báo cáo cuối cùng - genic.molisa.gov.vngenic.molisa.gov.vn/portals/0/users/doingoai/upload...
TRANSCRIPT
1
Đánh giá năng lực của các cơ quan quản lý nhà nƣớc
và các cơ quan có liên quan khác để thực hiện Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
Báo cáo cuối cùng: Những phát hiện và khuyến nghị
Tháng 9 năm 2010
3
Lời cảm ơn
Báo cáo này và những phụ lục đính kèm là kết quả của sự nỗ lực
hợp tác của một nhóm các chuyên gia quốc tế và quốc gia, gồm
chị Andrea Mestrov, anh Lars Udsholt, chị Vũ Thu Hồng và chị
Lê Thị Mai Hƣơng. Báo cáo đƣợc thực hiện với sự hợp tác chặt
chẽ của Viện Gia đình và Giới với lời cảm ơn đặc biệt tới Tiến
sỹ Nguyễn Hữu Minh, Viện trƣởng và các cán bộ nghiên cứu của
Viện. Sự hỗ trợ quý báu của Ban Quản lý dự án Ô (PMU)
Chƣơng trình Hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên
hợp quốc về Bình đẳng giới (JPGE) của Bộ Lao động - Thƣơng
binh và Xã hội, với lời cảm ơn đặc biệt tới bà Nguyễn Thị Diệu
Hồng, Phó giám đốc và chị Aya Matsuura, chuyên gia giới của
JPGE. Chị Patricia Rosa Garcia, cán bộ chƣơng trình của
UNIFEM Việt Nam đã hỗ trợ nhằm đảm bảo Báo cáo đem lại giá
trị gia tăng đối với JPGE. Nhóm đặc biệt cảm ơn về sự hợp tác
của tất cả những ngƣời cung cấp thông tin đến từ các tổ chức:
Ban Tuyên giáo Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (Vụ các
vấn đề xã hội), Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội; các tổ
chức của Chính phủ, gồm: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã
hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Y tế, Bộ Tƣ pháp, Bộ Thông tin
và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn; các tổ chức quần chúng: Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông
dân Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam; các mạng lƣới tổ chức phi chính phủ: CSAGA,
NEW, CEPEW; và các tổ chức của Liên hợp quốc và tổ chức tài
trợ tại Việt Nam: UNDP, UNFPA, Văn phòng Điều phối viên
Thƣờng trú của Liên hợp quốc, UNIFEM và AECID.
Quá trình viết, biên tập và điều phối đã đƣợc bà Andrea Mestrov
(chuyên gia tƣ vấn chính) thực hiện dƣới sự giám sát của chị
Patricia Rosa Garcia (cán bộ chƣơng trình, UNIFEM Việt Nam),
4
bà Nguyễn Thị Diệu Hồng (chuyên viên chính Vụ Bình đẳng
giới, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội) và chị Aya
Matsuura (chuyên gia giới của JPGE) và sự quản lý của Tiến sỹ
Suzette Mitchell (Giám đốc quốc gia, UNIFEM Việt Nam).
5
NỘI DUNG
1. GIỚI THIỆU Error! Bookmark not defined.
1.1 Bối cảnh và những mục tiêu của Báo cáo Đánh giá Năng lựcError! Bookmark not defined.
1.2 Phát triển năng lực và Giới: Văn hóa thay đổi và cầu thị 11
2. PHƢƠNG PHÁP LUẬN 13
2.1 Khung Đánh giá Năng lực 15
2.2 Tiến trình 17
2.3 Phƣơng pháp luận và các công cụ để thu thập và phân tích
số liệu 20
2.4 Những ngƣời cung cấp thông tin chính 22
3. BỐI CẢNH 23
3.1 Luật Bình đẳng giới 23
3.2 Môi trƣờng điều chỉnh chính sách – Luật Bình đẳng giới 24
3.3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 26
3.4 Môi trƣờng điều chỉnh chính sách – Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình 27
4. NHỮNG PHÁT HIỆN CHUNG 27
4.1 Cơ cấu thể chế 28
4.2 Thực hiện 30
4.3 Lãnh đạo 31
4.4 Kiến thức 32
4.5 Giám sát, Đánh giá và Báo cáo 34
4.5 Trách nhiệm giải trình 35
5. NHỮNG PHÁT HIỆN CỤ THỂ 37
5.1 Các tổ chức Chính phủ 38
5.1.1 Cấp trung ƣơng 38
5.1.2 Cấp tỉnh/thành phố 47
5.2 Các tổ chức quần chúng 61
5.2.1 Cấp trung ƣơng 61
5.2.2 Cấp tỉnh/thành phố 62
6. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CHUNG 65
6.1 Cơ cấu thể chế 65
6.2 Thực hiện 69
6.3 Lãnh đạo 73
6.4 Kiến thức 75
6.5 Giám sát, đánh giá và báo cáo 81
6.6 Trách nhiệm giải trình 84
6
6.7 Những bƣớc tiếp theo quan trọng 85
7. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CỤ THỂ 85
7.1 Các tổ chức của Chính phủ 86
7.1.1 Cấp trung ƣơng 86
7.1.2 Cấp tỉnh/thành phố 90
7.2 Các tổ chức quần chúng 94
7.2.1 Cấp Trung ƣơng 94
7.2.2 Cấp tỉnh/thành phố 96
8. CÁC HỆ THỐNG VÀ QUY TRÌNH ĐỔI MỚI 101
9. KẾT LUẬN 104
CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các công cụ của phƣơng pháp luận
Phụ lục 2: Các bảng kiểm cuối cùng - phản ánh nhanh về năng lực của
mỗi một tổ chức và tỉnh/thành phố
7
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
BĐG Bình đẳng giới
BLGĐ Bạo lực gia đình
Bộ LĐ-TBXH Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội
Bộ VHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
CBO Tổ chức dựa vào cộng đồng
CEDAW Công ƣớc về Xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử chống lại phụ nữ
CFAW Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ
DOVIPNET Mạng Phòng, chống bạo lực gia đình
ĐGNL Đánh giá năng lực
GENCOMNET Mạng Giới và Phát triển Cộng đồng
GSO Tổng cục Thống kê
Hội LHPN Hội Liên hiệp Phụ nữ
IFGS Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế
JPGE Chƣơng trình Hợp tác chung giữa Chính phủ
Việt Nam và Liên hợp quốc về Bình đẳng giới
Luật BĐG Luật Bình đẳng giới
Luật PCBLGĐ Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
M&E Giám sát và đánh giá
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
NCFAW Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ
NEW Mạng Tăng quyền năng cho phụ nữ
NGO Tổ chức phi chính phủ
PCFAW Ban vì sự tiến bộ của Phụ nữ tỉnh/thành phố
SEDP Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
SMA Cơ quan quản lý nhà nƣớc
8
Sở LĐ-TBXH Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội
Sở VHTTDL Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
SWOT Mặt mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
UBND Ủy ban Nhân Dân
UBQG Ủy ban Quốc gia
UNDP Chƣơng trình Phát triển của Liên hợp quốc
UNFPA Quỹ Dân số Liên hợp quốc
UNIFEM Quỹ Phát triển Phụ nữ của Liên hợp quốc
VCCI Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam
VSTBPN Vì sự tiến bộ của phụ nữ
9
1. GIỚI THIỆU
1.1. Bối cảnh và những mục tiêu của đánh giá năng lực
Chƣơng trình chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp
quốc về Bình đẳng giới (JPGE) đang hỗ trợ kỹ thuật mang tính
chiến lƣợc, đa ngành và đƣợc điều phối nhằm xây dựng năng lực
cho các cơ quan chịu trách nhiệm ở cấp trung ƣơng và cấp tỉnh
để các cơ quan này có thể thực hiện tốt hơn hai luật: Bình đẳng
giới và Phòng, chống bạo lực gia đình từ năm 2009 đến năm
2011. Với sự hình thành một khối vững chắc và đồng tâm nhất
trí của 12 cơ quan, Liên hợp quốc đang ở vị thế thuận lợi hơn để
hợp tác với các đối tác quốc gia nhằm đem lại sự thay đổi ở cấp
cao nhất hƣớng tới bình đẳng giới ở Việt Nam.
Đặt việc thực hiện các quyền con ngƣời và an ninh của phụ
nữ vào trọng tâm của tất cả các nỗ lực của mình, Quỹ Phát triển
Phụ nữ của Liên hợp quốc (UNIFEM) tập trung các hoạt động
của mình trong JPGE đối với các Kết quả chung sau đây:
Các kỹ năng, kiến thức và thực tiễn để thực hiện, giám
sát, đánh giá và báo cáo Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc cải thiện;
Các mối quan hệ đối tác và điều phối về bình đẳng giới ở
trong và ngoài Chính phủ đƣợc nâng lên.
Chƣơng trình Hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và
Liên hợp quốc về Bình đẳng giới (JPGE) đang đƣợc Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội (MOLISA) quản lý với tƣ cách là
cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với Chƣơng trình chung và Quỹ
Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) với tƣ cách là cơ quan quản lý
của Liên hợp quốc. JPGE có ba cấu phần, mỗi một cấu phần
đƣợc một cơ quan của Chính phủ và một cơ quan của Liên hợp
quốc điều phối, liên quan đến những lĩnh vực chuyên môn tƣơng
ứng của các cơ quan đó. Ba cơ quan điều phối của Liên hợp quốc
đã đƣợc giao nhiệm vụ nhƣ những điều phối viên từ phía Liên
hợp quốc nhằm đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ và hài hòa. Quỹ
Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) đang cùng điều phối với Bộ
10
Văn hóa, Thể thao và Du lịch (MOCST), UNIFEM với Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội (MOLISA) và Chƣơng trình Phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) với Tổng cục Thống kê (GSO).
Dự án cấu phần do Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội
quản lý và UNIFEM điều phối tập trung nâng cao năng lực cho
các cơ quan của Chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự có liên
quan trong thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo Luật Bình
đẳng giới. Tƣơng tự, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
UNFPA tập trung vào nâng cao năng lực cho các cơ quan của
Chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự có liên quan trong thực
hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình. UNDP và Tổng cục Thống kê tập trung vào củng cố cơ
sở dữ liệu dựa trên bằng chứng và những hệ thống dữ liệu nhằm
thúc đẩy bình đẳng giới.
Nhiệm vụ này liên quan tới Kết quả chung 1 của JPGE
đƣợc nêu ở trên. Nhiệm vụ đánh giá năng lực này đã đƣợc
UNIFEM và Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội điều phối
thực hiện ở năm đầu tiên của JPGE.
Những mục tiêu cụ thể của nhiệm vụ này là:
Đánh giá những năng lực của tất cả các cơ quan chịu trách
nhiệm thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo hai luật;
Xác định những hạn chế cụ thể về năng lực và những yếu
tố cản trở;
Đánh giá tiềm năng nhằm tăng cƣờng năng lực của các
đối tác ở cấp địa phƣơng để thực hiện, giám sát, đánh giá
và báo cáo hai luật một cách hiệu quả;
Đề xuất những cách thức thực tiễn để khắc phục những
hạn chế về năng lực và những cản trở đã đƣợc xác định
với đề cập chi tiết cho những năng lực hiện có, những
khoảng trống đã đƣợc xác định và tiềm năng để tăng
cƣờng những năng lực.
11
1.2. Phát triển năng lực và Giới: Văn hóa thay đổi và cầu
thị1
Văn hóa và những vấn đề giới thay đổi liên tục; mục tiêu
là thay đổi những giá trị giới đang ngăn cản cơ hội của những
thành viên nhất định của xã hội tham gia vào và thụ hưởng
bình đẳng những thành quả của Việt Nam.
Văn hóa là một phần cơ cấu của mọi xã hội và đặc biệt đối
với Việt Nam đang có và tự hào về một nền văn hóa và những
truyền thống mang đậm bản sắc. Văn hóa định hình “cách thức
các vấn đề đƣợc thực hiện” và hiểu biết của mọi ngƣời là tại sao
nên nhƣ vậy. Những kỳ vọng về những thuộc tính và hành vi phù
hợp với phụ nữ và nam giới và về các mối quan hệ giữa phụ nữ
và nam giới - nói cách khác, giới - đƣợc văn hóa định hình.
Những thuộc tính giới và các mối quan hệ giới là những khía
cạnh quyết định của văn hóa vì những khía cạnh này định hình
cách thức cuộc sống hàng ngày trong gia đình, cũng nhƣ trong
cộng đồng rộng lớn hơn và tại nơi làm việc. Trong khi bản chất
của các mối quan hệ giới thay đổi giữa các xã hội, có một đặc
trƣng chung là phụ nữ có ít quyền lực cá nhân hơn, ít những
nguồn lực hơn để tùy ý sử dụng và ít có ảnh hƣởng đối với các
quá trình ra quyết định mà sẽ định hình nên các xã hội và cuộc
sống của bản thân họ. Đặc trƣng này của sự khác biệt trên cơ sở
giới là vấn đề cả về quyền con ngƣời và phát triển quốc gia. Tuy
nhiên, các xã hội và các nền văn hóa không tĩnh tại - các xã hội
và các nền văn hóa là những thực thể sống động liên tục đổi mới
và tái định hình. Cũng nhƣ với văn hóa nói chung, những tƣ
tƣởng về giới thay đổi theo thời gian đáp ứng rất nhiều yếu tố -
xã hội, kinh tế, pháp luật, chính sách và từ sự ảnh hƣởng của xã
1. Tƣ liệu trong phần này đƣợc rút ra từ “Hƣớng dẫn lồng ghép giới
trong xây dựng và thực hiện chính sách quốc gia: Hƣớng tới bình đẳng giới
ở Việt Nam”, Hà Nội 2008, tr. 19.
12
hội dân sự. Trong quá trình tiến hóa này, một số các giá trị đƣợc
tái khẳng định trong khi các giá trị khác bị thách thức vì không
còn phù hợp. Lồng ghép giới là một chiến lƣợc nhằm đạt đƣợc
bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới thông qua nâng cao nhận
thức và thách thức những giá trị và niềm tin dẫn đến một số
thành viên của xã hội bị từ chối đƣợc công nhận một cách bình
đẳng, các cơ hội và khả năng tiếp cận các thành quả của sự phát
triển của đất nƣớc.
Lồng ghép các vấn đề giới có nghĩa là thay đổi hiện trạng.
Thay đổi thường đầy thách thức và gặp phản ứng. Thay đổi
thành công phụ thuộc vào sự dũng cảm và trung thực.
Lồng ghép các vấn đề bình đẳng giới kéo theo sự thách thức
hiện trạng - có nghĩa là thực hiện những thay đổi cách thức nam
giới và phụ nữ suy nghĩ, quan tâm và làm việc và thay đổi một
số niềm tin đã có từ lâu về vai trò và giá trị của nam giới và phụ
nữ. Thay đổi có thể đem đến những cơ hội mới. Tuy nhiên, chắc
chắn có sự phản kháng mạnh mẽ đối với thay đổi. Những ngƣời
cho rằng họ có thể „mất mát‟ trong quá trình thay đổi có thể sẽ
phản kháng quyết liệt đối với thay đổi. Những ngƣời khác có thể
nghi ngờ có những cách thức hiệu quả để đạt đƣợc thay đổi lớn
về tổ chức. Thay đổi thành công đòi hỏi liên quan đến quản lý
cấp cao - một thực tế đã đƣợc chứng minh rất rõ trên khắp thế
giới và đặc biệt liên quan đến đạt đƣợc bình đẳng giới. Để đạt
đƣợc thay đổi, phụ nữ và nam giới phải có thiện ý công nhận và
bày tỏ rõ cần thay đổi gì và làm thế nào để thay đổi; điều này bao
gồm một lập trƣờng kiên định trong thúc đẩy thay đổi vì bình
đẳng giới.
Phát triển năng lực là một cách thức nhằm đề cao thay đổi,
hình thành động cơ và các kỹ năng và thay đổi những quan điểm
theo hƣớng tạo ra bình đẳng giới thông qua lồng ghép giới. Nhƣ
gợi ý trong báo cáo này, có nhiều cách thức đa dạng phát triển
năng lực và mỗi một cách tiếp cận cần phù hợp với mỗi một thể
chế, tổ chức hoặc cá nhân.
13
2. PHƢƠNG PHÁP LUẬN
Phƣơng pháp luận đánh giá năng lực của UNDP đã đƣợc lựa
chọn đối với hoạt động đánh giá năng lực này (ĐGNL). ĐGNL
đòi hỏi nhận biết những năng lực chính đang có cũng nhƣ những
năng lực bổ sung cần có để thực hiện, giám sát, đánh giá và báo
cáo hai Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Do vậy ĐGNL là một phân tích những năng lực đƣợc
mong muốn so với những năng lực hiện có tạo nên một sự hiểu
biết về những nguồn vốn năng lực và những nhu cầu có thể
thông tin cho việc định hình một sự đáp ứng của JPGE và của
bất kỳ các chƣơng trình và sáng kiến khác có liên quan về phát
triển năng lực.
Nhóm nghiên cứu đã nhất trí đặt ra mức độ mong muốn về
năng lực vào năm 2011 nên bao gồm những thuộc tính và các kết
quả sau:
Cam kết chính trị ở các cấp lãnh đạo;
Có chuyên gia giới để hỗ trợ kỹ thuật về lồng ghép giới;
Có cơ chế mang tính thể chế, ví dụ các cán bộ đầu mối về
giới;
Có chính sách về tổ chức;
Nhận thức cơ bản về giới của đội ngũ cán bộ nhân viên;
Kế hoạch hành động với trách nhiệm giải trình rõ ràng;
Có ngƣời chủ trƣơng tích cực/cán bộ đầu ngành về giới;
Văn hóa hỗ trợ của tổ chức hƣớng tới bình đẳng giới, bao
gồm cả hỗ trợ từ các cán bộ nhân viên là nam giới.
UNDP định nghĩa các năng lực là “khả năng của con người,
các thể chế và các xã hội thực hiện các chức năng, giải quyết
các vấn đề, đặt ra và đạt được các mục tiêu”. Hình thành một sự
đáp ứng về phát triển năng lực dựa trên những phát hiện và
khuyến nghị của báo cáo này tốt nhất nên đƣợc gắn kết với chiến
lƣợc phát triển năng lực của các tổ chức chịu trách nhiệm chính
đối với việc thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo hai luật.
Bảng dƣới đây mô tả phạm vi công việc của ĐGNL.
14
Bảng 1. Phạm vi công việc của Báo cáo Đánh giá Năng lực
Tổ chức
Năng
lực
đƣợc
mong
đợi
Năng
lực
hiện
có
Khoảng
trống
trong
năng lực
và
những
yếu tố
cản trở
Những
quá
trình &
hệ
thống
đổi mới
Triển
vọng để
tăng
cƣờng
năng
lực &
khắc
phục
các hạn
chế
Bộ LĐ-TBXH; Bộ
VH, TT và DL;
UBQGVSTBPNVN
Các Bộ chủ chốt (8)
và Phòng TM và
CNVN
Các Sở ở địa
phƣơng (8)
Các liên minh hoặc
các tổ chức quần
chúng
Các tổ chức cộng
đồng
Phƣơng pháp luận đánh giá năng lực của UNDP hoàn toàn
phù hợp với môi trƣờng cho phép và ở cấp độ tổ chức; phƣơng
pháp này đƣợc định hình trên nền tảng và xuất phát điểm đối với
nhiệm vụ đánh giá năng lực này. Phƣơng pháp luận này bao gồm
3 cấu phần sẽ đƣợc thảo luận ở bên dƣới: Khung đánh giá năng
lực của UNDP, tiến trình và phƣơng pháp luận và các công cụ để
thu thập và phân tích số liệu.
15
2.1. Khung đánh giá năng lực
Khung dành cho đánh giá năng lực bao gồm ba chiều cạnh
chính:
a) Những xuất phát điểm: UNDP thừa nhận rằng năng lực
tập trung ở ba cấp độ - môi trƣờng cho phép, cấp độ tổ chức và
cá nhân. Do các nguồn lực hạn hẹp về thời gian, nhân sự và kinh
phí, đánh giá năng lực đƣợc tập trung vào môi trƣờng cho phép
và cấp độ năng lực của tổ chức. Đánh giá năng lực ở cấp độ cá
nhân sẽ là một hoạt động riêng với những phát hiện và khuyến
nghị từ Báo cáo Đánh giá Năng lực này, nhƣ đầu vào trong xây
dựng một cách tiếp cận đánh giá năng lực ở cấp độ cá nhân.
b) Những vấn đề trọng tâm: Có bốn vấn đề phổ biến phải
đối đầu về năng lực, tất cả những vấn đề đó đều sẽ đƣợc đề cập
trong Đánh giá này2:
(i) Cơ cấu thể chế đề cập đến các chính sách, thủ tục và
quy trình mà các quốc gia có để xây dựng luật pháp, lập
kế hoạch và quản lý điều hành sự phát triển, các quy tắc,
biện pháp thay đổi và các chức năng khác của đất nƣớc.
Về bản chất, vấn đề cơ cấu thể chế có mặt ở mọi khía
cạnh của phát triển và quản lý khu vực công. Điều đòi hỏi
phải quan tâm đến thực hiện chức năng và cơ cấu thể chế
hiệu quả vẫn là động lực lớn đối với năng lực và do vậy
đối với năng lực thực thi.
(ii) Lãnh đạo là khả năng để ảnh hƣởng, truyền cảm hứng
và thúc đẩy mọi ngƣời, các tổ chức và xã hội đạt đƣợc -
và tiến xa hơn - các mục tiêu của mình. Một đặc trƣng
quan trọng của lãnh đạo giỏi là khả năng lƣờng trƣớc (đôi
khi gây xúc tác), chịu trách nhiệm và quản lý thay đổi
2. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của UNDP qua một loạt các lĩnh vực
và chủ đề. Có thể tham khảo Bản Hƣớng dẫn Đánh giá năng lực năm 2008
của UNDP đối với nội dung giải thích chi tiết hơn.
16
nhằm thúc đẩy phát triển con ngƣời. Mặc dù hầu hết sự
lãnh đạo thƣờng gắn với một cá nhân ngƣời lãnh đạo, nó
cũng có thể tập trung trong một đơn vị của nhà nƣớc chỉ
đạo việc thực hiện cải cách hành chính công. Những yếu
tố quyết định chủ chốt của sự lãnh đạo - những khả năng
để tập hợp những ngƣời khác dƣới một mục tiêu chung,
tạo nên một tầm nhìn và quản lý việc thực hiện mục tiêu
chung đó và đƣa ra một mẫu hình về quy tắc đạo đức.
(iii) Kiến thức đề cập đến sự sáng tạo, sự thu hút và sự
truyền bá thông tin và chuyên môn về các giải pháp phát
triển hiệu quả. Các nhu cầu về kiến thức có thể đƣợc quan
tâm ở các cấp độ khác nhau (quốc gia/địa phƣơng/lĩnh
vực, sơ cấp/trung cấp/cao cấp) và thông qua các cách thức
khác nhau (giáo dục chính quy, tập huấn kỹ thuật, các
mạng kiến thức và học tập phi chính thức). Kiến thức có
thể đƣợc khuyến khích ở cấp độ tổ chức, ví dụ, thông qua
một hệ thống quản lý kiến thức hoặc một chiến lƣợc học
tập của tổ chức.
(iv) Trách nhiệm giải trình tồn tại khi hai bên cùng tham
gia một tập hợp các nguyên tắc và thủ tục chi phối những
tác động qua lại của họ và dựa trên một sự đồng thuận hoặc
hiểu biết lẫn nhau về những vai trò và trách nhiệm có liên
quan. Tập hợp này tồn tại khi cả những nhóm nắm giữ
quyền và nhóm thực hiện trách nhiệm chuyển giao các
nghĩa vụ của họ. Nó cho phép các tổ chức và hệ thống giám
sát, học hỏi, tự điều chỉnh và điều chỉnh hành vi của họ
trong tác động qua lại lẫn nhau với những ngƣời mà họ có
trách nhiệm giải trình (các khách hàng, các công dân, các
đối tác). Nó bao gồm cả sức sáng tạo và sử dụng không
gian và các cơ chế khuyến khích cả nhóm nắm giữ quyền
và nhóm thực hiện trách nhiệm trong một đối thoại để giám
sát và hƣớng dẫn các hành động của mình, chẳng hạn thông
qua các cơ chế rà soát hoặc các cơ quan giám sát công.
17
c) Các năng lực thuộc chức năng: Các năng lực thuộc chức
năng trong trƣờng hợp này bao gồm năng lực thực hiện, giám
sát, đánh giá và báo cáo về hai luật.
Bảng dƣới đây minh họa một khung hƣớng dẫn xây dựng
các câu hỏi đánh giá và phân tích số liệu, kết hợp cả các vấn đề
trọng tâm và các năng lực thuộc chức năng.
Bảng 2. Khung phân tích dữ liệu
Những vấn đề
trọng tâm
Các năng lực thuộc chức năng
Thực hiện Giám sát Đánh giá Báo cáo
Cơ cấu thể chế
Lãnh đạo
Kiến thức
Trách nhiệm giải
trình
2.2. Tiến trình
Phần này giải thích đánh giá năng lực đã đƣợc quản lý và
tiến hành nhƣ thế nào và sự tham gia của các đối tác chính.
Đánh giá năng lực là một hoạt động chung do một nhóm
chuyên gia quốc tế và quốc gia - Viện Nghiên cứu Gia đình và
Giới (IFGS) thực hiện dƣới sự quản lý của UNIFEM và Bộ Lao
động - Thƣơng bình và Xã hội.
Nhóm chuyên gia quốc tế, gồm hai tƣ vấn quốc gia và hai tƣ
vấn quốc tế, đã đƣa ra các kết quả kỹ thuật chủ yếu, bao gồm kế
hoạch công tác và hội thảo tập huấn về phƣơng pháp luận và các
công cụ, dự thảo báo cáo cuối cùng và trình bày những phát hiện
và các khuyến nghị. Nhóm chuyên gia quốc tế cũng đã giám sát
và đảm bảo chất lƣợng của các hoạt động và kết quả của Viện
Nghiên cứu Gia đình và Giới. Viện đã thu thập số liệu và thực
hiện phân tích ban đầu các số liệu. Nhóm chuyên gia quốc tế đã
18
hỗ trợ Bộ Lao động - Thƣơng bình và Xã hội chuẩn bị hậu cần
cho Hội thảo cuối cùng. Những ngƣời cung cấp thông tin chính
tham gia vào các cuộc phỏng vấn và các thảo luận nhóm trọng
tâm đã tạo nên phần chủ yếu về số liệu của đánh giá này.
Đáng lƣu ý là Bộ Lao động - Thƣơng bình và Xã hội đã đảm
bảo việc liên hệ trƣớc với các đối tác thực hiện về tầm quan
trọng của đánh giá năng lực - gợi ý cho các đối tác thực hiện về
pháp luật mới đã giúp ích nhiều trong vận động những ngƣời
cung cấp thông tin chính. Kế hoạch thực địa của Viện đƣợc
chuẩn bị kỹ càng linh hoạt là vô cùng quan trọng đối với một hệ
thống thu thập số liệu hiệu quả.
a) Tập huấn chuẩn bị cho các nghiên cứu viên của Viện
Nghiên cứu Gia đình và Giới (IFGS)
Nhóm chuyên gia quốc tế đã tiến hành một hội thảo đào tạo
nửa ngày cho 12 nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu Gia đình
và Giới, giới thiệu tổng quan về nhiệm vụ đánh giá năng lực;
phƣơng pháp luận; và chuẩn bị cho các nhóm nghiên cứu để sử
dụng các công cụ đánh giá năng lực đối với thực địa.
b) Thu thập dữ liệu thực địa
Thu thập dữ liệu thực địa đƣợc thực hiện từ ngày 3 đến 24
tháng 11 năm 2009. Mƣời hai nghiên cứu viên của Viện Nghiên
cứu Gia đình và Giới đƣợc tập huấn cơ bản về phƣơng pháp và
các công cụ để tham gia thu thập dữ liệu thực địa. Ngoài ra, còn
sáu nghiên viên khác tham gia nhóm để giúp tiến hành quá trình
thu thập số liệu thực địa.
Ba thành viên của nhóm chuyên gia quốc tế chịu trách
nhiệm đảm bảo về chất lƣợng đối với các nhóm nghiên cứu thực
địa bằng cách phân công một thành viên phụ trách hai nhóm chịu
trách nhiệm đối với các tỉnh miền Nam, một phụ trách các nhóm
chịu trách nhiệm đối với các tỉnh miền Bắc và hai phụ trách các
nhóm chịu trách nhiệm đối với các cơ quan Trung ƣơng và Hà
Nội. Đôi khi, tất cả bốn nhóm nghiên cứu cùng đồng thời tiến
hành công việc, ngăn cản việc giám sát kỹ thuật lên tất cả các
công việc thực địa.
19
Vào cuối thời gian thực địa ở mỗi một tỉnh đều thực hiện các
phiên phản hồi. Các phỏng vấn sâu đã đƣợc tiến hành với một
đại diện từ các cơ quan chủ chốt quan trọng nhất trong thực hiện
hai luật. Ở cấp trung ƣơng có 7 cơ quan, gồm: Bộ Y tế, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội,
Bộ Tƣ pháp, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, một số tổ chức về
cộng đồng (CBOs) và Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ
(NCFAW). Ở cấp tỉnh có tám cơ quan: Sở Lao động – Thƣơng
binh và Xã hội (DOLISA), Sở Kế hoạch và Đầu tƣ (DPI), Ban vì
sự tiến bộ của phụ nữ (CFAWs), Hội phụ nữ, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Sở Y tế, Sở Tƣ pháp và Sở Nội vụ.
c) Các phiên báo cáo tóm tắt
Các nhóm nghiên cứu thu thập số liệu thực địa đã thực hiện
hai phiên báo cáo tóm tắt với chuyên gia tƣ vấn quốc tế về những
hạn chế phải đối mặt trong quá trình ở thực địa và trình bày
những phát hiện chính có đƣợc trong các Bảng kiểm cuối cùng ở
các tỉnh (xem Mẫu 13, Phụ lục 1).
d) Phân tích và tổng hợp số liệu
Phân tích ban đầu các số liệu đƣợc các nhóm nghiên cứu của
Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thực hiện và trình bày với
Chuyên gia quốc tế thông qua các phiên báo cáo thảo luận tóm
tắt và qua các bản báo cáo. Chuyên gia quốc tế tổng hợp các
phân tích từ các nhóm nghiên cứu. Chuyên gia quốc tế đã thực
hiện một phân tích ở phạm vi rộng hơn đối với toàn bộ tập hợp
cơ sở dữ liệu thu đƣợc. Sau đó Chuyên gia quốc tế tổng hợp
những phát hiện cho báo cáo về những khoảng trống cụ thể trong
năng lực của tổ chức ở cấp trung ƣơng và cấp tỉnh.
e) Trình bày và thông qua các kết quả
Các mục tiêu của hoạt động đánh giá năng lực, phƣơng pháp
luận, những phát hiện và các khuyến nghị chính đã đƣợc trình
bày tại một Hội thảo tổ chức ở Hà Nội, tháng 12 năm 2009 để
xem xét và thông qua những phát hiện và các khuyến nghị chính.
20
2.3. Phƣơng pháp luận và các công cụ để thu thập và
phân tích số liệu
Nghiên cứu này đã sử dụng thảo luận nhóm trọng tâm và các
phỏng vấn sâu để thu thập số liệu.
Chắc chắn xác định đƣợc cấp độ của năng lực hiện có thông
qua các công cụ định tính và định lƣợng. Các số liệu mà các
công cụ thu thập đƣợc đƣợc phân tích hàng ngày ở thực địa theo
một mẫu hƣớng dẫn nghiệp vụ cho các nghiên cứu viên. Những
phát hiện này giúp đƣa ra bất kỳ điều chỉnh cần thiết nào đối với
những câu hỏi đánh giá của ngày tiếp theo và của kế hoạch thực
địa. Những phân tích đƣợc hoàn thành sẽ đƣợc tổng hợp cho báo
cáo về những khoảng trống cụ thể trong năng lực của tổ chức và
là đầu vào cho một phân tích ở phạm vi rộng hơn và mang tính
chiến lƣợc hơn do Chuyên gia quốc tế thực hiện. Các công cụ
thu thập và phân tích số liệu bao gồm:
1) Các hồ sơ mô tả tổ chức.
Hình thức nội dung của các hồ sơ này đƣợc mô tả chi tiết
trong Điều khoản tham chiếu đối với Viện Nghiên cứu Gia đình
và Giới (TOR) và đƣợc biên soạn từ báo cáo rà soát tài liệu và từ
việc gặp gỡ với các tổ chức. Các hồ sơ mô tả tổ chức bao gồm:
Những môi trƣờng điều chỉnh chính sách trong đó những
cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện hoạt động;
Những nhiệm vụ, chức năng và chiến lƣợc của những cơ
quan chịu trách nhiệm thực hiện;
Cơ cấu và văn hóa tổ chức của các cơ quan chịu trách
nhiệm thực hiện: các yếu tố bên ngoài, sự liên kết/mối
quan hệ với các tổ chức khác, các quan điểm của nhóm
khách hàng/ngƣời sử dụng, văn hóa và phong cách quản lý,
cơ cấu tổ chức, hoạch định và ra quyết định chính sách;
Những hệ thống và tiến trình của những cơ quan chịu
trách nhiệm thực hiện, bao gồm quản lý tài chính và trách
nhiệm giải trình;
Nguồn nhân lực của những cơ quan chịu trách nhiệm thực
21
hiện (đội ngũ nhân viên, quản lý nhân sự, năng lực, khen
thƣởng/tiền công, v.v).
Các hồ sơ mô tả tổ chức đƣợc coi là một nguồn đầu vào
quan trọng trong thiết kế những công cụ đánh giá khác và lựa
chọn các câu hỏi đánh giá. Các hồ sơ mô tả tổ chức cũng đƣợc
coi là một nguồn quan trọng của những thông tin cơ bản của tổ
chức. Một phân tích SWOT đối với mỗi một hồ sơ mô tả tổ chức
đã đƣợc thực hiện ở những giai đoạn khác nhau trong Báo cáo
Đánh giá Năng lực và các kết quả đƣợc thể hiện theo một mẫu
(xem Mẫu 1 trong Phụ lục 1 về mẫu). Phân tích SWOT đánh
giá những Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội và Thách thức liên
quan đến việc thông qua hai luật - những yếu tố bên trong và bên
ngoài thuận lợi và bất lợi - và nhận biết những phạm vi để tiếp
tục phát triển.
2) Các câu hỏi đánh giá.
Một tập hợp các câu hỏi đánh giá chung và chi tiết đã đƣợc
xây dựng để hƣớng dẫn các nhóm đánh giá năng lực để bao trùm
những vấn đề cốt lõi và những năng lực theo chức năng (Phụ lục
1). Những câu hỏi chung đã hƣớng dẫn các nhóm trong vòng
thăm dò đầu tiên của họ, nghĩa là: việc rà soát đánh giá của họ
đối với tài liệu, các nghị định, các luật, hồ sơ và các báo cáo).
Những câu hỏi chi tiết đã hƣớng dẫn các nhóm trong thu thập số
liệu tại các thảo luận nhóm trọng tâm và các phỏng vấn sâu.
3) Các kỹ thuật có sự tham gia.
Các nghiên cứu viên đã đƣợc khuyến khích sử dụng một loạt
các công cụ, theo một cách thức nhạy cảm giới, để điều hành các
thảo luận nhóm trọng tâm, bao gồm phân tích đối tác/sơ đồ
Venn, phân tích lịch sử/các dấu mốc lịch sử và các kỹ thuật
thẻ/động não (xem danh mục các công cụ và tập hợp các câu hỏi
trong Mẫu 1, Phụ lục 1).
4) Các mẫu phỏng vấn.
Mẫu phỏng vấn (Phụ lục 1) đã đƣợc thiết kế có sử dụng 5
câu hỏi chính để rút ra kết quả đƣợc dự định của Đánh giá Năng
22
lực - 5 câu hỏi chính đã đƣợc điều chỉnh đối với mỗi một cơ
quan tùy theo những vai trò và trách nhiệm chính của họ.
5) Các bảng kiểm dành cho tổ chức và các bảng kiểm dành
cho tỉnh/thành phố.
(Mẫu 13, Phụ lục 1)3. Đối với mỗi một tổ chức đƣợc phỏng
vấn ở cấp trung ƣơng và cấp tỉnh (với tổng số 41: 35 cấp tỉnh và
6 ở cấp trung ƣơng), một bảng kiểm dành cho tổ chức đã đƣợc
hoàn thành cho mỗi một luật. Từ các bảng kiểm dành cho tổ
chức, một bảng kiểm dành cho tỉnh/thành phố (với tổng số 5) đối
với mỗi một luật đã đƣợc hoàn thành. Mục đích của các bảng
kiểm là đánh giá liệu 11 yếu tố chính, đƣợc biết là quan trọng đối
với việc thực hiện luật thành công, có hiện diện hoặc không hiện
diện trong một tổ chức. Mức độ theo đó các yếu tố tồn tại là một
phần quan trọng của việc đánh giá năng lực thực hiện, giám sát,
đánh giá và báo cáo về hai luật.
2.4. Những ngƣời cung cấp thông tin chính
15 tổ chức và 5 tỉnh đã đƣợc chọn trƣớc đối với đánh giá
dựa trên các tỉnh và các tổ chức mục tiêu trong Chƣơng trình
chung (JPGE). Năm tỉnh đó là: Thủ đô Hà Nội, Thái Bình và Hà
Nam (các tỉnh miền Bắc) và Đồng Nai và Bình Dƣơng (các tỉnh
miền Nam). Các tổ chức đã đƣợc đánh giá đó là: Ban Tuyên giáo
Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (Vụ các Vấn đề Xã hội),
Ủy ban các Vấn đề Xã hội của Quốc hội; các tổ chức của Chính
phủ, gồm: Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch
và Đầu tƣ, Bộ Y tế, Bộ Tƣ pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn;
các tổ chức quần chúng: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam,
3. Đƣợc điều chỉnh cho phù hợp từ Phụ lục 2 một chuỗi Bảng kiểm
Giới của Hƣớng dẫn Lồng ghép Giới trong hoạch định và thực hiện chính
sách quốc gia - Hƣớng tới bình đẳng giới ở Việt Nam thông qua Hoạch định
và Chính sách quốc gia có trách nhiệm giới. NCFAW, Hà Nội, 2008.
23
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; và các tổ chức phi chính phủ sau đây: DOVIPNET, NEW,
GENCOMNET.
Tổng số 25 nhân viên của 15 Bộ, Vụ hoặc Ban đã đƣợc
phỏng vấn để biên tập các hồ sơ mô tả tổ chức và các thảo luận
nhóm trọng tâm và phỏng vấn sâu sau đây đã đƣợc thực hiện:
Cấp trung ƣơng: 5 thảo luận nhóm trọng tâm, 6 phỏng vấn
sâu.
Hà Nội: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 3 phỏng vấn sâu.
Hà Nam: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.
Thái Bình: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.
Đồng Nai: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.
Bình Dƣơng: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.
3. BỐI CẢNH
Phần này mô tả bối cảnh xây dựng và thông qua Luật Bình
đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
3.1. Luật Bình đẳng giới
“Mặc dầu với những căn nguyên và sự đa dạng trong mô
hình, hầu hết các luật bình đẳng giới đều nổi lên từ năm 2000 và
đã trở thành sự đáp ứng phổ biến ngày càng tăng đối với bình
đẳng giới và là những nghĩa vụ do CEDAW tạo nên”4.
Luật Bình đẳng giới (GEL) ở Việt Nam có căn nguyên từ
Hội Liên hiệp Phụ nữ (WU). Hội Liên hiệp Phụ nữ đã đệ trình
dự thảo đầu tiên của luật lên Quốc hội vào năm 2005 với một
thực tiễn là rất nhiều đại biểu Quốc hội tin rằng bình đẳng giới
đã đƣợc phản ánh đầy đủ trong tất cả các luật khác, vì vậy việc
đƣa ra một Luật Bình đẳng giới riêng là không cần thiết. Một
4. Những Luật Bình đẳng giới, thực tiễn điển hình trên toàn cầu và một
Đánh giá về năm (5) Quốc gia Đông Nam Á, tháng 3 năm 2009.
24
dự thảo luật do Hội Liên hiệp Phụ nữ đệ trình không phải là
thông lệ.
Quá trình xây dựng dự thảo đầu tiên của luật có sự hỗ trợ
của một chuyên gia tƣ vấn của Ngân hàng Phát triển châu Á cho
Hội Liên hiệp Phụ nữ. Ban Soạn thảo bao gồm Bộ Tƣ pháp, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế và Nội vụ và Hội Liên hiệp Phụ nữ
chủ trì. UNIFEM đảm bảo luật gắn kết chặt chẽ với Công ƣớc
CEDAW đến mức có thể. Rất nhiều đại biểu Quốc hội đã đƣợc
tập huấn trong thời gian Luật đƣợc dự thảo .
Năm 2006, Luật đã đƣợc Quốc hội xem xét và Ủy ban các
vấn đề xã hội đã phải thuyết phục Quốc hội là cần thiết có một
luật riêng. Giới là một khái niệm tƣơng đối mới ở Việt Nam và
các tổ chức của Liên hợp quốc đã đóng một vai trò đặc biệt trong
việc giới thiệu các khái niệm này.
Cuối cùng, tháng 11 năm 2006, tất cả các đại biểu Quốc hội
đã thông qua Luật. Theo đó, Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã
hội đƣợc giao nhiệm vụ là cơ quan quản lý nhà nƣớc về bình
đẳng giới.
3.2. Môi trƣờng điều chỉnh chính sách - Luật Bình đẳng giới
Luật Bình đẳng giới là một khung pháp lý và là một tập hợp
các nguyên tắc. Các văn bản quy phạm pháp luật khác đã đƣợc
xây dựng để hƣớng dẫn thực hiện luật. Ban đầu, Ủy ban Dân số,
Gia đình và Trẻ em đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ giao nhiệm vụ
xây dựng các Nghị định hƣớng dẫn thi hành Luật5. Tuy nhiên
nhiệm vụ này đã đƣợc chuyển sang cho Bộ Tƣ pháp do Ủy ban
Dân số Gia đình và Trẻ em đã đƣợc giải thể theo Nghị quyết của
Quốc Hội tại kỳ họp lần thứ nhất Quốc hội Khóa XII. Cùng với
sự phối hợp của Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam, Trung ƣơng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bộ Lao động
- Thƣơng binh và Xã hội, các đơn vị chức năng của Bộ Tƣ pháp
5. Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 03 tháng 5 năm 2007 về việc triển
khai thi hành Luật Bình đẳng giới.
25
đã đã tích cực tiến hành việc xây dựng các dự thảo Nghị định,
bao gồm:
- Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Bình đẳng giới về trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về bình đẳng
giới và phối hợp thực hiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới;
- Nghị định quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng
giới;
- Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình
đẳng giới.
Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bình đẳng
giới cho đến nay bao gồm:
Luật Bình đẳng giới (GEL).
Chỉ thị số 10/2007/CTG ngày 3 tháng 5 năm 2007 của
Thủ tƣớng Chính phủ để triển khai thực hiện Luật Bình
đẳng giới.
Nghị định số 70/2008NĐ-CP ngày 4 tháng 6 năm 2008
hƣớng dẫn thực hiện một số điều của Luật Bình đẳng giới.
Nghị định số 48/2009NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009
về các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới.
Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009
về xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm Luật
Bình đẳng giới.
Thông tƣ số 191/2009/TT-BTC ngày 1 tháng 10 năm
2009 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn sử dụng và quản lý
nguồn kinh phí phân bổ cho các hoạt động bình đẳng giới
và vì sự tiến bộ phụ nữ.
Giới đƣợc ghi nhận nhƣ một ƣu tiên phát triển trong Kế
hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2006 - 2010. Chiến
lƣợc quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2006 - 2010 đƣa
ra những mục tiêu cụ thể để thúc đẩy bình đẳng giới. Chiến lƣợc
này và Kế hoạch hành động 5 năm có từ trƣớc khi luật đƣợc ban
hành và vẫn tiếp tục có giá trị hiệu lực. Bộ Lao động – Thƣơng
binh và Xã hội chịu trách nhiệm đối với Chiến lƣợc quốc gia, với
26
Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ hoạt động nhƣ một cơ
quan tham mƣu và các Bộ có liên quan khác nhƣ các cơ quan
thực hiện luật. Vụ Bình đẳng giới của Bộ Lao động – Thƣơng
binh và Xã hội hiện đang chịu trách nhiệm xây dựng Chiến lƣợc
Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 và Chƣơng
trình mục tiêu quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015
sẽ hỗ trợ việc thực hiện Luật Bình đẳng giới.
3.3. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
Trƣớc Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (DVL), không có
chính sách hoặc khuôn khổ pháp lý để giải quyết bạo lực gia
đình. Thông tin về vấn đề này nhìn chung bị hạn chế và số liệu
thống kê bị thiếu hụt.
Ủy ban các Vấn đề Xã hội của Quốc hội đã đệ trình dự thảo
đầu tiên của luật về bạo lực gia đình vào năm 2006, đây là điều
điều hiếm thấy vì Ủy ban không đƣa vào chƣơng trình xây dựng
luật. Có rất nhiều phản đối trong Quốc hội đối với dự luật đƣợc
đề xuất, không chỉ của những đại biểu cao tuổi là nam giới mà cả
của những đại biểu nữ. Vấn đề đã không đƣợc coi là một ƣu tiên
so với những vấn đề khác trong chƣơng trình nghị sự. Hơn nữa,
có một niềm tin là đã có các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
những trƣờng hợp bạo lực giống nhƣ các trƣờng hợp quấy rối
tình dục.
Trong một nỗ lực vận động sự ủng hộ, đặc biệt với một
Quốc hội mới đã hứa vào năm 2007, Ủy ban các Vấn đề Xã hội
và Hội Liên hiệp Phụ nữ đã tổ chức một loạt các Hội thảo và tọa
đàm trình bày các số liệu thống kê về bạo lực gia đình. Một ngày
trƣớc khi Luật đƣợc thông qua vào tháng 11 năm 2007,
UNIFEM và Ủy ban các Vấn đề Xã hội đã mời các đại biểu chủ
chốt của Quốc hội đến họp về Công ƣớc CEDAW và dự thảo
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Họ đã nhất trí tại cuộc họp
là Luật cần đƣợc thông qua vào ngày hôm sau.
27
3.4. Môi trƣờng điều chỉnh chính sách - Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (MOCST) là cơ quan quản
lý nhà nƣớc về Phòng, chống bạo lực gia đình và chịu trách
nhiệm đối với việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Hai Nghị định liên quan đến việc thực hiện Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình nhằm: (1) làm rõ và hƣớng dẫn việc thực
hiện Luật; và (2) xử lý những hành vi vi phạm Luật. Cho đến nay
mới chỉ có một Nghị định đƣợc ban hành.
Cho đến nay các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
Phòng, chống bạo lực gia đình bao gồm:
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Chỉ thị của Thủ tƣớng Chính phủ số 16/2008/CT-TTG
ngày 30 tháng 5 năm 2008 về triển khai thực hiện Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình.
Nghị định của Chính phủ số 08/2009/ND-CP ngày 4
tháng 2 năm 2009 về quy chế và hƣớng dẫn thực hiện một
số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
4. NHỮNG PHÁT HIỆN CHUNG
Phần này chỉ ra những điểm yếu quan trọng có tính chiến
lƣợc và đan xen phổ biến ở tất cả các tổ chức đã đƣợc phỏng vấn
và tham gia vào các thảo luận nhóm trọng tâm6. Những phát hiện
nằm trong sáu chủ đề khác nhau tạo nên những vấn đề trọng tâm
về năng lực - cơ cấu thể chế, trách nhiệm giải trình, lãnh đạo và
kiến thức; và các năng lực về chức năng - thực hiện, giám sát và
đánh giá và công tác báo cáo. Mỗi một điểm yếu về tổ chức
6. Những tổ chức này bao gồm 15 tổ chức và 5 tỉnh đã đƣợc lựa chọn
trƣớc nhƣ những ngƣời cung cấp thông tin chủ chốt đối với đánh giá dựa
trên những tổ chức và địa phƣơng mục tiêu trong Chƣơng trình chung về
Bình đẳng giới.
28
đƣợc xác định dƣới đây đƣợc giải quyết bằng một khuyến nghị
tƣơng ứng trong phần 6.
4.1. Cơ cấu thể chế
1) Những kẽ hở trong các Nghị định
Cơ cấu thể chế đối với các tổ chức chủ chốt để thực hiện,
giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật đƣợc quy định trong
các Nghị định, nhƣng những trở ngại để thực hiện vẫn giữ
nguyên. Có những kẽ hở trong các Nghị định và sự hƣớng dẫn
thiếu chất lƣợng giữa các tổ chức đã ngăn cản việc thực hiện. Ví
dụ, trong khi vai trò của Ủy ban Nhân dân là điều phối và hƣớng
dẫn về hai luật - một thể chế đầy quyền lực trong hệ thống hành
chính, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Luật Bình đẳng
giới lại không đƣợc nhìn nhận nhƣ những ƣu tiên.
2) Những vai trò, trách nhiệm và trách nhiệm giải trình
thiếu rõ ràng
Có sự lúng túng xung quanh những vai trò và trách nhiệm
trong mỗi một tổ chức và giữa các tổ chức. Những nhiệm vụ của
một Vụ/Ban này đối với một Vụ/Ban khác trong cùng một tổ
chức thiếu rõ ràng. Những cán bộ đầu mối của các Vụ/Ban về
các vấn đề giới trong các tổ chức đƣợc trao nhiệm vụ bổ sung
liên quan đến giới có thể không nhất thiết thuộc trách nhiệm của
họ. Những ngƣời khác lo lắng về trách nhiệm giải trình đối với
hai luật không thể bắt đầu mà thiếu một chiến lƣợc rõ ràng để
hƣớng dẫn họ, thiếu những vai trò và trách nhiệm đƣợc xác định
và những chức năng nhiệm vụ đƣợc gắn kết. Cũng không có một
hệ thống để giữ những nhân viên có trách nhiệm đối với việc
thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật.
3) Nhận biết những cán bộ đầu mối và nuôi dưỡng đội ngũ
cán bộ chuyên môn đầu ngành về Luật Bình đẳng giới và Phòng,
chống bạo lực gia đình
Thông thƣờng, chủ yếu quá trình thực hiện, giám sát và đánh
giá và công tác báo cáo rơi vào những cán bộ lâu năm đang làm
việc nhƣ những cán bộ đầu mối nhƣng không nhất thiết phải là
29
những cán bộ chuyên môn đầu ngành về Luật Bình đẳng giới và
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Những cán bộ đầu mối và
những cán bộ chuyên môn đầu ngành trong một tổ chức đều đóng
vai trò chủ chốt trong thực hiện các luật. Những cán bộ chuyên
môn đầu ngành và những cán bộ đầu mối thƣờng đƣợc nhìn nhận
là cùng một ngƣời hoặc có cùng một chức năng trong một tổ chức
nhƣng họ có thể là hai con ngƣời hoàn toàn khác nhau và có các
chức năng hoàn toàn khác nhau. Những cán bộ đầu mối có những
vai trò và trách nhiệm đƣợc xác định cho mình (ví dụ các Ban vì
sự tiến bộ của phụ nữ). Những cán bộ chuyên môn đầu ngành có
thể là bất kỳ ai, chức năng, ban/uỷ ban, đơn vị hoặc vụ nào với bất
kỳ vai trò gì trong tổ chức mà đƣợc phát động và khuyến khích để
thực hiện hai luật. Họ không phải là những chuyên gia trong lĩnh
vực về giới hoặc bạo lực gia đình.
4) Thiếu cơ chế điều phối và phối hợp đối với hai luật
Trách nhiệm chính về bình đẳng giới trƣớc khi có Luật Bình
đẳng giới thuộc về Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Hiện nay trách nhiệm đối với Luật Bình đẳng giới thuộc Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội và trách nhiệm đối với Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và
Du lịch. Đánh giá Năng lực cho thấy phần này đã nêu ra những
thách thức trong thực hiện hai luật vì những lý do sau đây: (1)
không có cơ chế để điều phối việc thực hiện hai luật; (2) Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch hoàn toàn mới mẻ với những vấn đề
bạo lực gia đình khi đƣợc giao nhiệm vụ là cơ quan quản lý nhà
nƣớc về bạo lực gia đình và (3) Bộ Lao động – Thƣơng binh và
Xã hội đã bị quá căng ở khía cạnh năng lực, thậm chí ngay cả
trƣớc khi Luật Bình đẳng giới đƣợc bổ sung vào danh mục đã
quá căng của họ.
5) Không có hoặc không đủ năng lực xây dựng kế hoạch ở
những cơ quan và tổ chức có liên quan
Phát triển nguồn nhân lực và tổ chức nên là vai trò của Vụ
Tổ chức và Cán bộ của mỗi một Bộ. Phát triển nguồn nhân lực
và tổ chức là quan trọng đối với việc duy trì bất kỳ sự đáp ứng
30
hoặc can thiệp nào về xây dựng năng lực trong một tổ chức.
Điều hành mà không có sự phát triển nguồn nhân lực và tổ chức
có thể tƣớc bỏ quyền lực của tổ chức trong hoạch định, thực hiện
và giám sát sự phát triển năng lực của họ. Không có những đề
cập đối với vai trò của các Vụ Tổ chức và Cán bộ trong các Bộ
và cơ quan có liên quan trong mối quan hệ về xây dựng năng lực
của nhân viên để thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo một
cách hiệu quả hai luật.
4.2. Thực hiện
1) Thiếu hướng dẫn mang tính thực tiễn
Ở tất cả các cấp, những hoạt động đang đƣợc thực hiện về
hai luật dƣờng nhƣ là không đƣợc lập kế hoạch/không theo thể
thức, không có hệ thống và không đƣợc gắn kết với một kế
hoạch tổng thể. Hầu hết các cơ quan đang đòi hỏi có những
hƣớng dẫn thực tiễn hơn. Các kết quả thu đƣợc từ thảo luận
nhóm trọng tâm và phỏng vấn sâu cho thấy các cơ quan đang cố
gắng giải thích luật và các nghị định một cách tốt nhất theo khả
năng của mình trong khuôn khổ chính sách hiện hành7 trong khi
đang chờ đợi những chiến lƣợc mới đối với mỗi một luật để hoàn
thành và dựa vào sự hƣớng dẫn đã đƣợc ban hành cho đến nay
(các Nghị định, Quyết định, Thông tƣ liên bộ) để xây dựng các
kế hoạch công tác hàng năm và của tổ chức với những hoạt động
cụ thể liên quan đến hai luật.
2) Những khoảng trống trong điều phối ở cấp cộng đồng
Những kết quả của báo cáo Đánh giá Năng lực nhận biết
chắc chắn một khoảng trống trong sự điều phối liên ngành liên
quan đến việc thực hiện. Đây là một thực tế hiển nhiên trong
thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Việc không đƣợc
đáp ứng là một mối quan tâm đặc biệt trong thực hiện Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình. Các tổ chức phi chính phủ ở
trong nƣớc đóng một vai trò quan trọng trong hỗ trợ nạn nhân
của bạo lực gia đình, làm việc với các gia đình và các cộng đồng
7. Chiến lƣợc quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ.
31
của họ để ngăn ngừa bạo lực gia đình và khuyến khích các tiện
nghi y tế ở cấp huyện/quận để chữa trị cho nạn nhân của bạo lực
gia đình. Các Sở Y tế, Tƣ pháp và Công an đóng một vai trò
quan trọng trong hỗ trợ công việc của những tổ chức phi chính
phủ này thông qua cƣỡng chế thi hành pháp luật và những hình
phạt theo cách thức kịp thời và đƣợc điều phối, cả ở các cộng
đồng nơi họ đang làm việc và nội bộ trong những hệ thống của
chính phủ.
3) Thiếu những quy trình thủ tục rõ ràng để đệ đơn kiện và
xét xử khiếu nại
Các luật cho phép một số các cơ quan nhận các khiếu nại
nhƣng không xác định rõ quy trình thủ tục theo đó một cá nhân
viện dẫn một vi phạm các quyền theo luật định đệ đơn kiện; cũng
không nhận biết các quy trình thủ tục xét xử khiếu nại.
4) Thiếu các cơ chế để áp đặt các hình phạt
Sự lúng túng cũng tồn tại dƣới hình thức hiện có của cơ chế
phạt hoặc vẫn đang phải đặt ra.
5) Nguồn lực không đầy đủ
Các kết quả cho thấy những nguồn lực không đầy đủ đƣợc
phân bổ cho việc thực hiện, giám sát và đánh giá và báo cáo Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Tăng
nguồn quỹ, bổ sung đội ngũ cán bộ toàn thời có chất lƣợng, cải
thiện các công cụ và vật chất và một ngân sách dành riêng cho
các hoạt động của Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình là tất cả các nhu cầu đã đƣợc nhận biết trong rất
nhiều các cuộc thảo luận nhóm trọng tâm. Không đƣợc phân bổ
đầy đủ các nguồn lực, cả hai luật sẽ không biến chính sách trở
thành hiện thực.
4.3. Lãnh đạo
1) Những yêu cầu cạnh tranh - sự ưu tiên thấp đối với Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
Thiếu một sự lãnh đạo sát sao là một chủ đề bất biến trong
các kết quả của Đánh giá Năng lực. Thông điệp chính là quản lý
32
cấp cao có các yêu cầu cạnh tranh và sự ƣu tiên đối với Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn thấp.
Những nguồn lực thỏa đáng chƣa đƣợc phân bổ cho việc thực
hiện và ít bằng chứng cho thấy lãnh đạo và quản lý cấp cao đang
đòi hỏi đội ngũ cán bộ nhân viên phân tích, cung cấp thông tin
và cập nhật tiến độ. Khi những đòi hỏi nhƣ vậy không đƣợc đƣa
ra sẽ có rất ít khích lệ để hành động và đội ngũ cán bộ nhân viên
sẽ không có trách nhiệm giải trình đối với việc thực hiện Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
4.4. Kiến thức
1) Những khoảng trống trong tập hợp các kiến thức và kỹ năng
Bình đẳng giới là một khái niệm tƣơng đối mới ở Việt
Nam. Bạo lực gia đình thƣờng đƣợc coi là là một vấn đề riêng
của gia đình cho đến khi luật đƣợc ban hành. Chỉ có rất ít ngƣời
có kiến thức rộng xung quanh các lĩnh vực này. Điều này cũng
đƣợc phản ánh trong các kết quả của Đánh giá Năng lực. Nhìn
chung, kiến thức cơ bản và các kỹ năng chuyên môn về bạo lực
gia đình và bình đẳng giới còn thấp và không đủ để thực hiện
hiệu quả các luật. Các nhà hoạch định chính sách và các chuyên
gia chƣơng trình không chịu mở rộng trọng tâm can thiệp của họ
từ „vì sự tiến bộ của phụ nữ‟ sang quan tâm đến các vấn đề bình
đẳng giới mà không nhận đƣợc những kiến thức và các công cụ
đƣợc cập nhật về bình đẳng giới và bạo lực gia đình.
Các khái niệm cơ bản về phát triển năng lực xung quanh
“trách nhiệm giải trình” và “văn hóa tổ chức” cũng còn mới và
dễ bị hiểu lầm; ví dụ rất nhiều “báo cáo” đƣợc giải thích là hình
thức duy nhất của trách nhiệm giải trình. Những khoảng trống
sau đây trong kiến thức và các kỹ năng đã đƣợc Đánh giá Năng
lực nhận biết:
Các kỹ năng lãnh đạo và quản lý trong thực hiện Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
(bao gồm việc hoạch định chiến lƣợc, quản lý sự thay đổi,
xây dựng và phát triển năng lực, trách nhiệm giải trình,
động lực).
33
Những khái niệm cơ bản về giới, bình đẳng giới, bạo lực
gia đình và giám sát và đánh giá/báo cáo.
Các công cụ thực tiễn lồng ghép giới.
Nhận thức và hiểu biết về Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình.
Quản lý đánh giá và nghiên cứu.
Các chƣơng trình và các hoạt động để bảo vệ các nạn
nhân.
Các chƣơng trình và các hoạt động nhằm vào nam giới.
Đội ngũ cán bộ nhân viên làm việc ở cấp xã/phƣờng đƣợc
nhận biết là hấu hết có nhu cầu về các kiến thức và kỹ năng mới
về bạo lực gia đình. Điều này cũng đúng với đội ngũ cán bộ nhân
viên trong tất cả các cơ quan của nhà nƣớc và các tổ chức quần
chúng. Ở mọi cấp độ, đội ngũ cán bộ nhìn chung thiếu sự hiểu
biết cơ bản về các khái niệm về giới, lồng ghép giới, bạo lực gia
đình, giám sát và đánh giá. Ví dụ, nhóm nghiên cứu phát hiện
thấy các tổ chức quần chúng ở Hà Nội còn hạn chế về kiến thức
và kỹ năng làm thế nào thúc đẩy hiệu quả bình đẳng giới, với
quá ít các nghiên cứu trƣờng hợp đƣợc áp dụng để tham khảo và
rút ra bài học. Những cán bộ lãnh đạo ở cấp tỉnh/thành phố chỉ
có nhận thức tối thiểu về bình đẳng giới và hầu hết đội ngũ cán
bộ trong Chính phủ đã đƣợc tập huấn về bình đẳng giới và những
luật pháp có liên quan qua internet. Trong khi xác định rằng
Trung ƣơng Hội Liên hiệp Phụ nữ đã đƣợc tập huấn chuyên môn
về hệ thống pháp luật, bình đẳng giới và tham vấn, các kỹ năng
của họ vẫn đƣợc nhìn nhận là chƣa đầy đủ để đạt đƣợc hiệu quả
cao. Một cán bộ của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ Hà Nội đã đƣợc
xác định là có kiến thức và các kỹ năng phù hợp vì (i) đã đƣợc
tập huấn chuyên môn về hai luật, (ii) đƣợc tập huấn ở nƣớc
ngoài, (iii) có ngoại ngữ, (iv) có cam kết đối với công việc và (v)
có 15 năm công tác trong lĩnh vực tham vấn về gia đình.
2) Tập huấn với chất lượng thấp
34
Đáp ứng lớn nhất cho sự thiếu kiến thức và các kỹ năng để
thực hiện hai luật là nhu cầu đƣợc tập huấn bổ sung. Tuy nhiên,
các kết quả của đánh giá năng lực cho thấy rất nhiều tập huấn đã
đƣợc thực hiện không phù hợp, quá chung chung, thiếu thực tiễn
và không đủ thời lƣợng để có ảnh hƣởng lên công việc hàng
ngày và lên việc thực hiện hai luật. (Xác định tập huấn nào là bổ
ích và những lý do tại sao hầu nhƣ không có số liệu). Những kết
quả nhƣ vậy về tập huấn không phải là không phổ biến, nếu
không đƣợc thực hiện nhƣ một phần của một chiến lƣợc chung
của tổ chức về sự cầu thị và thay đổi.
4.5. Giám sát, Đánh giá và Báo cáo
1) Thiếu hệ thống giám sát và đánh giá chặt chẽ
Đánh giá Năng lực cho thấy không có một hệ thống giám sát
và đánh giá duy nhất và chặt chẽ để giám sát và thu thập số liệu
về Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Các tổ chức quần chúng lƣu ý rằng họ đang giúp thực hiện rất
nhiều các chuyến công tác về giám sát và đánh giá với các mục
tiêu chồng chéo trùng lắp. Tuy nhiên, một khung giám sát và
đánh giá đối với mỗi một luật hiện đang đƣợc xây dựng trong
khuôn khổ Chƣơng trình chung về Bình đẳng giới.
Số liệu đang đƣợc thu thập về bình đẳng giới và bạo lực gia
đình ở các cấp độ khác nhau trong Chính phủ nhƣng không rõ
ràng những chỉ số này từ đâu đến và các chỉ số này đang cố gắng
đo đếm cái gì. Số liệu của một số lĩnh vực cho thấy hiện có
những hệ thống thu thập số liệu về Công ƣớc CEDAW, Chiến
lƣợc về sự tiến bộ của phụ nữ và các chƣơng trình tài trợ khác.
Quan trọng phải nhấn mạnh việc xây dựng các chỉ số chỉ là
một phần của quá trình rất lâu dài trong phát triển một hệ thống
giám sát và đánh giá và bất kỳ một tập hợp các chỉ số nào cũng
nên đƣợc dựa trên những mục tiêu cụ thể và rõ ràng. Đánh giá
năng lực cho thấy không có một sự kết nối rõ ràng thế nào là
giám sát và đánh giá và các chỉ số cần cho giám sát và đánh giá
là gì. Rất nhiều ngƣời cung cấp thông tin chính đang chờ có một
35
tập hợp các chỉ số hƣớng dẫn làm thế nào thực hiện hai luật mà
không có chức năng của các chỉ số giám sát và đánh giá.
2) Thiếu một hệ thống báo cáo
Các yêu cầu về báo cáo sẽ tạo nên một nhu cầu đối với
thông tin và các kết quả có đƣợc từ các hệ thống giám sát và
đánh giá. Đánh giá năng lực cho thấy không có hệ thống chức
năng báo cáo về việc thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình. Trong khi Vụ Bình đẳng giới
thuộc Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội đƣợc yêu cầu hàng
năm báo cáo lên Quốc hội, báo cáo lại không đủ toàn diện và
không đề cập đến bất kỳ những khó nhăn này. Hầu hết thông tin
về Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ở
các Bộ khác và các địa phƣơng đƣợc tập hợp vào trong những
báo cáo chuyên ngành lớn hơn. Ở những nơi các mẫu báo cáo đã
đƣợc sử dụng thì việc thiếu tập huấn làm thế nào để hoàn thành
các mẫu này đƣợc xác định là một hạn chế chính.
Hầu hết báo cáo cũng chỉ liệt kê những hoạt động đƣợc thực
hiện mà không trích dẫn liệu các kết quả và tác động có đạt đƣợc
không và cách thức để đạt đƣợc. Cần tăng cƣờng năng lực để
phản ánh các mục tiêu ở cấp độ cao hơn, phân tích sâu sắc các
kết quả và các tác động và đƣa ra những khuyến nghị mang tính
chiến lƣợc.
4.6. Trách nhiệm giải trình
1) Thiếu các cơ chế, quy trình thủ tục, quy chế, hệ thống và
các cơ cấu quản lý hành chính
Hiện có rất ít cơ chế quản lý hành chính tác động lên đội ngũ
cán bộ và những cán bộ lãnh đạo để giải trình khi triển khai thực
hiện hai luật. Ví dụ, các tòa án ở tỉnh Bình Dƣơng chỉ áp dụng
Luật Hôn nhân và Gia đình và Luật Hình sự trong việc xét xử
các trƣờng hợp bạo lực gia đình mặc dù Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình đã đƣợc thông qua.
Hiện không có những quy trình thủ tục chính thức rõ ràng
đối với các tổ chức để báo cáo về việc triển khai thực hiện liên
36
quan đến hai luật - từ cấp Bộ đến cấp xã/phƣờng - và tập trung
giải quyết việc triển khai yếu kém.
Không có các cơ chế chức năng và phản hồi có sự tham gia
về hai luật đã đƣợc nêu trong đánh giá năng lực cho phép các mối
quan tâm của cấp huyện/quận có thể lên đến các cấp cao hơn.
Hiện không có hệ thống để thu hút tiếng nói của xã hội dân
sự và các tổ chức phi chính phủ về những vấn đề liên quan đến
thực hiện hai luật, trừ hộp thƣ khiếu nại của công dân của Mặt
trận Tổ quốc theo thảo luận nhóm trọng tâm với các tổ chức
quần chúng ở Hà Nội.
Không có hệ thống hoặc quy chế để hỗ trợ một hệ thống đáp
ứng đƣợc điều phối đối với bạo lực gia đình.
Không có hệ thống chức năng để đảm bảo hai luật và các
văn bản và thông tin khác có liên quan đƣợc phân bổ đến tất cả
các nhà hoạt động có liên quan.
Rất ít dấu hiệu về các đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của
đội ngũ cán bộ đã đƣợc điều chỉnh để đánh giá các năng lực
trong thực hiện hai luật, trừ tỉnh Bình Dƣơng, nơi mà một số Sở
đƣa một chỉ số bình đẳng giới vào các đánh giá thực hiện nhiệm
vụ hàng năm của các cá nhân và tổ chức.
Không có bằng chứng để đề xuất các hình phạt đối với việc
không xem xét và giải quyết các vấn đề của Luật Bình đẳng giới
và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc áp đặt cho đội ngũ
cán bộ trong công việc thƣờng nhật.
Không có bằng chứng về những hệ thống khen thƣởng,
khuyến khích trên cả nƣớc để nâng cao và thúc đẩy việc thực
hiện hai luật, chẳng hạn nhƣ các cuộc thi (xem phần Những tiến
trình đổi mới ở bên dƣới) và một hệ thống khen thƣởng đối với
“gia đình văn hóa” nơi mà các tiêu chí có tính đến bạo lực gia
đình. Tuy nhiên, những khuyến khích này có thể phản tác dụng;
không chỉ khuyến khích một hệ thống đƣa các nạn nhân về trung
tâm tạm lánh, những khen thƣởng khuyến khích nhƣ vậy trên
thực tế có thể đang phục vụ cho sự im lặng, che dấu các nạn
nhân và sự lạm dụng, vì không khuyến khích báo cáo về các
37
trƣờng hợp bạo lực gia đình ở cộng đồng nếu “các gia đình văn
hóa” nhận thấy mục tiêu cuối cùng đối với các khen thƣởng công
dân/gia đình và thúc đẩy sự quan liêu.
Thù lao đối với làm thêm giờ là một cơ cấu khuyến khích
khác đối với các quan chức của Chính phủ đã đƣợc nêu lên trong
đánh giá năng lực này, tuy nhiên tham khảo cho thấy cơ cấu này
không hoạt động tốt. Rất nhiều cán bộ nhân viên cảm thấy họ bị
quá sức đối với khối lƣợng công việc mà không đƣợc trả công
cho những thời gian làm thêm. Dƣờng nhƣ có rất ít khuyến khích
để khắc phục những trở ngại và hạn chế trong thực hiện các luật
nếu đòi hỏi một lƣợng công việc khác mà sẽ không đƣợc tôn
trọng và trả thù lao.
5. NHỮNG PHÁT HIỆN CỤ THỂ
Phần này bao gồm một tóm tắt những phát hiện chính từ báo
cáo Đánh giá Năng lực này. Những phát hiện đƣợc chia thành
hai nhóm đối tác thực hiện chính: các tổ chức của Chính phủ và
các tổ chức quần chúng. Trong hai nhóm chính này các phát hiện
lại đƣợc chia theo cấp Trung ƣơng và cấp Tỉnh/thành phố. Khi
có thể, các phát hiện đƣợc phân biệt giữa (1) hai luật, (2) các vấn
đề về năng lực trọng tâm - cơ cấu thể chế, trách nhiệm giải trình,
lãnh đạo và kiến thức, và (3) các năng lực thuộc chức năng -
thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo, nhƣ đã mô tả trong
phần Phƣơng pháp luận.
Phần này đƣợc bổ sung bằng hai phân tích do Viện Gia đình
và Giới chuẩn bị: Phân tích SWOT đối với các Hồ sơ mô tả tổ
chức và các Bảng kiểm Tổ chức (Phụ lục 2) – đánh giá 11 yếu tố
chính đƣợc ghi nhận là quan trọng đối với việc thực hiện thành
công các luật8:
8. Điều chỉnh từ Phụ lục 2 Tập hợp các Bảng kiểm về Giới của Hƣớng
dẫn lồng ghép giới trong Hoạch định và Thực thi Chính sách quốc gia –
Hƣớng tới Bình đẳng giới ở Việt Nam thông qua Hoạch định và Thực thi
38
Trách nhiệm chung đối với bình đẳng giới và Phòng,
chống bạo lực gia đình.
Hiểu biết cơ bản về các khái niệm về bình đẳng giới và
bạo lực gia đình và các pháp luật có liên quan.
Sự lãnh đạo đƣợc cam kết mạnh mẽ về bình đẳng giới và
phòng, chống bạo lực gia đình của cán bộ lãnh đạo cấp cao.
Nhận thức về một Khung chính sách quốc gia đối với
bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình.
Kế hoạch Thay đổi Tổ chức đƣợc vận hành.
Các vai trò và trách nhiệm rõ ràng.
Các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ và các Cơ quan quản lý
Nhà nƣớc về bình đẳng giới và bạo lực gia đình đƣợc đặt
vào các vị thế chiến lƣợc và đƣợc phân bổ ngân sách đầy đủ.
Văn hóa tổ chức trân trọng thay đổi và cầu thị.
Các công cụ và kiến thức để làm việc theo cách thức có
trách nhiệm giới và nhạy cảm với bạo lực gia đình.
Trách nhiệm giải trình - Các quy trình thủ tục hành chính
đang đƣợc vận hành.
Động lực - những khích lệ và hình phạt hiện có.
5.1. Các tổ chức Chính phủ
5.1.1. Cấp trung ương
Phần sau đây nêu ra những khoảng trống về năng lực đối với
các cơ quan Chính phủ ở cấp Trung ƣơng để thực hiện Luật Bình
đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Nhƣ đã thảo
luận ở phần Phƣơng pháp luận, phần này chỉ giới hạn đối với hai
cơ quan chính: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
Chính sách quốc gia có trách nhiệm giới. Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ Phụ
nữ, Hà Nội, năm 2008.
39
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội
Cơ cấu thể chế
Vụ Bình đẳng giới thuộc Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã
hội là một cơ quan chính trong thực hiện, giám sát, đánh giá và
báo cáo về Luật Bình đẳng giới. Vụ đƣợc thành lập vào đầu năm
2008 để tham mƣu cho Bộ trƣởng thực hiện các hoạt động quản
lý nhà nƣớc về bình đẳng giới. Một trong những hoạt động chính
của Vụ là hƣớng dẫn việc thực hiện Luật Bình đẳng giới trong
Chính phủ. Tuy nhiên, không rõ là đội ngũ cán bộ của Vụ hiểu
đến mức độ nào về vai trò và các trách nhiệm của Vụ Bình đẳng
giới nhƣ đối với một cơ quan. Các kết quả của thảo luận nhóm
trọng tâm với những ngƣời cung cấp thông tin chính của Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội cho thấy bình đẳng giới vẫn đƣợc
coi là một “vấn đề của phụ nữ”. Do vậy, tất cả những vấn đề liên
quan đến phụ nữ đều đến với Vụ Bình đẳng giới. Vụ Bình đẳng
giới cũng chịu trách nhiệm đối với các vấn đề của Ủy ban Phụ
nữ của ASEAN, Ủy ban vị thế của Phụ nữ của Liên hợp quốc,
Hội nghị thƣợng đỉnh các Bộ trƣởng về Bình đẳng giới ở Đông
Nam Á và Bộ trƣởng Bình đẳng giới trong phong trào không liên
kết của phụ nữ châu Á. Không rõ là Vụ/Ban nào của Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội chịu trách nhiệm về đánh giá nội
dung bình đẳng giới trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
và rà soát nội dung bình đẳng giới trong các tài liệu và báo cáo
của các cơ quan khác. Cũng có sự mơ hồ về vai trò của Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội trong thực hiện Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình.
Vụ Bình đẳng giới hiện có 14 cán bộ, hầu hết mới đƣợc
tuyển dụng với rất ít kiến thức về bình đẳng giới. Vụ Bình đẳng
giới có 4 cán bộ nam và 10 cán bộ nữ. Bốn trong số họ có trình
độ Thạc sỹ về lịch sử, kinh tế và luật. Không có thông tin về
trình độ chuyên môn và quản lý của nhóm cán bộ lãnh đạo gồm
một Vụ trƣởng và hai Phó vụ trƣởng.
Các Vụ có liên quan cho biết đang phối hợp với Vụ Bình
đẳng giới để hỗ trợ thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo đối
40
với hai luật. Ví dụ, Vụ Pháp chế chịu trách nhiệm đối với thực
hiện Công ƣớc CEDAW ở Việt Nam, Cục Việc làm chịu trách
nhiệm về lao động trẻ em, ngƣời tàn tật và lao động nữ cùng với
những vấn đề lao động và việc làm quan trọng khác và Vụ Hợp
tác Quốc tế chịu trách nhiệm về các vấn đề nhân quyền. Tuy
nhiên, không thấy đề cập đến vai trò của bộ phận về nguồn nhân
lực hoặc bộ phận về đào tạo và tập huấn cũng nhƣ bộ phận chịu
trách nhiệm về chính sách hoặc giám sát và đánh giá để hỗ trợ và
duy trì công tác xây dựng năng lực của đội ngũ cán bộ trong Vụ
Bình đẳng giới để thực hiện các nhiệm vụ của mình liên quan
đến hai luật.
Thiếu nghiêm trọng những cán bộ có chuyên môn ở các cấp
tỉnh/thành phố, huyện/quận và xã/phƣờng và không có những
cán bộ đầu mối trừ một số tỉnh đƣợc lựa chọn nhƣ Bình Dƣơng
và Thành phố Hồ Chí Minh. Cán bộ có những kỹ năng về giới
thì bị quá tải.
Kiến thức
Một số cán bộ đã đƣợc tập huấn về giới, nhƣng không có
thêm những tập huấn chi tiết. Cũng không rõ liệu họ có sử dụng
những gì đƣợc tập huấn trong công việc hàng ngày của họ.
100% số cán bộ của Vụ Bình đẳng giới đã đƣợc tập huấn trong
chƣơng trình tập huấn của Vụ nhƣng không có chi tiết liệu tập
huấn có hỗ trợ họ trong công việc hàng ngày của họ nhằm thực
hiện hai luật.
Trong một thảo luận nhóm trọng tâm đã đề cập đến việc
đánh giá nhu cầu tập huấn của Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã
hội do Vụ Bình đẳng giới tổ chức tại Hải Phòng, tại đó có rất
nhiều cán bộ chƣa hề đọc hoặc nhìn thấy Luật Bình đẳng giới và
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Trách nhiệm giải trình
Bình đẳng giới không đƣợc coi là một nhiệm vụ ƣu tiên của
các cán bộ của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.
41
Thực hiện
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đang phải đối mặt với
những thách thức trong thực hiện các Nghị định hƣớng dẫn thực
hiện Luật Bình đẳng giới vì bản thân Bộ đã không tham gia vào
quá trình xây dựng các Nghị định này. Những Nghị định này
đƣợc Bộ Tƣ pháp dự thảo. Không có những bằng chứng cho thấy
liệu có một cuộc chuyển giao chính thức các trách nhiệm về các
Nghị định từ Bộ Tƣ pháp sang Bộ Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội không và liệu có bất kỳ hành động nào đã đƣợc thực hiện
để giải quyết vấn đề này.
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đang thực hiện một
đánh giá đối với các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ trên toàn quốc để
kiện toàn lại hệ thống thống này. Không rõ tại sao các Ban vì sự
tiến bộ phụ nữ đang đƣợc kiện toàn và đơn vị nào, đặc biệt trong
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội chịu trách nhiệm đối với
việc rà soát đánh giá. Cho đến nay đã có 10 tỉnh hoàn thành việc
kiện toàn các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ. Các Ban vì sự tiến bộ phụ
nữ sẽ do Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội làm thƣờng trực.
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đã tổ chức tập huấn
về bình đẳng giới và bạo lực gia đình cho các Phó Giám đốc Sở
Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Sở Tƣ pháp, Hội Phụ nữ và Mặt trận Tổ quốc của 63
tỉnh/thành phố. Tập huấn cho các cán bộ của các Sở Lao động -
Thƣơng binh và Xã hội cũng đã đƣợc thực hiện nhƣng không đề
cập đến nội dung của tập huấn và những ngƣời đƣợc tập huấn
đang sử dụng những nội dung đƣợc tập huấn vào công việc hàng
ngày của họ nhƣ thế nào để hỗ trợ thực hiện Luật Bình đẳng giới
và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Không rõ liệu tập huấn
có là một hoạt động chính của Bộ Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội trong thực hiện hai luật hay không và liệu bản thân họ tự
tổ chức thực hiện tập huấn hay hợp đồng với các cơ quan bên
ngoài để thực hiện tập huấn. Cũng không rõ liệu họ có một kế
hoạch hành động đối với tập huấn và xây dựng năng lực cho cả
nƣớc về hai luật không, liệu những nguồn lực tƣơng ứng có đƣợc
42
phân bổ qua hệ thống ngân sách không và liệu những tập huấn
viên có đƣợc thuê tuyển để thực hiện tập huấn không.
Không có bằng chứng đề xuất các hoạt động của Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội liên quan đến hai luật nên đƣợc
gắn kết với bất kỳ hoạt động nào của các Bộ khác và các địa
phƣơng. Tuy nhiên có kiến thức đáng kể về các hoạt động liên
quan đến bạo lực gia đình do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
thực hiện. Hơn nữa, số liệu cho thấy Vụ Bình đẳng giới đang
thực hiện một số hoạt động về bạo lực gia đình để nâng cao nhận
thức ở cấp Bộ và quản lý nhà nƣớc.
Không có kiến thức về phân bổ ngân sách đối với các hoạt
động cụ thể dành cho Luật Bình đẳng giới. Do vậy không rõ liệu
có các nguồn quỹ để thực hiện các hoạt động đƣợc nêu ở trên
không.
Vụ Bình đẳng giới không có khóa tập huấn về giới. Tuy
nhiên có một số tập huấn về bạo lực gia đình đối với các cán bộ
lãnh đạo cấp vụ/sở nhƣng không phải là “cán bộ chủ chốt”.
Các kênh truyền thông về các luật không rõ ràng.
Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn chƣa đƣợc nhận biết
để hình thành một hệ thống lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào
các văn bản quy phạm pháp luật và chính sách.
Giám sát và đánh giá
Cán bộ nhân viên nhận thức rằng Nghị định số 55 quy định
công tác giám sát và đánh giá về bình đẳng giới, nhƣng thực hiện
cần đƣợc tăng cƣờng. Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội đã
hƣớng dẫn Tổng cục Thống kê và Bộ Y tế thu thập các số liệu
thống kê, nhƣng việc thu thập số liệu chƣa đƣợc thực hiện vì
những lý do sau: (1) có những thách thức trong việc điều phối
hợp tác và chia sẻ thông tin; (2) ngân sách rất hạn hẹp và gần đây
lại bị cắt; (3) nhận thức về giới và bình đẳng giới của những cán
bộ chịu trách nhiệm thu thập số liệu còn thấp.
43
Báo cáo
Vụ Bình đẳng giới đƣợc yêu cầu hàng năm báo cáo về tình
hình bình đẳng giới lên Quốc hội. Thông tin đầu vào đƣợc yêu
cầu từ tất cả các Bộ và địa phƣơng, nhƣng rất ít cơ quan cung
cấp thông tin và nếu có cung cấp thì đó là không phải những
thông tin mà Vụ Bình đẳng giới yêu cầu. Không rõ liệu có các
mẫu báo cáo không và liệu hiện có các hệ thống để thu thập
thông tin mà báo cáo yêu cầu không. Không có những hƣớng
dẫn báo cáo lên ai/cơ quan nào, báo cáo về vấn đề gì và ở mức
độ nào. Không có sự tham gia của xã hội dân sự trong việc đóng
góp ý kiến đối với báo cáo để làm cho Chính phủ có trách nhiệm
giải trình. Không có những diễn đàn bên trong các Bộ để thảo
luận báo cáo một cách cởi mở cũng nhƣ không có bất kỳ một
cuộc tranh luận công khai nào.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Cơ cấu thể chế
Vụ Gia đình là đơn vị chính của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình. Đây là một Vụ hoàn toàn mới trong Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đƣợc thành lập năm 2008. Trong
cơ cấu thể chế trƣớc đây, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em là
tổ chức chính chịu trách nhiệm thực hiện những hoạt động liên
quan đến gia đình bao gồm cả bạo lực gia đình. Ủy ban đã hoàn
thành quá trình vận hành của mình khi Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình đƣợc thông qua.
Đáng chú ý là Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã kém chủ động hơn kể từ khi Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình đƣợc thông qua năm 2007. Không rõ liệu
có phải là vì Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ là một cơ cấu mới của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoặc là do vai trò của họ không
rõ kể từ khi thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Ở cấp tỉnh không có một đơn vị riêng tập trung duy nhất vào
các vấn đề bạo lực gia đình, mà chỉ có Phòng Văn hóa và Gia
đình chịu trách nhiệm rất nhiều vấn đề. Không phải tất cả các
44
tỉnh đều có Phòng Văn hóa và Gia đình trong Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch. Trong sáu cán bộ đƣợc giao biên chế cho Phòng
chỉ có một hoặc hai chịu trách nhiệm đối với các vấn đề về gia
đình, bao gồm cả bạo lực gia đình. Theo thảo luận nhóm trọng
tâm với Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Sở Lao động –
Thƣơng binh và Xã hội và Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của
phụ nữ “trong một cuộc điều tra cấp quốc gia gần đây về gia
đình, không có cán bộ ở cấp huyện thuộc ngạch Văn hóa, Thể
thao và Du lịch có thể tham dự”. Cán bộ đang nắm giữ các vị trí
thƣờng là cán bộ hành chính có rất ít kỹ năng kỹ thuật để thực
hiện các nhiệm vụ liên quan đến Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình. Rất nhiều ngƣời cho rằng các
nhiệm vụ về Gia đình và bạo lực gia đình là khối lƣợng công
việc bổ sung.
Ở cấp huyện/quận và xã/phƣờng thậm chí có ít cán bộ và
nhiều vấn đề hơn để tập trung giải quyết và một số chịu sự quản
lý của hai Sở là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Sở Thông
tin và Truyền thông. Không có văn bản chính thức hƣớng dẫn
công việc của họ đối với Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình.
Những quyết định liên ngành để hƣớng dẫn các hoạt động về
bạo lực gia đình đang đƣợc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
hoàn thiện. Những quyết định này đã đƣợc xây dựng có sự tham
vấn với rất nhiều cơ quan, tổ chức trong nƣớc và quốc tế.
Kiến thức
Trong số 12 cán bộ của Vụ Gia đình, kiến thức và kinh
nghiệm của họ về Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình là khá khác nhau. Tập huấn đƣợc thực hiện không
thƣờng xuyên và không gắn kết với bất kỳ mục tiêu phát triển
năng lực nào của Vụ. Cho đến nay chƣa có những tập huấn về
bạo lực gia đình cho các lãnh đạo và chuyên viên của Vụ.
Lãnh đạo
Một Kế hoạch hành động quốc gia về Phòng, chống bạo lực
gia đình đã đƣợc xây dựng, tuy nhiên vẫn chƣa đƣợc Thủ tƣớng
45
Chính phủ phê duyệt. Một kế hoạch thay đổi tổ chức thể hiện họ
sẽ quản lý thay đổi nhƣ thế nào để thích ứng với hai luật chƣa
đƣợc đề cập đến. Những phát hiện này cho thấy hai luật không
phải là những ƣu tiên của lãnh đạo cấp cao của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch. Tuy nhiên có bằng chứng cho thấy là cán bộ ở
cấp tỉnh rất cam kết với công việc của họ và có đƣợc sự hỗ trợ
của lãnh đạo.
Trách nhiệm giải trình
Không có số liệu cho thấy liệu có hay không các cơ chế
quản lý hành chính thỏa đáng và các yêu cầu báo cáo để nhân
viên và cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm giải trình đối với việc
thực hiện hai luật, để quan tâm đầy đủ đối với các vấn đề về bạo
lực gia đình và bình đẳng giới và để làm việc với cách thức có
trách nhiệm giới trong công việc hàng ngày.
Thực hiện
Những hƣớng dẫn về sự phối hợp đa ngành trong thực hiện
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hiện đang đƣợc Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch hoàn thiện sau khi lấy ý kiến với rất nhiều
cơ quan cấp Trung ƣơng và quốc tế.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nhân rộng một mô hình
“gia đình văn hóa” để giúp phòng và chống bạo lực gia đình trên
64 tỉnh/thành phố. Các tổ chức quần chúng đã tham gia trong
thực hiện mô hình.
Vụ Gia đình cũng đã thực hiện các chiến dịch về lồng ghép
giới và phát hành những tài liệu truyền thông về bình đẳng giới
để phân phát cho các “câu lạc bộ gia đình văn hóa”. Họ dự kiến
đánh giá chất lƣợng và tác động của những tài liệu này. Vụ Gia
đình chƣa rõ các chiến dịch của họ hiệu quả nhƣ thế nào. Nhìn
chung, có sự lo lắng bị “mất mặt” khi nói đến bạo lực gia đình.
Do vậy, mọi ngƣời thƣờng chấp nhận bạo lực gia đình là chuyện
bình thƣờng và là một quyền của đàn ông. Có rất ít chiến lƣợc
đƣợc thực hiện để khắc phục những lo lắng và sự miễn cƣỡng
thay đổi.
46
Vụ Gia đình cũng đã tổ chức tập huấn về Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình cho cán bộ, nhân viên cấp tỉnh, bao gồm
các cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh/thành phố, huyện/quận và
xã/phƣờng. Tập huấn bao gồm việc hoạch định, giám sát, đánh
giá (sử dụng các chỉ số) và các mô hình khác nhau về Phòng,
chống bạo lực gia đình.
Ở Việt Nam thiếu khủng khiếp các trung tâm tạm lánh. Ở
địa phƣơng các trung tâm bảo trợ xã hội đƣợc sử dụng cho rất
nhiều nhóm yếu thế trong xã hội, chẳng hạn những ngƣời tàn tật,
vô gia cƣ. Những trung tâm này không phù hợp là nơi ở cho các
nạn nhân của bạo lực gia đình.
Không có bằng chứng cho thấy một hệ thống khen thƣởng
của Chính phủ đang đƣợc hình thành nhằm khuyến khích các
cộng đồng thực hiện hai luật. Tuy nhiên, cũng phức tạp khi áp
dụng hệ thống nhƣ thế này. Cán bộ địa phƣơng hiếm khi thảo
luận về bạo lực gia đình ở địa phƣơng của họ vì sự hiện diện của
bạo lực gia đình tại cộng đồng có thể đƣợc hiểu là lãnh đạo cộng
đồng đó đã không thể chỉ đạo và lãnh đạo cộng đồng để có các
“gia đình văn hóa” - một cấu trúc lý tƣởng về gia đình hạnh phúc
đƣợc ghi nhận ở Việt Nam.
Những hình phạt đối với bạo lực gia đình không đƣợc quy
định cụ thể trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình mà chỉ đƣợc
quy định trong các luật dân sự và hình sự. Việc này đƣợc dành
cho quan chức địa phƣơng để xác định phạm vi của trƣờng hợp
bạo lực gia đình và áp dụng pháp luật đƣợc cho là phù hợp nhất.
Giám sát và đánh giá
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch dự kiến thực hiện nghiên
cứu về một số điển hình trong phòng, chống bạo lực gia đình ở
một số tỉnh/thành phố. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đặt
trọng tâm vào gia đình hơn là bạo lực gia đình.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang trong quá trình xác
định một tập hợp các chỉ số để giám sát và đánh giá Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình. Có tài liệu tham khảo về một tập hợp
gồm 78 chỉ số, trong đó có 4 chỉ số đƣợc tạm sử dụng cho bạo
47
lực gia đình. Thu thập số liệu về các chỉ số này đƣợc bắt đầu từ
năm 2009, tuy nhiên rất nhiều cán bộ cảm thấy không đủ kỹ
năng để thực hiện hiệu quả công việc này, vì bạo lực gia đình là
một chủ đề khó để trao đổi thảo luận. Rất nhiều những ngƣời
cung cấp thông tin chính cảm thấy không thoải mái khi nói về
bạo lực tình dục và bạo lực tâm lý. Cũng có rất nhiều chỉ số yêu
cầu thu thập số liệu với rất ít nguồn kinh phí – Tỉnh Thanh Hóa
đã dành 300 triệu đồng từ ngân sách để thu thập số liệu về bạo
lực gia đình.
Báo cáo
Hiện có một quy trình đối với báo cáo hàng năm của Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch lên Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
lên Chính phủ. Các quan chức địa phƣơng sẽ không chỉ báo cáo
về các trƣờng hợp bạo lực gia đình đã bị truy tố trƣớc tòa hoặc
đã bị lập hồ sơ hình sự. Không rõ liệu có bất kỳ tập huấn nào đã
đƣợc tập huấn về công tác báo cáo.
5.1.2. Cấp tỉnh/thành phố
Nhƣ đã giải thích ở phần Phƣơng pháp luận, phần này tập
trung vào hai tỉnh/thành phố: Hà Nội và Bình Dƣơng. Những
phát hiện chính chỉ phản ánh các tổ chức chính quyền địa
phƣơng và không phản ánh đối với bất kỳ một tổ chức phi chính
phủ hoặc tổ chức quần chúng nào vì phân tích dữ liệu ban đầu9
chỉ đƣa ra những tham khảo đối với các tổ chức chính quyền của
địa phƣơng.
Tỉnh Bình Dƣơng
Luật bình đẳng giới - cơ cấu thể chế
Ở tỉnh Bình Dƣơng có một trách nhiệm chung đối với bình
đẳng giới. Tất cả các tổ chức đƣợc điều tra trong tỉnh đều đang
đặt vấn đề bình đẳng giới vào trong chƣơng trình công tác của
mình nhƣng ở các mức độ khá khác nhau.
9. Những lƣu ý từ các Phiên Phản hồi và các Bảng kiểm cuối cùng ở
cấp tỉnh
48
Nhìn chung, không có nhiều những hình thức khích lệ cụ thể
để thực hiện Luật Bình đẳng giới. Những vai trò và trách nhiệm
không rõ ràng giữa các tổ chức và trong một tổ chức cán bộ nhân
viên cảm thấy bị quá tải đối với công việc.
Các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ đã đƣợc hình thành ở cấp
tỉnh cho tới cấp xã và có ngân sách riêng của họ. Tuy nhiên,
năng lực của cán bộ nhân viên cần đƣợc tăng cƣờng để thực
hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo một cách hiệu quả về Luật
Bình đẳng giới.
Không có Ban chỉ đạo đƣợc thành lập cho Luật Bình đẳng
giới. Cơ cấu của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ từ trung ƣơng đến
các cấp cơ sở có thể đƣợc sử dụng để thực hiện, giám sát, đánh
giá và báo cáo về Luật Bình đẳng giới.
Luật Bình đẳng giới - Kiến thức
Những ngƣời cung cấp thông tin chính hầu hết đều nhận
thức đƣợc sự cần thiết đối với Luật Bình đẳng giới.
Tuy nhiên, có rất ít hiểu biết đối với các khái niệm giới và
bản thân luật. Một số cán bộ lãnh đạo và nhân viên không biết rõ
về các khái niệm cơ bản về giới, bình đẳng giới và bạo lực gia
đình. Có sự hiểu nhầm giữa bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của
phụ nữ.
Những tài liệu và công cụ để cán bộ nhân viên trong những
tổ chức chủ chốt làm việc theo một cách thức có trách nhiệm
giới rất hạn chế.
Cán bộ nhân viên sẽ hƣởng lợi từ tập huấn về làm thế nào để
lồng ghép giới vào các văn bản, tài liệu.
Các khóa tập huấn về giới và Luật Bình đẳng giới đƣợc tổ
chức thƣờng ngắn và ôm đồm nhiều chủ đề.
Luật Bình đẳng giới - Lãnh đạo
Sự lãnh đạo với cam kết mạnh mẽ đối với bình đẳng giới
của cán bộ quản lý cấp cao đƣợc thể hiện rõ ở tỉnh và đƣợc đề
cao trong Chỉ thị số 2961 ngày 2 tháng 10 năm 2009 về tăng
cƣờng bình đẳng giới của Tỉnh uỷ. Tỉnh cũng sẽ thành lập Phòng
49
Bình đẳng giới trong Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội vào
năm 2010.
Do vậy không có số liệu đánh giá liệu tỉnh có thực hiện gì
khác không - thay đổi mang tính hỗ trợ và có khích lệ việc học
tập những vấn đề mới - nhƣ vậy các Luật Bình đẳng giới và
Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc thực hiện hiệu quả.
Luật Bình đẳng giới - Thực hiện và điều phối
Tuy nhiên Tỉnh không ở vị thế hợp lý để quản lý và điều
phối thay đổi. Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội hiểu trách
nhiệm của mình là một cơ quan đầu mối, nhƣng không có năng
lực để xây dựng và điều phối một chiến lƣợc thể hiện Tỉnh sẽ
thực hiện Luật Bình đẳng giới nhƣ thế nào.
Tỉnh uỷ có một chƣơng trình vì sự tiến bộ của phụ nữ theo
Nghị quyết số 11, nhƣng không có bằng chứng cho thấy đây là
văn kiện thực hiện Luật Bình đẳng giới.
Các phong trào ở cộng đồng nhƣ “gia đình/khu dân cƣ văn
hoá” đƣợc coi là có tầm quan trọng đặc biệt trong thực hiện
hai luật.
Một số can thiệp dựa vào cộng đồng đang đƣợc các tổ chức
quần chúng thực hiện để đến với ngƣời dân ở cấp cơ sở. Các
hoạt động truyền thông liên quan đến hai luật hầu hết nhằm vào
phụ nữ, không phải nam giới.
Có một số kết quả đáng kể từ phƣơng thức “câu lạc bộ” do
Hội phụ nữ tỉnh hỗ trợ. Ba câu lạc bộ đƣợc đặc biệt lƣu ý là: Câu
lạc bộ “Nam giới để dựa vào”, Câu lạc bộ Phụ nữ và Câu lạc bộ
chủ nhà.
Thiếu các phƣơng tiện thực hiện chức năng đang ngăn cản
những nỗ lực thực hiện chẳng hạn nhƣ máy tính và tiếp cận
internet.
Luật Bình đẳng giới - Trách nhiệm giải trình, báo cáo,
giám sát và đánh giá
Không có cơ chế báo cáo dành riêng đối với Luật Bình đẳng
giới ở tỉnh, tuy nhiên, cán bộ đƣợc yêu cầu lồng ghép các vấn đề
50
giới vào tất cả các báo cáo thƣờng xuyên của họ. Không có một
cơ chế báo cáo riêng nắm đƣợc thực trạng bình đẳng giới.
Ở tỉnh có ít những khuyến khích quan tâm đến Luật Bình
đẳng giới, tuy nhiên, một số Sở/ngành có đƣa một chỉ số bình
đẳng giới vào trong đánh giá hoàn thành công việc hàng năm của
cá nhân và tổ chức.
Có rất ít các hoạt động giám sát và đánh giá và không có
một tập hợp các chỉ số.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Cơ cấu thể chế
Trong chính quyền tỉnh Bình Dƣơng có một trách nhiệm
chung đối với bạo lực gia đình. Tỉnh đã thành lập một Ban chỉ
đạo, xây dựng đề án và ba phƣơng thức để ngăn chặn bạo lực gia
đình: Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Nếp sống Gia đình
Văn hoá và Đạo lý Gia đình.
Ngoài Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, các Sở, ngành khác
của tỉnh không rõ về các vai trò và trách nhiệm trong các công
việc hàng ngày của mình đối với Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Có rất ít bằng chứng cho thấy có một cơ chế hỗ trợ các
Sở/ngành của tỉnh để tập trung giải quyết điều này hoặc làm rõ
các chức năng cụ thể của họ.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Kiến thức
Các kết quả của thảo luận nhóm trọng tâm đã cho thấy có
những hiểu biết cơ bản về các khái niệm bạo lực gia đình và về
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Có nhận thức và khả năng
để phân biệt các hình thức của bạo lực gia đình, chẳng hạn bạo
lực tình dục, bạo lực thể xác và bạo lực kinh tế.
Tất cả các tổ chức đƣợc phỏng vấn đều nhận thức đƣợc về
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nhƣng không rõ liệu họ có
nhận thức đƣợc phạm vi chính sách có đƣợc từ Luật.
Có rất ít bằng chứng cho thấy cán bộ cấp tỉnh có công cụ và
kiến thức để làm việc theo cách thức nhạy cảm và có trách nhiệm
giới đối với bạo lực gia đình. Còn thiếu các kỹ năng về truyền
thông và tham vấn.
51
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Lãnh đạo
Sự lãnh đạo với cam kết mạnh mẽ đƣợc thể hiện trong thực
tế là tỉnh đã xây dựng một đề án ngăn ngừa bạo lực gia đình cho
giai đoạn 2006-2010. Phòng Gia đình và nếp sống văn hoá trong
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch cũng đã đƣợc thành lập.
Không có số liệu đƣợc thu thập để đánh giá văn hoá của tổ
chức của mỗi một cơ quan đƣợc phỏng vấn. Do vậy không có số
liệu để đánh giá liệu tỉnh có thực hiện gì khác không - thay đổi
mang tính hỗ trợ và có khích lệ việc học tập những vấn đề mới -
nhƣ vậy các luật bình đẳng giới và Phòng, chống bạo lực gia
đình đƣợc thực hiện hiệu quả.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Thực hiện, điều
phối và các hệ thống đổi mới
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, cơ quan đầu mối ở tỉnh
trong thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, đã thực hiện
các hoạt động truyền thông về Luật này cũng nhƣ điều phối các
Sở/ngành khác và các tổ chức quần chúng trong thực hiện Luật.
Vô số các hoạt động cũng đã đƣợc thực hiện nhằm nâng cao
nhận thức về Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Nhƣ đã nêu ở trên, các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ đã đƣợc
hình thành ở Tỉnh cho đến tập cấp xã với dòng ngân sách riêng.
Tuy nhiên, năng lực của cán bộ cần đƣợc tăng cƣờng để thực
hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình.
Các phong trào ở cộng đồng nhƣ “gia đình/khu dân cƣ văn
hoá” đƣợc coi là có tầm quan trọng đặc biệt trong thực hiện
hai luật.
Phản hồi từ cấp cơ sở và các tổ chức quần chúng đến Chính
phủ về hai luật chƣa đƣợc vận hành. Các Sở/ngành ở tỉnh cần cởi
mở để tiếp nhận phản hồi về những gì phù hợp đối với cơ sở và
những gì chƣa phù hợp với cơ sở và phải sẵn sàng đáp ứng, điều
chỉnh và thay đổi.
Có một số kết quả đáng kể từ phƣơng thức “câu lạc bộ” do
Hội phụ nữ tỉnh hỗ trợ. Ba câu lạc bộ đƣợc đặc biệt lƣu ý là: Câu
52
lạc bộ “Nam giới để dựa vào”, Câu lạc bộ của Phụ nữ và Câu lạc
bộ chủ nhà.
Các toà án lƣu động đã đƣợc nhận biết với tiềm năng mở
rộng cách thức xét xử các trƣờng hợp bạo lực gia đình. Ngoài ra,
các cuộc đua tranh đã đƣợc nhận biết vì có tiềm năng đa dạng
hóa cách thức mà các hoạt động truyền thông đƣợc thực hiện.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Trách nhiệm giải
trình và báo cáo
Ở tỉnh có những cơ chế quản lý hành chính và các yêu cầu
báo cáo không tƣơng xứng để đòi hỏi cán bộ nhân viên có trách
nhiệm giải trình về Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Ví dụ,
các toà án cho đến nay chỉ áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình
và Luật Hình sự trong xét xử các trƣờng hợp về bạo lực gia đình
mà không tham khảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hoặc
bất kỳ hƣớng dẫn hoặc quy chế đƣợc ban hành đối với bạo lực
gia đình.
Báo cáo về bạo lực gia đình của các Sở/ngành và các tổ chức
trong tỉnh đều sơ sài. Trong khi Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch
nhận đƣợc một bộ chỉ số về bạo lực gia đình, nhƣng trong tỉnh
lại không có cơ chế thu thập số liệu một cách tổng hợp và mang
tính điều phối về bạo lực gia đình. Ví dụ, các Toà án không có
hồ sơ về các trƣờng hợp bạo lực gia đình (thậm chí những trƣờng
hợp nhƣ vậy đang tồn tại ở cả các Toà án hình sự và dân sự) -
Toà án Tối cao chƣa có hƣớng dẫn để thực hiện điều đó. Các
bệnh viện không có quy trình sàng lọc tại chỗ để phân loại các
chấn thƣơng của bạo lực gia đình từ những “chấn thƣơng liên
quan đến mâu thuẫn” khác do vậy không có các hồ sơ về bạo lực
gia đình đƣợc lƣu giữ.
Có một số khen thƣởng cho việc thực hiện Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình nhƣng những chi tiết cho khen thƣởng
không đƣợc quy định. Không có bằng chứng về bất kỳ hậu quả
nào do thiếu trách nhiệm trong thực hiện Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình.
53
Thành phố Hà Nội - những khoảng trống về năng lực
Luật Bình đẳng giới - Cơ cấu thể chế
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đã không hƣớng dẫn
chi tiết việc thực hiện Nghị định số 70 về thực hiện Luật Bình
đẳng giới. Tuy nhiên, những hƣớng dẫn sau đây đã đƣợc Thành
phố Hà Nội ban hành10
:
Hƣớng dẫn số 2846/UBND-VX của Ủy ban Nhân dân
Thành phố năm 2007 về hƣớng dẫn thực hiện Nghị định
số 70 về thực hiện Luật Bình đẳng giới.
Hƣớng dẫn số 3796/UBND-VX của Ủy ban Nhân dân
Thành phố năm 2008 về việc thực hiện của Chính quyền
đối với hƣớng dẫn của Nghị định số 48 về Luật Bình đẳng
giới.
Hƣớng dẫn số 5027/UBND-VX của Ủy ban Nhân dân
Thành phố năm 2008 về việc thực hiện Hƣớng dẫn thực
hiện của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội về Luật
Bình đẳng giới.
Theo số liệu có đƣợc, Uỷ ban Nhân dân Thành phố và các
Sở/ngành đã không xây dựng những hƣớng dẫn cụ thể hoặc
thông tin về làm thế nào để lồng ghép giới vào quá trình chính
sách, tổ chức, kế hoạch, chƣơng trình hoặc dự án.
Cũng không có những quy định về ai chịu trách nhiệm về
vấn đề giới trong các cơ quan. Trong đội ngũ cán bộ nhân viên
của Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội có thể có cán bộ chịu
trách nhiệm về bình đẳng giới, nhƣng không có cán bộ chịu trách
nhiệm về bình đẳng giới ở cấp quận và phƣờng.
10. Một danh sách dài những văn bản chính (các chiến lƣợc, các luật,
nghị định) đã đƣợc nhóm nghiên cứu thu thập để đƣa ra một bản mô tả chi
tiết khung chính sách đƣợc dựa trên đó để thực hiện luật. Trong danh sách
này không có chiến lƣợc hoặc kế hoạch hành động để thực hiện Luật Bình
đẳng giới ở cấp Quốc gia hoặc cấp tỉnh/thành phố.
54
Các vai trò và trách nhiệm tƣơng ứng với việc thực hiện đã
cho thấy nhƣ sau: Uỷ ban Nhân dân Thành phố giao Ban vì sự
tiến bộ phụ nữ tham mƣu xây dựng những hƣớng dẫn và Sở Lao
động – Thƣơng binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nƣớc thực
hiện Luật Bình đẳng giới. Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội
đã giao cho Phòng Hành chính và Kế hoạch của mình chịu trách
nhiệm với một cán bộ đƣợc giao công tác bình đẳng giới. Các
Sở/ngành khác không có cán bộ chịu trách nhiệm về giới. Các
Ban vì sự tiến bộ phụ nữ đã đƣợc thành lập ở tất cả các Sở/ngành
và đóng vai trò là cơ quan tham mƣu về bình đẳng giới. Các Ban
vì sự tiến bộ phụ nữ trong các Bộ chủ chốt và các địa phƣơng là
những cơ quan tham mƣu cho lãnh đạo của họ trong việc thực
hiện các chỉ thị của Đảng và Nhà nƣớc về bình đẳng giới trong
những lĩnh vực và địa phƣơng tƣơng ứng. Những thành viên của
Ban vì sự tiến bộ phụ nữ là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
các Sở/ngành, nhƣng họ lại có quá nhiều công việc thuộc lĩnh
vực của họ và vì vậy có rất ít thời gian dành cho trách nhiệm của
họ đối với Ban vì sự tiến bộ phụ nữ. Những thành viên của Ban
vì sự tiến bộ phụ nữ cũng phối hợp với Ban nữ công hoặc trong
công việc của các Sở/ngành khác và họ cũng cho rằng công việc
của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ là công việc bổ sung thêm cho công
việc trọng tâm của họ.
Không có hệ thống ban hành các khen thƣởng và hình phạt
(những khuyến khích và những trừng phạt) để khuyến khích cán
bộ nhân viên thực hiện Luật Bình đẳng giới một cách hiệu quả.
Không có cơ chế đối với các hình phạt liên quan đến việc vi
phạm Luật Bình đẳng giới.
Luật Bình đẳng giới - Tạo nguồn lực
Có rất ít cán bộ làm việc liên quan đến Luật Bình đẳng giới.
Các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ vận hành với nguồn ngân sách hạn
hẹp chỉ đủ cho các hoạt động tập huấn và truyền thông. Các cơ
quan khác không có nguồn quỹ để hỗ trợ những sáng kiến về
bình đẳng giới.
55
Luật Bình đẳng giới - Lãnh đạo
Rất nhiều cán bộ nhìn nhận giới nhƣ là “những vấn đề của
phụ nữ”. Chẳng hạn, các hoạt động có khuynh hƣớng đƣợc tập
trung vào phụ nữ thay vì lồng ghép giới vào các hoạt động, chính
sách và chƣơng trình. Các cán bộ lãnh đạo không coi bình đẳng
giới là một ƣu tiên, hầu hết thƣờng giao những công việc về bình
đẳng giới sang cho Ban nữ công hoặc Ban vì sự tiến bộ phụ nữ.
Luật Bình đẳng giới - Kiến thức
Bình đẳng giới là một vấn đề mới đối với Sở Lao động -
Thƣơng binh và Xã hội. Hầu nhƣ tất cả các Sở/ngành và các tổ
chức quần chúng, trừ Mặt trận Tổ quốc, của thành phố đều đƣợc
tập huấn về giới. Những ngƣời đƣợc tập huấn về giới đều nhận
thức đƣợc những khác biệt về giới nhƣng họ không biết làm thế
nào lồng ghép giới vào các chƣơng trình và chính sách của mình.
Chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố cũng
chƣa đƣợc lồng ghép giới. Cũng không có hƣớng dẫn hoặc thông
tin làm thế nào để lồng ghép giới vào quá trình chính sách. Rất
nhiều cán bộ nhân viên vẫn coi các vấn đề giới là những vấn đề
chỉ của phụ nữ.
Những cán bộ nhân viên đƣợc tập huấn về giới không biết
làm thế nào để xây dựng một kế hoạch hoặc một chiến lƣợc về
bình đẳng giới cũng nhƣ xây dựng một hệ thống giám sát và
đánh giá để giúp quản lý và báo cáo về bình đẳng giới. Trung
ƣơng Hội liên hiệp phụ nữ có các kiến thức về giới và lồng ghép
giới thông qua các tập huấn từ tổ chức Plan International. Plan
International cũng đã hỗ trợ Trung ƣơng Hội liên hiệp phụ nữ tổ
chức tập huấn nội bộ cho các cán bộ nhân viên của mình để xây
dựng các “câu lạc bộ về bình đẳng giới” và phát triển các tài liệu
lồng ghép cho cấp cơ sở. Uỷ ban Nhân dân đang lên kế hoạch
thực hiện tập huấn về Luật Bình đẳng giới cho các cán bộ chủ
chốt của các Sở/ngành.
Rất nhiều ngƣời đƣợc phỏng vấn quan tâm đến năng lực của
tổ chức của họ đối với lồng ghép giới vào văn bản quy phạm
pháp luật và chính sách. Họ cho rằng điều này một phần là do
56
thiếu số liệu tách biệt về giới tính và thống kê giới, nhƣng chủ
yếu là do không có một kế hoạch hành động để thu hút các hoạt
động và thực tế là các khái niệm về giới vẫn chƣa thay thế khái
niệm về sự tiến bộ của phụ nữ. Bình đẳng giới vẫn là một khái
niệm trừu tƣợng khó đƣa vào một loạt các hoạt động cụ thể.
Luật Bình đẳng giới - Trách nhiệm giải trình
“Trách nhiệm giải trình” chƣa là một nguyên tắc bao trùm
lên văn hoá của các tổ chức của Chính phủ mặc dầu các cán bộ
nhân viên đều quan tâm đến trách nhiệm giải trình của họ đối với
việc thực hiện Luật Bình đẳng giới. Không có hƣớng dẫn thế nào
là “có trách nhiệm giải trình”. Mặt trận Tổ quốc Hà Nội là một
cơ quan nhận đƣợc những khiếu nại liên quan đến bình đẳng giới
của ngƣời dân. Họ chuyển báo cáo lên Uỷ ban Nhân dân và
Thành uỷ. Tuy nhiên, phản hồi trái chiều không xảy ra - Mặt trận
Tổ quốc không nhận đƣợc những báo cáo thƣờng xuyên từ Uỷ
ban Nhân dân và Thành uỷ cũng nhƣ bất kỳ phản hồi nào liên
quan đến khiếu nại của ngƣời dân về bình đẳng giới.
Luật Bình đẳng giới - Giám sát, đánh giá và báo cáo
Không có những đòi hỏi chi tiết đối với giám sát, đánh giá
và báo cáo về bình đẳng giới. Uỷ ban Nhân dân báo cáo về thúc
đẩy bình đẳng giới và thực hiện Luật Bình đẳng giới lên Uỷ ban
các vấn đề xã hội của Quốc hội. Tuy nhiên, các báo cáo tiến độ
sáu tháng một lần về bình đẳng giới không chỉ ra những thành
tựu về bình đẳng giới vì Thành phố Hà Nội đã lồng ghép các chỉ
tiêu của Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ vào
các kế hoạch hàng năm của các Sở/ngành và gọi đó là các chỉ
tiêu về bình đẳng giới. Điều này cho thấy những báo cáo tiến độ
về bình đẳng giới trên thực tế dựa vào số liệu từ các hoạt động vì
sự tiến bộ phụ nữ.
Rất ít các hoạt động giám sát đƣợc thực hiện và hiện không
có một hệ thống giám sát thống nhất. Một ngƣời cung cấp
thông tin chính lƣu ý rằng nếu các chỉ tiêu tồn tại, chúng dƣờng
nhƣ là của nƣớc ngoài và không phù hợp với bối cảnh của Việt
57
Nam. Không có những mẫu báo cáo cụ thể và không rõ là báo
cáo lên ai.
Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đã phê duyệt Số liệu
Thống kê Bình đẳng giới giai đoạn 2008-2010 và đã ban hành
hƣớng dẫn thực hiện, chẳng hạn tập huấn cho giảng viên nguồn
(TOT). Tuy nhiên, chỉ có Ban vì sự tiến bộ phụ nữ của Hà Nội
nhận thức đƣợc về bộ số liệu thống kê này. Thành phố không có
một cơ sở dữ liệu đƣợc phân tách theo giới tính và các số liệu
thống kê giới. Ngân sách dành cho bình đẳng giới đƣợc dành
trực tiếp cho các hoạt động tập huấn và truyền thông. Có đánh
giá năng lực nhƣng không nhất thiết hƣớng vào thực hịên hai
luật mới.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - cơ cấu thể chế
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đƣợc giao điều phối việc
thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ở cấp thành phố.
Sở đã trình một đề án thành lập Ban Chỉ đạo về Phòng, chống
bạo lực gia đình lên Uỷ ban Nhân dân Thành phố. Uỷ ban Nhân
dân Thành phố Hà Nội không có bất kỳ một hƣớng dẫn nào đối
với việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (Nghị
định số 08 hoặc Chỉ thị 16), mặc dù có một loạt các chỉ thị, quyết
định và quy chế liên quan đến bạo lực gia đình11
(xem Mẫu 13
Thành phố Hà Nội đối với một danh mục – Phụ lục 2). Không có
Sở/ngành nào, bao gồm cả Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội
có kế hoạch cụ thể để phòng và chống bạo lực gia đình. Sở Văn
hoá, Thể thao và Du lịch ban hành hƣớng dẫn việc thu thập số
liệu, nhƣng không hƣớng dẫn về giám sát, đánh giá và báo cáo
việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Cán bộ nhân
viên hoạt động với rất ít hƣớng dẫn và chỉ đạo của quản lý cấp
cao hơn.
11. Ví dụ Quyết định số 1960 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
ngày 27/5/2009 về việc thành lập Ban Quản lý Chƣơng trình “Nâng cao năng
lực cho các cơ quan của Nhà nƣớc và các tổ chức xã hội trong thực hiện,
giám sát, đánh giá và báo cáo về Luật Phòng chống bạo lực gia đình”.
58
Sở Y tế bắt đầu quá trình thực hiện Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình bằng cách ban hành Thông tƣ số 16 về quy trình
chăm sóc nạn nhân của bạo lực gia đình ở các trung tâm y tế và
lƣu giữ các hồ sơ về các trƣờng hợp đƣợc báo cáo nhận đƣợc từ
các trung tâm y tế. Tuy nhiên, cán bộ nhân viên y tế không có
những kỹ năng đầy đủ để thực hiện công việc này.
Một mẫu điều tra về bạo lực gia đình (theo yêu cầu của
Quyết định số 238 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã
đƣợc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch phát cho các đơn vị của
mình ở cấp phƣờng. Sở Thông tin và các Toà án cũng tuyên
truyền phổ biến Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cho cán bộ
nhân viên của mình.
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đang điều chỉnh cơ cấu
tổ chức của mình sau khi tiếp nhận một phần của Ủy ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em khi Ủy ban bị giải thể vào năm 2008.
Việc sáp nhập Hà Tây vào Thành phố Hà Nội cũng làm tăng
thêm khối lƣợng công việc về tái tổ chức. Những chức năng và
trách nhiệm nội bộ không rõ ràng và không đủ chi tiết. Công
an và các Tòa án có rất ít năng lực để hình thành một cơ chế
xử phạt những ngƣời vi phạm luật - các văn bản hƣớng dẫn rất
chung chung và không chi tiết ai chịu trách nhiệm việc gì. Tuy
nhiên, những vai trò giữa mỗi cơ quan dƣờng nhƣ rõ ràng hơn,
chẳng hạn:
Ban Gia đình văn hóa (Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch)
chịu trách nhiệm thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình;
Ủy ban Nhân dân các cấp gửi báo cáo về phòng, chống
bạo lực gia đình lên cấp Ủy ban cao hơn trƣớc ngày 15
tháng 12;
Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm
trình báo cáo cuối cùng lên Bộ Văn hoá, Thể thao và
Du lịch;
Các trung tâm chăm sóc y tế (công và tƣ) chịu trách
nhiệm thực hiện chăm sóc y tế đối với các nạn nhân của
59
bạo lực gia đình và lƣu giữ hồ sơ vì mục đích thống kê.
Cán bộ nhân viên Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch bị quá tải
về công việc và chịu trách nhiệm về quá nhiều vấn đề. Không có
một cá nhân cụ thể chịu trách nhiệm về phòng, chống bạo lực gia
đình. Cán bộ nhân viên ở cấp cơ sở không nhận thức đƣợc về
trách nhiệm của mình trong phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo
lực gia đình vẫn đƣợc coi là một vấn đề gia đình đƣợc gia đình
hoặc Hội phụ nữ giải quyết.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Thực hiện
Hầu hết các hoạt động đƣợc thực hiện cho đến nay đều tập
trung vào truyền thông và nâng cao nhận thức, bao gồm hình
thành một hệ thống thi đua và khen thƣởng. Hệ thống khen
thƣởng này đƣợc một Ban Chỉ đạo chỉ đạo việc xây dựng một
“Nếp sống văn hóa”. Họ cấp bằng khen cho những khu phố dựa
trên các tiêu chí để thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Trong một “gia đình văn hóa” không có bạo lực gia đình,
tƣơng tự đối với một gia đình có hai con - có con thứ ba không
đƣợc coi là một “gia đình văn hóa”. Không đề cập đến những
hoạt động tập trung vào việc thực hiện các giải pháp pháp lý gắn
với luật.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Tạo nguồn lực
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đang trong giai đoạn tái cơ
cấu và không tập trung vào cải thiện chất lƣợng nguồn nhân lực
của mình để thực hiện tốt hơn Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch không có đủ cán bộ nhân
viên để thu thập số liệu về phòng, chống bạo lực gia đình. Chƣa
có ngân sách dành cho việc thu thập số liệu, giám sát, đánh giá
và báo cáo về phòng, chống bạo lực gia đình.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình – Lãnh đạo
Những kết quả của thảo luận nhóm trọng tâm và phỏng vấn
sâu cho thấy rất nhiều các cán bộ lãnh đạo của phƣờng, những
ngƣời quan trọng nhất thực hiện luật theo Nghị định số 08 của
Thủ tƣớng Chính phủ đang làm việc về phòng, chống bạo lực gia
đình. Tuy nhiên, bạo lực gia đình vẫn đƣợc coi là một vấn đề
60
riêng tƣ đối với gia đình và vì vậy không có một ƣu tiên đối với
Thành phố. Vai trò tham mƣu của Sở Văn hoá, Thể thao và Du
lịch còn yếu.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Kiến thức
Các cán bộ Nhà nƣớc ở tất cả các Sở/ngành đều biết về Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình, không chỉ bạo thực thể xác mà
còn cả bạo lực tâm lý và tình dục và còn hiểu đƣợc những trở
ngại trong báo cáo về bạo lực gia đình. Nhận thức của cán bộ
Nhà nƣớc ở cấp phƣờng tuy nhiên vẫn còn thấp.
Cán bộ nhân viên của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch và
Sở Y tế đã có kinh nghiệm trong hình thành các mô hình phòng,
chống bạo lực gia đình từ những dự án đƣợc thực hiện trƣớc khi
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc thông qua. Tuy nhiên,
nhận thức của cán bộ ngành y - những ngƣời chăm sóc trực tiếp
những nạn nhân của bạo lực gia đình và chịu trách nhiệm báo
cáo về các trƣờng hợp bạo lực gia đình vẫn còn thấp. Đó là do
rất nhiều trong số họ chƣa đƣợc tập huấn lần nào.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Giám sát và đánh giá
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch có một bộ chỉ số về bạo lực
gia đình nhƣng chƣa có hƣớng dẫn sử dụng các chỉ số này nhƣ thế
nào. Có các hƣớng dẫn và các mẫu để thu thập số liệu, báo cáo và
quản lý trƣờng hợp đối với các nạn nhân bạo lực gia đình mặc dù
cán bộ nhân viên chƣa đƣợc tập huấn sử dụng chúng. Không có
một cơ sở dữ liệu về bạo lực gia đình và cán bộ nhân viên chƣa có
những kỹ năng phù hợp để phát triển cơ sở dữ liệu này.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Trách nhiệm giải trình
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Sở Y tế chƣa báo cáo về
việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Đó là do luật
tƣơng đối mới và Thành phố Hà Nội chƣa có một Kế hoạch hành
động về phòng, chống bạo lực gia đình. Sở Thông tin và các Tòa
án báo cáo về bạo lực gia đình nhƣ một phần của quá trình báo
cáo chung.
61
5.2. Các tổ chức quần chúng
5.2.1. Cấp trung ương
Phần này là một tóm tắt các phân tích đã đƣợc Viện Gia
đình và Giới thực hiện đối với hai thảo luận nhóm trọng tâm với
các tổ chức quần chúng ở cấp Trung ƣơng, đầu tiên với Hội
Nông dân Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và
Trung ƣơng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và thứ hai
với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Trung ƣơng Hội liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam.
Cơ cấu thể chế
Không có một kế hoạch và cơ chế thực hiện cụ thể, vì vậy
rất khó khăn để thực hiện hai luật một cách hiệu quả. Các hoạt
động không đƣợc thực hiện mang tính hệ thống từ trung ƣơng
đến cơ sở.
Các vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên khác đã đƣợc đề cập trong hai luật nhƣng chƣa đủ
cụ thể.
Thực hiện và phối hợp
Rất nhiều hoạt động đƣợc thực hiện dựa trên các khái niệm
vì sự tiến bộ phụ nữ hơn là các khái niệm bình đẳng giới.
Cơ chế phối hợp hiện hành không tận dụng hết năng lực của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thiếu một hệ thống tại chỗ để hỗ trợ các nạn nhân của bạo
lực gia đình. Các trung tâm tạm lánh đƣợc quy định trong Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình không phù hợp với bối cảnh
Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có những vai trò và trách nhiệm
đặc biệt đối với hai luật (Điều 29 Luật Bình đẳng giới và Điều 33
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình), nhƣng Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam không biết làm thế nào để thực hiện các vai trò và
trách nhiệm của mình. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình thông qua các hoạt động hòa
giải ở cấp cơ sở.
62
Lãnh đạo
Có ba bộ phận trong Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
chịu trách nhiệm thực hiện các luật - Ban Nữ công, Phòng Bình
đẳng giới và Trung tâm Dân số. Tuy nhiên không có sự lãnh đạo
và chỉ đạo trong Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hƣớng dẫn
xây dựng các tiến trình để hỗ trợ thực hiện các luật.
Kiến thức
Rất nhiều cá nhân ở Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tin
tƣởng rằng công việc của Ban Nữ công chỉ về phụ nữ. Nhận thức
về các vấn đề giới rất thấp ở Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
và họ đấu tranh để lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động lồng
ghép giới. Đã có phiên tập huấn về giới và lồng ghép giới đƣợc
Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ tài trợ. 5000 cán bộ
của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đƣợc tập huấn trong
hai năm 2008-2009 nhƣng chỉ có 10% đƣợc đánh giá là những
tập huấn viên có năng lực tập huấn cho giảng viên nguồn.
Số liệu này cho thấy các cán bộ lãnh đạo của Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam vẫn còn miễn cƣỡng đối với tập huấn
về giới. Những khởi điểm khác qua đó thảo luận về giới cần
đƣợc xác định.
Giám sát và đánh giá
Có một cơ chế giám sát về phúc lợi đối với lao động nữ ở
cấp cơ sở của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Không có đội giám sát tại chỗ trong Trung ƣơng Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng nhƣ không có một kế hoạch
hành động đối với cả hai luật. Không có những tiêu chí đánh giá
để đo đếm hiệu quả của việc thực hiện. Không có cơ sở dữ liệu
đƣợc hình thành để thu thập thông tin về hai luật.
5.2.2. Cấp tỉnh/thành phố
Phần này tóm tắt những hạn chế chính về năng lực của các
tổ chức quần chúng từ các thảo luận nhóm trọng tâm của bốn
tỉnh/thành phố: Bình Dƣơng, Hà Nội, Hà Nam, Thái Bình.
63
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Thực hiện
Các tỉnh/thành phố đang ở những giai đoạn khác nhau của
quá trình thực hiện. Ví dụ: Bình Dƣơng bắt đầu các hoạt động về
bạo lực gia đình tƣơng đối sớm thông qua hỗ trợ xây dựng một
bộ cẩm nang ngăn chặn bạo lực gia đình. Tuy nhiên, rất nhiều
hoạt động ngăn ngừa bạo lực gia đình hiện nay chỉ nhằm vào phụ
nữ, mà không phải nam giới. Không rõ tại sao lại nhƣ vậy.
Luật đƣợc phổ biến rộng rãi nhƣng tham khảo luật vẫn còn
rất hạn chế trong công việc của các chuyên gia tƣ vấn. Họ vẫn
phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức và kinh nghiệm của bản thân.
Điều này cho thấy kiến thức và kinh nghiệm của chuyên gia tƣ
vấn không đủ để thực hiện hiệu quả Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình.
Hầu hết các cơ quan hoạt động tách rời nhau, dựa chủ yếu
vào năng lực của bản thân và cam kết thực hiện luật.
Cán bộ nhân viên bị quá tải ở cấp cơ sở và không thể thực
hiện các trách nhiệm liên quan đến Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình.
Khó để tiếp cận đối với các nạn nhân của bạo lực gia đình.
Điều này trƣớc hết là do các nạn nhân không nhận thức đƣợc
tình trạng bị tổn thƣơng của mình và thƣờng miễn cƣỡng phối
hợp với các cơ quan chức năng.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Kiến thức
Nhìn chung, các kỹ năng và kiến thức chuyên môn về bạo
lực gia đình còn thấp và không đủ để thực hiện luật một cách
hiệu quả.
Cán bộ nhân viên của Hội phụ nữ tỉnh đƣợc tập huấn về
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nhƣng hầu nhƣ cán bộ
nhân viên của Tòa án hoặc của Ủy ban Nhân dân không đƣợc
tập huấn.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Tạo nguồn lực
Kinh phí dành cho các hoạt động nâng cao nhận thức, tập
64
huấn và giám sát đƣợc cho là rất thấp. Để duy trì, nhân rộng và
đa dạng hóa các hoạt động ngăn ngừa bạo lực gia đình cần có
một sự đầu tƣ lớn hơn.
Cán bộ nhân viên hỗ trợ các “câu lạc bộ” đang làm việc một
cách tự nguyện không có chế độ phụ cấp.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Giám sát và đánh giá
Không có cơ chế giám sát việc thực hiện luật. Điều này đã
ngăn cản các tổ chức quần chúng thực hiện chức năng giám sát
của họ.
Không có cơ chế chia sẻ kinh nghiệm và khuyến khích học
hỏi giữa các đối tác thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Điều này đã ảnh hƣởng đến chất lƣợng của việc thực hiện
công việc cho đến nay.
Các hoạt động giám sát, đánh giá và báo cáo vẫn còn yếu,
không có thông tin những gì đã làm và chƣa làm để tác động lên
việc thiết kế pha tiếp theo của các hoạt động.
Luật Bình đẳng giới
Luật Bình đẳng giới - Thực hiện
Những chiến lƣợc hiện hành đang đƣợc các tổ chức quần
chúng sử dụng để thúc đẩy luật đang đóng một vai trò quan trọng
ở tỉnh và nên đƣợc hỗ trợ để tổ chức thực hiện tốt hơn.
Luật Bình đẳng giới - Tạo nguồn lực
Rất hạn chế về nguồn lực đƣợc phân bổ cho các hoạt động
truyền thông, tập huấn và giám sát liên quan đến thực hiện luật.
Những ngƣời tham gia vào hoạt động của các “câu lạc bộ”
hầu nhƣ trên cơ sở tự nguyện.
Luật Bình đẳng giới - Kiến thức
Nhìn chung, cán bộ nhân viên chịu trách nhiệm đối với việc
thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo có rất ít hiểu biết về luật
và thiếu những kỹ năng cần thiết để thực hiện luật hiệu quả.
Các cán bộ nhân viên của các tổ chức quần chúng bị hạn chế
trong tiếp cận thông tin và các văn bản liên quan đến Luật Bình
đẳng giới và các Nghị định thực hiện.
65
Rất nhiều cán bộ nhân viên, bao gồm cả các cán bộ lãnh đạo
ở các tổ chức địa phƣơng không nhận thức đƣợc tầm quan trọng
của Luật Bình đẳng giới.
Các kỹ năng để giám sát và lồng ghép giới vào các hoạt
động thƣờng xuyên vẫn còn thấp, đặc biệt ở cấp cơ sở.
Có một khoảng cách lớn trong kiến thức và kinh nghiệm về
các vấn đề bình đẳng giới giữa Hội Phụ nữ và các Ban vì sự tiến
bộ của phụ nữ và Mặt trận Tổ quốc và Đoàn thanh niên, tạo nên
một khó khăn khi cùng thảo luận về những vấn đề này.
Một số cán bộ nhân viên không biết các cơ quan chịu trách
nhiệm thúc đẩy bình đẳng giới.
Luật Bình đẳng giới - Giám sát và đánh giá
Nhìn chung, các tổ chức quần chúng cảm thấy đầy thách
thức để thực hiện các vai trò và trách nhiệm của mình mà không
có một hệ thống giám sát chức năng. Mặt trận Tổ quốc phát hiện
thấy giám sát và đánh giá là đặc biệt khó vì bản thân Mặt trận có
chức năng giám sát luật.
Không có những chỉ số cụ thể để thúc đẩy bình đẳng giới, cán
bộ nhân viên thấy khó để thực hiện hiệu quả công việc của mình.
Công việc giám sát hầu nhƣ đƣợc dựa trên kinh nghiệm thực
hiện công việc và không có tập huấn và bằng cấp cụ thể.
6. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CHUNG
Phần này nêu ra những khuyến nghị chủ yếu mang tính
chiến lƣợc để tăng cƣờng năng lực và khắc phục những hạn chế
phổ biến đối với tất cả các tổ chức đƣợc đánh giá theo lĩnh vực
công tác và do vậy tăng cƣờng việc thực hiện hai luật. Mỗi một
khuyến nghị dƣới đây giải quyết một mặt yếu kém tƣơng ứng về
tổ chức nêu trong Phần 4.
6.1. Cơ cấu thể chế
1) Nhận biết tất cả những kẽ hở trong các Nghị định
Một phân tích thấu đáo các Nghị định đƣợc khuyến nghị để
66
nêu bật những kẽ hở đang tồn tại và giúp bắt đầu một quá trình
chỉnh sửa các Nghị định đó. Phân tích này nên bao hàm cả việc
đƣa ra những thể chế chính và tất cả những mối liên kết đa dạng
và phụ thuộc lẫn nhau. Kết quả cuối cùng nên là một ma trận chỉ
rõ các vai trò và quyền ra quyết định ảnh hƣởng nhƣ thế nào lên
việc thực hiện mỗi luật. Những cơ quan tổ chức sau đây nên là
một phần của đánh giá này:
Những cơ quan ban hành chính sách (Chính phủ, Quốc
hội, cơ quan Đảng).
Những cơ quan chịu trách nhiệm chính (các Bộ).
Các cơ quan thực hiện (các Vụ/Ban/Cục).
Những cơ quan phối hợp (tổ chức quần chúng, các tổ
chức phi chính phủ).
Các mô hình/thực tiễn hiện hành (câu lạc bộ).
Các cơ quan/dự án quốc tế.
Một xuất phát điểm chính có thể là danh mục những
trách nhiệm lớn hơn của mỗi một cơ quan thực hiện chính đối
với việc thực hiện mỗi luật ở Việt Nam.12
Điều này cũng nên
đƣợc tham khảo chéo với phân tích của Viện Gia đình và
Giới tại Hội thảo về Báo cáo Đánh giá Năng lực tổ chức
tháng 12 năm 2009.
2) Làm rõ các vai trò và trách nhiệm trong và giữa các tổ
chức
Các vai trò và trách nhiệm phải đƣợc quy định một cách
cụ thể, phù hợp và mang tính thực tiễn, đƣợc đƣa vào kế
hoạch công tác của mỗi một Vụ/Ban (và mỗi một kế hoạch
12. Có một danh mục bổ ích những vai trò và trách nhiệm chính của
các cơ quan/tổ chức chính về lồng ghép giới đƣợc nêu trong Tài liệu Hƣớng
dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực hiện chính sách quốc gia, Hà
Nội năm 2008. Danh mục này tất nhiên cần phải đƣợc tham khảo chéo với
bản thân các luật và Nghị định.
67
thực hiện của mỗi một cán bộ nhân viên) và đƣợc rà soát
thƣờng xuyên đối với những thành tựu đạt đƣợc. Cách thức
thực tiễn nhất để đạt đƣợc điều này là thông qua kế hoạch
công tác hàng năm. Xây dựng các kế hoạch công tác hàng
năm thƣờng thuộc trách nhiệm của Vụ Kế hoạch của mỗi Bộ,
do vậy sự tham gia của họ là vô cùng quan trọng. Các kế
hoạch công tác hàng năm nên đƣợc gắn với các Kế hoạch
hành động mới thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình đƣợc Bộ Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xây dựng và phải
đƣợc hoàn thành vào năm 2011 và năm 2010 (xem phần 3.1.2
và 3.1.4 Môi trƣờng điều chỉnh chính sách đối với Luật Bình
đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Đến nay,
các kế hoạch công tác hàng năm đƣợc gắn với Chiến lƣợc
Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2006-2010 và
Chƣơng trình Phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2006-
2010. Những kế hoạch công tác nhƣ vậy nên giao một tỷ
trọng thời gian của cán bộ nhân viên đối với mỗi một hoạt
động. Nếu không đủ cán bộ nhân viên và năng lực để thực
hiện kế hoạch công tác, quản lý cấp cao cần giải quyết vấn đề
này nhƣ một ƣu tiên. Các giải pháp có thể là tìm những cán
bộ nhân viên có năng lực hơn, thực hiện đánh giá nhu cầu
đào tạo của những cán bộ nhân viên hiện hành và sau đó tập
huấn cho họ một cách phù hợp hoặc đánh giá lại các vai trò
và trách nhiệm của Vụ/Ban (theo chiều dọc và ngang) với các
Vụ/Ban khác trong tổ chức, các đối tác thực hiện ở tỉnh và
các tổ chức/Bộ/ngành khác.
3) Xác định những cán bộ đầu mối và nuôi dưỡng những
cán bộ chuyên môn đầu ngành về Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình
Những cán bộ đầu ngành cần bao trùm cả hai luật. Có
khuyến nghị rằng trong quá trình làm rõ các vai trò và trách
nhiệm đối với hai luật, những cán bộ đầu ngành tiềm năng cần
68
đƣợc xác định ở một số tổ chức, bao gồm Quốc hội13
, cơ quan
Đảng và các Bộ chủ chốt. Khi những cán bộ đầu ngành đƣợc
phát hiện họ cần đƣợc kết nối trong một mạng lƣới để hỗ trợ
nhau trong các vai trò quản lý thay đổi tƣơng ứng của họ. Bộ
trƣởng Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đƣợc viện dẫn là
một ví dụ về ngƣời đứng đầu ngành đối với Luật Bình đẳng giới
trong Báo cáo Đánh giá Năng lực. Xác định một ngƣời đứng đầu
là nam giới ở cƣơng vị thứ trƣởng hoặc tƣơng đƣơng có thể rất
có lợi đối với Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
4) Tạo sự điều phối ở cấp Bộ giữa hai luật và giữa các tổ
chức chủ chốt
Với việc Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đƣợc sáp
nhập vào Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, không có một
tuyên bố liên Bộ kết nối hai Bộ, Bộ Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch với hai luật cũng nhƣ
với các Bộ chủ chốt khác. Một tuyên bố hoặc một cơ chế nên
đƣợc ban hành để cải thiện sự điều phối và ở vị thế không thấp
hơn cấp Bộ sẽ cho phép tác động đến Thủ tƣớng Chính phủ và
các cán bộ lãnh đạo địa phƣơng và để tránh tạo thêm những cơ
cấu khác giống nhƣ Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Danh mục này nên bao gồm một loạt các vấn đề về bình đẳng
giới, bạo lực gia đình và nghiên cứu gắn kết giới và bạo lực gia
đình ở Việt Nam với chiến lƣợc của Chính phủ thực hiện bình
đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình.
Những thành viên tiềm năng bao gồm các tổ chức phi chính
phủ đã có các mối liên kết quan trọng của họ với các tổ chức
nghiên cứu trong nƣớc. Vai trò của cơ quan Đảng cũng đặc biệt
quan trọng nếu có ảnh hƣởng đến việc tăng số lƣợng phụ nữ có
nhạy cảm giới đại diện trong Đảng. Hội Phụ nữ đã thể hiện Hội
13. Nhóm Nữ Nghị sỹ Quốc hội đã nghỉ hƣu đƣợc hình thành và là một
lực lƣợng tiềm năng để xác định những ngƣời đứng đầu trong hệ thống.
69
là một cơ quan thực hiện quan trọng các hoạt động gắn kết với cả
hai luật. Với 12 triệu thành viên, họ đƣợc điều phối hiệu quả và
ở vị thế là một phần của cơ chế điều phối đối với Luật Bình đẳng
giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Họ cũng đƣợc kết
nối hiệu quả đối với rất nhiều Bộ với các trách nhiệm cụ thể để
thực hiện hai luật. Tuy nhiên nhiệm vụ của họ đƣợc tập trung
hơn đối với vì sự tiến bộ của phụ nữ so với bình đẳng giới. Năng
lực của họ để thực hiện vai trò đầu tầu hiệu quả trong một cơ chế
điều phối còn hạn chế nhƣng số lƣợng thành viên của họ thật vô
giá. Quốc hội nên có khả năng nâng cao nhận thức về bạo lực gia
đình, tuổi nghỉ hƣu của phụ nữ, các vấn đề liên quan đến đồng
tính nam và đồng tính nữ và những ngƣời hành nghề mại dâm.
Quốc hội có năng lực hơn để quyết định đối với các vấn đề này
hơn là các cơ quan khác, đặc biệt kể từ khi họ thành lập nên một
mạng lƣới Nhóm nữ nghị sỹ Quốc hội để trao đổi thông tin về
bình đẳng giới và xây dựng các kỹ năng bình đẳng giới trong các
thành viên của Nhóm.
5) Ghi nhận vai trò quan trọng của các Vụ Tổ chức và
Cán bộ ở các Bộ trong duy trì sự đáp ứng phát triển năng lực
Không có một đề cập đặc biệt đối với vai trò của các Vụ Tổ
chức và Cán bộ, cũng nhƣ không có các chiến lƣợc phát triển
năng lực hoặc học tập của tổ chức, không có các tiến trình phát
triển cán bộ ở bất kỳ phát hiện hoặc khuyến nghị chính nào đƣợc
xác định trong Báo cáo Đánh giá Năng lực này cho đến nay. Tuy
nhiên, có khuyến nghị rằng mỗi một Vụ Tổ chức và Cán bộ đều
đóng một vai trò quan trọng trong tạo thuận lợi hơn trong phân
tích các số liệu thu thập đƣợc từ Báo cáo Đánh giá Năng lực này,
đặc biệt liên quan đến phân tích sơ bộ không đƣợc tổng hợp
trong báo cáo này.
6.2. Thực hiện
Hỗ trợ các Chương trình mục tiêu quốc gia đối với Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
70
Trong khi các luật và các Nghị định quy định những nghĩa
vụ và trách nhiệm chung đối với mỗi một cơ quan14
, những mục
tiêu và hoạt động cụ thể của mỗi một cơ quan nên đƣợc nêu
trong một chiến lƣợc và kế hoạch hành động. Chẳng hạn một kế
hoạch nên mô tả lý thuyết về thay đổi - mục tiêu sẽ đạt đƣợc nhƣ
thế nào, nghĩa là các hoạt động nào nên đƣợc thực hiện, các
nguồn lực nào đƣợc yêu cầu, ai chịu trách nhiệm, tiến độ sẽ đƣợc
giám sát nhƣ thế nào và khi nào và các kết quả và tác động đƣợc
đánh giá - đặc biệt sử dụng cách tiếp cận khung lô gíc. Không có
một tầm nhìn và kế hoạch hành động chung đối với Luật Bình
đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, việc thực hiện
vẫn sẽ lúng túng và không theo cơ cấu. Do vậy có khuyến nghị
rằng quá trình xây dựng chƣơng trình mục tiêu quốc gia đối với
Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (các
chiến lƣợc và kế hoạch hành động) đƣợc Chƣơng trình chung về
Bình đẳng giới hỗ trợ - Chƣơng trình dành riêng nhằm đạt đƣợc
một hiểu biết rõ hơn về các mục tiêu của Chƣơng trình, để phản
hồi lên Báo cáo Đánh giá Năng lực và để hỗ trợ họ đạt theo đúng
14. Đối với Luật Bình đẳng giới: Những trách nhiệm của các Bộ, ngành
và địa phƣơng liên quan đến bình đẳng giới đƣợc quy định tại Nghị định số
70/2008/ND-CP nhƣ sau14
:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới.
2. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội chịu trách nhiệm trƣớc Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới trong phạm vi cả nƣớc.
3. Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội thực
hiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới.
4. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng
giới trong phạm vi địa phƣơng theo phân cấp của Chính phủ.
Cơ quan quản lý Nhà nƣớc về bình đẳng giới là Bộ Lao động - Thƣơng
binh và Xã hội ở cấp Trung ƣơng và các Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã
hội ở cấp địa phƣơng. Các trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới
đƣợc quy định tại Điều 26 Luật Bình đẳng giới và Nghị định hƣớng dẫn.
71
hạn hoàn thành tƣơng ứng vào các năm 2011 và 2010. Sự tham
gia này nên là một bƣớc hƣởng lợi trong việc làm rõ sự lúng túng
hiện nay đối với những gì đang làm, tạo sao làm và khi nào giữa
những cơ quan đối tác thực hiện hai luật. Các Ban vì sự tiến bộ
của phụ nữ ở các Bộ chủ chốt phải đƣợc trao trách nhiệm chủ
động xây dựng các kế hoạch hành động và các báo cáo.
Điều phối liên ngành ở cấp địa phương
Lãnh đạo “riêng rẽ” là một thuật ngữ đƣợc đặt ra trong một
trong những phiên phản hồi về hoàn thiện năng lực, một thuật
ngữ hàm ý “một sự đáp ứng đƣợc điều phối”. Sự điều phối liên
ngành cần đƣợc giải quyết ngay đối với Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình ở cấp Bộ, nhƣng cần hơn ở cấp cơ sở nơi sự tiếp xúc
với các nạn nhân của bạo lực gia đình và các kẻ thủ phạm xảy ra.
Nhu cầu đối với một “phản ứng chính thức” có nền tảng vững
chắc về mối quan hệ đối tác Nhà nƣớc - cộng đồng mạnh mẽ đã
đƣợc lặp lại về thời gian và trong tài liệu những điển hình về
phòng, chống bạo lực gia đình. Theo cách tiếp cận này, trong khi
mỗi một cơ quan cung cấp một dịch vụ khác nhau cho một nạn
nhân của bạo lực gia đình, một hệ thống truyền thông và điều
phối đƣợc hình thành giữa các cơ quan sẽ đảm bảo rằng mỗi một
cơ quan nhận thức loại dịch vụ nào đang đƣợc các cơ quan khác
cung cấp. Điều này đƣợc điều phối nhƣng không nhất thiết phải
đồng nhất, cách tiếp cận để giải quyết bạo lực gia đình của Nhà
nƣớc đƣợc đề cập trong tài liệu các điển hình nhƣ một “Hệ thống
phản ứng với bạo lực gia đình”.
Có một số mô hình điển hình để lựa chọn, bao gồm những
mô hình sau15
:
Các Ban chỉ đạo/điều phối đƣợc thiết kế để đảm bảo điều
phối hiệu quả giữa những cấu phần riêng biệt tới hệ thống
chuyển giao công lý. Các Ban này thƣờng xây dựng kế
15. Pháp luật về bạo lực gia đình và việc thực hiện: một phân tích đối
với các quốc gia ASEAN dựa trên các Tiêu chuẩn quốc tế và các điển hình,
tháng 6 năm 2009
72
hoạch chi tiết hoặc kế hoạch hành động đối với phản ứng
liên ngành và sau đó giám sát hệ thống để đảm bảo vận
hành một cách hợp lý.
Cách tiếp cận hợp tác cộng đồng đƣợc dựa trên một kế
hoạch chiến lƣợc đƣợc toàn thể cộng đồng xây dựng. Các
vai trò và trách nhiệm đƣợc phi tập trung hóa nhƣ là điểm
khởi đầu bằng cách giao cho mỗi một cơ quan hoặc cộng
đồng một nhiệm vụ cụ thể. Một cơ quan điều phối tạo
thuận lợi và giám sát công việc đƣợc thực hiện, nhƣng
chƣơng trình đƣợc dựa trên cách tiếp cận hợp tác kể từ
khi hoạch định cho đến quản lý điều hành. Cách tiếp cận
này không đòi hỏi tạo ra các cơ cấu quản lý chính thức và
cơ bản chủ yếu sử dụng đối với các sáng kiến ở cấp cộng
đồng.
Quan trọng là các biên bản điều phối phải đƣợc hình thành
và các quyền phải đƣợc quy định rõ cho mỗi một cơ quan trong
hệ thống điều phối. Điều này quan trọng vì một trong những trở
ngại chính đối với điều phối liên ngành là cần thống nhất một
hiểu biết chung về bạo lực gia đình và các cách tiếp cận đối với
các nạn nhân của bạo lực gia đình phải đƣợc xây dựng giữa các
cơ quan.
3) Một thể chế duy nhất để giải quyết khiếu nại
Thiếu một quy trình đƣợc xác định rõ ràng theo đó một cá
nhân viện dẫn một sự vi phạm quyền theo luật định, đệ đơn kiện
và giải quyết khiếu nại, việc thực hiện Luật sẽ tiếp tục gặp trở
ngại. Tạo ra một thể chế duy nhất giải quyết khiếu nại, có bố trí
các chuyên gia giới và xác định một quy trình rõ ràng để nộp đơn
kiện và giải quyết khiếu nại sẽ tăng cƣờng năng lực thực hiện luật.
4) Một cơ chế áp đặt các hình phạt
Các hình phạt không đƣợc áp đặt đối với sự vi phạm luật do
đang có một cơ chế thiếu rõ ràng. Một hệ thống rõ ràng hơn xác
định các hình phạt, hình thức của kỷ luật phải đƣợc áp đặt và
trong những hoàn cảnh nào hình phạt là cần thiết tất cả sẽ góp
phần vào việc làm rõ các quy trình thủ tục.
73
5) Tạo nguồn lực đầy đủ - kinh phí và các kỹ năng
Các cơ quan ngân sách quốc gia phải phân bổ đủ nguồn lực
cho các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ, các cơ quan quản lý nhà
nƣớc thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình, các Vụ/Ban ở Trung ƣơng và các Sở/ngành ở địa
phƣơng, các tổ chức quần chúng và các cơ quan khác chịu trách
nhiệm thực hiện hai luật. Có khuyến nghị rằng ngân sách cụ thể
phải đƣợc phân bổ đối với thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình có tính đến vị thế của đội ngũ cán
bộ, xây dựng năng lực tổ chức và các sáng kiến thực hiện Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, bao gồm
nghiên cứu, phân tích, giám sát và đánh giá. Hiểu nguồn kinh phí
đối với mỗi một hoạt động của những phân bổ này cũng sẽ bổ
ích cho việc quản lý dẫn đến một kế hoạch hành động chi tiết
đang đƣợc xây dựng.
Cũng quan trọng là có số lƣợng thích hợp những cán bộ
chuyên môn có trình độ, làm việc toàn thời với các kỹ năng cần
thiết (kiến thức, các kỹ năng và quan điểm) trong chính quyền
các cấp, đặc biệt ở cấp cộng đồng và cấp huyện nơi có nhu cầu
lớn nhất. Số lƣợng cán bộ nhân viên sẽ phụ thuộc vào một chiến
lƣợc rõ ràng với các kết quả và hoạt động đƣợc xác định (xem
những vai trò và trách nhiệm). Lý tƣởng nhất, cán bộ nhân viên
nòng cốt về giới sẽ phải tƣơng đối có kinh nghiệm, có đủ vị thế
và ảnh hƣởng để tạo ra tác động và có chuyên môn về lồng ghép
giới, quản lý thay đổi và các kỹ năng vận động tốt.
6.3. Lãnh đạo
Đề cao cam kết của lãnh đạo
Có khuyến nghị rằng cả phía cung và cầu đối với đề cao cam
kết của lãnh đạo cần đƣợc tập trung giải quyết. Cán bộ nhân viên
nên sử dụng cách tiếp cận tiên phong hơn nhằm xúc tiến hai luật
tới quản lý cấp cao bằng cách tạo những cơ hội cam kết của lãnh
đạo cấp cao. Lãnh đạo cấp cao, mặt khác, phải tiếp cận và hỗ trợ
đồng nghiệp trong hoàn thiện nền tảng kiến thức và kỹ năng của
họ về hai luật.
74
Phía cung - Tập huấn lãnh đạo và quản lý - một ưu tiên
Tập huấn lãnh đạo và quản lý là một ƣu tiên đối với các cán
bộ lãnh đạo chủ chốt ở tất cả các cấp chính quyền chịu trách
nhiệm đối với việc thực hiện hai luật. Kết quả chính của tập huấn
nên là xây dựng một kế hoạch quản lý thay đổi đối với tổ chức,
Vụ/Ban/Sở/ngành và/hoặc văn phòng/phòng tƣơng ứng của họ
để tạo thuận lợi cho việc thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo
về hai luật theo một cách thức mang tính hệ thống và trọng tâm
hơn. Nhƣ vậy tập huấn nên đƣợc gắn với các mục tiêu phát triển
năng lực cụ thể hơn trong Bộ, Vụ/Ban/Sở/ngành và/hoặc Văn
phòng/phòng tƣơng ứng (nhƣ nêu chi tiết trong phần Kiến thức
dƣới đây). Lý tƣởng nhất, những cán bộ lãnh đạo sẽ rất có kinh
nghiệm, có đủ vị thế và ảnh hƣởng để tạo ra tác động. Sự hỗ trợ
của các cán bộ lâu năm có kinh nghiệm là quan trọng trong việc
tạo thuận lợi cho những cán bộ đầu mối về giới và các cán bộ
đầu ngành/chuyên gia vận động ủng hộ khác để tiếp tục duy trì
sự theo đuổi. Ghi nhận những đổi mới và thành tựu đạt đƣợc của
cán bộ nhân viên liên quan đến việc thực hiện hai luật cũng là
một chỉ số tốt về lãnh đạo giỏi.
Phía cầu - thúc đẩy hỗ trợ quản lý
Sử dụng một cách tiếp cận tiên phong có thể đem lại lợi ích
đối với các cán bộ quản lý/lãnh đạo, đặc biệt những ngƣời không
nhận thức đƣợc tầm quan trọng của hoặc không chủ động tham
gia vào các nỗ lực, thực hiện các trách nhiệm của họ đối với Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Có rất
nhiều hành động mà cán bộ nhân viên ở mọi cấp có thể thực hiện
các công việc thƣờng xuyên của họ để có đƣợc sự hỗ trợ quản lý
trong thực hiện các trách nhiệm đối với Luật Bình đẳng giới và
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình:
Đảm bảo các vai trò và trách nhiệm của quản lý cấp cao
liên quan đến thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc thể hiện rõ ràng trong
các chính sách, chƣơng trình và dự án thuộc trách nhiệm
của tổ chức;
75
Đảm bảo quản lý đƣợc nhận thức trong các chính sách và
các cam kết quốc tế và quốc gia liên quan đến bình đẳng
giới và các quyền con ngƣời;
Chuẩn bị các báo cáo/các bản tóm tắt về giới đặc biệt đối
với quản lý cấp cao theo cách thức thu hút họ, họ có thể
nhận biết đƣợc, đáp ứng các nhu cầu của họ với một trọng
tâm đặc biệt lên các vấn đề chính sách;
Thu hút quản lý cấp cao vào xây dựng chính sách giới,
bao gồm cả các cuộc thảo luận về thực hiện, phân bổ
nguồn lực và các chiến lƣợc giám sát;
Dự thảo những bài phát biểu và lồng ghép những vấn đề
giới chủ yếu vào các bài phát biểu/bài trình bày của quản lý
cấp cao về một loạt những vấn đề, tổ chức các buổi nói
chuyện/các sự kiện công cộng về các chủ đề bình đẳng giới;
Tìm kiếm những cơ hội cho những cán bộ quản lý cấp cao
gặp gỡ với những cán bộ lãnh đạo chuyên môn khác có
trách nhiệm về giới - và bố trí việc đƣa tin hiệu quả trên
phƣơng tiện thông tin đại chúng về những sự kiện này,
bao gồm các khía cạnh bình đẳng giới;
Cung cấp thƣờng xuyên những bản tóm tắt phản hồi cho
quản lý cấp cao cho thấy ở đâu đã đạt đƣợc các thành tựu
về bình đẳng giới và các thành tựu này đã đóng góp vào
mục tiêu tổng thể của tổ chức nhƣ thế nào;
Phát triển các hiệp hội chiến lƣợc với các nhóm phụ nữ và
các nhóm vận động ở bên ngoài, tổ chức để cải thiện việc
chia sẻ thông tin và điều phối các nỗ lực chính sách chủ yếu;
Vận động hành lang để đƣa sự hiểu biết và cam kết đã
đƣợc thể hiện đối với bình đẳng giới và nâng cao năng lực
và vị thế của phụ nữ vào trong các tiêu chuẩn chức danh
đối với lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ quản lý.
6.4. Kiến thức
1) Hiểu rõ các khái niệm về bình đẳng giới và bạo lực gia
đình
Một sự hiểu biết rõ ràng khái niệm về các vấn đề bình đẳng
76
giới và bạo lực gia đình là rất quan trọng đối với tất cả các quan
chức của Chính phủ ở mọi cấp độ. Khi những người ra quyết
định hiểu về mối liên quan giữa bình đẳng giới, giảm nghèo và
tăng trưởng và hiểu thực hành lồng ghép giới như một chiến
lược, họ chắc chắn loại bỏ được tư tưởng hẹp hòi đối với phụ nữ
và chấp nhận một triển vọng giới có tính đến tác động của các
vai trò của nam giới và các mối quan hệ giới lên sự bất bình
đẳng giới đối với phụ nữ16
. Phát triển sự hiểu biết các khái niệm,
chuyên môn thực tiễn và khả năng áp dụng các kỹ năng mới một
cách thành thạo và toàn diện là một quá trình đang đƣợc thực
hiện và ngày càng tăng lên đòi hỏi có thời gian, một môi trƣờng
làm việc yêu cầu cán bộ nhân viên làm việc với các kỹ năng mới
này và hỗ trợ họ trong việc áp dụng các kỹ năng đó. Phát triển
các kỹ năng cần có sự tham gia, dựa trên lý thuyết sự học tập của
ngƣời trƣởng thành và quan trọng là phải đặt trọng tâm vào
những học viên và đƣợc thiết kế để đáp ứng những nhu cầu cụ
thể đối với môi trƣờng làm việc của ngƣời học. Sự kèm cặp và
hỗ trợ thực tiễn tại nơi làm việc là một kỹ thuật hiệu quả để nâng
cao năng lực và vị thế cho cán bộ nhân viên để thử những vấn đề
mới và học qua thực hành. Những ngƣời kèm cặp có thể là
những chuyên gia bên ngoài hoặc những cán bộ tại chỗ đã đƣợc
tập huấn chi tiết về chủ đề đó. Để việc phát triển kỹ năng có ý
nghĩa và thành công (nghĩa là, để có một tác động lên công việc
hàng ngày và kết quả trong tƣơng lai), nên có một cấu phần của
một hệ thống tích hợp bao gồm quy định về những lựa chọn linh
hoạt đối với việc phát triển năng lực17
.
16. Hƣớng dẫn lồng ghép giới, Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ
nữ, Hà Nội, năm 2008.
17. Một hệ thống tích hợp cũng đòi hỏi các ứng xử trong công việc thay
đổi để áp dụng những kỹ năng mới, đƣợc thực hiện trong một môi trƣờng
làm việc có những cơ chế hỗ trợ và thúc đẩy một cách thích hợp những can
thiệp về bình đẳng giới, khen ngợi sự xuất sắc và kết hợp với các cơ chế về
trách nhiệm giải trình cho thấy mức độ trong đó thực tiễn lồng ghép giới
đang đƣợc áp dụng (ví dụ xây dựng năng lực về bình đẳng giới trong các hệ
thống đánh giá việc thừa hành).
77
2) Tập huấn về giới và phát triển kỹ năng – những lựa
chọn linh hoạt
Có khuyến nghị rằng tập huấn về giới cùng với phát triển
các kỹ năng khác cần thiết để thực hiện hai luật phải đƣợc xây
dựng. Tập huấn cụ thể đƣợc những ngƣời cung cấp thông tin
chính chỉ ra bao gồm tƣ vấn về bạo lực gia đình, các kỹ thuật thu
thập số liệu nhạy cảm về bạo lực gia đình, phƣơng tiện truyền
thông mang tính nghệ thuật khác nhau để truyền tải các thông
điệp về bạo lực gia đình, các chiến lƣợc để khắc phục sự sợ hãi
và miễn cƣỡng để thay đổi liên quan đến bạo lực gia đình, các
cách tiếp cận để xác định những ứng xử khác nhau về bạo lực gia
đình, các chiến lƣợc để hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình
và kiến thức về các nạn nhân có thể tiếp cận hỗ trợ pháp lý ở
đâu. Lồng ghép giới vào tất cả các loại hình tập huấn cũng có thể
hiệu quả. Điều này phải là một phần của một chiến lƣợc tổng thể
của tổ chức bao gồm một nhân tố cơ bản lâu dài đối với đầu tƣ
cho đào tạo và làm thể nào để „ăn khớp‟ với các chiến lƣợc khác
của tổ chức để xây dựng năng lực cho cán bộ nhân viên để thực
hiện hai luật và để làm việc có trách nhiệm giới. Cho đến khi
một chiến lƣợc học tập nhƣ vậy của tổ chức đƣợc xây dựng trong
mỗi một tổ chức, những lựa chọn linh hoạt để phát triển kỹ năng
nên đƣợc quy định. Những lựa chọn này bao gồm:
Hỗ trợ kèm cặp thực tế tại nơi làm việc. Đây là một kỹ
thuật hiệu quả đƣợc thiết kế để đáp ứng các nhu cầu cụ
thể của môi trƣờng làm việc. Kỹ thuật này cũng là một
phƣơng án hiệu quả hơn về chi phí so với các khoá tập
huấn. Các chuyên gia bên ngoài cũng nên đƣợc xem xét
cho những vai trò nhƣ thế này, nhƣng những cán bộ tại
chỗ đã đƣợc tập huấn cũng có thể thực hiện kèm cặp thực
tiễn tại nơi làm việc.
Hình thành một danh sách nội bộ những người ngang
nhau mà có thể có kinh nghiệm về một loạt các nhiệm vụ
- họ không phải là những chuyên gia về hai luật cũng nhƣ
về bình đẳng giới và bạo lực gia đình. (Các Ban vì sự tiến
78
bộ phụ nữ hiện đã đƣợc sáp nhập vào các Sở Lao động –
Thƣơng binh và Xã hội và là sự lựa chọn rõ ràng đối với
các kinh nghiệm về giới).
Hình thành “các nhóm kinh nghiệm” nơi mà những cán
bộ có chung quan điểm đến từ các Vụ/Ban/Sở/ngành khác
nhau của nhà nƣớc gặp gỡ để trao đổi các kinh nghiệm,
các thách thức, những trƣờng hợp điển hình và chia sẻ
kiến thức với nhau về những vấn đề cần giải quyết và phát
triển.
Đảm bảo sự tiếp cận với những văn bản pháp luật liên
quan đến hai luật của tất cả các cơ sở làm việc bao gồm
Chính phủ, các tổ chức quần chúng và các tổ chức phi
chính phủ. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch hàng năm nên thực hiện
một cuộc đánh giá hoặc thanh tra.
Các chuyến tham quan tới các dự án về mô hình và các
chƣơng trình thành công liên quan đến hai luật. Thƣờng
xuyên xem xét các công cụ và kiến thức trong hành động
là một cách thức hiệu quả hơn để nhận thông tin và các kỹ
năng học tập mới. Có khuyến nghị rõ sử dụng cách tiếp
cận này để tăng cƣờng nhắm vào nam giới trong các chính
sách, chƣơng trình và hoạt động. Các mô hình về phòng,
chống bạo lực gia đình mà đã thay đổi hiệu quả hành vi
ứng xử của nam giới thƣờng không phổ biến; xác định
đƣợc các mô hình này và đánh giá mô hình nào phù hợp
nhất với mỗi một tỉnh/huyện/xã tƣơng ứng nên đƣợc đƣa
vào trong chu trình xây dựng chƣơng trình.
Các cán bộ lãnh đạo và các cán bộ quản lý cấp cao thƣờng
viện cớ không tham dự tập huấn, tuy nhiên, các diễn đàn
và các hội thảo với những diễn giả đáng chú ý và các mô
hình vai trò là những chƣơng trình hấp dẫn hiệu quả hơn
để thu hút họ. Những cán bộ đầu ngành đƣợc lựa chọn kỹ
lƣỡng đối với hai luật nên điều hành hoặc hƣớng dẫn các
cuộc thảo luận để giúp đạt đƣợc các kết quả đối với
79
những sự kiện nhƣ vậy và để đề cao hình ảnh của các cán
bộ đầu ngành.
Điều hành một phiên giới thiệu phát triển chuyên môn đối
với hầu hết các đối tác thực hiện trong mỗi một tổ chức.
Thực hiện thử nghiệm với 5 tổ chức chủ chốt 18
ở 15
tỉnh/thành phố đƣợc chọn trƣớc. Cơ cấu tập huấn theo ba
cấp độ kỹ năng và chia các đối tác thực hiện theo: (1)
những ngƣời hoàn toàn mới đối với các khái niệm bình
đẳng giới và bạo lực gia đình, (2) những ngƣời cần đƣợc
xây dựng và bổ sung trên những hiểu biết cơ bản của họ;
(3) những ngƣời hoạt động nhƣ những đầu mối chiến
lƣợc, những chuyên gia và những cán bộ đầu ngành tiềm
năng. Sử dụng tập huấn này để đánh giá kỹ hơn về các kỹ
năng mà họ đang thiếu. Gắn kết phát triển chuyên môn
với đề bạt, đặc biệt những cán bộ đầu ngành.
Phát hiện những cá nhân khác hiện đang làm việc trong
các cộng đồng tài trợ và các tổ chức phi chính phủ và
trong các tổ chức khác của Chính phủ. Nâng đỡ hỗ trợ
những nỗ lực của họ hơn là tăng gấp đôi những nỗ lực.
Rất phổ biến là sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực và
thời gian của những ngƣời hƣởng lợi nếu việc đáp ứng
năng lực bù lấp đƣợc những khoảng trống và/hoặc đƣợc
lồng ghép vào những chƣơng trình và hoạt động xây dựng
năng lực hiện đang đƣợc các nhà tài trợ và các tổ chức phi
chính phủ khác có cùng mục đích thực hiện với cùng mục
tiêu phát triển năng lực.
Những khoá tập huấn bên ngoài đƣợc khu vực tƣ nhân
xây dựng và điều hành là một phƣơng án tốt đối với
những đơn vị/Vụ/Ban/Sở/ngành đang bị kéo căng. Ví dụ,
18. Những tổ chức này có thể bao gồm Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và
Đầu tƣ, Bộ Tài chính, Quốc hội, Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn (Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch không nhất thiết tham dự thí điểm).
80
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch có thể chuyển giao tập huấn đƣợc nêu
trong phƣơng án 6 ở trên.
Một số gợi ý trong thiết kế các khoá phát triển chuyên môn
liên quan đến hai luật nhƣ sau:
Với bất kỳ quá trình phát triển kỹ năng mới nào, các cán
bộ lãnh đạo cần đƣợc chuẩn bị, cần sẵn sàng và mong
muốn hỗ trợ quá trình học tập. Nếu các cán bộ lãnh đạo
không thấy một nhiệm vụ là quan trọng là cấp thiết, họ sẽ
không hoặc chỉ cam kết rất hạn chế đối với những thay
đổi trong các hành vi ứng xử, áp dụng những kỹ năng mới
và cuối cùng kết quả sẽ rất hạn chế. Có khuyến nghị rằng
một phần của quá trình đƣợc phê duyệt để tham dự hoặc
xây dựng một chƣơng trình hoặc quá trình phát triển kỹ
năng là các đại biểu tham dự và những cán bộ quản
lý/lãnh đạo cấp cao cần cùng thảo luận và nhất trí về dự
kiến kết quả và việc áp dụng. Tốt nhất, thảo luận này cũng
nên đƣợc thực hiện ở mỗi một cuộc họp hàng năm đánh
giá cán bộ nhân viên.
Có khuyến nghị rằng khi có thể thuật ngữ “đào tạo” nên
đƣợc thay thế bằng thuật ngữ “phát triển chuyên môn” –
hầu hết các chuyên gia về phát triển năng lực có cùng
nhận thức rằng sẽ tạo động lực hơn, khát khao hơn đối với
những “cán bộ đƣợc tập huấn” tiềm năng và những cấn bộ
quản lý khi phê duyệt các khoá phát triển chuyên môn.
Trong Chính phủ khả năng tiếp cận các khoá phát triển
chuyên môn (tập huấn/đào tạo) là khác nhau đối với nam
giới và phụ nữ, vì số năm làm việc của một ngƣời có
trong sự nghiệp dân sự là một yếu tố để có đƣợc sự phê
duyệt. Phụ nữ nghỉ hƣu sớm 5 năm trong khu vực công
đã tác động đến khả năng tiếp cận của họ. Điều này nên
đƣợc cân nhắc xem xét khi thiết kế một khoá phát triển
chuyên môn.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng phát triển kỹ năng trong các
81
vấn đề liên quan đến giới phải thuộc về cả nam giới và
phụ nữ - phải gắn với hoàn cảnh của mỗi một cá nhân,
phải đi vào trọng tâm của các mối quan hệ của mọi ngƣời
trong gia đình, phải khuyến khích mọi ngƣời nói đến các
quyền của họ và phải có một mong muốn để nói đến
quyền lực.
Gắn kết phát triển chuyên môn (đào tạo) với các cơ hội
thăng tiến khi có thể, đặc biệt đối với những cán bộ
chuyên môn sâu. Một cán bộ chuyên môn sâu đƣợc đề bạt
trên cơ sở công việc, kỹ năng và kiến thức của họ liên
quan đến bình đẳng giới và bạo lực gia đình không chỉ
nâng cao vị thế của lĩnh vực bình đẳng giới mà còn tạo
nên những khích lệ đối với những ngƣời khác nâng cao kỹ
năng của họ đối với những vấn đề nhƣ vậy.
6.5. Giám sát, đánh giá và báo cáo
1) Gắn khung giám sát và đánh giá với Kế hoạch hành động
Giám sát và đánh giá là một công cụ đặc biệt quan trọng đối
với quản lý để đo và đánh giá các kết quả, sau đó phản hồi
những thông tin này vào trong các quá trình đang tiếp diễn của
quản lý và ra quyết định. Giám sát và đánh giá cũng là một công
cụ quan trọng đối với trách nhiệm giải trình và cầu thị.
Trong khi giám sát là một công cụ quản lý hữu ích để đảm
bảo việc thực hiện theo đúng hƣớng đã vạch ra, đánh giá lƣu ý
các nhà hoạch định và ra quyết định chính sách xem xét kỹ hơn
đối với các vấn đề dài hạn và mang tính chiến lƣợc. Đánh giá là
một cách tiếp cận mang tính hệ thống để đánh giá liệu một can
thiệp, chƣơng trình hoặc dự án chính sách có đạt đƣợc các mục
tiêu của mình không, đo tác động của các sáng kiến và quan
trọng hơn xây dựng những điển hình và các bài học thu đƣợc cho
các mục tiêu toàn diện nhằm hoàn thiện các sáng kiến trong
tƣơng lai. Đánh giá cũng quan trọng đối với trách nhiệm giải
trình các nguồn lực đã đƣợc sử dụng. Những cán bộ thiết kế và
thực hiện chính sách và chƣơng trình đối với Luật Bình đẳng
giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nên thực thi các trách
82
nhiệm giải trình của mình đối với các cơ quan hỗ trợ kinh phí,
những cơ quan công quyền và đặc biệt đối với nhân dân cả nam
giới và phụ nữ, chịu tác động của hai luật và các chính sách,
chƣơng trình và dự án có liên quan của họ.
Có khuyến nghị rằng khung giám sát và đánh giá phải đƣợc
thiết kế song song với việc xây dựng Kế hoạch hành động mới
đối với mỗi một luật. Phổ biến là giám sát và đánh giá đƣợc đƣa
ra nhƣ một nội dung bổ sung khi việc thực hiện đƣợc bắt đầu.
Nhƣ vậy là quá muộn, khi một trong những đặc tính chủ yếu của
khung là nhận biết những yếu kém và cải thiện chất lƣợng của
thiết kế và khung quản lý – những mục tiêu không rõ ràng,
những khung thời gian không thực tế và những hệ thống hỗ trợ
thiếu nguồn lực thƣờng chỉ đƣợc nhận biết khi các chƣơng trình
đƣợc vận hành.
Điều quan trọng là khi khung giám sát và đánh giá đƣợc
thiết kế đối với kế hoạch hành động mới về Luật Bình đẳng giới
và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, những nguồn số liệu hiện
hành cần đƣợc tận dụng hơn là tạo nên sự chồng chéo. Các hệ
thống thu thập số liệu đã đƣợc thiết lập đối với các chƣơng trình
tài trợ liên quan đến bình đẳng giới và bạo lực gia đình, các
chƣơng trình của Chính phủ và/hoặc của Tổng cục Thống kê nên
đƣợc xem xét khai thác.
Một phân tích các mối quan hệ thể chế và các cơ cấu quản lý
cũng nên đƣợc thực hiện nhƣ một phần của việc xây dựng một
hệ thống giám sát đối với kế hoạch hành động của mỗi luật. Điều
quan trọng là hiểu đƣợc các vai trò và các trách nhiệm của tổ
chức và giữa các tổ chức. Mục tiêu là phát triển một hệ thống
truyền thông và báo cáo thu thập và chuyển giao một cách hiệu
quả những thông tin liên quan đến những nhóm quản lý một cách
kịp thời sẽ cho phép họ đƣa ra những quyết định quản lý đúng
đắn về việc thực hiện và các nguồn lực đối với chƣơng trình/kế
hoạch hành động.
Những cơ quan/tổ chức/cá nhân khác nhau hoàn toàn có thể
83
tham gia vào hệ thống giám sát thực hiện hai luật bao gồm:
Các cá nhân, bao gồm cả các nạn nhân bị bạo lực gia đình;
Các hộ gia đình và những thành viên của cộng đồng đƣợc
hƣởng lợi;
Các tổ chức quần chúng, bao gồm Mặt trận Tổ quốc với
trách nhiệm giám sát cụ thể của họ;
Các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ tỉnh/thành phố;
Chính quyền/các cán bộ quản lý địa phƣơng ở tất cả các
cấp độ khác nhau, bao gồm công an, các toà án, Sở Y tế;
Các bộ nhân viên ở cấp bộ, Vụ Bình đẳng giới (Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội) và Vụ Gia đình (Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch).
Vai trò của mỗi nhóm trong cơ chế giám sát sẽ phụ thuộc
vào phạm vi và bản chất của kế hoạch/chƣơng trình quốc gia.
Những nội dung này cần đƣợc thể hiện rõ trong các quy định về
trách nhiệm, thiết kế chƣơng trình - ở khía cạnh ai thu thập thông
tin gì, họ thu thập nhƣ thế nào, ai trình bày những thông tin đó,
ai phân tích những thông tin đó và nhƣ thế nào, những thông tin
sẽ đƣợc phản hồi nhƣ thế nào, v.v. Các hệ thống giám sát hiệu
quả phải đơn giản, lô gíc và có những nguồn lực để để đảm bảo
những hệ thống này hoạt động đƣợc.
Điều quan trọng là bất kỳ một tập hợp chỉ số nào đƣợc dựa
trên các mục tiêu rõ ràng mang tính thực tiễn đều hiệu quả về chi
phí. Cũng cần nhấn mạnh ở đây rằng việc xây dựng các chỉ số
chỉ là một phần của cả quá trình rất dài lâu trong xây dựng một
hệ thống giám sát và đánh giá.
Trong trƣờng hợp xây dựng một hệ thống đánh giá đối với
việc thực hiện hai luật có khuyến nghị rằng việc thiết kế hệ
thống này phải đƣợc củng cố bằng các hoạt động nâng cao nhận
thức, phát triển kỹ năng học hỏi mới đang đƣợc thực hiện nhƣ
một phần của các sáng kiến xây dựng năng lực trong khuôn khổ
Chƣơng trình chung về bình đẳng giới.
84
2) Một hệ thống báo cáo duy nhất và tập trung
Có rất ít bằng chứng rằng một hệ thống báo cáo tập trung
gắn kết với một hệ thống giám sát và đánh giá việc thực hiện hai
luật đã đƣợc hình thành. Mặc dù Bộ Lao động – Thƣơng binh và
Xã hội đƣợc yêu cầu báo cáo lên Quốc hội việc thực hiện các
mục tiêu bình đẳng giới, vẫn không có hƣớng dẫn về nội dung
của báo cáo này cũng nhƣ Chính phủ và Quốc hội phải làm gì
nếu báo cáo cho thấy các kết quả không khả quan. Điều này
đƣợc thực hiện trên cơ sở không thƣờng xuyên và không có bất
kỳ hƣớng dẫn nào. Một cơ chế trách nhiệm giải trình rõ ràng từ
cấp chính quyền thấp nhất đến cao nhất cần đƣợc đặt ra, bao
gồm những phản ứng thích hợp nếu không đạt đƣợc tiến bộ.
6.6. Trách nhiệm giải trình
Rà soát các cơ chế, quy trình, thủ tục, quy chế, hệ thống và
cơ cấu hành chính
Có khuyến nghị rằng một rà soát tất cả các quy trình, thủ
tục, quy chế và chỉ thị chỉ dẫn và chỉ đạo việc đánh giá công việc
thƣờng xuyên trên thực tế liệu có tính đến một cách hệ thống các
trách nhiệm, nhu cầu và ƣu tiên trong thực hiện hai luật không,
bao gồm cả việc thiết kế chƣơng trình, phân bổ nguồn lực, thực
hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo.
Có khuyến nghị rằng các cán bộ lãnh đạo nên đầu tƣ thời
gian để hiểu những hình thức khen thƣởng và khuyến khích khác
nhau có tác dụng nhƣ thế nào để đề cao nhận thức và đạo đức
của cán bộ nhân viên của họ, đặc biệt khi trực tiếp thực hiện hai
luật mới. Nghiên cứu về sự cầu thị cho thấy trừ phi có một động
lực ở mức độ cao về sự cầu thị thì một hành vi ứng xử mới mới
có thể đƣợc hình thành. Một nghiên cứu đã đƣợc công bố năm
2006 ở Việt Nam với tiêu đề Học viện Quốc gia Hành chính
công: những con đƣờng sự nghiệp của cán bộ nhà nƣớc thông
qua lăng kính giới là một xuất phát điểm đƣợc đề xuất để hiểu
đƣợc độ phức tạp trong động lực của khu vực dịch vụ công ở
Việt Nam.
85
Những quá trình phát triển cá nhân cũng phải đƣợc rà soát
để đảm bảo rằng tất cả cán bộ nhân viên tự nhận thức một cách
hệ thống về tầm quan trọng của bình đẳng giới, Luật Bình đẳng
giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đối với các mục tiêu
của tổ chức, cũng nhƣ trách nhiệm của họ để giải quyết những
vấn đề này trong công việc hàng ngày của họ. Những công cụ và
hiểu biết đối với phân tích giới nên đƣợc xây dựng trong các kế
hoạch học tập và phát triển độ ngũ cán bộ của các tổ chức. Cần
tạo nên những khuyến khích và cam kết cụ thể để nuôi dƣỡng động
lực cho các công việc thực tiễn thực hiện những vấn đề về Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Cuối
cùng, những thành tựu liên quan đến Luật Bình đẳng giới và
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình phải đƣợc đánh giá cao và
khen thƣởng.
6.7. Những bƣớc tiếp theo quan trọng
Một môi trường để phản ánh
Có đề xuất rằng một môi trƣờng để phản ánh và học hỏi cần
đƣợc tạo ra trong mỗi một tổ chức để phản ánh những phát hiện
và khuyến nghị của Báo cáo Đánh giá Năng lực này cũng nhƣ
bất kỳ một đánh giá và thảo luận nào có liên quan. Môi trƣờng
này là một cơ hội cho các cán bộ lãnh đạo tham gia sâu hơn và
động viên cán bộ nhân viên của họ hành động một cách chiến
lƣợc trong thực hiện hai luật trƣớc khi chuyển sang thực hiện các
hoạt động cụ thể. Môi trƣờng này nên đƣợc tạo ra trƣớc bất kỳ
một hội thảo quản lý thay đổi hoặc hoạch định chiến lƣợc nào.
7. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CỤ THỂ
Phần này bao gồm một tóm tắt những khuyến nghị chính có
đƣợc từ thực địa. Những khuyến nghị đƣợc chia theo hai nhóm
đối tác thực hiện chính, các tổ chức của Chính phủ và các Tổ
chức quần chúng. Trong hai nhóm khuyến nghị chính này lại
đƣợc chia thành hai nhóm nhỏ hơn (i) cấp Trung ƣơng, và (ii)
cấp tỉnh/thành phố. Khi có thể, các khuyến nghị đƣợc phân biệt
theo hai luật, Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực
86
gia đình, và các vấn đề năng lực trọng tâm và năng lực chức
năng nhƣ đƣợc mô tả trong phần Phƣơng pháp luận.
7.1. Các tổ chức của Chính phủ
7.1.1. Cấp trung ương
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội - Những khuyến nghị
Vụ Bình đẳng giới đƣợc nhận biết trong các hoạt động sau
đây trong kế hoạch tiếp theo: hoàn thiện cơ cấu tổ chức của
các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ, cải thiện năng lực của đội
ngũ cán bộ nhân viên và xây dựng một kế hoạch dài hạn cho
chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới cho đến năm 2020. Có
khuyến nghị rằng những ƣu tiên này đƣợc hỗ trợ thông qua
xây dựng một kế hoạch để đạt đƣợc các ƣu tiên. Nhƣ một phần
của kế hoạch, Vụ Bình đẳng giới/Bộ Lao động - Thƣơng binh
và Xã hội nên cân nhắc:
Phát hiện một cơ chế hiệu quả để hoàn thiện cơ cấu thể
chế liên quan đến việc thực hiện hai luật ở tất cả các cấp
của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, từ cấp Bộ đến
cấp xã phƣờng.
Nhận biết những nhu cầu đào tạo của tất cả các cán bộ
nhân viên của Vụ Bình đẳng giới và những cán bộ đầu
mối chiến lƣợc trong Bộ; Các khái niệm giới và khung
giám sát và đánh giá đã đƣợc xác định nhƣ là điểm yếu rõ
ràng của Bộ trong Đánh giá này.
Nhận biết Vụ Tổ chức và Cán bộ của Bộ hoặc cơ quan
tƣơng ứng có thể hỗ trợ và giúp duy trì nhu cầu đào tạo
cán bộ và những nỗ lực xây dựng năng lực của Vụ Bình
đẳng giới từ góc độ thực hiện, báo cáo, giám sát và đánh
giá hiệu quả hơn đối với hai luật.
Đƣa ra ƣu tiên đối với việc phát triển các mục tiêu rõ ràng
với các mục đích và chỉ số tƣơng ứng.
Việc xây dựng các kế hoạch công tác năm của Vụ Bình
đẳng giới sẽ gắn với kế hoạch hành động tổng thể để thực
hiện Luật Bình đẳng giới. Kế hoạch công tác nên giao
87
một tỷ trọng thời lƣợng của cán bộ nhân viên cho mỗi một
hoạt động. Nếu không có đủ cán bộ và năng lực để thực
hiện kế hoạch công tác, lãnh đạo cấp cao cần giải quyết
vấn đề này nhƣ một ƣu tiên. Những giải pháp có thể là
phát hiện những cán bộ có trình độ hơn, thực hiện một
đánh giá nhu cầu đào tạo đối với độ ngũ cán bộ nhân viên
hiện có, đánh giá lại các vai trò và trách nhiệm của Vụ
Bình đẳng giới (cả dọc và ngang) so với những Vụ/Cục
khác trong Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, các đối
tác thực hiện ở cấp tỉnh/thành phố và các Bộ/ngành khác.
Đảm bảo sự phân bổ ngân sách đầy đủ để đáp ứng các ƣu
tiên trong thực hiện Luật Bình đẳng giới.
Đầu tƣ thời gian cho nâng cao động lực. Các cán bộ lãnh
đạo cần hiểu những khuyến khích và hình thức khen
thƣởng có thể đề cao quan điểm và đạo đức của đội ngũ
cán bộ nhân viên của mình. Cơ cấu khuyến khích duy
nhất đƣợc thảo luận đó là làm thêm giờ và không thấy
đƣợc vận hành một cách hiệu quả.
Tạo nên một nhu cầu đối với thông tin, các kết quả và
trách nhiệm giải trình bằng cách hình thành những diễn
đàn thƣờng xuyên, chính thức và phi chính thức để thảo
luận những phát hiện có đƣợc từ Báo cáo này.
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - Những khuyến nghị
Làm rõ các vai trò và trách nhiệm và phân công công
việc. Các cơ cấu thể chế ở cấp quốc gia, tỉnh/thành phố,
huyện/quận và xã/phƣờng chƣa đƣợc hoàn chỉnh và cần
đƣợc giải quyết. Các vai trò và phân công công việc rõ
ràng hơn giữa các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ, Vụ Gia đình
và Phòng Văn hoá và Gia đình ở các tỉnh/thành phố cần
đƣợc thỏa thuận.
Phối hợp ƣu tiên đào tạo. Thiếu một sự phối hợp giữa Bộ
Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch và Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ
để thực hiện hai luật và lên kế hoạch ƣu tiên đào tạo đối
88
với cán bộ nhân viên của họ.
Phát triển các kỹ năng phù hợp hơn. Nhận thức về bình
đẳng giới và bạo lực gia đình ở mọi cấp độ còn thấp. Các
kỹ năng nghiên cứu và đánh giá còn yếu. Cán bộ nhân
viên chƣa đƣợc tập huấn đầy đủ về Luật Bình đẳng giới
và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Các kỹ năng
không tƣơng ứng với các vai trò và trách nhiệm của họ.
Các kỹ năng cần đƣợc nâng cấp và/hoặc những ngƣời có
kỹ năng tƣơng ứng đƣợc tuyển dụng (kiến thức, các kỹ
năng và quan điểm/động lực phù hợp).
Sử dụng những chuyên gia bên ngoài để thực hiện đào
tạo. Các tài liệu đào tạo đang đƣợc cán bộ của Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch xây dựng để tập huấn cho cán bộ
nhân viên cấp tỉnh/thành phố về Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt đối với một
Vụ chỉ có 12 nhân viên. Cho đến khi các vai trò và trách
nhiệm rõ ràng hơn, một sự bố trí sắp đặt khác có thể đáp
ứng tốt hơn các nhu cầu của cán bộ nhân viên cấp
tỉnh/thành phố là khuyến khích các chuyên gia bên ngoài
xây dựng và thực hiện một khoá tập huấn. Cán bộ nhân
viên của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch không nhất
thiết trở thành các chuyên gia về các luật này để có thể
thực hiện một cách hiệu quả.
Áp dụng những kỹ thuật mới để thu thập những số liệu
nhạy cảm về bạo lực gia đình. Thu thập số liệu về bạo lực
gia đình là một công việc đƣợc chuyên môn hoá cao, vì
khiến những ngƣời cung cấp thông tin chính cảm thấy
thoải mái nói về bạo lực gia đình phải cần rất nhiều kinh
nghiệm và đƣợc tập huấn. Cán bộ ở cấp xã/phƣờng có thể
hƣởng lợi lâu dài từ hình thức tập huấn này. Nói cách
khác, những chuyên gia bên ngoài cũng có thể đƣợc tuyển
dụng để thực hiện vai trò thu thập số liệu nhằm giảm bớt
gánh nặng của cán bộ nhân viên xã/phƣờng đang bị quá
tải. Cũng sẽ rất có lợi khi làm quen với các cán bộ phân
89
tích chƣơng trình và chính sách với rất nhiều công cụ và
kỹ thuật để giúp họ trong thực hiện công việc một cách có
trách nhiệm giới và nhạy cảm về bạo lực gia đình.
Hiểu biết về các hình thái ngân sách hoặc các nguồn dành
cho những nhu cầu khác nhau. Lập ngân sách để thực
hiện hai luật cần phải đƣợc thực hiện một cách rõ ràng
hơn và gắn kết với một kế hoạch các hoạt động. Lập ngân
sách dành cho xây dựng năng lực đối với cán bộ nhân
viên cho phép họ thực hiện hai luật cũng cần đƣợc thực
hiện rõ ràng và minh bạch.
Ƣu tiên cho tập huấn đối với quản lý và lãnh đạo. Tập
huấn cho quản lý và lãnh đạo là một ƣu tiên đối với các
cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở tất cả các cấp của chính quyền
chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện cả hai luật. Kết
quả chính của tập huấn nên là xây dựng một kế hoạch
quản lý thay đổi đối với các Bộ, Vụ/Ban/Sở/ngành
và/hoặc các đơn vị tƣơng ứng để cho phép thực hiện,
giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật phải đƣợc thực
hiện theo một cách thức trọng tâm và mang tính hệ thống.
Tập huấn nhƣ vậy nên đƣợc gắn với các mục tiêu phát
triển năng lực cụ thể hơn ở các Bộ, Vụ/Ban/Sở/ngành
và/hoặc các đơn vị tƣơng ứng.
Nghiên cứu kỹ một mô hình về điển hình phù hợp. Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nhân rộng một mô hình
“gia đình phát triển bền vững” hoặc “Câu lạc bộ gia đình
bền vững” để giúp ngăn ngừa và kiểm soát bạo lực gia
đình ở 63 tỉnh/thành phố. Sẽ bổ ích khi làm rõ liệu mô
hình này đã đƣợc nhận biết là một điển hình và nhƣ vậy
phù hợp để nhân rộng.
Thành lập những trung tâm tạm lánh là một ƣu tiên. Có
một yêu cầu thật sự đối với các trung tâm tạm lánh dành
cho nạn nhân bạo lực gia đình. Các Trung tâm bảo trợ xã
hội là không thoả đáng. Điều này cần đƣợc nghiên cứu kỹ
hơn và một loạt các giải pháp cần đƣợc đề ra.
90
7.1.2 Cấp tỉnh/thành phố
Phần sau đây trình bày những khuyến nghị đối với các
khoảng trống về năng lực đƣợc nhận biết trong các cơ quan
chính quyền cấp địa phƣơng đối với Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình. Nhƣ đã thảo luận tại Phƣơng
pháp luận, phần này tập trung vào hai địa phƣơng: Thành phố Hà
Nội và tỉnh Bình Dƣơng. Những khuyến nghị đƣợc dựa trên
những khoảng trống về năng lực đƣợc tìm thấy trong các phân
tích ban đầu của những phát hiện của Đánh giá Năng lực.
Tỉnh Bình Dƣơng - Những khuyến nghị
Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình
Đội ngũ cán bộ và các cơ cấu thể chế
Có nhu cầu về cán bộ nhân viên để thực hiện hai luật. Tuy
nhiên, trƣớc khi tuyển thêm cán bộ, vai trò và trách nhiệm cần
đƣợc làm rõ và các Sở/ngành/tổ chức của tỉnh cần có một chiến
lƣợc và kế hoạch hành động cụ thể đối với hai luật, nhƣ vậy các
kế hoạch công tác hàng năm có liên quan có thể đƣợc xây dựng.
Chỉ sau đó các Sở/ngành mới biết các yêu cầu cụ thể đối với cán
bộ nhân viên của mình.
Kiến thức
Có nhu cầu đối với tập huấn sâu cho cán bộ nhân viên. Các
khoá ngắn hạn ở nƣớc ngoài về các chủ đề giới không đủ đối với
các cán bộ nhân viên trong công việc hàng ngày của họ. Việc
truyền bá kinh nghiệm và đào tạo tại nơi làm việc về một số lĩnh
vực cụ thể, chẳng hạn lồng ghép giới vào xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật nên đƣợc xem xét nhƣ một phƣơng án để tăng
các khoá tập huấn nâng cao. Những kỹ năng chuyên môn đƣợc
yêu cầu thêm; đây có thể là chuẩn bị ngân sách, hình thành các
đề cƣơng dự án, hiểu về các vai trò và trách nhiệm khác nhau
của các đối tác thực hiện, quản lý các nguồn nhân lực, giám sát
tiến độ và kiến thức kỹ thuật về giới và bạo lực gia đình. Cán bộ
nhân viên cũng có thể hƣởng lợi từ việc tập huấn các kỹ năng
mềm chẳng hạn nhƣ truyền thông và hoà giải.
91
Các nguồn lực và các công cụ
Các nguồn quỹ và các khuyến khích bằng tiền là cần thiết
đối với các cán bộ điều phối ở cấp cơ sở cho công việc quan
trọng mà họ đang nhắm tới và tiếp cận trực tiếp với những ngƣời
hƣởng lợi của cả hai luật.
Cần có một loạt các tài liệu truyền thông với các thông điệp
rất đơn giản.
Lãnh đạo
Cần có sự lãnh đạo tập trung hơn của Tỉnh uỷ và Ban chỉ
đạo cấp tỉnh.
Công tác báo cáo và trách nhiệm giải trình
Cần có các mẫu và hƣớng dẫn báo cáo cụ thể hơn đƣợc hỗ
trợ bằng các tập huấn thực tế làm thế nào để sử dụng hƣớng dẫn
và mẫu đó.
Thành phố Hà Nội - Những khuyến nghị
Luật Bình đẳng giới
Các cơ cấu thể chế
Một Ban chỉ đạo và/hoặc “cơ quan thƣờng trực” nên đƣợc
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội thành lập hoặc bổ nhiệm
để điều phối và duy trì các văn bản quy phạm pháp luật, các kế
hoạch ngân sách và viết các quy chế liên quan đến Luật Bình
đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, đã
có rất nhiều Ban chỉ đạo ở Thành phố Hà Nội nơi mà việc tạo
nguồn cho các Ban chỉ đạo này ngày càng trở nên khó khăn và
hiệu lực ngày cang suy giảm của họ. Tính khả thi đối với việc
thành lập một Ban chỉ đạo về Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình cần đƣợc xem xét đánh giá.
Những quy chế và nguyên tắc đƣợc cập nhật hơn ở cấp địa
phƣơng phản ánh về hai luật nên đƣợc sử dụng.
Thực hiện
Vụ Bình đẳng giới thuộc Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã
hội nên xây dựng một kế hoạch quốc gia về bình đẳng giới với
92
những chỉ số rõ ràng và mang tính thực tiễn về bình đẳng giới.
Những chỉ dẫn rất cụ thể làm thế nào để thực hiện chiến lƣợc
đƣợc yêu cầu dựa trên những mục tiêu rõ ràng. Vụ Bình đẳng
giới cũng nên xây dựng những hƣớng dẫn về giám sát, đánh giá
và báo cáo. Việc thực hiện cần đƣợc gắn kết, đƣợc hoạch định và
điều phối tốt hơn trên cả nƣớc. Sự điều phối tốt hơn cần đƣợc
thực hiện trong cũng nhƣ giữa các cơ quan.
Tạo nguồn lực
Cần có cán bộ nhân viên có kinh nghiệm hơn, làm việc toàn
thời ở cấp xã phƣờng và cần nhiều nguồn lực tài chính hơn để
thực hiện hiệu quả Luật Bình đẳng giới.
Lãnh đạo
Tất cả đại biểu tham dự, bao gồm cả cán bộ lãnh đạo, tại các
phiên phản hồi đối với các phát hiện chính tại thực địa ở Hà Nội
đều là nam giới. Họ nhấn mạnh rằng khái niệm bình đẳng giới
mới chỉ có khoảng 10 năm trở lại đây ở Việt Nam và sẽ cần thời
gian để thay đổi hành vi và quan niệm của mọi ngƣời. Sự quan
tâm cần đƣợc đề cập là sự hiện diện phổ biến của nam giới trong
các vị trí lãnh đạo chủ chốt đƣợc xem là cơ hội hơn là một trở
ngại trong thực hiện hai luật.
Kiến thức
Tập huấn về lồng ghép giới đối với cán bộ nhân viên có liên
quan ở tất cả các Vụ/Ban/Sở/ngành, cơ quan và tổ chức ở Hà Nội
là cần thiết vì nhƣ vậy họ có thể lồng ghép giới vào trong các
văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, kế hoạch, chƣơng trình
và dự án của họ. Cũng cần có các tập huấn đối với các cán bộ
nhân viên ở tất cả các cấp của Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã
hội và trong các cơ quan khác có liên quan về thu thập số liệu,
thống kê về giới, số liệu đƣợc phân tách theo giới tính, giám sát,
đánh giá và báo cáo. Cán bộ nhân viên cấp địa phƣơng cần có
các kỹ năng tập huấn để trở thành các tập huấn viên tốt đối với
dân số nói chung về hai luật.
Cần có thêm các hội thảo cho các cán bộ lãnh đạo ở tất cả
các cấp.
93
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
Các cơ cấu thể chế
Ủy ban Nhân dân Thành phố nên tận dụng vai trò của mình
trong phòng, chống bạo lực gia đình để xây dựng những hƣớng
dẫn, chỉ thị và phê duyệt việc thành lập một Ban chỉ đạo về
Phòng, chống bạo lực gia đình.
Cần có các chức năng và trách nhiệm rõ ràng hơn trong các
cơ quan và giữa các Sở/ngành.
Thực hiện
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch nên tham mƣu cho Ủy ban
Nhân dân Thành phố xây dựng một kế hoạch hành động để thực
hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Cần có những chỉ dẫn
rất cụ thể làm thế nào để thực hiện hai luật, dựa trên một chiến
lƣợc với các mục tiêu rõ ràng. Việc thực hiện cần đƣợc gắn kết,
đƣợc hoạch định và điều phối tốt hơn trên cả nƣớc. Sự điều phối
tốt hơn cần đƣợc thực hiện trong và giữa các cơ quan, đơn vị.
Tạo nguồn lực
Cần có cán bộ nhân viên có kinh nghiệm hơn, làm việc toàn
thời ở cấp xã phƣờng và cần nhiều nguồn lực tài chính hơn. Nên
có một ngân sách riêng dành cho công tác liên quan đến thống kê
về bạo lực gia đình.
Lãnh đạo
Cần có một thẩm quyền lãnh đạo “duy nhất” rõ ràng hơn từ
cấp trung ƣơng đến tận cơ sở đối với Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình.
Kiến thức
Cần có nhiều tập huấn hơn về thu thập số liệu và tƣ vấn cho
các nạn nhân của bạo lực gia đình.
Xây dựng một module tập huấn và kế hoạch học tập về
phòng, chống bạo lực gia đình và tƣ vấn cho các nạn nhân của
bạo lực gia đình và lồng ghép vào trong các tài liệu giảng dạy ở
các trƣờng y.
94
Cần có thêm các hội thảo dành cho các cán bộ lãnh đạo và
nhân viên ở cấp địa phƣơng để cho phép họ trở thành những tập
huấn viên và tuyên truyền viên hiệu quả hơn đối với dân số nói
chung về luật pháp.
Trách nhiệm giải trình
Nên có một cơ chế để bảo vệ nhân viên y tế khi chăm sóc
các nạn nhân của bạo lực gia đình.
Giám sát và đánh giá và báo cáo
Xây dựng một cơ chế giám sát, đánh giá và báo cáo về
phòng, chống bạo lực gia đình. Hình thành một cơ sở dữ liệu về
bạo lực gia đình.
7.2. Các tổ chức quần chúng
Phần này phản ánh những khuyến nghị đƣợc bản thân các tổ
chức quần chúng đặt ra đối với Viện Nghiên cứu Gia đình và
Giới và chuyên gia quốc tế. Các khuyến nghị này trực tiếp đối
với bản thân các tổ chức quần chúng, nhƣng cũng rất nhiều
khuyến nghị liên quan đến các tổ chức chính quyền phản ánh
cách thức số liệu đƣợc thể hiện theo lĩnh vực. Các khuyến đƣợc
phân nhóm theo các cấp Trung ƣơng và tỉnh/thành phố.
7.2.1 Cấp Trung ương
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
Các Nghị định cụ thể để giải quyết các vi phạm pháp luật
phải đƣợc ban hành.
Nên đầu tƣ các nguồn lực lớn hơn cho các hoạt động truyền
thông dựa trên bối cảnh và ngôn ngữ của địa phƣơng.
Nên có một cơ chế tạo ra những cách thức khác nhau để hỗ
trợ các nạn nhân bạo lực gia đình. Ƣu tiên nên đƣợc dành
cho công tác tƣ vấn và các trung tâm tạm lánh.
Luật Bình đẳng giới
Nên có một ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ cụ thể hóa việc thực
hiện Luật Bình đẳng giới ở mỗi một Vụ Tổ chức và Cán bộ của
tổ chức quần chúng.
95
Những khuyến nghị chung cho cả hai luật đối với các tổ
chức quần chúng ở cấp Trung ƣơng
Các cơ cấu thể chế
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch nên tiên phong trong xây dựng các kế hoạch
hành động để thực hiện và hình thành một cơ chế điều phối giữa
các cơ quan. Sau đó, nên xây dựng các vai trò cụ thể và phù hợp
hơn của tổ chức và các tiêu chuẩn chức danh công việc.
Một kế hoạch hành động dài hạn cho giai đoạn 2010-2020
nên đƣợc xây dựng để cho phép các chính sách đối với thanh
niên, bình đẳng giới và bạo lực gia đình đƣợc hình thành.
Các nghị định/văn bản hƣớng dẫn thực hiện nên đƣợc cấp
tới tất cả các cơ quan thông qua một cơ chế có hiệu lực cho tất
cả. Một số cán bộ nhân viên không nhận thức đƣợc sự tồn tại của
các văn bản này.
Ƣu tiên nên đƣợc đặt ra để tổ chức một kế hoạch hành động
đối với các hoạt động truyền thông về hai luật. Những cán bộ
nhân viên có chuyên môn sâu hơn nên đƣợc tuyển dụng theo các
tập huấn cán bộ.
Do hiện còn thiếu cán bộ nhân viên, sẽ hiệu quả hơn để tập
huấn cho cán bộ vào năm 2011 và trong năm 2010 tập trung vào
tổ chức một kế hoạch hành động đối với các hoạt động truyền
thông về hai luật.
Làm rõ các vai trò của các tổ chức quần chúng khác nhau để
tránh sự tham dự mặc nhiên của Hội liên hiệp phụ nữ.
Nhấn mạnh vai trò của các tổ chức quần chúng trong vận
động truyền bá bình đẳng giới và tổ chức và đại diện cho các
thành viên của cộng đồng trong các cơ quan của Chính phủ.
Nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong vận
động và nâng cao nhận thức của động đồng liên quan đến tầm
quan trọng của bình đẳng giới và cuộc đấu tranh chống bạo lực
gia đình.
96
Kiến thức
Điều quan trọng là nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và
Luật Bình đẳng giới trong các cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cấp uỷ.
Một gói tập huấn cho tập huấn viên về hai luật nhằm vào các
cán bộ nhân viên chủ chốt có thể là bổ ích. Tập huấn nên dài hơn
và với cƣờng độ cao hơn để thay đổi quan niệm và hành vi ứng
xử của cán bộ nhân viên.
Một Website về phát triển kỹ năng sẽ hữu ích đối với Trung
ƣơng đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, đặc biệt nhƣ một
cách thức tƣơng đối rẻ tiền để truyền thông thông tin về hai luật.
Lãnh đạo
Cần có một tầm nhìn, khung thời gian dài và các nguồn
lực đƣợc cam kết để xây dựng chƣơng trình hiệu quả đối với
hai luật.
Thực hiện
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên đóng vai trò xúc tác thay
mặt các tổ chức thành viên của mình để thực hiện một hệ thống
hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình.
Hợp tác tốt hơn trong các hoạt động tập huấn giữa Vụ
Truyền thông và Giáo dục và Trung ƣơng đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh. Đã có sự hợp tác trong thực hiện một dự án
truyền thông tại các trƣờng học về hai luật.
Các tổ chức xã hội dân sự hoạt động trong lĩnh vực bình
đẳng giới và bạo lực gia đình nên tham gia vào quá trình thúc
đẩy bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình của các cơ
quan chính phủ và các tổ chức quần chúng.
7.2.2 Cấp tỉnh/thành phố
Các khuyến nghị trong phần này trực tiếp liên quan đến bản
thân các tổ chức quần chúng, nhƣng cũng rất nhiều khuyến nghị
liên quan đến các tổ chức chính quyền phản ánh cách thức số
liệu đƣợc thể hiện theo lĩnh vực.
97
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
Thực hiện
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch nên phát triển một hệ
thống thực hiện bao gồm các chỉ số, một cơ sở dữ liệu, các mẫu
báo cáo và các phƣơng thức phối hợp để tạo thuận lợi cho thực
hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình.
Cần có rà soát hệ thống về trừng phạt những ngƣời vi phạm
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Rất ít hình phạt đã đƣợc
cƣỡng chế thi hành.
Cần có các kỹ năng, nguồn lực và sự lãnh đạo trong các tổ
chức chủ chốt để giúp công chúng tiếp cận tốt hơn với thông tin
và dịch vụ phòng, chống bạo lực gia đình.
Kiến thức
Tăng cƣờng nhắm tới nam giới thông qua phát hiện khai
thác các mô hình về Phòng, chống bạo lực gia đình làm thay đổi
thành công hành vi ứng xử của nam giới. Tiếp cận với các mô
hình phù hợp nhất để nhân rộng trong mỗi một tỉnh/huyện/xã
tƣơng ứng. Xây dựng mô hình trong một chu trình xây dựng
chƣơng trình.
Các khoá tập huấn nên đƣợc thực hiện với thời lƣợng dài
hơn và phù hợp với nhƣ cầu công việc hàng ngày.
Cán bộ nhân viên ở cấp cơ sở nên đƣợc hƣởng lợi từ tập
huấn về làm thế nào để xác định các hình thức khác nhau của
bạo lực gia đình, làm thế nào để hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực
gia đình và hiểu biết các nạn nhân có thể tiếp cận hỗ trợ pháp lý
ở đâu.
Tập huấn về bạo lực gia đình và Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình cho các cán bộ lãnh đạo của các Vụ/Ban, cơ quan và tổ
chức trong tỉnh/thành phố là một ƣu tiên và nên đƣợc thực hiện
trên cơ sở hàng năm. Điều này yêu cầu một kế hoạch tập huấn và
xây dựng năng lực cụ thể. Trong kế hoạch này, một tập hợp các
kỹ năng cụ thể cần đƣợc hình thành để thực hiện, giám sát, đánh
98
giá và báo cáo về Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Cần có tập huấn về các phƣơng tiện thông tin nghệ thuật
khác nhau để truyền thông về các thông điệp về bạo lực gia đình
cho công chúng. Các hình thức hiện hành không hiệu quả.
Hệ thống truyền hình địa phƣơng nên quảng bá hoạt động
của các Toà án về các trƣờng hợp bạo lực gia đình với mục đích
nâng cao nhận thức của các cơ quan có trách nhiệm đối với thực
tiễn hiện hành.
Các nguồn lực
Cần có thêm các tài liệu nâng cao nhận thức phù hợp với
mỗi một nhóm mục tiêu khác nhau.
Giao thêm biên chế hoặc tuyển dụng thêm cán bộ ở cấp cơ
sở để giải quyết gánh nặng công việc sẽ là hiệu quả.
Một dòng ngân sách riêng để thực hiện các nhu cầu của Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình cần đƣợc hình thành.
Trách nhiệm giải trình
Một hệ thống để phân bổ tài liệu và thông tin cần thiết cho
thực hiện hiệu quả Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cần đƣợc
hình thành đối với tất cả các cơ quan có liên quan.
Thành lập một hệ thống khen thƣởng đối với cán bộ nhân
viên sẽ khuyến khích thực hiện hiệu quả pháp luật.
Cần xây dựng một cơ chế đối với các tổ chức quần chúng để
giám sát thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Luật Bình đẳng giới
Thực hiện
Hầu hết các cơ quan đều thấy khó để tiếp cận thông tin và
các văn bản liên quan đến pháp luật đối với bình đẳng giới và để
thực hiện các Nghị định. Nhƣ vậy, điều quan trọng là hình thành
một hệ thống cung cấp đủ thông tin và các văn bản liên quan cho
các tổ chức quần chúng.
Chính quyền trung ƣơng nên ban hành một quy chế trùng
khớp với phạm vi của quá trình xây dựng chƣơng trình nâng cao
99
nhận thức trong phƣơng tiện thông tin đại chúng với một nguồn
kinh phí tƣơng ứng đủ để có thể cho phép những hoạt động nhƣ
vậy đƣợc thực hiện. Điều này đảm bảo rằng phƣơng tiện thông
tin đại chúng đóng một vai trò hiệu quả.
Một Ban chỉ đạo quốc gia về bình đẳng giới nên tạo ra
một CD có chứa nội dung “Hỏi và đáp” đơn giản để sử dụng
cho các trạm truyền thanh ở cộng đồng, nhƣ vậy chi phí sử
dụng phƣơng tiện thông tin đại chúng để đến với cộng đồng
giảm xuống.
Tạo nguồn lực
Cần quy định một khoản trợ cấp cho các cán bộ điều phối ở
cấp cơ sở để khuyến khích một sự cam kết lớn hơn đối với công
việc của họ.
Cần có một sự phân bổ kinh phí riêng và đầy đủ để thực
hiện luật.
Kiến thức
Xây dựng các kỹ năng hỗ trợ sự đa dạng lớn hơn các tài liệu
truyền thông về bình đẳng giới, ví dụ tạo ra những tờ gấp, tờ rơi
và cẩm nang khác nhau.
Quan trọng là nâng cao nhận thức về pháp luật trong số các
cán bộ lãnh đạo cấp cao bao gồm cả những cán bộ ban hành
chính sách và hoạch định ở cấp tỉnh/thành phố để khuyến khích
họ quan tâm nhiều hơn đối với thúc đẩy bình đẳng giới và Luật
Bình đẳng giới. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ, chính quyền địa
phƣơng và của các tổ chức quần chúng trong thực hiện Luật
Bình đẳng giới cần đƣợc nâng lên.
Tập huấn thêm cho các cán bộ nhân viên cấp tỉnh/thành phố
về giám sát, đánh giá và báo cáo về Luật Bình đẳng giới.
Nên tổ chức thêm các hội thảo để tạo các cơ hội trao đổi
kinh nghiệm. Trình diễn nhiều hơn các mô hình hiệu quả chẳng
hạn “các câu lạc bộ”. Một lựa chọn để trao đổi các kỹ năng và
kiến thức giữa các tổ chức quần chúng thông qua hỗ trợ lẫn nhau
nên đƣợc xem xét tìm hiểu.
100
Cần có thêm các tập huấn đƣợc thiết kế kỹ lƣỡng cho cán
bộ nhân viên ở các cấp cơ sở với (1) sự quan tâm lớn hơn đối
với tính phù hợp của các nội dung tập huấn; (2) có thông báo
đầy đủ khi tập huấn đƣợc tổ chức và (3) cân nhắc kỹ hơn đối
với thời gian tổ chức tập huấn. Với những cân nhắc này, những
ngƣời đƣợc mời tham dự hoàn toàn có thể có mặt và tham dự
đầy đủ và vẫn có thể quản lý từ xa cơ quan của họ. Để duy trì
tập huấn nhƣ vậy cần có sự quan tâm nhiều hơn đối với quá
trình lựa chọn tập huấn.
Giám sát và đánh giá và báo cáo
Cần có một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ
để giám sát quá trình lồng ghép giới.
Xây dựng mẫu báo cáo với các chỉ số và nội dung cụ thể để
sử dụng ở cấp cơ sở.
Cần có các tiêu chí đánh giá và các chỉ số giám sát đƣợc lựa
chọn đối với việc thực hiện hiệu quả bình đẳng giới.
Một mô hình điển hình về giám sát luật cần đƣợc xây dựng.
Bình đẳng giới là một vấn đề nhạy cảm. Mô hình mà Mặt trận
Tổ quốc Hà Nội sử dụng nên đƣợc nghiên cứu kỹ thêm nhƣ một
điển hình tốt. Một hộp thƣ dành cho công dân để gửi các khiếu
nại đã đƣợc hình thành tại một địa điểm thuận lợi. Quá trình mà
Mặt trận Tổ quốc Hà Nội giải quyết các khiếu nại đã đƣợc tƣ
liệu hoá do vậy có cơ hội để đánh giá nếu đây là một cách thức
hiệu quả để lắng nghe từ các công dân những vấn đề về bình
đẳng giới.
Quá trình đánh giá cần đƣợc hình thành và đƣợc quản lý với
một đánh giá ban đầu việc thực hiện pháp luật đƣợc tiến hành
càng sớm càng tốt. Điều quan trọng là để đo mức độ công chúng
nhận thức về nội dung của các luật và đƣa ra những khuyến nghị
làm thế nào để Luật Bình đẳng giới đến gần ngƣời dân hơn. Một
lựa chọn thứ hai đối với đánh giá là một nghiên cứu về các hoạt
động của Đoàn thanh niên Hà Nội để xúc tiến các cơ hội đối với
thanh niên và tác động đang có lên việc thực hiện Luật Bình
đẳng giới. Tuy nhiên những nghiên cứu nhƣ vậy cần đƣợc các
101
cán bộ lãnh đạo ủng hộ và sự phân bổ ngân sách thƣờng xuyên
và đồng nhất cần đƣợc đảm bảo.
Giám sát và đánh giá việc thực hiện Luật Bình đẳng giới đòi
hỏi một kế hoạch hành động cụ thể theo đó xây dựng một hệ
thống giám sát và đánh giá. Hệ thống này nên bao gồm một kế
hoạch về các hoạt động giám sát và đánh giá để tránh các hoạt
động và kết quả trùng lắp. Các tổ chức quần chúng thƣờng lƣu ý
rằng họ đang tiến hành rất nhiều các chuyến giám sát và đánh giá
vào cùng một thời gian. Các hoạt động giám sát và đánh giá là
phức tạp nhƣng thƣờng trở nên rất hời hợt và không hiệu quả vì
có quá nhiều hoạt động xảy ra đồng thời.
Có một nhu cầu đối với chính quyền trung ƣơng (Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội) cung cấp các số liệu đƣợc tách
biệt theo giới tính trên cơ sở thƣờng xuyên.
8. CÁC HỆ THỐNG VÀ QUY TRÌNH ĐỔI MỚI
Phần này liệt kê sự lựa chọn những điển hình cần đƣợc cân
nhắc để nhân rộng.
Những “Điển hình” hoặc “Gƣơng mẫu” đã đƣợc mô tả nhƣ
những gì dẫn đến thay đổi thực sự, đóng góp cho một môi trường
chính sách có ích hơn đối với bình đẳng giới và/hoặc phá vỡ căn
nguyên mới trong những lĩnh vực phi truyền thống đối với phụ
nữ”19
. Hơn nữa, một điển hình tốt ở một nơi có thể không thành
công ở nơi khác nếu không có sự điều chỉnh cho phù hợp với
nhu cầu cụ thể của cộng đồng đó.
Những tiêu chí sau đây là một tập hợp các tiêu chuẩn hoặc
chỉ số chung và thƣờng đƣợc sử dụng đối với các điển hình20
:
Hiệu quả
19. Một báo cáo đặc biệt về bạo lực chống lại phụ nữ
E/CN.4/2003/75/Add.1, đoạn 2147; Trích dẫn cùng nguồn.
20. Nghiên cứu bối cảnh để thẩm định “những thực tiễn hứa hẹn” đối
với Nghiên cứu của Tổng thƣ ký Liên hợp quốc về Bạo lực chống lại Phụ nữ
102
Thực tiễn
Bền vững
Có trách nhiệm
Mang tính đổi mới
Liên minh chiến lƣợc và phối hợp trong thực hiện thực tiễn
giữa Nhà nƣớc và xã hội dân sự hoặc giữa các cơ quan.
Danh sách các mô hình và cách tiếp cận dƣới đây đã đƣợc
xác định để nghiên cứu thêm về những phẩm chất đổi mới tiềm
năng và điển hình của họ và sau đó đƣợc xem xét để nhân rộng.
Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu thêm thông qua những cuộc
phỏng vấn tiếp theo. Một rà soát công tác phân tích đã không
đƣợc đƣa vào báo cáo này cũng nên đƣợc xem xét với mục tiêu
phát hiện những điển hình tiềm năng khác.
Các điển hình tiềm năng:
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nhân rộng một mô
hình “gia đình phát triển bền vững” hoặc “Câu lạc bộ gia
đình bền vững” để ngăn ngừa và kiểm soát bạo lực gia
đình ở 64 tỉnh/thành phố.
Ở tỉnh Bình Dƣơng, một số Sở/ngành đƣa một chỉ tiêu
bình đẳng giới vào đánh giá thực hiện nhiệm vụ hàng năm
của họ đối với các cá nhân và tổ chức để ghi nhận những
cán bộ nhân viên có những đổi mới và thành tựu liên quan
đến bình đẳng giới.
“Những phong trào ở cộng đồng” chẳng hạn “các gia
đình/đơn vị văn hóa” đƣợc xem xét là một phần quan
trọng trong thực hiện cả hai luật ở tỉnh Bình Dƣơng. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam giám sát các hoạt động của các
đơn vị văn hóa trong xã/phƣờng và thông qua Thanh tra
nhân dân để phát hiện những trƣờng hợp bạo lực.
Có một số kết quả khả quan từ phƣơng thức “câu lạc bộ”
do Hội phụ nữ tỉnh/thành phố hỗ trợ thực hiện. Ba câu lạc
bộ đã đƣợc đề cập một cách chi tiết: Câu lạc bộ “Chỗ dựa
đàn ông”, Câu lạc bộ phụ nữ và câu lạc bộ chủ nhà.
103
Các tòa án di động đã đƣợc xác định với tiền năng để mở
rộng cách thức giải quyết các trƣờng hợp bạo lực gia đình.
Những Sở/ngành có liên quan ở tỉnh/thành phố và các tổ
chức quần chúng đã sử dụng các mô hình cộng đồng để
đến đƣợc với ngƣời dân ở cấp cơ sở ở tỉnh Bình Dƣơng.
Mặt trận Tổ quốc Hà Nội đã xây dựng một điển hình để
giám sát Luật Bình đẳng giới. Đặc biệt, một hòm thƣ cho
công dân gửi những khiếu nại đã đƣợc hình thành ở một
địa điểm thuận tiện. Quá trình Mặt trận Tổ quốc Hà Nội
giải quyết các khiếu nại đã đƣợc tƣ liệu hoá do vậy có cơ
hội để đánh giá nếu đây là một cách thức hiệu quả để lắng
nghe từ các công dân những vấn đề về bình đẳng giới.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình thông qua các hoạt động hòa giải ở cấp
cơ sở. Quá trình giải quyết các trƣờng hợp bạo lực gia
đình nói chung nên đƣợc nghiên cứu kỹ.
Các cuộc thi và khen thƣởng đã đƣợc sử dụng rộng rãi ở
Việt Nam để tập hợp ngƣời dân xung quanh những vấn đề
đặc biệt. Các cuộc thi có tiềm năng đa dạng hóa cách thức
các hoạt động truyền thông nên đƣợc thực hiện. Việc
nghiên cứu liệu các cuộc thi có hiệu quả trong nâng cao
nhận thức và hiểu biết về hai luật nên đƣợc giám sát. Ở
Hà Nội, một hệ thống khen thƣởng đƣợc một ban chỉ đạo
xây dựng “nếp sống văn hóa” chỉ đạo thực hiện. Họ tặng
thƣởng các bằng khen cho các làng và tổ dân số dựa trên
các tiêu chí liên quan đến thực hiện Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình.
Các trƣờng của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
đang xây dựng một giáo trình bao gồm bình đẳng giới.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có một dự án với
chủ đề đƣợc gọi là “tƣ vấn cửa sổ tình yêu” nơi Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh sử dụng tờ báo của
mình, tờ tin của Ban Truyền thông và Giáo dục và đài
104
tiếng nói (truyền phát vào Chủ nhật) để phổ biến thông
tin. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cũng có các
diễn đàn dành cho tuổi thiến niên trên Báo tiền phong
của mình.
Ở tỉnh Thái Bình, Hội Phụ nữ huyện đã hƣớng dẫn các chi
hội của mình ở cấp huyện tổ chức một cuộc đua tài về
“Các chủ tịch Hội thông minh”. Cho đến nay, sáu trong
tám huyện đã tổ chức thành công cuộc thi này.
9. KẾT LUẬN
Phát triển năng lực là một cách thức để thúc đẩy thay đổi,
xây dựng động lực và các kỹ năng và thay đổi quan niệm để
hƣớng tới thúc đẩy bình đẳng giới và lồng ghép giới. Nhƣ đã
nêu trong Báo cáo Đánh giá Năng lực này, có rất nhiều cách
thức và phƣơng pháp khác nhau để phát triển năng lực và mỗi
một cách tiếp cận cần đƣợc gắn với mỗi một thể chế, một tổ
chức hoặc cá nhân.
Hoạt động đánh giá năng lực đã tạo một cơ hội để đánh giá
tập thể năng lực của mỗi một tổ chức để chuyển tải các kết quả
và sản phẩm một cách hiệu quả hơn liên quan đến hai luật, nếu
có ý chí để có trách nhiệm đối với các phát hiện và các khuyến
nghị đƣợc nêu ra ở đây.
Những phát hiện chính
Những yếu kém chính qua các tổ chức đã đƣợc nhận biết
theo ba vấn đề năng lực trọng tâm: kiến thức, lãnh đạo và các cơ
cấu thể chế.
Kiến thức - Bình đẳng giới là một khái niệm còn tƣơng đối
mới ở Việt Nam. Bạo lực gia đình thƣờng đƣợc cho là một vấn
đề riêng tƣ của gia đình cho đến khi luật đƣợc ban hành. Điều
này đƣợc phản ánh trong các kết quả của Báo cáo Đánh giá năng
lực. Nhìn chung, kiến thức cơ bản và các kỹ năng chuyên môn
về bình đẳng giới và bạo lực gia đình còn thấp và chƣa đủ để
thực hiện hiệu quả hai luật. Các cán bộ ban hành chính sách và
105
chuyên gia chƣơng trình sẽ không mở rộng trọng tâm can thiệp
của họ từ „sự tiến bộ của phụ nữ‟ để cân nhắc và thu hút các vấn
đề bình đẳng giới mà không nhận đƣợc các kiến thức và công cụ
cụ thể đƣợc cập nhật về bình đẳng giới và bạo lực gia đình.
Những khoảng trống cụ thể trong kiến thức và kỹ năng đã đƣợc
Báo cáo Đánh giá năng lực này nhận biết:
Các kỹ năng lãnh đạo và quản lý trong thực hiện Luật
Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
(bao gồm hoạch định chiến lƣợc, quản lý thay đổi, xây
dựng và phát triển năng lực, trách nhiệm giải trình và
động lực).
Các khái niệm cơ bản về giới, bình đẳng giới, bạo lực gia
đình, giám sát, đánh giá và báo cáo.
Các công cụ lồng ghép giới thực tiễn.
Nhận thức và hiểu biết về Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình.
Quản lý đánh giá và nghiên cứu.
Các chƣơng trình để bảo vệ nạn nhân.
Các chƣơng trình và các hoạt động nhắm tới nam giới.
Lãnh đạo - Thiếu một sự lãnh đạo kiên quyết về nhữung vấn
đề này. Thông điệp chính là các cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp
cao có nhu cầu cạnh tranh và sự ƣu tiên đối với Luật Bình đẳng
giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn thấp. Những
nguồn lực thỏa đáng chƣa đƣợc phân bổ cho thực hiện và rất ít
bằng chứng đề xuất rằng các cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp cao
đang đòi hỏi cán bộ nhân viên phân tích, thông tin và cập nhật
tiến độ. Khi những đòi hỏi này đƣợc đƣa ra có rất ít khuyến
khích đối với hành động và cán bộ nhân viên không có trách
nhiệm giải trình trong thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình.
Cơ cấu thể chế - Có một số kẽ hở trong các Nghị định và
những hƣớng dẫn kém chất lƣợng giữa các tổ chức đã ngăn cản
việc thực hiện. Những ngƣời chịu trách nhiệm đối với thực hiện
106
hai luật không thể thực hiện điều đó mà không có một chiến lƣợc
rõ ràng, các vai trò và trách nhiệm đƣợc xác định và tiêu chuẩn
chức danh đƣợc gắn kết. Những cán bộ đầu mối đã không đƣợc
nhận biết trong rất nhiều tổ chức và các cán bộ chuyên môn đầu
ngành đã không đƣợc nuôi dƣỡng – điều này càng rụt rè hơn khi
không có một cơ cấu tổ chức rõ ràng. Không có đề cập đến vai
trò của các Vụ Tổ chức và cán bộ trong bất kỳ một phân tích số
liệu sơ bộ nào cũng nhƣ không có đối với phát triển năng lực tổ
chức hoặc các chiến lƣợc học tập và các quá trình phát triển nhân
sự. Do vậy tính bền vững, hiệu quả và tính phù hợp của bất kỳ
một phản ứng phát triển năng lực nào đƣợc đặt ra mà không có
sự gắn kết rõ ràng đối với các Vụ/ban, chiến lƣợc và các quá
trình này.
Những khuyến nghị chính
Những khuyến nghị chính sau đây vô cùng quan trọng để
khắc phục những yếu kém chủ yếu đan xen trong tổ chức đã
đƣợc tổng hợp ở trên và đƣợc nhận biết trong Báo cáo Đánh giá
năng lực. Những khuyến nghị này cũng giúp thực hiện ở cấp độ
năng lực được kỳ vọng (xem phần Phƣơng pháp luận) mà
Chƣơng trình chung về Bình đẳng giới xác định đối với Báo cáo
Đánh giá năng lực này.
Ƣu tiên phải đƣợc đặt ra đối với việc làm rõ các cơ cấu thể
chế cho việc thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật
qua tất cả 15 tổ chức đƣợc Báo cáo Đánh giá Năng lực đƣa vào.
Một xuất phát điểm là phân tích của Viện Nghiên cứu Gia đình
và Giới đƣợc chuẩn bị và triển khai tại Hội thảo về Báo cáo
Đánh giá năng lực tổ chức vào tháng 12 năm 2009, trong đó đã
mô tả những cơ quan/tổ chức chủ chốt với các vai trò và trách
nhiệm của họ liên quan đến hai luật. Công việc này nên đƣợc
thực hiện chặt chẽ cùng với việc xây dựng các chƣơng trình mục
tiêu quốc gia về thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình và trong sự phối hợp với các Vụ/Ban về
nguồn nhân lực và/hoặc Tổ chức và cán bộ ở mỗi một tổ chức
chủ chốt. Đây là những giải pháp trung hạn quan trọng để thực
107
hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật cần đƣợc hỗ trợ
đồng thời của các giải pháp ngắn hạn.
Giải pháp ngắn hạn quan trọng đầu tiên đƣợc khuyến nghị là
tổ chức một diễn đàn ở cấp cao để thu hút các cán bộ lãnh đạo
chủ chốt ở các cấp độ khác nhau trong Chính phủ và của các
nhóm đối tác khác nhau với mục tiêu thiết lập bƣớc đầu hƣớng
tới nhóm điều phối cao cấp ở cấp Bộ đối với hai luật. Giải pháp
ngắn hạn quan trọng thứ hai đƣợc khuyến nghị là thực hiện một
phiên giới thiệu về phát triển chuyên môn cho tất cả các cơ quan
đối tác thực hiện quan trọng nhất trong mỗi một tổ chức nhƣ đã
thảo luận kỹ trong phần 6.4. Cần đƣợc thực hiện thí điểm tại 5 tổ
chức quan trọng trong 15 tỉnh/thành phố đã đƣợc lựa chọn trƣớc.
Tập huấn nên đƣợc cấu trúc theo ba cấp độ về kỹ năng và các đối
tác thực hiện cần đƣợc chia tƣơng ứng, ví dụ (1) những ngƣời
hoàn toàn chƣa biết về các khái niệm bình đẳng giới và bạo lực
gia đình, (2) những ngƣời cần có thêm hiểu biết và đƣợc bổ túc
thêm các kiến thức cơ bản; và (3) những ngƣời hoạt động nhƣ
những cán bộ đầu mối chiến lƣợc ở địa phƣơng, những chuyên gia
tiềm năng và những ngƣời đứng đầu. Điều này có thể đem lại lợi
ích nếu tập huấn này đƣợc sử dụng để đánh giá thêm về tập hợp
các kỹ năng đang thiếu và gắn với xây dựng chuyên môn để thúc
đẩy nhằm ghi nhận vai trò quan trọng mà họ đang đảm nhận.
Cuối cùng, điều đáng lƣu ý là một môi trƣờng để phản ánh
và học hỏi cần đƣợc tạo ra trong mỗi một tổ chức để phản ánh
những phát hiện và các khuyến nghị của Báo cáo Đánh giá Năng
lực này. Môi trƣờng này là một cơ hội đối với các cán bộ lãnh
đạo để thu hút và và khuyến khích hơn nữa cán bộ nhân viên của
mình hành động một cách chiến lƣợc trong thực hiện hai luật
trƣớc khi bắt đầu bất kỳ hành động cụ thể nào. Môi trƣờng này
nên có trƣớc bất kỳ một sự hoạch định chiến lƣợc hoặc hội nghị
quản lý thay đổi nào./.