hcma.vnhcma.vn/uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia...

171
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH NGUYN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHμ N¦íC ë VIÖT NAM LUN ÁN TIN SĨ LUT HC HÀ NI - 2015

Upload: others

Post on 26-Dec-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUANG ANH

HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHμ N¦íC ë VIÖT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

Page 2: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUANG ANH

HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHμ N¦íC ë VIÖT NAM

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số : 62 38 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. TRẦN NGỌC ĐƯỜNG

HÀ NỘI - 2015

Page 3: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức năng đã

công bố.

Tác giả luận án

Nguyễn Quang Anh

Page 4: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

MỤC LỤC

Trang MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 8 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 8 1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 19 1.3. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu 26

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 29 2.1. Khái niệm, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành

cơ chế, vai trò, mục đích, tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước 29

2.2. Nội dung và phương thức hoạt động của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước 45

2.3. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước và những giá trị tham khảo cho Việt Nam 55

Chương 3: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 69 3.1. Lịch sử hình thành và phát triển cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước ở Việt Nam 69 3.2. Thực trạng tổ chức, hoạt động của các thiết chế và các yếu tố bảo đảm của

cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế và nguyên nhân hạn chế 80

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 111 4.1. Quan điểm hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước ở Việt Nam 111 4.2. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước ở nước ta hiện nay 119

KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

Page 5: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

HĐND : Hội đồng nhân dân

MTTQ : Mặt trận Tổ quốc

Nxb : Nhà xuất bản

TTND : Thanh tra nhân dân

UBND : Ủy ban nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Page 6: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền lực nhà nước vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Mặt tích cực là quyền lực nhà nước có sức mạnh bảo đảm hoạt động hướng đích của xã hội, giải quyết các mâu thuẫn xã hội, phục vụ lợi ích của cộng đồng và của mỗi cá nhân. Mặt tiêu cực là quyền lực nhà nước có khuynh hướng lộng quyền và lạm quyền trong quá trình vận động, phát triển. Đó gọi là sự tha hóa của quyền lực nhà nước - một yếu tố cấu thành khách quan của hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước khi bị tha hóa thì đều dẫn đến những hậu quả tai hại mà người phải gánh chịu chính là nhân dân. Nhà nước là chủ thể nắm giữ

quyền lực to lớn nhất với phạm vi quản lý rộng khắp các lĩnh vực cùng các loại nguồn lực dồi dào của xã hội. Điều này tạo ra nguy cơ nhà nước có thể vượt quá các phạm vi, giới hạn mà nhân dân giao cho và sự lạm dụng quyền lực nằm ngay bên trong nhà nước chứ không phải từ bên ngoài tác động vào. Do tính chất đặc biệt của quyền lực nhà nước như vậy, nên ngay từ khi ra đời cho tới nay, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước luôn được đặt ra với những phương thức thực hiện khác nhau. Theo đó, ở đâu có quyền lực thì ở đó phải có kiểm soát quyền lực để quyền lực không trở thành tuyệt đối. Hoạt động thực thi quyền lực nhà nước gồm ba yếu tố cấu thành: trao quyền, sử dụng quyền và kiểm soát quyền.

Khi mặc nhiên thừa nhận quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân và của nhân dân, không để xảy ra việc dân trao quyền rồi mất quyền thì tất yếu nhân dân phải kiểm soát. Nhân loại, bằng kinh nghiệm lịch sử đầy máu và nước mắt đã chỉ ra rằng quyền lực nhà nước phải có giới hạn và phải bị giới hạn, phải được kiểm soát và hơn thế nữa phải được kiểm soát chặt chẽ, nhất là trong chế độ dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để đạt được điều đó, nhất thiết phải hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng. Ở nước ta, kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề mới nên chưa có

nhận thức đầy đủ, đúng đắn trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý

Page 7: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

2

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Vì thế, mặc dầu tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân được hiến pháp ghi nhận, nhưng sau khi nhân dân giao

quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho nhà nước, nhân

dân chưa trở thành chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã giao.

Tình trạng lộng quyền, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà

nước vẫn thường xẩy ra xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con

người, của công dân, nhưng nhân dân chưa có cơ chế pháp lý để kiểm soát

quyền lực nhà nước một cách hữu hiệu.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,

phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà

nước thuộc về nhân dân” [51, tr.85]; tổ chức và hoạt động của nó dựa trên một

trong những nguyên tắc nền tảng: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự

phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [51, tr.85]. Đây là bước phát triển quan

trọng về nhận thức của Đảng đối với việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong

xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Cương lĩnh khẳng định:

“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là

động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền

dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc

sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực" [51, tr.84-85] và “Nhân dân thực hiện

quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và

các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện" [51, tr.85]…

Thể chế hóa các tư tưởng nói trên, Hiến pháp năm 2013 quy định:

"Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân

chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ

quan khác của Nhà nước" [106, tr.10]; "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công

chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tuỵ phục vụ Nhân dân, liên hệ

chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân"

Page 8: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

3

[106, tr.11]; "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện dân chủ, tăng cường

đồng thuận xã hội, giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà

nước" [106, tr.11-12]; “Công đoàn… tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát

hoạt động của cơ quan nhà nước…" [106, tr.12-13] và các quy định về

quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (từ Điều 14 đến

Điều 49, Hiến pháp năm 2013). Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã xác lập cơ

sở hiến định để xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước.

Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Hoàn thiện

cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam" để

nghiên cứu, viết luận án tiến sĩ Luật học với mong muốn làm sáng tỏ các vấn

đề lý luận và thực tiễn về hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước, góp phần đưa Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống, nhằm xây

dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự

của dân, do dân và vì dân, là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích của Luận án là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn

thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Trên cơ sở đó đề

xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

Để thực hiện mục đích trên, Luận án có các nhiệm vụ sau:

- Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài: Hoàn thiện cơ chế

pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở trong và ngoài nước, từ đó

rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận việc hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu

thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế, vai trò, mục đích, tiêu

chí hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước; nội

dung và phương thức vận hành của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền

Page 9: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

4

lực nhà nước; cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số

nước và những giá trị tham khảo cho Việt Nam.

- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của cơ chế pháp lý nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam thông qua việc phân tích các thể chế

từ năm 1945 đến nay; đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của các thiết chế

và các yếu tố bảo đảm của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước; hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.

- Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền

lực nhà nước này là Nhân dân - chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước. Cụ

thể là Nhân dân với tư cách là một chủ thể thống nhất, các thiết chế đại diện

nhân dân (tổ chức phi chính phủ), các phương tiện truyền thông đại chúng,

các thiết chế dân chủ ở cơ sở và cá nhân công dân thực hiện kiểm soát quyền

lực nhà nước.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Kiểm soát quyền lực nhà nước vừa được thực hiện bởi cơ chế pháp lý do

nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước tiến hành, vừa được thực

hiện bằng cơ chế pháp lý do các chủ thể là các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau, vừa

được thực hiện bằng cơ chế pháp lý độc lập do một chủ thể độc lập chuyên

trách được hiến pháp quy định như: Toà án hiến pháp, Hội đồng bảo hiến…

Luận án này chỉ nghiên cứu về hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân với

tư cách là người chủ quyền lực nhà nước tiến hành kiểm soát. Tuy nhiên, Luận

án có đề cập đến mối quan hệ giữa các chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước

trong tổng thể cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

Page 10: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

5

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

- Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan

điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và dân chủ xã hội chủ nghĩa, vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

- Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được các mục đích, nhiệm vụ nghiên

cứu nói trên, Luận án sử dụng: phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin để nghiên cứu các vấn đề

liên quan đến nội dung đề tài. Về phương pháp cụ thể, Luận án sử dụng các

phương pháp sau đây:

+ Phương pháp phân tích tài liệu. Phương pháp này được áp dụng để

phân tích các tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp. Tài liệu sơ cấp bao gồm: các

văn bản pháp luật và văn kiện của Đảng có liên quan, các công trình khoa học,

số liệu thống kê chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tài liệu thứ

cấp bao gồm: các bài báo, tạp chí, kết luận, phân tích đã được các tác giả khác

thực hiện.

+ Phương pháp chuyên gia được sử dụng để thu thập thông tin và ý

kiến của những chuyên gia, các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu về luật

hiến pháp, lý luận nhà nước và pháp luật về các vấn đề lý luận và nhận xét,

đánh giá thực trạng vận hành của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước.

+ Phương pháp thống kê để thống kê số liệu, phân tích, đánh giá thực

trạng cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

+ Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các số liệu, tri thức

có được từ hoạt động phân tích tài liệu, phỏng vấn, hỏi chuyên gia. Việc tổng

hợp nhằm mục đích đưa ra những luận giải, nhận xét và đề xuất của tác giả

luận án ở các chương về thực trạng và quan điểm, giải pháp.

Page 11: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

6

+ Phương pháp luật học so sánh được sử dụng để nghiên cứu mô hình,

kinh nghiệm của một số nước, từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho

Việt Nam.

+ Phương pháp quy nạp và diễn dịch để khái quát hóa hoặc cụ thể hóa

đối tượng, nội dung, vấn đề nghiên cứu, đảm bảo chính xác, khách quan và có

lý trong xây dựng các vấn đề có tính lý luận.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Luận án “Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực

nhà nước ở Việt Nam"có một số đóng góp mới sau đây:

Thứ nhất, Luận án đã bổ sung, xây dựng được cơ sở lý luận của việc

hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam một cách khoa học, hệ

thống và toàn diện. Theo đó, Luận án đã làm rõ được khái niệm, đặc điểm, các

yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế, vai trò, mục

đích, tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước; nội dung và phương thức vận hành của cơ chế; khảo sát cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước và rút ra được những

giá trị tham khảo cho Việt Nam.

Thứ hai, Luận án đã khái quát, phân tích lịch sử hình thành và phát triển

cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chủ yếu thông qua các

thể chế từ năm 1945 đến nay; đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của các

thiết chế và các yếu tố bảo đảm của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước; chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân hạn chế của cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Đây là những cơ

sở thực tiễn quan trọng, có tính khoa học làm căn cứ cho việc hoàn thiện cơ chế

pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

Thứ ba, từ kết quả nghiên cứu nêu trên, Luận án đề xuất các quan điểm

và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

ở Việt Nam một cách khoa học, khả thi.

Page 12: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

7

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án

- Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần xây dựng cơ sở lý luận

khoa học cho việc hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

- Luận án góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập của cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay bằng việc hoàn

thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước theo tinh thần và

nội dung mới của Hiến pháp năm 2013.

- Luận án là nguồn tài liệu tham khảo tin cậy và cần thiết phục vụ hoạt

động nghiên cứu khoa học và giảng dạy trong các cơ sở giáo dục và đào tạo.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác

giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án

gồm 4 chương, 10 tiết.

Page 13: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

8

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước Quyền lực nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước được đề

cập nhiều trong các công trình và diễn đàn khoa học, trên các sách, báo, tạp chí trong những năm gần đây. Ngoài tính tất yếu, khách quan và cấp thiết, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đang là đề tài được luận bàn, nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau cả về luật học, chính trị học, hành chính học, triết học, cả ở phương diện quốc gia và quốc tế. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau đây:

- Cuốn sách Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới [59] của tác giả Trần Ngọc Đường và cuốn sách: Một số

vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [61], do Trần Ngọc Đường chủ biên đã giải quyết một cách tương đối có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn mối liên hệ giữa nhân dân với nhà nước - chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; giữa Đảng với Nhà nước - chủ thể lãnh đạo nhà nước và giữa các cơ

quan nhà nước với nhau; đi sâu nghiên cứu về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đề tài đã tiếp cận khoa học vấn đề nguồn gốc, đặc điểm, bản chất, xu hướng của quyền lực nhà nước; chỉ ra được những điểm hạn chế của tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình Xô viết và sự tác động, ảnh hưởng đối với

Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện và kiến nghị liên quan trực tiếp đến phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong mối liên hệ với các chủ thể cấu thành hệ thống chính trị ở Việt Nam. Tuy nhiên, công trình chưa đi sâu nghiên cứu cơ chế, các phương thức,

hình thức nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

Page 14: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

9

- Cuốn sách: Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi

Hiến pháp năm 1992 [63] của tác giả Trần Ngọc Đường. Đây là công trình khoa

học được nghiên cứu có hệ thống nhất về lý luận tổ chức thực thi quyền lực nhà

nước mà trung tâm là phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.

Trên cơ sở lý luận khoa học và liên hệ thực tiễn sinh động, thuyết phục tác giả đã

luận chứng, đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp

và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Đây là công trình quan trọng, hữu

ích giúp nghiên cứu sinh thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, cuốn sách này

chủ yếu chỉ đề cập đến cơ chế kiểm soát bên trong giữa các nhánh quyền lực nhà

nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không đi sâu cơ chế nhân dân kiểm

soát quyền lực nhà nước.

- Cuốn sách: Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà

nước ở nước ta hiện nay [133] do Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh đồng chủ biên.

Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của nhiều nhà khoa học về giám sát việc thực

hiện quyền lực nhà nước. Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, các tác giả khẳng

định giám sát quyền lực nhà nước là điều tất yếu, ở đâu có quyền lực thì ở đó

phải có giám sát để quyền lực được bảo đảm vận hành đúng hướng, tích cực. Từ

phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập trong hoạt động thực tiễn của cơ chế

giám sát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, các tác giả chỉ rõ sự khác biệt giữa

giám sát bên trong hệ thống quyền lực nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước

và giám sát bên ngoài, không mang tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, công

trình chưa nghiên cứu sâu về đặc điểm, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương

thức, hậu quả pháp lý của cơ chế nhân dân giám sát quyền lực nhà nước cũng

như cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ nhân dân.

- Cuốn sách: Quyền lực nhà nước và quyền công dân [78] của tác giả

Đinh Văn Mậu. Tác giả thống nhất với các quan điểm: Quyền lực nhà nước thực

chất là quyền lực của nhân dân, nhưng cho rằng nhân dân không thể thực hiện

được hết quyền lực của mình một cách đơn lẻ mà phải ủy quyền cho nhà nước,

nhà nước thực hiện quyền đó thông qua cơ quan nhà nước. Nhà nước do nhân

Page 15: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

10

dân thiết lập và trao quyền lực, nghĩa là quyền lực nhân dân trở thành quyền lực

nhà nước. Quyền lực đó thể hiện ý chí của nhân dân và được bảo đảm thực hiện

bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Nhà nước khi sử dụng quyền lực sẽ

nảy sinh xu hướng lộng quyền và lạm quyền. Vì vậy, phải kiểm soát đối với

quyền lực nhà nước để quyền tự do và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công

dân không bị xâm phạm. Tuy nhiên, công trình chưa nghiên cứu sâu vấn đề cơ

chế pháp lý nói chung, cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt

Nam nói riêng.

Thời gian gần đây nhiều ý kiến của các nhà khoa học đặt ra vấn đề giới

hạn quyền lực nhà nước, hạn chế quyền lực nhà nước, chế ngự quyền lực nhà

nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, đối trọng, kiềm chế quyền lực nhà nước…

trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bởi lẽ, các

tác giả cho rằng người có khả năng lạm quyền, cửa quyền, tham nhũng không

phải nhân dân, mà chính là ở các cơ quan sử dụng quyền lực công. Do đó, quyền

lực công phải bị giới hạn, kiểm soát và giám sát. Trong đó tất yếu phải có sự

kiểm soát của nhân dân. Tiêu biểu có các công trình sau:

- Cuốn Sự hạn chế quyền lực Nhà nước [41] của tác giả Nguyễn Đăng

Dung. Đây là cuốn sách viết dưới phương diện khoa học luật hiến pháp, tập

trung lý giải về sự cần thiết phải giới hạn quyền lực nhà nước và nội dung của

việc hạn chế quyền lực nhà nước. Coi sự hạn chế quyền lực nhà nước như là

biểu hiện khách quan của việc tổ chức nhà nước pháp quyền, dân chủ. Trung tâm

của sự hạn chế quyền lực nhà nước là tổ chức quyền lực nhà nước phải được

phân công, phân nhiệm rõ ràng theo chiều dọc và chiều ngang và phải có sự

kiểm tra, giám sát. Tác giả viện dẫn nhiều mô hình tổ chức quyền lực nhà nước

và các phương thức hạn chế quyền lực nhà nước trên thế giới để đề xuất những

yêu cầu hạn chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam như: Tổ chức lại cấu trúc

quyền lực nhà nước; hoạt động tự do báo chí; bằng sự công khai, minh bạch của

chính quyền; bằng bỏ phiếu trưng cầu ý dân; bằng tòa án độc lập… Nhưng tác

Page 16: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

11

giả chưa đề cập cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước và trách nhiệm

của Nhà nước trong tạo lập cơ chế đó.

- Sách chuyên khảo Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay [153] của tác giả Trịnh Thị Xuyến. Dưới góc

độ chính trị học, tác giả đã làm sáng tỏ vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở

Việt Nam trong điều kiện hiện nay trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, cuốn

sách tập trung nghiên cứu, phân tích các vấn đề cơ bản như: cơ sở lý luận về

kiểm soát quyền lực nhà nước; thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số

nước tiêu biểu như Mỹ, Anh, Xingapo, Malaixia, Nhật Bản; thực tiễn kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam, những mâu thuẫn, bất cập trong kiểm soát

quyền lực nhà nước mà Việt Nam đang và sẽ phải giải quyết trong tiến trình phát

triển; phương hướng và những giải pháp chủ yếu cho kiểm soát quyền lực nhà

nước ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chỉ đề cập đến “một số vấn đề lý luận và

thực tiễn" của nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước chứ chưa đề cập đến cơ

chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

- Sách chuyên khảo Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước [121] của

tác giả Thái Vĩnh Thắng. Tác giả viện dẫn quan điểm của Jean Jacquens

Rousseau về kiểm soát quyền lực nhà nước cách đây gần 250 năm và khẳng

định đến nay vẫn còn nguyên giá trị; khoa học về quản lý nhà nước ngày nay

đã tiến bộ vượt bậc nhưng công nghệ tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước

vẫn còn nhiều điều bất cập. Do đó, tác giả đã nghiên cứu, phân tích, lý giải

cách thức tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước trong các kiểu, mô hình

nhà nước phong kiến Việt Nam, các nhà nước tư sản, các nhà nước xã hội chủ

nghĩa ở Liên Xô, Trung và Đông Âu (trước 1991); nước Nga và các nước

Trung, Đông Âu ngày nay; tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt

Nam kể từ hiến pháp năm 1946 đến nay. Đây là công trình khoa học nghiêm

túc, có chất lượng và ý nghĩa trong việc rút ra các nguyên lý, kinh nghiệm về tổ

chức và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ máy

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam.

Page 17: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

12

Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến vấn đề cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

- Luận án tiến sĩ Luật học của Trương Thị Hồng Hà về Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [65]. Trên cơ sở tiếp cận, phân tích về cơ chế, làm sáng tỏ khái niệm cơ chế pháp lý, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố tạo nên hệ thống cơ chế pháp lý, Luận án là một công trình nghiên cứu công phu có tính khoa học cao về hoàn thiện cơ chế pháp lý. Đây là công trình có ý nghĩa tham khảo về mặt lý luận cho việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bằng thực hiện dân chủ đại diện ở Việt Nam.

- Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Chí Dũng, Cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam [44]. Đây là công trình mà tác giả chủ yếu đi sâu phân tích về cơ chế pháp lý giám sát đối với các hoạt động tư pháp của các chủ thể là các cơ quan nhà nước, bên trong bộ máy nhà nước, còn giám sát do các chủ thể mang tính nhân dân, không phải là cơ quan nhà nước, không mang tính quyền lực nhà nước thì tác giả chưa nghiên cứu sâu.

Các công trình nghiên cứu trên, cơ bản đều cho rằng: quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân, thuộc về nhân dân, thống nhất ở nhân dân. Để quyền lực đó không bị tha hóa và vận hành trong giới hạn, khuôn khổ nhân dân giao cho thì quyền lực nhà nước phải bị kiểm soát. Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được coi là vấn đề mới, rộng, phức tạp nhưng là tất yếu, khách quan trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng ở Việt Nam còn chưa hoàn thiện về mặt nhận thức, lý luận cũng như về thể chế và tổ chức thực hiện. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân còn hình thức, thiếu tính khả thi, đặc biệt là các điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân còn bất cập, khả năng ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước còn yếu. Điều đó đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.

Page 18: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

13

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Kiểm soát quyền lực nhà nước vừa được thực hiện bởi cơ chế bên trong bộ máy nhà nước và cơ chế bên ngoài bộ máy nhà nước. Cơ chế bên trong theo chiều ngang là hoạt động kiểm soát quyền lực do các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; chiều dọc là giữa trung ương với địa phương trong một bộ máy nhà nước thống nhất. Cơ chế bên ngoài, là cơ chế do các chủ thể là những tổ chức đại diện nhân dân, không phải là cơ quan nhà nước, không mang tính quyền lực nhà nước và cá nhân công dân thực hiện bằng cơ chế dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp đối với quyền lực nhà nước. Mỗi cơ chế đều có mặt ưu điểm và hạn chế riêng, nhưng chúng có mối liên hệ tác động với nhau hướng đích trong một thể thống nhất tạo ra hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Sau đây là những công trình nghiên cứu liên quan đến cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước:

- Cuốn sách: Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với nhà nước [60] của tác giả Trần Ngọc Đường và Chu Văn Thành. Các tác giả khẳng định quan hệ bình đẳng giữa nhà nước và công dân về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật; nhân dân có vai trò tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước. Trên cơ sở viện dẫn các quan điểm của Đảng trong hệ thống văn kiện, cương lĩnh và hiến pháp, pháp luật quy định về bản chất nhà nước, địa vị làm chủ của nhân dân, các tác giả chỉ rõ nhân dân đương nhiên phải có đầy đủ quyền của người làm chủ, đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ của mình, nhưng để đảm bảo quyền, nghĩa vụ đó thực sự hữu hiệu thì phải được pháp luật quy định chi tiết, cụ thể. Pháp luật chính là những bảo đảm để nhân dân thực hiện quyền kiểm soát của mình đối với quyền lực nhà nước.

- Sách chuyên khảo Vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay [86] của tác giả Nguyễn Thị Hiền Oanh. Dưới góc độ chính trị học, tác giả đã đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập trung nghiên cứu về

Page 19: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

14

mối quan hệ giữa MTTQ và quyền làm chủ của nhân dân, trước hết chủ yếu là quyền làm chủ về chính trị. Trên cơ sở thực tiễn, tác giả tìm hiểu và đánh giá thực trạng của MTTQ trong việc đại diện thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thời gian qua còn có nhiều hạn chế, bởi vì những quy định của pháp luật chủ yếu còn chung chung, chưa cụ thể về trách nhiệm, hậu quả pháp lý cũng như điều kiện để bảo đảm quyền giám sát của MTTQ đối với quyền lực nhà nước, do đó chất lượng hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa đáp ứng đòi hỏi của người dân. Vì vậy, cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà nước nhằm tạo điều kiện để nhân dân tham gia đóng góp, xây dựng cũng như giám sát, kiểm tra đối với hoạt động của nhà nước và cán bộ công chức, viên chức, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân đối với nhà nước là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện.

- Công trình Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [124] do tác giả Lê Minh Thông chủ biên. Công trình là kết quả nghiên cứu của đề tài KX 10-01 thuộc chương trình khoa học cấp nhà nước về Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống

chính trị ở nước ta trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế. Khẳng định việc đổi mới hệ thống chính trị thực chất là đổi mới quan hệ giữa đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là quan hệ với nhân dân, với xã hội. Nhà nước phải lấy dân làm gốc, mọi hoạt động đều phải hướng vào việc phụng sự nhân dân, phục tùng ý chí, nguyện vọng của nhân dân và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Công trình nghiên cứu đã chỉ ra sự bất cập giữa các mối quan hệ trong hệ thống chính trị hiện nay và đề cập biện pháp khắc phục trong thời gian tới, trong đó có đặt vấn đề đổi mới tổ chức hoạt động của MTTQ, các tổ chức chính trị xã hội để thực hiện có hiệu quả hơn chức năng giám sát và phản biện đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.

- Đề tài khoa học cấp cơ sở: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hệ thống chính trị [91] do Lê Minh Quân làm chủ nhiệm. Công trình

đã nghiên cứu, luận giải những vấn đề cơ bản của quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với với quyền lực đảng chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam từ đó đưa ra các quan điểm hoàn thiện nhà nước

Page 20: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

15

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, công trình chưa nghiên cứu về cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

- Cuốn sách Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước [42] của tác giả

Nguyễn Đăng Dung. Theo tác giả thì hiện nay, muốn tồn tại, mọi nhà nước đều

phải là nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân để phân tích,

luận giải tính chính đáng và chịu trách nhiệm của Nhà nước. Từ lý thuyết chủ

quyền nhân dân đặt ra vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân phải là nhà nước

có trách nhiệm. Có trách nhiệm chính là nhà nước phải chịu sự kiểm soát của

nhân dân để nhà nước không trở nên vô trách nhiệm, độc tài và chuyên chế. Có

thể nói đây là một công trình nghiên cứu có mối liên hệ chặt chẽ với các công

trình trước đó của tác giả. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến nội dung hoàn

thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

- Sách chuyên khảo Cơ sở lý luận và các nguyên tắc cơ bản để hình thành

và quản trị các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam [38] của tác giả Nguyễn Mạnh

Cường. Tác giả đã tập trung chủ yếu vào việc đưa ra các vấn đề lý luận và thực

tiễn về tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, trong đó có đề cập vấn đề giám sát của

các tổ chức xã hội đối với việc thực hiện chính sách của nhà nước. Tuy nhiên, đó

chỉ là sự tham gia của một số chủ thể mang tính xã hội trong thực hiện kiểm soát

quyền lực nhà nước.

- Sách chuyên khảo Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [135] do

Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị đồng chủ biên. Trên cơ sở nghiên cứu phân tích về

đặc trưng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam các tác giả

cho rằng cần thiết xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh mà ở đó phải bảo

đảm quyền giám sát của nhân dân đối với việc thực thi quyền lực nhà nước, xây

dựng cơ chế dân chủ và mở rộng xã hội dân sự ở Việt Nam. Tuy nhiên, là công

trình do nhiều tác giả nghiên cứu với vấn đề rộng, phức tạp nên chưa đề cập sâu

đến cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Page 21: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

16

- Sách chuyên khảo Vai trò của các tổ chức xã hội đối với phát triển và quản lý xã hội [87] do các tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên. Công trình đã phân tích sâu về vai trò của các tổ chức xã hội đối với phát triển và quản lý xã hội ở Việt Nam. Công trình nêu lên vấn đề là làm thế nào để các tổ chức xã hội tham gia vào hoạt động quản lý, phát triển xã hội có hiệu quả thông qua hoạt động khác và hoạt động giám sát, phản biện đối với các chính sách của nhà nước. Tuy nhiên, các tác giả chưa đề cập sâu đến vai trò của các tổ chức xã hội với tư cách là những thiết chế của nhân dân trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Sách chuyên khảo Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy đảng và nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [136] do Đào Trí Úc chủ biên. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu của nhiều tác giả về cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước. Các tác giả tập trung phân tích khoa học, có hệ thống về bản chất nền dân chủ XHCN và yêu cầu xây dựng cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước trong điều kiện một Đảng cầm quyền. Xác định vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ các chủ thể là MTTQ, các tổ chức thành viên trong cơ chế nhân dân giám sát hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước cũng như thực trạng của cơ chế này ở nước ta. Công trình đã nghiên cứu kinh nghiệm một số nước trên thế giới về cơ chế và hình thức giám sát của nhân dân trong tổ chức thực hiện quyền lực quyền lực nhà nước, kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam và đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước. Giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước là một nội dung quan trọng trong cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu trên có giá trị tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài: Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

- Đề tài: Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở nước ta hiện nay [150] của Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Đề tài Hệ thống chính trị ở nông thôn nước ta hiện nay [28] do Hoàng

Page 22: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

17

Chí Bảo làm chủ nhiệm. Các tác giả phân tích sâu, khoa học, cụ thể về bản chất nền dân chủ XHCN mà nội dung căn bản là xây dựng cơ chế nhân dân làm chủ bằng việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện quyền kiểm soát, giám sát thông qua các tổ chức đại diện của nhân dân ở cơ sở đối với các cơ quan nhà nước và các chính sách của Nhà nước.

Những sách chuyên khảo và công trình nói trên cho thấy, các tác giả đều nghiên cứu, đề cập đến vấn đề kiểm soát, giám sát đối với quyền lực nhà nước. Trong từng góc độ, các vấn đề đều nhận xét và khẳng định phải cần có sự kiểm soát, giám sát hữu hiệu đối với quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập, nghiên cứu có hệ thống, toàn diện vấn đề hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

- Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Mạnh Bình về Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay [27]. Đây là công trình tác giả đi sâu vào phân tích, luận chứng cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Tuy nhiên, giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước trong luận án này chưa đi sâu làm rõ cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cả về lý luận lẫn đánh giá thực trạng vận hành.

- Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Huy Phượng về Giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [88]. Đây là công trình nghiên cứu có chủ thể là Xã hội thực hiện chức năng giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp ở Việt Nam. Nội dung của Luận án hệ thống hoá cơ sở lý luận về giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp; luận giải yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đòi hỏi phải tăng cường giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, Luận án chỉ nghiên cứu hình thức giám sát xã hội đối với các cơ quan tư pháp mà chưa nghiên cứu cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước với đầy đủ các phương thức kiểm soát đối với cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Page 23: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

18

- Trong những năm gần đây, nhất là trong dịp góp ý vào dự thảo xây dựng

Hiến pháp năm 2013 có nhiều bài viết liên quan đến cơ chế kiểm soát quyền lực

nhà nước, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước của các tác giả

như: GS.TS.Trần Ngọc Đường, GS.TS.Phan Trung Lý, GS.TS.Hoàng Thị Kim

Quế, GS.TSKH. Đào Trí Úc, PGS.TS. Hoàng Thế Liên, PGS.TS.Vũ Hồng Anh,

PGS.TS.Võ Khánh Vinh, PGS.TS.Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS.Chu Hồng

Thanh, GS.TSKH.Lê Văn Cảm, PGS.TS.Nguyễn Minh Đoan, PGS.TS.Nguyễn

Tất Viễn, PGS.TS. Đinh Xuân Thảo, PGS.TS. Bùi Xuân Đức, TS.Vũ Anh Tuấn,

TS. Lương Minh Tuân, TS.Trần Thị Sáu, TS. Hoàng Thị Ngân, TS.Nguyễn Sĩ

Dũng và nhiều tác giả khác như: Huỳnh Đảm, Lê Đức Tiết, Trần Thanh Bình,

Nguyễn Mạnh Bình, Đỗ Huy Thường, Nguyễn Thị Doan, Bùi Thành Phần, Lê

Trọng Hanh là những chuyên gia cao cấp, nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà khoa

học, nhà giáo, nhà chính trị công tác ở các cơ quan như: Văn phòng Quốc hội,

Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, Viện nghiên cứu Lập pháp, các học viện, các trường đại học, các viện

nghiên cứu, các báo và tạp chí trung ương và địa phương có uy tín.

Nội dung các bài viết được công bố trong các tạp chí khoa học đã nghiên

cứu, luận bàn về vấn đề quyền lực nhà nước từ các phương diện khác nhau với

cách tiếp cận mới, đậm nét thực tiễn và xu thế phát triển xã hội, đề cập vấn đề

dân chủ hóa xã hội nằm trong mối quan hệ, tác động của dân chủ hóa quyền lực

nhà nước. Với cách tiếp cận nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân

chủ trực tiếp và dân chủ đại diện mà trước đó chỉ thực hiện quyền lực nhà nước

bằng dân chủ đại diện, một số công trình nghiên cứu về dân chủ, coi dân chủ đời

sống chính trị xã hội, dân chủ hóa tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

như là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó dân chủ vừa là mục

tiêu vừa là động lực của phát triển xã hội. Một số bài viết đề cập đến vấn đề kiểm

soát quyền lực nhà nước, những yêu cầu của việc kiểm soát quyền lực nhà nước,

cơ chế kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng

nhà nước pháp quyền trong điều kiện ở Việt Nam…

Page 24: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

19

Tóm lại, các công trình, luận án, bài viết nêu trên, dù ở phương diện chính trị học, triết học, xã hội học hay luật học… đều có điểm chung thống nhất là: muốn phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển của đất nước và trở thành hiện thực xã hội thì phải có một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hữu hiệu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập toàn diện, có hệ thống vấn đề hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đã có từ rất sớm trong lịch sử hình

thành và phát triển của lý thuyết phân quyền. Thời kỳ cổ đại, Aristotle đã đề cập

phương án phải phân chia quyền lực để kiểm soát lẫn nhau, trong tác phẩm Nền

chính trị (The politics). Thời kỳ cận đại, trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về

chính quyền (Two treasures of government), J. Locke cho rằng trong thể chế

chính trị tự do, quyền lực tối cao phải được phân cho các tổ chức, cá nhân nắm

giữ, không được tập trung trong tay một người hay một tổ chức nào.

Tuy nhiên, chỉ đến Motesquieu thì lý thuyết phân quyền mới đạt đến sự

hoàn thiện. Trong tác phẩm Tinh thần pháp luật (De L’Esprit des lois), ông cho

rằng cách tốt nhất để chống lạm quyền không phải là tập trung quyền lực nhà

nước mà phải phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền: Lập pháp, hành

pháp và tư pháp. Phân quyền là cơ sở để các nhánh quyền lực nhà nước tương

tác, phụ thuộc, kiềm chế, đối trọng, kiểm soát lẫn nhau để nhà nước không dẫn

đến chuyên quyền, độc đoán… Hiện nay, hầu hết các nước dân chủ tư sản đều

xây dựng mô hình nhà nước theo nguyên tắc phân quyền và cơ chế kiểm soát

được xác định ngay trong cơ cấu tổ chức nhà nước. Cơ chế này do chính các

nhánh quyền lực kiểm soát lẫn nhau trên cơ sở quy định của hiến pháp, pháp

luật, không để nhánh quyền nào được độc chiếm, chi phối quyền lực của các

nhánh còn lại. Ngoài ra, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn được xác định

từ các thể chế, thiết chế bên ngoài nhà nước rất đa dạng, phong phú. Đó là những

Page 25: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

20

hạt nhân hợp lý đã được thực hiện phổ quát trên thế giới có hiệu quả, cần được

nghiên cứu nghiêm túc và vận dụng có chọn lọc ở Việt Nam.

Bên cạnh lý thuyết phân quyền, nhiều nhà tư tưởng cho rằng quyền lực

nhà nước là tập trung, thống nhất được tạo lập từ sự ủy quyền của nhân dân, do

đó nhân dân phải làm chủ quyền lực nhà nước thông qua thực hiện dân chủ trực

tiếp và dân chủ đại diện để kiểm soát quyền lực nhà nước. Điểm thống nhất

chung của các nhà tư tưởng theo quan điểm này là muốn có dân chủ, tự do thực

sự thì mọi quyền lực nhà nước phải do nhân dân kiểm soát. Để thực hiện được

điều đó cần thông qua hai hình thức: Một là, bầu cử trực tiếp, theo đa số chính

phủ, cá nhân người cầm quyền theo nhiệm kỳ. Hai là, sử dụng công luận với vai

trò là phương tiện giám sát, phản biện của nhân dân đối với quyền lực nhà nước.

Cả hai nội dung trên đều cần phải có tự do, dân chủ thực chất trên cơ sở trình độ

dân trí, cơ chế dân chủ và pháp luật nghiêm minh.

- Cuốn Bàn về tinh thần pháp luật [84] của Montesquieu đưa ra thuyết

phân chia quyền lực để kiểm soát quyền lực... Khi đưa ra thuyết phân quyền,

Montesquieu muốn giải quyết sự xung đột giữa các giai cấp trong xã hội (vua

chúa, quý tộc và thường dân) bằng cách san sẻ quyền lực chính trị cho mỗi giai

cấp để các giai cấp tự kiểm soát và kiềm chế lẫn nhau. Đề xướng mô hình ba

nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phải được phân

chia rành mạch, hoạt động theo nguyên tắc kiềm chế, đối trọng với nhau “dùng

quyền lực kiểm soát quyền lực" để không dẫn đến chuyên quyền, độc đoán của

bất kỳ nhánh quyền lực nào. Tư tưởng đó có thể được xem là một trong các

chính thuyết quan trọng bậc nhất của nhân loại và là một trong các nguyên tắc

căn bản trong hiến pháp của nhiều quốc gia cho đến ngày nay. Tuy nhiên, tác

giả mới bàn chủ yếu về cơ chế kiểm soát quyền lực ngay bên trong bộ máy nhà

nước mà thôi.

- Cuốn Bàn về khế ước xã hội [108] của Jean jacques Rousseau: Ông cho rằng bản chất quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, chủ quyền nhân dân có tính chất tối cao, không thể từ bỏ, không thể phân chia. Nhà nước được thiết lập

Page 26: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

21

thông qua một khế ước (Hiến pháp) do tất cả người dân đồng thuận, trao quyền lực chính trị cho chính quyền - chính quyền là người đại diện cho ý chí của nhân dân (dân chúng) để quản lý, điều hành đất nước theo nguyện vọng, ý chí của nhân dân. Chính quyền có thể bị thu hồi quyền lực nếu không làm đúng chức năng, nhiệm vụ được nhân dân giao phó: “Những người được ủy thác nắm quyền hành không phải là ông chủ của nhân dân mà chỉ là những công chức. Dân chúng có thể cất chức hay bãi miễn họ" [108, tr.40]. Và mặc dù có sự ủy quyền nhưng quyền lực nhà nước vẫn thuộc về nhân dân. Có như vậy, chính quyền đó mới nguyên nghĩa là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Ông cũng cho rằng việc chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ là bề ngoài, là biện pháp để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước. Và quyền lực tối cao - tức quyền lực của nhân dân thì bất khả phân. Quyền lực nhà nước cần phải bị kiểm soát cả từ bên trong lẫn bên ngoài.

- Cuốn Bàn về tự do [83] của John Stuart Mill. Đây là tác phẩm đề cập đến vấn đề tự do cá nhân trong mối quan hệ cộng đồng xã hội, “tự do của mỗi người tìm thấy giới hạn của mình trong tự do của người khác” [83, tr.9]. Ông cho rằng: “Điều mong muốn bây giờ của người cầm quyền phải được đồng nhất với nhân dân, rằng quyền lợi và ý chí của họ phải là ý chí, quyền lợi của quốc gia" [83, tr.10] và “Đa số dân chúng vẫn chưa học được chuyện cảm nhận quyền lực của Chính phủ là quyền lực của mình, hay ý kiến của chính phủ là ý kiến của mình…" [83, tr.32]. Vì vậy, con người phải được “tự do hình thành ý kiến và tự do bày tỏ ý kiến, không chút giấu giếm" [83, tr.11] và quyền tự do không chỉ vì lợi ích của cá nhân con người mà còn vì lợi ích lâu dài, bền vững cho sự phát triển của xã hội. "Chính phủ được bầu ra và có trách nhiệm đã trở thành đối tượng quan sát và phê phán như thường" [83, tr.22] và "Nhân dân thực thi quyền lực không phải lúc nào cũng là cái nhân dân chịu thực thi quyền lực" [83, tr.22]. Như vậy, phải chăng kiểm soát quyền lực nhà nước bắt đầu từ sự tự do của mỗi cá nhân con người? Và nhà nước có trách nhiệm như thế nào để nhân dân được tự do trong một nhà nước của mình. Đó là vấn đề mà tác giả chưa giải quyết được.

Page 27: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

22

- Trong cuốn The Public and Its Problems (Nền cộng hòa và những vấn đề) [170] và Theory of Valuation (Lý thuyết giá trị) [171] của John Dewey. Ông đã nêu ra vấn đề nhà nước được thiết lập là để phục vụ nhân dân. Điều này có nhiều điểm tương tự như luận giải về nguồn gốc phát sinh nhà nước của các học giả trước đó. Tác giả chỉ ra tính tư hữu, tư lợi của các cá nhân trong giai cấp cầm quyền khiến quyền lực nhà nước bị lạm dụng, biến dạng, tha hóa nếu không có sự giám sát, kiểm soát hay trói buộc cần thiết của nhân dân (cử tri). Do đó, việc nắm quyền (các chức vụ trong bộ máy nhà nước) phải có kỳ hạn, có cạnh tranh và mỗi quy trình thực thi quyền lực đều phải có sự kiểm soát chặt chẽ từ nhân dân.

- Cuốn Nghiên cứu quá trình ra quyết định trong tổ chức hành chính (A

Study of Decision- Making Process in Administration Organization) [163] của

tác giả H.A.Simon, đã nhấn mạnh đến tính phân quyền cho các cơ quan hoạch

định chính sách, phân tích các giai đoạn hình thành và quyết định chính sách,

phân biệt quyết định chính sách với quyết định hành chính...đặc biệt tác giả nêu

lên vấn đề kiểm soát, giám sát các nội dung đó phải khách quan, chặt chẽ để

ngăn ngừa việc lạm dụng, lạm quyền và bị lợi ích nhóm chi phối chính sách

chung, lợi ích chung... Tuy nhiên, vấn đề phương thức, điều kiện để nhân dân

kiểm soát, giám sát ra sao thì chưa được đề cập cụ thể.

- H.D. Laswell với cuốn Khoa học và chính sách (The Policy Sicence)

[165] và F. Morstein Marx với cuốn Chức năng xã hội của chính sách công (The

Social Function of Public Adminisstration) [162]. Các cuốn sách trên có điểm

chung là nêu vấn đề các chính sách, các quyết định hành chính khi ban hành phải

được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, được phản biện rộng rãi và phải chịu

sự giám sát của dân chúng. Đây là một biểu hiện dân chủ đồng thời cũng là cơ

chế để kiểm soát, phòng ngừa cơ quan nhà nước có thể ban hành các chính sách,

quyết định phương hại đến dân chúng…

- Roderick Bell, David V. Edwards và R. Harison Wagner với cuốn sách

Political power-reader in theory and research (Quyền lực chính trị - Dành cho

nghiên cứu lý thuyết) [181]. Đây là cuốn sách cung cấp những kiến thức quan

Page 28: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

23

trọng, cơ bản về quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và được coi là sách

giáo khoa về lĩnh vực này, đặc biệt là phương pháp tiếp cận quyền lực. Tuy

nhiên, công trình không nghiên cứu chuyên biệt về cơ chế pháp lý nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Cuốn Nguồn gốc quyền lực xã hội (The sources of social power) [174] của Mann M và cuốn Quyền lực và sự duy trì của bất bình đẳng xã hội (Power and the maintennace) [187] của Sargent M. Các công trình nêu trên mặc dù có những luận điểm và mục đích nghiên cứu khác nhau, nhưng có điểm chung là quyền lực nhà nước có cơ sở phát sinh là quyền lực của nhân dân, quyền lực nhà nước là quyền lực công. Đảng phái chính trị (giai cấp) thực thi quyền lực chính trị của mình thông qua quyền lực công (nhà nước) không chỉ để phục vụ lợi ích của mình mà còn phải phục vụ lợi ích xã hội. Mặt khác, sự kiềm chế, giám sát lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội (bao gồm cả nhà nước) trên cơ sở pháp luật là điều kiện để đảm bảo cho nền dân chủ phát triển. Các hình thức như: bầu cử người đứng đầu đất nước, trưng cầu dân ý, tự do báo chí, xuất bản, lập hội, biểu tình... là những cách thức để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Cuốn Dân chủ và những hạn chế của nó (Democracy and Critics) [160] của Dahl, Robert A. Tác giả khẳng định dân chủ là phải có sự chế ước lẫn nhau và quyền lực nhà nước là quyền lực gốc của nhân dân. Điều này đòi hỏi nhà nước và quyền lực nhà nước phải chịu sự kiểm soát của nhân dân. Dân chủ nếu không được thực hiện bằng phương thức khoa học với những bảo đảm khả thi thì dân chủ có thể bị lợi dụng cho mục đích phản dân chủ khác. Bài học trong lịch sử nhân loại đã chứng minh điều đó qua trường hợp Adolf Hitler trúng cử thông qua bầu cử tự do.

- Những năm 90 của thế kỷ XX, các tác phẩm của Alvin Toffler như: Làn sóng thứ ba [4], Cú sốc tương lai [5], Thăng trầm quyền lực [6] và cuốn Sự va chạm của các nền văn minh [109] của Samuel Huntington được công bố rộng rãi ở Việt Nam đã tạo ra những quan điểm, phương pháp mới trong tiếp cận vấn đề quyền lực và quyền lực nhà nước hiện nay trong các ngành nghiên cứu thuộc chính trị học, luật học, xã hội học, triết học…

Page 29: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

24

- Cuốn A preface to Democratic Theory (Lý thuyết về dân chủ) [182] của

tác giả Robert A.Dahl, cuốn Democracy: The unfinished journey (Dân chủ: cuộc

hành trình chưa hoàn thành) [48] của Đại học Oxford, Hoa Kỳ là những cuốn

sách tác giả đề cập nhiều đến quyền giám sát của công dân đối với nhà nước

dưới góc nhìn dân chủ, luận giải dân chủ trong nhà nước hiện đại đòi hỏi phải có

thiết chế phù hợp để công dân thực thi quyền làm chủ của mình và những vấn đề

đặt ra của xu thế chính trị thế giới...

- Armatya Sen (Ấn Độ) với cuốn Phát triển chính là Tự do [8], đã nhấn

mạnh đến tính phổ quát của dân chủ và mối liên hệ giữa dân chủ và tự do, trong

đó đề cập đến vấn đề quyết định dân chủ tập thể không phải khi nào cũng “tối

hảo”. Như vậy, quy trình dẫn đến quyết định phải đúng ngay từ khi người dân

kiểm soát việc đề ra chính sách chứ không phải khi chính sách được đưa ra…

- Bài viết “Xem xét sự bền vững của quyền lực thông qua con đường nhà

nước" (Crossing state lines with durable power) [173] của Linda S. Whitton. Tác

giả bàn về sự bền vững của quyền lực nhà nước và lý giải nguồn gốc của vấn đề

đó chính là tính chính đáng và minh bạch và là cơ sở vững chắc cho việc hợp

thức hóa tiến trình ủy nhiệm quyền lực của nhân dân cho nhà nước.

Gần đây, khảo sát vấn đề tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, nhiều

công trình đề cập đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngay bên trong bộ

máy nhà nước nhưng với quan điểm khác nhau. (1) Phân lập, cân bằng và đối

trọng; (2) Nền tư pháp độc lập, mạnh. Công trình tiêu biểu của vấn đề này

phải kể đến: A. McIntyr, Quyền lực của các thể chế (Power of Institutions)

[175]; Patrick Gunning, Hiểu biết về nền dân chủ - Một giới thiệu về lý thuyết

lựa chọn công cộng (Understanding democacy- An introduction to Public

choice) [176]... Không chỉ giới hạn nghiên cứu kiểm soát quyền lực nhà nước

trong phạm vi quan hệ giữa các nhánh quyền lực nhà nước, một số công trình

đã nghiên cứu cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài nhà nước từ

các thể chế, lực lượng xã hội như: các đảng phái chính trị, hội, hiệp hội, nhóm

lợi ích, các tổ chức xã hội công dân, các phương tiện thông tin đại

Page 30: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

25

chúng…Nhiều công trình đặt vấn đề tạo môi trường cho kiểm soát quyền lực

nhà nước như: nhân quyền, tự do lập hội, tự do báo chí, tự do ngôn luận, trách

nhiệm và đạo đức, công khai, minh bạch và dân chủ hóa, như Nhà nước và

nhà nước pháp quyền (The state and the rule of law) [172] của Kriegel và

Blandine; Kiềm chế tham nhũng- Hướng tới một mô hình xây dựng sự trong

sạch quốc gia của Stapenhurst Rick, Kpundeh Sahr, (Curbing corruption:

Toward a model for building national integrity) [188]; Chính trị so sánh- Một

giới thiệu mang tính toàn cầu (Comparative politics - A global introduction)

[192] của Micheal J.Sodaro.

Các công trình, bài viết nói trên đều khái quát đề cập đến đặc điểm của tổ

chức xã hội dân sự nói chung và tổ chức xã hội ở Việt Nam nói riêng trong quá

trình hình thành, phát triển cũng như vai trò thực hiện chức năng kiểm soát, giám

sát và phản biện đối với nhà nước. Theo đó, nêu lên xu hướng và yêu cầu phát

triển xã hội dân sự ở Việt Nam, chức năng của các tổ chức xã hội, nhóm lợi ích,

nghiệp đoàn… trong việc thực hiện chức năng kiểm soát đối với quyền lực nhà

nước thông qua việc nêu ý kiến, kiến nghị, vận động,…

Những luận giải về nguồn gốc, lý do, yêu cầu và mô hình kiểm soát quyền

lực nhà nước gắn liền với dân chủ và phát triển xã hội, khẳng định tính cần thiết

và chính đáng của vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trong các công trình rất

phong phú, đa dạng và đó là nguồn tư liệu cần thiết để tham khảo, nghiên cứu,

chọn lọc, tiếp thu và vận dụng ở Việt Nam.

Ngoài ra, trên nhiều trang Web chính thức về luật học và nghề luật của thế

giới cũng cung cấp những kiến thức và bài viết của các học giả quốc tế có thể

tham khảo liên quan đến các mô hình lý thuyết và thực tiễn kiểm soát quyền lực

nhà nước ở các nước. Những bài viết đó có trên các trang internet của Hội Luật

sư Hoa Kỳ (America Bar Association - www.abanet.org), Trung tâm luật Hiến

pháp (Constitutional Law Center-www.supreme.findlaw.com) và trang Findlaw

(www.findlaw.com).

Page 31: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

26

Tuy nhiên, vấn đề hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có chế độ chính trị, đặc điểm kinh tế, lịch sử, văn hóa... như Việt Nam thì chưa có công trình nào nghiên cứu.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Kiểm soát quyền lực nhà nước từ nhân dân hay nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề được quan tâm trên nhiều phương diện khác nhau kể cả về lý luận và thực tiễn, cả ở trong nước và nước ngoài, cả về chính trị học và luật học.

Đối với nước ta, trong điều kiện một đảng cầm quyền, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" [100, tr.9] thì đòi hỏi phải có cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các hình thức

dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân trên cơ sở nguyên tắc chủ quyền của nhân dân, “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” [100, tr.8-9] là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Để đạt được yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước thì nhất thiết phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Cơ chế đó phải phù hợp với thể chế dân chủ, pháp quyền, bảo đảm phát huy, thực hành đầy đủ, có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước; là công cụ, phương tiện hữu hiệu để ngăn ngừa các biểu hiện tha hóa của quyền lực nhà nước, xây dựng nhà nước mạnh, thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Trên cơ sở kế thừa và chọn lọc những kết quả nghiên cứu đã công bố, Luận án nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam" tiếp tục giải quyết những vấn đề cụ thể sau:

Một là, về mặt lý luận, Luận án phải làm sáng tỏ: - Khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu

tố cấu thành cơ chế, vai trò, mục đích, tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Nội dung và phương thức vận hành của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước dưới ánh sáng của Hiến pháp năm 2013.

Page 32: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

27

- Nghiên cứu cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở

một số nước và rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.

Hai là, về mặt thực tiễn, Luận án tập trung vào các vấn đề sau đây:

- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của cơ chế pháp lý nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay qua các thể chế

mà trọng tâm là các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 1992 (bổ sung,

sửa đổi năm 2001) và Hiến pháp năm 2013. Đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt

động, mối quan hệ của các thiết chế và các yếu tố bảo đảm trong cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước; chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân

của hạn chế về mặt thể chế, thiết chế và các yếu tố bảo đảm của cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước, trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về xây dựng nhà

nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, Luận án luận chứng, đề xuất

các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước ở Việt Nam.

Như vậy, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện, có hệ thống

vấn đề hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt

Nam, trong tổng thể cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, xây dựng và hoàn

thiện pháp luật ở nước ta. Những vấn đề tiếp tục nghiên cứu, cả về lý luận và

thực tiễn được tiếp cận trên các phương diện, góc độ mới, bám sát tinh thần và

nội dung Hiến pháp năm 2013, quan điểm, đường lối của Đảng và các đặc trưng

của Nhà nước pháp quyền XHCN và đặc điểm, truyền thống lịch sử, văn hóa,

tập quán, tâm lý của Việt Nam.

Page 33: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

28

Tiểu kết chương 1

Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề tất yếu khách quan trong lịch sử và hiện tại. Trong chương 1, Luận án nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Tổng quan tình hình nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề quyền lực nhà nước, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước công bố trong các công trình khoa học như: luận án, luận văn, bài báo khoa học thuộc nhiều khoa học khác nhau như: chính trị học, triết học, xã hội học, luật học... Nhìn chung, các công trình đã nghiên cứu đều đi sâu lý giải nguồn gốc quyền lực nhà nước, chủ quyền nhân dân đối với quyền lực nhà nước, tính khách quan, tất yếu của vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, những yêu cầu hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó có nhiều công trình đề cập đến giám sát xã hội đối với thực hiện quyền lực nhà nước, giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp, hành chính...; cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện, đầy đủ đề tài hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Do đó, Luận án một mặt tìm kiếm những giá trị có thể kế thừa và phát triển trong các công trình đã công bố, mặt khác đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn để đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện mới- Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới ánh sáng của Hiến pháp năm 2013.

Page 34: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

29

Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN

CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

2.1. KHÁI NIỆM, CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CƠ CHẾ, VAI TRÒ, MỤC ĐÍCH, TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

2.1.1. Khái niệm cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Cơ chế là một thuật ngữ có nguồn gốc từ phương Tây và từ khoa học kỹ

thuật. Trong tiếng Anh, cơ chế (Mechanism) được giải thích như các bộ phận trong một cỗ máy hoặc là một quá trình được thiết lập mà nhờ đó một hoạt động được thực hiện. Ngày nay, nó là thuật ngữ phổ biến trong xã hội, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Có cơ chế tự nhiên, phản ánh cách thức tác động của quy luật vận động, phát triển của thế giới tự nhiên; có cơ chế xã hội, cơ chế nhà nước, phản ánh nhận thức và sự vận dụng của con người đối với quy luật phát triển của các quá trình, sự vật, hiện tượng phát sinh trong đời sống nhà nước, xã hội. Như vậy, nghiên cứu "cơ chế" là nghiên cứu sự vật, hiện tượng, quá trình trong trạng thái động, nghiên cứu sự tác động của con người bằng các hình thức, công cụ, phương thức khác nhau lên các quá trình đó, trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật vận động, phát triển của chúng, định hướng quá trình phát triển theo những mục tiêu, phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.

Đối với khoa học luật học nước ta, khái niệm cơ chế pháp lý mới ra đời nhằm giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Trong các công trình nghiên cứu về cơ chế pháp lý đều cho rằng cơ chế pháp lý:

(1) Đó là tổng thể các yếu tố, bộ phận cấu thành hay hợp thành; (2) Các bộ phận trong cơ chế có mối quan hệ, tác động lẫn nhau, hướng đích; (3) Cơ chế hoạt động theo các nguyên tắc, qui trình do luật quy định; (4) Thiếu một bộ phận thì cơ chế hoạt động không đồng bộ, kém hiệu quả...

Page 35: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

30

Theo đó, cơ chế pháp lý được hiểu là tổng thể của nhiều yếu tố có quan hệ tác động qua lại mật thiết với nhau, bao gồm các yếu tố thể chế, thiết chế và các bảo đảm để thực hiện một chức năng hoặc một nhiệm vụ nào đó trong quản trị nhà nước và xã hội.

Như vậy, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng thể hợp thành của các yếu tố thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo đảm, có mối quan hệ hữu cơ, tương tác lẫn nhau nhằm xác lập các quyền và khả năng để nhân dân kiểm soát có hiệu quả quyền lực nhà nước.

Chủ thể của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là Nhân dân với tư cách là cộng đồng người thống nhất trong cả nước hay một đơn vị hành chính lãnh thổ; các thiết chế phi chính phủ đại diện của nhân dân, các thiết chế dân chủ ở cơ sở được thiết lập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và Nhân dân với tư cách cá nhân công dân - là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước theo quy định của hiến pháp và pháp luật.

Từ khái niệm về cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nói trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là cơ chế "bên ngoài", mang tính chính trị và xã hội, tính đạo lý và tính pháp lý, trong khi cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước là cơ chế "bên trong", mang tính nhà nước. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phong phú, đa dạng về chủ thể với phương thức kiểm soát chủ yếu bằng thực hiện các hình thức dân chủ từ giám sát, phản biện, tư vấn, thẩm định, kiến nghị, đề xuất, góp ý kiến, áp lực công luận đến bầu cử, bãi miễn đại biểu, biểu tình, trưng cầu ý dân nên toàn diện hơn cơ chế " bên trong" của bộ máy nhà nước.

Thứ hai, trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thì chủ thể kiểm soát là nhân dân. Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước với vị thế của người chủ quyền lực, do đó không bị ràng buộc bởi ý chí chủ quan của bất kỳ cơ quan, công chức nhà nước nào. Trong khi đó, cơ chế kiểm soát thực hiện quyền lực giữa các cơ quan nhà nước phụ thuộc vào mô hình, kỹ thuật tổ chức, phân công lao động quyền lực, vào vị trí, chức năng, quyền hạn cụ thể của

Page 36: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

31

các cơ quan trong bộ máy nhà nước, với hệ thống chủ thể kiểm soát quyền lực rộng rãi, gồm tất cả các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cở sở.

Thứ ba, hiệu quả hoạt động của cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết là phụ thuộc vào sự phát triển của các hình thức, phương thức thực thi dân chủ, sự phát triển của xã hội dân sự, ý thức và kỹ năng thực hiện quyền của từng công dân, trách nhiệm của nhà nước trước nhân dân, trong khi hiệu quả của cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước lại phụ thuộc chủ yếu vào mức độ hoàn thiện của mô hình tổ chức quyền lực và bộ máy cơ quan nhà nước, tính hợp lý của cơ chế, tính chuyên nghiệp trong tổ chức lao động quyền lực…

Thứ tư, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ vận hành có hiệu quả trong môi trường dân chủ, pháp quyền của đất nước và trên cơ sở nguyên tắc công khai, minh bạch của nhà nước. Vì thế, dân chủ hóa đời sống chính trị xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và dân chủ XHCN ngày càng được tăng cường thì cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ngày càng có hiệu lực và hiệu quả.

Thứ năm, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước với cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự khác nhau về chủ thể, nội dung, phạm vi, hình thức, phương pháp, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau tạo thành một cơ chế pháp lý tổng thể với cùng một mục đích bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh, thực sự của dân, do dân và vì dân.

2.1.2. Các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

2.1.2.1. Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Như khái niệm đã viết ở trên, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước được cấu thành bởi các yếu tố sau:

Page 37: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

32

* Thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Thể chế là yếu tố đầu tiên cấu thành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước. Thể chế (Institution) là phạm trù khoa học pháp lý, được coi là sự quy định, đặt ra luật lệ. Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì “thể chế" được giải nghĩa là: "những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội" [154, tr.132]. Theo Từ điển Luật học thì thể chế được coi là: "Những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo (nói tổng quát). Hệ thống các định chế hợp thành một tổng thể các chế độ nhà nước, hình thức tổ chức nhà nước, các chế độ lập pháp, hành pháp, tư pháp" [130, tr.703]. Như vậy, thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chính là tổng thể các quy phạm pháp luật xác lập những quyền, khả năng, phương thức và các điều kiện bảo đảm để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm: Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật như: các bộ luật, đạo luật, nghị quyết, nghị định, thông tư... có nội dung quy định về vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý để nhân dân tự mình hoặc thông qua các tổ chức đại diện, các phương tiện truyền thông đại chúng, các thiết chế dân chủ ở cơ sở thực hiện quyền năng kiểm soát đối với toàn bộ hoạt động quyền lực nhà nước, bao gồm cả lập pháp, hành pháp và tư pháp, đối với cả trung ương và địa phương, đối với cả tổ chức và cá nhân trong bộ máy nhà nước. Trong hệ thống thể chế thì hiến pháp là thể chế gốc, căn bản, có vai trò định khung, định hướng và tạo lập nguyên tắc cơ bản làm căn cứ cho hệ thống pháp luật được ban hành đồng bộ, thống nhất, khả thi, có hiệu lực và hiệu quả. Hệ thống pháp luật bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật là những bộ phận của hệ thống thể chế của cơ chế.

Như vậy, thể chế là yếu tố cơ bản tạo lập nên cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát kiểm soát quyền lực nhà nước. Các thể chế tiến bộ, ưu việt đến đâu thì cơ chế đó cũng tiến bộ, ưu việt và hiệu quả đến đó. Không có một thể chế tiến bộ, khoa học thì sẽ không có một cơ chế tương ứng đảm trách nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thực chất, hiệu quả. Vì vậy, cơ chế kiểm soát

Page 38: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

33

quyền lực nhà nước nói chung, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng trước hết phải do các thể chế chính trị, pháp lý quy định.

* Thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Thiết chế là hệ thống tổ chức bộ máy, quy chế, chương trình hành động

được thiết lập trên cơ sở quy định của pháp luật để thực hiện một hoạt động nào đó trong xã hội. Thiết chế tổ chức nhà nước có ý nghĩa đặc biệt cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước, có vai trò củng cố, bảo vệ chế độ, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, vì thế thiết chế tổ chức bộ máy nhà nước có ý nghĩa sống còn với bất cứ một chế độ chính trị, xã hội nào. Nhà nước là một thiết chế rộng lớn và phức tạp ở đó bao gồm một hệ thống tổ chức bộ máy rộng khắp, một hệ thống chế định pháp luật phục vụ cho quản lý xã hội, một hệ thống cơ sở hạ tầng tương ứng với một hệ thống kiến trúc thượng tầng và một đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, nhân viên đông đảo… Thiết chế đó đầy đủ hay khiếm khuyết, tích cực hay hạn chế phụ thuộc nhiều vào thể chế quy định, trong đó thể chế về tổ chức có vai trò chi phối. Như vậy, thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chính là các tổ chức được hình thành và hoạt động trên cơ sở quy định của hiến pháp và pháp luật để nhân dân thông qua đó thực hiện quyền năng kiểm soát quyền lực nhà nước.

Hệ thống thiết chế đó ở nước ta bao gồm: tổ chức chính trị (Đảng Cộng sản Việt Nam); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội (Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam); các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp (Hội Nhà báo, Hội Nhà văn, Hội Liên hiệp Thanh niên, Liên hiệp Hội các hội khoa học kỹ thuật, Liên hiệp Hội các hội văn học nghệ thuật, Hội Người mù...) các phương tiện thông tin đại chúng (báo in, bao gồm: báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn; báo nói: đài phát thanh; báo hình: đài truyền hình; báo điện tử: được thực hiện trên mạng internet, bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài), các thiết chế dân chủ ở cơ sở (ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng, tập thể lao động) đi cùng với tổ chức bộ máy, con người, các điều kiện bảo đảm, các quy chế, quy trình vận hành do hiến

Page 39: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

34

pháp và pháp luật quy định để kiểm soát toàn bộ quyền lực nhà nước, bao gồm: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đối với cả ở trung ương và địa phương; cơ quan và cá nhân người có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước. Các thiết chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước được tổ chức theo chiều dọc từ trung ương đến địa phương, tổ chức theo chiều ngang tương ứng với cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các thiết chế đồng thời là các chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước, có mối quan hệ phụ thuộc hay bình đẳng với nhau tùy thuộc vào địa vị chính trị, pháp lý quy định, do đó có vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, nội dung, đối tượng khác nhau nhưng đều là bộ phận cấu thành của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

Tính hiệu quả của mỗi thiết chế được xác định thông qua việc thiết kế các yếu tố, tổ chức, bộ phận có bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ hay không. Ngoài yếu tố đó, các thiết chế phải đảm bảo năng lực chủ thể, năng lực đại diện, năng lực tham gia, năng lực thực hiện; các bộ phận của cơ chế phải có mối liên hệ, tác động, phối hợp chặt chẽ với nhau, tránh trùng chéo, mâu thuẫn đồng thời phải có các bảo đảm tương ứng để các thiết chế vận hành đồng bộ, thống nhất và thông suốt. Hệ thống thiết chế đầy đủ, chặt chẽ, tổ chức khoa học là cơ sở để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước hoạt động có hiệu lực và tránh được các biểu hiện chung chung, hình thức, kém hiệu quả.

* Những bảo đảm về chính trị, pháp lý, kinh tế- xã hội của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành thông suốt, hiệu quả cần phải có các bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội sau đây:

Một là, môi trường dân chủ và pháp quyền của đất nước là bảo đảm hàng đầu để hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, đồng thời để cơ chế đó hoạt động có hiệu quả trên thực tế. Môi trường dân chủ trước hết là một thể chế chính trị dân chủ, cởi mở, ở đó quyền con người, quyền công dân được luật ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Chính phủ được thành lập bởi nhân dân, quyền lực tối cao được trao cho nhân

Page 40: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

35

dân và được thực hiện bởi nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một phương thức bầu cử tự do. Đó là một tập hợp những tư tưởng và nguyên tắc, các thông lệ và các thủ tục được luật hoá, thể chế hóa bảo đảm để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Như vậy, từ góc độ pháp luật thì một nhà nước pháp quyền phải là nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật, của nhân dân trong mọi trường hợp. Nhà nước chịu sự kiểm soát của nhân dân, có trách nhiệm trước nhân dân, nhà nước đó mới thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong nhà nước pháp quyền, không một ai có quyền cao hơn luật, khi luật được xây dựng bởi chính người dân, những người phải phục tùng luật, thì khi đó cả luật và dân chủ sẽ cùng được thực thi, nhân dân có điều kiện thực hiện quyền năng chủ thể tối cao đối với quyền lực nhà nước một cách thuận lợi, hữu hiệu nhất. Không có dân chủ và pháp quyền thì cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước không thể vận hành, hoạt động hiệu quả được.

Hai là, trình độ dân trí và hiểu biết pháp luật là một trong những bảo đảm quan trọng để nhân dân có thể tự mình thực hiện được quyền của mình. Trình độ dân trí là khái niệm để chỉ về trình độ nhận thức hay mặt bằng văn hóa chung của một cộng đồng hay nhóm dân cư ở một phạm vi nhất định. Pháp luật đầy đủ, cơ chế hoàn thiện, quyền năng rõ ràng mà trình độ nhận thức và hành động của người dân hạn chế thì việc bảo đảm cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ kém khả thi hoặc nặng về hình thức, ít hiệu quả. Trình độ dân trí có ý nghĩa thúc đẩy phát triển dân chủ, phát triển xã hội và tạo lập ý thức, thói quen, khả năng, kỹ thuật hành xử theo pháp luật. Nói cách khác dân trí là điều kiện để pháp luật được hiện thực hóa đầy đủ vào đời sống xã hội làm cho xã hội dân chủ, bình đẳng và thực sự pháp quyền. Vì vậy, trình độ dân trí là bảo đảm để thực hiện dân quyền của một xã hội dân chủ và pháp quyền. Trình độ dân trí phát triển dựa trên nền tảng dân sinh, thể hiện trình độ quản lý và phát triển của nhà nước. Trình độ dân trí của xã hội càng cao thì dân chủ càng được mở rộng,

Page 41: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

36

sự tha hóa của quyền lực nhà nước càng bị thu hẹp, thông tin càng được bình đẳng, đầy đủ, chính xác và chọn lọc giúp cho tính tự quản và tính kiểm soát của xã hội, của nhân dân đối với nhà nước càng được thể hiện rõ nét, sâu sắc hơn. Phát triển, nâng cao mặt bằng dân trí chính là một trong những bảo đảm để hoàn thiện và vận hành có hiệu quả cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta.

Ba là, điều kiện kinh tế xã hội có vai trò bảo đảm để xây dựng, hoàn thiện

và vận hành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả.

Điều kiện kinh tế chính là tình trạng của nền kinh tế trong một quốc gia hoặc khu

vực, nó là cơ sở trong việc phát triển dân trí, dân chủ, dân quyền và là điều kiện

để các thiết chế, chủ thể có khả năng tiếp cận bình đẳng đối với nhà nước trong

quan hệ pháp luật. Mặt khác, ở Việt Nam phần lớn các thiết chế xã hội được

thành lập do sáng kiến của nhà nước, nhiều tổ chức có bề dày truyền thống đấu

tranh cách mạng và xây dựng đất nước được coi là cơ sở chính trị của chính

quyền nhân dân. Các tổ chức này duy trì bộ máy và hoạt động hầu hết dựa vào

ngân sách nhà nước hoặc được nhận sự tài trợ, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.

Cho nên điều kiện kinh tế chính là bảo đảm về nguồn lực vật chất cho các thiết

chế tồn tại, phát triển tổ chức và hoạt động của mình. Ngoài ra, đảm bảo điều

kiện kinh tế xã hội phát triển chính là bảo đảm nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần của nhân dân, làm cho nhân dân có thể khai thác, sử dụng đầy đủ các quyền

năng của mình để kiểm soát quyền lực nhà nước. Một khi đời sống nhân dân khó

khăn thì nhất định ảnh hưởng đến khả năng, năng lực làm chủ của nhân dân. Là

cơ sở hạ tầng của kiến trúc thượng tầng tương ứng, điều kiện kinh tế xã hội có

vai trò quan trọng trong tổ chức thiết kế, thiết lập tổ chức, mô hình, hoạt động

nhà nước và đi liền với đó là cấu trúc cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói

chung, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng. Không

tôn trọng và bảo đảm điều kiện này thì việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có thể trở nên duy ý chí và việc vận

hành, hoạt động cơ chế trở nên hình thức, kém hiệu quả.

Page 42: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

37

Ngoài các điều kiện nói trên, các yếu tố về lịch sử, dân tộc, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán cũng có vai trò nhất định tác động, ảnh hưởng đến từng bộ phận hay toàn thể cơ chế. Sự phù hợp đó có ý nghĩa tạo ra sự đồng bộ, thống nhất giữa thể chế và thiết chế, giữa nội dung, phương thức và các điều kiện bảo đảm để tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

2.1.2.2. Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước tuy có vị trí, vai trò khác nhau nhưng luôn có mối quan hệ mật thiết, chi phối, tác động qua lại lẫn nhau, cùng nhau quyết định hiệu quả hoạt động của toàn bộ cơ chế. Mỗi một bộ phận (yếu tố) của cơ chế được xác định một cách chặt chẽ, đảm bảo tính liên kết, nhưng vẫn có tính độc lập tương đối trong hoạt động của mình. Mỗi yếu tố của cơ chế đảm trách một chức năng, nhiệm vụ khác nhau tạo nên tính đa dạng trong thống nhất của cơ chế. Trong đó, mỗi bộ phận, chi tiết của cơ chế lại có thể đảm trách một hay nhiều vai trò tuỳ thuộc vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận. Để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu lực, hiệu quả thì cần xác định và tổ chức một cách khoa học, chính xác, khả thi ngay từ các chi tiết của từng bộ phận trong cơ chế. Mức độ đồng bộ, chặt chẽ của cơ chế càng cao thì hoạt động của cơ chế càng bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.

Yếu tố thể chế có vai trò then chốt, là cơ sở, căn cứ pháp lý chi phối việc hình thành các thiết chế và xác lập các khả năng, điều kiện bảo đảm cho việc hoàn thiện và hoạt động của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có mối liên hệ mật thiết, phụ thuộc và chịu sự chi phối, quyết định của thể chế chính trị, pháp lý. Do đó, khi thể chế chính trị, thể chế pháp lý có sự thay đổi thì thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cũng phải thay đổi theo. Sự thay đổi của thể chế kéo theo sự thay đổi của hệ thống thiết chế và các bảo đảm cho cơ chế hoạt động. Sự thay đổi có thể theo hướng tích cực và

Page 43: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

38

tiêu cực. Hướng tích cực đòi hỏi phải hoàn thiện và dân chủ hoá nội dung các thể chế, tạo điều kiện để các yếu tố thiết chế và bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế- xã hội được phát triển tương ứng, phù hợp giúp toàn bộ cơ chế hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hướng tiêu cực là thể chế không chịu đổi mới phù hợp với xu thế phát triển dân chủ, pháp quyền, không mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trì trệ, bảo thủ thì các yếu tố về thiết chế và bảo đảm không có điều kiện hoàn thiện và hoạt động tốt, kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ trở nên hình thức, kém hiệu quả. Mặt khác, thể chế là yếu tố đảm bảo cho các thiết chế được tổ chức và hoạt động đúng pháp luật, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước được nhịp nhàng, thống nhất, hướng đích và đạt được kết quả. Như vậy, một thể chế chính trị dân chủ, tiến bộ và pháp quyền chính là một trong những bảo đảm để thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước được hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả.

Yếu tố thiết chế có vai trò hiện thực hoá quy định của thể chế bằng thiết lập cấu trúc tổ chức và hoạt động tương ứng với cấu trúc hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước trên cơ sở quy định của pháp luật. Các thiết chế vận hành, hoạt động trong khuôn khổ thể chế xác lập và luôn có xu thế phát triển, mở rộng ra ngoài thể chế khiến thể chế chỉ có tính ổn định tương đối. Các thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có thể là một trật tự pháp lý, một trật tự điều lệ hay hỗn hợp, đó còn là các tổ chức và các hình thức dân chủ khác của nhân dân và mang tính nhân dân, xã hội tác động thường xuyên vào hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước. Các thiết chế hoạt động, tương tác với nhau tác động trực tiếp đến quyền lực nhà nước và chỉ có hiệu quả khi có các điều kiện bảo đảm tương ứng, do đó thiết chế có tác động trở lại trong việc hoàn thiện thể chế và các bảo đảm cho cơ chế hoạt động.

Yếu tố bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội cho cơ chế hoạt động có vai trò làm căn cứ cho việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, là nguồn lực để các thiết chế duy trì bộ máy và tổ chức hoạt động, đồng thời là cơ sở và điều kiện để thiết lập, vận hành toàn bộ cơ chế nhằm đạt được mục đích kiểm soát quyền lực nhà nước. Không có các bảo đảm thì thể chế chỉ tồn tại trên văn bản và thiết chế

Page 44: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

39

chỉ hoạt động trên lý thuyết. Các bảo đảm là nhân tố để hiện thực hoá quy định của thể chế, hiệu quả hoá hoạt động của thiết chế và ngược lại thể chế, thiết chế lại có vai trò tác động, quy định và làm cho các bảo đảm ngày càng hoàn thiện, đầy đủ hơn tạo điều kiện để toàn bộ cơ chế được vận hành, hoạt động đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Với quan điểm duy vật biện chứng, việc hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cần phải chú ý đến xây dựng và hoàn thiện cả ba yếu tố trên đồng thời tạo điều kiện để các yếu tố có mối liên hệ, tác động tích cực, phù hợp với nhau trong toàn bộ cơ chế.

2.1.3. Vai trò của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có vai trò đặc biệt

quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền, phòng chống sự tha hoá của

quyền lực nhà nước, làm cho quyền lực nhà nước mạnh, thực sự là quyền lực

của nhân dân. Vai trò đó thể hiện cụ thể sau đây:

Thứ nhất, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là công

cụ, phương tiện pháp lý cơ bản, hiệu quả nhất góp phần bảo đảm cho nhân dân

thực sự là người chủ của quyền lực nhà nước. Địa vị pháp lý của nhân dân được

Điều 2, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: " Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền

tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

thức" [106, tr.8-9]; "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực

tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua

các cơ quan khác của Nhà nước" [106, tr.10]; "Các cơ quan nhà nước, cán bộ,

công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ

chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân" [106,

tr.11]; "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;

đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp,

phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng

thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội" và "Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân

Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Hội liên hiệp phụ nữ Việt

Page 45: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

40

Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam... đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,

chính đáng của của thành viên, hội viên tổ chức mình" [106, tr.11-12];

Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân

và của người lao động... đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản

lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám

sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp...

[106, tr.12-13]...

Với một hệ thống thể chế được thiết lập bởi hiến pháp như vậy; với đa

dạng các hình thức và phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước như giám sát,

phản biện, thanh tra, kiểm tra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp của công

dân, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một phương tiện

có đầy đủ hiệu lực để Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước của mình.

Thứ hai, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là

phương tiện góp phần bảo đảm cho tính pháp quyền của Nhà nước được tăng

cường, nhân tố làm cho nhà nước mạnh. Nhờ đó, nhà nước hoạt động trong

khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật, làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền hạn

được nhân dân giao, phục vụ nhân dân, phòng chống các biểu hiện tha hoá

quyền lực nhà nước như lạm quyền, lộng quyền và các hiện tượng tiêu cực khác

từ các cơ quan, cán bộ, nhân viên nhà nước. "Đam mê quyền lực là bản tính vốn

có của con người. Sự lạm quyền là một thuộc tính của những người gắn với

quyền lực nhà nước, ở đâu có quyền lực ở đó luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ của sự

lạm quyền" [63, tr.38]. Vì thế, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước có vai trò góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng

vững mạnh, thực sự của dân, do dân và vì dân.

Thứ ba, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phương tiện quan trọng để phát huy dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, thiết lập mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước và công dân, tổ chức và cá nhân trước pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Hoạt động thực thi quyền lực nhà nước rất

Page 46: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

41

đa dạng, phức tạp và luôn có xu hướng tha hóa, do đó cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ngoài vai trò ngăn chặn sự tha hóa của quyền lực nhà nước thì còn là phương tiện pháp lý hữu hiệu để nhân dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chính mình. Thứ tư, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phối hợp với các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước khác hợp thành sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho quyền lực nhà nước được kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do nhân dân thực hiện không mang tính quyền lực nhà nước, phối hợp với cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp tiến hành, bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được kiểm soát chặt chẽ, toàn diện cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Mặc dầu, cơ chế kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp giữ vai trò quyết định trong kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng nếu thiếu cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thì kiểm soát quyền lực nhà nước thiếu toàn diện, không tạo thành sức mạnh tổng hợp. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, đa dạng về chủ thể với công cụ, phương tiện rộng khắp sẽ phát huy được tính độc lập, khách quan, toàn diện với nhiều tai mắt nên bổ sung và khắc phục được các yếu tố nể nang, bao che, xuê xoa, thoả hiệp của cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

2.1.4. Mục đích và tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

2.1.4.1. Mục đích hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Mục đích hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho quyền lực nhà nước mạnh, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, vận hành phù hợp với nhiệm vụ và quyền hạn được nhân dân giao, tính dân chủ và pháp quyền của Nhà nước được giữ vững, bảo đảm công bằng, công lý và trật tự xã hội, chống lại mọi biểu hiện tha hoá, tiêu cực của quyền lực

Page 47: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

42

nhà nước. Trong thiết kế, xây dựng bộ máy nhà nước, vấn đề tiên quyết là thiết lập cho được bộ máy có đầy đủ quyền lực nhà nước, buộc nhà nước phải tự kiểm soát, quản lý được chính mình, sau đó kiểm soát, quản lý xã hội. Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho nhà nước thì nhân dân tất yếu phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, việc thực hiện đó có thể chỉ là hình thức nếu như không có một cơ chế khả thi, hữu hiệu trong thực tế. Cho nên hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chính là quá trình đưa quyền lực nhà nước trở về đúng nghĩa là quyền lực của nhân dân, quyền lực công của xã hội và việc hoàn thiện đó không phải là làm mất đi tính mềm dẻo, năng động, quyết đoán cần phải có để thực hiện các chức năng của nhà nước như một số người lo ngại. Nói tóm lại, hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đạt được một số mục đích cụ thể sau: Một là, kiểm soát quyền lực nhà nước không phải là hạn chế, làm yếu quyền lực nhà nước mà ngược lại kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo cho quyền lực nhà nước mạnh hơn, hoạt động hiệu quả hơn, ổn định hơn và chính đáng hơn. Hai là, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng chủ thể là nhân dân có mục đích góp phần phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Bảo đảm để nhân dân phát huy mạnh mẽ hơn quyền làm chủ của mình trong việc xây dựng bộ máy nhà nước đồng thời nâng cao trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Với mục đích nói trên, hậu quả pháp lý của cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là buộc các cơ quan, cá nhân thực hiện quyền lực nhà nước phải chịu sự kiểm soát của nhân dân bằng việc tiếp thu đầy đủ, toàn diện ý kiến của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân theo hiến pháp và pháp luật về toàn bộ hoạt động thực thi quyền lực nhà nước của mình để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết điểm, đảm bảo thực sự phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội.

2.1.4.2. Tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước được cấu thành từ ba yếu tố: thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo đảm. Các yếu tố này không

Page 48: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

43

tồn tại một cách biệt lập, đơn lẻ mà tồn tại trong một thể thống nhất, phối hợp, tác động qua lại một cách hữu cơ. Vì vậy, muốn hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, cần phải xây dựng một số tiêu chí làm chuẩn mực để đánh giá cơ chế hiện hành và hướng đến hoàn thiện cơ chế cần phải có theo các tiêu chí đó. Tất nhiên, đối với mỗi một yếu tố có thể có các tiêu chí hoàn thiện riêng của mình, nhưng trong một cơ chế thống nhất phải tuân theo những tiêu chí hoàn thiện chung. Trong khoa học pháp lý, người ta thường dựa vào hai nhóm tiêu chí: i) Nhóm tiêu chí thứ nhất là các tiêu chí mang tính chất chỉ đạo về hoàn thiện nội dung của cơ chế. ii) Nhóm thứ hai là các tiêu chí hoàn thiện về hình thức. Theo đó, để hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cần phải hướng tới các tiêu chí cụ thể sau đây:

- Về nhóm tiêu chí mang tính chất chỉ đạo hoàn thiện nội dung cơ chế, bao gồm các tiêu chí sau:

+ Tiêu chí về tính toàn diện của tất cả các yếu tố cấu thành cơ chế. Tiêu chí này bao gồm tất cả các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo nội dung xây dựng thể chế, thiết chế và hoàn thiện các điều kiện bảo đảm cho cơ chế vận hành. Tiêu chí này đòi hỏi việc hoàn thiện cơ chế cần phải nắm vững các quan điểm, tư tưởng của Đảng về vai trò, vị trí của nhân dân, của các tổ chức đại diện nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, trong việc thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp, và quan điểm về kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân. Đồng thời, phải nắm chắc tinh thần và nội dung mới của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức quyền lực nhà nước; về trách nhiệm của nhà nước trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước...để từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phù hợp với đường lối của Đảng và Hiến pháp mới.

+ Tiêu chí về tính đồng bộ về nội dung của cơ chế: Tiêu chí này đòi hỏi hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phải chú trọng đến việc hoàn thiện các thể chế về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết

Page 49: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

44

chế để đồng bộ với các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đó. Tính đồng bộ của việc hoàn thiện cơ chế còn đòi hỏi việc hoàn thiện mỗi thiết chế phải được tiến hành đồng bộ, kịp thời với các thiết chế khác của cơ chế.

+ Tiêu chí về tính phù hợp về nội dung của cơ chế: Tiêu chí này đòi hỏi việc hoàn thiện các thể chế, thiết chế của cơ chế phải xuất phát từ thực tiễn, từ đặc thù của hệ thống chính trị nước ta, từ điều kiện kinh tế, xã hội hiện thực để hoàn thiện một cách hợp lý các quy định về thể chế, thiết chế sao cho có hiệu quả mà chi phí về vật chất và tinh thần phù hợp. Tính phù hợp của cơ chế còn đòi hỏi tổ chức và hoạt động của các thiết chế phải phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thể hiện ở tổ chức và cách thức hoạt động gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân.

+ Tiêu chí về tính thống nhất về nội dung của cơ chế: Tiêu chí này đòi hỏi việc hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phải bảo đảm sự thống nhất giữa các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 với việc thể chế hóa trong các yếu tố thể chế, thiết chế quy định trong các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật dưới luật. Sự thống nhất về nội dung của việc hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn đòi hỏi phải có sự thống nhất trong tổ chức vận hành của cơ chế với các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước khác như cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong) và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do luật định.

+ Tiêu chí về tính ổn định và ít thay đổi: Đây chính là tiêu chí đòi hỏi việc hoàn thiện các thể chế, các thiết chế phải bảo đảm sự tồn tại của chúng trong một thời gian tương đối ổn định, tính dự báo cao trong việc thiết kế các mô hình về tổ chức và hoạt động của các thiết chế.

+ Tiêu chí về tính dễ dàng, thuận lợi, tối ưu và chi phí thấp: Đây là tiêu chí đòi hỏi việc hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phải luôn luôn xuất phát từ nhân dân nên từ việc hoàn thiện thể chế cho

Page 50: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

45

đến hoàn thiện các thiết chế phải sao cho dễ dàng, thuận lợi thu hút được đông đảo nhân dân tham gia, chi phí thấp về tài chính, thời gian và công sức mà hiệu quả cao.

- Nhóm tiêu chí hoàn thiện về hình thức của cơ chế bao gồm các tiêu chí: + Tiêu chí công khai, minh bạch, kịp thời và dân chủ: Đây là tiêu chí đòi

hỏi trong quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phải thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào việc hình thành các thể chế và thiết chế. Việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế được tiến hành càng công khai, minh bạch, kịp thời và dân chủ thì nội dung của cơ chế càng hoàn thiện.

+ Tiêu chí về kỹ thuật xây dựng và hoàn thiện thể chế, thiết chế của cơ chế càng chuẩn xác, đủ cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện là điều kiện để cơ chế vận hành có hiệu quả.

Năm vững các tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nói trên chẳng những là cơ sở để xem xét, đánh giá cơ chế hiện nay mà còn là tiêu chí để hướng tới hoàn thiện cơ chế cần phải xây dựng.

2.2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

2.2.1. Nội dung cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam bao

gồm các nội dung cơ bản, chủ yếu sau đây: Thứ nhất, nhân dân kiểm soát việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp của

Quốc hội Lời nói đầu Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: "Nhân dân xây dựng, thi hành

và bảo vệ Hiến pháp này" [106, tr.7]. Nguyên tắc chủ đạo của chế độ pháp quyền là vị trí tối thượng của Hiến pháp và chủ quyền tối cao của Nhân dân. Nhà nước chịu sự ràng buộc của Hiến pháp, của Nhân dân. Quyền của Nhân dân đối với Nhà nước là quyền chủ nhân, quyền kiểm soát quyền lực nhà nước là quyền của chủ nhân giao quyền, uỷ quyền. Hiến pháp là bản văn pháp lý, hiện thân ý chí và quyền lực của nhân dân, ghi nhận quyền năng nhân dân kiểm

Page 51: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

46

soát quyền lực nhà nước. Là hệ thống các quy phạm pháp lý có giá trị cao nhất, Hiến pháp ghi nhận những cơ sở nền tảng như quyền con người, quyền công dân, chế độ chính trị, chế độ kinh tế - xã hội và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước. Vì vậy, không một cơ quan, cá nhân nào có quyền đứng trên và đứng ngoài hiến pháp. Hiến pháp giao một số phần quyền lập hiến và quyền lập pháp cho Quốc hội chính là nhân dân thông qua hiến pháp giao quyền cho Quốc hội. Quốc hội được nhân dân giao cho quyền gì thì nhân dân có quyền kiểm soát quyền đó. Với vị trí và vai trò là "cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước" [106, tr.32-33]. Điều 70, Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội có 15 nhiệm vụ và quyền hạn. Theo đó, Quốc hội được nhân dân giao cho quyền “làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật" [106, tr.33] chứ không quy định Quốc hội là cơ quan "duy nhất" có quyền làm hiến pháp như Hiến pháp năm 1992. Điều đó có nghĩa nhân dân chỉ giao một phần quyền lập hiến cho Quốc hội chứ không phải tất cả. Khi Quốc hội tiến hành làm và sửa đổi hiến pháp phải tuân theo quy trình dân chủ do luật định như: tham vấn ý kiến nhân dân, trưng cầu ý kiến nhân dân, tổ chức để nhân dân góp ý xây dựng hiến pháp một cách thuận tiện, rộng rãi và tiếp thu ý kiến tham gia của nhân dân đầy đủ, nghiêm túc... Chỉ khi đảm bảo như vậy thì hiến pháp mới thực sự là ý chí của nhân dân và nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước mới hoàn toàn đúng nghĩa.

Quyền lập pháp là quyền duy nhất thuộc về Quốc hội. Tuy nhiên, hoạt động lập pháp không phải là công việc duy nhất của Quốc hội mà có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Quyền lập pháp của Quốc hội chính là quyền đồng ý hoặc không đồng ý thông qua một chính sách hoặc một dự luật nào đó. Khi các luật được ban hành xuất phát từ nhu cầu thực tế và phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đại đa số nhân dân thì khi đó Quốc hội mới hoàn thành nhiệm vụ lập pháp trước nhân dân. Nhân dân tham gia hoạt động lập hiến, lập pháp chính là

Page 52: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

47

thông qua đó nhân dân kiểm soát Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp.

Hoạt động lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao, quyết định những vấn đề

trọng đại của đất nước là chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Quốc hội, việc

thực hiện đó thông qua đại biểu Quốc hội do cử tri bầu ra. Cho nên Quốc hội và

đại biểu Quốc hội phải chịu trách nhiệm về việc thực thi thẩm quyền đó trước cử

tri, trước nhân dân. Theo đó, để đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thực sự là

đại biểu của nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân giao cho một cách đầy

đủ, hiệu quả thì nhân dân phải có phương thức lựa chọn đại biểu một cách dân

chủ, trung thực. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định việc bầu cử đại

biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ

thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quy định này là phương tiện bảo

đảm cho nhân dân có thể kiểm soát toàn bộ quy trình theo yêu cầu đó. Mặt khác,

Điều 7, Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội

đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không

còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân" [106, tr.11]. Quy định này có ý

nghĩa buộc đại biểu của nhân dân phải thực hiện có hiệu quả cam kết tranh cử

của mình, chấp hành nghiêm túc hiến pháp, pháp luật để xứng đáng với sự tín

nhiệm của nhân dân và đại biểu nào không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của

nhân dân thì sẽ bị cử tri bãi nhiệm.

Nguyên tắc, quy trình làm và sửa đổi hiến pháp, bầu cử và bãi nhiệm đại

biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân; các quy định về phương thức nhân dân và các

thiết chế đại diện nhân dân tham gia vào hoạt động lập pháp và cơ chế bảo vệ hiến

pháp được quy định tại Điều 119, Hiến pháp năm 2013 là những nội dung cơ bản

nhất của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước trên lĩnh vực lập

pháp. Ngoài ra, các quy định trong các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về giám

sát hoạt động của cơ quan nhà nước được xác lập, cụ thể hóa tinh thần và nội dung

của Hiến pháp cũng chính là bộ phận của nội dung cơ chế pháp lý nhân dân kiểm

soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực lập pháp ở Việt Nam.

Page 53: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

48

Thứ hai, nhân dân kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp Điều 94, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Chính phủ là cơ quan hành

chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội" [106, tr.49]. Quyền hành pháp bao gồm: Quyền đưa trình chính sách quốc gia và quyền lập qui, quyền hành chính. Quyền đưa trình chính sách quốc gia và quyền lập qui là quyền đưa trình Quốc hội các chính sách của quốc gia và quyền ban hành những văn bản pháp qui dưới luật để cụ thể hoá luật do các cơ quan lập pháp thông qua trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và quyền ban hành các văn bản quy phạm xuất phát từ quyền hành pháp của mình. Quyền hành chính là quyền tổ chức quản lý tất cả các mặt, các quan hệ xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước. Quyền hành chính bao gồm các quyền về tổ chức nhân sự trong cơ quan hành chính, quyền tổ chức thực thi và áp dụng pháp luật trong các mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân, tổ chức với tổ chức và giữa các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội và các hoạt động đối ngoại khác theo thẩm quyền. Tuy nhiên, chức năng nhiệm vụ quan trọng nhất trên lĩnh vực hành pháp là tổ chức ban hành và thực thi chính sách, pháp luật. Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, đương nhiên Chính phủ phải chấp hành và thi hành nghị quyết của Quốc hội, chịu sự giám sát hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đều phải báo cáo công tác trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và trước Nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình. (Điều 94, 98, 99, Hiến pháp năm 2013). Điều 101, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị- xã hội được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan" [106, tr.54].

Quy định Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng báo cáo công tác trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, trước nhân dân; Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị- xã hội tham dự các phiên

Page 54: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

49

họp của Chính phủ; quy định Chính phủ: "Phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình" [106, tr.52] là để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức đại diện của mình kiểm soát, giám sát hoạt động của Chính phủ. Mặt khác, còn có ý nghĩa như một sự công khai, minh bạch hoạt động của Chính phủ trước nhân dân và các tổ chức đại diện cho nhân dân. Ngoài ra, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật công đoàn, Luật thanh niên, Luật người cao tuổi, Luật báo chí, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật tiếp công dân, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật thanh tra…; và các quy chế phối hợp giữa Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể chính trị- xã hội chính là nội dung cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước về lĩnh vực hành pháp ở Việt Nam.

Thứ ba, nhân dân kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp Quyền tư pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên các quy

định của pháp luật. Theo Điều 102, Hiến pháp năm 2013 thì: "Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, thực hiện quyền tư pháp". Nhiệm vụ của Toà án nhân dân là: "Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" [106, tr.55].

Với quan điểm không có quyền lực nhà nước nào đứng ngoài sự kiểm soát của nhân dân. Quyền tư pháp ở nước ta bị kiểm soát bởi nhân dân thông qua các chế định về xét xử công khai, xét xử tập thể, xét xử có Hội thẩm nhân dân, nguyên tắc tranh tụng, quyền được bào chữa của bị can, bị cáo, đương sự và thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (Điều 102, 103, 104,105, Hiến pháp năm 2013) và trong các bộ luật, đạo luật nhất là các bộ luật tố tụng về tư pháp. Đó là các căn cứ pháp lý để nhân dân trực tiếp tự mình hoặc thông qua các thiết chế đại diện của nhân và mang tính nhân dân kiểm soát cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp.

Page 55: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

50

Thứ tư, nhân dân kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước của chính

quyền địa phương

Điều 110, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Việc thành lập, giải thể, nhập,

chia, điều chỉnh đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương" [106,

tr.45]. Như vậy, ý kiến của nhân dân có yếu tố quyết định đồng thời được coi là

một thủ tục bắt buộc trong việc thực hiện nội dung này. Điều 113, Hiến pháp

năm 2013 quy định: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

phương… chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương" [106, tr.60]. Điều 115,

Hiến pháp năm 2013 quy định:

Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng

của Nhân dân ở địa phương; phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự

giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về

hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu,

kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

của Nhân dân [106, tr.60-61].

Và quy định Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông

báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng

chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội động viên nhân dân cùng nhà

nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

Ngoài một loạt quy định nêu trên, Hiến pháp còn quy định: "Chủ tịch Uỷ ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa

phương được mời tham dự các kỳ họp HĐND và được mời tham dự hội nghị

UBND cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan" [106, tr.48].

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các luật như: Luật tổ chức Chính phủ,

Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật giám sát của Quốc

hội, Luật thanh tra, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tiếp công dân, Luật bồi

thường trách nhiệm nhà nước, Luật báo chí... sẽ tiếp tục được hoàn thiện, tăng

Page 56: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

51

cường hoạt động kiểm soát, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước của chính

quyền địa phương.

Thứ năm, nhân dân kiểm soát người thực thi quyền lực nhà nước Về phương diện pháp lý, nhân dân thông qua cơ chế bầu cử và bãi miễn,

bãi nhiệm đại biểu dân cử để lựa chọn người xứng đáng đảm nhiệm các công việc của nhà nước. Ngoài ra, hoạt động giám sát đối với đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước theo hiến pháp và pháp luật cũng là nội dung quan trọng của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Nội dung kiểm soát này toàn diện, rộng khắp, không loại trừ bất kỳ ai, ở bất kỳ cương vị nào trong bộ máy nhà nước. Quy định lấy ý kiến nhân dân đối với cán bộ, công chức, đảng viên nơi cư trú; lấy ý kiến cán bộ, nhân viên nơi công tác của người đảm trách chức vụ nhà nước; hoạt động tiếp xúc cử tri, báo cáo công tác trước cử tri, trả lời chất vấn trước cử tri của đại biểu dân cử... có vai trò quan trọng và ý nghĩa thiết thực ngăn ngừa, phát hiện, chấn chỉnh các biểu hiện xa dân, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân và các biểu hiện tiêu cực khác, góp phần hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

2.2.2. Phương thức hoạt động của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Phương thức là phương pháp, cách thức, quy trình, thủ tục dùng để tác động đến đối tượng cần điều chỉnh. Phương thức vận hành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam là những phương pháp, cách thức, quy trình, thủ tục do pháp luật quy định mà thông qua đó hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân được thực hiện thuận tiện, có hiệu lực và hiệu quả.

Phương thức nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước rất phong phú, đa dạng, được hiểu là toàn bộ các công cụ, phương tiện, phương pháp, cách thức do pháp luật quy định để sử dụng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quyền lực nhà nước, làm cho quyền lực nhà nước vận hành đúng hướng, đúng mục đích, không xâm phạm đến quyền làm chủ, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của

Page 57: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

52

nhân dân. Địa vị pháp lý và quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước được hiến pháp, pháp luật ghi nhận, trong đó hình thức để nhân dân thực hiện cũng được xác lập phù hợp với vai trò, vị trí, tính chất, đặc điểm của mỗi chủ thể. Theo Hiến pháp năm 2013, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước theo các phương thức sau đây:

Một là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp do hiến pháp quy định. Nhân dân với tư cách là chủ thể, chủ nhân của quyền lực nhà nước, vì thế Hiến pháp có nhiều quy định về quyền của công dân có mục đích và nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước. Trước hết, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện quyền bầu cử theo nhiệm kỳ. Theo đó, bầu cử là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất để nhân dân thiết lập nên nhà nước bằng sự tín nhiệm của mình. Phương thức bầu cử càng dân chủ thì sự lựa chọn của nhân dân càng chính xác và quyền uy của nhà nước càng chính đáng. Chỉ khi có sự hợp pháp và chính đáng thì trách nhiệm, nghĩa vụ giữa nhân dân và nhà nước mới được xác lập đầy đủ và chủ quyền nhà nước trong chế độ dân chủ mới thực sự thuộc về nhân dân.

Bầu cử là phương thức buộc người thắng cử phải có trách nhiệm với nhân dân bầu ra mình. Bằng bầu cử mà nhân dân có quyền bày tỏ sự tín nhiệm của mình đối với người cầm quyền. Bầu cử chính là phương thức để các công dân kiểm soát quyền lực nhà nước do mình ủy thác... Bầu cử là một trong những cách thức buộc các quan chức nhà nước phải làm tròn nhiệm vụ và quyền hạn mà nhân dân giao cho [63, tr.170-171].

Cùng với quy định về bầu cử, các quy định về bãi nhiệm đại biểu dân bầu khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân là phương thức quan trọng của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, được các bản hiến pháp và các luật về tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, HĐND và UBND quy định.

Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn bằng việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân được hiến pháp, pháp luật ghi nhận như: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu

Page 58: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

53

tình, tham gia biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về những vấn đề của cơ sở, địa phương, cả nước và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở…

Hình thức, phương pháp kiểm soát quyền lực nhà nước của các chủ thể

trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chủ yếu là hoạt

động giám sát và phản biện đối với việc xây dựng, ban hành và thực thi các

chính sách, pháp luật của nhà nước, biểu hiện cụ thể là: Công dân trực tiếp

kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc kiến nghị, yêu cầu, tham gia ý kiến về

việc xây dựng, ban hành và thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền.

Hai là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các tổ chức đại diện

như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận. Hiến pháp

năm 2013 đã xác lập vai trò và địa vị pháp lý của Mặt trận và các tổ chức thành

viên chủ yếu của Mặt trận thực hiện chức năng, nhiệm vụ "đại diện, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân" [106, tr.11] "giám sát,

phản biện xã hội" [106, tr.12]. Mặt trận và các tổ chức thành viên có chức năng

giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công

chức, viên chức; cùng cơ quan nhà nước giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị

của nhân dân; tham gia Hội đồng tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư pháp,

giới thiệu bầu và cử Hội thẩm Tòa án nhân dân; tham dự các phiên họp của

Chính phủ, UBND, các kỳ họp của Quốc hội, HĐND (Điều 101, 116, Hiến pháp

năm 2013). Tổ chức các thiết chế dân chủ ở cơ sở giám sát các hoạt động đầu tư

phát triển kết cấu hạ tầng, công trình phúc lợi phục vụ dân sinh theo quy định

của pháp luật.

Thông qua Công đoàn, nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh

tế - xã hội, tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà

nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa

vụ người lao động (Điều 10, Hiến pháp năm 2013).

Page 59: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

54

Ba là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thông qua cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Các thiết chế dân chủ ở cơ sở do nhân dân trực tiếp lập nên như: ban TTND, ban giám sát đầu tư cộng đồng, tập thể lao động để kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện các quy định về thực hiện dân chủ và quy chế dân chủ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước.

Bốn là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các phương tiện truyền thông đại chúng. Các phương tiện truyền thông đại chúng kết hợp với thực hiện tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản, tiếp cận thông tin... là một phương thức quan trọng để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả.

Năm là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo về các việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền. Điều 30, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân" [106, tr.19] và "Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật" [106, tr.19]. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được coi là quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chính mình. Pháp luật về khiếu nại, tố cáo hiện hành đã quy định khá toàn diện về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và trên tất cả các mặt hoạt động của cơ quan nhà nước để nhân dân thực hiện.

Các phương thức nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nói trên được tiến hành theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Đây là cách thức để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước đồng thời là phương tiện để nhân dân thực hiện quyền của mình theo hiến pháp và pháp luật. Trình tự là việc sắp xếp những việc làm cụ thể theo thứ tự trước, sau. Thủ tục được hiểu là những bước cụ thể phải làm theo một trật tự nhất định. Trình tự, thủ tục trong cơ chế pháp lý

Page 60: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

55

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chính là những cách thức được quy định theo một trật tự cụ thể do luật định, qua đó nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thuận tiện, hiệu quả. Việc luật hóa phương thức, trình tự, thủ tục có ý nghĩa pháp lý buộc cả chủ thể và đối tượng kiểm soát đều phải tuân thủ nghiêm túc, tránh việc tùy tiện, trùng chéo trong thực hiện.

Hậu quả pháp lý từ hoạt động nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là kết

quả đạt được của mục đích nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Yếu tố này bảo

đảm để các đối tượng kiểm soát phải chịu trách nhiệm theo pháp luật về những bất

cập, thiếu sót, khuyết điểm mà chủ thể kiểm soát nêu ra. Ví dụ như: “Đại biểu Quốc

hội, Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi

không còn xứng đáng với tín nhiệm của Nhân dân” [106, tr.11]...

2.3. CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

2.3.1. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một

số nước được thực hiện chủ yếu thông qua các thể chế chính trị, pháp lý và

các thiết chế mang tính nhân dân

2.3.1.1. Thể chế của hầu hết các nước đều khẳng định nhân dân là chủ

thể của quyền lập hiến, quyền thiết lập nên quyền lực nhà nước và kiểm soát

quyền lực nhà nước; ghi nhận đầy đủ các quyền con người, quyền công dân,

nguyên tắc công khai minh bạch hoạt động của nhà nước và phương thức

bầu cử dân chủ, cạnh tranh người đảm nhiệm chức vụ nhà nước

* Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, quyền thiết lập nên quyền lực

nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước

Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và là chủ thể duy nhất

của quyền lập hiến, quyền thiết lập nên nhà nước. Hiến pháp được xem là đạo

luật gốc của mọi quốc gia dân chủ, pháp quyền, là phương tiện để nhân dân giao

quyền, ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho nhà nước. Chủ quyền nhân

dân được đề cao và khẳng định trong hiến pháp là cơ sở hiến định để xác lập

nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước.

Page 61: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

56

* Quyền con người, quyền công dân được quy định đầy đủ trong hệ thống pháp luật

Quyền con người được quan niệm có nguồn gốc từ quyền tự nhiên, có ý nghĩa và giá trị thúc đẩy xã hội tiến bộ, phát triển vì vậy, các nhà nước pháp quyền tư sản phát triển luôn đề cao và ghi nhận đầy đủ các quyền đó trong hệ thống pháp luật. Theo đó, các quyền bầu cử, quyền tự do ngôn luận, quyền hội họp, lập hội, khiếu nại, tố cáo, thành lập các đảng phái, bỏ phiếu trưng cầu ý dân… luôn được coi là những quyền cơ bản và được bảo đảm thực hiện trong thực tế giúp cho nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả.

* Quy định về sự công khai, minh bạch của hoạt động quyền lực nhà nước Nhân dân chỉ kiểm soát được quyền lực nhà nước khi nhà nước công khai,

minh bạch hoạt động của mình. Đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước chứ không phải quyền của nhà nước để có thể tự giới hạn sự công khai, minh bạch của mình. Thông qua việc công khai, minh bạch, nhân dân sẽ biết và đưa ra quyết định của mình đối với vấn đề mà nhà nước hỏi ý kiến như: các cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân, thảo luận và phúc quyết Hiến pháp, tham vấn ý kiến nhân dân, thăm dò dư luận xã hội; thực hiện phản biện đối với các chính sách của nhà nước, làm cho các chính sách đó tránh được những sai lầm, hạn chế được tình trạng chủ quan duy ý chí trong quá trình hoạch định và thực thi các chính sách. Vì vậy, thể chế của hầu hết các nước dân chủ, pháp quyền trên thế giới đều ghi nhận nguyên tắc công khai, minh bạch của nhà nước trong hệ thống pháp luật và coi đó là phương thức để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

* Quy định về bầu cử dân chủ, cạnh tranh người đảm nhiệm chức vụ nhà nước Bầu cử người đảm nhiệm chức vụ nhà nước là hình thức dân chủ trực tiếp

cao nhất của người dân, là hình thức uỷ quyền từ nhân dân tới những người đại diện. Đó còn là quá trình để hình thành nên cơ quan nhà nước, giao thẩm quyền cho những cá nhân đảm trách chức vụ trong các cơ quan nhà nước và chuyển giao quyền lực nhà nước. Chính vì vậy mà nó được xem là một phương thức để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, được thể chế hầu hết các nước dân chủ tư sản ghi nhận. Bầu cử chỉ được gọi là tự do, dân chủ khi ý chí đích thực của

Page 62: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

57

chính người dân được bảo đảm thông qua các trình tự, thủ tục công khai, minh bạch, với phương thức thuận tiện, trung thực, khách quan.

Việc bầu cử các chức danh nguyên thủ quốc gia, nghị sĩ quốc hội ở các nước dân chủ tư sản luôn là cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các ứng cử viên trong các đảng phái với nhau, giữa ứng cử viên của các đảng phái chính trị với nhau và giữa đảng cầm quyền với đảng đối lập. Theo đó, ứng cử viên của các đảng phái vừa tranh cử theo nguyên tắc, điều lệ trong đảng của mình vừa phải tuân thủ theo các nguyên tắc do hiến pháp, pháp luật quy định. Bằng lá phiếu của mình, nhân dân tự quyết định bầu cho đảng nào và cho ai. Nếu đảng cầm quyền và những người đại diện cho đảng đó không còn uy tín hay lạm dụng quyền lực cho lợi ích riêng thì các cử tri sẽ bỏ phiếu cho đối lập vào cuộc bầu cử tới. Như vậy, bầu cử dân chủ, cạnh tranh người giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước được coi là một phương tiện pháp lý để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

Những nội dung trên đây là quy định phổ quát trong hiến pháp và pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự có hiệu quả ở các nước dân chủ tư sản phát triển như: Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản, Đức và các nước Tây Âu, Bắc Âu...

2.3.1.2. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở các nước dân chủ, pháp quyền tư sản thường được thực hiện bằng các thiết chế bao gồm: các đảng phái chính trị đối lập, các tổ chức xã hội dân sự và các phương tiện truyền thông đại chúng

- Các đảng phái chính trị đối lập Nhà nước, xét đến cùng vẫn là tổ chức chính trị của giai cấp mà ở đó giai

cấp nào có năng lực tổ chức thống nhất được lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc bằng con đường hợp pháp, hợp lý thì có nghĩa nắm được quyền lực nhà nước. Việc thay đổi chính phủ, nghị viện hay chế độ phụ thuộc vào sự tiến bộ hay tha hoá quyền lực nhà nước do chính đảng phái cầm quyền đó nắm giữ. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập vừa là đặc điểm vừa là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước ở các nước dân chủ tư sản trên thế giới. Khi đảng nào được lòng dân thì đồng nghĩa với thắng cử trong cuộc bầu cử cạnh tranh và giành được

Page 63: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

58

quyền lực nhà nước, trở thành đảng cầm quyền. Vì thế, đảng chính trị luôn đại diện cho giai cấp, tầng lớp, nhóm lợi ích trong xã hội và việc thu hút sự ủng hộ của cử tri luôn là mục tiêu càng nhiều càng tốt thậm chí việc tranh giành sự ủng hộ của cử tri đảng đối lập cũng là ưu tiên của bất kỳ đảng phái nào. Sự ra đời và phát triển của các đảng phái chính trị có liên quan chặt chẽ với quyền tồn tại của các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội, các nhóm lợi ích hoặc hậu thuẫn hoặc kiểm soát, chi phối lãnh đạo và hạn chế quyền của đảng cầm quyền tùy theo mục đích của mối quan hệ ấy. Các đảng phái chính là các lực lượng chính trị đại diện cho các bộ phận nhân dân đấu tranh, tranh giành quyền lực nhà nước với nhau và với đảng cầm quyền. Vì thế, cơ chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập chính là một phương thức để.nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

Nguyên tắc đa nguyên chính trị được Hiến pháp Cộng hoà Pháp năm 1958 quy định: "Các đảng phái và các nhóm chính trị giành quyền lực qua kết quả bầu cử. Các đảng phái và các tổ chức chính trị được tự do thành lập và hoạt động trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc về chủ quyền quốc gia và dân chủ" [17, tr.386]. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước Pháp, địa vị pháp lý của các chính đảng được ghi nhận nhằm góp sức vào việc thể hiện ý chí của số đông dân chúng. Các đảng, phái, nhóm chính trị có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội ở nước Pháp và được coi là “thành quả của loài người trong việc đi tìm những phương thức thực hành dân chủ” [70, tr.111]. Thông qua đó, nhân dân thể hiện chính kiến của mình đối với quyền lực nhà nước, khẳng định vị thế và tiếng nói của mình trong đời sống chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước. Đó còn là nơi để nhân dân được tự do biểu đạt nhu cầu, lợi ích của mình và tăng cường mối liên kết giữa các cá nhân với nhau tạo nên sức mạnh cộng đồng vì mục tiêu phát triển chung.

Ở Mỹ, mọi đảng phái chính trị, kể cả đảng cầm quyền, nhóm lợi ích... trong hoạt động cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng và sự ủng hộ của cử tri đều phải trong khuôn khổ quy định của hiến pháp, pháp luật, của "luật chơi" đã thoả thuận. Theo đó, mọi vi phạm đều bị tố cáo, bị cử tri phản ứng và pháp luật trừng phạt bất kể là ai. Hoạt động đảng phái chính trị rộng rãi, cạnh tranh theo luật

Page 64: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

59

cùng với cơ chế bầu cử dân chủ người đứng đầu nhà nước, nghị sĩ Quốc hội...là những nội dung có ý nghĩa quan trọng để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả.

Tại Nga, Điều 13, Hiến pháp năm 1993 quy định: "Ở Liên bang Nga thừa nhận sự đa dạng về tư tưởng; Không một hệ tư tưởng nào được coi là chính thức và bắt buộc" [145, tr.58] và "Ở Liên bang Nga thừa nhận sự đa nguyên, đa đảng" [145, tr.58]. Có thể nói, từ một nước theo mô hình Xô viết, có xu hướng độc tôn tư tưởng một cách cực đoan, Liên bang Nga đã có sự thay đổi quan trọng về đường lối chính trị, tư tưởng theo mô hình phổ biến của nhân loại. Cùng với nước Nga, nhiều nước thuộc Đông Âu và Liên Xô cũ cũng thay đổi thể chế chính trị, pháp lý theo con đường dân chủ tư sản, đi liền với đó là sự thừa nhận đa nguyên, đa đảng.

So với các nước Âu, Mỹ, đảng chính trị ở Nhật Bản mang những đặc điểm tương đối khác do tác động của truyền thống lịch sử, văn hóa và chính trị. Ở các nước Âu, Mỹ tổ chức quần chúng yếu, hoạt động thất thường trong khu vực bầu cử còn ở Nhật Bản các đảng chính trị thường liên kết và thông qua các tổ chức kinh tế, công đoàn hoặc các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội để tập hợp phiếu, nhân sự cũng như giúp đỡ về tài chính để hoạt động chính trị. Vì thế, các đảng chính trị dễ bị các tổ chức ngoài đảng chi phối trong việc quyết định chính sách và hoạt động lập pháp.

Ngoài chính phủ đang cầm quyền, các đảng chính trị không cầm quyền có vai trò rất quan trọng. Pháp luật nước Anh cho phép thành lập “Nội các trong bóng tối” của các đảng đối lập, có nhiệm vụ tìm ra những khiếm khuyết trong chính sách của đảng cầm quyền, giám sát những người đang làm nhiệm vụ cai trị đất nước dưới sự hướng dẫn của đảng cầm quyền. Đây được gọi là sự đối lập có trách nhiệm, chúng có tác dụng nhất định giúp nhà nước tư sản thận trọng hơn khi đưa ra các quyết định của mình.

Hoạt động của đảng cầm quyền luôn gây ảnh hưởng đến đời sống chính trị và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho các cơ quan nhà nước hoạt động không theo quy định của pháp luật và trở nên hình thức, có sự phân chia quyền

Page 65: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

60

lực nhà nước giữa các đảng. Ở Cộng hòa Xingapo, đảng cầm quyền PAP của Xingapo lãnh đạo Chính phủ và chi phối Quốc hội. Tuy nhiên, giữa chúng có sự phân chia quyền lực: các chủ trương, đường lối, chính sách lớn của Đảng phải được Quốc hội thông qua mới được thi hành, và Chính phủ là cơ quan triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối đó. Vì như vậy nên uy tín của đảng cầm quyền và chính phủ luôn gắn liền với nhau, vững mạnh hay suy yếu luôn phụ thuộc vào nhau.

Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua cơ chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là hiện thực phổ biến trên thế giới và hiệu quả của cơ chế đó luôn thuộc về các nước dân chủ tư sản phát triển. Loại trừ những điểm hạn chế, bất cập của mỗi nước trong thực hiện thì nhân tố hợp lý của cơ chế đó là buộc mỗi đảng cầm quyền phải nỗ lực nhiều hơn trong thực thi quyền lực công.

- Các tổ chức xã hội dân sự Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự được coi là ba

trụ cột của sự ổn định và phát triển trong mỗi quốc gia, là xu hướng chung ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay. Tổ chức xã hội dân sự được hiểu là tổ chức của những người hoạt động phi nhà nước, phi lợi nhuận, không tìm kiếm quyền lực quản lý. Cốt lõi của tư tưởng về xã hội dân sự là lý thuyết về dân chủ, quyền con người, quyền công dân, về bản chất tự do của xã hội và mỗi cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước và thị trường. Các tổ chức xã hội dân sự tập hợp, đoàn kết mọi người nhằm thúc đẩy các mục tiêu chung và lợi ích chung. Các tổ chức này hiện diện trong đời sống công cộng, đại diện thể hiện lợi ích, giá trị của mình (thành viên, tổ chức) và của người khác được thành lập theo pháp luật và dựa trên cơ sở đạo đức, văn hoá, tôn giáo hoặc từ thiện...Các tổ chức xã hội dân sự bao gồm: các tổ chức phi chính phủ (NGO), hiệp hội nghề nghiệp, các quỹ, các viện nghiên cứu độc lập, các tổ chức cộng đồng (CBOs), các tổ chức tín ngưỡng, các tổ chức nhân dân, các phong trào xã hội và công đoàn.

Quan điểm phổ biến của phương Tây coi các tổ chức xã hội dân sự là một bộ phận cấu thành xã hội, không hoàn toàn tách biệt với nhà nước, không hẳn đối lập với nhà nước. Các nhà nước dân chủ tư sản luôn đề cao, nhấn mạnh vai

Page 66: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

61

trò của xã hội dân sự trong bảo vệ tự do cá nhân, dân chủ trước sự can thiệp của quyền lực nhà nước. Tổ chức xã hội dân sự có vai trò thúc đẩy các công dân tham gia vào các vấn đề công cộng, cụ thể là tham gia vào quá trình hình thành và thực thi chính sách của nhà nước. Đó cũng là cơ chế để người dân chủ động tham gia vào công việc của chính phủ nhằm kiểm soát và làm cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội.

Xã hội dân sự có đặc điểm tự nguyện, tự tổ chức, tự chủ, đa dạng, phi thương mại, phi lợi nhuận, hành động mang tính tập thể, có trách nhiệm giải trình, cam kết minh bạch, tính dân sự và tính dân sự hoá. Nó có sáu chức năng cơ bản được thống kê như sau:

(1) là kênh cho các công dân vận động hành lang đối với các thiết chế, hệ thống chính trị và đại diện cho các lợi ích xã hội. Được coi là điều kiện để điều tiết chính trị theo hướng dân chủ; (2) thực hiện chức năng tự điều tiết chính trị trong xã hội; (3) tổ chức các đối thoại chính trị và quá trình tương tác công cộng; (4) cung cấp các hoạt động tự lực xã hội dựa vào cộng đồng; (5) thúc đẩy quá trình xã hội hoá giáo dục, chính trị, văn hoá, dân chủ cho các công dân; (6) tạo ra, duy trì sự đoàn kết và nguồn vốn xã hội ở cộng đồng [127, tr.236-237].

Với đặc điểm và chức năng như vậy, hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự một mặt hỗ trợ nhà nước cùng làm, cùng giải quyết nhiều vấn đề xã hội một cách tự nguyện, chủ động mặt khác, đó là cơ chế dân chủ để công dân thông qua các tổ chức của mình kiểm soát, giám sát trách nhiệm của nhà nước, khiến nhà nước phải cởi mở, minh bạch hơn hoạt động của mình để đáp ứng nhu cầu của dân chúng, nhất là trên lĩnh vực kinh tế.

Ở Mỹ các hội, hiệp hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các chính sách của Chính phủ:

Hiệp hội nghề nghiệp là một hình thức của các nhóm lợi ích trong xã hội, bao gồm Hiệp hội y tế, Hội luật gia, Hội cựu chiến binh, Hội nhà báo, Hội những người về hưu v..v., các nhóm lợi ích có vai trò nhất định trong sự tham gia và giám sát hoạt động của quyền lực nhà nước,

Page 67: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

62

và là công cụ đắc lực giúp người dân tham gia quản lý xã hội. Nhóm lợi ích đại diện cho các hội viên dựa trên lợi ích chung và bảo vệ lợi ích đó. Thông qua các nhóm lợi ích góp phần giám sát quyền lực nhà nước [27, tr.63].

Các thiết chế xã hội dân sự có vai trò quan trọng đối với quyền lực nhà nước như: các nhóm lợi ích chuyên vận động hành lang tác động vào chính sách của chính phủ và các: "Tổ chức phi lợi nhuận, phi đảng phái, hoạt động bảo vệ quyền lợi của các nhân chứng dám đứng ra bảo vệ công chúng, tiến hành các cuộc điều tra để giúp những người chống tiêu cực, lật tẩy các hành vi trả thù, trù dập, đòi hỏi giới quan chức luôn có trách nhiệm và sửa chữa các vấn đề được nêu lên" [88, tr.113].

Ở Nhật Bản các tổ chức xã hội dân sự rất phát triển, đó là những hội, hiệp hội và tổ chức khác nhau hoặc liên kết hoặc độc lập luôn tác động, giám sát quyền lực nhà nước; nhà nước trên cơ sở pháp luật luôn mở rộng và tạo điều kiện để các tổ chức xã hội dân sự phát triển. Chính phủ Nhật Bản luôn coi trọng, lắng nghe, tiếp thu những tham gia, đòi hỏi, yêu cầu hợp lý của các tổ chức xã hội dân sự để hoàn thiện các chính sách của mình. Trong khi đó ở Malaixia các nhóm lợi ích luôn đối lập với chính sách của Chính phủ và Chính phủ luôn coi đó là mối bất lợi dù tính chất hoạt động của nó không có mục đích lật đổ. Tuy nhiên, điểm chung của các tổ chức xã hội dân sự là đều góp phần làm cho đảng cầm quyền, các Chính phủ phải có ý thức về trách nhiệm trong sử dụng quyền lực nhà nước thông qua việc ban hành và thực hiện chính sách của mình.

Đối với các nước Trung và Đông Âu do chịu ảnh hưởng sâu sắc của mô hình Xô viết nên phát triển xã hội dân sự rất hạn chế, chủ yếu dựa vào các nhân viên nhà nước tham gia vào các mục đích xã hội, giải trí, hiệp hội, nghề là chính. Sau khi khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ thì các tổ chức xã hội dân sự mới được phát triển trở thành kênh chính để công dân tiếp cận thông tin và thực hành dân chủ. Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự được chú trọng trong việc vận động xã hội, xây dựng, tuân thủ luật pháp, giám sát hoạt động nhà nước. Mặt tích cực của việc phát triển các tổ chức xã hội dân sự ở Trung và Đông Âu thể hiện trên các mặt sau:

Page 68: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

63

Phát huy mọi tiềm năng, mọi nguồn lực của xã hội, của người dân; thực hiện mạnh mẽ tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch; đấu tranh chống lại những bất công, độc đoán, chuyên quyền; đưa ra những ý kiến phản biện xã hội; nhằm mục tiêu bảo vệ những người có địa vị xã hội yếu kém; chống lại những hành động bạo lực; thực hiện quyền cơ bản của con người; nêu cao tinh thần bình đẳng giới; tăng cường quyền lực của người dân; đáp ứng các mối quan tâm và nhu cầu xã hội; xây dựng các khung pháp lý nhằm cải thiện mối quan hệ giữa xã hội dân sự với nhà nước và thị trường... [127, tr.216].

Các nước Bắc Âu như Thuỵ Điển, Na Uy, Đan Mạch, Aixơlen, Phần Lan đều là những nước phát triển. Ngoài tự do, dân chủ và đề cao tính công khai, minh bạch hoạt động quyền lực nhà nước thì đều coi trọng phát triển các tổ chức xã hội dân sự. Thuỵ Điển được coi là mô hình mẫu về nhà nước phúc lợi xã hội. Theo đó, nhà nước luôn tạo điều kiện để các lực lượng xã hội tích cực tham gia các hiệp hội, đảng phái chính trị, qua đó sẽ tác động ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chính trị của quốc gia. Các tổ chức xã hội dân sự như: phong trào quần chúng, các tổ chức lợi ích và hiệp hội có vai trò bổ sung và đóng góp quan trọng vào quan điểm của Chính phủ, được coi như trường học cho dân chủ và là công cụ để chia sẻ trách nhiệm xã hội với nhà nước. Như vậy, so với các quốc gia khác ở Tây Âu, Trung và Đông Âu, sự khác biệt giữa nhà nước và xã hội dân sự ở Thuỵ Điển rất nhỏ. Các lực lượng xã hội dân sự được tổ chức, hoạt động có hiệu quả đã góp phần ổn định, phát triển của đất nước. Điều này cho thấy rằng xây dựng xã hội dân sự có vai trò, tác dụng và ý nghĩa rõ nét trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Hay nói cách khác, thúc đẩy phát triển xã hội dân sự là một trong những giải pháp để kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài có hiệu quả.

- Các phương tiện truyền thông đại chúng Công khai, minh bạch hoạt động thực thi quyền lực nhà nước là điều kiện

quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Các phương tiện

truyền thông đại chúng là một biện pháp để công khai, minh bạch hoạt động

Page 69: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

64

quyền lực nhà nước trước nhân dân. Trong thời đại ngày nay với khoa học công

nghệ vượt trội, truyền thông đại chúng có ưu thế rõ rệt, ngoài các chức năng phổ

biến khác thì truyền thông đại chúng: "thực hiện hai chức năng chính: Thứ nhất,

thông báo cho công chúng biết các nhà lãnh đạo của mình đang làm gì. Thứ hai,

giám sát các hành động của Chính phủ" [70, tr.227]. Cung cấp thông tin nhanh,

rộng, toàn diện và công khai là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước mạnh

mẽ, cơ bản nhất của truyền thông đại chúng. Cùng với công luận, truyền thông

đại chúng luôn là kênh kiểm soát quyền lực nhà nước quan trọng, đặc biệt là với

các quốc gia dân chủ. Thể chế chính trị, pháp lý có vai trò quan trọng đối với tác

dụng và sự phát triển của truyền thông đại chúng và ngược lại truyền thông đại

chúng cũng có vai trò tạo lập và thúc đẩy dân chủ, là một trong những biểu hiện

của dân chủ, đồng thời là phương tiện bảo đảm dân chủ trong quan hệ với quyền

lực nhà nước. Một mặt, nhà nước sử dụng phương tiện truyền thông để thực hiện

quyền lực và mặt khác, nhân dân sử dụng phương tiện truyền thông để kiểm soát

quyền lực nhà nước. Khi phân loại theo tính chất chủ thể thì đó là một thiết chế

(lực lượng hay tổ chức) mang tính nhân dân (xã hội). Khi xem xét vai trò thông

tin thì đó là phương tiện. Nó được quan niệm là hoạt động chuyển giao các thông

tin có tính phổ biến trong xã hội một cách rộng rãi và công khai đến công chúng.

Các phương tiện truyền thông đại chúng ở các nước dân chủ tư sản vô

cùng đa dạng, phong phú về chủng loại, sở hữu và khả năng thông tin, tác động

đến công chúng; chúng được sử dụng cho các mục đích khác nhau, đặc biệt là sử

dụng cho mục đích chính trị và xã hội. Là thiết chế rộng rãi và hoạt động tự do

nên các phương tiện truyền thông đại chúng được coi như ngọn đèn pha soi rọi

mọi ngóc ngách xã hội, phơi bày, mổ xẻ hiện thực xã hội, kết quả đó làm cho

công luận phản ứng buộc các chính phủ phải nghiêm túc thực thi pháp luật và

các chính sách hợp lòng dân. Truyền thông đại chúng không đơn thuần chỉ là

công cụ, phương tiện của đảng cầm quyền, giai cấp cầm quyền, chính phủ hay

giới chủ mà nó còn là diễn đàn xã hội, diễn đàn của nhân dân, là công cụ,

phương tiện hữu hiệu để kiểm soát quyền lực nhà nước. Một thực tế cho thấy các

Page 70: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

65

nước phát triển đều là những nước dân chủ mà ở đó các phương tiện truyền

thông đại chúng được tự do thành lập và hoạt động với nhiều hình thức sở hữu

trên cơ sở quy định của pháp luật.

Ở Mỹ, các phương tiện truyền thông đại chúng rất đa dạng và phát triển,

phần lớn thuộc sở hữu tư nhân, nó vừa có mục đích kinh doanh vừa có mục đích

chính trị và được coi là "quyền lực thứ tư" sau quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp. Các phương tiện truyền thông đại chúng luôn đóng một vai trò hết sức

quan trọng trong hoạt động chính trị, xã hội của nước Mỹ, nó tác động, ảnh

hưởng sâu sắc đến cả chính quyền và người dân, đặc biệt nó là công cụ xã hội có

quyền lực mà các chủ thể chính trị luôn phải kiêng dè. Mặc dù không thực hiện

quyền lực theo phân công của hiến pháp nhưng các phương tiện truyền thông đại

chúng có thể định hướng được công chúng và điều này khiến nó trở thành nhân

tố quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội của nước Mỹ.

Ở Vương quốc Anh, truyền thông báo chí có lịch sử lâu đời và có xu

hướng phát triển ổn định, 70% nhật báo là thuộc về các tập đoàn truyền thông.

Truyền thông đại chúng ở Anh ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống

chính trị, xã hội của đất nước, là chủ thể đồng thời là phương tiện quan trọng

kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân.

Ở Cộng hoà Pháp, báo chí là sản phẩm ra đời sớm và phát triển mạnh, đa

dạng. Báo của các đảng phái chính trị, các tôn giáo, các ngành, giới, hội, hiệp hội

được hoạt động tự do nhằm tuyên truyền tư tưởng, quan điểm, đường lối đến

công chúng, thu hút, vận động công chúng. Tất cả các tờ báo lớn đều có đài phát

thanh riêng. Hoạt động phát thanh và truyền hình cũng phát triển mạnh bao gồm

các chương trình của nhà nước, của địa phương với cả sở hữu nhà nước và tư

nhân. Các phương tiện truyền thông đại chúng ở Pháp rất phong phú về loại hình

với quy mô và sở hữu khác nhau. Điều khác biệt với phương tiện truyền thông

đại chúng của các nước Anh- Mỹ (sở hữu tư nhân là chủ yếu) thì là ở Pháp, nhà

nước trực tiếp quản lý một số hãng thông tấn, cơ quan báo chí và chi phối thông

tin trên cả nước.

Page 71: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

66

Vấn đề chung trên thế giới là các phương tiện truyền thông đại chúng và

hoạt động truyền thông đều phải chịu sự quản lý của nhà nước theo pháp luật.

Quản lý ở đây không theo nghĩa là chủ quản, chỉ đạo mà chính là xác lập thể chế,

khung pháp lý và là trọng tài bảo đảm cho hoạt động truyền thông đại chúng

không vượt ra ngoài khuôn khổ, giới hạn mà pháp luật quy định. Mặt khác,

truyền thông đại chúng luôn gắn liền với thể chế chính trị, pháp lý của mỗi quốc

gia, thể chế đó chi phối và quyết định mặt tích cực hay tiêu cực của truyền thông

đại chúng. Ngoài ra, vai trò của các phương tiện truyền thông đại còn tùy thuộc

vào vị trí của mình trong xã hội và trong quan hệ với nhà nước. Nếu cơ chế dân

chủ tức là pháp luật cho phép truyền thông được hoạt động tự do miễn là tôn

trọng sự thật và trong khuôn khổ pháp luật thì truyền thông có tác dụng rất mạnh

mẽ đến công luận, đến chính phủ, các nhà chính trị, các đảng phái... và đó là một

hình thức đồng thời là một phương tiện quan trọng để nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước.

Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành thông

qua các thể chế và các thiết chế đương nhiên phải dựa trên các yếu tố bảo đảm là

môi trường dân chủ, pháp quyền và điều kiện kinh tế, xã hội phát triển của đất

nước ở mỗi nước. Không có môi trường đó hoặc môi trường đó không được bảo

đảm thì chắc chắn cơ chế sẽ hoạt động hình thức, kém hiệu quả.

2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam

Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ngoài những điểm

chung nói trên, ở mỗi nước còn có sự khác nhau do đặc điểm lịch sử, văn hoá

truyền thống và đặc biệt là do đặc thù của hệ thống chính trị và tổ chức quyền

lực nhà nước ở mỗi nước quyết định. Theo GS.TSKH Đào Trí Úc thì có thể liệt

kê những những yếu tố sau đây có mối quan hệ, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ chế

kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực

nhà nước nói riêng ở các nước trên thế giới: Về hệ thống chính trị; về mối liên hệ

giữa công quyền và xã hội dân sự; về các đảng chính trị và các tổ chức chính trị -

xã hội, nghề nghiệp; các nhóm lợi ích và các nhóm áp lực; về các hình thức vận

Page 72: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

67

động hành lang (lobby); về khả năng xã hội hoá các cơ chế kiểm tra, giám sát,

khả năng kết hợp giữa công quyền và xã hội trong tổ chức giám sát các thiết chế

công quyền [136, tr.216-217].

Trong khuôn khổ nghiên cứu cơ bản cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước của một số nước nêu trên, có thể rút ra những kinh nghiệm

và giá trị tham khảo sau đây:

Một là, quyền lập hiến phải luôn luôn thuộc về nhân dân, bằng hiến pháp,

nhân dân thiết lập nên nhà nước và giao quyền, ủy quyền quyền lực của mình

cho nhà nước. Vì thế, để nhà nước không lạm quyền, nhân dân không mất quyền

thì nhân dân phải là chủ thể của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó,

cần thiết phải thực hiện chế định toàn dân phúc quyết hiến pháp như đã quy định

trong Hiến pháp năm 1946.

Hai là, bầu cử dân chủ theo nhiệm kỳ để chọn ra người lãnh đạo xứng đáng

đại diện cho nhân dân cần được xem là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà

nước. Ngoài nguyên tắc là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín thì cách

thức bầu cử cạnh tranh là ưu thế để nhân dân lựa chọn được người xứng đáng thực

thi quyền lực nhà nước. Bầu cử theo nhiệm kỳ vừa là sự lựa chọn vừa là sự kiểm

soát quyền lực nhà nước của nhân dân. Vì vậy, cần thí điểm bầu cử cạnh tranh,

trực tiếp và toàn dân một số chức danh nhà nước trong thời gian tới.

Ba là, các quyền dân chủ trực tiếp của công dân do Hiến pháp năm 2013

quy định như quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, quyền lập

hội, biểu tình, tham gia quản lý nhà nước… cần sớm được thể chế hóa thành các

đạo luật và phải được thực hiện trên thực tế, kết hợp với việc đề cao thực hiện

nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước và phát

huy vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng, của các tổ chức xã hội

dân sự... để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả.

Bốn là, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế chính trị, pháp lý của đất nước theo hướng dân chủ, pháp quyền XHCN và xây dựng điều kiện kinh tế xã hội ổn định, phát triển, nâng cao đời sống vật chất, trình độ dân trí, nhận thức pháp luật

Page 73: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

68

cho nhân dân, tạo điều kiện để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước được vận hành thông suốt, hiệu quả.

Năm là, những kinh nghiệm, giá trị rút ra từ cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới cần được tham khảo, vận dụng trên cơ sở khoa học, thực tiễn, có chọn lọc, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, tránh bảo thủ, giáo điều hoặc định kiến về hệ tư tưởng.

Tiểu kết chương 2

Nhiệm vụ của chương 2 là xây dựng cơ sở lý luận của việc hoàn thiện cơ

chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Vì thế, có một số nội dung cơ bản sau đây:

- Trên cơ sở làm rõ khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế, vai trò, mục đích và tiêu chí của việc hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, Luận án đã đi sâu phân tích nội dung, phương thức, điều kiện nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng thể hợp thành các yếu tố thể chế, thiết chế và điều kiện bảo đảm để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Các yếu tố hợp thành của cơ chế luôn có mối quan hệ tác động lẫn nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau và vận hành hướng đích làm cho cơ chế hoạt động có hiệu quả. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có nội dung và phương thức riêng do hiến pháp và pháp luật quy định, có vai trò quan trọng trong xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền, phòng chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước, làm cho quyền lực nhà nước mạnh, thực sự là quyền lực của nhân dân.

- Nghiên cứu cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước của một số nước trên thế giới, từ đó đã rút ra những giá trị tham khảo hữu ích cho Việt Nam.

Page 74: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

69

Chương 3 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

3.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước trước hết là nghiên cứu các thể chế của từng thời kỳ mà trọng tâm là hiến pháp. Các thể chế đó có quá trình hình thành và phát triển trên cơ sở thể chế chính trị, pháp lý và điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước theo từng giai đoạn. Có thể phân kỳ nghiên cứu như sau:

* Giai đoạn 1945-1959 Sau khi giành được độc lập tháng 8 năm 1945, Nước Việt Nam mới xây

dựng và ban hành bản Hiến pháp đầu tiên vào ngày 9/11/1946 (còn gọi là Hiến pháp năm 1946). Hiến pháp năm 1946 đã xác lập các nguyên tắc: "Đảm bảo các quyền tự do dân chủ" [129, tr.12] và "Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" [129, tr12]; xác định "nền tảng dân chủ" [129, tr.11] là cơ sở để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia. Hiến pháp đầu tiên của chế độ mới đã khẳng định: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam" [129, tr.12]; “ tất cả công dân đều được tham gia chính quyền” [129, tr13]; quyền công dân (Điều 10); quyền bầu cử, bãi miễn và phúc quyết (Điều 17, 20, 21); "Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm một lần" [129, tr.16]; "Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của Nghị viện" [129, tr.17]; "Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết" [129, tr.17]; "Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra" [129, tr.23]; "xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình" [129, tr.25] và "Các phiên tòa án đều phải công khai, trừ trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc

Page 75: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

70

mượn luật sư" [129, tr.25]. Việc sửa đổi Hiến pháp ngoài thủ tục phải được 2/3 nghị viên yêu cầu và nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi thì có quy định: "những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết" [129, tr.25].

Mặc dù Hiến pháp năm 1946 chưa đề cập đến thuật ngữ nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nhưng tinh thần nhân dân là chủ và làm chủ quyền lực nhà nước được thể hiện khá rõ nét thông qua các quy định của Hiến pháp. Điểm căn bản của Hiến pháp năm 1946 ghi nhận quyền lực của nhân dân là tối cao. Tuy nhiên, các tổ chức đại diện cho nhân dân như: tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức khác chưa ra đời trong Hiến pháp năm 1946, nên có thể nói cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chưa hình thành một cách đầy đủ.

Trong giai đoạn 1945 - 1959, thể chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ngoài Hiến pháp, chủ yếu được thể hiện thông qua các sắc lệnh như: Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 về thành lập Ban thanh tra đặc biệt để xem xét, giải quyết khiếu nại của nhân dân; Sắc lệnh số 09/ SL ngày 29/11/1947 về tiếp nhận, giải quyết đơn tố giác của nhân dân; các sắc lệnh về tổ chức Thanh tra như: Sắc lệnh 138B/SL ngày 18/12/1949, Sắc lệnh 261/SL ngày 28/3/1956...; Các luật như: Luật cải cách ruộng đất năm 1953, Luật về chế độ báo chí năm 1957, Luật quy định quyền tự do hội họp năm 1957, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 1958... Ngoài ra có một số nghị định, thông tư ban hành nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước và trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước đối với nhân dân.

Các thiết chế mang tính nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được quy định cụ thể trong hiến pháp, pháp luật và trên thực tế. Các phương thức nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn ít và không đa dạng. Các yếu tố bảo đảm của cơ chế còn sơ khai. Có thể nói, đây là giai đoạn hình thành và phát triển ban đầu của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

* Giai đoạn 1959-1980 Bối cảnh của đất nước giai đoạn 1959 đến 1975 là đất nước chia làm hai

miền với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải

Page 76: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

71

phóng miền Nam, thống nhất đất nước; năm 1975 đến năm 1980 đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH.

Thể chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước giai đoạn này có bước phát triển mới phù hợp với đặc điểm, điều kiện chính trị và hoàn cảnh của đất nước. Trên cơ sở những ưu điểm của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 tuyên bố: "Tất cả quyền lực trong nước... đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân" [129, tr.31-32]; Việc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín; đại biểu Quốc hội và HĐND có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ nếu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân (Điều 5); "Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân" [129, tr.32]. Hiến pháp năm 1959 quy định bổ sung quyền khiếu nại, tố cáo:

Công dân… có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những việc khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường" [129,tr.38].

Lần đầu tiên thể chế chính trị, pháp lý cao nhất ghi nhận nguyên tắc các cơ quan nhà nước phải chịu sự kiểm soát của nhân dân. Khác với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 quy định về một số thiết chế như: tổ chức công đoàn, hợp tác xã và các tổ chức khác của nhân dân (Điều 10). Tuy nhiên, địa vị pháp lý của các tổ chức không phải là cơ quan nhà nước như: Đảng, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức xã hội - nghề nghiệp… thì vẫn chưa được quy định.

Thời kỳ này có một số văn bản luật, nghị quyết, nghị định, thông tư với vai trò là những bộ phận của yếu tố thể chế được ban hành nhằm hiện thực hóa các quyền của nhân dân, trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước trong chế độ dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, do điều kiện thời chiến và đặc điểm tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình Xô viết nên các yếu tố thể chế, thiết chế của cơ chế pháp lý

Page 77: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

72

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chưa thực sự được chú trọng xác lập và bảo đảm thực hiện trên thực tế.

* Giai đoạn 1980-1992 Hiến pháp năm 1980 được ban hành ở thời kỳ đất nước thống nhất, cả nước

đi lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 1959 đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Ngoài các nguyên tắc và giá trị của các bản hiến pháp trước đó được tiếp

tục ghi nhận, khẳng định, Hiến pháp năm 1980 là bước phát triển mới về thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Nó thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau: Lần đầu tiên Hiến pháp quy định về địa vị chính trị, pháp lý của Đảng cộng sản Việt Nam (Điều 4), của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị- xã hội và các thành viên khác của Mặt trận (Điều 9, 10). Điều 6, Hiến pháp năm 1959 chỉ quy định "Tất cả các cơ quan nhà nước… chịu sự kiểm soát của nhân dân" [129, tr.32] thì Điều 8, Hiến pháp năm 1980 quy định: "Tất cả các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước phải… chịu sự giám sát của nhân dân" [129, tr.71] và ghi nhận "Công dân có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội" [129, tr.87]. Về thực hiện quyền công dân, Hiến pháp năm 1980 có sự điều chỉnh thuật ngữ "những hành vi phạm pháp" [129, tr.38] trong Điều 29, Hiến pháp năm 1959 thành "những việc làm trái pháp luật" [129, tr.92] trong Điều 73 cho chính xác. Đồng thời mở rộng chủ thể có việc làm trái pháp luật bị khiếu nại, tố cáo từ chỉ là "nhân viên cơ quan Nhà nước" [129, tr.38] trong Hiến pháp năm 1959 thành là "cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó" [129, tr.92] và "khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng" [129, tr.92]…

Giai đoạn này thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội VI năm 1986 nên bên cạnh Hiến pháp năm 1980 thì có nhiều chính sách, pháp luật mới được xây dựng, ban hành để đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước như: các luật về tổ chức HĐND và UBND, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, các luật về hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, các pháp lệnh, nghị quyết, nghị định, thông tư về tổ chức và hoạt động của Thanh tra nhà nước và TTND, về khiếu nại, tố cáo… Trên cơ sở

Page 78: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

73

quy định của Hiến pháp và pháp luật, các tổ chính trị xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp cùng các bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội được thiết lập chặt chẽ, hợp lý hơn giúp cho cơ chế vận hành, hoạt động có hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, điểm hạn chế của thể chế giai đoạn này là một số quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 1946 như: Quyền tự do xuất bản, quyền tự do đi ra nước ngoài (Điều 10 Hiến pháp năm 1946) không quy định trong Hiến pháp năm 1959 do điều kiện lịch sử nhưng không được tiếp tục quy định trong Hiến pháp năm 1980. Nhiều quy định của Hiến pháp chậm hoặc không được luật hóa; hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế, bất cập cả về số lượng và chất lượng khiến việc vận hành cơ chế gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao.

* Giai đoạn 1992-2012 Hiến pháp năm 1992 ra đời trong bối cảnh đất nước đang trong tiến trình

tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Hiến pháp năm 1992 có đặc điểm phân kỳ thành hai giai đoạn: từ 1992 - 2001 và từ 2001 - 2012, do được sửa đổi, bổ sung năm 2001.

Kế thừa những ưu điểm của các bản hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định: "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" [129, tr.125]; trách nhiệm của Nhà nước " bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân" [129, tr.125]; Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 6); Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu đó bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân (Điều 7); Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân (Điều 8); Các quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, Công đoàn Việt Nam trong đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội viên, giám sát và phản biện xã hội (Điều 9, 10). Các quy định về quyền công dân, trong

Page 79: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

74

đó có các quyền cơ bản như: Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 53); Quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 54); Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật (Điều 69); thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật (Điều 73); Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước hoặc bất cứ cá nhân nào... (Điều 74). Đại biểu Quốc hội đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của cử tri (Điều 97). Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, người đứng đầu các tổ chức thành viên được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan (Điều 111). HĐND, UBND thông báo tình hình và lắng nghe ý kiến của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân; Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự kỳ họp và hội nghị của HĐND, UBND khi bàn các vấn đề có liên quan (Điều 125). Các quy định của Hiến pháp nêu trên chính là các thể chế pháp lý cơ bản, quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thời kỳ đổi mới. Sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành, hàng loạt các luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư và các văn bản quy phạm pháp luật khác ở các cấp được xây dựng để phù hợp với Hiến pháp. Sự thống nhất, đồng bộ của hiến pháp và hệ thống pháp luật là những bảo đảm về thể chế để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành có hiệu quả.

Tuy nhiên, thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước giai đoạn này có một số hạn chế, đó là: Chưa quy định thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân (Điều 6, Hiến pháp năm 1992); chưa quy định cử tri bãi nhiệm đại biểu dân bầu khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân như thế nào (Điều 7). Hiến pháp năm 1992 quy định về nhân dân "biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân" [129, tr.142], nhưng thực tế quy định này chưa một lần được thực hiện dù nhiều vấn đề trọng đại của đất nước đã diễn ra cần có

Page 80: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

75

sự biểu quyết của nhân dân. Điều 9, 10 của Hiến pháp năm 1992 quy định về chức năng "giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước" [129, tr.128] của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhưng pháp luật quy định còn thiếu và bất cập về nhiều mặt. Điều 69, Hiến pháp năm 1992 quy định: "công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền được hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật" [129, tr.146-147] nhưng những quyền đó chưa được luật hóa nên việc thực hiện gặp nhiều khó khăn...

* Giai đoạn 2013 đến nay Nghiên cứu thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước ở Việt Nam qua các thời kỳ, có thể nhận thấy là trước đổi mới do điều kiện chiến tranh và thực hiện cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp nên vấn đề củng cố quyền lực nhà nước được quan tâm nghiên cứu, luận bàn và thực hiện nhiều hơn là vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước. Điểm chung là: trừ Hiến pháp năm 1946 thì các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được đặt ra do tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước mới chỉ được thể hiện bằng các quy phạm pháp luật có "tính nhân dân" giám sát cơ quan nhà nước, nhân viên cơ quan nhà nước. Cụm từ "Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân" [129, tr.32] (Điều 6, Hiến pháp năm 1959) là một ví dụ cụ thể.

Bước vào thời kỳ đổi mới, (1986) cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vẫn chưa được hình thành rõ rệt. Các quan điểm của Đảng và các quy định của Hiến pháp trước đổi mới, thậm chí đến trước năm 2011 vẫn chỉ nhấn mạnh yếu tố thống nhất, phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng mới đặt vấn đề xây dựng cơ chế giám sát quyền lực nhà nước. Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)

Page 81: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

76

mới chính thức ghi nhận vấn đề “kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [51, tr.85] mở đường cho Hiến pháp năm 2013 quy định "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" [106, tr.9]. Thừa nhận và quy định vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đồng nghĩa với việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó có cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cũng là vấn đề tất yếu, khách quan của yêu cầu xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự hoàn thiện thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 là bước thay đổi về chất. Sự thay đổi về chất đó, thể hiện ở các điểm mới cơ bản sau đây:

- Lời nói đầu Hiến pháp năm 2013, tuyên bố: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" [106, tr.8]. Như vậy, quyền lập hiến là của toàn thể nhân dân chứ không phải là quyền "duy nhất" của Quốc hội như quy định của Hiến pháp năm 1992. Lần đầu tiên Hiến pháp khẳng định tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên nguyên tắc "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" [106, tr.9] và khẳng định “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân” [106, tr.9]. Thay vì chỉ giới hạn nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như Hiến pháp năm 1992. Điều 6, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước" [106, tr.10]; Quy định "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền" [106, tr.11]. Ghi nhận nguyên

Page 82: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

77

tắc "kiểm soát quyền lực nhà nước" và "thực hiện dân chủ trực tiếp" không chỉ là bước phát triển mới về nhận thức chính trị, trình độ, kỹ thuật lập hiến mà còn là phản ánh trình độ dân chủ của đất nước. Kế thừa các nội dung tiến bộ của Hiến pháp năm 1992 về quyền dân chủ, chủ quyền nhân dân, các quy định nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục nhấn mạnh vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, tổ chức Công đoàn trong "đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước" [106, tr.11-12] và Công đoàn cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp, thống nhất hành động đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên và người lao động "tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế- xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị" [106, tr.12]; "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình" [106, tr.18]; Công dân có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân (Điều 27); Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương, đơn vị và cả nước (Điều 28); Quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 29); Quyền khiếu nại, tố cáo về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điều 30); "Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan" [106, tr.54]; “Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị UBND cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan” [106, tr.62] và quy định về HĐND, UBND thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương là những quy định hiến định bảo đảm để Mặt trận Tổ quốc

Page 83: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

78

và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện chức năng “giám sát, phản biện" đối với những chính sách, pháp luật của Nhà nước và kiểm soát hoạt động của cơ quan nhà nước.

Thể chế về tổ chức, chủ thể, phạm vi, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục và các điều kiện bảo đảm hợp thành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ, nhất quán tạo cơ sở hiến định để tiếp tục hoàn thiện cơ chế. Từ thể chế gốc (Hiến pháp), các đạo luật, văn bản dưới luật sẽ được ban hành nhằm cụ thể hoá quyền của nhân dân trong thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và các yếu tố, điều kiện để nhân dân kiểm soát thực chất quyền lực nhà nước như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật công đoàn, Luật thanh niên, Luật bình đẳng giới, Luật thanh tra, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tiếp công dân, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật báo chí, Luật xuất bản, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự; các luật về tố tụng hình sự, dân sự, hành chính...; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở... sẽ lần lượt được sửa đổi, bổ sung hoặc pháp điển hóa để góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các nhánh quyền lực nhà nước, các cơ quan, cán bộ, công chức trong thực hiện quyền lực nhà nước và hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

Hiến pháp năm 2013 là cơ sở hiến định để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống thiết chế và các bảo đảm để nhân dân tăng cường thêm những công cụ, phương tiện cần thiết trong việc thực hiện quyền năng kiểm soát quyền lực nhà nước của mình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chính mình.

Tuy nhiên, thực trạng hệ thống thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước giai đoạn này còn có những hạn chế sau:

Một là, các quy định trong hiến pháp, pháp luật về trách nhiệm công khai,

minh bạch và hậu quả pháp lý của việc thiếu công khai, minh bạch, không bảo

đảm quy trình, thủ tục công khai, minh bạch của các cơ quan, cán bộ, công chức,

Page 84: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

79

viên chức nhà nước còn chưa đồng bộ, đầy đủ, chế tài không đủ mạnh; chưa phân

định rành mạch chức năng, thẩm quyền giữa cá nhân và tập thể trong Uỷ ban nhân

dân các cấp, chưa rành mạch việc phân cấp, phân quyền giữa các cấp chính quyền.

Các quy định nhân dân và các thiết chế là các tổ chức đại diện nhân dân kiểm soát

đối với cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương không

cân xứng, nội dung ôm đồm, trình tự, thủ tục rườm rà, phức tạp, không cụ thể nên

việc thực hiện trong thực tế còn mang tính hình thức, khó phát huy được hiệu quả

như yêu cầu đặt ra. Ví dụ: cơ chế lựa chọn đại biểu dân cử, giám sát đại biểu dân

cử, bãi nhiệm đại biểu dân cử và các hoạt động giám sát cơ quan hành chính, cơ

quan quyền lực, cơ quan tư pháp từ nhân dân…

Hai là, các quyền của công dân có tính kiểm soát quyền lực nhà nước như:

tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình, trưng

cầu ý dân, tham vấn ý kiến nhân dân... chưa được luật hóa đầy đủ, kịp thời khiến

việc thực hiện còn tuỳ tiện, hình thức, kém hiệu quả. Các thể chế về quyền khiếu

nại, tố cáo chưa đảm bảo tính khách quan, dân chủ và thuận tiện cho việc thực

hiện của nhân dân; chưa đề cao vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, của các tổ

chức đại diện nhân dân (Mặt trận và các tổ chức thành viên chỉ có thẩm quyền

nghiên cứu đơn và chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết, việc giải quyết

như thế nào thì chưa có quy định khiến sự tham gia đó còn hình thức); chế tài xử

lý trách nhiệm người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa cụ thể và

chưa đủ mạnh...

Ba là, các thể chế để nhân dân với tư cách cá nhân công dân có thể kiểm

soát được hoạt động tư pháp rất hạn chế, ít khả thi; một số quy định trong quá

trình thực hiện không thể hiện tính khoa học. Ví dụ: quy định khi xét xử hội thẩm

nhân dân ngang quyền với thẩm phán; việc khởi kiện hành chính của công dân tại

Toà án... Ngoài ra, nhiều quy định khác trong các văn bản quy phạm pháp luật là

thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn chưa đồng

bộ, thống nhất, trình tự thủ tục giải quyết chưa cụ thể, rõ ràng, chưa dễ hiểu, dễ

thực hiện...

Page 85: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

80

Bốn là, cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân từ khâu hiệp thương lựa chọn ứng cử viên đến lập danh sách ứng cử viên thiếu vắng các quy định về sự giám sát, tham gia trực tiếp, thực chất của nhân dân. Do đó, chất lượng đại biểu không cao, số đại biểu hoạt động ít hoặc kém hiệu quả còn nhiều trong các cơ quan dân cử. Cử tri còn chưa thực hiện được quyền bãi nhiệm đại biểu khi không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Ví dụ Điều 7, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân" [106, tr.8]. Quy định này đã được ghi trong Hiến pháp năm 1992 nhưng trên thực tế chưa có một đại biểu dân cử nào bị cử tri trực tiếp bãi nhiệm, do pháp luật không có hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện quy định đó.

Năm là, nhân dân với tư cách là toàn dân chưa được nhà nước trưng cầu dân ý, nhân dân chưa được phúc quyết toàn dân về hiến pháp, do hiến pháp và pháp luật chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể. Cá nhân công dân chưa thực hiện được đầy đủ, toàn diện, thực chất quyền dân chủ trực tiếp đối với hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, do pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, không thuận tiện. Ví dụ: thiếu vắng các quy định về tham vấn ý kiến nhân dân (lấy ý kiến nhân dân) trong hoạt động lập pháp...

3.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THIẾT CHẾ VÀ CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ

3.2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của các thiết chế cấu thành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Nhân dân là “Tập hợp đông đảo những người dân thuộc mọi giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng đang sinh sống trong một khu vực địa lý nhất định" [130, tr.578]. Trong thực hiện quyền năng kiểm soát quyền lực nhà nước, nhân dân có thể tự mình thực hiện dựa trên quy định của hiến pháp, pháp luật về thực hiện dân chủ, thực hiện quyền con người, quyền công dân hoặc nhân dân có thể thực hiện thông qua các cơ quan, tổ chức đại diện cho mình.

Page 86: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

81

Có thể nói, thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam là hệ thống các tổ chức vừa do hiến pháp, pháp luật quy định vừa được điều lệ các tổ chức đó quy định. Các bộ phận của thiết chế, chính là các chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước. Các chủ thể có số lượng lớn và đa dạng, mỗi chủ thể lại có đặc điểm, tính chất, vị trí, vai trò khác nhau cho nên hậu quả pháp lý của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các chủ thể đó cũng khác nhau.

- Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò hiến định là "lực lượng lãnh đạo

Nhà nước và xã hội" [106, tr.9], là chủ thể có vai trò quyết định cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành, phát huy hiệu quả trong thực tế.

Là đảng cầm quyền tất nhiên Đảng phải kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các cơ

quan công quyền và cán bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước. Kiểm soát của

Đảng đối với toàn bộ quyền lực nhà nước là tất yếu, khách quan trong thể chế

chính trị ở Việt Nam. Không những thế với tư cách là lãnh đạo, Đảng phải có

quan điểm, đường lối và biện pháp để chỉ đạo việc tổ chức thiết lập cơ chế, đồng

thời là lực lượng đi đầu, thường xuyên kiểm soát đối với quyền lực nhà nước, bảo

đảm quyền lực nhà nước giữ được bản chất chính trị và luôn luôn thuộc về nhân

dân. Phương thức kiểm soát của Đảng là thông qua công tác cán bộ và công tác

kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên giữ chức vụ trong bộ

máy nhà nước về việc chấp hành, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kiểm soát của Đảng có vai trò chỉ đạo và

hiệu lực mạnh mẽ trong việc xây dựng thể chế, thiết chế, các yếu tố bảo đảm vận

hành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

Với tính chất là "Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội

tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành

lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc...là lực lượng

lãnh đạo Nhà nước và xã hội" [106, tr.9]. Vì thực hiện sứ mệnh lãnh đạo nhà nước

và xã hội nên đương nhiên Đảng có trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước để

nhà nước giữ vững bản chất là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Page 87: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

82

Kiểm soát của Đảng là tự kiểm soát quy định ngay trong điều lệ của Đảng. Theo đó, là cơ chế ủy quyền được thiết lập cơ quan lãnh đạo các cấp thông qua bầu cử trong Đảng và nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Nội dung kiểm soát của Đảng chính là nội dung mà Đảng lãnh đạo. Đối tượng kiểm soát của Đảng chính là các cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước.

Trên cơ sở những quy định về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, các cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ đầu nhiệm kỳ khóa X đến nay (2013) đã thực hiện giám sát chuyên đề đối với

104.114 tổ chức đảng, trong đó: Trung ương giám sát 10 tổ chức; tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy và tương đương giám sát 1.229 tổ chức; huyện ủy, ban thường vụ huyện ủy giám sát 17.392 tổ chức; cấp ủy cơ sở giám sát 85.483 tổ chức. Nội dung giám sát trong việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là 35.376 tổ chức; việc thực hiện nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng (nguyên tắc tập trung dân chủ) 20.311 tổ chức; việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao 18.533 tổ chức; việc thực hiện quy chế làm việc 16.141 tổ chức;... Qua giám sát phát hiện 1.100 tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm, trong đó chuyển kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 146 tổ chức đảng [49, tr.32, 93].

Về giám sát đối với đảng viên, theo tổng hợp thì: Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy đã giám sát chuyên đề 110.100 đảng viên, trong đó tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy và tương đương giám sát 991 đảng viên; huyện ủy và ban thường vụ huyện ủy và tương đương giám sát 24.305 đảng viên; cấp ủy cơ sở giám sát 84.804 đảng viên. Đảng viên được giám sát thuộc các lĩnh vực công tác đảng 11.751, nhà nước 21.568, đoàn thể 5.258, lực lượng vũ trang 32.988, sản xuất, kinh doanh 19.504,... Qua giám sát phát hiện có dấu hiệu vi phạm là 2.333 đảng viên, chuyển sang kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm là 1.067 đảng viên [49, tr.93].

Page 88: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

83

Các tổ chức đảng được hình thành hoạt động ở tất cả các cơ quan theo cấp hành chính đến khu dân cư; ở tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; ở tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước... Các đảng viên là người nắm giữ cương vị lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đoàn thể, do đó họ vừa là chủ thể vừa là đối tượng (khách thể) của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chính là nhân dân kiểm soát sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và đó cũng là nhân dân giám sát Đảng như tinh thần Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 2011, Hiến pháp năm 2013 và Quyết định 218- QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Vì vậy, kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm của cả chủ thể thực hiện và chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng là hết sức quan trọng và cần thiết. Với vai trò "lãnh đạo nhà nước và xã hội", việc kiểm tra, giám sát của Đảng dù không mang tính quyền lực nhà nước nhưng có yếu tố bảo đảm để quyền lực nhà nước vận hành đúng pháp luật và phục vụ dân, đồng thời là cơ sở để phát huy vai trò các tổ chức và cá nhân trong thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước.

Tuy nhiên, thiết chế Đảng kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được luật của Nhà nước cũng như điều lệ của Đảng quy định cụ thể nên trên thực tế chưa hình thành một thiết chế cấu thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ có Ủy ban kiểm tra của Đảng các cấp thực hiện việc kiểm tra các tổ chức và cá nhân đảng viên vi phạm khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo. Đây chưa phải là một thiết chế Đảng kiểm soát hoạt động quyền lực nhà nước theo tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Theo Điều 9, Hiến pháp năm 2013:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân

Page 89: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

84

dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [106, tr.11-12].

Với tính chất là tổ chức rộng rãi của mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, giới, lứa tuổi… trong xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vừa có địa vị pháp lý trong xã hội vừa có địa vị trong hệ thống chính trị. Hoạt động của MTTQ vừa chịu sự điều chỉnh của Luật MTTQ Việt Nam vừa chịu sự điều chỉnh của Điều lệ MTTQ Việt Nam. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, nhất nguyên chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì tất yếu phải coi trọng, đề cao các thiết chế xã hội, nhất là vai trò của Mặt trận, để Mặt trận thực sự là cầu nối vững chắc giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có bộ máy chuyên trách công tác từ trung ương đến cấp xã; có tổ chức ban, tổ công tác Mặt trận ở cơ sở và khu dân cư. Ngoài ra, Mặt trận còn giữ vai trò tổ chức, quản lý, chỉ đạo thiết chế Ban TTND, Ban giám sát đầu tư cộng đồng ở cơ sở. Các tổ chức của Mặt trận, thành viên của Mặt trận đều có chức năng, nhiệm vụ chung nhất là: “giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước" [92, tr.10]. Hiện nay, Mặt trận có gần 40 tổ chức thành viên, các tổ chức thành viên hầu hết có mạng lưới tổ chức bộ máy từ trung ương tới cơ sở, xu hướng phát triển thành viên của Mặt trận và hội viên của các tổ chức thành viên ngày càng mở rộng bao phủ toàn bộ mọi mặt của đời sống xã hội. Mặt trận và các tổ chức thành viên là các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đảm trách vai trò là các tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động giám sát và phản biện của mình.

Mặt trận hoạt động theo hiến pháp, pháp luật và điều lệ của Mặt trận. Các quy định của Hiến pháp và pháp luật về địa vị chính trị, pháp lý, vai trò, chức năng, thẩm quyền của Mặt trận khá đầy đủ. Trên lĩnh vực kiểm soát quyền lực nhà

Page 90: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

85

nước, Mặt trận có những phương tiện pháp lý rất cơ bản được hiến định và được quy định trong các luật như: Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật tiếp công dân, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật công chức, Luật viên chức; các luật về tố tụng Hình sự, Dân sự, Hành chính... Để thực hiện có hiệu quả chức năng đó, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã thành lập 07 Hội đồng tư vấn bao gồm nhiều chuyên gia, nhà khoa học để giúp cho Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tham gia góp ý, phản biện các dự án chính sách, pháp luật có liên quan.

Mặt trận và các tổ chức thành viên tham gia các đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân các cấp theo chương trình giám sát đối với hoạt động các cơ quan nhà nước. Tổng hợp ý kiến cử tri, nhân dân và các tổ chức thành viên thông báo hoặc trình bày công khai trước các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Mặt khác, thông qua hoạt động tổ chức tiếp xúc cử tri, tổ chức tiếp dân, Mặt trận và các tổ chức thành viên tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân, phân loại và chuyển cho các cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền xem xét, giải quyết.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia đoàn kiểm tra, thanh tra, giám sát do Chính phủ tổ chức (theo quy chế phối hợp giữa Chính phủ với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội) để theo dõi, đánh giá việc thi hành chính sách, pháp luật của cơ quan nhà nước thuộc bộ, ngành trung ương và các cấp chính quyền địa phương.

Tuy nhiên, với vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của Nhà nước, ngoài quy định của Hiến pháp năm 2013, đến nay chưa một đạo luật nào cụ thể hóa nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội nên Mặt trận Tổ quốc vẫn chưa thể hiện được đầy đủ tư cách là một thiết chế quan trọng bậc nhất trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

Page 91: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

86

- Các tổ chức chính trị - xã hội nằm trong hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, là tổ chức thành viên chủ yếu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như: Công đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí minh, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam. Điều 9, Hiến pháp năm 2013 quy định:

Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam… đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [106, tr.12].

Theo Hiến pháp năm 2013 thì quan hệ giữa các tổ chức chính trị- xã hội và nhà nước là "quan hệ hợp tác, phối hợp", có vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên, hội viên, người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế- xã hội; tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp và cán bộ, nhân viên nhà nước… Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội được hiến pháp, pháp luật quy định tương đối hệ thống, chặt chẽ, là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho hoạt động kiểm soát bên trong của bộ máy nhà nước, là những bộ phận cấu thành cơ bản trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

(1) Công đoàn Việt Nam vừa hoạt động theo hiến pháp, pháp luật vừa hoạt động theo Điều lệ công đoàn Việt Nam, có hệ thống tổ chức, bao gồm: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam; Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Liên đoàn lao động cấp tỉnh, thành phố); Liên đoàn lao động quận, huyện; Công đoàn ngành; công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn, với hơn 7,9 triệu đoàn viên và 114.000 Công đoàn cơ sở. Với số lượng đoàn viên đông đảo và hệ thống tổ chức chặt chẽ, rộng khắp, Công đoàn là một thiết chế quan trọng của giai cấp công nhân, người lao động trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

Page 92: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

87

Hoạt động của Công đoàn Việt Nam bao gồm: Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động thông qua các quy định của pháp luật. Tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế bằng việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về kinh tế - xã hội, lao động, việc làm, tiền lương, tiền công, các chính sách về bảo hiểm cho người lao động. Tham gia với cơ quan nhà nước quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; giải quyết khiếu nại, tố cáo của người lao động; tham gia xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Trình dự án luật, pháp lệnh ra trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật có liên quan. Chủ tịch Công đoàn các cấp có quyền, có trách nhiệm tham dự các phiên họp, cuộc họp, hội nghị của các cơ quan, tổ chức khi bàn, quyết định những vấn đề liên quan. Tham gia, phối hợp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan tổ chức, doanh nghiệp việc thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật về lao động, bảo hiểm...

Tuy nhiên, kinh phí, cơ sở vật chất của bộ máy Công đoàn cơ bản phụ thuộc vào nhà nước và chủ doanh nghiệp cho nên tính độc lập, khách quan trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát còn hạn chế. Công tác cán bộ Công đoàn hầu hết là do "chỉ đạo" "sắp xếp" của tổ chức chính trị hoặc của chủ doanh nghiệp nên tính đại diện cho người lao động không cao. Một số quy định về quyền và trách nhiệm của Công đoàn còn thiếu các yếu tố bảo đảm về mặt pháp lý nên còn ít hiệu lực trong thực tế...

(2) Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với tính chất là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng có hệ thống tổ chức bộ máy rộng khắp từ trung ương đến cơ sở với hơn 6 triệu đoàn viên và gần 7 triệu hội viên Hội liên hiệp thanh niên. Cùng với các thành viên của Mặt trận, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tham gia vào việc xây dựng các chính sách, pháp luật và giám sát hoạt động các cơ quan nhà nước trên cơ sở quy định của hiến pháp, pháp luật, điều lệ và quy chế phối hợp.

Page 93: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

88

Tuy nhiên, trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước thì vai trò của Đoàn còn chưa rõ, kết quả đạt được không nhiều, nhất là việc kiến nghị xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật về thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Luật thanh niên do Đoàn soạn thảo và trình Quốc hội thông qua chỉ mới dừng ở kêu gọi, khuyến khích chứ chưa có quy định, chế tài cụ thể nên ít hiệu lực trên thực tế. Pháp luật tạo điều kiện để tổ chức Đoàn và đoàn viên tham gia quản lý nhà nước và xã hội còn chưa đầy đủ nên việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong thực tế có nhiều mặt còn hạn chế.

(3) Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị- xã hội của phụ nữ Việt Nam, có vị trí, chức năng, nhiệm vụ theo quy định của hiến pháp, pháp luật và điều lệ. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam có hệ thống tổ chức gồm 4 cấp: cấp Trung ương; tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương; huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh và cấp tương đương; xã/phường/thị trấn và tương đương, ở cơ sở có các tổ được hình thành theo địa bàn dân cư. Với lực lượng chiếm trên 50% dân số và gần 15 triệu hội viên, Hội phụ nữ Việt Nam là một thiết chế rộng lớn, quan trọng của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Trong những năm qua, Hội phụ nữ Việt Nam đã tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và tham gia quản lý nhà nước về bình đẳng giới; thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; tham gia xây dựng và giám sát thực hiện các chính sách, pháp luật đối với phụ nữ, gia đình, trẻ em; giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, công chức, viên chức theo pháp luật; tham gia giám sát các cơ quan, tổ chức việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới; đề xuất với nhà nước giải pháp thực hiện các chính sách, pháp luật về phụ nữ; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ khi bị vi phạm; tổ chức giám sát việc thực hiện một số chủ trương, chính sách liên quan trực tiếp tới phụ nữ, bình đẳng giới và an sinh xã hội. Tham gia tích cực vào hoạt động tư vấn pháp luật lưu động; tổ hòa giải ở cơ sở, cùng các cơ quan nhà nước nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách đối với lao động nữ và cán bộ nữ: điều chỉnh tuổi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, sửa đổi tuổi nghỉ hưu, độ tuổi quy hoạch, đề bạt nhằm phát huy sự đóng góp của phụ nữ và tạo cơ hội phát triển cho cán bộ nữ. Ngoài ra,

Page 94: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

89

Hội phụ nữ còn thực hiện có hiệu quả việc tập hợp ý kiến của phụ nữ và tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật… Trên cơ sở thực hiện chức năng tham gia quản lý nhà nước nêu trên, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã đoàn kết các lực lượng phụ nữ, các cấp hội trong cả nước tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng Đảng, nhà nước, Mặt trận và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuy nhiên, chất lượng tham gia xây dựng luật pháp, chính sách, tham gia xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp Hội chưa đồng đều, hiệu quả chưa cao. Luật bình đẳng giới do Hội phụ nữ Việt Nam tham gia soạn thảo thiếu chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực bình đẳng giới; chính sách khuyến khích chủ doanh nghiệp sử dụng lao động nữ không được thi hành. Công tác giám sát việc thực hiện chế độ chính sách, pháp luật có liên quan đến phụ nữ, trẻ em còn yếu; nhiều vụ việc vi phạm quyền lợi của phụ nữ chưa được xử lý kịp thời; công tác phối hợp với các ngành, các tổ chức có liên quan trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách bảo đảm quyền lợi chính đáng cho phụ nữ còn hạn chế...

(4) Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân, lực lượng lao động đông đảo nhất của đất nước. Hội nông dân được tổ chức theo 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện, xã có trên 7,4 triệu hội viên với gần 90000 chi hội. Thực hiện chức năng tham gia quản lý nhà nước, Hội nông dân Việt Nam đã tham gia giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tham gia xây dựng các chính sách: Bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo vệ môi trường; chính sách kinh doanh, xuất khẩu gạo... sửa đổi các thủ tục cho vay vốn theo Quyết định 497/QĐ-TTg, ngày 17/04/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn; bổ sung đối tượng thụ hưởng chính sách tín dụng theo Nghị định số 41/NĐ- CP, ngày 12/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ; bổ sung, chỉnh sửa Nghị định số 61/2010/NĐ-CP, ngày 4/6/2010 của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; đề xuất có cơ chế,

Page 95: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

90

chính sách đặc thù giúp ngư dân bám biển sản xuất và bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Đặc biệt, Trung ương Hội và các cấp Hội đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, dự thảo Luật Hợp tác xã, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

Hội nắm bắt, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nông dân với Đảng và Nhà nước; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, nông dân thông qua việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và tham gia giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của nông dân, tích cực chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác... theo quy định của hiến pháp, pháp luật và điều lệ.

Phát huy dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, vai trò giám sát và phản biện xã hội, các cấp Hội đã tích cực triển khai, giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Duy trì tốt việc tiếp dân, gắn với tuyên truyền pháp luật cho hội viên, nông dân theo Chỉ thị 26/2001/CT-TTg ngày 9/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tạo điều kiện để Hội nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Phối hợp với các ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể hòa giải thành hàng vạn vụ mâu thuẫn ngay tại cơ sở, tiếp nhận và tham gia giải quyết hàng nghìn đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của hội viên, nông dân. Đề nghị Hiệp hội lương thực và Công ty Lương thực miền Nam về giải pháp bảo đảm quyền lợi cho nông dân trong xuất khẩu gạo. Ra văn bản gửi Ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành phố đề nghị xử lý sai phạm trong thực hiện chính sách hỗ trợ người nghèo trong dịp tết; ra văn bản kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu Công ty Vedan Việt Nam gây ô nhiễm môi trường bồi thường thiệt hại cho nông dân. Kịp thời đề nghị Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam có ý kiến với Chính phủ Lào và Ủy ban sông Mê Kông quốc tế về việc xây dựng thủy điện trên sông Mê Kông ảnh hưởng tới môi trường và sinh kế của người dân sống dọc bờ sông Mê Kông; kiến nghị với Đảng, Nhà nước có giải pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo; bảo vệ người dân đánh bắt hải sản trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Tuy nhiên, hoạt động của Hội trong việc tham gia quản lý nhà nước, kiểm

soát quyền lực nhà nước còn có những hạn chế đó là: trình độ, năng lực của đội

Page 96: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

91

ngũ cán bộ một số tổ chức Hội chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Phương thức

hoạt động một số nơi chậm đổi mới, còn mang tính hành chính, hình thức, kém

hiệu quả. Năng lực cán bộ tham gia xây dựng và phản biện chính sách còn nhiều

hạn chế, chưa làm tốt chức năng đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính

đáng của nông dân.

(5) Hội Cựu chiến binh Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội, có chức

năng "đại diện ý chí, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng, hợp pháp của hội viên

và Cựu chiến binh… tham gia giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu

dân cử và cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước" (Điều 2, Điều lệ Hội cựu chiến

binh Việt Nam thông qua ngày 19/12/2012).

Hội có hệ thống tổ chức 4 cấp từ trung ương đến cấp xã và tương đương

với gần 1,6 triệu hội viên/2,6 triệu cựu chiến binh và trên 1,1 triệu cựu quân nhân

sinh hoạt trong 16.000 tổ chức Hội ở cơ sở. Trong những năm qua, Hội cựu chiến

binh các cấp đã tích cực, chủ động tham gia quản lý nhà nước như: tổ chức động

viên hội viên thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở, đấu tranh

chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội; tham gia giám sát hoạt động

của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật.

Tham gia vào việc xây dựng hoàn thiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước

như: xây dựng Pháp lệnh cựu chiến binh, Luật người có công, các chính sách sau

chiến tranh. Phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức có liên quan để thực

hiện và giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với Cựu chiến binh; tham

gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và cựu chiến binh. Tổ chức cho cựu

chiến binh tham gia góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Luật đất đai;

kiến nghị đến các cơ quan thẩm quyền giải quyết những vấn đề tồn tại, bất cập của

chính sách, pháp luật… Với tổ chức và những hoạt động nêu trên, Hội cựu chiến

binh Việt Nam đã thể hiện là một bộ phận quan trọng của cơ chế pháp lý nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và kết quả đạt được, Hội cựu chiến binh còn có những hạn chế đó là: hoạt động giám sát các cơ quan nhà nước trong

Page 97: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

92

xây dựng, thực thi các chính sách sau chiến tranh còn thiếu chiều sâu; thực hiện phản biện dự thảo các chính sách, pháp luật có liên quan chưa được nhiều; việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội viên khi bị vi phạm chưa mạnh; việc phát hiện, đề xuất xử lý vi phạm các chính sách, pháp luật sau chiến tranh (thương binh giả, bệnh binh giả, hưởng chế độ khác không đúng...) của các tổ chức, cá nhân còn chưa kịp thời...

- Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, bao gồm: Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp (các Hội và Liên hiệp Hội thuộc các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hoá nghệ thuật, các Hội nghề nghiệp…); Các tổ chức phi chính phủ NGO (Non - Govermantal - Organization), đây là thuật ngữ do (WB) Ngân hàng thế giới đưa ra, được Liên hợp quốc và nhiều nước sử dụng. Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp có đặc trưng chung là tổ chức tự nguyện do dân lập ra và được các cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập (nhưng không nằm trong hệ thống tổ chức của nhà nước), hoạt động thường xuyên theo điều lệ của tổ chức, mang tính tự nguyện và không vì mục tiêu lợi nhuận (không phải là 5 tổ chức chính trị- xã hội như nêu ở trên). Các tổ chức có tên gọi khác nhau tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích, điều lệ của tổ chức xã hội đó, có mục đích tập hợp những người có cùng ngành nghề, công việc, giới, tuổi, sở thích… nhằm đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, hội viên; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức đó không được trái với lợi ích của nhân dân, dân tộc, Tổ quốc, chế độ và được pháp luật công nhận (đăng ký hoạt động, phê chuẩn điều lệ...), đa số các tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hội có trách nhiệm chấp hành sự quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.

Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp với tính chất đại diện cho hội viên, là một bộ phận nhân dân trong xã hội, chịu sự chi phối, tác động của quyền lực nhà nước đều có vai trò, quyền năng nhất định tác động trở lại quyền lực nhà nước thông qua cơ chế pháp lý nhân dân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoạt động

Page 98: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

93

kiểm soát của các tổ chức xã hội đối với cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước (quyền lực nhà nước) chủ yếu là hình thức giám sát, thẩm định, tư vấn, phản biện, tham gia, kiến nghị, yêu cầu...

Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp ngày càng được mở rộng phù hợp với xu thế phát triển và tiến trình dân chủ hoá đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Hiện nay, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp được thành lập rộng khắp ở tất cả các giới, các ngành, nghề, lĩnh vực trong xã hội theo hiến pháp, pháp luật và điều lệ của các tổ chức. Hoạt động của các tổ chức này bao gồm: giúp đỡ lẫn nhau, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội viên, hội thành viên, ngành, nghề, lĩnh vực; tham gia tư vấn, phản biện, giám định, thẩm định xã hội các chính sách, chương trình, đề án về phát triển kinh tế xã hội, giáo dục- đào tạo, khoa học, công nghệ, môi trường đối với các dự thảo chính sách, pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước yêu cầu hoặc đặt hàng.

Ngoài ra, các tổ chức còn tham gia thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ với tư cách là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Việc thực hiện hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ nêu trên đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động quyền lực nhà nước để cơ quan nhà nước lắng nghe, tiếp thu và quyết định chính xác, kịp thời các chính sách, pháp luật vì lợi ích chung. Vì có ảnh hưởng nhất định đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhất là trong quan hệ với nhà nước, phù hợp với nhu cầu và xu thế phát triển nên Chính phủ đã cho phép thành lập 400 hội có phạm vi toàn quốc, bao gồm: các hội nghề nghiệp, hội nhân đạo từ thiện, các hội của các tổ chức kinh tế, văn học nghệ thuật… (trong đó có 28 hội có tính chất đặc thù). Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho phép hơn 6500 hội có phạm vi hoạt động tại địa phương, chưa kể hàng vạn hội được thành lập, hoạt động tại các xã, phường, thị trấn, quận, huyện. Ngoài ra, có hàng nghìn tổ chức phi chính phủ đã đăng ký hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ, bảo trợ xã hội, tư vấn pháp luật, tài chính vi mô, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện... Tính đa dạng của hệ thống tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp kết hợp với tính chính trị rộng rãi của Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã hội làm cho cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam vận hành toàn diện, linh hoạt hơn.

Page 99: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

94

Tuy nhiên, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp thể hiện vai trò phản biện độc lập đối với các dự thảo chính sách, pháp luật chưa được nhiều, có nội dung phản biện chưa sâu, có lĩnh vực còn để trống, nhất là các vấn đề liên quan trực tiếp đến người dân. Nhiều tổ chức vẫn phụ thuộc nhiều vào sự bao cấp ngân sách của nhà nước và bị hành chính hóa. Chính sách, pháp luật của nhà nước về lĩnh vực này còn có nhiều hạn chế, bất cập.

- Thanh tra nhân dân: Ban TTND được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước để giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần phát huy dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. TTND được pháp luật quy định là một tổ chức quần chúng và hoạt động thanh tra mang tính nhân dân.

Ban Thanh tra nhân dân còn là hình thức thực hiện dân chủ cơ sở đồng thời là thiết chế mang tính nhân dân do các tổ chức Mặt trận, Công đoàn tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động nhằm kết hợp chặt chẽ giữa TTND với thanh tra nhà nước trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo báo cáo của Ban thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổng hợp kết quả báo cáo của 61 tỉnh, thành phố trong cả nước thì đến 30/6/2013 có 100% các xã, phường, thị trấn đã có Ban thanh tra nhân dân (với trên 12.400 Ban và 81.250 thành viên) [54, tr.4]. Hầu hết Trưởng ban TTND là Phó Chủ tịch Uỷ ban MTTQ xã, phường, thị trấn hoặc trưởng các đoàn thể. Đa số các thành viên Ban TTND là những người có hiểu biết pháp luật, trung thực, tự nguyện, có tinh thần trách nhiệm, được nhân dân tín nhiệm.

Ban TTND trong những năm qua được tích cực hoàn thiện về mặt thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo đảm đã tăng cường phối hợp với tổ chức Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và cơ quan chức năng của nhà nước thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện có hiệu quả cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tạo lập không khí dân chủ, minh

Page 100: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

95

bạch nhằm huy động rộng rãi các nguồn lực cho đầu tư xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Việc TTND tham gia tiếp nhận, giải quyết, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân đã góp phần quan trọng khắc phục những vụ việc phát sinh phức tạp từ cơ sở. Thiết chế TTND còn được tổ chức ở hầu hết ở các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp của Nhà nước, được chính quyền công nhận hoạt động theo quy chế và pháp luật, góp phần bảo đảm các chính sách, pháp luật được thực thi đầy đủ, nghiêm túc đến tận người dân, người lao động.

Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các Ban TTND còn nhiều hạn chế do cơ chế thiết lập tổ chức, duy trì hoạt động chưa khoa học, hợp lý “người bị giám sát lại là người có quyền quyết định những điều kiện làm việc cho người có quyền giám sát" [136, tr.208]. Ngoài ra, khi phát hiện dấu hiệu vi phạm thì TTND chỉ có quyền kiến nghị xử lý còn việc xử lý đến đâu, như thế nào, có phải trả lời hay không thì pháp luật chưa quy định. Cho nên một số nơi hoạt động của Ban TTND với tính chất là những thiết chế thực hiện dân chủ ở cơ sở kiểm soát quyền lực nhà nước rơi vào hình thức.

- Các phương tiện truyền thông đại chúng là thiết chế mang tính chính trị, xã hội và nhiều chức năng khác nhau, cơ quan truyền thông đại chúng kết hợp với công luận có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Các phương tiện truyền thông đại chúng gồm có: Báo in (Báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (Đài phát thanh), báo hình (Đài truyền hình), báo điện tử (được thực hiện trên mạng internet) bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài. Với chức năng thông tin, chức năng tạo dư luận xã hội (phản biện) và chức năng giáo dục, nâng cao dân trí...các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng có vai trò quan trọng đối với đời sống chính trị - xã hội, hoạt động quản lý nhà nước và nhu cầu của nhân dân. Do đó, chúng được coi là chủ thể quan trọng đồng thời là phương tiện đắc lực của nhân dân để thực hiện chức năng kiểm soát đối với toàn bộ quyền lực nhà nước.

Hiện nay, cả nước có 812 đơn vị báo chí. Trong đó, báo in có 197 đơn vị (84 báo trung ương, ban, bộ, ngành, đoàn thể, 113 báo địa phương); có 615 tạp chí

Page 101: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

96

(488 tạp chí Trung ương, ngành, đoàn thể Trung ương và 127 tạp chí địa phương). Trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước có 74 báo và tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội, 1174 trang thông tin điện tử tổng hợp. Cả nước có 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 02 đài quốc gia là Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, 01 đài của ngành VTC, 64 đài phát thanh, truyền hình địa phương, có 172 kênh chương trình phát thanh và truyền hình quảng bá (99 kênh truyền hình, 73 kênh phát thanh). Nhiều chương trình phát thanh, truyền hình được truyền tải qua mạng internet phục vụ công tác thông tin, đối nội, đối ngoại. Bên cạnh hệ thống truyền hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền ở nước ta tiếp tục phát triển mạnh bằng nhiều loại công nghệ truyền dẫn như: cáp, vệ tinh, số mặt đất bước đầu áp dụng công nghệ IPTV. Cả nước có 47 đơn vị được cấp phép hoạt động truyền hình cáp, 09 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình cáp. Riêng 05 đài truyền hình; Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, Đài Phát thanh Truyền hình Bình Dương có 62 kênh truyền hình trả tiền. Có 75 kênh truyền hình nước ngoài phục vụ 4,4 triệu thuê bao trên toàn quốc. Các đài địa phương đang từng bước thử nghiệm công nghệ số truyền dẫn nhiều chương trình với nhiều loại hình dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ truyền hình độ phân giải cao (HDTV). Cả nước có gần 17.000 người làm báo chuyên nghiệp được cấp thẻ nhà báo; có hơn 21.000 hội viên Hội nhà báo sinh hoạt trong các hội, liên chi hội và chi hội nhà báo…

Nhân dân sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để biểu thị ý kiến đến nhà nước. Nhiều ý kiến phổ biến trên phương tiện truyền thông đại chúng trở thành công luận; một số chính sách, pháp luật chưa hoặc không hợp lòng dân, trái hoặc xâm hại lợi ích của nhân dân bị truyền thông và công luận lên tiếng mạnh mẽ buộc nhà nước phải đình chỉ, bãi bỏ hoặc mặc nhiên mất hiệu lực. Các phương tiện truyền thông đại chúng còn là kênh thông tin đa dạng, nhiều chiều cung cấp cho người dân các góc nhìn, các thông tin về xã hội và hoạt động quyền lực nhà nước qua đó nâng cao khả năng làm chủ của mình đối với quyền lực nhà nước. Với tính chất rộng rãi, đa dạng, có sức hút mạnh và lan toả nhanh,

Page 102: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

97

các phương tiện truyền thông đại chúng vừa là chủ thể, vừa là công cụ, phương tiện, diễn đàn của nhân dân trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước.

Các thiết chế nêu trên cùng với các thiết chế dân chủ ở cơ sở vừa là đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, cho nhân dân đồng thời cũng là những thiết chế để nhân dân trực tiếp biểu đạt ý chí, nguyện vọng của mình đối với nhà nước. Các thiết chế nêu trên có điểm mạnh, điểm yếu khác nhau, do đó có tác dụng và kết quả khác nhau trong vận hành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. vừa là chủ thể vừa là phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân. Với tính chất rộng rãi, nhanh nhạy, thuận tiện, được coi là "diễn đàn của nhân dân". Là nơi để người dân có thể biểu đạt ý chí, nguyện vọng, quan điểm, chính kiến về quản lý, điều hành xã hội cũng như thái độ của mình đối với nhà nước. Nhà nước cũng coi đó là kênh thông tin để nắm bắt dư luận, định hướng dư luận và tiếp thu, sửa đổi, điều chỉnh chính sách, pháp luật của mình...

Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết các phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ta thuộc sở hữu nhà nước, tập thể nên tính độc lập, khách quan nhiều mặt còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thông tin sự thật, chưa tạo dựng không khí dân chủ, cung cấp phương pháp, cách thức, kinh nghiệm làm chủ cho người dân. Báo chí đôi khi chỉ là cơ quan "ngôn luận" của cơ quan, tổ chức mà ít khi đại diện được cho chính đối tượng mà báo chí phục vụ, hướng tới. Vai trò giám sát quyền lực nhà nước của các phương tiện truyền thông đại chúng có lúc, có nơi chưa được phát huy đầy đủ; chưa thực sự là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Một số cơ quan nhà nước, thậm chí Toà án còn đặt ra các quy định, quy chế cản trở việc lấy tin, đưa tin của truyền thông báo chí… Điều này đòi hỏi các quy định của Nhà nước về các phương tiện truyền thông đại chúng cần phải được cởi mở, dân chủ hơn nữa và cũng cần được quản lý chặt chẽ hơn nữa để phù hợp với nguyên tắc phổ quát của nền dân chủ và sự nghiêm túc của nhà nước pháp quyền.

- Nhân dân chủ thể trực tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhân dân với tư cách là một chủ thể thống nhất, toàn dân và cá nhân công dân kiểm soát

Page 103: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

98

quyền lực nhà nước. Điều 6, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước" [106, tr.10]. Dân chủ trực tiếp là cách thức nhân dân trực tiếp thể hiện vai trò chủ thể của mình trong xây dựng và kiểm soát quyền lực nhà nước bằng tham gia vào việc thiết lập nên quyền lực nhà nước thông qua việc thảo luận, xây dựng, sửa đổi hiến pháp (Lời nói đầu và Điều 120, Hiến pháp năm 2013); bầu cử và bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân (Điều 7); quyền giám sát cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước (Điều 8); quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước (Điều 27); quyền tham gia thảo luận và đóng góp ý kiến vào xây dựng, thực hiện chính sách và pháp luật, "tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước" [106, tr.19]; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29); quyền khiếu nại, tố cáo với "cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân" [106, tr.19]… Ngoài ra, các thiết chế về dân chủ ở cơ sở cũng là một bộ phận quan trọng của hệ thống thiết chế trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta.

3.2.2. Thực trạng các yếu tố bảo đảm vận hành của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

* Thực trạng về môi trường dân chủ, pháp quyền của đất nước Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa các nội dung dân chủ thành các quy

định làm cơ sở cho việc ban hành các chính sách, pháp luật cụ thể để hiện thực hóa dân chủ trong thực tiễn đời sống xã hội. Về nguyên tắc, quan điểm và thể chế luôn thống nhất với nhau trong xác lập các chế định bảo đảm quyền con người, quyền công dân, hay cụ thể hơn chính là quyền dân chủ của nhân dân... Tuy nhiên, để thực hiện một cách thực sự, đầy đủ, có hiệu quả trên thực tế thì đòi hỏi phải có một cơ chế thuận tiện, hữu hiệu nếu không sẽ rơi vào hình thức, kém hiệu quả. Không thể có nhà nước pháp quyền nếu như nhà nước đó không thực hiện chế độ dân chủ. Dân chủ và pháp quyền luôn phải đi đôi với nhau, làm tiền đề cho

Page 104: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

99

nhau trong một nhà nước. Môi trường dân chủ - pháp quyền là bảo đảm các điều kiện để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, để không một hoạt động quyền lực nhà nước nào ở ngoài sự kiểm soát, giám sát của nhân dân. Hiện nay, môi trường dân chủ, pháp quyền ở nước ta đã và đang trong quá trình tiếp tục hoàn thiện, nhiều kết quả đạt được phản ánh sự tiến bộ rõ rệt, tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định, bền vững đất nước. Điều đó thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:

Thứ nhất, mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước và công dân trong các quan hệ pháp luật cụ thể thể hiện ngày càng bình đẳng hơn về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm. Xu thế dân chủ hóa xã hội và hoạt động của nhà nước ngày càng được nâng cao.

Thứ hai, Hiến pháp và pháp luật của nước ta có nhiều quy định đề cao trách nhiệm của nhà nước trong việc phục vụ nhân dân; thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền con người, quyền công dân.

Thứ ba, Hiến pháp và pháp luật ghi nhận đầy đủ hơn phương thức thực hiện dân chủ của nhân dân bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và thực hiện chế độ dân chủ ở cơ sở tạo điều kiện thuận lợi hơn để nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả.

Tuy nhiên, thực tế môi trường dân chủ mới được tạo lập trong các văn bản quy phạm pháp luật và việc vận hành, tổ chức thực hiện còn nhiều biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Các quy định về công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trên những lĩnh vực người dân quan tâm, cần có sự kiểm soát, giám sát từ nhân dân nhưng không được thực hiện nghiêm túc mà không có chế tài đủ mạnh để bắt buộc thực hiện hoặc xử lý. Hậu quả của việc này là biến sự kiểm soát, giám sát cần thiết của nhân dân trở nên hình thức. Các biểu hiện lạm quyền, lộng quyền, phiền hà, sách nhiễu nhân dân cùng các hành vi quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước, kéo dài trong nhiều năm vẫn chậm được hạn chế, khắc phục, gây nhiều tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đến uy tín của nhà nước và bản chất của chế độ.

Tính pháp quyền chưa bao trùm, điều chỉnh hết các chủ thể và mối quan hệ xã hội. Nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của nhà nước chưa được

Page 105: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

100

thực thi nghiêm túc trên thực tế. Vai trò lãnh đạo của Đảng, vị trí cầm quyền và phương thức thực hiện còn chưa được thể chế hóa đầy đủ bằng pháp luật. Đảng xác định chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm về những quyết định của mình trước nhân dân nhưng nhân dân giám sát ra sao và Đảng chịu trách nhiệm như thế nào thì chưa có cơ chế thực hiện đầy đủ, cụ thể. Nhiều biểu hiện dân chủ hình thức đã và đang diễn ra; có những vấn đề ý Đảng và lòng Dân chưa thực sự thống nhất; công khai, minh bạch trong hoạt động của cả hệ thống chính trị chưa đầy đủ; phương thức thực hiện dân chủ của người dân còn nhiều phức tạp, rắc rối; pháp luật về quyền công dân chưa hoàn thiện, nhiều cơ quan nhà nước gần như thoát ly khỏi sự kiểm soát của nhân dân hoặc nhân dân không có khả năng để kiểm soát.

Vai trò của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp và các thiết chế xã hội khác chưa được phát huy đầy đủ. Bản thân các tổ chức đó cũng chưa đảm trách được mạnh mẽ vai trò, chức năng là các tổ chức "đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân" nhưng không có quy định pháp lý nào bắt buộc các tổ chức đó phải chịu trách nhiệm. Nhiều tổ chức mang tính xã hội, tự nguyện, tự quản nhưng lại phụ thuộc vào nhà nước, được nhà nước bao cấp, hỗ trợ khiến cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức đó thiếu đi tính chủ động, độc lập, khách quan, làm cho chức năng giám sát và phản biện đôi khi rơi vào hình thức, ít hiệu quả. Nhà nước chưa thừa nhận các tổ chức xã hội dân sự như một nhu cầu tất yếu, khách quan của nền dân chủ, pháp quyền nên sự tham gia của người dân vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đảm trách những khâu, những việc phi lợi nhuận trở nên khó khăn. Việc kiểm soát quyền lực nhà nước từ xã hội vì thế mà trở nên mờ nhạt, hình thức.

Các phương tiện truyền thông đại chúng hoạt động theo Luật báo chí, nhưng vẫn còn tình trạng duy trì một hình thức sở hữu, chế độ kiểm duyệt, chỉ huy việc đăng tải, đưa tin... do vậy, thông tin nhiều khi chỉ một chiều và sự thật khách quan không được tranh luận, kiểm chứng một cách thuyết phục. Nhiều dự thảo chính sách, pháp luật chưa được đăng tải, thông tin rộng rãi để nhân dân tham gia

Page 106: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

101

góp ý, phản biện trước khi ban hành, thực hiện. Các phương tiện thông tin đại chúng còn dè dặt khi đưa tin các vụ việc vi phạm đến quyền làm chủ của nhân dân, đến sai trái, vi phạm của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, nhất là người có chức vụ, quyền hạn...

Mọi quyền hành chỉ thuộc về nhân dân khi có một cơ chế thích hợp, hiệu quả để nhân dân có thể trực tiếp kiểm soát, giám sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân, của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Hiện tại chưa có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm đối với các cơ quan và đại biểu mà do mình bầu ra. Mặt khác, hầu hết các các chức vụ trong hệ thống nhà nước không phải do nhân dân lựa chọn, bầu trực tiếp, vì thế quy định chịu trách nhiệm trước nhân dân của người giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước chưa được hoàn thiện, khả thi.

Hệ thống luật pháp ở nước ta chưa theo kịp thực tiễn và còn nhiều hạn chế; nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch của nhà nước chưa được luật hoá đầy đủ và chưa được thực hiện nghiêm túc. Nhiều chính sách, pháp luật do các cơ quan chức năng, có thẩm quyền dự thảo hoặc ban hành không đảm bảo quy trình, thiếu vắng sự tham gia của nhân dân (cơ quan soạn thảo không tham vấn ý kiến nhân dân, chuyên gia...) nên không hợp lòng dân, không khả thi, gây thiệt hại cho nhà nước và nhân dân nhưng không có cơ quan, cá nhân nào phải chịu trách nhiệm, bị xử lý nghiêm túc, ví dụ như: quy định về số lượng xe máy được đăng ký, ngực lép không được lái xe, bảo quản thịt trong 8 tiếng, xe chính chủ,… Cơ chế pháp lý còn chưa bảo đảm được các điều kiện để nhân dân kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước được thuận tiện, dễ dàng. Một số quy định mang tính dân chủ nhưng thực tế ít khả thi, còn chung chung và nặng về hình thức, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả vận hành, hoạt động của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thời gian qua.

* Thực trạng về dân trí và nhận thức pháp luật của nhân dân Dân trí được hiểu là mức độ nhận thức chung của nhân dân trong một

phạm vi nhất định. Dân trí và nhận thức pháp luật luôn đi liền với nhau và có tính

Page 107: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

102

tiền đề, bổ sung nhau. Trình độ dân trí cao thì nhận thức pháp luật của nhân dân cao và ngược lại. Khi dân trí, kiến thức và hiểu biết pháp luật được nâng lên thì năng lực sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân cũng được nâng lên. Như vậy, quyền con người, quyền công dân được nhân dân tự bảo vệ bên cạnh sự thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm của Nhà nước theo hiến pháp, pháp luật. Dân trí và nhận thức pháp luật giúp người dân biết sử dụng các công cụ, phương tiện mà pháp luật trao cho hiệu quả hơn như: sử dụng báo chí truyền thông, quyền khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo, quyền được cung cấp thông tin; quyền được thay đổi thẩm phán, hội thẩm tại phiên toà, quyền được tự bào chữa và mời luật sư bào chữa hay buộc phải có luật sư bào chữa...Mặt khác, người dân cũng hiểu hơn trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ, công chức nhà nước trong thi hành công vụ "chỉ được làm những gì pháp luật cho phép" còn công dân thì "được làm tất cả những gì pháp luật không cấm" để thực hiện quyền của mình. Khi trình độ dân trí nâng lên, công luận, truyền thông đại chúng và các quyền tự do cá nhân được phát huy cao độ khiến người dân càng có trách nhiệm hơn trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế- xã hội và hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước vì thế được đầy đủ, toàn diện và chặt chẽ, hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, hiện nay dân trí của nước ta không đồng đều, kiến thức và sự hiểu biết pháp luật của đa số nhân dân còn hạn chế, mức độ nhận thức có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi, giữa các dân tộc, tôn giáo với nhau. Công bố của Viện khoa học thống kê (Tổng cục Thống kê) qua nghiên cứu một đề tài khoa học năm 2011 cho thấy tỉ lệ người biết chữ trên toàn quốc đạt 93,6%. Báo cáo phát triển con người (HDR) năm 2011 do UNDP công bố cho thấy Việt Nam đã đạt số năm học trung bình cho người dân là 5,5 năm. Về hiểu biết pháp luật: "Theo con số thống kê, hiện nay 90% nông dân chưa hiểu biết về pháp luật, trong số đó có 50% không hiểu biết. Ở vùng cao, vùng sâu, thậm chí nhiều người còn không hiểu luật sư là ai, làm việc gì" [136, tr.292]. Thực trạng trên là do trình độ dân trí và nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế. Nguyên nhân dân trí thấp và thiếu hiểu biết về pháp luật khiến cả người dân và nhà nước đều khó khăn trong việc thực hiện

Page 108: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

103

quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của mình dẫn đến các biểu hiện tha hoá quyền lực như: lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác từ phía cơ quan nhà nước. Cũng vì thế mà sống và làm việc theo pháp luật, tuân thủ pháp luật và sử dụng pháp luật để đấu tranh với các hành vi sai trái của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước chưa trở thành thói quen của người dân. Một bộ phận nhân dân thiếu niềm tin, tình cảm đối với pháp luật và cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước nên miễn cưỡng khi được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, không tự giác thực hiện pháp luật, dễ bị dân chủ quá đà, bị xúi giục, lôi kéo vào các hoạt động trái pháp luật...

Tiếp tục nâng cao dân trí và phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân; tuyên truyền, vận động nhân dân nêu cao tinh thần trách nhiệm công dân, thói quen tuân thủ pháp luật chính là những yêu cầu quan trọng bảo đảm cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phát huy được hiệu quả trong xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền ở Việt Nam.

* Thực trạng về điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước Kinh tế, xã hội của nước ta kể từ đổi mới đến nay đã có nhiều chuyển

biến theo hướng tích cực trên mọi phương diện của đời sống xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân không ngừng được nâng lên. Đi liền với đó, việc đổi mới thể chế theo hướng dân chủ - pháp quyền, xác định các nội dung, phương thức tổ chức quyền lực nhà nước theo xu hướng dân chủ, hiện đại, thực chất, chủ quyền nhân dân được đề cao hơn trên cả lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp là những nét cơ bản của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của Việt Nam.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một nước kinh tế nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu nền kinh tế, dân số sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp có tỉ lệ cao, tốc độ đô thị hoá và mức sống người dân ở mức trung bình, tư tưởng, nhận thức về tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước còn mang dấu ấn của mô hình Xô viết nên ảnh hưởng nhất định đến quan điểm, tư tưởng dân chủ về quyền lực nhân dân, quyền lực nhà nước và cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Dân sinh, dân trí, dân chủ và năng lực thực hiện dân chủ có mối liên

Page 109: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

104

hệ chặt chẽ, biện chứng, hữu cơ với nhau cho phép kiềm chế hay thúc đẩy dân chủ, tiến bộ và phát triển xã hội. Sự thật đó đặt ra vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước phải bao hàm nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua nguyên tắc: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [106, tr.9]. Bên cạnh đó, cần chú trọng xây dựng cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước để quyền lực nhà nước được kiểm soát chặt chẽ, toàn diện và thực sự vì dân.

Trước đây, các thiết chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước đều có nguồn gốc từ đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp, công cụ chuyên chính vô sản, mô hình tập quyền Xô viết, nhiều tổ chức được thành lập theo "sáng kiến của nhà nước", có tổ chức bộ máy tương ứng với tổ chức bộ máy nhà nước, đa số các tổ chức nhận được sự bao cấp, hỗ trợ, tài trợ của nhà nước, do đó cần có nguồn lực, điều kiện từ nhà nước để nuôi dưỡng bộ máy và duy trì hoạt động. Điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước, khả năng ngân sách của nhà nước và sự thừa nhận về mặt pháp lý, phù hợp với nhu cầu, đòi hỏi của xã hội và nhân dân đối với tổ chức, hoạt động của các thiết chế đó là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hoạt động của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiện nay, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta đang vận hành trong điều kiện kinh tế- xã hội ngày càng được cải thiện, cơ sở vật chất, dân trí và dân chủ ngày càng được nâng cao. Trong đó yếu tố đời sống, cơ sở vật chất có vai trò then chốt, quyết định. Nhận thức đúng điều đó là nhận thức đúng quy luật phát triển của xã hội, tránh các quan điểm bảo thủ, giáo điều và siêu hình khi thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền.

* Thực trạng mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành hiệu quả phụ thuộc vào mối quan hệ, tác động của các yếu tố cấu thành, trong đó yếu tố thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo đảm phải luôn gắn kết chặt chẽ, thống nhất với nhau. Hiện nay, yếu tố thể chế nền tảng đã được hiến định với những tư

Page 110: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

105

duy mới, nhất quán để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước như: Chủ quyền nhân dân, bản chất nhà nước, mục tiêu xây dựng nhà nước; nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ nhân dân trong Hiến pháp năm 2013 và trong các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Đó là những cơ sở quan trọng để tiếp tục tăng cường đổi mới, bổ sung, hoàn thiện các thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước trong thời gian tới.

Trên cơ sở hiến định, thiết chế là bộ phận, yếu tố sinh ra từ thể chế, bị thể chế quy định về vai trò, vị trí, chức năng, nguyên tắc và tổ chức hoạt động cũng chứa đựng những tư duy mới thể hiện một cách đầy đủ, nhất quán hơn. Ví dụ, trước Hiến pháp năm 2013, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được đặt ra một cách đầy đủ do nhấn mạnh yếu tố thống nhất giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc: "Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân" [129, tr.32] được quy định tại Điều 6, Hiến pháp năm 1959. Nhưng nhân dân thực hiện quyền kiểm soát ấy ra sao, như thế nào thì chưa được hiến pháp, pháp luật quy định cụ thể. Thậm chí các hình thức thực hiện dân chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước; tổ chức Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng chưa được hiến định; yếu tố bảo đảm về môi trường dân chủ pháp quyền, về dân trí và hiểu biết pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu khiến cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành ít hiệu quả. Hiện nay, các hạn chế nêu trên đã được Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật tích cực bổ sung, khắc phục. Các qui định về chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung, phương thức (trình tự, thủ tục, hình thức…) được qui định ngày càng rõ ràng là điều kiện pháp lý cần thiết để các chủ thể (tổ chức, cá nhân) trong cơ chế thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thuận lợi và đúng pháp luật. Đặc biệt là các qui định về thể

Page 111: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

106

chế, thiết chế, điều kiện đảm bảo thực hiện cơ chế đã được chú trọng và có những nhận thức mới. Sự tác động qua lại hợp lý giữa các yếu tố cấu thành cơ chế giúp cho cơ chế hoạt động đồng bộ hơn, hiệu lực, hiệu quả hơn so với trước. Tuy nhiên, quan hệ tác động này cũng còn một số tồn tại sau:

Một là, mối liên hệ giữa thể chế và thiết chế còn có điểm thiếu tính đồng bộ, thể hiện ở chỗ không phân biệt rành mạch thế nào là tổ chức chính trị - xã hội. Bằng chứng là Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (gọi tắt là Liên hiệp hội Việt Nam), Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam… cũng được coi là tổ chức chính trị - xã hội nhưng so với các tổ chức chính trị - xã hội khác thì vị trí pháp lý lại thấp hơn. Vì thế, chưa tạo được sự bình đẳng về địa vị pháp lý, về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các chủ thể. Thực tế là chưa phát huy được đầy đủ, hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội...

Hai là, hầu hết các thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước không độc lập về tài chính mà phụ thuộc vào ngân sách nhà nước nên hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước thiếu đi tính khách quan, chủ động hay bị nể nang, dễ dãi trong giám sát và phản biện. Mặt khác, hoạt động của hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội có xu hướng và bị “hành chính hóa" nên việc đi sâu, đi sát lắng nghe ý kiến của nhân dân, tham gia vào việc xây dựng, sửa đổi chính sách, pháp luật, dự án kinh tế - xã hội liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân không được nhiều, thiếu trọng lượng. Người dân chưa thực sự tin và ký thác quyền lợi của mình cho các tổ chức đó đại diện, bảo vệ…

Ba là, các yếu tố về phương thức thực hiện, cụ thể là trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn thiếu tính đồng bộ, một số quy định chưa cụ thể hoặc không thuận tiện nên cơ chế vận hành hiệu lực, hiệu quả không cao. Điều đó thể hiện là các quy định của pháp luật để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bất cân xứng, nặng ở cơ sở, nhẹ ở trung ương; nặng về hành pháp, nhẹ về lập pháp và tư pháp; tản mạn nhiều trong các văn bản quy phạm pháp luật; rườm rà, hình thức, mâu thuẫn, trùng chéo và khó thực hiện có hiệu quả trên thực tế.

Page 112: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

107

Bốn là, mối quan hệ và sự tác động giữa các yếu tố trong cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước với cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước

giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chưa chặt chẽ,

ăn khớp khi vận hành trong thực tế. Các quy định của pháp luật về mối quan hệ

giữa chủ thể kiểm soát với đối tượng chịu kiểm soát còn thiếu cụ thể, chưa bảo

đảm tính ràng buộc mạnh mẽ. Ví dụ: không có các quy định pháp lý bắt buộc Mặt

trận và các tổ chức chính trị - xã hội "phải có mặt" "phải tham gia" vào hoạt động

của các cơ quan nhà nước mà chỉ là quy định "được mời", "được thông báo"; Các

cơ quan nhà nước cũng không "bắt buộc" "phải tiếp thu thực hiện" ý kiến giám

sát, phản biện của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội mà chỉ là "lắng nghe,

tiếp thu". Vì vậy, việc thực hiện dễ nảy sinh tuỳ tiện, ít hiệu quả... Điều đó chỉ ra

rằng, mặc dầu cấu trúc tổ chức và hệ thống các quy định đồ sộ, chằng chịt nhưng

hoạt động lại chưa hiệu quả, các biểu hiện tha hoá quyền lực nhà nước chưa được

ngăn chặn, đẩy lùi một cách hữu hiệu.

Năm là, các thể chế tuy đã chứa đựng nhiều tư duy mới nhưng chưa đồng

bộ, toàn diện; các tư duy pháp lý cũ chưa được thay đổi căn bản nên cơ chế pháp

lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành thiếu nhất quán. Ví dụ: không

hoàn toàn rõ ràng tính chất đại biểu và tính chất đại diện giữa các cơ quan nhà

nước và tổ chức chính trị - xã hội.

3.2.3. Những nguyên nhân hạn chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm

soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam

* Nguyên nhân chủ quan

Những hạn chế, tồn tại từ thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ chế pháp

lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nêu trên bắt nguồn từ những nguyên

nhân chủ quan sau:

Thứ nhất, cả chủ thể lẫn đối tượng trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước đều chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tác dụng của cơ chế pháp

lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Thực chất là chưa thực sự coi kiểm

soát quyền lực nhà nước từ nhân dân là một phương tiện để hạn chế, khắc phục sự

Page 113: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

108

tha hóa của quyền lực nhà nước. Thậm chí cho rằng, Mặt trận, các đoàn thể nhân

dân, các tổ chức xã hội- nghề nghiệp và các thiết chế mang tính xã hội khác được

thành lập theo sáng kiến của Nhà nước là “công cụ" và “cánh tay nối dài" của Nhà

nước và "tuyên truyền, vận động" là chính. Nhận thức đó khiến hoạt động kiểm

soát quyền lực nhà nước từ các tổ chức đại diện nhân dân và các thiết chế mang

tính nhân dân trở nên hình thức. Mặt khác, các thiết chế của nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước được thiết lập trên cơ sở thể chế, nhưng thể chế không đảm

bảo được các điều kiện để các thiết chế đó phát huy được hết chức năng, nhiệm vụ

được giao. Cụ thể là thẩm quyền, phạm vi, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục và

hậu quả pháp lý của cơ chế đối với các thiết chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước còn tản mạn trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khiến vừa khó thực

hiện, vừa thực hiện ít hiệu lực; nhiều quy định chưa khoa học, mang tính tuỳ nghi,

thiếu trách nhiệm pháp lý ngay cả với chính chủ thể kiểm soát quyền lực nhà

nước. Thiếu các quy định pháp lý về tính liên kết, phối hợp giữa cơ quan đại biểu

nhân dân (đại diện ủy quyền) với tổ chức, mô hình đại diện (đại diện mang tính xã

hội) trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân trước sai

trái của quyền lực nhà nước.

Thứ hai, dù sự nghiệp đổi mới đất nước đã thực hiện được gần 30 năm

nhưng tổ chức quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam

vẫn chịu ảnh hưởng nhất định của mô hình Xô viết khiến việc thiết kế cơ chế còn

chậm đổi mới. Cấu trúc nhà nước theo mô hình tập quyền mặc dù có sự phân

công, phối hợp và kiểm soát giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng

các nội dung đó không được quy định thực sự rành mạch, đầy đủ cộng với một hệ

thống chính trị được thiết kế đồ sộ, cồng kềnh, nặng về bao cấp khiến việc kiểm

soát quyền lực trở nên trùng chéo, rườm rà, tản mạn, thiếu trọng tâm, ít hiệu lực,

kém hiệu quả.

Thứ ba, hệ thống pháp luật được xây dựng, ban hành tuy đã được đổi mới nhưng vẫn còn một số hạn chế như: tư duy lập pháp về kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng chưa đáp ứng

Page 114: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

109

được yêu cầu, kỹ thuật lập pháp còn chưa khoa học, hệ thống các quy định nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vừa thiếu, vừa thừa, vừa chưa đồng bộ, thống nhất và cụ thể. Các quy định của pháp luật về toàn dân và cá nhân công dân trực tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước còn thiếu và chậm được cụ thể hóa, ban hành làm cho việc thực hiện trên thực tế trở nên khó khăn, bất cập, hạn chế quyền dân chủ của nhân dân. Thứ tư, các điều kiện bảo đảm để cơ chế pháp lý nhân dân vận hành, hoạt động chưa hoàn chỉnh, mối liên hệ giữa các bộ phận của cơ chế và giữa cơ chế bên trong với cơ chế bên ngoài bộ máy nhà nước chưa chặt chẽ, các yếu tố ảnh hưởng, tác động đến cơ chế như: môi trường dân chủ pháp quyền; trình độ dân trí và hiểu biết pháp luật của nhân dân; điều kiện kinh tế xã hội chưa đạt trình độ phát triển... là những nguyên nhân dẫn đến hạn chế hiệu quả hoạt động của cơ chế. * Nguyên nhân khách quan Những nguyên nhân khách quan tác động ảnh hưởng đến cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước như: Thứ nhất, đất nước chưa có một nền dân chủ XHCN hoàn chỉnh trong thực tế. Mặt khác, trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế, Việt Nam buộc phải có những bước đi thận trọng cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của đất nước để hạn chế những tác động xấu của toàn cầu hoá và kinh tế thị trường cũng như sự chống đối của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thúc đẩy chuyển hoá chế độ, gây mất ổn định chính trị nhằm thực hiện mưu đồ "diễn biến hoà bình", "bạo loạn lật đổ" ở Việt Nam. Thứ hai, xuất phát từ nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, lạc hậu lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt và trong thời gian khá dài sống trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, mệnh lệnh hành chính, khép kín nên nhân dân chưa có điều kiện để sớm hình thành thói quen, tác phong dân chủ trong xã hội, điều đó đã tác động, ảnh hưởng nhất định đến việc thiết kế, tổ chức và vận hành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

Page 115: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

110

Thứ ba, công cuộc đổi mới đất nước chưa dài nên nhiều quy định cũ, mô

hình cũ không phù hợp nhưng chưa kịp huỷ bỏ. Điều đó nằm ngay ở cả trong thể

chế, thiết chế và các yếu tố bảo đảm của cơ chế. Mặt khác, các yếu tố phong tục,

tập quán, nếp sống, trình độ dân trí, mức độ hiểu biết pháp luật còn chi phối, ảnh

hưởng nhiều đến tác phong, hành xử của mọi thành viên trong xã hội khiến cơ chế

hoạt động chưa đạt được hiệu quả như yêu cầu đề ra.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã có sự ghi nhận, quy định ngày càng đầy đủ, tiến bộ hơn nhằm bảo đảm để nhân dân làm chủ quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thực chất, hiệu quả.

Cùng với đổi mới hệ thống chính trị, hệ thống pháp luật, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước đã có những đổi mới tích cực, toàn diện về các nguyên tắc, thể chế, thiết chế nhằm xác lập và thực thi các quyền và các điều kiện bảo đảm để nhân dân làm chủ và kiểm soát quyền lực nhà nước một cách chặt chẽ, hiệu quả. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và đã đạt những thành tựu nhất định trên cơ sở thực hiện mục tiêu, nguyên tắc đó nhưng thực trạng cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn có những khiếm khuyết, hạn chế do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, cả về mặt thể chế, thiết chế và các yếu tố bảo đảm làm ảnh hưởng đến kết quả vận hành, hoạt động của toàn bộ cơ chế.

Đánh giá khách quan thực trạng, chỉ rõ hạn chế và nguyên nhân hạn chế của cơ chế là cơ sở để tác giả đề xuất các quan điểm, giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam theo quan điểm, đường lối của Đảng và tinh thần, nội dung đổi mới của Hiến pháp năm 2013.

Page 116: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

111

Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ

NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

4.1.1. Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước là để xây dựng nhà nước mạnh hơn, vai trò nhà nước rõ hơn và thực

sự vì dân

Kiểm soát quyền lực nhà nước, giới hạn quyền lực nhà nước trong phạm

vi nhân dân giao phó không phải để làm quyền lực nhà nước suy yếu và vai trò

của nhà nước mờ nhạt đi, mà trái lại làm cho nhà nước mạnh và rõ hơn, đủ sức

đảm nhiệm quyền lực nhân dân trao cho. Nguyên tắc “ Thực hiện chính quyền

mạnh và sáng suốt" [129, tr.12] được quy định ngay trong Lời nói đầu của Hiến

pháp năm 1946 và ngày nay, nhà nước mạnh theo Hiến pháp năm 2013 là nhà

nước có khả năng:

Bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn

trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi

người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển

toàn diện [106, tr.9].

Nhà nước được tổ chức bằng con đường dân chủ làm nên tính chính danh

của Nhà nước; hiến pháp và pháp luật được xây dựng và ban hành dân chủ sẽ tạo

nên hiệu lực của pháp luật. Cả hai yếu tố đó là cơ sở làm cho nhà nước mạnh.

Các thể chế dân chủ chỉ yêu cầu về giới hạn đối với quyền lực nhà nước để

chống lạm dụng quyền lực chứ không yêu cầu quyền lực nhà nước phải yếu đi.

Khi nhân dân kiểm soát được quyền lực nhà nước, thống nhất với ý chí của Nhà

nước thì sự ủng hộ của nhân dân làm cho nhà nước mạnh. Vì vậy, nhà nước

mạnh là nhà nước có nguồn gốc hình thành dân chủ và có nguyên tắc tổ chức và

hoạt động dân chủ, mọi quyền lực đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân giao

Page 117: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

112

quyền, vì nhân dân phục vụ và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nhà nước mạnh

ngày nay phải là nhà nước dân chủ, pháp quyền. Đối với nước ta đó là nhà nước

pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện dân chủ

XHCN và phát huy quyền làm chủ của nhân dân một cách thực sự và đầy đủ.

Nhà nước pháp quyền luôn đi liền với hệ thống pháp luật đồng bộ, đầy đủ về

quyền và trách nhiệm của cả công dân lẫn nhà nước; nhà nước luôn phải thượng

tôn pháp luật, sử dụng pháp luật để bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền

công dân và kiểm soát chính mình, sau đó mới kiểm soát xã hội. Pháp luật buộc

hoạt động nhà nước phải có trách nhiệm, công khai, minh bạch và chịu sự kiểm

soát của nhân dân. Các hoạt động và quyết định của cơ quan nhà nước trong thực

thi quyền lực nhà nước phải phù hợp với hiến pháp, pháp luật; mọi tổ chức cá

nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật... đó là những nguyên tắc cơ bản

của Nhà nước pháp quyền và cũng là những yếu tố cơ bản để xây dựng nhà nước

mạnh. Để các hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền hợp hiến, hợp

pháp thì cần phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ, hiệu quả từ chính

nội bộ các cơ quan nhà nước và kiểm tra, giám sát của nhân dân. Chỉ khi thấu

triệt được quan điểm đó thì việc nhân dân, các tổ chức của nhân dân kiểm soát,

giám sát cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước bằng các phương tiện

pháp lý mới không bị cản trở, đối phó hoặc cho rằng "cản trở" hoạt động nhà

nước, làm khó khăn cho hoạt động nhà nước. Chỉ khi nhận thức rằng nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước là một biện pháp xây dựng để nhà nước mạnh hơn

thì chủ thể kiểm soát mới phát huy hết trách nhiệm tự thân và trách nhiệm pháp

lý của mình trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Có như vậy, cơ chế

pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước mới không trở nên hình thức,

kém hiệu quả và việc hoàn thiện cơ chế mới thực sự có ý nghĩa và hữu ích.

Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm xây dựng một nhà nước mạnh đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống thể chế về dân chủ để phát huy được tiềm năng trí tuệ và sức mạnh của toàn xã hội, thống nhất được ý chí và hành động của nhân dân cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ

Page 118: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

113

quốc. Thể chế đó phải bảo đảm công khai, minh bạch hoạt động quyền lực nhà nước và trách nhiệm của nhà nước trong quan hệ với nhân dân. Mặt khác, phải bảo đảm đầy đủ các quy định bằng pháp luật về quyền của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ, quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp để nhân dân có thể tự mình hoặc thông qua các tổ chức đại diện cho mình kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thuận tiện, có chất lượng và hiệu quả.

4.1.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phải đi đôi với việc phát huy dân chủ, xây dựng môi trường công khai, minh bạch

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trên thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực" [51, tr.84-85]. Quan điểm đó phải được "thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm" [51, tr.85]. Bên cạnh đó cần phải "có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình" [51, tr.240]. Không có cơ chế khoa học, thuận tiện và pháp luật bảo đảm thì dân chủ và quyền làm chủ của người dân sẽ khó thực hiện hoặc thực hiện hình thức, không đến nơi, đến chốn. Vì vậy, muốn phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân thì phải "Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo" [51, tr.246].

Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phải đi đôi với việc xây dựng môi trường dân chủ, công khai, minh bạch của đất nước. Nhà nước phải thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nguyên tắc công khai, minh bạch trước nhân dân. Bởi không có môi trường dân chủ, công khai, minh bạch thực sự thì cơ chế nào nhân dân cũng không thể thực hiện được quyền làm chủ của mình. Vì vậy, tạo lập môi trường, nguyên tắc thực sự dân chủ, công khai, minh bạch vừa là giải pháp, vừa là phương tiện bảo đảm để cơ chế pháp lý nhân dân

Page 119: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

114

kiểm soát quyền lực nhà nước hoàn thiện và vận hành có hiệu quả. Môi trường đó đòi hỏi phải bảo đảm các yếu tố, điều kiện làm chủ của người dân thông qua hệ thống thể chế, thiết chế tương ứng có khả năng thực thi trong thực tế để nhân dân phát huy được mọi tiềm năng sáng tạo của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và trong quan hệ với nhà nước. Trước mắt, cần thể chế hóa việc thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện của nhân dân, bảo đảm để nhân dân thực hiện được quyền của mình một cách thực chất dựa trên nền tảng pháp luật. Cụ thể là hoàn thiện cơ chế bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện thí điểm nhân dân trực tiếp bầu ra lãnh đạo của mình; hoàn thiện cơ chế giám sát và phản biện xã hội, tăng cường sự tham gia của người dân vào hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật và công tác cán bộ. Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan dân cử và tổ chức đại diện nhân dân; xác định tính chịu trách nhiệm trước nhân dân của cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền; tạo cơ chế, điều kiện thuận lợi để người dân dễ dàng thực hiện quyền làm chủ của mình; đa dạng hóa các hình thức thực hiện quyền làm chủ của dân nhất là quyền tự do bầu cử và ứng cử, tự do tư tưởng và ngôn luận, cụ thể hóa các quyền bãi nhiệm đối với đại biểu dân cử; tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được thông tin, thực hiện trưng cầu ý dân, thúc đẩy sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, xây dựng xã hội dân sự, thu hút sự tham gia của người dân vào quá trình phản biện đường lối chính trị, chính sách, pháp luật... Để đạt được yêu cầu đó, nhà nước phải tạo lập khuôn khổ thể chế thích hợp nhằm phát huy dân chủ và quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy năng lực, sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình. Người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng và Hiến pháp năm 2013, phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, khả thi; xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và tính chuyên nghiệp cao. Đảm bảo các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức đều phải "tôn trọng Nhân dân, tận tuỵ phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng

Page 120: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

115

nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền" [106, tr.11]. Để có môi trường dân chủ thực sự, phát huy được đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân thì trước hết phải thực hiện dân chủ từ trong Đảng, vì Đảng là "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" [106, tr.9]. Không thực hiện dân chủ trong Đảng, trong hệ thống chính trị và thực hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động trong bộ máy nhà nước, còn tình trạng quy chế nội bộ chi phối luật thì cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ rơi vào hình thức và không thể vận hành có hiệu quả được. Vì vậy, hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nhất thiết phải đặt trong môi trường thật sự dân chủ, công khai, minh bạch và pháp quyền của đất nước.

4.1.3. Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước trước hết là để nhà nước làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền hạn được nhân dân giao quyền, ủy quyền, quản lý xã hội có hiệu lực và hiệu quả

Quyền lực nhà nước là của nhân dân, nhân dân giao quyền, ủy quyền cho nhà nước để nhà nước thay mặt cho mình thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lực nhà nước khi nằm trong tay Nhà nước thì quá trình vận động luôn có "xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu" [63, tr.69]. Vì vậy, nhân dân sau khi trao quyền, ủy quyền cho nhà nước thì nhân dân thực hiện quyền kiểm soát quyền lực nhà nước của mình là một đòi hỏi tất yếu.

Tính tất yếu, khách quan của cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là nhằm để quyền lực nhà nước vận hành trong khuôn khổ, đúng mục đích, có hiệu lực và hiệu quả. Để làm được điều này, trước hết nhà nước phải tự quản lý mình, đảm bảo nhà nước làm đúng, làm đủ quyền hạn, nhiệm vụ được nhân dân giao từ đó mới quản lý xã hội có hiệu lực và hiệu quả. Theo đó, cần phải xóa bỏ quan niệm không đúng trước đây cho rằng nhà nước ra đời trước hết là để quản lý xã hội chứ không phải là để quản lý mình. Nhà nước chỉ mạnh khi xã hội phục tùng nhà nước và nhà nước đáp ứng được nhiều nhất những đòi hỏi của xã hội, của nhân dân. Vì vậy, ngày nay xây dựng nhà nước pháp quyền, đổi mới hoạt

Page 121: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

116

động của hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn nhằm mục đích để nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà hiến pháp, pháp luật quy định. Tuy nhiên, ở nước ta tình trạng "quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc dư luận" [51, tr.172]. Nguyên nhân là do nhà nước không tự kiểm soát và quản lý được chính mình, biểu hiện cụ thể của nó là: cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật, công tác cán bộ, công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước còn nhiều hạn chế, bất cập làm nảy sinh vi phạm, tội phạm ngay bên trong bộ máy nhà nước (sự tha hóa của nhà nước). Vì vậy, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính, phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí" [51, tr.253]. Các giải pháp để thực hiện như: phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, chú trọng các biện pháp phòng ngừa, thực hiện chế độ công khai, minh bạch; chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng và của nhân dân... trên cơ sở pháp luật là nhằm làm trong sạch nhà nước, để nhà nước đủ khả năng tự quản lý mình, khắc phục được những hạn chế, bất cập nêu trên.

Với quan điểm nhà nước phải tự hoàn thiện, kiểm soát, quản lý mình bằng cơ chế, pháp luật để nhà nước xứng đáng với sự trao quyền, ủy quyền từ nhân dân là yêu cầu cấp thiết ở Việt Nam hiện nay. Chỉ khi nhà nước kiểm soát, quản lý được mình một cách hiệu quả và trở nên trong sạch, vững mạnh thì khi đó nhà nước mới bảo đảm thực hiện tốt chức năng quản lý xã hội của mình. Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chính là nhằm mục đích thực hiện yêu cầu, quan điểm đó.

4.1.4. Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Ở nước ta, hệ thống chính trị được thiết lập, vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đó là sự phân định chức năng

Page 122: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

117

cho mỗi chủ thể, trong mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và nhân dân ở nước ta. Xét đến cùng, quyền lực chính trị cũng chỉ là phái sinh của quyền lực nhân dân, nhân dân là chủ thể gốc của các loại quyền lực trong xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam với tư cách hiến định là "lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" (Điều 4), Đảng phải "gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân" [51, tr.89]. Khoản 2, Điều 4, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình" [106, tr.7]. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, nắm giữ quyền lực chính trị là nhằm mục đích "phục vụ nhân dân", bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, "Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân" [51, tr.239]; và tập trung "xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" [51, tr.247]. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng lãnh đạo chính là nhằm bảo đảm các điều kiện để nhân dân thực hiện đầy đủ, trọn vẹn, có hiệu quả nhất quyền dân chủ của mình đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Để đạt được mục đích, nội dung đó, trước hết phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc tổ chức xây dựng và vận hành cơ chế. Mặt khác, với góc độ vừa là lãnh đạo, vừa là thành viên của hệ thống chính trị; vừa là lãnh đạo, vừa là chủ thể của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cho nên hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng chính là những bảo đảm thiết yếu để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước được hoàn thiện và vận hành có hiệu quả.

Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, bằng thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và quyền con người, quyền công dân được hiến pháp, pháp luật ghi nhận. Như vậy, việc hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và

Page 123: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

118

Nhân dân làm chủ phải được kết hợp thực hiện đồng thời và chặt chẽ với nhau. Nhân dân làm chủ bằng dân chủ đại diện qua cơ chế bầu cử uỷ quyền là cơ quan đại biểu nhân dân (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) và tổ chức đại diện nhân dân (Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp...). Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp bằng các quyền con người, quyền công dân như: bầu cử, ứng cử, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tiếp cận thông tin... và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tất cả các nội dung đó cần phải được thể chế hoá và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật trên cơ sở có sự lãnh đạo của Đảng.

4.1.5. Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phải đáp ứng với yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước

Mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta. Trên cơ sở đường lối của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước được thực hiện toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế là nhằm xác lập các tiêu chuẩn chung về quyền con người, quyền công dân về dân sự và chính trị, có ý nghĩa vừa là phương tiện, vừa là nội dung, cách thức phục vụ cho hội nhập quốc tế của đất nước. Xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân vừa chứa đựng các giá trị của nhân loại vừa mang đặc điểm riêng của Việt Nam là một cách thức để đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng. Hoàn thiện thể chế chính trị và hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước; pháp luật thừa nhận và phát triển các tổ chức xã hội dân sự; quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý của Nhà nước, quyền tự do ngôn luận, tiếp cận thông tin, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình của nhân dân một cách đầy đủ là những cơ sở, điều kiện để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước và hội nhập quốc tế. Tuy có khác nhau về quan điểm chính trị, nhưng khoa học về tổ chức thực thi quyền lực nhà nước ở các nước dân chủ tư sản phát triển trên thế

Page 124: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

119

giới vẫn chứa đựng những yếu tố hợp lý nhìn từ góc độ kỹ thuật và giá trị nhân văn. Việc đề cao dân chủ, pháp quyền trong đời sống xã hội và tổ chức quyền lực nhà nước tạo ra sự phát triển lành mạnh và ổn định ở các nước trên thế giới là những nhân tố hợp lý cần tiếp thu và vận dụng. Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn là tạo điều kiện để người dân có quyền tiếp xúc, giao lưu với thế giới bên ngoài một cách tự do, rộng rãi về dân sự, kinh tế, văn hóa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế một cách sâu rộng của đất nước. Để thực hiện, cần hoàn thiện các luật về quốc tịch, hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động và các luật tố tụng khác… Xây dựng Luật xuất nhập cảnh, Luật tiếp cận thông tin, Luật dân số, Luật hôn nhân và gia đình, Luật biểu tình, Luật tín ngưỡng, tôn giáo… Ban hành kịp thời các nghị định, thông tư cần thiết để hướng dẫn các văn bản luật mới được ban hành và còn thiếu. Cần đảm bảo tính đồng bộ, tính thống nhất trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thực thi tốt hơn nữa các quyền dân sự, chính trị của công dân trong tình hình hiện nay.

4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

4.2.1. Giải pháp hoàn thiện thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Thể chế là yêu cầu bắt buộc đối với mọi chế độ chính trị, pháp lý và mọi cơ chế trong xã hội. Nó là nguồn gốc phát sinh và là điều kiện quyết định tính hợp pháp, hợp lý để các cơ chế trong xã hội vận hành, hoạt động có hiệu quả. Thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cũng không ngoài đặc điểm, tính chất đó. Trong thể chế thì hiến pháp có vị trí cao nhất, đồng thời giữ vai trò thể chế gốc, có tính cơ bản, định khung, tạo lập cơ sở cho việc ban hành các văn bản pháp luật để cụ thể hoá, hiện thực hoá các quy định đó. Vì vậy, việc xây dựng, ban hành hiến pháp, pháp luật bảo đảm dân chủ, khoa học, thể hiện trọn vẹn ý chí, nguyện vọng của nhân dân có ý nghĩa quyết định đến sự tiến bộ của thể chế và hiệu quả của cơ chế. Về mặt kỹ thuật, thể chế phải đảm bảo tính trật tự, thứ bậc của hệ thống pháp luật trong xác lập phạm vi, thẩm

Page 125: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

120

quyền, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý của cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước đối với cả chủ thể và đối tượng của cơ chế. Mặt khác, thể chế phải đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực mà cơ chế đảm trách. Cụ thể là:

4.2.1.1. Hoàn thiện thể chế xây dựng và bảo vệ hiến pháp Quy trình xây dựng hiến pháp dân chủ, tiến bộ là phải đảm bảo quy

trình: Quốc hội đề xuất, soạn thảo dự thảo hiến pháp, thông qua hiến pháp còn toàn dân thực hiện việc thảo luận hiến pháp và biểu quyết trực tiếp về hiến pháp (phúc quyết hiến pháp). Quy trình xây dựng, ban hành hiến pháp quyết định cơ chế bảo vệ hiến pháp. Khi thảo luận toàn dân và biểu quyết toàn dân về hiến pháp thì đồng nghĩa nhân dân quy định việc bảo vệ hiến pháp. Điều 119, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định" [106, tr.63]. Vậy, luật định như thế nào là việc đặt ra cần thực hiện trong thời gian tới. Theo tác giả, quy trình lập hiến và bảo hiến ở Việt Nam chịu sự chi phối mạnh mẽ của quan điểm, đường lối chính trị và quyết định chính trị cho nên muốn đổi mới và hoàn thiện cơ chế thì trước hết phải đổi mới quan điểm của Đảng về quy trình lập hiến và cơ chế bảo hiến. Cơ chế bảo hiến, suy đến cùng là thiết lập cơ quan tài phán hiến pháp độc lập, giao cho thiết chế này quyền giải thích hiến pháp và quyền tài phán hiến pháp. Trên cơ sở thể chế chính trị, pháp lý hiện tại "cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật quy định" [106, tr.63] thì luật đó phải xác lập được cơ chế bảo vệ hiến pháp thực sự khoa học, dân chủ thể hiện đầy đủ ý chí của nhân dân, phù hợp với xu thế tiến bộ của nhân loại. Đồng thời, luật đó phải bảo đảm các chủ thể pháp luật có vị trí, chức năng, thẩm quyền độc lập để xử lý mọi hành vi vi hiến có hiệu quả. Ví dụ như Luật trưng cầu ý dân có thể trở thành một căn cứ, cơ sở để khởi nguồn quy trình lập pháp và cơ chế bảo vệ hiến pháp... Vì vậy, phải sớm luật hóa quy định này để làm rõ hơn, cụ thể hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và nhân dân trong việc bảo vệ Hiến pháp.

Page 126: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

121

4.2.1.2. Hoàn thiện thể chế về sự lãnh đạo của Đảng Đảng ta xác định mục tiêu và giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN, điều đó có nghĩa hiến pháp, pháp luật có vị trí tối thượng trong điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và mọi chủ thể trong xã hội đều có nghĩa vụ tuân thủ, thực hiện hiến pháp và pháp luật. Đảng là chủ thể lãnh đạo nhà nước và xã hội nên Đảng không đứng ngoài và đứng trên hiến pháp và pháp luật - Điều này đã được chính các văn kiện của Đảng xác nhận. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng, ban hành Luật về sự lãnh đạo của Đảng là để thể chế hóa Điều 4, Hiến pháp năm 2013 nhằm cụ thể hóa trách nhiệm của Đảng trong lãnh đạo " Nhà nước và xã hội" và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quan điểm, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng. Luật về sự lãnh đạo của Đảng xây dựng trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Cương lĩnh chính trị, quy định của Điều lệ Đảng, các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương. Luật đó, cần quy định về tổ chức bộ máy và phương thức lãnh đạo của Đảng, nội dung, phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng. Nội dung kiểm soát của Đảng cần được thể hiện trên các nội dung lãnh đạo của Đảng có tính bao trùm, trọng yếu và then chốt trên các phương diện hoạt động của hệ thống chính trị, cụ thể là của bộ máy nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội... Đối tượng kiểm soát của Đảng chính là đối tượng Đảng lãnh đạo, trong đó chú trọng kiểm soát của Đảng đối với các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mặt khác, hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cần chú ý đến các thể chế quy định nhân dân với tư cách toàn dân và cá nhân công dân cùng với các tổ chức đại diện nhân dân có quyền kiểm soát, giám sát quyền lực của Đảng để thể hiện trách nhiệm của Đảng trước nhân dân về những quyết định của mình bằng các quy định pháp lý cụ thể. Cần pháp lý hóa mối quan hệ phối hợp giữa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do các chủ thể là cơ quan nhà nước, có tính quyền lực nhà nước thực hiện với cơ chế do nhân dân, không mang tính quyền lực nhà nước thực hiện. Đồng thời coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm thực hiện có hiệu quả các nội dung trên.

Page 127: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

122

4.2.1.3. Hoàn thiện các thể chế nhằm phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: Nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và của nhân dân...Nhà nước tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách tạo điều kiện để nhân dân và các tổ chức này tham gia có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát việc thực hiện luật pháp, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội... [51, tr.215].

Nhân dân tham gia hoạch định chính sách, pháp luật của Nhà nước với góc độ là cá nhân công dân và các tổ chức đại diện cho nhân dân trước hết là thông qua việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Quy trình làm ra văn bản quy phạm pháp luật phải được chỉ dẫn bởi những quy tắc chung, rõ ràng, ổn định và công khai. Nội dung văn bản quy phạm pháp luật phải xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của đa số nhân dân, yêu cầu quản lý, phát triển xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Đảm bảo quy trình, thủ tục tham vấn ý kiến nhân dân ở tất cả các bước, các giai đoạn, thu hút đông đảo, rộng rãi sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức đại diện nhân dân, các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia, các nhà khoa học... là để văn bản có chất lượng và tính khả thi. Nội dung thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cần cụ thể hoá các nguyên tắc, quy định trong Hiến pháp năm 2013 và quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị; về thực hiện, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; về sự công khai, minh bạch của hoạt động quyền lực nhà nước... Trước mắt, cần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013, trong đó có các luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật công đoàn, Luật thanh niên, Luật báo chí, Luật xuất bản, Luật tiếp công dân, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước...; xây dựng Luật cựu chiến binh, Luật về Hội, Luật về giám sát của nhân

Page 128: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

123

dân, Luật phản biện xã hội...bảo đảm phương tiện pháp lý để các tổ chức đại diện nhân dân thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả quyền năng kiểm soát quyền lực nhà nước của mình.

Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân theo các nội dung sau đây: + Về giám sát: Trên cơ sở rà soát, pháp điển hóa các văn bản như: Quy

chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, trị trấn; Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; các quy định của Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tiếp công dân, Luật báo chí, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật thanh tra... trong đó cần quy định rõ chủ thể là: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các phương tiện truyền thông đại chúng, các thiết chế dân chủ ở cơ sở và cá nhân công dân. Đối tượng chịu giám sát quy định rõ là: các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Nội dung giám sát là toàn bộ việc thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo chức năng, chức trách, nhiệm vụ của cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Phạm vi giám sát là mọi hoạt động quyền lực nhà nước bao gồm cả trung ương và địa phương, cả lập pháp, hành pháp và tư pháp; cả cơ quan và các cá nhân có chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm. Phương thức thực hiện bao gồm: trình tự, thủ tục, phạm vi, thời gian, thời hạn được quy định theo hướng thuận tiện, khả thi, không trùng chéo. Quy định rõ trách nhiệm thực hiện dân chủ công khai, minh bạch, trong hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước để các chủ thể mang tính nhân dân tiện kiểm soát, giám sát. Thiết lập hệ thống các quy định về hậu quả pháp lý đối với cả chủ thể và đối tượng kiểm soát nếu không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình theo hiến pháp và luật.

+ Về phản biện xã hội: Phản biện xã hội là đưa ra các lập luận, phân tích nhằm phát hiện, chứng minh, khẳng định, bổ sung hoặc bác bỏ một đề án, một phương án, một dự án nào đó được hình thành và công bố trước đó. Mục đích

Page 129: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

124

của phản biện xã hội là góp phần bảo đảm tính khoa học, đúng đắn, hài hoà các lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá của nhà nước, tổ chức và cá nhân. Đây là một hình thức nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước nhằm phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Chủ thể của phản biện xã hội nên quy định là các lực lượng xã hội, cụ thể là: các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các phương tiện truyền thông đại chúng, các thiết chế mang tính xã hội khác như nhóm tư vấn, nhóm chuyên gia... và các cá nhân là nhân sĩ trí thức, các nhà khoa học, các chuyên gia và người có uy tín trong xã hội. Đối tượng phản biện là những chủ trương, chính sách, pháp luật, chương trình, đề án, dự án nhằm phục vụ quản lý nhà nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở phạm vi cả nước hoặc địa phương, do các cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm quyền soạn thảo. Nội dung phản biện cần phải bao hàm tất cả các chính sách, pháp luật, hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; ở cả trung ương và địa phương. Luật phản biện xã hội cần quy định cụ thể, rõ ràng về cơ chế, trình tự, thủ tục phản biện để việc thực hiện được thuận tiện, trong đó chú trọng kết hợp chặt chẽ với cơ chế "tự phản biện" của các cơ quan, tổ chức để đảm bảo hiệu quả. Phản biện xã hội, thực chất là phản biện của nhân dân. Nhân dân với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước thực hiện phản biện xã hội để kiểm soát quyền lực nhà nước. Với tư cách là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước, nhân dân có quyền phản biện đối với những vấn đề liên quan do nhà nước đề ra để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chính mình. Hiện tại, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đã có Quy chế giám sát và phản biện xã hội do Bộ Chính trị ban hành. Tuy nhiên, các chủ thể phản biện xã hội không chỉ là các tổ chức đó mà còn nhiều tổ chức, cá nhân khác có thể thực hiện phản biện xã hội tùy theo vấn đề cần phản biện, trình độ, khả năng phản biện và nhu cầu phản biện như: các nhân sĩ trí thức, các nhà khoa học, các chính trị gia, các nhà văn hoá, các chuyên gia... Xây dựng Luật phản biện xã hội là một nhu cầu thực sự cần thiết trong tình hình hiện nay, đó không chỉ là hiện thực hoá một hình thức thực hiện

Page 130: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

125

dân chủ trực tiếp của nhân dân mà còn là phương tiện pháp lý để nhà nước phải chịu sự kiểm soát từ nhân dân về các chính sách, pháp luật của mình.

+ Về tổ chức hội: Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp đều có điều lệ của tổ chức mình do cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, phê duyệt. Nhà nước quản lý các tổ chức hội trên cơ sở Nghị định số 45/2010 ngày 21/4/2010 của Chính phủ. Các tổ chức hội ngày càng có xu hướng phát triển mạnh, đã và đang có vai trò quan trọng trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội. Hoàn thiện pháp luật về hội, trước hết cần ban hành Luật về tổ chức hội. Luật này được xây dựng trên cơ sở các nghị định, thông tư của Chính phủ và các bộ, ngành, trong đó cần quy định về vai trò tổ chức hội trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng chức năng tư vấn, thẩm định và phản biện xã hội. Cần xác lập trách nhiệm của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền trong việc tiếp thu các nội dung tư vấn, thẩm định, phản biện của các tổ chức hội khi đảm bảo cơ sở khoa học và thực tiễn; cần quy định cụ thể các vấn đề mà nhà nước trước khi quyết định cần phải có sự tham gia tư vấn, thẩm định, phản biện của các tổ chức này. Hậu quả xấu của việc thực hiện, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ kết quả tư vấn, thẩm định, phản biện cần phải được pháp luật quy định chặt chẽ, nghiêm khắc để tăng cường trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực hiện đó, tránh các biểu hiện coi thường, bỏ qua hay làm tùy tiện, chiếu lệ.

4.2.1.4. Hoàn thiện các thể chế toàn dân và cá nhân công dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước

Xây dựng các thể chế quy định về công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạt động nhà nước; quy định về giám sát và phản biện xã hội, trưng cầu ý dân, tham vấn ý kiến nhân dân, lấy (xin) ý kiến nhân dân; các quy định về quyền bầu cử, ứng cử của công dân, quyền hội họp, lập hội, biểu tình, tiếp cận thông tin, tự do tư tưởng, ngôn luận, báo chí...trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 2013, đường lối, nghị quyết của Đảng và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam thừa nhận hoặc ký kết tham gia về quyền con người, quyền công dân. Mặt khác, xây dựng và hoàn thiện các thể chế như: tổ chức và hoạt động của cơ

Page 131: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

126

quan nhà nước; các quy định về trách nhiệm cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; chế độ bầu cử và giới hạn nhiệm kỳ đối với các chức vụ nhà nước và đại biểu dân cử; cơ chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.

- Về quyền ứng cử và bầu cử của công dân, cần hoàn thiện một số nội dung trọng tâm sau:

Một là, trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, cần sớm sửa đổi Luật bầu cử để năm 2016, kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội và HĐND các cấp, tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND nhiệm kỳ tới. Trong đó, cần mở rộng khả năng lựa chọn của cử tri đối với các ứng cử viên trên một đơn vị bầu cử bằng cách: tăng số lượng ứng cử viên trong danh sách bầu cử ít nhất là gấp đôi số lượng được bầu để tăng sự lựa chọn của cử tri; tạo điều kiện để người đủ điều kiện, tiêu chuẩn tự ứng cử hay được đề cử bằng cách không cố ý "định hướng" sắp xếp danh sách tạo ra sự chênh lệch lớn giữa các ứng cử viên. Muốn vậy, việc ứng cử phải thực sự tự do không bị cơ chế nào "đứng đằng sau" chi phối, không phải chịu sự hiệp thương như ép buộc, đặc biệt là không phải chịu sự bố trí bất bình đẳng để trở thành "quân xanh" khi không được "tổ chức" giới thiệu. Quy trình lựa chọn, hiệp thương nhân sự, số lượng được bầu trên tỉ lệ ứng cử viên trong danh sách bầu cao hay thấp, việc phân bổ ứng cử viên về các đơn vị bầu cử phù hợp hay không phù hợp, sự chênh lệch giữa các ứng cử viên lớn hay nhỏ... nói lên việc bầu cử dân chủ hay hình thức... vì thế hướng tới cần khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên.

Hai là, phải đổi mới cơ cấu đại biểu Quốc hội theo hướng tăng đại biểu chuyên trách, giảm số đại biểu kiêm nhiệm; tăng đại biểu là các nhà khoa học, các nhân sĩ trí thức, đại diện các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, những người có uy tín và đại biểu các địa phương; giảm số lượng là đại biểu ở cơ quan trung ương, đại biểu là lãnh đạo chủ chốt cấp ủy, chính quyền các địa phương; có cơ cấu, tỉ lệ đại biểu địa phương tham gia các Ủy ban của Quốc hội hợp lý để đảm bảo tính độc lập, khách quan. Thực tế, nhiều đại biểu do dân bầu nhưng thể hiện trách nhiệm đại biểu của nhân dân

Page 132: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

127

chưa đến nơi, đến chốn do kiêm nhiệm các chức danh quan trọng trong các cơ quan, tổ chức khác. Cho nên cần có số lượng và cơ cấu như đề xuất nêu trên thay vì là cơ cấu nhiều lãnh đạo như hiện nay. Cần coi trọng tiêu chuẩn đại biểu trên cơ sở cơ cấu, thành phần để đảm bảo chất lượng đại biểu.

Ba là, phải tạo niềm tin của cử tri, nhân dân về tính dân chủ, khoa học,

khách quan, công bằng và trung thực của bầu cử. Tỉ lệ cử tri đi bầu cao nhưng cử

tri không quan tâm đến việc lựa chọn bầu cho ai hoặc được chỉ dẫn phải bầu cho

người này, người khác đều là không đúng và không công bằng; và một người

bầu hộ nhiều người là thực tế trong các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội

đồng nhân dân hiện nay. Điều này có nguyên nhân là cách thức tổ chức bầu cử

khiến người dân "cảm thấy" hình thức nên "đến cho có mặt" "bầu cho xong"

chưa kể nhận thức "gạch từ dưới lên" của một bộ phận không nhỏ nhân dân. Vì

thế, để phát huy thực chất quyền công dân trong việc trực tiếp bầu ra người đại

diện của mình thì cần phải đổi mới phương thức bầu cử cho thật sự dân chủ. Nên

tổ chức cơ quan bầu cử độc lập để tránh tình trạng "mình tổ chức cho mình" dễ

dẫn đến thiếu trung thực, khách quan. Mặt khác, phải quy định chặt chẽ hơn về

vận động bầu cử, về thực hiện bầu cử để nâng cao tinh thần trách nhiệm của cả

ứng cử viên đại biểu và cử tri để bầu cử đảm bảo thực chất hơn, hạn chế được

những biểu hiện hình thức và vi phạm nêu trên.

Bốn là, nhân dân có quyền bầu cử thì nhân dân có quyền bãi nhiệm. Vấn

đề bãi nhiệm đại biểu dân cử được quy định tại khoản 2, Điều 7, Hiến pháp năm

2013 nhưng chưa được pháp luật quy định, hướng dẫn việc thực hiện. Vì vậy,

cần sớm ban hành văn bản pháp luật riêng về chế độ bãi nhiệm đại biểu dân cử,

trong đó quy định rõ về điều kiện, trình tự, thủ tục bãi nhiệm để việc thực hiện

được rõ ràng, thuận tiện. Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm đối

với các đại biểu dân bầu theo định kỳ ở Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp

và cho phép các phương tiện truyền thông đại chúng hoặc cơ quan độc lập lấy ý

kiến của nhân dân (thăm dò dư luận) về mức độ tín nhiệm của các đại biểu dân

bầu kết hợp với cơ chế bãi nhiệm khi đại biểu không đạt chỉ số tín nhiệm. Các

Page 133: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

128

nội dung trên đòi hỏi phải có cách thức thực hiện trung thực, dân chủ, khách

quan và công khai, minh bạch.

Năm là, cần mở rộng phạm vi các chức danh được thành lập bằng con đường bầu cử để phát huy hơn nữa quyền thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân. Trong tương lai nên thiết lập cơ chế nhân dân trực tiếp bầu ra nguyên thủ quốc gia và cần phải có nhiều ứng cử viên được Đảng tín nhiệm giới thiệu ra tranh cử. Có như vậy, ý Đảng và lòng Dân mới thực sự thống nhất, bầu cử mới đúng nghĩa cạnh tranh lành mạnh, sự lựa chọn của nhân dân mới thực sự chính xác và người được bầu để đảm nhiệm chức vụ nhà nước càng thêm phần chính đáng, trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Trước mắt, cần nghiên cứu thực hiện việc dân bầu trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cấp huyện...

- Xây dựng Luật về trưng cầu ý dân và Luật tham vấn ý kiến nhân dân + Trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất của nhân dân.

Đây là vấn đề được quy định từ Hiến pháp năm 1946 và các bản Hiến pháp sau đó. Việc thể chế hóa quy định trên của Hiến pháp năm 2013 bằng Luật trưng cầu ý dân trong bối cảnh hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nữa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thông qua trưng cầu ý dân, nhà nước nắm được nhu cầu, quan điểm của nhân dân, để nhân dân quyết định những vấn đề hệ trọng liên quan đến sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, theo Hiến pháp năm 2013 thì Quốc hội có quyền "quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước" (Điều 69). Vậy, vấn đề còn lại hay vấn đề gì quan trọng hơn cần hoặc phải trưng cầu ý dân? Và trưng cầu ý dân hiện nay quy định trong Hiến pháp là thực hiện ở phạm vi cả nước, còn ở cấp địa phương thì có tổ chức trưng cầu ý dân hay chỉ là lấy ý kiến nhân dân? Hiến pháp năm 2013 quy định chủ thể quyết định và tổ chức trưng cầu ý dân là Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội do đó, Luật trưng cầu ý dân chỉ cần xác định những việc và phạm vi phải trưng cầu ý dân. Bên cạnh đó, Luật cần quy định cụ thể cách thức tổ chức thực hiện, bao gồm: trình tự, thủ tục, nội dung, hình thức tuyên truyền; mục đích, yêu cầu của việc thực hiện; quy định về tỉ lệ người dân tham gia biểu quyết, công khai kết quả biểu quyết, sử dụng kết

Page 134: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

129

quả biểu quyết (nên quy định kết quả trưng cầu ý dân có hiệu lực ngay khi công bố và bắt buộc phải thực hiện) và quy định trách nhiệm cũng như chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tổ chức để xảy ra sai sót, vi phạm. Trách nhiệm của công dân trong việc chấp hành luật và tham gia biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân hoặc lấy ý kiến nhân dân. Việc xây dựng, ban hành Luật trưng cầu ý dân sẽ tạo thêm cơ sở pháp lý để hiện thực hoá quy định của Hiến pháp năm 2013 về dân chủ trực tiếp nhằm mở rộng hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và đồng thuận xã hội, xây dựng đất nước dân chủ, pháp quyền và giàu mạnh.

+ Bên cạnh việc xây dựng ban hành Luật trưng cầu ý dân, cần nghiên cứu xây dựng Luật tham vấn ý kiến nhân dân để phát huy toàn diện hơn nữa quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, nhất là ở cấp địa phương. Luật tham vấn ý kiến nhân dân có ý nghĩa là một công cụ pháp lý để người dân được tham gia vào những vấn đề liên quan đến cuộc sống của mình và có niềm tin, hành động cụ thể tác động đến việc hoạch định, quyết định các chính sách của nhà nước. Đồng thời đó là một cách thức để nhà nước thâu nhận ý kiến của nhân dân trong việc ban hành các quyết định và thực hiện các quyết định đó một cách đầy đủ, toàn diện nhất. Vì vậy, tham vấn ý kiến nhân dân càng rộng rãi, càng nhiều vấn đề thì việc quyết định chính sách, pháp luật càng chặt chẽ, xác đáng. Không chỉ giới hạn tham vấn ý kiến nhân dân khi xây dựng chính sách, pháp luật hay trước khi quyết định một vấn đề hệ trọng mà cần tham vấn ý kiến nhân dân về cả quá trình tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật để bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật. Do đó, việc xây dựng Luật tham vấn ý kiến của nhân dân cần chú ý đến một số yếu tố cụ thể là: Chủ thể đề xuất tham vấn là các cơ quan nhà nước ở mọi cấp và mọi lĩnh vực. Đối tượng tham vấn là các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các cá nhân công dân, các nhà khoa học, các nhân sĩ trí thức, các chuyên gia… Nội dung tham vấn là các dự kiến chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật trên mọi phương diện của hoạt động quyền lực nhà nước có liên quan đến nhân dân và việc thực hiện các chính sách, pháp luật ở phạm vi cả nước và địa phương. Phương thức tham vấn ý

Page 135: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

130

kiến nhân dân cần được quy định khoa học, đa dạng để thuận tiện cho việc thực hiện và đem lại kết quả xác đáng.

- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân Ban hành các quy định, hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, Luật tố cáo

năm 2012, trong đó cần có những bảo đảm cụ thể để người dân dám khiếu nại, tố

cáo những việc làm sai trái của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Hoàn thiện

các quy định về: bảo vệ bí mật, bảo vệ nhân chứng, bảo vệ người khiếu nại, tố

cáo; khen thưởng người khiếu nại, tố cáo đúng; xử lý người vi phạm pháp luật

khiếu nại, tố cáo; thiết lập đường dây nóng, chấp nhận các hình thức tin báo, đơn

thư nặc danh; giải quyết khiếu nại, tố cáo do cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển

đến... Cần quy định cụ thể hơn trách nhiệm của Mặt trận và các tổ chức thành

viên trong việc đôn đốc, giám sát các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền giải

quyết khiếu nại, tố cáo.

- Xây dựng, ban hành Luật tiếp cận thông tin hay về tự do thông tin

Quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của công dân đã

được Hiến pháp năm 2013 quy định. Vì vậy, cần phải được thể chế hóa quy định

của Hiến pháp thành Luật tiếp cận thông tin hay về tự do thông tin để nhân dân

có thể thực thi được quyền của mình trên thực tế. Luật này cần quy định rõ các

loại thông tin cần phải được công khai, chỉ trừ những thông tin thuộc danh mục

bí mật nhà nước, ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, bí mật đời tư, bí mật kinh

doanh. Người dân có quyền được tiếp cận tất cả các loại thông tin mà luật quy

định, các cơ quan nhà nước phải cung cấp thông tin đầy đủ theo yêu cầu của

người dân mà không được phép ngăn cản, hạn chế vì bất kỳ lý do nào. Quy định

về quy trình, thủ tục mà người dân cần thực hiện để tiếp cận thông tin cần tìm

kiếm cần phải đơn giản, thuận tiện. Mọi vi phạm quyền công dân về quy định

này tùy theo mức độ phải có chế tài nghiêm khắc để xử lý. Điều này, giúp người

dân thực hiện quyền của mình dễ dàng hơn và nhà nước cũng phải công khai,

minh bạch hơn. Sự ra đời của Luật này sẽ tăng cường vai trò của nhân dân, các

tổ chức đại diện nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng trong kiểm soát

Page 136: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

131

quyền lực nhà nước, mặt khác góp phần nâng cao trách nhiệm công khai, minh

bạch của các cơ quan công quyền.

- Hoàn thiện thể chế về các phương tiện truyền thông đại chúng Để các phương tiện truyền thông đại chúng phát huy hơn nữa vai trò của

mình trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta, cần thiết phải thực hiện một số giải pháp như sau:

+ Cần ban hành các thể chế theo hướng thừa nhận mô hình báo chí, xuất bản do tư nhân sở hữu nhằm tạo ra không khí tự do, dân chủ trong hoạt động báo chí, xuất bản. Hoàn thiện các thể chế pháp luật để bảo đảm tính độc lập, khách quan, trung thực của các phương tiện truyền thông đại chúng, ngăn ngừa được các biểu hiện lợi dụng tự do, dân chủ để chống phá nhà nước và chế độ. Ban hành chính sách từng bước xã hội hóa các phương tiện truyền thông đại chúng để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tránh được việc phụ thuộc vào ngân sách nhà nước nên dễ "xuôi chiều", “dè chừng”, "nể nang" khiến việc đưa tin, nhất là những thông tin có tính chất nhạy cảm, liên quan đến cơ quan, cá nhân có chức vụ, thẩm quyền cao trở thành "vùng cấm".

+ Ban hành các quy định pháp luật đủ mạnh để xử lý nghiêm khắc đối với các cơ quan, công chức nhà nước vi phạm Luật báo chí; thiết lập cơ chế bảo vệ và khen thưởng những cá nhân, đơn vị đã dũng cảm đấu tranh với những sai trái của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước nhằm đưa sự việc ra ánh sáng để công luận được biết, tránh cho họ khỏi bị trả thù, trù dập. Đồng thời để hạn chế tình trạng "nhũng nhiễu" hoặc đưa tin, bài theo kiểu "phong bì chỉ huy" thì cần xây dựng cơ chế buộc nhà báo cũng phải chịu trách nhiệm bằng những chế tài nghiêm khắc nếu vi phạm quy tắc nghề nghiệp, đạo đức nhà báo.

+ Cần có chính sách cụ thể để đẩy mạnh hơn nữa vai trò các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc nâng cao dân trí và giáo dục pháp luật. Đảm bảo việc thông tin nhanh chóng, khách quan về quá trình thực thi quyền lực nhà nước, đồng thời phân tích, diễn giải, định hướng cho nhân dân trên cơ sở sự thật, công lý và pháp luật; động viên, khơi dậy khả năng làm chủ của nhân dân bằng việc thực hiện các quyền của mình theo hiến pháp và pháp luật; chuyển tải đầy

Page 137: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

132

đủ, kịp thời ý kiến của nhân dân tới các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền để xem xét, giải quyết.

- Hoàn thiện thể chế về thực hiện dân chủ ở cơ sở Trước hết cần xây dựng Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở bằng việc rà soát,

pháp điển hóa Chỉ thị số 30 CT-TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và các văn bản như: Nghị quyết số 45/1998/NQ-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; các Nghị định số 29/1998/ NĐ-CP, số 71/1998/ NĐ-CP, Nghị định số 04/2015/ NĐ-CP của Chính phủ; Chỉ thị số 22/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Kết luận số 65- KL/TW ngày 4/02/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở do Ban Bí thư ban hành; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3, điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc. Luật này là khung pháp lý cho vận hành cơ chế "nhân dân làm chủ" bằng thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhằm công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước. Trong luật cần quy định cụ thể vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội, Ban thanh tra nhân dân và cá nhân công dân trong giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị. Riêng thiết chế Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng cần quy định đó là tổ chức do nhân dân trực tiếp bầu ra thực hiện chức năng thanh tra của nhân dân đối với chính quyền cơ sở, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, được hỗ trợ hoạt động từ ngân sách nhà nước do Mặt trận và Công đoàn chỉ đạo, tổ chức; do Thanh tra nhà nước bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ để loại bỏ những bất cập trong các quy định hiện hành về thiết chế này. Luật cần tiếp tục kế thừa các quy định trong các văn bản dưới luật đã ban hành về các việc chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước phải công khai, các hình thức công khai; những việc phải đưa ra lấy ý kiến, biểu quyết của nhân dân trên tinh

Page 138: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

133

thần "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" nhưng cần ngắn gọn, cụ thể hơn về trình tự, thủ tục để thuận tiện cho việc thực hiện. Luật này cần xác lập cơ chế để các tổ chức của nhân dân, cơ quan đại biểu nhân dân, cơ quan và người có thẩm quyền phải tôn trọng và bắt buộc thực hiện các quy định thực hiện dân chủ ở cơ sở; bảo đảm vai trò của Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội, phương tiện thông tin đại chúng, ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng, các tập thể lao động và cá nhân công dân có đủ các điều kiện để giám sát cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, đại biểu dân cử một cách thực chất, có hiệu quả. Đồng thời luật phải có chế tài phù hợp, thích đáng đối với mọi vi phạm quy định thực hiện dân chủ ở cơ sở. Có như vậy pháp luật mới thực sự đi vào cuộc sống, dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân mới thực sự được tôn trọng, phát huy; ổn định chính trị và trật tự trị an mới được bảo đảm, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, và chế độ mới được tăng cường.

Tóm lại, xây dựng thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cần phải phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, trên cơ sở nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân và yêu cầu xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền và yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước. Thể chế đó phải là những quy định hàm chứa các tư tưởng, giá trị tiến bộ của nhân loại, của chế độ đó là ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân, tạo lập dân chủ, tiến bộ và phát triển xã hội, thiết lập nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Hạn chế và loại bỏ các quy định lạc hậu, phi dân chủ, trái ngược với các nguyên tắc tiến bộ phổ quát của nhân loại và nhu cầu, nguyện vọng thực sự của nhân dân.

4.2.2. Giải pháp hoàn thiện các thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

- Hoàn thiện thiết chế Đảng lãnh đạo Hiện nay, bộ máy của Đảng được tổ chức song song với bộ máy hành

chính của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; đội ngũ cán bộ, đảng viên ngoài làm chuyên trách công tác đảng thì còn một bộ phận lớn làm việc trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã

Page 139: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

134

hội nghề nghiệp... Sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội do đó cần có tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ tương ứng là hợp lý. Tuy nhiên, việc thiết lập bộ máy như vậy khiến nhiều cơ quan bị trùng về chức năng, nhiệm vụ (mặc dù được biện luận là lãnh đạo khác với hành chính, chuyên môn...). Ví dụ: Nhà nước có cơ quan Nội vụ thì Đảng có Ban tổ chức; nhà nước có Bộ (Sở, phòng) văn hoá, thông tin thì bên Đảng có Ban tuyên giáo... gây tốn kém, lãng phí về ngân sách và làm cho đội ngũ "ăn lương" trở nên đông đảo và bộ máy trở nên cồng kềnh. Cho nên cần thiết phải có sự sắp xếp thu gọn lại các cơ quan chuyên môn của Đảng; thực hiện nhất thể hoá các cơ quan của Đảng và nhà nước có cùng tính chất, chức năng, nhiệm vụ; thực hiện nhất thể hoá một số chức danh lãnh đạo của Đảng và nhà nước kể cả ở Trung ương và cơ sở; thực hiện tinh giản biên chế, đổi mới công tác cán bộ, công tác tuyển dụng; rà soát, cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đảng kể cả Trung ương và địa phương theo hướng tinh gọn, thiết thực, hiệu quả.

Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị theo hướng phân định rõ chức năng chính trị của Đảng và chức năng thực thi luật pháp của Nhà nước; chức năng cầm quyền và chức năng quản lý nhà nước; bảo đảm sự lãnh đạo và kiểm soát của Đảng toàn diện, cụ thể đối với các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Đối với cơ quan lập pháp, cần lãnh đạo để có quy trình hoạt động lập pháp khoa học, dân chủ, kịp thời thể chế chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng và nội dung của Hiến pháp năm 2013 bằng các luật, pháp lệnh có chất lượng. Mặt khác, cần đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ nhân sự là những cán bộ, chuyên gia giỏi, đại biểu trí tuệ, có uy tín và tinh thần trách nhiệm cao để thực hiện có hiệu quả hoạt động lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Lãnh đạo việc xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Đối với cơ quan hành pháp, cần hoàn thiện quy định về mối quan hệ công tác như: Quy định giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu, phê chuẩn các chức vụ

Page 140: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

135

lãnh đạo chủ chốt của Chính phủ. Tổ chức Ban Cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự đảng các bộ, ngành trực thuộc; xác định chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc của Ban Cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự đảng các bộ, ngành. Quy định quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Ban Cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự đảng các bộ, ngành. Quy định quan hệ công tác giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với Thường trực Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, với ban cán sự đảng các bộ, ngành, cơ quan tư pháp; Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; với các ban đảng, cấp uỷ đảng địa phương; giữa ban cán sự đảng bộ với lãnh đạo bộ, bộ trưởng và đảng uỷ cơ quan bộ. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, cần lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; lãnh đạo xây dựng chính sách quốc phòng, an ninh và đối ngoại; thống nhất công tác cán bộ nhưng có phân cấp, phân quyền hợp lý cho các cơ quan, tổ chức sử dụng nhân sự...

Đối với cơ quan tư pháp, cần lãnh đạo việc xây dựng các luật về tổ chức Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các luật liên quan đến hoạt động tư pháp cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các nghị quyết về cải cách tư pháp của Đảng. Xác định chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc; quy định quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp ở Trung ương; quan hệ công tác của Ban Cán sự đảng các cơ quan này với Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự đảng các bộ, ngành, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các ban Trung ương Đảng, cấp uỷ địa phương và với tập thể lãnh đạo, đảng uỷ cơ quan... Kiện toàn Ban Cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao và Ban Cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trực thuộc Ban Bí thư để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, đáp ứng yêu cầu đề ra.

Tiếp tục hoàn thiện chế độ làm việc của bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng theo hướng phân rõ thẩm quyền, trách nhiệm, mở rộng dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Quy hoạch chức danh lãnh đạo các cấp của Đảng đảm bảo dân chủ, khách quan, trung thực và có chất lượng. Hoàn thiện các quy chế, quy

Page 141: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

136

định về quy trình, mối quan hệ giữa các cấp ủy, tổ chức đảng và đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đổi mới cách ra nghị quyết, lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Quy định chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng cho phù hợp với mô hình tổ chức cụ thể và yêu cầu, nhiệm vụ mới…

Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, thực sự có uy tín với quần chúng và đặc biệt phải có kỹ năng hoạt động chính trị. Thực hiện cải cách chế độ công vụ, công chức để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, kỹ năng công tác; kết hợp việc đào tạo, bồi dưỡng với thực hiện luân chuyển để rèn luyện trong thực tiễn. Xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu cấp chiến lược ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước. Gắn chính sách tinh giản biên chế với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Có chính sách phù hợp với đội ngũ chuyên gia, chính sách thu hút người tài vào làm việc trong cơ quan của hệ thống chính trị…

- Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội

Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trong điều kiện một đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội: Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là những tổ chức đều có bộ máy gồm 4 cấp, trong đó từ cấp tỉnh trở lên bộ máy gồm có các các bộ phận chức năng (được gọi là ban) gần như tương ứng với bộ máy của tổ chức đó ở Trung ương và tương ứng với bộ máy cùng cấp của Đảng. Đội ngũ cán bộ, nhân viên của các tổ chức đó từ cấp xã trở lên được coi là cán bộ, công chức, viên chức như của cơ quan nhà nước và chịu sự điều chỉnh của

Page 142: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

137

Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức hiện hành. Với số lượng tổ chức và bộ máy như vậy nên các tổ chức trên được coi như là những "nhà nước nhỏ" tồn tại song song với bộ máy nhà nước được thiết lập trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, khiến số lượng người ăn lương, làm việc như "hành chính" trở nên hết sức đông đảo, bộ máy trở nên hết sức cồng kềnh và ngân sách đầu tư cho xây dựng trụ sở, duy trì bộ máy hoạt động hết sức lớn. Trong khi các tổ chức đó hoạt động với góc độ là thiết chế của nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thì chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Vì vậy, muốn nâng cao vai trò của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước với tư cách là tổ chức đại diện của nhân dân thì đòi hỏi phải thực hiện nghiêm túc Kết luận số 64-KL-TW của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ngày 28/5/2013 về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, cụ thể là: Tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ, không chồng chéo. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế tài chính đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động; không "hành chính hóa" để gần dân, sát dân hơn. Thực hiện có hiệu quả quy chế phối hợp, quy định về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ chế để nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của các hội theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt động và tuân thủ pháp luật. Sửa đổi, bổ sung các quy định của Nhà nước về quản lý tổ chức và hoạt động hội phù hợp với tình hình mới. Để thực hiện có hiệu quả các nội dung trên cần tập trung vào các giải pháp cơ bản sau:

Một là, không coi những người làm việc trong các tổ chức chính trị-xã hội là công chức, viên chức nhà nước. Những người làm công tác chuyên trách của các tổ chức đó cần được trả tiền theo thỏa thuận về năng lực, kết quả công việc do chính các tổ chức này quyết định. Giảm sự phụ thuộc vào nhà nước, giúp cho

Page 143: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

138

các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm được tính độc lập, khách quan trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các thành viên, hội viên mà tổ chức đó là đại diện. Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội đến đâu phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của chính tổ chức ấy đến đó.

Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội phải tự chủ, độc lập trong việc xây

dựng tổ chức bộ máy của mình trên cơ sở số lượng đầu mối, thành viên, hội viên

và nguồn lực của mình. Chương trình hoạt động do các tổ chức đó tự quyết định

theo nhu cầu của xã hội, thành viên, hội viên và yêu cầu của tổ chức chính trị

hoặc nhà nước để tránh hình thức. Nhà nước nên bố trí một khoản kinh phí cho

các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện giám sát hoạt động các cơ quan, cán bộ,

công chức, viên chức nhà nước và đại biểu dân cử; hoạt động tư vấn, phản biện

các chính sách, pháp luật theo đặt hàng của Nhà nước. Chức vụ lãnh đạo các tổ

chức đó cần được lựa chọn, bầu ra một cách dân chủ và phải chịu trách nhiệm

trước các thành viên, hội viên về mọi hoạt động của mình.

Ba là, phải có cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội tự chủ,

tự chịu trách nhiệm về nguồn lực hoạt động thông qua việc thực hiện chức năng

như: tư vấn, phản biện các vấn đề mà tổ chức đó có chuyên môn; tạo điều kiện

để các tổ chức tham gia đảm trách các hoạt động hỗ trợ cộng đồng phi lợi nhuận,

thực hiện một số dịch vụ công nhằm tạo nguồn lực cho hoạt động và duy trì bộ

máy; thực hiện từ sự đóng góp tự nguyện của thành viên, hội viên. Thực hiện

công khai, minh bạch trước thành viên, hội viên và chịu trách nhiệm theo pháp

luật về mọi hoạt động của tổ chức.

Ngoài ra, MTTQ và các tổ chức chính trị- xã hội phải tự đổi mới nội

dung, phương thức hoạt động nhằm nâng cao năng lực, trình độ, điều kiện để

thực hiện có hiệu quả chức năng của mình theo quy định của hiến pháp, pháp

luật và điều lệ. Khi nào Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện đầy

đủ, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình và có vị thế độc lập với nhà nước thì

khi đó kiểm soát quyền lực nhà nước của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã

Page 144: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

139

hội mới đạt được yêu cầu đề ra và như vậy mới khắc phục được tình trạng “nhà

nước hóa”, “hành chính hóa” hoạt động của các tổ chức này.

- Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp

Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp hiện nay ở nước ta rất phong phú đa dạng với số lượng ngày càng tăng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, vai trò của các tổ chức trong cùng nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội còn nhiều mặt hạn chế. Các tổ chức hầu hết được thành lập, duy trì hoạt động trên cơ sở sáng kiến và hỗ trợ của nhà nước, có sự bố trí nhân sự lãnh đạo theo sự sắp xếp của tổ chức chính trị. Để đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp cần xây dựng theo mô hình các tổ chức xã hội dân sự để bảo đảm đầy đủ yếu tố tự chủ và tự quản về kinh phí, cơ sở vật chất, tổ chức và hoạt động cho bộ máy của mình. Nhà nước chỉ ban hành thể chế và thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo pháp luật. Hạn chế, tiến tới bãi bỏ các hình thức bao cấp của nhà nước cho các tổ chức đó, trừ phi việc tài trợ, hỗ trợ có mục đích phục vụ cho dân sinh, dân chủ và lợi ích cộng đồng mà tổ chức đó đảm nhận theo yêu cầu của nhà nước.

Hai là, lãnh đạo của các tổ chức đó do hội viên các tổ chức đó bầu ra trên cơ sở quy định của pháp luật và điều lệ của các tổ chức đó. Nên chấm dứt sự can thiệp sâu của tổ chức chính trị và nhà nước vào việc nội bộ của các tổ chức đó để đúng nghĩa là tổ chức tự nguyện, tự chủ và tự quản của nhân dân. Người đảm trách lãnh đạo các tổ chức đó phải chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động của tổ chức mình trước hội viên và pháp luật.

Ba là, nhà nước thừa nhận, cho phép thành lập các tổ chức xã hội dân sự, khuyến khích doanh nghiệp và nhà hảo tâm quyên góp tài sản cho các tổ chức dân sự, gián tiếp hỗ trợ cho các tổ chức dân sự thông qua việc mở thầu rộng rãi cung cấp một số dịch vụ công, chính sách công như: trợ giúp pháp lý, hỗ trợ người nghèo, chăm sóc người già, trẻ mồ côi, người lang thang, người tâm thần

Page 145: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

140

và các chính sách phát triển vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… để các tổ chức đó được độc lập, khách quan, chủ động trong hoạt động và không bị phụ thuộc, chi phối bởi chính đối tượng bị kiểm soát.

Nhân dân thông qua các tổ chức đại diện cho mình để kiểm soát quyền lực

nhà nước như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ

chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp và các thiết chế xã hội khác phải bảo đảm

được khả năng, năng lực kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các yếu tố cơ

bản đó là: có địa vị chính trị, pháp lý, con người, công cụ, phương tiện hay điều

kiện thực hiện… Nhưng điều quan trọng hơn các tổ chức đó có đủ điều kiện,

năng lực đại diện cho nhân dân hay không thì cần thiết phải đổi mới cơ chế thiết

lập bộ máy và hoạt động của các tổ chức đó bảo đảm thực sự là tổ chức đại diện

của nhân dân, tránh tình trạng tự danh xưng là "đại diện" nhưng không rõ ràng

"quy trình" đại diện, "việc" đại diện và "trách nhiệm" đại diện. Vì vậy, cần tùy

theo mục đích, yêu cầu của xã hội hoặc của nhà nước mà các thiết chế đó hoặc

được hiến định, hoặc được pháp luật quy định cụ thể.

- Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các phương tiện truyền thông

đại chúng

Để các phương tiện truyền thông đại chúng phát huy hơn nữa vai trò là

một thiết chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thì cần phải thực hiện một

số giải pháp như sau:

Thứ nhất, cần thực hiện thí điểm báo chí, xuất bản tư nhân; đẩy mạnh hơn

nữa việc truyền hình trực tiếp các cuộc họp quan trọng của các cơ quan nhà

nước, các phiên tòa xét xử, các hoạt động giám sát và các sự kiện được nhân dân

quan tâm hay những quyết sách liên quan mật thiết đến lợi ích của nhân dân để

người dân có cơ sở tham gia thảo luận, đánh giá. Việc đưa tin trực tiếp sẽ phản

ánh trung thực vấn đề để nhân dân có thể biết chính xác những người đại diện

cho mình thực hiện công việc như thế nào. Mặt khác, cần có cơ chế để các

phương tiện truyền thông đại chúng được phép thực hiện các điều tra bằng hình

ảnh, bài viết đối với những người đảm trách chức vụ nhà nước nếu người đó có

Page 146: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

141

các biểu hiện không chuẩn mực về đạo đức và trách nhiệm mà không có "vùng

cấm" nào.

Thứ hai, đẩy mạnh hơn nữa vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc nâng cao dân trí và giáo dục pháp luật bằng việc thông tin nhanh chóng, khách quan, toàn diện về quá trình thực thi quyền lực nhà nước, đồng thời phân tích, diễn giải, định hướng cho nhân dân một cách đúng đắn, tôn trọng pháp luật và sự thật. Khích lệ, động viên, dẫn dắt, khơi dậy tiềm năng của nhân dân, chuyển tải ý kiến của nhân dân tới các cơ quan và người có thẩm quyền để xem xét, giải quyết. Khắc phục tình trạng đưa tin "giật gân câu khách", đưa tin không đúng sự thật vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp trong thời gian qua.

- Hoàn thiện các thiết chế thực hiện dân chủ ở cơ sở + Xây dựng ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng,

các tập thể lao động đầy đủ ở các xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật và Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Khắc phục những hạn chế về thể chế và cách thức tổ chức, hoạt động của các tổ chức trên theo hướng thiết thực, cụ thể hơn để dễ thực hiện và thực hiện có hiệu quả hơn. Nên để nhân dân tự lựa chọn, bầu ra người mà họ tin tưởng đảm trách công việc trong các tổ chức: Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng và Tập thể lao động... thay vì "định hướng", xác định "cơ cấu" là lãnh đạo các tổ chức Mặt trận và tổ chức chính trị - xã hội đảm nhận các vị trí, công việc đó. Pháp luật chỉ quy định tiêu chuẩn người đảm trách chứ không nên quy định cơ cấu đảm trách như hiện nay. Có như vậy, các thiết chế đó mới thật sự đúng nghĩa là thiết chế của nhân dân, do nhân dân tổ chức nên để thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình.

+ Tăng cường hoạt động giám sát các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và đại biểu dân cử một cách chặt chẽ, chính xác, kịp thời trên tinh thần xây dựng và nghiêm túc; tổ chức rà soát rút gọn quy trình, thủ tục thực hiện các việc theo cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" để tránh trùng chéo, rườm rà và các điều kiện để dân hưởng như chính sách khen thưởng, hỗ trợ

Page 147: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

142

về kinh phí, cơ sở vật chất nhằm tăng cường động lực cho các tổ chức hoạt động. Cơ chế hỗ trợ kinh phí cần được thực hiện theo kế hoạch và kết quả hoạt động, tránh bao cấp hóa, định mức hóa hoặc thực hiện từ chính đối tượng bị giám sát để tránh việc thực hiện trở nên hình thức hoặc bị chi phối làm mất đi tính độc lập, khách quan cần phải có của các thiết chế này.

+ Xây dựng các mô hình, cách thức để thuận tiện cho nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo cũng như kiến nghị, phản ánh, yêu cầu đối với cơ quan và người có thẩm quyền... Nên trao cho các thiết chế thực hiện dân chủ ở cơ sở quyền năng giám sát tất cả các cá nhân là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước sinh sống trên địa bàn dân cư về các biểu hiện xa dân, giàu có bất thường hay các hoạt động không minh bạch khác. Cần có quy định về cơ chế thực hiện cụ thể để tránh tình trạng nể nang, né tránh, xuôi chiều hoặc bị các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà nước "tác động", "chi phối"...làm biến dạng kết quả kiểm soát, giám sát của nhân dân.

4.2.3. Hoàn thiện các yếu tố bảo đảm của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

Để cơ chế vận hành có hiệu quả, các thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cần phải được thiết kế một cách đồng bộ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng đi liền với trách nhiệm cụ thể, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước đặt ra. Tổ chức và hoạt động của các thiết chế cần tránh tình trạng hành chính hoá, đồng thời chính sách, pháp luật cũng cần tránh bao cấp hóa, nhà nước hóa các tổ chức xã hội mang tính tự nguyện, tự chủ để đảm bảo tính độc lập, khách quan của các tổ chức đó trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ, bình đẳng, tôn trọng, phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên với hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra trong bộ máy nhà nước và hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng tạo nên một hệ thống kiểm soát đồng bộ, chặt chẽ, vận hành có hiệu quả.

Các thiết chế là các tổ chức cho nên cần có sự thống nhất về phương thức, nội dung tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Tuy có vai trò và địa vị

Page 148: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

143

pháp lý khác nhau nhưng các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các phương tiện truyền thông đại chúng, các thiết chế dân chủ ở cơ sở đều mang tính nhân dân, không phải là cơ quan nhà nước, không mang tính quyền lực nhà nước cho nên cần có sự công bằng trong các chính sách cho việc duy trì tổ chức, hoạt động của bộ máy. Mặt khác, cần có sự thống nhất và luật hóa về trình tự, thủ tục về giám sát, thẩm định và phản biện xã hội; giám sát cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, đại biểu dân cử để tăng tính khoa học, khả thi trong hoạt động của các thiết chế.

Nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng quyết

định kiến trúc thượng tầng luôn là phương pháp nghiên cứu và thực nghiệm của

cả khoa học lý luận và ứng dụng thực tiễn. Điều đó để tránh các biểu hiện duy ý

chí, giáo điều, lý thuyết suông hoặc sa vào phiến diện, siêu hình do tuyệt đối hoá

một mặt nào đó của vấn đề. Vì vậy, xây dựng, hoàn thiện và vận hành cơ chế

pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước đòi hỏi phải tập trung vào các

yếu tố bảo đảm sau:

Một là, xây dựng, hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước cần coi trọng các thể chế quy định mối quan hệ tác động, ảnh

hưởng giữa các yếu tố của thể chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước với các thể chế chính trị, pháp lý khác. Thể chế của cơ chế pháp lý nhân

dân kiểm soát quyền lực nhà nước chịu sự tác động, chi phối, ảnh hưởng quan

trọng và quyết định của thể chế chính trị. Thể chế chính trị quyết định, chi phối

việc thiết lập cấu trúc tổ chức quyền lực nhà nước đồng thời quyết định cấu trúc

và tính chất của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng. Do đó, phải đảm bảo tính liên

kết, đồng bộ giữa các yếu tố trong hệ thống, đặc biệt là mối quan hệ giữa hệ

thống cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước với hệ thống kiểm

soát quyền lực ngay bên trong bộ máy nhà nước. Cụ thể là phải tăng cường giữa

kiểm soát của Đảng với kiểm soát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành

viên với kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, hành

Page 149: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

144

pháp, tư pháp. Coi trọng xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ, pháp

quyền gắn liền với hoàn thiện thể chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước và các thiết chế thực hiện dân chủ của nhân dân tạo sự đồng bộ, thống nhất

trong vận hành cơ chế.

Hai là, quyền lực nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ đến vai trò của Đảng,

xét đến cùng chính là quyền lực của Đảng, vì là đảng cầm quyền, có nghĩa là

Đảng nắm chính quyền (nhà nước). Theo đó, đã là quyền lực thì phải có kiểm

soát quyền lực và quyền lực chính trị cũng bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân

cho nên Đảng ta xác định "gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân,

chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết

định của mình" [106, tr.9]. Tuy nhiên, nhân dân giám sát Đảng như thế nào và

Đảng chịu sự giám sát của nhân dân ra sao thì cần phải có một cơ chế thực hiện

cụ thể và vấn đề này cần phải được thể chế hoá bằng pháp luật để bảo đảm tính

khả thi trong thực tế. Bên cạnh đó cần hoàn thiện cơ chế kiểm soát bên trong nội

bộ của Đảng, làm sao cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng đều là những nhân tố

tiêu biểu, gương mẫu thực hiện hiến pháp, pháp luật, tôn trọng và phát huy

quyền làm chủ của nhân dân, luôn hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân

và chịu sự giám sát của nhân dân. Các thiết chế của Đảng cần được tổ chức tinh

gọn về đầu mối và đội ngũ cán bộ chuyên trách, rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền của các tổ chức đảng và đảng viên nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức

chiến đấu của tổ chức đảng, tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên. Có như

vậy kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng và cơ chế pháp lý nhân dân kiểm

soát quyền lực nhà nước mới vận hành, hoạt động có hiệu quả được.

Ba là, hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

cần đề cao, coi trọng xây dựng môi trường dân chủ, pháp quyền. Môi trường dân

chủ, pháp quyền là những yếu tố bảo đảm để tổ chức thiết lập và vận hành cơ

chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Mặc dù ở nước

ta đã có hiến pháp qua các thời kỳ, nhưng đến Hiến pháp năm 2013 mới thực sự

là bước đi dân chủ và pháp quyền của đất nước. Bởi vì, nhân dân kiểm soát

Page 150: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

145

quyền lực nhà nước được quy định thành nguyên tắc, được thiết lập và bảo đảm

thực hiện bằng hiến pháp. Theo đó, phải tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức đại diện nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân

sử dụng có hiệu quả các công cụ, phương tiện pháp luật để kiểm soát quyền lực

nhà nước một cách thực chất. Mặt khác, phải tạo cơ chế và các điều kiện để nhân

dân trực tiếp thực hiện quyền của mình, nhất là quyền được lựa chọn người xứng

đáng đại diện cho mình và quyền phế truất nếu người đó không còn xứng đáng.

Nhân dân phải có quyền biểu đạt ý chí, nguyện vọng của mình, thể hiện nhu cầu

xã hội của mình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình trước

các tiêu cực của nhà nước bằng chính các quyền con người, quyền công dân mà

hiến pháp và pháp luật đã thừa nhận, ghi nhận. Hệ thống pháp luật về dân chủ,

quyền con người, quyền công dân phải được xây dựng, ban hành đầy đủ nhằm

tạo điều kiện để nhân dân tham gia toàn diện, thực chất hơn vào hoạt động quản

lý nhà nước, quản lý xã hội. Cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức, đại biểu dân

cử có nghĩa vụ nghiêm chỉnh tuân thủ và thực hiện pháp luật, chỉ được làm

những gì pháp luật cho phép. Pháp luật phải đủ mạnh để buộc hoạt động của nhà

nước phải tự kiểm soát, quản lý được chính mình và thực hiện công khai, minh

bạch trước nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân.

Bốn là, hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

phải đi liền với chính sách, chiến lược nâng cao dân trí, coi trọng công tác tuyên

truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho các tổ chức, cá nhân và toàn thể nhân

dân. Ở nước ta lực lượng nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị... là thành

phần chiếm đa số. Trong môi trường chính trị, dân chủ thì lực lượng này hết sức

có ý nghĩa trong các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, hiện nay rất

nhiều nông dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa không hiểu khái niệm dân chủ là gì

và tác dụng của dân chủ đối với họ có ý nghĩa thế nào trong cuộc sống của bản

thân họ. Vì vậy, muốn phát huy, mở rộng dân chủ thì cần nâng cao nhận thức,

trình độ dân chủ cho nhân dân, trước hết cần có chính sách nâng cao dân trí để

nhân dân đủ năng lực và điều kiện tự mình hoặc thông qua cơ quan, tổ chức đại

Page 151: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

146

diện cho mình kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,

chính đáng của chính mình có hiệu quả. Nâng cao dân trí luôn phải đi liền với

việc nâng cao hiểu biết và củng cố niềm tin vào pháp luật cho nhân dân. Thực

trạng hệ thống pháp luật của chúng ta còn có nhiều hạn chế, bất cập về chất

lượng, chưa đủ luật để thể chế hóa các quyền dân chủ, quyền con người, quyền

công dân theo Hiến pháp năm 2013. Mặt khác, đa số người dân, nhất là nông dân

không hiểu biết đầy đủ về pháp luật, cộng với tâm lý phải dựa vào nhà nước và

được nhà nước chỉ dẫn thì người dân không đủ năng lực làm chủ, không đủ bản

lĩnh làm chủ và không đủ phương tiện làm chủ sẽ làm cho cơ chế trở nên hình

thức, kém hiệu quả. Do đó, nâng cao dân chủ, dân trí và nhận thức hiểu biết pháp

luật của người dân là một trong những bảo đảm để cơ chế vận hành có hiệu quả,

đáp ứng được mục đích yêu cầu đề ra một cách bền vững.

Năm là, hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước phải coi trọng yếu tố kinh tế trong việc tạo lập và vận hành cơ chế. Hiệu

quả hoạt động của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phụ

thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có yếu tố kinh tế. Kinh tế ở đây chính là nền

kinh tế của đất nước phải phát triển bền vững, ổn định, đời sống nhân dân ngày

càng được nâng cao, các thiết chế có điều kiện duy trì bộ máy và tổ chức hoạt

động. Không đảm bảo yếu tố kinh tế thì việc vận hành của từng bộ phận và cả cơ

chế sẽ trở nên khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt

động kiểm soát quyền lực nhà nước của toàn bộ cơ chế.

Bên cạnh các yếu tố chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội, cần coi trọng, phát

huy những mặt tích cực của các yếu tố lịch sử, văn hoá, đạo đức, dân tộc, tôn

giáo, phong tục, tập quán và các thiết chế dân chủ ở cơ sở để hỗ trợ, bổ sung cho

việc hoàn thiện và vận hành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà

nước ở Việt Nam.

Page 152: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

147

Tiểu kết chương 4

Nhiệm vụ của chương 4 là nghiên cứu những quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, vì thế chương này có các nội dung sau:

- Quan điểm hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước xuất phát từ yêu cầu khách quan xây dựng nhà nước pháp quyền mạnh, thực sự vì dân, làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền hạn được nhân dân giao quyền, ủy quyền, quản lý xã hội có hiệu lực và hiệu quả; xây dựng môi trường xã hội dân chủ, công khai, minh bạch, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh dưới lãnh đạo của Đảng.

- Các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước được đề xuất tập trung vào việc hoàn thiện các thể chế, thiết chế, bao gồm: Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các phương tiện truyền thông đại chúng, các thiết chế thực hiện dân chủ ở cơ sở; các quyền thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, các quyền con người, quyền công dân và các yếu tố bảo đảm về chính trị, pháp lý và kinh tế- xã hội để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có thể vận hành hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đề ra. Trong đó, hoàn thiện các thể chế, cụ thể là hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân trên tinh thần và nội dung Hiến pháp năm 2013 và quan điểm, đường lối của Đảng có vai trò then chốt, quyết định hiệu quả vận hành của cơ chế.

Page 153: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

148

KẾT LUẬN

Luận án này nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn

thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam để từ

đó đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện. Vì vậy, Luận án đạt được các

kết quả sau đây:

- Đã nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài hoàn thiện cơ chế

pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở trong nước và nước ngoài từ

các góc độ khoa học khác nhau như: chính trị học, triết học, xã hội học và luật

học… Trên cơ sở đó đặt ra, đi sâu những vấn đề luận án phải tiếp tục nghiên cứu

việc hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước dưới góc

độ khoa học pháp lý, trong đặc điểm, điều kiện ở Việt Nam.

- Về cơ sở lý luận, Luận án nghiên cứu yêu cầu khách quan của việc

hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm:

phân tích khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các

yếu tố cấu thành của cơ chế, vai trò, mục đích, tiêu chí của việc hoàn thiện cơ

chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước; nội dung và phương thức

vận hành của cơ chế; các yếu tố chính trị, pháp lý, điều kiện kinh tế xã hội tác

động ảnh hưởng đến hoạt động của cơ chế. Cấu trúc cơ chế pháp lý nhân dân

kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm: hệ thống các thể chế, thiết chế và các

yếu tố bảo đảm. Chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước được nghiên cứu trong

luận án này là Nhân dân với tư cách là người chủ và làm chủ quyền lực nhà

nước, thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ

đại diện, quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật. Đối

tượng kiểm soát của cơ chế này là toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà

nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cả ở trung

ương và địa phương, cả cơ quan và cá nhân có thẩm quyền. Phương thức nhân

dân kiểm soát là thông qua các tổ chức đại diện của nhân dân như: Đảng, Mặt

trận, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các

Page 154: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

149

thiết chế dân chủ ở cơ sở, các phương tiện truyền thông đại chúng và cá nhân

công dân.

- Về cơ sở thực tiễn, Luận án đã tổng hợp, phân tích quá trình hình thành

và phát triển của cơ chế qua các giai đoạn lịch sử của đất nước kể từ năm 1945

đến nay qua các thể chế pháp lý, đặc biệt là qua các bản Hiến pháp năm 1946,

1959, 1980, 1992, 1992 (bổ sung, sửa đổi năm 2001) và năm 2013 về chủ quyền

nhân dân, về nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, về trách nhiệm của nhà

nước trong mối quan hệ với công dân; các quy định về quyền con người, quyền

công dân, nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội đến kiểm soát,

giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, đại biểu

dân cử. Đó là sự hình thành và phát triển các chế định pháp lý về Đảng, Mặt trận

Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; các hình thức dân chủ đại diện đến dân

chủ trực tiếp và chế độ thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thực trạng vận hành cơ chế

pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước đã đạt được nhiều kết quả, góp

phần hiện thực hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân,

do dân, vì dân. Thông qua cơ chế đó, toàn dân, mỗi cá nhân công dân cũng như

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đại diện của nhân dân có điều kiện phát huy vai

trò của mình trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và thực hiện

chức năng kiểm soát, giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức, viên

chức nhà nước, đại biểu dân cử làm cho nhà nước mạnh, hoạt động có hiệu lực,

hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm và kết quả đạt được, cơ chế pháp lý nhân

dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay có những hạn chế còn

tồn tại cả về mặt thể chế, thiết chế và các yếu tố bảo đảm. Những hạn chế đó có

nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ

quan là chủ yếu, điều đó đặt ra vấn đề cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước trong thời gian tới.

- Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở

nước ta hiện nay cần phải nắm vững những quan điểm, đường lối của Đảng cộng

Page 155: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

150

sản Việt Nam, tinh thần và nội dung mới của Hiến pháp năm 2013 về xây dựng

nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân,

trên cơ sở đó phải được thể chế hoá đầy đủ bằng pháp luật và bảo đảm thực hiện

bằng pháp luật. Vì vậy, Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện

về mặt thể chế, thiết chế và các yếu tố bảo đảm của cơ chế để cơ chế pháp lý

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành có hiệu quả, đạt được mục

đích yêu cầu đề ra.

Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chính

là một trong những bảo đảm chính trị, pháp lý quan trọng trong việc xây dựng

nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân theo quan điểm,

đường lối của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Đồng thời là giải pháp phát huy

dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, góp phần hoàn thiện cơ chế

"Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ", đẩy mạnh quá trình phát

triển và hội nhập quốc tế của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội

dân chủ, công bằng, văn minh.

Page 156: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Quang Anh (12-2014), "Hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm soát

quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (24/280, kỳ 2), tr.3-7, 22.

2. Trần Ngọc Đường, Nguyễn Quang Anh (9-2014), "Quá trình nhận thức và thực tiễn vận hành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong ba mươi năm đổi mới", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,(17/273, kỳ1), tr.11-15.

3. Nguyễn Quang Anh (9-2014), "Cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước: Những giá trị tham khảo", Tạp chí Khoa học và Chiến lược - Viện Chiến lược và Khoa học Công an, (9), tr.76-79.

4. Nguyễn Quang Anh (2014), "Cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước theo quan điểm của Đảng và Hiến pháp năm 2013", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (10/271), tr.3-8.

5. Nguyễn Quang Anh (10-2014) "Một số giải pháp hoàn thiện thể chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay", Tạp chí Kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, (20), tr.9-15.

Page 157: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt

1. Lưu Văn An (Chủ biên) (2008), Truyền thông đại chúng trong hệ thống

tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển, Nxb Lý

luận chính trị, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (2004), Từ điển Hán - Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Vũ Hồng Anh (2003), “Ai phân công thực hiện quyền lực nhà nước?”,

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (3), tr.35-40.

4. Alvin Toffler (1992) Làn sóng thứ ba, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.

5. Alvin Toffler (2002), Cú sốc tương lai, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

6. Alvin Toffler (2002), Thăng trầm quyền lực, Nxb Thanh niên, Hà Nội

7. Aristotle (2013), Chính trị luận (The Politics), Nxb Thế giới, Hà Nội.

8. Armatya Sen (2000), Phát triển chính là Tự do, Nxb Tri thức, Hà Nội.

9. Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ Trung ương (2005), Hướng dẫn

thực hiện thông báo số 159 TB/TW ngày 15/11/2004 của Ban bí thư

TW Đảng về tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ

ở cơ sở, Hà Nội.

10. Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ Trung ương (2006), Báo cáo tình

hình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở năm 2005 và phương hướng

nhiệm vụ năm 2006, Hà Nội.

11. Ban Dân chủ - Pháp luật thuộc Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam (2006), Báo cáo tổng quan đề tài: Phát huy vai trò của

MTTQ Việt Nam giám sát và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo

nhằm góp phần xây dựng chính quyền cơ sở, Hà Nội.

12. Ban Dân nguyện - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2009), Báo cáo số

217/BDN ngày 09/9/2009 V/v chuẩn bị và báo cáo tại kỳ họp Quốc

hội về tổng hợp và giải quyết ý kiến, kiến nghị cử tri, Hà Nội.

Page 158: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

153

13. Ban Dân nguyện - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2010), Báo cáo số 96/BDN ngày 10/5/ 2010 về Kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XII, Hà Nội.

14. Ban Dân nguyện - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2010), Báo cáo số 325/ BDN ngày 29/9/2010 về Kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XII, Hà Nội.

15. Ban Dân nguyện - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2011), Báo cáo số 07/ BDN ngày 10/01/2011 về Tổng kết công tác dân nguyện nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII (2007-2011), Hà Nội.

16. Ban Dân nguyện - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2013), Báo cáo số 574/ BC-BDN ngày 21/10/2013 về Kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri về khó khăn trong sản xuất và đời sống của ngư dân, Hà Nội.

17. Ban Biên tập dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992 (2013), Một số vấn đề cơ bản của hiến pháp các nước trên thế giới, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Ban Thường trực, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2010), Báo cáo số 26/BC-MTTW-BTT ngày 25/02/2010 về Kết quả công tác Mặt trận năm 2009 và chương trình phối hợp, thống nhất hành động của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2010, Hà Nội.

19. Ban Thường trực, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2010), Báo cáo số 101/BC-MTTW-BTT ngày 01/12/2010 về Sơ kết 5 năm hoạt động Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn (2005-2010) và công tác giám sát đầu tư cộng đồng, Hà Nội.

20. Ban Thường trực, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2012), Báo cáo số 131/BC-MTTW-BTT ngày 4/3/2011 về Kết quả công tác Mặt trận năm 2010 và chương trình phối hợp, thống nhất hành động của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2011, Hà Nội.

21. Ban Thường trực, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2012), Báo cáo số 360/BC-MTTW-BTT ngày 26/12/2012 về Kết quả tham gia thực hiện quy chế dân chủ năm 2012, Hà Nội.

Page 159: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

154

22. Ban Thường trực - Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013), Báo cáo số 383/BC-MTTW-BTT ngày 30/01/2013 về Kết quả công tác Mặt trận năm 2012 và chương trình phối hợp, thống nhất hành động của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2013, Hà Nội.

23. Ban Thường trực - Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013), Báo cáo số 421/BC-MTTW-BTT ngày 15/5/2013 về Tổng kết thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, Hà Nội.

24. Ban Thường trực, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013), Báo cáo số 437/BC-MTTW-BTT ngày 01/7/2013 về Kết quả tham gia thực hiện quy chế dân chủ 6 tháng đầu năm 2013, Hà Nội.

25. Ban Thường trực - Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2014), Báo cáo số 554/BC-MTTW-BTT ngày 22/01/2014 về Kết quả công tác Mặt trận năm 2013 và chương trình phối hợp, thống nhất hành động của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2014, Hà Nội.

26. Ban Thường trực - Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2014), Báo cáo số 553/BC-MTTW-BTT ngày 23/01/2014 về Kết quả tham gia thực hiện quy chế dân chủ năm 2013, Hà Nội.

27. Nguyễn Mạnh Bình (2010), Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay; Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

28. Hoàng Chí Bảo (Chủ nhiệm) (2010), Hệ thống chính trị ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. G.L. Bon (2006), Tâm lý học đám đông, Nxb Tri thức, Hà Nội. 30. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính

trị (khoá IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

31. Bộ Nội vụ - Vụ Tổ chức phi Chính phủ (2006), Báo cáo công tác Hội năm 2005 - Các Hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc, Hà Nội.

Page 160: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

155

32. Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ

điển Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

33. Chính phủ (2003), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (ban hành kèm theo

NĐ số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ), Hà Nội.

34. Chính phủ (2004), Báo cáo tình hình và kết quả giải quyết khiếu nại, tố

cáo từ khi thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo đến nay, Hà Nội.

35. Chính phủ (2005), Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo từ quý

II/2004 đến quý III/2005, Hà Nội.

36. Chính phủ (2006), Báo cáo tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo năm

2006, Hà Nội.

37. Chính phủ - Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam (2006), Nghị quyết

liên tịch số 05/2006/NQLT-CP-UBTWMTTQVN về việc ban hành

quy chế "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức,

đảng viên ở khu dân cư", Hà Nội.

38. Nguyễn Mạnh Cường (2012), Cơ sở lý luận và các nguyên tắc cơ bản để

hình thành và quản trị các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, Sách

chuyên khảo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

39. Đặng Ngọc Dinh (2008), Tình hình và đặc điểm của xã hội dân sự ở Việt

Nam - Những mặt tích cực và các vấn đề cần hoàn thiện, Vũ Duy Phú

chủ biên, Viện Những vấn đề phát triển, Nxb Tri thức, Hà Nội.

40. Nguyễn Đăng Dung (2002), Hiến pháp và bộ máy nhà nước, Nxb Giao

thông vận tải, Hà Nội.

41. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

42. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

43. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chính phủ trong nhà nước pháp quyền,

Sách chuyên khảo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

Page 161: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

156

44. Nguyễn Chí Dũng (2009), Cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính

Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

45. Nguyễn Tuấn Dũng, Đỗ Minh Hợp (2002), Từ điển quản lý xã hội, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội.

46. Chu Dương (2005), Thể chế nhà nước của các quốc gia trên thế giới,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

47. Mai Thế Dương (2013), Tăng cường công tác giám sát của Đảng, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội

48. Đại học Oxford, Hoa Kỳ (2008), Dân chủ: cuộc hành trình chưa hoàn

thành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

52. Đảng Đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2012), Báo cáo số 45/BC-MT-

ĐĐ ngày 7/11/2012 phúc đáp Công văn số 3485-CV/BTCTW ngày

18/9/2012 của Ban Tổ chức Trung ương về việc tổng kết Nghị quyết

TW5 (khoá IX) về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn", Hà Nội.

53. Đảng Đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013), Báo cáo số 63/BC-

MTTW-ĐĐ ngày 8/10/2013 về Sơ kết 5 năm thực hiện Thông báo số

130- TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị về giải quyết khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.

54. Đoàn Chủ tịch - Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam(2013),

Báo cáo số 495/BC-MTTW- ĐCT ngày 18/10/2013 về Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân, Hà Nội.

Page 162: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

157

55. Cao Anh Đô (2012), Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật

học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

56. Nguyễn Văn Động (2006), Các quyền Hiến định về Chính trị của công

dân Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

57. Nguyễn Văn Động (2010), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo

đảm phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Sách chuyên khảo,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

58. Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai

đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

59. Trần Ngọc Đường (2007), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội.

60. Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá

nhân công dân với nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm

soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Trần Ngọc Đường (2012), Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với

việc sửa đổi hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Trần Ngọc Đường, Bùi Ngọc Sơn (2013), Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn về việc xây dựng và ban hành hiến pháp, Sách chuyên khảo, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Trương Thị Hồng Hà (2009), Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức

năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

Page 163: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

158

66. Hà Thị Mai Hiên (2003), Cơ chế kiểm tra, giám sát trong Nhà nước

pháp quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

67. Vũ Văn Hiền (2004), Phát huy dân chủ ở xã, phường, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

68. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ Việt

Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Tô Văn Hòa (2012), Nghiên cứu so sánh hiến pháp các quốc gia

ASEAN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2007), Hệ thống chính trị Anh, Mỹ,

Pháp (Mô hình tổ chức và hoạt động), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

71. Học viện Hành chính quốc gia (2005), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý

hành chính nhà nước, (chương trình chuyên viên chính), phần II,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

72. Học viện Hành chính quốc gia (2002), Thuật ngữ hành chính, Hà Nội.

73. Trần Hậu Kiêm (2004), Hoạt động thanh tra nhân dân, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

74. Nguyễn Duy Lãm (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

75. J. Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Nxb Tri thức, Hà Nội.

76. Trịnh Duy Luân (2002) "Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn qua các ý

kiến người dân", Tạp chí Xã hội học, (1), tr.11.

77. Nguyễn Văn Mạnh, Tào Thị Quyên (2010), Dân chủ trực tiếp ở Việt

Nam - Lý luận và thực tiễn, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị - Hành

chính, Hà Nội.

78. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

79. W.Merkel - C.E.A. Petring - C. Henkes (2011), Các đảng dân chủ xã hội

châu âu - cải cách và thách thức, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

80. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 164: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

159

81. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. J.S. Mill (2006), Bàn về tự do, Nxb Tri thức, Hà Nội.

84. Montesquieu (2005), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội

85. Những văn bản pháp luật về quản lý hành chính nhà nước (2004), Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

86. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò của MTTQ Việt Nam đối với

việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb

Lý luận chính trị, Hà Nội.

87. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (Chủ biên) (2010), Vai trò của

các hội trong Phát triển và quản lý xã hội, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

88. Nguyễn Huy Phượng (2012), Giám sát xã hội đối với hoạt động của các

cơ quan tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

89. Nguyễn Thị Phượng (2011), Câu hỏi và trả lời về môn thể chế chính trị thế

giới đương đại, Sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh (2006), Nhà nước pháp quyền XHCN và

các định chế xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Lê Minh Quân (Chủ nhiệm) (2009), Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam trong hệ thống chính trị, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Hà Nội.

92. Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Quốc hội (1999), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội.

94. Quốc hội (1999), Luật Báo chí (sửa đổi), Hà Nội.

95. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội, Hà Nội.

96. Quốc hội (2001), Luật tổ chức Chính phủ, Hà Nội.

97. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Toà án nhân dân, Hà Nội.

98. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

Page 165: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

160

99. Quốc hội (2002), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.

100. Quốc hội (2004), Luật tổ chức HĐND và UBND, Hà Nội.

101. Quốc hội (2004), Luật khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.

102. Quốc hội (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.

103. Quốc hội (2006), Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

104. Quốc hội (2007), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

105. Quốc hội (2012), Luật Công đoàn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Quy định mới về quy chế giám sát của nhân dân đối với các hoạt động đầu tư và cán bộ công chức tại cộng đồng (2006), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

108. J.J. Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội.

109. Samuel Huntington (2005), Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao

động, Hà Nội.

110. Phan Xuân Sơn (2003), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân

chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. J.Surowiecki (2007), Trí tuệ đám đông, Nxb Tri thức, Hà Nội.

112. Nguyễn Tác (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,

vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113. Đặng Đình Tân (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử Việt

Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

114. Chu Hồng Thanh (2003), Vấn đề giám sát thực hiện quyền lực nhà nước

ở nước ta hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

115. Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái (dịch) (2005), Lịch sử các học

thuyết chính trị trên thế giới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

Page 166: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

161

116. Chu Văn Thành - Lê Thanh Bình (2004), Bàn về khoa học và nghệ

thuật lãnh đạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

117. Nguyễn Văn Thảo (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh

đạo của Đảng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

118. Trịnh Đức Thảo (2006), "Kiện toàn bộ máy Quốc Hội", Quốc hội Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

119. Thái Vĩnh Thắng (2009), "Quyền tiếp cận thông tin - Điều kiện thực hiện các quyền con người và quyền công dân", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (154), tr.38-45.

120. Thái Vĩnh Thắng (2010), Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại- Lý luận và thực tiễn, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

121. Thái Vĩnh Thắng (2011), Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

122. Hồ Bá Thâm, Tôn Thị Tường Vân (2010), Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

123. Nguyễn Văn Thâm (2004), Tiếp cận và giải quyết công việc cho dân trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

124. Lê Minh Thông (Chủ biên) (2007), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động

của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

125. Nguyễn Thế Thuấn (2012), Hiệu quả pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

126. Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới (2001), Sách tham khảo, Hà Nội.

127. Đinh Công Tuấn (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội dân sự ở liên minh châu âu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

128. Trần Đăng Tuấn (2006), Phản biện xã hội, Nxb Đà Nẵng. 129. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến phápViệt Nam (1946, 1959,

1980, 1992), (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 167: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

162

130. Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp. 131. Từ điển Tiếng Việt (2001), Nxb Văn hóa - Thông tin. 132. Từ điển Tiếng Việt (2005), Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học. 133. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Giám sát và cơ

chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

134. Đào Trí Úc (2003), “Quan niệm về giám sát thực hiện quyền lực nhà nước và các cơ chế thực hiện giám sát”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6), tr.17-24.

135. Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (Đồng chủ biên) (2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách chuyên khảo, Nxb Sự thật, Hà Nội.

136. Đào Trí Úc (2010), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

137. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2007), Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

138. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh cán bộ công chức (sửa đổi), Hà Nội.

139. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội.

140. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2009), Báo cáo số 234/BC-UBTVQH12 ngày 10/6/2009 về Tình hình giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri từ kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XII đến nay, Hà Nội.

141. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2010), Báo cáo số 330/ BC-UBTVQH12 ngày 31/5/2010 về Kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XII, Hà Nội.

142. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2010), Báo cáo số 391/BC-UBTVQH12 ngày 12/11/2010 về Kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XII, Hà Nội.

Page 168: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

163

143. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Sổ tay công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền, Hà Nội.

144. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2010), Báo cáo kết quả thực hiện quy chế dân chủ năm 2010, Hà Nội.

145. Văn phòng Quốc hội, Trung tâm Thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học (2009), Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên thế giới, Nxb Thống kê, Hà Nội.

146. Văn kiện của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

147. Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

148. Viện Nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Sách tham khảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

149. Viện Chính sách công và pháp luật (2013) (Institute of Policy and Law), Các thiết chế hiến định độc lập - Kinh nghiệm quốc tế và triển vọng ở Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

150. Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở nước ta hiện nay, Đề tài cấp Nhà nước, Hà Nội.

151. Võ Khánh Vinh (2003), “Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6), tr.5-11.

152. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2005), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

153. Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

154. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

Page 169: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

164

Tài liệu tiếng Anh

155. Andrew Reynolds, Ben Reilly and Andrew Ellis With José Antonio Cheibub, Karen Cox, Dong Lisheng, Jørgen Elklit, Michael Gallagher, Allen Hicken, Carlos Huneeus, Eugene Huskey, Stina Larserud, Vijay Patidar, Nigel S. Roberts, Richard Vengroff, Jeffrey A. Weldon (2005),

“Electoral System Design: The New International IDEA Handbook”© International Institute for Democracy and Electoral Assistance 2005.

156. Baumgartene and Leech(1998), The Impotance of In terest Groups in politics and political Sciences, Princeton, N.J, Princeton Universsity Press, p.96.

157. Black’ Law Dictionary (1966), West Publishing. 158. Charles Howard McWain (1947), Constitutionalism: ancient and

morden, Cornell University Press, New York. 159. David Beetham (2006), Parliament and Democracy in The twenty-first

Century A Guide To Good Practice, Inter-Parliamentary Union. 160. Dahl, Robert A (1981), Democracy and Critics, St. Martin's Press, New

York, p.8. 161. Francis D.Wormuth (1949), The origins of modern constitutionalism, by

Harper&Brothers. 162. F. Mosntein Marx (1946), The social function of public adminisstration,

University of Pennsyvania. 163. H.A. Simon (1945), A study o Dicision - Making process in administration

organization, Cornell University Press, New York.

164. Harris, Fred R (1987), Readings on the Body Politic, Scott, Foresman and Company, by Princeton, New Jersey

165. H.D Laswell (1951), The policy siceces, St. Martin's Press, New York, p.5. 166. "How our laws are made", http://www.thomas.lov.org. 167. Huntington, Samuel P (1991), The Third Wave: Democratization in the Late

Twentieth Century, Norman, London: University of Oklahoma Press.

Page 170: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

165

168. Jane S.ley, "Ethical criteria and honesty of American government",

http:// usinfo.State.gov/Journals/itolhr/o800/ijdelley.htm. 169. John A. Fraser (1993), The house of commens at work, Netherlands.

170. Jonh Dewwey (1929), The public and it's problems, Mich J Race Law 9

no1 Fall.

171. John Dewey (1939), Theory of Valuation, New Jersey Libary of Congress

Catalog No 63, p.156.

172. Kriegel, Blandine (1998), The state and the rule of law, Cambridge

University Press.

173. Linda S. Whitton (2003), Crossing state lines with durable power, Vol

II, George Washington University.

174. Mann M (1985), The sources of social power, by Harper&Brothers.

175. McIntyr (2005), Power of Institutions, Journal of Law and Commerce,

Vol 25.

176. Patrick Gunning (2007), Understanding democacy- An introduction to

Public choice, Volume 47 Issue 1, pp. 1-45.

177. Richard A. Myren, Law and Justive an Introduction, by Princeton,

New Jersey.

178. Robert S. Backer, "The government’s responsibility and limitations",

http:// usinfo.State.gov/Journals/itolhr/o800/ijdelley.htm.

179. Robert Schuchl, "The responsibility of the government and the outside

supervising offices", http:// usinfo.State.gov/Journals/itolhr/o800/

ijdelley.htm.

180. Robert Vaughn, "The explicit-Explicit government structures an

undertakingresponsibility",http://usinfo.State.gov/Journals/itolhr/o80

0/ijdelley.htm. 181. Roderick Bell, David V. Edwards, R. Harison Wagner (2000),

Political power-reader in theory and research, Cornell University

Press, New York.

Page 171: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2015/4/4/nguyen_quang_anh_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUANG ANH HOμN THIÖN C¥ CHÕ PH¸P Lý NH¢N D¢N KIÓM

166

182. Robert A.Dahl (1989), A preface to Democratic Theory, Department of

State, vol 5, No 1, August, pp 21-27.

183. R B Vermeesch, K E Lindgren (2001), Business Law of Australia, Butterworth, Australia.

184. Robert E. Ward and Roy C. Macridis (1998). Modern Political Systems Europe. Prentic, Hall, Inc Englewood Cliffs, New Jersey Libary of Congress Catalog No 63. 11095, p.156.

185. Rod Hague, Martin Harrop and Shaun Breslin (1993), Political Science - A comparative Introduction, St. Martin's Press, New York, p.8.

186. Rose-Ackerman Susan; Elgar Edward (2005), “Decentralization, Corruption and Government Accoutability: an Overview"for Handbook of Economic Corruption”.

187. Sargent M (2001), Power and the maintennace, by Princeton, New Jersey. 188. Stapenhurst Rick, Kpundeh Sahr (2009), Curbing corruption: Toward a

model for building national integrity, University of Pennsyvania. 189. Stehen Vago (1981), Law and Society, Princeton University Press. 190. Schmuhl, Robert (2000), “Government Accountability and External

Watchdogs”, Electronic Journals of the US, Department of State, vol 5, No 2, August, pp 21-25.

191. Seligman, Adam B (1995), The idea of civil society, Princeton University Press.

192. Sodaro, Michael J (2000), Comparative Politics - A global introduction, Vol II, George Washington University.

Tài liệu tiếng Pháp

193. Noveau code de procedure civile (1989), Dalloz. 194. Rene devid et camille Jauffret Spinosi (1992), Les grands systemes de

droit con temporains, Edition dalloz.