Vội vàng và truyện ngắn Toả nhị Kiều anh (chị) hãy chứng
minh và bình luận về quan niệm sống nói trên của Xuân Diệu.
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên đây, thông qua sự hiểu biết về
thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
BÀI LÀM
“Sinh ra trên đời là một việc hết sức đơn giản nhưng sống trên đời lại là
một việc rất khó” (Đ.R.Pixarit). Biết bao con người từng có mặt trên cõi đời này,
họ đã và đang sống, mỗi người theo một cách riêng. Tuy nhiên, sống như thế
nào thì đúng nhất? Đấy vẫn luôn là câu hỏi chờ được trả lời. Một trong những
câu trả lời đã được nêu ra là hai câu thơ trong bài Giục giã Xuân Diệu viết trước
Cách mạng tháng Tám.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Quan niệm Sống đó có nghĩa là gì?
Đi vào tìm hiểu ý nghĩa của câu thơ, chúng ta dễ dàng nhận ra ngay rằng,
Xuân Diệu đã biểu trưng cho sự sống của Việt Nam bằng hình ảnh thông thường
nhất nhưng cũng điển hình nhất: đó là ánh sáng. Nhà thơ sử dụng cấu trúc
nhượng bộ để đưa ra một sự đánh đổi: ông sẵn sàng đổi cả trăm năm sống nhạt
nhẽo lấy duy nhất chỉ một giây phút thôi, nhưng trong giây phút ấy, con người ta
được sống mãnh liệt, sống hết mình, tận hưởng và tận hiến cho đời. Đem trăm
năm đổi lấy một phút là cái giá cắt cổ, đặc biệt đối với những người nhạy cảm
với thời gian, yêu quí thời gian như Xuân Diệu. Vậy mà ông đã chấp nhận cái giá
cắt cổ ấy nhằm khẳng định một điều: với cuộc sống, chất lượng cần hơn là số
lượng. Chỉ có sống hết mình mới thực sự là sống. Còn sống mà vô vị nhàm chán
thì cũng chỉ là một kiểu chết mà thôi.
Vì sao vậy? Trước hết bởi Xuân Diệu nhận ra rằng cuộc đời này đẹp vô
cùng và rất đáng sống. Mọi sự kì diệu của cuộc sống đều tập trung vào mùa
xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Hãy thử nhìn xem mùa xuân bày ra trước mắt chúng ta
tươi đẹp mơn mởn biết nhường nào.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Cảnh sắc đất trời tươi trẻ, vị ngọt ngào, âm thanh quyến rũ của tình yêu
cứ như mời, như gọi, ngồn ngộn tràn đầy. Nhưng than ôi! Đời người là hữu hạn,
thời gian để chúng ta hưởng thụ cuộc sống không nhiều:
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi.
Cho nên, con người phải sống gấp lên, phải biết tranh thủ từng khoảnh
khắc, sống hết mình, yêu hết mình và dâng hiến tình yêu của mình cho tất thảy.
Những người sống nhàm chán, chưa từng thấy cuộc đời là thú vị thì thử hỏi
cuộc sống của họ còn là gì ngoài cái vô nghĩa, mà vô nghĩa còn là gì ngoài cái
chết nữa đâu? Tuy thế, không phải bất cứ câu thơ nào cũng có thể trở thành
quan niệm sống. Chỉ coi là quan niệm sống những câu thơ đúc kết ở đỉnh cao
trạng thái tâm lí, tình cảm, nhận thức, suy nghĩ, khát khao của con người trước
cuộc đời. Nó trở thành một thứ triết lí ăn sâu vào máu thịt, quyết định sự phản
ứng và cách cư xử của con người trong xã hội. Nó không chỉ ảnh hưởng ở một
vài thời điểm bộc phát mà ảnh hưởng đến cả một chặng đời, có khi cả một đời
người. Riêng đối với nhà văn, quan niệm sống còn chi phối hàng loạt các sáng
tác, để lại dấu ấn rất đậm trong thơ văn của anh ta. Xuân Diệu không phải là
ngoại lệ.
Trung thành với quan niệm đã đề ra, nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại
Việt Nam ấy luôn luôn sống hết mình. Niềm ham sống trở thành một sức hấp
dẫn đặc biệt của thơ ông:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
Nhịp điệu đoạn thơ nhanh, gấp, dồn dập, thể hiện trạng thái cảm xúc
cuống quýt, vồ vập của Xuân Diệu với cuộc đời. Nhà thơ muốn tận hưởng sự
sống ngay từ khi nó mới bắt đầu, đang ở độ non tơ mơn mởn. Ông mở lòng ra
đón nhận mùa xuân, tình yêu, cảm nhận nó bằng tất cả sức mạnh mình có thể.
Cho nên suốt cả đoạn thơ, không thể tìm ra một từ nào phẳng lặng, vừa vừa. Tất
cả đều như nhảy mạnh lên, căng mình ra, quấn đầy sự sống và say sưa với nó.
Ngoài cụm từ “Ta muốn” những từ nghe có vẻ bình thường như “cho”, thậm chí
cả từ “và” đặt trong khổ thơ đều trở nên nồng nhiệt bất bình thường. Cảm xúc
lặp đi lặp lại nhiều lần liên tiếp. Mật độ xuất hiện tăng khiến cường độ biểu đạt
tình cảm cũng tăng theo. Nghệ thuật điệp từ đã góp phần to lớn diễn tả độ say
đắm vồ vập, khát vọng chiếm lĩnh cuộc sống đang tăng dần của nhà thơ. Đôi với
Xuân Diệu, sống đồng nghĩa với yêu. Cho nên sống hết mình cũng có nghĩa là
yêu hết mình. Chẳng thế mà tình yêu của ông đối với tất cả mọi vật trên đời đều
nồng nàn như tình yêu đôi lứa. Khao khát giao cảm với đời thực sự lên đến đỉnh
điểm khi Xuân Diệu thốt lên:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Câu thơ mang đến cho ta sự bất ngờ vì cách diễn đạt quá táo bạo. Nhưng
xét cho kĩ thì đó là kết quả tất yếu phải có. Khi Xuân Diệu nhìn đời, ông đã không
nhìn bằng con mắt bình thường. Nhà thơ cảm nhận và mô tả thiên nhiên bằng
trực giác, cụ thể hóa cả những khái niệm trừu tượng nhất như mùa xuân:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Từ chữ “ngon” đến chữ “cắn” chỉ là một cái với tay. Nói cách khác, chúng
là hệ quả tất yếu của nhau. Ai có thể cảm nhận cuộc sống một cách cụ thể rõ
ràng và say sưa trìu mến đến vậy, ai có thể khát khao chiếm lĩnh sự sống và thời
gian mãnh liệt hơn thế ngoài những con người sống hết mình cho đời như Xuân
Diệu? Yếu tố nhục cảm chính là phương thức giao cảm tinh nhạy nhất của nhà
thơ với cuộc đời, mở đường cho con người đi tới những hạnh phúc đích thực
nơi trần thế. Tuy nhiên, ranh giới giữa sự trong sáng lành mạnh và cái vẩn đục
rõ ràng. Thật chính xác một trăm phần trăm khi người ta nói Xuân Diệu là con
người “thèm yêu khát sông”. Đứng trước nguy cơ phai tàn của sự sống, đôi khi
ông có những ước vọng ngông cuồng:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Ước vọng ấy nhìn qua có vẻ khác người nhưng “Xuân Diệu là một người
của đời, một người ở giữa loài người” (Thế Lữ). Kì thực đó cũng chỉ để nêu lên
mong muốn giữ cái đẹp, níu giữ sự sống, nói lên khát vọng giao hòa với cuộc
đời của nhà thơ.
Xuân Diệu yêu đời như thế, sống mãnh liệt như thế, bảo ông làm sao có
thể chấp nhận được cuộc sống đơn điệu nhàm tẻ? Trái lại, ông còn phải phản
ứng, phải phê phán nó. Thái độ này thể hiện rất rõ truyện ngắn Tỏa nhị Kiều.
Bước vào căn nhà Phan thuê trọ, không, ngay từ lúc mới bắt đầu đặt chân lên
“con đường sắc xanh không rải nhựa”, Xuân Diệu đã phải tiếp xúc với bầu không
khí tang tóc quạnh hiu. Mọi vật đều buồn lưng chừng như nhau, cái gì cũng lỡ
cỡ, dở dang, xui lòng tác giả cũng không đủ cớ mà buồn nữa kia, “phải chịu ngùi
ngùi một cách vô lí”: “Đoạn đường chạy qua đó không đủ rộng để làm một
đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một ngõ hẻm;…; ánh sáng không chịu
sáng, giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi chiều
dài”. Tâm trạng bùi ngùi càng xâm chiếm lòng Xuân Diệu khi ông gặp bạn Phan
âm thầm lặng lẽ. Sự lặng lẽ của anh ta là một thứ hư vô, và nhà thơ “cảm như
không có anh Phan”. Thật đáng sợ, một con người lại không nhận thấy sự có
mặt của anh ta. Phải chăng đó là sự sống? Song điển hình nhất cho lối sống
“buồn le lói” vẫn chưa phải là Phan mà là hai nàng Kiều nhà dưới. Có tất cả năm
sự so sánh được Xuân Diệu đưa ra để mô tả tính cách và cuộc sống của hai cô
gái ngây ngây thơ thơ (chứ không được là ngây thơ) này. Đầu tiên, họ như hai
cột rơm, ít nói quá, hiền lành quá. Rồi họ như hai cái cây, họ lại còn thua hai cái
cây bởi cây còn ra hoa kết trái, chứ đời con gái của họ, họ biết làm gì? Không
sắc, không duyên và cũng không tiền, chỉ có hiền lành. Rồi nữa, họ như hai cánh
đồng - chắc là hai cánh đồng hoang bởi vì họ chỉ biết buồn mờ, buồn lặng nhưng
buồn lâu. Hai cô như hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh khi chiều giăng lưới
qua muôn gốc cây, bị bủa vây bởi cuộc đời tàn dần mà không biết. Và cuối cùng,
hai cô lẫn trong mù sương. Có điều đau xót là trong cả năm lần so sánh ấy,
chưa bao giờ Quỳnh và Giao (tên hai cô gái) được xem như những con người.
Cao nhất họ cũng chỉ là hai cái bóng đang tàn hòa dần vào cõi hư không. Không
phải Xuân Diệu bất nhẫn đâu mà thực tế cuộc sống của hai cô gái đã biến họ
thành như vậy. Xuân Diệu tiếc cho hai cô gái vì hai cô chưa từng được hưởng
thụ, thậm chí chưa từng nhận biết được vẻ đẹp diệu kì của cuộc sống. Xuân
Diệu thương cho hai cô vì hai cô cũng là nạn nhân của Ao Đời bằng phẳng, tù
đọng. Xuân Diệu thông cảm với hai cô vì “những nơi vắng vẻ vô cùng thê lương”
của tâm hồn nhà thơ cũng như tất cả chúng ta ít nhất từng một lần nếm trải.
Xuân Diệu đặt ra bao nhiêu giả thiết không lành để giải thích cho việc hai cô
thiếu nữ kia tự nhốt mình trong “một buổi chiều triền miên của sự vật và của linh
hồn, một buổi chiều trong nhà và trong tâm lí”. Song cuối cùng, tất cả đều chỉ là
lầm tưởng. Họ có đầy đủ điều kiện để trở thành một gia đình hạnh phúc luôn tràn
ngập tiếng cười. Khi phát hiện ra những con người vô vị kia không chỉ là nạn
nhân của xã hội mà còn là nạn nhân của chính bản thân mình thì tác giả câu
chuyện thay đổi thái độ, ông rất giận. Sự ngạc nhiên đến lạ lùng và ấm ức của
nhà thơ lúc đưa ra câu hỏi “Sao nhà ấy lại bao trùm một bầu không khí nhạt tẻ,
không ánh nắng, chẳng hương người sao lại có hai người con gái kia, ngơ ngác
như không biết sống?” là một thái độ phê phán. Trong khi Xuân Diệu ra sức tận
hưởng cuộc đời thì “ông cha lặng lờ hết ra lại vào, hai cô cũng hết vào lại ra”.
Trong khi Xuân Diệu cố gắng níu giữ từng giây phút của thời gian thì hai cô gái
này lại “để cho ngày tháng qua” thờ ơ, hờ hững. Ông ngao ngán nhận ra rằng có
phải họ đang sống đâu mà họ đang kéo dài những ngày chưa hết. Đến nước
này, Xuân Diệu không thể nào chịu đựng hơn được nữa. Ông mong ước có một
loạt sự biến đổi: Giá mà Phan ồn ào, nghịch ngợm, ranh mãnh, giá mà họ đàng
điếm, hung dữ, lẳng lơ, giá mà… Giá mà những con người kia rơi hãm vào một
cực đoan nào đấy thì đối với Xuân Diệu, họ vẫn còn đang sống, nhà thơ sẽ cảm
thấy dễ chịu hơn. Còn ở vào khoảng giữa, họ như người đã chết rồi. Xuân Diệu
mỏi mòn chờ đợi, đến nỗi khi vớ được một phần sáu nụ cười của Phan - cái nhíu
da rất đáng buồn vì chứng tỏ một con người lười sống - ông đã cảm thấy “vui
vui, hơi nghĩ ngợi”. “Hai cô buồn buồn ngồi đó, trên tràng kỉ, chờ đợi một sự gì
xảy đến”. Xuân Diệu cũng chờ. Nhưng khi tịnh không thấy một bóng dáng nào
thay đổi thêm nữa, họ vẫn ngồi, còn ông, ông quyết tâm hành động. Ông muốn
làm một viên sỏi, một cục đá đến rơi trên mặt nước phẳng lì. Ra vẻ láu táu, ráng
lấy một bộ mặt bướng bỉnh, Xuân Diệu đến nói chuyện với hai Kiều, định tâm
làm cho hai cô tức, cáu, đem tặng cô gái hạnh phúc thấy mình cũng chẳng xẳng
xớm rầy la người khác. Nhưng thất vọng vẫn hoàn thất vọng. Đến cả Phan mà
còn không chịu nỗi cuộc sống tẻ ngắt của hai cô thì làm gì còn ai có thể an ủi
được cảnh trống không của đời họ nữa. Cả câu chuyện là một chuỗi phản ứng
của Xuân Diệu trước một cuộc sống (nếu có thể gọi đó là cuộc sống) trái ngược
hẳn với cuộc sống ông hằng khao khát hòa mình. Mọi tình cảm ngùi ngùi,
thương, tiếc, khó chịu, ngao ngán, mong chờ và cả hành động chọc ghẹo đều
xuất phát từ quan niệm sống của Xuân Diệu mà ra. Ông cũng đứng trên lập
trường quan niệm sống ấy để cất lên tiếng nói phê phán. Giả thử Xuân Diệu phải
sống một trăm năm như hai cô gái kia, thì đó không những lòng sự “vô nghĩa lí”
mà còn là một cái án tử hình. Cuộc sống của hai cô gái là cuộc sống của những
người già không còn tuổi xuân, những người đã đánh rơi mất sự sống. Mà “xuân
hết” nghĩa là Xuân Diệu “cũng mất” (Vội vàng). Đấy là sự chết về mặt linh hồn.
Từ bài thơ Vội vàng và truyện ngắn Tỏa nhị Kiều toát lên một sự khẳng
định và một sự phủ định. Đặt lên bàn cân nhận thức hai cuộc sống với hai giá trị
có hình thức tương đương: mội bên số lượng rất ít, chất lượng cực cao còn bên
kia, số lượng rất cao, chất lượng thì cực ít, Xuân Diệu đã khẳng định cuộc sống
có chất lượng và phủ định cuộc sống vô ý nghĩa. Ông đã chứng minh hùng hồn
cho quan niệm sống của mình. Quan niệm ấy trở thành một luồng gió mới thổi
vào văn học lãng mạn 1930 - 1945. Luồng gió mới này thực chất nảy sinh từ
đâu? Ở phần trên, bài viết chỉ đề cập đến sợi dây logic ẩn giấu đằng sau -
nguyên nhân sâu xa - bây giờ ta mới xem xét đến. Tại sao trong thời phong kiến
chưa có ai đề ra quan niệm sống này? Là bởi vì khi ấy, bản ngã của con người
bị triệt tiêu. Còn ở thời đại của Xuân Diệu, cái tôi cá nhân đã được thức tỉnh,
hiện diện một cách hoàn chỉnh, đường hoàng. Con người ta nói nhiều đến bản
thân, đến những cái mình nghĩ, mình muốn. Riêng trong bài Vội vàng, chữ “tôi”
xuất hiện tám lần. Và “ta muốn” chính là tên con sư tử dũng mãnh - một trong ba
biến thể của tinh thần mà nhà triết gia vĩ đại Nietsche của phương Tây từng nói
đến. Trách nhiệm quyền năng của con sư tử này là tự giải phóng mình khỏi
những áp đặt tồn tại ngàn đời, trở nên thung dung cho những sáng tạo mới. Nhờ
thế, Xuân Diệu ý thức được thời gian trôi qua đem lại quá nhiều mất mát cho cá
nhân. Ông ham sống. Khát vọng, tình cảm của ông khác hẳn khát vọng, tình cảm
của con người thời trung đại. Nó không bị bó buộc trong một chừng mực nhất
định nào mà được đẩy lên đến cao trào, đến mức tự đốt cháy để tỏa sáng. Cùng
là cái tôi, nhưng Thế Lữ nhốt mình trong tháp ngà nghệ thuật, Hàn Mặc Tử say
sưa ở cõi mộng, trường điên… Chỉ có Xuân Diệu thiết tha gắn bó với vườn tràn
đầy hương sắc. Cá tính và thời cuộc đã làm nên hoàn cảnh nảy sinh cho ham
muốn sống hết mình của nhà thơ, đồng thời, cũng là một trong những cơ sở để
đánh giá giá trị quan niệm ấy.
Trước tiên, phải khẳng định quan niệm sống của Xuân Diệu là chân lí
muôn đời không ai có thể phủ nhận. Nó hướng tới con người, nhân đạo hóa con
người khiến con người ta sống có ý nghĩa hơn, sống người hơn. Trong xã hội
Việt Nam thời kì 1930 - 1945 ngột ngạt bấy giờ, nó chỉ ra được cuộc sống đích
thực nơi trần thế. Nó mang đến cho tầng lớp thanh niên tiểu tư sản đang chìm
trong lối sống buồn chán, ảm đạm và vô vị một cách sống mới sôi nổi, mạnh mẽ.
Nó lay động và thắp sáng lên trong trái tim của họ niềm yêu đời, yêu sống mãnh
liệt thiết tha. Nó khơi dậy đời sống của những thế giới nội tâm phong phú và tinh
tế. Đối với chúng ta hôm nay và cả những thế hệ mai sau, quan niệm sống ấy
vẫn sẽ không ngừng phát huy tác dụng. Quả là tinh thần, quan niệm của Xuân
Diệu được thể hiện rất ấn tượng. Tuy nhiên, có người đặt ra câu hỏi là: trả một
cái giá cắt cổ như thế, liệu Xuân Diệu có thể hiện cực đoan quá chăng? Xét trên
nghĩa đen của văn bản, đúng là ông có đưa ra một sự đối lập hơi quá mức. Theo
quan niệm xưa, trăm năm là giới hạn lớn nhất cho vòng đời của con người. Cuộc
sống của một người không nhất thiết phải đi hết một trăm năm ấy. Nhưng một,
phút? Quá ngắn ngủi để có thể coi là một đời người, chỉ có thể coi là một khoảnh
khắc sống mà thôi. Nếu đời người như bóng câu qua cửa sổ thì một phút kia
thực chẳng có nghĩa lí gì. Song, ta không được quên rằng ngôn ngữ văn học là
thứ ngôn ngữ kì diệu không hề đồng nhất với bất cứ thứ ngôn ngữ nào khác.
Một trong những đặc điểm của nó là ít nhiều đều mang tính tượng trưng và chỉ
đòi hỏi sự chính xác về bản chất. Chẳng phải các nhà văn vẫn dùng cái vô lí để
nói cái có lí, cái hiện tượng để nói cái bản chất, cái ngẫu nhiên để nói cái quy
luật đó sao? Vậy thì hà cớ gì Xuân Diệu lại không thể dùng một cách diễn đạt,
một hiện tượng quá mức để nói về một sự thật chẳng quá mức tí nào? Tôi cho
rằng nếu quả trên đời này có ai sống vô vị hệt như hai cô gái trong Tỏa nhị Kiều,
không có đời sống hoạt động bên ngoài cũng chẳng có đời sống nội tâm bên
trong, sống lẫn vào đồ vật, bị đồ vật hóa và “chết cũng là mục đích” thì cuộc
sống của họ kéo dài một trăm năm, chứ có kéo dài một nghìn năm cũng chẳng
có ích gì, chẳng để làm gì. Vả chăng, Xuân Diệu đâu có nói chỉ cần sống một
phút chất lượng thôi là đủ. Ông đã đặt quan niệm sống của mình trong tình thế
bất đắc dĩ nhất, buộc phải lựa chọn một trong hai khả năng. Điều đó là rất đúng
bởi vì bản chất của mọi hiện tượng, qui luật, qui luật và cả con người chỉ bộc lộ
rõ nhất trong hoàn cảnh điển hình nhất. Cũng như khi người ta nói: sinh ra trên
đời, ai mà chẳng sợ chết; nhưng chết vinh còn hơn là sống nhục.
Về mặt đúng sai, thiết nghĩ hai câu thơ của Xuân Diệu không còn gì phải
bàn thêm nữa. Ta chỉ nói về một số ít điểm hạn chế của nó thôi. Để trả lời cho
câu hỏi “sống như thế nào thì đúng nhất?”, quan niệm Xuân Diệu thể hiện qua
hai câu thơ trong bài Giục giã là không sai, nhưng nó có vẻ chung chung quá.
Sau khi tiếp tục quan niệm đó xong, ta thấy yêu đời hơn, ta muốn sống có ý
nghĩa. Song, một vấn đề lại nảy sinh là: sống như thế nào thì mới có ý nghĩa?
Bản thân hai câu thơ của Xuân Diệu không giải quyết được vấn đề này. Có lẽ,
trong khuôn khổ câu chữ hạn hẹp, Xuân Diệu chỉ có điều kiện thể hiện quan
niệm sống của mình trên tinh thần phổ quát nhất, cơ bản nhất của nó. Vậy, trong
suy nghĩ của ông lúc bấy giờ, sống hết mình có nghĩa là gì? Ta hãy thử tìm hiểu
điều này qua các sáng tác thơ văn của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám -
những tác phẩm đã chứng minh và cụ thể hóa quan niệm sống kia. Điều đầu tiên
ta nhận thấy, cũng như đã khẳng định khi phân tích bài Vội vàng là trong quan
niệm của Xuân Diệu, sống đồng nghĩa với yêu. Khát vọng tận hiến cho đời chỉ là
tận hiến tình yêu. Trong xã hội bị áp bức đen tối bấy giờ, chỉ có tình yêu lứa đôi
và cảnh sắc ngoại giới thôi thì không thể xoay chuyển gì được. Xuân Diệu khao
khát giao cảm với đời nhưng có phải đời lúc nào cũng dang tay chờ đón, đáp lại
ông đâu. Không ít lần, Xuân Diệu đã phải cay đắng thốt lên:
Lòng anh là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọt
Lá xanh chẳng ướt đến da ngoài.
Niềm khát sống bắt nguồn từ cái Tôi và là một mặt trong mâu thuẫn lớn
lao của cái tôi ấy. Cho nên, dù thế nào nó cũng không thể tách rời mặt thứ hai
kia: đó là nỗi cô đơn, hoài nghi, bế tắc trước cuộc đời. Đây là một bi kịch mang
tính chất xã hội bởi lẽ xã hội tư sản thổi phồng cá nhân và những khát vọng cá
nhân đặc biệt là khát vọng hưởng thụ, nhưng lại quay lưng với những khổ đau
bế tắc của cá nhân. Do đó, xét quan niệm sống này trong hoàn cảnh xã hội lúc
bấy giờ và trong mối tương quan với những mâu thuẫn khác của đời sống tinh
thần của con người thì trên một phương diện nào đó, say sưa chẳng thể an ủi
dài lâu. Sau những giờ phút mê mải với tình yêu, Xuân Diệu lại phải đối mặt với
những bế tắc cô đơn của chính mình, nên ông sợ hãi tương lai: “Gấp đi em, anh
rất sợ ngày mai”. Cũng vì thế mà thời gian trong mắt Xuân Diệu chỉ là sự vận
động đến lụi tàn. Cái chung chung, khái quát thực ra lại là may mắn lớn cho hai
câu thơ trong bài Giục giã này. Hai câu ấy chỉ giữ lại phần chân lí tinh hoa nhất
trong quan niệm sống của Xuân Diệu lúc đó, nó đúng đắn hoàn toàn. Còn những
cái cụ thể ư? Người đời cứ việc hiểu theo ý mình. Tư tưởng của con người
không ngừng phát triển. Cũng vẫn Xuân Diệu ấy, nhưng khi đi theo cách mạng,
cuộc đời ông chuyển sang trang mới, tư tưởng quan niệm của ông cũng có
những thay đổi lớn lao. Chỉ có một điều duy nhất không hề thay đổi. Ông vẫn
sống hết mình. Điểm khác là khái niệm tận hiến không giới hạn trong tình yêu
nữa mà bao gồm cả sự lao động sáng tạo, đem những tinh tuý của mỗi cá nhân
ra góp vào đời, tô điểm cho cuộc sống ngày một đẹp tươi. Con người không chỉ
sống vì mình mà sống vì người khác. Phải hiểu “sống huy hoàng” theo nghĩa
mới này thì mới đúng. Như vậy, trong thời đại ngày nay, quan niệm sống của
Xuân Diệu mới thực sự phát huy đến mức cao độ tác dụng của nó đối với con
người.
H. Plutac từng nói “tình yêu cổ xưa nhất nhưng cũng vĩ đại nhất là tình yêu
cuộc sống”. Chứa đựng hạt nhân của sự vĩnh cửu này, quan niệm sống của
Xuân Diệu trong hai câu thơ:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Sẽ không bao giờ bị vùi vào quên lãng. Nó mãi là một trong những kim chỉ
nam của con người, nhất là những người trẻ tuổi đang đứng trước ngưỡng cửa
cuộc đời. Nó chỉ cho con người ta biết phải làm gì, bắt đầu là một niềm ham
sống dấy lên trong lòng họ.
LÊ THU HUYỀN
(Trường PTTH Hà Nội - Amsterdam, Hà Nội)
Bài 53
ĐỀ BÀI
Bình giảng hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
BÀI LÀM
Không thắm thiết, nồng nàn như Xuân Diệu, cũng chẳng quắt quay đến
điên cuồng như Hàn Mặc Tử, nỗi buồn của Huy Cận tựa hồ như, nỗi buồn u hoài
của một bậc hiền sĩ mà vẫn không thiếu chất phong tình của một lãng tử. Nỗi
buồn của Huy Cận, trái tim u sầu của nhà thơ tuy cùng chung những nhịp đập u
uất, bế tắc của các thi sĩ đương thời mà vẫn có những họa tần riêng những hơi
thở riêng không lẫn vào đâu được. Bài thơ Tràng giang trong tập Lửa thiêng của
chàng thi sĩ 21 tuổi này là nhịp thở của trái tim nhạy cảm mà mấy thập kỉ qua vẫn
chưa nhòa phai trong tâm tưởng độc giả:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu…
Nốt nhạc mở màn có ngân lên những tiếng lòng tuyệt diệu là điều mà
chúng ta cần phải tìm hiểu, bình xét.
Bài thơ ra đời trong một lần dừng chân ở bờ nam bến chèm, sông Hồng,
nhưng có lẽ nó đã được thai nghén từ lâu trong một tâm hồn giàu tình cảm của
nhà Thơ mới có thể bật lên những âm thanh, tứ thơ đượm buồn, nặng lòng với
quê hương, thấm đẫm một nỗi hoài hương ngay trên đất mẹ.
Mở đầu bài thơ, cũng là mở đầu khổ thứ nhất bằng cảnh con thuyền, dòng
sông vốn chẳng còn là mới trong thi ca Việt Nam:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Dòng sông rộng, dài gợn sóng, đẩy thuyền xuôi dòng trên những gợn
sóng song song, chở trên mình cả nỗi buồn chồng chất. Sông dài vốn được gọi
là “trường giang” theo âm Hán Việt, vẫn chẳng thay đổi chút ngữ nghĩa nào khi
gọi tràng giang, mà sao mỗi khi cất giọng đọc lên, hai âm “ang” họa cùng thanh
huyền cùng thanh ngang cứ làm cho âm điệu dàn trải ra, mở rộng ra làm cho
hồn người cùng nỗi lòng tác giả cũng theo đó mà lan ra trên sông nước. Hai câu
thơ được kết nối bằng nhiều từ đối nhau mang lại cho cảnh vật chút gì cổ kính,
trang nghiêm mà vẫn thấm đẫm tình người với “nỗi buồn điệp điệp”. Huy Cận đã
tượng hình cho nỗi buồn. Nỗi buồn “điệp điệp” như từng đợt sóng cuộn về, dâng
trào, từng đợt gối vào nhau, và cứ thế không ngớt vỗ vào bờ, vào tâm hồn tác
giả. Nỗi buồn dường như rõ ràng hơn, dễ thẩm thấu vào lòng người hơn khi
“buồn điệp điệp” hòa với sóng “nước song song”. Sóng nước cứ cuộn trôi chẳng
bao giờ gặp gỡ, cứ “song song” đơn lẻ như hình ảnh con thuyền xuôi mái trông
có vẻ an nhàn mà đơn chiếc. Có con sóng nào gặp được con sóng nào? Và hồn
Huy Cận phải chăng đang giấu kín một điều gì đó tựa hồ như nỗi buồn, một
những thanh bằng vốn là chủ đạo của hai câu thơ trên như làm cho độc giả thêm
tin rằng mình tiếp nhận đúng.
Hai câu thơ tiếp theo vẽ tiếp thêm những họa tiết mới lạ:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền, nước cứ trôi, nỗi sầu chia theo sóng nước về đến chốn nào. Một
cành củi khô quay quay trên dòng nước. Cũng hòa theo bố cục vốn có của bức
tranh tràng giang, mà Huy Cận đã khéo họa hình, những câu thơ lại hiện lên
những hình ảnh đối lập, tạo nên nét cổ kính cho bài thơ. Hình ảnh đối lập đẹp
nhất có lẽ là “thuyền và nước”.
Thuyền và nước vốn là những gì sóng đôi (“Chỉ có biển mới biết thuyền đi
đâu về đâu” Xuân Quỳnh - Thuyền và biển) mà sao nghe cứ xa cách, cứ lạc nhịp
mà xót xa. Hình ảnh “Củi một cành khô” là một hình ảnh táo bạo mới trong thi ca
Việt Nam vì lẽ từ trước đến đây những vật tầm thường vốn không được trang
trong đặt vào vần thơ cổ kính thế. Nhưng còn hình ảnh nào hay hơn, gợi tả hơn
một cành củi khô xoay xoay giữa dòng, không biết trôi về đâu, chỉ biết đi theo vô
định và mang theo cái nhỏ nhoi cạn hết nguồn sống của mình? Còn trạng thái
nào gợi cảm hơn trạng thái “lạc mấy dòng”, xoay vần theo từng con nước? Số
thanh bằng, thanh trắc tương xứng và hỗ trợ nhau ở câu trên, câu dưới nghe tựa
hồ như từng đợt sóng, đợt sóng lòng hắt lên nỗi buồn quạnh hiu, cô đơn, chẳng
biết về đâu, trên mấy dòng vô định.
Nỗi buồn dâng đầy theo từng đợt sóng, theo từng cảnh vật đi qua đôi mắt
cô đơn, âu sầu ấy.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nhìn trên sóng những cồn nhỏ lơ thơ với gió đìu hiu. Nghe trong không
gian tiếng chợ vãn văng vẳng đó đây khi bóng chiều buông xuống. Chỉ là “lơ
thơ”, chỉ là “đìu hiu”, những từ láy giản dị mà gợi tả, mà gây cảm xúc đến lạ lùng.
Cái quạnh quẽ, cái đơn chiếc như bật lên thành tiếng thở dài u uất chỉ sau mấy
từ láy giản dị ấy. Huy Cận đã công nhận ông láy từ “đìu hiu” trong Chinh phụ
ngâm.
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Những thứ hỏi không có sự sáng tạo từ những gì đã có, Huy Cận có thể
thốt lên “gió đìu hiu” cho cả miền không gian, thổi vào từng ngọn gió nỗi hiu
quạnh được hay không? Chưa hết, cái quạnh hiu như được cộng bằng: “Tiếng
làng xa vãn chợ chiều” làm cho không gian thoáng rộng của dòng sông bỗng trở
nên ngột ngạt, như ngừng thở trong một không gian đã buồn lại tĩnh mịch đến
không ngờ. “Chợ chiều” vốn là những gì sống động còn sót lại giờ đây đã “vãn”
thì phải biết cái sinh khí của cảnh vật chẳng còn là mấy. Vậy mà, chút sinh khí
đọng lại chỉ văng vẳng đâu đây, tựa hồ như những gì ở rất xa mà lại sắp mất.
Cảnh vật qua những vần thơ dàn trải, tiết tấu chậm rãi cứ quyện vào nhau gợi
lên một nỗi “sâu trăm ngả”.
Lòng người buồn tưởng chừng như nghẹn lại:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Nắng trải xuống cảnh vật, trời như được đẩy lên cao. Sông như dài thêm,
trời như rộng ra, cảnh càng thêm quạnh quẽ. Bước đi của không gian “nắng
xuống, trời lên” vốn dĩ là cái động, nhưng cái động cũng chẳng hơn gì cái tĩnh.
Cái động trong tĩnh đã khái quát được toàn cảnh trời cao lồng lộng, “sâu chót
vót”. Cách sử dụng từ trái ngược như Huy Cận quả là dụng công khiến cho cảnh
cao, rộng lại thêm cả chiều sâu. Nhưng hơn cả, có lẽ từ “sâu chót vót”, vẫn gợi
lên chút gì lạnh lẽo, băng giá trong khung cảnh trời nước này. “Bến cô liêu” tựa
như một phụ âm họa cho bản nhạc lặng buồn thêm buồn lặng.
Cả hai khổ thơ là một khúc nhạc mà âm trầm và âm lặng vốn là âm hưởng
chủ đạo. Những luyến láy của khúc nhạc ấy thể hiện của một tài năng vận dụng
ngôn ngữ tinh tế, chắt lọc. Những âm luyến ấy cứ như sóng cuộn, vỗ vào thời
gian, vang mãi đến bây giờ.
Khách văn chương vốn được xem là những người sống trong thế giới của
mộng ảnh. Thế nhưng, Huy Cận sau này là một nhà thơ tích cực trên cả thi đàn
và cả trong cuộc sống. Xét đến cùng nỗi sầu của Huy Cận không phải là nỗi sầu
bi quan, yếm thế mà là nỗi sầu nhân sinh, nỗi sầu khao khát được giao cảm và
sống. Điều này đã được chứng minh bằng cuộc đời nhà thơ và bằng những vần
thơ sống động, đắm say với cuộc sống sau này:
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
LÊ ĐIỆP KIỀU TRANG
(Trường PTTH chuyên Lê Hồng Phong
Thành phố Hồ Chí Minh)
Bài 54
ĐỀ BÀI
Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
BÀI LÀM
Có nhà phê bình nào đó đã tinh tế nhận xét rằng: Thơ Huy Cận không
phải rượu rót vào chén (tức không say nông) mà là men đang lên; không phải
hoa trên cành (tức không khoe sắc rực rỡ) mà là nhựa đang chuyển. Đúng thế!
Cái hồn thơ bề ngoài tưởng lặng lẽ mà rất xao, rất động trong thơ ông thật không
dễ gì nắm bắt.
Đọc Tràng giang - bài thơ trang trọng, cổ kính, đậm đà cốt cách Đường thi
mà giản dị, mới lạ, độc đáo in rõ dấu ấn của thơ lãng mạn đương thời - mới thấy
nhận định trên là đúng.
Là Tràng giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước,
Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.
(Lê Vy)
Hai khổ cuối của bài thơ đã góp phần tạo nên điều ấy:
… Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Âm hưởng trầm trầm, chất ngất u buồn của câu thơ đầu tiên lan rộng đến
hai khổ cuối. Từ một cành củi khô ở trước đến hình ảnh “bèo dạt” vô định vô
phương ở sau đều gợi nên sự chia li “tan” mà không “hợp”.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Trước cảnh “mênh mông” sông dài trời rộng, cánh bèo xanh nỗi trôi -như
nét điểm xuyết gợi nên cả kiếp người: bé nhỏ và vô định. Hình ảnh không phải
mới, vốn dĩ đã xuất hiện khá nhiều trong ca dao và thơ cổ nhưng đặt trong dòng
Tràng giang vẫn đủ sức khiến người thưởng thức cảm nhận rõ rệt thêm cái
mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian, cái vô cùng của thiên nhiên
tạo hóa.
Cảnh bao la nhưng vắng bặt bóng dáng con người. Điệp từ “không” như
điểm nhấn cho sự trống vắng ở đây. Sông nhưng không có “đò”, không hề có
cảnh “cô chu trấn nhật các sa miên” hay “Bến My Lăng nằm không thuyền đợi
khách”. Cá dáng cầu nghiêng nghiêng, “cầu bao nhiêu nhịp thương mình bấy
nhiêu” cũng không hề xuất hiện. Tất cả đều “lặng lẽ”, chỉ có thiên nhiên “bờ
xanh” nối tiếp thiên nhiên “bãi vàng”.
Gam màu lạnh. Cảnh quạnh quẽ càng thêm quạnh quẽ, u buồn càng chất
ngất u buồn hơn. Cánh bèo trôi hay chính con người đang lạc loài giữa cái mênh
mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian?
Huy Cận là một nhà Thơ mới, ảnh hưởng khá nhiều dòng thơ lãng mạn
Pháp. Thế nhưng, ông còn là người thuộc nhiều, ảnh hưởng nhiều cốt cách
trang trọng, cổ kính của thơ Đường. Cốt cách ấy được thể hiện rõ nét trong khổ
cuối:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Bậc Thánh thi Đỗ Phủ đời Đường từng có câu:
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Thu hứng)
và được Nguyễn Công Trứ dịch một cách tài hoa rằng:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Ý thơ đã được tái hiện độc đáo qua ngòi bút của Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Từ láy “lớp lớp” khiến mây dày đặc thêm, nhiều tầng nhiều lớp thêm, nên
khiến “núi” ánh lên sắc bạc huyền hoặc như trong mộng. Tứ thơ thật cao nhã
lắm thay!
Trong cái tĩnh gần như tuyệt đối của trang thơ, cánh chim có lẽ là chút hồn
“động” nhất.
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Đã là “cánh nhỏ” mà lại chao nghiêng nên nét thanh mảnh của cánh chim
càng nâng thêm một bậc, sắc hoàng hôn bát ngát trên trang thơ, cánh chim bé
bỏng nghiêng chao có gợi nên niềm xúc cảm? Sẽ chẳng bao giờ ta quên được ý
thơ…
Giữa không gian cô tịch, ngẩng nhìn lên cao rồi lại cúi trông mặt nước:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch: “Cử đầu vọng minh nguyệt,
đê đầu tư cố hương”?
Âm hưởng hai câu Đường thi tuyệt tác của Thôi Hiệu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Phảng phất ở đây. Thế nhưng Thôi Hiệu phải có “khói sóng” mới “buồn
lòng ai”. Còn nhà thơ của chúng ta? “Không khói hoàng hôn” mà “lòng quê” vẫn
“dợn dợn vời con nước”! Từ láy “dợn dợn” và từ “vời” khiến nỗi buồn triền miên,
xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến không cùng!
Nhận xét về Huy Cận, nhà phê bình Hoài Thanh từng viết: “Huy Cận có lẽ
đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng Người luôn lắng nghe mình sống
để ghi lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong”. Đọc những vần thơ của
thi nhân, chỉ mong cảm nhận và hiểu thêm một chút về con người thơ ấy. Tràng
giang sẽ còn mãi trôi đi, lấp lánh trên thi đàn Việt Nam, mãi trôi đi để nhớ để
thương trong lòng người đọc…
PHẠM THỊ KIM NHƯỜNG
(Trường PTTH chuyên Lê Hồng Phong
Thành phố Hồ Chí Minh)
Bài 55
ĐỀ BÀI
Bình giảng bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
BÀI LÀM
Ai đã từng theo bước Nguyễn Bính vào khu rừng mơ nơi Hương Sơn cổ
tích, ai đã từng cùng thi nhân dõi mắt theo dáng hình người con gái xa vời, “xa
đến nỗi trái mơ có hái không hết là trái thực hay trái mơ” (Vũ Quần Phương):
Cô bác ơi!
Chẳng trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi…
(Cô hái mơ - Nguyễn Bính)
Hẳn sẽ không thể lưu lại trong trái tim mình một tình cảm thổn thức mơ hồ
không thể gọi tên, khi đến với bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Tôi đã đến với thơ Lưu Trọng Lư như thế. Trong phong trào Thơ mới, bên
cạnh một thế giới rực rỡ màu sắc, rộn rã âm thanh của Xuân Diệu, bên cạnh một
không gian mênh mông, mang mang nỗi sầu vạn lí của Huy Cận, tôi tìm thấy một
người mộng, một đời mộng và một thế giới mộng, đó là Lưu Trọng Lư.
Nhắc đến thơ ông, bao giờ cũng cảm thấy như mình lạc vào không gian
thực và mơ hòa quyện, sương thơ buông màn và những hình ảnh nhạt nhòa
như chỉ là những bóng dáng xa xăm:
Vầng trăng từ độ lên ngôi
Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ…
(Thơ sầu rụng)
Có một lần, tính nhạc du dương và cõi mộng ảo huyền ấy đã hội tụ lại
trong một bài thơ tuyệt tác - Tiếng thu.
Bài thơ không dài, chỉ gồm ba khổ ngũ ngôn. Khổ đầu hai câu, khổ hai ba
câu và khổ cuối bốn câu, nỗi buồn dìu dịu cứ lan tỏa dần như những vòng sóng
tỏa rộng dần trên mặt hồ lòng ta:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Hai câu đầu tiên có dáng dấp như một câu hỏi. Nhưng không đó chỉ là vì
dấu chấm hỏi cuối câu. Còn trong bản thân lời thơ, ta chỉ tìm thấy một chữ
“không” mà thôi. Một cái gì lặng lẽ, xót xa, dìu dịu len nhẹ vào tâm hồn. Sương
thơ đã buông…
“Em” là lời tác giả gọi ai? Một người con gái như trong “thơ sầu rụng”? Một
ảo hình xa vắng trong tiềm thức thi nhân? Hay chính bản thân nhà thơ đang tự
gọi mình? Có thể lắm chứ. Vậy là, sương thơ đã buông.
“Mùa thu”, “Trăng mờ”, những hình ảnh rất mơ hồ về không gian và cả
thời gian. Tôi nhớ đến một lời nhạc Phú Quang “Ta còn em, nóc phố mồ côi mùa
đông, mảnh trăng mồ côi mùa đông…” Dẫu một bên là mùa thu, một bên là mùa
đông, nhưng hình như trăng cũng cô đơn, cũng “mờ” như thế, như giấu kín một
nỗi lòng. Không gian như tỏa ra sự lạnh lẽo, thấm nhè nhẹ vào tâm hồn…
Một đêm mờ lạnh ánh gương phai
Bên dải sông hương nước thở dài…
(Trăng mơ - Thúc Tề)
Không gian và thời gian tưởng chừng xác định rõ ràng: đó là mùa thu, là
“dưới trăng mờ”, nhưng không, cảnh thu ở đây được gợi chứ không tả, lại gợi
trong tâm hồn “em” chứ không phải gợi lên trước mắt. “Thổn thức…”, ai thổn
thức? Mùa thu? Hay một nhân vật trữ tình không xác định nào đó? Tiếng Việt có
một khả năng rất lạ là những câu chủ ngữ ẩn, thường được dùng rất đắc địa
trong thơ.
Khổ thơ đầu tiên mang cái mênh mang, sâu lắng, vô định của cảnh và hồn
người, lắng đọng lại trong một từ láy “thổn thức”. Nghe như có cái gì nghẹn ngào
nhưng không trào ra thành dòng nước mắt mà lặn kín vào sâu trong tâm can,
vậy mà vẫn bật lên thành tiếng. Tiếng lòng của mùa thu? Tiếng lòng của nhà thơ
khao khát được tỏ bày? Không phải là “Em nghe không…?”, mà là “Em không
nghe…?”, có lẽ phủ định nhiều hơn khẳng định ít hơn… Có lẽ chỉ là một lời nói
vô tình xuất phát từ tâm cảm mà thôi, nhưng nhà thơ đã để vào đó một niềm hi
vọng mơ hồ. Dẫu rất mong có người hiểu và cảm thông, nhưng hình như Lưu thi
sĩ cũng hiểu rằng “Em không nghe…?”.
Trước đây nhà thơ Tản Đà đã gợi lên những cảm giác, và những hình ảnh
mùa thu để nói tâm trạng của mình:
Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành…
(Cảm thu, tiễn thu)
Lưu Trọng Lư nói ít hơn. Chỉ một hình ảnh “trăng mờ”, một âm thanh “thổn
thức” thôi, mà gợi lên biết bao nhiêu điều.
Sang đến khổ thơ thứ hai, hình như cái mơ hồ vô định ở hai câu đầu đã
dồn lại, tụ lại để ta có thể gọi tên:
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Vẫn là “Em không nghe…” vẫn là một dấu chấm hỏi. Và vẫn không khí
thực mộng giao hòa. Sương thơ vẫn còn buông, bởi tình cảm “rạo rực” kia vẫn
không phải tình cảm của Lưu Trọng Lư, mà là ông gợi lên trong lòng nhân vật
trữ tình của mình “em”. “Rạo rực” - một tình cảm rất thật nếu đem so sánh với
những chinh phu, cô phụ rất xa trong lịch sử:
Phụ tại Đông Quan thiếp tại Ngô
Tây Phong xuy thiếp, thiếp ưu phu
Nhất hàng thư tính thiên hàng lệ
Hàn đáo quân biên y đáo vô?
(Ký phu - Trần Ngọc Lan)
Hay cái “Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời” của người, chinh phụ
trong Chinh phụ ngâm… Một từ “rạo rực” gợn nên cái hồn thơ của cả một thời
đại. Tình cảm ấy không lặng lẽ xót xa như người cô phụ trong Đường thi hay thơ
Đoàn Thị Điểm, mà rộn rực, mà run lên, mà khao khát. Một sự vận động vô hình
của tâm cảm. Hai từ Hán Việt “chinh phụ”, “cô phụ”, gợi nên cái cổ kính, thăm
thẳm, u tịch của những bài cổ thi, nhưng một từ láy “rạo rực” đã thổi vào đó cái
hồn của Thơ mới.
Hình ảnh người chinh phụ, đã mơ mơ thực thực, lại được nhìn qua lăng
kính tâm hồn của “em” - người cô phụ, càng làm bài thơ như choàng lên một
màn sương cõi mộng. Không, có lẽ em chưa thể đồng nhất với “người cô phụ”.
Dụng ý của tác giả hình như chỉ là đồng nhất về tình cảm, chứ không phải hai
nhân vật trữ tình ấy trở thành một.
Từ không gian, thời gian của cảnh gợi nên không gian, thời gian của tình.
Để rồi lại trở về với cảnh:
Em không nghe rừng thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Hình như cảnh và tình đã hội tụ lại. Tuy vẫn là “Em không nghe…”, vẫn là
dấu chấm hỏi, nhưng cảnh đã hiện ra, và không gian xác định hơn tuy vẫn được
nhìn qua lăng kính hồn “em”: đó là không gian “rừng thu”, là âm thanh “xào xạc”,
là màu vàng của “lá thu” và là hình ảnh “con nai vàng”.
Ta đã từng bắt gặp màu vàng của mùa thu trong thơ cổ:
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu.
Xuân Diệu cũng từng viết “Mùa thu là một nước Tào cổ rộng mênh mông,
với nàng Tây Thi quá xa nên quá đẹp”. Lưu thi nhân hình như đã nắm bắt được
cái hồn ấy của mùa thu trong Đường thi. Khổ thơ dựng cảnh chỉ bằng một vài
nét chấm phá thủy mặc, với màu vàng đặc trưng, thẳm lặng, mộng ảo của thu.
Ta đã từng gặp không gian vàng tuyệt vời ấy trong thơ Bích Khê:
Ôi! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
Trong khung cảnh ấy hiện lên hình ảnh một con nai vàng. Xin đừng đi tìm
những đường nét cụ thể của bức tranh, cũng xin đừng bước vào bức tranh phủ
đầy sương thơ ấy để tìm con nai vàng ấy làm chi. Đó chỉ là một ảo ảnh của tâm
hồn, một tiếng vang của tâm linh Lưu Trọng Lư vọng lại trong lòng “em” mà thôi.
Cũng như là “con nai bị chiều bủa lưới” của Xuân Diệu, con nai vàng của Lưu
Trọng Lư mang nỗi buồn “ngơ ngác của cả một lớp người, một lớp thi sĩ mang
tâm hồn nhạy cảm trong một thời vong quốc”. “Ngơ ngác” - một trạng thái bơ vơ,
một tình cảm lạ lùng không xác định. Buồn nhưng buồn gì? Buồn ai?
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
(Chiều - Xuân Diệu)
Lưu Trọng Lư đã đưa ta về với thanh niên Việt Nam một thời, ngơ ngác đi
tìm một lẽ sống. Nhưng đi đâu? Tìm ai? Chỉ là những “chiếc đảo hồn rợn bốn bề”
mà thôi.
Thể thơ năm chữ vốn có sức truyền cảm đối với những rung động tinh vi
trong đáy thẳm hồn người, tỏa ra rất đắc địa trong Tiếng thu. Không gian mơ và
thực ấy, cánh cửa “ngơ ngác” khép mở cái huyền ảo của cảnh vật trong mộng
và cái tàn nhẫn của sự thực cuộc đời ấy đã làm bài thơ Tiếng thu trở nên bài thơ
hay và đầy vẻ lạnh lùng so với các bài thơ cùng thời. Dẫu rằng con nai vàng kia
không thể làm ấm lên không gian mùa thu lạnh lẽo, không gian tâm hồn của thi
nhân một thời vong quốc, ta vẫn tìm thấy ở Tiếng thu những tình cảm trong sáng
và chân thật, rất đẹp để tâm hồn mình được và nâng cao hơn về chất, để hiểu
và sống thực với bản thân mình hơn.
PHẠM NGỌC LAN
(Trường PTTH chuyên Lê Hồng Phong
Thành phố Hồ Chí Minh)
Bài 56
ĐỀ BÀI
Bình giảng bài thơ Tiếng sáo Thiên Thai của Thế Lữ.
BÀI LÀM
Từ năm 1930, trên thi đàn Thế Lữ xuất hiện như một “kiện tướng” của
làng văn nghệ. Ông được xem như người mở đầu của phong trào Thơ mới với
rất nhiều bài thơ. Thời kì đầu ông đã lao vào tìm tòi cái Đẹp, mang nhiều chất
thơ mộng. Trong đó, bài thơ Tiếng sáo Thiên Thai tiêu biểu cho thời kì này của
Thế Lữ.
Toàn bài thơ là cảnh đẹp thần tiên và tinh khiết của núi rừng. Cảnh vật
dường như đã thoát tục, để lại cái thơ mộng, cái kì thú của nơi tiên cảnh. Chính
Thế Lữ cũng phải ngây ngất đắm chìm trong:
Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng.
Những chàng trai thổi sáo bên rừng được tác giả ví với Kim Đồng là người
thiếu niên xinh đẹp đứng hầu Phật bà Quan Âm, lẫn trong tiếng sáo là ánh xuân.
Tác giả không biết ánh xuân “trên” cỏ mà lại tả “lướt cỏ xuân tươi”. Cái “lướt” của
xuân trên cỏ thật khẽ khàng, không làm xao động vẻ êm đềm của núi rừng đang
ngân vang tiếng sáo mà chỉ gợn thêm một nét xinh đẹp cho cảnh vật. Thế Lữ đã
nhìn mùa xuân như một nàng tiên, lướt đi trên cỏ, đem đến cho cỏ nét tươi hơn,
xanh hơn. Trong câu, tác giả đã nhấn mạnh hai chữ “xuân”. Nó diễn tả sự trẻ
trung cho cả cảnh vật và con người.
Thế nhưng trong sự tươi trẻ, êm dịu và đầy thơ mộng đó, nhà thơ lại cảm
thấy một nỗi buồn mênh mông, xa vắng:
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn…
Tiếng sáo vẳng đưa vào lòng tác giả một sự hiu hắt. Ông đã gọi tên của
nỗi buồn đó lên để có thể cảm nhận hết: “Buồn ơi! Xa vắng mênh mông”. Giữa
những chàng trai đẹp đẽ như Kim Đồng đang thổi sáo, giữa sự tươi trẻ của mùa
xuân vậy mà Thế Lữ vẫn buồn. Có phải chăng đó là nỗi buồn của một con người
còn nặng lòng trần tục? Hay đó là nỗi buồn chung trước thời thế của phần lớn
các thi nhân lãng mạn thời kì đó?
Mặc dù tâm trạng buồn mênh mông như vậy, nhưng Thế Lữ vẫn thả hồn
vào cõi mộng mơ, đắm trong cảnh sắc núi rừng:
Tiên nga tóc xoã bên nguồn
Hàng tùng rủ rỉ bên cồn đìu hiu;
Mây hồng ngừng lại sau đèo
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Những cô gái được tác giả so sánh với tiên nga đang đứng xõa tóc bên
suối. Ông không viết “xõa tóc” mà lại đảo từ “tóc xõa”, gợi nên cái thướt tha của
những cô gái miền núi tắm suối. Bên cạnh đó có hàng tùng, lòng lay theo gió
như tiếng rủ rỉ tâm tình làm tác giả cảm thấy đìu hiu. Ông đã tạo nên cảnh đẹp
thần tiên cho thơ ca, nhưng chính ông vẫn ôm riêng một nỗi buồn. Điều đó cũng
không khiến cái tinh trong cảm nhận của ông mất đi. Ông vẫn “thấy”:
Mây hồng ngừng lại sau đèo
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Nghệ thuật nhân hóa đã biến khung cảnh bình dị của miền núi trở nên kì
thú hơn, đẹp đẽ hơn. Vì cảnh đẹp mà mây hồng cũng ngừng lại, bóng chiều
chẳng muốn đi chăng? Thật ra, ngắm cảnh chiều thì sẽ thấy được ánh hồng ở
phía xa xa, sẽ thấy thân cây ửng màu nắng. Nhưng những cảnh đó đi vào thơ
Thế Lữ trở nên sống động hơn, tinh tế hơn, hấp dẫn hơn. Mây hồng được tả
như một người ngắm cảnh, dừng lại sau đèo để thưởng thức cảnh đẹp ở đây.
Nắng chiều cũng có sức sống hơn khi “nhuộm” ửng thân cây. Còn cây cũng như
một con người, có “mình” để cho “nắng nhuộm”. Tác giả đã đảo ngữ: “mình cây
nắng nhuộm, bóng chiều không đi” nhằm làm bật lên cái hồn của cảnh vật. Điều
này thể hiện được tài năng thi ca của ông.
Tiếp tục quan sát, Thế Lữ đã reo lên:
Trời cao xanh ngắt - Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.
Thi nhân reo lên kinh ngạc. “Ô kìa” trước cảnh giữa nền trời xanh ngắt có
điểm hai cánh hạc trắng. Cảnh đó thật như ở chốn Bồng Lai - một hòn đảo tiên ở
ngoài biển theo truyền thuyết. Và trong cảnh đó, tiếng sáo vẫn vút cao:
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo dòng suối bên người Tiên Nga,
Khi cao vút tận mây mờ
Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh.
Chẳng những vậy, tiếng sáo lại còn:
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không.
Với sáu câu trên, Thế Lữ đã thể hiện được cái điêu luyện của người thổi
sáo và cái nhạy cảm của một nhà thơ. Ông cảm nhận được tiếng sáo vút lên cao
theo cánh chim bay, khi thì lại rì rào bên suối theo người sơn nữ. Tưởng chừng
như tiếng sáo có thể vút lên đến tận mây trời, còn lúc gần và thấp hơn lại “vắt
vẻo bên bờ cây xanh”. Từ “vắt vẻo” vừa gợi hình vừa biểu cảm. Nó gợi lên thanh
điệu tiếng sáo của chàng trai pha một chút gì đó nghịch ngợm, hồn nhiên như
chính con người chàng. Thế Lữ đã rất tinh tế khi quan sát và lắng nghe tiếng sáo
để hiểu được tâm lí giản dị hồn nhiên của người miền núi. Tiếng sáo chính là
tiếng lòng của chàng trai gửi cô gái miền sơn nước. Tiếng sáo ấy:
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không.
Tiếng sáo vừa êm nhẹ như một lời tỏ tình, vừa êm đềm như một vũ điệu
trong thế giới tiên. Thế Lữ thật có tài tả thanh âm vừa tục vừa tiên. Hiển hiện lên
trong tai, trong mắt người đọc giọng và điệu sáo mượt mà, nhịp nhàng, tuyệt
đẹp.
Nghệ thuật ước lệ và cách điệu của Thế Lữ đã miêu tả thành công tiếng
sáo thần kì của những chàng trai đẹp tựa Kim Đồng. Khác với Xuân Diệu tả
tiếng nguyệt cầm u sầu đầy nước mắt trong đêm lạnh, tiếng sáo của Thế Lữ êm
dịu và đầy chất thơ, đầy chất lãng mạn. Trong khung cảnh ấy, người thơ đã thả
hồn vào cõi mộng, hòa mình vào cuộc sống miền núi trước mắt, nhưng vẫn
mênh mang một nỗi buồn. Đây là mâu thuẫn trong con người nhà thơ: muốn
thoát khỏi cuộc sống trần thế đầy bon chen phức tạp nhưng không được.
Thiên Thai thoảng gió mơ màng
Ngọc Chân buồn tướng tiếng lòng xa bay.
Đọc bài thơ, với những cảnh miêu tả và những cái tên Thiên Thai, Kim
Đồng, Ngọc Nữ, Ngọc Chân, Bồng Lai, chúng ta có cảm giác đây là cảnh tiên,
mặc dù nhà thơ chỉ miêu tả cảnh sinh hoạt và tâm lí hồn nhiên của con người
miền sơn cước. Điều này thể hiện được tâm tư của nhà thơ rất rõ: ông muốn
sống trong một cõi chỉ toàn sự kì thú, thanh khiết như ở đây nhưng điều đó
không thể được và đã để lại trong ông một nỗi buồn xa vắng.
Qua bài thơ, Thế Lữ đã bộc lộ được ngón thơ tuyệt đỉnh của mình. Tuy
trong bài có nhiều hình ảnh mang dáng dấp thuở cổ xưa, nhưng lại tạo nên
được cái tài năng của ông. Thế Lữ đã tả cảnh, đồng thời cũng lồng tâm sự riêng
của mình vào. Ở con người Thế Lữ có vẻ đầy mơ mộng.
Tâm sự của Thế Lữ cũng là tâm sự chung của hầu hết các văn thi sĩ
đương thời. Họ phải sống trong xã hội rối loạn, bon chen, họ muốn thoát ra
nhưng không được. Vì vậy, thơ ca của họ nặng những nỗi buồn.
Nhìn chung, dù tư tưởng Thế Lữ có mang nặng nỗi buồn, nhưng ông đã
đóng góp cho nền văn học nước ta những tác phẩm có giá trị. Ông được xem
như người dẫn đầu phong trào Thơ mới với nghệ thuật và phong cách sáng tác
đa dạng. Ông cũng bộc lộ được tấm lòng yêu nước của mình. Dù cảnh đẹp, dù
đang say sưa với cảnh, nhưng sâu trong trái tim ông vẫn là nỗi buồn về xã hội,
một xã hội dưới sự áp bức của thực dân. Tấm lòng ấy ông không bộc lộ trực tiếp
mà ông để ẩn dưới mấy vần thơ. Đó trước hết là tấm lòng yêu tha thiết thiên
nhiên tươi đẹp yêu kiều.
Thế Lữ tiêu biểu cho phong trào Thơ mới của thời kì 1930 - 1945 của
nước ta.
LÊ THỊ THÚY HÀ
(Trường PTTH Võ Thị Sáu Thành phố Hồ Chí Minh)
Bài 57
ĐỀ BÀI
Bình giảng bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm.
BÀI LÀM
Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua, thời gian không ngừng biến đổi, vạn vật không
ngừng đổi thay nhưng đọc lại Tống biệt hành của Thâm Tâm ta vẫn thấy bồi hồi,
xúc động bởi một cuộc chia ly đầy lưu luyến, bâng khuâng - một cuộc chia tay
mà người ra đi mang chí lớn lên đường, còn người ở lại lòng ngập đầy những
cảm xúc không dễ gì quên.
Dường như đối với Thâm Tâm - một con người thâm trầm, lặng lẽ như
chính bút danh của ông - li biệt là một đề tài vô cùng quen thuộc và gần gũi.
Những “lưu biệt”, những Tống biệt hành của ông đều đầy ắp tâm sự, đầy ắp nỗi
buồn. Tống biệt hành cũng vậy - chứa đựng đầy cảm xúc của kẻ ở lẫn người đi.
Thời gian thì trôi qua vùn vụt nhưng bài thơ vẫn mãi là một giá trị tinh thần vô
giá. Hẳn là không ít người vẫn nao lòng trước những câu thơ đầy xúc cảm:
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Lại một cuộc tiễn biệt khi “Bóng chiều không thắm, không vàng vọt”. Tại
sao các thi sĩ lại lấy thời gian là buổi chiều mà lại không phải là thời gian nào
khác, có lẽ chỉ có buổi chiều là thích hợp nhất bởi đây là lúc con người dễ cảm
thấy cô đơn nhất và buồn nhất. Tâm trạng của con người dường như được nhân
lên vào cái thời điểm này. Buổi chiều gợi nhớ những câu thơ của một nhà thơ
nước ngoài:
Mỗi người đứng yên trên trái tim trái đất
Lòng xuyên qua một tia nắng mặt trời
Và chưa đi chiều đã tắt.
Thời gian ở đây là thời điểm nắng chiều đã nhạt màu. Không còn sắc vàng
rực, nhưng cũng chưa đến lúc hoàng hôn buông xuống. Thời gian thì như vậy
nhưng không gian thì thật khó xác định bởi tác giả đâu có nói đến địa điểm của
cuộc chia tay, chỉ biết rằng “Đưa người, ta không đưa qua sông”. Những cuộc
chia tay xưa thường diễn ra trên sông, mượn trăng, mượn thuyền để nói lên nỗi
lòng:
Đừng làm thuyền trên sông
Thuyền chở người li biệt
Đừng làm trăng trên sông
Trăng soi người li biệt.
Nhưng với Thâm Tâm thì khác. Không chia tay trên sông mà trong lòng có
sóng, “Bóng chiều không thắm, không vàng vọt” mà trong mắt nhuốm đầy hoàng
hôn. Những câu thơ cực tả nỗi lòng xao xuyến, đớn đau của những người đưa
tiễn và có thể bóng hoàng hôn đầy trong mắt kia cũng là của người ra đi lắm
chứ?
Không qua sông mà trong lòng có sóng - những con sóng đau đớn của
biệt li - trào lên, cuộn lên không dứt - thì nỗi đau ấy đã lên đến cực điểm. Và cả
bóng hoàng hôn ngập đầy trong mắt khi mà chiều không hề có hoàng hôn cũng
lại là một nỗi buồn quá lớn. Hai câu hỏi tu từ “Sao có tiếng sóng ở trong lòng?”,
“Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?” phần lớn là thanh bằng như là chùng
xuống tự hỏi nỗi lòng của chính mình gợi lên cảm xúc, tình cảm tha thiết tự đáy
lòng khi chia biệt. Không như người xưa mượn ngoại cảnh để nói hộ lòng mình,
Thâm Tâm đã có sự đổi mới: ngoại cảnh được nội tâm hóa để trở thành chính
nỗi lòng của con người.
Người ra đi đã quyết chí, người ở lại không dễ gì níu kéo người trai ấy
quay trở lại nên bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu ánh mắt yêu thương dồn tất cả
vào một điểm, chỉ có một con người trước mắt - đó là người con trai, người em
trai, người anh trai yêu quý cúa một bà mẹ, của những người chị và em gái ngây
thơ:
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy.
Đọc thoáng câu thơ tưởng chừng như thừa thải nhưng nếu suy ngẫm thật
kĩ thì chẳng thể nào bỏ qua. Điệp từ “đưa người” như khẳng định thêm, nhấn
mạnh thêm nỗi đau của những người đưa tiễn. Họ đã “đưa người” thì có nghĩa là
người trai ấy đã dứt áo ra đi không còn mong gì trở lại. Vậy mà tình cảm của con
người ấy ra sao:
Một giã gia đình, một dửng dưng…
Dấu phẩy giữa dòng như chia tay người mang chí lớn ấy ra làm hai con
người: một con người của nội tâm và một con người của bề ngoài - dửng dưng.
Cái tình cảm từ giã gia đình kia thôi thì đành nén lại xuống đáy lòng đừng cho nó
bộc lộ. Anh hầu như không hề dửng dưng chút nào trước những tình cảm ruột
thịt, cái bề ngoài dửng dưng ấy dường như cuối cùng của anh là để chiến thắng
tình cảm đang dồn nén của mình. Tâm trạng ấy cũng là tâm trạng của một:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Ta biết rằng anh có một người mẹ
già, hai chị gái và một em gái thơ ngây, gia đình chỉ còn mỗi anh là rường cột, là
trụ cột. Nếu anh không dứt khoát thì sẽ bị tình cảm “nhi nữ thường tình” níu kéo
và cái chí lớn kia sẽ không thành, sẽ không thực hiện được. Bởi thế ta sẽ không
cảm thấy ngạc nhiên trước một bề ngoài “dửng dưng” của anh.
Và đây nữa, chí lớn của người ra đi càng được bộc lộ một cách rõ ràng:
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Ở đây đặt ra một câu hỏi “Người đi là ai?”. Có một số người cho rằng
người “li khách” ấy là một chiến sĩ cộng sản vì căn cứ vào xuất xứ của bài thơ:
Thâm Tâm làm bài thơ này khi tiễn một người bạn lên đường chiến đấu. Nhưng
điều đó bài thơ không nói đến, vậy chỉ nên hiểu đây là người ra đi vì chí lớn, vì
đại nghĩa mặc dù chưa biết những việc mà người “li khách” ấy sẽ làm. Như ta đã
biết đây là một bài thơ làm theo thể hành, “mô típ một đi không về cổ kính” nên
nhà thơ Thâm Tâm đã dùng từ “li khách” gợi lên một không khí trang nghiêm,
đầy xúc động của cuộc đưa tiễn đồng thời cũng tạo nên không khí cổ xưa.
Người xưa đi đã quyết chí nên trong lòng người ở lại vang lên những tiếng
gọi thiết tha đầy thống thiết “Li khách! Li khách!”. Tiếng kêu ấy như níu kéo
người ra đi hãy ở lại, hãy quay về gia đình. Nhưng dù có thế nào thì anh cũng đã
quyết ra đi vì nghĩa lớn, một khi chí lớn không thành thì anh sẽ không quay trở
lại. Anh là một người con trai, phải xứng đáng “làm trai cho đáng nên trai”. Trong
lòng anh vang lên tiếng gọi đi theo chí lớn. Hãy vì chí lớn mà ra đi mặc dù đường
đời nhiều chông gai, tương lai phía trước chưa hứa hẹn một điều gì. “Con
đường nhỏ” không phải là một hình ảnh đối lập với cái “chí lớn” của người ra đi
mà là tượng trưng cho những chông gai, những thử thách mà anh sẽ gặp phải
trên đường đời, trên con đường rời bỏ gia đình đi tìm chí lớn. Đã ra đi thì không
trở về khi “tay trắng vẫn hoàn trắng tay”. Cái ý chí “Ba năm mẹ già cũng đừng
mong” khiến ta cảm phục một con người có ý chí. Anh thực sự đã là một người
đàn ông rắn rỏi, cương quyết, dáng dấp của những tráng sĩ ngày xưa.
“Li khách” ra đi ấy thực sự là một con người, anh không phải là một cỗ
máy vô tri vô giác. Anh buồn vì phải xa gia đình, phải xa người ruột thịt thân yêu
nhất, không biết đến bao giờ mới gặp lại. Nhưng nỗi buồn ấy anh không thể bộc
lộ, không thể nói ra. Và chính những người thân của anh đã nhìn thấy rõ điều đó:
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Đến bây giờ, ta càng khẳng định một điều: Người ra đi thật sự là không
dửng dưng. Nỗi buồn của anh cũng kéo dài từ “chiều hôm trước” đến “sáng hôm
nay”. Ôi! Xiết bao thương tiếc, mẹ già, chị, em thơ ngây. Phải chăng anh đang
đếm những người chị của mình? Không, bởi sen đã cuối mùa hạ nên hiếm hoi
và rất quí. Và vì hiếm hoi nên anh đếm được một cách dễ dàng. Một bông sen,
hai bông sen… anh lại liên tưởng đến hai người chị của mình – hai người chị
hiếm hoi, lỡ thì nhưng vẫn đẹp như những bông sen quí hiếm mùa hạ. Đây là
một tình cảm trân trọng, trìu mến. Hai người chị ấy dường như đã chịu nhiều đau
khổ, đau đớn chia li. Chị thương em, chị xót em, chị đã khóc hết nước mắt để
khuyên em trai ở lại. Nay chị chỉ còn một “dòng lệ sót”- dòng lệ cuối cùng – để
tiễn em để đến câu thơ của Hoàng Lộc:
Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như cắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt.
(Viếng bạn)
Một đằng là viếng bạn, một đằng là biệt li. Những người chị ấy rồi sẽ
“không nước mắt” khi khóc nữa. Tuy không thật tương đồng nhưng câu thơ trên
và những câu thơ này đều mang một nỗi đau, nỗi đau mất bạn và nỗi đau xa em
khó có ngày gặp lại. Chị đau và cả người em gái cũng xiết bao đau đớn. Em thật
ngây thơ, đôi mắt xanh biếc như trời thu. Hẳn là phút li biệt người li khách sẽ
chẳng dám nhìn lâu vào đôi mắt này, đôi mắt là cả một sự níu kéo, mong manh
ở lại nhà. Bao thương tiếc, bao nỗi niềm em “gói tròn” cả vào chiếc khăn tay tặng
anh trước lúc lên đường. Những câu thơ đầy cảm xúc gây ấn tượng xúc động
mạnh. Ngô Thì Nhậm từng có câu: “Mây gió, cỏ cầy… dù đẹp đến đâu, kì diệu
đến đâu cũng đều từ trong lòng mà nảy ra… Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút
có thần”.
Thâm Tâm đã thực sự có những câu thơ có thần bởi hồn thơ ông đã rung
động, đã xúc động thật sự trước cảnh chia biệt và những vần thơ ấy đã đi vào
lòng người đọc một cách dễ dàng. Người đọc sẽ tự hỏi rằng tại sao tác giả lại
đưa vào những câu thơ này một “chiều hôm trước” với “mùa hạ sen nở nốt” và
“sáng hôm nay” với “Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay”? Thực ra ở Thâm Tâm
đã dựng lên một không gian nghệ thuật để phù hợp, để thích hợp với từng đối
tượng. Hai người chị dĩ nhiên là phải ứng với “sen nở nốt” khi mùa hạ tới, với
buổi chiều buồn. Ngược lại, người con gái trong trắng, ngây thơ thì phải ứng với
một buổi sáng tươi tắn mặc dù “Giời chưa mùa thu”. Đó cũng là một nét rất tinh
tế mà Thâm Tâm đã sử dụng thành công trong bài thơ.
Đến khổ cuối, ta lại càng không thể quên được những vần thơ dứt khoát,
đau đớn nhất:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Người tiễn đã hiểu tận cùng người đi là không còn gì để níu kéo nữa vậy
mà vẫn còn bàng hoàng, không tin chuyện người ra đi là có thực. “Người đi?”.
Tưởng như đó chỉ là một giấc, mơ thoáng qua, không hề có một cuộc chia li nào
cả? Nhưng khi đã hết bàng hoàng lại nhận ra một sự thực, “ừ nhỉ, người đi
thực!”. Thế là người ấy đã ra đi thật rồi, đã xa thật rồi. Đã là sự thật thì phải chấp
nhận, chấp nhận để rồi lại đau đớn, lại xót xa, lại thương cảm.
Ở ba câu cuối có hai cách hiểu. Một là người ra đi là một sự hi sinh của
người ở nhà: đành coi anh như chiếc lá bay, như là hạt bụi, như hơi rượu say.
Hai là người ra đi là sự hi sinh của chính mình: coi mẹ như chiếc lá bay, coi chị
như là hạt bụi, coi em như hơi rượu say. Nhưng ta có thể tháy “chiếc lá bay”,
“hạt bụi”, “hơi rượu say” là những hình ảnh động nếu vận vào người ra đi có lẽ
sẽ hợp hơn, còn đối với những người ở lại tiêp tục một cuộc sống tĩnh tại thì
chắc chắn không thể là những hình ảnh động kia được. "Li khách” mang theo
một chí lớn lên đường. Ba chữ “thà” càng thể hiện sâu sắc sự quyết liệt đến
cùng, một ý chí sắt đá không thể lay chuyển nữa. Nếu như tác giả thay bằng
những từ khác như tư “thôi” chằng hạn sẽ làm giảm đi sức thuyết phục. Thà mẹ
coi con như chiếc lá bay ngang qua giữa trời, chị thà coi em như hạt bụi, em thà
coi anh như hơi rượu say sẽ bay đi chẳng để lại dấu vết. Thôi thì coi như con,
như em, như anh chưa từng có trên cõi đời này, chưa từng gắn bó với gia đình
để cho người ra đi vững bước lên đường, chẳng còn gì níu kéo nữa. Sự quyết
liệt ấy dường như lại càng khắc sâu, tô đậm những tình cảm đau đớn trong lòng
người ôm chí lớn khi đang cố gắng đấu tranh để gạt bỏ tình riêng. Đau đớn lắm
chứ, xót xa lắm chứ nhưng đành vậy. Nếu để tình cảm lấn át lí trí thì sẽ chẳng
làm nên chuyện gì.
Càng đọc lại, ta càng xúc động trước những tình cảm gia đình, tình cảm
ruột thịt gắn bó thiết tha của những con người trong cuộc “Tống biệt kia”. Bài thơ
dường như chỉ là những lời tâm sự của người đưa tiễn nhưng thật ra là một sự
đan xen lẫn lộn những tình cảm, những lời tâm sự của cả hai bên mà một bên
thì để lộ ra còn một bên thì giữ kín trog lòng. Bài thơ với thể hành cổ “nhịp thơ
gấp, giọng thơ gắt”, “vừa bâng khuâng, dư ba” đã tạo nên nỗi niềm “bâng
khuâng khó hiểu của thời đại”. Ngòi bút của Thâm Tâm thực sự đã là một ngòi
bút có thần rung động trước cảnh biệt li để viết lên những nỗi đau đầy xúc động
như thế.
Có ai không xúc động trước biệt li? Không, dù là không phải chính mình
trong cuộc chia tay ấy thì chỉ những kẻ không có trái tim mới không biết xúc
động. Nếu con người vẫn còn cảm xúc thì Tống biệt hành của Thâm Tâm vẫn
còn là một niềm rung động lớn.
SẨM THỊ HOA
(Học sinh dân tộc Nùng,
Trường PTTH chuyên thị xã Lạng Sơn)
Bài 58
ĐỀ BÀI
Phân tích nhân vật cai tuần Bưởi (Con nhà nghèo - Hồ Biểu Chánh).
BÀI LÀM
Mỗi người trong chúng ta đều gắn bó với một quê hương xứ sở. Dấu ấn
của quê hương in đậm trong từng ánh mắt, nụ cười, dáng đi, từng lời ăn, tiếng
nói. Hồ Biểu Chánh cũng vậy. Mảnh đất Nam Bộ với những cánh đồng mướt
xanh màu lúa, những tấm lòng mộc mạc, thủy chung đã thổi nguồn cảm hứng
vào ngòi bút của nhà văn, khơi mạch cho dòng tiểu thuyết đậm chất Nam Bộ ra
đời. Trong số những tác phẩm đặc sắc ấy, hình ảnh Cai tuần Bưởi trong tiểu
thuyết Con nhà nghèo hiện lên như một điểm sáng tiêu biểu cho người nông dân
miền Nam những năm đầu thế kỉ XX.
Tiểu thuyết Con nhà nghèo có lối kể chuyện mộc mạc, giản dị, mà hấp dẫn
người đọc. Gửi lòng vào trang truyện, độc giả có cảm giác dường như mình
đang trực tiếp trông thấy những người nông dân chân lấm tay bùn, những câu
chuyện của mấy mươi năm về trước diễn ra bên ruộng lúa, gốc dừa, dòng sông
mênh mang điệu hò êm dịu… Câu chuyện trong đoạn trích diễn ra xung quanh
việc Tư Lựu - em gái cai tuần Bưởi sinh một đứa con trai. Đứa bé là kết quả của
một mối tình vụng trộm giữa Hai Nghĩa - con bà cai tổng Hiếu với Tư Lựu. Sự ra
đời của đứa bé bị người cha bạc tình bạc nghĩa của nó từ chối bỏ sau lời báo tin
hồ hởi của cai tuần Bưởi. Anh Bưởi trở về với nỗi chán chường thấm thía.
Tính cách cai tuần Bưởi qua diễn biến đoạn trích mỗi lúc một sáng dần
lên. Ta bắt gặp ở người nông dân bình thường ấy hình ảnh một người anh hết
lòng thương em, một người lao động cần cù bị áp bức, một người dân quê với
tâm hồn chân chất bình dị rất đỗi hiền lành.
Đoạn trích Con nhà nghèo mở đầu bằng hình ảnh cai tuần Bưởi hết lòng
lo lắng cho em. Nghe tin Tư Lựu trở dạ, anh liền “biến sắc”, nằm trên võng như
“khúc cây”, không thèm để ý đến đám con nghịch ngợm vây quanh. Tâm trí anh
dồn hết cho cô em lỡ lầm tội nghiệp. Hẳn là anh lo lắng sự ra đời của đứa bé có
được chấp nhận hay không, cuộc đời em gái anh có thay đổi gì không… Nỗi lo
đè nặng lên vầng trán suy tư của người anh tình nghĩa. Thế rồi, hay tin Tư Lựu
mẹ tròn con vuông, cai tuần Bưởi liền sốt sắng đi báo tin cho Hai Nghĩa - cha
đứa bé mới chào đời. Chỉ ba từ “Để tôi đi” với hành động cắp dù, mặc áo vội vã
cũng đủ nói lên sự quan tâm và tình thương của anh dành cho em gái sâu nặng
biết nhường nào!
Một con người nặng tình với em như vậy hẳn cũng sống có nghĩa có nhân
với bao người khác trên quê hương, đồng ruộng của mình.
Phẩm chất đẹp đẽ của cai tuần Bưởi không phải là một viên ngọc trai tô
điểm cho một con người quý phái, hoàn hảo. Cai tuần Bưởi chỉ là một anh nông
dân cần cù, chăm chỉ, nhưng phải gánh vác trên đôi vai lực điền gánh nặng của
sự áp bức, bóc lột dã man. Là một người nông dân cần mẫn, Cai tuần Bưởi
quanh năm suốt tháng chí thú làm ăn, lo lắng cho vợ, cho em và đàn con thơ trẻ.
Những lời anh tâm sự với Phùng - người ở của gia đình bà cai tổng Hiếu - bộc lộ
rất rõ những nỗi nhọc nhằn anh đã trải qua: “Tháng giêng, tháng hai, tao mắc đi
ghe, rồi mấy tháng nay tao về, tao mắc việc ruộng”.
Công việc đồng áng, cày bừa, gặt hái, việc giăng lưới, thả câu… choán
hết tháng ngày của anh nông dân cần mẫn. Bỗng dưng, ta bắt gặp ở cai tuần
Bưới hình ảnh anh Pha trong Bước đường cùng, chị Dậu trong Tắt đèn, bà cụ
nhà quê trong Một bữa no… Tất cả trong họ là những người nông dân ngày phải
một nắng hai sương, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” trên đồng ruộng, trong
sình lầy… để kiếm miếng cơm manh áo. Họ cùng tương ngộ trong hoàn cảnh
khốn cùng, quẫn bất vì bị bóc lột sức lao động một cách dã man, cùng bị đè
nặng dưới cái ách tai quái của bọn chủ điền, bá hộ… ăn trên ngồi trốc. Mẩu đối
thoại giữa cai tuần Bưởi và bà cai tổng Hiếu chủ đất — phơi bày sự bất công rõ
nét giữa người với người.
“Nè, năm nay đong lúa phải rê cho thiệt sạch chứ đừng làm dơ như năm
ngoái nữa đa. Tao nghe mợ Hai mày nói hồi năm ngoái mày đong lúa dơ cảy.
Dạ bẩm bà, con đâu dám làm dơ”.
Một đằng phách lối, ra lệnh, một đằng khép nép, vâng lời. Cùng là con
người như nhau cả, sao lại có sự phân biệt rạch ròi với nhau như thế. Vị trí của
địa chủ với tá điền cách nhau một trời một vực, xa xôi đến mức lạnh lùng.
“Ừ, phải đấy, mày mà dễ ngươi, tao biểu nó lấy ruộng cho người khác
mướn, rồi không còn cơm ăn thì chịu đa”.
Vì nghèo, cai tuần Bưởi phải mướn đất làm thuê để rồi anh được hưởng
những gì ngoài những lời đe dọa tước đoạt miếng cơm manh áo của bà chủ cay
nghiệt? Thật ra, ruộng lúa thất mùa, Cai tuần Bưởi cũng không dám để cho thiếu
lúa, hứng chịu những lời chửi mắng đầy oan ức, anh cũng “không dám trả treo”.
Cũng như chị Dậu, anh Pha, Cai tuần Bưởi cô thế và yếu ớt quá. Anh chỉ biết
phản ứng lại bằng thái độ cam chịu đến mức nhẫn nhục và bằng những dằn vặt,
suy tư rối bời gan ruột trên con đường về.
Tìm cách báo tin cho Hai Nghĩa xong cai tuần Bưởi mới “chưng hửng”
trước lời chối từ trắng trợn của cậu công tử bạc tình. Hai tiếng “chưng hửng”
như một nét bút tài tình vẽ lên nét mặt ngơ ngác, sửng sốt của người nông dân
chất phác. Thế nhưng, cai tuần Bưởi không gào thét lên sự bất công, không
vạch mặt kẻ vô nhân thất đức đó mà anh “ứa nước mắt đi loan trở về” trong âm
thầm, nhẫn nhục. Đoạn độc thoại nội tâm trải dài trên những bước đường về
nặng nhọc như một tấm gương phản chiếu bản chất hiền lành, chát phác đến
mức nhẫn nhục, cam chịu của anh cai. Con đường về nhà càng ngắn lại, anh
càng thấm thía bản chất vô nhân của bọn nhà giàu. Tổng kết những oan ức, trái
ngang mà bọn chúng gieo vào gia đình anh cũng như bao gia đình nông dân
nghèo khổ khác, cai tuần Bưới chua xót cất lên câu hỏi với lòng mình: “Nhân
nghĩa của kẻ giàu là như thế hay sao?”. Rồi anh tự lí giải câu hỏi độc thoại của
mình bằng những minh chứng thực tế đến nghiệt ngã. Anh nghĩ về cái nhân
nghĩa của bà cai tổng Hiếu “bắt con người ta làm cháy da phỏng trán trót năm,
sinh lợi ba phần họ lấy hết hai. Họ sai khiến con người ta dầm mưa dãi nắng để
con của họ ở nhà ăn no ngủ ấm”. Đấy là sự bóc lột sức lao động nhẫn tâm đến
mức thiếu tình người của lớp địa chủ. Còn lớp con địa chủ thì sao? Cai tuần
Bưởi nghĩ về cái “nhân nghĩa” của cậu Hai con bà chủ với sự chua xót đến đau
lòng: Hai nghĩa quan hệ với em cai tuần Bưởi chỉ nhằm mục đích “thỏa cái tình
dục của họ rồi làm cho con người ta mang nhơ mang nhục đến trọn đời”. Thấm
thía những đòn đau phải chịu đựng, cai tuần Bưởi nhận ra rằng những kẻ mình
phải còng lưng làm thuê chỉ là những kẻ độc ác, bằng hình thức này hay hình
thức khác luôn gieo đau thương cho những gia đình tá điền, đói khổ, thiếu thốn
mặc ai, ô danh xú tiết cũng mặc ai…
Đấy là nét tính cách chung của người nông dân đầu thế kỉ XX. Họ đã nhận
ra bản chất độc ác của bọn cường hào ác bá chưa dám đấu tranh chống đối.
Tâm hồn chân chất, hiền hòa, như đất của họ chỉ dằn xuống chịu đựng, chưa nổi
lên giông tố trả thù.
Cai tuần Bưởi hiện lên trong tiểu thuyết Con nhà nghèo dưới vóc hình một
người nông dân thật thà, cần cù, chất phác, rất mực thương em, sống có nhân
có nghĩa. Anh là hình ảnh điển hình của người nông dân Nam Bộ phải oằn lưng
gánh chịu bao sự áp bực bất công mà chưa có con đường phản kháng quyết
liệt. Với văn phong giản dị, đậm chất Nam Bộ, nhà văn Hồ Biểu Chánh đã thành
công trong việc xây dựng nhân vật cai tuần Bưởi, dựng lên một nhân vật điển
hình có sức sống trên những trang sách đến tận hôm nay.
Hiểu rõ bản chất cai tuần Bưởi trong tác phẩm Con nhà nghèo, ta càng
thêm cảm thương cho thân phận những con người hiền lành, chất phác bị bao
ách áp bức đè nặng trong xã hội thuộc Pháp trước đây. Thông cảm cho cai tuần
Bưởi, ta càng thêm phục bản chất hiền lành, nhân nghĩa sáng đẹp như một bông
sen trong chốn đầm lầy.
ĐINH THỤY MỸ QUỲNH
(Trường PTTH chuyên Lê Hồng Phong
Thành phố Hồ Chí Minh)
Bài 59
ĐỀ BÀI
Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có hình ảnh chuyến tàu đêm
chạy qua phố huyện. Chuyến tàu đó đã được miêu tả như thế nào và theo em,
hình ảnh đó có ý nghĩa gì trong tác phẩm?
BÀI LÀM
Thạch Lam là nhà văn xuất sắc trước Cách mạng tháng Tám. Những việc
hết sức bình thường trong đời sống đã được nhà văn miêu tả một cách chân
thực, sâu sắc, gợi nên nhiều nghĩ suy. Truyện ngắn Hai đứa trẻ, với hình ảnh
đoàn tàu đi qua phố huyện chỉ vài ba phút trong đêm là hình ảnh đầy ý nghĩa.
Giữa một buổi chiều là buồn tẻ, “trống trống thu không” vang lên “từng
tiếng một” để gợi buổi chiều. Rồi màn đêm dần dần đến mà dấu hiệu là “dãy tre
làng đen lại” và “bóng tối ngập đầy dần cái buồn của buổi chiều quê thấm thía
vào tâm hồn ngây thơ” trong đôi mắt của Liên. Phố huyện về đêm gần như vắng
tanh, chỉ có vài “ngọn đèn lay đọng trên chõng hàng của chị Tí”, gánh phở bác
Siêu, vợ chồng bác Xẩm. Tuy “buồn ngù rức cá mắt”, chị em Liên vẫn cố thức,
để bán hàng với hi vọng “may ra còn có một vài người mua”. Song “Liên và em
cô thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng
của đêm khuya”.
Thạch Lam khá am hiểu tình cảm của người dân nghèo nơi phố huyện
nhỏ này. Đoàn tàu đến là hoạt động náo nhiệt nhất của đêm khuya, đem đến cho
mọi người cái hi vọng được nhìn thấy “một chút thế giới khác”. Nhà văn đã miêu
tả đoàn tàu đêm một cách chi tiết và trân trọng. Đó cũng chính là sự trân trọng
ước muốn của con người.
Nhà văn đã miêu tả từ những dấu hiệu đầu tiên: “Mấy người làm công ở
hiệu khách đi đón bà chủ ở tỉnh về”, “hai ba người cầm đèn lồng lung lay các
bóng dài”, “đèn ghi đã ra”. Con tàu từ xa đang tiến đến với “ngọn lửa xanh biếc,
sát mặt đất như ma trơi Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo
dài ra ngọn gió xa xôi”. Dấu hiệu ấy khiến mọi người xôn xao; tiếng bác Siêu báo
đèn ghi đã ra, tiếng của Liên gọi em An.
Và chuyến tàu đến: “Tiếng còi đã rít lên, và rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng
dậy để nhìn đoàn xe vượt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh sáng cả xuống
đường”. Trước mắt Liên “những toa hạng trên sang trọng lố nhô" những người,
đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Chuyến tàu đi qua, “để lại những
đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo
lên trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”.
Thạch Lam đã quan sát và miêu tả bằng những chi tiết khá sâu nét. Ánh
sáng, màu sắc, âm thanh, hoạt động được thể hiện phù hợp và đầy sực gợi cảm
trong đêm tối.
Vì sao chị em Liên và mọi người lại háo hức chờ đón đoàn tàu như vậy?
Chuyến tàu về gợi cho “hai đứa trẻ” cảm xúc gì? Phải sành tâm lí trẻ thơ lắm
mới có được dòng miêu tả như vậy. Đoàn tàu đi qua gợi lên trong các em nhiều
ý nghĩa lắm. Hình ảnh con tàu gợi lại trong hai chị em Liên trong dòng mơ tưởng
về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”, nơi các em đã sống
một thời êm ấm và sung sướng. Đó là một thế giới khác, một thế giới đã qua,
khác hẳn nơi phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn. Đó là thế giới của ước mơ và
không biết bao giờ còn có dịp trở lại.
Thạch Lam đã dẫn người đọc cùng ông về một phố huyện nghèo nàn,
buồn tẻ và đơn điệu, cùng ông cảm thông với cuộc sống của cả một lớp người,
sống không có hi vọng vào ngày mai, nếu có chăng là nhìn thấy thoáng qua sự
ồn ào, vẻ sang trọng của người khác. Phố huyện bây giờ, khi đoàn tàu đã đi xa,
“chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, chỉ còn “vợ chồng
bác Xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ”, và “hình ảnh thế giới quanh
mình, mờ mờ đi trong đôi mắt” của Liên. Phải chăng dưới ngòi bút của Thạch
Lam, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì? Không, dù chưa làm được gì cho con
người nghèo khổ, Thạch Lam đã góp một tiếng nói cảm thông, đã nhen nhóm
trong họ một chút hi vọng để vượt lên trên cái tẻ nhạt, tầm thường của cuộc
sống. Miêu tả cả một lớp người và tâm trạng của họ như thế, chúng ta thấy được
lòng trắc ẩn của nhà văn trước số phận của con người. Vì thế, truyện ngắn Hai
đứa trẻ là một truyện ngắn hay, gợi lên trong người đọc nhiều nghĩ suy trước số
phận con người, nhất là những con người nhỏ bé.
NGUYỄN THỊ KIM
Bài 60
ĐỀ BÀI
Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang
gia, trích tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
BÀI LÀM
Ta thật buồn cười với tiếng khóc “Hứt!… Hứt!…Hứt!” của ông Phán mọc
sừng. (Ấy là tên nghe cũng thực kì quái). Ông khóc bố ông ấy đấy. Nghe đau xót
ghê! Rồi bên cạnh đấy là cụ Hồng cũng “mếu máo” và “ngất đi”. Rõ là những
đứa con có hiếu!
Vũ Trọng Phụng khép lại trang văn đoạn Hạnh phúc của một tang gia ở
những chi tiết ấy. Dư âm nức nở của những kiểu khóc còn đó, đọng mãi trong
lòng độc giả, để rồi mỗi khi giễu kẻ ngụy trang, giả tạo ta lại trề môi: “Hứt!.
Hứt!.Hứt!”.
Chương truyện được bắt đầu từ chỗ: “Ba hôm sau, ông cụ già chết thật”
mà suốt chương không khí cứ rộn rã tưng bừng. Nhân vật trong truyện thì vui
sướng thật, còn ta “cười” thật và đau cho đời cũng thật thấm thía. Nghệ thuật
trào phúng của chương truyện khiến ta bật lên cái cười hài hước mà buốt lòng
ấy.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà Vũ Trọng Phụng đặt tên chương này là Hạnh
phúc của một tang gia. Cái “tít” này đã là một điều không bình thường. Ta tìm ra
ở đây cái nghịch lí của một bên là hạnh phúc một bên là tang gia. Đã “tang gia”
thì còn gì là “hạnh phức”?. Nhưng tác giả đã chỉ ra được rất nhiều cái hạnh phúc
và rất nhiều kịch tính trào phúng khác.
Hạnh phúc của một tang gia chỉ là một chương nhỏ của tác phẩm Số đỏ.
Dường như nhà văn, đặt các nhân vật vốn dĩ đốn mạt ở các chương trên, vào
hoàn cảnh “tang gia” để cái bản chất lừa lọc, bịp bợm, và thất đức, bất hiếu càng
nổi cộm hơn, chân thật hơn. Ta hãy xem từng khuôn mặt đang nhăn nhó và đau
đớn như thế nào trước sự mất mát lớn lao kia.
Cụ cố Hồng ung dung hút thuốc phiện và lảm nhảm gắt: “Biết rồi, khổ lắm
nói mãi” đến 1872 lần. Một câu nói vô vị mà hễ động mồm là cụ tuôn ra. Có thể
thấy, nó đã được đi vào đời sống cũng hết sức sinh động như vốn cái hài hước,
mỉa mai của nó. Có lẽ cụ được nói nhiều lần câu nó ấy cũng là một hạnh phúc.
Vì có bao giờ cụ được nói nhiều như thế đâu. Ta còn thấy cụ cố Hồng mơ
tưởng. “Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ được
mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy vừa ho vừa khạc vừa khóc mếu, để cho thiên
hạ phải chỉ trỏ khen ngợi”. Đó chỉ là màn kịch để lừa thiên hạ và để được hưởng
tiếng khen. Tình cảm phụ tử là hoàn toàn giả dối, lừa bịp trong cái xã hội bát
nháo ấy. Ông Phán mọc sừng lại có niềm vui ở khía cạnh khác, được chia thêm
vài nghìn đồng. Ông không còn đau xót vì bị cắm sừng, vì vợ ngoại tình mà
mừng rơn vì thêm nặng hầu bao. Cái cười được bật lên từ sự đánh tráo cái giả,
cái thật. Sừng hươu vô tình lại có giá trị to lớn đến thế. Ông Phán mọc sừng, là
một chân dung của kẻ không có tí ý thức về nhân cách. Ông ta không biết nhục
và là một con người vô liêm sỉ. Giữa cái đau thương vì tang tóc ấy, ông ta lại
thấy một niềm hãnh diện.
Cái bản chất ích kỉ, bon chen của từng nhân vật đã khiến ta cười giễu cợt.
Tiếng cười ấy, thấm sự đắng chát còn bởi sự biến chất trong mỗi con người đã
trở thành bản chất hằn sâu. Cụ già chết mà tất cả chẳng ai nhắc đến cụ. Mọi
người đều lo riêng cho họ. Ai ai cũng náo nức, sung sướng. Họ rộn ràng hồ hởi
trước cái chết của một người thân. Chất trào phúng của tác phẩm nói chung và
ở chương này nói riêng được toát lên trong từng câu, từng chữ; từng chân dung
của mỗi một người, được toát lên nhờ sự pha trộn trắng đen thật — giả. Ông
Văn Minh chỉ phiền nỗi không biết đối xử với Xuân Tóc Đỏ ra sao mà đã khiến
ông có cái bộ mặt đúng là một nhà có đám - lúc nào cũng đăm đăm chiêu chiêu.
Nhà có đám được Vũ Trọng Phụng tạo dựng như một cơ hội để trưng bày
mốt. Mốt mặc áo tang lễ. Mốt các ban bệ. Mốt các bộ lễ. Mốt kèn Ta, kèn Tây…
thành thử đám tang trở thành một dịch vụ, một dịp làm quen, một dịp để phô
trương, một dịp để chim chuột lẫn nhau.
Cái cười đau xót không chỉ được toát lên từ cái nghịch lí, cái mâu thuẫn
giữa “hạnh phúc” với “tang gia”, mà còn được toát lên từ những tình tiết bất ngờ.
Tác giả dùng hình thức trì hoãn của tình thế kịch. Nén chốt lại là để bung ra
được mạnh hơn… chưa phát tang được vì chuyện cô Tuyết. Phái trẻ lập tức la
ó. Cậu tú Tân điên người lên. Bà Văn Minh sốt cả ruột. Ông TYPN rất bực mình.
Nhưng khốn nỗi, người ta bực bội không phải vì thương một ông già chết mà
chưa được đem đi chôn. Người ta muốn chôn cho chóng cái xác chết ấy để
được hưởng hạnh phúc. Bởi sau đó, cái di chúc chia tài sản sẽ thành hiện thực.
Mỗi người sẽ thêm nặng hầu bao. Và ngay trong đám ma thôi, họ cũng sẽ được
hạnh phúc. Kẻ hạnh phúc vì được trổ tài điện ảnh, người hạnh phúc vì lời khen
của thiên hạ, người mừng vui vì đây là dịp may hiếm có để lấy lại danh dự. Và
chung qui lại, họ hạnh phúc vì được chôn kẻ đã chết. Thật là bất nhân!
Vũ Trọng Phụng viết “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi
phường kèn, thuê xe đám ma”. Nếu không có các từ “cáo phó”, “kèn”, “đám ma”,
có lẽ ta hiểu nhầm sang đám cưới mất. Mà có những từ ấy, cũng không mất hết
cái tươi vui, rộn rã như ngày hội. Giọng văn vẫn đều đều tường thuật lại, đầy
tính chất hài hước, mỉa mai.
Bộ mặt đám ma và bộ mặt riêng của từng người được nhà văn khắc họa
rõ nét hơn, phong phú hơn. Tính trào phúng còn được phô bày trên mọi khuôn
mặt trong cái xã hội trưởng giả, thượng lưu. Chưa nói gì đến cái đám ma, ta hãy
xem người dân ở đây ra sao. Trước một linh hồn vừa siêu thoát, đáng lẽ họ phải
ngậm ngùi, lặng lẽ mới phải. Nhưng ở đây, họ chen chúc, tò mò để xem được
cái đám ma này. Điều ấy cũng nói lên cái kì quặc hài hước ở đây. Quanh lề đám
ma, mọi thứ cũng trở nên nhốn nháo, nực cười đi thì phải, còn bản thân đám
rước dáng chùng chình bò chậm chạp kia, cũng chứa chất đầy những tấm hài
kịch. Nếu nhắm mắt lại, ta không chứng kiến bất cứ mọi hiện trạng đau lòng nào,
thì tai cũng bị khua lên bởi âm thanh “lốc cốc xoảng” của những kèn Ta, kèn
Tây. Thứ nhạc đám ma rầu rỉ thê thảm ở đây bỗng trở thành bản hòa tấu hỗn
độn, góp thêm vào cái không khí vui tươi, nhịp nhàng khi đưa đám. Mở mắt ra
thì đầy rẫy những hiện tượng lạ. Quả là đông người. Người nối người âm thầm
và lặng lẽ tiễn đưa người xấu số, nhưng dường như chẳng có bất cứ ai nghĩ
rằng mình đang đưa ma. Với con mắt quan sát tinh tế, Vũ Trọng Phụng chỉ ra cả
một thế giới hài hước. Này đây những bạn thân cụ cố Hồng rất oai vệ với đủ các
huân chương, huy chương, đủ những bội tinh - lại cảm động trước cô Tuyết ăn
mặc nửa kín nửa hở. Hoá ra họ đi đưa ma chỉ là lí do xã giao, khi có dịp là con
người trần tục, dâm dục xuất hiện. Này đây, ở dưới những bộ mặt nghiêm chỉnh
vẫn thì thầm những tiếng của đời thường. Điều đáng tức cười là họ hưởng niềm
vui với bộ mặt buồn rầu. Họ đưa ra những lời bàn tán, trao đổi, nhận xét rất xa lạ
với nỗi đau thực tế. Phải chăng Vũ Trọng Phụng không phải chỉ là đả kích mà là
hài hước trước thói đời đen bạc. Đám ma trở thành đám hội.
Ngòi bút của Vũ Trọng Phụng miêu tả đám đưa ma với bao hài hước khác.
Hình ảnh “lợn quay đi lọng” miêu tả sự phú quí rởm đời. Một đám ma kết hợp cả
Ta, Tây, Tàu, cổ xưa và hiện đại chứng tỏ những gia đình này là những kẻ vô
văn hoá, chạy theo thời thượng một cách ngu ngốc. Một nét kịch của cảnh đưa
ma là sự đóng góp của Xuân. Người ta còn phê bình lào xào thái độ của Xuân
thì bỗng Xuân xuất hiện với sự đóng góp của “Phật giáo” với sáu chiếc xe, hai
vòng hoa. Chỉ một từ “món ấy” (“giá không có món ấy thì hiếu không được to,
may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi”). Một lần nữa, tác giả vạch mâu thuẫn giữa cái
danh và cái thực, cái bên trong và cái bên ngoài. Đám ma thì to tát, tiếng khóc
thì thảm thiết nhưng rỗng tếch lòng người. Vũ Trọng Phụng, không quên khi kể
lại là thêm vào những lời bình: “Thật là đám ma to tát, có thể làm người chết
nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười, nếu không gật gù cái đầu”. Đây là cách
nói mỉa mai vì nếu người khác biết thì cụ sẽ đau lòng lắm, vì không ai để ý đến
cụ cả. Có người buồn, có người vui, có người đăm chiêu, có vẻ cảm động…
nhưng tất cả chẳng phải cho ông. Cái mặt buồn rầu đưa đám ma ấy chỉ là cái vẻ
để che cho bản chất thờ ơ, hờ hững, kệch cỡm, giả dối của con người.
Trong quá trình miêu tả, tác giả sử dụng toàn những từ chỉ sự nhốn nháo,
những cấu trúc ngôn từ nghịch lí, tương phản, pha trộn nhiều phong cách Tây,
Tàu, Ta có cả để thể hiện sự hỗn bã của nền văn hóa. Và tính trào phúng hài
hước không chỉ toát ra ở chân dung, hành động mà tiềm ẩn trong cái giọng mỉa
mai châm biếm của chính nhà văn nữa. Tác giả viết: “Tuyết bèn mặc bộ Ngây
thơ để thiên hạ phải biết mình chưa đánh mất cả chữ trinh”. Cả chữ Trinh! Chao
ôi! Một khái niệm mới nực cười làm sao. Chưa mất cả, nhưng còn đâu nguyên
vẹn. Và cái hành động rất ý tứ của ông Phán mọc sừng khi nghẹn ngào hứt hứt:
“Dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ một tờ giấy bạc năm trăm đồng gấp tư”.
Thế đấy, con người ta vẫn gào khóc, vẫn thảm thiết như đau đớn, quằn
quại lắm, nhưng vẫn có thể he hé mắt xem có ai thấy không, vẫn nhắc nhở,
thầm nhủ với mình những lợi ích cá nhân. Và đau đớn thay khi người ta đội ơn
và tôn vinh kẻ đã giết cha mình. Xuân Tóc Đỏ đã đem đến niềm vui tràn ngập
cho gia đình, địa vị của nó được củng cố, được nhấc lên cao hơn. Nó bỗng
thành nhân vật quan trọng của đám ma.
Với Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng đã phanh phui, bóc trần
cả một xã hội giả dối, chó đểu. Với cách viết trào phúng, với những chi tiết đầy
kịch tính, tác giả đã khắc họa một cách sâu sắc những chân dung biếm họa trào
phúng. Và qua tiếng cười còn là nỗi đau của nhà văn trước cảnh đời đen bạc bất
nhân bất hiếu này.
Hạnh phúc của một tang gia đã chửi thẳng vào cái xã hội thượng lưu tởm
lợm và bỉ ổi thời trước. Cái xã hội mà con người sống với nhau bằng sự lừa lọc,
giả dối và những ngón đòn xảo trá. Tác giả không khỏi xót xa khi tạo nên những
chuỗi cười trào phúng. Và chỉ có tiếng cười hài hước ấy mới phanh phui hết cái
xấu xa bỉ ổi của hiện thực, mới tố cáo vào một cách sâu sắc hơn bao giờ hết.
Chúng ta cũng lây niềm chua chát ấy.
THIỀU HƯƠNG
(Trường PTTH Lam Sơn, Thanh Hóa)
Bài 61
ĐỀ BÀI
Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối được
Thạch Lam miêu tả trong truyện ngắn Hai đứa trẻ và phát biểu cảm nhận của
mình.
BÀI LÀM
Hai đứa trẻ tuy chưa phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại khá tiêu biểu
cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam: bình dị, nhẹ nhàng và tinh tế, thâm
thúy. Truyện dường như chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có
xung đột gay cấn, chẳng có gì đặc biệt cả. Hai đứa trẻ chỉ là một mảng đời
thường bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm
khuya, với hương vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất
trên một chiếc chòi nhỏ, một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của
đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve… những âm thanh của mấy
người bé nhỏ, thưa thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh
vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo
đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua… và nỗi
buồn mơ hồ với những khát khao đến tội nghiệp của hai đứa trẻ…
Câu chuyện hầu như chỉ có thế.
Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu của ngòi
bút tinh tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu
sắc, có khả năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới
xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day
dứt, dịu dàng, nhân ái.
Đó là truyện của “hai đứa trẻ” nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện
nghèo với những con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào
đêm tối.
Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở
lại… như một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam:
tác phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của “ngày tàn” và kết thúc bằng một
“đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị
tất cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng cả, con đường thăm
thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn
nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan,
không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối… Cả đoàn tàu từ Hà
Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào đêm tối”…
Trong cái phông của khung cảnh bóng tối dày đặc này là những mảnh đời
của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường,
chỉ xuất hiện thoáng qua, hầu như chỉ là một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí
với hàng nước tồi tàn đến một gia đình xẩm sống lê la trên mặt đất, cho đến cả
những con người không tên: một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ
con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh tìm tòi. Tất cả không được Thạch Lam
miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân số phận… nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận
họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn
nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam là như thế: nhẹ về tả, thiên về gợi và biểu hiện đời
sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ không hề thiếu vắng
tình người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ, ta nhận ra
được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả họ dường như đều hiền lành, nhân hậu
qua ngọn bút của Thạch Lam.
Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn
của Hai đứa trẻ: Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh của xã hội nhưng
là tiêu biểu cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa
sút, thất nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy Hai đứa trẻ để đặt tên cho truyện ngắn
của mình. Hình ảnh tăm tối của phố huyện và những con người tăm tối không
kém, số ở nơi đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc biệt là
Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả
thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều
quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và chị thấy buồn man mác trước cái giờ
khắc “ngày tàn”. Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ, nhà
văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man mác,
mơ hồ của một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là
người lớn. Tác giả gọi “chị” là vì Liên quả là một người chị biết quan tâm săn sóc
em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm
hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những khát khao hồn nhiên thơ ngây,
bình dị.
Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của Hai đứa trẻ, thấu hiểu, cảm thông,
chia sẻ và diễn tả cái thế giới tâm hồn trong sáng của hai chị em Liên: hình ảnh
bóng tối và bức tranh phố huyện mà ta đã nói trên được cảm nhận chủ yếu từ
nỗi niềm khao khát của hai đứa trẻ.
Trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khao khát ánh sáng. Bức tranh phố
huyện hiện ra chính là tâm trạng này: “Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng
sắp gãy) ngồi yên nhìn ra phố”… Liên trong thấy “mấy đứa trẻ con nhà nghèo
ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi” nhưng “chính chị cũng không có
tiền để mà cho chúng nó…”. “Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy
thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra… hai
chị em Liên đứng sững nhìn theo bà cụ Thi “đi lẫn vào bóng tối… hai chị em
đang ngồi yên trên chõng đưa mắt theo dõi những người về muộn từ trong
đêm”… “Từ khi nhà Liên dọn về đây… đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên
chiếc chõng dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung quanh”…
Đêm tối đối với Liên “quen lắm, chị không sợ nó nữa” - “không sợ nó nữa” nghĩa
là đã từng sợ. Chỉ mấy từ “không sợ nó nữa” mà gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là
Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những ngày đầu mới dọn
về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi trong bóng tối rồi cũng thành
quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì tội
nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn dùng ở đây. Nhưng ngòi bút
và tâm hồn Thạch Lam không chỉ dừng ở đấy. Cam chịu nhưng cũng không
hoàn toàn cam chịu, nhà văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sáng trong chỗ
sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại. Ông theo dõi Liên và An ngước mắt lên
nhìn vòm trời vạn sao lấp lánh để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông
Thần Nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong truyện cổ tích,
nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn của hai đứa trẻ như đầy bí mật,
lại quá xa lạ làm mỏi ý nghĩ, nên chỉ một lát hai em lại cúi nhìn về mặt đất, và
quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí… Nhà văn chăm
chú theo dõi từng cử chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thôi. Nhưng chỉ
cần thế, cũng đủ làm nao lòng người đọc. Sống mãi trong bóng tối, “quen lắm”
với bóng tối, nhưng càng như thế chúng càng khao khát hướng về ánh sáng,
chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ mọi phía “từ ngàn sao lấp
lánh trên trời”, đếm từng hột sáng lọt qua phên nứa, chúng mơ tưởng tới ánh
sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa xăm”, “Hà Nội rực sáng, vui
vẻ và huyên náo” đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê đón chờ đoàn tàu từ Hà Nội về
với “các toa đèn sáng trưng”; chúng còn nhìn theo cả cái chấm nhỏ của chiếc
đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi… Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là
một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh. Không thấm được một tấm lòng
nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm giàu
chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những
con người sống trong bóng tối.
Đọc Hai đứa trẻ, ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì.
Mọi chi tiết giản dị như đời sống thực. Cuộc sống cứ hiện lên trang viết như nó
vốn như vậy. Nhưng sức mạnh của ngòi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những
chuyện đời thường vốn phẳng lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra
một đời sống đang vận động, có bề sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh
bóng tối, cái đẹp đẽ nằm ngay trong cái bình thường, cái khao khát ước mơ
trong cái nhẫn nhục cam chịu, cái xôn xao biến động trong cái bình lặng hằng
ngày, cái tăm tối trước mắt và những kỉ niệm sáng tươi…
Nét độc đáo trong bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng
nghệ thuật tương phản một cách hầu như tự nhiên, không chút tô vẽ, cường
điệu, và nhờ thế, bức tranh phố huyện trở nên phong phú, chân thật, gợi cảm.
Đọc Hai đứa trẻ, ta bị ám ảnh day dứt không thôi trước đêm tối bao trùm
phố huyện và xót xa thương cảm trước cuộc đời hiu quạnh cam chịu của những
con người sống nơi đây. Nhưng Hai đứa trẻ cũng thu hút ta bởi cái hương vị
man mác của đồng quê vào một “chiều mùa hạ êm như ru” và “một đêm mùa hạ
êm như nhung và thoảng qua gió mát”… Nó làm sống lại một thời quá vãng, nó
đánh thức tình cảm quê hương đậm đà, và làm giàu tâm hồn ta bởi những tình
cảm “êm mát và sâu kín”.
Bài 62
ĐỀ BÀI 30
“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc
sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc
lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác,
vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam, 1910 -
1942).
Giải thích và bình luận ý kiến trên.
BÀI LÀM
Thạch Lam là một hiện tượng khá lạ trong văn học Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945: có chân trong nhóm văn học lãng mạn, nhóm Tự lực văn đoàn,
Thạch Lam lại có truyện ngắn đầy tinh thần hiện thực.
Thạch Lam có một phong cách, một chủ trương riêng về sáng tác. Ông
nói: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự
thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực
mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa
làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Ta có thể rút ra trong quan niệm của Thạch Lam về mục đích của văn học,
văn chương, những ý kiến chính xác và bổ ích.
Trước hết, Thạch Lam từ chối thứ văn chương đem đến cho người đọc
“sự thoát li hay sự quên”.
Thế nào là văn chương đem đến “sự thoát li hay sự quên”?. Có nhiều thứ
văn chương: có thứ văn chương lấy văn chương làm mục đích, tôn cái đẹp làm
cứu cánh; đọc văn chương như vào chốn đền thiêng, đứng trên cuộc đời, ở
ngoài cuộc đời, đọc để siêu thoát, để quên mọi nỗi lầm than cực nhọc của đời.
Có thứ văn chương tô vẽ cuộc sống thành chốn bồng lai, coi cuộc đời như một
nơi chỉ toàn lạc thú để người ta chỉ sống “vui vẻ trẻ trung”. Có thứ văn chương
đưa người ta vào ảo mộng, lên tiên cảnh, vào những cuộc vui bất tận, tìm ở nơi
đó niềm an ủi, chốn ốc đảo để tránh mọi thương đau. Những thứ văn chương ấy
nhiều khi có sức mê hoặc lạ lùng, như thứ thuốc an thần cực mạnh, có thể làm
cho người đọc tạm quên cuộc đời để mà thoát li nó, lẩn tránh nó. Đương thời
Thạch Lam, giữa lúc trên văn đàn Việt Nam đầy rẫy thứ văn chương như thế, từ
chối thứ văn chương đem đến “sự thoát li hay sự quên”, quả là một điều rất độc
đáo và tiến bộ. Là một trong những nhân vật chủ chốt của Tự lực văn đoàn, em
ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo, bạn thân thiết của Khái Hưng, mạnh dạn phát
biểu sự từ chối ấy, Thạch Lam tỏ ra là một nhà văn đầy bản lĩnh. Rõ ràng, quan
niệm văn chương của Thạch Lam rất gần gũi với quan niệm của các nhà văn
hiện thực giai đoạn 1930 - 1945 như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng.
Quan điểm của Thạch Lam về văn chương là một quan điểm “nhập cuộc”.
Đánh giá cao tác dụng của văn chương đối với đời sống, Thạch Lam chủ trương
văn chương là “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực”. Khi coi văn chương là
“một thứ khí giới”, Thạch Lam rất gần gũi với những nhà văn nhà thơ đã từng là
chiến sĩ đấu tranh cho độc lập, tự do trong lịch sử như Nguyễn Đình Chiểu cách
đó gần một trăm năm:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
hay như Hồ Chí Minh mà có lẽ ông chưa hề đọc:
Nay ở trong thơ nên có thép…
Thạch Lam tỏ ra rất tinh tế và hiểu rõ đặc trưng của văn học khi gọi văn
chương là “thứ khí giới thanh cao”. Văn học là một thứ vũ khí đặc biệt, thứ vũ khí
tinh thần, lấy sức mạnh tinh thần làm chính, được tạo nên bởi một thứ chất liệu
thanh cao là nghệ thuật, là cái đẹp chân chính của nghệ thuật, của hình tượng
ngôn ngữ và nghệ thuật. Mặc dầu thế, văn chương vẫn là một “thứ khí giới đắc
lực” trong công cuộc đấu tranh và cải tạo xã hội.
Nắm được đặc trưng của văn học và hiểu rõ khả năng của nó có thể làm
được những gì trong cuộc sống, Thạch Lam đã xác định rõ mục đích viết văn
của mình là “vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, làm cho con
người vừa trong sạch và phong phú hơn”. Quan niệm của Thạch Lam hơn hai
chục năm trước sao mà giống với quan niệm của chúng ta ngày nay lạ lùng.
Thạch Lam đã không ngại ngần khi vạch rõ hai nét bản chất của các xã hội mà
ông đang sống: giả dối và tàn ác. Đó là hai sản phẩm đồng thời cũng là hai chỗ
dựa để tồn tại của xã hội ấy. Những nhà văn hiện thực chủ nghĩa như Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao… với tài nghệ xuất sắc của
mình, chẳng đã hết sức cố gắng để làm nổi bật những bức tranh xã hội với bản
chất đó là gì? Với Thạch Lam văn chương không chỉ tố cáo mà còn làm thay đổi
xã hội đó.
Nhưng với văn chương của mình, Thạch Lam có thể làm gì để thay đổi cái
“thế giới giả dối và tàn ác” ấy? Có lẽ tác động thay đổi nằm ngay trong sự tố cáo,
tố cáo để xóa bỏ cái giả dối và tàn ác, để thay thế sự tàn ác và giả dối bằng cái
thiện, cái chân, cái mĩ, những lí tưởng mà bất kỳ một nền nghệ thuật chân chính
nào cũng tôn thờ. Mặt khác, Thạch Lam còn muốn thay đổi xã hội bằng một cách
nữa, đó là “làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Thạch Lam
quả đã rất tin tưởng ở khả năng diệu kì của văn chương, sức tác động mãnh liệt
của văn chương vào tâm hồn con người, nó có những khát vọng cao cả, những
tình cảm tốt đẹp, làm cho đời sống con người trở nên giàu có hơn.
Thạch Lam không phải là một nhà lí luận. Ông là một nhà văn, Thạch Lam
nói không phải để khuyên bảo ai, ông nói để khẳng định con đường của mình,
cho mình. Ông nói để làm theo. Quả nhiên, số tác phẩm không nhiều nhưng đầy
giá trị nghệ thuật mà Thạch Lam để lại từ cuộc đời cầm bút ngắn ngủi của mình
đã là sự minh chứng cho lời ông nói.
Thật ra, sức tố cáo, nhất là tố cáo cái ác, trong các truyện ngắn của Thạch
Lam không lớn. Nhưng quả tình, mỗi truyện ngắn của Thạch Lam đều có sức
“làm cho lòng người thêm sạch và phong phú hơn”. Dưới bóng hoàng lan đem
đến trong ta tình yêu đậm đà đối với quê hương, đỗi với những vẻ đẹp trong
sạch của cuộc sống, của tình người. Một cơn giận, Đói, Gió lạnh đầu mùa… giúp
ta tự mình biết độ lượng hơn, trắc ẩn hơn, vị tha hơn… Hà Nội băm sáu phố
phường giúp ta sống phong phú với sự cảm nhận ra vẻ đẹp trong những điều
hết sức nhỏ bé trên đất nước mình, dầu chỉ là một hương thoảng nhẹ của hạt
cốm vàng mùi thơm gắt của bát nước mắm có vị cà cuống… Nhà mẹ Lê, Hai
đứa trẻ làm dâng lên trong ta nỗi phẫn uất, xót xa về những cuộc đời nghèo khổ,
tối tăm… Là một nhà văn thuộc nhóm văn học lãng mạn, Thạch Lam lại viết
những tác phẩm gắn với Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng… hơn là với các
nhà văn lãng mạn.
Có thời, do một định kiến thiếu căn cứ, văn học ta chưa đánh giá đúng
mức Thạch Lam, tác phẩm của Thạch Lam. Nếu đánh giá nhà văn là phải qua
tác động của tác phẩm đối với người đọc, và cả những gì mà họ nói về cuộc
sống và văn học, ta có thể khẳng định: Thạch Lam là một trong những nhà văn
xuất sắc của văn học Việt Nam 1930 - 1945. Thạch Lam không những có đóng
góp to lớn về mặt nghệ thuật mà còn có tác động sâu sắc đối với xã hội, đối với
việc xây dựng con người.
Bài 63
ĐỀ BÀI
Phân tích truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam.
BÀI LÀM
Nhà văn Thạch Lam là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Tác phẩm
của ông là sự xen kẽ giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực, thế giới nhân vật của
ông bao gồm những lớp người nghèo khổ, đời sống bế tắc, tương lai mờ mịt
(Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Hai đứa trẻ). Thạch Lam có sở trường về truyện
ngắn. Ông sáng tạo ra một lối truyện ngắn riêng: loại truyện tâm tình, “truyện mà
không có chuyện”. Nhà văn thường chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với
những tình cảm, cảm xúc mơ hồ, mong manh và khung cảnh thiên nhiên êm
đềm, thơ mộng. Nhưng đằng sau những hình ảnh, những dòng chữ trong tác
phẩm của ông vẫn thấy ẩn hiện một tâm hồn đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm
với mọi biến thái của lòng người và tạo vật mà ông hằng trân trọng, yêu mến.
Dưới bóng hoàng lan là truyện ngắn tiêu biểu của Thạch Lam. Nó thể hiện kín
đáo tâm hồn của nhà văn khi diễn tả sự giao cảm nhẹ nhàng, thiết tha giữa
người với người, giữa người và cảnh vật “dưới bóng hoàng lan”.
Mở đầu Dưới bóng hoàng lan là cảnh Thanh đi làm trên tỉnh về nhà sau
hai năm xa cách. Tác giả đã vạch ra ranh giới giữa xã hội thành thị ồn ào, náo
nhiệt, không khí mùa hè oi bức ở bên ngoài với căn nhà và khu vườn hết sức
yên tĩnh, êm đềm và mát mẻ một cách thật nhẹ nhàng, tinh tế khi viết: “Thanh
lách cánh cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bước vào. Chàng thấy mát hẳn cả người:
trên con đường gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây
xuống nhảy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí.
Thanh rút khăn lau mồ hôi trên trán - bên ngoài trời nắng gắt - rồi thong thả đi
trên bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà. Yên tĩnh quá, không một tiếng
động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại
trên bực cửa”.
Sau hai năm mới trở về, cảnh vật ở nhà Thanh dường như vẫn y nguyên:
“gian nhà cũ không có gì thay đổi”, “vẫn tịch mịch”, vẫn con mèo già của bà
thường “chơi đùa với chàng ngày trước”, nằm cuộn tròn “mắt lim dim trong sự
bình yên và nhàn nhã”, vẫn “khu vườn với cái cây quen”, cây hoàng lan “chàng
thường hay chơi dưới gốc nhặt hoa”. Thời gian như ngưng đọng, cảnh vật không
đổi thay, tất cả bao bọc lấy anh: “Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm, tươi mát như
vừa tắm ở suối. Chàng tắm trong cái không khí tươi mát này”.
Cùng với cảnh vật quen thuộc, êm đềm và tươi mát đó là tình cảm của
những người thân đối với Thanh. Dù năm tháng qua đi nhưng tình cảm của
người bà hiền từ, của cô hàng xóm xinh xắn đối với Thanh và của Thanh đối với
họ vẫn không hề thay đổi. Ngòi bút của Thạch Lam đầy rung cảm khi viết về tâm
trạng của Thanh lúc mới trở về nhà: “Sự yên lặng trầm tịch đến nỗi Thanh nghẹn
họng, mãi chàng mới cất được tiếng lên gọi khẽ: Bà ơi”.
Hình ảnh người bà của Thanh hiện lên trong tác phẩm thật đẹp đẽ, thân
thuộc: “Có tiếng người đi, rồi bà chàng, mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc ở ngoài
vườn vào (…) Bà cụ thôi nhai trầu, đôi mắt hiền từ dưới làn tóc trắng đưa lên
nhìn cháu, âu yếm và mến thương”. Trước đây, bố mẹ mất sớm, Thanh ở với
bà, “một bà một cháu quấn quýt bên nhau”. Bà bao giờ cũng yêu thương, chiều
chuộng cháu. Khi Thanh đi làm ở ngoài tỉnh về, bà vẫn vồn vã, săn sóc và lo cho
Thanh bị nắng khi đi đường, chỉ sợ cháu đói và mệt. Chính vì vậy, khi đứng
trước người bà nhỏ bé, hiền từ, chàng thanh niên có cảm giác tin cậy, kính cẩn:
“Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy vậy, chàng cảm
thấy chính bà che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ”.
Ngoài căn nhà, thửa vườn mát mẻ, trong lành và người bà “lúc nào cũng
sẵn sàng chờ đợi để mến yêu chàng”, còn có cô hàng xóm nhà Thanh đối xử
thân mật, gần gũi như với người em gái. Với lối viết trữ tình, nhẹ nhàng, xen kẽ
giữa hiện tại và quá khứ, Thạch Lam đã diễn tả tình cảm trong sáng của Thanh
đối với Nga. Người thiếu nữ xuất hiện trong tác phẩm tươi trẻ, hồn nhiên ngay từ
tiếng nói chuyện “trong và mau hơn”, “tiếng cười sẽ đưa lên”. Tác giả miêu tả
Nga có một vẻ đẹp trẻ trung, trong trắng: “Người thiếu nữ đương nhặt rau nghe
tiếng gọi vội ngửng đầu: một nụ cười, đôi mắt trong sáng lên”. Cũng như bạn bè
cùng lứa “cô thiếu nữ xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông trên cổ
nhỏ”. Dưới ánh mắt của Thanh “Lá rau tươi xanh ngắt bên bàn tay trắng hồng
nhỏ nhắn”, “Thỉnh thoảng chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng”.
Nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam đằm thắm mà tinh tế, tất cả như
lắng sâu vào bên trong. Ông đã thể hiện nội tâm của nhân vật vô cùng chính
xác, nhuần nhị. Tâm trạng, tình cảm của Thanh có diễn biến rất phù hợp với
cảnh vật và con người xung quanh, đồng thời nó cũng đúng với bản chất của
anh. Sau hai năm đi xa, về nhà gặp lại bà và cô hàng xóm quấn quýt nương tựa
vào nhau, Thanh không khỏi có những thay đổi về ý nghĩa và tình cảm. Trong
Thanh lẫn lộn quá khứ trong hoài niệm với hiện tại, hình ảnh xưa và nay hòa
quyện với nhau: “Ngoài vườn, trời vẫn nắng. Giàn thiên lí pha xanh một bên tà
áo trắng của Nga. Những búp hoa lí non và thơm rủ liền trong giàn, lẩn vào đám
lá. Gạch mát và phủ rêu khiến Thanh nhớ lại hai bàn chân xinh xắn của Nga,
ngày nào, đi trên đó. Hai bàn chân nhỏ, lấm tấm cát, để dấu tự ngoài ao trở về”.
Bên Thanh, Nga vừa là “cô bé hàng xóm vẫn sang chơi với chàng trong vườn,
và mỗi lần về, chàng lại gặp ở nhà như một người thân mật”, “có lúc chàng lầm
tưởng Nga chính là em gái ruột của mình”, mặt khác, cô thẹn thùng, e lệ với “nụ
cười tươi nở, nàng nhìn lại Thanh một chút thôi nhưng bao nhiêu âu yếm” khiến
cho “Thanh thấy quả tim đập nhẹ nhàng”.
Cảnh Thanh và Nga ở ngoài vườn “dưới bóng hoàng lan”, được dựng lên
với mọi biến thái tinh vi của lòng người và tạo vật, chỉ có tấm lòng đôn hậu, nhạy
cảm và tài năng độc đáo của Thạch Lam mới đủ sức làm được. Văn Thạch Lam
cô đọng, hàm súc, lời ít mà có sức gợi tả lớn lao. Sau đây là những lời trao đổi
giữa Thanh và Nga: “Thanh đột nhiên mỉm cười rồi hỏi:
- Cô Nga có còn hay đi nhặt hoàng lan rơi nữa không?
Nga cũng cười hơi thẹn:
- Vẫn nhặt đấy, nhưng không có ai tranh nữa.
(…) Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng thơm như có
giắt hoàng lan, nhưng hoa lan chưa rụng, vẫn còn tươi xanh ở trên cành, Nga
bảo Thanh:
- Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá”.
Còn gì ý nhị hơn lời bày tỏ tình cảm của cô láng giềng với Thanh. Đáp lại,
Thanh cũng có tình cảm yêu mến đối với Nga: “Qua vườn, Thanh tiễn Nga ra
đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt sương. Mùi hoàng lan thoang thoảng bay
trong gió ngát. Không lưỡng lự, Thanh cầm lấy tay Nga, để yên trong tay mình.
Nga cũng đứng yên lặng. Lâu lâu, Nga rút tay sẽ nói:
- Thôi, em về”.
Lúc này, tác giả đã đặt nhân vật của mình vào một trạng thái lâng lâng,
khó tả: “Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây,
khiến chàng vương phải”.
Kết thúc truyện, nhân vật Thanh có tâm trạng nửa vui nửa buồn khi trở lại
tỉnh thành với “những ngày bận rộn”. Xa quê hương, xa căn nhà mát mẻ có
người bà hiền từ, xa cô gái láng giềng “vẫn đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như
ngày trước”, Thanh bịn rịn mà tràn đầy hy vọng. Tuy nhiên, ở đây, cũng như
trong toàn bộ truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan vẫn có một nỗi buồn man mác,
nhè nhẹ phủ lên và thấm sâu vào đời sống của các nhân vật.
Phong cách nghệ thuật độc đáo của Thạch Lam không chỉ thành công ở
những trang viết miêu tả đời sống nội tâm nhân vật mà cả khi miêu tả thiên
nhiên. Với ông, thiên nhiên không chỉ là cái nền, là bối cảnh cho nhân vật hoạt
động mà còn thực sự tham gia vào nội dung câu chuyện. Trong truyện ngắn
Dưới bóng hoàng lan, thiên nhiên hiện lên với mọi sắc màu rực rỡ, là mùi lá tươi
non, trời xanh ngắt, là giàn thiên lí với những búp hoa non và thơm, đặc biệt là
cây hoàng lan cao vút. Khi nhận xét về mọi khía cạnh trong tác phẩm Dưới bóng
hoàng lan, nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: “Cái bóng cây có hoa thơm ở đây,
dưới ngòi bút Thạch Lam cũng đóng một vai nhân vật. Nhân vật cây - cỏ - hoa
ấy đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành”. Quả là cây hoàng
lan như một bộ phận không thể thiếu trong đời sống con người. Vừa là chứng
nhân vừa là tâm hồn đồng điệu với hai nhân vật trong truyện. Nó chứng kiến mọi
đổi thay trong gia cảnh của Thanh, chứng kiến quãng đời thơ trẻ, tinh nghịch của
đôi bạn nhỏ. Bằng bóng mát và hương thơm, cây hoàng lan góp phần nuôi
dưỡng tình quê hương, bà cháu, tình bạn, tình yêu của những con người hiền
hậu, chất phác và rất tế nhị. Nó có một thứ ngôn ngữ thầm kín, gợi cảm là
hương thơm tinh khiết, dịu dàng. Người ta đã hái hoa, giắt hoa lên mái tóc, rửa
hoa rồi xếp bày lên quả trầu để bày tỏ ý nghĩ, tình cảm đối với nhau. Cành lá của
cây, “rủ xuống như chào đón hai người”, mùi hương của hoa “thoang thoảng bay
trong gió ngát” là để tạo không khí đầy chất thơ cho cuộc gặp gỡ giữa đôi bạn
trẻ và vun đắp cho tình cảm trong trẻo, cao khiết của họ.
Trong truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa, Thạch Lam viết: “Đối với tôi, văn
chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên.
Trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để
vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người
đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Quan niệm ấy của ông thể hiện khá
tiêu biểu trong truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan. Ông không thuyết giảng đạo
đức mà tạo ra một thế giới nghệ thuật để người đọc sống trọn vẹn thế giới ấy, tự
thanh lọc tâm hồn và hướng tới sự thánh thiện, cao cả.
Lối viết trữ tình, nhẹ nhàng, tinh tế, giàu tính gợi cảm của Thạch Lam
trong Dưới bóng hoàng lan còn thể hiện một tình cảm gắn bó, yêu thương đối
với quê hương, cảnh vật và con người. Tình cảm nhân đạo, tính dân tộc trong
tác phẩm của Thạch Lam là những điểm đáng ghi nhận và trân trọng.
(Theo: Trần Thị Thìn, Những bài văn mẫu;
NXB Đại học Quốc gia TPHCM - 2001).
MỤC LỤC
Bài 1. Em hiểu chủ nghĩa nhân văn trong văn học như thế nào? Hãy phân
tích một số dẫn chứng lấy trong hai đoạn trích của tác phẩm Hamlet, Romeo và
Juliet để làm sáng tỏ về chủ nghĩa nhân văn.
Bài 2. Em hãy phân tích mâu thuẫn nội tâm trong nhân vật Hộ ở truyện
ngắn Đời thừa của Nam Cao để thấy rõ số phận bi đát của người trí thức trong
giai đoạn 1930 - 1945.
Bài 3. Bình luận ý kiến sau đây về tiếng cười của Trần Tế Xương: “Tiếng
cười trong thơ trào phúng của Tú Xương có đủ sắc điệu nhưng nổi lên một cá
tính nghệ thuật độc đáo là tính dữ dội, quyết liệt; khác với tiếng cười của Nguyễn
Khuyến, nghiêng về sự hóm hỉnh, thâm thúy, chế giễu có tính chất răn bảo, mặc
dù cả hai tiếng cười đều phát ra từ cội nguồn của tâm huyết với nước, với dân,
với đời”.
Bài 4. Phân tích nhân vật quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù
của Nguyễn Tuân.
Bài 5. Phân tích nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
Bài 6. Tố Hữu đã viết về thơ Nguyễn Du: “Tiếng thơ ai động đất trời…”.
Bằng một số tác phẩm đã học của Nguyễn Du, hãy làm rõ tiếng thơ ấy.
Bài 7. Trong tác phẩm Đời thừa Nam Cao có viết: “Một tác phẩm thật giá
trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung
cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn
lại vừa phấn khởi, nó ca ngợi lòng thương, tình bác ai, sự công bình. Nó làm cho
gần người hơn.
Như thế mới thật là một tác phẩm hay”.
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
Bài 8. Chọn và phân tích một đoạn văn để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn
Nam Cao.
Bài 9. “Một nhà văn có tài luôn để lại dấu ấn riêng trên từng trang viết”.
Hãy phân tích một trong ba tác giả: Thạch Lam, Huy Cận, Nguyễn Tuân để nhận
định bình luận trên.
Bài 10. Phân tích đoạn thơ:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm của tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng - Xuân Diệu)
Bài 11. Bàn về sự tấn công của những thói hư tật xấu, có ý kiến cho rằng:
“Tập quán xấu ban đầu là khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở
chung nhà và kết cục biến thành một ông chủ nhà khó tính”.
Em hiểu câu nói trên như thế nào? Từ đó em hãy nêu bài học mà mình có
thể rút ra ở đây.
Bài 12. Phát biểu cảm nhận về bài thơ Sông lấp của Trần Tế Xương:
Sông kia rày đã lên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Bài 13. Trình bày cách hiểu của em về nội dung câu ca dao: Trèo lèn cây
bưởi hái hoa.
Bài 14. Chọn và phân tích một hoặc một số tác phẩm tiêu biểu để làm nổi
bật cảm hứng nhân văn, nhân đạo của văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ
XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Bài 15. Phân tích khổ thơ thứ hai trong bài Đây mùa thu tới của Xuân
Diệu.
Bài 16. Bình giảng bài thơ Nắng mới của Lưu Trọng Lư.
Bài 17. Dòng sông trôi đi mang theo bao kỷ niệm của con người. Em hãy
trở về dòng sông ấy để hồi ức một kỷ niệm sâu sắc của em.
Bài 18. Hãy chứng minh rằng, truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam là
một bài thơ trữ tình đầy xót thương.
Bài 19. Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
Bài 20. Phân tích tình cha con qua hai nhân vật Sửu (người cha) và Tí
(người con) trong trích đoạn tác phẩm Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh.
Bài 21. Phân tích nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn trích Cha con nghĩa
nặng, từ đó hãy nêu ý nghĩa “biểu chánh” của tác phẩm.
Bài 22. Bình giảng bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
Bài 23. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
Tôi muốn tắt nắng đi
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Bài 24. Phân tích Thơ duyên của Xuân Diệu.
Bài 25. Hãy phân tích bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu. Từ đó nêu cảm
nghĩ của em về hồn thơ và đặc sắc nghệ thuật của thơ Xuân Diệu.
Bài 26. Phân tích bài thơ Nguyệt cầm của Xuân Diệu.
Bài 27. Phân tích tác phẩm Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu.
Bài 28. Bình giảng bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
Bài 29. Bình giảng bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
Bài 30. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Bài 31. Phân tích bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.
Bài 32. Những cảm nhận sâu sắc nhất về giá trị nhân bản của truyện ngắn
Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam.
Bài 33. Chất thơ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Bài 34. Phân tích truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam.
Bài 35. Cái đẹp trong truyện ngắn Chữ người tủ tù của Nguyễn Tuân.
Bài 36. Đọc truyện Chí Phèo của Nam Cao, em thích nhất chi tiết, hoặc
hình ảnh nào? Hãy viết một bài phân tích, hoặc bình giảng chi tiết, hoặc hình ảnh
đó. (Có thể đặt tên cho bài viết, xem như một “tiểu luận” đăng trên các báo, tạp
chí Nghiên cứu Văn học).
Bài 37. Nói về nội dung và tác dụng của văn chương, trong truyện ngắn
Đời thừa Nam Cao viết: Một tác phẩm thật giá trị… phải chứa đựng một cái gì
lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình
bác ái, sự công bình… nó làm cho người gần người hơn”.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua những tác phẩm của Nam Cao em
hãy chứng minh rằng: Nam Cao đã cố gắng sáng tạo được những tác phẩm văn
chương có giá trị như ông từng mơ ước.
Bài 38. Những ấn tượng sâu sắc nhất của anh (chị) về hình tượng ngươi
Nông dân trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
Bài 39. Bàn về nghề văn, có người đã mượn một câu thơ trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Nhưng có người lại
cho rằng: “Văn chương trước hết phải là văn chương”.
Anh (chị) hiểu thế nào về những ý kiến đó và có suy nghĩ gì về mối quan
hệ giữa chữ “tâm” và chữ “tài” của người sáng tác văn chương.
Bài 40. Nhà văn Nguyễn Khải đã phát biểu: “Văn chương có quyền,
nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm
thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. (Báo Văn
nghệ, số Tết Tân Mui, 16-2-1991)
Từ thực tế cảm nhận văn học của mình, anh (chị) hay bình luận và làm
sáng tỏ quan niệm trên đây.
Bài 41. Phân tích một đoạn trong bài Chí nam nhi để làm rõ quan niệm
của Nguyễn Công Trứ về lẽ sống của kẻ làm trai:
Đố kị sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung
Làm cho rõ tu mi nam tử
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh gì với núi sông
Đi không chẳng lẽ trở về không!
Bài 42. Hãy tìm hiểu chí anh hùng qua bài thơ cùng tên của Nguyễn Công
Trứ.
Bai 43. Phân tích bài thơ Ông nghè tháng tám của Tam Nguyên Yên Đổ.
Bài 44. Trong các bài thơ đọc thêm của thi sĩ Tản Đà in trong sách Văn
11, em thích bài nào nhất? Chép nguyên văn và phân tích bài thơ đó.
Bài 45. Bình giảng bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương.
Bài 46. Hãy phân tích bài thơ sau:
ĐẤT VỊ HOÀNG
Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông
Nhà kia lỗi phép, con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh:
Có đất nào như đất ấy không?
(Trần Tế Xương)
Bài 47. Phân tích bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu.
Bài 50. Bàn về thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám; sách giáo
khoa Văn 11 viết: “Kinh nghiệm Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, kết tinh ở
một hồn thơ nghệ sĩ khao khát giao cảm với đời đã giúp Xuân Diệu khám phá
được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm con người và thể
hiện được trong những vần thơ ít lời, nhiều ý, súc tích như đọng lại bao nhiêu là
tinh hoa” (Thế Lữ).
Bằng sự hiểu biết về thơ Xuân Diệu trước Cách mạng, anh (chị) hãy bình
luận ý kiến trên.
Bài 51. Bàn về thơ Xuân Diệu, nhà phê bình Hoài Thanh đã khẳng định:
« … Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn
nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội
vàng, sống cuống quýt muôn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui
cũng như khi buồn, người đều yêu nồng nàn, tha thiết…”. (Hoài Thanh và Hoài
Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học (tái bản), Hà Nội, 1988).
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên đây, thông qua sự hiểu biết về
thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
Bài 52. Trong bài thơ Giục giã, nhà thơ Xuân Diệu viết:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Qua bài thơ Vội vàng và truyện ngắn Toả nhị Kiều anh (chị) hãy chứng
minh và bình luận về quan niệm sống nói trên của Xuân Diệu.
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên đây, thông qua sự hiểu biết về
thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
Bài 53. Bình giảng hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
Bài 54. Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
Bài 55. Bình giảng bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Bài 56. Bình giảng bài thơ Tiếng sáo Thiên Thai của Thế Lữ.
Bài 57. Bình giảng bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm.
Bài 58. Phân tích nhân vật cai tuần Bưởi (Con nhà nghèo - Hồ Biểu
Chánh).
Bài 59. Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có hình ảnh chuyến tàu
đêm chạy qua phố huyện. Chuyến tàu đó đã được miêu tả như thế nào và theo
em, hình ảnh đó có ý nghĩa gì trong tác phẩm?
Bài 60. Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của
một tang gia, trích tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Bài 61. Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối
được Thạch Lam miêu tả trong truyện ngắn Hai đứa trẻ và phát biểu cảm nhận
của mình.
Bài 62. “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho
người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh
cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối
và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch
Lam, 1910 - 1942).
Giải thích và bình luận ý kiến trên.
Bài 63. Phân tích truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam.
---//---
63 BÀI VĂN HAYTRUNG HỌC PHỔ THÔNG LỚP 11
Bồi dưỡng học sinh giỏi & Trợ ôn thi tú tài,
thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng
Tác giả:
TRẦN VĂN ĐỒNG
(Tuyển chọn, giới thiệu)
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
KP 6, P. Linh Trung, Q. Thủ Đức, TPHCM
ĐT: 7242181 + 1421, 1422, 1423, 1425, 1426 | Fax: 7242194
Email: [email protected]
Chịu trách nhiệm xuất bản: PGS-TS. NGUYỄN QUANG ĐIỂN
Biên tập: TRẦN THỊ LY
Sửa bản in: THÙY DƯƠNG
Trình bày bìa: ĐỖ LAM VŨ
Đơn vị / Người liên kết: NS THÀNH NGHĨA
In 2.000 cuốn, khổ 17 x 24cm. Số đăng ký KHXB: 579-2006/CXB/291- 53/ĐHQG
TP HCM. Quyết định xuất bản số: 495/QĐ-ĐHQGTPHCM ngày 07/9/2006 của
NXB ĐHQG TP.HCM. In tại Công ty Cổ phần in Bến Tre. Nộp lưu chiểu tháng 9
năm 2006.