báo cáo cuối cùng - genic.molisa.gov.vngenic.molisa.gov.vn/portals/0/users/doingoai/upload...

107
1 Đánh giá năng lực của các cơ quan quản lý nhà nƣớc và các cơ quan có liên quan khác để thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình Báo cáo cuối cùng: Những phát hiện và khuyến nghị Tháng 9 năm 2010

Upload: others

Post on 04-Nov-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

Đánh giá năng lực của các cơ quan quản lý nhà nƣớc

và các cơ quan có liên quan khác để thực hiện Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Báo cáo cuối cùng: Những phát hiện và khuyến nghị

Tháng 9 năm 2010

2

3

Lời cảm ơn

Báo cáo này và những phụ lục đính kèm là kết quả của sự nỗ lực

hợp tác của một nhóm các chuyên gia quốc tế và quốc gia, gồm

chị Andrea Mestrov, anh Lars Udsholt, chị Vũ Thu Hồng và chị

Lê Thị Mai Hƣơng. Báo cáo đƣợc thực hiện với sự hợp tác chặt

chẽ của Viện Gia đình và Giới với lời cảm ơn đặc biệt tới Tiến

sỹ Nguyễn Hữu Minh, Viện trƣởng và các cán bộ nghiên cứu của

Viện. Sự hỗ trợ quý báu của Ban Quản lý dự án Ô (PMU)

Chƣơng trình Hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên

hợp quốc về Bình đẳng giới (JPGE) của Bộ Lao động - Thƣơng

binh và Xã hội, với lời cảm ơn đặc biệt tới bà Nguyễn Thị Diệu

Hồng, Phó giám đốc và chị Aya Matsuura, chuyên gia giới của

JPGE. Chị Patricia Rosa Garcia, cán bộ chƣơng trình của

UNIFEM Việt Nam đã hỗ trợ nhằm đảm bảo Báo cáo đem lại giá

trị gia tăng đối với JPGE. Nhóm đặc biệt cảm ơn về sự hợp tác

của tất cả những ngƣời cung cấp thông tin đến từ các tổ chức:

Ban Tuyên giáo Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (Vụ các

vấn đề xã hội), Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội; các tổ

chức của Chính phủ, gồm: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã

hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Y tế, Bộ Tƣ pháp, Bộ Thông tin

và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn; các tổ chức quần chúng: Hội Liên hiệp Phụ nữ

Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông

dân Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam; các mạng lƣới tổ chức phi chính phủ: CSAGA,

NEW, CEPEW; và các tổ chức của Liên hợp quốc và tổ chức tài

trợ tại Việt Nam: UNDP, UNFPA, Văn phòng Điều phối viên

Thƣờng trú của Liên hợp quốc, UNIFEM và AECID.

Quá trình viết, biên tập và điều phối đã đƣợc bà Andrea Mestrov

(chuyên gia tƣ vấn chính) thực hiện dƣới sự giám sát của chị

Patricia Rosa Garcia (cán bộ chƣơng trình, UNIFEM Việt Nam),

4

bà Nguyễn Thị Diệu Hồng (chuyên viên chính Vụ Bình đẳng

giới, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội) và chị Aya

Matsuura (chuyên gia giới của JPGE) và sự quản lý của Tiến sỹ

Suzette Mitchell (Giám đốc quốc gia, UNIFEM Việt Nam).

5

NỘI DUNG

1. GIỚI THIỆU Error! Bookmark not defined.

1.1 Bối cảnh và những mục tiêu của Báo cáo Đánh giá Năng lựcError! Bookmark not defined.

1.2 Phát triển năng lực và Giới: Văn hóa thay đổi và cầu thị 11

2. PHƢƠNG PHÁP LUẬN 13

2.1 Khung Đánh giá Năng lực 15

2.2 Tiến trình 17

2.3 Phƣơng pháp luận và các công cụ để thu thập và phân tích

số liệu 20

2.4 Những ngƣời cung cấp thông tin chính 22

3. BỐI CẢNH 23

3.1 Luật Bình đẳng giới 23

3.2 Môi trƣờng điều chỉnh chính sách – Luật Bình đẳng giới 24

3.3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 26

3.4 Môi trƣờng điều chỉnh chính sách – Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình 27

4. NHỮNG PHÁT HIỆN CHUNG 27

4.1 Cơ cấu thể chế 28

4.2 Thực hiện 30

4.3 Lãnh đạo 31

4.4 Kiến thức 32

4.5 Giám sát, Đánh giá và Báo cáo 34

4.5 Trách nhiệm giải trình 35

5. NHỮNG PHÁT HIỆN CỤ THỂ 37

5.1 Các tổ chức Chính phủ 38

5.1.1 Cấp trung ƣơng 38

5.1.2 Cấp tỉnh/thành phố 47

5.2 Các tổ chức quần chúng 61

5.2.1 Cấp trung ƣơng 61

5.2.2 Cấp tỉnh/thành phố 62

6. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CHUNG 65

6.1 Cơ cấu thể chế 65

6.2 Thực hiện 69

6.3 Lãnh đạo 73

6.4 Kiến thức 75

6.5 Giám sát, đánh giá và báo cáo 81

6.6 Trách nhiệm giải trình 84

6

6.7 Những bƣớc tiếp theo quan trọng 85

7. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CỤ THỂ 85

7.1 Các tổ chức của Chính phủ 86

7.1.1 Cấp trung ƣơng 86

7.1.2 Cấp tỉnh/thành phố 90

7.2 Các tổ chức quần chúng 94

7.2.1 Cấp Trung ƣơng 94

7.2.2 Cấp tỉnh/thành phố 96

8. CÁC HỆ THỐNG VÀ QUY TRÌNH ĐỔI MỚI 101

9. KẾT LUẬN 104

CÁC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Các công cụ của phƣơng pháp luận

Phụ lục 2: Các bảng kiểm cuối cùng - phản ánh nhanh về năng lực của

mỗi một tổ chức và tỉnh/thành phố

7

MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT

BĐG Bình đẳng giới

BLGĐ Bạo lực gia đình

Bộ LĐ-TBXH Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội

Bộ VHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

CBO Tổ chức dựa vào cộng đồng

CEDAW Công ƣớc về Xóa bỏ tất cả các hình thức phân

biệt đối xử chống lại phụ nữ

CFAW Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ

DOVIPNET Mạng Phòng, chống bạo lực gia đình

ĐGNL Đánh giá năng lực

GENCOMNET Mạng Giới và Phát triển Cộng đồng

GSO Tổng cục Thống kê

Hội LHPN Hội Liên hiệp Phụ nữ

IFGS Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới

ILO Tổ chức Lao động Quốc tế

JPGE Chƣơng trình Hợp tác chung giữa Chính phủ

Việt Nam và Liên hợp quốc về Bình đẳng giới

Luật BĐG Luật Bình đẳng giới

Luật PCBLGĐ Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

M&E Giám sát và đánh giá

MTTQ Mặt trận Tổ quốc

NCFAW Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ

NEW Mạng Tăng quyền năng cho phụ nữ

NGO Tổ chức phi chính phủ

PCFAW Ban vì sự tiến bộ của Phụ nữ tỉnh/thành phố

SEDP Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

SMA Cơ quan quản lý nhà nƣớc

8

Sở LĐ-TBXH Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội

Sở VHTTDL Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

SWOT Mặt mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức

UBND Ủy ban Nhân Dân

UBQG Ủy ban Quốc gia

UNDP Chƣơng trình Phát triển của Liên hợp quốc

UNFPA Quỹ Dân số Liên hợp quốc

UNIFEM Quỹ Phát triển Phụ nữ của Liên hợp quốc

VCCI Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam

VSTBPN Vì sự tiến bộ của phụ nữ

9

1. GIỚI THIỆU

1.1. Bối cảnh và những mục tiêu của đánh giá năng lực

Chƣơng trình chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp

quốc về Bình đẳng giới (JPGE) đang hỗ trợ kỹ thuật mang tính

chiến lƣợc, đa ngành và đƣợc điều phối nhằm xây dựng năng lực

cho các cơ quan chịu trách nhiệm ở cấp trung ƣơng và cấp tỉnh

để các cơ quan này có thể thực hiện tốt hơn hai luật: Bình đẳng

giới và Phòng, chống bạo lực gia đình từ năm 2009 đến năm

2011. Với sự hình thành một khối vững chắc và đồng tâm nhất

trí của 12 cơ quan, Liên hợp quốc đang ở vị thế thuận lợi hơn để

hợp tác với các đối tác quốc gia nhằm đem lại sự thay đổi ở cấp

cao nhất hƣớng tới bình đẳng giới ở Việt Nam.

Đặt việc thực hiện các quyền con ngƣời và an ninh của phụ

nữ vào trọng tâm của tất cả các nỗ lực của mình, Quỹ Phát triển

Phụ nữ của Liên hợp quốc (UNIFEM) tập trung các hoạt động

của mình trong JPGE đối với các Kết quả chung sau đây:

Các kỹ năng, kiến thức và thực tiễn để thực hiện, giám

sát, đánh giá và báo cáo Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc cải thiện;

Các mối quan hệ đối tác và điều phối về bình đẳng giới ở

trong và ngoài Chính phủ đƣợc nâng lên.

Chƣơng trình Hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và

Liên hợp quốc về Bình đẳng giới (JPGE) đang đƣợc Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội (MOLISA) quản lý với tƣ cách là

cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với Chƣơng trình chung và Quỹ

Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) với tƣ cách là cơ quan quản lý

của Liên hợp quốc. JPGE có ba cấu phần, mỗi một cấu phần

đƣợc một cơ quan của Chính phủ và một cơ quan của Liên hợp

quốc điều phối, liên quan đến những lĩnh vực chuyên môn tƣơng

ứng của các cơ quan đó. Ba cơ quan điều phối của Liên hợp quốc

đã đƣợc giao nhiệm vụ nhƣ những điều phối viên từ phía Liên

hợp quốc nhằm đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ và hài hòa. Quỹ

Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) đang cùng điều phối với Bộ

10

Văn hóa, Thể thao và Du lịch (MOCST), UNIFEM với Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội (MOLISA) và Chƣơng trình Phát

triển Liên hợp quốc (UNDP) với Tổng cục Thống kê (GSO).

Dự án cấu phần do Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội

quản lý và UNIFEM điều phối tập trung nâng cao năng lực cho

các cơ quan của Chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự có liên

quan trong thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo Luật Bình

đẳng giới. Tƣơng tự, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và

UNFPA tập trung vào nâng cao năng lực cho các cơ quan của

Chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự có liên quan trong thực

hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo Luật Phòng, chống bạo lực

gia đình. UNDP và Tổng cục Thống kê tập trung vào củng cố cơ

sở dữ liệu dựa trên bằng chứng và những hệ thống dữ liệu nhằm

thúc đẩy bình đẳng giới.

Nhiệm vụ này liên quan tới Kết quả chung 1 của JPGE

đƣợc nêu ở trên. Nhiệm vụ đánh giá năng lực này đã đƣợc

UNIFEM và Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội điều phối

thực hiện ở năm đầu tiên của JPGE.

Những mục tiêu cụ thể của nhiệm vụ này là:

Đánh giá những năng lực của tất cả các cơ quan chịu trách

nhiệm thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo hai luật;

Xác định những hạn chế cụ thể về năng lực và những yếu

tố cản trở;

Đánh giá tiềm năng nhằm tăng cƣờng năng lực của các

đối tác ở cấp địa phƣơng để thực hiện, giám sát, đánh giá

và báo cáo hai luật một cách hiệu quả;

Đề xuất những cách thức thực tiễn để khắc phục những

hạn chế về năng lực và những cản trở đã đƣợc xác định

với đề cập chi tiết cho những năng lực hiện có, những

khoảng trống đã đƣợc xác định và tiềm năng để tăng

cƣờng những năng lực.

11

1.2. Phát triển năng lực và Giới: Văn hóa thay đổi và cầu

thị1

Văn hóa và những vấn đề giới thay đổi liên tục; mục tiêu

là thay đổi những giá trị giới đang ngăn cản cơ hội của những

thành viên nhất định của xã hội tham gia vào và thụ hưởng

bình đẳng những thành quả của Việt Nam.

Văn hóa là một phần cơ cấu của mọi xã hội và đặc biệt đối

với Việt Nam đang có và tự hào về một nền văn hóa và những

truyền thống mang đậm bản sắc. Văn hóa định hình “cách thức

các vấn đề đƣợc thực hiện” và hiểu biết của mọi ngƣời là tại sao

nên nhƣ vậy. Những kỳ vọng về những thuộc tính và hành vi phù

hợp với phụ nữ và nam giới và về các mối quan hệ giữa phụ nữ

và nam giới - nói cách khác, giới - đƣợc văn hóa định hình.

Những thuộc tính giới và các mối quan hệ giới là những khía

cạnh quyết định của văn hóa vì những khía cạnh này định hình

cách thức cuộc sống hàng ngày trong gia đình, cũng nhƣ trong

cộng đồng rộng lớn hơn và tại nơi làm việc. Trong khi bản chất

của các mối quan hệ giới thay đổi giữa các xã hội, có một đặc

trƣng chung là phụ nữ có ít quyền lực cá nhân hơn, ít những

nguồn lực hơn để tùy ý sử dụng và ít có ảnh hƣởng đối với các

quá trình ra quyết định mà sẽ định hình nên các xã hội và cuộc

sống của bản thân họ. Đặc trƣng này của sự khác biệt trên cơ sở

giới là vấn đề cả về quyền con ngƣời và phát triển quốc gia. Tuy

nhiên, các xã hội và các nền văn hóa không tĩnh tại - các xã hội

và các nền văn hóa là những thực thể sống động liên tục đổi mới

và tái định hình. Cũng nhƣ với văn hóa nói chung, những tƣ

tƣởng về giới thay đổi theo thời gian đáp ứng rất nhiều yếu tố -

xã hội, kinh tế, pháp luật, chính sách và từ sự ảnh hƣởng của xã

1. Tƣ liệu trong phần này đƣợc rút ra từ “Hƣớng dẫn lồng ghép giới

trong xây dựng và thực hiện chính sách quốc gia: Hƣớng tới bình đẳng giới

ở Việt Nam”, Hà Nội 2008, tr. 19.

12

hội dân sự. Trong quá trình tiến hóa này, một số các giá trị đƣợc

tái khẳng định trong khi các giá trị khác bị thách thức vì không

còn phù hợp. Lồng ghép giới là một chiến lƣợc nhằm đạt đƣợc

bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới thông qua nâng cao nhận

thức và thách thức những giá trị và niềm tin dẫn đến một số

thành viên của xã hội bị từ chối đƣợc công nhận một cách bình

đẳng, các cơ hội và khả năng tiếp cận các thành quả của sự phát

triển của đất nƣớc.

Lồng ghép các vấn đề giới có nghĩa là thay đổi hiện trạng.

Thay đổi thường đầy thách thức và gặp phản ứng. Thay đổi

thành công phụ thuộc vào sự dũng cảm và trung thực.

Lồng ghép các vấn đề bình đẳng giới kéo theo sự thách thức

hiện trạng - có nghĩa là thực hiện những thay đổi cách thức nam

giới và phụ nữ suy nghĩ, quan tâm và làm việc và thay đổi một

số niềm tin đã có từ lâu về vai trò và giá trị của nam giới và phụ

nữ. Thay đổi có thể đem đến những cơ hội mới. Tuy nhiên, chắc

chắn có sự phản kháng mạnh mẽ đối với thay đổi. Những ngƣời

cho rằng họ có thể „mất mát‟ trong quá trình thay đổi có thể sẽ

phản kháng quyết liệt đối với thay đổi. Những ngƣời khác có thể

nghi ngờ có những cách thức hiệu quả để đạt đƣợc thay đổi lớn

về tổ chức. Thay đổi thành công đòi hỏi liên quan đến quản lý

cấp cao - một thực tế đã đƣợc chứng minh rất rõ trên khắp thế

giới và đặc biệt liên quan đến đạt đƣợc bình đẳng giới. Để đạt

đƣợc thay đổi, phụ nữ và nam giới phải có thiện ý công nhận và

bày tỏ rõ cần thay đổi gì và làm thế nào để thay đổi; điều này bao

gồm một lập trƣờng kiên định trong thúc đẩy thay đổi vì bình

đẳng giới.

Phát triển năng lực là một cách thức nhằm đề cao thay đổi,

hình thành động cơ và các kỹ năng và thay đổi những quan điểm

theo hƣớng tạo ra bình đẳng giới thông qua lồng ghép giới. Nhƣ

gợi ý trong báo cáo này, có nhiều cách thức đa dạng phát triển

năng lực và mỗi một cách tiếp cận cần phù hợp với mỗi một thể

chế, tổ chức hoặc cá nhân.

13

2. PHƢƠNG PHÁP LUẬN

Phƣơng pháp luận đánh giá năng lực của UNDP đã đƣợc lựa

chọn đối với hoạt động đánh giá năng lực này (ĐGNL). ĐGNL

đòi hỏi nhận biết những năng lực chính đang có cũng nhƣ những

năng lực bổ sung cần có để thực hiện, giám sát, đánh giá và báo

cáo hai Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình. Do vậy ĐGNL là một phân tích những năng lực đƣợc

mong muốn so với những năng lực hiện có tạo nên một sự hiểu

biết về những nguồn vốn năng lực và những nhu cầu có thể

thông tin cho việc định hình một sự đáp ứng của JPGE và của

bất kỳ các chƣơng trình và sáng kiến khác có liên quan về phát

triển năng lực.

Nhóm nghiên cứu đã nhất trí đặt ra mức độ mong muốn về

năng lực vào năm 2011 nên bao gồm những thuộc tính và các kết

quả sau:

Cam kết chính trị ở các cấp lãnh đạo;

Có chuyên gia giới để hỗ trợ kỹ thuật về lồng ghép giới;

Có cơ chế mang tính thể chế, ví dụ các cán bộ đầu mối về

giới;

Có chính sách về tổ chức;

Nhận thức cơ bản về giới của đội ngũ cán bộ nhân viên;

Kế hoạch hành động với trách nhiệm giải trình rõ ràng;

Có ngƣời chủ trƣơng tích cực/cán bộ đầu ngành về giới;

Văn hóa hỗ trợ của tổ chức hƣớng tới bình đẳng giới, bao

gồm cả hỗ trợ từ các cán bộ nhân viên là nam giới.

UNDP định nghĩa các năng lực là “khả năng của con người,

các thể chế và các xã hội thực hiện các chức năng, giải quyết

các vấn đề, đặt ra và đạt được các mục tiêu”. Hình thành một sự

đáp ứng về phát triển năng lực dựa trên những phát hiện và

khuyến nghị của báo cáo này tốt nhất nên đƣợc gắn kết với chiến

lƣợc phát triển năng lực của các tổ chức chịu trách nhiệm chính

đối với việc thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo hai luật.

Bảng dƣới đây mô tả phạm vi công việc của ĐGNL.

14

Bảng 1. Phạm vi công việc của Báo cáo Đánh giá Năng lực

Tổ chức

Năng

lực

đƣợc

mong

đợi

Năng

lực

hiện

Khoảng

trống

trong

năng lực

những

yếu tố

cản trở

Những

quá

trình &

hệ

thống

đổi mới

Triển

vọng để

tăng

cƣờng

năng

lực &

khắc

phục

các hạn

chế

Bộ LĐ-TBXH; Bộ

VH, TT và DL;

UBQGVSTBPNVN

Các Bộ chủ chốt (8)

và Phòng TM và

CNVN

Các Sở ở địa

phƣơng (8)

Các liên minh hoặc

các tổ chức quần

chúng

Các tổ chức cộng

đồng

Phƣơng pháp luận đánh giá năng lực của UNDP hoàn toàn

phù hợp với môi trƣờng cho phép và ở cấp độ tổ chức; phƣơng

pháp này đƣợc định hình trên nền tảng và xuất phát điểm đối với

nhiệm vụ đánh giá năng lực này. Phƣơng pháp luận này bao gồm

3 cấu phần sẽ đƣợc thảo luận ở bên dƣới: Khung đánh giá năng

lực của UNDP, tiến trình và phƣơng pháp luận và các công cụ để

thu thập và phân tích số liệu.

15

2.1. Khung đánh giá năng lực

Khung dành cho đánh giá năng lực bao gồm ba chiều cạnh

chính:

a) Những xuất phát điểm: UNDP thừa nhận rằng năng lực

tập trung ở ba cấp độ - môi trƣờng cho phép, cấp độ tổ chức và

cá nhân. Do các nguồn lực hạn hẹp về thời gian, nhân sự và kinh

phí, đánh giá năng lực đƣợc tập trung vào môi trƣờng cho phép

và cấp độ năng lực của tổ chức. Đánh giá năng lực ở cấp độ cá

nhân sẽ là một hoạt động riêng với những phát hiện và khuyến

nghị từ Báo cáo Đánh giá Năng lực này, nhƣ đầu vào trong xây

dựng một cách tiếp cận đánh giá năng lực ở cấp độ cá nhân.

b) Những vấn đề trọng tâm: Có bốn vấn đề phổ biến phải

đối đầu về năng lực, tất cả những vấn đề đó đều sẽ đƣợc đề cập

trong Đánh giá này2:

(i) Cơ cấu thể chế đề cập đến các chính sách, thủ tục và

quy trình mà các quốc gia có để xây dựng luật pháp, lập

kế hoạch và quản lý điều hành sự phát triển, các quy tắc,

biện pháp thay đổi và các chức năng khác của đất nƣớc.

Về bản chất, vấn đề cơ cấu thể chế có mặt ở mọi khía

cạnh của phát triển và quản lý khu vực công. Điều đòi hỏi

phải quan tâm đến thực hiện chức năng và cơ cấu thể chế

hiệu quả vẫn là động lực lớn đối với năng lực và do vậy

đối với năng lực thực thi.

(ii) Lãnh đạo là khả năng để ảnh hƣởng, truyền cảm hứng

và thúc đẩy mọi ngƣời, các tổ chức và xã hội đạt đƣợc -

và tiến xa hơn - các mục tiêu của mình. Một đặc trƣng

quan trọng của lãnh đạo giỏi là khả năng lƣờng trƣớc (đôi

khi gây xúc tác), chịu trách nhiệm và quản lý thay đổi

2. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của UNDP qua một loạt các lĩnh vực

và chủ đề. Có thể tham khảo Bản Hƣớng dẫn Đánh giá năng lực năm 2008

của UNDP đối với nội dung giải thích chi tiết hơn.

16

nhằm thúc đẩy phát triển con ngƣời. Mặc dù hầu hết sự

lãnh đạo thƣờng gắn với một cá nhân ngƣời lãnh đạo, nó

cũng có thể tập trung trong một đơn vị của nhà nƣớc chỉ

đạo việc thực hiện cải cách hành chính công. Những yếu

tố quyết định chủ chốt của sự lãnh đạo - những khả năng

để tập hợp những ngƣời khác dƣới một mục tiêu chung,

tạo nên một tầm nhìn và quản lý việc thực hiện mục tiêu

chung đó và đƣa ra một mẫu hình về quy tắc đạo đức.

(iii) Kiến thức đề cập đến sự sáng tạo, sự thu hút và sự

truyền bá thông tin và chuyên môn về các giải pháp phát

triển hiệu quả. Các nhu cầu về kiến thức có thể đƣợc quan

tâm ở các cấp độ khác nhau (quốc gia/địa phƣơng/lĩnh

vực, sơ cấp/trung cấp/cao cấp) và thông qua các cách thức

khác nhau (giáo dục chính quy, tập huấn kỹ thuật, các

mạng kiến thức và học tập phi chính thức). Kiến thức có

thể đƣợc khuyến khích ở cấp độ tổ chức, ví dụ, thông qua

một hệ thống quản lý kiến thức hoặc một chiến lƣợc học

tập của tổ chức.

(iv) Trách nhiệm giải trình tồn tại khi hai bên cùng tham

gia một tập hợp các nguyên tắc và thủ tục chi phối những

tác động qua lại của họ và dựa trên một sự đồng thuận hoặc

hiểu biết lẫn nhau về những vai trò và trách nhiệm có liên

quan. Tập hợp này tồn tại khi cả những nhóm nắm giữ

quyền và nhóm thực hiện trách nhiệm chuyển giao các

nghĩa vụ của họ. Nó cho phép các tổ chức và hệ thống giám

sát, học hỏi, tự điều chỉnh và điều chỉnh hành vi của họ

trong tác động qua lại lẫn nhau với những ngƣời mà họ có

trách nhiệm giải trình (các khách hàng, các công dân, các

đối tác). Nó bao gồm cả sức sáng tạo và sử dụng không

gian và các cơ chế khuyến khích cả nhóm nắm giữ quyền

và nhóm thực hiện trách nhiệm trong một đối thoại để giám

sát và hƣớng dẫn các hành động của mình, chẳng hạn thông

qua các cơ chế rà soát hoặc các cơ quan giám sát công.

17

c) Các năng lực thuộc chức năng: Các năng lực thuộc chức

năng trong trƣờng hợp này bao gồm năng lực thực hiện, giám

sát, đánh giá và báo cáo về hai luật.

Bảng dƣới đây minh họa một khung hƣớng dẫn xây dựng

các câu hỏi đánh giá và phân tích số liệu, kết hợp cả các vấn đề

trọng tâm và các năng lực thuộc chức năng.

Bảng 2. Khung phân tích dữ liệu

Những vấn đề

trọng tâm

Các năng lực thuộc chức năng

Thực hiện Giám sát Đánh giá Báo cáo

Cơ cấu thể chế

Lãnh đạo

Kiến thức

Trách nhiệm giải

trình

2.2. Tiến trình

Phần này giải thích đánh giá năng lực đã đƣợc quản lý và

tiến hành nhƣ thế nào và sự tham gia của các đối tác chính.

Đánh giá năng lực là một hoạt động chung do một nhóm

chuyên gia quốc tế và quốc gia - Viện Nghiên cứu Gia đình và

Giới (IFGS) thực hiện dƣới sự quản lý của UNIFEM và Bộ Lao

động - Thƣơng bình và Xã hội.

Nhóm chuyên gia quốc tế, gồm hai tƣ vấn quốc gia và hai tƣ

vấn quốc tế, đã đƣa ra các kết quả kỹ thuật chủ yếu, bao gồm kế

hoạch công tác và hội thảo tập huấn về phƣơng pháp luận và các

công cụ, dự thảo báo cáo cuối cùng và trình bày những phát hiện

và các khuyến nghị. Nhóm chuyên gia quốc tế cũng đã giám sát

và đảm bảo chất lƣợng của các hoạt động và kết quả của Viện

Nghiên cứu Gia đình và Giới. Viện đã thu thập số liệu và thực

hiện phân tích ban đầu các số liệu. Nhóm chuyên gia quốc tế đã

18

hỗ trợ Bộ Lao động - Thƣơng bình và Xã hội chuẩn bị hậu cần

cho Hội thảo cuối cùng. Những ngƣời cung cấp thông tin chính

tham gia vào các cuộc phỏng vấn và các thảo luận nhóm trọng

tâm đã tạo nên phần chủ yếu về số liệu của đánh giá này.

Đáng lƣu ý là Bộ Lao động - Thƣơng bình và Xã hội đã đảm

bảo việc liên hệ trƣớc với các đối tác thực hiện về tầm quan

trọng của đánh giá năng lực - gợi ý cho các đối tác thực hiện về

pháp luật mới đã giúp ích nhiều trong vận động những ngƣời

cung cấp thông tin chính. Kế hoạch thực địa của Viện đƣợc

chuẩn bị kỹ càng linh hoạt là vô cùng quan trọng đối với một hệ

thống thu thập số liệu hiệu quả.

a) Tập huấn chuẩn bị cho các nghiên cứu viên của Viện

Nghiên cứu Gia đình và Giới (IFGS)

Nhóm chuyên gia quốc tế đã tiến hành một hội thảo đào tạo

nửa ngày cho 12 nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu Gia đình

và Giới, giới thiệu tổng quan về nhiệm vụ đánh giá năng lực;

phƣơng pháp luận; và chuẩn bị cho các nhóm nghiên cứu để sử

dụng các công cụ đánh giá năng lực đối với thực địa.

b) Thu thập dữ liệu thực địa

Thu thập dữ liệu thực địa đƣợc thực hiện từ ngày 3 đến 24

tháng 11 năm 2009. Mƣời hai nghiên cứu viên của Viện Nghiên

cứu Gia đình và Giới đƣợc tập huấn cơ bản về phƣơng pháp và

các công cụ để tham gia thu thập dữ liệu thực địa. Ngoài ra, còn

sáu nghiên viên khác tham gia nhóm để giúp tiến hành quá trình

thu thập số liệu thực địa.

Ba thành viên của nhóm chuyên gia quốc tế chịu trách

nhiệm đảm bảo về chất lƣợng đối với các nhóm nghiên cứu thực

địa bằng cách phân công một thành viên phụ trách hai nhóm chịu

trách nhiệm đối với các tỉnh miền Nam, một phụ trách các nhóm

chịu trách nhiệm đối với các tỉnh miền Bắc và hai phụ trách các

nhóm chịu trách nhiệm đối với các cơ quan Trung ƣơng và Hà

Nội. Đôi khi, tất cả bốn nhóm nghiên cứu cùng đồng thời tiến

hành công việc, ngăn cản việc giám sát kỹ thuật lên tất cả các

công việc thực địa.

19

Vào cuối thời gian thực địa ở mỗi một tỉnh đều thực hiện các

phiên phản hồi. Các phỏng vấn sâu đã đƣợc tiến hành với một

đại diện từ các cơ quan chủ chốt quan trọng nhất trong thực hiện

hai luật. Ở cấp trung ƣơng có 7 cơ quan, gồm: Bộ Y tế, Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội,

Bộ Tƣ pháp, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, một số tổ chức về

cộng đồng (CBOs) và Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ

(NCFAW). Ở cấp tỉnh có tám cơ quan: Sở Lao động – Thƣơng

binh và Xã hội (DOLISA), Sở Kế hoạch và Đầu tƣ (DPI), Ban vì

sự tiến bộ của phụ nữ (CFAWs), Hội phụ nữ, Sở Văn hóa, Thể

thao và Du lịch, Sở Y tế, Sở Tƣ pháp và Sở Nội vụ.

c) Các phiên báo cáo tóm tắt

Các nhóm nghiên cứu thu thập số liệu thực địa đã thực hiện

hai phiên báo cáo tóm tắt với chuyên gia tƣ vấn quốc tế về những

hạn chế phải đối mặt trong quá trình ở thực địa và trình bày

những phát hiện chính có đƣợc trong các Bảng kiểm cuối cùng ở

các tỉnh (xem Mẫu 13, Phụ lục 1).

d) Phân tích và tổng hợp số liệu

Phân tích ban đầu các số liệu đƣợc các nhóm nghiên cứu của

Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thực hiện và trình bày với

Chuyên gia quốc tế thông qua các phiên báo cáo thảo luận tóm

tắt và qua các bản báo cáo. Chuyên gia quốc tế tổng hợp các

phân tích từ các nhóm nghiên cứu. Chuyên gia quốc tế đã thực

hiện một phân tích ở phạm vi rộng hơn đối với toàn bộ tập hợp

cơ sở dữ liệu thu đƣợc. Sau đó Chuyên gia quốc tế tổng hợp

những phát hiện cho báo cáo về những khoảng trống cụ thể trong

năng lực của tổ chức ở cấp trung ƣơng và cấp tỉnh.

e) Trình bày và thông qua các kết quả

Các mục tiêu của hoạt động đánh giá năng lực, phƣơng pháp

luận, những phát hiện và các khuyến nghị chính đã đƣợc trình

bày tại một Hội thảo tổ chức ở Hà Nội, tháng 12 năm 2009 để

xem xét và thông qua những phát hiện và các khuyến nghị chính.

20

2.3. Phƣơng pháp luận và các công cụ để thu thập và

phân tích số liệu

Nghiên cứu này đã sử dụng thảo luận nhóm trọng tâm và các

phỏng vấn sâu để thu thập số liệu.

Chắc chắn xác định đƣợc cấp độ của năng lực hiện có thông

qua các công cụ định tính và định lƣợng. Các số liệu mà các

công cụ thu thập đƣợc đƣợc phân tích hàng ngày ở thực địa theo

một mẫu hƣớng dẫn nghiệp vụ cho các nghiên cứu viên. Những

phát hiện này giúp đƣa ra bất kỳ điều chỉnh cần thiết nào đối với

những câu hỏi đánh giá của ngày tiếp theo và của kế hoạch thực

địa. Những phân tích đƣợc hoàn thành sẽ đƣợc tổng hợp cho báo

cáo về những khoảng trống cụ thể trong năng lực của tổ chức và

là đầu vào cho một phân tích ở phạm vi rộng hơn và mang tính

chiến lƣợc hơn do Chuyên gia quốc tế thực hiện. Các công cụ

thu thập và phân tích số liệu bao gồm:

1) Các hồ sơ mô tả tổ chức.

Hình thức nội dung của các hồ sơ này đƣợc mô tả chi tiết

trong Điều khoản tham chiếu đối với Viện Nghiên cứu Gia đình

và Giới (TOR) và đƣợc biên soạn từ báo cáo rà soát tài liệu và từ

việc gặp gỡ với các tổ chức. Các hồ sơ mô tả tổ chức bao gồm:

Những môi trƣờng điều chỉnh chính sách trong đó những

cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện hoạt động;

Những nhiệm vụ, chức năng và chiến lƣợc của những cơ

quan chịu trách nhiệm thực hiện;

Cơ cấu và văn hóa tổ chức của các cơ quan chịu trách

nhiệm thực hiện: các yếu tố bên ngoài, sự liên kết/mối

quan hệ với các tổ chức khác, các quan điểm của nhóm

khách hàng/ngƣời sử dụng, văn hóa và phong cách quản lý,

cơ cấu tổ chức, hoạch định và ra quyết định chính sách;

Những hệ thống và tiến trình của những cơ quan chịu

trách nhiệm thực hiện, bao gồm quản lý tài chính và trách

nhiệm giải trình;

Nguồn nhân lực của những cơ quan chịu trách nhiệm thực

21

hiện (đội ngũ nhân viên, quản lý nhân sự, năng lực, khen

thƣởng/tiền công, v.v).

Các hồ sơ mô tả tổ chức đƣợc coi là một nguồn đầu vào

quan trọng trong thiết kế những công cụ đánh giá khác và lựa

chọn các câu hỏi đánh giá. Các hồ sơ mô tả tổ chức cũng đƣợc

coi là một nguồn quan trọng của những thông tin cơ bản của tổ

chức. Một phân tích SWOT đối với mỗi một hồ sơ mô tả tổ chức

đã đƣợc thực hiện ở những giai đoạn khác nhau trong Báo cáo

Đánh giá Năng lực và các kết quả đƣợc thể hiện theo một mẫu

(xem Mẫu 1 trong Phụ lục 1 về mẫu). Phân tích SWOT đánh

giá những Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội và Thách thức liên

quan đến việc thông qua hai luật - những yếu tố bên trong và bên

ngoài thuận lợi và bất lợi - và nhận biết những phạm vi để tiếp

tục phát triển.

2) Các câu hỏi đánh giá.

Một tập hợp các câu hỏi đánh giá chung và chi tiết đã đƣợc

xây dựng để hƣớng dẫn các nhóm đánh giá năng lực để bao trùm

những vấn đề cốt lõi và những năng lực theo chức năng (Phụ lục

1). Những câu hỏi chung đã hƣớng dẫn các nhóm trong vòng

thăm dò đầu tiên của họ, nghĩa là: việc rà soát đánh giá của họ

đối với tài liệu, các nghị định, các luật, hồ sơ và các báo cáo).

Những câu hỏi chi tiết đã hƣớng dẫn các nhóm trong thu thập số

liệu tại các thảo luận nhóm trọng tâm và các phỏng vấn sâu.

3) Các kỹ thuật có sự tham gia.

Các nghiên cứu viên đã đƣợc khuyến khích sử dụng một loạt

các công cụ, theo một cách thức nhạy cảm giới, để điều hành các

thảo luận nhóm trọng tâm, bao gồm phân tích đối tác/sơ đồ

Venn, phân tích lịch sử/các dấu mốc lịch sử và các kỹ thuật

thẻ/động não (xem danh mục các công cụ và tập hợp các câu hỏi

trong Mẫu 1, Phụ lục 1).

4) Các mẫu phỏng vấn.

Mẫu phỏng vấn (Phụ lục 1) đã đƣợc thiết kế có sử dụng 5

câu hỏi chính để rút ra kết quả đƣợc dự định của Đánh giá Năng

22

lực - 5 câu hỏi chính đã đƣợc điều chỉnh đối với mỗi một cơ

quan tùy theo những vai trò và trách nhiệm chính của họ.

5) Các bảng kiểm dành cho tổ chức và các bảng kiểm dành

cho tỉnh/thành phố.

(Mẫu 13, Phụ lục 1)3. Đối với mỗi một tổ chức đƣợc phỏng

vấn ở cấp trung ƣơng và cấp tỉnh (với tổng số 41: 35 cấp tỉnh và

6 ở cấp trung ƣơng), một bảng kiểm dành cho tổ chức đã đƣợc

hoàn thành cho mỗi một luật. Từ các bảng kiểm dành cho tổ

chức, một bảng kiểm dành cho tỉnh/thành phố (với tổng số 5) đối

với mỗi một luật đã đƣợc hoàn thành. Mục đích của các bảng

kiểm là đánh giá liệu 11 yếu tố chính, đƣợc biết là quan trọng đối

với việc thực hiện luật thành công, có hiện diện hoặc không hiện

diện trong một tổ chức. Mức độ theo đó các yếu tố tồn tại là một

phần quan trọng của việc đánh giá năng lực thực hiện, giám sát,

đánh giá và báo cáo về hai luật.

2.4. Những ngƣời cung cấp thông tin chính

15 tổ chức và 5 tỉnh đã đƣợc chọn trƣớc đối với đánh giá

dựa trên các tỉnh và các tổ chức mục tiêu trong Chƣơng trình

chung (JPGE). Năm tỉnh đó là: Thủ đô Hà Nội, Thái Bình và Hà

Nam (các tỉnh miền Bắc) và Đồng Nai và Bình Dƣơng (các tỉnh

miền Nam). Các tổ chức đã đƣợc đánh giá đó là: Ban Tuyên giáo

Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (Vụ các Vấn đề Xã hội),

Ủy ban các Vấn đề Xã hội của Quốc hội; các tổ chức của Chính

phủ, gồm: Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch

và Đầu tƣ, Bộ Y tế, Bộ Tƣ pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông,

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn;

các tổ chức quần chúng: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn

thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam,

3. Đƣợc điều chỉnh cho phù hợp từ Phụ lục 2 một chuỗi Bảng kiểm

Giới của Hƣớng dẫn Lồng ghép Giới trong hoạch định và thực hiện chính

sách quốc gia - Hƣớng tới bình đẳng giới ở Việt Nam thông qua Hoạch định

và Chính sách quốc gia có trách nhiệm giới. NCFAW, Hà Nội, 2008.

23

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam; và các tổ chức phi chính phủ sau đây: DOVIPNET, NEW,

GENCOMNET.

Tổng số 25 nhân viên của 15 Bộ, Vụ hoặc Ban đã đƣợc

phỏng vấn để biên tập các hồ sơ mô tả tổ chức và các thảo luận

nhóm trọng tâm và phỏng vấn sâu sau đây đã đƣợc thực hiện:

Cấp trung ƣơng: 5 thảo luận nhóm trọng tâm, 6 phỏng vấn

sâu.

Hà Nội: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 3 phỏng vấn sâu.

Hà Nam: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.

Thái Bình: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.

Đồng Nai: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.

Bình Dƣơng: 4 thảo luận nhóm trọng tâm, 8 phỏng vấn sâu.

3. BỐI CẢNH

Phần này mô tả bối cảnh xây dựng và thông qua Luật Bình

đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

3.1. Luật Bình đẳng giới

“Mặc dầu với những căn nguyên và sự đa dạng trong mô

hình, hầu hết các luật bình đẳng giới đều nổi lên từ năm 2000 và

đã trở thành sự đáp ứng phổ biến ngày càng tăng đối với bình

đẳng giới và là những nghĩa vụ do CEDAW tạo nên”4.

Luật Bình đẳng giới (GEL) ở Việt Nam có căn nguyên từ

Hội Liên hiệp Phụ nữ (WU). Hội Liên hiệp Phụ nữ đã đệ trình

dự thảo đầu tiên của luật lên Quốc hội vào năm 2005 với một

thực tiễn là rất nhiều đại biểu Quốc hội tin rằng bình đẳng giới

đã đƣợc phản ánh đầy đủ trong tất cả các luật khác, vì vậy việc

đƣa ra một Luật Bình đẳng giới riêng là không cần thiết. Một

4. Những Luật Bình đẳng giới, thực tiễn điển hình trên toàn cầu và một

Đánh giá về năm (5) Quốc gia Đông Nam Á, tháng 3 năm 2009.

24

dự thảo luật do Hội Liên hiệp Phụ nữ đệ trình không phải là

thông lệ.

Quá trình xây dựng dự thảo đầu tiên của luật có sự hỗ trợ

của một chuyên gia tƣ vấn của Ngân hàng Phát triển châu Á cho

Hội Liên hiệp Phụ nữ. Ban Soạn thảo bao gồm Bộ Tƣ pháp, Bộ

Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế và Nội vụ và Hội Liên hiệp Phụ nữ

chủ trì. UNIFEM đảm bảo luật gắn kết chặt chẽ với Công ƣớc

CEDAW đến mức có thể. Rất nhiều đại biểu Quốc hội đã đƣợc

tập huấn trong thời gian Luật đƣợc dự thảo .

Năm 2006, Luật đã đƣợc Quốc hội xem xét và Ủy ban các

vấn đề xã hội đã phải thuyết phục Quốc hội là cần thiết có một

luật riêng. Giới là một khái niệm tƣơng đối mới ở Việt Nam và

các tổ chức của Liên hợp quốc đã đóng một vai trò đặc biệt trong

việc giới thiệu các khái niệm này.

Cuối cùng, tháng 11 năm 2006, tất cả các đại biểu Quốc hội

đã thông qua Luật. Theo đó, Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã

hội đƣợc giao nhiệm vụ là cơ quan quản lý nhà nƣớc về bình

đẳng giới.

3.2. Môi trƣờng điều chỉnh chính sách - Luật Bình đẳng giới

Luật Bình đẳng giới là một khung pháp lý và là một tập hợp

các nguyên tắc. Các văn bản quy phạm pháp luật khác đã đƣợc

xây dựng để hƣớng dẫn thực hiện luật. Ban đầu, Ủy ban Dân số,

Gia đình và Trẻ em đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ giao nhiệm vụ

xây dựng các Nghị định hƣớng dẫn thi hành Luật5. Tuy nhiên

nhiệm vụ này đã đƣợc chuyển sang cho Bộ Tƣ pháp do Ủy ban

Dân số Gia đình và Trẻ em đã đƣợc giải thể theo Nghị quyết của

Quốc Hội tại kỳ họp lần thứ nhất Quốc hội Khóa XII. Cùng với

sự phối hợp của Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt

Nam, Trung ƣơng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bộ Lao động

- Thƣơng binh và Xã hội, các đơn vị chức năng của Bộ Tƣ pháp

5. Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 03 tháng 5 năm 2007 về việc triển

khai thi hành Luật Bình đẳng giới.

25

đã đã tích cực tiến hành việc xây dựng các dự thảo Nghị định,

bao gồm:

- Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

Bình đẳng giới về trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về bình đẳng

giới và phối hợp thực hiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới;

- Nghị định quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng

giới;

- Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình

đẳng giới.

Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bình đẳng

giới cho đến nay bao gồm:

Luật Bình đẳng giới (GEL).

Chỉ thị số 10/2007/CTG ngày 3 tháng 5 năm 2007 của

Thủ tƣớng Chính phủ để triển khai thực hiện Luật Bình

đẳng giới.

Nghị định số 70/2008NĐ-CP ngày 4 tháng 6 năm 2008

hƣớng dẫn thực hiện một số điều của Luật Bình đẳng giới.

Nghị định số 48/2009NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009

về các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới.

Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009

về xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm Luật

Bình đẳng giới.

Thông tƣ số 191/2009/TT-BTC ngày 1 tháng 10 năm

2009 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn sử dụng và quản lý

nguồn kinh phí phân bổ cho các hoạt động bình đẳng giới

và vì sự tiến bộ phụ nữ.

Giới đƣợc ghi nhận nhƣ một ƣu tiên phát triển trong Kế

hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2006 - 2010. Chiến

lƣợc quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2006 - 2010 đƣa

ra những mục tiêu cụ thể để thúc đẩy bình đẳng giới. Chiến lƣợc

này và Kế hoạch hành động 5 năm có từ trƣớc khi luật đƣợc ban

hành và vẫn tiếp tục có giá trị hiệu lực. Bộ Lao động – Thƣơng

binh và Xã hội chịu trách nhiệm đối với Chiến lƣợc quốc gia, với

26

Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ hoạt động nhƣ một cơ

quan tham mƣu và các Bộ có liên quan khác nhƣ các cơ quan

thực hiện luật. Vụ Bình đẳng giới của Bộ Lao động – Thƣơng

binh và Xã hội hiện đang chịu trách nhiệm xây dựng Chiến lƣợc

Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 và Chƣơng

trình mục tiêu quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015

sẽ hỗ trợ việc thực hiện Luật Bình đẳng giới.

3.3. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Trƣớc Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (DVL), không có

chính sách hoặc khuôn khổ pháp lý để giải quyết bạo lực gia

đình. Thông tin về vấn đề này nhìn chung bị hạn chế và số liệu

thống kê bị thiếu hụt.

Ủy ban các Vấn đề Xã hội của Quốc hội đã đệ trình dự thảo

đầu tiên của luật về bạo lực gia đình vào năm 2006, đây là điều

điều hiếm thấy vì Ủy ban không đƣa vào chƣơng trình xây dựng

luật. Có rất nhiều phản đối trong Quốc hội đối với dự luật đƣợc

đề xuất, không chỉ của những đại biểu cao tuổi là nam giới mà cả

của những đại biểu nữ. Vấn đề đã không đƣợc coi là một ƣu tiên

so với những vấn đề khác trong chƣơng trình nghị sự. Hơn nữa,

có một niềm tin là đã có các cơ quan có thẩm quyền giải quyết

những trƣờng hợp bạo lực giống nhƣ các trƣờng hợp quấy rối

tình dục.

Trong một nỗ lực vận động sự ủng hộ, đặc biệt với một

Quốc hội mới đã hứa vào năm 2007, Ủy ban các Vấn đề Xã hội

và Hội Liên hiệp Phụ nữ đã tổ chức một loạt các Hội thảo và tọa

đàm trình bày các số liệu thống kê về bạo lực gia đình. Một ngày

trƣớc khi Luật đƣợc thông qua vào tháng 11 năm 2007,

UNIFEM và Ủy ban các Vấn đề Xã hội đã mời các đại biểu chủ

chốt của Quốc hội đến họp về Công ƣớc CEDAW và dự thảo

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Họ đã nhất trí tại cuộc họp

là Luật cần đƣợc thông qua vào ngày hôm sau.

27

3.4. Môi trƣờng điều chỉnh chính sách - Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (MOCST) là cơ quan quản

lý nhà nƣớc về Phòng, chống bạo lực gia đình và chịu trách

nhiệm đối với việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình. Hai Nghị định liên quan đến việc thực hiện Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình nhằm: (1) làm rõ và hƣớng dẫn việc thực

hiện Luật; và (2) xử lý những hành vi vi phạm Luật. Cho đến nay

mới chỉ có một Nghị định đƣợc ban hành.

Cho đến nay các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến

Phòng, chống bạo lực gia đình bao gồm:

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Chỉ thị của Thủ tƣớng Chính phủ số 16/2008/CT-TTG

ngày 30 tháng 5 năm 2008 về triển khai thực hiện Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình.

Nghị định của Chính phủ số 08/2009/ND-CP ngày 4

tháng 2 năm 2009 về quy chế và hƣớng dẫn thực hiện một

số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

4. NHỮNG PHÁT HIỆN CHUNG

Phần này chỉ ra những điểm yếu quan trọng có tính chiến

lƣợc và đan xen phổ biến ở tất cả các tổ chức đã đƣợc phỏng vấn

và tham gia vào các thảo luận nhóm trọng tâm6. Những phát hiện

nằm trong sáu chủ đề khác nhau tạo nên những vấn đề trọng tâm

về năng lực - cơ cấu thể chế, trách nhiệm giải trình, lãnh đạo và

kiến thức; và các năng lực về chức năng - thực hiện, giám sát và

đánh giá và công tác báo cáo. Mỗi một điểm yếu về tổ chức

6. Những tổ chức này bao gồm 15 tổ chức và 5 tỉnh đã đƣợc lựa chọn

trƣớc nhƣ những ngƣời cung cấp thông tin chủ chốt đối với đánh giá dựa

trên những tổ chức và địa phƣơng mục tiêu trong Chƣơng trình chung về

Bình đẳng giới.

28

đƣợc xác định dƣới đây đƣợc giải quyết bằng một khuyến nghị

tƣơng ứng trong phần 6.

4.1. Cơ cấu thể chế

1) Những kẽ hở trong các Nghị định

Cơ cấu thể chế đối với các tổ chức chủ chốt để thực hiện,

giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật đƣợc quy định trong

các Nghị định, nhƣng những trở ngại để thực hiện vẫn giữ

nguyên. Có những kẽ hở trong các Nghị định và sự hƣớng dẫn

thiếu chất lƣợng giữa các tổ chức đã ngăn cản việc thực hiện. Ví

dụ, trong khi vai trò của Ủy ban Nhân dân là điều phối và hƣớng

dẫn về hai luật - một thể chế đầy quyền lực trong hệ thống hành

chính, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Luật Bình đẳng

giới lại không đƣợc nhìn nhận nhƣ những ƣu tiên.

2) Những vai trò, trách nhiệm và trách nhiệm giải trình

thiếu rõ ràng

Có sự lúng túng xung quanh những vai trò và trách nhiệm

trong mỗi một tổ chức và giữa các tổ chức. Những nhiệm vụ của

một Vụ/Ban này đối với một Vụ/Ban khác trong cùng một tổ

chức thiếu rõ ràng. Những cán bộ đầu mối của các Vụ/Ban về

các vấn đề giới trong các tổ chức đƣợc trao nhiệm vụ bổ sung

liên quan đến giới có thể không nhất thiết thuộc trách nhiệm của

họ. Những ngƣời khác lo lắng về trách nhiệm giải trình đối với

hai luật không thể bắt đầu mà thiếu một chiến lƣợc rõ ràng để

hƣớng dẫn họ, thiếu những vai trò và trách nhiệm đƣợc xác định

và những chức năng nhiệm vụ đƣợc gắn kết. Cũng không có một

hệ thống để giữ những nhân viên có trách nhiệm đối với việc

thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật.

3) Nhận biết những cán bộ đầu mối và nuôi dưỡng đội ngũ

cán bộ chuyên môn đầu ngành về Luật Bình đẳng giới và Phòng,

chống bạo lực gia đình

Thông thƣờng, chủ yếu quá trình thực hiện, giám sát và đánh

giá và công tác báo cáo rơi vào những cán bộ lâu năm đang làm

việc nhƣ những cán bộ đầu mối nhƣng không nhất thiết phải là

29

những cán bộ chuyên môn đầu ngành về Luật Bình đẳng giới và

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Những cán bộ đầu mối và

những cán bộ chuyên môn đầu ngành trong một tổ chức đều đóng

vai trò chủ chốt trong thực hiện các luật. Những cán bộ chuyên

môn đầu ngành và những cán bộ đầu mối thƣờng đƣợc nhìn nhận

là cùng một ngƣời hoặc có cùng một chức năng trong một tổ chức

nhƣng họ có thể là hai con ngƣời hoàn toàn khác nhau và có các

chức năng hoàn toàn khác nhau. Những cán bộ đầu mối có những

vai trò và trách nhiệm đƣợc xác định cho mình (ví dụ các Ban vì

sự tiến bộ của phụ nữ). Những cán bộ chuyên môn đầu ngành có

thể là bất kỳ ai, chức năng, ban/uỷ ban, đơn vị hoặc vụ nào với bất

kỳ vai trò gì trong tổ chức mà đƣợc phát động và khuyến khích để

thực hiện hai luật. Họ không phải là những chuyên gia trong lĩnh

vực về giới hoặc bạo lực gia đình.

4) Thiếu cơ chế điều phối và phối hợp đối với hai luật

Trách nhiệm chính về bình đẳng giới trƣớc khi có Luật Bình

đẳng giới thuộc về Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Hiện nay trách nhiệm đối với Luật Bình đẳng giới thuộc Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội và trách nhiệm đối với Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và

Du lịch. Đánh giá Năng lực cho thấy phần này đã nêu ra những

thách thức trong thực hiện hai luật vì những lý do sau đây: (1)

không có cơ chế để điều phối việc thực hiện hai luật; (2) Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch hoàn toàn mới mẻ với những vấn đề

bạo lực gia đình khi đƣợc giao nhiệm vụ là cơ quan quản lý nhà

nƣớc về bạo lực gia đình và (3) Bộ Lao động – Thƣơng binh và

Xã hội đã bị quá căng ở khía cạnh năng lực, thậm chí ngay cả

trƣớc khi Luật Bình đẳng giới đƣợc bổ sung vào danh mục đã

quá căng của họ.

5) Không có hoặc không đủ năng lực xây dựng kế hoạch ở

những cơ quan và tổ chức có liên quan

Phát triển nguồn nhân lực và tổ chức nên là vai trò của Vụ

Tổ chức và Cán bộ của mỗi một Bộ. Phát triển nguồn nhân lực

và tổ chức là quan trọng đối với việc duy trì bất kỳ sự đáp ứng

30

hoặc can thiệp nào về xây dựng năng lực trong một tổ chức.

Điều hành mà không có sự phát triển nguồn nhân lực và tổ chức

có thể tƣớc bỏ quyền lực của tổ chức trong hoạch định, thực hiện

và giám sát sự phát triển năng lực của họ. Không có những đề

cập đối với vai trò của các Vụ Tổ chức và Cán bộ trong các Bộ

và cơ quan có liên quan trong mối quan hệ về xây dựng năng lực

của nhân viên để thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo một

cách hiệu quả hai luật.

4.2. Thực hiện

1) Thiếu hướng dẫn mang tính thực tiễn

Ở tất cả các cấp, những hoạt động đang đƣợc thực hiện về

hai luật dƣờng nhƣ là không đƣợc lập kế hoạch/không theo thể

thức, không có hệ thống và không đƣợc gắn kết với một kế

hoạch tổng thể. Hầu hết các cơ quan đang đòi hỏi có những

hƣớng dẫn thực tiễn hơn. Các kết quả thu đƣợc từ thảo luận

nhóm trọng tâm và phỏng vấn sâu cho thấy các cơ quan đang cố

gắng giải thích luật và các nghị định một cách tốt nhất theo khả

năng của mình trong khuôn khổ chính sách hiện hành7 trong khi

đang chờ đợi những chiến lƣợc mới đối với mỗi một luật để hoàn

thành và dựa vào sự hƣớng dẫn đã đƣợc ban hành cho đến nay

(các Nghị định, Quyết định, Thông tƣ liên bộ) để xây dựng các

kế hoạch công tác hàng năm và của tổ chức với những hoạt động

cụ thể liên quan đến hai luật.

2) Những khoảng trống trong điều phối ở cấp cộng đồng

Những kết quả của báo cáo Đánh giá Năng lực nhận biết

chắc chắn một khoảng trống trong sự điều phối liên ngành liên

quan đến việc thực hiện. Đây là một thực tế hiển nhiên trong

thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Việc không đƣợc

đáp ứng là một mối quan tâm đặc biệt trong thực hiện Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình. Các tổ chức phi chính phủ ở

trong nƣớc đóng một vai trò quan trọng trong hỗ trợ nạn nhân

của bạo lực gia đình, làm việc với các gia đình và các cộng đồng

7. Chiến lƣợc quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ.

31

của họ để ngăn ngừa bạo lực gia đình và khuyến khích các tiện

nghi y tế ở cấp huyện/quận để chữa trị cho nạn nhân của bạo lực

gia đình. Các Sở Y tế, Tƣ pháp và Công an đóng một vai trò

quan trọng trong hỗ trợ công việc của những tổ chức phi chính

phủ này thông qua cƣỡng chế thi hành pháp luật và những hình

phạt theo cách thức kịp thời và đƣợc điều phối, cả ở các cộng

đồng nơi họ đang làm việc và nội bộ trong những hệ thống của

chính phủ.

3) Thiếu những quy trình thủ tục rõ ràng để đệ đơn kiện và

xét xử khiếu nại

Các luật cho phép một số các cơ quan nhận các khiếu nại

nhƣng không xác định rõ quy trình thủ tục theo đó một cá nhân

viện dẫn một vi phạm các quyền theo luật định đệ đơn kiện; cũng

không nhận biết các quy trình thủ tục xét xử khiếu nại.

4) Thiếu các cơ chế để áp đặt các hình phạt

Sự lúng túng cũng tồn tại dƣới hình thức hiện có của cơ chế

phạt hoặc vẫn đang phải đặt ra.

5) Nguồn lực không đầy đủ

Các kết quả cho thấy những nguồn lực không đầy đủ đƣợc

phân bổ cho việc thực hiện, giám sát và đánh giá và báo cáo Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Tăng

nguồn quỹ, bổ sung đội ngũ cán bộ toàn thời có chất lƣợng, cải

thiện các công cụ và vật chất và một ngân sách dành riêng cho

các hoạt động của Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống

bạo lực gia đình là tất cả các nhu cầu đã đƣợc nhận biết trong rất

nhiều các cuộc thảo luận nhóm trọng tâm. Không đƣợc phân bổ

đầy đủ các nguồn lực, cả hai luật sẽ không biến chính sách trở

thành hiện thực.

4.3. Lãnh đạo

1) Những yêu cầu cạnh tranh - sự ưu tiên thấp đối với Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Thiếu một sự lãnh đạo sát sao là một chủ đề bất biến trong

các kết quả của Đánh giá Năng lực. Thông điệp chính là quản lý

32

cấp cao có các yêu cầu cạnh tranh và sự ƣu tiên đối với Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn thấp.

Những nguồn lực thỏa đáng chƣa đƣợc phân bổ cho việc thực

hiện và ít bằng chứng cho thấy lãnh đạo và quản lý cấp cao đang

đòi hỏi đội ngũ cán bộ nhân viên phân tích, cung cấp thông tin

và cập nhật tiến độ. Khi những đòi hỏi nhƣ vậy không đƣợc đƣa

ra sẽ có rất ít khích lệ để hành động và đội ngũ cán bộ nhân viên

sẽ không có trách nhiệm giải trình đối với việc thực hiện Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

4.4. Kiến thức

1) Những khoảng trống trong tập hợp các kiến thức và kỹ năng

Bình đẳng giới là một khái niệm tƣơng đối mới ở Việt

Nam. Bạo lực gia đình thƣờng đƣợc coi là là một vấn đề riêng

của gia đình cho đến khi luật đƣợc ban hành. Chỉ có rất ít ngƣời

có kiến thức rộng xung quanh các lĩnh vực này. Điều này cũng

đƣợc phản ánh trong các kết quả của Đánh giá Năng lực. Nhìn

chung, kiến thức cơ bản và các kỹ năng chuyên môn về bạo lực

gia đình và bình đẳng giới còn thấp và không đủ để thực hiện

hiệu quả các luật. Các nhà hoạch định chính sách và các chuyên

gia chƣơng trình không chịu mở rộng trọng tâm can thiệp của họ

từ „vì sự tiến bộ của phụ nữ‟ sang quan tâm đến các vấn đề bình

đẳng giới mà không nhận đƣợc những kiến thức và các công cụ

đƣợc cập nhật về bình đẳng giới và bạo lực gia đình.

Các khái niệm cơ bản về phát triển năng lực xung quanh

“trách nhiệm giải trình” và “văn hóa tổ chức” cũng còn mới và

dễ bị hiểu lầm; ví dụ rất nhiều “báo cáo” đƣợc giải thích là hình

thức duy nhất của trách nhiệm giải trình. Những khoảng trống

sau đây trong kiến thức và các kỹ năng đã đƣợc Đánh giá Năng

lực nhận biết:

Các kỹ năng lãnh đạo và quản lý trong thực hiện Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

(bao gồm việc hoạch định chiến lƣợc, quản lý sự thay đổi,

xây dựng và phát triển năng lực, trách nhiệm giải trình,

động lực).

33

Những khái niệm cơ bản về giới, bình đẳng giới, bạo lực

gia đình và giám sát và đánh giá/báo cáo.

Các công cụ thực tiễn lồng ghép giới.

Nhận thức và hiểu biết về Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình.

Quản lý đánh giá và nghiên cứu.

Các chƣơng trình và các hoạt động để bảo vệ các nạn

nhân.

Các chƣơng trình và các hoạt động nhằm vào nam giới.

Đội ngũ cán bộ nhân viên làm việc ở cấp xã/phƣờng đƣợc

nhận biết là hấu hết có nhu cầu về các kiến thức và kỹ năng mới

về bạo lực gia đình. Điều này cũng đúng với đội ngũ cán bộ nhân

viên trong tất cả các cơ quan của nhà nƣớc và các tổ chức quần

chúng. Ở mọi cấp độ, đội ngũ cán bộ nhìn chung thiếu sự hiểu

biết cơ bản về các khái niệm về giới, lồng ghép giới, bạo lực gia

đình, giám sát và đánh giá. Ví dụ, nhóm nghiên cứu phát hiện

thấy các tổ chức quần chúng ở Hà Nội còn hạn chế về kiến thức

và kỹ năng làm thế nào thúc đẩy hiệu quả bình đẳng giới, với

quá ít các nghiên cứu trƣờng hợp đƣợc áp dụng để tham khảo và

rút ra bài học. Những cán bộ lãnh đạo ở cấp tỉnh/thành phố chỉ

có nhận thức tối thiểu về bình đẳng giới và hầu hết đội ngũ cán

bộ trong Chính phủ đã đƣợc tập huấn về bình đẳng giới và những

luật pháp có liên quan qua internet. Trong khi xác định rằng

Trung ƣơng Hội Liên hiệp Phụ nữ đã đƣợc tập huấn chuyên môn

về hệ thống pháp luật, bình đẳng giới và tham vấn, các kỹ năng

của họ vẫn đƣợc nhìn nhận là chƣa đầy đủ để đạt đƣợc hiệu quả

cao. Một cán bộ của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ Hà Nội đã đƣợc

xác định là có kiến thức và các kỹ năng phù hợp vì (i) đã đƣợc

tập huấn chuyên môn về hai luật, (ii) đƣợc tập huấn ở nƣớc

ngoài, (iii) có ngoại ngữ, (iv) có cam kết đối với công việc và (v)

có 15 năm công tác trong lĩnh vực tham vấn về gia đình.

2) Tập huấn với chất lượng thấp

34

Đáp ứng lớn nhất cho sự thiếu kiến thức và các kỹ năng để

thực hiện hai luật là nhu cầu đƣợc tập huấn bổ sung. Tuy nhiên,

các kết quả của đánh giá năng lực cho thấy rất nhiều tập huấn đã

đƣợc thực hiện không phù hợp, quá chung chung, thiếu thực tiễn

và không đủ thời lƣợng để có ảnh hƣởng lên công việc hàng

ngày và lên việc thực hiện hai luật. (Xác định tập huấn nào là bổ

ích và những lý do tại sao hầu nhƣ không có số liệu). Những kết

quả nhƣ vậy về tập huấn không phải là không phổ biến, nếu

không đƣợc thực hiện nhƣ một phần của một chiến lƣợc chung

của tổ chức về sự cầu thị và thay đổi.

4.5. Giám sát, Đánh giá và Báo cáo

1) Thiếu hệ thống giám sát và đánh giá chặt chẽ

Đánh giá Năng lực cho thấy không có một hệ thống giám sát

và đánh giá duy nhất và chặt chẽ để giám sát và thu thập số liệu

về Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Các tổ chức quần chúng lƣu ý rằng họ đang giúp thực hiện rất

nhiều các chuyến công tác về giám sát và đánh giá với các mục

tiêu chồng chéo trùng lắp. Tuy nhiên, một khung giám sát và

đánh giá đối với mỗi một luật hiện đang đƣợc xây dựng trong

khuôn khổ Chƣơng trình chung về Bình đẳng giới.

Số liệu đang đƣợc thu thập về bình đẳng giới và bạo lực gia

đình ở các cấp độ khác nhau trong Chính phủ nhƣng không rõ

ràng những chỉ số này từ đâu đến và các chỉ số này đang cố gắng

đo đếm cái gì. Số liệu của một số lĩnh vực cho thấy hiện có

những hệ thống thu thập số liệu về Công ƣớc CEDAW, Chiến

lƣợc về sự tiến bộ của phụ nữ và các chƣơng trình tài trợ khác.

Quan trọng phải nhấn mạnh việc xây dựng các chỉ số chỉ là

một phần của quá trình rất lâu dài trong phát triển một hệ thống

giám sát và đánh giá và bất kỳ một tập hợp các chỉ số nào cũng

nên đƣợc dựa trên những mục tiêu cụ thể và rõ ràng. Đánh giá

năng lực cho thấy không có một sự kết nối rõ ràng thế nào là

giám sát và đánh giá và các chỉ số cần cho giám sát và đánh giá

là gì. Rất nhiều ngƣời cung cấp thông tin chính đang chờ có một

35

tập hợp các chỉ số hƣớng dẫn làm thế nào thực hiện hai luật mà

không có chức năng của các chỉ số giám sát và đánh giá.

2) Thiếu một hệ thống báo cáo

Các yêu cầu về báo cáo sẽ tạo nên một nhu cầu đối với

thông tin và các kết quả có đƣợc từ các hệ thống giám sát và

đánh giá. Đánh giá năng lực cho thấy không có hệ thống chức

năng báo cáo về việc thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình. Trong khi Vụ Bình đẳng giới

thuộc Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội đƣợc yêu cầu hàng

năm báo cáo lên Quốc hội, báo cáo lại không đủ toàn diện và

không đề cập đến bất kỳ những khó nhăn này. Hầu hết thông tin

về Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ở

các Bộ khác và các địa phƣơng đƣợc tập hợp vào trong những

báo cáo chuyên ngành lớn hơn. Ở những nơi các mẫu báo cáo đã

đƣợc sử dụng thì việc thiếu tập huấn làm thế nào để hoàn thành

các mẫu này đƣợc xác định là một hạn chế chính.

Hầu hết báo cáo cũng chỉ liệt kê những hoạt động đƣợc thực

hiện mà không trích dẫn liệu các kết quả và tác động có đạt đƣợc

không và cách thức để đạt đƣợc. Cần tăng cƣờng năng lực để

phản ánh các mục tiêu ở cấp độ cao hơn, phân tích sâu sắc các

kết quả và các tác động và đƣa ra những khuyến nghị mang tính

chiến lƣợc.

4.6. Trách nhiệm giải trình

1) Thiếu các cơ chế, quy trình thủ tục, quy chế, hệ thống và

các cơ cấu quản lý hành chính

Hiện có rất ít cơ chế quản lý hành chính tác động lên đội ngũ

cán bộ và những cán bộ lãnh đạo để giải trình khi triển khai thực

hiện hai luật. Ví dụ, các tòa án ở tỉnh Bình Dƣơng chỉ áp dụng

Luật Hôn nhân và Gia đình và Luật Hình sự trong việc xét xử

các trƣờng hợp bạo lực gia đình mặc dù Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình đã đƣợc thông qua.

Hiện không có những quy trình thủ tục chính thức rõ ràng

đối với các tổ chức để báo cáo về việc triển khai thực hiện liên

36

quan đến hai luật - từ cấp Bộ đến cấp xã/phƣờng - và tập trung

giải quyết việc triển khai yếu kém.

Không có các cơ chế chức năng và phản hồi có sự tham gia

về hai luật đã đƣợc nêu trong đánh giá năng lực cho phép các mối

quan tâm của cấp huyện/quận có thể lên đến các cấp cao hơn.

Hiện không có hệ thống để thu hút tiếng nói của xã hội dân

sự và các tổ chức phi chính phủ về những vấn đề liên quan đến

thực hiện hai luật, trừ hộp thƣ khiếu nại của công dân của Mặt

trận Tổ quốc theo thảo luận nhóm trọng tâm với các tổ chức

quần chúng ở Hà Nội.

Không có hệ thống hoặc quy chế để hỗ trợ một hệ thống đáp

ứng đƣợc điều phối đối với bạo lực gia đình.

Không có hệ thống chức năng để đảm bảo hai luật và các

văn bản và thông tin khác có liên quan đƣợc phân bổ đến tất cả

các nhà hoạt động có liên quan.

Rất ít dấu hiệu về các đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của

đội ngũ cán bộ đã đƣợc điều chỉnh để đánh giá các năng lực

trong thực hiện hai luật, trừ tỉnh Bình Dƣơng, nơi mà một số Sở

đƣa một chỉ số bình đẳng giới vào các đánh giá thực hiện nhiệm

vụ hàng năm của các cá nhân và tổ chức.

Không có bằng chứng để đề xuất các hình phạt đối với việc

không xem xét và giải quyết các vấn đề của Luật Bình đẳng giới

và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc áp đặt cho đội ngũ

cán bộ trong công việc thƣờng nhật.

Không có bằng chứng về những hệ thống khen thƣởng,

khuyến khích trên cả nƣớc để nâng cao và thúc đẩy việc thực

hiện hai luật, chẳng hạn nhƣ các cuộc thi (xem phần Những tiến

trình đổi mới ở bên dƣới) và một hệ thống khen thƣởng đối với

“gia đình văn hóa” nơi mà các tiêu chí có tính đến bạo lực gia

đình. Tuy nhiên, những khuyến khích này có thể phản tác dụng;

không chỉ khuyến khích một hệ thống đƣa các nạn nhân về trung

tâm tạm lánh, những khen thƣởng khuyến khích nhƣ vậy trên

thực tế có thể đang phục vụ cho sự im lặng, che dấu các nạn

nhân và sự lạm dụng, vì không khuyến khích báo cáo về các

37

trƣờng hợp bạo lực gia đình ở cộng đồng nếu “các gia đình văn

hóa” nhận thấy mục tiêu cuối cùng đối với các khen thƣởng công

dân/gia đình và thúc đẩy sự quan liêu.

Thù lao đối với làm thêm giờ là một cơ cấu khuyến khích

khác đối với các quan chức của Chính phủ đã đƣợc nêu lên trong

đánh giá năng lực này, tuy nhiên tham khảo cho thấy cơ cấu này

không hoạt động tốt. Rất nhiều cán bộ nhân viên cảm thấy họ bị

quá sức đối với khối lƣợng công việc mà không đƣợc trả công

cho những thời gian làm thêm. Dƣờng nhƣ có rất ít khuyến khích

để khắc phục những trở ngại và hạn chế trong thực hiện các luật

nếu đòi hỏi một lƣợng công việc khác mà sẽ không đƣợc tôn

trọng và trả thù lao.

5. NHỮNG PHÁT HIỆN CỤ THỂ

Phần này bao gồm một tóm tắt những phát hiện chính từ báo

cáo Đánh giá Năng lực này. Những phát hiện đƣợc chia thành

hai nhóm đối tác thực hiện chính: các tổ chức của Chính phủ và

các tổ chức quần chúng. Trong hai nhóm chính này các phát hiện

lại đƣợc chia theo cấp Trung ƣơng và cấp Tỉnh/thành phố. Khi

có thể, các phát hiện đƣợc phân biệt giữa (1) hai luật, (2) các vấn

đề về năng lực trọng tâm - cơ cấu thể chế, trách nhiệm giải trình,

lãnh đạo và kiến thức, và (3) các năng lực thuộc chức năng -

thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo, nhƣ đã mô tả trong

phần Phƣơng pháp luận.

Phần này đƣợc bổ sung bằng hai phân tích do Viện Gia đình

và Giới chuẩn bị: Phân tích SWOT đối với các Hồ sơ mô tả tổ

chức và các Bảng kiểm Tổ chức (Phụ lục 2) – đánh giá 11 yếu tố

chính đƣợc ghi nhận là quan trọng đối với việc thực hiện thành

công các luật8:

8. Điều chỉnh từ Phụ lục 2 Tập hợp các Bảng kiểm về Giới của Hƣớng

dẫn lồng ghép giới trong Hoạch định và Thực thi Chính sách quốc gia –

Hƣớng tới Bình đẳng giới ở Việt Nam thông qua Hoạch định và Thực thi

38

Trách nhiệm chung đối với bình đẳng giới và Phòng,

chống bạo lực gia đình.

Hiểu biết cơ bản về các khái niệm về bình đẳng giới và

bạo lực gia đình và các pháp luật có liên quan.

Sự lãnh đạo đƣợc cam kết mạnh mẽ về bình đẳng giới và

phòng, chống bạo lực gia đình của cán bộ lãnh đạo cấp cao.

Nhận thức về một Khung chính sách quốc gia đối với

bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình.

Kế hoạch Thay đổi Tổ chức đƣợc vận hành.

Các vai trò và trách nhiệm rõ ràng.

Các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ và các Cơ quan quản lý

Nhà nƣớc về bình đẳng giới và bạo lực gia đình đƣợc đặt

vào các vị thế chiến lƣợc và đƣợc phân bổ ngân sách đầy đủ.

Văn hóa tổ chức trân trọng thay đổi và cầu thị.

Các công cụ và kiến thức để làm việc theo cách thức có

trách nhiệm giới và nhạy cảm với bạo lực gia đình.

Trách nhiệm giải trình - Các quy trình thủ tục hành chính

đang đƣợc vận hành.

Động lực - những khích lệ và hình phạt hiện có.

5.1. Các tổ chức Chính phủ

5.1.1. Cấp trung ương

Phần sau đây nêu ra những khoảng trống về năng lực đối với

các cơ quan Chính phủ ở cấp Trung ƣơng để thực hiện Luật Bình

đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Nhƣ đã thảo

luận ở phần Phƣơng pháp luận, phần này chỉ giới hạn đối với hai

cơ quan chính: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch.

Chính sách quốc gia có trách nhiệm giới. Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ Phụ

nữ, Hà Nội, năm 2008.

39

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội

Cơ cấu thể chế

Vụ Bình đẳng giới thuộc Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã

hội là một cơ quan chính trong thực hiện, giám sát, đánh giá và

báo cáo về Luật Bình đẳng giới. Vụ đƣợc thành lập vào đầu năm

2008 để tham mƣu cho Bộ trƣởng thực hiện các hoạt động quản

lý nhà nƣớc về bình đẳng giới. Một trong những hoạt động chính

của Vụ là hƣớng dẫn việc thực hiện Luật Bình đẳng giới trong

Chính phủ. Tuy nhiên, không rõ là đội ngũ cán bộ của Vụ hiểu

đến mức độ nào về vai trò và các trách nhiệm của Vụ Bình đẳng

giới nhƣ đối với một cơ quan. Các kết quả của thảo luận nhóm

trọng tâm với những ngƣời cung cấp thông tin chính của Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội cho thấy bình đẳng giới vẫn đƣợc

coi là một “vấn đề của phụ nữ”. Do vậy, tất cả những vấn đề liên

quan đến phụ nữ đều đến với Vụ Bình đẳng giới. Vụ Bình đẳng

giới cũng chịu trách nhiệm đối với các vấn đề của Ủy ban Phụ

nữ của ASEAN, Ủy ban vị thế của Phụ nữ của Liên hợp quốc,

Hội nghị thƣợng đỉnh các Bộ trƣởng về Bình đẳng giới ở Đông

Nam Á và Bộ trƣởng Bình đẳng giới trong phong trào không liên

kết của phụ nữ châu Á. Không rõ là Vụ/Ban nào của Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội chịu trách nhiệm về đánh giá nội

dung bình đẳng giới trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

và rà soát nội dung bình đẳng giới trong các tài liệu và báo cáo

của các cơ quan khác. Cũng có sự mơ hồ về vai trò của Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội trong thực hiện Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình.

Vụ Bình đẳng giới hiện có 14 cán bộ, hầu hết mới đƣợc

tuyển dụng với rất ít kiến thức về bình đẳng giới. Vụ Bình đẳng

giới có 4 cán bộ nam và 10 cán bộ nữ. Bốn trong số họ có trình

độ Thạc sỹ về lịch sử, kinh tế và luật. Không có thông tin về

trình độ chuyên môn và quản lý của nhóm cán bộ lãnh đạo gồm

một Vụ trƣởng và hai Phó vụ trƣởng.

Các Vụ có liên quan cho biết đang phối hợp với Vụ Bình

đẳng giới để hỗ trợ thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo đối

40

với hai luật. Ví dụ, Vụ Pháp chế chịu trách nhiệm đối với thực

hiện Công ƣớc CEDAW ở Việt Nam, Cục Việc làm chịu trách

nhiệm về lao động trẻ em, ngƣời tàn tật và lao động nữ cùng với

những vấn đề lao động và việc làm quan trọng khác và Vụ Hợp

tác Quốc tế chịu trách nhiệm về các vấn đề nhân quyền. Tuy

nhiên, không thấy đề cập đến vai trò của bộ phận về nguồn nhân

lực hoặc bộ phận về đào tạo và tập huấn cũng nhƣ bộ phận chịu

trách nhiệm về chính sách hoặc giám sát và đánh giá để hỗ trợ và

duy trì công tác xây dựng năng lực của đội ngũ cán bộ trong Vụ

Bình đẳng giới để thực hiện các nhiệm vụ của mình liên quan

đến hai luật.

Thiếu nghiêm trọng những cán bộ có chuyên môn ở các cấp

tỉnh/thành phố, huyện/quận và xã/phƣờng và không có những

cán bộ đầu mối trừ một số tỉnh đƣợc lựa chọn nhƣ Bình Dƣơng

và Thành phố Hồ Chí Minh. Cán bộ có những kỹ năng về giới

thì bị quá tải.

Kiến thức

Một số cán bộ đã đƣợc tập huấn về giới, nhƣng không có

thêm những tập huấn chi tiết. Cũng không rõ liệu họ có sử dụng

những gì đƣợc tập huấn trong công việc hàng ngày của họ.

100% số cán bộ của Vụ Bình đẳng giới đã đƣợc tập huấn trong

chƣơng trình tập huấn của Vụ nhƣng không có chi tiết liệu tập

huấn có hỗ trợ họ trong công việc hàng ngày của họ nhằm thực

hiện hai luật.

Trong một thảo luận nhóm trọng tâm đã đề cập đến việc

đánh giá nhu cầu tập huấn của Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã

hội do Vụ Bình đẳng giới tổ chức tại Hải Phòng, tại đó có rất

nhiều cán bộ chƣa hề đọc hoặc nhìn thấy Luật Bình đẳng giới và

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Trách nhiệm giải trình

Bình đẳng giới không đƣợc coi là một nhiệm vụ ƣu tiên của

các cán bộ của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.

41

Thực hiện

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đang phải đối mặt với

những thách thức trong thực hiện các Nghị định hƣớng dẫn thực

hiện Luật Bình đẳng giới vì bản thân Bộ đã không tham gia vào

quá trình xây dựng các Nghị định này. Những Nghị định này

đƣợc Bộ Tƣ pháp dự thảo. Không có những bằng chứng cho thấy

liệu có một cuộc chuyển giao chính thức các trách nhiệm về các

Nghị định từ Bộ Tƣ pháp sang Bộ Lao động - Thƣơng binh và

Xã hội không và liệu có bất kỳ hành động nào đã đƣợc thực hiện

để giải quyết vấn đề này.

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đang thực hiện một

đánh giá đối với các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ trên toàn quốc để

kiện toàn lại hệ thống thống này. Không rõ tại sao các Ban vì sự

tiến bộ phụ nữ đang đƣợc kiện toàn và đơn vị nào, đặc biệt trong

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội chịu trách nhiệm đối với

việc rà soát đánh giá. Cho đến nay đã có 10 tỉnh hoàn thành việc

kiện toàn các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ. Các Ban vì sự tiến bộ phụ

nữ sẽ do Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội làm thƣờng trực.

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đã tổ chức tập huấn

về bình đẳng giới và bạo lực gia đình cho các Phó Giám đốc Sở

Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du

lịch, Sở Tƣ pháp, Hội Phụ nữ và Mặt trận Tổ quốc của 63

tỉnh/thành phố. Tập huấn cho các cán bộ của các Sở Lao động -

Thƣơng binh và Xã hội cũng đã đƣợc thực hiện nhƣng không đề

cập đến nội dung của tập huấn và những ngƣời đƣợc tập huấn

đang sử dụng những nội dung đƣợc tập huấn vào công việc hàng

ngày của họ nhƣ thế nào để hỗ trợ thực hiện Luật Bình đẳng giới

và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Không rõ liệu tập huấn

có là một hoạt động chính của Bộ Lao động - Thƣơng binh và

Xã hội trong thực hiện hai luật hay không và liệu bản thân họ tự

tổ chức thực hiện tập huấn hay hợp đồng với các cơ quan bên

ngoài để thực hiện tập huấn. Cũng không rõ liệu họ có một kế

hoạch hành động đối với tập huấn và xây dựng năng lực cho cả

nƣớc về hai luật không, liệu những nguồn lực tƣơng ứng có đƣợc

42

phân bổ qua hệ thống ngân sách không và liệu những tập huấn

viên có đƣợc thuê tuyển để thực hiện tập huấn không.

Không có bằng chứng đề xuất các hoạt động của Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội liên quan đến hai luật nên đƣợc

gắn kết với bất kỳ hoạt động nào của các Bộ khác và các địa

phƣơng. Tuy nhiên có kiến thức đáng kể về các hoạt động liên

quan đến bạo lực gia đình do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

thực hiện. Hơn nữa, số liệu cho thấy Vụ Bình đẳng giới đang

thực hiện một số hoạt động về bạo lực gia đình để nâng cao nhận

thức ở cấp Bộ và quản lý nhà nƣớc.

Không có kiến thức về phân bổ ngân sách đối với các hoạt

động cụ thể dành cho Luật Bình đẳng giới. Do vậy không rõ liệu

có các nguồn quỹ để thực hiện các hoạt động đƣợc nêu ở trên

không.

Vụ Bình đẳng giới không có khóa tập huấn về giới. Tuy

nhiên có một số tập huấn về bạo lực gia đình đối với các cán bộ

lãnh đạo cấp vụ/sở nhƣng không phải là “cán bộ chủ chốt”.

Các kênh truyền thông về các luật không rõ ràng.

Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn chƣa đƣợc nhận biết

để hình thành một hệ thống lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào

các văn bản quy phạm pháp luật và chính sách.

Giám sát và đánh giá

Cán bộ nhân viên nhận thức rằng Nghị định số 55 quy định

công tác giám sát và đánh giá về bình đẳng giới, nhƣng thực hiện

cần đƣợc tăng cƣờng. Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội đã

hƣớng dẫn Tổng cục Thống kê và Bộ Y tế thu thập các số liệu

thống kê, nhƣng việc thu thập số liệu chƣa đƣợc thực hiện vì

những lý do sau: (1) có những thách thức trong việc điều phối

hợp tác và chia sẻ thông tin; (2) ngân sách rất hạn hẹp và gần đây

lại bị cắt; (3) nhận thức về giới và bình đẳng giới của những cán

bộ chịu trách nhiệm thu thập số liệu còn thấp.

43

Báo cáo

Vụ Bình đẳng giới đƣợc yêu cầu hàng năm báo cáo về tình

hình bình đẳng giới lên Quốc hội. Thông tin đầu vào đƣợc yêu

cầu từ tất cả các Bộ và địa phƣơng, nhƣng rất ít cơ quan cung

cấp thông tin và nếu có cung cấp thì đó là không phải những

thông tin mà Vụ Bình đẳng giới yêu cầu. Không rõ liệu có các

mẫu báo cáo không và liệu hiện có các hệ thống để thu thập

thông tin mà báo cáo yêu cầu không. Không có những hƣớng

dẫn báo cáo lên ai/cơ quan nào, báo cáo về vấn đề gì và ở mức

độ nào. Không có sự tham gia của xã hội dân sự trong việc đóng

góp ý kiến đối với báo cáo để làm cho Chính phủ có trách nhiệm

giải trình. Không có những diễn đàn bên trong các Bộ để thảo

luận báo cáo một cách cởi mở cũng nhƣ không có bất kỳ một

cuộc tranh luận công khai nào.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Cơ cấu thể chế

Vụ Gia đình là đơn vị chính của Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình. Đây là một Vụ hoàn toàn mới trong Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch đƣợc thành lập năm 2008. Trong

cơ cấu thể chế trƣớc đây, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em là

tổ chức chính chịu trách nhiệm thực hiện những hoạt động liên

quan đến gia đình bao gồm cả bạo lực gia đình. Ủy ban đã hoàn

thành quá trình vận hành của mình khi Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình đƣợc thông qua.

Đáng chú ý là Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ của Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch đã kém chủ động hơn kể từ khi Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình đƣợc thông qua năm 2007. Không rõ liệu

có phải là vì Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ là một cơ cấu mới của

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoặc là do vai trò của họ không

rõ kể từ khi thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Ở cấp tỉnh không có một đơn vị riêng tập trung duy nhất vào

các vấn đề bạo lực gia đình, mà chỉ có Phòng Văn hóa và Gia

đình chịu trách nhiệm rất nhiều vấn đề. Không phải tất cả các

44

tỉnh đều có Phòng Văn hóa và Gia đình trong Sở Văn hóa, Thể

thao và Du lịch. Trong sáu cán bộ đƣợc giao biên chế cho Phòng

chỉ có một hoặc hai chịu trách nhiệm đối với các vấn đề về gia

đình, bao gồm cả bạo lực gia đình. Theo thảo luận nhóm trọng

tâm với Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Sở Lao động –

Thƣơng binh và Xã hội và Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của

phụ nữ “trong một cuộc điều tra cấp quốc gia gần đây về gia

đình, không có cán bộ ở cấp huyện thuộc ngạch Văn hóa, Thể

thao và Du lịch có thể tham dự”. Cán bộ đang nắm giữ các vị trí

thƣờng là cán bộ hành chính có rất ít kỹ năng kỹ thuật để thực

hiện các nhiệm vụ liên quan đến Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình. Rất nhiều ngƣời cho rằng các

nhiệm vụ về Gia đình và bạo lực gia đình là khối lƣợng công

việc bổ sung.

Ở cấp huyện/quận và xã/phƣờng thậm chí có ít cán bộ và

nhiều vấn đề hơn để tập trung giải quyết và một số chịu sự quản

lý của hai Sở là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Sở Thông

tin và Truyền thông. Không có văn bản chính thức hƣớng dẫn

công việc của họ đối với Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình.

Những quyết định liên ngành để hƣớng dẫn các hoạt động về

bạo lực gia đình đang đƣợc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

hoàn thiện. Những quyết định này đã đƣợc xây dựng có sự tham

vấn với rất nhiều cơ quan, tổ chức trong nƣớc và quốc tế.

Kiến thức

Trong số 12 cán bộ của Vụ Gia đình, kiến thức và kinh

nghiệm của họ về Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình là khá khác nhau. Tập huấn đƣợc thực hiện không

thƣờng xuyên và không gắn kết với bất kỳ mục tiêu phát triển

năng lực nào của Vụ. Cho đến nay chƣa có những tập huấn về

bạo lực gia đình cho các lãnh đạo và chuyên viên của Vụ.

Lãnh đạo

Một Kế hoạch hành động quốc gia về Phòng, chống bạo lực

gia đình đã đƣợc xây dựng, tuy nhiên vẫn chƣa đƣợc Thủ tƣớng

45

Chính phủ phê duyệt. Một kế hoạch thay đổi tổ chức thể hiện họ

sẽ quản lý thay đổi nhƣ thế nào để thích ứng với hai luật chƣa

đƣợc đề cập đến. Những phát hiện này cho thấy hai luật không

phải là những ƣu tiên của lãnh đạo cấp cao của Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch. Tuy nhiên có bằng chứng cho thấy là cán bộ ở

cấp tỉnh rất cam kết với công việc của họ và có đƣợc sự hỗ trợ

của lãnh đạo.

Trách nhiệm giải trình

Không có số liệu cho thấy liệu có hay không các cơ chế

quản lý hành chính thỏa đáng và các yêu cầu báo cáo để nhân

viên và cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm giải trình đối với việc

thực hiện hai luật, để quan tâm đầy đủ đối với các vấn đề về bạo

lực gia đình và bình đẳng giới và để làm việc với cách thức có

trách nhiệm giới trong công việc hàng ngày.

Thực hiện

Những hƣớng dẫn về sự phối hợp đa ngành trong thực hiện

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hiện đang đƣợc Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch hoàn thiện sau khi lấy ý kiến với rất nhiều

cơ quan cấp Trung ƣơng và quốc tế.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nhân rộng một mô hình

“gia đình văn hóa” để giúp phòng và chống bạo lực gia đình trên

64 tỉnh/thành phố. Các tổ chức quần chúng đã tham gia trong

thực hiện mô hình.

Vụ Gia đình cũng đã thực hiện các chiến dịch về lồng ghép

giới và phát hành những tài liệu truyền thông về bình đẳng giới

để phân phát cho các “câu lạc bộ gia đình văn hóa”. Họ dự kiến

đánh giá chất lƣợng và tác động của những tài liệu này. Vụ Gia

đình chƣa rõ các chiến dịch của họ hiệu quả nhƣ thế nào. Nhìn

chung, có sự lo lắng bị “mất mặt” khi nói đến bạo lực gia đình.

Do vậy, mọi ngƣời thƣờng chấp nhận bạo lực gia đình là chuyện

bình thƣờng và là một quyền của đàn ông. Có rất ít chiến lƣợc

đƣợc thực hiện để khắc phục những lo lắng và sự miễn cƣỡng

thay đổi.

46

Vụ Gia đình cũng đã tổ chức tập huấn về Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình cho cán bộ, nhân viên cấp tỉnh, bao gồm

các cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh/thành phố, huyện/quận và

xã/phƣờng. Tập huấn bao gồm việc hoạch định, giám sát, đánh

giá (sử dụng các chỉ số) và các mô hình khác nhau về Phòng,

chống bạo lực gia đình.

Ở Việt Nam thiếu khủng khiếp các trung tâm tạm lánh. Ở

địa phƣơng các trung tâm bảo trợ xã hội đƣợc sử dụng cho rất

nhiều nhóm yếu thế trong xã hội, chẳng hạn những ngƣời tàn tật,

vô gia cƣ. Những trung tâm này không phù hợp là nơi ở cho các

nạn nhân của bạo lực gia đình.

Không có bằng chứng cho thấy một hệ thống khen thƣởng

của Chính phủ đang đƣợc hình thành nhằm khuyến khích các

cộng đồng thực hiện hai luật. Tuy nhiên, cũng phức tạp khi áp

dụng hệ thống nhƣ thế này. Cán bộ địa phƣơng hiếm khi thảo

luận về bạo lực gia đình ở địa phƣơng của họ vì sự hiện diện của

bạo lực gia đình tại cộng đồng có thể đƣợc hiểu là lãnh đạo cộng

đồng đó đã không thể chỉ đạo và lãnh đạo cộng đồng để có các

“gia đình văn hóa” - một cấu trúc lý tƣởng về gia đình hạnh phúc

đƣợc ghi nhận ở Việt Nam.

Những hình phạt đối với bạo lực gia đình không đƣợc quy

định cụ thể trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình mà chỉ đƣợc

quy định trong các luật dân sự và hình sự. Việc này đƣợc dành

cho quan chức địa phƣơng để xác định phạm vi của trƣờng hợp

bạo lực gia đình và áp dụng pháp luật đƣợc cho là phù hợp nhất.

Giám sát và đánh giá

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch dự kiến thực hiện nghiên

cứu về một số điển hình trong phòng, chống bạo lực gia đình ở

một số tỉnh/thành phố. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đặt

trọng tâm vào gia đình hơn là bạo lực gia đình.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang trong quá trình xác

định một tập hợp các chỉ số để giám sát và đánh giá Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình. Có tài liệu tham khảo về một tập hợp

gồm 78 chỉ số, trong đó có 4 chỉ số đƣợc tạm sử dụng cho bạo

47

lực gia đình. Thu thập số liệu về các chỉ số này đƣợc bắt đầu từ

năm 2009, tuy nhiên rất nhiều cán bộ cảm thấy không đủ kỹ

năng để thực hiện hiệu quả công việc này, vì bạo lực gia đình là

một chủ đề khó để trao đổi thảo luận. Rất nhiều những ngƣời

cung cấp thông tin chính cảm thấy không thoải mái khi nói về

bạo lực tình dục và bạo lực tâm lý. Cũng có rất nhiều chỉ số yêu

cầu thu thập số liệu với rất ít nguồn kinh phí – Tỉnh Thanh Hóa

đã dành 300 triệu đồng từ ngân sách để thu thập số liệu về bạo

lực gia đình.

Báo cáo

Hiện có một quy trình đối với báo cáo hàng năm của Sở Văn

hóa, Thể thao và Du lịch lên Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và

lên Chính phủ. Các quan chức địa phƣơng sẽ không chỉ báo cáo

về các trƣờng hợp bạo lực gia đình đã bị truy tố trƣớc tòa hoặc

đã bị lập hồ sơ hình sự. Không rõ liệu có bất kỳ tập huấn nào đã

đƣợc tập huấn về công tác báo cáo.

5.1.2. Cấp tỉnh/thành phố

Nhƣ đã giải thích ở phần Phƣơng pháp luận, phần này tập

trung vào hai tỉnh/thành phố: Hà Nội và Bình Dƣơng. Những

phát hiện chính chỉ phản ánh các tổ chức chính quyền địa

phƣơng và không phản ánh đối với bất kỳ một tổ chức phi chính

phủ hoặc tổ chức quần chúng nào vì phân tích dữ liệu ban đầu9

chỉ đƣa ra những tham khảo đối với các tổ chức chính quyền của

địa phƣơng.

Tỉnh Bình Dƣơng

Luật bình đẳng giới - cơ cấu thể chế

Ở tỉnh Bình Dƣơng có một trách nhiệm chung đối với bình

đẳng giới. Tất cả các tổ chức đƣợc điều tra trong tỉnh đều đang

đặt vấn đề bình đẳng giới vào trong chƣơng trình công tác của

mình nhƣng ở các mức độ khá khác nhau.

9. Những lƣu ý từ các Phiên Phản hồi và các Bảng kiểm cuối cùng ở

cấp tỉnh

48

Nhìn chung, không có nhiều những hình thức khích lệ cụ thể

để thực hiện Luật Bình đẳng giới. Những vai trò và trách nhiệm

không rõ ràng giữa các tổ chức và trong một tổ chức cán bộ nhân

viên cảm thấy bị quá tải đối với công việc.

Các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ đã đƣợc hình thành ở cấp

tỉnh cho tới cấp xã và có ngân sách riêng của họ. Tuy nhiên,

năng lực của cán bộ nhân viên cần đƣợc tăng cƣờng để thực

hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo một cách hiệu quả về Luật

Bình đẳng giới.

Không có Ban chỉ đạo đƣợc thành lập cho Luật Bình đẳng

giới. Cơ cấu của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ từ trung ƣơng đến

các cấp cơ sở có thể đƣợc sử dụng để thực hiện, giám sát, đánh

giá và báo cáo về Luật Bình đẳng giới.

Luật Bình đẳng giới - Kiến thức

Những ngƣời cung cấp thông tin chính hầu hết đều nhận

thức đƣợc sự cần thiết đối với Luật Bình đẳng giới.

Tuy nhiên, có rất ít hiểu biết đối với các khái niệm giới và

bản thân luật. Một số cán bộ lãnh đạo và nhân viên không biết rõ

về các khái niệm cơ bản về giới, bình đẳng giới và bạo lực gia

đình. Có sự hiểu nhầm giữa bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của

phụ nữ.

Những tài liệu và công cụ để cán bộ nhân viên trong những

tổ chức chủ chốt làm việc theo một cách thức có trách nhiệm

giới rất hạn chế.

Cán bộ nhân viên sẽ hƣởng lợi từ tập huấn về làm thế nào để

lồng ghép giới vào các văn bản, tài liệu.

Các khóa tập huấn về giới và Luật Bình đẳng giới đƣợc tổ

chức thƣờng ngắn và ôm đồm nhiều chủ đề.

Luật Bình đẳng giới - Lãnh đạo

Sự lãnh đạo với cam kết mạnh mẽ đối với bình đẳng giới

của cán bộ quản lý cấp cao đƣợc thể hiện rõ ở tỉnh và đƣợc đề

cao trong Chỉ thị số 2961 ngày 2 tháng 10 năm 2009 về tăng

cƣờng bình đẳng giới của Tỉnh uỷ. Tỉnh cũng sẽ thành lập Phòng

49

Bình đẳng giới trong Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội vào

năm 2010.

Do vậy không có số liệu đánh giá liệu tỉnh có thực hiện gì

khác không - thay đổi mang tính hỗ trợ và có khích lệ việc học

tập những vấn đề mới - nhƣ vậy các Luật Bình đẳng giới và

Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc thực hiện hiệu quả.

Luật Bình đẳng giới - Thực hiện và điều phối

Tuy nhiên Tỉnh không ở vị thế hợp lý để quản lý và điều

phối thay đổi. Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội hiểu trách

nhiệm của mình là một cơ quan đầu mối, nhƣng không có năng

lực để xây dựng và điều phối một chiến lƣợc thể hiện Tỉnh sẽ

thực hiện Luật Bình đẳng giới nhƣ thế nào.

Tỉnh uỷ có một chƣơng trình vì sự tiến bộ của phụ nữ theo

Nghị quyết số 11, nhƣng không có bằng chứng cho thấy đây là

văn kiện thực hiện Luật Bình đẳng giới.

Các phong trào ở cộng đồng nhƣ “gia đình/khu dân cƣ văn

hoá” đƣợc coi là có tầm quan trọng đặc biệt trong thực hiện

hai luật.

Một số can thiệp dựa vào cộng đồng đang đƣợc các tổ chức

quần chúng thực hiện để đến với ngƣời dân ở cấp cơ sở. Các

hoạt động truyền thông liên quan đến hai luật hầu hết nhằm vào

phụ nữ, không phải nam giới.

Có một số kết quả đáng kể từ phƣơng thức “câu lạc bộ” do

Hội phụ nữ tỉnh hỗ trợ. Ba câu lạc bộ đƣợc đặc biệt lƣu ý là: Câu

lạc bộ “Nam giới để dựa vào”, Câu lạc bộ Phụ nữ và Câu lạc bộ

chủ nhà.

Thiếu các phƣơng tiện thực hiện chức năng đang ngăn cản

những nỗ lực thực hiện chẳng hạn nhƣ máy tính và tiếp cận

internet.

Luật Bình đẳng giới - Trách nhiệm giải trình, báo cáo,

giám sát và đánh giá

Không có cơ chế báo cáo dành riêng đối với Luật Bình đẳng

giới ở tỉnh, tuy nhiên, cán bộ đƣợc yêu cầu lồng ghép các vấn đề

50

giới vào tất cả các báo cáo thƣờng xuyên của họ. Không có một

cơ chế báo cáo riêng nắm đƣợc thực trạng bình đẳng giới.

Ở tỉnh có ít những khuyến khích quan tâm đến Luật Bình

đẳng giới, tuy nhiên, một số Sở/ngành có đƣa một chỉ số bình

đẳng giới vào trong đánh giá hoàn thành công việc hàng năm của

cá nhân và tổ chức.

Có rất ít các hoạt động giám sát và đánh giá và không có

một tập hợp các chỉ số.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Cơ cấu thể chế

Trong chính quyền tỉnh Bình Dƣơng có một trách nhiệm

chung đối với bạo lực gia đình. Tỉnh đã thành lập một Ban chỉ

đạo, xây dựng đề án và ba phƣơng thức để ngăn chặn bạo lực gia

đình: Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Nếp sống Gia đình

Văn hoá và Đạo lý Gia đình.

Ngoài Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, các Sở, ngành khác

của tỉnh không rõ về các vai trò và trách nhiệm trong các công

việc hàng ngày của mình đối với Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình. Có rất ít bằng chứng cho thấy có một cơ chế hỗ trợ các

Sở/ngành của tỉnh để tập trung giải quyết điều này hoặc làm rõ

các chức năng cụ thể của họ.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Kiến thức

Các kết quả của thảo luận nhóm trọng tâm đã cho thấy có

những hiểu biết cơ bản về các khái niệm bạo lực gia đình và về

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Có nhận thức và khả năng

để phân biệt các hình thức của bạo lực gia đình, chẳng hạn bạo

lực tình dục, bạo lực thể xác và bạo lực kinh tế.

Tất cả các tổ chức đƣợc phỏng vấn đều nhận thức đƣợc về

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nhƣng không rõ liệu họ có

nhận thức đƣợc phạm vi chính sách có đƣợc từ Luật.

Có rất ít bằng chứng cho thấy cán bộ cấp tỉnh có công cụ và

kiến thức để làm việc theo cách thức nhạy cảm và có trách nhiệm

giới đối với bạo lực gia đình. Còn thiếu các kỹ năng về truyền

thông và tham vấn.

51

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Lãnh đạo

Sự lãnh đạo với cam kết mạnh mẽ đƣợc thể hiện trong thực

tế là tỉnh đã xây dựng một đề án ngăn ngừa bạo lực gia đình cho

giai đoạn 2006-2010. Phòng Gia đình và nếp sống văn hoá trong

Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch cũng đã đƣợc thành lập.

Không có số liệu đƣợc thu thập để đánh giá văn hoá của tổ

chức của mỗi một cơ quan đƣợc phỏng vấn. Do vậy không có số

liệu để đánh giá liệu tỉnh có thực hiện gì khác không - thay đổi

mang tính hỗ trợ và có khích lệ việc học tập những vấn đề mới -

nhƣ vậy các luật bình đẳng giới và Phòng, chống bạo lực gia

đình đƣợc thực hiện hiệu quả.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Thực hiện, điều

phối và các hệ thống đổi mới

Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, cơ quan đầu mối ở tỉnh

trong thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, đã thực hiện

các hoạt động truyền thông về Luật này cũng nhƣ điều phối các

Sở/ngành khác và các tổ chức quần chúng trong thực hiện Luật.

Vô số các hoạt động cũng đã đƣợc thực hiện nhằm nâng cao

nhận thức về Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Nhƣ đã nêu ở trên, các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ đã đƣợc

hình thành ở Tỉnh cho đến tập cấp xã với dòng ngân sách riêng.

Tuy nhiên, năng lực của cán bộ cần đƣợc tăng cƣờng để thực

hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình.

Các phong trào ở cộng đồng nhƣ “gia đình/khu dân cƣ văn

hoá” đƣợc coi là có tầm quan trọng đặc biệt trong thực hiện

hai luật.

Phản hồi từ cấp cơ sở và các tổ chức quần chúng đến Chính

phủ về hai luật chƣa đƣợc vận hành. Các Sở/ngành ở tỉnh cần cởi

mở để tiếp nhận phản hồi về những gì phù hợp đối với cơ sở và

những gì chƣa phù hợp với cơ sở và phải sẵn sàng đáp ứng, điều

chỉnh và thay đổi.

Có một số kết quả đáng kể từ phƣơng thức “câu lạc bộ” do

Hội phụ nữ tỉnh hỗ trợ. Ba câu lạc bộ đƣợc đặc biệt lƣu ý là: Câu

52

lạc bộ “Nam giới để dựa vào”, Câu lạc bộ của Phụ nữ và Câu lạc

bộ chủ nhà.

Các toà án lƣu động đã đƣợc nhận biết với tiềm năng mở

rộng cách thức xét xử các trƣờng hợp bạo lực gia đình. Ngoài ra,

các cuộc đua tranh đã đƣợc nhận biết vì có tiềm năng đa dạng

hóa cách thức mà các hoạt động truyền thông đƣợc thực hiện.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Trách nhiệm giải

trình và báo cáo

Ở tỉnh có những cơ chế quản lý hành chính và các yêu cầu

báo cáo không tƣơng xứng để đòi hỏi cán bộ nhân viên có trách

nhiệm giải trình về Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Ví dụ,

các toà án cho đến nay chỉ áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình

và Luật Hình sự trong xét xử các trƣờng hợp về bạo lực gia đình

mà không tham khảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hoặc

bất kỳ hƣớng dẫn hoặc quy chế đƣợc ban hành đối với bạo lực

gia đình.

Báo cáo về bạo lực gia đình của các Sở/ngành và các tổ chức

trong tỉnh đều sơ sài. Trong khi Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch

nhận đƣợc một bộ chỉ số về bạo lực gia đình, nhƣng trong tỉnh

lại không có cơ chế thu thập số liệu một cách tổng hợp và mang

tính điều phối về bạo lực gia đình. Ví dụ, các Toà án không có

hồ sơ về các trƣờng hợp bạo lực gia đình (thậm chí những trƣờng

hợp nhƣ vậy đang tồn tại ở cả các Toà án hình sự và dân sự) -

Toà án Tối cao chƣa có hƣớng dẫn để thực hiện điều đó. Các

bệnh viện không có quy trình sàng lọc tại chỗ để phân loại các

chấn thƣơng của bạo lực gia đình từ những “chấn thƣơng liên

quan đến mâu thuẫn” khác do vậy không có các hồ sơ về bạo lực

gia đình đƣợc lƣu giữ.

Có một số khen thƣởng cho việc thực hiện Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình nhƣng những chi tiết cho khen thƣởng

không đƣợc quy định. Không có bằng chứng về bất kỳ hậu quả

nào do thiếu trách nhiệm trong thực hiện Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình.

53

Thành phố Hà Nội - những khoảng trống về năng lực

Luật Bình đẳng giới - Cơ cấu thể chế

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đã không hƣớng dẫn

chi tiết việc thực hiện Nghị định số 70 về thực hiện Luật Bình

đẳng giới. Tuy nhiên, những hƣớng dẫn sau đây đã đƣợc Thành

phố Hà Nội ban hành10

:

Hƣớng dẫn số 2846/UBND-VX của Ủy ban Nhân dân

Thành phố năm 2007 về hƣớng dẫn thực hiện Nghị định

số 70 về thực hiện Luật Bình đẳng giới.

Hƣớng dẫn số 3796/UBND-VX của Ủy ban Nhân dân

Thành phố năm 2008 về việc thực hiện của Chính quyền

đối với hƣớng dẫn của Nghị định số 48 về Luật Bình đẳng

giới.

Hƣớng dẫn số 5027/UBND-VX của Ủy ban Nhân dân

Thành phố năm 2008 về việc thực hiện Hƣớng dẫn thực

hiện của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội về Luật

Bình đẳng giới.

Theo số liệu có đƣợc, Uỷ ban Nhân dân Thành phố và các

Sở/ngành đã không xây dựng những hƣớng dẫn cụ thể hoặc

thông tin về làm thế nào để lồng ghép giới vào quá trình chính

sách, tổ chức, kế hoạch, chƣơng trình hoặc dự án.

Cũng không có những quy định về ai chịu trách nhiệm về

vấn đề giới trong các cơ quan. Trong đội ngũ cán bộ nhân viên

của Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội có thể có cán bộ chịu

trách nhiệm về bình đẳng giới, nhƣng không có cán bộ chịu trách

nhiệm về bình đẳng giới ở cấp quận và phƣờng.

10. Một danh sách dài những văn bản chính (các chiến lƣợc, các luật,

nghị định) đã đƣợc nhóm nghiên cứu thu thập để đƣa ra một bản mô tả chi

tiết khung chính sách đƣợc dựa trên đó để thực hiện luật. Trong danh sách

này không có chiến lƣợc hoặc kế hoạch hành động để thực hiện Luật Bình

đẳng giới ở cấp Quốc gia hoặc cấp tỉnh/thành phố.

54

Các vai trò và trách nhiệm tƣơng ứng với việc thực hiện đã

cho thấy nhƣ sau: Uỷ ban Nhân dân Thành phố giao Ban vì sự

tiến bộ phụ nữ tham mƣu xây dựng những hƣớng dẫn và Sở Lao

động – Thƣơng binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nƣớc thực

hiện Luật Bình đẳng giới. Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội

đã giao cho Phòng Hành chính và Kế hoạch của mình chịu trách

nhiệm với một cán bộ đƣợc giao công tác bình đẳng giới. Các

Sở/ngành khác không có cán bộ chịu trách nhiệm về giới. Các

Ban vì sự tiến bộ phụ nữ đã đƣợc thành lập ở tất cả các Sở/ngành

và đóng vai trò là cơ quan tham mƣu về bình đẳng giới. Các Ban

vì sự tiến bộ phụ nữ trong các Bộ chủ chốt và các địa phƣơng là

những cơ quan tham mƣu cho lãnh đạo của họ trong việc thực

hiện các chỉ thị của Đảng và Nhà nƣớc về bình đẳng giới trong

những lĩnh vực và địa phƣơng tƣơng ứng. Những thành viên của

Ban vì sự tiến bộ phụ nữ là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của

các Sở/ngành, nhƣng họ lại có quá nhiều công việc thuộc lĩnh

vực của họ và vì vậy có rất ít thời gian dành cho trách nhiệm của

họ đối với Ban vì sự tiến bộ phụ nữ. Những thành viên của Ban

vì sự tiến bộ phụ nữ cũng phối hợp với Ban nữ công hoặc trong

công việc của các Sở/ngành khác và họ cũng cho rằng công việc

của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ là công việc bổ sung thêm cho công

việc trọng tâm của họ.

Không có hệ thống ban hành các khen thƣởng và hình phạt

(những khuyến khích và những trừng phạt) để khuyến khích cán

bộ nhân viên thực hiện Luật Bình đẳng giới một cách hiệu quả.

Không có cơ chế đối với các hình phạt liên quan đến việc vi

phạm Luật Bình đẳng giới.

Luật Bình đẳng giới - Tạo nguồn lực

Có rất ít cán bộ làm việc liên quan đến Luật Bình đẳng giới.

Các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ vận hành với nguồn ngân sách hạn

hẹp chỉ đủ cho các hoạt động tập huấn và truyền thông. Các cơ

quan khác không có nguồn quỹ để hỗ trợ những sáng kiến về

bình đẳng giới.

55

Luật Bình đẳng giới - Lãnh đạo

Rất nhiều cán bộ nhìn nhận giới nhƣ là “những vấn đề của

phụ nữ”. Chẳng hạn, các hoạt động có khuynh hƣớng đƣợc tập

trung vào phụ nữ thay vì lồng ghép giới vào các hoạt động, chính

sách và chƣơng trình. Các cán bộ lãnh đạo không coi bình đẳng

giới là một ƣu tiên, hầu hết thƣờng giao những công việc về bình

đẳng giới sang cho Ban nữ công hoặc Ban vì sự tiến bộ phụ nữ.

Luật Bình đẳng giới - Kiến thức

Bình đẳng giới là một vấn đề mới đối với Sở Lao động -

Thƣơng binh và Xã hội. Hầu nhƣ tất cả các Sở/ngành và các tổ

chức quần chúng, trừ Mặt trận Tổ quốc, của thành phố đều đƣợc

tập huấn về giới. Những ngƣời đƣợc tập huấn về giới đều nhận

thức đƣợc những khác biệt về giới nhƣng họ không biết làm thế

nào lồng ghép giới vào các chƣơng trình và chính sách của mình.

Chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố cũng

chƣa đƣợc lồng ghép giới. Cũng không có hƣớng dẫn hoặc thông

tin làm thế nào để lồng ghép giới vào quá trình chính sách. Rất

nhiều cán bộ nhân viên vẫn coi các vấn đề giới là những vấn đề

chỉ của phụ nữ.

Những cán bộ nhân viên đƣợc tập huấn về giới không biết

làm thế nào để xây dựng một kế hoạch hoặc một chiến lƣợc về

bình đẳng giới cũng nhƣ xây dựng một hệ thống giám sát và

đánh giá để giúp quản lý và báo cáo về bình đẳng giới. Trung

ƣơng Hội liên hiệp phụ nữ có các kiến thức về giới và lồng ghép

giới thông qua các tập huấn từ tổ chức Plan International. Plan

International cũng đã hỗ trợ Trung ƣơng Hội liên hiệp phụ nữ tổ

chức tập huấn nội bộ cho các cán bộ nhân viên của mình để xây

dựng các “câu lạc bộ về bình đẳng giới” và phát triển các tài liệu

lồng ghép cho cấp cơ sở. Uỷ ban Nhân dân đang lên kế hoạch

thực hiện tập huấn về Luật Bình đẳng giới cho các cán bộ chủ

chốt của các Sở/ngành.

Rất nhiều ngƣời đƣợc phỏng vấn quan tâm đến năng lực của

tổ chức của họ đối với lồng ghép giới vào văn bản quy phạm

pháp luật và chính sách. Họ cho rằng điều này một phần là do

56

thiếu số liệu tách biệt về giới tính và thống kê giới, nhƣng chủ

yếu là do không có một kế hoạch hành động để thu hút các hoạt

động và thực tế là các khái niệm về giới vẫn chƣa thay thế khái

niệm về sự tiến bộ của phụ nữ. Bình đẳng giới vẫn là một khái

niệm trừu tƣợng khó đƣa vào một loạt các hoạt động cụ thể.

Luật Bình đẳng giới - Trách nhiệm giải trình

“Trách nhiệm giải trình” chƣa là một nguyên tắc bao trùm

lên văn hoá của các tổ chức của Chính phủ mặc dầu các cán bộ

nhân viên đều quan tâm đến trách nhiệm giải trình của họ đối với

việc thực hiện Luật Bình đẳng giới. Không có hƣớng dẫn thế nào

là “có trách nhiệm giải trình”. Mặt trận Tổ quốc Hà Nội là một

cơ quan nhận đƣợc những khiếu nại liên quan đến bình đẳng giới

của ngƣời dân. Họ chuyển báo cáo lên Uỷ ban Nhân dân và

Thành uỷ. Tuy nhiên, phản hồi trái chiều không xảy ra - Mặt trận

Tổ quốc không nhận đƣợc những báo cáo thƣờng xuyên từ Uỷ

ban Nhân dân và Thành uỷ cũng nhƣ bất kỳ phản hồi nào liên

quan đến khiếu nại của ngƣời dân về bình đẳng giới.

Luật Bình đẳng giới - Giám sát, đánh giá và báo cáo

Không có những đòi hỏi chi tiết đối với giám sát, đánh giá

và báo cáo về bình đẳng giới. Uỷ ban Nhân dân báo cáo về thúc

đẩy bình đẳng giới và thực hiện Luật Bình đẳng giới lên Uỷ ban

các vấn đề xã hội của Quốc hội. Tuy nhiên, các báo cáo tiến độ

sáu tháng một lần về bình đẳng giới không chỉ ra những thành

tựu về bình đẳng giới vì Thành phố Hà Nội đã lồng ghép các chỉ

tiêu của Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ vào

các kế hoạch hàng năm của các Sở/ngành và gọi đó là các chỉ

tiêu về bình đẳng giới. Điều này cho thấy những báo cáo tiến độ

về bình đẳng giới trên thực tế dựa vào số liệu từ các hoạt động vì

sự tiến bộ phụ nữ.

Rất ít các hoạt động giám sát đƣợc thực hiện và hiện không

có một hệ thống giám sát thống nhất. Một ngƣời cung cấp

thông tin chính lƣu ý rằng nếu các chỉ tiêu tồn tại, chúng dƣờng

nhƣ là của nƣớc ngoài và không phù hợp với bối cảnh của Việt

57

Nam. Không có những mẫu báo cáo cụ thể và không rõ là báo

cáo lên ai.

Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đã phê duyệt Số liệu

Thống kê Bình đẳng giới giai đoạn 2008-2010 và đã ban hành

hƣớng dẫn thực hiện, chẳng hạn tập huấn cho giảng viên nguồn

(TOT). Tuy nhiên, chỉ có Ban vì sự tiến bộ phụ nữ của Hà Nội

nhận thức đƣợc về bộ số liệu thống kê này. Thành phố không có

một cơ sở dữ liệu đƣợc phân tách theo giới tính và các số liệu

thống kê giới. Ngân sách dành cho bình đẳng giới đƣợc dành

trực tiếp cho các hoạt động tập huấn và truyền thông. Có đánh

giá năng lực nhƣng không nhất thiết hƣớng vào thực hịên hai

luật mới.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - cơ cấu thể chế

Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đƣợc giao điều phối việc

thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ở cấp thành phố.

Sở đã trình một đề án thành lập Ban Chỉ đạo về Phòng, chống

bạo lực gia đình lên Uỷ ban Nhân dân Thành phố. Uỷ ban Nhân

dân Thành phố Hà Nội không có bất kỳ một hƣớng dẫn nào đối

với việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (Nghị

định số 08 hoặc Chỉ thị 16), mặc dù có một loạt các chỉ thị, quyết

định và quy chế liên quan đến bạo lực gia đình11

(xem Mẫu 13

Thành phố Hà Nội đối với một danh mục – Phụ lục 2). Không có

Sở/ngành nào, bao gồm cả Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội

có kế hoạch cụ thể để phòng và chống bạo lực gia đình. Sở Văn

hoá, Thể thao và Du lịch ban hành hƣớng dẫn việc thu thập số

liệu, nhƣng không hƣớng dẫn về giám sát, đánh giá và báo cáo

việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Cán bộ nhân

viên hoạt động với rất ít hƣớng dẫn và chỉ đạo của quản lý cấp

cao hơn.

11. Ví dụ Quyết định số 1960 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

ngày 27/5/2009 về việc thành lập Ban Quản lý Chƣơng trình “Nâng cao năng

lực cho các cơ quan của Nhà nƣớc và các tổ chức xã hội trong thực hiện,

giám sát, đánh giá và báo cáo về Luật Phòng chống bạo lực gia đình”.

58

Sở Y tế bắt đầu quá trình thực hiện Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình bằng cách ban hành Thông tƣ số 16 về quy trình

chăm sóc nạn nhân của bạo lực gia đình ở các trung tâm y tế và

lƣu giữ các hồ sơ về các trƣờng hợp đƣợc báo cáo nhận đƣợc từ

các trung tâm y tế. Tuy nhiên, cán bộ nhân viên y tế không có

những kỹ năng đầy đủ để thực hiện công việc này.

Một mẫu điều tra về bạo lực gia đình (theo yêu cầu của

Quyết định số 238 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã

đƣợc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch phát cho các đơn vị của

mình ở cấp phƣờng. Sở Thông tin và các Toà án cũng tuyên

truyền phổ biến Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cho cán bộ

nhân viên của mình.

Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đang điều chỉnh cơ cấu

tổ chức của mình sau khi tiếp nhận một phần của Ủy ban Dân

số, Gia đình và Trẻ em khi Ủy ban bị giải thể vào năm 2008.

Việc sáp nhập Hà Tây vào Thành phố Hà Nội cũng làm tăng

thêm khối lƣợng công việc về tái tổ chức. Những chức năng và

trách nhiệm nội bộ không rõ ràng và không đủ chi tiết. Công

an và các Tòa án có rất ít năng lực để hình thành một cơ chế

xử phạt những ngƣời vi phạm luật - các văn bản hƣớng dẫn rất

chung chung và không chi tiết ai chịu trách nhiệm việc gì. Tuy

nhiên, những vai trò giữa mỗi cơ quan dƣờng nhƣ rõ ràng hơn,

chẳng hạn:

Ban Gia đình văn hóa (Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch)

chịu trách nhiệm thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình;

Ủy ban Nhân dân các cấp gửi báo cáo về phòng, chống

bạo lực gia đình lên cấp Ủy ban cao hơn trƣớc ngày 15

tháng 12;

Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm

trình báo cáo cuối cùng lên Bộ Văn hoá, Thể thao và

Du lịch;

Các trung tâm chăm sóc y tế (công và tƣ) chịu trách

nhiệm thực hiện chăm sóc y tế đối với các nạn nhân của

59

bạo lực gia đình và lƣu giữ hồ sơ vì mục đích thống kê.

Cán bộ nhân viên Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch bị quá tải

về công việc và chịu trách nhiệm về quá nhiều vấn đề. Không có

một cá nhân cụ thể chịu trách nhiệm về phòng, chống bạo lực gia

đình. Cán bộ nhân viên ở cấp cơ sở không nhận thức đƣợc về

trách nhiệm của mình trong phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo

lực gia đình vẫn đƣợc coi là một vấn đề gia đình đƣợc gia đình

hoặc Hội phụ nữ giải quyết.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Thực hiện

Hầu hết các hoạt động đƣợc thực hiện cho đến nay đều tập

trung vào truyền thông và nâng cao nhận thức, bao gồm hình

thành một hệ thống thi đua và khen thƣởng. Hệ thống khen

thƣởng này đƣợc một Ban Chỉ đạo chỉ đạo việc xây dựng một

“Nếp sống văn hóa”. Họ cấp bằng khen cho những khu phố dựa

trên các tiêu chí để thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình. Trong một “gia đình văn hóa” không có bạo lực gia đình,

tƣơng tự đối với một gia đình có hai con - có con thứ ba không

đƣợc coi là một “gia đình văn hóa”. Không đề cập đến những

hoạt động tập trung vào việc thực hiện các giải pháp pháp lý gắn

với luật.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Tạo nguồn lực

Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đang trong giai đoạn tái cơ

cấu và không tập trung vào cải thiện chất lƣợng nguồn nhân lực

của mình để thực hiện tốt hơn Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình. Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch không có đủ cán bộ nhân

viên để thu thập số liệu về phòng, chống bạo lực gia đình. Chƣa

có ngân sách dành cho việc thu thập số liệu, giám sát, đánh giá

và báo cáo về phòng, chống bạo lực gia đình.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình – Lãnh đạo

Những kết quả của thảo luận nhóm trọng tâm và phỏng vấn

sâu cho thấy rất nhiều các cán bộ lãnh đạo của phƣờng, những

ngƣời quan trọng nhất thực hiện luật theo Nghị định số 08 của

Thủ tƣớng Chính phủ đang làm việc về phòng, chống bạo lực gia

đình. Tuy nhiên, bạo lực gia đình vẫn đƣợc coi là một vấn đề

60

riêng tƣ đối với gia đình và vì vậy không có một ƣu tiên đối với

Thành phố. Vai trò tham mƣu của Sở Văn hoá, Thể thao và Du

lịch còn yếu.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Kiến thức

Các cán bộ Nhà nƣớc ở tất cả các Sở/ngành đều biết về Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình, không chỉ bạo thực thể xác mà

còn cả bạo lực tâm lý và tình dục và còn hiểu đƣợc những trở

ngại trong báo cáo về bạo lực gia đình. Nhận thức của cán bộ

Nhà nƣớc ở cấp phƣờng tuy nhiên vẫn còn thấp.

Cán bộ nhân viên của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch và

Sở Y tế đã có kinh nghiệm trong hình thành các mô hình phòng,

chống bạo lực gia đình từ những dự án đƣợc thực hiện trƣớc khi

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc thông qua. Tuy nhiên,

nhận thức của cán bộ ngành y - những ngƣời chăm sóc trực tiếp

những nạn nhân của bạo lực gia đình và chịu trách nhiệm báo

cáo về các trƣờng hợp bạo lực gia đình vẫn còn thấp. Đó là do

rất nhiều trong số họ chƣa đƣợc tập huấn lần nào.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Giám sát và đánh giá

Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch có một bộ chỉ số về bạo lực

gia đình nhƣng chƣa có hƣớng dẫn sử dụng các chỉ số này nhƣ thế

nào. Có các hƣớng dẫn và các mẫu để thu thập số liệu, báo cáo và

quản lý trƣờng hợp đối với các nạn nhân bạo lực gia đình mặc dù

cán bộ nhân viên chƣa đƣợc tập huấn sử dụng chúng. Không có

một cơ sở dữ liệu về bạo lực gia đình và cán bộ nhân viên chƣa có

những kỹ năng phù hợp để phát triển cơ sở dữ liệu này.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Trách nhiệm giải trình

Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Sở Y tế chƣa báo cáo về

việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Đó là do luật

tƣơng đối mới và Thành phố Hà Nội chƣa có một Kế hoạch hành

động về phòng, chống bạo lực gia đình. Sở Thông tin và các Tòa

án báo cáo về bạo lực gia đình nhƣ một phần của quá trình báo

cáo chung.

61

5.2. Các tổ chức quần chúng

5.2.1. Cấp trung ương

Phần này là một tóm tắt các phân tích đã đƣợc Viện Gia

đình và Giới thực hiện đối với hai thảo luận nhóm trọng tâm với

các tổ chức quần chúng ở cấp Trung ƣơng, đầu tiên với Hội

Nông dân Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và

Trung ƣơng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và thứ hai

với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Trung ƣơng Hội liên hiệp

Phụ nữ Việt Nam.

Cơ cấu thể chế

Không có một kế hoạch và cơ chế thực hiện cụ thể, vì vậy

rất khó khăn để thực hiện hai luật một cách hiệu quả. Các hoạt

động không đƣợc thực hiện mang tính hệ thống từ trung ƣơng

đến cơ sở.

Các vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức

thành viên khác đã đƣợc đề cập trong hai luật nhƣng chƣa đủ

cụ thể.

Thực hiện và phối hợp

Rất nhiều hoạt động đƣợc thực hiện dựa trên các khái niệm

vì sự tiến bộ phụ nữ hơn là các khái niệm bình đẳng giới.

Cơ chế phối hợp hiện hành không tận dụng hết năng lực của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Thiếu một hệ thống tại chỗ để hỗ trợ các nạn nhân của bạo

lực gia đình. Các trung tâm tạm lánh đƣợc quy định trong Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình không phù hợp với bối cảnh

Việt Nam.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có những vai trò và trách nhiệm

đặc biệt đối với hai luật (Điều 29 Luật Bình đẳng giới và Điều 33

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình), nhƣng Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam không biết làm thế nào để thực hiện các vai trò và

trách nhiệm của mình. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình thông qua các hoạt động hòa

giải ở cấp cơ sở.

62

Lãnh đạo

Có ba bộ phận trong Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

chịu trách nhiệm thực hiện các luật - Ban Nữ công, Phòng Bình

đẳng giới và Trung tâm Dân số. Tuy nhiên không có sự lãnh đạo

và chỉ đạo trong Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hƣớng dẫn

xây dựng các tiến trình để hỗ trợ thực hiện các luật.

Kiến thức

Rất nhiều cá nhân ở Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tin

tƣởng rằng công việc của Ban Nữ công chỉ về phụ nữ. Nhận thức

về các vấn đề giới rất thấp ở Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

và họ đấu tranh để lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động lồng

ghép giới. Đã có phiên tập huấn về giới và lồng ghép giới đƣợc

Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ tài trợ. 5000 cán bộ

của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đƣợc tập huấn trong

hai năm 2008-2009 nhƣng chỉ có 10% đƣợc đánh giá là những

tập huấn viên có năng lực tập huấn cho giảng viên nguồn.

Số liệu này cho thấy các cán bộ lãnh đạo của Tổng Liên

đoàn Lao động Việt Nam vẫn còn miễn cƣỡng đối với tập huấn

về giới. Những khởi điểm khác qua đó thảo luận về giới cần

đƣợc xác định.

Giám sát và đánh giá

Có một cơ chế giám sát về phúc lợi đối với lao động nữ ở

cấp cơ sở của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Không có đội giám sát tại chỗ trong Trung ƣơng Đoàn thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng nhƣ không có một kế hoạch

hành động đối với cả hai luật. Không có những tiêu chí đánh giá

để đo đếm hiệu quả của việc thực hiện. Không có cơ sở dữ liệu

đƣợc hình thành để thu thập thông tin về hai luật.

5.2.2. Cấp tỉnh/thành phố

Phần này tóm tắt những hạn chế chính về năng lực của các

tổ chức quần chúng từ các thảo luận nhóm trọng tâm của bốn

tỉnh/thành phố: Bình Dƣơng, Hà Nội, Hà Nam, Thái Bình.

63

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Thực hiện

Các tỉnh/thành phố đang ở những giai đoạn khác nhau của

quá trình thực hiện. Ví dụ: Bình Dƣơng bắt đầu các hoạt động về

bạo lực gia đình tƣơng đối sớm thông qua hỗ trợ xây dựng một

bộ cẩm nang ngăn chặn bạo lực gia đình. Tuy nhiên, rất nhiều

hoạt động ngăn ngừa bạo lực gia đình hiện nay chỉ nhằm vào phụ

nữ, mà không phải nam giới. Không rõ tại sao lại nhƣ vậy.

Luật đƣợc phổ biến rộng rãi nhƣng tham khảo luật vẫn còn

rất hạn chế trong công việc của các chuyên gia tƣ vấn. Họ vẫn

phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức và kinh nghiệm của bản thân.

Điều này cho thấy kiến thức và kinh nghiệm của chuyên gia tƣ

vấn không đủ để thực hiện hiệu quả Luật Phòng, chống bạo lực

gia đình.

Hầu hết các cơ quan hoạt động tách rời nhau, dựa chủ yếu

vào năng lực của bản thân và cam kết thực hiện luật.

Cán bộ nhân viên bị quá tải ở cấp cơ sở và không thể thực

hiện các trách nhiệm liên quan đến Luật Phòng, chống bạo lực

gia đình.

Khó để tiếp cận đối với các nạn nhân của bạo lực gia đình.

Điều này trƣớc hết là do các nạn nhân không nhận thức đƣợc

tình trạng bị tổn thƣơng của mình và thƣờng miễn cƣỡng phối

hợp với các cơ quan chức năng.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Kiến thức

Nhìn chung, các kỹ năng và kiến thức chuyên môn về bạo

lực gia đình còn thấp và không đủ để thực hiện luật một cách

hiệu quả.

Cán bộ nhân viên của Hội phụ nữ tỉnh đƣợc tập huấn về

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nhƣng hầu nhƣ cán bộ

nhân viên của Tòa án hoặc của Ủy ban Nhân dân không đƣợc

tập huấn.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Tạo nguồn lực

Kinh phí dành cho các hoạt động nâng cao nhận thức, tập

64

huấn và giám sát đƣợc cho là rất thấp. Để duy trì, nhân rộng và

đa dạng hóa các hoạt động ngăn ngừa bạo lực gia đình cần có

một sự đầu tƣ lớn hơn.

Cán bộ nhân viên hỗ trợ các “câu lạc bộ” đang làm việc một

cách tự nguyện không có chế độ phụ cấp.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình - Giám sát và đánh giá

Không có cơ chế giám sát việc thực hiện luật. Điều này đã

ngăn cản các tổ chức quần chúng thực hiện chức năng giám sát

của họ.

Không có cơ chế chia sẻ kinh nghiệm và khuyến khích học

hỏi giữa các đối tác thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình. Điều này đã ảnh hƣởng đến chất lƣợng của việc thực hiện

công việc cho đến nay.

Các hoạt động giám sát, đánh giá và báo cáo vẫn còn yếu,

không có thông tin những gì đã làm và chƣa làm để tác động lên

việc thiết kế pha tiếp theo của các hoạt động.

Luật Bình đẳng giới

Luật Bình đẳng giới - Thực hiện

Những chiến lƣợc hiện hành đang đƣợc các tổ chức quần

chúng sử dụng để thúc đẩy luật đang đóng một vai trò quan trọng

ở tỉnh và nên đƣợc hỗ trợ để tổ chức thực hiện tốt hơn.

Luật Bình đẳng giới - Tạo nguồn lực

Rất hạn chế về nguồn lực đƣợc phân bổ cho các hoạt động

truyền thông, tập huấn và giám sát liên quan đến thực hiện luật.

Những ngƣời tham gia vào hoạt động của các “câu lạc bộ”

hầu nhƣ trên cơ sở tự nguyện.

Luật Bình đẳng giới - Kiến thức

Nhìn chung, cán bộ nhân viên chịu trách nhiệm đối với việc

thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo có rất ít hiểu biết về luật

và thiếu những kỹ năng cần thiết để thực hiện luật hiệu quả.

Các cán bộ nhân viên của các tổ chức quần chúng bị hạn chế

trong tiếp cận thông tin và các văn bản liên quan đến Luật Bình

đẳng giới và các Nghị định thực hiện.

65

Rất nhiều cán bộ nhân viên, bao gồm cả các cán bộ lãnh đạo

ở các tổ chức địa phƣơng không nhận thức đƣợc tầm quan trọng

của Luật Bình đẳng giới.

Các kỹ năng để giám sát và lồng ghép giới vào các hoạt

động thƣờng xuyên vẫn còn thấp, đặc biệt ở cấp cơ sở.

Có một khoảng cách lớn trong kiến thức và kinh nghiệm về

các vấn đề bình đẳng giới giữa Hội Phụ nữ và các Ban vì sự tiến

bộ của phụ nữ và Mặt trận Tổ quốc và Đoàn thanh niên, tạo nên

một khó khăn khi cùng thảo luận về những vấn đề này.

Một số cán bộ nhân viên không biết các cơ quan chịu trách

nhiệm thúc đẩy bình đẳng giới.

Luật Bình đẳng giới - Giám sát và đánh giá

Nhìn chung, các tổ chức quần chúng cảm thấy đầy thách

thức để thực hiện các vai trò và trách nhiệm của mình mà không

có một hệ thống giám sát chức năng. Mặt trận Tổ quốc phát hiện

thấy giám sát và đánh giá là đặc biệt khó vì bản thân Mặt trận có

chức năng giám sát luật.

Không có những chỉ số cụ thể để thúc đẩy bình đẳng giới, cán

bộ nhân viên thấy khó để thực hiện hiệu quả công việc của mình.

Công việc giám sát hầu nhƣ đƣợc dựa trên kinh nghiệm thực

hiện công việc và không có tập huấn và bằng cấp cụ thể.

6. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CHUNG

Phần này nêu ra những khuyến nghị chủ yếu mang tính

chiến lƣợc để tăng cƣờng năng lực và khắc phục những hạn chế

phổ biến đối với tất cả các tổ chức đƣợc đánh giá theo lĩnh vực

công tác và do vậy tăng cƣờng việc thực hiện hai luật. Mỗi một

khuyến nghị dƣới đây giải quyết một mặt yếu kém tƣơng ứng về

tổ chức nêu trong Phần 4.

6.1. Cơ cấu thể chế

1) Nhận biết tất cả những kẽ hở trong các Nghị định

Một phân tích thấu đáo các Nghị định đƣợc khuyến nghị để

66

nêu bật những kẽ hở đang tồn tại và giúp bắt đầu một quá trình

chỉnh sửa các Nghị định đó. Phân tích này nên bao hàm cả việc

đƣa ra những thể chế chính và tất cả những mối liên kết đa dạng

và phụ thuộc lẫn nhau. Kết quả cuối cùng nên là một ma trận chỉ

rõ các vai trò và quyền ra quyết định ảnh hƣởng nhƣ thế nào lên

việc thực hiện mỗi luật. Những cơ quan tổ chức sau đây nên là

một phần của đánh giá này:

Những cơ quan ban hành chính sách (Chính phủ, Quốc

hội, cơ quan Đảng).

Những cơ quan chịu trách nhiệm chính (các Bộ).

Các cơ quan thực hiện (các Vụ/Ban/Cục).

Những cơ quan phối hợp (tổ chức quần chúng, các tổ

chức phi chính phủ).

Các mô hình/thực tiễn hiện hành (câu lạc bộ).

Các cơ quan/dự án quốc tế.

Một xuất phát điểm chính có thể là danh mục những

trách nhiệm lớn hơn của mỗi một cơ quan thực hiện chính đối

với việc thực hiện mỗi luật ở Việt Nam.12

Điều này cũng nên

đƣợc tham khảo chéo với phân tích của Viện Gia đình và

Giới tại Hội thảo về Báo cáo Đánh giá Năng lực tổ chức

tháng 12 năm 2009.

2) Làm rõ các vai trò và trách nhiệm trong và giữa các tổ

chức

Các vai trò và trách nhiệm phải đƣợc quy định một cách

cụ thể, phù hợp và mang tính thực tiễn, đƣợc đƣa vào kế

hoạch công tác của mỗi một Vụ/Ban (và mỗi một kế hoạch

12. Có một danh mục bổ ích những vai trò và trách nhiệm chính của

các cơ quan/tổ chức chính về lồng ghép giới đƣợc nêu trong Tài liệu Hƣớng

dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực hiện chính sách quốc gia, Hà

Nội năm 2008. Danh mục này tất nhiên cần phải đƣợc tham khảo chéo với

bản thân các luật và Nghị định.

67

thực hiện của mỗi một cán bộ nhân viên) và đƣợc rà soát

thƣờng xuyên đối với những thành tựu đạt đƣợc. Cách thức

thực tiễn nhất để đạt đƣợc điều này là thông qua kế hoạch

công tác hàng năm. Xây dựng các kế hoạch công tác hàng

năm thƣờng thuộc trách nhiệm của Vụ Kế hoạch của mỗi Bộ,

do vậy sự tham gia của họ là vô cùng quan trọng. Các kế

hoạch công tác hàng năm nên đƣợc gắn với các Kế hoạch

hành động mới thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình đƣợc Bộ Lao động - Thƣơng binh và

Xã hội và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xây dựng và phải

đƣợc hoàn thành vào năm 2011 và năm 2010 (xem phần 3.1.2

và 3.1.4 Môi trƣờng điều chỉnh chính sách đối với Luật Bình

đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Đến nay,

các kế hoạch công tác hàng năm đƣợc gắn với Chiến lƣợc

Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2006-2010 và

Chƣơng trình Phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2006-

2010. Những kế hoạch công tác nhƣ vậy nên giao một tỷ

trọng thời gian của cán bộ nhân viên đối với mỗi một hoạt

động. Nếu không đủ cán bộ nhân viên và năng lực để thực

hiện kế hoạch công tác, quản lý cấp cao cần giải quyết vấn đề

này nhƣ một ƣu tiên. Các giải pháp có thể là tìm những cán

bộ nhân viên có năng lực hơn, thực hiện đánh giá nhu cầu

đào tạo của những cán bộ nhân viên hiện hành và sau đó tập

huấn cho họ một cách phù hợp hoặc đánh giá lại các vai trò

và trách nhiệm của Vụ/Ban (theo chiều dọc và ngang) với các

Vụ/Ban khác trong tổ chức, các đối tác thực hiện ở tỉnh và

các tổ chức/Bộ/ngành khác.

3) Xác định những cán bộ đầu mối và nuôi dưỡng những

cán bộ chuyên môn đầu ngành về Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình

Những cán bộ đầu ngành cần bao trùm cả hai luật. Có

khuyến nghị rằng trong quá trình làm rõ các vai trò và trách

nhiệm đối với hai luật, những cán bộ đầu ngành tiềm năng cần

68

đƣợc xác định ở một số tổ chức, bao gồm Quốc hội13

, cơ quan

Đảng và các Bộ chủ chốt. Khi những cán bộ đầu ngành đƣợc

phát hiện họ cần đƣợc kết nối trong một mạng lƣới để hỗ trợ

nhau trong các vai trò quản lý thay đổi tƣơng ứng của họ. Bộ

trƣởng Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đƣợc viện dẫn là

một ví dụ về ngƣời đứng đầu ngành đối với Luật Bình đẳng giới

trong Báo cáo Đánh giá Năng lực. Xác định một ngƣời đứng đầu

là nam giới ở cƣơng vị thứ trƣởng hoặc tƣơng đƣơng có thể rất

có lợi đối với Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

4) Tạo sự điều phối ở cấp Bộ giữa hai luật và giữa các tổ

chức chủ chốt

Với việc Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đƣợc sáp

nhập vào Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, không có một

tuyên bố liên Bộ kết nối hai Bộ, Bộ Lao động - Thƣơng binh và

Xã hội và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch với hai luật cũng nhƣ

với các Bộ chủ chốt khác. Một tuyên bố hoặc một cơ chế nên

đƣợc ban hành để cải thiện sự điều phối và ở vị thế không thấp

hơn cấp Bộ sẽ cho phép tác động đến Thủ tƣớng Chính phủ và

các cán bộ lãnh đạo địa phƣơng và để tránh tạo thêm những cơ

cấu khác giống nhƣ Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Danh mục này nên bao gồm một loạt các vấn đề về bình đẳng

giới, bạo lực gia đình và nghiên cứu gắn kết giới và bạo lực gia

đình ở Việt Nam với chiến lƣợc của Chính phủ thực hiện bình

đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình.

Những thành viên tiềm năng bao gồm các tổ chức phi chính

phủ đã có các mối liên kết quan trọng của họ với các tổ chức

nghiên cứu trong nƣớc. Vai trò của cơ quan Đảng cũng đặc biệt

quan trọng nếu có ảnh hƣởng đến việc tăng số lƣợng phụ nữ có

nhạy cảm giới đại diện trong Đảng. Hội Phụ nữ đã thể hiện Hội

13. Nhóm Nữ Nghị sỹ Quốc hội đã nghỉ hƣu đƣợc hình thành và là một

lực lƣợng tiềm năng để xác định những ngƣời đứng đầu trong hệ thống.

69

là một cơ quan thực hiện quan trọng các hoạt động gắn kết với cả

hai luật. Với 12 triệu thành viên, họ đƣợc điều phối hiệu quả và

ở vị thế là một phần của cơ chế điều phối đối với Luật Bình đẳng

giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Họ cũng đƣợc kết

nối hiệu quả đối với rất nhiều Bộ với các trách nhiệm cụ thể để

thực hiện hai luật. Tuy nhiên nhiệm vụ của họ đƣợc tập trung

hơn đối với vì sự tiến bộ của phụ nữ so với bình đẳng giới. Năng

lực của họ để thực hiện vai trò đầu tầu hiệu quả trong một cơ chế

điều phối còn hạn chế nhƣng số lƣợng thành viên của họ thật vô

giá. Quốc hội nên có khả năng nâng cao nhận thức về bạo lực gia

đình, tuổi nghỉ hƣu của phụ nữ, các vấn đề liên quan đến đồng

tính nam và đồng tính nữ và những ngƣời hành nghề mại dâm.

Quốc hội có năng lực hơn để quyết định đối với các vấn đề này

hơn là các cơ quan khác, đặc biệt kể từ khi họ thành lập nên một

mạng lƣới Nhóm nữ nghị sỹ Quốc hội để trao đổi thông tin về

bình đẳng giới và xây dựng các kỹ năng bình đẳng giới trong các

thành viên của Nhóm.

5) Ghi nhận vai trò quan trọng của các Vụ Tổ chức và

Cán bộ ở các Bộ trong duy trì sự đáp ứng phát triển năng lực

Không có một đề cập đặc biệt đối với vai trò của các Vụ Tổ

chức và Cán bộ, cũng nhƣ không có các chiến lƣợc phát triển

năng lực hoặc học tập của tổ chức, không có các tiến trình phát

triển cán bộ ở bất kỳ phát hiện hoặc khuyến nghị chính nào đƣợc

xác định trong Báo cáo Đánh giá Năng lực này cho đến nay. Tuy

nhiên, có khuyến nghị rằng mỗi một Vụ Tổ chức và Cán bộ đều

đóng một vai trò quan trọng trong tạo thuận lợi hơn trong phân

tích các số liệu thu thập đƣợc từ Báo cáo Đánh giá Năng lực này,

đặc biệt liên quan đến phân tích sơ bộ không đƣợc tổng hợp

trong báo cáo này.

6.2. Thực hiện

Hỗ trợ các Chương trình mục tiêu quốc gia đối với Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

70

Trong khi các luật và các Nghị định quy định những nghĩa

vụ và trách nhiệm chung đối với mỗi một cơ quan14

, những mục

tiêu và hoạt động cụ thể của mỗi một cơ quan nên đƣợc nêu

trong một chiến lƣợc và kế hoạch hành động. Chẳng hạn một kế

hoạch nên mô tả lý thuyết về thay đổi - mục tiêu sẽ đạt đƣợc nhƣ

thế nào, nghĩa là các hoạt động nào nên đƣợc thực hiện, các

nguồn lực nào đƣợc yêu cầu, ai chịu trách nhiệm, tiến độ sẽ đƣợc

giám sát nhƣ thế nào và khi nào và các kết quả và tác động đƣợc

đánh giá - đặc biệt sử dụng cách tiếp cận khung lô gíc. Không có

một tầm nhìn và kế hoạch hành động chung đối với Luật Bình

đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, việc thực hiện

vẫn sẽ lúng túng và không theo cơ cấu. Do vậy có khuyến nghị

rằng quá trình xây dựng chƣơng trình mục tiêu quốc gia đối với

Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (các

chiến lƣợc và kế hoạch hành động) đƣợc Chƣơng trình chung về

Bình đẳng giới hỗ trợ - Chƣơng trình dành riêng nhằm đạt đƣợc

một hiểu biết rõ hơn về các mục tiêu của Chƣơng trình, để phản

hồi lên Báo cáo Đánh giá Năng lực và để hỗ trợ họ đạt theo đúng

14. Đối với Luật Bình đẳng giới: Những trách nhiệm của các Bộ, ngành

và địa phƣơng liên quan đến bình đẳng giới đƣợc quy định tại Nghị định số

70/2008/ND-CP nhƣ sau14

:

1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới.

2. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội chịu trách nhiệm trƣớc Chính

phủ thực hiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới trong phạm vi cả nƣớc.

3. Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,

có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội thực

hiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới.

4. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng

giới trong phạm vi địa phƣơng theo phân cấp của Chính phủ.

Cơ quan quản lý Nhà nƣớc về bình đẳng giới là Bộ Lao động - Thƣơng

binh và Xã hội ở cấp Trung ƣơng và các Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã

hội ở cấp địa phƣơng. Các trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới

đƣợc quy định tại Điều 26 Luật Bình đẳng giới và Nghị định hƣớng dẫn.

71

hạn hoàn thành tƣơng ứng vào các năm 2011 và 2010. Sự tham

gia này nên là một bƣớc hƣởng lợi trong việc làm rõ sự lúng túng

hiện nay đối với những gì đang làm, tạo sao làm và khi nào giữa

những cơ quan đối tác thực hiện hai luật. Các Ban vì sự tiến bộ

của phụ nữ ở các Bộ chủ chốt phải đƣợc trao trách nhiệm chủ

động xây dựng các kế hoạch hành động và các báo cáo.

Điều phối liên ngành ở cấp địa phương

Lãnh đạo “riêng rẽ” là một thuật ngữ đƣợc đặt ra trong một

trong những phiên phản hồi về hoàn thiện năng lực, một thuật

ngữ hàm ý “một sự đáp ứng đƣợc điều phối”. Sự điều phối liên

ngành cần đƣợc giải quyết ngay đối với Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình ở cấp Bộ, nhƣng cần hơn ở cấp cơ sở nơi sự tiếp xúc

với các nạn nhân của bạo lực gia đình và các kẻ thủ phạm xảy ra.

Nhu cầu đối với một “phản ứng chính thức” có nền tảng vững

chắc về mối quan hệ đối tác Nhà nƣớc - cộng đồng mạnh mẽ đã

đƣợc lặp lại về thời gian và trong tài liệu những điển hình về

phòng, chống bạo lực gia đình. Theo cách tiếp cận này, trong khi

mỗi một cơ quan cung cấp một dịch vụ khác nhau cho một nạn

nhân của bạo lực gia đình, một hệ thống truyền thông và điều

phối đƣợc hình thành giữa các cơ quan sẽ đảm bảo rằng mỗi một

cơ quan nhận thức loại dịch vụ nào đang đƣợc các cơ quan khác

cung cấp. Điều này đƣợc điều phối nhƣng không nhất thiết phải

đồng nhất, cách tiếp cận để giải quyết bạo lực gia đình của Nhà

nƣớc đƣợc đề cập trong tài liệu các điển hình nhƣ một “Hệ thống

phản ứng với bạo lực gia đình”.

Có một số mô hình điển hình để lựa chọn, bao gồm những

mô hình sau15

:

Các Ban chỉ đạo/điều phối đƣợc thiết kế để đảm bảo điều

phối hiệu quả giữa những cấu phần riêng biệt tới hệ thống

chuyển giao công lý. Các Ban này thƣờng xây dựng kế

15. Pháp luật về bạo lực gia đình và việc thực hiện: một phân tích đối

với các quốc gia ASEAN dựa trên các Tiêu chuẩn quốc tế và các điển hình,

tháng 6 năm 2009

72

hoạch chi tiết hoặc kế hoạch hành động đối với phản ứng

liên ngành và sau đó giám sát hệ thống để đảm bảo vận

hành một cách hợp lý.

Cách tiếp cận hợp tác cộng đồng đƣợc dựa trên một kế

hoạch chiến lƣợc đƣợc toàn thể cộng đồng xây dựng. Các

vai trò và trách nhiệm đƣợc phi tập trung hóa nhƣ là điểm

khởi đầu bằng cách giao cho mỗi một cơ quan hoặc cộng

đồng một nhiệm vụ cụ thể. Một cơ quan điều phối tạo

thuận lợi và giám sát công việc đƣợc thực hiện, nhƣng

chƣơng trình đƣợc dựa trên cách tiếp cận hợp tác kể từ

khi hoạch định cho đến quản lý điều hành. Cách tiếp cận

này không đòi hỏi tạo ra các cơ cấu quản lý chính thức và

cơ bản chủ yếu sử dụng đối với các sáng kiến ở cấp cộng

đồng.

Quan trọng là các biên bản điều phối phải đƣợc hình thành

và các quyền phải đƣợc quy định rõ cho mỗi một cơ quan trong

hệ thống điều phối. Điều này quan trọng vì một trong những trở

ngại chính đối với điều phối liên ngành là cần thống nhất một

hiểu biết chung về bạo lực gia đình và các cách tiếp cận đối với

các nạn nhân của bạo lực gia đình phải đƣợc xây dựng giữa các

cơ quan.

3) Một thể chế duy nhất để giải quyết khiếu nại

Thiếu một quy trình đƣợc xác định rõ ràng theo đó một cá

nhân viện dẫn một sự vi phạm quyền theo luật định, đệ đơn kiện

và giải quyết khiếu nại, việc thực hiện Luật sẽ tiếp tục gặp trở

ngại. Tạo ra một thể chế duy nhất giải quyết khiếu nại, có bố trí

các chuyên gia giới và xác định một quy trình rõ ràng để nộp đơn

kiện và giải quyết khiếu nại sẽ tăng cƣờng năng lực thực hiện luật.

4) Một cơ chế áp đặt các hình phạt

Các hình phạt không đƣợc áp đặt đối với sự vi phạm luật do

đang có một cơ chế thiếu rõ ràng. Một hệ thống rõ ràng hơn xác

định các hình phạt, hình thức của kỷ luật phải đƣợc áp đặt và

trong những hoàn cảnh nào hình phạt là cần thiết tất cả sẽ góp

phần vào việc làm rõ các quy trình thủ tục.

73

5) Tạo nguồn lực đầy đủ - kinh phí và các kỹ năng

Các cơ quan ngân sách quốc gia phải phân bổ đủ nguồn lực

cho các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ, các cơ quan quản lý nhà

nƣớc thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình, các Vụ/Ban ở Trung ƣơng và các Sở/ngành ở địa

phƣơng, các tổ chức quần chúng và các cơ quan khác chịu trách

nhiệm thực hiện hai luật. Có khuyến nghị rằng ngân sách cụ thể

phải đƣợc phân bổ đối với thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình có tính đến vị thế của đội ngũ cán

bộ, xây dựng năng lực tổ chức và các sáng kiến thực hiện Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, bao gồm

nghiên cứu, phân tích, giám sát và đánh giá. Hiểu nguồn kinh phí

đối với mỗi một hoạt động của những phân bổ này cũng sẽ bổ

ích cho việc quản lý dẫn đến một kế hoạch hành động chi tiết

đang đƣợc xây dựng.

Cũng quan trọng là có số lƣợng thích hợp những cán bộ

chuyên môn có trình độ, làm việc toàn thời với các kỹ năng cần

thiết (kiến thức, các kỹ năng và quan điểm) trong chính quyền

các cấp, đặc biệt ở cấp cộng đồng và cấp huyện nơi có nhu cầu

lớn nhất. Số lƣợng cán bộ nhân viên sẽ phụ thuộc vào một chiến

lƣợc rõ ràng với các kết quả và hoạt động đƣợc xác định (xem

những vai trò và trách nhiệm). Lý tƣởng nhất, cán bộ nhân viên

nòng cốt về giới sẽ phải tƣơng đối có kinh nghiệm, có đủ vị thế

và ảnh hƣởng để tạo ra tác động và có chuyên môn về lồng ghép

giới, quản lý thay đổi và các kỹ năng vận động tốt.

6.3. Lãnh đạo

Đề cao cam kết của lãnh đạo

Có khuyến nghị rằng cả phía cung và cầu đối với đề cao cam

kết của lãnh đạo cần đƣợc tập trung giải quyết. Cán bộ nhân viên

nên sử dụng cách tiếp cận tiên phong hơn nhằm xúc tiến hai luật

tới quản lý cấp cao bằng cách tạo những cơ hội cam kết của lãnh

đạo cấp cao. Lãnh đạo cấp cao, mặt khác, phải tiếp cận và hỗ trợ

đồng nghiệp trong hoàn thiện nền tảng kiến thức và kỹ năng của

họ về hai luật.

74

Phía cung - Tập huấn lãnh đạo và quản lý - một ưu tiên

Tập huấn lãnh đạo và quản lý là một ƣu tiên đối với các cán

bộ lãnh đạo chủ chốt ở tất cả các cấp chính quyền chịu trách

nhiệm đối với việc thực hiện hai luật. Kết quả chính của tập huấn

nên là xây dựng một kế hoạch quản lý thay đổi đối với tổ chức,

Vụ/Ban/Sở/ngành và/hoặc văn phòng/phòng tƣơng ứng của họ

để tạo thuận lợi cho việc thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo

về hai luật theo một cách thức mang tính hệ thống và trọng tâm

hơn. Nhƣ vậy tập huấn nên đƣợc gắn với các mục tiêu phát triển

năng lực cụ thể hơn trong Bộ, Vụ/Ban/Sở/ngành và/hoặc Văn

phòng/phòng tƣơng ứng (nhƣ nêu chi tiết trong phần Kiến thức

dƣới đây). Lý tƣởng nhất, những cán bộ lãnh đạo sẽ rất có kinh

nghiệm, có đủ vị thế và ảnh hƣởng để tạo ra tác động. Sự hỗ trợ

của các cán bộ lâu năm có kinh nghiệm là quan trọng trong việc

tạo thuận lợi cho những cán bộ đầu mối về giới và các cán bộ

đầu ngành/chuyên gia vận động ủng hộ khác để tiếp tục duy trì

sự theo đuổi. Ghi nhận những đổi mới và thành tựu đạt đƣợc của

cán bộ nhân viên liên quan đến việc thực hiện hai luật cũng là

một chỉ số tốt về lãnh đạo giỏi.

Phía cầu - thúc đẩy hỗ trợ quản lý

Sử dụng một cách tiếp cận tiên phong có thể đem lại lợi ích

đối với các cán bộ quản lý/lãnh đạo, đặc biệt những ngƣời không

nhận thức đƣợc tầm quan trọng của hoặc không chủ động tham

gia vào các nỗ lực, thực hiện các trách nhiệm của họ đối với Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Có rất

nhiều hành động mà cán bộ nhân viên ở mọi cấp có thể thực hiện

các công việc thƣờng xuyên của họ để có đƣợc sự hỗ trợ quản lý

trong thực hiện các trách nhiệm đối với Luật Bình đẳng giới và

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình:

Đảm bảo các vai trò và trách nhiệm của quản lý cấp cao

liên quan đến thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình đƣợc thể hiện rõ ràng trong

các chính sách, chƣơng trình và dự án thuộc trách nhiệm

của tổ chức;

75

Đảm bảo quản lý đƣợc nhận thức trong các chính sách và

các cam kết quốc tế và quốc gia liên quan đến bình đẳng

giới và các quyền con ngƣời;

Chuẩn bị các báo cáo/các bản tóm tắt về giới đặc biệt đối

với quản lý cấp cao theo cách thức thu hút họ, họ có thể

nhận biết đƣợc, đáp ứng các nhu cầu của họ với một trọng

tâm đặc biệt lên các vấn đề chính sách;

Thu hút quản lý cấp cao vào xây dựng chính sách giới,

bao gồm cả các cuộc thảo luận về thực hiện, phân bổ

nguồn lực và các chiến lƣợc giám sát;

Dự thảo những bài phát biểu và lồng ghép những vấn đề

giới chủ yếu vào các bài phát biểu/bài trình bày của quản lý

cấp cao về một loạt những vấn đề, tổ chức các buổi nói

chuyện/các sự kiện công cộng về các chủ đề bình đẳng giới;

Tìm kiếm những cơ hội cho những cán bộ quản lý cấp cao

gặp gỡ với những cán bộ lãnh đạo chuyên môn khác có

trách nhiệm về giới - và bố trí việc đƣa tin hiệu quả trên

phƣơng tiện thông tin đại chúng về những sự kiện này,

bao gồm các khía cạnh bình đẳng giới;

Cung cấp thƣờng xuyên những bản tóm tắt phản hồi cho

quản lý cấp cao cho thấy ở đâu đã đạt đƣợc các thành tựu

về bình đẳng giới và các thành tựu này đã đóng góp vào

mục tiêu tổng thể của tổ chức nhƣ thế nào;

Phát triển các hiệp hội chiến lƣợc với các nhóm phụ nữ và

các nhóm vận động ở bên ngoài, tổ chức để cải thiện việc

chia sẻ thông tin và điều phối các nỗ lực chính sách chủ yếu;

Vận động hành lang để đƣa sự hiểu biết và cam kết đã

đƣợc thể hiện đối với bình đẳng giới và nâng cao năng lực

và vị thế của phụ nữ vào trong các tiêu chuẩn chức danh

đối với lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ quản lý.

6.4. Kiến thức

1) Hiểu rõ các khái niệm về bình đẳng giới và bạo lực gia

đình

Một sự hiểu biết rõ ràng khái niệm về các vấn đề bình đẳng

76

giới và bạo lực gia đình là rất quan trọng đối với tất cả các quan

chức của Chính phủ ở mọi cấp độ. Khi những người ra quyết

định hiểu về mối liên quan giữa bình đẳng giới, giảm nghèo và

tăng trưởng và hiểu thực hành lồng ghép giới như một chiến

lược, họ chắc chắn loại bỏ được tư tưởng hẹp hòi đối với phụ nữ

và chấp nhận một triển vọng giới có tính đến tác động của các

vai trò của nam giới và các mối quan hệ giới lên sự bất bình

đẳng giới đối với phụ nữ16

. Phát triển sự hiểu biết các khái niệm,

chuyên môn thực tiễn và khả năng áp dụng các kỹ năng mới một

cách thành thạo và toàn diện là một quá trình đang đƣợc thực

hiện và ngày càng tăng lên đòi hỏi có thời gian, một môi trƣờng

làm việc yêu cầu cán bộ nhân viên làm việc với các kỹ năng mới

này và hỗ trợ họ trong việc áp dụng các kỹ năng đó. Phát triển

các kỹ năng cần có sự tham gia, dựa trên lý thuyết sự học tập của

ngƣời trƣởng thành và quan trọng là phải đặt trọng tâm vào

những học viên và đƣợc thiết kế để đáp ứng những nhu cầu cụ

thể đối với môi trƣờng làm việc của ngƣời học. Sự kèm cặp và

hỗ trợ thực tiễn tại nơi làm việc là một kỹ thuật hiệu quả để nâng

cao năng lực và vị thế cho cán bộ nhân viên để thử những vấn đề

mới và học qua thực hành. Những ngƣời kèm cặp có thể là

những chuyên gia bên ngoài hoặc những cán bộ tại chỗ đã đƣợc

tập huấn chi tiết về chủ đề đó. Để việc phát triển kỹ năng có ý

nghĩa và thành công (nghĩa là, để có một tác động lên công việc

hàng ngày và kết quả trong tƣơng lai), nên có một cấu phần của

một hệ thống tích hợp bao gồm quy định về những lựa chọn linh

hoạt đối với việc phát triển năng lực17

.

16. Hƣớng dẫn lồng ghép giới, Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ

nữ, Hà Nội, năm 2008.

17. Một hệ thống tích hợp cũng đòi hỏi các ứng xử trong công việc thay

đổi để áp dụng những kỹ năng mới, đƣợc thực hiện trong một môi trƣờng

làm việc có những cơ chế hỗ trợ và thúc đẩy một cách thích hợp những can

thiệp về bình đẳng giới, khen ngợi sự xuất sắc và kết hợp với các cơ chế về

trách nhiệm giải trình cho thấy mức độ trong đó thực tiễn lồng ghép giới

đang đƣợc áp dụng (ví dụ xây dựng năng lực về bình đẳng giới trong các hệ

thống đánh giá việc thừa hành).

77

2) Tập huấn về giới và phát triển kỹ năng – những lựa

chọn linh hoạt

Có khuyến nghị rằng tập huấn về giới cùng với phát triển

các kỹ năng khác cần thiết để thực hiện hai luật phải đƣợc xây

dựng. Tập huấn cụ thể đƣợc những ngƣời cung cấp thông tin

chính chỉ ra bao gồm tƣ vấn về bạo lực gia đình, các kỹ thuật thu

thập số liệu nhạy cảm về bạo lực gia đình, phƣơng tiện truyền

thông mang tính nghệ thuật khác nhau để truyền tải các thông

điệp về bạo lực gia đình, các chiến lƣợc để khắc phục sự sợ hãi

và miễn cƣỡng để thay đổi liên quan đến bạo lực gia đình, các

cách tiếp cận để xác định những ứng xử khác nhau về bạo lực gia

đình, các chiến lƣợc để hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình

và kiến thức về các nạn nhân có thể tiếp cận hỗ trợ pháp lý ở

đâu. Lồng ghép giới vào tất cả các loại hình tập huấn cũng có thể

hiệu quả. Điều này phải là một phần của một chiến lƣợc tổng thể

của tổ chức bao gồm một nhân tố cơ bản lâu dài đối với đầu tƣ

cho đào tạo và làm thể nào để „ăn khớp‟ với các chiến lƣợc khác

của tổ chức để xây dựng năng lực cho cán bộ nhân viên để thực

hiện hai luật và để làm việc có trách nhiệm giới. Cho đến khi

một chiến lƣợc học tập nhƣ vậy của tổ chức đƣợc xây dựng trong

mỗi một tổ chức, những lựa chọn linh hoạt để phát triển kỹ năng

nên đƣợc quy định. Những lựa chọn này bao gồm:

Hỗ trợ kèm cặp thực tế tại nơi làm việc. Đây là một kỹ

thuật hiệu quả đƣợc thiết kế để đáp ứng các nhu cầu cụ

thể của môi trƣờng làm việc. Kỹ thuật này cũng là một

phƣơng án hiệu quả hơn về chi phí so với các khoá tập

huấn. Các chuyên gia bên ngoài cũng nên đƣợc xem xét

cho những vai trò nhƣ thế này, nhƣng những cán bộ tại

chỗ đã đƣợc tập huấn cũng có thể thực hiện kèm cặp thực

tiễn tại nơi làm việc.

Hình thành một danh sách nội bộ những người ngang

nhau mà có thể có kinh nghiệm về một loạt các nhiệm vụ

- họ không phải là những chuyên gia về hai luật cũng nhƣ

về bình đẳng giới và bạo lực gia đình. (Các Ban vì sự tiến

78

bộ phụ nữ hiện đã đƣợc sáp nhập vào các Sở Lao động –

Thƣơng binh và Xã hội và là sự lựa chọn rõ ràng đối với

các kinh nghiệm về giới).

Hình thành “các nhóm kinh nghiệm” nơi mà những cán

bộ có chung quan điểm đến từ các Vụ/Ban/Sở/ngành khác

nhau của nhà nƣớc gặp gỡ để trao đổi các kinh nghiệm,

các thách thức, những trƣờng hợp điển hình và chia sẻ

kiến thức với nhau về những vấn đề cần giải quyết và phát

triển.

Đảm bảo sự tiếp cận với những văn bản pháp luật liên

quan đến hai luật của tất cả các cơ sở làm việc bao gồm

Chính phủ, các tổ chức quần chúng và các tổ chức phi

chính phủ. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ

Văn hoá, Thể thao và Du lịch hàng năm nên thực hiện

một cuộc đánh giá hoặc thanh tra.

Các chuyến tham quan tới các dự án về mô hình và các

chƣơng trình thành công liên quan đến hai luật. Thƣờng

xuyên xem xét các công cụ và kiến thức trong hành động

là một cách thức hiệu quả hơn để nhận thông tin và các kỹ

năng học tập mới. Có khuyến nghị rõ sử dụng cách tiếp

cận này để tăng cƣờng nhắm vào nam giới trong các chính

sách, chƣơng trình và hoạt động. Các mô hình về phòng,

chống bạo lực gia đình mà đã thay đổi hiệu quả hành vi

ứng xử của nam giới thƣờng không phổ biến; xác định

đƣợc các mô hình này và đánh giá mô hình nào phù hợp

nhất với mỗi một tỉnh/huyện/xã tƣơng ứng nên đƣợc đƣa

vào trong chu trình xây dựng chƣơng trình.

Các cán bộ lãnh đạo và các cán bộ quản lý cấp cao thƣờng

viện cớ không tham dự tập huấn, tuy nhiên, các diễn đàn

và các hội thảo với những diễn giả đáng chú ý và các mô

hình vai trò là những chƣơng trình hấp dẫn hiệu quả hơn

để thu hút họ. Những cán bộ đầu ngành đƣợc lựa chọn kỹ

lƣỡng đối với hai luật nên điều hành hoặc hƣớng dẫn các

cuộc thảo luận để giúp đạt đƣợc các kết quả đối với

79

những sự kiện nhƣ vậy và để đề cao hình ảnh của các cán

bộ đầu ngành.

Điều hành một phiên giới thiệu phát triển chuyên môn đối

với hầu hết các đối tác thực hiện trong mỗi một tổ chức.

Thực hiện thử nghiệm với 5 tổ chức chủ chốt 18

ở 15

tỉnh/thành phố đƣợc chọn trƣớc. Cơ cấu tập huấn theo ba

cấp độ kỹ năng và chia các đối tác thực hiện theo: (1)

những ngƣời hoàn toàn mới đối với các khái niệm bình

đẳng giới và bạo lực gia đình, (2) những ngƣời cần đƣợc

xây dựng và bổ sung trên những hiểu biết cơ bản của họ;

(3) những ngƣời hoạt động nhƣ những đầu mối chiến

lƣợc, những chuyên gia và những cán bộ đầu ngành tiềm

năng. Sử dụng tập huấn này để đánh giá kỹ hơn về các kỹ

năng mà họ đang thiếu. Gắn kết phát triển chuyên môn

với đề bạt, đặc biệt những cán bộ đầu ngành.

Phát hiện những cá nhân khác hiện đang làm việc trong

các cộng đồng tài trợ và các tổ chức phi chính phủ và

trong các tổ chức khác của Chính phủ. Nâng đỡ hỗ trợ

những nỗ lực của họ hơn là tăng gấp đôi những nỗ lực.

Rất phổ biến là sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực và

thời gian của những ngƣời hƣởng lợi nếu việc đáp ứng

năng lực bù lấp đƣợc những khoảng trống và/hoặc đƣợc

lồng ghép vào những chƣơng trình và hoạt động xây dựng

năng lực hiện đang đƣợc các nhà tài trợ và các tổ chức phi

chính phủ khác có cùng mục đích thực hiện với cùng mục

tiêu phát triển năng lực.

Những khoá tập huấn bên ngoài đƣợc khu vực tƣ nhân

xây dựng và điều hành là một phƣơng án tốt đối với

những đơn vị/Vụ/Ban/Sở/ngành đang bị kéo căng. Ví dụ,

18. Những tổ chức này có thể bao gồm Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và

Đầu tƣ, Bộ Tài chính, Quốc hội, Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn (Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Văn

hoá, Thể thao và Du lịch không nhất thiết tham dự thí điểm).

80

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Văn hoá,

Thể thao và Du lịch có thể chuyển giao tập huấn đƣợc nêu

trong phƣơng án 6 ở trên.

Một số gợi ý trong thiết kế các khoá phát triển chuyên môn

liên quan đến hai luật nhƣ sau:

Với bất kỳ quá trình phát triển kỹ năng mới nào, các cán

bộ lãnh đạo cần đƣợc chuẩn bị, cần sẵn sàng và mong

muốn hỗ trợ quá trình học tập. Nếu các cán bộ lãnh đạo

không thấy một nhiệm vụ là quan trọng là cấp thiết, họ sẽ

không hoặc chỉ cam kết rất hạn chế đối với những thay

đổi trong các hành vi ứng xử, áp dụng những kỹ năng mới

và cuối cùng kết quả sẽ rất hạn chế. Có khuyến nghị rằng

một phần của quá trình đƣợc phê duyệt để tham dự hoặc

xây dựng một chƣơng trình hoặc quá trình phát triển kỹ

năng là các đại biểu tham dự và những cán bộ quản

lý/lãnh đạo cấp cao cần cùng thảo luận và nhất trí về dự

kiến kết quả và việc áp dụng. Tốt nhất, thảo luận này cũng

nên đƣợc thực hiện ở mỗi một cuộc họp hàng năm đánh

giá cán bộ nhân viên.

Có khuyến nghị rằng khi có thể thuật ngữ “đào tạo” nên

đƣợc thay thế bằng thuật ngữ “phát triển chuyên môn” –

hầu hết các chuyên gia về phát triển năng lực có cùng

nhận thức rằng sẽ tạo động lực hơn, khát khao hơn đối với

những “cán bộ đƣợc tập huấn” tiềm năng và những cấn bộ

quản lý khi phê duyệt các khoá phát triển chuyên môn.

Trong Chính phủ khả năng tiếp cận các khoá phát triển

chuyên môn (tập huấn/đào tạo) là khác nhau đối với nam

giới và phụ nữ, vì số năm làm việc của một ngƣời có

trong sự nghiệp dân sự là một yếu tố để có đƣợc sự phê

duyệt. Phụ nữ nghỉ hƣu sớm 5 năm trong khu vực công

đã tác động đến khả năng tiếp cận của họ. Điều này nên

đƣợc cân nhắc xem xét khi thiết kế một khoá phát triển

chuyên môn.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng phát triển kỹ năng trong các

81

vấn đề liên quan đến giới phải thuộc về cả nam giới và

phụ nữ - phải gắn với hoàn cảnh của mỗi một cá nhân,

phải đi vào trọng tâm của các mối quan hệ của mọi ngƣời

trong gia đình, phải khuyến khích mọi ngƣời nói đến các

quyền của họ và phải có một mong muốn để nói đến

quyền lực.

Gắn kết phát triển chuyên môn (đào tạo) với các cơ hội

thăng tiến khi có thể, đặc biệt đối với những cán bộ

chuyên môn sâu. Một cán bộ chuyên môn sâu đƣợc đề bạt

trên cơ sở công việc, kỹ năng và kiến thức của họ liên

quan đến bình đẳng giới và bạo lực gia đình không chỉ

nâng cao vị thế của lĩnh vực bình đẳng giới mà còn tạo

nên những khích lệ đối với những ngƣời khác nâng cao kỹ

năng của họ đối với những vấn đề nhƣ vậy.

6.5. Giám sát, đánh giá và báo cáo

1) Gắn khung giám sát và đánh giá với Kế hoạch hành động

Giám sát và đánh giá là một công cụ đặc biệt quan trọng đối

với quản lý để đo và đánh giá các kết quả, sau đó phản hồi

những thông tin này vào trong các quá trình đang tiếp diễn của

quản lý và ra quyết định. Giám sát và đánh giá cũng là một công

cụ quan trọng đối với trách nhiệm giải trình và cầu thị.

Trong khi giám sát là một công cụ quản lý hữu ích để đảm

bảo việc thực hiện theo đúng hƣớng đã vạch ra, đánh giá lƣu ý

các nhà hoạch định và ra quyết định chính sách xem xét kỹ hơn

đối với các vấn đề dài hạn và mang tính chiến lƣợc. Đánh giá là

một cách tiếp cận mang tính hệ thống để đánh giá liệu một can

thiệp, chƣơng trình hoặc dự án chính sách có đạt đƣợc các mục

tiêu của mình không, đo tác động của các sáng kiến và quan

trọng hơn xây dựng những điển hình và các bài học thu đƣợc cho

các mục tiêu toàn diện nhằm hoàn thiện các sáng kiến trong

tƣơng lai. Đánh giá cũng quan trọng đối với trách nhiệm giải

trình các nguồn lực đã đƣợc sử dụng. Những cán bộ thiết kế và

thực hiện chính sách và chƣơng trình đối với Luật Bình đẳng

giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nên thực thi các trách

82

nhiệm giải trình của mình đối với các cơ quan hỗ trợ kinh phí,

những cơ quan công quyền và đặc biệt đối với nhân dân cả nam

giới và phụ nữ, chịu tác động của hai luật và các chính sách,

chƣơng trình và dự án có liên quan của họ.

Có khuyến nghị rằng khung giám sát và đánh giá phải đƣợc

thiết kế song song với việc xây dựng Kế hoạch hành động mới

đối với mỗi một luật. Phổ biến là giám sát và đánh giá đƣợc đƣa

ra nhƣ một nội dung bổ sung khi việc thực hiện đƣợc bắt đầu.

Nhƣ vậy là quá muộn, khi một trong những đặc tính chủ yếu của

khung là nhận biết những yếu kém và cải thiện chất lƣợng của

thiết kế và khung quản lý – những mục tiêu không rõ ràng,

những khung thời gian không thực tế và những hệ thống hỗ trợ

thiếu nguồn lực thƣờng chỉ đƣợc nhận biết khi các chƣơng trình

đƣợc vận hành.

Điều quan trọng là khi khung giám sát và đánh giá đƣợc

thiết kế đối với kế hoạch hành động mới về Luật Bình đẳng giới

và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, những nguồn số liệu hiện

hành cần đƣợc tận dụng hơn là tạo nên sự chồng chéo. Các hệ

thống thu thập số liệu đã đƣợc thiết lập đối với các chƣơng trình

tài trợ liên quan đến bình đẳng giới và bạo lực gia đình, các

chƣơng trình của Chính phủ và/hoặc của Tổng cục Thống kê nên

đƣợc xem xét khai thác.

Một phân tích các mối quan hệ thể chế và các cơ cấu quản lý

cũng nên đƣợc thực hiện nhƣ một phần của việc xây dựng một

hệ thống giám sát đối với kế hoạch hành động của mỗi luật. Điều

quan trọng là hiểu đƣợc các vai trò và các trách nhiệm của tổ

chức và giữa các tổ chức. Mục tiêu là phát triển một hệ thống

truyền thông và báo cáo thu thập và chuyển giao một cách hiệu

quả những thông tin liên quan đến những nhóm quản lý một cách

kịp thời sẽ cho phép họ đƣa ra những quyết định quản lý đúng

đắn về việc thực hiện và các nguồn lực đối với chƣơng trình/kế

hoạch hành động.

Những cơ quan/tổ chức/cá nhân khác nhau hoàn toàn có thể

83

tham gia vào hệ thống giám sát thực hiện hai luật bao gồm:

Các cá nhân, bao gồm cả các nạn nhân bị bạo lực gia đình;

Các hộ gia đình và những thành viên của cộng đồng đƣợc

hƣởng lợi;

Các tổ chức quần chúng, bao gồm Mặt trận Tổ quốc với

trách nhiệm giám sát cụ thể của họ;

Các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ tỉnh/thành phố;

Chính quyền/các cán bộ quản lý địa phƣơng ở tất cả các

cấp độ khác nhau, bao gồm công an, các toà án, Sở Y tế;

Các bộ nhân viên ở cấp bộ, Vụ Bình đẳng giới (Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội) và Vụ Gia đình (Bộ Văn

hoá, Thể thao và Du lịch).

Vai trò của mỗi nhóm trong cơ chế giám sát sẽ phụ thuộc

vào phạm vi và bản chất của kế hoạch/chƣơng trình quốc gia.

Những nội dung này cần đƣợc thể hiện rõ trong các quy định về

trách nhiệm, thiết kế chƣơng trình - ở khía cạnh ai thu thập thông

tin gì, họ thu thập nhƣ thế nào, ai trình bày những thông tin đó,

ai phân tích những thông tin đó và nhƣ thế nào, những thông tin

sẽ đƣợc phản hồi nhƣ thế nào, v.v. Các hệ thống giám sát hiệu

quả phải đơn giản, lô gíc và có những nguồn lực để để đảm bảo

những hệ thống này hoạt động đƣợc.

Điều quan trọng là bất kỳ một tập hợp chỉ số nào đƣợc dựa

trên các mục tiêu rõ ràng mang tính thực tiễn đều hiệu quả về chi

phí. Cũng cần nhấn mạnh ở đây rằng việc xây dựng các chỉ số

chỉ là một phần của cả quá trình rất dài lâu trong xây dựng một

hệ thống giám sát và đánh giá.

Trong trƣờng hợp xây dựng một hệ thống đánh giá đối với

việc thực hiện hai luật có khuyến nghị rằng việc thiết kế hệ

thống này phải đƣợc củng cố bằng các hoạt động nâng cao nhận

thức, phát triển kỹ năng học hỏi mới đang đƣợc thực hiện nhƣ

một phần của các sáng kiến xây dựng năng lực trong khuôn khổ

Chƣơng trình chung về bình đẳng giới.

84

2) Một hệ thống báo cáo duy nhất và tập trung

Có rất ít bằng chứng rằng một hệ thống báo cáo tập trung

gắn kết với một hệ thống giám sát và đánh giá việc thực hiện hai

luật đã đƣợc hình thành. Mặc dù Bộ Lao động – Thƣơng binh và

Xã hội đƣợc yêu cầu báo cáo lên Quốc hội việc thực hiện các

mục tiêu bình đẳng giới, vẫn không có hƣớng dẫn về nội dung

của báo cáo này cũng nhƣ Chính phủ và Quốc hội phải làm gì

nếu báo cáo cho thấy các kết quả không khả quan. Điều này

đƣợc thực hiện trên cơ sở không thƣờng xuyên và không có bất

kỳ hƣớng dẫn nào. Một cơ chế trách nhiệm giải trình rõ ràng từ

cấp chính quyền thấp nhất đến cao nhất cần đƣợc đặt ra, bao

gồm những phản ứng thích hợp nếu không đạt đƣợc tiến bộ.

6.6. Trách nhiệm giải trình

Rà soát các cơ chế, quy trình, thủ tục, quy chế, hệ thống và

cơ cấu hành chính

Có khuyến nghị rằng một rà soát tất cả các quy trình, thủ

tục, quy chế và chỉ thị chỉ dẫn và chỉ đạo việc đánh giá công việc

thƣờng xuyên trên thực tế liệu có tính đến một cách hệ thống các

trách nhiệm, nhu cầu và ƣu tiên trong thực hiện hai luật không,

bao gồm cả việc thiết kế chƣơng trình, phân bổ nguồn lực, thực

hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo.

Có khuyến nghị rằng các cán bộ lãnh đạo nên đầu tƣ thời

gian để hiểu những hình thức khen thƣởng và khuyến khích khác

nhau có tác dụng nhƣ thế nào để đề cao nhận thức và đạo đức

của cán bộ nhân viên của họ, đặc biệt khi trực tiếp thực hiện hai

luật mới. Nghiên cứu về sự cầu thị cho thấy trừ phi có một động

lực ở mức độ cao về sự cầu thị thì một hành vi ứng xử mới mới

có thể đƣợc hình thành. Một nghiên cứu đã đƣợc công bố năm

2006 ở Việt Nam với tiêu đề Học viện Quốc gia Hành chính

công: những con đƣờng sự nghiệp của cán bộ nhà nƣớc thông

qua lăng kính giới là một xuất phát điểm đƣợc đề xuất để hiểu

đƣợc độ phức tạp trong động lực của khu vực dịch vụ công ở

Việt Nam.

85

Những quá trình phát triển cá nhân cũng phải đƣợc rà soát

để đảm bảo rằng tất cả cán bộ nhân viên tự nhận thức một cách

hệ thống về tầm quan trọng của bình đẳng giới, Luật Bình đẳng

giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đối với các mục tiêu

của tổ chức, cũng nhƣ trách nhiệm của họ để giải quyết những

vấn đề này trong công việc hàng ngày của họ. Những công cụ và

hiểu biết đối với phân tích giới nên đƣợc xây dựng trong các kế

hoạch học tập và phát triển độ ngũ cán bộ của các tổ chức. Cần

tạo nên những khuyến khích và cam kết cụ thể để nuôi dƣỡng động

lực cho các công việc thực tiễn thực hiện những vấn đề về Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Cuối

cùng, những thành tựu liên quan đến Luật Bình đẳng giới và

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình phải đƣợc đánh giá cao và

khen thƣởng.

6.7. Những bƣớc tiếp theo quan trọng

Một môi trường để phản ánh

Có đề xuất rằng một môi trƣờng để phản ánh và học hỏi cần

đƣợc tạo ra trong mỗi một tổ chức để phản ánh những phát hiện

và khuyến nghị của Báo cáo Đánh giá Năng lực này cũng nhƣ

bất kỳ một đánh giá và thảo luận nào có liên quan. Môi trƣờng

này là một cơ hội cho các cán bộ lãnh đạo tham gia sâu hơn và

động viên cán bộ nhân viên của họ hành động một cách chiến

lƣợc trong thực hiện hai luật trƣớc khi chuyển sang thực hiện các

hoạt động cụ thể. Môi trƣờng này nên đƣợc tạo ra trƣớc bất kỳ

một hội thảo quản lý thay đổi hoặc hoạch định chiến lƣợc nào.

7. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CỤ THỂ

Phần này bao gồm một tóm tắt những khuyến nghị chính có

đƣợc từ thực địa. Những khuyến nghị đƣợc chia theo hai nhóm

đối tác thực hiện chính, các tổ chức của Chính phủ và các Tổ

chức quần chúng. Trong hai nhóm khuyến nghị chính này lại

đƣợc chia thành hai nhóm nhỏ hơn (i) cấp Trung ƣơng, và (ii)

cấp tỉnh/thành phố. Khi có thể, các khuyến nghị đƣợc phân biệt

theo hai luật, Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực

86

gia đình, và các vấn đề năng lực trọng tâm và năng lực chức

năng nhƣ đƣợc mô tả trong phần Phƣơng pháp luận.

7.1. Các tổ chức của Chính phủ

7.1.1. Cấp trung ương

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội - Những khuyến nghị

Vụ Bình đẳng giới đƣợc nhận biết trong các hoạt động sau

đây trong kế hoạch tiếp theo: hoàn thiện cơ cấu tổ chức của

các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ, cải thiện năng lực của đội

ngũ cán bộ nhân viên và xây dựng một kế hoạch dài hạn cho

chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới cho đến năm 2020. Có

khuyến nghị rằng những ƣu tiên này đƣợc hỗ trợ thông qua

xây dựng một kế hoạch để đạt đƣợc các ƣu tiên. Nhƣ một phần

của kế hoạch, Vụ Bình đẳng giới/Bộ Lao động - Thƣơng binh

và Xã hội nên cân nhắc:

Phát hiện một cơ chế hiệu quả để hoàn thiện cơ cấu thể

chế liên quan đến việc thực hiện hai luật ở tất cả các cấp

của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, từ cấp Bộ đến

cấp xã phƣờng.

Nhận biết những nhu cầu đào tạo của tất cả các cán bộ

nhân viên của Vụ Bình đẳng giới và những cán bộ đầu

mối chiến lƣợc trong Bộ; Các khái niệm giới và khung

giám sát và đánh giá đã đƣợc xác định nhƣ là điểm yếu rõ

ràng của Bộ trong Đánh giá này.

Nhận biết Vụ Tổ chức và Cán bộ của Bộ hoặc cơ quan

tƣơng ứng có thể hỗ trợ và giúp duy trì nhu cầu đào tạo

cán bộ và những nỗ lực xây dựng năng lực của Vụ Bình

đẳng giới từ góc độ thực hiện, báo cáo, giám sát và đánh

giá hiệu quả hơn đối với hai luật.

Đƣa ra ƣu tiên đối với việc phát triển các mục tiêu rõ ràng

với các mục đích và chỉ số tƣơng ứng.

Việc xây dựng các kế hoạch công tác năm của Vụ Bình

đẳng giới sẽ gắn với kế hoạch hành động tổng thể để thực

hiện Luật Bình đẳng giới. Kế hoạch công tác nên giao

87

một tỷ trọng thời lƣợng của cán bộ nhân viên cho mỗi một

hoạt động. Nếu không có đủ cán bộ và năng lực để thực

hiện kế hoạch công tác, lãnh đạo cấp cao cần giải quyết

vấn đề này nhƣ một ƣu tiên. Những giải pháp có thể là

phát hiện những cán bộ có trình độ hơn, thực hiện một

đánh giá nhu cầu đào tạo đối với độ ngũ cán bộ nhân viên

hiện có, đánh giá lại các vai trò và trách nhiệm của Vụ

Bình đẳng giới (cả dọc và ngang) so với những Vụ/Cục

khác trong Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, các đối

tác thực hiện ở cấp tỉnh/thành phố và các Bộ/ngành khác.

Đảm bảo sự phân bổ ngân sách đầy đủ để đáp ứng các ƣu

tiên trong thực hiện Luật Bình đẳng giới.

Đầu tƣ thời gian cho nâng cao động lực. Các cán bộ lãnh

đạo cần hiểu những khuyến khích và hình thức khen

thƣởng có thể đề cao quan điểm và đạo đức của đội ngũ

cán bộ nhân viên của mình. Cơ cấu khuyến khích duy

nhất đƣợc thảo luận đó là làm thêm giờ và không thấy

đƣợc vận hành một cách hiệu quả.

Tạo nên một nhu cầu đối với thông tin, các kết quả và

trách nhiệm giải trình bằng cách hình thành những diễn

đàn thƣờng xuyên, chính thức và phi chính thức để thảo

luận những phát hiện có đƣợc từ Báo cáo này.

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - Những khuyến nghị

Làm rõ các vai trò và trách nhiệm và phân công công

việc. Các cơ cấu thể chế ở cấp quốc gia, tỉnh/thành phố,

huyện/quận và xã/phƣờng chƣa đƣợc hoàn chỉnh và cần

đƣợc giải quyết. Các vai trò và phân công công việc rõ

ràng hơn giữa các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ, Vụ Gia đình

và Phòng Văn hoá và Gia đình ở các tỉnh/thành phố cần

đƣợc thỏa thuận.

Phối hợp ƣu tiên đào tạo. Thiếu một sự phối hợp giữa Bộ

Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Văn hoá, Thể thao

và Du lịch và Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ

để thực hiện hai luật và lên kế hoạch ƣu tiên đào tạo đối

88

với cán bộ nhân viên của họ.

Phát triển các kỹ năng phù hợp hơn. Nhận thức về bình

đẳng giới và bạo lực gia đình ở mọi cấp độ còn thấp. Các

kỹ năng nghiên cứu và đánh giá còn yếu. Cán bộ nhân

viên chƣa đƣợc tập huấn đầy đủ về Luật Bình đẳng giới

và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Các kỹ năng

không tƣơng ứng với các vai trò và trách nhiệm của họ.

Các kỹ năng cần đƣợc nâng cấp và/hoặc những ngƣời có

kỹ năng tƣơng ứng đƣợc tuyển dụng (kiến thức, các kỹ

năng và quan điểm/động lực phù hợp).

Sử dụng những chuyên gia bên ngoài để thực hiện đào

tạo. Các tài liệu đào tạo đang đƣợc cán bộ của Bộ Văn

hoá, Thể thao và Du lịch xây dựng để tập huấn cho cán bộ

nhân viên cấp tỉnh/thành phố về Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt đối với một

Vụ chỉ có 12 nhân viên. Cho đến khi các vai trò và trách

nhiệm rõ ràng hơn, một sự bố trí sắp đặt khác có thể đáp

ứng tốt hơn các nhu cầu của cán bộ nhân viên cấp

tỉnh/thành phố là khuyến khích các chuyên gia bên ngoài

xây dựng và thực hiện một khoá tập huấn. Cán bộ nhân

viên của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch không nhất

thiết trở thành các chuyên gia về các luật này để có thể

thực hiện một cách hiệu quả.

Áp dụng những kỹ thuật mới để thu thập những số liệu

nhạy cảm về bạo lực gia đình. Thu thập số liệu về bạo lực

gia đình là một công việc đƣợc chuyên môn hoá cao, vì

khiến những ngƣời cung cấp thông tin chính cảm thấy

thoải mái nói về bạo lực gia đình phải cần rất nhiều kinh

nghiệm và đƣợc tập huấn. Cán bộ ở cấp xã/phƣờng có thể

hƣởng lợi lâu dài từ hình thức tập huấn này. Nói cách

khác, những chuyên gia bên ngoài cũng có thể đƣợc tuyển

dụng để thực hiện vai trò thu thập số liệu nhằm giảm bớt

gánh nặng của cán bộ nhân viên xã/phƣờng đang bị quá

tải. Cũng sẽ rất có lợi khi làm quen với các cán bộ phân

89

tích chƣơng trình và chính sách với rất nhiều công cụ và

kỹ thuật để giúp họ trong thực hiện công việc một cách có

trách nhiệm giới và nhạy cảm về bạo lực gia đình.

Hiểu biết về các hình thái ngân sách hoặc các nguồn dành

cho những nhu cầu khác nhau. Lập ngân sách để thực

hiện hai luật cần phải đƣợc thực hiện một cách rõ ràng

hơn và gắn kết với một kế hoạch các hoạt động. Lập ngân

sách dành cho xây dựng năng lực đối với cán bộ nhân

viên cho phép họ thực hiện hai luật cũng cần đƣợc thực

hiện rõ ràng và minh bạch.

Ƣu tiên cho tập huấn đối với quản lý và lãnh đạo. Tập

huấn cho quản lý và lãnh đạo là một ƣu tiên đối với các

cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở tất cả các cấp của chính quyền

chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện cả hai luật. Kết

quả chính của tập huấn nên là xây dựng một kế hoạch

quản lý thay đổi đối với các Bộ, Vụ/Ban/Sở/ngành

và/hoặc các đơn vị tƣơng ứng để cho phép thực hiện,

giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật phải đƣợc thực

hiện theo một cách thức trọng tâm và mang tính hệ thống.

Tập huấn nhƣ vậy nên đƣợc gắn với các mục tiêu phát

triển năng lực cụ thể hơn ở các Bộ, Vụ/Ban/Sở/ngành

và/hoặc các đơn vị tƣơng ứng.

Nghiên cứu kỹ một mô hình về điển hình phù hợp. Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nhân rộng một mô hình

“gia đình phát triển bền vững” hoặc “Câu lạc bộ gia đình

bền vững” để giúp ngăn ngừa và kiểm soát bạo lực gia

đình ở 63 tỉnh/thành phố. Sẽ bổ ích khi làm rõ liệu mô

hình này đã đƣợc nhận biết là một điển hình và nhƣ vậy

phù hợp để nhân rộng.

Thành lập những trung tâm tạm lánh là một ƣu tiên. Có

một yêu cầu thật sự đối với các trung tâm tạm lánh dành

cho nạn nhân bạo lực gia đình. Các Trung tâm bảo trợ xã

hội là không thoả đáng. Điều này cần đƣợc nghiên cứu kỹ

hơn và một loạt các giải pháp cần đƣợc đề ra.

90

7.1.2 Cấp tỉnh/thành phố

Phần sau đây trình bày những khuyến nghị đối với các

khoảng trống về năng lực đƣợc nhận biết trong các cơ quan

chính quyền cấp địa phƣơng đối với Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình. Nhƣ đã thảo luận tại Phƣơng

pháp luận, phần này tập trung vào hai địa phƣơng: Thành phố Hà

Nội và tỉnh Bình Dƣơng. Những khuyến nghị đƣợc dựa trên

những khoảng trống về năng lực đƣợc tìm thấy trong các phân

tích ban đầu của những phát hiện của Đánh giá Năng lực.

Tỉnh Bình Dƣơng - Những khuyến nghị

Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình

Đội ngũ cán bộ và các cơ cấu thể chế

Có nhu cầu về cán bộ nhân viên để thực hiện hai luật. Tuy

nhiên, trƣớc khi tuyển thêm cán bộ, vai trò và trách nhiệm cần

đƣợc làm rõ và các Sở/ngành/tổ chức của tỉnh cần có một chiến

lƣợc và kế hoạch hành động cụ thể đối với hai luật, nhƣ vậy các

kế hoạch công tác hàng năm có liên quan có thể đƣợc xây dựng.

Chỉ sau đó các Sở/ngành mới biết các yêu cầu cụ thể đối với cán

bộ nhân viên của mình.

Kiến thức

Có nhu cầu đối với tập huấn sâu cho cán bộ nhân viên. Các

khoá ngắn hạn ở nƣớc ngoài về các chủ đề giới không đủ đối với

các cán bộ nhân viên trong công việc hàng ngày của họ. Việc

truyền bá kinh nghiệm và đào tạo tại nơi làm việc về một số lĩnh

vực cụ thể, chẳng hạn lồng ghép giới vào xây dựng văn bản quy

phạm pháp luật nên đƣợc xem xét nhƣ một phƣơng án để tăng

các khoá tập huấn nâng cao. Những kỹ năng chuyên môn đƣợc

yêu cầu thêm; đây có thể là chuẩn bị ngân sách, hình thành các

đề cƣơng dự án, hiểu về các vai trò và trách nhiệm khác nhau

của các đối tác thực hiện, quản lý các nguồn nhân lực, giám sát

tiến độ và kiến thức kỹ thuật về giới và bạo lực gia đình. Cán bộ

nhân viên cũng có thể hƣởng lợi từ việc tập huấn các kỹ năng

mềm chẳng hạn nhƣ truyền thông và hoà giải.

91

Các nguồn lực và các công cụ

Các nguồn quỹ và các khuyến khích bằng tiền là cần thiết

đối với các cán bộ điều phối ở cấp cơ sở cho công việc quan

trọng mà họ đang nhắm tới và tiếp cận trực tiếp với những ngƣời

hƣởng lợi của cả hai luật.

Cần có một loạt các tài liệu truyền thông với các thông điệp

rất đơn giản.

Lãnh đạo

Cần có sự lãnh đạo tập trung hơn của Tỉnh uỷ và Ban chỉ

đạo cấp tỉnh.

Công tác báo cáo và trách nhiệm giải trình

Cần có các mẫu và hƣớng dẫn báo cáo cụ thể hơn đƣợc hỗ

trợ bằng các tập huấn thực tế làm thế nào để sử dụng hƣớng dẫn

và mẫu đó.

Thành phố Hà Nội - Những khuyến nghị

Luật Bình đẳng giới

Các cơ cấu thể chế

Một Ban chỉ đạo và/hoặc “cơ quan thƣờng trực” nên đƣợc

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội thành lập hoặc bổ nhiệm

để điều phối và duy trì các văn bản quy phạm pháp luật, các kế

hoạch ngân sách và viết các quy chế liên quan đến Luật Bình

đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, đã

có rất nhiều Ban chỉ đạo ở Thành phố Hà Nội nơi mà việc tạo

nguồn cho các Ban chỉ đạo này ngày càng trở nên khó khăn và

hiệu lực ngày cang suy giảm của họ. Tính khả thi đối với việc

thành lập một Ban chỉ đạo về Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình cần đƣợc xem xét đánh giá.

Những quy chế và nguyên tắc đƣợc cập nhật hơn ở cấp địa

phƣơng phản ánh về hai luật nên đƣợc sử dụng.

Thực hiện

Vụ Bình đẳng giới thuộc Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã

hội nên xây dựng một kế hoạch quốc gia về bình đẳng giới với

92

những chỉ số rõ ràng và mang tính thực tiễn về bình đẳng giới.

Những chỉ dẫn rất cụ thể làm thế nào để thực hiện chiến lƣợc

đƣợc yêu cầu dựa trên những mục tiêu rõ ràng. Vụ Bình đẳng

giới cũng nên xây dựng những hƣớng dẫn về giám sát, đánh giá

và báo cáo. Việc thực hiện cần đƣợc gắn kết, đƣợc hoạch định và

điều phối tốt hơn trên cả nƣớc. Sự điều phối tốt hơn cần đƣợc

thực hiện trong cũng nhƣ giữa các cơ quan.

Tạo nguồn lực

Cần có cán bộ nhân viên có kinh nghiệm hơn, làm việc toàn

thời ở cấp xã phƣờng và cần nhiều nguồn lực tài chính hơn để

thực hiện hiệu quả Luật Bình đẳng giới.

Lãnh đạo

Tất cả đại biểu tham dự, bao gồm cả cán bộ lãnh đạo, tại các

phiên phản hồi đối với các phát hiện chính tại thực địa ở Hà Nội

đều là nam giới. Họ nhấn mạnh rằng khái niệm bình đẳng giới

mới chỉ có khoảng 10 năm trở lại đây ở Việt Nam và sẽ cần thời

gian để thay đổi hành vi và quan niệm của mọi ngƣời. Sự quan

tâm cần đƣợc đề cập là sự hiện diện phổ biến của nam giới trong

các vị trí lãnh đạo chủ chốt đƣợc xem là cơ hội hơn là một trở

ngại trong thực hiện hai luật.

Kiến thức

Tập huấn về lồng ghép giới đối với cán bộ nhân viên có liên

quan ở tất cả các Vụ/Ban/Sở/ngành, cơ quan và tổ chức ở Hà Nội

là cần thiết vì nhƣ vậy họ có thể lồng ghép giới vào trong các

văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, kế hoạch, chƣơng trình

và dự án của họ. Cũng cần có các tập huấn đối với các cán bộ

nhân viên ở tất cả các cấp của Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã

hội và trong các cơ quan khác có liên quan về thu thập số liệu,

thống kê về giới, số liệu đƣợc phân tách theo giới tính, giám sát,

đánh giá và báo cáo. Cán bộ nhân viên cấp địa phƣơng cần có

các kỹ năng tập huấn để trở thành các tập huấn viên tốt đối với

dân số nói chung về hai luật.

Cần có thêm các hội thảo cho các cán bộ lãnh đạo ở tất cả

các cấp.

93

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Các cơ cấu thể chế

Ủy ban Nhân dân Thành phố nên tận dụng vai trò của mình

trong phòng, chống bạo lực gia đình để xây dựng những hƣớng

dẫn, chỉ thị và phê duyệt việc thành lập một Ban chỉ đạo về

Phòng, chống bạo lực gia đình.

Cần có các chức năng và trách nhiệm rõ ràng hơn trong các

cơ quan và giữa các Sở/ngành.

Thực hiện

Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch nên tham mƣu cho Ủy ban

Nhân dân Thành phố xây dựng một kế hoạch hành động để thực

hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Cần có những chỉ dẫn

rất cụ thể làm thế nào để thực hiện hai luật, dựa trên một chiến

lƣợc với các mục tiêu rõ ràng. Việc thực hiện cần đƣợc gắn kết,

đƣợc hoạch định và điều phối tốt hơn trên cả nƣớc. Sự điều phối

tốt hơn cần đƣợc thực hiện trong và giữa các cơ quan, đơn vị.

Tạo nguồn lực

Cần có cán bộ nhân viên có kinh nghiệm hơn, làm việc toàn

thời ở cấp xã phƣờng và cần nhiều nguồn lực tài chính hơn. Nên

có một ngân sách riêng dành cho công tác liên quan đến thống kê

về bạo lực gia đình.

Lãnh đạo

Cần có một thẩm quyền lãnh đạo “duy nhất” rõ ràng hơn từ

cấp trung ƣơng đến tận cơ sở đối với Luật Phòng, chống bạo lực

gia đình.

Kiến thức

Cần có nhiều tập huấn hơn về thu thập số liệu và tƣ vấn cho

các nạn nhân của bạo lực gia đình.

Xây dựng một module tập huấn và kế hoạch học tập về

phòng, chống bạo lực gia đình và tƣ vấn cho các nạn nhân của

bạo lực gia đình và lồng ghép vào trong các tài liệu giảng dạy ở

các trƣờng y.

94

Cần có thêm các hội thảo dành cho các cán bộ lãnh đạo và

nhân viên ở cấp địa phƣơng để cho phép họ trở thành những tập

huấn viên và tuyên truyền viên hiệu quả hơn đối với dân số nói

chung về luật pháp.

Trách nhiệm giải trình

Nên có một cơ chế để bảo vệ nhân viên y tế khi chăm sóc

các nạn nhân của bạo lực gia đình.

Giám sát và đánh giá và báo cáo

Xây dựng một cơ chế giám sát, đánh giá và báo cáo về

phòng, chống bạo lực gia đình. Hình thành một cơ sở dữ liệu về

bạo lực gia đình.

7.2. Các tổ chức quần chúng

Phần này phản ánh những khuyến nghị đƣợc bản thân các tổ

chức quần chúng đặt ra đối với Viện Nghiên cứu Gia đình và

Giới và chuyên gia quốc tế. Các khuyến nghị này trực tiếp đối

với bản thân các tổ chức quần chúng, nhƣng cũng rất nhiều

khuyến nghị liên quan đến các tổ chức chính quyền phản ánh

cách thức số liệu đƣợc thể hiện theo lĩnh vực. Các khuyến đƣợc

phân nhóm theo các cấp Trung ƣơng và tỉnh/thành phố.

7.2.1 Cấp Trung ương

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Các Nghị định cụ thể để giải quyết các vi phạm pháp luật

phải đƣợc ban hành.

Nên đầu tƣ các nguồn lực lớn hơn cho các hoạt động truyền

thông dựa trên bối cảnh và ngôn ngữ của địa phƣơng.

Nên có một cơ chế tạo ra những cách thức khác nhau để hỗ

trợ các nạn nhân bạo lực gia đình. Ƣu tiên nên đƣợc dành

cho công tác tƣ vấn và các trung tâm tạm lánh.

Luật Bình đẳng giới

Nên có một ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ cụ thể hóa việc thực

hiện Luật Bình đẳng giới ở mỗi một Vụ Tổ chức và Cán bộ của

tổ chức quần chúng.

95

Những khuyến nghị chung cho cả hai luật đối với các tổ

chức quần chúng ở cấp Trung ƣơng

Các cơ cấu thể chế

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch nên tiên phong trong xây dựng các kế hoạch

hành động để thực hiện và hình thành một cơ chế điều phối giữa

các cơ quan. Sau đó, nên xây dựng các vai trò cụ thể và phù hợp

hơn của tổ chức và các tiêu chuẩn chức danh công việc.

Một kế hoạch hành động dài hạn cho giai đoạn 2010-2020

nên đƣợc xây dựng để cho phép các chính sách đối với thanh

niên, bình đẳng giới và bạo lực gia đình đƣợc hình thành.

Các nghị định/văn bản hƣớng dẫn thực hiện nên đƣợc cấp

tới tất cả các cơ quan thông qua một cơ chế có hiệu lực cho tất

cả. Một số cán bộ nhân viên không nhận thức đƣợc sự tồn tại của

các văn bản này.

Ƣu tiên nên đƣợc đặt ra để tổ chức một kế hoạch hành động

đối với các hoạt động truyền thông về hai luật. Những cán bộ

nhân viên có chuyên môn sâu hơn nên đƣợc tuyển dụng theo các

tập huấn cán bộ.

Do hiện còn thiếu cán bộ nhân viên, sẽ hiệu quả hơn để tập

huấn cho cán bộ vào năm 2011 và trong năm 2010 tập trung vào

tổ chức một kế hoạch hành động đối với các hoạt động truyền

thông về hai luật.

Làm rõ các vai trò của các tổ chức quần chúng khác nhau để

tránh sự tham dự mặc nhiên của Hội liên hiệp phụ nữ.

Nhấn mạnh vai trò của các tổ chức quần chúng trong vận

động truyền bá bình đẳng giới và tổ chức và đại diện cho các

thành viên của cộng đồng trong các cơ quan của Chính phủ.

Nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong vận

động và nâng cao nhận thức của động đồng liên quan đến tầm

quan trọng của bình đẳng giới và cuộc đấu tranh chống bạo lực

gia đình.

96

Kiến thức

Điều quan trọng là nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và

Luật Bình đẳng giới trong các cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cấp uỷ.

Một gói tập huấn cho tập huấn viên về hai luật nhằm vào các

cán bộ nhân viên chủ chốt có thể là bổ ích. Tập huấn nên dài hơn

và với cƣờng độ cao hơn để thay đổi quan niệm và hành vi ứng

xử của cán bộ nhân viên.

Một Website về phát triển kỹ năng sẽ hữu ích đối với Trung

ƣơng đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, đặc biệt nhƣ một

cách thức tƣơng đối rẻ tiền để truyền thông thông tin về hai luật.

Lãnh đạo

Cần có một tầm nhìn, khung thời gian dài và các nguồn

lực đƣợc cam kết để xây dựng chƣơng trình hiệu quả đối với

hai luật.

Thực hiện

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên đóng vai trò xúc tác thay

mặt các tổ chức thành viên của mình để thực hiện một hệ thống

hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình.

Hợp tác tốt hơn trong các hoạt động tập huấn giữa Vụ

Truyền thông và Giáo dục và Trung ƣơng đoàn thanh niên cộng

sản Hồ Chí Minh. Đã có sự hợp tác trong thực hiện một dự án

truyền thông tại các trƣờng học về hai luật.

Các tổ chức xã hội dân sự hoạt động trong lĩnh vực bình

đẳng giới và bạo lực gia đình nên tham gia vào quá trình thúc

đẩy bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình của các cơ

quan chính phủ và các tổ chức quần chúng.

7.2.2 Cấp tỉnh/thành phố

Các khuyến nghị trong phần này trực tiếp liên quan đến bản

thân các tổ chức quần chúng, nhƣng cũng rất nhiều khuyến nghị

liên quan đến các tổ chức chính quyền phản ánh cách thức số

liệu đƣợc thể hiện theo lĩnh vực.

97

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Thực hiện

Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch nên phát triển một hệ

thống thực hiện bao gồm các chỉ số, một cơ sở dữ liệu, các mẫu

báo cáo và các phƣơng thức phối hợp để tạo thuận lợi cho thực

hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình.

Cần có rà soát hệ thống về trừng phạt những ngƣời vi phạm

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Rất ít hình phạt đã đƣợc

cƣỡng chế thi hành.

Cần có các kỹ năng, nguồn lực và sự lãnh đạo trong các tổ

chức chủ chốt để giúp công chúng tiếp cận tốt hơn với thông tin

và dịch vụ phòng, chống bạo lực gia đình.

Kiến thức

Tăng cƣờng nhắm tới nam giới thông qua phát hiện khai

thác các mô hình về Phòng, chống bạo lực gia đình làm thay đổi

thành công hành vi ứng xử của nam giới. Tiếp cận với các mô

hình phù hợp nhất để nhân rộng trong mỗi một tỉnh/huyện/xã

tƣơng ứng. Xây dựng mô hình trong một chu trình xây dựng

chƣơng trình.

Các khoá tập huấn nên đƣợc thực hiện với thời lƣợng dài

hơn và phù hợp với nhƣ cầu công việc hàng ngày.

Cán bộ nhân viên ở cấp cơ sở nên đƣợc hƣởng lợi từ tập

huấn về làm thế nào để xác định các hình thức khác nhau của

bạo lực gia đình, làm thế nào để hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực

gia đình và hiểu biết các nạn nhân có thể tiếp cận hỗ trợ pháp lý

ở đâu.

Tập huấn về bạo lực gia đình và Luật Phòng, chống bạo lực

gia đình cho các cán bộ lãnh đạo của các Vụ/Ban, cơ quan và tổ

chức trong tỉnh/thành phố là một ƣu tiên và nên đƣợc thực hiện

trên cơ sở hàng năm. Điều này yêu cầu một kế hoạch tập huấn và

xây dựng năng lực cụ thể. Trong kế hoạch này, một tập hợp các

kỹ năng cụ thể cần đƣợc hình thành để thực hiện, giám sát, đánh

98

giá và báo cáo về Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Cần có tập huấn về các phƣơng tiện thông tin nghệ thuật

khác nhau để truyền thông về các thông điệp về bạo lực gia đình

cho công chúng. Các hình thức hiện hành không hiệu quả.

Hệ thống truyền hình địa phƣơng nên quảng bá hoạt động

của các Toà án về các trƣờng hợp bạo lực gia đình với mục đích

nâng cao nhận thức của các cơ quan có trách nhiệm đối với thực

tiễn hiện hành.

Các nguồn lực

Cần có thêm các tài liệu nâng cao nhận thức phù hợp với

mỗi một nhóm mục tiêu khác nhau.

Giao thêm biên chế hoặc tuyển dụng thêm cán bộ ở cấp cơ

sở để giải quyết gánh nặng công việc sẽ là hiệu quả.

Một dòng ngân sách riêng để thực hiện các nhu cầu của Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình cần đƣợc hình thành.

Trách nhiệm giải trình

Một hệ thống để phân bổ tài liệu và thông tin cần thiết cho

thực hiện hiệu quả Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cần đƣợc

hình thành đối với tất cả các cơ quan có liên quan.

Thành lập một hệ thống khen thƣởng đối với cán bộ nhân

viên sẽ khuyến khích thực hiện hiệu quả pháp luật.

Cần xây dựng một cơ chế đối với các tổ chức quần chúng để

giám sát thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Luật Bình đẳng giới

Thực hiện

Hầu hết các cơ quan đều thấy khó để tiếp cận thông tin và

các văn bản liên quan đến pháp luật đối với bình đẳng giới và để

thực hiện các Nghị định. Nhƣ vậy, điều quan trọng là hình thành

một hệ thống cung cấp đủ thông tin và các văn bản liên quan cho

các tổ chức quần chúng.

Chính quyền trung ƣơng nên ban hành một quy chế trùng

khớp với phạm vi của quá trình xây dựng chƣơng trình nâng cao

99

nhận thức trong phƣơng tiện thông tin đại chúng với một nguồn

kinh phí tƣơng ứng đủ để có thể cho phép những hoạt động nhƣ

vậy đƣợc thực hiện. Điều này đảm bảo rằng phƣơng tiện thông

tin đại chúng đóng một vai trò hiệu quả.

Một Ban chỉ đạo quốc gia về bình đẳng giới nên tạo ra

một CD có chứa nội dung “Hỏi và đáp” đơn giản để sử dụng

cho các trạm truyền thanh ở cộng đồng, nhƣ vậy chi phí sử

dụng phƣơng tiện thông tin đại chúng để đến với cộng đồng

giảm xuống.

Tạo nguồn lực

Cần quy định một khoản trợ cấp cho các cán bộ điều phối ở

cấp cơ sở để khuyến khích một sự cam kết lớn hơn đối với công

việc của họ.

Cần có một sự phân bổ kinh phí riêng và đầy đủ để thực

hiện luật.

Kiến thức

Xây dựng các kỹ năng hỗ trợ sự đa dạng lớn hơn các tài liệu

truyền thông về bình đẳng giới, ví dụ tạo ra những tờ gấp, tờ rơi

và cẩm nang khác nhau.

Quan trọng là nâng cao nhận thức về pháp luật trong số các

cán bộ lãnh đạo cấp cao bao gồm cả những cán bộ ban hành

chính sách và hoạch định ở cấp tỉnh/thành phố để khuyến khích

họ quan tâm nhiều hơn đối với thúc đẩy bình đẳng giới và Luật

Bình đẳng giới. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ, chính quyền địa

phƣơng và của các tổ chức quần chúng trong thực hiện Luật

Bình đẳng giới cần đƣợc nâng lên.

Tập huấn thêm cho các cán bộ nhân viên cấp tỉnh/thành phố

về giám sát, đánh giá và báo cáo về Luật Bình đẳng giới.

Nên tổ chức thêm các hội thảo để tạo các cơ hội trao đổi

kinh nghiệm. Trình diễn nhiều hơn các mô hình hiệu quả chẳng

hạn “các câu lạc bộ”. Một lựa chọn để trao đổi các kỹ năng và

kiến thức giữa các tổ chức quần chúng thông qua hỗ trợ lẫn nhau

nên đƣợc xem xét tìm hiểu.

100

Cần có thêm các tập huấn đƣợc thiết kế kỹ lƣỡng cho cán

bộ nhân viên ở các cấp cơ sở với (1) sự quan tâm lớn hơn đối

với tính phù hợp của các nội dung tập huấn; (2) có thông báo

đầy đủ khi tập huấn đƣợc tổ chức và (3) cân nhắc kỹ hơn đối

với thời gian tổ chức tập huấn. Với những cân nhắc này, những

ngƣời đƣợc mời tham dự hoàn toàn có thể có mặt và tham dự

đầy đủ và vẫn có thể quản lý từ xa cơ quan của họ. Để duy trì

tập huấn nhƣ vậy cần có sự quan tâm nhiều hơn đối với quá

trình lựa chọn tập huấn.

Giám sát và đánh giá và báo cáo

Cần có một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ

để giám sát quá trình lồng ghép giới.

Xây dựng mẫu báo cáo với các chỉ số và nội dung cụ thể để

sử dụng ở cấp cơ sở.

Cần có các tiêu chí đánh giá và các chỉ số giám sát đƣợc lựa

chọn đối với việc thực hiện hiệu quả bình đẳng giới.

Một mô hình điển hình về giám sát luật cần đƣợc xây dựng.

Bình đẳng giới là một vấn đề nhạy cảm. Mô hình mà Mặt trận

Tổ quốc Hà Nội sử dụng nên đƣợc nghiên cứu kỹ thêm nhƣ một

điển hình tốt. Một hộp thƣ dành cho công dân để gửi các khiếu

nại đã đƣợc hình thành tại một địa điểm thuận lợi. Quá trình mà

Mặt trận Tổ quốc Hà Nội giải quyết các khiếu nại đã đƣợc tƣ

liệu hoá do vậy có cơ hội để đánh giá nếu đây là một cách thức

hiệu quả để lắng nghe từ các công dân những vấn đề về bình

đẳng giới.

Quá trình đánh giá cần đƣợc hình thành và đƣợc quản lý với

một đánh giá ban đầu việc thực hiện pháp luật đƣợc tiến hành

càng sớm càng tốt. Điều quan trọng là để đo mức độ công chúng

nhận thức về nội dung của các luật và đƣa ra những khuyến nghị

làm thế nào để Luật Bình đẳng giới đến gần ngƣời dân hơn. Một

lựa chọn thứ hai đối với đánh giá là một nghiên cứu về các hoạt

động của Đoàn thanh niên Hà Nội để xúc tiến các cơ hội đối với

thanh niên và tác động đang có lên việc thực hiện Luật Bình

đẳng giới. Tuy nhiên những nghiên cứu nhƣ vậy cần đƣợc các

101

cán bộ lãnh đạo ủng hộ và sự phân bổ ngân sách thƣờng xuyên

và đồng nhất cần đƣợc đảm bảo.

Giám sát và đánh giá việc thực hiện Luật Bình đẳng giới đòi

hỏi một kế hoạch hành động cụ thể theo đó xây dựng một hệ

thống giám sát và đánh giá. Hệ thống này nên bao gồm một kế

hoạch về các hoạt động giám sát và đánh giá để tránh các hoạt

động và kết quả trùng lắp. Các tổ chức quần chúng thƣờng lƣu ý

rằng họ đang tiến hành rất nhiều các chuyến giám sát và đánh giá

vào cùng một thời gian. Các hoạt động giám sát và đánh giá là

phức tạp nhƣng thƣờng trở nên rất hời hợt và không hiệu quả vì

có quá nhiều hoạt động xảy ra đồng thời.

Có một nhu cầu đối với chính quyền trung ƣơng (Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội) cung cấp các số liệu đƣợc tách

biệt theo giới tính trên cơ sở thƣờng xuyên.

8. CÁC HỆ THỐNG VÀ QUY TRÌNH ĐỔI MỚI

Phần này liệt kê sự lựa chọn những điển hình cần đƣợc cân

nhắc để nhân rộng.

Những “Điển hình” hoặc “Gƣơng mẫu” đã đƣợc mô tả nhƣ

những gì dẫn đến thay đổi thực sự, đóng góp cho một môi trường

chính sách có ích hơn đối với bình đẳng giới và/hoặc phá vỡ căn

nguyên mới trong những lĩnh vực phi truyền thống đối với phụ

nữ”19

. Hơn nữa, một điển hình tốt ở một nơi có thể không thành

công ở nơi khác nếu không có sự điều chỉnh cho phù hợp với

nhu cầu cụ thể của cộng đồng đó.

Những tiêu chí sau đây là một tập hợp các tiêu chuẩn hoặc

chỉ số chung và thƣờng đƣợc sử dụng đối với các điển hình20

:

Hiệu quả

19. Một báo cáo đặc biệt về bạo lực chống lại phụ nữ

E/CN.4/2003/75/Add.1, đoạn 2147; Trích dẫn cùng nguồn.

20. Nghiên cứu bối cảnh để thẩm định “những thực tiễn hứa hẹn” đối

với Nghiên cứu của Tổng thƣ ký Liên hợp quốc về Bạo lực chống lại Phụ nữ

102

Thực tiễn

Bền vững

Có trách nhiệm

Mang tính đổi mới

Liên minh chiến lƣợc và phối hợp trong thực hiện thực tiễn

giữa Nhà nƣớc và xã hội dân sự hoặc giữa các cơ quan.

Danh sách các mô hình và cách tiếp cận dƣới đây đã đƣợc

xác định để nghiên cứu thêm về những phẩm chất đổi mới tiềm

năng và điển hình của họ và sau đó đƣợc xem xét để nhân rộng.

Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu thêm thông qua những cuộc

phỏng vấn tiếp theo. Một rà soát công tác phân tích đã không

đƣợc đƣa vào báo cáo này cũng nên đƣợc xem xét với mục tiêu

phát hiện những điển hình tiềm năng khác.

Các điển hình tiềm năng:

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nhân rộng một mô

hình “gia đình phát triển bền vững” hoặc “Câu lạc bộ gia

đình bền vững” để ngăn ngừa và kiểm soát bạo lực gia

đình ở 64 tỉnh/thành phố.

Ở tỉnh Bình Dƣơng, một số Sở/ngành đƣa một chỉ tiêu

bình đẳng giới vào đánh giá thực hiện nhiệm vụ hàng năm

của họ đối với các cá nhân và tổ chức để ghi nhận những

cán bộ nhân viên có những đổi mới và thành tựu liên quan

đến bình đẳng giới.

“Những phong trào ở cộng đồng” chẳng hạn “các gia

đình/đơn vị văn hóa” đƣợc xem xét là một phần quan

trọng trong thực hiện cả hai luật ở tỉnh Bình Dƣơng. Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam giám sát các hoạt động của các

đơn vị văn hóa trong xã/phƣờng và thông qua Thanh tra

nhân dân để phát hiện những trƣờng hợp bạo lực.

Có một số kết quả khả quan từ phƣơng thức “câu lạc bộ”

do Hội phụ nữ tỉnh/thành phố hỗ trợ thực hiện. Ba câu lạc

bộ đã đƣợc đề cập một cách chi tiết: Câu lạc bộ “Chỗ dựa

đàn ông”, Câu lạc bộ phụ nữ và câu lạc bộ chủ nhà.

103

Các tòa án di động đã đƣợc xác định với tiền năng để mở

rộng cách thức giải quyết các trƣờng hợp bạo lực gia đình.

Những Sở/ngành có liên quan ở tỉnh/thành phố và các tổ

chức quần chúng đã sử dụng các mô hình cộng đồng để

đến đƣợc với ngƣời dân ở cấp cơ sở ở tỉnh Bình Dƣơng.

Mặt trận Tổ quốc Hà Nội đã xây dựng một điển hình để

giám sát Luật Bình đẳng giới. Đặc biệt, một hòm thƣ cho

công dân gửi những khiếu nại đã đƣợc hình thành ở một

địa điểm thuận tiện. Quá trình Mặt trận Tổ quốc Hà Nội

giải quyết các khiếu nại đã đƣợc tƣ liệu hoá do vậy có cơ

hội để đánh giá nếu đây là một cách thức hiệu quả để lắng

nghe từ các công dân những vấn đề về bình đẳng giới.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện Luật Phòng, chống

bạo lực gia đình thông qua các hoạt động hòa giải ở cấp

cơ sở. Quá trình giải quyết các trƣờng hợp bạo lực gia

đình nói chung nên đƣợc nghiên cứu kỹ.

Các cuộc thi và khen thƣởng đã đƣợc sử dụng rộng rãi ở

Việt Nam để tập hợp ngƣời dân xung quanh những vấn đề

đặc biệt. Các cuộc thi có tiềm năng đa dạng hóa cách thức

các hoạt động truyền thông nên đƣợc thực hiện. Việc

nghiên cứu liệu các cuộc thi có hiệu quả trong nâng cao

nhận thức và hiểu biết về hai luật nên đƣợc giám sát. Ở

Hà Nội, một hệ thống khen thƣởng đƣợc một ban chỉ đạo

xây dựng “nếp sống văn hóa” chỉ đạo thực hiện. Họ tặng

thƣởng các bằng khen cho các làng và tổ dân số dựa trên

các tiêu chí liên quan đến thực hiện Luật Phòng, chống

bạo lực gia đình.

Các trƣờng của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

đang xây dựng một giáo trình bao gồm bình đẳng giới.

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có một dự án với

chủ đề đƣợc gọi là “tƣ vấn cửa sổ tình yêu” nơi Đoàn

thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh sử dụng tờ báo của

mình, tờ tin của Ban Truyền thông và Giáo dục và đài

104

tiếng nói (truyền phát vào Chủ nhật) để phổ biến thông

tin. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cũng có các

diễn đàn dành cho tuổi thiến niên trên Báo tiền phong

của mình.

Ở tỉnh Thái Bình, Hội Phụ nữ huyện đã hƣớng dẫn các chi

hội của mình ở cấp huyện tổ chức một cuộc đua tài về

“Các chủ tịch Hội thông minh”. Cho đến nay, sáu trong

tám huyện đã tổ chức thành công cuộc thi này.

9. KẾT LUẬN

Phát triển năng lực là một cách thức để thúc đẩy thay đổi,

xây dựng động lực và các kỹ năng và thay đổi quan niệm để

hƣớng tới thúc đẩy bình đẳng giới và lồng ghép giới. Nhƣ đã

nêu trong Báo cáo Đánh giá Năng lực này, có rất nhiều cách

thức và phƣơng pháp khác nhau để phát triển năng lực và mỗi

một cách tiếp cận cần đƣợc gắn với mỗi một thể chế, một tổ

chức hoặc cá nhân.

Hoạt động đánh giá năng lực đã tạo một cơ hội để đánh giá

tập thể năng lực của mỗi một tổ chức để chuyển tải các kết quả

và sản phẩm một cách hiệu quả hơn liên quan đến hai luật, nếu

có ý chí để có trách nhiệm đối với các phát hiện và các khuyến

nghị đƣợc nêu ra ở đây.

Những phát hiện chính

Những yếu kém chính qua các tổ chức đã đƣợc nhận biết

theo ba vấn đề năng lực trọng tâm: kiến thức, lãnh đạo và các cơ

cấu thể chế.

Kiến thức - Bình đẳng giới là một khái niệm còn tƣơng đối

mới ở Việt Nam. Bạo lực gia đình thƣờng đƣợc cho là một vấn

đề riêng tƣ của gia đình cho đến khi luật đƣợc ban hành. Điều

này đƣợc phản ánh trong các kết quả của Báo cáo Đánh giá năng

lực. Nhìn chung, kiến thức cơ bản và các kỹ năng chuyên môn

về bình đẳng giới và bạo lực gia đình còn thấp và chƣa đủ để

thực hiện hiệu quả hai luật. Các cán bộ ban hành chính sách và

105

chuyên gia chƣơng trình sẽ không mở rộng trọng tâm can thiệp

của họ từ „sự tiến bộ của phụ nữ‟ để cân nhắc và thu hút các vấn

đề bình đẳng giới mà không nhận đƣợc các kiến thức và công cụ

cụ thể đƣợc cập nhật về bình đẳng giới và bạo lực gia đình.

Những khoảng trống cụ thể trong kiến thức và kỹ năng đã đƣợc

Báo cáo Đánh giá năng lực này nhận biết:

Các kỹ năng lãnh đạo và quản lý trong thực hiện Luật

Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

(bao gồm hoạch định chiến lƣợc, quản lý thay đổi, xây

dựng và phát triển năng lực, trách nhiệm giải trình và

động lực).

Các khái niệm cơ bản về giới, bình đẳng giới, bạo lực gia

đình, giám sát, đánh giá và báo cáo.

Các công cụ lồng ghép giới thực tiễn.

Nhận thức và hiểu biết về Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình.

Quản lý đánh giá và nghiên cứu.

Các chƣơng trình để bảo vệ nạn nhân.

Các chƣơng trình và các hoạt động nhắm tới nam giới.

Lãnh đạo - Thiếu một sự lãnh đạo kiên quyết về nhữung vấn

đề này. Thông điệp chính là các cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp

cao có nhu cầu cạnh tranh và sự ƣu tiên đối với Luật Bình đẳng

giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn thấp. Những

nguồn lực thỏa đáng chƣa đƣợc phân bổ cho thực hiện và rất ít

bằng chứng đề xuất rằng các cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp cao

đang đòi hỏi cán bộ nhân viên phân tích, thông tin và cập nhật

tiến độ. Khi những đòi hỏi này đƣợc đƣa ra có rất ít khuyến

khích đối với hành động và cán bộ nhân viên không có trách

nhiệm giải trình trong thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình.

Cơ cấu thể chế - Có một số kẽ hở trong các Nghị định và

những hƣớng dẫn kém chất lƣợng giữa các tổ chức đã ngăn cản

việc thực hiện. Những ngƣời chịu trách nhiệm đối với thực hiện

106

hai luật không thể thực hiện điều đó mà không có một chiến lƣợc

rõ ràng, các vai trò và trách nhiệm đƣợc xác định và tiêu chuẩn

chức danh đƣợc gắn kết. Những cán bộ đầu mối đã không đƣợc

nhận biết trong rất nhiều tổ chức và các cán bộ chuyên môn đầu

ngành đã không đƣợc nuôi dƣỡng – điều này càng rụt rè hơn khi

không có một cơ cấu tổ chức rõ ràng. Không có đề cập đến vai

trò của các Vụ Tổ chức và cán bộ trong bất kỳ một phân tích số

liệu sơ bộ nào cũng nhƣ không có đối với phát triển năng lực tổ

chức hoặc các chiến lƣợc học tập và các quá trình phát triển nhân

sự. Do vậy tính bền vững, hiệu quả và tính phù hợp của bất kỳ

một phản ứng phát triển năng lực nào đƣợc đặt ra mà không có

sự gắn kết rõ ràng đối với các Vụ/ban, chiến lƣợc và các quá

trình này.

Những khuyến nghị chính

Những khuyến nghị chính sau đây vô cùng quan trọng để

khắc phục những yếu kém chủ yếu đan xen trong tổ chức đã

đƣợc tổng hợp ở trên và đƣợc nhận biết trong Báo cáo Đánh giá

năng lực. Những khuyến nghị này cũng giúp thực hiện ở cấp độ

năng lực được kỳ vọng (xem phần Phƣơng pháp luận) mà

Chƣơng trình chung về Bình đẳng giới xác định đối với Báo cáo

Đánh giá năng lực này.

Ƣu tiên phải đƣợc đặt ra đối với việc làm rõ các cơ cấu thể

chế cho việc thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật

qua tất cả 15 tổ chức đƣợc Báo cáo Đánh giá Năng lực đƣa vào.

Một xuất phát điểm là phân tích của Viện Nghiên cứu Gia đình

và Giới đƣợc chuẩn bị và triển khai tại Hội thảo về Báo cáo

Đánh giá năng lực tổ chức vào tháng 12 năm 2009, trong đó đã

mô tả những cơ quan/tổ chức chủ chốt với các vai trò và trách

nhiệm của họ liên quan đến hai luật. Công việc này nên đƣợc

thực hiện chặt chẽ cùng với việc xây dựng các chƣơng trình mục

tiêu quốc gia về thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình và trong sự phối hợp với các Vụ/Ban về

nguồn nhân lực và/hoặc Tổ chức và cán bộ ở mỗi một tổ chức

chủ chốt. Đây là những giải pháp trung hạn quan trọng để thực

107

hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo về hai luật cần đƣợc hỗ trợ

đồng thời của các giải pháp ngắn hạn.

Giải pháp ngắn hạn quan trọng đầu tiên đƣợc khuyến nghị là

tổ chức một diễn đàn ở cấp cao để thu hút các cán bộ lãnh đạo

chủ chốt ở các cấp độ khác nhau trong Chính phủ và của các

nhóm đối tác khác nhau với mục tiêu thiết lập bƣớc đầu hƣớng

tới nhóm điều phối cao cấp ở cấp Bộ đối với hai luật. Giải pháp

ngắn hạn quan trọng thứ hai đƣợc khuyến nghị là thực hiện một

phiên giới thiệu về phát triển chuyên môn cho tất cả các cơ quan

đối tác thực hiện quan trọng nhất trong mỗi một tổ chức nhƣ đã

thảo luận kỹ trong phần 6.4. Cần đƣợc thực hiện thí điểm tại 5 tổ

chức quan trọng trong 15 tỉnh/thành phố đã đƣợc lựa chọn trƣớc.

Tập huấn nên đƣợc cấu trúc theo ba cấp độ về kỹ năng và các đối

tác thực hiện cần đƣợc chia tƣơng ứng, ví dụ (1) những ngƣời

hoàn toàn chƣa biết về các khái niệm bình đẳng giới và bạo lực

gia đình, (2) những ngƣời cần có thêm hiểu biết và đƣợc bổ túc

thêm các kiến thức cơ bản; và (3) những ngƣời hoạt động nhƣ

những cán bộ đầu mối chiến lƣợc ở địa phƣơng, những chuyên gia

tiềm năng và những ngƣời đứng đầu. Điều này có thể đem lại lợi

ích nếu tập huấn này đƣợc sử dụng để đánh giá thêm về tập hợp

các kỹ năng đang thiếu và gắn với xây dựng chuyên môn để thúc

đẩy nhằm ghi nhận vai trò quan trọng mà họ đang đảm nhận.

Cuối cùng, điều đáng lƣu ý là một môi trƣờng để phản ánh

và học hỏi cần đƣợc tạo ra trong mỗi một tổ chức để phản ánh

những phát hiện và các khuyến nghị của Báo cáo Đánh giá Năng

lực này. Môi trƣờng này là một cơ hội đối với các cán bộ lãnh

đạo để thu hút và và khuyến khích hơn nữa cán bộ nhân viên của

mình hành động một cách chiến lƣợc trong thực hiện hai luật

trƣớc khi bắt đầu bất kỳ hành động cụ thể nào. Môi trƣờng này

nên có trƣớc bất kỳ một sự hoạch định chiến lƣợc hoặc hội nghị

quản lý thay đổi nào./.