quy hoẠch ĐiỆn quỐc gia cho tƯƠng lai bỀn vỮng
Post on 19-Nov-2021
1 Views
Preview:
TRANSCRIPT
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 1 / 10
Power System Development Department ©
QUY HOẠCH ĐIỆN QUỐC GIA CHO TƯƠNG LAI BỀN VỮNG
NCS. Nguyễn Mạnh Cường Phó Trưởng phòng Phát triển Hệ thống điện – Viện Năng lượng, Bộ
Công Thương
Đề án Điều chỉnh quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia giai đoạn
2011-2020 có xét đến 2030 (QHĐ7ĐC) do Viện Năng lượng - Bộ
Công Thương lập đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo
Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2016. Đề án lần nữa
khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước đối với việc
phát triển hệ thống điện quốc gia, huyết mạch của nền kinh tế và được
nhấn mạnh thêm một số nhân tố thời đại. Có thể nhận thấy sáu quan
điểm cơ bản về phát triển điện lực: (i) Điện phải đi trước một bước
nhằm cung cấp đủ điện, chủ động đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; (ii) Đa dạng hóa các nguồn năng
lượng sơ cấp để sản xuất điện, trong đó ưu tiên phát triển nguồn điện
từ năng lượng tái tạo (gió, mặt trời, sinh khối, ...) góp phần bảo tồn tài
nguyên năng lượng, giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường; (iii)
Phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện, đầu tư nguồn điện cân đối giữa
các vùng miền; (iv) Phát triển lưới điện 500-220 kV đảm bảo truyền
tải an toàn, tin cậy và kinh tế; (v) Nâng cao chất lượng điện năng và
chất lượng dịch vụ cung cấp điện, thực hiện giá bán điện theo cơ chế
thị trường để khuyến khích đầu tư vào ngành điện và khuyến khích sử
dụng điện tiết kiệm hiệu quả; (vi) Phát triển thị trường điện lực cạnh
tranh nhằm đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện, nhà
nước chỉ giữ độc quyền lưới điện truyền tải để đảm bảo an ninh năng
lượng quốc gia. Bài viết này sẽ phân tích những nét cơ bản của
QHĐ7ĐC, đưa ra một số nhận định về cơ hội và thách thức khi triển
khai thực hiện quy hoạch điện lực.
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 2 / 10
Power System Development Department ©
(i) Điện phải đi trước một bước nhằm cung cấp đủ điện, chủ động đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Theo nghiên cứu gần nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư kết hợp với
Ngân hàng thế giới (World Bank) [1], từ xuất phát điểm hiện nay, để
trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2035, Việt Nam
cần đạt mức tăng GDP bình quân đầu người tối thiểu là 6%/năm.
Theo tính toán của đề án QHĐ7ĐC, nhu cầu tiêu thụ điện của Việt
Nam cũng sẽ tăng trung bình khoảng 8,2%/năm trong 20 năm tới. Đây
là mức tăng trưởng rất cao, đòi hỏi sự đầu tư lớn cho nguồn – lưới
điện. Hiện trạng thiếu điện triền miên của các nước Nam Mỹ hiện nay
(khi đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo) [2] sẽ là những bài học đắt
giá cho Việt Nam trong việc huy động các nguồn lực xây dựng nhà
máy điện. Theo QHĐ7ĐC, giai đoạn 2016-2030, nước ta cần xây mới
thêm khoảng 90.000 MW nguồn điện, gấp hơn hai lần tổng công suất
nguồn điện hiện nay. Trong giai đoạn 15 năm tới, tổng vốn đầu tư cho
ngành điện là khoảng 148 tỷ USD, trong đó đầu tư cho nguồn chiếm
75% (111tỷ USD). Trung bình mỗi năm ngành điện phải huy động
khoảng 10 tỷ USD để đầu tư nâng cấp xây mới hệ thống điện, trong
đó 7,5 tỷ USD để phát triển nguồn điện. Xác định rõ quan điểm Điện
phải đi trước một bước sẽ tạo tiền đề cho ngành điện chủ động hơn
trong quản lý, vận hành và huy động các nguồn lực cho đầu tư phát
triển, nhất là đầu tư xây dựng nguồn điện mới.
(ii) Đa dạng hóa các nguồn năng lượng sơ cấp để sản xuất điện, trong
đó ưu tiên phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo
Đa dạng hóa các nguồn năng lượng sơ cấp, đẩy mạnh khai thác nguồn
năng lượng tái tạo để sản xuất điện là xu hướng tất yếu, đảm bảo an
ninh năng lượng và phát triển bền vững. Nếu trong Tổng sơ đồ 7, định
hướng phát triển chủ yếu là xây dựng mới nhiều nhà máy nhiệt điện
đốt than và điện hạt nhân (tổng CS đặt năm 2030 của nhiệt điện than
là 75.000 MW, điện hạt nhân là 10.700 MW) thì đến QHĐ7ĐC, công
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 3 / 10
Power System Development Department ©
suất đặt nhiệt điện than đã được điều chỉnh giảm còn 55.300 MW,
điện hạt nhân giảm còn 4.600 MW. Sự thiếu hụt nguồn điện sẽ được
bù đắp bằng năng lượng tái tạo như thủy điện nhỏ, gió, mặt trời, sinh
khối (bã mía, trấu), ... với tổng công suất khoảng 27.000 MW, trong
đó điện gió là 6.000 MW, điện mặt trời 12.000 MW. Sự điều chỉnh
chiến lược phát triển nguồn điện của QHĐ7ĐC là phù hợp với cam
kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế tại Hội nghị Công
ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP21) diễn ra tại
Paris năm 2015, trong đó Việt Nam phấn đấu giảm 8% lượng phát
thải khí nhà kính vào năm 2030. Mục tiêu này đã được cụ thể hóa
bằng Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt
Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2050 [3].
(iii) Phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện, đầu tư nguồn điện cân đối
giữa các vùng miền.
Triết lý phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện, đầu tư nguồn điện cân
đối giữa các vùng miền là nguyên tắc cơ bản trong thiết kế hệ thống
điện quốc gia, được nhắc đi nhắc lại tại tất cả các quyết định phê
duyệt Tổng sơ đồ điện [4], [5], và tiếp tục được nhấn mạnh trong
QHĐ7ĐC. Nhưng thực hiện được triết lý này không phải việc dễ
dàng, thậm chí có thể gây hậu quả khôn lường cho an ninh năng
lượng quốc gia nếu xảy ra sự mất cân đối nguồn điện giữa các miền.
Thực tế xây dựng nguồn điện toàn quốc 10 năm qua (2005-2015)
cũng đã cho thấy sự thiếu cân đối trong phát triển nguồn điện giữa ba
miền Bắc – Trung – Nam (xem hình vẽ dưới) [6].
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 4 / 10
Power System Development Department ©
Hình 1: Công suất nguồn tăng thêm các năm 2005-2015 và dự kiến
đến 2020.
Từ đồ thị có thể nhận thấy, 10 năm gần đây, các nguồn điện xây mới
tập trung chủ yếu tại miền Bắc và miền Trung, số nhà máy điện bổ
sung cho miền Nam rất ít, trong khi nhu cầu điện miền Nam rất lớn
(luôn chiếm khoảng 50% sản lượng toàn quốc). Hệ quả là từ năm
2013 trở đi, các đường đây 500 kV liên kết Bắc – Nam (dài 1500 km)
thường xuyên tải cao, gây nhiều rủi ro sự cố rã lưới, mất ổn định hệ
thống và gây tổn thất truyền tải lớn. Phần phía bên phải đồ thị là dự
kiến phát triển nguồn các năm 2016-2020 của QHĐ7ĐC, theo đó các
nguồn điện mới sẽ tập trung nhiều ở miền Nam nhằm bù đắp lượng
công suất thiếu hụt do chậm tiến độ nhiệt điện than những năm qua.
Tổng công suất nguồn gia tăng tại miền Nam trong 5 năm tới sẽ đạt
khoảng 9.000 MW, chiếm 41% công suất nguồn xây mới. Tiến độ đầu
tư xây dựng chậm trễ của các nhà máy nhiệt điện miền Nam giai đoạn
vừa qua như Long Phú I, Sông Hậu I, Vĩnh Tân I&III, Vân Phong I,
... sẽ là những bài học để các cơ quan quản lý ngành điện tìm ra giải
pháp thúc đẩy tiến độ xây dựng nhà máy điện theo đúng kế hoạch,
đồng thời cần có phương án dự phòng, nêu cao khẩu hiệu “Đủ điện
cho miền Nam” trong điều hành ngành điện.
(iv) Phát triển lưới điện 500-220 kV đảm bảo truyền tải an toàn, tin
cậy và kinh tế.
2000
4000
6000
8000
10000
20
05
20
06
20
07
20
08
20
09
20
10
20
11
20
12
20
13
20
14
20
15
20
16
20
17
20
18
20
19
20
20
MW
Miền Nam
Miền Trung
Miền Bắc
Thực tế phát triển nguồn 2005-2015 Dự kiến 2016-2020
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 5 / 10
Power System Development Department ©
Quan sát, nghiên cứu các Tổng sơ đồ điện từ trước tới nay, nhận thấy
chưa bao giờ, lưới điện truyền tải 500-220 kV lại được quan tâm, mổ
xẻ kỹ như QHĐ7ĐC. Theo QHĐ7ĐC, giai đoạn 2016-2030 tổng khối
lượng trạm biến áp (TBA) 500 kV cần đầu tư là 76.000 MVA, TBA
220 kV là 100.000 MVA, tổng chiều dài đường dây (ĐZ) 500 kV xây
mới cải tạo là 10.000 km, ĐZ 220 kV là 15.000 km. Tổng vốn đầu tư
cho lưới truyền tải 500-220 kV giai đoạn 2016-2030 khoảng 18 tỷ
USD (mỗi năm khoảng 1,2 tỷ USD). Rất nhiều vấn đề của lưới truyền
tải đã được phân tích và dần được tháo gỡ trong QHĐ7ĐC như: thay
đổi cấu trúc lưới điện theo hướng giảm sự tập trung quá nhiều nguồn
vào một trạm (giảm dòng ngắn mạch, giảm sự cố lan truyền); đề cao
tính linh hoạt trong sơ đồ nhất thứ của trạm biến áp (sử dụng sơ đồ có
nhiều máy cắt phân đoạn hơn so với hiện nay); có thể xem xét lắp 3
MBA 600 MVA thay vì lắp 2 máy 900 MVA đối với TBA 500 kV
(nâng cao độ tin cậy trong vận hành); so sánh truyền tải than và
truyền tải điện Bắc – Nam; so sánh truyền tải HVAC, HVDC Bắc –
Nam và Trung – Nam, ...
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 6 / 10
Power System Development Department ©
Để đảm bảo tính khách
quan và chất lượng thiết
kế, Bộ Công Thương đã
thuê Tư vấn Quốc tế
(AES-Australia) thẩm tra
lại các nội dung của
QHĐ7ĐC, trong đó trọng
tâm là rà soát, phản biện
phần thiết kế lưới điện
truyền tải. Sau 6 tháng
làm việc tập trung tại
Australia và Việt Nam,
Tư vấn quốc tế đã nhất trí
cao về phương pháp luận
cũng như các tính toán
và thiết kế lưới truyền tải
của QHĐ7ĐC (trừ một
số điểm bị quá tải N-1).
Những nhận xét tích cực
của Tư vấn quốc tế đã
khẳng định sự trưởng
thành, lớn mạnh của đội
ngũ thiết kế trong nước.
Bắt đầu từ QHĐ7ĐC, các
kỹ sư của Viện Năng
lượng đã áp dụng các quy
trình thiết kế quy hoạch,
cũng như triết lý thiết kế
lưới truyền tải theo tiêu
chuẩn Bắc Mỹ [7], [8] và
Châu Âu [9], có tham
khảo triết lý thiết kế của
Hình 2: Hệ thống điện Việt Nam đến năm
2030
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 7 / 10
Power System Development Department ©
Nhật Bản [10].
(v) Nâng cao chất lượng điện năng và chất lượng dịch vụ cung cấp
điện, thực hiện giá bán điện theo cơ chế thị trường để khuyến khích
đầu tư vào ngành điện và khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm hiệu
quả.
Theo tính toán của QHĐ7ĐC, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho ngành
điện giai đoạn 2016-2030 là khoảng 148 tỷ USD. Chi phí biên giai
đoạn 2016- 2020 là khoảng 9,94 USCent/kWh, cả giai đoạn 2016-
2030 là 11,85 USCent/kWh. Như vậy, để đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế
- tài chính, khuyến khích các nhà đầu tư vào nguồn điện, giá điện vẫn
phải tăng trong thời gian tới, dự kiến có thể đạt mức giá bình quân
2402 VNĐ/kWh vào năm 2020. Tính trung bình 5 năm tới, mỗi năm
giá điện sẽ tăng khoảng 8%. Tuy nhiên, giá điện thực tế còn phụ thuộc
rất nhiều yếu tố, trong đó có chỉ đạo điều hành ở cấp vĩ mô của chính
phủ, bởi giá điện sẽ ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống – kinh tế - xã
hội, đến mọi tầng lớp nhân dân.
Đảng, Chính phủ đang kêu gọi thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, nâng
cao chất lượng tăng trưởng, ngành điện cần tận dụng cơ hội này để
khuyến khích người dân, doanh nghiệp đầu tư công nghệ mới, sử
dụng năng lượng tiết kiệm – hiệu quả, giảm áp lực đầu tư nguồn –
lưới điện. Nhiều năm qua, để tăng được 1% GDP thì điện luôn phải
tăng 2%, thể hiện hiệu quả sử dụng điện chưa cao. Các nước trong
khu vực như Thái Lan, Malaysia, tỷ lệ tăng trưởng Điện/GDP chỉ
khoảng 1,0 hoặc thấp hơn. Như vậy, trong thời gian tới, Việt Nam vẫn
cần có thêm nhiều chính sách để nâng cao hiệu quả sử dụng điện và
sàng lọc những công nghệ lạc hậu tiêu thụ nhiều năng lượng nhưng có
giá trị gia tăng thấp.
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 8 / 10
Power System Development Department ©
(vi) Phát triển thị trường điện lực cạnh tranh nhằm đa dạng hóa
phương thức đầu tư và kinh doanh điện, nhà nước chỉ giữ độc quyền
lưới điện truyền tải để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Nước ta đã hình thành thị trường phát điện cạnh tranh và đang trong
giai đoạn xây dựng thị trường bán buôn điện cạnh tranh (2015-2021)
và đích đến sẽ là thị trường bán lẻ điện cạnh tranh (sau 2021) [11].
Trong bối cảnh sản lượng điện phát ra mới “đủ” dùng, xây dựng được
thị trường điện lực cạnh tranh là bài toán khó cho các cấp quản lý, bởi
phải giải quyết tổng hòa các vấn đề: vừa phải khuyến khích được các
nguồn lực đầu tư cho nguồn điện – lưới điện, vừa phải đảm bảo cung
cấp đủ điện có chất lượng ngày càng cao cho nền kinh tế với mức chi
phí chấp nhận được.
QHĐ7ĐC cũng đề xuất giải pháp cần thực hiện tái cơ cấu ngành điện,
từng bước phát triển thị trường điện cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở
bảo đảm an ninh cung cấp điện, giảm chi phí, đồng thời nâng cao hiệu
quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh điện. Khi thị trường điện
phát triển, việc đầu tư các công trình điện lực sẽ chủ yếu dựa trên tín
hiệu về giá điện. Do vậy, tín hiệu giá điện cần công khai, minh bạch
để thu hút đầu tư, phát triển ngành điện bền vững.
Từ sau Đổi mới đến nay, quy mô hệ thống điện Việt Nam đã tăng hơn
23 lần, sản lượng điện thương phẩm tăng từ 6 tỷ kWh năm 1990 lên
142 tỷ kWh năm 2015 và chưa có dấu hiệu chững lại. Trong khoảng
30 năm, ngành điện đã thực hiện 7 Tổng sơ đồ (TSĐ) phát triển điện
lực (hiện nay được gọi là Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia).
Các TSĐ đã giúp Chính phủ đưa ra những quyết định quan trọng như
xây dựng các nhà máy điện lớn (TĐ Sơn La, Lai Châu, NĐ Phú Mỹ,
...), xây dựng đường dây tải điện 500 kV Bắc – Nam, các đường dây
220 kV liên kết vùng miền,... nhằm đảm bảo đủ điện cung cấp cho
mọi hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống nhân dân. Đề án
QHĐ7ĐC vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2016 tiếp
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 9 / 10
Power System Development Department ©
tục đóng vai trò định hướng phát triển ngành điện trong 15 năm tới,
đã cập nhật những xu hướng thời đại áp dụng trong điều kiện cụ thể
của Việt Nam. QHĐ7ĐC là Tổng sơ đồ của phát triển xanh, của năng
lượng mới, năng lượng tái tạo, định hướng lưới điện thông minh, nâng
cao hiệu quả hoạt động ngành điện. QHĐ7ĐC có thể được coi là quy
hoạch điện vì tương lai Việt Nam xanh hơn, bền vững hơn.
Quy hoạch điện quốc gia cho tương lai bền vững
Viện Năng lượng
Institute of Energy Page 10 / 10
Power System Development Department ©
TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] World_Bank, "Việt Nam 2035 hướng tới Thịnh vượng, Sáng
tạo, Công bằng và Dân chủ," Washinton DC 2015. [2] J. H. Williams and R. Ghanadan, "Electricity reform in
developing and transition countries: A reappraisal," Energy, vol. 31, pp. 815-844, 2006.
[3] TTg, "Quyết định 2068/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050," T. t. C. phủ, Ed., ed. Hà Nội 2015.
[4] TTg, "Quyết định 1208/QĐ-TTg v/v Phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến 2030," ed. Hà Nội: Thủ Tướng Chính phủ, 2011.
[5] TTg, "QĐ 110/2007/QĐ-TTg, Phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006 - 2015 có xét đến năm 2025," ed. Hà Nội, : Thủ tướng Chính phủ, 2007.
[6] Viện_Năng_Lượng, "Chương trình đầu tư lưới truyền tải đảm bảo tiêu chí N-1 giai đoạn 2016-2020," Hà Nội 2016.
[7] N. G. USA, "United States Operation: Transmission Group Procerdure, TGP28, Transmission Planning Guide," ed: National Grid USA, 2010.
[8] OPA, "Ontanrio Longterm Power System Plan," Ontanrio Power Authority, Ontanrio2005.
[9] UCTE, "UCTE Operation Handbook," ed: UCTE, 2010. [10] TEPCO, "TEPCO Power System Planning rule," ed. Tokyo:
TEPCO, 2010. [11] TTg, "Quyết định số 63/2013/QÐ-TTg Quy định về lộ trình,
các điều kiện hình thành và phát triển các cấp độ thị truờng điện lực Việt Nam," ed. Hà Nội ERAV, 2013.
top related