hcma.vnhcma.vn/uploads/2015/12/4/tran_thi_huong_la.pdf · hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ HƢƠNG
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT
VỚI NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ HƢƠNG
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT
VỚI NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 31 23 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. TS. CAO THANH VÂN
2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN GIANG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Trần Thị Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
5
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan 5
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước 13
1.3. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài và những vấn đề luận án sẽ tập trung giải quyết
26
Chƣơng 2:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
28
2.1. Những vấn đề cơ bản về nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân
28
2.2. Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân - khái niệm và phương thức
57
Chƣơng 3:
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT
VỚI NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC
TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
74
3.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân
74
3.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra 109
Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ THỰC HIỆN TỐT NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT
THIẾT VỚI NHÂN DÂN ĐẾN NĂM 2025
121
4.1. Dự báo những nhân tố tác động và phương hướng thực
hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
đến năm 2025
121
4.2. Những giải pháp chủ yếu thực hiện tốt nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân đến năm 2025
127
KẾT LUẬN 161
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
164
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 165
PHỤ LỤC 176
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương
BCT : Bộ Chính trị
BTV : Ban thường vụ
CCHC : Cải cách hành chính
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTDV : Công tác dân vận
CTQG : Chính trị quốc gia
ĐCS : Đảng Cộng sản
ĐH : Đại hội
GCCN : Giai cấp công nhân
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTCT : Hệ thống chính trị
KTTT : Kinh tế thị trường
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
NQ : Nghị quyết
QH : Quốc hội
QCDC : Quy chế dân chủ
TCCSĐ : Tổ chức cơ sở đảng
TW : Trung ương
UBND : Ủy ban nhân dân
UBKT : Ủy ban kiểm tra
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam sinh ra từ trong lòng dân tộc, có mối quan hệ tự
nhiên gắn bó với Nhân dân từ ngày thành lập. Chính nhờ sự chở che, đùm bọc, ủng
hộ, góp sức của Nhân dân, Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt
qua bao thử thách, đánh thắng hai kẻ thù xâm lược sừng sỏ là thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, ghi dấu son lịch sử hào hùng trong thế kỷ XX. Gắn bó mật thiết với Nhân
dân là phẩm chất cốt lõi thể hiện bản chất, sức sống của Đảng. Nhân dân là cội
nguồn làm nên sức mạnh vô tận và vô địch của Đảng. Nắm được sức mạnh của lòng
dân, có được sự ủng hộ của Nhân dân là vũ khí tối ưu trên mọi trận tuyến - trận
tuyến chống quân thù khi xưa và trận tuyến chống "diễn biến hòa bình" hiện nay.
Mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân là mối quan hệ có tác
động hai chiều. Nếu không có sự đồng tình ủng hộ, chung sức, chung lòng của quần
chúng nhân dân thì Đảng Cộng sản (ĐCS) không thể có được sức mạnh, cách mạng
không thể thành công. Nếu không có sự lãnh đạo, tổ chức của ĐCS thì quần chúng
nhân dân cũng không có được đường hướng chính trị đúng đắn để chỉ đạo, dẫn dắt
cuộc đấu tranh cách mạng của mình. Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế và lịch sử ĐCS Việt Nam cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự thành công của ĐCS và các cuộc cách mạng vô sản là nhờ đã xây dựng được mối
liên hệ gắn bó giữa ĐCS với quần chúng. Sự gắn bó máu thịt, liên hệ mật thiết với
quần chúng nhân dân lao động là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của ĐCS,
là cội nguồn sức mạnh vô địch của đảng, là nhân tố bảo đảm cho sự thành công của
toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, không ngừng củng cố mối quan hệ mật thiết
giữa ĐCS và quần chúng nhân dân là một nguyên tắc bất di bất dịch của chủ nghĩa
Mác - Lênin về xây dựng Đảng trong mọi thời kỳ.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay luôn quan tâm xây dựng
mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân. Trước yêu cầu mới của tình hình cách
mạng và kinh nghiệm thực tiễn, Đại hội (ĐH) đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã chính thức đưa vấn đề này lên thành một nguyên tắc tổ chức, hoạt động
của Đảng. Tại ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân tiếp tục được khẳng định.
2
Về cơ bản việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
đang được quán triệt và triển khai thực hiện trong toàn Đảng, thể hiện ở đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng do dân, vì dân; sự gắn bó,
gần gũi giữa đảng viên, tổ chức đảng với quần chúng nhân dân được tăng cường; có
những chuyển biến nhất định trong nhận thức cũng như trong hành động của đảng
viên, giúp họ có ý thức và trách nhiệm hơn khi tiếp xúc, làm việc với Nhân dân…
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, khi ĐCS Việt Nam là Đảng duy nhất
cầm quyền, ở nơi này nơi kia, lúc này lúc khác, Đảng cũng đã phạm những sai lầm,
khuyết điểm không nhỏ trong quan hệ với Nhân dân. Tình trạng mất dân chủ, tệ
quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu dân, lãng phí còn tồn tại, trở thành lực cản của sự
phát triển và gây bất bình trong Nhân dân. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm
trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị (HTCT) và
trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng và
sự tồn vong của chế độ. Thực trạng này đang làm suy giảm lòng tin của quần chúng
nhân dân vào Đảng và mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân cũng không khỏi bị ảnh
hưởng xấu. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn luôn tìm cách lôi kéo, kích động,
chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân.
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào và bằng cách nào để củng cố và tăng cường mối
quan hệ gắn kết giữa ĐCS Việt Nam với Nhân dân cho thật bền vững? Làm gì và
làm thế nào để thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho thật
hiệu quả?
Xuất phát từ tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề, tác giả chọn "Thực
hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân trong giai đoạn hiện nay"
làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay, luận án đề
xuất những giải pháp khả thi để thực hiện tốt nguyên tắc này trong thực tiễn.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân và thực hiện nguyên tắc.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay, chỉ ra ưu, khuyết điểm,
nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân đến năm 2025.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong giai đoạn
hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án khảo sát, nghiên cứu thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân từ năm 2006 đến nay và đề xuất phương hướng, giải pháp
hướng đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của ĐCS Việt Nam về mối quan hệ giữa Đảng
với quần chúng nhân dân, về công tác dân vận (CTDV), về các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng.
Cơ sở thực tiễn của luận án là việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân của Đảng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin; sử dụng các phương pháp chuyên ngành và liên ngành cụ thể: lịch
sử, lôgic, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, khảo sát, thống kê, điều tra xã hội
học, tổng kết thực tiễn.
4
Luận án có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố có liên quan đến đề tài, có tham khảo các báo cáo, các số liệu thống kê có
liên quan đến đề tài của các cấp ủy, tổ chức đảng tại các địa phương từ năm 2006
đến nay.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp mới để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân trong thực tiễn. Một là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém, tham
nhũng; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, gần gũi với
Nhân dân, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng. Hai là, lãnh đạo chăm lo nâng
cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhân dân; tập trung giải quyết những
vấn đề bức xúc của Nhân dân; đồng thời có cơ chế để Nhân dân thật sự tham gia
xây dựng Đảng, chính quyền.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cấp ủy đảng, tổ chức đảng trong công tác xây dựng Đảng, nhất là trong
thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, nhằm thực hiện tốt
nguyên tắc này trong thực tiễn.
- Luận án cũng có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên
cứu, học tập và giảng dạy môn CTDV, môn Xây dựng Đảng về tổ chức, môn Các
nguyên tắc xây dựng Đảng trong các cơ sở đào tạo thuộc Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học đã công bố
của tác giả có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 9 tiết.
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một nguyên tắc tổ chức, hoạt động
được ĐCS Việt Nam khẳng định và bổ sung vào Điều lệ Đảng từ ĐH đại biểu toàn
quốc lần thứ X (2006) của Đảng, tiếp tục được nhấn mạnh trong ĐH XI. Cho đến
nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Liên quan đến vấn đề
nghiên cứu, có thể tìm thấy một số công trình đề cập đến CTDV, mối quan hệ giữa
Đảng với Nhân dân, đó là:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƢỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả là ngƣời nƣớc ngoài
Bài viết Kinh nghiệm của Đảng dân chủ - xã hội Đức trong xử lý quan hệ
với quần chúng của tác giả Trương Văn Hồng [50]. Bài viết chia thành 3 phần lớn:
I. Tư tưởng và đặc điểm tổ chức của Đảng Dân chủ xã hội Đức (SPD); 2. Duy trì
đoàn kết trong Đảng và hình thức liên hệ giữa Đảng với cử tri; 3. Quan hệ giữa SPD
và quần chúng truyền thống của Đảng trước những thách thức. Để duy trì đoàn kết
trong Đảng và hình thức liên hệ giữa Đảng với cử tri, SPD áp dụng các biện pháp
sau: 1) Ra sức tận dụng các phương tiện truyền thông để tuyên truyền chủ trương,
chính sách, rút ngắn khoảng cách với dân chúng; 2) Triển khai thảo luận rộng rãi
Cương lĩnh của Đảng, nhằm làm cho Cương lĩnh và chính sách phù hợp với yêu cầu
của thời đại; 3) Khởi xướng và thực hiện "mạng Internet của đảng" và "chế độ đảng
viên theo hạng mục"; 4) Thiết lập quan hệ bạn bè với công đoàn, tìm kiếm sự ủng
hộ của công đoàn. Về quan hệ giữa SPD và quần chúng truyền thống của Đảng
trước những thách thức, bài viết đánh giá các biện pháp cải cách triệt để đối với chế
độ phúc lợi của chính phủ "Liên minh Đỏ- Xanh" giữa SPD và Đảng Xanh đã đụng
chạm đến lợi ích của đa số dân cư trong xã hội Đức, đồng thời đặt ra thách thức
không nhỏ đối với "nhà nước phúc lợi chung". Để giành được sự ủng hộ rộng rãi
hơn đối với cải cách, Ban lãnh đạo SPD không ngừng sử dụng các phương thức đối
thoại trên truyền hình, tranh luận ở nghị viện, trả lời phỏng vấn cho giới truyền
thông đại chúng, hiệu triệu đảng viên của SPD. Ngoài ra, SPD còn tăng cường quan
6
hệ gắn bó với tổ chức công đoàn, từng bước thuyết phục công đoàn không trương
biểu ngữ phản đối cải cách. Đến đầu 2005, đại bộ phận dân chúng Đức đã cơ bản
chấp nhận cải cách phúc lợi và chính sách cải cách thị trường lao động việc làm của
Chính phủ Liên minh Đỏ - Xanh. Tuy nhiên, kế hoạch cải cách đã làm suy giảm cơ
sở quần chúng của SPD, từ đó, đặt ra vấn đề đối với SPD cầm quyền phải làm thế nào
để tuyên truyền tốt chính sách của mình, đồng thời tăng cường gắn kết với các tầng
lớp xã hội bị ảnh hưởng tiêu cực từ cải cách.
Bài viết Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc hiện
nay của Ôn Gia Bảo [16]. Tác giả tập trung phân tích một số vấn đề cần chú trọng
trong công tác "tam nông" hiện nay ở Trung Quốc: I. Về xây dựng kết cấu hạ tầng ở
nông thôn; II. Về cải cách tổng hợp ở nông thôn; III. Về vấn đề lương thực; IV. Về
vấn đề đất đai; V. Về vấn đề người làm công là nông dân; VI. Về sự phát sự nghiệp
xã hội của nông thôn. Bài viết kết luận: giải quyết vấn đề "tam nông" là một nhiệm
vụ nặng nề và rất khó khăn, nhưng cũng đứng trước cơ hội lịch sử hiếm có. Dưới sự
lãnh đạo đúng đắn của TW Đảng do đồng chí Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư, phải
kiên trì lấy lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng "Ba đại diện" làm chỉ
đạo, toàn diện thực hiện đầy đủ quan điểm phát triển một cách khoa học, với tinh
thần chịu trách nhiệm cao trước Đảng và nhân dân.
Bài viết Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Cu ba về tăng cường mối liên hệ
với quần chúng của Tổ chuyên đề Ban nghiên cứu - giảng dạy Xây dựng Đảng,
trường Đảng Trung ương (TW) Trung Quốc [125]. Bài viết đã đặt ra và trả lời câu
hỏi: là ĐCS duy nhất cầm quyền ở Tây bán cầu, vì sao ĐCS Cu Ba vẫn bảo vệ được
chủ nghĩa xã hội (CNXH), vẫn duy trì được vị trí cầm quyền của Đảng trong điều
kiện hết sức khó khăn? Nguyên nhân căn bản nhất là ĐCS Cu Ba đã biết coi trọng
mối liên hệ với quần chúng nhân dân, không ngừng củng cố địa vị cầm quyền của
Đảng, làm cho Đảng tràn đầy sức sống. Đảng Cộng sản đề ra nguyên tắc "4 tất cả"
và định ra một loạt chính sách và biện pháp đảm bảo chắc chắn cho sự liên hệ mật
thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Những chính sách cụ thể của ĐCS Cu Ba
cùng với nguyên tắc "4 tất cả", đã tạo ra sự gắn bó, liên hệ chặt chẽ giữa ĐCS và
nhân dân Cu Ba, là bài học kinh nghiệm quý giá đối với ĐCS Việt Nam hiện nay.
Bài viết Kinh nghiệm giảm nghèo ở Trung Quốc của Phạm Tiểu Kiến [63].
7
Bài viết đã khẳng định sự nghiệp xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc đã giành
được thành tựu to lớn với kinh nghiệm chủ yếu là: giải phóng tư tưởng, cải cách mở
cửa, Chính phủ chủ đạo, xã hội tham gia, khai thác xóa nghèo, tự lực cánh sinh,
phát triển một cách khoa học. Đây vừa là kinh nghiệm cơ bản về xóa nghèo của
công cuộc xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc, vừa là bộ phận cấu thành quan
trọng của đường lối xã hội chủ nghĩa (XHCN) đặc sắc Trung Quốc.
Bài viết Nghiên cứu vấn đề quan trọng của công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa hài hòa của Giả Kiến Phương [114]. Bài viết đã phân tích bối cảnh lịch sử và
ý nghĩa quan trọng xây dựng xã hội hài hòa XHCN, đồng thời làm rõ nội hàm cơ
bản và hệ thống chỉ tiêu của xã hội hài hòa XHCN. Xã hội hài hòa XHCN là xã hội
hài hòa hiện đại trên cơ sở kinh tế thị trường (KTTT) XHCN mang chế độ pháp trị
dân chủ XHCN duy trì bởi nền văn hóa hài hòa XHCN. Có thể thấy, Trung Quốc
đang thành công trong công cuộc xây dựng XHCN hài hòa trên đất nước Trung
Hoa, thể hiện ở kinh tế Trung Quốc ngày càng phát triển, vươn tầm châu lục, có thể
cạnh tranh với các cường quốc kinh tế trên thế giới. Tuy nhiên, XHCN hài hòa mà
Trung Quốc đang xây dựng, liệu có thực sự "hài hòa" trong mối quan hệ bang giao
với các nước láng giềng hay không, khi mà tư tưởng bành trướng Trung Hoa vẫn
ngự trị trong tâm tưởng của giới chức cầm quyền và những hành động gây hấn của
nước này trên biển Đông với Việt Nam cuối năm 2013 có phải là một hành động
thiện chí để xây dựng XHCN hài hòa hay không? Phải chăng Trung Quốc chỉ xây
dựng XHCN hài hòa trong nội bộ đất nước Trung Hoa, còn sự hài hòa trong quan
hệ láng giềng, trong cộng đồng quốc tế không phải là mục tiêu để họ xây dựng?
Bài viết Đẩy nhanh thúc đẩy xây dựng xã hội lấy cải thiện dân sinh làm
trọng điểm của Ngô Trung Dân [114]. Tác giả phân tích những vấn đề chủ yếu tồn
tại về mặt dân sinh trong giai đoạn hiện nay của Trung Quốc, đồng thời đưa ra một
vài vấn đề cần chú ý trong quá trình cải thiện dân sinh: 1. Cần phải đặt công bằng
xã hội vào vị trí càng nổi bật hơn; 2. Ra sức thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển; 3.
Xây dựng một chính phủ mô hình phục vụ; 4. Xây dựng cơ chế điều hòa lợi ích
công bằng, khoa học, hiệu quả; 5. Cần bắt tay vào xây dựng một hệ thống bảo đảm
công bằng xã hội ban đầu. Vấn đề cải thiện dân sinh của Trung Quốc là một kinh
nghiệm tốt để ĐCS Việt Nam lãnh đạo, giải quyết tốt nhu cầu dân sinh ở Việt Nam,
8
góp phần thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân ở nước ta
hiện nay.
Bài viết Nghiên cứu kinh nghiệm xử lý vấn đề dân tộc của Trung Quốc của
Hồ Nham [114]. Bài viết đã đề cập 10 quan điểm lý luận của ĐCS Trung Quốc đối
với vấn đề dân tộc. Khi giải quyết vấn đề dân tộc, cần hết sức chú ý quán triệt chính
sách tôn giáo của Đảng. Bài viết cũng đưa ra những kinh nghiệm chủ yếu của Trung
Quốc trong xử lý vấn đề dân tộc, gồm: 1. Kiên trì bình đẳng dân tộc và tất cả xuất
phát từ thực tế; 2. Kiên trì và hoàn thiện chế độ tự trị khu vực dân tộc; 3. Kiện toàn
và tích cực chấp hành các chính sách, quy định pháp luật về dân tộc.
Bài viết Tiến trình lịch sử và kinh nghiệm cơ bản của Đảng Cộng sản Trung
Quốc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ chủ nghĩa xã hội của Cung Học Tăng
[114]. Bài viết đã tổng kết tiến trình lịch sử ĐCS Trung Quốc giải quyết vấn đề tôn
giáo kể từ cải cách mở cửa đến nay; đồng thời rút ra những kinh nghiệm cơ bản của
ĐCS Trung Quốc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ CNXH: 1. Cần nhận thức
tầm quan trọng của vấn đề tôn giáo Trung Quốc từ tầm cao chiến lược và toàn cục
của sự nghiệp XHCN; 2. Kiên trì xuất phát từ thực tế tôn giáo Trung Quốc, lý giải,
vận dụng một cách hoàn chỉnh, chuẩn xác và phát triển một cách sáng tạo lý luận
tôn giáo của chủ nghĩa Mác; 3. Nhận thức đầy đủ tính lâu dài, tính quần chúng và
tính phức tạp đặc thù của tôn giáo thời kỳ CNXH; 4. Cần phải quán triệt chấp hành
một cách toàn diện, chính xác chính sách tự do tôn giáo tín ngưỡng, duy trì tính liên
tục và tính ổn định của chính sách này; 5. Kiên trì nguyên tắc "đoàn kết hợp tác về
chính trị, tôn trọng lẫn nhau về tín ngưỡng", phát huy đầy đủ vai trò tích cực của nhân
sĩ yêu nước giới tôn giáo; 6. Tiến hành quản lý công việc tôn giáo theo pháp luật,
phân biệt xử lý chính xác hai loại mâu thuẫn tính chất khác nhau về mặt tôn giáo; 7.
Huy động nhân tố tích cực của tôn giáo, phục vụ cho xây dựng xã hội hài hòa XHCN;
8. Tích cực dẫn dắt tôn giáo thích ứng với xã hội XHCN là con đường đúng đắn duy
nhất để xử lý tốt vấn đề tôn giáo thời kỳ CNXH.
Nghiên cứu vấn đề quy luật cầm quyền và xây dựng Đảng cầm quyền của
Khương Dược [114]. Bài viết đã lý giải một loạt các vấn đề đặt ra đối với đảng cầm
quyền. I. Làm thế nào để củng cố và mở rộng nền tảng xã hội của Đảng, giành lấy
sự ủng hộ càng rộng rãi hơn? II. Làm thế nào để tăng cường việc giành lấy lòng dân
9
bằng chính sách và thành tích chính trị khi đứng trước khó khăn về ý thức hệ? III.
Làm thế nào để tìm kiếm sự cân bằng giữa hiệu quả và công bằng, nhằm thực hiện
kinh tế phát triển bền vững và xã hội hài hòa? IV. Làm thế nào để mở rộng dân chủ
trong Đảng và dân chủ xã hội, nâng cao sức cuốn hút và sức ảnh hưởng của Đảng?
V. Làm thế nào để chống tham nhũng, đề xướng liêm khiết, duy trì hình tượng công
chúng trong sạch liêm khiết? VI. Làm thế nào để ứng phó với thách thức của
phương tiện thông tin đại chúng, học biết tìm kiếm tồn tại, tìm kiếm phát triển trong
điều kiện xã hội thông tin? Một chính đảng có thể duy trì địa vị cầm quyền hay
không là do năng lực quản lý và điều hành đất nước, có được sự tín nhiệm và ủng
hộ của dân chúng hay không. Giành lấy lòng dân, giành được sự ủng hộ cũng chính
là vấn đề giải quyết tính hợp pháp chính trị của đảng cầm quyền.
Những thay đổi trong mô hình kinh tế và chính sách xã hội ở Cuba của Prieto
Mayra [108]. Bài viết đã phân tích những thay đổi trong mô hình kinh tế và chính
sách xã hội ở Cuba qua 3 giai đoạn. Chính sách xã hội trong giai đoạn đầu tiên tập
trung vào việc nâng cao sự bình đẳng trong xã hội, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của
dân cư- đặc biệt là việc làm, lương thực, chăm sóc sức khỏe, nhà ở và giáo dục.
Trong giai đoạn thứ hai, Chính phủ Cuba tiến hành các cải cách kinh tế, trong đó
tập trung vào hai vấn đề cơ bản: lao động/thu nhập và trợ cấp xã hội. Trong giai
đoạn thứ ba, chính sách xã hội nhằm vào một mô hình phát triển mới được gọi là
XHCN "đa nhân tố" (đối lập với kiểu nhà nước XHCN tập trung mà Cuba đã trải
qua). Trong giai đoạn thứ ba của chính sách cải cách xã hội, có 4 thay đổi cơ bản: 1.
Những thay đổi liên quan tới chính sách việc làm và thu nhập; 2. Những thay đổi
trong ngân sách và chi tiêu công; 3. Những thay đổi trong chính sách an sinh xã hội
và vấn đề dân số; 4. "Đô thị hóa" và phân cấp quản lý lãnh thổ. Từ những phân tích
về những thay đổi trong mô hình kinh tế và chính sách xã hội ở Cuba, bài viết kết
luận: điều kiện hiện tại của cuộc cải cách ở Cuba có khả năng củng cố sự công bằng
xã hội, cải thiện tình hình kinh tế và đời sống của các tầng lớp dân cư khác nhau và
khắc phục được những hạn chế nhất định của chính sách đã đưa ra.
Bài Vai trò của tổ chức cơ sở đảng và đoàn thể nhân dân trong phát triển
kinh tế, xã hội ở Thành phố Viêng chăn – Lào của Khămbay Malasing [58]. Tác giả
đã khẳng định tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở có vai
10
trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở cơ sở và trên toàn
quốc. Các TCCSĐ và đoàn thể nhân dân các thôn, bản ở thành phố Viêng Chăn đã
thể hiện được vai trò lãnh đạo, tổ chức, động viên nhân dân phát triển kinh tế, văn
hóa và xây dựng đời sống mới, cơ bản đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vai trò
đó được tác giả đánh giá, phân tích, khảo sát, điều tra trên các mặt: về hoạt động
của TCCSĐ; vai trò hoạt động của chính quyền thôn bản; vai trò của Mặt trận Lào
xây dựng đất nước tham gia trong phát triển cộng đồng, động viên nhân dân các
bộ tộc Lào hưởng ứng các phong trào thi đua; vai trò hoạt động của Đoàn thanh
niên Nhân dân cách mạng Lào; vai trò hoạt động của Chi hội phụ nữ Lào. Từ đó,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của TCCSĐ và
các đoàn thể nhân dân trong xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội thủ đô,
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết (NQ) ĐH lần thứ V Đảng bộ thành phố
Viêng Chăn (2010).
Chính sách nhà ở xã hội và khống chế dân số của Xingapo của Joh S.T.
Quah [56]. Bài viết đã khẳng định chính sách nhà ở xã hội và khống chế dân số của
Xingapo là hai chính sách công đặc biệt quan trọng của Xingapo kể từ khi thành
lập. Việc thi hành có hiệu quả Chính sách nhà ở xã hội mang lại sự ổn định xã hội
và phát triển kinh tế, đặc biệt là khẳng định năng lực thực thi của chính phủ với
nhân dân. Trong khi đó, Chính sách khống chế dân số lại gây ảnh hưởng tiêu cực
cho tới ngày nay. Đặc biệt, tác giả bài viết đã rút ra được 06 nguyên nhân thực hiện
thành công chính sách nhà ở xã hội của Xingapo, trong đó có nguyên nhân quan
trọng về mặt kinh tế, xã hội và môi trường chính trị, Đảng cầm quyền của Xingapo
đang cố gắng để phát triển kinh tế, tăng việc làm, cải thiện môi trường sống cho
nhân dân, đồng thời người dân cũng mong muốn có một nơi ở khang trang, sạch sẽ.
Khi đắc cử, Đảng Nhân dân hành động Xingapo đã hứa rằng, họ có một khao khát
mãnh liệt để nhân dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp giải quyết được
vấn đề nhà ở. Đây là bài học kinh nghiệm quý giá, để ĐCS Việt Nam lãnh đạo
Chính phủ giải quyết vấn đề nhà ở xã hội cho những người có thu nhập thấp nhanh
chóng, dứt điểm và hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu cầu nhà ở chính đáng của nhân
dân, do đó, tạo mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân thông qua các
chính sách kinh tế, xã hội của Chính phủ đem lại lợi ích thiết thực cho người dân.
11
Phát huy kinh nghiệm quý báu và thành công trong công tác dân tộc của
Đảng Cộng sản Trung Quốc của Tô Loan [99]. Bài viết đã khẳng định ĐCS Trung
Quốc đã tiến hành tìm tòi những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm giải quyết tốt vấn
đề dân tộc đặc sắc Trung Quốc: 1) Đảm bảo căn bản để giải quyết tốt vấn đề dân
tộc, trước hết phải kiên trì sự lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc, nòng cốt dẫn dắt nhân
dân các dân tộc trong cả nước đoàn kết phấn đấu; 2) Phương hướng cơ bản giải
quyết vấn đề dân tộc là kiên trì đi theo con đường đúng đắn, giải quyết vấn đề dân
tộc đặc sắc Trung Quốc, xuất phát từ tình hình thực tiễn trong nước, giương cao
ngọn cờ cách mạng, có chí tiến thủ; 3) Kim chỉ nam hành động để giải quyết tốt vấn
đề dân tộc là cần kiên trì thúc đẩy và đổi mới chính sách lý luận dân tộc của Đảng,
giải phóng tư tưởng, tiến cùng thời đại. 4) Chế độ làm tốt công tác dân tộc là phải
kiên trì và hoàn thiện chế độ tự trị khu vực dân tộc, chú trọng tới cơ sở. 5) Phương
pháp cơ bản để làm tốt vấn đề dân tộc là phải xử lý thỏa đáng những vấn đề quan hệ
trong lĩnh vực công tác dân tộc, thống nhất kế hoạch và quan tâm toàn diện, đồng
thời có những đột phá trọng điểm; 6) Nguồn sức mạnh để làm tốt công tác dân tộc
là phải làm tốt công tác cán bộ và quần chúng dân tộc thiểu số, tôn trọng và tín
nhiệm cao đối với cán bộ và quần chúng dân tộc thiểu số.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả ngƣời Việt Nam về nƣớc ngoài
Sự phân hóa giai tầng xã hội nông thôn với việc giữ gìn tính tiên tiến của
đảng viên nông thôn của Lâm Bích Ngọc [95]. Bài viết đã đưa ra nhận định: tính
tiên tiến của đảng viên nông thôn là nền móng của sự sinh tồn, phát triển của ĐCS
Trung Quốc ở nông thôn. Tác giả khẳng định từ cải cách, mở cửa đến nay, giai cấp
nông dân truyền thống đã phân hóa thành các giai tầng như người lao động nông
nghiệp, dân công nông thôn, hộ công thương cá thể, chủ doanh nghiệp tư nhân,
người quản lý (cán bộ thôn, người quản lý xí nghiệp tập thể kiêm chức). Chính sự
phân hóa này đặt ra cho nông thôn Trung Quốc cần có các phần tử tiên tiến trong
nhân dân dẫn dắt và chỉ đạo; tạo cơ hội mở rộng "vũ đài" phát huy vai trò của đảng
viên nông thôn; thúc đẩy đảng viên nông thôn tổ chức thành đội tiền phong trong
học tập, bồi dưỡng tinh thần khai phá sáng tạo. Tuy nhiên sự phân hóa giai tầng xã
hội cũng đặt ra những thách thức mới trong việc giữ gìn tính tiên tiến của đảng viên
12
nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc đến giác ngộ tư tưởng, trình độ chính trị, tu dưỡng
đạo đức và tố chất năng lực của đảng viên; tư tưởng, quan niệm về giá trị của đảng
viên dễ phát sinh thay đổi, uy tín của đảng viên bị giảm sút; cơ chế quản lý đảng
viên lạc hậu trầm trọng.... Từ đó, tác giả đề xuất giải pháp giữ gìn tính tiên tiến của
đảng viên nông thôn Trung Quốc trong điều kiện mới là: tìm tòi, nghiên cứu tiêu
chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể tính tiên tiến của đảng viên nông thôn; hướng dẫn
đảng viên trở thành lực lượng chủ đạo trong việc phân hóa giai tầng xã hội nông
thôn; phát huy vai trò tiên tiến của đảng viên trong các giai tầng xã hội nông thôn;
nâng cao năng lực của đảng viên và thiết lập cơ chế mới quản lý đảng viên nông
thôn. Về vấn đề quản lý đảng viên nông thôn cần phải tập trung tìm tòi phương thức
xây dựng tổ chức đảng một cách khoa học; cải tiến hình thức, đổi mới nội dung
quản lý; thiết lập cơ chế kiểm tra, đánh giá và hoàn thiện cơ chế ra khỏi Đảng.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở Trung Quốc của Đỗ
Tiến Sâm và Bùi Thị Thanh Hương [113]. Các tác giả đã khẳng định: vấn đề nông
nghiệp, nông thôn, nông dân (tam nông) đã và đang là vấn đề nổi cộm của Trung
Quốc, là vấn đề mấu chốt cần được giải quyết tốt để thực hiện mục tiêu xây dựng xã
hội khá giả toàn diện. Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã và đang thực hiện nhiều
giải pháp để giải quyết vấn đề "tam nông": I. Giải pháp trong lĩnh vực nông nghiệp,
II. Chính sách đối với nông dân, III. Giải pháp cải cách nông thôn. Những giải pháp
trong lĩnh vực nông nghiệp đều tập trung xoay quanh vấn đề hiện đại hóa (HĐH)
nông nghiệp. Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc xác định việc tăng thu nhập
cho nông dân là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác nông nghiệp và nông thôn.
Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc trong giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân có thể giúp ích cho ĐCS Việt Nam trong quá trình lãnh đạo công
cuộc HĐH nông nghiệp, nông thôn; đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho nông
dân, làm cho mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nông dân thêm bền chặt.
Bài viết Kinh nghiệm và bài học về xây dựng Đảng của 30 năm cải cách mở
cửa, trong cuốn Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi mới
[96]. Bài viết đã chỉ ra những tìm tòi và phát hiện trong xây dựng dân chủ cơ sở của
Đảng từ khi cải cách mở cửa cho tới nay, đó là: về mặt bảo đảm quyền dân chủ của
13
đảng viên, về công tác công khai đảng vụ, về lĩnh vực giám sát dân chủ trong Đảng.
Từ đó, bài viết rút ra 4 kinh nghiệm chủ yếu trên lĩnh vực xây dựng dân chủ cơ sở
trong Đảng từ khi cải cách mở cửa tới nay. Cuối cùng, tác giả nêu lên một số suy
nghĩ về xây dựng dân chủ cơ sở trong Đảng: thứ nhất, kiên trì thực hiện nghiên cứu
lý luận đi đôi với thực tiễn, chú ý tính phương châm và tính hệ thống của nghiên
cứu lý luận; thứ hai, sáng tạo hình thức thảo luận dân chủ ở cấp cơ sở, nghiên cứu,
tìm tòi hình thức bầu cử trực tiếp đội ngũ lãnh đạo của TCCSĐ; thứ ba, đồng thời
với việc chú trọng quy định mang tính nguyên tắc, phải coi trọng hơn nữa các trình
tự quy phạm khống chế giá thành; thứ tư, kiên trì kế thừa sự sáng tạo mang tính cơ
sở, thông qua sáng tạo kích thích sức sống của dân chủ trong Đảng.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC
1.2.1. Đề tài khoa học và sách
Đề tài KHXH. 05-06 do tác giả Phùng Hữu Phú làm chủ nhiệm: Luận cứ
khoa học và những giải pháp thực tiễn tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân ở nước ta hiện nay [103] đã làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn sự cần thiết,
khả năng tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân ở nước ta; đồng thời
trình bày có hệ thống những quan điểm và giải pháp khả thi nhằm củng cố, phát
triển mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân ở nước ta, phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện mới. Những kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo quý giá mà
Luận án có thể kế thừa, phát triển, làm luận cứ hết sức thuyết phục để đưa ra cơ sở
lý luận và thực tiễn của nguyên tắc, luận chứng, làm rõ nội dung của nguyên tắc.
Tuy nhiên, đề tài được nhóm tác giả thực hiện từ năm 2002, trải qua 13 năm đất
nước phát triển, đến nay tình hình các giai cấp, tầng lớp nhân dân Việt Nam có
nhiều biến đổi theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực, thực tiễn đất nước ngày
càng phong phú, đòi hỏi phải thường xuyên tổng kết. Nhiệm vụ này sẽ được giải
quyết trong nội dung của Luận án.
Đề tài độc lập cấp Nhà nước - Mã số 03/2010/ĐTĐL do tác giả Hà Thị Khiết
làm chủ nhiệm: Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong
thời kỳ mới [61] đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về dân vận, nâng cao chất
lượng và hiệu quả CTDV của Đảng trong thời kỳ mới, chỉ ra kinh nghiệm vận động
14
nhân dân ở một số nước trên thế giới; phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng,
hiệu quả CTDV của Đảng trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, rút ra
nguyên nhân và kinh nghiệm. Đồng thời, đề tài đề xuất phương hướng, quan điểm,
giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV trong thời kỳ mới, trong đó đã đưa
ra 7 nhóm giải pháp: Nhóm 1, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về CTDV cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân; nhóm 2, thực hiện tốt các giải pháp nhằm tăng cường, củng
cố vững chắc lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước; nhóm 3, tập trung các
giải pháp trọng tâm làm chuyển biến rõ nét về CTDV của các cơ quan Nhà nước,
chính quyền các cấp; nhóm 4, tăng cường, đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác vận động các giai cấp, tầng lớp nhân dân; nhóm 5, tăng cường đổi mới nội
dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
(MTTQ) và các đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng trong tình hình mới; nhóm
6, nâng cao chất lượng, hiệu quả các phong trào hành động cách mạng trong nhân
dân; nhóm 7, tăng cường xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ ban dân
vận, MTTQ, đoàn thể nhân dân các cấp. Kết quả nghiên cứu của đề tài phản ánh
thực tiễn CTDV, được Luận án kế thừa, bổ sung, làm luận chứng trong đánh giá
một số phương thức thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Cuốn Mối quan hệ giữa Đảng và Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Đàm
Văn Thọ và Vũ Hùng [118] đã trình bày một cách có hệ thống khái niệm dân và
những quan điểm, thái độ khác nhau về dân trong lịch sử, quá trình hình thành và
nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân, về Đảng cầm quyền và mối
quan hệ biện chứng giữa Dân và Đảng. Có thể thấy, điểm nổi bật trong nội dung
cuốn sách là các tác giả đã đi sâu nghiên cứu làm rõ khái niệm về dân, nghiên cứu
có hệ thống, tương đối đầy đủ và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa Đảng và dân. Tuy nhiên, khai thác dưới góc độ xây dựng Đảng, nội dung cuốn
sách mới chỉ dừng lại và thành công khi nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng và dân
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, còn phần thực trạng đánh giá chưa sâu, chưa cụ thể
hai mặt ưu điểm và hạn chế, mới chỉ ra được nguyên nhân của tình trạng suy yếu
mối quan hệ giữa Đảng và dân, chưa chỉ ra được nguyên nhân của ưu điểm trong
mối quan hệ giữa Đảng và dân. Cuốn sách chưa đề ra được những giải pháp nhằm
15
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân trong thời kỳ mới, mà mới chỉ dừng lại ở
việc đề ra 4 phương hướng cơ bản.
Cuốn Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền của Trần Đình
Huỳnh (chủ biên) và Phan Hữu Tích [52] đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền qua 6 chương, trong đó chương VI
đề cập "Trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, Đảng càng phải tăng cường mối
quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân" [52, tr.149-171]. Có thể thấy, thế mạnh của
cuốn sách đã khai thác triệt để giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân và mối quan
hệ giữa Đảng và dân trong điều kiện đảng cầm quyền. Tuy nhiên, nội dung cuốn
sách mới đi sâu nghiên cứu lý luận, chưa đánh giá, tổng kết thực tiễn mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân.
Cuốn Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước -
Vấn đề và kinh nghiệm của Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm và Lê Doãn Tá (Đồng
chủ biên) [112] gồm tập hợp các bài viết của các tác giả, được chia thành hai phần,
có bài viết đề cập đến lý luận, có bài viết tổng kết thực tiễn, có bài viết đưa ra giải
pháp tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân. Tuy nhiên, là một tập hợp
các bài viết nên toàn bộ nội dung cuốn sách, có một số diễn đạt, ý tưởng, luận điểm
có sự trùng lặp giữa các tác giả, các giải pháp đưa ra chưa đầy đủ và toàn diện. Luận
án sẽ kế thừa, bổ sung, phát triển kết quả nghiên cứu của các tác giả, phù hợp với
góc độ nghiên cứu của Luận án: nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
trong giai đoạn hiện nay.
Mối quan hệ Đảng - Nhà nước - Dân trong cuộc sống do Nguyễn Khánh
chủ biên [57] gồm một số bài nói, bài viết tiêu biểu của tác giả xoay quanh chủ đề
nói trên, được sắp xếp thành hai phần: Phần thứ nhất, Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm
chủ, Nhà nước quản lý và Phần thứ hai,Văn hóa - xã hội và phát triển. Các bài viết
trong cuốn sách đã đề cập tương đối toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước và vai trò làm chủ của Nhân dân; đồng thời cũng đề cập đến các lĩnh vực
của đời sống xã hội như kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ.... Tuy nhiên, vì là
các bài viết theo tiến trình thời gian, bám sát tinh thần NQ ĐH Đảng, nên một số
thông tin hiện nay không còn mang tính thời sự. Cuốn sách cũng chưa đi sâu phân
16
tích mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân mà mới chỉ đề cập đến những vấn đề xoay
quanh chủ đề mối quan hệ giữa Đảng-Nhà nước-Dân trong cuộc sống thông qua các
bài viết.
Cuốn Một số vấn đề về xây dựng Đảng trong văn kiện Đại hội X do Lê Minh
Thông chủ biên [120] là tập hợp các bài viết của các tác giả, đề cập đến bản chất
của Đảng, vấn đề phát huy dân chủ trong Đảng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đảng, trong đó có bài viết của Đỗ Xuân Định "Xây dựng và tăng cường mối
quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh" [120, tr.599-
631]. Tác giả đã phân tích những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, lịch sử Việt Nam
về xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa nhà cầm quyền và Nhân dân, phân tích kinh
nghiệm của ĐCS Cu ba, Đảng Hành động nhân dân ở Xinhgapo trong việc duy trì,
củng cố mối quan hệ giữa các đảng này với Nhân dân. Bài viết còn đi sâu nghiên
cứu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quan hệ Dân - Đảng, chỉ rõ sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào lãnh đạo thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, bài viết chưa đánh giá được thực
trạng mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, chưa đưa ra được giải pháp tăng cường
mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân hiện nay.
Cuốn Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ mới của
Ban Dân vận TW - Nguyễn Thế Trung (Chủ biên) [7] đã tập trung làm rõ cơ sở khoa
học của mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong điều kiện KTTT định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế; xác định được 6 tiêu chí đánh giá mối quan hệ giữa Đảng
và Nhân dân; đánh giá thực trạng, những kết quả đạt được, những hạn chế yếu kém;
chỉ rõ nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; đồng thời đưa ra các giải pháp tăng
cường xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân. Một số nội dung trong cuốn
sách có thể được Luận án kế thừa, luận chứng cho thực trạng thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
1.2.2. Các bài báo khoa học trên tạp chí
Bài Đảng với dân, dân với Đảng của Mạch Quang Thắng [117]. Từ sự phân
tích quan niệm dân của các triều đại phong kiến Việt Nam, quan niệm về dân của
các nhà dân chủ tư sản Việt Nam, bài viết đi sâu phân tích vấn đề dân và trách
17
nhiệm của dân đối với Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của ĐCS
Việt Nam. Bài viết cũng đề cập đến trách nhiệm của Đảng đối với dân, nói một cách
cô đọng là phải hiếu với dân. Từ dẫn chứng một số vụ việc điển hình về phản ứng
của Nhân dân đối với chính quyền một số địa phương, tác giả bài viết khẳng định:
nếu Đảng xa rời dân thì Đảng sẽ đứng trước nguy cơ thoái hóa, biến chất, thậm chí
dẫn đến tan rã. Nếu dân xa Đảng, Đảng xa dân thì Đảng sẽ bị mất hết sức sống. Vấn
đề đặt ra là phải hành động một cách tích cực, kiên quyết và hiệu quả, bằng một số
biện pháp sau: một là, phải tích cực hơn nữa trong việc chống quan liêu; hai là,
trong quan hệ với dân, phải sâu sát, tỉ mỉ, có phương pháp tốt; ba là, coi trọng hơn
nữa CTDV.
Xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân: Nhân tố quyết định
sự vững mạnh của Đảng, làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam của Trương
Tấn Sang [111]. Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng trong suốt 80 năm qua, ở tất cả
các giai đoạn cách mạng, Đảng ta đều gắn bó mật thiết, máu thịt với Nhân dân. Mối
liên hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân trong 80 năm qua rất đa dạng, phong phú,
thể hiện ở một số nội dung, phương thức sau đây: thứ nhất, mọi hoạt động của Đảng
đều nhằm mục đích phục vụ Tổ quốc, phụng sự Nhân dân; thứ hai, sau khi giành
được chính quyền, Đảng chăm lo xây dựng chính quyền thực sự "của dân, do dân,
vì dân"; xây dựng mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân thông qua mối quan hệ giữa
chính quyền với Nhân dân; thứ ba, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân
được thể hiện ở mối quan hệ giữa Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; thứ tư, mối
liên hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân được thể hiện ở sự liên hệ giữa cán bộ,
đảng viên với quần chúng nhân dân.
Bài viết Thực hiện nguyên tắc Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới của Thanh Tuyền [135]. Bài viết đã chỉ ra được một vài ưu điểm và
hạn chế trong thực hiện nguyên tắc Đảng liên hệ mật thiết với Nhân dân, qua đó, đề
xuất một số giải pháp tăng cường xây dựng mối quan hệ Đảng- dân trong tình hình
mới: 1. Đảng không ngừng hoàn thiện chủ trương, đường lối và chính sách để xây
dựng mối quan hệ Đảng-dân cho phù hợp hơn nữa với thực tiễn cơ chế kinh tế hàng
18
hóa, KTTT định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế; 2. Khi có đường lối
đúng đắn được ban hành, phải đẩy mạnh tuyên truyền quán triệt sâu rộng đến tận
người dân. Hình thức tuyên truyền cần phải đa dạng; 3. Đẩy mạnh phát triển kinh
tế-xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đẩy
mạnh công nghiệp hóa (CNH), HĐH nông nghiệp nông thôn, miền núi để tạo sự
phát triển bền vững giữa các vùng, miền, khu vực; 4. Rà soát, bổ sung, thay thế
nhằm hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, cơ chế, chính sách, pháp luật của
nhà nước về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; 5. Tập trung xây
dựng HTCT trong sạch vững mạnh, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội, các hội quần chúng; 6. Tập trung đẩy mạnh
cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ trong sinh hoạt đảng; chú trọng lãnh đạo thực hiện tốt Quy chế dân chủ (QCDC)
ở cơ sở; chăm lo đào tạo, bồi dưỡng xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ có năng
lực, phẩm chất đạo đức cách mạng, hết lòng phục vụ đất nước, phục vụ Nhân dân,
thật sự là tấm gương tiêu biểu về dân chủ.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo Đảng phải biết lắng nghe và học hỏi quần
chúng nhân dân của Trần Đình Huỳnh [53]. Hồ Chí Minh đã từng nói là giành được
chính quyền thì Đảng trao cho số đông Nhân dân nắm giữ. Nhà nước ấy là của Nhân
dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Vậy khi đã có Nhà nước dân chủ rồi thì đứng trước
Nhân dân Đảng có tư cách gì? Nhân dân cần gì ở Đảng? Trên cơ sở khai thác sâu giá
trị kinh điển trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả rút ra kết luận: suốt cuộc đời Hồ
Chí Minh đã nói và đã gương mẫu thực hiện điều tâm niệm rằng: muốn làm cách
mạng thì phải cách mạng bản thân trước đã, muốn lãnh đạo, giáo dục quần chúng thì
mình phải khiêm tốn, siêng năng học, học suốt đời, học trong công việc, học lẫn nhau
và học ở quần chúng. Quần chúng nhân dân là người thầy vĩ đại, là nguồn tri thức
không bao giờ vơi cạn, không khi nào khô cứng.
Tăng cường mối liên hệ, gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng của Đặng Đình Phú [104]. Để tăng cường mối
liên hệ, gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, theo tinh thần các Văn kiện ĐH
19
XI của Đảng, trong giai đoạn hiện nay cần: 1. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp hài hòa sự phát triển kinh
tế với bảo đảm sự tiến bộ và công bằng xã hội trên phạm vi cả nước cũng như ở
từng lĩnh vực, từng địa phương, từng chính sách phát triển; 2. Chăm lo thực hiện
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, xử lý đúng đắn, kịp thời các mâu thuẫn trong
nội bộ Nhân dân. Điều hòa hợp lý lợi ích xã hội của các tầng lớp dân cư, các vùng,
miền, lĩnh vực; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, nhất là bộ
phận có nhiều khó khăn trong công nhân, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, ở
vùng sâu, vùng xa; 3. Hoàn thiện những thiết chế thực hiện dân chủ hóa đời sống xã
hội, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; 4. Tăng cường xây dựng giai
cấp công nhân (GCCN) có giác ngộ chính trị, có trình độ học vấn và nghề nghiệp
ngày càng cao. Phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn. Phát huy trí tuệ và năng lực của đội ngũ trí thức, trọng
dụng nhân tài. Tạo điều kiện và phát huy tiềm năng, vai trò của doanh nhân, của
người Việt Nam ở nước ngoài trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh góp phần
xây dựng và bảo vệ đất nước; 5. Phát huy vai trò và tạo điều kiện thuận lợi để MTTQ
và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân theo tinh thần Đại hội XI và
vận dụng vào nghiên cứu, giảng dạy tại Học viện của Trương Thị Thông [121]. Bài
viết đã tập trung làm rõ mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ. Để thực hiện tốt hơn nữa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ theo quan điểm của ĐH XI trong nghiên cứu và giảng dạy tại Học viện,
theo tác giả cần chú ý những vấn đề sau: thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, giáo dục,
nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên và Nhân dân về
mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; thứ hai, tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền các cấp; thứ ba, thực hiện mạnh mẽ cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng
để Đảng đề ra cương lĩnh chính trị và đường lối đúng đắn, là cơ sở để Nhà nước luật
20
hóa một cách chính xác, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng; thứ tư, tăng
cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; thứ năm, đẩy mạnh xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN đủ sức thể chế hóa cương lĩnh, đường lối của Đảng thành hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và đồng bộ và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả;
thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện mối quan hệ
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân của
Đỗ Quang Tuấn [133]. Bài viết bàn về CTDV hiện nay, khái quát thành: một tư
tưởng; hai mục tiêu; ba nội dung chủ yếu; bốn lực lượng; năm nguyên tắc; sáu cách
làm. Đứng về tầm vĩ mô, bài viết còn đề cập thêm 6 vấn đề nữa: một là, coi trọng
tổng kết thực tiễn làm phong phú lý luận về dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh;
hai là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; ba là, tổ chức tốt việc phối hợp lực
lượng; bốn là, huấn luyện cán bộ; năm là, củng cố và tăng cường hoạt động của các
Ban Dân vận thực sự là những ban tham mưu mạnh; sáu là, nêu cao vai trò gương
mẫu của cán bộ, đảng viên.
Làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh nhân dân, khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong điều kiện hiện nay của Đoàn Thế Hanh [47]. Tư tưởng
về phát huy sức mạnh Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến
lược của cách mạng Việt Nam, được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và
dành nhiều công sức xây dựng. Để phát huy sức mạnh của Nhân dân, của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, cần làm tốt một số vấn đề sau: Một là, toàn Đảng, toàn dân
đồng thuận nhận thức sâu sắc về một di sản tinh thần truyền thống quý báu-phát huy
sức mạnh Nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc mà ông cha ta dày công xây
dựng và sử dụng như một thần khí viết nên những trang sử vàng chói lọi của dân tộc
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, cần được nhân lên trong thời kỳ phát triển
KTTT định hướng XHCN, hội nhập quốc tế hiện nay; hai là, hơn lúc nào hết, mỗi
cá nhân, tập thể, địa phương và cả cộng đồng dân tộc hãy cùng hành động trong
thực tế nhằm phát huy sức mạnh Nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
trong mỗi công việc, kế hoạch theo những quyết sách của Đảng, cùng phát triển
KTTT định hướng XHCN, thực hiện thắng lợi NQ ĐH XI của Đảng.
21
Củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân - nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới của Hà
Thị Khiết [60]. Bài viết đã tập trung phân tích, làm rõ một số nội dung sau: 1. Nhân
dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và những giá trị tinh thần, là người làm
nên lịch sử, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội; 2. Mối quan hệ
giữa Đảng và Nhân dân là mối quan hệ hai chiều, gắn bó, tương hỗ như một lẽ tự
nhiên; 3. Khi đã trở thành đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân
trước hết và chủ yếu thể hiện ở mối quan hệ giữa chính quyền với Nhân dân; 4. Mối
quan hệ giữa Đảng và Nhân dân còn được thể hiện ở mối quan hệ giữa MTTQ Việt
Nam và các đoàn thể với nhân dân; 5. Quan tâm chăm lo đến lợi ích thiết thực của
Nhân dân làm cho mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân ngày càng gắn bó, phong
trào quần chúng phát triển, HTCT không ngừng được củng cố, vững mạnh; 6. Phải
dựa vào dân để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh; 7. Nâng cao chất
lượng và hiệu quả CTDV để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng - vấn đề mấu chốt để tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với Nhân dân.
Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân - Đạo lý, trách nhiệm và niềm tin của
Nguyễn Trọng Phúc [105]. Trên cơ sở phân tích những tư tưởng của Hồ Chí Minh về
dân vận, gắn liền với quán triệt tinh thần NQ TW 4 khóa XI, tác giả tập trung đề xuất
các giải pháp đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên: một là, thực hành dân chủ rộng rãi, đưa mọi
vấn đề ra bàn bạc với dân, hỏi ý kiến Nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực
tiếp tới lợi ích và cuộc sống của Nhân dân, trước khi đưa ra quyết định trong chính
sách, pháp luật và những chủ trương, biện pháp cụ thể; hai là, trong quá trình thực
hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà tổ chức đảng, chính
quyền hay cá nhân cán bộ, đảng viên phụ trách mắc khuyết điểm, có việc làm không
đúng, tổn hại tới lợi ích chính đáng và cuộc sống của Nhân dân thì công khai tự phê
bình, nhận lỗi trước dân và cùng với Nhân dân tìm cách sửa chữa; ba là, toàn Đảng
và cả HTCT chăm lo CTDV, tạo nên sự gắn bó đoàn kết, đồng thuận trong xã hội.
Truyền thống và giá trị của Đảng nhìn từ mối quan hệ giữa Đảng với Dân
22
của Hoàng Chí Bảo [14]. Khai thác dưới góc nhìn lịch sử, bài viết đã phân tích
làm rõ trong lịch sử quang vinh của Đảng, cần phải nhấn mạnh tới năm điểm nổi
bật trong lịch sử Đảng, đã bao quát lịch sử - lý luận - thực tiễn về mối quan hệ
giữa Đảng với dân, là những kinh nghiệm và bài học vô giá cần được kế thừa và
phát huy để CTDV của Đảng và xây dựng, chỉnh đốn Đảng trước yêu cầu mới,
trong tình hình mới đạt được một sự phát triển mới về chất.
Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong xây dựng nông thôn
mới - nhìn từ kinh nghiệm của Đảng bộ huyện Sóc Sơn của Ban Tuyên giáo huyện
ủy Sóc Sơn [13]. Thực hiện NQ số 26 - NQ/TW ngày 5-8-2008 của BCHTW khóa
X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, phong trào xây dựng nông thôn mới ở
Sóc Sơn đã đạt những thành quả quan trọng. Qua xây dựng nông thôn mới ở Sóc
Sơn, mối quan hệ giữa tổ chức đảng với nhân dân đã được củng cố ngày càng bền
chặt, thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau: 1. Xây dựng TCCSĐ vững mạnh, là
cơ sở để tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân xây dựng nông thôn
mới; 2. Xây dựng kế hoạch, chương trình xây dựng nông thôn mới phải đúng ý dân,
xuất phát từ tâm nguyện của dân, đặt lợi ích của dân lên trên hết; 3. Chú trọng phát
huy sức dân trong xây dựng nông thôn mới; 4. Phát huy dân chủ ở cơ sở nông thôn
hướng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng nông thôn mới.
Xa dân - một biểu hiện của suy thoái đạo đức và giải pháp khắc phục của Đỗ
Thanh Hải [48]. Bài viết đã chỉ ra biểu hiện của bệnh xa dân, nguyên nhân, hậu quả
của nó, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng xa dân: một là, nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên về tư cách đạo đức người cán bộ cách mạng theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh; hai là, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình nhằm phát
hiện, ngăn ngừa mọi biểu hiện xa dân trong các cơ quan, tổ chức; ba là, tiếp tục thực
hiện cải cách hành chính (CCHC) công; bốn là, tăng cường vai trò giám sát và phản
biện xã hội của Nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy công quyền.
Tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh của Lê Hữu Nghĩa [94]. Để xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, nhiệm vụ cấp bách và cơ bản là phải củng cố và tăng cường mối liên hệ máu
thịt giữa Đảng với Nhân dân, củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân đối với
23
Đảng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhân dân
trong công tác xây dựng Đảng. Từ sự phân tích những ưu điểm và hạn chế trong
phát huy vai trò của Nhân dân trong xây dựng Đảng và Nhà nước, tác giả đã đề xuất
một số giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò của Nhân dân trong công tác xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh: một là, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về mối liên
hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, về CTDV trong cán bộ, đảng viên, Nhân dân
và toàn bộ HTCT; hai là, thực hành dân chủ, đề cao và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân; ba là, tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các
đoàn thể chính trị-xã hội và Nhân dân; bốn là,tăng cường và đổi mới CTDV của
Đảng, Nhà nước; năm là, đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước và HTCT trong sạch, vững
mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các
chính sách, pháp luật đáp ứng nhu cầu và lợi ích chính đáng của Nhân dân.
Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh của Bùi Đình Phong [101]. Bài viết đã làm rõ quan điểm về
Đảng cầm quyền dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định: cầm
quyền vừa là vinh dự, vừa là nghĩa vụ, bổn phận của Đảng, của từng con người
gánh vác trọng trách với dân tộc. Bài viết cũng chỉ ra những hạn chế của ĐCS Việt
Nam cầm quyền trong mối quan hệ gắn bó với Nhân dân, từ đó đề xuất để tăng
cường sự gắn bó giữa Đảng với Nhân dân cần thực hiện một số nội dung sau: Thứ
nhất, Đảng phải theo đúng đường lối Nhân dân; thứ hai, NQ của Đảng phải thể hiện
được trí tuệ và lòng dân; thứ ba, chống bệnh quan liêu. Bài viết kết luận: tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân là vấn đề có ý nghĩa sống còn của
Đảng, của chế độ trong tình hình hiện nay. Phải có một nhận thức mới, hành động
thật sự, quyết liệt với tinh thần cách mạng về CTDV trong tình hình hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh: đúng và khéo. Công tác dân vận tốt sẽ tạo lòng tin của Nhân
dân đối với Đảng. Mà lòng tin của Nhân dân là chỗ dựa vững chắc nhất, thành trì
bảo vệ Đảng.
Bài viết Lòng tin của nhân dân đối với Đảng - nền tảng vững chắc cho vai
trò lãnh đạo của Đảng và thành công của cách mạng Việt Nam của Phạm Thanh Hà
24
[46] đã bước đầu nhìn nhận, đánh giá về lòng tin của Nhân dân đối với Đảng hiện
nay, chỉ ra nguyên nhân của sự suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Củng
cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng trong bối cảnh hiện nay không chỉ là một
nhiệm vụ cấp bách mà còn là sự sống còn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng. Nếu
không ngăn chặn được sự suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, thì đến
một lúc nào đó Nhân dân sẽ hoàn toàn mất niềm tin vào Đảng. Sự suy giảm lòng tin
của Nhân dân đối với Đảng là mất mát lớn nhất của Đảng. Để đẩy mạnh hơn nữa
việc củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, cần có nhiều việc làm cụ thể, thực
chất hơn.
Bài viết Nghị quyết 25 (khóa XI) và vấn đề tăng cường mối quan hệ gắn bó
máu thịt Đảng - Dân hiện nay của Hoàng Chí Bảo [15] đã chỉ rõ những vấn đề nổi
bật trong NQ/TW số 25 khóa XI về CTDV - NQ quy tụ vào mối quan hệ Đảng -
Dân. Tác giả cũng xác định: tổ chức thực hiện NQ - cần làm ngay, giải quyết ngay
những vấn đề bức xúc, nhất là những vấn đề sau: 1. Tạo công ăn, việc làm cho
người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp; 2. Giải quyết các vấn đề xã hội
nhằm phục vụ đời sống hàng ngày và tạo cơ hội công bằng, bình đẳng trong phát
triển cho người dân, nhất là bộ phận dân cư ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; 3. Chăm lo phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân, tiết
kiệm sức dân phải là quan tâm thường trực, trách nhiệm thường xuyên của Đảng và
Nhà nước, từ TW tới địa phương, cơ sở; 4. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện NQ
TW 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, giải quyết các vấn đề cấp bách trong Đảng,
ngăn chặn và xử lý tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên.
1.2.3. Các luận án tiến sĩ
Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một vấn đề
mới, chưa có Luận án Tiến sĩ nào nghiên cứu về vấn đề này. Liên quan đến vấn đề
nghiên cứu, có thể kể đến một số Luận án Tiến sĩ chuyên ngành và liên ngành, đề
cập đến CTDV hay nghiên cứu về các giai tầng xã hội, những chính sách liên quan
đến giai cấp nông dân.
Luận án Tiến sĩ triết học của Nguyễn Đức Hướng Sự chuyển biến của giai
25
cấp nông dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [54] đã phân
tích đặc điểm và vai trò của nông dân Việt Nam; thực trạng giai cấp nông dân Việt
Nam sau những năm cải tạo XHCN; đồng thời luận án cũng đề ra những phương
hướng cơ bản và những chính sách chủ yếu đưa nông dân lên CNXH ở Việt Nam.
Luận án Tiến sĩ triết học của Bùi Thị Thanh Hương Đặc điểm và xu hướng
biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay [55] đã khái quát
quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về giai cấp nông dân;
trình bày một số đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân Việt Nam
trong quá trình đổi mới; tìm hiểu một số mâu thuẫn mới nảy sinh trong quá trình
nông dân phát triển theo định hướng XHCN. Đồng thời, tác giả đã đề xuất một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đưa giai cấp nông dân phát triển theo
định hướng XHCN.
Luận án Tiến sĩ triết học của Đỗ Thị Thanh Mai Tâm lý nông dân miền Bắc
Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường - đặc trưng và xu hướng biến đổi [80]
đã phân tích đặc trưng tâm lý nông dân truyền thống ở miền Bắc Việt Nam và
những nhân tố tác động hình thành những đặc trưng ấy; những biến đổi tâm lý và xu
hướng biến đổi tâm lý nông dân trong nền KTTT. Tác giả đưa ra một số giải pháp
nhằm khắc phục những hạn chế, tiêu cực, phát huy mặt tích cực của tâm lý nông
dân trong điều kiện KTTT.
Luận án Tiến sĩ triết học của Lê Ngọc Triết Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội
của giai cấp nông dân ở Nam Bộ Việt Nam hiện nay [128] đã phân tích lý luận và
thực trạng, xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội của giai cấp nông dân ở Nam Bộ Việt
Nam; đồng thời, đề xuất giải pháp góp phần tích cực hóa xu hướng biến đổi đó.
Luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử của Lê Kim Việt Công tác vận động nông
dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
[138] đã phân tích vai trò của nông dân Việt Nam trong lịch sử cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng cũng như sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tác giả đã đánh giá
thực trạng tình hình nông dân và công tác vận động nông dân của các tổ chức đảng
trong thời gian qua; những yêu cầu, nội dung và đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng công tác vận động nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
26
1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN SẼ TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT
1.3.1. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Các đề tài khoa học, các công trình nghiên cứu, bài viết được công bố đã
nghiên cứu về mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, về CTDV
dưới nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau, đạt được nhiều kết quả lý luận và
thực tiễn quan trọng, trong đó có thể kể đến là:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã làm rõ khái niệm Dân, mối quan hệ
giữa Đảng với Nhân dân, khái niệm CTDV, hệ thống hóa quan điểm của chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Nhân dân, về công tác vận động
quần chúng.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu, đặc biệt là kết quả nghiên cứu của các đề
tài khoa học, các bài báo khoa học đã theo sát hơi thở của cuộc sống, đánh giá sát,
đúng thực trạng mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, những biểu hiện xa dân; thực
trạng CTDV với những số liệu, dẫn chứng cụ thể, chính xác.
Thứ ba, một số công trình nghiên cứu đã chỉ ra những kinh nghiệm để tăng
cường, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, làm tốt CTDV của Đảng,
của chính quyền.
Thứ tư, mỗi công trình nghiên cứu lại khai thác dưới góc độ khác nhau và
đưa ra các giải pháp khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu chung: tăng cường
mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; tăng cường CTDV, làm tốt
CTDV, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động trong toàn
Đảng, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Thứ năm, một số công trình nghiên cứu đi sâu khai thác, đánh giá về một giai
cấp đông đảo trong xã hội Việt Nam (giai cấp nông dân), với những xu hướng biến
đổi; đưa ra các giải pháp, các chính sách bảo đảm cuộc sống cho người nông dân
Việt Nam trong tiến trình CNH, HĐH đất nước đầy khó khăn, thử thách.
Thứ sáu, các công trình nghiên cứu của các tác giả người nước ngoài và của
người Việt Nam nghiên cứu về nước ngoài (Trung Quốc, Lào, Cuba, Xingapo...)
cho thấy những chính sách, biện pháp hữu hiệu của Đảng cầm quyền tại các nước
27
này trong giải quyết những vấn đề thiết yếu cho người dân: nhà ở, việc làm, thu
nhập, phát triển kinh tế....; trong việc giữ vững niềm tin và sự ủng hộ của Nhân dân
nước sở tại. Đây có thể xem là những kinh nghiệm quý để ĐCS Việt Nam tiếp thu,
vận dụng nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân.
1.3.2. Những vấn đề luận án sẽ tập trung giải quyết
Mặc dù đã có nhiều công trình đề cập đến CTDV, mối quan hệ giữa Đảng và
Nhân dân, các chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, tuy nhiên cho
đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu việc thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Do đó, nghiên cứu sinh
chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu đáp ứng được yêu cầu về tính thời sự và đòi
hỏi của thực tiễn. Luận án sẽ tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và những điểm chủ yếu của nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Hai là, làm rõ khái niệm nguyên tắc, thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân, xác định nội dung của nguyên tắc và phương thức thực hiện
nguyên tắc.
Ba là, phân tích, đánh giá đúng thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
cần giải quyết.
Bốn là, nghiên cứu đưa ra những dự báo về các nhân tố tác động đến việc
thực hiện nguyên tắc; xác định phương hướng, yêu cầu để thực hiện tốt nguyên tắc;
đồng thời đề xuất các giải pháp khả thi để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân trong thời gian tới.
28
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG
GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT
THIẾT VỚI NHÂN DÂN
2.1.1. Quan niệm về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân và
sự hình thành, phát triển của nguyên tắc
2.1.1. Quan niệm về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: nguyên tắc là "điều cơ bản định ra, nhất thiết
phải tuân theo". Ví dụ: nguyên tắc sống, làm việc có nguyên tắc [130, tr.893].
Như vậy, có thể hiểu nguyên tắc là những điều quy định bắt buộc đối với cá
nhân, tổ chức phải theo để giúp cá nhân, tổ chức đó thực hiện được mục tiêu của
mình. Nguyên tắc do chủ quan của con người, tổ chức đề ra nhằm bảo vệ sự tồn tại
và bảo đảm cho thành công của mình; tạo sự thống nhất tổ chức, hoạt động trong tổ
chức. Nguyên tắc bảo vệ lợi ích của con người, tổ chức đặt ra nguyên tắc.
Nguyên tắc có các tính chất cơ bản: tính khái quát, tính bắt buộc, tính lịch sử,
tính phổ biến. Thứ nhất, không phải mọi điều quy định đều là nguyên tắc mà chỉ
những quy định có tính khái quát cao mới được coi là nguyên tắc. Chính vì vậy
nguyên tắc thường trừu tượng, nên cần cụ thể hóa thành các quy định, nội dung để
thực hiện. Thứ hai, đã là nguyên tắc thì có tính bắt buộc phải tuân theo, ai làm trái sẽ
bị trừng phạt; đồng thời, nguyên tắc là để định hướng cho hoạt động của con người,
của tổ chức nhằm đạt tới mục tiêu của mình do đó phải kiên định, không được tùy tiện
thay đổi. Khi bàn về vấn đề sách lược, theo VI.Lênin, C.Mác đã căn dặn: "... nếu thực
sự cần phải liên hợp thì cứ ký kết những thỏa hiệp nhằm đạt được mục tiêu thực tiễn
của phong trào, nhưng chớ có buôn bán nguyên tắc, chớ có nhân nhượng về lý luận".
[64, tr.30]. Thứ ba, nguyên tắc có tính lịch sử vì do con người bị giới hạn bởi điều kiện
lịch sử đặt ra, do đó nguyên tắc có thể được phát triển cho phù hợp nhận thức mới, điều
kiện khách quan mới; đồng thời, nội hàm của nguyên tắc không phải "nhất thành bất
biến" mà có thể điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Thứ tư, nguyên tắc
có tính phổ biến vì nó bắt buộc đối với mọi thành viên và áp dụng cho mọi hoạt
động có liên quan của tổ chức đã đặt ra nó.
29
Nguyên tắc khác với nguyên lý và quy luật nhưng có mối quan hệ với nhau.
Nguyên tắc do con người, do tổ chức đặt ra trên cơ sở nhận thức được quy luật
khách quan. Nguyên lý là những luận điểm cơ bản của một học thuyết. Quy luật là
"mối liên hệ bản chất ổn định, được lặp đi lặp lại giữa các hiện tượng trong tự nhiên
và xã hội" [130; tr.1046]. "Sách tra cứu các mục từ về tổ chức" định nghĩa "quy
luật" là thuật ngữ chỉ các mối liên hệ và sự vận động khách quan, tất yếu, bản chất,
phổ biến, được lặp đi lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng. Có nhiều loại quy luật.
Người ta có thể phân ra các loại quy luật: quy luật riêng, quy luật chung, quy luật
của tự nhiên, quy luật xã hội và tư duy, quy luật giá trị, quy luật cung cầu… Chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng quy luật tồn tại một cách khách quan,
độc lập với ý thức con người. Con người có thể nhận thức được các quy luật và vận
dụng chúng nhằm phục vụ cho mục đích của mình, nhưng con người không thể
sáng tạo ra quy luật và cũng không thể xóa bỏ được các quy luật [110, tr.569]. Quy
luật là mối liên hệ bên trong cơ bản của các hiện tượng, chi phối sự phát triển tất
yếu của các hiện tượng ấy. Khác với nguyên tắc, quy luật là cái khách quan, không
phụ thuộc vào cái chủ quan. Quy luật biểu hiện một trình tự nhất định của mối liên
hệ nhân quả, tất yếu và ổn định, giữa các hiện tượng hoặc các đặc tính của đối
tượng vật chất, biểu hiện của những quan hệ cơ bản được lặp đi lặp lại trong đó sự
biến đổi những hiện tượng này gây nên sự biến đổi những hiện tượng khác một cách
hoàn toàn xác định. Khái niệm quy luật gần với khái niệm bản chất. Có ba nhóm
quy luật chính: một là, những quy luật đặc thù hoặc riêng; hai là, những quy luật
chung cho một số lớn các hiện tượng; ba là, các quy luật phổ biến.Trong xã hội,
việc thực hiện các quy luật phải có hoạt động của con người có khả năng tạo ra hay
thủ tiêu những điều kiện tác dụng của quy luật. Nhưng, đồng thời, bản thân con
người không sáng tạo ra quy luật mà chỉ có thể hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác
dụng của quy luật phù hợp với nhu cầu và lợi ích của mình. Còn bản thân quy luật
thì tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người với tính cách là
biểu hiện của những quan hệ bên trong, cơ bản, tất yếu giữa những đặc tính của sự
vật hoặc giữa những xu thế phát triển khác nhau.
Tuy nguyên tắc là cái chủ quan nhưng nguyên tắc phải là kết quả của suy
nghĩ có lý tính phù hợp với cái khách quan, phải trên cơ sở khách quan. Nguyên tắc
30
gần với nguyên lý, nó chỉ có giá trị khi phù hợp với thực tiễn, do đó nó ổn định
tương đối, nó không phải là cái nhất thành bất biến, nó sẽ phải thay đổi khi thế giới
khách quan đã biến đổi. Ph.Ăngghen cho rằng nguyên lý, nguyên tắc phải là kết quả
cuối cùng của sự nghiên cứu, nó không phải là cái chủ quan phi lý tính, phi thực
tiễn được con người đề ra buộc thế giới khách quan (con người, tổ chức, tự nhiên)
phải khuôn theo, như kiểu gọt chân cho vừa giày. Ph.Ăngghen viết: nguyên lý
"được rút ra từ giới tự nhiên và lịch sử loài người; không phải giới tự nhiên và loài
người phải phù hợp với nguyên lý, mà trái lại nguyên lý chỉ đúng trong chừng mực
chúng phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử" [78, tr.53].
Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Để đảng có tổ chức
chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động phải có những nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Sự chặt chẽ về nguyên tắc là
vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch
và vững mạnh của Đảng" [31, tr.772]. Kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và của ĐCS Việt Nam cho thấy, khi nào giữ vững các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động thì đảng vững vàng, có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng
thành công và ngày càng phát triển; ngược lại, khi ĐCS nào mất cảnh giác, lơi lỏng,
xa rời các nguyên tắc tổ chức và hoạt động thì sẽ bị suy yếu, thậm chí tan vỡ.
Điều lệ ĐCS Việt Nam hiện nay quy định 5 nguyên tắc tổ chức, hoạt động
của Đảng, trong đó nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là nguyên tắc
bảo đảm cội nguồn sức mạnh vô tận của Đảng, nhưng lại là một vấn đề mới mẻ về
lý luận.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa gắn bó là "có quan hệ hoặc làm cho có quan
hệ về tinh thần, tình cảm khó tách rời" [130, tr.487]. Mật thiết có nghĩa là "có quan
hệ gắn bó chặt chẽ với nhau" [130, tr.801]. "Mối quan hệ gắn bó máu thịt", "mối
liên hệ mật thiết" hay sự "gắn bó mật thiết" là những cụm từ quen thuộc dùng để chỉ
mối quan hệ, sự gắn bó giữa Đảng với Nhân dân.
Có thể quan niệm Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một nguyên tắc tổ
chức, hoạt động của ĐCS Việt Nam, quy định bắt buộc mọi tổ chức đảng, đảng viên
phải liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, hướng tới phục vụ Nhân dân trong quá trình tổ
chức và hoạt động của Đảng.
31
2.1.1.2. Sự hình thành, phát triển của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày thành đến nay, dù trải qua bao biến thiên
của lịch sử, có những giai đoạn Đảng thay đổi tên gọi thành ĐCS Đông Dương,
Đảng Lao động Việt Nam nhưng bản chất, tôn chỉ, mục đích của Đảng không bao
giờ thay đổi: Đảng là đội tiên phong của GCCN, của nhân dân lao động và của cả
dân tộc; Đảng gắn bó và phục vụ Nhân dân.
Trong suốt 15 năm lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền (1930-1945),
Đảng luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng phải gắn bó với quần chúng,
tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng thành lực lượng cách mạng. Án NQ của
TW toàn thể ĐH nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của
Đảng 10-1930 đã nhận định: "Đ.C.S đã bắt đầu thâm nhập vào quần chúng và lãnh
đạo quần chúng" [28, tr.109]. Trên cơ sở nhìn nhận những điều sai lầm và khuyết
điểm của Đảng trong mối liên hệ với quần chúng "Chi bộ không ra sức công tác
trong quần chúng, không mật thiết liên lạc với quần chúng.... không tín nhiệm vào
sức tranh đấu của quần chúng" [28, tr.106], Đảng yêu cầu phải "Công tác trong
quần chúng" [28, tr.114], "phải làm cho càng ngày càng đông quần chúng biết mục
đích của Đảng và ý kiến của Đảng đối với các việc quan trọng xảy ra" [28, tr.116]
Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam (được ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng thông qua, tháng 2 năm 1951) đã xác định rõ mục đích và tôn chỉ của Đảng là:
"lấy việc phục vụ quần chúng nhân dân làm đường lối hoạt động của Đảng" [29,
tr.445] và yêu cầu "mỗi đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân,
hiểu rõ nguyện vọng nhu cầu của quần chúng nhân dân để kịp thời giải quyết một
cách thích đáng. Đảng phải chống bệnh cô độc, mệnh lệnh, quan liêu, cũng như bệnh
theo đuôi quần chúng" [29, tr.445-446]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng (1952) mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, trong đó Đảng ta khẳng định: "Trong
giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc
là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam" [29, tr.38].
Trong điều kiện Đảng lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, lập lại hòa
bình ở miền Bắc từ năm 1954, Đảng lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc, đồng
32
thời tiếp tục lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà, Điều lệ
Đảng (do ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng thông qua) tháng 9 năm 1960,
phần Cương lĩnh chung đã khẳng định: "Đảng Lao động Việt Nam đi đường lối
quần chúng trong mọi hoạt động" [30, tr.780]. Đảng xác định:
"mục đích của Đảng không có gì khác là phục vụ lợi ích của giai cấp
công nhân và của quần chúng nhân dân và vì cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân do Đảng lãnh đạo, cho nên Đảng và mỗi đảng viên
phải quan tâm đến đời sống của quần chúng, phải học hỏi quần chúng,
liên hệ chặt chẽ với quần chúng, hòa mình với quần chúng, tin và dựa
vào quần chúng, không thể cô độc, tách rời khỏi quần chúng. Đảng phải
mau lẹ và thường xuyên thu thập những nguyện vọng, ý kiến và kinh
nghiệm của quần chúng để đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn và phát
động quần chúng ra sức thực hiện. Bởi vậy, một mặt Đảng phải chống
theo đuôi quần chúng, mặt khác phải tích cực chống quan liêu, mệnh
lệnh, bao biện làm thay là những biểu hiện xa rời quần chúng, nhất là
trong hoàn cảnh Đảng lãnh đạo chính quyền" [30, tr.780-781].
Đến ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) - một ĐH mang đậm
hào quang của đại thắng Mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, ĐCS Việt Nam đã bổ sung vào phần mở đầu của Điều lệ Đảng nội dung:
ĐCS Việt Nam "xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, phát huy mọi khả
năng sáng tạo của giai cấp công nhân và nhân dân lao động" [36]. Đại hội quyết
định đổi tên Đảng thành ĐCS Việt Nam, đồng thời khẳng định: "Đảng cộng sản
Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong, bộ tham mưu
chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả
dân tộc; đồng thời Đảng làm tròn nghĩa vụ của mình đối với phong trào cộng sản
quốc tế" [31, tr.842]
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, thứ VI của Đảng vẫn giữ nguyên nội
dung ĐCS Việt Nam xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng như ĐH IV của
Đảng đã nêu ra. Điều quan trọng là ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 -
ĐH đề ra công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm,
33
trong đó bài học kinh nghiệm thứ nhất là "trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động" [32, tr.362].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), trong Điều lệ Đảng ghi "Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ và chịu sự giám sát của
nhân dân, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng" [37]. Đại
hội VIII, ĐH IX của Đảng giữ nguyên quan điểm như ĐH VII và thêm cụm từ "dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp
cách mạng" [25, tr.6].
Như vậy, trải qua các thời kỳ phát triển của Đảng, việc xây dựng mối liên hệ,
gắn bó với Nhân dân luôn được ĐCS Việt Nam coi trọng. Đảng thường xuyên
khẳng định Đảng cần liên hệ hay gắn bó mật thiết với Nhân dân, coi đây là cội
nguồn sức mạnh của Đảng, nhân tố làm nên thắng lợi của Đảng, của sự nghiệp cách
mạng. Tuy nhiên, đến ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), trước yêu cầu của
tình hình, nhiệm vụ của Đảng trong thời kỳ mới, ĐCS Việt Nam chính thức nâng
vấn đề này lên thành nguyên tắc và ghi vào trong Điều lệ Đảng: Đảng phải "giữ mối
liên hệ mật thiết với nhân dân" [40, tr.4]. Đây thực sự là một bước ngoặt, đánh dấu
nhận thức mới của Đảng đối với mối quan hệ Đảng với Nhân dân trong tình hình
mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng sửa lại trong Điều lệ Đảng là
Đảng "gắn bó mật thiết với nhân dân" [41], tiếp tục khẳng định đây là một trong 5
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng (cùng với nguyên tắc tập trung dân chủ,
đoàn kết thống nhất, tự phê bình và phê bình, Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật).
2.1.2. Cơ sở lý luận, thực tiễn của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân
2.1.2.1. Vai trò của Nhân dân trong lịch sử và sự gắn bó tự nhiên giữa
Đảng với giai cấp công nhân, nhân dân lao động
Khái niệm nhân dân được Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: là "đông đảo những
người dân, thuộc mọi tầng lớp, đang sống trong một khu vực nhất định [130, tr.913].
Quần chúng là khái niệm thường dùng để chỉ số lượng đông đảo người trong
xã hội, bao gồm những thành phần người và các tầng lớp khác nhau. Quần chúng là
34
tất cả nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ trong xã hội và chính họ thông
qua những hoạt động của mình làm lịch sử biến đổi. Trong xã hội có giai cấp bóc
lột, quần chúng là số đông và là giai cấp bị trị, còn giai cấp thống trị chỉ là thiểu số.
Quần chúng còn được hiểu là người ngoài Đảng (trong mối quan hệ giữa
đảng viên với quần chúng, ví dụ: bồi dưỡng quần chúng ưu tú để kết nạp vào Đảng).
Hồ Chí Minh quan niệm quần chúng rất rộng lớn, bao gồm cả dân tộc Việt
Nam, là đồng bào Việt Nam, gồm các giai cấp, các tầng lớp, các lứa tuổi, các dân
tộc, các tôn giáo... Nhưng, khi xem xét quần chúng ở góc độ là chủ thể cách mạng
và lực lượng cách mạng thì Người lại cho rằng, quần chúng cách mệnh là công -
nông, còn học trò, nhà buôn, điền chủ... là bầu bạn cách mệnh của công - nông.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị (1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khái niệm
"nhân dân" và thêm vào đó là khái niệm "quốc dân":
"nhân dân và quốc dân khác nhau. Nhân dân là bốn giai cấp công, nông,
tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng
của quốc dân. Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc
dân. Nhưng chúng không được ở trong địa vị nhân dân, không được hưởng
quyền lợi như nhân dân. Chúng không có quyền tuyển cử, ứng cử; không có
quyền tổ chức tuyên truyền.. Song chúng cần phải làm tròn nghĩa vụ, như
phục tùng trật tự, tuân theo pháp luật của nhân dân" [87, tr.219]
Nội hàm khái niệm "nhân dân" cũng được ĐCS Việt Nam chỉ rõ trong khi xác
định lực lượng cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta: "Đó là công nhân, nông dân,
tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, thứ đến tư sản dân tộc; ngoài ra là những
thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những tầng lớp, giai cấp và phần tử đó hợp
thành nhân dân mà công nông là nền tảng." [92, tr.81]. Ngoài việc xác định lực lượng
cách mạng, quan điểm trên đã chỉ ra tiêu chí rất rõ ràng để thẩm định những ai thuộc
nội hàm "nhân dân", những ai không thuộc nội hàm trên thì không còn là "nhân dân"
của nước Việt Nam nữa, mà họ chính là đối tượng của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, nội hàm "nhân dân" theo quan điểm của ĐCS Việt Nam được mở
rộng hơn. Đảng ta sử dụng khái niệm "cộng đồng các dân tộc Việt Nam" dùng để
chỉ tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam và một bộ phận người Việt
Nam ở nước ngoài. Xác định đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
35
GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần
giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc;
đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn
kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội
Như vậy, khái niệm Nhân dân được đề cập trong luận án là đông đảo những
người dân Việt Nam, thuộc mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo đang sống ở
trong nước và ở nước ngoài có cùng chung lợi ích căn bản tham gia thực hiện đường
lối của ĐCS Việt Nam.
Đảng là một tổ chức nhưng đảng viên của Đảng cũng là công dân, nên cũng
từ Nhân dân mà ra, cũng trong Nhân dân. Đảng là một thành tố, bộ phận của HTCT,
một tổ chức thành viên của MTTQ, nên cũng là một bộ phận của xã hội. Do đó,
Đảng gắn bó với Nhân dân là sự gắn bó giữa bộ phận (lãnh đạo) với toàn thể.
Nhân dân có vai trò to lớn trong lịch sử, quyết định vận mệnh của chế độ,
quốc gia, dân tộc. Trải suốt chiều dài lịch sử của đất nước, nghiên cứu, đúc rút các
tư tưởng, quan điểm từ thời phong kiến Việt Nam đến nay, theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và ĐCS Việt Nam, có thể nhận thấy
Nhân dân có vai trò hết sức to lớn, thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là, Nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử, từ lĩnh vực sản
xuất vật chất đến lĩnh vực văn hoá tinh thần.
Lịch sử loài người cho thấy, quần chúng nhân dân là chủ thể tạo ra mọi của
cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, là lực lượng sáng tạo ra
các giá trị vật chất, tinh thần của xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã
khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Chính quần chúng là
người làm nên lịch sử. Do đó, các chính đảng nói chung, các ĐCS nói riêng phải
biết dựa vào sức mạnh của quần chúng, phải biết tập hợp, lãnh đạo quần chúng.
Ngay trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen (1843),
36
C. Mác viết: "Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của
nhà vua, mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền của nhân dân...;
không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước"
[75, tr.347, 350]. Trong tác phẩm Gia đình thần thánh (1844), C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng "Hoạt động lịch sử càng lớn lao thì do đó, quần chúng, mà
hoạt động lịch sử đó là sự nghiệp của mình, cũng sẽ lớn lên theo" [76, tr.123]. Hoạt
động thực tiễn của quần chúng là cái gốc, là nguồn vô tận cho văn học nghệ thuật
sáng tạo, đồng thời quần chúng nhân dân còn là người thưởng thức, phê phán, kiểm
nghiệm các giá trị đó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng: Xét đến cùng thì lực lượng sản xuất là
cái quyết định sự biến đổi lịch sử, sự chuyển biến cách mạng xã hội, trong đó Nhân
dân là lực lượng sản xuất cơ bản nhất. Chính Nhân dân lao động là người sáng tạo
ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội.
Hai là, Nhân dân là lực lượng chủ yếu của m i cuộc cách mạng, đóng vai
trò quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng.
Lịch sử phát triển loài người gắn liền với các cuộc cách mạng: cách mạng dân
chủ tư sản giải phóng giai cấp nông dân khỏi ách thống trị của chế độ phong kiến, thiết
lập chế độ Tư bản; cách mạng vô sản giải phóng GCCN và nhân dân lao động khỏi sự
bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn - xã hội XHCN.
Trong các cuộc cách mạng đó, Nhân dân là lực lượng chủ yếu của mỗi cuộc cách
mạng, có vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng. Cách mạng có thành công hay
không phụ thuộc rất lớn vào sự đồng tình, ủng hộ, góp sức của Nhân dân.
Mục tiêu của cách mạng vô sản là giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Lực lượng để tiến hành cách mạng vô sản là quần chúng nhân dân. Sức mạnh của
quần chúng sẽ được tăng lên gấp nhiều lần mà không kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi
mỗi khi họ được giác ngộ, được tổ chức lại thành đội quân cách mạng thực sự.
Nghiên cứu lịch sử đấu tranh giai cấp từ năm 1848, đặc biệt là thời kỳ công
xã Pari và phong trào đấu tranh của công nhân cho CNXH vào những năm cuối thế
kỷ XIX, trong lời nói đầu tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ năm 1848 đến
năm 1850, C.Mác viết:
37
"Đã qua rồi, thời kỳ cuộc đột kích, thời kỳ những cuộc cách mạng do
những nhóm thiểu số tự giác cầm đầu, những quần chúng không tự giác
tiến hành. Ở nơi nào vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế độ xã hội,
thì bản thân quần chúng phải tham gia công cuộc cải tạo ấy, phải tự mình
biết rõ vì sao phải tiến hành cuộc đấu tranh, vì sao phải đổ máu và hy
sinh tính mạng" [79, tr.175].
Các cuộc cách mạng xã hội không phải do những cá nhân, những nhóm
người nhỏ bé cầm đầu, những quần chúng không tự giác tiến hành mà những cuộc
cách mạng này muốn thắng lợi phải do các chính đảng có lý luận tiên phong lãnh
đạo. Các đảng đó phải biết thuyết phục, giác ngộ, tập hợp đông đảo quần chúng,
huấn luyện quần chúng sẵn sàng đấu tranh giành độc lập.
Khẳng định vai trò trung tâm, sứ mệnh lịch sử của GCCN trong các giai đoạn
của cách mạng, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã khẳng định:
"giai cấp này không những chỉ đánh đổ bọn bóc lột và đè bẹp sự kháng
cự của chúng mà còn xây dựng những quan hệ xã hội mới cao hơn, một
kỷ luật xã hội cao hơn, và đoàn kết cao hơn: kỷ luật của những người lao
động tự giác và đoàn kết không còn bị một thử thách nào đè nén nữa và
không biết đến một quyền lực nào khác ngoài quyền lực của tổ chức của
chính bản thân họ, của đội tiên phong giác ngộ hơn, gan dạ hơn, cố kết
hơn, cách mạng và kiên quyết hơn của chính bản thân họ" [68, tr.20]
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vai trò, sức mạnh to lớn của Nhân dân đã
sớm được ông cha ta khẳng định: "Khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, đó
là thượng sách giữ nước". Nguyễn Trãi đã đúc kết: "Chở thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Vận dụng và
phát triển sáng tạo quan điểm của C. Mác - Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, kế thừa những
nhân tố tinh hoa của dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò to
lớn của Nhân dân. Người cho rằng Nhân dân là quý nhất, là quan trọng nhất, quyền
lực của Nhân dân là tối thượng: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" [88,
tr.276]. Dân là gốc của nước, của cách mạng "Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng
làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên" [85, tr.293].
38
Ba là, cách mạng XHCN là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
Cách mạng XHCN là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, có nhiều khó khăn, gian
khổ, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh trí lực của toàn Đảng, toàn dân. Sự nghiệp đó
không phải là của riêng những người cộng sản. Vì những người cộng sản chỉ như
"những giọt nước trong đại dương" Nhân dân. Nếu chỉ dựa vào sức mạnh của mình,
giai cấp vô sản sẽ không thể giành thắng lợi, sự nghiệp xây dựng CNXH, chủ nghĩa
cộng sản sẽ không trở thành hiện thực. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, V.I.Lênin cho
rằng, "Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban
xuống...; chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng
nhân dân" [67, tr.64].
Trong bài báo Dân vận đăng trên báo Sự thật số 120, ngày 15-10-1949, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn của Nhân dân đối với sự nghiệp cách
mạng do Đảng dẫn đường: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/ Chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra/Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức
nên/Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [85, tr.698-699].
Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân" [85, tr.698]. "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân
vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công" [85, tr.700].
Quần chúng có vai trò nền tảng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng: "Gốc có
vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Đúc rút kinh nghiệm mấy
chục năm lãnh đạo cách mạng, trong bản Di chúc, Hồ Chí Minh viết: "Nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho
nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta
hăng hái đấu tranh đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác" [92, tr.510].
Bốn là, vai trò làm chủ của Nhân dân
Ở nước ta hiện nay, quyền lực của Nhân dân đứng ở vị trí tối thượng trong hệ
thống quyền lực của đất nước. Trong 4 bản Hiến pháp của nước ta từ năm 1945 đến
nay đều thừa nhận: tất cả mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân. Tất cả quyền lực
trong xã hội Việt Nam đều được cấu tạo trên cơ sở quyền lực của Nhân dân và đều
xuất phát từ vị trí, vai trò của Nhân dân.
39
Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, nhưng
Nhân dân cần Đảng dẫn đường. Dân có quyền nhưng phải có nghĩa vụ và trách nhiệm
đối với đất nước. Công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của Nhân
dân. Dân có trách nhiệm làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân.
Ngày nay, Đảng ta nhận thức rõ vai trò làm chủ của Nhân dân đối với sự
phát triển đất nước thể hiện ở cả 4 khâu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Để phát huy vai trò của Nhân dân, Đảng đã ban hành QCDC ở cơ sở, Nhà nước thể
chế thành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Vai trò của Nhân dân
sẽ được phát huy cao độ nếu Đảng thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân.
2.1.2.2. Bản chất và mục đích của Đảng
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân xuất phát từ bản chất và
mục đích của Đảng. Điều lệ Đảng xác định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc" [27, tr.88].
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của GCCN, mang bản chất
GCCN, nên phải gắn bó với Nhân dân mà hạt nhân lãnh đạo là GCCN. Trong tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết: "Giai cấp
vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai
cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc" [77, tr.623-624]. Trong quá trình phát
triển dù tên gọi thế nào (ĐCS hay Đảng Lao động) thì Đảng ta luôn mang bản chất
GCCN. Bản chất GCCN của Đảng thể hiện ở chỗ: Mục tiêu, lý tưởng của Đảng là
CNXH và chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung
dân chủ; Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng, lấy tự phê bình và phê bình làm
quy luật phát triển; Đảng tuân theo chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa
quốc tế của GCCN. Đó là những điều có tính chất nguyên tắc thể hiện bản chất
GCCN, không lúc nào được hoài nghi, dao động.
Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam nên tất yếu Đảng càng phải liên hệ mật thiết và bảo vệ lợi
40
ích của nhân dân lao động. Điều này phản ánh quy luật đặc thù về sự ra đời của
ĐCS Việt Nam ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, GCCN
còn nhỏ bé. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Tại ĐH đại biểu
toàn quốc lần thứ II (năm 1951), Báo cáo chính trị của Đảng ghi rõ: "Trong giai
đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là
một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam" [29, tr.38]. Từ sau
ĐH II (từ năm 1951 cho đến năm 1961), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng
định và phát triển tư tưởng của ĐH II về bản chất của Đảng. Năm 1953, trong sách
Thường thức chính trị, Người viết: "Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là
đảng của toàn dân" [87, tr.231]. Năm 1957, nói chuyện ở Trường cán bộ công
đoàn, Người nhấn mạnh: "Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời
là đội tiên phong của dân tộc" [88, tr.295]. Năm 1961, nói chuyện với cán bộ, đảng
viên hoạt động lâu năm, Người lại nói: "Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là
của dân tộc" [90, tr.467].
Nghị quyết ĐH VII của Đảng đã chỉ rõ:
"Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách
rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn
thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã mang trong mình tính
thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi
ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng
tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các
tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc" [24, tr.128]
Chúng ta đều hiểu rằng do nhu cầu của Nhân dân trong cuộc đấu tranh vì lợi
ích của chính bản thân họ nên Nhân dân cần Đảng dẫn đường. Như vậy, xét về mặt
khách quan, điều kiện ra đời và tồn tại của Đảng là do nhu cầu của xã hội, do Nhân
dân. Đảng cũng là một hiện tượng lịch sử. Nó do những hoàn cảnh lịch sử nhất định
sản sinh ra, nó bị những điều kiện cụ thể của lịch sử chế định.
Xã hội vận động, phát triển không ngừng, cũng có nghĩa là Nhân dân theo xu
thế khách quan của lịch sử cũng không ngừng vận động phát triển, tiến bộ… đòi hỏi
41
Đảng với tư cách là đội tiên phong chính trị của Nhân dân, càng phải biết gắn bó
mật thiết với Nhân dân mà tiến lên cùng với Nhân dân, hơn thế nữa, Đảng còn phải
gắn bó mật thiết với Nhân dân để thâu thái được những sáng tạo của những phần tử
ưu tú, những nhân tố mới đang nảy nở mà làm giàu cho trí tuệ và làm hùng mạnh
thêm lực lượng của bản thân Đảng, giúp cho Đảng vượt lên được chính bản thân
mình, để đủ khả năng dẫn dắt Nhân dân với tư cách là một đội tiên phong.
Đảng ra đời, tồn tại và phát triển không chỉ vì lợi ích của GCCN mà còn là vì
lợi ích của Nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Đảng không có mục đích nào
khác ngoài mục đích phục vụ Nhân dân, phục vụ dân tộc. Khi tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ, Đảng có khẩu hiệu: "Độc lập dân tộc - người cày có ruộng". Trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, "Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc
lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột
người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản"
[41]. Mục đích đó thể hiện rõ sự thống nhất lợi ích của GGCN, nhân dân lao động
và cả dân tộc. Ngoài lợi ích của GCCN, lợi ích của Nhân dân và của toàn dân tộc,
ĐCS Việt Nam không có lợi ích nào khác.
Sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu lịch sử nghĩa là tất yếu Đảng phải là một
đội tiên phong chính trị không chỉ của riêng giai cấp tiến bộ (GCCN hiện đại) mà
còn là của Nhân dân, dân tộc. Và ta cũng phải nhìn ngược lại (như kinh nghiệm lịch
sử phong trào XHCN những năm vừa qua đã cho thấy): khi Đảng không gắn bó mật
thiết với Nhân dân thì Đảng cũng không còn là đội tiên phong chính trị của Nhân
dân nữa, do đó điều kiện tồn tại của Đảng cũng không còn. Nếu khi nào đảng viên
cộng sản, nhất là những người giữ trọng trách ở trong Đảng không sống với cuộc
sống của Nhân dân, thì khi ấy Đảng đang đứng trước nguy cơ là mất ngay những
điều kiện sống của chính bản thân Đảng. Hồ Chủ tịch đã nhiều lần khẳng định:
"Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì
làm cũng không nên" [83, tr.409 - 410].
2.1.2.3.Yêu cầu của đảng cầm quyền
Ở các nước có chế độ đa đảng, một đảng chính trị nào đó trở thành đảng cầm
quyền là do đảng đó được cử tri bầu cho đại biểu của đảng chiếm đa số ghế trong
quốc hội (QH), nghị viện.
42
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân xuất phát từ yêu cầu của
đảng cầm quyền: Đảng cầm quyền muốn giữ được vị trí cầm quyền phải giữ được
sự ủng hộ của đông đảo nhân dân. Quần chúng nhân dân là đối tượng lãnh đạo của
Đảng. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của Nhân dân.
Vì thế, mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân tạo nên sức mạnh của Đảng, duy trì và
củng cố vững chắc địa vị cầm quyền của Đảng. Hồ Chí Minh nói, đảng cầm quyền
có hai cách lãnh đạo: Một là, lãnh đạo "theo cách quan liêu" thì Đảng sẽ thất bại;
hai là, lãnh đạo theo "cách quần chúng" thì nhất định Đảng sẽ thành công. Người
căn dặn: "Cán bộ lãnh đạo cần phải chống bệnh quan liêu, chống cách lãnh đạo
chung chung. Cần phải đi sâu đi sát, điều tra nghiên cứu. Cần phải khuyến khích,
thu góp, bổ sung và phổ biến rộng rãi những sáng kiến hay, những kinh nghiệm tốt
của quần chúng" [89, tr.59]; "mỗi công việc của Đảng phải giữ vững nguyên tắc và
phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng" [85, tr.249].
Đảng cầm quyền phải mang lại và chăm lo những lợi ích thiết thực của Nhân
dân; cán bộ, đảng viên phải là công bộc, là đày tớ trung thành của Nhân dân. Nhân
dân tin tưởng đi theo Đảng, vì Đảng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích chính đáng của
Nhân dân. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: "ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân
dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác" [88, tr.587]. Chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần của Nhân dân là trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước. Người căn dặn:
giành được độc lập, tự do mà Nhân dân không có cơm ăn, áo mặc thì độc lập tự do
cũng không có ý nghĩa gì. Đảng, Nhà nước phải chăm lo cho dân từ cái kim, sợi chỉ,
từ tương cà mắm muối. Nếu dân đói, dân rét, dân ốm, là Đảng và Chính phủ có lỗi.
Đảng cầm quyền, nhiệm vụ của Đảng càng to lớn hơn.
"Dân không đủ muối, Đảng phải lo. Dân không có gạo ăn đủ no, dân
không có vải mặc đủ ấm, Đảng phải lo. Các cháu bé không có trường
học, Đảng phải lo. Các cháu mắt choẹt, da bủng. Tất cả mọi việc Đảng
phải lo. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh
giành thống nhất nước nhà, Đảng phải lo. Ngay đến cả tương, cà, mắm,
muối của dân, Đảng đều phải lo" [90, tr.463].
Trước lúc ra đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn: "Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
43
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" [92, tr.510].
Khi trở thành đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên càng phải tăng cường gắn
bó mật thiết với Nhân dân. Muốn lãnh đạo được Nhân dân, Đảng phải gần gũi, gắn
bó, tin dân, hiểu dân, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân.
Xa rời Nhân dân, Đảng sẽ mất sáng suốt, sẽ rơi vào chủ quan duy ý chí, trở thành
quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Ở hầu hết các nước, khi ĐCS có công lao to lớn
lãnh đạo Nhân dân giành được chính quyền, trở thành đảng cầm quyền thì đều đứng
trước nguy cơ "đánh mất bản thân mình", bắt nguồn từ chỗ Đảng quan liêu xa dân
và mất dần quần chúng. Đảng mất vai trò lãnh đạo xã hội, mất vị trí đảng cầm
quyền là bởi vì Đảng mất Nhân dân.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, thì việc Đảng trực tiếp lãnh đạo Nhà nước
và các tổ chức chính trị - xã hội là tất yếu. Sự lãnh đạo ấy bao gồm hầu hết các vấn
đề quan trọng nhất của đời sống nhân dân, của sự sinh tồn, hưng vong của quốc gia,
nói một cách khác là toàn bộ những vấn đề thuộc về quyền làm chủ của Nhân dân.
Đó là những vấn đề khó khăn, phức tạp, nếu không có sự đóng góp của Nhân dân
thì mọi chủ trương, quyết sách dễ rơi vào quan liêu, mệnh lệnh, xa rời thực tế. Do
đó, cần có cơ chế và phương pháp để Nhân dân góp ý xây dựng đồng thời cũng cần
có quy định chặt chẽ để tổ chức đảng và mỗi đảng viên, nhất là những đảng viên có
chức quyền biết lắng nghe ý kiến của Nhân dân.
2.1.3. Nội dung chủ yếu của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
Từ ĐH X, khi nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân chính thức
quy định trong Điều lệ Đảng, đến nay vẫn chưa có một quan niệm cũng như nội
dung tường minh về nguyên tắc này. Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, ĐCS Việt Nam và thực tiễn, có thể xác định các nội dung chủ
yếu của nguyên tắc này như sau:
2.1.3.1. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng và khả năng của Nhân dân, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ
C.Mác khẳng định: "Tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy, đều
dính liền với lợi ích của họ" [75, tr.98]. Phát triển tư tưởng của C. Mác và
Ph.Ăngghen về vấn đề lợi ích,V.I.Lênin nhấn mạnh:
44
"những lý tưởng cao cả nhất cũng không đáng một xu nhỏ, chừng nào mà
người ta không biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng đó với lợi ích của
chính ngay những người đang tham gia cuộc đấu tranh kinh tế, chừng
nào mà người ta không biết kết hợp những lý tưởng đó với những vấn đề
"chật hẹp" và nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày của giai cấp ấy, như
vấn đề "trả công lao động một cách công bằng" [71, tr.207].
Như vậy, vấn đề lợi ích là vấn đề quan tâm thiết thân của con người, là động
lực thúc đẩy phong trào cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền muốn
lãnh đạo được Nhân dân phải bảo đảm lợi ích thiết thân của Nhân dân, phải bảo vệ,
chăm lo lợi ích vật chất và tinh thần cho Nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của Nhân dân, được Nhân
dân đồng tình ủng hộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: "Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của
dân thì ắt thành. Làm trái ý của dân thì ắt bại" [90, tr.63]. Trong thực tế dù trong
chiến tranh hay hòa bình, "việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần
chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh" [86, tr.156]. Nhân dân là lực lượng
cơ bản, có sức mạnh to lớn để thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng; những sáng kiến, nguyện vọng của nhân dân là cơ sở, là nguồn gốc, là những
gợi ý để Đảng xây dựng, hoàn thiện và điều chỉnh đường lối, chính sách.
Đường lối, chính sách có nguồn gốc từ thực tiễn bảo vệ và xây dựng đất
nước. Do đó, nếu đường lối phản ánh đúng nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân
thì nó sẽ có khả năng đi vào cuộc sống và được quần chúng nhân dân hưởng ứng,
tích cực tham gia thực hiện. Nếu những chủ trương, chính sách không phản ánh,
không xuất phát từ lợi ích chính đáng của Nhân dân, hoặc đi trái nguyện vọng, lợi
ích chính đáng của Nhân dân thì khó được Nhân dân thực hiện trong thực tế, hoặc
có được thực hiện cũng tạo nên những oán thán trong Nhân dân, sẽ gây nên những
hậu quả khôn lường. Để thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
một cách triệt để, chính sách, chủ trương, văn bản pháp luật, quy định nào mà
Nhân dân cho là không đúng hoặc không phù hợp thì dứt khoát phải bàn bạc với
Nhân dân tìm cách sửa chữa, điều chỉnh để bảo đảm lợi ích hợp pháp, chính đáng
của Nhân dân.
45
2.1.3.2. Đảng thường xuyên chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của Nhân dân, bảo đảm cho Nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ
công dân, được tham gia xây dựng Đảng, xây dựng các quyết sách chính trị của
Đảng, được tự do làm ăn, được tôn trọng và bình yên trong chế độ xã hội do
Đảng lãnh đạo
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân hướng vào đối tượng chịu sự
lãnh đạo của Đảng là Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng CỐT LÕI,
XUYÊN SUỐT là ĐẢNG PHẢI NÂNG DÂN CHÚNG, tức là nâng cao cả đời sống
vật chất lẫn đời sống tinh thần của Nhân dân. Đảng thường xuyên chăm lo nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, phải làm cho Nhân dân "ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, ĐCS Việt Nam phải có
trách nhiệm phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân và đem lại lợi ích chính đáng
cho Nhân dân. Vai trò làm chủ của Nhân dân phải được phát huy, thực hiện trong
tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Lợi ích
chính đáng của Nhân dân phải được Đảng tôn trọng và bảo vệ, đời sống vật chất và
tinh thần của Nhân dân được nâng cao như trong "Di chúc" Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã căn dặn: "Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có
Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng/ Đảng cần phải
có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao
đời sống của nhân dân [92, tr.511] .
Trong nền KTTT định hướng XHCN, Nhân dân phải được tự do làm ăn, tự
do phát triển, kinh doanh ngành nghề phù hợp với năng lực, sở trường của họ. Nhân
dân được tự do làm những việc mà pháp luật không cấm. Một xã hội chỉ thực sự
dân chủ khi Nhân dân được tôn trọng, được bình yên trong chế độ xã hội do Đảng
lãnh đạo. Một nền chính trị ổn định, không có những bất ổn là môi trường lý tưởng
để Nhân dân yên tâm làm ăn, sinh sống và phát triển, cống hiến tài năng, tâm huyết
cho đất nước.
Trong nền chính trị hiện đại, bất cứ đảng chính trị cầm quyền nào muốn giữ
vững vị thế cầm quyền, cũng phải xây dựng xã hội dân chủ. Vấn đề là thực hiện dân
chủ như thế nào, xã hội có thật sự dân chủ hay chỉ là dân chủ hình thức, dân chủ
theo lối khẩu hiệu chung chung, mị dân, phi thực chất?
46
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, đại diện cho tiếng
nói, lợi ích của Nhân dân. Đảng lãnh đạo, xây dựng đất nước, xây dựng xã hội thật
sự dân chủ. Sống trong xã hội do ĐCS Việt Nam lãnh đạo, nhân dân Việt Nam
được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân, được tham gia vào các quyết
sách chính trị của Đảng. Quyền và nghĩa vụ công dân được pháp luật quy định, có
cán cân công lý để thưởng, phạt nghiêm minh. Nền dân chủ đích thực mà loài người
hướng tới là dân chủ chính trị, con người được tự do tham gia vào đời sống chính trị
của đất nước, được tham gia vào các quyết sách chính trị của Đảng. Nhân dân là
người trực tiếp chịu ảnh hưởng, tác động bởi các quyết sách chính trị của Đảng. Do
đó, Nhân dân phải là người tham gia vào các quyết sách đó, có ý kiến xác đáng, góp
phần làm cho quyết sách chính trị của Đảng đúng đắn, sáng suốt, được Nhân dân
đồng tình, ủng hộ, không gặp phải sự phản đối của Nhân dân.
2.1.3.3. Nhà nước do Đảng lãnh đạo thật sự là Nhà nước của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân
Nhà nước của Nhân dân là Nhà nước trong đó dân là chủ, dân làm chủ; dân
là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước. Nhà nước của Nhân dân, có nghĩa là Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà
nước, còn cán bộ, công chức, viên chức nhà nước chỉ là người được Nhân dân ủy
quyền để thực thi quyền lực nhà nước, nói như Hồ Chí Minh cán bộ, công chức nhà
nước là "công bộc", là "đày tớ" của Nhân dân, nên phải hết lòng, hết sức phục vụ
Nhân dân.
Nhà nước do Nhân dân có nghĩa Nhân dân là người thành lập lên bộ máy
Nhà nước, là người tổ chức lên cơ quan nhà nước từ TW đến cơ sở thông qua chế
độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp lựa chọn những người đủ tiêu chuẩn bầu vào cơ
quan nhà nước. Nhân dân có quyền thực hiện chế độ bãi miễn đại biểu, bãi miễn các
cơ quan nhà nước nếu các đại biểu đó, các cơ quan nhà nước không còn phù hợp
với Nhân dân, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân. Nhà nước do Nhân dân, nghĩa là
Nhân dân có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ, sức người, sức của để tổ chức,
xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước. Nhà nước do Nhân dân còn thể hiện ở vai
trò của Nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát,
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, các đại biểu dân cử.
47
Nhà nước vì Nhân dân là Nhà nước phục vụ Nhân dân, đem lại lợi ích cho
Nhân dân. Nhà nước được tổ chức và hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là không
ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, với
phương châm "việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm/ Việc gì có hại cho dân thì
phải hết sức tránh" như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Nhà nước, Chính phủ
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, nhưng không phải làm thay
Nhân dân mà là hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ Nhân dân để Nhân dân tự thực hiện
chăm lo đời sống cho mình, bằng chính sức dân, biết tự làm giàu chính đáng trên cơ
sở luật pháp cho phép. Đồng thời, Nhà nước phải biết kết hợp điều chỉnh các loại
lợi ích khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để bảo đảm
công bằng xã hội, để Nhà nước luôn được Nhân dân ủng hộ, phấn khởi, tin tưởng và
yêu mến gọi là Nhà nước ta - Nhà nước của chính họ, của chính Nhân dân.
Để Nhà nước thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, công khai,
minh bạch trong các quyết định về công tác cán bộ, công tác tổ chức. Đội ngũ cán bộ,
công chức, nhà nước phải được lựa chọn, bố trí, sử dụng đúng người, đúng việc, phải
đủ đức, đủ tài, "vừa hồng, vừa chuyên". Nhà nước phải thực sự là bộ máy liêm khiết,
trong sạch, phải xóa bỏ tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, xóa bỏ đặc
quyền, đặc lợi. Một nhà nước vì Nhân dân khi và chỉ khi nhà nước đó là của Nhân
dân, do Nhân dân tổ chức ra, giao quyền và giám sát hoạt động của Nhà nước.
2.1.3.4. Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng được hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, điều
lệ của tổ chức; thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia
Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, xã hội đại diện cho tiếng nói, quyền lợi
của các tầng lớp nhân dân ngày càng phát huy vai trò trong đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, các tổ
chức này được hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, điều lệ của tổ chức, hình
thức hoạt động phong phú, đa dạng, do đó, tập hợp, thu hút đông đảo các tầng lớp
nhân dân tham gia. Mỗi giai cấp, tầng lớp nhân dân, bộ phận dân cư đều được tập
hợp, sinh hoạt, hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội (Công đoàn, Hội Liên
48
hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh), hay trong các tổ chức kinh tế, xã hội, xã hội nghề nghiệp phù hợp với ngành
nghề, lĩnh vực hoạt động, sở thích của họ.
2.1.3.5. Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn bó, gần gũi, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ, đảng viên "là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ,
để đặt chính sách cho đúng" [85, tr.309]. Người căn dặn: "giữ chặt mối liên hệ với
dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của
Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi" [85, tr.286]. Khi tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên của Đảng gần gũi, gắn bó, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, sẽ thấu
hiểu tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của Nhân dân dành cho Đảng, sẽ có những hành
động cách mạng thiết thực, bảo đảm lợi ích của Nhân dân, sẽ đưa ra được những
quyết định đúng đắn, tránh được những vấp váp, sai lầm. Nội dung của nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân được thực hiện thông qua tổ chức đảng, đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng để đến được với quần chúng nhân dân, để cán bộ,
đảng viên của Đảng luôn "Sống trong lòng quần chúng/ Biết tâm trạng quần chúng/
Biết tất cả/ Hiểu quần chúng/ Biết đến với quần chúng/ Giành được lòng tin tuyệt
đối của quần chúng" [71, tr.608] như lời V.I.Lênin đã căn dặn. Có gần gũi, gắn bó
với Nhân dân, "Đảng mới lắng nghe được ý kiến của nhân dân, những phê bình
đóng góp của nhân dân, thậm chí cả những chê cười oán trách của dân nữa" [98].
2.1.3.6. Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng
Khi nói đến nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cần xét đến
mối quan hệ hai chiều, biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, chi phối, ảnh hưởng
đến nhau giữa Đảng và Nhân dân. Nội dung của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân thể hiện ở nhiều nội dung, ở trách nhiệm từ phía Đảng với Nhân dân,
nhưng ở chiều ngược lại, ta cũng phải xét đến tình cảm, thái độ, trách nhiệm của
Nhân dân đối với Đảng. Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ
Đảng là một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân.
49
Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng hiện nay thể hiện trên nhiều phương
diện: thể hiện ở sự quan tâm, hưởng ứng tích cực hay không tích cực trong việc
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, NQ của Đảng; thể hiện ở tỷ lệ phiếu
bầu đại biểu QH và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp và bầu trưởng thôn, bản là
đảng viên do tổ chức đảng giới thiệu; đồng thời còn thể hiện ở tỷ lệ phiếu tín nhiệm
chủ tịch, phó chủ tịch HĐND và Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND)
xã, phường, thị trấn theo quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng còn thể hiện ở sự tích cực hay không
tích cực tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, đoàn thể ở địa
phương, đơn vị; thể hiện ở sự quan tâm, đóng góp ý kiến xây dựng các văn kiện ĐH
đảng bộ các cấp và ĐH đại biểu toàn quốc của Đảng; sự quan tâm, đóng góp ý kiến
phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng
còn thể hiện ở số lượng quần chúng ưu tú phấn đấu để đứng trong hàng ngũ của
Đảng, ở số lượng quần chúng mới được kết nạp vào Đảng; ở cơ hội được học tập,
lao động và trưởng thành của con em những người lao động bình thường trong xã
hội; thể hiện ở số lượng nhân tài, số lượng sinh viên tốt nghiệp xuất sắc được tuyển
dụng vào làm việc trong HTCT do Đảng lãnh đạo.
Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng còn phụ thuộc vào việc xử lý, khắc
phục những hạn chế, yếu kém trong Đảng, nhất là mức độ khắc phục những suy
thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, thái
độ, tác phong làm việc, ứng xử với Nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng theo NQ TW 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay". Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng sẽ bị suy giảm, tỷ lệ thuận với sự thoái
hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên, từ đó, sẽ tạo ra hố sâu ngăn cách giữa
dân với Đảng, báo động về nguy cơ tồn vong của Đảng, của chế độ. Ngược lại,
niềm tin của Nhân dân đối với Đảng sẽ được củng cố, tăng cường, tỷ lệ thuận với
sự tiền phong, gương mẫu, hết mình cống hiến, hy sinh vì lợi ích của Nhân dân, của
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan Đảng, Nhà nước
và các tổ chức khác trong HTCT các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.1.4. Vai trò của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân có vai trò to lớn không chỉ
50
đối với bản thân Đảng, mà còn có ý nghĩa, tác dụng to lớn đối với các tầng lớp nhân
dân, đối với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân do Đảng lãnh đạo. Cương lĩnh (Bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định ĐCS Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, "Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát
của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" [27, tr.89]. Gắn
bó mật thiết với Nhân dân trở thành cội nguồn sức mạnh của Đảng, là quy luật tồn
tại và phát triển của Đảng. Vai trò to lớn của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân thể hiện ở các mặt sau:
2.1.4.1. Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một trong
những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, góp phần bảo đảm cho Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu cao
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một trong những nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của ĐCS Việt Nam, đòi hỏi mỗi tổ chức đảng và cá nhân đảng viên
phải tuân thủ, thực hiện. Từ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X đến nay, Đảng ta luôn
xác định 5 nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng, gồm: tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, tự phê bình và phê bình, Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân. Như vậy, trong 5 nguyên tắc cơ bản của Đảng, 3 nguyên tắc đầu (tập trung dân
chủ, đoàn kết thống nhất, tự phê bình và phê bình) là những nguyên tắc quy định
mối quan hệ trong tổ chức, sinh hoạt và lãnh đạo Đảng, còn 2 nguyên tắc sau (Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân và Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật) là những nguyên tắc quy định mối quan hệ của Đảng với đối tượng lãnh
đạo và phục vụ của mình và cũng chính là đối tượng sinh thành, nuôi dưỡng Đảng
(tức là Đảng với Nhân dân, với xã hội); mối quan hệ với Nhà nước, với Hiến pháp
và pháp luật.
Trong mối quan hệ với Nhân dân, Đảng phải gắn bó mật thiết, tổ chức đảng,
cán bộ, đảng viên của Đảng phải trung thành, tận tâm phục vụ Nhân dân, trong suy
nghĩ, hành động của cán bộ, đảng viên luôn phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm
gốc", là "công bộc", "đày tớ" trung thành của Nhân dân, chứ không phải là "quan"
51
của Nhân dân. Sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng có được,
trước hết phải từ sự ủng hộ, góp sức của Nhân dân. Khi lòng dân yên, chính trị ổn
định. Khi lòng dân bất an, Nhân dân sẽ có những hành động phản kháng, chính trị
sẽ bất ổn, tư tưởng sẽ lung lay và hệ thống tổ chức của Đảng chắc hẳn không tránh
khỏi suy yếu. Là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng,
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân bảo đảm cho Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ được giao.
Từ thực tiễn sinh động, từ phong trào quần chúng, Đảng hoạch định, xây
dựng đường lối, chủ trương, chính sách. Những sáng kiến của quần chúng, những
đóng góp của quần chúng giúp Đảng đề ra được đường lối, chủ trương, chính sách
đúng đắn, hợp lòng dân. Khi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được ban
hành, chính Nhân dân là người thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính
sách đó. Nguồn lực để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng chính là Nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng là lực lượng tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách.
Nhân dân chính là lực lượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các chủ trương,
chính sách, pháp luật và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Chủ
trương, chính sách, pháp luật và sự lãnh đạo, quản lý đúng đắn mang lại lợi ích cho
Nhân dân và cũng là mục tiêu của cách mạng, nếu sai lầm thì có hại cho Nhân dân,
cho cách mạng. Nhưng mục tiêu, đường lối của Đảng chỉ có thể trở thành thực tiễn
trong đời sống của Nhân dân khi Đảng huy động được mọi nguồn lực trong Nhân
dân, được Nhân dân đồng tình và tự giác thực hiện. Nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân góp phần trực tiếp khơi dậy nguồn nhân lực, tài lực, vật lực, trí
lực dồi dào của Nhân dân, nhân lên thành sức mạnh để hiện thực hóa lợi ích của
Nhân dân.
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân có vai trò to lớn, góp phần
thực hiện thắng lợi đường lối dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng. Đảng có dựa vào
Nhân dân, đảng viên có tin tưởng Nhân dân, gần gũi với Nhân dân, hòa mình vào
Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, tìm hiểu những tâm tư, nguyện vọng của
Nhân dân và Nhân dân có tin yêu Đảng, đóng góp xây dựng Đảng thì mới giúp cho
52
Đảng định ra những chủ trương, chính sách, đường lối đúng đắn, hợp lòng dân.
Cách mạng thành công là do Nhân dân tin theo Đảng, mà Nhân dân tin theo sự lãnh
đạo của Đảng là vì Đảng dựa vào Nhân dân. Vì vậy, Đảng phải xây dựng, củng cố
niềm tin sâu sắc vào Nhân dân, dựa chắc vào Nhân dân, mọi việc làm của Đảng
phải xuất phát và trở về với Nhân dân.
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ, đảng viên phải kính trọng, yêu
mến, tin tưởng, học hỏi nhân dân, phải phê phán nghiêm khắc mọi biểu hiện tự cao,
tự đại, đặt mình trên Nhân dân: "Từ xưa đến nay, quần chúng không bao giờ tin cậy
và yêu mến những kẻ tự cao, tự đại, những kẻ có vẻ lãnh tụ" [84, tr.472], đồng thời
Người cảnh báo: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại,
có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu
mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"
[92, tr.557-558].
2.1.4.2. Góp phần giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân; bảo đảm
nguồn sức mạnh vô địch của Đảng
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: Đảng chỉ mạnh khi quần chúng lao động
ủng hộ chúng ta. Sức mạnh của chúng ta là ở đó. Người cộng sản chỉ là giọt nước
trong đại dương nhân dân. Nếu chỉ trông vào bàn tay của những người cộng sản để
xây dựng CNXH, đó là tư tưởng hết sức ngây thơ. Vì vậy, người cộng sản phải luôn
quan hệ mật thiết với quần chúng, trực tiếp hoạt động trong phong trào quần chúng,
đi sâu vào trong tất cả các giai cấp, tầng lớp để hướng dẫn, tuyên truyền, giáo dục,
giác ngộ họ, tổ chức quần chúng hoạt động theo đường lối của Đảng.
Kế thừa, phát triển những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin
chỉ ra rằng, chỉ có sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng thì cách mạng vô sản mới
thành công được: "Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao
động đối với đội tiền phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản thì cách mạng
vô sản không thể thực hiện được" [68, tr.251]. Chỉ có gắn bó chặt chẽ với quần
chúng nhân dân, các chính đảng mới có sức mạnh trong cuộc đấu tranh của mình:
"Chỉ có các chính đảng dựa hẳn vào những giai cấp nhất định thì mới mạnh mẽ, mới
đứng vững được trong bất cứ bước ngoặt nào của các sự kiện." [69, tr.431]. Từ thực
tiễn lịch sử, V.I. Lênin chỉ rõ: "trong chiến tranh ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn,
53
ai có nhiều nguồn lực hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn thì người
đó thu được thắng lợi" [68, tr.271].
Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản, lật đổ chế độ tư
bản, xây dựng chế độ xã hội mới (chế độ XHCN và cuối cùng là xã hội cộng sản
chủ nghĩa), các ĐCS phải liên hệ, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, phát
huy sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân đứng
lên làm cách mạng. V.I. Lênin chỉ rõ: "quần chúng lao động ủng hộ chúng ta, sức
mạnh của chúng ta là ở đó. Nguồn gốc khiến chủ nghĩa cộng sản thế giới trở thành
vô địch cũng là ở đó" [68, tr.257-258].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ
cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng
được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong" [85, tr.295]. Với Đảng, "nếu
không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết" [85, tr.238]. Bởi
vậy, "một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân
chúng" [85, tr.285]; "phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được xa rời dân
chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định bị thất bại" [85, tr.238].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, ĐCS Việt Nam luôn luôn gắn bó mật
thiết với Nhân dân trên tinh thần Đảng và Nhân dân là một. Sức mạnh của Đảng bắt
nguồn từ sức mạnh của lòng dân. Sức mạnh của Đảng và sự bền vững của chế độ
bắt nguồn từ sức mạnh của lòng dân, từ sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân
dân, giữa Nhân dân với Đảng; đồng thời là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết
hợp sức mạnh hữu cơ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chính truyền
thống lịch sử của dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn của Nhân dân đã làm nên sức
mạnh của Đảng, đã trở thành nguồn sống, tạo sinh lực, cốt cách và dũng khí cho
Đảng. Sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng nước ta. Đây chính là một trong những quy luật tồn tại và phát
triển của ĐCS, là nguồn gốc làm nên sức mạnh vô địch và vô tận của Đảng, giúp
Đảng lãnh đạo Nhân dân đánh thắng kẻ thù ngoại xâm và nội xâm. Sức mạnh vô
địch của ĐCS Việt Nam là từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu. Thực
hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân bảo đảm nguồn sức mạnh
vô địch và vô tận của Đảng, làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế
lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.
54
2.1.4.3. Góp phần giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phòng
chống nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân, góp phần giữ vững vai
trò cầm quyền của Đảng
Đối với các ĐCS chân chính, gắn bó mật thiết với Nhân dân không phải là
vấn đề sách lược, càng không phải là lợi dụng lòng tin và sức mạnh của Nhân dân
để thực hiện mục đích của mình, mà gắn bó mật thiết với Nhân dân là một thuộc
tính bản chất của ĐCS, là cơ sở xã hội cho sự tồn tại và phát triển của Đảng, là
"lương tâm, danh dự" và phương châm hành động của Đảng. Thực tế lịch sử cũng
cho thấy, GCCN và các ĐCS đều là một bộ phận của dân tộc mình. Bên cạnh tính
giai cấp, các ĐCS ở mỗi nước đều có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Các
ĐCS chân chính ở mỗi nước không chỉ là đội tiên phong của GCCN, mà còn phải
trở thành đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục tiêu đấu
tranh của GCCN, của ĐCS cũng chính là mục tiêu đấu tranh của quần chúng lao
động nói chung. Lợi ích của GCCN và lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích của
dân tộc là thống nhất.
V.I. Lênin đã cảnh báo những người cộng sản rằng "Một trong những nguy
hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là cắt đứt liên hệ với quần chúng" [71, tr.426]. Khi
trở thành Đảng cầm quyền, V.I. Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở
Đảng phải đề phòng nguy cơ sai lầm về đường lối và cán bộ, đảng viên quan liêu,
xa rời quần chúng, đặc quyền đặc lợi, thoái hóa biến chất.
Để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, giữ vững bản
chất GCCN của Đảng, cần phải thực hiên tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh. "Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị
đó có đúng hay không....Mọi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải kết
hợp chặt chẽ với dân chúng" [81, tr.20-21].
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân góp phần giữ vững vai trò
cầm quyền của Đảng. Trong đời sống chính trị hiện đại, quyền lực của Nhân dân là
tối thượng. Quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực của Nhà nước là do Nhân dân
trao cho. Đảng và Nhà nước được Nhân dân lựa chọn, tin tưởng trao cho quyền lực
để lãnh đạo đất nước, quản lý xã hội. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng có được
55
hiện thực hóa trong đời sống hay không, phụ thuộc vào sự ủng hộ, góp sức của
Nhân dân. Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng có
thành công hay không, phụ thuộc vào sự hăng hái tham gia của Nhân dân. Chế độ
XHCN có tồn tại và phát triển được hay không là do Nhân dân có tin tưởng, ủng hộ
hay không. Vai trò cầm quyền của Đảng chỉ có thể đảm bảo vững chắc khi Nhân
dân tin Đảng, ủng hộ Đảng, thừa nhận Đảng là Người lãnh đạo sáng suốt của Nhân
dân. Đánh mất niềm tin của Nhân dân, không bảo đảm lợi ích của Nhân dân, Đảng
sẽ mất đi cơ sở cho sự tồn tại của chính mình, vai trò cầm quyền của Đảng sẽ không
có gì bảo đảm. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân góp phần bảo đảm vai trò cầm quyền của Đảng, không thế lực thù địch nào có
thể xóa bỏ vai trò cầm quyền đó của ĐCS Việt Nam, bởi quyền lực đó được Nhân
dân trao cho Đảng và Nhân dân hết lòng bảo vệ Đảng.
2.1.4.4.Góp phần phát huy vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước
Hồ Chí Minh khẳng định: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là
người chủ". Dân là chủ thể duy nhất của mọi quyền lực: "bao nhiêu lợi ích đều vì
dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"
[85, tr.698]. "Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân bầu cử ra. Đoàn
thể từ trung ương đến xã, do dân tổ chức". Nhân dân bầu ra người đại diện và có
quyền kiểm sát, giám sát và bãi miễn khi không làm tròn sự uỷ thác. Người còn nói:
"Dân như nước, mình như cá", "lực lượng nhiều là nhờ ở dân hết"; "Công việc đổi
mới là trách nhiệm của dân", Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực,
hiệu quả nhất định phải dựa vào dân. Người yêu cầu: "Đem tài dân, sức dân, của
dân làm lợi cho dân..." [90, tr.508].
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân góp phần phát huy vai trò
của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định: Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là
nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng
đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà
công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay. Như vậy, Nhân dân có vai
trò to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
56
nước. Là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân bắt buộc mọi tổ chức đảng, tất cả cán bộ, đảng
viên của Đảng phải tuân theo, do đó, sẽ tạo nên những chuyển biến trong nhận thức,
thái độ, việc làm của cán bộ, đảng viên đối với Nhân dân, sẽ tạo ra những cơ chế
thuận lợi để phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Nhân dân; bảo đảm cho hoạt
động của Nhân dân đúng đắn, đạt hiệu quả, đảm bảo quyền lợi, nguyện vọng, lợi ích
chính đáng của Nhân dân.
2.1.4.5. Quy định nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng: Đảng phải gắn bó
với Nhân dân. Đây là một nguyên lý xây dựng ĐCS, đã được các ĐCS trên thế giới
và Việt Nam vận dụng thành công. Để thực hiện nguyên lý này, ĐCS Việt Nam
phải làm CTDV; đồng thời đề ra nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân,
xác định đây là một nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, bắt buộc mọi tổ chức
đảng, đảng viên phải tuân thủ thực hiện trong quá trình thực tiễn công tác. Công tác
dân vận là một mặt công tác xây dựng Đảng, do đó, trong CTDV phải quán triệt
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân quy định nhiệm vụ CTDV
của Đảng, có mối quan hệ biện chứng với CTDV của Đảng. Nguyên tắc này quy
định nhiệm vụ CTDV, chi phối nội dung, phương thức CTDV của Đảng. Nghị
quyết Hội nghị TW 7 khóa XI đã quy định rõ 7 nhiệm vụ, giải pháp tăng cường và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV trong tình hình mới. Thứ nhất, tăng
cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ; tập trung giải quyết
kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của nhân dân; làm cho nhân dân tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ máu thịt của nhân dân với
Đảng và Nhà nước. Thứ hai, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà
nước, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí
CTDV trong tình hình mới. Thứ ba, tăng cường và đổi mới CTDV của các cơ quan
nhà nước. Thứ tư, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, góp phần thúc đẩy quá
trình CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập chủ quyền, an ninh chính trị.
Thứ năm, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn thể
chính trị - xã hội, các hội quần chúng để tập hợp nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm
57
vụ trong tình hình mới. Thứ sáu, quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội
ngũ cán bộ Ban Dân vận, Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp vững mạnh. Thứ bảy,
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện CTDV.
CTDV của Đảng là một mặt công tác xây dựng Đảng, được triển khai trong
toàn Đảng, ở tất cả các tổ chức đảng, do đội ngũ cán bộ, đảng viên tiến hành để thực
hiện tốt các nội dung của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Làm tốt
CTDV tác động trở lại, góp phần hiện thực hóa nguyên tắc này trong thực tiễn.
2.2. THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN
DÂN - KHÁI NIỆM VÀ PHƢƠNG THỨC
2.2.1. Khái niệm thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
Nguyên tắc là những điều quy định của Đảng đối với đảng viên và các tổ
chức đảng. Những điều quy định đó phải được tổ chức thực hiện tốt mới phát huy
tác dụng đối với việc xây dựng Đảng.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thực hiện (động từ) 1. "làm cho trở thành sự thật
bằng những việc làm hoặc hành động cụ thể", 2. làm theo trình tự, phép tắc nhất
định, ví dụ: thực hiện phép tính, thực hiện ca phẫu thuật [130, tr.1251].
Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là trách nhiệm,
nguyên tắc hoạt động của toàn Đảng. Trong quá trình thực hiện nguyên tắc này,
toàn Đảng, từ TW đến cấp ủy các cấp, TCCSĐ và đội ngũ đảng viên phải tiến hành
nhiều mặt công tác, nhiều hoạt động như: tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng
viên nhận thức đúng về nguyên tắc; tự xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tiến hành CTDV;
lãnh đạo chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội tích cực tuyên
truyền, vận động đoàn viên, hội viên tham gia CTDV... Từ thực tiễn đó, có thể hiểu:
Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là toàn bộ hoạt động của
cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên từ đề ra chủ trương, kế hoạch, đến tổ chức
tuyên truyền và tiến hành các hoạt động lãnh đạo, tổ chức làm cho các nội dung
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trở thành hiện thực trên thực tế.
Chủ thể thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là các tổ
chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng từ TW đến cơ sở.
Nhân dân vừa là đối tượng hướng tới trong việc thực hiện nguyên tắc, vừa là
lực lượng tham gia vào quá trình thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân.
58
Lực lượng có trách nhiệm tham gia vào quá trình thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân là Nhà nước, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội,
các lực lượng vũ trang, đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp....
Trong điều kiện có chính quyền, Đảng là chủ thể trực tiếp thực hiện nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; đồng thời thông qua Nhà nước, MTTQ, các
đoàn thể chính trị - xã hội, các lực lượng vũ trang, đơn vị sự nghiệp, các doanh
nghiệp..... để thực hiện. Như vậy, khác với giai đoạn Đảng chưa có chính quyền, chưa
trở thành Đảng cầm quyền, chỉ đơn thuần là mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng,
giữa Đảng với Nhân dân. Ngày nay, việc thực hiện nguyên tắc này của các cán bộ,
đảng viên trong cơ quan nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin và sự ủng hộ
của Nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước. Nếu Nhà nước quản lý kém, công chức
Nhà nước hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu Nhân dân... thì Nhân dân không chỉ
trách Nhà nước mà trách Đảng, dẫn đến mất dần niềm tin vào Đảng, vào đội ngũ cán
bộ, đảng viên.
Mục đích của việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
là làm cho các nội dung của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trở thành
hiện thực, tạo sự gắn bó chặt chẽ, khăng khít giữa Đảng với Nhân dân, để đội ngũ cán
bộ, đảng viên thực sự là "công bộc", là "đày tớ" của Nhân dân, tận tụy phục vụ, giúp
đỡ Nhân dân; làm cho Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ và bảo vệ Đảng trước
bất kỳ khó khăn, thử thách nào.
2.2.2. Phƣơng thức thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, "phương thức" là phương pháp và hình thức
tiến hành [139, tr.1352]. "Phương pháp" là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao
[139, tr.1353]. Như vậy có thể hiểu phương thức là hình thức, phương pháp, cách
thức tiến hành công việc có hiệu quả.
Để thực hiện đúng nội dung của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân, cần xác định được phương thức thực hiện. Từ nội dung của nguyên tắc và thực
tiễn hoạt động của ĐCS Việt Nam, có thể xác định, việc thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân bao gồm những phương thức chủ yếu sau:
59
2.2.2.1. Tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân
Để thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, trước hết cần
tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc này cho cán bộ,
đảng viên và Nhân dân. Tiến hành công việc này, cần tập trung vào những điểm chủ
yếu như: quán triệt, tạo sự thống nhất nhận thức về cơ sở lý luận, thực tiễn của
nguyên tắc; các nội dung của nguyên tắc và phương thức thực hiện nguyên tắc; vai
trò của nguyên tắc; trách nhiệm thực hiện nguyên tắc của cấp ủy, tổ chức đảng và
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Đây là phương thức quan trọng hàng đầu trong thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân ở nước ta hiện nay, bởi lẽ để thực hiện nguyên tắc có
hiệu quả, trước hết cán bộ, đảng viên và Nhân dân phải có nhận thức đúng đắn,
thống nhất về những vấn đề chủ yếu của nguyên tắc. Đây là một nguyên tắc mới
được ĐCS Việt Nam khẳng định, bổ sung vào Văn kiện từ ĐH đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng, cho đến nay vẫn chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể. Trong
Đảng, trong xã hội hiện nay vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau, cách hiểu chưa
thống nhất về nguyên tắc, về nội dung của nguyên tắc và phương thức thực hiện
nguyên tắc. Do đó, cần tập trung tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng
đắn về nguyên tắc này cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Muốn hoạt động tuyên truyền, giáo dục đạt hiệu quả, Đảng, Nhà nước cần
ban hành các văn bản, quy chế, quy định phù hợp về việc thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cần có những nội dung, hướng dẫn cụ thể việc
thực hiện tới các cấp bộ đảng, tới từng chi bộ, từng đảng viên. Hoạt động tuyên
truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân cần đa dạng về nội dung và hình thức, có thể thông qua sinh hoạt chi
bộ, đảng bộ, qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, dài hạn, qua các phương tiện thông
tin đại chúng, qua các buổi sinh hoạt chuyên đề, báo cáo chuyên gia... Đối tượng
tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân không chỉ dừng lại ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cũng
không phải chỉ hướng tới đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng và của HTCT, mà
còn cần quan tâm tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của Nhân dân - của
60
chính đối tượng của việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn. Có tuyên truyền,
giáo dục nâng cao nhận thức của Nhân dân về nguyên tắc, Nhân dân mới hiểu được
nội dung, bản chất của nguyên tắc, mới hiểu được vai trò, trách nhiệm của mình
trong mối quan hệ với Đảng, tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể
trong sạch, vững mạnh, góp phần hiện thực hóa nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân trong thực tiễn.
2.2.2.2. Dân chủ hóa, khoa học hóa quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện
nghị quyết của Đảng, bảo đảm kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng,
toàn dân, "ý Đảng" hợp "lòng dân"
Nghị quyết của Đảng phản ánh năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của
Đảng, là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng; biểu thị chủ trương,
đường lối, quan điểm định hướng của Đảng. Để NQ của Đảng đi vào cuộc sống, NQ
đó phải gắn liền với thực tiễn sinh động, phản ánh hơi thở của cuộc sống và được
cuộc sống phản ánh lại một cách tích cực, hiệu quả. Dân chủ hóa, khoa học hóa quá
trình xây dựng và tổ chức thực hiện NQ của Đảng, bảo đảm kết tinh trí tuệ, ý chí,
nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, "ý Đảng" hợp "lòng dân" là một phương thức
quan trọng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Hồ Chí Minh yêu cầu: "Đảng phải luôn xét lại những nghị quyết và những
chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị
đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng"
[85, tr.250]. Để NQ của Đảng kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn
dân đòi hỏi những người nghiên cứu, xây dựng NQ phải thật sự có nhãn quan sắc
bén về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; biết lắng nghe, tổng hợp tất cả các ý kiến,
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân; nhận diện rõ, đúng các vấn đề xuất
phát từ thực tiễn cuộc sống để đưa vào trong NQ. Trong quá trình xây dựng, hoàn
thiện NQ, cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội cần tổ chức tốt
công tác phản biện xã hội, nhằm tiếp nhận ý kiến đóng góp, phản hồi của các tầng
lớp nhân dân, với tinh thần dân chủ, cầu thị. Sau khi hoàn thiện dự thảo NQ, tiếp tục
tổ chức lấy ý kiến góp ý của các chuyên gia, cán bộ, đảng viên làm công tác chuyên
môn, trước khi trình xin ý kiến cấp ủy để ban hành. Việc xây dựng và ban hành NQ
phải hợp lý, khoa học, dân chủ, sát với cuộc sống, để NQ của Đảng không phải là
61
vấn đề chung chung, trừu tượng, xa lạ với Nhân dân, mà chính là những vấn đề bức
thiết của cuộc sống được đưa vào NQ, để cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, giải quyết
vấn đề cụ thể, thiết thực đặt ra từ thực tiễn.
Một NQ được ban hành và được đánh giá là thành công khi giải đáp được
các vấn đề cơ bản sau: NQ khi ban hành có tạo được đồng thuận ủng hộ của Nhân
dân hay không? Có huy động được lực lượng nhân dân tham gia và tạo thành các
hành động cách mạng để thi đua thiết thực không? Nghị quyết có đem lại những
chuyển biến mới về lợi ích vật chất, tinh thần cho Nhân dân, làm cho đời sống của
Nhân dân không ngừng được cải thiện, tháo gỡ được những khó khăn, thách thức,
bảo đảm tính ổn định và bền vững, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội hay
không? Để đáp ứng được tất cả các yêu cầu đó, quá trình ra NQ và tổ chức thực
hiện NQ của Đảng càng cần phải tiến hành một cách khoa học, dân chủ.
2.2.2.3. Lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác dân vận
Hồ Chí Minh khẳng định:"Dân vận là vận động tất cả lực lượng của m i một
người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực
hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao
cho" [85, tr.699]. Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, Đảng
phải lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt CTDV, chăm lo nâng cao đời sống Nhân dân.
Bởi lẽ nếu không có Nhân dân, Đảng không có lực lượng, không có sức mạnh. Để
có lực lượng và sức mạnh của Nhân dân, Đảng phải giác ngộ Nhân dân, tổ chức và
tập hợp Nhân dân "ở trong xã hội, muốn thành công phải có 3 điều kiện là: thiên
thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời
không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa/Nhân
hòa là thế nào?/Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hòa quan trọng hơn
hết" [85, tr.285]. Lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt CTDV, Đảng sẽ có được nhân
hòa, sẽ có được lòng dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Lực lượng của dân rất to.
Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì
việc gì cũng thành công" [85, tr.700].
Hồ Chí Minh nêu nguyên tắc dân vận: Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc
với dân chúng, giải thích cho dân chúng; "Bất kỳ việc to việc nhỏ, lập trường phải
vững, chính sách phải hiểu cho thấu, luôn luôn gần gũi học hỏi nhân dân, đi đúng
đường lối quần chúng thì việc gì cũng thành công. Trái lại thì thất bại" [87, tr.55, 56]
62
Lực lượng làm CTDV theo Hồ Chí Minh gồm: "tất cả cán bộ chính quyền,
tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân… đều phải phụ
trách dân vận" [85, tr.699]. Hồ Chí Minh yêu cầu : "Những người phụ trách dân vận
cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm" [85, tr.699].
Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ bảy (Khóa XI) khẳng định:"Công tác dân
vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ
trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể
làm tham mưu và nòng cốt" [35, tr.41].
Như vậy, CTDV không phải là công việc riêng của Đảng, mà là trách nhiệm
của cả HTCT, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên
các đoàn thể nhân dân. Nhân dân chỉ tin và đi theo Đảng làm cách mạng khi thấy lợi
ích của mình được đem lại, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng
cao. Do đó, Đảng phải lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt CTDV, chăm lo nâng cao
đời sống của Nhân dân. Làm tốt CTDV giúp cho Nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực, hăng hái thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực
hiện thắng lợi NQ của Đảng; chủ động gắn bó với Đảng, tin Đảng, theo Đảng thực
hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
làm tốt CTDV, tạo nên sự gắn bó gần gũi, khăng khít giữa cán bộ, đảng viên và
Nhân dân, lấp đầy những "lỗ hổng" trong lòng Nhân dân, ngăn chặn, xóa bỏ mọi
mưu đồ lợi dụng, lôi kéo quần chúng chống lại Đảng, chống lại chế độ của các thế
lực thù địch.
2.2.2.4. Đảng lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống chính trị, xã hội để
phát huy thật sự vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất
nước; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: "Bất cứ việc gì cũng đều phải bàn bạc
với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết
thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành" [85,
tr.700]. Muốn an dân thì mọi công việc của Đảng, Nhà nước phải được Nhân dân
đồng ý, chung sức, chung lòng: "Việc gì cũng phải hỏi ý kiến quần chúng, cùng dân
63
chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân
chúng vui lòng ra sức làm" [85, tr.294].
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền. Trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, xây dựng CNXH trên đất nước Việt Nam, Đảng luôn xác định:
Chế độ ta là chế độ nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phát huy vai trò
làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, luôn được ĐCS Việt Nam đặc biệt quan tâm giải quyết. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu
vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối
quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân…. Chúng ta chủ trương
xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự
là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân" [26, tr.48]. Tại ĐH đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, ĐCS Việt Nam tiếp tục khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước" [27, tr.47].
Như vậy, Đảng lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống chính trị, xã hội để
phát huy thật sự vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước;
dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng là một phương thức thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ trong điều kiện
Đảng duy nhất cầm quyền, đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng, lợi ích của Nhân
dân, Đảng phải phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, Nhân dân phải trở thành chủ
nhân của đất nước, làm chủ về kinh tế, chính trị, văn hóa, văn học, nghệ thuật. Tất
cả các hoạt động của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa… phải có sự tham gia, góp
sức của Nhân dân. Đảng, Nhà nước phải thực hành dân chủ trong lãnh đạo, trong
phát triển xã hội và quản lý xã hội, hướng trực tiếp vào việc giải quyết các vấn đề
xã hội, chính sách xã hội và an sinh xã hội cho Nhân dân, vì Nhân dân.
Quyền làm chủ của Nhân dân đã được Đảng và Nhà nước ta quy định trong
QCDC ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và trong Hiến
pháp 2013, gồm có các quyền cơ bản sau: quyền được ứng cử, bầu cử các cơ quan
lãnh đạo của Nhà nước (QH, HĐND các cấp); quyền được thông tin (dân được
biết); quyền được nói lên ý kiến của mình (dân được bàn); quyền được lao động,
64
sản xuất, kinh doanh (dân được làm) theo quy định của pháp luật; quyền được kiểm
tra, giám sát (dân được kiểm tra, giám sát); quyền được hưởng (dân được hưởng).
Dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng là một cách thức thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhân dân giúp xây
dựng Đảng bằng cách: hiểu rõ Đảng, ủng hộ Đảng, hưởng ứng những lời kêu gọi
của Đảng, ra sức cho Đảng rõ tình hình trong nhân dân, đối với công tác của Đảng
thì thật thà phê bình và nêu ý kiến của mình" [87, tr.235]. Là người ủy quyền cho
Đảng, Nhân dân có trách nhiệm xây dựng Đảng, chủ yếu nhất là trên mấy mặt: góp
ý kiến để xây dựng và bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, giới thiệu người ưu tú cho Đảng - để Đảng kết nạp, kiểm tra,
kiểm soát cán bộ, đảng viên; giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và các tổ chức
đảng, tổ chức chính quyền trong việc thực hiện chủ trương, chính sách và pháp luật,
qua đó phát hiện những sai trái, vi phạm, những vấn đề cần được bổ sung, điều
chỉnh và xử lý. Nhân dân phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực ở một số cán bộ, đảng viên, công chức; giám sát việc thực hiện Điều lệ Đảng,
đạo đức của người đảng viên, quy định về những điều đảng viên không được làm,
giám sát việc thực hiện đạo đức công chức, công vụ.
Như vậy, xây dựng Đảng không chỉ là công việc của Đảng mà còn là công
việc của Nhân dân, trách nhiệm của Nhân dân. Nhân dân là đối tượng lãnh đạo của
Đảng, đồng thời là chỗ dựa của Đảng, là nguồn sức mạnh của Đảng, phục vụ Nhân
dân là lý do tồn tại của Đảng. Đảng là con đẻ của Nhân dân, sống trong lòng Nhân
dân, vì vậy, Nhân dân có trách nhiệm to lớn xây dựng Đảng của mình trong sạch,
vững mạnh. "Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng" trở thành một nguyên tắc xây
dựng ĐCS Việt Nam trong tình hình mới.
2.2.2.5. Xây dựng phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của
cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ sở,
gần gũi Nhân dân; cán bộ, đảng viên tôn trọng, lắng nghe ý kiến Nhân dân, học
hỏi Nhân dân, nhưng không được theo đuôi Nhân dân
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân đặt ra yêu cầu xây dựng
phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng và cán
bộ, đảng viên phải bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân dân. Bởi lẽ,
65
khi ủy quyền cho Đảng, chính quyền nhà nước thay mặt mình lãnh đạo, quản lý xã
hội, Nhân dân luôn mong muốn các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên đại diện và
bảo vệ cho lợi ích của Nhân dân, gắn bó, gần gũi với Nhân dân, không xa dân,
không thoát ly cuộc sống của Nhân dân và luôn thấu hiểu đời sống, tâm trạng,
nguyện vọng của Nhân dân, biết tin dân và lắng nghe ý kiến xây dựng của Nhân dân
để đưa ra những quyết sách đúng. Đảng luôn là đạo đức, là văn minh; cán bộ, đảng
viên là những cán bộ gương mẫu, trung thực.
Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu: "Các cấp ủy đảng và chính quyền phải
thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn,
vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt
công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng
thực hiện quyền làm chủ của mình" [27, tr.240]. Như vậy, tùy vào điều kiện, hoàn
cảnh, tình hình Nhân dân tại các địa phương, các tổ chức đảng thường xuyên tổ
chức các biện pháp bảo đảm gắn bó mật thiết với Nhân dân: làm tốt CTDV của
Đảng, chính quyền, tiếp xúc trực tiếp với Nhân dân, đối thoại lắng nghe ý kiến phản
ánh của Nhân dân, cử cán bộ, đảng viên phụ trách, giúp đỡ hướng dẫn Nhân dân
làm ăn, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo (ở những vùng đồng bào dân tộc
thiểu số…), thực hiện QCDC ở cơ sở, tạo điều kiện để cho Nhân dân tham gia góp ý
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, để Nhân dân phê bình cán bộ, đảng viên,
giới thiệu những người ưu tú để Đảng xem xét, kết nạp, giới thiệu những người có
đức, có tài để được bầu vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và đoàn thể.
Cán bộ, đảng viên là người trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần
chúng, do đó, họ phải thường xuyên sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân dân, luôn tôn trọng,
lắng nghe ý kiến Nhân dân, học hỏi kinh nghiệm sáng tạo của Nhân dân. Sinh thời
V.I.Lênin rất tôn trọng ý kiến của quần chúng nhân dân, Người luôn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải gần gũi với quần chúng, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng, tin tưởng quần chúng:"… nhận xét tâm trạng của quần chúng, gần gũi họ,
giải quyết những nhu cầu của họ, giao cho những phần tử tốt nhất trong số họ đảm
những chức vụ trong bộ máy nhà nước v.v…" [69, tr.39].
Hồ Chí Minh yêu cầu: Cán bộ của làng phải là người trong sạch, công bình,
thạo việc, có thể làm gương cho dân làng; có thể hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích
chung. Người kết luận: "Cán bộ mà lên mặt quan cách mạng thì mọi việc đều lủng
66
củng. Cán bộ mà biết làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, thì việc gì cũng mỹ mãn"
[85, tr.140]. Đối với cán bộ, đảng viên, Nhân dân luôn lấy việc làm để kiểm tra lời
nói. Muốn lãnh đạo được Nhân dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên
của Đảng phải được lòng dân, phải là tấm gương sáng để quần chúng noi theo:
"Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để
giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ
và vui lòng thi hành. Mà muốn cho quần chúng hăng hái thi hành, thì
người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt
chước, làm theo/ Mà muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo
mình, thì người đảng viên, từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở, phải
thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu" [86, tr.189].
Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ "phải siêng năng, tiết kiệm,
trong sạch, chính đáng" [85, tr.208]. Nếu không "trong sạch, chính đáng" thì không
lãnh đạo được Nhân dân.
Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cán bộ, đảng
viên của Đảng phải thường xuyên sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân dân, nắm bắt được
tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân; đồng thời học hỏi từ Nhân dân những sáng kiến
hay, những kinh nghiệm quý. Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ: "Muốn tiến bộ mãi thì
phải học tập. Học trong sách báo, học trong công tác, học với anh em, học hỏi quần
chúng" [87, tr.83]. Người yêu cầu, cán bộ, đảng viên "Phải mạnh dạn phát động
quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng" [91, tr.112]. "phải lắng nghe ý kiến quần
chúng và sửa chữa sai lầm" [91, tr.121], "Phải khiêm tốn…. khi về nông thôn, các
đồng chí phải cố gắng học tập trong thực tế, học tập ở cán bộ và quần chúng địa
phương. Tuyệt đối không được tự cao, tự đại cho mình là giỏi mà xem thường cán
bộ và quần chúng địa phương" [91, tr.612]. Người nhấn mạnh: "Một người phải biết
học nhiều người", cần phải "lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ,
đảng viên để giáo dục lẫn nhau" [92, tr.551].
2.2.2.6. Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng pháp luật, chính sách bảo
vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt công tác dân vận của chính quyền
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của
Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh
67
vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới
quyền thống trị của Pháp, Nhật" [84, tr.5], "phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu
khó khăn đến đâu… quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho
dân mỗi khi người ta đem tới… Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý" [84, tr.47-48].
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân; xây dựng pháp luật, chính sách bảo vệ và phục vụ Nhân
dân; làm tốt CTDV của chính quyền là một phương thức thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân. Nhà nước phải có luật pháp để thi hành các công
việc quản lý và để bảo vệ Nhân dân, có nền hành chính công khai minh bạch để
phục vụ Nhân dân, không phiền hà sách nhiễu Nhân dân, không quan liêu, tham
nhũng gây tổn hại tới Nhân dân. Những thiết chế chính trị trọng yếu nhất như Đảng
và Nhà nước tồn tại cũng chỉ vì Nhân dân, vì mục tiêu dân chủ. Những tổ chức,
đoàn thể xã hội của Nhân dân càng phải tỏ rõ hiệu quả thực tế, gắn bó mật thiết với
Nhân dân, làm cho Nhân dân cảm nhận trực tiếp rằng, nó cần thiết, thực sự cần thiết
và hữu ích với mình như thế nào. Nhà nước pháp quyền XHCN bảo đảm cho dân
chủ được thể chế hóa và được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực, các cấp độ của đời
sống xã hội. Dân chủ đòi hỏi Nhà nước pháp quyền XHCN phải thực sự là của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Là một bộ phận trọng yếu của HTCT, trong điều kiện ĐCS Việt Nam là
Đảng duy nhất cầm quyền, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều
được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng các văn bản của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức của Nhà nước là những người thường xuyên nhất, trực tiếp nhất,
hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với Nhân dân, làm việc với Nhân dân trong các cơ
quan công sở. Do đó, các cơ quan Nhà nước, toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức Nhà nước cần làm tốt CTDV của chính quyền, trước hết nêu cao vai trò
tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong bộ máy Nhà
nước. Tiến hành CTDV của chính quyền, cần tập trung vào một số nội dung chủ
yếu sau: tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách đó; tổ chức, vận
động Nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng;
68
xây dựng, hoàn chỉnh cơ chế hoạt động của các cơ quan nhà nước, đảm bảo vận
hành thông suốt cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ; thể
chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng phù hợp với lòng dân, phản ánh
được nguyện vọng, lợi ích chính đáng của Nhân dân.
2.2.2.7. Lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh; phát
triển sâu rộng các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân
Trong thể chế chính trị nhất nguyên, để bảo đảm, giữ vững vai trò lãnh đạo
duy nhất của Đảng đối với Nhà nước, đối với HTCT và toàn xã hội, Đảng phải lãnh
đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh; phát triển sâu rộng các tổ
chức kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, định
hướng, bằng công tác cán bộ, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác kiểm
tra, giám sát hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời tạo điều kiện
phát triển sâu rộng các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân.
Trong Cương lĩnh (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Đảng ta xác định rõ:
"Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được
xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp,
chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về
mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội." [27, tr.87].
Đảng ta cũng khẳng định: "Nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, tổ chức
chính trị- xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và của nhân dân trong phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [27, tr.215]. Do đó, các tổ chức
chính trị - xã hội cần được quan tâm tạo điều kiện để xây dựng, cả về đội ngũ tổ
chức, cơ chế làm việc và những quy định liên quan cần thiết cho việc thực hiện vị
trí, vai trò của mỗi tổ chức.
2.2.2.8. Tiến hành có hiệu quả cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, hách dịch trong Đảng và hệ thống chính trị,
qua đó, củng cố niềm tin, sự ủng hộ của Nhân dân đối với Đảng
Quan liêu, tham nhũng, lãng phí là những tệ nạn, biểu hiện sự suy thoái của
Đảng, làm hao mòn niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, đẩy Đảng ngày càng xa
69
Nhân dân và có nguy cơ đưa Nhân dân đối lập với Đảng. Đây thực sự là một thứ
giặc nội xâm nguy hiểm vì nó nằm ngay trong Đảng và HTCT mà kẻ thù muốn lật
đổ chế độ thì phải thông qua nó mới thực hiện được. Thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân, cần tiến hành có hiệu quả cuộc đấu tranh ngăn ngặn
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng và HTCT, để Đảng trở nên trong
sạch, vững mạnh, HTCT vững mạnh toàn diện, xứng đáng với niềm tin yêu của
Nhân dân.
Bệnh quan liêu có nhiều nguyên nhân, trong đó có thể khái quát ở sáu vấn đề
sau: xa Nhân dân (do không hiểu tình hình, tâm lý, nguyện vọng của Nhân dân), khinh
Nhân dân (cho rằng Nhân dân không hiểu lý luận, chính trị cao xa như mình), sợ Nhân
dân (khi có sai lầm khuyết điểm thì sợ Nhân dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa
chữa), không tin cậy Nhân dân (quên rằng không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ
mấy, dễ mấy làm cũng không xong; có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy,
cũng làm được), không hiểu biết Nhân dân (họ quên rằng Nhân dân cần trông thấy lợi
ích thiết thực- lợi ích gần, lợi ích xa; lợi ích riêng, lợi ích chung; lợi ích bộ phận và lợi
ích toàn cục; đối với Nhân dân không thể lý luận suông, chính trị suông), không thương
yêu Nhân dân (chỉ biết đòi hỏi Nhân dân đóng góp, nhưng không biết giúp đỡ Nhân
dân sản xuất, cải thiện sinh hoạt, khoan thư, bồi dưỡng sức dân).
Tham nhũng là vấn nạn nhức nhối của không ít quốc gia trên thế giới, trong
điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, đây vẫn đang
được Đảng xem như là "quốc nạn", là một trong 4 nguy cơ thường trực đe dọa sự
tồn vong của Đảng, của chế độ.
"Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta; tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng là đòi
hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta; toàn Đảng,
toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phải có quyết tâm chính trị cao
đấu tranh chống tham nhũng; phải kiên trì thực hiện tốt vừa xây, vừa
chống trong phòng, chống tham nhũng. Khẩn trương xây dựng và thực
hiện kiên quyết hệ thống pháp luật đồng bộ về phòng ngừa, phát hiện và
xử lý những người có hành vi tham nhũng..."[33, tr.13]
70
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng gồm hai nội dung chủ yếu: Thứ nhất,
phát hiện, điều tra, khám phá, xử lý kịp thời mỗi khi có hành vi tham nhũng xảy ra
nhằm đảm bảo, mọi hành vi tham nhũng không thể không bị phát hiện và xử lý kịp
thời, không một người tham nhũng nào có thể tránh khỏi bị xử lý theo pháp luật; thứ
hai, bằng mọi biện pháp phòng ngừa, không cho hành vi tham nhũng xảy ra. Các
biện pháp phòng, chống tham nhũng tập trung vào công tác hoàn thiện hệ thống
pháp luật, công tác CCHC, cải cách tư pháp; công tác tổ chức, cán bộ; công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát những việc làm của
những người có chức vụ; công tác phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh với các vụ
tham nhũng đã xảy ra....
Tiến hành cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng trong
Đảng và HTCT cần có nhiều biện pháp, không chỉ bằng những lời kêu gọi chung
chung, mà có cơ chế, quy định rõ ràng, cụ thể; giải quyết triệt để, không để lây lan,
tồn đọng, kéo dài; cần phải dựa vào Nhân dân để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn,
xử lý kịp thời tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức làm việc trong Đảng, bộ máy Nhà nước và cả HTCT.
2.2.2.9. Kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân; phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền trong HTCT Việt
Nam, lãnh đạo cả HTCT, vì thế, nếu không có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ
trong Đảng dễ dẫn đến quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, lộng quyền và lạm
quyền và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tiêu cực, tham nhũng trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý của Nhà nước.
Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cần triển khai
mạnh mẽ việc kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong quá trình
thực hiện nguyên tắc. Để việc thực hiện nguyên tắc này có hiệu quả, cần triển khai
thực hiện nguyên tắc này đồng bộ với việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động khác của Đảng. Thường xuyên sơ kết, tổng kết, uốn nắn những lệch lạc, phát
hiện và cổ vũ, động viên những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thực hiện tốt
71
nguyên tắc, xử lý kịp thời những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, đúc rút những
kinh nghiệm bổ ích.
Trong quá trình triển khai, thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân, việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi
phạm nguyên tắc này cần hết sức chú trọng. Qua phản ánh của Nhân dân, qua dư
luận xã hội, qua các phương tiện thông tin đại chúng, cấp ủy, tổ chức đảng cần
nhanh chóng nắm bắt, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa,
tránh để xảy ra vi phạm và vi phạm kéo dài, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng trong
Nhân dân.
Là một nguyên tắc mới, đang được triển khai thực hiện trong Đảng, nên khó
tránh khỏi những thiếu sót, vi phạm. Do đó, cần tăng cường sự kiểm tra, giám sát
của Đảng, kết hợp chặt chẽ với phát huy vai trò của Nhà nước, sự giám sát, phản
biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể nhân dân; đồng thời coi trọng sơ kết, tổng
kết, đúc rút kinh nghiệm.
Xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp hoạt động giữa các tổ chức đảng
với chính quyền, các tổ chức trong HTCT và các tổ chức có liên quan, phát huy vai
trò của các tổ chức này trong việc tạo điều kiện thuận lợi để triển khai thực hiện
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân đạt kết quả.
Xây dựng những quy định cụ thể nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm minh
những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
hạch sách Nhân dân, hoặc thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm với Nhân dân.
72
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân có quá trình ra đời và phát
triển gắn liền với quá trình hoạt động, lãnh đạo cách mạng của ĐCS Việt Nam.
Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là toàn bộ hoạt động của
cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên từ đề ra chủ trương, kế hoạch, đến tổ chức
tuyên truyền và tiến hành các hoạt động lãnh đạo, tổ chức làm cho các nội dung
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trở thành hiện thực trên thực tế.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân gồm:
Một là, mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng
và khả năng của Nhân dân, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ. Hai là, Đảng thường
xuyên chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm cho
Nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân, được tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng các quyết sách chính trị của Đảng, được tự do làm ăn, được
tôn trọng và bình yên trong chế độ xã hội do Đảng lãnh đạo. Ba là, Nhà nước do
Đảng lãnh đạo thật sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Bốn
là, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng được hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, điều lệ của tổ chức;
thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Năm là, tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên của Đảng gắn bó, gần gũi, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân. Sáu là,
Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng.
Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân gồm những
phương thức cơ bản. Một là, tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Hai là, dân chủ hóa, khoa học hóa quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện NQ của
Đảng, bảo đảm kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, "ý Đảng"
hợp "lòng dân". Ba là, lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt CTDV. Bốn là, Đảng lãnh
đạo mở rộng dân chủ trong đời sống chính trị, xã hội để phát huy thật sự vai trò làm
chủ của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước; dựa vào Nhân dân để xây
dựng Đảng. Năm là, xây dựng phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc
của cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ sở,
73
gần gũi Nhân dân; cán bộ, đảng viên tôn trọng, lắng nghe ý kiến Nhân dân, học hỏi
Nhân dân, nhưng không được theo đuôi Nhân dân. Sáu là, Đảng lãnh đạo xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng
pháp luật, chính sách bảo vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt CTDV của chính quyền.
Bảy là, lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh; phát triển sâu
rộng các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân. Tám là, tiến hành có hiệu
quả cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, hách
dịch trong Đảng và HTCT, qua đó, củng cố niềm tin, sự ủng hộ của Nhân dân đối với
Đảng. Chín là, kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân; phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
74
Chƣơng 3
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT
VỚI NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT
THIẾT VỚI NHÂN DÂN
3.1.1. Ƣu điểm
3.1.1.1. Việc tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân đã
được chú trọng hơn
Kể từ sau ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân được quy định trong Điều lệ Đảng, cấp ủy, tổ chức đảng đã
bước đầu chú trọng tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên
tắc này cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Thông qua các buổi báo cáo NQ, báo
cáo chuyên đề, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua sách, báo, đa số
cán bộ, đảng viên đều có hiểu biết nhất định về nguyên tắc. Kết quả điều tra xã hội
học 900 phiếu đối với cán bộ, đảng viên và 900 phiếu đối với nhân dân ở 6 tỉnh đại
diện cho 3 miền Bắc, Trung, Nam, cho thấy, 84,4% số người được hỏi trả lời có
nhận thức đúng rằng nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một trong 5
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Câu hỏi kiểm tra mức độ hiểu biết của
cán bộ, đảng viên và Nhân dân về chủ thể của nguyên tắc, cũng cho kết quả rất đáng
chú ý: 83% số người được hỏi xác định chính xác chủ thể của nguyên tắc Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân là tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Về nội dung của
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, có 80% số người được hỏi trả lời
đúng hoàn toàn các nội dung của nguyên tắc.
Nhờ hoạt động tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về
nguyên tắc này cho Nhân dân, làm cho mức độ tin tưởng, niềm tin của Nhân dân đối
với Đảng cũng có những chuyển biến rõ rệt. Tuyệt đại bộ phận Nhân dân luôn tin
tưởng vào bản lĩnh của một Đảng cách mạng, chân chính, dày dặn kinh nghiệm; tin
tưởng vào quan điểm, đường lối, sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới
75
đất nước, không chấp nhận đa nguyên đa đảng. Kết quả khảo sát của Ban Dân vận
TW tại tỉnh Đồng Nai năm 2013 cho thấy: lòng tin đối với cấp uỷ, chính quyền: rất
tin tưởng 824/1017 (81%), ít tin tưởng 186/1017 (18,37%), không tin tưởng 2/75
(2,66%). Kết quả khảo sát ở Tổng Công ty Thép Việt Đức cho thấy: tin tưởng 67/75
(89,3°/o), ít tin tưởng 6/75 (8%), không tin tưởng 2/75 (2,66%) (xem phụ lục 6).
3.1.1.2. Đã coi trọng khoa học hóa, dân chủ hóa quá trình ra nghị quyết và
tổ chức thực hiện nghị quyết, để nghị quyết của Đảng thực sự là "ý Đảng" hợp
"lòng dân"
Các tổ chức đảng, cấp ủy đảng luôn quán triệt tinh thần khoa học hóa và dân
chủ hóa quá trình ra NQ và tổ chức thực hiện NQ. Dân chủ hóa ngay từ khâu lựa
chọn nội dung ra NQ: cấp uỷ căn cứ vào đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; tình hình thực tế ở địa phương, báo cáo, đề xuất của chính quyền,
các đoàn thể; ý kiến cán bộ lão thành, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân để
xác định nội dung cần ra NQ. Đối với những vấn đề lớn, quan hệ đến cuộc sống và
quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phương, đòi hỏi cấp uỷ đảng khi đề ra chủ
trương và các giải pháp phải có tính định hướng và phân công trách nhiệm cho các
tổ chức trong HTCT, đề ra biện pháp và tổ chức thực hiện theo quyền hạn, trách
nhiệm của từng tổ chức.
Trong quá trình xây dựng NQ, cấp ủy, tổ chức đảng đã có nhiều đổi mới
trong việc điều tra, khảo sát thực tiễn, lấy ý kiến của Nhân dân để có định hướng
lãnh đạo đúng, sát với cuộc sống, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng qua từng
thời kỳ. Đảng luôn coi trọng phát huy sức mạnh, trí tuệ sáng tạo của Nhân dân.
Nhiều đề xuất, sáng kiến của Nhân dân trong thực tiễn cuộc sống, được Đảng tiếp
thu, vận dụng đưa ra những quyết định quan trọng, có tính chiến lược ở những thời
điểm khó khăn, thách thức của đất nước.
Sau khi ban hành NQ, cấp ủy, tổ chức đảng rất quan tâm đến việc tổ chức
thực hiện NQ, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, định kỳ sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh
nghiệm, coi trọng kết quả, hiệu quả thực hiện. Các cơ quan chức năng ở TW và cấp
ủy, chính quyền các cấp đã tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ tổng kết việc
thực hiện các chủ trương, NQ. Ủy ban thường vụ QH, Chính phủ, Ủy ban TW
MTTQ Việt Nam và các tổ chức đoàn thể ở TW hàng năm đã tổ chức nhiều đoàn
76
kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương của Đảng trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng… liên quan đến đời sống của
Nhân dân, qua đó báo cáo với Bộ Chính trị (BCT), Ban Bí thư TW Đảng, QH,
Chính phủ về những ưu điểm, hạn chế trong việc tổ chức thực hiện NQ của Đảng.
Các địa phương đã tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành do ban thường vụ (BTV)
tỉnh, thành ủy chủ trì, giám sát việc quán triệt, triển khai thực hiện NQ và các
chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm ở địa phương; đôn đốc các cấp thực hiện và
vận động Nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Hầu hết các NQ đã
được BCT, Ban Bí thư chỉ đạo cho sơ kết 3 năm, 5 năm, tổng kết 10 năm từ cơ sở
đến TW để bổ sung, hoàn thiện quan điểm, giải pháp và ra các văn bản chỉ đạo, tổ
chức thực hiện tốt hơn. Đặc biệt gần đây, Đảng rất quan tâm lãnh đạo Nhà nước thể
chế hóa kịp thời các quan điểm, đường lối của Đảng thành các văn bản pháp luật để
tạo hành lang pháp lý, đầu tư cho việc tổ chức thực hiện NQ. Qua đó, giúp cho cấp
ủy, tổ chức đảng, chính quyền chủ động trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị của cấp mình, từng bước hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu mà
NQ của TW, của tỉnh, thành ủy đề ra; tích cực lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, đảng viên,
Nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên.
Khi NQ của Đảng được ban hành bởi quá trình khoa học hóa, dân chủ hóa,
NQ được hiện thực hóa trong cuộc sống, thực sự là "ý Đảng" hợp "lòng dân".
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thông qua NQ đến với Nhân dân, được
Nhân dân tin tưởng, tích cực thực hiện. Kết quả khảo sát của Ban Dân vận TW tại
07 tỉnh, thành phố (Hà Nội,Thái Bình, Lào Cai, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,
Gia Lai, Cà Mau) cho thấy: khi được hỏi về mức độ thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương, có 56,66% người trả lời cho rằng việc
này được thực hiện ở mức độ tốt; 30,95% người trả lời cho rằng việc thực hiện ở
mức độ khá; chiếm tỷ lệ nhỏ với 8,48% người trả lời chọn mức độ trung bình;
0,76% và 0,33% cho rằng việc thực hiện ở mức độ yếu, kém. Như vậy, có thể thấy,
phần lớn người trả lời trong mẫu khảo sát của Ban Dân vận TW đều đánh giá cao
mức độ thực hiện các chủ trương, chính sách ở địa phương, cho thấy NQ của Đảng
đã đến được với Nhân dân (xem phụ lục 4).
77
3.1.1.3. Đảng tăng cường lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác dân
vận, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống Nhân dân
Đảng ban hành nhiều văn bản về CTDV, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo để
bảo đảm giữ vững mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Từ năm
1990 đến nay, BCHTW, BCT, Ban Bí thư đã ban hành rất nhiều văn bản liên quan
đến CTDV, trong đó có những văn bản hết sức quan trọng như: NQ số 8B-NQ/TW
ngày 27-3-1990 về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân", Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25-02-2010 của Bộ
Chính trị khóa X ban hành Quy chế CTDV của HTCT, NQ Hội nghị lần thứ bảy
BCHTW khóa XI về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác dân vận trong tình hình mới" (số 25-NQ/TW).
Ban Chấp hành TW khóa X, khóa XI ban hành các NQ cụ thể về các đối
tượng CTDV, gồm: NQ số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 "Về công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; NQ 20-NQ/TW, ngày 28-01-
2008 "Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; NQ số 25-NQ/TW ngày 25-7-2008 "Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá"; NQ số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 "Về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn"; NQ số 27-NQ/TW ngày 06-8-2008 "Về xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; NQ số 09-NQ/TW
ngày 09-12-2011 "về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế".
Các văn bản của Đảng về CTDV được ban hành, cấp ủy, tổ chức đảng, cán
bộ, đảng viên quán triệt văn bản, NQ của Đảng, tăng cường CTDV ở địa phương,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân với nội dung, hình thức đa
dạng, phong phú. Hệ thống đài phát thanh, truyền hình TW và địa phương đã tăng
thời lượng, xây dựng thành các chương trình, chuyên mục trên các kênh truyền hình
tăng cường tuyên truyền, phổ biến đăng tải nhiều văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính
phủ và của địa phương, tuyên dương cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến làm tốt
CTDV. Thông qua các chương trình, chuyên đề như: "Đảng trong cuộc sống hôm
nay", "Chính sách và cuộc sống", "Doanh nhân Việt Nam", "Người xây tổ ấm",
78
"Cải cách hành chính", "Bạn của nhà nông", "Thư và trả lời thư bạn xem truyền
hình", phim tài liệu, phóng sự, trao đổi, tọa đàm đã làm cho CTDV trở nên gần gũi,
gắn bó hơn với Nhân dân, tạo sự lan tỏa trong Nhân dân, đáp ứng nhu cầu thông tin
của Nhân dân. Từ 02-2002, kênh VTV5 thuộc Đài truyền hình Việt Nam phát sóng
với thời lượng 18 giờ/ngày bằng 20 thứ tiếng dân tộc, giúp cho công tác tuyên
truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, khoa học kỹ thuật, nâng cao nhận thức, đời
sống văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa; đồng
thời cũng góp phần tuyên truyền làm rõ những âm mưu thâm độc của kẻ thù, phê
phán các hủ tục lạc hậu; xây dựng đời sống văn hóa ở các bản, làng, các khu dân cư.
Các địa phương đã in nhiều tài liệu gửi đến các thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố nhằm
tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; về ý thức tôn trọng pháp luật, bảo vệ môi trường vv… Trung bình hàng
năm, mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc TW tổ chức hàng nghìn buổi tuyên truyền,
hàng nghìn hội nghị với hàng triệu lượt người tham dự và hưởng ứng, như: tỉnh
Bình Dương năm 2009 đã tổ chức được 22.000 buổi tuyên truyền với hơn 1,5 triệu
lượt người tham dự, 179 cuộc thi tìm hiểu pháp luật với hơn 15.000 người tham dự;
tỉnh Lai Châu tổ chức 43.060 buổi tuyên truyền cho trên 601.000 lượt người tham
dự, in phát trên 30.000 bản tài liệu tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, hơn
150.000 tờ gấp; tỉnh Bắc Kạn tổ chức tuyên truyền được 8.165 buổi cho 496.688
lượt người [122, tr.2 - 3].
Công tác chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân
cũng được Đảng quan tâm chú trọng. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế -
xã hội, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, đề ra và thực hiện nhiều chính sách an sinh
xã hội, xóa đói giảm nghèo, chính sách đối với vùng khó khăn vùng sâu vùng xa,
biên giới, hải đảo, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số...
Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách miễn giảm học phí, cấp học
bổng, tăng cơ hội tiếp cận giáo dục, đào tạo đối với nhóm yếu thế, nhất là vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, miền núi, hộ nghèo, cận nghèo. Hỗ trợ đào tạo nghề đối với học
sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, khó khăn, gia đình chính sách, lao động nông thôn.
Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho Nhân dân được cải thiện cơ bản. Các
chương trình mục tiêu quốc gia, các cơ chế, chính sách chăm lo, tạo điều kiện cho
79
nhiều đối tượng tiếp cận với bảo hiểm y tế; phòng chống các bệnh lây nhiễm, chăm
sóc sức khỏe cộng đồng. Mạng lưới y tế thôn bản được củng cố. Số người tham gia
bảo hiểm y tế ngày càng tăng, đạt 67% dân số cả nước (2011) [5, tr.19].
Nhà ở của Nhân dân có bước cải thiện đáng kể, đã có nhiều cơ chế, chính
sách, chương trình hỗ trợ về nhà ở, đặc biệt quan tâm đến các đối tượng người nghèo,
học sinh, sinh viên, công nhân ở khu công nghiệp. Hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở;
hỗ trợ đồng bào Tây Nguyên mua trả chậm nhà ở; hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số về
nhà ở tại các xã tuyến biên giới Việt - Trung. Chương trình xóa nhà tạm cho hộ nghèo
đã thực hiện đạt 85% kế hoạch. Các dự án nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp,
người nghèo, nhà ở học sinh, sinh viên, người lao động ở khu công nghiệp, khu chế
xuất. Người dân nông thôn sử dụng nước sinh hoạt đạt tiêu chuẩn quốc gia thực hiện
có kết quả. Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn và
các chính sách hỗ trợ về nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, khó
khăn đã và đang được thực hiện rộng khắp. Tỷ lệ hộ nghèo thuộc các xã 135 có nước
sạch sinh hoạt đạt 80%. Đến nay 83% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ
sinh, 78% dân số đô thị được sử dụng nước sạch [5, tr.19].
Thông tin truyền thông được tăng cường, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách đối với người nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi,
vùng đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách về báo, tạp chí; hệ thống phát thanh,
truyền hình cơ bản phủ sóng đến thị trấn, thị tứ, bản dân cư tập trung vùng cao.
Cấp ủy, tổ chức đảng tăng cường công tác chỉ đạo và giải quyết có hiệu quả
những vấn đề liên quan đến đời sống thiết thực của Nhân dân: về chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, giải quyết việc làm, chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư, vệ
sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh, xóa đói giảm nghèo. Nhờ các chính sách
của Đảng và Nhà nước, cùng quyết tâm xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho
Nhân dân, nên tỷ lệ hộ nghèo cả nước ngày càng có xu hướng giảm. Theo số liệu
của Ban Dân vận TW, tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2006 là 15,5%, đến năm 2011
giảm xuống còn 12,6% (xem phụ lục 14). Tính đến cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo
cả nước chỉ còn 9,9%, giảm 1,2% so với năm 2012.
Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động khu vực Nhà nước do địa
phương quản lý theo giá thực tế phân theo vùng cũng tăng lên qua các năm, phản
80
ánh mức sống của người dân ngày một khá hơn: Năm 2005 là 1297,1 nghìn đồng;
năm 2008 là 2159,0 nghìn đồng; năm 2009 là 2592,9 nghìn đồng; năm 2010 là
3048,4 nghìn đồng và năm 2011 là 3457,8 nghìn đồng (xem phụ lục 14)
3.1.1.4. Đảng đã từng bước lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống
chính trị - xã hội để phát huy thật sự vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây
dựng và bảo vệ đất nước; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng
Trong quá trình đổi mới đất nước, ĐCS Việt Nam luôn tạo điều kiện, cơ chế
để Nhân dân được tham gia góp ý vào các văn bản dự thảo của Đảng. Đồng thời,
Đảng luôn gần dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân phản ánh
về tình hình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Với tinh thần cầu thị, biết lắng nghe ý kiến của Nhân dân, nên đường lối
của Đảng luôn được bổ sung, phát triển, hoàn thiện phù hợp với lòng dân, điển hình
là NQ số 8B-NQ/TW (khóa VI) về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân", NQ số 25-NQ/TW (khóa XI) về "Tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
hiện nay"; Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở; Quy chế giám sát và phản biện xã
hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218-
QĐ/TW ngày 12-12-2013 Quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính
trị -xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Đảng đã tổ chức ở nhiều diễn đàn để Nhân dân cả nước (kể cả người Việt
Nam ở nước ngoài) tham gia ý kiến vào dự thảo Cương lĩnh, dự thảo văn kiện ĐH
Đảng; dự thảo sửa đổi Hiến pháp, dự thảo các luật, pháp lệnh... Các địa phương lấy
ý kiến Nhân dân tham gia góp ý vào dự thảo văn kiện ĐH đảng bộ; góp ý vào dự án
kinh tế - xã hội...
Ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người
đứng đầu cấp ủy, chính quyền với Nhân dân; tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Nhân
dân nơi cư trú đối với cán bộ, đảng viên trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ chức đảng,
đảng viên theo định kỳ. Có nhiều hình thức góp ý xây dựng Đảng, chính quyền như:
Hòm thư góp ý đặt công khai tại trụ sở làm việc của tổ chức đảng, cơ quan chính
quyền, đơn vị; thông qua trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức; qua chuyên
mục góp ý xây dựng Đảng trên báo chí; thông qua gửi thư góp ý đến MTTQ, các
81
đoàn thể chính trị - xã hội; hoặc thông qua gửi trực tiếp thư góp ý đến cơ quan, tổ
chức đảng; thông qua điện thoại "đường dây nóng"; hộp thư điện tử của các tập thể,
cá nhân có thẩm quyền; thông qua tiếp xúc trực tiếp của cán bộ, đảng viên với Nhân
dân... Nhà nước xây dựng và ban hành nhiều luật để thể chế hóa quyền làm chủ của
Nhân dân: Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; Luật phòng, chống tham nhũng; Luật tiếp
công dân; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.... Thông qua đó, Nhân dân là
người phát hiện, tố giác nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực, góp phần làm trong sạch bộ
máy Đảng, Nhà nước.
Đảng lãnh đạo phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Các quyền làm chủ
của Nhân dân được thể hiện rõ nét trong đời sống hàng ngày: Nhân dân được tự do
đi lại, giao lưu, đầu tư sản xuất kinh doanh, tìm kiếm việc làm; được phát huy tài
năng trong học tập, nghiên cứu, sáng tạo; được chăm sóc về y tế, hoạt động văn hóa,
thể dục thể thao; được hỗ trợ khi gặp khó khăn thiên tai, dịch bệnh...
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và
bảo vệ đất nước, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền được phát huy, thể hiện ở
những việc làm cụ thể của Nhân dân. Nhân dân tích cực tham gia xây dựng HTCT ở
cơ sở vững mạnh, tham gia thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, xóa đói, giảm nghèo; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là
trên các địa bàn xung yếu, trọng điểm; bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo; góp ý
kiến với Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong giai đoạn mới; tham gia thực hiện chính sách hậu phương quân đội, chăm sóc
các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, tìm kiếm hài cốt và quy tập mộ liệt sỹ;
tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; không
ngừng củng cố và tăng cường "thế trận lòng dân", ngoại giao nhân dân, góp phần
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng
phí và cùng tham gia giải quyết những vụ việc phức tạp xảy ra ở địa phương.
Nhân dân tích cực tham gia và thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; huy động được nhiều nguồn lực lớn mạnh trong
Nhân dân như: hiến đất, góp tiền và ngày công lao động để xây dựng hệ thống hạ
tầng, nhất là đường giao thông nông thôn, chỉnh trang đô thị, vệ sinh môi trường,
82
giảm chi ngân sách nhà nước với khối lượng lớn. Trung bình hàng năm với số
lượng tiền Nhân dân tham gia đóng góp để xây dựng đường, trường, trạm lên đến
hàng chục nghìn tỷ đồng và hàng trăm triệu ngày công lao động. Tỉnh Đồng Tháp
đã huy động trong dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn thường chiếm khoảng
50-60% giá trị mỗi công trình; thành phố Hồ Chí Minh có trên 86.000 hộ dân hiến
hơn 4.000.000 m2 đất làm đường, mở rộng hẻm, chỉnh trang đô thị; tỉnh Lào Cai
huy động Nhân dân mở mới và nâng cấp 137 tuyến đường liên thôn; trong đó, nhân
dân đóng góp sức người là gần 10.000.000 ngày công lao động, tương đương trên
124 tỷ đồng; thành phố Đà Nẵng thực hiện chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng
làm" trong đó Nhà nước đầu tư 60-80%, nhân dân đóng góp 20-40% để sửa chữa,
nâng cấp, làm mới các đường, ngõ ở nội thị và đường bê tông nông thôn; tỉnh
Quảng Bình đã huy động nhân dân đóng góp được trên 4.000 tỷ đồng, hàng chục
triệu ngày công xây dựng các công trình phúc lợi; tỉnh Phú Yên đã huy động được
nhân dân đóng góp 300 tỷ đồng để kiên cố hóa đường giao thông nông thôn, hè,
hẻm, phố, kênh, mương nội đồng [122].
3.1.1.5. Đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của
cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên theo hướng bảo đảm tính dân chủ, sâu
sát cơ sở, gần gũi Nhân dân; cán bộ, đảng viên luôn tôn trọng, lắng nghe ý kiến
Nhân dân, học hỏi Nhân dân, không theo đuôi Nhân dân
Đảng tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức kỷ luật gắn liền với
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Để bảo đảm cho cán bộ, đảng viên của
Đảng sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân dân, Đảng có các quy định về lấy ý kiến của các
tổ chức quần chúng khi đề bạt, bổ nhiệm cán bộ; về công tác phát triển đảng viên
mới; quy định cán bộ, công chức, đảng viên đang công tác về sinh hoạt tại nơi cư
trú; quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các đoàn thể chính trị-xã hội;
quy định về việc MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền...
Xây dựng và thực hiện tốt quy định nếp sống văn minh công sở, phong cách
cán bộ, công chức trong các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước, trong các cấp chính
quyền. Hầu hết các cấp uỷ, tổ chức đảng và nhiều cán bộ, đảng viên đã đề ra
chương trình hành động và các biện pháp thiết thực để sửa chữa, khắc phục khuyết
83
điểm, và trên thực tế đang có nhiều việc làm cụ thể. Ví dụ như: TW đang triển khai
việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược; mở lớp đào tạo bồi dưỡng
cán bộ nguồn; ban hành Quy định về việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là
người đứng đầu; quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh cán bộ
lãnh đạo, quản lý... Nhiều cấp uỷ đã quy định cụ thể về việc sử dụng xe công, cải
tiến tổ chức các hội nghị, chấn chỉnh tác phong công tác, lề lối làm việc, quy định
về việc cán bộ lãnh đạo đi công tác nước ngoài; rà soát, điều chỉnh, thu hồi các dự
án đã được cấp phép nhưng chậm triển khai hoặc chủ đầu tư không có khả năng
thực hiện; sắp xếp lại tổ chức bộ máy và bố trí lại một số cán bộ; tăng cường việc
thanh tra, kiểm tra và kết luận để điều chỉnh hoặc xem xét, xử lý kỷ luật đối với
những người có dư luận liên quan đến tham nhũng, tiêu cực; tập trung xem xét, giải
quyết các vụ khiếu kiện kéo dài và xem xét giải quyết dứt điểm các vụ án tồn đọng
hoặc được dư luận đặc biệt quan tâm v.v...
Cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức hàng năm đã xây dựng chương trình,
kế hoạch đi cơ sở, gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với dân, lắng nghe ý kiến, nguyện
vọng của Nhân dân và trong giao tiếp, ứng xử, giải quyết công việc đối với Nhân
dân đã có tiến bộ hơn, tạo được sự tin cậy của Nhân dân đối với tổ chức đảng, chính
quyền. Nhiều cơ quan, đơn vị đã chỉ đạo và tổ chức rà soát, bổ sung hoặc ban hành
mới quy chế làm việc của cơ quan, quy chế văn hóa công sở, quy chế ứng xử của
cán bộ, công chức theo hướng "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin" cùng tác
phong "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân".
Kết quả điều tra khảo sát tại 03 tỉnh, thành phố (Hà Nam, Hải Phòng, Hà
Nội) của Ban Dân vận TW (xem phụ lục 5), qua tổng hợp 265 phiếu điều tra cho
thấy: thái độ phục vụ Nhân dân của cán bộ cơ sở hiện nay được đánh giá là tôn
trọng (185/265 phiếu), bằng 69,81%, không tôn trọng 38/265 phiếu, bằng 14,33%,
quan liêu, mệnh lệnh 24/265 phiếu, bằng 9,05%. Có 58,49% ý kiến được hỏi cho
rằng ở địa phương đã ban hành quy chế tiếp xúc đối thoại trực tiếp giữa người đứng
đầu cấp chính quyền với Nhân dân; còn 29,81% ý kiến trả lời ở địa phương chưa
ban hành quy chế này. Cũng theo kết quả điều tra của Ban Dân vận TW tại 03 tỉnh,
thành phố Hà Nam, Hải Phòng, Hà Nội, đối với câu hỏi Bí thư chi bộ nơi ông (bà)
sinh sống có tiếp xúc và đối thoại về vấn đề Nhân dân quan tâm không, có 73,20 %
84
ý kiến đồng ý là có tiếp xúc, 20,37% cho rằng ít tiếp xúc và 3,01% ý kiến khẳng
định không tiếp xúc. Về xây dựng quy hoạch sử đụng đất ở địa phương, có 63,30%
ý kiến cho rằng chính quyền có công khai cho Nhân dân được biết, 19,24% ý kiến
cho rằng chính quyền không công khai cho Nhân dân được biết. Về các khoản đóng
góp cho địa phương trước khi thu có đưa ra lấy ý kiến Nhân dân không, 70,94% ý
kiến người được hỏi trả lời là có lấy ý kiến, 21,50% cho rằng không lấy ý kiến và
3,01% trả lời không biết.
Qua kết quả điều tra trên của Ban Dân vận TW cho thấy, do có sự đổi mới
trong phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ chức đảng và
cán bộ, đảng viên theo hướng bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân
dân; do sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn tôn trọng, lắng nghe
ý kiến Nhân dân, học hỏi Nhân dân đã làm thay đổi nhận thức của Nhân dân đối với
Đảng, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, đối với chính quyền
và đội ngũ cán bộ, đảng viên.
3.1.1.6. Đảng tăng cường lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng pháp luật, chính
sách bảo vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt công tác dân vận của chính quyền
Đảng lãnh đạo QH, Chính phủ, HĐND, UBND các cấp phát huy dân chủ, đổi
mới hoạt động lập pháp, CCHC, công khai các hoạt động của chính quyền, tăng
cường đối thoại, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của Nhân dân. Các yêu cầu và nội
dung của nền dân chủ XHCN ngày càng được cụ thể hóa, thể chế hóa thành pháp
luật. Bộ máy nhà nước được kiện toàn một bước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có đổi mới. Hiến
pháp năm 2013 và các đạo luật đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về
dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân. Quyền con người, quyền công dân và nghĩa vụ cơ bản của công dân được
thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 (từ Điều 14 đến Điều 49).
Thực hiện chủ trương của Đảng, QH, Chính phủ, các cơ quan Chính phủ đã
ban hành nhiều văn bản pháp quy và cơ chế, chính sách bảo vệ và phục vụ Nhân
dân. Các văn bản đó gồm: Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Pháp lệnh thanh tra;
Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Pháp lệnh chống lãng phí, thực hành tiết
85
kiệm; Pháp lệnh Cựu chiến binh; Luật Phòng chống tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, Luật MTTQ Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Bình đẳng giới, Luật Thanh
niên, Luật Người cao tuổi, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Hoạt động
Chữ thập đỏ; Quyết định 125/2003/QĐ-TTg ngày 18-6-2003 của Thủ tướng Chính
phủ về Chương trình hành động thực hiện các NQ Hội nghị lần thứ bảy BCHTW
Đảng (khoá IX); Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20-7-2004 về một số chính
sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số
nghèo đời sống khó khăn... Sau 4 năm đi vào triển khai thực hiện Chương trình 134
theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đến tháng 4/2009 tổng kết 4 năm thực
hiện Chương trình 134, cho thấy kết quả rất đáng ghi nhận. Cụ thể là đã giải quyết đất
ở cho 87.822 hộ với 1.897 ha, giải quyết đất sản xuất cho 237.715 hộ với 86.656 ha,
hỗ trợ xây dựng nhà ở cho 337.592 hộ, hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán cho 280.353
hộ, xây dựng 6.040 công trình nước tập trung. Kinh phí ngân sách TW đã cấp từ
2005-2008 là 4.391 tỷ đồng, đạt 98% nhu cầu. Chương trình đã hoàn thành 98% theo
chỉ tiêu của TW và 89% theo kế hoạch bổ sung của các địa phương [122].
Đảng tăng cường lãnh đạo mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân; mở rộng hình thức dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp. QH đã có
nhiều đổi mới trong tiếp xúc lắng nghe các ý kiến của cử tri, mở rộng dân chủ, công
khai trong chất vấn, trả lời chất vấn; Chính phủ đã thiết lập các kênh thông tin điện
tử, phát triển các hình thức giao lưu và đối thoại với Nhân dân; có nhiều hình thức
để lắng nghe, tranh thủ ý kiến của Nhân dân tham gia vào các dự án luật, các dự
thảo chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước trước khi ban hành. Việc xây
dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở đã từng bước được mở rộng cho các loại hình cơ
sở và thực hiện dân chủ trực tiếp với Nhân dân đúng với phương châm "dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tạo sự đồng thuận trong Nhân dân, ổn định chính
trị ở cơ sở và động viên phát huy sức mạnh của Nhân dân tham gia vào các phong
trào thi đua yêu nước.
Ở các địa phương, HĐND, UBND các cấp đã ban hành nhiều văn bản để tổ
chức triển khai thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội, chăm lo
cải thiện đời sống cho Nhân dân; mở rộng dân chủ trong Nhân dân; đẩy mạnh
CCHC, giảm bớt các thủ tục phiền hà với Nhân dân, xây dựng quy chế tiếp dân, giải
86
quyết các khiếu nại, tố cáo của Nhân dân và chấn chỉnh phong cách làm việc của
cán bộ, công chức, tôn trọng, dân chủ, công khai, minh bạch với Nhân dân, hạn chế
và ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, thờ ơ, vô trách nhiệm với
Nhân dân.
Công tác dân vận của chính quyền được tăng cường. Chỉ thị số 18/2000/CT-
TTg, ngày 21/9/2000 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường CTDV là văn bản
tiếp tục cụ thể hóa thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về CTDV, được triển
khai tích cực ở các cấp, đạt nhiều kết quả. Nhiều chủ chương, chính sách và quy
định của cơ quan nhà nước trước khi ban hành đã có sự tham gia đóng góp ý kiến
của cán bộ, công chức và Nhân dân, tháo gỡ được một số vướng mắc trong mối
quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân và doanh nghiệp về các lĩnh vực quản lý đất
đai, quản lý quy hoạch xây dựng, nhà ở, thuế và đầu tư kinh doanh. Trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức đối với người lao động và Nhân
dân được nâng lên.
Thực hiện CTDV trên lĩnh vực CCHC, trong cải tiến lề lối và phong cách
làm việc, tăng cường thực hiện kỷ cương, kỷ luật hành chính. Chỉ tính riêng ở
Thành phố Hà Nội, tính đến năm 2011 đã công bố 297 thủ tục hành chính và chỉ
đạo công bố 155 thủ tục hành chính thực hiện ở cấp cơ sở. 100% chính quyền cấp
quận ở Thành phố Hà Nội đã tổ chức thực hiện cơ chế một cửa; công khai các thủ
tục hành chính thuộc trách nhiệm, thẩm quyền; từng bước nâng chất lượng hoạt
động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
Công tác dân vận chính quyền đã góp phần đẩy nhanh tiến trình CCHC, đảm
bảo định hướng dân chủ, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi, dễ hiểu, dễ thực hiện;
hạn chế những sách nhiễu gây phiền hà cho công dân và tổ chức; góp phần làm trong
sạch bộ máy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước;
giảm thiểu đáng kể sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính của các cơ quan nhà
nước vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và hoạt động của các doanh
nghiệp, giảm thiểu cơ chế "xin, cho", rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ hành chính.
Các cấp ủy đảng, MTTQ và chính quyền các cấp đã tạo điều kiện thuận lợi để
Nhân dân, người lao động trong các thành phần kinh tế tham gia vào công tác xây
dựng chính quyền, lựa chọn và đánh giá năng lực, phẩm chất đạo đức và uy tín của
87
cán bộ lãnh đạo, quản lý thông qua công tác bầu cử đại biểu QH, HĐND các cấp;
lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do QH, HĐND bầu; tiếp nhận, chuyển ý kiến đến
người đứng đầu các bộ, ngành và chính quyền các cấp giải quyết và trả lời kiến nghị
của cử tri. Cùng với việc mở rộng quyền làm chủ của Nhân dân, các cấp chính
quyền đã thông qua Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng tạo
điều kiện để Nhân dân tham gia giám sát hoạt động của HĐND, UBND, của đại
biểu HĐND, của cán bộ, công chức.
Các địa phương, các bộ, ngành đã tiếp nhận và giải quyết trên 90% đơn thư
thuộc thẩm quyền và thông báo kết luận thanh tra để Nhân dân giám sát. Có địa
phương còn tổ chức và yêu cầu cán bộ, công chức làm sai quy định phải công khai
xin lỗi trước Nhân dân. Từ đó khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân, góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; phát hiện, sa thải và kịp thời uốn
nắn, giáo dục cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, củng cố niềm tin của
Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
3.1.1.7. Đảng chú trọng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội
vững mạnh; phát triển sâu rộng các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân
Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các NQ của Đảng thành các văn bản
pháp luật, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động hiệu quả. Nhà
nước đã ban hành Luật MTTQ Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Bình đẳng giới;
một số đạo luật có liên quan đến MTTQ, các đoàn thể nhân dân, như: Luật Bầu cử
đại biểu QH, HĐND; luật Hôn nhân và gia đình; Bộ Luật lao động...
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống tổ chức MTTQ, các đoàn thể chính trị-
xã hội được kiện toàn, củng cố ở các cấp, tăng cường thu hút, phát triển đoàn viên,
hội viên và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng gần dân, sát dân
và gắn bó chặt chẽ với dân, có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động
tập hợp, thu hút đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân tham gia vào các phong
trào thi đua yêu nước, góp phần thiết thực vào việc thực hiện các chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện đổi mới, CNH, HĐH đất nước.
Theo số liệu của Ban Dân vận TW, năm 2012, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
đã tập hợp được 7.012.389 đoàn viên; Hội Nông dân Việt Nam tập hợp được
88
10.368.347 hội viên; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tập hợp được 15.967.000 hội
viên; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tập hợp được 7.036.834 đoàn viên và
Hội Cựu Chiến binh Việt Nam tập hợp được 2.698.732 hội viên (xem phụ lục 13)
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội đã tăng cường
các biện pháp nắm bắt tình hình tư tưởng, quan tâm chăm lo hỗ trợ Nhân dân, đoàn
viên, hội viên về nghề nghiệp, việc làm, học tập...; chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần, hỗ trợ người nghèo, đối tượng chính sách; phát động nhiều phong trào quần
chúng rộng lớn gắn với nhiệm vụ chính trị, nhu cầu, lợi ích của Nhân dân, thu hút
đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia. Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam phát động
cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư",
"Ngày vì người nghèo". Trong Công đoàn, công nhân, viên chức lao động có phong
trào "Thi đua lao động giỏi", "Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật". Trong Thanh
niên có phong trào "Thanh niên tình nguyện", "Xung kích phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ Tổ quốc", "Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp". Hội Phụ nữ
phát động các phong trào: "Phụ nữ tích cực học tập lao động sáng tạo, nuôi dạy con
tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc", "Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình".
Hội Nông dân Việt Nam có phong trào: "Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh
giỏi", "Nông dân thi đua xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn". Hội Cựu chiến binh
Việt Nam với phong trào "Cựu chiến binh gương mẫu", "Cựu chiến binh giúp nhau
xóa đói, giảm nghèo". Hiện nay, các địa phương, các tầng lớp nhân dân, MTTQ
Việt Nam, các đoàn thể chính trị-xã hội đang tham gia tích cực phong trào "Cả nước
chung tay", phong trào "Dân vận khéo" trong xây dựng nông thôn mới.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện chức
năng giám sát các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, đảng
viên, công chức; thực hiện thí điểm "Quy chế Mặt trận Tổ quốc giám sát cán bộ,
công chức, đảng viên ở khu dân cư"; thực hiện Quy chế giám sát, phản biện xã hội
của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy định về việc MTTQ
Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền. Nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và
các tổ chức đảng, tổ chức chính quyền trong việc thực hiện chủ trương, chính sách
và pháp luật. Ở các cơ quan, đơn vị đều có ban thanh tra nhân dân do hội nghị công
89
chức, hội nghị nhân dân ở khu dân cư bầu. Hoạt động ban thanh tra nhân dân góp
phần tích cực vào giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giám sát đầu
tư cộng đồng, nâng cao hiệu quả đầu tư ở cộng đồng, chống tham nhũng, lãng phí.
Đảng luôn tăng cường sự lãnh đạo đối với tổ chức, hoạt động của các hội
quần chúng. Các hội quần chúng phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về hình thức
tổ chức, hoạt động, từng bước gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, của đất nước; góp phần tích cực vào việc xây dựng, củng cố, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, các hội quần chúng
không ngừng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Theo thống kê của Bộ Nội vụ,
tính đến 30-11-2011 có tổng số 437 Hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc, liên tỉnh,
trong đó: 36 Hội hoạt động trong lĩnh vực giao thông, xây dựng; 84 Hội hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và đầu tư; 10 Hội hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo; 51 Hội hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; 57
Hội hoạt động trong lĩnh vực ngoại giao, hữu nghị; 06 Hội hoạt động trong lĩnh vực
nội chính, tư pháp; 30 Hội hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản; 13 Hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng; 08 Hội hoạt động
trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường; 08 Hội hoạt động trong lĩnh vực thông tin,
truyền thông; 55 Hội hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch; 16 Hội
hoạt động trong lĩnh vực xã hội, từ thiện và nhân đạo và 63 Hội hoạt động trong
lĩnh vực y tế [Nguồn Bộ Nội vụ].
3.1.1.8. Đảng đã có nhiều chủ trương tăng cường lãnh đạo đẩy mạnh cuộc
đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng và hệ thống
chính trị; củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng
Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về
phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ngay từ Hội nghị TW 3, BCHTW Đảng khóa
X đã ban hành NQ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo TW về phòng,
chống tham nhũng. Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến nội dung NQ TW, Luật
90
phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các văn bản
pháp luật, pháp quy có liên quan. Đã triển khai các quy định của Luật phòng, chống
tham nhũng về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị; xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trong 4 năm (2007-2010), cả nước có 276
người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu bị xử lý do thiếu trách nhiệm để
xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách; trong
đó: xử lý hình sự 39 trường hợp, xử lý hành chính 212 trường hợp [12, tr.201].
Đảng yêu cầu: hàng năm, QH và HĐND các cấp nghe báo cáo và thảo luận,
chất vấn về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chú trọng kiểm tra, thanh
tra, giám sát việc sử dụng các quỹ từ thiện, nhân đạo. Thực hiện QCDC ở cơ sở gắn
với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu quả thanh tra nhân
dân, khắc phục bệnh hình thức. Phát huy tốt hơn vai trò của MTTQ, các đoàn thể
chính trị - xã hội và các hội quần chúng trong việc phát hiện, đấu tranh với những
hiện tượng tham nhũng, lãng phí.
Khẩn trương cụ thể hóa cơ chế giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên
đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ban hành quy chế về việc
Nhân dân giám sát tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Có biện pháp bảo vệ an toàn
và kịp thời biểu dương, khen thưởng những cán bộ, đảng viên, người dân dũng cảm
tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng, lãng phí và những tập thể, cá nhân có thành
tích đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và có chính sách truyền
thông đúng đắn, phát huy vai trò và trách nhiệm của báo chí trong phòng, chống
tham nhũng, lãng phí. Nhân dân tham gia phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các tệ nạn xã hội thông qua giám sát của QH, HĐND các cấp. QH, HĐND
các cấp đã tập trung giám sát vào các lĩnh vực nhạy cảm, còn nhiều hạn chế, tồn tại,
có ảnh hưởng đến đời sống, quyền lợi chính đáng của Nhân dân.
Với sự quyết tâm, nỗ lực của các tổ chức đảng, nhà nước, MTTQ và cả HTCT,
công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí đã có những chuyển biến tích
cực cả về nhận thức, hành động và đạt được những kết quả bước đầu, nhất là trong
phòng ngừa, công khai, minh bạch hóa, cải cách thủ tục hành chính, quản lý tài sản
công. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí đã từng bước được kiềm chế.
91
Trong 4 năm (2007-2010), toàn ngành thanh tra triển khai 53.954 cuộc thanh
tra, đã kết thúc 48.649 cuộc. Qua thanh tra phát hiện nhiều tổ chức, cá nhân có hành
vi vi phạm trên các lĩnh vực; kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với 1.300 tập
thể; 11.022 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 439 vụ việc. Qua thanh tra phát
hiện thiếu sót, sai phạm về kinh tế 47.364 tỷ đồng, 7.028.236 USD; kiến nghị thu
hồi về ngân sách nhà nước 18.035 tỷ đồng, 993.978 USD; xuất toán, loại ra khỏi giá
trị quyết toán và đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý 21.897 tỷ đồng [12].
Thanh tra các bộ, ngành, địa phương triển khai 58.840 cuộc thanh tra, kết
thúc 48.553 cuộc, phát hiện sai phạm về kinh tế 28.231,8 tỷ đồng; 48.331 ha đất các
loại; kiến nghị thu hồi về cho Nhà nước 13.214 tỷ đồng, 21.499 ha đất; đã thu hồi
5.756 tỷ đồng…. Riêng trong năm 2010, các cơ quan thanh tra đã kiến nghị xử lý kỷ
luật 562 tập thể, 2.035 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra các cấp để xem xét, xử lý
hình sự 87 vụ việc, trong đó có 62 vụ, 84 đối tượng liên quan đến tham nhũng [12].
Trong thời gian 2006-2010, các cơ quan Kiểm toán Nhà nước đã tiến hành
138 cuộc kiểm toán đối với các bộ, cơ quan ở TW; 140 cuộc đối với các tỉnh, thành
phố; 89 cuộc trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản và chương trình mục tiêu quốc
gia; 117 cuộc đối với doanh nghiệp và ngân hàng; 10 cuộc kiểm toán chuyên đề.
Qua đó, phát hiện, kiến nghị và xử lý, làm tăng cho ngân sách nhà nước năm 2006
là 12.667 tỷ đồng, năm 2007 là 15.991 tỷ đồng, năm 2008 là 24.212 tỷ đồng, năm
2009 là 22.709 tỷ đồng…. Từ năm 2006 đến 2011, Kiểm toán Nhà nước đã chuyển
6 hồ sơ vụ việc vi phạm sang cơ quan điều tra của Bộ Công an để điều tra, xử lý,
trong đó có vụ Đề án 112 và vụ Dự án hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long - Vân Trì, Hà
Nội. Kết quả Kiểm toán 5 năm, hoạt động kiểm toán đã mang lại hiệu quả thiết
thực, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tài chính, ngân sách, vốn, tài
sản công; ngăn ngừa lãng phí, tiêu cực, tham nhũng [12].
Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng có chuyển biến và
hiệu quả hơn. Báo cáo của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cho thấy, từ ngày 01-10-
2006 đến ngày 30-6-2008, các cơ quan tố tụng đã khởi tố 714 vụ án với 1.568 bị
can về các tội tham nhũng. Viện Kiểm sát các cấp đã truy tố 722 vụ với 1.922 bị
can. Tòa án các cấp xét xử 601 vụ án với 1.412 bị cáo [12]. Nhiều vụ việc tham
nhũng xảy ra từ lâu, chưa xử lý đã được kiên quyết chỉ đạo phục hồi điều tra, đẩy
92
nhanh tiến độ truy tố và xét xử nghiêm minh. Một số vụ án tham nhũng nghiêm
trọng được phát hiện, được khởi tố, điều tra và xét xử kịp thời, có tác dụng răn đe,
phòng ngừa, như vụ án Mạc Kim Tôn - nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
Thái Bình; Thiên Lợi Hòa ở Lào Cai; Đề án 112 thuộc Văn phòng Chính phủ; Tổng
Công ty Vật tư nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Nông
trường Sông Hậu, Cần Thơ.
Ủy ban kiểm tra các cấp đã tăng cường công tác kiểm tra cán bộ, đảng viên
khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo đối với đảng viên có dấu hiệu vi phạm về
tham nhũng, lãng phí. Trong nhiệm kỳ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X, UBKT các
cấp đã kiểm tra cán bộ, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm tham nhũng, lãng phí
1.548 trường hợp; giải quyết tố cáo cán bộ, đảng viên có dấu hiệu vi phạm về tham
nhũng, lãng phí 943 trường hợp. Cấp ủy, UBKT các cấp xem xét, xử lý kỷ luật cán
bộ, đảng viên vi phạm về tham nhũng, lãng phí 2.639 trường hợp [44, tr.97].
Kết quả kiểm tra của cấp ủy, UBKT, kết quả thanh tra của các cơ quan nhà
nước bước đầu cho thấy, cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu, lãng phí, tham
nhũng trong Đảng và HTCT đã có những kết quả nhất định, có tác dụng giáo dục, răn
đe, phòng ngừa, giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, công chức, viên chức
Nhà nước và cán bộ của HTCT khỏi sa ngã, tham ô, tham nhũng, lãng phí và các tiêu
cực khác, giữ vững khí tiết của người đảng viên cộng sản chân chính, người cán bộ,
viên chức "công bộc" của Nhân dân. Qua đó, Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, hăng hái, tích cực tố giác, giúp tổ chức đảng phát hiện kịp thời những vụ tham
nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên, một số quan chức ở địa phương.
3.1.1.9. Đã coi trọng và từng bước đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, tổng
kết việc thực hiện các nội dung, các vấn đề liên quan đến nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân; chú trọng phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc
Công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân đã được các cấp ủy quan tâm thực hiện. Theo kết quả khảo
sát điều tra phục vụ đề tài nghiên cứu Luận án, cho thấy, có 34,7% số người được
hỏi cho rằng kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân là một trong những nội dung được Đảng bộ địa phương triển
khai thực hiện.
93
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân được thể hiện thông qua kết quả kiểm tra thực hiện QCDC ở cơ sở,
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; kiểm tra kết quả thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới tại các địa phương hay kiểm tra kết quả thực
hiện NQ số 25 - NQ/TW NQ Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khóa XI về "Tăng cường
và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới". Kết
quả kiểm tra cho thấy tình hình thực hiện QCDC ở các loại hình cơ sở đã có bước
chuyển biến tích cực.
Đối với xã, phường, thị trấn: việc xây dựng và thực hiện QCDC đã được triển
khai sâu rộng. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đã xây dựng và ban hành các quy
chế, quy định; quy ước, hương ước ở thôn, bản, tổ dân phố; phần lớn hoạt động đã
đi vào nền nếp, đảm bảo các điều kiện để Nhân dân tham gia, bàn, quyết định, giám
sát các hoạt động ở cơ sở.
Đối với cơ quan, đơn vị sự nghiệp: các cơ quan, đơn vị đã gắn với chương
trình CCHC để chỉ đạo sắp xếp tổ chức, bộ máy, luân chuyển cán bộ; xác định rõ
hơn chức năng, nhiệm vụ; rà soát, loại bỏ các văn bản trái pháp luật, các thủ tục
phiền hà, triển khai thực hiện cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông"; công khai
đường dây "nóng"; ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng tiêu chuẩn ISO, hiện
đại hoá dịch vụ công. Sửa đổi, bổ sung các quy chế, quy định; xác định rõ trách
nhiệm của thủ trưởng, cán bộ, công chức trong việc thực hiện các quy chế nội bộ và
công khai, dân chủ với Nhân dân.
Đối với các loại hình doanh nghiệp: các bộ, ngành TW, các địa phương đã
ban hành văn bản chỉ đạo xây dựng quy chế thực hiện dân chủ trong doanh nghiệp;
tổ chức ký thoả ước lao động; sửa đổi, bổ sung các nội quy, quy chế, quy định phù
hợp với tình hình mới.
Đồng thời với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, Đảng đã chú trọng phòng ngừa,
phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc, vi phạm
các mặt, các nội dung của nguyên tắc, những vi phạm gián tiếp ảnh hưởng đến việc
thực hiện nguyên tắc, ảnh hưởng đến sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.
94
Trong vòng 4 năm (2009 - 2012) có tổng số 451.815 đơn khiếu nại, trong đó
số đơn thuộc thẩm quyền giải quyết là 280.717. Kết quả là cấp ủy, tổ chức đảng và
các cơ quan nhà nước chuyên trách đã giải quyết 215.779 đơn khiếu nại thuộc thẩm
quyền giải quyết, đạt 76,87%. Tỷ lệ số đơn khiếu nại được giải quyết năm 2009 là
khá cao, đạt 83,96%, năm 2010 là 96,40% (xem phụ lục 12).
Từ năm 2009 đến 2012, có tổng số 83.734 đơn tố cáo được tiếp nhận, trong
đó có 48.924 đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết, đã giải quyết 33.954 đơn tố
cáo, đạt 69,40% (xem phụ lục 12).
Theo tài liệu khảo sát, đánh giá của Ủy ban Thường vụ QH, hằng năm khiếu
kiện tăng 13% đến 15%, trong đó trên 70% khiếu kiện về đất đai, trên 67% vụ việc
giải quyết khiếu kiện về đất đai, chính quyền có vi phạm. Tình trạng đình công, bãi
công, ngừng việc tập thể ngày càng tăng mạnh, quy mô, tính chất phức tạp tăng lên:
năm 2009 là 310 vụ, đến năm 2010 tăng lên là 424 vụ và năm 2011 là 978 vụ (gấp
hơn 2,3 lần so với năm 2010), tập trung nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (hơn 76%); doanh nghiệp tư nhân (23%), chủ yếu là đòi tăng lương và cải
thiện đời sống cho người lao động do thu nhập thấp, đời sống khó khăn. Trước tình
hình đó, Đảng phải chú trọng phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời, giải đáp thỏa
đáng những bức xúc của Nhân dân, ngăn chặn, không để xảy ra "điểm nóng".
3.1.2. Khuyết điểm
3.1.2.1. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân
có nơi, có lúc chưa được quan tâm đúng mức, chưa thường xuyên, kém hiệu quả
Kết quả điều tra 1800 phiếu tại 6 tỉnh ở 3 miền Bắc, Trung, Nam phục vụ đề
tài nghiên cứu Luận án cho thấy, có tới 51,4% số người được hỏi không lựa chọn
nội dung tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân là một trong
những nội dung được Đảng bộ, cấp ủy địa phương triển khai thực hiện. Từ đó có thể
thấy hoạt động tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc
cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiện nay vẫn còn bị xem nhẹ. Một bộ phận cán
bộ, đảng viên và Nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về nguyên tắc. Khi được kiểm tra
mức độ nhận thức về nguyên tắc, có tới 280 người (chiếm 15,6%) không biết rằng
95
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một trong 5 nguyên tắc tổ chức,
hoạt động của Đảng. Những hiểu biết cơ bản về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân như vai trò, nội dung của nguyên tắc, cũng có tới 20% số người được
hỏi chưa có nhận thức đầy đủ về các vấn đề trên được nêu trong phiếu điều tra.
Qua khảo sát thực tiễn, công tác tuyên truyền, giáo dục mới tập trung vào đội
ngũ cán bộ, đảng viên, chưa quan tâm tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân,
người lao động. Nội dung tuyên truyền nghèo nàn, chưa thực sự phong phú, hấp
dẫn. Một số nơi, việc tuyên truyền còn hình thức, thiếu tính chiến đấu, chưa phê
phán mạnh những biểu hiện vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân, những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng và những đơn vị, cán bộ, đảng viên,
công chức không thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về phòng, chống tham nhũng.
3.1.2.2. Quá trình ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của một số
cấp ủy, tổ chức đảng ở địa phương chưa thực sự dân chủ và khoa học, chưa
phản ánh được ý nguyện của Nhân dân
Theo kết quả điều tra xã hội học của Ban Tuyên giáo TW, 3000 phiếu (chia
hai đợt), trên phạm vi cả nước, cho thấy về học tập NQ của Đảng, chỉ có hơn 1/5 số
cán bộ, đảng viên hào hứng, quan tâm đến việc tiếp thu NQ của Đảng, còn một số cán
bộ thờ ơ, thiếu quan tâm, không chú tâm đến việc học tập NQ (13,5%) và 59,6% số
cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng việc học tập NQ là chuyện bình thường. Chỉ có
35% số cán bộ, đảng viên nói các NQ được thực hiện nghiêm túc tại cơ quan họ, số
còn lại cho rằng việc thực hiện NQ nặng về hình thức. Điều này cho thấy, trong nội
bộ Đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu quan tâm đến các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng [106, tr.107-108].
Cấp ủy, tổ chức đảng, chi bộ trong nhiệm kỳ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng đã kiểm tra cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, NQ, chỉ thị, quy định của Đảng 800.622 trường hợp, giám sát 205.372
cán bộ, đảng viên chấp hành NQ, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng và của cấp ủy
cấp trên và của cấp mình và việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ; giám sát
78.112 cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành quy chế làm việc của cấp ủy.
96
Chỉ tính riêng nhiệm kỳ Đại hội X, UBKT các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm đối với cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành NQ, chỉ thị của Đảng 25.115
trường hợp; kiểm tra dấu hiệu vi phạm của cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập trung
dân chủ 5.364 trường hợp. Giải quyết tố cáo đối với cán bộ, đảng viên có dấu hiệu vi
phạm về NQ, chỉ thị của Đảng 3.388 trường hợp; giải quyết tố cáo cán bộ, đảng viên
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ 1.197 trường hợp. Thi hành kỷ luật cán bộ,
đảng viên vi phạm trong việc chấp hành NQ, chỉ thị của Đảng 23.982 trường hợp; vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ 2.391 trường hợp [44, tr.51].
3.1.2.3. Một số cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, tổ chức thực hiện công tác
dân vận chưa hiệu quả, chưa quan tâm sâu sát, giúp Nhân dân phát triển sản
xuất, kinh doanh, chưa chăm lo nâng cao đời sống Nhân dân
Nhận thức về CTDV và triển khai thực hiện các chủ trương, NQ của Đảng về
CTDV vẫn chưa thực sự được quan tâm ở một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên. Công
tác triển khai, tổ chức thực hiện CTDV ở một số địa phương còn lúng túng, chưa
đồng bộ, chưa thường xuyên, thiếu sâu sát; vai trò, trách nhiệm tham mưu, đề xuất,
hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra của một số ban dân vận cấp ủy còn hạn chế. Sự phối
hợp, kết hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể chưa thực sự chặt chẽ, thường xuyên.
Một số cấp ủy, chính quyền duy ý chí trong phát triển kinh tế, xã hội, thiếu
chú trọng, quan tâm đến lợi ích chính đáng của Nhân dân, nhất là người lao động,
dẫn đến một số vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, phát triển đi lên của
đất nước có liên quan mật thiết đến quyền lợi, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân,
những vấn đề Nhân dân quan tâm chưa được tập trung nghiên cứu, tổng kết và xử
lý, giải quyết có hiệu quả gây nên những bức xúc trong quần chúng nhân dân. Vấn
đề đất cho nông dân sản xuất, canh tác vẫn là vấn đề tồn đọng dai dẳng chưa giải
quyết triệt để; chưa chấm dứt được tình trạng "được mùa mất giá", "được giá mất
mùa". Hàng loạt các mặt hàng nông sản không có thị trường tiêu thụ, ế ẩm, như
mận, vải, gần đây nhất là dưa hấu, tạo nên tâm lý bi quan, chán nản trong nông dân.
Cơ cấu xã hội, thành phần dân cư có thay đổi, đa dạng hơn, phức tạp hơn, đặt ra
nhiều vấn đề CTDV của Đảng phải giải quyết, nhưng Đảng chưa lãnh đạo đánh giá
đúng, kịp thời, cũng như chưa dự báo được những diễn biến, thay đổi qua từng giai
đoạn cách mạng để có chủ trương, chính sách phù hợp.
97
Một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ, sâu sát đến CTDV, chưa
cử được những cán bộ có phẩm chất, năng lực, kỹ năng làm CTDV; nói chưa đi đôi
với làm, còn xem nhẹ CTDV, còn mệnh lệnh, hành chính hóa trong CTDV. Công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng bộ máy, bố trí cán bộ làm tham mưu
về CTDV; cán bộ trực tiếp làm CTDV của MTTQ và các đoàn thể chưa tốt, chưa có
quan điểm, giải pháp cụ thể, chắp vá, hạn chế tính chuyên nghiệp, chưa ngang tầm
với yêu cầu đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV.
Kết quả điều tra của Ban Dân vận TW cho thấy: Về mức độ quan tâm đến
CTDV của các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội
ở địa phương, cơ sở, có tới 19,14% ý kiến cho rằng ít quan tâm và 1,52% ý kiến
cho rằng không quan tâm (xem phụ lục 4).
Đời sống của một bộ phận nhân dân gặp khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng
xa, vùng biên giới, hải đảo, công nhân lao động, cán bộ hành chính sự nghiệp.... Sự
chênh lệch về mức sống giữa nhóm giàu với nhóm nghèo có xu hướng giãn ra ngày
càng sâu sắc. Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, chênh lệch giữa 20% nhóm thu
nhập cao nhất với 20% nhóm thu nhập thấp nhất đã tăng từ 7,0 lần năm 1995 lên 8,9
lần năm 2009. Ở thành thị và nông thôn, khoảng cách này lần lượt là 8,2 lần lên 8,3
lần và từ 6,5 lần đến 6,9 lần trong cùng giai đoạn [7, tr.121]. Công nhân trong
doanh nghiệp Nhà nước có thu nhập thấp, lại chịu nhiều độc hại về sức khỏe, đời
sống khó khăn dẫn họ đến các cuộc bãi công tự phát. Đa số các dân tộc thiếu số sinh
sống ở các vùng sâu, vùng xa và những vùng cao là nơi có thu nhập thấp. Người
nghèo, những người sống ở khu vực nông thôn, miền núi, thành phố nhỏ, chưa có
nhiều cơ hội tiếp cận giáo dục và y tế chất lượng cao.
3.1.2.4. Việc lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống chính trị, xã hội để
phát huy thật sự vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất
nước của Đảng còn nhiều hạn chế; một số cấp ủy địa phương chưa thực sự dựa
vào Nhân dân để xây dựng Đảng
Cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" được xác định từ lâu
nhưng chưa có quy định để dân được kiểm tra có hiệu quả. Quá trình đổi mới của
Đảng chưa theo kịp với thực tiễn phát triển của xã hội, có chủ trương chưa sát với
thực tiễn, làm cản trở sự phát triển.
98
Thực hiện QCDC ở cơ sở còn có biểu hiện hình thức; đồng thuận xã hội chưa
cao. Nhận thức về dân chủ, về trách nhiệm thực hiện QCDC ở cơ sở của một số cấp
uỷ, chính quyền, của cán bộ, công chức còn hạn chế; chưa quan tâm chỉ đạo đầy đủ
trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và các loại hình doanh nghiệp;
trong các lĩnh vực thực hiện chế độ, chính sách, mức giá đền bù thu hồi đất, giải
phóng mặt bằng....
Những bức xúc, kiến nghị chính đáng của Nhân dân chưa được cấp ủy, tổ
chức đảng, chính quyền quan tâm giải quyết triệt để, chưa tập trung nghiên cứu,
tổng kết và xử lý dứt điểm, giải quyết chưa hiệu quả gây nên những bức xúc trong
quần chúng nhân dân. Vấn đề việc làm, khiếu kiện, đền bù thu hồi đất, tai nạn giao
thông, tệ nạn xã hội, tham nhũng, ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm... là
những vấn đề bức xúc của Nhân dân, chưa được quan tâm giải quyết thỏa đáng.
Trong quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH đất nước, một bộ phận nhân dân
không có đất sản xuất, đời sống khó khăn, thậm chí có nơi đang bị bần cùng hóa
dẫn đến khiếu kiện đông người, gay gắt, xung đột, kéo dài, tạo nên các "điểm nóng"
rất phức tạp. Tình hình khiếu kiện của nông dân (nhất là khiếu kiện về đất đai, đình
công, bãi công của công nhân đang có chiều hướng tăng lên). Một số nơi, tổ chức
đảng, mặt trận, đoàn thể ở cơ sở yếu kém, giảm sút vai trò lãnh đạo, không sát dân,
không nắm được tình hình Nhân dân, không đủ sức tuyên truyền vận động Nhân
dân, giải quyết những bức xúc của Nhân dân để xảy ra tình trạng Nhân dân tự phát
đấu tranh chống tiêu cực, khiếu kiện gay gắt, phức tạp, khó giải quyết như ở một số
tỉnh đồng bằng sông Hồng và nhiều tỉnh khác trong cả nước; hoặc bị các thế lực thù
địch, người xấu lợi dụng tuyên truyền, kích động, lôi kéo, tập hợp dân đi biểu tình,
bạo loạn ở các tỉnh Tây Nguyên.
Trong điều kiện KTTT định hướng XHCN, ý thức chấp hành kỷ cương, phép
nước của một bộ phận Nhân dân còn rất hạn chế, nhất là việc chấp hành, thực hiện
luật pháp, quyền và nghĩa vụ công dân. Tỷ lệ tội phạm ở nước ta cao, đặc biệt là tội
phạm về kinh tế, ma túy, tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã, thị trấn (chiếm
70%). Các tuyến, địa bàn tội phạm xảy ra nhiều: 5 thành phố lớn là Hà Nội, Hải
Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ (chiếm 25 - 30% tổng số vụ
phạm tội trên toàn quốc hàng năm); các tuyến Hà Nội và các tỉnh Đông Bắc (Hải
99
Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang...), thành phố Hồ Chí Minh - các tỉnh
miền Đông Nam bộ (Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu...), các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long (An Giang, Kiên Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Tiền Giang...),
các tỉnh miền Trung - Nam Trung bộ và Tây Nguyên (Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh
Hòa, Bình Định...).
3.1.2.5. Phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của một số cấp
uỷ, tổ chức đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu dân chủ, thiếu tôn trọng,
không học hỏi Nhân dân, đánh mất vai trò tiền phong, gương mẫu của người
cán bộ, đảng viên
Phong cách của một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền
các cấp (nhất là cơ sở) còn bộc lộ yếu kém, bất cập, chưa thực sự là công bộc của
Nhân dân, chưa làm gương để Nhân dân noi theo. Năng lực, kinh nghiệm và kỹ
năng vận động, thuyết phục Nhân dân còn hạn chế, chưa đủ khả năng vận động,
thuyết phục Nhân dân..
Một số cán bộ, đảng viên lơi lỏng, không chấp hành nghiêm các nguyên tắc
tổ chức, sinh hoạt đảng. Tình trạng nhạt Đảng, không coi trọng sinh hoạt đảng đang
diễn ra khá phổ biến. Nhiều cán bộ trong các cơ quan nhà nước, là lãnh đạo doanh
nghiệp nhà nước buộc phải giữ danh hiệu đảng viên để được bố trí chức vụ, nhưng
sinh hoạt đảng chiếu lệ, không thật sự đặt mình dưới sự giáo dục và quản lý của tổ
chức đảng; báo cáo với Đảng không trung thực; không tự giác và nghiêm khắc tự
phê bình và phê bình các thiếu sót, khuyết điểm của bản thân; thậm chí còn tập hợp
bè cánh, thâu tóm quyền lực… gây mất đoàn kết nội bộ.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo,
quản lý, thiếu tu dưỡng, rèn luyện đã bị cám dỗ bởi danh vọng, tiền tài, thoái hóa,
biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, xa rời và đi ngược lại lợi ích chính
đáng, hợp pháp của Nhân dân, làm tổn hại đến uy tín của Đảng, giảm sút niềm tin
của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chưa
thật sự tiên phong, gương mẫu trước Nhân dân. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của nhiều TCCSĐ giảm sút, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng còn
không ít khuyết điểm, yếu kém. Nghị quyết TW 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách
100
về xây dựng Đảng hiện nay", đã chỉ rõ: "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao
cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện,
vô nguyên tắc..."[ 34, tr.22].
Những hạn chế, yếu kém trong phong cách, lề lối làm việc của một số cấp
ủy, tổ chức đảng, của một bộ phận cán bộ, đảng viên được phản ánh qua số liệu
kiểm tra, kỷ luật. Trong nhiệm kỳ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng,
UBKT các cấp đã tiến hành kiểm tra cán bộ, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm về
thiếu trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao 22.682 trường
hợp; tiến hành giải quyết tố cáo cán bộ, đảng viên thiếu trách nhiệm trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao 2.883 trường hợp; xử lý kỷ luật 18.978 trường hợp
cán bộ, đảng viên vi phạm thiếu trách nhiệm [44, tr.79].
Cũng trong nhiệm kỳ ĐH X, các cấp ủy, chi bộ đã tiến hành kiểm tra cán bộ,
đảng viên chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước 215.437 trường hợp. Ủy
ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra cán bộ, đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước về: buôn lậu, trốn thuế 81
trường hợp; quản lý, sử dụng đất đai, nhà đất 3.748 trường hợp; các vi phạm chính
sách, pháp luật khác (về chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, về trợ cấp đồng
bào bão lụt; về thực hiện chính sách với người có công, thực hiện chế độ, chính
sách đối với thương binh, gia đình liệt sỹ; về quản lý, cấp phát, sử dụng văn bằng,
chứng chỉ không hợp pháp, trong hoạt động hành chính nhà nước và hoạt động tư
pháp) 8.469 trường hợp. Đã giải quyết tố cáo vi phạm chấp hành chính sách, pháp
luật của Nhà nước về: buôn lậu, trốn thuế 65 trường hợp; quản lý, sử dụng đất đai,
nhà đất 2.750 trường hợp; về các vi phạm khác 3.942 trường hợp [44, tr.85-86].
Cấp ủy, UBKT các cấp và chi bộ đã xử lý kỷ luật 30.835 cán bộ, đảng viên
vi phạm chính sách, pháp luật; trong đó, xử lý vi phạm về buôn lậu, trốn thuế 445
trường hợp; xử lý vi phạm về quản lý, sử dụng đất đai, nhà đất 4.253 trường hợp; xử
lý các vi phạm pháp luật khác 10.414 trường hợp. UBKT các cấp đã chuyển cho cơ
quan pháp luật xử lý nhiều vụ việc vi phạm nghiêm trọng chính sách, pháp luật của
Nhà nước, xử lý 3.478 đảng viên [44, tr.86-87].
101
Trong nhiệm kỳ ĐH X, UBKT các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về
phẩm chất, lối sống của cán bộ, đảng viên 10.176 trường hợp; kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm về gây mất đoàn kết nội bộ 3.730 trường hợp; kiểm tra dấu hiệu vi
phạm 400 trường hợp bao che, trù dập. Giải quyết tố cáo cán bộ, đảng viên vi phạm
về phẩm chất, đạo đức, lối sống 4.907 trường hợp; giải quyết 737 trường hợp bị tố
cáo mất đoàn kết nội bộ; giải quyết tố cáo 1.197 trường hợp [44, tr.68].
Cấp ủy các cấp, UBKT TW và UBKT các cấp đã xử lý kỷ luật 10.951 trường
hợp cán bộ, đảng viên vi phạm về phẩm chất, đạo đức, lối sống, góp phần quan trọng
vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm [44, tr.69].
3.1.2.6. Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân chưa thực sự hiệu quả; công tác dân vận của
chính quyền ở một số địa phương, cơ sở còn tồn tại nhiều khuyết điểm kéo dài,
chậm được khắc phục, thậm chí gây bức xúc cho Nhân dân
Công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN chưa theo kịp với yêu cầu
phát triển kinh tế và quản lý đất nước, hiệu lực và hiệu quả còn nhiều hạn chế. Một
số cơ chế chính sách của Nhà nước ban hành nhưng chưa cân đối nguồn lực để thực
hiện và chưa thực sự gắn với thực tế đời sống của người dân nên bộc lộ nhiều bất
cập. Bộ máy hành chính cồng kềnh thực hiện kém hiệu quả, CCHC, nhất là cải cách
thủ tục hành chính chưa tốt, một bộ phận công chức còn nhũng nhiễu dân, thực thi
công vụ thiếu công khai minh bạch, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân.
Công tác CCHC ở một số nơi còn chậm, chưa tạo sự chuyển biến tích cực
của cả bộ máy hành chính trong giải quyết các vấn đề liên quan đến tổ chức và công
dân; quy trình ban hành các văn bản quản lý, quy chế, quy định của chính quyền
một số địa phương có những việc chưa tranh thủ được đông đảo Nhân dân tham gia,
do vậy, hiệu lực thấp; một số văn bản sau khi ban hành một thời gian ngắn đã phải
tính đến việc sửa đổi, bổ sung.
Việc thể chế hóa một số chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách,
pháp luật của Nhà nước còn chậm, có những bất cập, chưa phù hợp với lợi ích chính
đáng của Nhân dân, gây nên những bức xúc trong Nhân dân, tạo nên những cuộc
bãi công, đình công với quy mô rộng lớn của các tầng lớp nhân dân. Điển hình là
vào cuối tháng 3 năm 2015, đã nổ ra cuộc đình công của hàng nghìn công nhân
102
Công ty Pouyuen Việt Nam (tại thành phố Hồ Chí Minh) phản đối quy định bảo
hiểm mới trong 5 ngày khiến giao thông tắc nghẽn.Vụ đình công bắt đầu từ sáng
ngày 26-3 khi hàng nghìn công nhân diễu hành trong khuôn viên của Công ty
Pouyuen (Khu công nghiệp Tân Tạo, phường Tân Tạo, quận Bình Tân) bày tỏ
không đồng tình các quy định mới của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 về việc không
cho người tham gia bảo hiểm xã hội được hưởng bảo hiểm xã hội một lần ngay sau
nghỉ việc như trước đây mà phải đợi đến tuổi nghỉ hưu. Có thể xem đây là cuộc
đình công có quy mô lớn đầu tiên của công nhân trong thời kỳ đổi mới đất nước,
phản đối chính sách của Nhà nước, đặt ra yêu cầu đối với cấp ủy, chính quyền, các
cấp lãnh đạo, quản lý trước khi ban hành chủ trương, chính sách cần xem xét, quan
tâm đến nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Mọi chủ trương,
quyết sách đều phải từ Nhân dân, hướng tới vì Nhân dân, phục vụ, đem lại lợi ích
của Nhân dân, mới nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân.
Trình độ quản lý vĩ mô của Nhà nước, chính quyền các cấp còn một số mặt
yếu kém, để tình trạng tham nhũng, lãng phí tiêu cực, lợi ích nhóm xảy ra. Ở một
số lĩnh vực, một số ngành, địa phương, cơ sở, còn có những vụ việc xử lý chưa
nghiêm minh, để giữ vững kỷ cương, phép nước, gây bức xúc trong xã hội, như
vấn đề đầu tư, xây dựng và quản lý đô thị, quản lý đất đai, hoạt động tài chính,
vấn nạn giao thông, tham nhũng, tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm, lừa đảo trong
hoạt động thương mại....
Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ chưa được cụ
thể hóa và thể chế hóa đầy đủ. Vẫn còn hiện tượng Đảng làm thay chính quyền và
ngược lại, Đảng buông lỏng sự lãnh đạo các tổ chức nhà nước. Có những tổ chức
đảng bao biện làm thay chính quyền, vi phạm nguyên tắc cơ quan quyền lực phải do
dân cử ra. Còn thiếu những cơ chế, những quy định rõ ràng cụ thể trong quan hệ
Đảng - Nhà nước nhằm nâng cao trách nhiệm lãnh đạo của Đảng, phát huy đầy đủ
hiệu lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước. Một số người phụ trách cơ
quan nhà nước thiếu tính đảng, thường nhân danh "pháp luật là tối thượng", không
coi trọng sự chỉ đạo của tổ chức đảng. Trong hệ thống tổ chức bộ máy giữa Đảng và
Nhà nước có hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, đang cố gắng tìm cách giải quyết,
song nhiều khi còn lúng túng hoặc thiếu quyết tâm.
103
Công tác dân vận của chính quyền ở một số địa phương còn tồn tại nhiều
khuyết điểm, chậm khắc phục. Nhận thức về CTDV trong hoạt động quản lý, điều
hành của bộ máy chính quyền và cơ quan nhà nước ở một vài địa phương chưa thật
đầy đủ và thường xuyên. Việc học tập, quán triệt các quan điểm, tư tưởng về dân
vận, các NQ, văn bản của Đảng, của Chính phủ về dân vận ở một số nơi còn hình
thức, chưa đi vào thực chất, chưa thực sự mang lại hiệu quả. Do vậy, việc triển khai
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn ở một số cấp, ngành và trên một số lĩnh vực còn
nặng về biện pháp hành chính, mệnh lệnh, thiếu sự vận động, thuyết phục Nhân dân
thực hiện.
Một số nơi, chính quyền chưa thực sự coi trọng CTDV, chưa quan tâm đến
lợi ích của người dân. Sự phối hợp giữa chính quyền, Mặt trận, các ban, ngành,
đoàn thể trong CTDV thiếu chặt chẽ; nói chưa đi đôi với làm, việc nắm bắt tình
hình để tham mưu, đề xuất xử lý những vấn đề bức xúc của Nhân dân chưa nhạy
bén, kịp thời.
3.1.2.7. Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội còn những
bất cập; một số nơi chưa phát triển sâu rộng các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội
của Nhân dân
Đảng, Nhà nước chậm ban hành cụ thể các văn bản pháp quy về cơ chế giám
sát và phản biện xã hội của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội; chậm đổi mới
nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng về CTDV và đối với MTTQ và
các đoàn thể chính trị-xã hội; chậm khắc phục tình trạng hành chính hóa và chạy
theo thành tích trong hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội. Cơ chế,
chính sách đãi ngộ cho cán bộ cơ sở chưa hợp lý, đời sống của cán bộ Mặt trận và
đoàn thể còn nhiều khó khăn nên ít nhiều đã ảnh hưởng đến thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nhiều nơi
trong vai trò là cầu nối giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước còn mờ nhạt, yếu kém.
Việc chỉ đạo phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận, đoàn thể ở một số địa phương
chưa được gắn kết chặt chẽ. Nội dung, phương thức tổ chức, hoạt động của MTTQ
và các đoàn thể nhân dân nhìn chung chậm được đổi mới, một số hoạt động còn
"hành chính hóa"; phương thức công tác còn nhiều lúng túng, hiệu quả chưa cao,
104
chưa thực sự sâu sát với quần chúng, chưa hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng; còn có tình trạng ở một số không ít cơ sở, khi xảy ra vấn đề phức tạp, đoàn
thể không nắm được tình hình, không phát huy được vai trò của đoàn viên, hội viên.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng bộ máy, bố trí cán bộ của
MTTQ và các đoàn thể chưa được quan tâm thỏa đáng, chưa có quan điểm, giải
pháp cụ thể, chắp vá, hạn chế tính chuyên nghiệp, chưa ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ mới.
3.1.2.8. Cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong Đảng và hệ thống chính trị chưa thực sự hiệu quả, làm giảm sút niềm tin
của Nhân dân đối với Đảng và chế độ do Đảng lãnh đạo
Nghị quyết ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
"tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng
cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng" [26, tr.263-264]
Cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân là tình trạng suy
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên gây nên những bức xúc xã hội. Nhân dân rất bức xúc về tình hình tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy danh hiệu thi đua,
chạy tuổi... của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức có quyền; tiêu
cực trong y tế, giáo dục; tệ nạn ăn hối lộ của công chức, viên chức nhà nước trong
quan hệ giao dịch hành chính với Nhân dân, doanh nghiệp; tình trạng thiếu trách
nhiệm, yếu kém trong lãnh đạo của một số tổ chức đảng; yếu kém trong quản lý,
điều hành, tổ chức thực hiện của một số cơ quan Nhà nước, của chính quyền các
cấp để thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, của Nhân dân; những người có chức, có
quyền khi sai phạm, chưa được xử lý nghiêm, một số vụ sai phạm lớn nhưng người
đứng đầu, quản lý, điều hành không bị kỷ luật, không chịu trách nhiệm.
Nhân dân rất bức xúc về tình trạng thoái hóa, biến chất, quan liêu, mất dân
chủ, thiếu gương mẫu của một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý có chức, có quyền
hiện nay và tình hình xuống cấp đạo đức xã hội, tội phạm hình sự, nạn cờ bạc, ma
105
túy, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm, giá cả các mặt hàng
tiêu dùng thiết yếu tăng cao... (xem phụ lục 8).
Trước vấn nạn đó, Đảng và Nhà nước chưa tập trung cao để giải quyết tình
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu một cách triệt để, chậm đưa ra truy tố, xét xử
những vụ tiêu cực đã phát hiện của một số cán bộ, đảng viên. Trong hệ thống bộ
máy chính quyền các cấp - nơi dễ nảy sinh tham nhũng, tiêu cực nhất là những khu
vực có những hoạt động độc quyền: hệ thống thu thuế, hải quan, cảnh sát (nhất là
cảnh sát giao thông), các cơ quan có quyền ban hành các giấy phép xây dựng và các
quyết định quy hoạch đất đai, ban hành các giấy phép kinh doanh và các loại giấy
phép khác (kể cả giấy phép lái xe), các đơn đặt hàng của Nhà nước cho các dịch vụ
công cộng.... Tham nhũng còn xuất hiện trong việc bổ nhiệm các chức vụ trong các
cơ quan có nhiều cơ hội "thu lợi nhuận" cho những người trong gia đình, bà con, họ
hàng, bạn bè....
Số vụ tiêu cực được phát hiện ngày càng tăng, quy mô và mức độ thiệt hại
ngày càng lớn và tính chất ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn ngày càng tinh vi.
Thực tế cho thấy, một số vụ án lớn gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đối với tài
sản của Nhà nước nhưng lại không phát hiện được hành vi tham nhũng hoặc ban
đầu khởi tố, điều tra về hành vi tham nhũng nhưng sau đó lại chuyển sang các tội
danh khác nhẹ hơn như tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng... đã gây
bất bình, bức xúc trong cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và quần chúng
nhân dân. Theo Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng năm
2012 trước Ủy ban Thường vụ QH ngày 19-9-2012: Số vụ tham nhũng được khởi
tố, điều tra, truy tố năm 2012 đều tăng hơn so với cùng kỳ năm trước, cụ thể lực
lượng cảnh sát điều tra tội phạm tham nhũng của công an đã thụ lý 551 vụ án, 1.277
bị can phạm tội về tham nhũng, trong đó khởi tố 222 vụ, 469 bị can (so với cùng kỳ
năm trước tăng 80 vụ và 224 bị can). Viện Kiểm sát nhân dân đã thụ lý kiểm sát
điều tra 225 vụ, 450 bị can về tham nhũng (so với cùng kỳ năm trước tăng 42 vụ).
Tòa án các cấp đã xét xử sơ thẩm 167 vụ, 338 bị cáo về các tội danh tham nhũng,
trong đó, tỷ lệ tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
chiếm 44,1% (năm 2011, tỷ lệ này là 31,7%) [7, tr.127]. Như vậy, mặc dù cuộc đấu
106
tranh phòng, chống tham nhũng vẫn được tiến hành thường xuyên, song số lượng
các vụ tham nhũng, tiêu cực được phát hiện ngày càng tăng, cho thấy chế tài chưa
đủ mạnh, xử lý chưa kiên quyết, triệt để, chưa có tác dụng răn đe, ngăn chặn tham
nhũng phát sinh.
Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
kết quả thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng còn nhiều hạn chế. Số vụ án tham
nhũng được khởi tố, điều tra chưa tương xứng với tình hình tham nhũng nghiêm
trọng hiện nay. Các vụ việc tham nhũng được phát hiện và xét xử chủ yếu liên quan
đến cấp xã, doanh nghiệp, cán bộ của chính quyền cơ sở, cán bộ của doanh nghiệp,
nhân viên thừa hành. Việc xử lý các vụ án còn nhiều khó khăn do bị tác động, do tư
tưởng hữu khuynh, xử lý "nhẹ trên, nặng dưới", lạm dụng xử lý kỷ luật hành chính,
nội bộ, mức án treo…Một số vụ việc xử lý kéo dài, thiếu thống nhất đã gây nên dư
luận không thuận về quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước.
Việc hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng còn chậm. Một số quy
định được ban hành thiếu tính khả thi và trong thực hiện có nhiều vướng mắc nhưng
chậm được điều chỉnh, hướng dẫn, làm ảnh hưởng đến việc chấp hành của cán bộ,
đảng viên cũng như khó khăn cho việc kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên trong
chỉ đạo và thực hiện, trong việc chấp hành và xem xét, xử lý khi có vi phạm.
Việc tự phát hiện, khai báo tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên trong
từng cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị còn hạn chế. Số vụ việc, vụ án tham
nhũng được phát hiện qua kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra, kiểm toán, tự phê
bình và phê bình, qua phản ánh, tố cáo của đảng viên, quần chúng và kết quả xử lý
còn thấp, chưa tương xứng với tình hình tham nhũng đang diễn ra. Một số vụ việc,
vụ án tham nhũng xử lý chậm, kéo dài, gây tâm lý hoài nghi trong Nhân dân về tính
nghiêm minh của pháp luật và kỷ luật, kỷ cương của Đảng.
Tình trạng sa sút phẩm chất, nhũng nhiễu, gây phiền hà của một bộ phận cán
bộ, công chức trong thi hành công vụ chậm được khắc phục. Hiện tượng "chạy
chức", "chạy quyền", "chạy tội", "chạy tuổi" chưa được quan tâm chỉ đạo làm rõ. Sự
yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, giám sát dẫn đến các
sai phạm của tập thể, cán bộ, đảng viên, công chức, gây thất thoát lớn tiền, tài sản
của Nhà nước trong một số doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị. Theo số liệu tổng hợp
107
của Ban Dân vận TW, tổng số vụ tham nhũng được giải quyết từ năm 2007 đến năm
2012 là 1.725 vụ, với 3.725 bị can [xem phụ lục 10].
Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng
chậm được phát hiện, ngăn chặn làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng,
làm giảm sút năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cũng như lòng tin của
Nhân dân. Nhân dân giảm sút lòng tin, có lúc có nơi, có việc rất nghiêm trọng về
những hạn chế, hiệu quả thấp của các giải pháp đấu tranh phòng chống, ngăn chặn
tham nhũng, lãng phí và sàng lọc cán bộ, đảng viên làm trong sạch bộ máy của
Đảng, Nhà nước và giải quyết các khó khăn, bức xúc trong cuộc sống của Nhân dân
hiện nay. Theo kết quả điều tra, khảo sát của Ban Dân vận TW: Lòng tin của nhân
dân đối với cấp ủy đảng, chính quyền giảm sút nghiêm trọng, chỉ có 56,22% ý kiến
cho rằng họ rất tin tưởng, còn lại 35,84% cho rằng ít tin tưởng và đặc biệt có tới
2,26% ý kiến cho rằng không tin tưởng. Thêm vào đó, uy tín của Đảng cũng giảm
sút nghiêm trọng, khi có tới 53,20% ý kiến trả lời là giảm sút và có tới 7,92% cho
rằng uy tín của Đảng giảm sút nghiêm trọng (xem phụ lục 5).
Sau thời gian triển khai, tổ chức thực hiện NQ Hội nghị TW 4 (khóa XI) về
"Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay", tuy đã đạt được những kết
quả bước đầu, song, đa số nhân dân, nhất là cán bộ lão thành, cán bộ nghỉ hưu cho
là: Đảng đề ra là đúng, hợp với nguyện vọng của Nhân dân, nhưng tổ chức thực
hiện, kết quả đạt được còn nhiều hạn chế so với yêu cầu đề ra và mong đợi của
Nhân dân; đòi hỏi Đảng phải có những giải pháp lãnh đạo phát huy cao độ vai trò
của Nhân dân để Nhân dân tham gia giải quyết tình hình cấp bách hiện nay.
3.1.2.9. Công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân còn hạn chế; việc phòng ngừa, phát hiện,
xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân thiếu chủ động, chưa kịp thời
Thực tiễn cho thấy, do chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về nội dung,
phương thức thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, nên việc
thực hiện nguyên tắc này tại các đảng bộ địa phương, đơn vị, có lúc, có nơi còn xem
nhẹ, có biểu hiện hình thức, qua loa, đại khái. Công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết
việc thực hiện nguyên tắc này cũng chưa được triển khai rộng rãi trong toàn Đảng,
tại tất cả các TCCSĐ.
108
Hoạt động kiểm tra, giám sát liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân hiện nay, chủ yếu tập trung vào kiểm tra thực hiện
QCDC ở cơ sở. Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện những hạn chế, yếu kém
trong thực hiện QCDC ở cơ sở. Nhận thức về dân chủ, trách nhiệm thực hiện
QCDC ở cơ sở của một số cấp ủy, chính quyền, của một số cán bộ, công chức chưa
đầy đủ. Trong chỉ đạo, lãnh đạo tổ chức thực hiện còn thụ động chờ vào những quy
định của cấp trên mà chưa thấy hết trách nhiệm của mình phải chủ động rà soát
những việc cần phải mở rộng dân chủ để chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện.
Một số nơi chưa thực hiện đầy đủ các quy định, quy trình về thực hiện công
khai, dân chủ, nhất là trong việc thực hiện chế độ, chính sách, mức giá đền bù thu
hồi đất, giải phóng mặt bằng, thậm chí còn lợi dụng, xâm hại đến lợi ích của Nhà
nước, của Nhân dân. Một số vụ việc giải quyết thiếu thống nhất, không công khai,
gây bức xúc, làm nảy sinh điểm nóng.
Còn nhiều lúng túng trong việc xây dựng và thực hiện QCDC ở các loại hình
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài và các loại hình
dịch vụ ngoài công lập (trường tư thục, bệnh viện tư nhân). Còn không ít cơ quan,
đơn vị chưa quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện QCDC ở cơ sở; chưa coi trọng
việc tổng kết các quy chế, quy định đã ban hành. Nhiều lĩnh vực mới phát sinh, có
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của cán bộ, người lao động, của Nhân dân
chưa được nghiên cứu, chỉ đạo, điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Nhiều công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa triển khai thực hiện, chưa chủ động xây
dựng quy chế, quy trình thực hiện công khai, dân chủ.
Trách nhiệm của một số bộ, ngành và chính quyền địa phương trong lãnh
đạo, chỉ đạo còn hạn chế, chưa quan tâm xây dựng, hướng dẫn quy chế "mẫu", thiếu
kiểm tra theo hệ thống ngành dọc; không ít các cơ quan đảng, chính quyền chưa có
ban chỉ đạo; nơi đã có, không kịp thời kiện toàn, thiếu kiểm tra đôn đốc; việc sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm chưa kịp thời.
Chất lượng thực hiện QCDC có lúc, có nơi còn hình thức, hiệu quả thấp.
Tình trạng mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, thiếu tôn trọng dân
vẫn chậm khắc phục. Một số nơi, cán bộ mất đoàn kết, tính chiến đấu chưa cao.
Việc tổ chức Nhân dân tham gia giám sát, góp ý vào các chủ trương, chính sách của
109
Đảng và Nhà nước, của địa phương, góp ý cho cán bộ, đảng viên, góp ý xây dựng
Đảng, chính quyền kết quả còn hạn chế.
Nhiều cấp ủy, chính quyền địa phương chưa chú trọng phòng ngừa, phát
hiện sớm, xử lý kịp thời các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
của Nhân dân, chưa giải quyết triệt để những bức xúc chính đáng của Nhân dân nên
để xảy ra những vụ khiếu kiện, tụ tập đông người, có nơi tạo thành những "điểm
nóng" chính trị - xã hội.
Từ khi Đảng ta lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đến nay, có rất nhiều vụ
tụ tập đông người tại các địa phương trên cả nước do vi phạm dân chủ, gây nên
những bức xúc bất bình trong Nhân dân. Theo thống kê của Ban Dân vận TW, từ
năm 2006 đến nay, có tới 12 vụ việc điển hình mà TW đã chỉ đạo giải quyết, tổng
kết và rút kinh nghiệm. Những vụ việc tụ tập, khiếu kiện đông người hầu hết đều
liên quan đến chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, vấn đề đất đai. Có những vụ
việc, cấp ủy, chính quyền địa phương đã vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, có
lúc, có nơi rất nghiêm trọng, tạo nên những phản ứng trong Nhân dân. Thực hiện
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cấp ủy, tổ chức đảng lẽ ra phải kịp
thời phát hiện, xử lý những vi phạm dân chủ, những sai phạm trong quá trình đền bù
giải phóng mặt bằng, đem lại công bằng cho Nhân dân, làm yên lòng dân, hóa giải
mâu thuẫn, xung đột tại địa phương.
3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.2.1. Nguyên nhân
3.2.1.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Kể từ sau khi nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân được quy định
trong Điều lệ Đảng thông qua tại ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006
đến nay), các tổ chức đảng, cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã
tích cực quán triệt, thực hiện nguyên tắc. Những ưu điểm trong thực hiện nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả
nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân chủ quan
Một là, ĐCS Việt Nam là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên
110
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc. Bản chất của Đảng quy định hành
động của đội ngũ cán bộ, đảng viên; yêu cầu, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng phải hoạt động phục vụ mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phục vụ Nhân dân, đặt
lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân, của Đảng lên trên lợi ích cá nhân. Đây là nguyên
nhân quan trọng để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
trong tình hình hiện nay.
Hai là, đa số cấp ủy các cấp và đội ngũ đảng viên đã có nhận thức, xác định
rõ trách nhiệm đối với việc thực hiện nguyên tắc, đã tích cực chủ động triển khai
thực hiện và tự giác thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong
thực tiễn.
Ba là, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phần lớn xuất thân từ công nhân,
nông dân, trí thức. Lớp cán bộ, đảng viên trẻ cũng từ con em công nhân, nông dân,
trí thức mà ra; nhiều người trong số họ là thế hệ đảng viên thứ hai, thứ ba trong gia
đình truyền thống cách mạng, cha ông họ cũng là đảng viên, nên ít nhiều được thấm
nhuần đạo đức cách mạng, nắm vững lý tưởng của Đảng; không quên cội nguồn
xuất thân nên trong hoạt động thực tiễn họ gần dân, gắn bó với Nhân dân, không xa
rời Nhân dân.
Bốn là, ĐCS Việt Nam đã kịp thời đổi mới CTDV, giữ mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; phát huy được vai trò, sức mạnh của
Nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH.
Nguyên nhân khách quan
Một là, công cuộc đổi mới đất nước phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ngày càng phát triển,
xu thế hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa, đặt ra yêu cầu to lớn đối với
ĐCS Việt Nam cầm quyền. Đảng cần đủ bản lĩnh, trí tuệ và năng lực để lãnh đạo đất
nước, lãnh đạo Nhân dân trong bối cảnh quốc tế và trong nước vô cùng phức tạp, thời
cơ và thách thức đan xen. Để lãnh đạo đất nước phát triển, tiếp tục được Nhân dân tin
yêu, ủng hộ, Đảng cần thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân,
coi đây là chìa khóa làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng hiện nay.
111
Hai là, sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đối với
Đảng và Nhà nước ta hòng phá hoại Đảng, phá hoại chế độ, bằng chiến lược "diễn
biến hòa bình", hòng làm chia rẽ Nhân dân với Đảng, nhất là bộ phận nhân dân ở
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo cũng đặt ra yêu cầu Đảng phải gắn bó
mật thiết với Nhân dân. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ phá tan mọi âm mưu thâm
độc của kẻ thù, củng cố, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, không kẻ
thù nào có thể chia rẽ được Nhân dân với Đảng, không thế lực nào có thể lôi kéo
Nhân dân ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là, truyền thống Đảng gắn bó với Nhân dân, Nhân dân gắn bó với Đảng có
bề dày lịch sử, là tiền đề tốt để thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân. Nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
truyền thống cách mạng, tin Đảng và theo Đảng làm cách mạng được vun đắp hàng
ngàn năm lịch sử, trải qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, được hưởng
những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo, nên luôn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng. Đây là nguyên nhân quan trọng để nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân được triển khai, thực hiện trong cuộc sống, nhận được sự tương tác,
hưởng ứng của Nhân dân, chứ không phải sự áp đặt một chiều từ phía Đảng.
3.2.1.2. Nguyên nhân của hạn chế
Nguyên nhân chủ quan
Một là, nhận thức về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của
một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân còn hạn chế. Công tác nghiên cứu,
hướng dẫn thực hiện nguyên tắc này chưa cụ thể, chưa thường xuyên.
Hai là, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền có lúc,
có nơi còn thiếu trách nhiệm trong thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân. Có cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, lợi dụng, lạm dụng
các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng (nguyên tắc tập trung dân chủ) để hiện
thực hóa ý chí của người đứng đầu, chà đạp lên quyền dân chủ của cán bộ, đảng
viên và Nhân dân, dẫn đến vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
Ba là, công tác xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
112
đấu của Đảng của nhiều cấp ủy còn hạn chế. Chậm ban hành cơ chế giám sát và phản
biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ chế để MTTQ, các đoàn
thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu trước Nhân dân.
Bốn là, Nhà nước chậm thể chế hóa một số chủ trương, NQ của Đảng thành
chính sách, pháp luật, chưa cân đối, bố trí đủ nguồn lực trong tổ chức thực hiện, chưa
tập trung chỉ đạo giải quyết tích cực, kịp thời một số bức xúc, kiến nghị chính đáng
của Nhân dân. Thực hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương xã hội và công tác
tuyên truyền, quản lý nhà nước về thông tin (nhất là thông tin mạng) chưa tốt.
Năm là, sự phối hợp thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
trong hệ thống tổ chức của Đảng và với các tổ chức trong HTCT chưa chặt chẽ. Công
tác tham mưu của ban dân vận các cấp và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Sáu là, công tác kiểm tra, giám sát ở nhiều nơi kém hiệu quả, thậm chí bị coi
nhẹ, không phát hiện được các vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân hoặc phát hiện được nhưng không dám đấu tranh vì sợ "đấu tranh tránh đâu", sợ
bị trù dập, ức hiếp, bởi tình trạng kéo bè, kéo cánh, ô dù, cục bộ, địa phương vẫn
tồn tại ở không ít cấp ủy địa phương, đơn vị là rào cản thủ tiêu động lực đấu tranh
tự phê bình và phê bình, đấu tranh vì công lý của những cán bộ, đảng viên kiên
trung, chân chính.
Nguyên nhân khách quan
Một là, nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một trong 3
nguyên tắc mới được khẳng định, bổ sung từ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng. Cho đến nay, vẫn chưa có những quy định, hướng dẫn, chưa có văn bản cụ
thể của Trung ương và của cấp ủy địa phương về nội dung của nguyên tắc cũng như
phương thức thực hiện nguyên tắc, nên gây ra những khó khăn, bất cập trong quá
trình thực hiện.
Hai là, một trong những nguy cơ của Đảng cầm quyền, như V.I.Lênin đã
cảnh báo là quan liêu, xa rời quần chúng, tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng.
113
Đây là nguyên nhân làm rạn nứt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhân dân, cản
trở quá trình thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Ba là, công cuộc đổi mới đất nước là một quá trình vừa làm vừa nghiên cứu
tổng kết kinh nghiệm, hoàn thiện về quan điểm đường lối, cơ chế, chính sách, luật
pháp, nên không thể tránh khỏi những hạn chế, yếu kém nói chung và việc thực hiện
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Bốn là, những tác động của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, lối sống thực
dụng, vị kỷ không chỉ tác động tới các tầng lớp nhân dân mà còn tác động, chi phối,
ảnh hưởng đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, có ảnh hưởng nghiêm
trọng đến số đảng viên có chức, có quyền. Mải chạy theo tiền tài, địa vị, danh vọng,
số cán bộ này dần rơi vào tệ quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân, dẫn đến vi
phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Năm là, những khó khăn về kinh tế - xã hội của đất nước, về đời sống vật
chất và tinh thần của Nhân dân do tác động của khủng hoảng tài chính, suy giảm
kinh tế toàn cầu; tư duy, phong cách làm việc cũ của thời kỳ tập trung quan liêu bao
cấp vẫn tồn tại ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; tư tưởng phong kiến, chuyên
quyền, độc đoán, gia trưởng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý; cùng với âm
mưu thâm độc của các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá, chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân là
nguyên nhân khách quan dẫn đến những hạn chế trong thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân.
3.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết để thực hiện tốt nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
3.2.2.1. Sự tha hóa quyền lực của đảng cầm quyền và nguy cơ quan liêu,
xa rời Nhân dân của đảng cộng sản cầm quyền
Trong thế giới này có hai sự tha hóa nguy hiểm nhất là sự tha hóa lao động và
sự tha hóa quyền lực. Với đảng cầm quyền, sự tha hóa quyền lực là thực sự đáng sợ.
Bài học lịch sử từ sau thắng lợi Cách mạng tháng Mười Nga cho đến khi Liên Xô
sụp đổ cho thấy: khi chỉ với số ít ỏi đảng viên, ĐCS Bôn-sê-vích Nga lãnh đạo nhân
dân giành thắng lợi Cách mạng tháng Mười Nga; khi có hơn 5 triệu đảng viên lãnh
114
đạo nhân dân chiến thắng phát xít, có được chiến công hiển hách trong Chiến tranh
thế giới thứ II, cứu loài người khỏi họa phát xít; vậy mà khi có tới 20.000.000 đảng
viên thì lại để mất địa vị cầm quyền, mất Đảng, mất chế độ XHCN, trong khi kẻ thù
của chế độ XHCN không tốn một mũi tên, viên đạn nào còn nhân dân thì chẳng ai
đứng ra bảo vệ ĐCS, bảo vệ chính quyền Xôviết.
Vấn đề đặt ra ở đây là, khi chưa giành được chính quyền, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân đấu tranh cho mục tiêu, lý tưởng cao cả, giành chính quyền về tay nhân
dân lao động, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Khi chưa cầm quyền, vào Đảng
đồng nghĩa với việc chấp nhận hy sinh, gian khổ, vào Đảng vì mục tiêu, lý tưởng
cao đẹp. Sau khi giành được chính quyền, trở thành đảng cầm quyền, Đảng dễ rơi
vào tình trạng tha hóa quyền lực, Đảng dễ rơi vào hai nguy cơ sai lầm về đường lối
và quan liêu, xa rời quần chúng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, những vị trí chủ
chốt trong HTCT hầu hết đều do cán bộ đảng, đảng viên nắm giữ. Đó là thực tế
khách quan để bảo đảm vai trò, vị thế cầm quyền của Đảng. Khi người cán bộ, đảng
viên có chức, có quyền, gắn liền với bổng lộc, lợi ích. Hằng ngày họ làm việc trong
cơ quan, công sở, sống trong biệt thự, nhà riêng, đi xe ôtô riêng, ít có thời gian để
tiếp xúc, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với Nhân dân như ngày còn kháng chiến. Đảng
và Nhân dân dần trở nên xa cách, bởi chính môi trường sống, cách sống xa hoa,
lãng phí, khác biệt với Nhân dân của một bộ phận đảng viên có chức, có quyền. Một
ngôi nhà biệt thự bề thế, hoành tráng của một vị quan chức được dựng lên, đối
nghịch với sự nghèo khó, rách rưới bởi căn nhà xiêu vẹo của người dân tại một làng
quê nghèo - bức tranh tương phản ấy đủ làm cho Nhân dân hoài nghi, đặt câu hỏi về
trách nhiệm của đảng cầm quyền. Quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực của Nhà
nước là do Nhân dân trao cho Đảng, cho Nhà nước, Nhân dân ủy quyền cho Đảng,
cho Nhà nước thay mặt họ lãnh đạo, điều hành, quản lý xã hội. Quyền lực đó là của
Nhân dân, do Nhân dân thì những người thực thi quyền lực phải vì Nhân dân. Tuy
nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên của Đảng hiện nay đang rơi vào
tình trạng tha hóa quyền lực, họ trở nên quan liêu, tham nhũng, lãng phí, hoạt động
vô nguyên tắc.
Quan liêu, xa dân trở thành một xu thế của bộ máy nhà nước, một nguy cơ
115
thường trực của bất cứ đảng cầm quyền nào. Vậy, ĐCS Việt Nam phải làm gì và
làm như thế nào để ngăn chặn được sự tha hóa quyền lực trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên của Đảng hiện nay? Làm thế nào để khắc phục được xu thế
quan liêu của bộ máy công quyền? ĐCS Việt Nam có ngăn chặn được sự tha hóa
quyền lực, vượt lên được chính mình hay không? Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân liệu có được quán triệt, thực hiện nghiêm túc trong toàn Đảng, trong
tất cả các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hay không, hay vẫn
còn những cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cố tình vi phạm nguyên tắc vì lợi
ích của chính họ? Đảng có giữ được sự gắn bó mật thiết với Nhân dân hay không,
có chiếm trọn được lòng tin yêu của Nhân dân hay không là phụ thuộc vào chính
bản thân Đảng, vào chính đội ngũ cán bộ đảng, đảng viên.
3.2.2.2. Trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong xây
dựng đội ngũ cán bộ thực sự là "công bộc", là "đày tớ" của Nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng cầm quyền, Đảng duy nhất cầm quyền
trong HTCT Việt Nam. Đảng phải gánh trọng trách và phải chịu trách nhiệm trước
toàn xã hội. Chính quyền các cấp có sai sót, Đảng phải chịu trách nhiệm. Kinh tế
không phát triển, Nhân dân đói khổ, Đảng phải chịu trách nhiệm. Văn hóa -xã hội
kém, Đảng phải chịu trách nhiệm. Mọi thành công hay thất bại trong công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều gắn liền với trách nhiệm của đảng cầm
quyền. Một ông chủ tịch sai, một ông bộ trưởng sai là trách nhiệm thực thi của cá
nhân. Nhưng hàng loạt bộ trưởng sai, hàng loạt chủ tịch sai, hàng loạt cán bộ, công
chức hư hỏng, không còn là chuyện cá nhân thực thi nữa, mà là đường lối cán bộ, là
trách nhiệm của đảng cầm quyền.
Cùng với sự phát triển của KTTT định hướng XHCN, quan hệ hàng hóa, tiền
tệ len lỏi, xâm nhập vào mọi ngóc ngách của đời sống chính trị nước ta. Khi trọng
trách nằm trong tay một bộ phận đảng viên có chức vụ, có quyền lực, khi công tác
cán bộ là một trong những phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, nếu Đảng
không nghiêm, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách không được thực hiện
nghiêm túc, nguyên tắc tập trung dân chủ bị xem nhẹ, chỉ đề cao quyền lực tập
trung của người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, mặt dân chủ bị xem nhẹ thì sẽ
116
còn tình trạng lợi dụng ô dù, tiền bạc để chạy chức, chạy quyền, làm tha hóa đội
ngũ cán bộ ta. Một khi chức vụ có được không phải bằng tài năng, nhân cách, đức
độ, cán bộ được bổ nhiệm không phải do tín nhiệm của quần chúng, mà là sự áp đặt
từ phía tổ chức, từ ý chí của người đứng đầu, tất yếu sẽ nảy sinh trong nội bộ những
mâu thuẫn, sẽ dẫn đến tình trạng mất đoàn kết, sẽ thủ tiêu ý chí phấn đấu, vươn lên
của những người có thực tài. Hơn thế nữa, khi những người kém đức, kém tài được
bổ nhiệm vào những vị trí lãnh đạo, quản lý sẽ là thảm họa cho tổ chức, sẽ kéo lùi
sự phát triển của tổ chức, đời sống của cá nhân trong tổ chức sẽ trở nên ngột ngạt.
Vấn đề đặt ra ở đây là, ĐCS Việt Nam cầm quyền phải làm tốt công tác cán bộ, từ
khâu tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải hết sức công tâm,
khách quan, phải từ việc mà dùng người, chứ không phải từ người mà sắp xếp việc
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Khi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng được
bố trí vào những vị trí xứng đáng, khi quyền lực được trao vào tay những cán bộ
được quần chúng, Nhân dân lựa chọn, ắt sẽ không phụ lòng trông mong của quần
chúng, sẽ phát huy được tài năng, tâm đức, phụng sự cách mạng, phụng sự Tổ quốc,
phụng sự Nhân dân. Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân luôn được đội
ngũ cán bộ, đảng viên này quán triệt, thực hiện, tất yếu sẽ củng cố, bồi đắp niềm tin
Nhân dân đối với Đảng.
3.2.2.3. Vấn đề lợi ích và vai trò "nêu gương" của cán bộ, đảng viên trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa,
hội nhập quốc tế
Điều đáng trân trọng nhất là trong điều kiện KTTT định hướng XHCN, dưới
tác động của cơ chế thị trường, những quan hệ hàng hóa, tiền tệ chi phối nhưng một
bộ phận cán bộ, đảng viên chân chính ở các cương vị công tác vẫn giữ được phẩm
chất đạo đức cách mạng, sống liêm chính, gần gũi, gắn bó mật thiết với Nhân dân,
được Nhân dân tin yêu, nể trọng. Đặc biệt, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên lão
thành, cựu chiến binh một đời cần, kiệm, liêm chính, nay về hưu vẫn giữ nếp sống
đạo đức thanh cao, hết lòng động viên, giáo dục con cháu phục vụ đất nước, nhiệt
tình tham gia công tác ở nơi cư trú, thực sự là tấm gương sáng mẫu mực cho các thế
hệ noi theo. Những cán bộ, đảng viên còn giữ vững phẩm chất cộng sản đã thực
117
hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân một cách triệt để. Họ là ngọn
đuốc, là niềm tin để quần chúng phấn đấu vào Đảng, gắn bó với Đảng, tin Đảng,
nghe Đảng và theo Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó như nhận định của Đảng: một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, nhạt phai lý
tưởng. Nhân dân ta đánh giá một bộ phận cán bộ, đảng viên như những ông "quan
cách mạng" ở địa phương, xa cách với Nhân dân từ tác phong cho đến lối sống; sự
giàu có bất chính và thói quan liêu gây nhiều hình ảnh phản cảm, làm giảm sút
nghiêm trọng uy tín của Đảng trước Nhân dân, suy giảm niềm tin của Nhân dân đối
với Đảng. Hình ảnh người đảng viên giản dị đi vào quần chúng, "cùng ăn, cùng ở,
cùng làm với quần chúng", "đảng viên đi trước, làng nước theo sau" bây giờ trở nên
rất hiếm.
Đảng Cộng sản Việt Nam không có mục đích tự thân, Đảng chỉ có một mục
đích duy nhất là làm cho đất nước giàu mạnh, làm cho đồng bào được sung sướng,
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành như lời Bác Hồ đã dạy. Thực tế
hiện nay lại cho thấy, một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức vụ của Đảng có cuộc
sống giàu có, gia đình sung túc, con cái được đi du học đủ đầy, trong khi đó đại đa
số nhân dân, nhất là con em công nhân, nông dân không có tiền để theo học lên
những bậc học cao hơn, ra trường không có tiền để "chạy", để "xin" vào các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức trong HTCT. Đâu đó trong Nhân dân đã nhắc lại câu ca
dao thuở phong kiến xa xưa: "Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở chùa thì quét lá
đa….". Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng gay gắt trong xã hội. Mâu thuẫn
lợi ích giữa một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân làm cho sự gắn bó giữa
Đảng với Nhân dân trở nên xa cách, lỏng lẻo, đẩy Nhân dân xa Đảng, là điều kiện
thuận lợi cho các thế lực thù địch tiếp cận và lôi kéo Nhân dân quay lưng lại với
Đảng, phá hoại Đảng.
3.2.2.4. Vấn đề niềm tin của Nhân dân đối với Đảng trong tình hình mới
Xét cho cùng, cơ sở niềm tin chính trị của Nhân dân với Đảng là ở hai vấn đề:
quyền và lợi (dân chủ và lợi ích). Vấn đề niềm tin của Nhân dân còn phụ thuộc vào
sự quan tâm, không thờ ơ chính trị (thái độ chính trị) của người dân, sự mua chuộc,
118
lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch và phần tử xấu. Mối quan hệ và niềm tin
đó, khó có thể đánh giá trên bình diện chung được, mà phải đánh giá qua các mối
quan hệ quyền lợi giữa Đảng với từng bộ phận nhân dân. Trong gần 30 năm đổi
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bộ phận nhân dân nào, giai cấp nào, tầng lớp nào
được hưởng quyền lợi, thì chắc hẳn bộ phận đó, giai cấp đó, tầng lớp đó gắn bó với
Đảng, tin Đảng. Ngược lại, bộ phận nào, giai cấp nào, tầng lớp nào bị thiệt thòi,
phải hy sinh quyền lợi thì chắc hẳn họ không thể gắn bó và tin Đảng được.
Cơ chế thị trường được mở rộng, Đảng và Nhà nước kêu gọi, thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho họ thuê đất, xây dựng các khu
chế xuất, các khu công nghiệp. Quá trình CNH, HĐH đất nước, đô thị hóa diễn ra
nhanh chóng. Đội ngũ doanh nhân ngày nay có những đóng góp lớn cho sự phát
triển của đất nước, tuy nhiên một số tập đoàn kinh tế lớn cũng gây ra sự lũng đoạn,
can thiệp vào chính trị. Chính họ đã góp phần trực tiếp tạo ra loại tham nhũng chính
sách hiện nay.
Vấn đề ở đây là, Đảng phải lãnh đạo thế nào, đưa ra chủ trương ra sao để giải
quyết hài hòa quan hệ lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của Nhân dân. Như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy: Đảng không có mục đích nào khác ngoài mục đích phụng sự
Tổ quốc, phụng sự Nhân dân. Nếu tất cả đảng viên của Đảng, từ đảng viên có chức
vụ đến đảng viên thường đều là tấm gương mẫu mực về đạo đức, nhân cách, lối
sống, đều chí công vô tư trong giải quyết công việc thì tự nhiên sức hút của Đảng
với Nhân dân sẽ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết và sự gắn bó giữa Đảng với Nhân
dân sẽ ngày càng trở nên bền chặt, không gì, không thế lực nào có thể chia rẽ được.
3.2.2.5. Vấn đề cụ thể hóa và thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều
thể chế hóa thành pháp luật và đều được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước,
thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên làm việc trong các cơ quan nhà nước. Đảng
lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng công tác
kiểm tra, giám sát, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Nhà nước quản
lý bằng pháp luật, thông qua đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hoạt động trong
119
các cơ quan nhà nước. Vậy, Nhân dân làm chủ bằng cách nào? Hiến pháp nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã xác định rõ: "tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về Nhân dân", vậy quyền lực của Nhân dân được thể hiện như thế nào trong
bộ máy nhà nước? Vấn đề dân chủ ở đây là dân chủ trực tiếp hay gián tiếp? Điều 6
Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân
chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước", Nhân dân được trực tiếp góp ý vào dự
thảo các văn kiện của Đảng, các văn bản, quy định pháp luật của Nhà nước, được
đối thoại trực tiếp với lãnh đạo địa phương, tham gia các kỳ chất vấn…. Còn hình
thức dân chủ đại diện, Nhân dân bầu ra đại diện của mình trong HĐND các cấp,
trong các cơ quan khác của Nhà nước, hy vọng, gửi gắm niềm tin, trông đợi những
đại diện của mình sẽ làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý, sẽ đại diện cho tiếng nói,
nguyện vọng của Nhân dân, sẽ bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhân dân. Tuy nhiên,
trên thực tế, như đã đề cập ở trên, xu hướng quan liêu, xa rời Nhân dân, xu thế tha
hóa quyền lực của bộ máy công quyền là một tất yếu không tránh khỏi.
Nhân dân làm chủ thông qua MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhưng hiện
nay một vấn đề đang đặt ra là MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nước ta
đang rơi vào tình trạng hành chính hóa, quan liêu hóa, hình thức hóa, công chức hóa.
Vấn đề đặt ra ở đây là, liệu hình thức dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp) có
thực sự phát huy hiệu quả, có dân chủ thực sự hay không, hay chỉ là dân chủ hình
thức? Đảng và Nhà nước ta phải làm gì để bảo đảm quyền làm chủ thực sự của
Nhân dân đối với đất nước, đối với quyền lực tối cao của chính mình, phải làm sao
để Nhân dân có thực quyền và sử dụng quyền lực của mình một cách hiệu quả nhất,
khắc phục triệt để xu hướng lộng quyền và lạm quyền của không ít cán bộ, đảng
viên, của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức nhà nước, khắc phục hiện
tượng hành chính hóa, quan liêu hóa, hình thức hóa trong hoạt động của MTTQ và
các đoàn thể chính trị - xã hội hiện nay.
120
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân gồm
những ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm trên các phương diện: công tác tuyên
truyền, giáo dục, xây dựng nhận thức; dân chủ hóa, khoa học hóa quá trình ra NQ
và tổ chức thực hiện NQ; CTDV, chăm lo nâng cao đời sống Nhân dân; phát huy
dân chủ trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; xây
dựng phương thức, phong cách làm việc dân chủ; xây dựng Nhà nước pháp quyền;
xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội; đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết
việc thực hiện nguyên tắc, phòng ngừa, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi
phạm nguyên tắc.
Từ thực trạng đó, rút ra một số nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách
quan của những ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm; đồng thời xác định 5 vấn đề đặt
ra cần giải quyết để thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Năm
vấn đề đặt ra cần giải quyết là: Sự tha hóa quyền lực của đảng cầm quyền và nguy
cơ quan liêu, xa rời Nhân dân của ĐCS cầm quyền; trách nhiệm của ĐCS Việt Nam
cầm quyền trong xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự là "công bộc", là "đày tớ" của
Nhân dân; vấn đề lợi ích và vai trò "nêu gương" của cán bộ, đảng viên trong điều
kiện phát triển KTTT định hướng XHCN và mở cửa, hội nhập quốc tế; niềm tin của
Nhân dân đối với Đảng trong tình hình mới; cụ thể hóa và thực hiện cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
121
Chƣơng 4
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ THỰC HIỆN TỐT NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT
VỚI NHÂN DÂN ĐẾN NĂM 2025
4.1. DỰ BÁO NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG
THỰC HIỆN TỐT NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN
ĐẾN NĂM 2025
4.1.1. Dự báo những nhân tố tác động đến việc thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân đến năm 2025
Đảng Cộng sản Việt Nam tròn 85 tuổi, toàn Đảng, toàn dân đang nô nức thi
đua lập thành tích, chào mừng ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, sẽ diễn
ra vào năm 2016. Đại hội đảng các cấp đang được triển khai tại các địa phương, đơn
vị trong cả nước. Trước thềm ĐH, những thuận lợi và khó khăn tác động đến thành
công của ĐH đảng các cấp, ảnh hưởng đến ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng. Bất kỳ một sai phạm nào của tổ chức đảng lúc này, một biểu hiện tiêu cực
của cán bộ, đảng viên của Đảng cũng có thể là "ngòi nổ", là "cái cớ" để các thế lực
thù địch trong và ngoài nước lên tiếng, nổi dậy, can thiệp vào nền chính trị của Việt
Nam; kích động, lôi kéo, tập hợp Nhân dân biểu tình chống đối Đảng và Nhà nước.
Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là biện pháp hữu
hiệu để ngăn ngừa những sai phạm, tăng cường, thắt chặt mối quan hệ gắn bó mật
thiết với Nhân dân, có được sự đồng tình, ủng hộ tuyệt đối của Nhân dân đối với
Đảng, là nhân tố làm nên thành công của ĐH đảng các cấp, tiến tới ĐH đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng thắng lợi. Thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân là một vấn đề thiết yếu đặt ra và chịu sự tác động của nhiều
nhân tố khách quan và chủ quan, bao hàm cả tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và thách thức.
4.1.1.1. Những nhân tố thuận lợi
Một là, bề dày truyền thống 85 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thành
tích chói lọi lãnh đạo Nhân dân đánh thắng kẻ thù hùng mạnh nhất của thời đại là
122
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trong thế kỷ XX, lãnh đạo 30 năm đổi mới đất nước
thành công của ĐCS Việt Nam là những nhân tố tác động tích cực đến việc thực
hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Các thế hệ đảng viên hiện nay
của Đảng không thể không có trách nhiệm với truyền thống, không thể làm ngơ
trước những khó khăn, thách thức của thời đại, không thể không hổ thẹn khi kinh tế
phát triển chưa vững chắc, đời sống của một bộ phận nhân dân còn đói khổ, không
phải ai cũng đã có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Thực hiện tốt nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là biện pháp để tiếp nối truyền thống của các
thế hệ đảng viên đi trước, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Hai là, thành tựu to lớn, quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước đã
khẳng định quan điểm, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng được Nhân dân
đồng tình, ủng hộ và giúp cho Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành tổng kết được
nhiều bài học kinh nghiệm toàn diện trên các lĩnh vực, trong đó có những kinh
nghiệm về thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng sẽ đề ra đường lối, chủ trương mới, nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân sẽ tiếp tục được Đảng ta khẳng định và quán
triệt trong toàn Đảng.
Ba là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kết quả thực hiện NQ TW 4 khóa
XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", kết quả thực hiện Chỉ thị
số 03 - CT/TW của Bộ Chính trị về Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh đã có tác động tích cực đến thực hiện nguyên tắc Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân. Các tổ chức trong HTCT được xây dựng khá đồng bộ,
hoàn chỉnh ở các cấp từ TW đến địa phương, ở các vùng trong cả nước; đã và đang
từng bước khắc phục những hạn chế yếu kém, tiếp tục xây dựng, củng cố, hoàn
thiện hơn, là cơ sở để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
trong thời gian tới.
Bốn là, nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, MTTQ, các đoàn
thể chính trị - xã hội ở các cấp về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
bước đầu đã có sự chuyển biến tích cực. Nội dung, phương thức CTDV đang được
123
chú trọng, không ngừng đổi mới; ban dân vận các cấp, bộ máy tham mưu về CTDV
cơ bản đã được củng cố, ổn định, xác định rõ chức năng nhiệm vụ. Đây cũng là
những nhân tố thuận lợi tác động đến việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân hiện nay.
Năm là, cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp, các tầng lớp nhân dân thay đổi nhanh
chóng; nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần, về thông tin, về dân chủ của Nhân
dân cũng không ngừng tăng lên tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Sáu là, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, giao lưu quốc tế, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật và kinh tế tri thức tác động tích
cực đến thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Trong điều kiện
công nghệ thông tin bùng nổ, trình độ dân trí ngày càng cao, thông tin hàng ngày
hàng giờ truyền tải đến với Nhân dân, được Nhân dân tiếp thu có chọn lọc. Lối tuyên
truyền một chiều giờ đây không còn thích hợp với Nhân dân. Để tuyên truyền, vận
động, thuyết phục Nhân dân giờ đây không chỉ đơn thuần là những câu khẩu hiệu, là
những panô, ápphích nơi công cộng, mà cần tuyên truyền có chiều sâu, bằng những
công việc cụ thể, thiết thực hàng ngày của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để giữ vững vai
trò lãnh đạo, vị thế cầm quyền của mình, để chiếm trọn được niềm tin yêu, có được
sự ủng hộ tuyệt đối của Nhân dân, đòi hỏi ĐCS Việt Nam phải vươn lên, không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện. Một yêu cầu đặt ra là Đảng
phải thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
4.1.1.2. Những nhân tố khó khăn, thách thức
Một là, quá trình toàn cầu hóa, mặt trái của cơ chế KTTT tác động mạnh mẽ
tới đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Biểu hiện của tư tưởng
sùng ngoại, tôn sùng CNTB, chạy theo lối sống của xã hội tiêu thụ, tuyệt đối hóa
giá trị vật chất, tiền bạc, văn hóa lai căng, tự ti dân tộc, thậm chí phai nhạt ý thức
giai cấp, niềm tin vào lý tưởng cộng sản.... đã xuất hiện và ảnh hưởng đến việc thực
hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Biểu hiện của tình trạng suy
124
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng khá đa dạng và phức tạp như: bệnh chuyên quyền, độc đoán, không tôn trọng
dân chủ; bệnh quan liêu, xa rời thực tiễn, xa rời Nhân dân; bệnh xu nịnh và tâm lý
cầu an hưởng lạc, không dám đấu tranh bảo vệ cái đúng, chống cái sai; chủ nghĩa cá
nhân, thực dụng; chủ nghĩa địa phương hẹp hòi; lối sống xa hoa, lãng phí, thậm chí
mê tín, dị đoan.... Tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân cực, phân tầng xã hội;
những biến đổi về quan hệ lợi ích, hệ giá trị xã hội; sự cách biệt về kinh tế, xã hội…
làm nảy sinh tiền đề của sự phân hoá về nhận thức, tư tưởng. Những khó khăn về
kinh tế - xã hội và đời sống hiện nay cùng với tính chất lâu dài, phức tạp và cuộc
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tiến bộ và lạc hậu trong bước chuyển quá độ
lên CNXH đang tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận cán
bộ, đảng viên và Nhân dân. Những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,... đang làm tổn thương đến uy tín của Đảng và
Nhà nước, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tất cả những nhân tố
đó tác động tiêu cực đến việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân hiện nay.
Hai là, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ chậm
đổi mới, cụ thể hóa. Sự phối hợp giữa các tổ chức trong HTCT có lúc, có nơi còn
thiếu chặt chẽ. Trách nhiệm của cấp ủy và chính quyền trong thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân ở nhiều nơi bị xem nhẹ, buông lỏng. Một số tổ
chức đảng, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể nhân dân hoạt động kém năng động,
hiệu quả, không nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân và cũng không
đủ sức tuyên truyền, vận động, giải quyết những bức xúc của Nhân dân.
Ba là, CTDV còn nhiều hạn chế yếu kém, chưa ngang tầm với đòi hỏi của
thực tiễn quá trình đổi mới đặt ra. Nội dung, phương thức CTDV chậm được đổi
mới; còn lúng túng trong xác định chức năng, nhiệm vụ, xây dựng các tổ chức đảng,
tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng trong công nhân, người lao động,
nhất là trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, các loại hình dịch vụ ngoài công lập, trong lao động, trong lưu học sinh Việt
125
Nam ở nước ngoài. Tổ chức, hoạt động của các cơ quan chuyên trách làm CTDV và
của MTTQ, các đoàn thể nhân dân chậm được đổi mới, tăng cường. Đội ngũ cán bộ
làm CTDV ít được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và cũng chưa được quan
tâm đúng mức về chế độ, chính sách…
Bốn là, những tác động của tình hình quốc tế đặt ra những khó khăn, thách
thức trong việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn
biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột
tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ,
khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội
phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh
học, môi trường... sẽ tiếp tục gia tăng.
Xu hướng đấu tranh tự phát đòi dân chủ ở các nước Bắc Phi và Trung Đông
lan rộng. Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, vai trò và ảnh hưởng của nhiều đảng
cộng sản trên thế giới giảm sút nghiêm trọng và trong tương lai gần khó có cơ hội
phục hồi và phát triển.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn
sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định;
tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt; xuất hiện các hình thức tập hợp lực
lượng và đan xen lợi ích mới. Khối ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức
nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực. Các nước lớn điều chỉnh chiến
lược ở châu Á - Thái Bình Dương, điều chỉnh chính sách về biển. Các thế lực thù
địch tăng cường gây sức ép và chia rẽ đối với các nước ASEAN. Khối ASEAN vẫn
tiềm ẩn một số nhân tố mất ổn định.
Tình hình kinh tế, xã hội của một số nước lớn trên thế giới có tác động đến
nước ta trong việc điều chỉnh chính sách phát triển xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, về
chính sách tỷ giá, đầu tư, biện pháp nâng cao giá trị xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy
sản, cơ chế quản lý xuất khẩu, tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại, nhưng
buôn lậu, gian lận thương mại sẽ tiếp tục làm giảm lòng tin của Nhân dân, các
126
doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài... với chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước đang tăng cường thực
hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", "bạo loạn lật đổ", nhen nhóm thành lập các tổ
chức đối lập; dùng các chiêu bài về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, tuyên truyền kích
động lôi kéo, chống phá quyết liệt khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống Đảng,
chống chế độ. Thủ đoạn của chúng là tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nói xấu chế độ, bôi nhọ đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
tìm mọi thủ đoạn phân hoá nội bộ Đảng, kích động chia rẽ Nhân dân với Đảng, Nhà
nước. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân hiện nay.
4.1.2. Phƣơng hƣớng thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân đến năm 2025
Từ thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, từ
những nhân tố tác động đến việc thực hiện nguyên tắc, đặt ra cho các cấp ủy đảng,
tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phương hướng thực hiện tốt
nguyên tắc này trong thời gian tới là: thực hiện đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc, đồng bộ
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; tiếp tục quán triệt sâu sắc vai trò,
nội dung của nguyên tắc; nghiên cứu, cụ thể hóa nội dung của nguyên tắc thành
những hướng dẫn, quy định cụ thể; thực hiện đồng bộ những giải pháp thích hợp để
thực hiện tốt nguyên tắc; tăng cường và đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh to lớn của
Nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng rộng lớn, xây dựng và bảo vệ đất nước,
thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; tăng cường, thắt chặt sự gắn
bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn chia rẽ Nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Để thực hiện phương hướng trên, cấp ủy đảng các cấp, các tổ chức đảng và
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng cần quán triệt các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong
127
điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN, trước xu thế hội nhập quốc tế của
nước ta, chịu tác động của nhiều nhân tố khó khăn, phải góp phần phục vụ đắc lực
việc thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giải quyết triệt để
"Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay" theo tinh thần NQ TW 4
khóa XI; thực hiện thắng lợi Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh để Cuộc vận động đi vào thực chất, tạo nên những chuyển biến tích cực
trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Thứ hai, thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân ở Việt
Nam trong điều kiện hiện nay, trước sự tấn công quyết liệt vào hệ tư tưởng Mác -
Lênin của các thế lực thù địch, đòi hỏi phải trên cơ sở trung thành với học thuyết
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS, về mối quan hệ giữa ĐCS cầm quyền
với nhân dân và các nguyên tắc xây dựng ĐCS, kiên quyết không chấp nhận đa
nguyên đa đảng; vận dụng sáng tạo, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới.
Thứ ba, thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân phải đặt
trong tổng thể việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác của Đảng,
thành một thể thống nhất, không được tuyệt đối hóa việc thực hiện nguyên tắc này,
xem nhẹ, buông lỏng hoặc bỏ qua việc thực hiện nguyên tắc khác, để bảo đảm tính
đồng bộ và hiệu quả, tính nghiêm minh trong thực hiện các nguyên tắc tổ chức, hoạt
động của Đảng.
Thứ tư, thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một vấn
đề mới mẻ, chưa có quy định, nội dung cụ thể, nên việc thực hiện phải có lộ trình,
bước đi vững chắc, cần có hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể của TW, cũng như cần tăng
cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp của các tổ
chức đảng đối với việc thực hiện nguyên tắc, tránh sai sót, vi phạm.
Thứ năm, thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là trách
nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, trách nhiệm trước hết thuộc về các
cấp ủy, bí thư cấp ủy, đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của HTCT các
cấp; phát huy tính tự giác, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên
dưới sư tham gia giám sát của các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân.
128
Thứ sáu, thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cần được
tiến hành thường xuyên, gắn với việc đấu tranh mạnh mẽ với những nhận thức lệch
lạc, những biểu hiện thoái hóa biến chất, tiêu cực tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
mất dân chủ, vi phạm nguyên tắc và cách làm hình thức, qua loa, chiếu lệ.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN TỐT NGUYÊN TẮC
ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN ĐẾN NĂM 2025
Để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong giai
đoạn hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây, xoay quanh ba trụ cột
cơ bản: đổi mới, chỉnh đốn Đảng; cải cách tư pháp và CCHC nhà nước; xây dựng
Nhà nước pháp quyền, cải cách thể chế, tăng cường vai trò làm chủ của Nhân dân
thông qua công tác giám sát của MTTQ.
4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho toàn Đảng về nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; quy định rõ nội dung của nguyên tắc,
phƣơng thức thực hiện nguyên tắc của các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một trong 5 nguyên tắc hoạt động của
Đảng, được quy định trong Điều lệ Đảng. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, cấp ủy
các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng phải nhận thức sâu sắc về
nguyên tắc, từ đó xác định đúng trách nhiệm thực hiện nguyên tắc. Bởi vì nhận thức
đúng mới có hành động đúng. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, vai trò và trách
nhiệm của cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt, người đứng đầu cấp ủy các cấp là rất lớn và có tính quyết định; đội ngũ đảng
viên là người trực tiếp thực hiện nguyên tắc dưới sự lãnh đạo của cấp ủy. Bởi vậy,
cần tập trung nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho toàn Đảng về nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân, chủ yếu là những vấn đề sau đây:
Một là, tuyên truyền cho cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng
về những vấn đề chủ yếu của nguyên tắc, nội dung, vị trí, vai trò của nguyên tắc;
phương thức thực hiện nguyên tắc; trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong
việc thực hiện đúng nguyên tắc, trong đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực của tổ
chức đảng, đảng viên khi thực hiện nguyên tắc; những vấn đề đặt ra trong thực hiện
129
nguyên tắc. Đồng thời, khi tuyên truyền cần chỉ rõ những mặt tích cực và hạn chế
trong thực hiện nguyên tắc của các cấp ủy để mỗi cán bộ, đảng viên hiểu biết sâu
sắc về nội dung của nguyên tắc, nhận thức đầy đủ bản chất của nguyên tắc, nắm bắt
được những tồn tại, hạn chế trong thực hiện nguyên tắc, để tránh được những vấp
váp, sai lầm trong thực tiễn công tác.
Hai là, đẩy mạnh hoạt động giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
phong cách dân vận, tấm gương vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng
viên. Hồ Chí Minh là lãnh tụ kính yêu của dân tộc, tấm gương ngời sáng về đạo đức
cách mạng, phẩm chất chính trị thiên tài và tình yêu thương Nhân dân bao la, vô bờ,
đức hy sinh cao cả vì độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho Nhân dân. Tấm
gương đạo đức, vì dân của Người, phong cách dân vận của Người trở thành cẩm
nang cho các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng học tập và noi theo.
Ba là, đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân theo hướng đa dạng, phong phú, hiệu quả. Đa dạng
hóa các hình thức tuyên truyền như thông qua sinh hoạt của tổ chức đảng hàng
tháng, sinh hoạt chuyên đề; sinh hoạt sơ kết, tổng kết công tác của tổ chức đảng
hàng quý, 6 tháng, hằng năm, giữa nhiệm kỳ, hết nhiệm kỳ.... hoặc kết hợp, lồng
ghép với các nội dung, yêu cầu của cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng....
hoặc kết hợp với các sinh hoạt học tập NQ, chỉ thị của cấp trên; với các hoạt động
lớn của chính quyền (bầu cử QH, HĐND các cấp), đoàn thể nhân dân (ĐH, đóng
góp ý kiến xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng....). Thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, phát triển hệ thống truyền hình, truyền thanh, báo, tạp chí, bản
tin của cơ quan đảng, nhà nước nhằm mở rộng các diễn đàn xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, cầu nối giữa Đảng với Nhân dân. Thông qua hoạt động tuyên
truyền, cổ động, văn hóa, văn nghệ, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ, Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở; xây dựng gương
điển hình; phê phán, đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực... nhằm tác động vào
nhận thức và tình cảm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhằm thực hiện tốt
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Cần tổ chức các buổi tọa đàm, hội
130
thảo, phát động các cuộc thi tìm hiểu về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân để nâng cao nhận thức, thu hút sự quan tâm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Trong các buổi báo cáo thời sự, báo cáo nghị quyết, thông tin chuyên đề cho cán bộ,
đảng viên, cần lồng ghép, có thêm thông tin về việc chấp hành, thực hiện nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, những đơn vị, cơ sở thực hiện tốt nguyên
tắc, những địa phương, đơn vị, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc hoặc có biểu
hiện vi phạm nguyên tắc... Qua đó, giáo dục, phòng ngừa tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên vi phạm nguyên tắc.
Để thực hiện tốt việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm
cho cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân, cần huy động nhiều nguồn lực trong các cơ quan chuyên trách
công tác tư tưởng của HTCT và các lực lượng xã hội tham gia xây dựng chương
trình, kế hoạch; rà soát, bổ sung, đổi mới nội dung tuyên truyền, giáo dục, gắn lý
luận với thực tiễn; nghiên cứu, triển khai phương pháp tuyên truyền, giáo dục tích
cực nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.
Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền về những vấn đề chủ yếu của
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân để đoàn viên, hội viên của các đoàn
thể nhân dân và đông đảo nhân dân nhận thức và thực hiện việc giám sát hoạt động
của tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở. Cấp ủy cùng cấp cần quan tâm lãnh đạo các
đoàn thể nhân dân không ngừng đổi mới cách thức, biện pháp tổ chức sinh hoạt...
Qua đó, động viên, khuyến khích Nhân dân phát huy dân chủ, tinh thần trách nhiệm
trong việc góp ý xây dựng Đảng, nhất là góp ý về những biểu hiện vi phạm nguyên
tắc của tổ chức đảng và đảng viên. Từ đó, cấp ủy, tổ chức đảng kịp thời có biện
pháp giáo dục, phòng ngừa vi phạm, tránh để xảy ra những vi phạm nghiêm trọng
kéo dài, làm xói mòn lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tuyên truyền, thuyết phục bằng phương pháp nêu gương là một biện pháp rất
hữu hiệu. "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Nhân dân luôn nhìn vào lời nói,
việc làm của cán bộ, đảng viên để ghi nhận, đánh giá công lao của Đảng, của tổ
chức đảng hay phê phán thói hư, tật xấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó, cần
131
phát huy tính tiền phong, gương mẫu của cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân. Cần lấy tấm gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý để tuyên
truyền, thuyết phục cấp dưới trong thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân, trong quan hệ hằng ngày với Nhân dân.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm khắc các tổ
chức đảng không thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền cán bộ, đảng viên về nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Tiến hành các hoạt động tuyên truyền, tư
tưởng là một trong những nhiệm vụ cơ bản của tổ chức đảng. Nếu cán bộ, đảng viên
vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cần kiểm tra, kết luận và
xác định trách nhiệm của tổ chức đảng nơi quản lý cán bộ, đảng viên đối với việc
tuyên truyền cho họ về nguyên tắc này. Qua đó, cần xử lý nghiêm minh cán bộ,
đảng viên và tổ chức đảng về việc học tập, quán triệt nguyên tắc và việc tuyên
truyền của cấp ủy đối với cán bộ, đảng viên về nguyên tắc.
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho toàn Đảng về nguyên tắc Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân, cần quy định rõ nội dung của nguyên tắc, phương thức
thực hiện nguyên tắc để tất cả các tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng
làm căn cứ, cơ sở để quán triệt, thực hiện tốt nguyên tắc. Các nội dung của nguyên
tắc; các phương thức thực hiện nguyên tắc đã được phân tích, chứng minh, làm rõ
trong chương 1 của Luận án, có thể được dùng làm tài liệu tham khảo để cụ thể hóa
các nội dung của nguyên tắc, để xây dựng, hoàn thiện phương thức thực hiện
nguyên tắc, áp dụng cho tất cả các tổ chức đảng, cho mọi cán bộ, đảng viên.
Các nội dung của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cần được
cấp ủy, cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ gồm sáu nội dung chủ yếu. Một là, mọi
chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng
của Nhân dân, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ. Hai là, Đảng thường xuyên chăm
lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm cho Nhân dân được
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân, được tham gia xây dựng Đảng, xây
dựng các quyết sách chính trị của Đảng, được tự do làm ăn, được tôn trọng và bình
132
yên trong chế độ xã hội do Đảng lãnh đạo. Ba là, Nhà nước do Đảng lãnh đạo thật
sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Bốn là, các tổ chức chính
trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng được
hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, điều lệ của tổ chức; thu hút đông đảo các
tầng lớp nhân dân tham gia. Năm là, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn
bó, gần gũi, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân. Sáu là, Nhân dân tin Đảng,
theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng.
Có nhiều biện pháp, cách thức thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân, qua nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, có thể thấy phương thức thực
hiện nguyên tắc này gồm một số phương thức sau. Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân gồm những phương thức cơ bản. Thứ nhất, tuyên truyền,
giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Thứ hai, dân chủ hóa, khoa học hóa
quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện NQ của Đảng, bảo đảm kết tinh trí tuệ, ý
chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, "ý Đảng" hợp "lòng dân". Thứ ba, lãnh
đạo và tổ chức thực hiện tốt CTDV. Thứ tư, Đảng lãnh đạo mở rộng dân chủ trong
đời sống chính trị, xã hội để phát huy thật sự vai trò làm chủ của Nhân dân trong
xây dựng và bảo vệ đất nước; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng. Thứ năm, xây
dựng phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ chức đảng và
cán bộ, đảng viên bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân dân; cán bộ,
đảng viên tôn trọng, lắng nghe ý kiến Nhân dân, học hỏi Nhân dân, nhưng không
được theo đuôi Nhân dân. Thứ sáu, Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng pháp luật, chính sách
bảo vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt CTDV của chính quyền. Thứ bảy, lãnh đạo
xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh; phát triển sâu rộng các tổ chức
kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân. Thứ tám, tiến hành có hiệu quả cuộc đấu
tranh ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, hách dịch trong
Đảng và HTCT, qua đó, củng cố niềm tin, sự ủng hộ của Nhân dân đối với Đảng.
Thứ chín, kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
133
thiết với Nhân dân; phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
4.2.2. Tăng cƣờng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo đƣợc sự chuyển biến
rõ rệt, khắc phục đƣợc những hạn chế, yếu kém, tham nhũng; chú trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, gần gũi với Nhân dân, củng cố
niềm tin của Nhân dân với Đảng
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo được sự chuyển biến rõ rệt,
khắc phục được những hạn chế, yếu kém.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền trong nền chính trị
nhất nguyên, do đó, nếu Đảng không thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn thì rất dễ
mắc phải những căn bệnh của Đảng cầm quyền. Muốn giữ vững vai trò lãnh đạo
toàn diện của Đảng đối với xã hội, giữ được niềm tin yêu của Nhân dân, Đảng phải
thường xuyên tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay khi mà tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức trong Đảng đang trở
nên báo động, NQ TW 4 khóa XI đã được triển khai thực hiện, đi được chặng
đường khá dài nhưng vẫn chưa thực sự mang lại nhiều kết quả như mong đợi của
đông đảo quần chúng nhân dân.
Cơ sở lý luận, thực tiễn để tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng là tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của ĐCS Việt Nam, được thể hiện rõ nét và
mạnh mẽ nhất trong NQ TW 4 khóa XI về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay. Quyết tâm chính trị của toàn Đảng là: phải khắc phục được những
hạn chế, yếu kém, xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, trong
sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, củng
cố niềm tin trong Đảng và Nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực
hiện thắng lợi các chủ trương, NQ của Đảng.
Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo sự chuyển biến mới trong khắc
phục tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức trong Đảng, cần tiếp tục
quán triệt, nghiêm túc thực hiện có hiệu quả 4 nhóm giải pháp đã được xác định rõ
trong NQ TW 4 khóa XI Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, trong
đó tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
134
Một là, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán
bộ lãnh đạo, quản lý kiểm điểm, liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê
bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với thực hiện
Quy định về những điều đảng viên không được làm, theo cương vị công tác.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức và cán bộ: Công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ phải bảo đảm thực chất, tránh hình thức; chạy theo bằng cấp, nâng
cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng, coi đây là công việc gốc của Đảng.
Đào tạo trong nhà trường và từ thực tiễn công tác. Coi trọng đào tạo cán bộ vừa cơ
bản, vừa nâng cao, kịp thời nắm bắt cái mới và ở tầm tư duy chiến lược. Công tác
quy hoạch cán bộ gắn với đào tạo có chất lượng cao, đồng thời đổi mới phương
thức tuyển dụng, đề bạt cán bộ và phương thức bầu cử, tranh cử trong Đảng. Cải
cách cơ chế thi cử, tuyển dụng, đánh giá, đề bạt cán bộ thực sự khách quan, công
bằng, công khai theo hướng trọng dụng nhân tài, coi trọng năng lực của cán bộ.
Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ trong
HTCT. Phát huy dân chủ, công khai, minh bạch trong quy trình đánh giá, quy
hoạch, bổ nhiệm cán bộ. Đánh giá, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở
hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của Nhân dân. Thực hiện tốt sự giám sát của các
đoàn thể và nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với những
người lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành và tổ chức cấp trên.
Ba là, tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng, nhất là tổ chức đảng
ở cơ sở; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nâng cao khả năng
tự đề kháng của Đảng và trong mỗi cán bộ, đảng viên để không tiền tài, vật chất nào
có thể cám dỗ được người cán bộ, đảng viên, không khó khăn nào có thể lung lạc
được tinh thần người cộng sản chân chính.
Bốn là, tăng cường và đổi mới công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tăng cường giáo dục lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, truyền thống yêu nước, cách mạng, những tấm gương phấn đấu, hy sinh của
các thế hệ cán bộ, đảng viên đi trước và những gương người tốt, việc tốt hiện nay.
135
Cần xây dựng môi trường văn hóa trong lành, bầu không khí thân thiện cởi mở; tích
cực nhân rộng, đề cao những tấm gương cán bộ, đảng viên tốt, tận tụy, hết lòng hết
sức phụng sự Nhân dân; đẩy lùi những tiêu cực, ngăn chặn, xử phạt những tuyên
truyền, diễn đạt thổi phồng tiêu cực, không nên tạo cảm giác trong Đảng, trong xã
hội toàn là mặt trái, tiêu cực. Tạo lập tinh thần lạc quan, niềm tin vững chắc vào
công cuộc đổi mới đất nước, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay đang
thu được kết quả. Bên cạnh đó, cần cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức trong giao
tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức, đảng viên với Nhân dân cho phù hợp với những
yêu cầu mới.
Tăng cường nhiệm vụ giáo dục đạo đức cách mạng mới trong công tác tư
tưởng của Đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội, trên các phương tiện thông tin đại
chúng bằng tất cả các loại hình văn hóa, nghệ thuật.
Tăng thêm chương trình, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy đạo đức
trong các cấp học của các loại trường từ phổ thông cho đến đại học và các trường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị; tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo việc làm theo gương Bác một cách thiết thực, hiệu quả, để việc
học tập là thực chất, đi vào chiều sâu, tránh phô trương, hình thức, gắn với công
việc cụ thể của cán bộ, đảng viên, sự tu dưỡng, rèn luyện hàng ngày của mỗi cán bộ,
đảng viên. Nâng cao chất lượng, triển khai theo chiều sâu và lồng ghép các nội dung
của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với các nhiệm vụ
chính trị, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị, các cấp,
các ngành, duy trì thường xuyên nội dung này trong sinh hoạt đảng. Bổ sung vào
thang giá trị đạo đức các phẩm chất đạo đức cơ bản của cán bộ, đảng viên các tiêu
chí: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có tinh thần dũng cảm đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ.
Năm là, dựa vào Nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giám sát cán bộ,
đảng viên. Đảng viên trước hết phải là người công dân kiểu mẫu, tức là phải sống
136
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đảng viên hiện nay đang thực hiện nghĩa
vụ kép: thi hành hiến pháp, pháp luật và thi hành Điều lệ Đảng. Điều đó không cho
phép đảng viên là "siêu công dân". Nhân dân có vai trò to lớn trong xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, giám sát đảng viên, phản ánh kịp thời những tiêu cực của cán bộ, đảng
viên có chức có quyền để tổ chức đảng, cơ quan nhà nước kịp thời xử lý.
Tạo được sự chuyển biến rõ rệt trong cuộc đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí
Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi
đang là thách thức lớn đối với công tác xây dựng Đảng, làm xói mòn niềm tin của
nhân dân với Đảng. Để xây dựng, chỉnh đốn Đảng góp phần thực hiện tốt nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cần đặc biệt coi trọng đẩy mạnh có hiệu
quả, tạo được sự chuyển biến rõ rệt trong cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực xã hội. Nghị quyết ĐH đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng đã chỉ rõ quyết tâm phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu
trong tình hình mới là: "Toàn Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phải
có quyết tâm chính trị cao đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí " [26; tr.128-129].
Đảng yêu cầu: "Các cấp uỷ và tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể
nhân dân, cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ cấp cao, phải trực tiếp tham gia và đi
đầu trong việc phòng, chống tham nhũng" [26; tr.130]. Tiếp đó, NQ Hội nghị lần
thứ ba BCH TW khoá X đã khẳng định: "Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành
chính, kinh tế, hình sự" [33, tr.14]. Để bảo đảm nâng cao vai trò trách nhiệm của các
cấp uỷ đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu có hiệu quả trong tình hình hiện nay, thực sự góp phần
tích cực vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức
lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, cần thực
hiện một số biện pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho các cấp uỷ trong việc xác định rõ vai trò,
trách nhiệm của mình, từ đó có quyết tâm chính trị cao trong việc lãnh đạo, chỉ đạo,
137
tổ chức thực hiện việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu bảo
đảm có trọng tâm, trọng điểm đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên thuộc
phạm vi lãnh đạo, quản lý của cấp mình.
Cấp uỷ các cấp phải thực sự có quyết tâm chính trị cao trong cả nhận thức và
trong hành động đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Từ đó đề
ra chủ trương, chính sách, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể, sát hợp với từng tổ
chức, địa phương, cơ quan, đơn vị trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu. Từng cấp ủy, tổ chức, cơ quan, đơn vị, trước hết là người đứng đầu,
phải xây dựng chương trình hành động phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu cụ thể, sát hợp, có tính khả thi và tổ chức thực hiện có kết quả; đồng thời tăng
cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện gắn với đánh giá kết quả, hiệu quả
thực hiện trong từng thời gian. Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền,
đoàn thể ở các cấp phải có cam kết không tham nhũng, không gây lãng phí, quan
liêu, gương mẫu đi đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, kể cả với người thân của mình; vận động, giáo dục các thành viên trong gia
đình và người thân không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vụ lợi; giáo
dục, quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, công chức dưới quyền phụ trách,
quản lý của mình để họ không tham nhũng, lãng phí, quan liêu, không tiếp tay cho
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu; chịu trách nhiệm liên đới (kể cả từ chức) khi để xảy ra tham nhũng,
lãng phí, quan liêu nghiêm trọng trong tổ chức, cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi mình
trực tiếp phụ trách. Gắn đấu tranh phòng, chống tham nhũng với chống quan liêu,
lãng phí, chống đặc quyền, đặc lợi.
Hai là, chỉ đạo các cơ quan tham mưu, giúp cấp uỷ đổi mới nội dung, hình
thức, biện pháp kiểm tra, giám sát, kiểm soát, đánh giá việc quản lý giáo dục, rèn
luyện cán bộ, đảng viên nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, thực dụng, tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tích cực học tập, vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, khinh
ghét và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đề ra nội dung, hình thức
138
thích hợp để tuyên truyền, giáo dục quần chúng và các tổ chức kinh tế thấy rõ sự
nguy hại của tham nhũng, biết cách nhận diện các hành vi tham nhũng, từ đó khinh
ghét, lên án tệ tham nhũng, có ý thức kinh doanh đúng pháp luật, không cam chịu
"làm luật" hoặc tiếp tay cho tham nhũng và tích cực đấu tranh chống tham nhũng; tự
giác tự kiểm tra, thanh tra nội bộ và chịu sự kiểm tra, giám sát, thanh tra của cấp có
thẩm quyền cấp trên của Đảng (cấp uỷ, tổ chức đảng, UBKT) và Nhà nước để ngăn
ngừa tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Chỉ đạo các cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ,
chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội tăng cường quản lý, giáo dục, kiểm tra,
giám sát cán bộ, đảng viên, đoàn viên để chủ động ngăn ngừa vi phạm tham nhũng,
lãng phí, quan liêu ngay từ trong nội bộ tổ chức mình. Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát
cán bộ, đảng viên, công chức thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập theo đúng quy
định của Đảng và Luật Phòng, chống tham nhũng. Đổi mới nội dung, hình thức,
phương pháp sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ, sinh hoạt chính quyền, đoàn
thể gắn với đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu từ trong nội bộ
tổ chức mình; tăng cường kiểm tra, giám sát các cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ trong
việc chấp hành quy chế làm việc, nhất là duy trì nền nếp sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức
đảng, sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cơ quan, đơn vị đoàn thể gắn với thực hiện cuộc
vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-
CT/TW ngày 14-5-2011 của BCT, NQ TW 4 khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay". Nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình, chất vấn trong
sinh hoạt và hoạt động của tổ chức đảng, cấp uỷ; khắc phục tình trạng tố cáo giấu
tên, mạo tên, có dụng ý xấu, gây mất đoàn kết nội bộ...
Ba là, cấp ủy các cấp, trước hết là BCT, Ban Bí thư TW chỉ đạo xây dựng,
ban hành các quy định trong Đảng và chỉ đạo QH, Chính phủ, ban hành các chính
sách, pháp luật, tạo môi trường chính trị, pháp lý hoàn chỉnh để chủ động phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu để có căn cứ, cơ sở thực hiện tốt công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên có vi phạm; phục vụ thực hiện tốt công tác thanh tra của Nhà nước và xử lý
nghiêm minh khi có vi phạm. Tổ chức thực hiện nghiêm túc quy định của BCT về
139
những điều đảng viên không được làm để chủ động phòng ngừa xảy ra tham nhũng
từ trong nội bộ Đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh
nghiệp nhà nước (tập đoàn, tổng công ty,...), trước hết là từ chi bộ, cấp uỷ các cấp.
Chỉ đạo Đảng đoàn QH, lãnh đạo QH xem xét sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự về
các tội tham nhũng cho phù hợp với Luật phòng, chống tham nhũng; tổ chức thực
hiện nghiêm túc, có kết quả Luật Cán bộ, công chức, chỉ đạo nghiên cứu xây dựng,
ban hành và tổ chức thực hiện Luật được quyền thông tin và các luật có liên quan
đến phòng, chống tham nhũng, như Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo...
Chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ, lãnh đạo Chính phủ ban hành kịp thời các văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh nói chung và về phòng,
chống tham nhũng nói riêng để việc phòng, chống tham nhũng sớm đi vào cuộc
sống, đem lại hiệu quả; chỉ đạo, tổ chức thực hiện có kết quả Chiến lược quốc gia
về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Chương trình hành động phòng,
chống tham nhũng, lãng phí theo Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-5-2012 của BCH
TW khóa XI về tiếp tục thực hiện NQ TW 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí trước sự tác động của toàn cầu hoá,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mặt trái của KTTT, tội phạm tham nhũng có tính
chất quốc tế, công nghệ cao và có biểu hiện "tham nhũng quyền lực"; ngăn chặn có
hiệu quả tình trạng quan liêu, lãng phí đang xảy ra rất nghiêm trọng thời gian qua.
Các cơ quan, đơn vị, tổ chức nhanh chóng ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm
quy tắc ứng xử để tránh xung đột lợi ích và chủ động phòng ngừa tham nhũng, lãng
phí, quan liêu.
Bốn là, chỉ đạo đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của tổ
chức đảng và cơ quan nhà nước cấp trên đối với tổ chức đảng và cơ quan nhà nước
cấp dưới, nhất là việc kiểm tra, giám sát hoạt động của người đứng đầu và các chức
danh chủ chốt ở các cấp, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tham
nhũng, tiêu cực. Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước, MTTQ và
giám sát của nhân dân để tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả HTCT trong đấu tranh
140
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát phòng ngừa, vi phạm xảy ra, nhất là phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Tổ chức thuận lợi việc tiếp dân, cán bộ, đảng viên và bố trí các hòm thư thích
hợp để nhân dân, cán bộ, đảng viên nhanh chóng cung cấp, phản ảnh các thông tin
vi phạm về tham nhũng, lãng phí, quan liêu của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng.
Giải quyết khẩn trương những đơn, thư tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên có
dấu hiệu vi phạm về tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tập trung phân loại, giải
quyết kịp thời những tố cáo tham nhũng, lãng phí, quan liêu đã xảy ra từ nhiều năm
trước, có tính chất phức tạp, nghiêm trọng, liên quan đến cán bộ chủ chốt ở các cấp,
nhất là các trường hợp liên quan đến nhân sự cấp ủy và đại biểu dự đại hội đảng bộ
các cấp tiến tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Kịp thời xem xét,
kết luận và xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp có vi phạm đến mức phải
xử lý. Thiết lập "đường dây nóng" để tiếp nhận đơn thư phản ảnh, tố cáo các hành
vi tham nhũng của cán bộ, đảng viên để xử lý kịp thời.
Chủ động phối hợp với tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, MTTQ, các đoàn thể
chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí để cung cấp, trao đổi thông tin về dấu hiệu vi
phạm, đơn thư tố cáo, khiếu nại đối với tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi
quản lý của cấp ủy cùng cấp, từ đó chủ động phát hiện, xác định, quyết định kiểm
tra tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết tố cáo
có tên đúng quy định, đem lại kết quả thiết thực. Khi thấy cần thiết, thành lập các
đoàn công tác liên ngành giữa UBKT của Đảng với thanh tra, kiểm toán, công an,
kiểm sát để phối hợp xử lý các vụ tham nhũng, lãng phí, quan liêu nghiêm trọng và
công khai kết quả xử lý của các tổ chức này.
Năm là, chỉ đạo các đoàn thể chính trị - xã hội ban hành các quy định tạo cơ
sở pháp lý cho việc phối hợp thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng trong tổ chức mình. Ban hành và tổ chức thực hiện
tốt quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội
và nhân dân để thực sự phát huy vai trò của các cơ quan này trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Ban hành và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc
quy định tiếp nhận và xử lý thông tin về dấu hiệu vi phạm, tố cáo tổ chức đảng cấp
141
dưới và đảng viên, cán bộ, công chức; ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu lực,
hiệu quả quy chế khuyến khích, bảo vệ và khen thưởng đối với người tích cực đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Có quy định cụ thể và kiên quyết xử lý
những người lợi dụng đấu tranh chống tham nhũng để vu cáo, gây mất đoàn kết nội
bộ. Chỉ đạo ban hành và tổ chức thực hiện nền nếp quy định về mở rộng dần diện
chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức trong HTCT, ở những lĩnh vực,
công tác dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực để chủ động phòng
ngừa các tệ nạn này. Có cơ chế và chủ động kiểm soát, giám sát việc chấp hành của
các cơ quan có chức năng đối với cán bộ, đảng viên, công chức về các vấn đề trên.
Sáu là, phát huy tốt hơn vai trò của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, của Nhân dân trong việc phát hiện, đấu
tranh với những hiện tượng tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Khẩn trương cụ thể
hóa cơ chế giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên đối với công tác phòng,
chống tham nhũng lãng phí, quan liêu.
Sớm ban hành Luật Tiếp cận thông tin để cơ quan, tổ chức, cá nhân, công dân
có cơ sở, điều kiện tiếp cận thông tin, tham gia thực hiện có hiêụ quả công tác
phòng, chống tham nhũng. Hướng dẫn thực hiện kịp thời Luật Tố cáo để công dân
có căn cứ, cơ sở, điều kiện thực hiện đúng quyền trách nhiệm của mình, góp phần
đấu tranh có hiệu quả với tệ tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện quy chế về nhân dân
giám sát tổ chức đảng và đảng viên. Có chính sách bảo vệ, khen thưởng, tôn vinh,
biểu dương, kịp thời, thỏa đáng tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng,
chống tham nhũng.
Quy định chế độ tiếp dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân phản ánh về phẩm
chất, đạo đức, lối sống và biểu hiện tham nhũng của cán bộ, đảng viên, công chức
trong cơ quan, đơn vị. Các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện
việc thiết lập "đường dây nóng" tiếp nhận thông tin phản ánh về tham nhũng để có
biện pháp ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả.
Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, gần gũi với
Nhân dân, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng
Để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, một trong
142
những chủ thể quan trọng, những người trực tiếp thực hiện nguyên tắc, tạo nên bước
chuyển biến mới trong nhận thức và hành động, tạo nên dấu ấn sâu sắc, mạnh mẽ
trong lòng Nhân dân, những người làm thay đổi, tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa
Đảng và Nhân dân chính là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì thế, Đảng cần chú trọng
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, có thái độ, phong cách
làm việc gần gũi với Nhân dân, để củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng. Để
làm được điều này, cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:
Một là, xem xét, lựa chọn, sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên hết sức thận
trọng, không để lọt vào trong Đảng những phần tử cơ hội, thoái hóa, biến chất, nhạt
phai lý tưởng. Ngay từ khâu tạo nguồn, phát triển đảng viên, từ khâu quy hoạch cán
bộ, cấp ủy, tổ chức đảng phải xem xét thái độ, động cơ, bản chất của người xin vào
Đảng, của người cán bộ, đảng viên trong diện quy hoạch; phải từ phong trào cách
mạng của quần chúng, từ hoạt động thực tiễn kiểm nghiệm năng lực lãnh đạo, quản
lý, kiểm tra mức độ tín nhiệm của quần chúng, trước khi làm quy trình bổ nhiệm
cán bộ.
Hai là, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình, kiểm điểm, đánh giá
chất lượng cán bộ, đảng viên theo đúng quy định, hướng dẫn của TW. Thường
xuyên tiến hành sơ kết, rút kinh nghiệm nghiêm túc, đánh giá đúng đắn những kết
quả đã đạt được, chưa đạt được, khắc phục hạn chế, khuyết điểm để lãnh đạo chặt
chẽ, tiếp tục thực hiện tốt đợt tự phê bình và phê bình, làm rõ những vấn đề cấp
bách, những hạn chế, yếu kém của các tổ chức đảng và chỉ rõ bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hiện nay theo
tinh thần của NQ TW 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay". Đề ra và tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, làm chuyển biến rõ nét
về công tác xây dựng Đảng để củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, tăng cường
sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.
Ba là, triển khai, chỉ đạo chặt chẽ, thực hiện nền nếp các quy chế, quy định
về giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội đối với
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; Quy định để Nhân dân góp ý
143
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Triển khai và thực hiện có nền nếp, hiệu quả,
tránh hình thức Quy định về thăm dò tín nhiệm cán bộ trong Đảng, trong QH,
HĐND các cấp. Nghiên cứu ban hành quy định về thăm dò tín nhiệm cán bộ lãnh
đạo các cấp trong Nhân dân và sửa đổi luật pháp để Nhân dân có quyền được bãi
miễn những cán bộ lãnh đạo ở các cấp do mình bầu ra không còn xứng đáng. Sớm
nghiên cứu, ban hành Luật Trưng cầu dân ý, Luật Biểu tình.
Bốn là, tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là
những cán bộ có chức, có quyền ở các cấp, các ngành sống gương mẫu, thực hiện
tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm với dân, nói đi đôi với làm để
Nhân dân tin tưởng noi theo. Cán bộ phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp
với nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân để có biện pháp giải quyết kịp thời. Kiên quyết đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù
địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong xã hội.
4.2.3. Đẩy mạnh xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật
sự là Nhà nƣớc của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; thực hiện nghiêm
túc Pháp lệnh dân chủ, Quy chế dân chủ ở cơ sở
Để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cần đẩy
mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, thật sự là của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh dân chủ,
QCDC ở cơ sở, trong đó tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, đẩy mạnh CCHC, làm tốt việc xây dựng và thực hiện chức danh
công chức, văn hóa công sở; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức đủ đức, đủ tài, vừa hồng, vừa chuyên, giỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ, có phẩm chất, đạo đức, lối sống trong sáng, gần gũi với Nhân dân, có
phong cách làm việc dân chủ, có ý thức tôn trọng Nhân dân, có kỹ năng vận động,
thuyết phục Nhân dân.
144
Kiên quyết rà soát tinh giảm biên chế, sắp xếp lại, nâng cao chất lượng, hiệu
quả, hiệu lực của bộ máy Nhà nước, chính quyền các cấp. Tăng cường rà soát, xóa
bỏ những thủ tục hành chính, những quy định rườm rà gây phiền hà cho Nhân dân.
Đổi mới lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức. Tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với Nhân dân và
giải quyết kịp thời đơn, thư khiếu tố của dân. Làm tốt công tác thanh tra nhân dân,
công tác hòa giải ở cơ sở; thực hiện QCDC ở cơ sở; chủ động nắm tình hình và giải
quyết những công việc liên quan đến đời sống của Nhân dân.
Thực hiện có hiệu quả cơ chế "một cửa" và "một cửa liên thông"’; đồng thời
tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật, nhất là Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật
Phòng, chống tham nhũng; đẩy mạnh đối thoại với Nhân dân của cơ quan chính
quyền trên các lĩnh vực như bồi thường giải phóng mặt bằng, quy hoạch xây dựng,
triển khai các dự án, đất đai, tài nguyên, môi trường, giải quyết khiếu nại, tố cáo…
Việc tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với Nhân dân là một trong những
biện pháp quan trọng thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
trong giai đoạn hiện nay. Thông qua đối thoại, các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước được truyền đạt trực tiếp đến Nhân dân. Qua đối
thoại, lãnh đạo trực tiếp giải quyết những vấn đề lâu nay chưa giải quyết được hoặc
đã giải quyết nhưng Nhân dân chưa đồng tình, nhằm ổn định chính trị ngay từ cơ
sở; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ và đảng
viên; đồng thời nâng cao, năng lực, hiệu quả quản lý của chính quyền cơ sở, phát
huy tốt quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt hơn QCDC ở cơ sở, tăng cường
mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.
Để cho đối thoại với Nhân dân không mang tính hình thức và đạt hiệu quả, cần
bảo đảm một số yêu cầu sau: Cuộc đối thoại nào cũng phải được chuẩn bị chu đáo,
có kế hoạch cụ thể; những yếu tố thông tin, diễn đàn, cử tọa, xử lý thông tin sau đối
thoại phải được xem là một quy trình thống nhất và hoàn chỉnh, không thể thiếu một
công đoạn nào. Tổ chức công khai các cuộc đối thoại, có đông đảo người tham dự,
không nên hạn chế chỉ những người có chức vụ hay những người liên quan đến sự
145
việc được nêu ra. Thực tế cho thấy, khi cuộc đối thoại với Nhân dân có sự xuất hiện
của người đứng đầu của Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp, các địa phương thì
hiệu quả cuộc đối thoại cao hơn nhiều.
Các thành viên trong cuộc đối thoại phải thật sự bình đẳng, không cho phép
bất cứ ai được sử dụng quyền hành của mình để gây ảnh hưởng hoặc để áp đảo ý
kiến của người dân. Người chủ trì và thư ký cuộc đối thoại nhất thiết phải do quần
chúng cử ra, chứ không phải do chỉ định một cách áp đặt. Người chủ trì cuộc đối
thoại có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, gợi ý, hướng người đối
thoại vào những vấn đề thiết yếu nhất, nêu rõ những kết luận cần đạt đến của cuộc
đối thoại. Diễn đàn đối thoại phải phù hợp với tính chất, yêu cầu, nội dung của đối
thoại. Toàn bộ các ý kiến phát biểu trong cuộc đối thoại đều phải được thư ký ghi
chép trung thực và đầy đủ vào biên bản. Thư ký cuộc đối thoại phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm về tính chính xác của những điều đã ghi chép. Sau cuộc đối thoại, biên
bản phải gửi lên ngay cho cơ quan cấp trên có thẩm quyền để nghiên cứu, giải
quyết. Trong thời hạn sớm nhất, cơ quan cấp trên có thẩm quyền thông báo cho
quần chúng biết kết quả xem xét, quyết định của mình. Nếu quần chúng chưa thông
thì phải tiếp tục làm việc thêm một cách nghiêm túc, chứ không đưa ra những kết
luận vội vã, không đúng đắn, thiếu tính khách quan. Không được trù úm, trả thù
những người có ý kiến đối lập với mình hoặc phanh phui những sai trái của mình.
Qua đối thoại, quần chúng cảm nhận được vai trò của mình mà phát huy tính tích
cực xã hội ngày càng cao hơn; tinh thần làm chủ của quần chúng được phát động
mạnh mẽ. Đối thoại là một hình thức quần chúng đấu tranh để thực hiện nền nếp
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đối thoại là một cơ hội để
dân hiểu Đảng, Đảng hiểu dân hơn, làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa Đảng với
Nhân dân. Thực hiện tốt công tác đối thoại với dân, sẽ là chiếc cầu nối giữa tổ chức
đảng, chính quyền và Nhân dân.
Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước trong việc thi hành công vụ, giải quyết các công việc liên quan đến Nhân dân:
Việc thực hiện QCDC ở cơ sở và quy tắc ứng xử khi tiếp xúc với Nhân dân; thực
146
hành phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân",
"nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin".
Hai là, cấp ủy đảng các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền các
cấp giải quyết kịp thời, triệt để những bức xúc gay gắt, kiến nghị chính đáng của
Nhân dân, nhất là những vụ việc có liên quan đến thu hồi đất, đền bù, giải tỏa, tái
định cư; những vụ khiếu kiện kéo dài, quá trình xử lý, chính quyền có vi phạm; tình
hình thiếu việc làm, thu nhập thấp, thiếu nhà ở, vi phạm quyền làm chủ và đình
công, bãi công của công nhân, lao động trong các khu công nghiệp, trong các doanh
nghiệp; tình hình tụt hậu, suy thoái kinh tế, lạm phát, giá cả các mặt hàng tăng cao.
Từng bước giải quyết có hiệu quả tình hình tai nạn và ách tắc giao thông ở các đô
thị lớn, ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội đang phát triển tràn lan. Những bức
xúc, khiếu nại, tố cáo của Nhân dân cần phải được giải quyết kịp thời, chính xác,
khách quan trên cơ sở quy định của pháp luật và cơ quan có thẩm quyền giải quyết
ngay từ đầu và từ gốc rễ của những vụ việc phát sinh. Khi phát sinh vụ việc khiếu
kiện, tố cáo đông người, người đứng đầu chính quyền địa phương phải đến tận nơi
xem xét, lắng nghe ý kiến của Nhân dân một cách thấu đáo, đưa ra các biện pháp
giải quyết kịp thời, huy động các ngành chức năng cùng tham gia xem xét vụ việc,
đồng thời các đoàn thể nhân dân vào cuộc để tiếp xúc, vận động Nhân dân. Làm tốt
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
Nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển, giữ yên lòng dân, góp phần thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân.
Ba là, tiếp tục thực hiện phương châm dựa vào Nhân dân để xây dựng chính
quyền trong sạch, vững mạnh; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân, thực
hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi
mở. Thực hành dân chủ rộng rãi là chìa khóa để phát huy khả năng sáng tạo của
Nhân dân, đóng góp vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Một nền
chính trị ổn định được xây dựng vững chắc trên nền tảng dân chủ. Dân chủ càng cao
thì đồng thuận xã hội càng sâu, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng
147
được củng cố vững chắc. Để phát huy dân chủ, làm cho dân chủ trở thành nguồn lực
phát triển, phải bảo đảm hai điều kiện: xây dựng xã hội học tập nhằm nâng cao dân
trí; thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân thông qua các thiết chế bảo đảm dân chủ
trong mọi mặt của đời sống xã hội, mở rộng dân chủ trực tiếp.
Bốn là, tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách
để không ngừng hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN tạo ra môi trường
thuận lợi cho Nhân dân, cho doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh và bình đẳng
trong cạnh tranh, phát triển.
Có các chính sách giải quyết hài hòa các lợi ích của các tầng lớp nhân dân,
nhất là chính sách đền bù, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, bảo đảm quyền lợi
chính đáng và lợi ích hợp pháp cho nhân dân khi tham gia vào các chương trình
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước. Nói phải đi đôi với làm, tránh
tình trạng chủ quan, áp đặt, thiếu thực tiễn hoặc ban hành ra thì toàn diện, đầy đủ,
nhưng khi tổ chức thực hiện thiếu điều kiện đảm bảo, không chú trọng kiểm tra, đôn
đốc, hiệu quả thấp, chủ quan áp đặt, không chú trọng lắng nghe ý kiến, tuyên
truyền, vận động Nhân dân thực hiện.
Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn, đã được
ban hành, triển khai, thực hiện trong thực tiễn đã mang lại những kết quả đáng kể
trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân, không thể không thực hiện QCDC ở cơ sở, Pháp
lệnh dân chủ ở cơ sở. Để thực hiện tốt QCDC, Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị
trấn, cần thực hiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt sâu
sắc cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân những chủ trương chỉ đạo của Đảng và pháp
luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn như: Chỉ
thị số 30 của BCT (khóa VIII), Chỉ thị số 10 của Ban Bí thư TW Đảng (khóa IX),
Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của
Ủy ban Thường vụ QH Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.... nhằm
nâng cao hơn nữa nhận thức và năng lực thực hiện dân chủ cho cán bộ, đảng viên và
148
nhân dân; coi đây là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của các cấp ủy, chính
quyền, MTTQ và các đoàn thể.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo, nâng cao trình độ dân trí,
trang bị cho người dân những kiến thức về pháp luật, để Nhân dân nắm vững quyền
và nghĩa vụ công dân, có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; hoàn
thành tốt nhiệm vụ của người làm chủ và có đủ năng lực để tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội. Nếu trình độ dân trí không cao, ý thức chấp hành pháp luật
của Nhân dân còn yếu thì rất khó xây dựng được một nền dân chủ XHCN văn minh,
hiện đại và nhân văn; QCDC, pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng không
phát huy được giá trị, hiệu quả.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền và MTTQ trong
việc tổ chức thực hiện tốt QCDC, Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Hoạt
động của chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở, phải thể hiện không khí dân chủ;
đồng thời, tích cực vận động và tạo điều kiện tối đa để Nhân dân có thể kiểm tra,
giám sát được hoạt động của mình. Cán bộ, đảng viên phải không ngừng nâng cao
trình độ lý luận chính trị và chuyên môn để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao;
phải là những tấm gương về thực hiện dân chủ.
Công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của
các cấp phải được duy trì thường xuyên và nghiêm túc. Định kỳ sơ kết, tổng kết để
rút kinh nghiệm, nhằm thực hiện có hiệu quả hơn QCDC, Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn.
Thứ tư, gắn việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng HTCT
ở cơ sở. Cần có chính sách động viên, khen thưởng kịp thời những địa phương, cá
nhân làm tốt; đồng thời, xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp mất dân chủ
hoặc lợi dụng dân chủ để gây rối, vi phạm pháp luật, gây bức xúc trong xã hội và
Nhân dân.
Thứ năm, để hoàn thành tốt các nhiệm vụ tham gia thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, MTTQ các cấp cần tiếp tục tổ chức quán triệt sâu rộng các chủ
149
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước và các hướng
dẫn của Ủy ban TW MTTQ Việt Nam về xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, nhất là nội dung Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn và các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh của các cơ quan TW cho đội
ngũ cán bộ MTTQ các cấp, đặc biệt là ở cấp xã và Ban Công tác MTTQ ở khu dân
cư (thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố...).
Để QCDC, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được triển
khai thực hiện thực sự có hiệu quả, mang tính bền vững và lâu dài, đòi hỏi phải có
sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cấp ủy đảng, sự thực thi nghiêm túc,
sáng tạo, có trách nhiệm của chính quyền, MTTQ Việt Nam và sự tham gia tích cực
của các tầng lớp nhân dân.
4.2.4. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận;
tăng cƣờng công tác dân vận của chính quyền; đổi mới tổ chức, nội dung,
phƣơng thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV, tăng cường CTDV
của chính quyền; đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và
các đoàn thể chính trị - xã hội là một giải pháp quan trọng để thực hiện tốt nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ, trong điều
kiện Đảng cầm quyền, hằng ngày, hằng giờ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
nhà nước tiếp xúc với Nhân dân, phục vụ Nhân dân. Mọi thủ tục hành chính, mọi
yêu cầu của Nhân dân được thực hiện ngay tại trụ sở của các cơ quan chính quyền.
Thái độ chân tình, cởi mở, hòa nhã, công tâm, khách quan phục vụ Nhân dân của
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chính quyền sẽ làm cho Nhân dân
tin tưởng vào trách nhiệm của bộ máy công quyền, từ đó có niềm tin vững chắc vào
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Ngược lại, chỉ cần một hành động
nhỏ hách dịch, hạch sách, nhũng nhiễu Nhân dân, coi thường Nhân dân của một vài
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước, sẽ làm cho Nhân dân thấy chán
nản, khó chịu với những người trong bộ máy công quyền, những người được Nhân
dân lựa chọn, bầu lên không phải để phục vụ Nhân dân mà "làm quan" nhân dân.
150
Những hiện tượng quan liêu, xa dân, nếu không được khắc phục, chấn chỉnh kịp
thời, sẽ dần làm cho Nhân dân mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước. Do đó, cần tiếp tục tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với CTDV theo tinh thần NQ số 25-NQ/TW của BCH TW khóa XI "Về tăng cường
và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới",
trong đó tập trung vào những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ;
tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của Nhân dân;
làm cho Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ gắn
bó mật thiết của Nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Hai là, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước, Mặt trận,
đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí CTDV trong
tình hình mới.
Ba là, tăng cường và đổi mới CTDV của các cơ quan nhà nước.
Bốn là, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, góp phần thúc đẩy quá trình
CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập chủ quyền, an ninh chính trị.
Năm là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn
thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng để tập hợp Nhân dân, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Sáu là, quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ Ban
Dân vận, Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp vững mạnh.
Bảy là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát của cấp ủy đảng
các cấp, các tổ chức đảng từ TW đến cơ sở đối với việc thực hiện CTDV.
Để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV, tăng cường CTDV
của chính quyền; đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và
các đoàn thể chính trị - xã hội cần thực hiện những nhiệm vụ, việc làm cụ thể sau:
Thứ nhất, đổi mới nhận thức về CTDV, CTDV của chính quyền cho cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức nhà nước, cán bộ MTTQ và các đoàn thể với
phương châm "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Mỗi cán bộ dân vận của
151
Đảng và của cả HTCT cần tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả tham mưu, đổi
mới phong cách chỉ đạo theo hướng bám sát cơ sở, gần dân hơn, hiểu dân hơn, tin
dân, học dân và dựa vào Nhân dân để thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền, MTTQ và đoàn thể.
Thứ hai, thực hiện tốt quan điểm của Đảng về CTDV phải khoa học, đa
dạng, thiết thực, phù hợp; hài hòa các lợi ích: lợi ích của Nhân dân, lợi ích của Nhà
nước, của tập thể, của doanh nghiệp, trong đó phải đặc biệt chú trọng lợi ích thiết
thực của Nhân dân, quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân. Tăng
cường phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong HTCT, xây dựng các mô hình,
điển hình làm tốt CTDV, đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả các phong trào
thi đua yêu nước rộng lớn trong các tầng lớp nhân dân.
Đẩy mạnh phong trào thi đua "Dân vận khéo" theo tư tưởng dân vận của Chủ
tịch Hồ Chí Minh gắn với việc "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" ở tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức trong HTCT, trong toàn thể cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và trong toàn
thể nhân dân ở mọi lĩnh vực đời sống xã hội, thực sự làm bật lên sức mạnh của
Nhân dân và động lực mới cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khắc phục khó khăn,
hậu quả do suy thoái, khủng hoảng kinh tế mang lại, đẩy mạnh phát triển sản xuất,
kinh doanh; xây dựng nông thôn mới; xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, làm tốt
công tác quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và các cuộc vận động, phong trào
do MTTQ, các đoàn thể chính trị-xã hội phát động.
Thứ ba, đổi mới nội dung, hình thức CTDV ngày càng đa dạng, phong phú,
hấp dẫn, có sức thuyết phục hơn với sự góp sức của nhiều lực lượng, loại hình,
phương thức, phương tiện, báo chí, văn hóa, văn nghệ, khoa học giáo dục, tuyên
truyền miệng, tuyên truyền trực tuyến, thảo luận, tranh luận, đối thoại, trong đó chú
trọng việc sử dụng các phương tiện truyền thông mới, nhất là mạng internet, các
diễn đàn xã hội thu hút sự tham gia của đông đảo thành viên thuộc các tầng lớp
Nhân dân. Công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân cần hướng vào những vấn đề
Nhân dân quan tâm, đang bức xúc, nóng hổi tính thời sự, nhằm cung cấp thông tin
152
xác thực, giải tỏa tâm lý, tư tưởng, khơi thông những hoài nghi, thắc mắc; động
viên, cổ vũ những nhân tố mới, góp phần nâng cao nhận thức, tình cảm của Nhân
dân và sự đồng thuận xã hội.
Thứ tư, xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, quy hoạch, đào tạo, lựa chọn
những cán bộ có phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm và uy tín với Nhân dân, trưởng
thành từ thực tiễn công tác đảng, chính quyền, phong trào quần chúng có uy tín
trong các tầng lớp nhân dân có cơ cấu hợp lý, bố trí công tác ở các cơ quan, tổ chức
của Mặt trận, các đoàn thể chính trị xã hội, các hội quần chúng. Có chính sách đào
tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, thu hút cán bộ làm dân vận. Kiện toàn ban dân vận các
cấp đủ về số lượng, cơ cấu, chất lượng; lựa chọn, bố trí cán bộ có đủ năng lực,
phẩm chất, đạo đức, tác phong công tác, đủ sức làm tham mưu cho cấp ủy về
CTDV. Tránh tình trạng bố trí những cán bộ năng lực kém, sắp đến tuổi nghỉ hưu
hoặc bị kỷ luật về công tác tại ban dân vận. Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm CTDV cần
phải có uy tín và kỹ năng trong thực hiện "Dân vận khéo", với những tiêu chuẩn đặc
biệt: có uy tín; có kỹ năng thuyết phục; kỹ năng tuyên truyền; kỹ năng đồng cảm.
Tăng cường chỉ đạo các Học viện, trường đào tạo cán bộ ở TW, các trường
chính trị ở các tỉnh, thành chú trọng và đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao nhận thức, trình độ năng lực, kỹ năng làm CTDV, thực hiện QCDC ở cơ sở, cho
tất cả đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở các cấp, tạo nền tảng vững
chắc cho tăng cường và đổi mới CTDV của Đảng.
Thứ năm, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ
quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên, đa dạng hóa các hình thức
tập hợp Nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân trí
và đặc điểm, tình hình cụ thể của từng giai tầng xã hội, trong từng giai đoạn cách
mạng. Khắc phục có hiệu quả bệnh hành chính hóa trong hoạt động của Mặt trận,
các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng sao cho thiết thực với nhiệm vụ
chung của đất nước, của địa phương, đơn vị và quyền lợi, tâm tư, nguyện vọng của
đoàn viên, hội viên. Thực hiện tốt Quy chế giám sát, phản biện xã hội của MTTQ
153
và các đoàn thể chính trị - xã hội, Quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể
chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền để tranh thủ ý kiến tham gia đóng góp của Nhân dân.
Thứ sáu, xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa MTTQ và các đoàn
thể nhân dân trong CTDV một cách cụ thể, thiết thực, hiệu quả; phát huy vai trò của
MTTQ, các đoàn thể chính trị-xã hội; trách nhiệm của đoàn viên, hội viên; trách
nhiệm của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, người có uy tín trong vận động,
thuyết phục Nhân dân. Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của tuổi trẻ; tạo môi
trường, cơ chế chính sách thuận lợi cho tuổi trẻ rèn luyện, học tập, phấn đấu trưởng
thành; coi trọng, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng cho thanh thiếu
niên trở thành những người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng.
4.2.5. Lãnh đạo chăm lo nâng cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng
của Nhân dân; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc của Nhân dân; đồng
thời có cơ chế để Nhân dân thật sự tham gia xây dựng Đảng, chính quyền
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân chỉ thực sự phát huy hiệu
quả, được thực hiện rộng rãi trong toàn Đảng, mang lại những giá trị đích thực đối
với Nhân dân khi có ý nghĩa đối với đối tượng hướng tới của việc thực hiện nguyên
tắc là Nhân dân, khi được Nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia với tư
cách là lực lượng quan trọng quyết định sự thành công của nguyên tắc. Lãnh đạo
chăm lo nâng cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhân dân, tập trung giải
quyết tốt những vấn đề bức xúc của Nhân dân; đồng thời có cơ chế để Nhân dân
thật sự tham gia xây dựng Đảng, chính quyền là giải pháp quan trọng để thực hiện
tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong thực tiễn. Trong thời gian
tới, cần tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nền pháp chế
XHCN bảo đảm quyền lợi chính đáng của Nhân dân. Quyền lợi, lợi ích chính đáng
của Nhân dân, nhu cầu cấp thiết của Nhân dân phải được bảo đảm bằng một hệ
thống luật pháp hoàn thiện, đồng bộ, một nền pháp chế thể hiện đúng ý chí, nguyện
vọng của Nhân dân. Có như vậy trật tự kỷ cương xã hội, cuộc sống yên bình, quyền
154
và lợi ích của Nhân dân mới được bảo đảm. Hệ thống luật pháp và nền pháp chế của
nước ta phải thể hiện đầy đủ ý chí của Nhân dân, lợi ích của Nhân dân, dân chủ của
Nhân dân và quyền lực của Nhân dân. Thường xuyên rà soát, bổ sung, điều chỉnh
các Luật và văn bản pháp quy dưới luật để tạo điều kiện cho Nhân dân được hưởng
các quyền tự do dân chủ ngày càng nhiều hơn trong khuôn khổ pháp luật, kỷ cương
nhà nước. Các cấp ủy lãnh đạo chính quyền các cấp, các ngành nghiêm túc rà soát
các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý, những gì
không phù hợp với lợi ích của Nhân dân, không bảo đảm quyền làm chủ của Nhân
dân cần phải xóa bỏ.
Hai là, nâng cao trình độ dân trí và hoàn thiện cơ chế dân chủ. Qua nghiên
cứu thực tế, cho thấy ý thức chính trị, trình độ chính trị, trình độ dân trí ở nước ta
chưa cao, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa. Do đó, để thực hiện tốt nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, Đảng, Nhà nước cần có chính sách nâng cao
dân trí, trọng dụng nhân tài, hoàn thiện cơ chế dân chủ.
Ba là, các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị cần tập trung giải quyết
những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, nhất là những vấn đề liên
quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ
nạn xã hội. Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới các khâu tiếp xúc, giải quyết nhu cầu của
Nhân dân, như: cấp giấy phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận nhà, đất, cấp giấy
phép sản xuất kinh doanh, giải quyết các chế độ, chính sách.... bảo đảm nhanh gọn,
không phiền hà, sách nhiễu Nhân dân. Trong xây dựng thể chế, chính sách, cần
quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước phải thuận lòng dân, xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng
chính đáng của Nhân dân. Chú trọng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của Nhân
dân, nhất là điều kiện sống, lao động, học tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức
khỏe. Quan tâm điều chỉnh hài hòa lợi ích giữa các giai tầng xã hội, các vùng miền,
các lĩnh vực gắn với quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, lợi ích cá nhân
với lợi ích tập thể và cộng đồng, xã hội. Xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực,
tham nhũng; giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu kiện đông người phức tạp,
kéo dài.
155
Bốn là, tiếp tục đổi mới hình thức tiếp thu các ý kiến đóng góp, các kiến
nghị của Nhân dân, trong đó, cần đổi mới nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri của đại
biểu QH, đại biểu HĐND các cấp; hình thức chất vấn, trả lời chất vấn trong các
cuộc tiếp xúc giữa cử tri với đại biểu QH, đại biểu HĐND, trong các kỳ họp QH,
HĐND các cấp.
Mở rộng phạm vi và đổi mới các hình thức tiếp xúc, giao lưu, đối thoại giữa
lãnh đạo các cấp với Nhân dân, với cử tri sao cho những người lao động bình
thường có nhiều cơ hội tiếp xúc, phát biểu, kiến nghị với lãnh đạo chính quyền các
cấp. Ngoài các cuộc tiếp xúc theo định kỳ, cần tăng cường các hình thức tiếp xúc
theo chuyên đề, theo giới ngành và các cuộc tiếp xúc theo yêu cầu của Nhân dân và
công khai kết quả giải quyết trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Năm là, chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết tốt các chính sách đối
với người nghèo, người khuyết tật và các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội ở các vùng đồng bào dân tộc ít người, để các dân tộc trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho Nhân dân. Dựa vào dân, phát huy sức mạnh và sự sáng tạo của Nhân
dân để thực hiện các chương trình, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước. Tạo công ăn, việc làm cho người lao động, giải quyết tình trạng thất
nghiệp, nhất là một số lượng không nhỏ thanh niên, sinh viên tốt nghiệp cao đẳng,
đại học, thậm chí cả sau đại học mà không tìm kiếm được việc làm, trong khi chúng
ta đang rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao. Để giải quyết vấn đề này, cần phải
đẩy nhanh tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó có khu vực doanh nghiệp nhà nước; phát
triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, mở rộng các loại hình
dịch vụ xã hội, hợp tác với nước ngoài để xuất khẩu lao động; sắp xếp lại lực lượng
lao động để có thể thu hút lao động trẻ, có chuyên môn vào làm việc. Giải quyết
công ăn việc làm, cải thiện mức sống và điều kiện sống của dân cư là chăm lo thiết
thực nhất tới dân sinh.
Giải quyết các vấn đề xã hội nhằm phục vụ đời sống hàng ngày và tạo cơ hội
156
công bằng, bình đẳng trong phát triển cho người dân, nhất là bộ phận dân cư ở vùng
sâu, vùng xa, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các giải pháp kinh tế-xã
hội, giáo dục, y tế, văn hóa phải tạo được chuyển biến thực sự cho việc an dân,
khuyến dân, an sinh và an ninh vì cuộc sống của dân. Thực hiện tốt phương châm
"Nhà nước và nhân dân cùng làm", Nhà nước có trách nhiệm, nghĩa vụ tổ chức đời
sống dân cư, quản lý kinh tế và xã hội, có chính sách và cơ chế để thu hút nguồn lực
từ xã hội, từ phía người dân nhưng không vì thế mà lạm dụng sức dân, phải giảm
bớt những khoản đóng góp của dân, nhất là nông dân và dân nghèo ở nông thôn và
đô thị.
Chăm lo phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân, tiết kiệm sức dân phải là
quan tâm thường trực, trách nhiệm thường xuyên của Đảng và Nhà nước, từ TW tới
địa phương, cơ sở. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, vận động các hộ nghèo vươn
lên, tổ chức giúp người dân vươn lên để thoát nghèo, cần tránh tâm lý ỷ lại, trông
chờ vào Đảng và Nhà nước của một bộ phận hộ nghèo.
Sáu là, cần nắm vững những phản ứng của Nhân dân đối với các chủ trương,
chính sách của Đảng, Chính phủ cũng như của địa phương, cơ sở; nắm bắt kịp thời
những khó khăn, thuận lợi của Nhân dân về đời sống vật chất và tinh thần; những
biểu hiện, diễn biến về tâm trạng, tư tưởng của Nhân dân; những ý kiến, nguyện
vọng của Nhân dân. Đây là những biện pháp cực kỳ quan trọng để thực hiện tốt
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; giúp cho Đảng và Nhà nước đề ra
chủ trương, chính sách đúng đắn, sát thực tiễn, hợp lòng dân; giải quyết kịp thời các
nhu cầu bức thiết của Nhân dân.
Bảy là, thực hiện tốt công tác thông tin, bảo đảm quyền được thông tin
của Nhân dân. Yêu cầu về thông tin của Nhân dân hiện nay rất đa dạng, phong
phú: thông tin về tình hình trong nước, quốc tế, thông tin kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, khoa học - công nghệ..., cả những thông tin cụ thể có quan hệ đến
cuộc sống hàng ngày của Nhân dân. Thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra", cần đa dạng hóa thông tin, đưa lại những thông tin có
định hướng bổ ích, cần thiết cho Nhân dân, chính là thực hiện tốt nhất quyền
được thông tin của Nhân dân.
157
Bảo đảm thực hiện thông tin nhiều chiều: từ trên xuống, từ dưới lên nhằm
làm cho tiếng nói của Đảng xuống đến từng người dân; đồng thời người dân có thể
phát biểu về những công việc liên quan đến đời sống của mình, đến sự nghiệp
chung của Đảng, của dân, của đất nước; phát biểu về cán bộ, đảng viên, về các chủ
trương, chính sách; tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý công việc Nhà nước.
Những thông tin phải phản ánh đúng hiện thực, cả thuận lợi và khó khăn, cả cái
được và cái chưa được, cả những thành công và sai lầm... để Nhân dân được biết.
4.2.6. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của các tổ chức đảng và cán
bộ, đảng viên; thƣờng xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân không phải là vấn đề mới mẻ, mối quan
hệ giữa ĐCS cầm quyền và Nhân dân đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS Việt Nam dày công xây dựng trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng. Tuy nhiên, khi vấn đề này được quy định thành một
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, chính thức ghi trong Điều lệ Đảng khóa
X (năm 2006) thì việc thực hiện đúng nguyên tắc lại là một vấn đề không hề đơn
giản. Do chưa có hướng dẫn, chưa có quy định cụ thể, nên trong quá trình thực hiện
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Để
thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân hiện nay, cần tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thường xuyên của các cấp ủy đảng,
nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp của TCCSĐ đối với việc thực hiện nguyên tắc của
các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên.
Cấp ủy cần lãnh đạo, chỉ đạo các nội dung cụ thể và những điểm cần chú ý
khi thực hiện nguyên tắc, phổ biến kịp thời những hướng dẫn của Đảng và của cấp
ủy cấp trên về thực hiện nguyên tắc, phổ biến những kinh nghiệm về thực hiện
nguyên tắc. Cấp ủy có thể mở các lớp tập huấn về thực hiện nguyên tắc; thường
xuyên theo dõi, giúp đỡ cấp dưới trong quá trình thực hiện nguyên tắc, uốn nắn
những lệch lạc, động viên những tổ chức đảng, đảng viên thực hiện tốt nguyên tắc;
phê bình và xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên thực hiện
158
không tốt và vi phạm nguyên tắc; chỉ đạo, giúp đỡ cấp ủy cấp dưới sơ kết, tổng kết
việc thực hiện nguyên tắc, rút ra những kinh nghiệm hữu ích.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy cấp dưới thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cấp ủy cấp trên cần chú ý chỉ đạo việc thực
hiện nguyên tắc này trong tổng thể và đồng thời với việc thực hiện các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động khác của Đảng, tránh việc quá tập trung hay xem nhẹ thực
hiện bất cứ một nguyên tắc nào.
Cần đặc biệt coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của cấp ủy, tổ chức đảng và
đảng viên. Đây là biện pháp hữu hiệu để nguyên tắc được thực hiện đúng đắn và đạt
kết quả. Để phát huy tác dụng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát đối với việc
thực hiện nguyên tắc này, cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, cấp ủy các cấp thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện nguyên tắc. Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo chủ
yếu của Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, trước hết là nhiệm vụ của
cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy và do cấp ủy trực tiếp tiến hành. Tổ chức đảng và
đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng; trong đó, coi trọng việc kiểm
tra, giám sát trước hết đối với cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy khi thực hiện nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Hai là, tăng cường kiểm tra việc thực hiện NQ, Điều lệ Đảng, giữ nghiêm kỷ
luật Đảng. Tăng cường kiểm tra, giám sát về phẩm chất đạo đức và kết quả thực
hiện nhiệm vụ chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, chấp hành Điều lệ Đảng và các chủ trương cụ thể của cấp ủy. Trong
kiểm tra, cần lắng nghe dư luận của Nhân dân, tiếp nhận ý kiến của MTTQ, đoàn
thể nhân dân nhận xét, phê bình cán bộ, đảng viên theo định kỳ hoặc đột xuất
Ba là, đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên
tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của tổ chức đảng và đảng viên, phát hiện và
xử lý kịp thời những hành vi vi phạm nguyên tắc.
Cấp ủy các cấp cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chấp hành nguyên
159
tắc này của tổ chức đảng và đảng viên nhằm phát hiện các nhân tố tích cực, việc
làm tốt, điển hình tốt giúp cho cấp ủy tổng kết, rút ra những kinh nghiệm hay,
những cán bộ, đảng viên tiêu biểu... để bồi dưỡng và nhân rộng; đồng thời phát hiện
những biểu hiện vi phạm để nhắc nhở, ngăn ngừa, hạn chế các sai phạm của tổ chức
đảng và đảng viên. Tập trung kiểm tra, giám sát những lĩnh vực mà tổ chức đảng,
người đứng đầu cấp ủy dễ vi phạm, như đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý sử dụng
đất đai, giải phóng mặt bằng, tiếp công dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của
công dân, tài chính, ngân hàng, thương mại; những nơi có dấu hiệu tham ô, tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân.
Các tổ chức đảng chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tổ chức
đảng và đảng viên theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; phối hợp với
UBKT tham mưu, giúp cấp ủy thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thuộc lĩnh vực
được phân công phụ trách và nhiệm vụ cấp ủy giao; kịp thời phát hiện dấu hiệu vi
phạm thuộc lĩnh vực công tác của tổ chức mình và chuyển tổ chức đảng có thẩm
quyền xem xét, giải quyết.
Ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp
dưới và đảng viên, trước hết là cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp
mình quản lý, chủ động phát hiện và kịp thời kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Nâng cao chất lượng kiểm tra,
giám sát để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kịp
thời phát hiện các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có biểu hiện vi phạm nguyên tắc,
có hành vi hạch sách, nhũng nhiễu Nhân dân, có biểu hiện thờ ơ, vô cảm trước nỗi
đau của Nhân dân.
Tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân phải bị xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm, bất kể người đó là ai, giữ chức vụ gì. Cần tiến hành kỷ luật đảng nghiêm
minh những trường hợp vi phạm nguyên tắc. Trường hợp vi phạm nghiêm trọng,
cần xử lý công khai, trước pháp luật, không xử lý nội bộ theo kiểu "đóng cửa bảo
nhau", để răn đe, phòng ngừa sai phạm trong thực hiện nguyên tắc.
160
Bốn là, coi trọng sơ kết, tổng kết công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và
đảng viên thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Qua sơ kết,
tổng kết rút ra những kinh nghiệm thành công và chưa thành công, đề xuất chủ
trương, giải pháp áp dụng kinh nghiệm đó trong thực tiễn, nhân rộng điển hình tốt
trong thực hiện đúng nguyên tắc.
Coi trọng sơ kết, tổng kết công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy. Hàng
năm, cuối nhiệm kỳ, cấp ủy các cấp từ TW đến cơ sở, trước hết là người đứng đầu
cấp ủy phải trực tiếp chỉ đạo tổng kết quá trình thực hiện công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, trong đó có việc thực hiện
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Bên cạnh việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của các tổ chức đảng, của cán
bộ, đảng viên, cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện
nguyên tắc. Đây là một biện pháp quan trọng thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân, bởi lẽ thông qua tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý
luận, thông qua nghiên cứu lý luận mới có thể hoàn thiện nguyên tắc, nội dung của
nguyên tắc cũng như cơ chế, phương thức thực hiện nguyên tắc. Các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động cơ bản, truyền thống, quen thuộc của Đảng như tập trung dân
chủ, đoàn kết thống nhất, tự phê bình và phê bình đã có quy định rõ ràng, nội dung
cụ thể, triển khai thực hiện và tổng kết thường xuyên. Đối với hai nguyên tắc mới
được bổ sung vào trong Điều lệ Đảng khóa XI, Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật và Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, càng cần phải đầu
tư, quan tâm nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận, thường xuyên tổng kết thực tiễn
thực hiện nguyên tắc này.
161
KẾT LUẬN
1. Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một trong 5 nguyên
tắc tổ chức, hoạt động của ĐCS Việt Nam, có vai trò quan trọng trực tiếp bảo
đảm giữ vững và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân, bảo đảm
nguồn sức mạnh vô địch của Đảng. Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân là toàn bộ hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ đảng
viên từ đề ra chủ trương, kế hoạch, đến tổ chức tuyên truyền và tiến hành các
hoạt động lãnh đạo, tổ chức làm cho các nội dung nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân trở thành hiện thực trên thực tế.
2. Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân gồm chín
phương thức chủ yếu. Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức
đúng đắn về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho cán bộ, đảng
viên và Nhân dân. Thứ hai, dân chủ hóa, khoa học hóa quá trình xây dựng và
tổ chức thực hiện NQ của Đảng, bảo đảm kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng
của toàn Đảng, toàn dân, "ý Đảng" hợp "lòng dân". Thứ ba, lãnh đạo và tổ chức
thực hiện tốt CTDV. Thứ tư, Đảng lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống
chính trị, xã hội để phát huy thật sự vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây
dựng và bảo vệ đất nước; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng . Thứ năm, xây
dựng phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân
dân; cán bộ, đảng viên tôn trọng, lắng nghe ý kiến Nhân dân, học hỏi Nhân dân,
nhưng không được theo đuôi Nhân dân. Thứ sáu, Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng
pháp luật, chính sách bảo vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt CTDV của chính
quyền. Thứ bảy, lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh;
phát triển sâu rộng các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân . Thứ tám,
tiến hành có hiệu quả cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, cửa quyền, hách dịch trong Đảng và HTCT, qua đó, củng cố niềm tin, sự
ủng hộ của Nhân dân đối với Đảng. Thứ chín, kiểm tra, giám sát, tổng kết việc
162
thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; phòng ngừa, phát
hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân.
3. Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong thực tiễn,
có những ưu điểm nổi bật, bên cạnh đó vẫn tồn tại một số hạn chế lớn cần khắc
phục. Qua đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế,
Luận án rút ra 5 vấn đề trong thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân. Một là, sự tha hóa quyền lực của đảng cầm quyền và nguy cơ quan liêu, xa rời
Nhân dân của ĐCS cầm quyền. Hai là, trách nhiệm của ĐCS Việt Nam cầm quyền
trong xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự là "công bộc", là "đày tớ" của Nhân dân. Ba
là, lợi ích và vai trò "nêu gương" của cán bộ, đảng viên trong điều kiện phát triển
KTTT định hướng XHCN và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bốn là, niềm tin của Nhân
dân đối với Đảng trong tình hình mới. Năm là, cụ thể hóa và thực hiện cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ hiện nay.
4. Để giải quyết triệt để những vấn đề đặt ra trong thực hiện nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân hiện nay, nhằm thực hiện tốt nguyên tắc này
trong thực tiễn, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Thứ nhất, nâng cao
nhận thức, trách nhiệm cho toàn Đảng về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân; quy định rõ nội dung, phương thức thực hiện nguyên tắc của các tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên. Thứ hai, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém, tham
nhũng; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, gần gũi với
Nhân dân, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng. Thứ ba, đẩy mạnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân; thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh dân chủ, QCDC ở cơ sở. Thứ tư,
tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV; tăng cường CTDV của
chính quyền; đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và
các đoàn thể chính trị - xã hội. Thứ năm, lãnh đạo chăm lo nâng cao đời sống,
bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhân dân; tập trung giải quyết những vấn đề bức
xúc của Nhân dân; đồng thời có cơ chế để Nhân dân thật sự tham gia xây dựng
163
Đảng, chính quyền. Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của các tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên; thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện
nguyên tắc.
5. Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Đảng, được ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
(2006) khẳng định trong Điều lệ Đảng. Trải qua hai kỳ ĐH, đến nay, việc thực
hiện nguyên tắc này trong thực tiễn vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, bởi
trong Đảng chưa có văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể thực hiện nguyên tắc.
Là một đề tài mới, chưa có tài liệu, công trình nào trực tiếp nghiên cứu, nên chắc
rằng kết quả nghiên cứu của Luận án không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế
nhất định. Với tinh thần cầu thị, bản thân tác giả rất mong nhận được những ý
kiến chỉ bảo quý báu của các nhà khoa học, để Luận án có thể hoàn thiện và có
chất lượng cao hơn.
164
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trần Thị Hương (2010), "Phát huy tính tiền phong của đảng viên theo quan
điểm C.Mác và Ph.Ăngghen", Tạp chí Xây dựng Đảng, (11), tr.26-30.
2. Trần Thị Hương (2013), "Mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân
trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (8), tr.13-17.
3. Trần Thị Hương (2013),"Gắn bó mật thiết với nhân dân - một nguyên tắc quan
trọng đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng", Tạp chí Giáo dục lý luận, (201),
tr.31-32, tr.36.
4. Trần Đình Huỳnh và Trần Thị Hương (2013) "Tầm nhìn chiến lược", Tạp chí
Xây dựng Đảng, (8), tr.2-4.
5. Trần Đình Huỳnh và Trần Thị Hương (2013), "Những chỉ dẫn cẩm nang về đào
tạo, bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (9), tr.4-6.
6. Trần Thị Hương (2013), "Thực hành dân chủ trong Đảng dưới góc nhìn văn
hóa", Tạp chí Xây dựng Đảng, (11), tr.7-9.
7. Trần Thị Hương (10-2014), "Giữ vững nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân trong giai đoạn hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia "Tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế - nhìn từ thực tiễn Quảng Ninh", Bộ Biên tập
Tạp chí Cộng sản - Tỉnh ủy Quảng Ninh, Hạ Long, tr.885-894.
8. Trần Đình Huỳnh và Trần Thị Hương (18/12-2014), "Phát huy vai trò của
quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống tiêu cực", Tạp chí Nội chính,
tr.17-19, tr.59.
9. Đặng Thị Lương, Trần Thị Hương, Nguyễn Thị Phương (2014) (Đồng tác giả),
Lịch sử xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
10. Trần Thị Hương (01-2015), "Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các
cơ quan Nhà nước trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (227),
tr.49-51, tr.55.
11. Trần Thị Hương (2015), "Gắn bó mật thiết với Nhân dân - Bài học kinh nghiệm
cầm quyền của các đảng cộng sản trên thế giới và Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo
khoa học quốc gia "Nâng cao vị thế, vai trò và trách nhiệm cầm quyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình hiện nay", Bộ Biên tập Tạp chí Cộng
sản - Tỉnh ủy Quảng Ninh, Hạ Long, tr.909-914.
12. Trần Đình Huỳnh (Chủ biên), Trần Thị Anh Đào, Trần Thị Hương (2015), Xây
dựng Đảng - Những bài chính luận, Nxb Hà Nội.
165
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về "Tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới"
(số 25-NQ/TW), Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Quy chế công tác
dân vận của hệ thống chính trị (Ban hành kèm theo Quyết định số 290-
QĐ/TW, ngày 25-02-2010 của Bộ Chính trị), Hà Nội
3. Ban Tổ chức Trung ương (2008): Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tổ chức xây
dựng Đảng, Tạp chí Xây dựng Đảng, Hà Nội.
4. Ban Dân vận Trung ương (2011), Báo cáo kết quả công tác của Ban Dân vận
Trung ương từ sau Đại hội X của Đảng đến nay và nhiệm vụ trọng tâm
trong thời gian tới, Hà Nội.
5. Ban chỉ đạo tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới (1986-2016) - Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2014), Phụ lục tài liệu tham khảo
Báo cáo tổng kết nội dung "Mối quan hệ Đảng - Dân qua 30 năm đổi mới
(1986-2016), Ban Dân vận Trung ương Đảng.
6. Ban Dân vận Trung ương (2014), Báo cáo số 02- BC/BDVTW về tổng kết công
tác dân vận năm 2013; phương hướng, nhiệm vụ năm 2014, Hà Nội.
7. Ban Dân vận Trung ương - Nguyễn Thế Trung (chủ biên) (2014): Tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội
8. Ban Dân vận Trung ương (2015), Báo cáo số 08- BC/BDVTW về tổng kết công
tác dân vận năm 2014; phương hướng, nhiệm vụ năm 2015, Hà Nội.
9. Ban Dân vận Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo số 95-BC/BDV về kết quả thực hiện
công tác dân vận nhiệm kỳ 2006-2010, Vĩnh Yên.
10. Ban Dân vận Tỉnh ủy Hưng Yên (2013), Báo cáo số 89-BC/BDVTU về kết quả
công tác dân vận năm 2012; phương hướng, nhiệm vụ công tác dân vận
năm 2013, Hưng Yên.
11. Ban Dân vận Tỉnh ủy Đăk Nông (2013), Báo cáo số 126-BC/BDV về tổng kết công
tác dân vận năm 2012, phương hướng, nhiệm vụ năm 2013, Đắk Nông.
166
12. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011): Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu các
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG - Sự
thật, Hà Nội.
13. Ban Tuyên giáo Huyện ủy Sóc Sơn (2013), "Tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân trong xây dựng nông thôn mới - nhìn từ kinh nghiệm
của Đảng bộ huyện Sóc Sơn", Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr.90-95.
14. Hoàng Chí Bảo (2013), "Truyền thống và giá trị của Đảng nhìn từ mối quan hệ
giữa Đảng với dân", Tạp chí Lịch sử Đảng, (1), tr.21-25.
15. Hoàng Chí Bảo (2014), "Nghị quyết 25 (khóa XI) và vấn đề tăng cường mối
quan hệ gắn bó máu thịt Đảng - Dân hiện nay", Tạp chí Dân vận, (1+2),
tr.47-50.
16. Ôn Gia Bảo (2007), "Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn Trung
Quốc hiện nay", Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận, (4), tr.29-37.
17. Bộ Khoa học và công nghệ - Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia
(2014)- Đề tài độc lập cấp Nhà nước - Mã số 03/2010/ĐTĐL, Hà Thị Khiết
chủ nhiệm, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới, Hà Nội.
18. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam (1998): Đại
Từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
19. Bùi Đình Bôn (2010), "Tích cực phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng đồng bào
dân tộc, chủ động phòng chống "diễn biến hòa bình", Tạp chí Lý luận chính
trị, (7), tr.74-78.
20. Huỳnh Nam Bình (2013), "Ba được trong công tác dân vận của chính quyền ở
Bến Tre", Tạp chí Dân vận, (5), tr.28-30.
21. Nguyễn Trọng Chuẩn và Đặng Hữu Toàn (Đồng chủ biên) (2002): Những vấn
đề lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Chiển (2000), Xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân trong
KTTT ở nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Đạm (1993): Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
167
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG,
Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb CTQG,
Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb CTQG,
Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb CTQG,
Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb CTQG,
Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa X , Nxb CTQG, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012): Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013): Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng (do Đại hội đại biểu lần thứ IV
của Đảng thông qua), tại trang
http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic
=191&subtopic=2&leader_topic=77&id=BT2221156003, [truy cập ngày
21/02/2011].
168
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng (do Đại hội đại biểu lần thứ VII
của Đảng thông qua), tại trang
http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=1
91&subtopic=2&leader_topic=77&id=BT2321135486, [Truy cập ngày
22/02/2011].
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004): Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (do Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua), Nxb CTQG, Hà
Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX thông qua ngày 22 tháng 4 năm 2001), Nxb
CTQG, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008): Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X thông qua ngày 25 tháng 4 năm 2006), Nxb
CTQG, Hà Nội
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng (do Đại hội đại biểu lần thứ XI
của Đảng thông qua) tại trang
http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=
191&subtopic=2&leader_topic=77&id=BT2321137400, [Truy cập ngày
22/02/2011].
42. Phan Huy Đường (2009), "Xây dựng mô hình "Dân vận khéo", Tạp chí Xây
dựng Đảng, (10), tr.49-50.
43. Nguyễn Văn Giang và Đinh Ngọc Giang (Đồng chủ biên) (2011): Thực hiện
nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật ở Việt
Nam giai đoạn hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.
44. Lê Văn Giảng (Chủ biên) (2014): Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm tra,
giám sát cán bộ giai đoạn hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Lệ Hà (2012), "Ba nhóm mô hình "Dân vận khéo" gắn với bốn việc
cần đẩy mạnh ở Trà Vinh", Tạp chí Dân vận, (12), tr.33-34.
46. Phạm Thanh Hà (11-2013), "Lòng tin của nhân dân đối với Đảng - nền tảng
vững chắc cho vai trò lãnh đạo của Đảng và thành công của cách mạng Việt
Nam", Tạp chí Giáo dục lý luận, (205), tr.133-135.
169
47. Đoàn Thế Hanh (12-2011), "Làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức
mạnh nhân dân, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong điều kiện hiện nay",
Tạp chí Cộng sản, (830), tr.76-80.
48. Đỗ Thanh Hải (2013), "Xa dân - Một biểu hiện của suy thoái đạo đức và giải
pháp khắc phục", Tạp chí Dân vận, (5), tr.16-18.
49. Trần Viết Hoàn (2012), "Đối với dân phải tôn kính và làm gương", Tạp chí Dân
vận, (1), tr.32-34.
50. Trương Văn Hồng (2007), "Kinh nghiệm của Đảng dân chủ xã hội Đức trong
xử lý quan hệ với quần chúng", Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận,
(18), tr.17-23.
51. Trần Viết Hơn (2010), "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"- Chìa khóa
thành công trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, (1&2),
tr.57-58.
52. Trần Đình Huỳnh và Phan Hữu Tích (1996): Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng cầm quyền, Nxb CTQG, Hà Nội.
53. Trần Đình Huỳnh (2010), "Để giữ vững vai trò lãnh đạo, Đảng phải biết lắng
nghe và học hỏi quần chúng nhân dân", Tạp chí Dân vận, (8), tr.52-53.
54. Nguyễn Đức Hướng (1991), Sự chuyển biến của giai cấp nông dân trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
55. Bùi Thị Thanh Hương (2000), Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp
nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
56. Joh S.T. Quah, khoa Chính trị học; TS Chính trị học Thôi Tinh - ĐH Quốc gia
Xingapo (2012), "Chính sách nhà ở xã hội và khống chế dân số của
Xingapo", Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận, (2), tr.1-10.
57. Nguyễn Khánh (2007): Mối quan hệ Đảng - Nhà nước - Dân trong cuộc sống,
Nxb CTQG, Hà Nội.
58. Khămbay Malasing (2011), "Vai trò của tổ chức cơ sở đảng và đoàn thể nhân
dân trong phát triển kinh tế, xã hội ở Thành phố Viêng chăn - Lào", Tạp chí
Lý luận chính trị, (12), tr.82-86.
170
59. Hà Thị Khiết (10-2009), "Những bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản, (804), tr.8-12.
60. Hà Thị Khiết (2012), "Củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân - nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân vận của
Đảng trong thời kỳ mới", Tạp chí Dân vận, (2), tr.14-19.
61. Hà Thị Khiết (2014): Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của
Đảng trong thời kỳ mới, Đề tài độc lập cấp Nhà nước - Mã số
03/2010/ĐTĐL, Hà Nội.
62. Hà Thị Khiết (4-2014), "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để nhân dân tham
gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh", Tạp chí
Cộng sản, (858), tr.17-21.
63. Phạm Tiểu Kiến (2010), "Kinh nghiệm giảm nghèo ở Trung Quốc", Tạp chí
Thông tin những vấn đề lý luận, (20), tr.30-35.
64. V.I. Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
65. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
66. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 17, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
67. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
68. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
69. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
70. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
71. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
72. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
73. TS. Lê Hồng Liêm (Chủ biên) (2011): Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
với phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.
74. C. Mác và Ph. Ăngghen (1970), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
75. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
76. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
77. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.
78. C. Mác và Ph. Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
171
79. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb CTQG, Hà Nội.
80. Đỗ Thị Thanh Mai (2001), Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam khi chuyển
sang kinh tế thị trường - đặc trưng và xu hướng biến đổi, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (1970), Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
82. Hồ Chí Minh (2000), Về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
83. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.
85. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội.
87. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh - Nông Đức Mạnh - Lê Duẩn (2005): Giáo dục, rèn luyện cán bộ,
đảng viên theo đạo đức cách mạng, phong cách tư duy khoa học Hồ Chí
Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
94. Lê Hữu Nghĩa (2013), "Tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh", Tạp chí Lý luận chính trị, (11), tr.23-29.
95. Lâm Bích Ngọc (2006), "Sự phân hóa giai tầng xã hội nông thôn với việc giữ
gìn tính tiên tiến của đảng viên nông thôn", Tạp chí Thông tin công tác tư
tưởng, lý luận, (5), tr.52-57.
96. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật (2013), Bài viết Kinh nghiệm và bài
học về xây dựng Đảng của 30 năm cải cách mở cửa, nguồn Nhân dân nhật
báo, trong cuốn sách "Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30
năm đổi mới", Nxb CTQG-ST, Hà Nội.
172
97. Đỗ Ngọc Ninh và Nguyễn Văn Giang (2008): Tăng cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Phát biểu của đồng chí Lê Khả Phiêu tại Hội thảo khoa học sáu mươi năm tác
phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Bảo tàng Hồ Chí Minh, tháng 10-2007.
99. "Phát huy kinh nghiệm quý báu và thành công trong công tác dân tộc của Đảng Cộng
sản Trung Quốc", Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận, (5), 2013, tr.72.
100. Chu Đại Phong (2008), "Đừng để dân mất lòng tin vào Đảng", Tạp chí Xây
dựng Đảng, (1+2), tr.80-81.
101. Bùi Đình Phong (2013), "Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với
dân dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị,
(11), tr.12-15.
102. Trần Đông Phong (2013), "Xa dân và gần dân", Tạp chí Dân vận, (3), tr.56.
103. Phùng Hữu Phú (2002) -Đề tài KHXH 05-06: Luận cứ khoa học và những giải
pháp thực tiễn tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở nước
ta hiện nay, Hà Nội.
104. Đặng Đình Phú (2011), "Tăng cường mối liên hệ, gắn bó mật thiết giữa Đảng
với nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng", Tạp chí
Dân vận, (5), tr.17-19.
105. Nguyễn Trọng Phúc (2012), "Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân - ĐẠO LÝ,
TRÁCH NHIỆM VÀ NIỀM TIN", Tạp chí Tuyên giáo, (10), tr.19-23.
106. Vũ Văn Phúc và Ngô Văn Thạo (Đồng chủ biên) (2011): Những giải pháp và
điều kiện thực hiện phòng, chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống
trong cán bộ, đảng viên, Nxb CTQG, Hà Nội.
107. Thang Văn Phúc (chủ biên), Chu Văn Thành, Hà Quang Ngọc (1998): Đạo
đức phong cách, lề lối làm việc của cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Prieto Mayra - Trung tâm Nghiên cứu tâm lý và xã hội (2012), "Những thay
đổi trong mô hình kinh tế và chính sách xã hội ở Cuba", Tạp chí Thông
tin những vấn đề lý luận, (4), tr.15-19.
173
109. Tô Huy Rứa và Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (2003): Làm người cộng sản
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Sách tra cứu các mục từ về tổ chức, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.
111. Trương Tấn Sang (2010), "Xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân: Nhân tố quyết định sự vững mạnh của Đảng, làm nên thắng lợi của
cách mạng Việt Nam", Tạp chí Dân vận, (1&2), tr.5, 16-19
112. Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm và Lê Doãn Tá (Đồng chủ biên) (2002):
Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước - vấn
đề và kinh nghiệm, Nxb CTQG, Hà Nội.
113. Đỗ Tiến Sâm và Bùi Thị Thanh Hương, Viện nghiên cứu Trung Quốc, Viện Khoa học
Xã hội Việt Nam (2008), "Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở
Trung Quốc", Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận, (8), tr.23-34.
114. Tài liệu học tập phục vụ cho lớp nghiên cứu của cán bộ cấp Cục, Vụ Đảng và Nhà
nước Việt Nam, Trường Đảng TW ĐCS Trung Quốc, Bắc Kinh, 2010.
115. Nguyễn Bá Thanh (2010), "Đảng nói, dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động,
dân theo; chính quyền làm, dân ủng hộ", Tạp chí Dân vận, (4), tr.4-9.
116. Hà Thanh (2013), "Bình Phước đẩy mạnh công tác dân vận của chính quyền",
Tạp chí Dân vận, (7), tr.45-46.
117. Mạch Quang Thắng (2008), "Đảng với dân, dân với Đảng", Tạp chí Tuyên
giáo,(6), tr.25-29.
118. Đàm Văn Thọ và Vũ Hùng (1997), Mối quan hệ giữa Đảng và Dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội.
119. Nguyễn Thị Minh Thọ (2000), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển kinh tế hộ nông dân vùng Cao Bắc Thái, Luận án Tiến sĩ nông nghiệp,
Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
120. Lê Minh Thông (chủ biên) (2008), Một số vấn đề về xây dựng Đảng trong văn
kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội.
121. Trương Thị Thông (11-2011), "Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân theo tinh thần Đại hội XI và vận dụng vào nghiên cứu, giảng dạy tại
Học viện", Tạp chí Lý luận chính trị, (16), tr.16-23.
174
122. Thủ tướng Chính phủ: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số
18/2000/CT-TTg ngày 21-9-2000 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
công tác dân vận, Hà Nội.
123. Tỉnh ủy Hưng Yên (2013), Báo cáo sơ kết 01 năm thực hiện Nghi quyết Trung
ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", số
103-BC/TU, Hưng Yên, ngày 15-3.
124. Tỉnh ủy Cao Bằng (2012), Báo cáo tổng kết công tác dân vận năm 2012; phương
hướng, nhiệm vụ năm 2013, số 172 - BC/TU, Cao Bằng, ngày 28 - 12.
125. Tổ chuyên đề Ban nghiên cứu - giảng dạy Xây dựng Đảng, trường Đảng
Trung ương Trung Quốc (2007), "Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Cu ba
về tăng cường mối liên hệ với quần chúng", Tạp chí Thông tin những vấn
đề lý luận (6), tr.25-33.
126. Tổ biên tập đề án 123 - Ban Dân vận Trung ương- Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam (31-3-2014), Báo cáo Đề án tổng kết nội dung
"Mối quan hệ Đảng - Dân qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Hà Nội.
127. Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh (chủ biên), Phùng Thu Hiền (2009): Tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện
nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
128. Lê Ngọc Triết (2002), Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội của giai cấp nông dân
ở Nam Bộ Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
129. Nguyễn Phú Trọng (2-2014), "Ý Đảng hợp lòng dân, đất nước vững bước đi
tới", Tạp chí Cộng sản, (856), tr.3-5.
130. Trung tâm từ điển học Vietlex (2010): Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội
131. Phan Thanh Tùng (2012), "Bảo đảm việc làm của người nông dân khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp", Tạp chí Lý luận chính trị, (10).
132. Đỗ Quang Tuấn (2010), "Xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh
nhằm tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân", Tạp chí
Dân vận, (8), tr.5-8.
133. Đỗ Quang Tuấn (2011), "Củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
175
Đảng và nhân dân", Tạp chí Dân vận, (11), tr.17-19
134. Ngô Anh Tuấn (2014), "Mối quan hệ Đảng - Dân: Ghi nhận ở Đảng bộ thị trấn
Thanh Lãng", Tạp chí Dân vận, (4), tr.25-26.
135. Thanh Tuyền (2010), "Thực hiện nguyên tắc Đảng liên hệ mật thiết với nhân
dân trong sự nghiệp đổi mới", Tạp chí Dân vận, (1 & 2), tr.47-50.
136. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005.
137. Viện ngôn ngữ học (2011): Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
138. Lê Kim Việt (2002), Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án Tiến sĩ khoa học
Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
139. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
176
PHỤ LỤC
177
PHỤ LỤC 1 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
***
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
.........., ngày…… tháng…….. năm 2014
PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
VỀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN
DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
(Dành cho cán bộ, đảng viên các Đảng bộ địa phương)
Thưa Đồng chí!
Để có cơ sở đánh giá đúng thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay ở Đảng bộ địa phương đồng chí, từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt nguyên tắc này trong thực tiễn, xin đồng
chí cho biết ý kiến của mình về các vấn đề nêu ra trong bảng hỏi này.
Mỗi câu hỏi có những phương án lựa chọn khác nhau. Sau khi đọc câu hỏi và
các phương án trả lời, đồng chí lựa chọn phương án trả lời nào thì đánh dấu X vào ô
vuông bên phải của phương án đó. Các phương án còn lại để trống.
Chúng tôi cam kết các thông tin của bảng hỏi chỉ phục vụ cho mục đích nghiên
cứu.
Câu 1: Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân được hiểu là
1 Một trong 5 nguyên tắc xây dựng Đảng
2 Nguyên tắc xây dựng Nhà nước
3 Nguyên tắc của các tổ chức chính trị - xã hội
Câu 2: Chủ thể của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là
1 Tổ chức đảng
2 Cán bộ, đảng viên
3 Nhân dân
Câu 3: Nội dung của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân gồm
1 Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng và khả năng của Nhân dân, được Nhân dân đồng
tình ủng hộ
2 Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao; Nhân
dân được tự do làm ăn, được tôn trọng và bình yên trong chế độ
xã hội do Đảng lãnh đạo
3 Xã hội thật sự dân chủ; Nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền
và nghĩa vụ công dân, được tham gia xây dựng Đảng, tham gia
xây dựng các quyết sách chính trị của Đảng
4 Nhà nước do Đảng lãnh đạo thật sự là Nhà nước của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân
5 Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng được hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm
vụ, điều lệ của tổ chức; thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân
tham gia
Mẫu 1
178
6 Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn bó, gần gũi, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân
7 Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng
Câu 4: Vai trò của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân thể hiện
1 Là một trong những nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ được giao
2 Góp phần giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân; bảo
đảm nguồn sức mạnh vô địch của Đảng
3 Góp phần giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phòng
chống nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân, góp phần
giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng
4 Góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và bảo đảm nguồn lực để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng
5 Góp phần thực hiện thắng lợi đường lối dựa vào Nhân dân để xây
dựng Đảng
6 Góp phần phát huy vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước; bảo đảm cho hoạt động của Nhân dân
đúng đắn, đạt hiệu quả, đảm bảo quyền lợi, nguyện vọng, lợi ích
chính đáng của Nhân dân
7 Bảo đảm cho các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp
được xây dựng vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
8 Tất cả những vai trò trên
Câu 5: Nội dung nào dưới đây được Đảng bộ đồng chí triển khai thực hiện?
1 Tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và
Nhân dân
2 Khoa học hóa và dân chủ hóa quá trình ra nghị quyết và tổ chức
thực hiện nghị quyết của Đảng để nghị quyết của Đảng thực sự là
“ý Đảng, lòng dân”
3 Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên làm tốt công tác dân vận,
chăm lo nâng cao đời sống Nhân dân
4 Đảng lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống chính trị, xã hội
để phát huy thật sự vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây dựng
và bảo vệ đất nước; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng
5 Phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ
sở, gần gũi Nhân dân; cán bộ, đảng viên tôn trọng, lắng nghe ý
kiến Nhân dân, học hỏi Nhân dân, nhưng không được theo đuôi
Nhân dân
6 Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng pháp luật,
179
chính sách bảo vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt công tác dân vận
của chính quyền
7 Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững
mạnh; phát triển sâu rộng các tổ chức kinh tế- xã hội của Nhân
dân
8 Tiến hành có hiệu quả cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong Đảng và hệ thống chính trị
9 Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
10 Kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân
11 Tất cả những nội dung trên
Câu 6: Thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân
dân tại Đảng bộ đồng chí hiện nay như thế nào?
1 Tốt
2 Nghiêm túc
3 Chưa tốt
4 Chưa nghiêm túc
5 Còn nhiều hạn chế
Ý kiến
khác
................................................................................................
...............................................................................................
..............................................................................................
Câu 7: Theo Đồng chí, Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích cực bảo vệ lợi ích của
ai ?
1 Đảng bảo vệ lợi ích của công nhân
2 Đảng bảo vệ lợi ích của nông dân
3 Đảng bảo vệ lợi ích của cán bộ
4 Đảng bảo vệ lợi ích của tất cả người lao động
5 Đảng bảo vệ lợi ích của tất cả nhân dân
6 Đảng bảo vệ lợi ích của dân tộc VN
7 Đảng bảo vệ lợi ích của đảng viên
8 Đảng bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của dân tộc
Ý kiến
khác
................................................................................................
...............................................................................................
..............................................................................................
Câu 8: Theo Đồng chí mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân hiện nay như
thế nào?
1 Rất mật thiết, bền chặt
2 Ít mật thiết, thiếu bền chặt
3 Kém mật thiết, không bền chặt
Ý kiến ................................................................................................
180
khác ...............................................................................................
..............................................................................................
Câu 9: Theo đồng chí mức độ ủng hộ, tin tưởng của Nhân dân với Đảng
hiện nay như thế nào?
1 Tuyệt đối tin tưởng
2 Có tin tưởng
3 Ít tin tưởng
4 Có hoài nghi
5 Dao động
6 Thiếu tin tưởng
7 Mất niềm tin
Ý kiến
khác
................................................................................................
...............................................................................................
..............................................................................................
Câu 10: Đồng chí đánh giá về mối liên hệ giữa cán bộ, đảng viên của
Đảng với Nhân dân hiện nay như thế nào?
1 Gần dân, gắn bó với dân
2 Quan liêu, xa dân
3 Hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân
Ý kiến
khác
...............................................................................................
...............................................................................................
..............................................................................................
Câu 11: Theo Đồng chí yếu tố nào ảnh hưởng đến mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa Đảng và Nhân dân trong tình hình hiện nay?
1 Kinh tế thị trường
2 Lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm
3 Sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của một bộ phận cán bộ, đảng viên
4 Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng chưa phát huy hiệu quả
5 Còn nhiều kẽ hở trong luật pháp
Ý kiến
khác
...............................................................................................
...............................................................................................
..............................................................................................
Câu 12: Để tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân
dân hiện nay, theo Đồng chí cần thực hiện những giải pháp nào?
1 Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách
nhiệm cho cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên về
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; cụ thể hóa
nguyên tắc này thành hướng dẫn và quy định cụ thể áp dụng
trong toàn Đảng
181
2 Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo sự chuyển biến mới
trong khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức trong Đảng; chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên có đức, có tài, có thái độ, phong cách làm việc gần gũi
với Nhân dân để củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng
3 Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong sạch, vững mạnh, thật sự là của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân
4 Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, tăng cường công tác dân vận
của chính quyền; lãnh đạo đổi mới tổ chức, phương thức hoạt
động để phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân
5 Lãnh đạo chăm lo nâng cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng
của các tầng lớp nhân dân; tập trung giải quyết tốt các nhu cầu
dân sinh, dân trí, dân chủ cấp thiết của Nhân dân
6 Đẩy mạnh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực xã hội
7 Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của các tổ
chức đảng, của cán bộ và đảng viên
Giải
pháp
khác
................................................................................................
...............................................................................................
..............................................................................................
Xin đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin về cá nhân
a. Giới tính - Nam
- Nữ
b. Tuổi
- Dưới 30
- 31 - 35
- 36 - 40
- 41 - 45
- 46 - 50
- 51 - 55
- Trên 55
c. Trình độ học vấn
chuyên môn
- Trung học phổ thông
- Trung cấp
- Cao đẳng, đại học
- Sau đại học
d. Cơ quan, tổ chức
làm việc
- Cơ quan đảng
- Cơ quan nhà nước
- Các tổ chức chính trị - xã hội
- Các đơn vị sự nghiệp
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Đồng chí!
182
PHỤ LỤC 2
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
***
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
.........., ngày…… tháng…….. năm 2014
PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
VỀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI
NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
(Dành cho nhân dân tại các địa phương)
Thưa Ông (Bà)!
Để có cơ sở đánh giá đúng thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay ở địa phương, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm thực hiện tốt nguyên tắc này trong thực tiễn, xin Ông (Bà) vui lòng cho
biết ý kiến của mình về các vấn đề nêu ra trong bảng hỏi này.
Mỗi câu hỏi có những phương án lựa chọn khác nhau. Sau khi đọc câu hỏi và
các phương án trả lời, Ông (Bà) lựa chọn phương án trả lời nào thì đánh dấu X vào
ô vuông bên phải của phương án đó. Các phương án còn lại để trống.
Chúng tôi cam kết các thông tin của bảng hỏi chỉ phục vụ cho mục đích nghiên
cứu.
Câu 1: Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân được hiểu là
1 Một trong 5 nguyên tắc xây dựng Đảng
2 Nguyên tắc xây dựng Nhà nước
3 Nguyên tắc của các tổ chức chính trị - xã hội
Câu 2: Chủ thể của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là
1 Tổ chức đảng
2 Cán bộ, đảng viên
3 Nhân dân
Câu 3: Nội dung của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân gồm
1 Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng và khả năng của Nhân dân, được Nhân dân đồng
tình ủng hộ
2 Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao; Nhân
dân được tự do làm ăn, được tôn trọng và bình yên trong chế độ
xã hội do Đảng lãnh đạo
3 Xã hội thật sự dân chủ; Nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền
và nghĩa vụ công dân, được tham gia xây dựng Đảng, tham gia
xây dựng các quyết sách chính trị của Đảng
4 Nhà nước do Đảng lãnh đạo thật sự là Nhà nước của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân
5 Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng được hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm
vụ, điều lệ của tổ chức; thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân
tham gia
Mẫu 2
183
6 Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn bó, gần gũi, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân
7 Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng
Câu 4: Vai trò của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân thể hiện
1 Là một trong những nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ được giao
2 Góp phần giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân; bảo
đảm nguồn sức mạnh vô địch của Đảng
3 Góp phần giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phòng
chống nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân, góp phần
giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng
4 Góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và bảo đảm nguồn lực để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng
5 Góp phần thực hiện thắng lợi đường lối dựa vào Nhân dân để xây
dựng Đảng
6 Góp phần phát huy vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước; bảo đảm cho hoạt động của Nhân dân
đúng đắn, đạt hiệu quả, đảm bảo quyền lợi, nguyện vọng, lợi ích
chính đáng của Nhân dân
7 Bảo đảm cho các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp
được xây dựng vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
8 Tất cả những vai trò trên
Câu 5: Nội dung nào dưới đây được tổ chức đảng nơi Ông (Bà) cư trú
triển khai thực hiện?
1 Tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và
Nhân dân
2 Khoa học hóa và dân chủ hóa quá trình ra nghị quyết và tổ chức
thực hiện nghị quyết của Đảng để nghị quyết của Đảng thực sự là
“ý Đảng, lòng dân”
3 Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên làm tốt công tác dân vận,
chăm lo nâng cao đời sống Nhân dân
4 Đảng lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống chính trị, xã hội
để phát huy thật sự vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây dựng
và bảo vệ đất nước; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng
5 Phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ
sở, gần gũi Nhân dân; cán bộ, đảng viên tôn trọng, lắng nghe ý
kiến Nhân dân, học hỏi Nhân dân, nhưng không được theo đuôi
Nhân dân
184
6 Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng pháp luật,
chính sách bảo vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt công tác dân vận
của chính quyền
7 Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững
mạnh; phát triển sâu rộng các tổ chức kinh tế- xã hội của Nhân
dân
8 Tiến hành có hiệu quả cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong Đảng và hệ thống chính trị
9 Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
10 Kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân
11 Tất cả những nội dung trên
Câu 6: Theo Ông (Bà) thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân tại địa phương hiện nay như thế nào?
1 Tốt
2 Nghiêm túc
3 Chưa tốt
4 Chưa nghiêm túc
5 Còn nhiều hạn chế
Ý kiến
khác
................................................................................................
...............................................................................................
Câu 7:Theo Ông (Bà), Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích cực bảo vệ lợi
ích của ai ?
1 Đảng bảo vệ lợi ích của công nhân
2 Đảng bảo vệ lợi ích của nông dân
3 Đảng bảo vệ lợi ích của cán bộ
4 Đảng bảo vệ lợi ích của tất cả người lao động
5 Đảng bảo vệ lợi ích của tất cả nhân dân
6 Đảng bảo vệ lợi ích của dân tộc VN
7 Đảng bảo vệ lợi ích của đảng viên
8 Đảng bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của dân tộc
Ý kiến
khác
................................................................................................
...............................................................................................
Câu 8: Theo Ông (Bà) mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân hiện nay như thế
nào?
1 Rất mật thiết, bền chặt
2 Ít mật thiết, thiếu bền chặt
185
3 Kém mật thiết, không bền chặt
Ý kiến
khác
................................................................................................
...............................................................................................
Câu 9: Mức độ ủng hộ, tin tưởng của Ông (Bà) với Đảng hiện nay như thế nào?
1 Tuyệt đối tin tưởng
2 Có tin tưởng
3 Ít tin tưởng
4 Có hoài nghi
5 Dao động
6 Thiếu tin tưởng
7 Mất niềm tin
Ý kiến
khác
................................................................................................
...............................................................................................
Câu 10: Ông (Bà) đánh giá về mối liên hệ giữa cán bộ, đảng viên của Đảng với
Nhân dân hiện nay như thế nào?
1 Gần dân, gắn bó với dân
2 Quan liêu, xa dân
3 Hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân
Ý kiến
khác
...............................................................................................
...............................................................................................
..............................................................................................
Câu 11: Theo Ông (Bà) yếu tố nào ảnh hưởng đến mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Đảng và Nhân dân trong tình hình hiện nay?
1 Kinh tế thị trường
2 Lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm
3 Sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của một bộ phận cán bộ, đảng viên
4 Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng chưa phát huy hiệu quả
5 Còn nhiều kẽ hở trong luật pháp
Ý kiến
khác
...............................................................................................
...............................................................................................
..............................................................................................
Câu 12: Để tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân
hiện nay, theo Ông (Bà) cần thực hiện những giải pháp nào?
1 Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách
nhiệm cho cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên về
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; cụ thể hóa
nguyên tắc này thành hướng dẫn và quy định cụ thể áp dụng
186
trong toàn Đảng
2 Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo sự chuyển biến mới
trong khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức trong Đảng; chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên có đức, có tài, có thái độ, phong cách làm việc gần gũi
với Nhân dân để củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng
3 Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong sạch, vững mạnh, thật sự là của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân
4 Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, tăng cường công tác dân vận
của chính quyền; lãnh đạo đổi mới tổ chức, phương thức hoạt
động để phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân
5 Lãnh đạo chăm lo nâng cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng
của các tầng lớp nhân dân; tập trung giải quyết tốt các nhu cầu
dân sinh, dân trí, dân chủ cấp thiết của Nhân dân
6 Đẩy mạnh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực xã hội
7 Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của các tổ
chức đảng, của cán bộ và đảng viên
Giải
pháp
khác
................................................................................................
...............................................................................................
..............................................................................................
Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết một số thông tin về cá nhân
a. Giới tính - Nam
- Nữ
b. Tuổi
- Dưới 30
- 31 - 35
- 36 - 40
- 41 - 45
- 46 - 50
- 51 - 55
- Trên 55
c. Trình độ học vấn
chuyên môn
- Trung học phổ thông
- Trung cấp
- Cao đẳng, đại học
- Sau đại học
d. Cơ quan, tổ chức
làm việc
- Cơ quan đảng
- Cơ quan nhà nước
- Các tổ chức chính trị - xã hội
- Các đơn vị sự nghiệp
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Quý vị!
187
PHỤ LỤC 3 TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
VỀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Thời gian khảo sát, điều tra: năm 2014
Địa điểm: 6 tỉnh đại diện cho 3 miền Bắc, Trung, Nam (Hà Nội, Ninh Bình; Lâm Đồng, Khánh Hòa; TP Hồ Chí Minh, Bạc Liêu)
Số phiếu phát ra: 1.850 phiếu
Số phiếu thu về: 1.830 phiếu
Số phiếu hợp lệ: 1.800 phiếu
Số phiếu không hợp lệ: 30 phiếu
Tƣơng quan tỉnh và đối tƣợng
trả lời
Tỉnh
Tổng Hà Nội Ninh Bình Lâm Đồng Khánh Hòa TP HCM Bạc Liêu
cán bộ,
đảng viên
Số lượng 150 150 150 150 150 150 900
% 50.0% 50.0% 50.0% 50.0% 50.0% 50.0% 50.0%
nhân dân Số lượng 150 150 150 150 150 150 900
% 50.0% 50.0% 50.0% 50.0% 50.0% 50.0% 50.0%
Tổng Số lượng 300 300 300 300 300 300 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.1: Tƣơng quan tỉnh và đối tƣợng trả lời phiếu điều tra
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
188
Tƣơng quan tỉnh và giới tính
ngƣời trả lời
Tỉnh
Tổng Hà Nội Ninh Bình Lâm Đồng Khánh Hòa TP HCM Bạc Liêu
Giới tính Nam Số lượng 103 151 163 141 202 211 971
% 34.3% 50.3% 54.3% 47.0% 67.3% 70.3% 53.9%
Nữ Số lượng 197 149 137 159 98 89 829
% 65.7% 49.7% 45.7% 53.0% 32.7% 29.7% 46.1%
Tổng Số lượng 300 300 300 300 300 300 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.2: Tƣơng quan tỉnh và giới tính ngƣời trả lời phiếu điều tra Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Tƣơng quan tỉnh và cơ quan
làm việc
Địa điểm Tổng
Hà Nội Ninh Bình Lâm Đồng Khánh Hòa TP HCM Bạc Liêu
Cơ quan
tổ chức
làm việc
cơ quan đảng
Số lượng 63 82 40 56 75 63 379
% 21.0% 27.3% 13.3% 18.7% 25.0% 21.0% 21.1%
cơ quan nhà nƣớc Số lượng 119 109 88 139 105 134 694
% 39.7% 36.3% 29.3% 46.3% 35.0% 44.7% 38.6%
các tổ chức chính
trị xã hội
Số lượng 19 47 75 50 83 79 353
% 6.3% 15.7% 25.0% 16.7% 27.7% 26.3% 19.6%
các đơn vị sự
nghiệp
Số lượng 99 62 97 55 37 24 374
% 33.0% 20.7% 32.3% 18.3% 12.3% 8.0% 20.8%
Tổng Số lượng 300 300 300 300 300 300 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.3: Tƣơng quan tỉnh và cơ quan làm việc của ngƣời trả lời phiếu điều tra
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
189
Câu 1: Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân đƣợc hiểu là
87.780.2
85.5 84.4
12.319.8
14.5 15.6
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam Chung
Sai
Đúng
Biểu đồ 2.1: Mức độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Tỉnh chia thành ba miền
Tổng Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân đƣợc hiểu là
Đúng Số lượng 526 481 513 1520
% 87.7% 80.2% 85.5% 84.4%
Sai Số lượng 74 119 87 280
% 12.3% 19.8% 14.5% 15.6%
Tổng Số lượng 600 600 600 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.4: Mức độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
190
Câu 2: Chủ thể của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là
56.3
33.9
14
0
10
20
30
40
50
60
Cán bộ, đảng viên Tổ chức đảng Nhân dân
Không trả lời
12%
Đúng 1
phương án
2%
Đúng 3
phương án
3%
Đúng 2
phương án
83%
Biểu đồ 2.2, 2.3: Mức độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về chủ thể của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
191
Câu 3: Nội dung của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân gồm
80.9 83.590.2
75.8 74.7
93.7
80.9
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Mọi chủ chương,
chính sách của
Đảng phải xuất
phát từ lợi
ích…của nhân
dân…
Đời sống vật chất,
tinh thần của
nhân dân được
nâng cao…
Xã hội thật sự
dân chủ….
Nhàn nước do
Đảng lãnh đạo
thật sự là Nhà
nước của dân…
Các tổ chức chính
trị - xã hội, các tổ
chức KT - XH…
Tổ chức đảng,
cán bộ, đảng viên
gắn bó…
Nhân dân tin
Đảng
Biểu đồ 2.4: Mức độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về nội dung của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
192
Tƣơng quan giữa đối tƣợng trả lời và nhận thức về nội dung của nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân
Đối tƣợng
Tổng Cán bộ,
đảng viên Nhân dân
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả
năng của Nhân dân, được Nhân dân đồng tình ủng hộ
Số lượng 709 747 1456
% 78.8% 83.0% 80.9%
Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao; Nhân dân được tự do làm
ăn, được tôn trọng và bình yên trong chế độ xã hội do Đảng lãnh đạo
Số lượng 749 754 1503
% 83.2% 83.8% 83.5%
Xã hội thật sự dân chủ; Nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân,
được tham gia xây dựng Đảng, tham gia xây dựng các quyết sách chính trị của Đảng
Số lượng 802 822 1624
% 89.1% 91.3% 90.2%
Nhà nước do Đảng lãnh đạo thật sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân
Số lượng 708 656 1364
% 78.7% 72.9% 75.8%
Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng
được hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, điều lệ của tổ chức; thu hút đông đảo
các tầng lớp nhân dân tham gia
Số lượng 726 619 1345
% 80.7% 68.8% 74.7%
Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn bó, gần gũi, tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của Nhân dân
Số lượng 879 808 1687
% 97.7% 89.8% 93.7%
Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng Số lượng 750 706 1456
% 83.3% 78.4% 80.9%
Tổng Số lượng 900 900 1800
% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.5: Tƣơng quan giữa đối tƣợng trả lời và nhận thức về nội dung của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
193
Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nhận thức về nội dung
của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
Địa phƣơng
Tổng Hà Nội
Ninh
Bình
Lâm
Đồng
Khánh
Hòa TPHCM Bạc Liêu
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng và khả năng của Nhân dân, được Nhân dân đồng
tình ủng hộ
Số lượng 254 248 226 278 258 192 1456
% 84.7% 82.7% 75.3% 92.7% 86.0% 64.0% 80.9%
Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao; Nhân
dân được tự do làm ăn, được tôn trọng và bình yên trong chế độ
xã hội do Đảng lãnh đạo
Số lượng 262 235 254 262 244 246 1503
% 87.3% 78.3% 84.7% 87.3% 81.3% 82.0% 83.5%
Xã hội thật sự dân chủ; Nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền và
nghĩa vụ công dân, được tham gia xây dựng Đảng, tham gia xây
dựng các quyết sách chính trị của Đảng
Số lượng 261 262 274 274 278 275 1624
% 87.0% 87.3% 91.3% 91.3% 92.7% 91.7% 90.2%
Nhà nước do Đảng lãnh đạo thật sự là Nhà nước của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân
Số lượng 170 205 244 208 264 273 1364
% 56.7% 68.3% 81.3% 69.3% 88.0% 91.0% 75.8%
Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng được hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm
vụ, điều lệ của tổ chức; thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham
gia
Số lượng 236 185 186 232 271 235 1345
% 78.7% 61.7% 62.0% 77.3% 90.3% 78.3% 74.7%
Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn bó, gần gũi, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân
Số lượng 267 260 277 296 300 287 1687
% 89.0% 86.7% 92.3% 98.7% 100.0% 95.7% 93.7%
Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng Số lượng 244 203 204 240 281 284 1456
% 81.3% 67.7% 68.0% 80.0% 93.7% 94.7% 80.9%
Tổng Số lượng 300 300 300 300 300 300 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.6: Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nhận thức về nội dung của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
194
Tƣơng quan giữa giới tính ngƣời trả lời và nhận thức về nội dung của nguyên tắc Giới tính ngƣời trả lời
Tổng Nam Nữ
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của
Nhân dân, được Nhân dân đồng tình ủng hộ
Số lượng 778 678 1456
% 80.1% 81.8% 80.9%
Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao; Nhân dân được tự do làm ăn, được tôn
trọng và bình yên trong chế độ xã hội do Đảng lãnh đạo
Số lượng 815 688 1503
% 83.9% 83.0% 83.5%
Xã hội thật sự dân chủ; Nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân, được tham
gia xây dựng Đảng, tham gia xây dựng các quyết sách chính trị của Đảng
Số lượng 878 746 1624
% 90.4% 90.0% 90.2%
Nhà nước do Đảng lãnh đạo thật sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân Số lượng 761 603 1364
% 78.4% 72.7% 75.8%
Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng được hoạt
động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, điều lệ của tổ chức; thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân
tham gia
Số lượng 694 651 1345
% 71.5% 78.5% 74.7%
Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn bó, gần gũi, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của
Nhân dân
Số lượng 916 771 1687
% 94.3% 93.0% 93.7%
Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng Số lượng 779 677 1456
% 80.2% 81.7% 80.9%
Tổng Số lượng 971 829 1800
% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.7: Tƣơng quan giữa giới tính ngƣời trả lời và nhận thức về nội dung của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
195
Tƣơng quan giữa cơ quan ngƣời trả lời và nhận thức về nội dung của
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân
Cơ quan
Tổng CQ Đảng CQNN
Tổ chức
CTXH
Đơn vị sự
nghiệp
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng
và khả năng của Nhân dân, được Nhân dân đồng tình ủng hộ
Số lượng 301 548 294 313 1456
% 79.4% 79.0% 83.3% 83.7% 80.9%
Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao; Nhân dân được tự
do làm ăn, được tôn trọng và bình yên trong chế độ xã hội do Đảng lãnh đạo
Số lượng 301 579 304 319 1503
% 79.4% 83.4% 86.1% 85.3% 83.5%
Xã hội thật sự dân chủ; Nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ
công dân, được tham gia xây dựng Đảng, tham gia xây dựng các quyết sách
chính trị của Đảng
Số lượng 340 642 317 325 1624
% 89.7% 92.5% 89.8% 86.9% 90.2%
Nhà nước do Đảng lãnh đạo thật sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân
Số lượng 283 531 270 280 1364
% 74.7% 76.5% 76.5% 74.9% 75.8%
Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng được hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, điều lệ của tổ chức;
thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia
Số lượng 263 553 265 264 1345
% 69.4% 79.7% 75.1% 70.6% 74.7%
Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn bó, gần gũi, tôn trọng, lắng
nghe ý kiến của Nhân dân
Số lượng 354 665 330 338 1687
% 93.4% 95.8% 93.5% 90.4% 93.7%
Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng Số lượng 297 580 290 289 1456
% 78.4% 83.6% 82.2% 77.3% 80.9%
Tổng Số lượng 379 694 353 374 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.8: Tƣơng quan giữa cơ quan ngƣời trả lời và nhận thức về nội dung của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
196
Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nhận thức về nội dung của nguyên tắc
Địa phƣơng Tổng
Miền bắc Miền trung Miền nam
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng
và khả năng của Nhân dân, được Nhân dân đồng tình ủng hộ
Số lượng 502 504 450 1456
% 83.7% 84.0% 75.0% 80.9%
Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao; Nhân dân được tự
do làm ăn, được tôn trọng và bình yên trong chế độ xã hội do Đảng lãnh đạo
Số lượng 497 516 490 1503
% 82.8% 86.0% 81.7% 83.5%
Xã hội thật sự dân chủ; Nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ
công dân, được tham gia xây dựng Đảng, tham gia xây dựng các quyết sách
chính trị của Đảng
Số lượng 523 548 553 1624
% 87.2% 91.3% 92.2% 90.2%
Nhà nước do Đảng lãnh đạo thật sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân
Số lượng 375 452 537 1364
% 62.5% 75.3% 89.5% 75.8%
Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng được hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, điều lệ của tổ chức;
thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia
Số lượng 421 418 506 1345
% 70.2% 69.7% 84.3% 74.7%
Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn bó, gần gũi, tôn trọng, lắng
nghe ý kiến của Nhân dân
Số lượng 527 573 587 1687
% 87.8% 95.5% 97.8% 93.7%
Nhân dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng Số lượng 447 444 565 1456
% 74.5% 74.0% 94.2% 80.9%
Tổng Số lượng 600 600 600 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.9: Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nhận thức về nội dung của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
197
Câu 4: Vai trò của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân thể hiện
85.6
71.6
94.1
75.871.2
78.281.3
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Là một trong
những nguyên tắc
tổ chức…
Góp phần giữ
vững mối liên
hệ…
Góp phần giữ
vững bản chất
giai cấp…
Góp phần xây
dựng đường lối…
Góp phần thực
hiện thắng lợi…
Góp phần phát
huy…
Quy định nhiệm
vụ…
Biểu đồ 2.5: Mức độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về vai trò của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
198
Tƣơng quan giữa đối tƣợng trả lời và nhận thức về vai trò của nguyên tắc
Đối tƣợng
Tổng Cán bộ,
đảng viên Nhân dân
Là một trong những nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, bảo đảm cho Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, hoàn
thành chức trách, nhiệm vụ được giao
Số lượng 776 765 1541
% 86.2% 85.0% 85.6%
Góp phần giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân; bảo đảm nguồn sức mạnh vô địch
của Đảng
Số lượng 674 614 1288
% 74.9% 68.2% 71.6%
Góp phần giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phòng chống nguy cơ quan liêu, xa
rời quần chúng nhân dân, góp phần giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng
Số lượng 884 810 1694
% 98.2% 90.0% 94.1%
Góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và bảo đảm nguồn lực để thực
hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
Số lượng 711 653 1364
% 79.0% 72.6% 75.8%
Góp phần thực hiện thắng lợi đường lối dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng Số lượng 671 611 1282
% 74.6% 67.9% 71.2%
Góp phần phát huy vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; bảo
đảm cho hoạt động của Nhân dân đúng đắn, đạt hiệu quả, đảm bảo quyền lợi, nguyện vọng, lợi
ích chính đáng của Nhân dân
Số lượng 741 666 1407
% 82.3% 74.0% 78.2%
Quy định nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng Số lượng 741 722 1463
% 82.3% 80.2% 81.3%
Tổng Số lượng 900 900 1800
% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.10: Tƣơng quan giữa đối tƣợng trả lời và nhận thức về vai trò của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
199
Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nhận thức về
vai trò của nguyên tắc
Địa phƣơng Tổng
Hà Nội Ninh Bình Lâm Đồng Khánh Hòa TPHCM Bạc Liêu
Là một trong những nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu cao, hoàn thành chức trách, nhiệm
vụ được giao
Số lượng 252 223 242 258 285 281 1541
% 84.0% 74.3% 80.7% 86.0% 95.0% 93.7% 85.6%
Góp phần giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với Nhân
dân; bảo đảm nguồn sức mạnh vô địch của Đảng
Số lượng 201 217 219 204 210 237 1288
% 67.0% 72.3% 73.0% 68.0% 70.0% 79.0% 71.6%
Góp phần giữ vững bản chất giai cấp công nhân của
Đảng; phòng chống nguy cơ quan liêu, xa rời quần
chúng nhân dân, góp phần giữ vững vai trò cầm
quyền của Đảng
Số lượng 274 261 268 292 299 300 1694
% 91.3% 87.0% 89.3% 97.3% 99.7% 100.0% 94.1%
Góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và bảo đảm nguồn lực để thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
Số lượng 240 211 216 237 248 212 1364
% 80.0% 70.3% 72.0% 79.0% 82.7% 70.7% 75.8%
Góp phần thực hiện thắng lợi đường lối dựa vào Nhân
dân để xây dựng Đảng
Số lượng 191 183 213 237 239 219 1282
% 63.7% 61.0% 71.0% 79.0% 79.7% 73.0% 71.2%
Góp phần phát huy vai trò của Nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; bảo đảm cho
hoạt động của Nhân dân đúng đắn, đạt hiệu quả, đảm
bảo quyền lợi, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của
Nhân dân
Số lượng 199 225 236 260 256 231 1407
%
66.3% 75.0% 78.7% 86.7% 85.3% 77.0% 78.2%
Quy định nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng Số lượng 219 230 240 262 258 254 1463
% 73.0% 76.7% 80.0% 87.3% 86.0% 84.7% 81.3%
Tổng Số lượng 300 300 300 300 300 300 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.11: Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nhận thức về vai trò của nguyên tắc Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
200
Tƣơng quan giữa giới tính ngƣời trả lời và nhận thức về vai trò của nguyên tắc Đảng Giới tính ngƣời trả lời
Tổng Nam Nữ
Là một trong những nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, bảo đảm cho
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao,
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao
Số lượng 833 708 1541
% 85.8% 85.4% 85.6%
Góp phần giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân; bảo đảm nguồn sức mạnh vô địch
của Đảng
Số lượng 682 606 1288
% 70.2% 73.1% 71.6%
Góp phần giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phòng chống nguy cơ quan liêu,
xa rời quần chúng nhân dân, góp phần giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng
Số lượng 920 774 1694
% 94.7% 93.4% 94.1%
Góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và bảo đảm nguồn lực để
thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
Số lượng 727 637 1364
% 74.9% 76.8% 75.8%
Góp phần thực hiện thắng lợi đường lối dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng Số lượng 693 589 1282
% 71.4% 71.0% 71.2%
Góp phần phát huy vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; bảo
đảm cho hoạt động của Nhân dân đúng đắn, đạt hiệu quả, đảm bảo quyền lợi, nguyện vọng,
lợi ích chính đáng của Nhân dân
Số lượng 774 633 1407
% 79.7% 76.4% 78.2%
Quy định nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng Số lượng 805 658 1463
% 82.9% 79.4% 81.3%
Tổng Số lượng 971 829 1800
% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.12: Tƣơng quan giữa giới tính ngƣời trả lời và nhận thức về vai trò của nguyên tắc
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
201
Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nhận thức về vai trò của nguyên tắc
Địa phƣơng Tổng
Miền bắc Miền trung Miền nam
Là một trong những nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, bảo đảm cho Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, hoàn
thành chức trách, nhiệm vụ được giao
Số lượng 475 500 566 1541
% 79.2% 83.3% 94.3% 85.6%
Góp phần giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân; bảo đảm nguồn sức mạnh vô địch của
Đảng
Số lượng 418 423 447 1288
% 69.7% 70.5% 74.5% 71.6%
Góp phần giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phòng chống nguy cơ quan liêu, xa
rời quần chúng nhân dân, góp phần giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng
Số lượng 535 560 599 1694
% 89.2% 93.3% 99.8% 94.1%
Góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và bảo đảm nguồn lực để thực
hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
Số lượng 451 453 460 1364
% 75.2% 75.5% 76.7% 75.8%
Góp phần thực hiện thắng lợi đường lối dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng Số lượng 374 450 458 1282
% 62.3% 75.0% 76.3% 71.2%
Góp phần phát huy vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; bảo
đảm cho hoạt động của Nhân dân đúng đắn, đạt hiệu quả, đảm bảo quyền lợi, nguyện vọng, lợi
ích chính đáng của Nhân dân
Số lượng 424 496 487 1407
% 70.7% 82.7% 81.2% 78.2%
Quy định nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng Số lượng 449 502 512 1463
% 74.8% 83.7% 85.3% 81.3%
Tổng Số lượng 600 600 600 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.13: Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nhận thức về vai trò của nguyên tắc Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
202
Câu 5: Nội dung dưới đây được các Đảng bộ địa phương triển khai thực hiện
48.6
24.5
35
24
47.6
41 39.4
28 29.3 29.3
34.7
0
10
20
30
40
50
60
Tuyên
truyền,
giáo dục…
Khoa học
hóa…
Cấp ủy, tổ
chức
đảng…
Đảng lãnh
đạo mở
rộng dân
chủ…
Phương
thức lãnh
đạo…
Đảng lãnh
đạo xây
dựng
NN…
Đảng lãnh
đạo xây
dựng các
tổ chức…
Tiến hành
có hiệu
quả…
Tiến hành
có hiệu
quả…
Phòng
ngừa, phát
hiện…
Kiểm tra,
giám sát…
Biểu đồ 2.6: Nội dung của nguyên tắc đƣợc các Đảng bộ địa phƣơng triển khai thực hiện
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
203
Tƣơng quan giữa đối tƣợng trả lời và nội dung của nguyên tắc đƣợc
Đảng bộ triển khai thực hiện
Đối tƣợng
Tổng Cán bộ,
đảng viên
Nhân
dân
Tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho
cán bộ, đảng viên và Nhân dân
Số lượng 456 418 874
% 50.7% 46.4% 48.6%
Khoa học hóa và dân chủ hóa quá trình ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng để nghị
quyết của Đảng thực sự là “ý Đảng, lòng dân”
Số lượng 282 159 441
% 31.3% 17.7% 24.5%
Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên làm tốt công tác dân vận, chăm lo nâng cao đời sống nhân dân Số lượng 357 273 630
% 39.7% 30.3% 35.0%
Đảng lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống chính trị, xã hội để phát huy thật sự vai trò làm chủ của
Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng
Số lượng 220 212 432
% 24.4% 23.6% 24.0%
Phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên bảo đảm
tính dân chủ, sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân dân; cán bộ, đảng viên tôn trọng, lắng nghe ý kiến Nhân dân, học
hỏi Nhân dân, nhưng không được theo đuôi Nhân dân
Số lượng 480 376 856
% 53.3% 41.8% 47.6%
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;
xây dựng pháp luật, chính sách bảo vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt công tác dân vận của chính quyền
Số lượng 422 316 738
% 46.9% 35.1% 41.0%
Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh; phát triển sâu rộng các tổ chức kinh tế-
xã hội của Nhân dân
Số lượng 397 312 709
% 44.1% 34.7% 39.4%
Tiến hành có hiệu quả cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng và hệ thống
chính trị
Số lượng 294 210 504
% 32.7% 23.3% 28.0%
Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân
Số lượng 310 217 527
% 34.4% 24.1% 29.3%
Kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân Số lượng 358 266 624
% 39.8% 29.6% 34.7%
Tổng Số lượng 900 900 1800
% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.14: Tƣơng quan giữa đối tƣợng trả lời và nội dung của nguyên tắc đƣợc Đảng bộ triển khai thực hiện
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
204
Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nội dung của nguyên tắc
đƣơc Đảng bộ triển khai
thực hiện
Địa phƣơng Tổng
Hà Nội
Ninh
Bình
Lâm
Đồng
Khánh
Hòa TPHCM Bạc Liêu
Tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và
Nhân dân
Số lượng 219 160 129 152 144 70 874
% 73.0% 53.3% 43.0% 50.7% 48.0% 23.3% 48.6%
Khoa học hóa và dân chủ hóa quá trình ra nghị quyết và tổ chức
thực hiện nghị quyết của Đảng để nghị quyết của Đảng thực sự là
“ý Đảng, lòng dân”
Số lượng 106 71 52 89 101 22 441
% 35.3% 23.7% 17.3% 29.7% 33.7% 7.3% 24.5%
Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên làm tốt công tác dân vận,
chăm lo nâng cao đời sống nhân dân
Số lượng 150 104 78 120 123 55 630
% 50.0% 34.7% 26.0% 40.0% 41.0% 18.3% 35.0%
Đảng lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống chính trị, xã hội
để phát huy thật sự vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây dựng
và bảo vệ đất nước; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng
Số lượng 82 67 73 62 75 73 432
% 27.3% 22.3% 24.3% 20.7% 25.0% 24.3% 24.0%
Phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ
sở, gần gũi Nhân dân; cán bộ, đảng viên tôn trọng, lắng nghe ý
kiến Nhân dân, học hỏi Nhân dân, nhưng không được theo đuôi
Nhân dân
Số lượng 141 137 115 140 169 154 856
% 47.0% 45.7% 38.3% 46.7% 56.3% 51.3% 47.6%
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng pháp luật,
chính sách bảo vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt công tác dân vận
của chính quyền
Số lượng 178 127 87 132 152 62 738
% 59.3% 42.3% 29.0% 44.0% 50.7% 20.7% 41.0%
205
Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững
mạnh; phát triển sâu rộng các tổ chức kinh tế- xã hội của Nhân
dân
Số lượng 181 128 78 121 146 55 709
% 60.3% 42.7% 26.0% 40.3% 48.7% 18.3% 39.4%
Tiến hành có hiệu quả cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong Đảng và hệ thống chính trị
Số lượng 137 103 51 83 107 23 504
% 45.7% 34.3% 17.0% 27.7% 35.7% 7.7% 28.0%
Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân
Số lượng 126 93 66 100 110 32 527
% 42.0% 31.0% 22.0% 33.3% 36.7% 10.7% 29.3%
Kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân
Số lượng 155 90 90 121 137 31 624
% 51.7% 30.0% 30.0% 40.3% 45.7% 10.3% 34.7%
Tổng Số lượng 300 300 300 300 300 300 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.15: Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và nội dung của nguyên tắc đƣợc Đảng bộ triển khai thực hiện Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
206
Tƣơng quan giữa giới tính ngƣời trả lời và nội dung của nguyên tắc đƣợc Đảng bộ triển khai thực hiện Giới tính
Tổng Nam Nữ
Tuyên truyền, giáo dục xây dựng nhận thức đúng đắn về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với
Nhân dân cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân
Số lượng 421 453 874
% 43.4% 54.6% 48.6%
Khoa học hóa và dân chủ hóa quá trình ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng
để nghị quyết của Đảng thực sự là “ý Đảng, lòng dân”
Số lượng 200 241 441
% 20.6% 29.1% 24.5%
Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên làm tốt công tác dân vận, chăm lo nâng cao đời sống
nhân dân
Số lượng 300 330 630
% 30.9% 39.8% 35.0%
Đảng lãnh đạo mở rộng dân chủ trong đời sống chính trị, xã hội để phát huy thật sự vai trò làm
chủ của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng
Số lượng 233 199 432
% 24.0% 24.0% 24.0%
Phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên bảo đảm tính dân chủ, sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân dân; cán bộ, đảng viên tôn trọng, lắng
nghe ý kiến Nhân dân, học hỏi Nhân dân, nhưng không được theo đuôi Nhân dân
Số lượng 472 384 856
% 48.6% 46.3% 47.6%
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân; xây dựng pháp luật, chính sách bảo vệ và phục vụ Nhân dân; làm tốt công tác dân
vận của chính quyền
Số lượng 362 376 738
% 37.3% 45.4% 41.0%
Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh; phát triển sâu rộng các tổ
chức kinh tế- xã hội của Nhân dân
Số lượng 345 364 709
% 35.5% 43.9% 39.4%
Tiến hành có hiệu quả cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng
và hệ thống chính trị
Số lượng 256 248 504
% 26.4% 29.9% 28.0%
Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân
Số lượng 248 279 527
% 25.5% 33.7% 29.3%
Kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân Số lượng 291 333 624
% 30.0% 40.2% 34.7%
Tổng cộng Số lượng 971 829 1800
% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.16: Tƣơng quan giữa giới tính ngƣời trả lời và nội dung của nguyên tắc đƣợc Đảng bộ triển khai thực hiện Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án.
207
Câu 6
33.739.7
32
45.739.3
40.8
20.6 2127.2
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
Chưa nghiêm túc, còn
hạn chế
Nghiêm túc
Rất nghiêm túc
Biểu đồ 2.7: Thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân tại Đảng bộ địa phương
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
208
Tỉnh chia thành ba miền
Tổng Miền bắc Miền trung Miền nam
Thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân tại
Đảng bộ địa phƣơng hiện nay
Tốt Số lượng 202 238 192 632
% 33.7% 39.7% 32.0% 35.1%
Nghiêm túc Số lượng 274 236 245 755
% 45.7% 39.3% 40.8% 41.9%
Chưa tốt
Số lượng 42 69 56 167
% 7.0% 11.5% 9.3% 9.3%
Chưa nghiêm túc Số lượng 19 7 16 42
% 3.2% 1.2% 2.7% 2.3%
Còn nhiều hạn chế Số lượng 59 50 87 196
% 9.8% 8.3% 14.5% 10.9%
Ý kiến khác Số lượng 4 0 4 8
% 7% 0% 7% 4%
Tổng Số lượng 600 600 600 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.17: Thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân tại Đảng bộ địa phƣơng hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
209
Câu 7
0.3 1.4 0.3
78.871.2
81.2
20.927.5
18.5
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
Sai
Đúng
Không trả lời
Biểu đồ 2.8: Mức độ nhận thức của đối tƣợng trả lời câu hỏi “Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích cực bảo vệ lợi ích của ai?”
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
210
Tỉnh chia thành ba miền
Tổng Miền bắc Miền trung Miền nam
Theo đồng chí,Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích
cực bảo vệ lợi ích của ai
Đúng Số lượng 460 420 475 1355
% 78.8% 71.2% 81.2% 77.0%
Sai Số lượng 122 162 108 392
% 20.9% 27.5% 18.5% 22.3%
Không trả lời Số lượng 2 8 2 12
% .3% 1.4% .3% .7%
Tổng Số lượng 584 590 585 1759
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.18: Mức độ nhận thức của đối tƣợng trả lời câu hỏi “Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích cực bảo vệ lợi ích của ai?”
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
211
Câu 8: Mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân hiện nay như thế nào?
57.565.3 69.8
32.729.5
28.2
3.3 1.32.55
0.70.5
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
Không trả lời
Kém mật thiết
Ít mật thiết
Rất mật thiết
Biểu đồ 2.9: Đánh giá về mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
212
Tỉnh chia thành ba miền
Tổng Miền bắc Miền trung Miền nam
Theo đồng chí, mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân hiện nay nhƣ thế nào
Rất mật thiết,bền chặt Số lượng 345 392 419 1156
% 57.5% 65.3% 69.8% 64.2%
Ít mật thiết,thiếu bển chặt Số lượng 196 177 169 542
% 32.7% 29.5% 28.2% 30.1%
Kém mật thiết,không bền
chặt
Số lượng 30 20 8 58
% 5.0% 3.3% 1.3% 3.2%
Ý kiến khác Số lượng 15 3 4 22
% 2.5% .5% .7% 1.2%
Không trả lời Số lượng 14 8 0 22
% 2.3% 1.3% .0% 1.2%
Tổng Số lượng 600 600 600 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.19: Đánh giá về mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
213
Câu 9
38.750.8
60.2
47.834
30.7
93.8
8.45.2
5.46.2
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
Hoài nghi, dao động
ít tin tưởng
Tin tưởng
Tuyệt đối tin tưởng
Biểu đồ 2.10: Mức độ ủng hộ, tin tưởng của Nhân dân với Đảng hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
214
Tỉnh chia thành ba miền
Tổng Miền bắc Miền trung Miền nam
Theo đồng chí, mức độ ủng hộ, tin tƣởng
của nhân dân với Đảng hiện nay nhƣ thế
nào
Tuyệt đối tin tưởng Số lượng 232 305 361 898
% 38.7% 50.8% 60.2% 49.9%
Có tin tưởng Số lượng 287 204 184 675
% 47.8% 34.0% 30.7% 37.5%
Ít tin tưởng Số lượng 31 54 23 108
% 5.2% 9.0% 3.8% 6.0%
Có hoài nghi Số lượng 28 16 18 62
% 4.7% 2.7% 3.0% 3.4%
Dao động Số lượng 5 10 0 15
% .8% 1.7% .0% .8%
Thiếu tin tưởng Số lượng 3 5 6 14
% .5% .8% 1.0% .8%
Mất niềm tin Số lượng 10 0 4 14
% 1.7% .0% .7% .8%
Ý kiến khác Số lượng 0 2 4 6
% .0% .3% .7% .3%
Không trả lời Số lượng 4 4 0 8
% .7% .7% .0% .4%
Tổng Số lượng 600 600 600 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.20: Mức độ ủng hộ, tin tƣởng của Nhân dân với Đảng hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
215
Câu 10
63.269.8 69.2
2620.8 18.3
5.86.3
73.8
6.23.5
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
Khác, không trả lời
Cửa quyền, hách dịch
Xa dân, quan liêu
Gần dân, gắn bó
Biểu đồ 2.11: Đánh giá về mối liên hệ giữa cán bộ, đảng viên của Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
216
Tỉnh chia thành ba miền
Tổng Miền bắc Miền trung Miền nam
Đồng chí đánh giá về mối liên hệ giữa cán bộ,
đảng viên của Đảng với nhân dân hiện nay
nhƣ thế nào?
Gần dân,gắn,bó với dân Số lượng 379 419 415 1213
% 63.2% 69.8% 69.2% 67.4%
Quan liêu,xa dân Số lượng 156 125 110 391
% 26.0% 20.8% 18.3% 21.7%
Hách dịch,cửa
quyền,nhũng nhiều nhâ
ndân
Số lượng 23 35 38 96
% 3.8% 5.8% 6.3% 5.3%
Ý kiến khác Số lượng 23 4 33 60
% 3.8% .7% 5.5% 3.3%
Không trả lời Số lượng 19 17 4 40
% 3.2% 2.8% .7% 2.2%
Tổng Số lượng 600 600 600 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.21: Đánh giá về mối liên hệ giữa cán bộ, đảng viên của Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
217
Câu 11
4.7 1.3 0.5
53.2
79.3 80.3
14 15.513
29.2
3.75.3
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
Đúng nhiều
Đúng trung bình
Đúng phần nhỏ
Không trả lời
Biểu đồ 2.12: Yếu tố ảnh hƣởng đến mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
218
Tỉnh chia thành ba miền
Tổng Miền bắc Miền trung Miền nam
Theo Đồng chí yếu tố nào ảnh hƣởng đến mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa Đảng và nhân dân trong tình hình hiện nay
Không trả lời Số lượng 28 8 3 39
% 4.7% 1.3% .5% 2.2%
Đúng phần nhỏ Số lượng 319 476 482 1277
% 53.2% 79.3% 80.3% 70.9%
Đúng trung
bình
Số lượng 175 84 93 352
% 29.2% 14.0% 15.5% 19.6%
Đúng nhiều Số lượng 78 32 22 132
% 13.0% 5.3% 3.7% 7.3%
Tổng Số lượng 600 600 600 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.22: Yếu tố ảnh hƣởng đến mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
219
Câu 12
48.5
78.3
54.951.4
79.6
70.8
61.5
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Tăng cường tuyên
truyền…
Tập trung xây
dựng…
Đẩy mạnh xây
dựng NN…
Tiếp tục đổi
mới…
Lãnh đạo chăm
lo…
Đẩy mạnh có hiệu
quả…
Tăng cường sự
lãnh đạo…
Biểu đồ 2.13: Giải pháp tăng cƣờng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
220
Tƣơng quan giữa đối tƣợng trả lời và giải pháp cần thực hiện để tăng cƣờng mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Đối tƣợng
Tổng Cán bộ,
đảng viên Nhân dân
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cấp ủy các cấp và đội ngũ
cán bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; cụ thể hóa nguyên tắc này
thành hướng dẫn và quy định cụ thể áp dụng trong toàn Đảng
Số lượng 482 391 873
% 53.6% 43.4% 48.5%
Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo sự chuyển biến mới trong khắc phục tình trạng suy thoái
về tư tưởng, chính trị, đạo đức trong Đảng; chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
có đức, có tài, có thái độ, phong cách làm việc gần gũi với Nhân dân để củng cố niềm tin của Nhân
dân với Đảng
Số lượng 711 699 1410
% 79.0% 77.7% 78.3%
Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, thật sự là của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân
Số lượng 514 475 989
% 57.1% 52.8% 54.9%
Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, tăng cường công tác dân vận của chính quyền; lãnh đạo đổi mới
tổ chức, phương thức hoạt động để phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân
Số lượng 481 444 925
% 53.4% 49.3% 51.4%
Lãnh đạo chăm lo nâng cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tập trung
giải quyết tốt các nhu cầu dân sinh, dân trí, dân chủ cấp thiết của Nhân dân
Số lượng 731 701 1432
% 81.2% 77.9% 79.6%
Đẩy mạnh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực
xã hội
Số lượng 648 626 1274
% 72.0% 69.6% 70.8%
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật
thiết với Nhân dân của các tổ chức đảng, của cán bộ và đảng viên
Số lượng 590 517 1107
% 65.6% 57.4% 61.5%
Tổng Số lượng 900 900 1800
% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.23: Tƣơng quan giữa đối tƣợng trả lời và giải pháp cần thực hiện để tăng cƣờng mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
221
Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và giải pháp cần thực hiện để tăng
cƣờng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân
hiện nay
Địa phƣơng
Tổng
Hà Nội
Ninh
Bình
Lâm
Đồng
Khánh
Hòa TPHCM Bạc Liêu
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho
cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân; cụ thể hóa nguyên tắc này thành hướng dẫn và
quy định cụ thể áp dụng trong toàn Đảng
Số lượng 195 173 133 156 124 92 873
% 65.0% 57.7% 44.3% 52.0% 41.3% 30.7% 48.5%
Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo sự chuyển biến mới trong khắc
phục tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức trong Đảng;
chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, có
thái độ, phong cách làm việc gần gũi với Nhân dân để củng cố niềm tin
của Nhân dân với Đảng
Số lượng 246 228 222 233 259 222 1410
% 82.0% 76.0% 74.0% 77.7% 86.3% 74.0% 78.3%
Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch,
vững mạnh, thật sự là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; phát
huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân
Số lượng 207 171 160 152 178 121 989
% 69.0% 57.0% 53.3% 50.7% 59.3% 40.3% 54.9%
Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, tăng cường công tác dân vận của
chính quyền; lãnh đạo đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động để phát
huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Số lượng 194 145 137 159 186 104 925
% 64.7% 48.3% 45.7% 53.0% 62.0% 34.7% 51.4%
Lãnh đạo chăm lo nâng cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của các
tầng lớp nhân dân; tập trung giải quyết tốt các nhu cầu dân sinh, dân trí,
dân chủ cấp thiết của Nhân dân
Số lượng 235 243 210 241 256 247 1432
% 78.3% 81.0% 70.0% 80.3% 85.3% 82.3% 79.6%
Đẩy mạnh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các tiêu cực xã hội
Số lượng 236 219 176 198 235 210 1274
% 78.7% 73.0% 58.7% 66.0% 78.3% 70.0% 70.8%
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của các tổ chức đảng,
của cán bộ và đảng viên
Số lượng 224 200 150 170 195 168 1107
% 74.7% 66.7% 50.0% 56.7% 65.0% 56.0% 61.5%
Tổng Số lượng 300 300 300 300 300 300 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.24: Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và giải pháp cần thực hiện để tăng cƣờng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng
với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
222
Tƣơng quan giữa giới tính ngƣời trả lời và giải pháp cần thực hiện để tăng cƣờng mối quan hệ gắn bó mật
thiết giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Giới tính
ngƣời trả lời
Tổng Nam Nữ
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cấp ủy các cấp và đội ngũ cán
bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; cụ thể hóa nguyên tắc này thành
hướng dẫn và quy định cụ thể áp dụng trong toàn Đảng
Số lượng 443 430 873
%
45.6% 51.9% 48.5%
Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo sự chuyển biến mới trong khắc phục tình trạng suy thoái về
tư tưởng, chính trị, đạo đức trong Đảng; chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có
đức, có tài, có thái độ, phong cách làm việc gần gũi với Nhân dân để củng cố niềm tin của Nhân dân
với Đảng
Số lượng 738 672 1410
% 76.0% 81.1% 78.3%
Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, thật sự là của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân
Số lượng 481 508 989
% 49.5% 61.3% 54.9%
Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, tăng cường công tác dân vận của chính quyền; lãnh đạo đổi mới tổ
chức, phương thức hoạt động để phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Số lượng 451 474 925
% 46.4% 57.2% 51.4%
Lãnh đạo chăm lo nâng cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tập trung
giải quyết tốt các nhu cầu dân sinh, dân trí, dân chủ cấp thiết của Nhân dân
Số lượng 796 636 1432
% 82.0% 76.7% 79.6%
Đẩy mạnh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực xã
hội
Số lượng 678 596 1274
% 69.8% 71.9% 70.8%
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân của các tổ chức đảng, của cán bộ và đảng viên
Số lượng 574 533 1107
% 59.1% 64.3% 61.5%
Tổng Số lượng 971 829 1800
% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.25: Tƣơng quan giữa giới tính ngƣời trả lời và giải pháp cần thực hiện để tăng cƣờng mối quan hệ gắn bó mật
thiết giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
223
Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và giải pháp cần thực hiện để tăng cƣờng mối quan hệ gắn
bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Địa phƣơng
Tổng Miền
bắc
Miền
trung
Miền
nam
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cấp ủy các cấp và đội
ngũ cán bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; cụ thể hóa nguyên
tắc này thành hướng dẫn và quy định cụ thể áp dụng trong toàn Đảng
Số lượng 368 289 216 873
% 61.3% 48.2% 36.0% 48.5%
Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo sự chuyển biến mới trong khắc phục tình trạng suy
thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức trong Đảng; chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên có đức, có tài, có thái độ, phong cách làm việc gần gũi với Nhân dân để củng cố
niềm tin của Nhân dân với Đảng
Số lượng 474 455 481 1410
% 79.0% 75.8% 80.2% 78.3%
Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, thật sự là
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân
Số lượng 378 312 299 989
% 63.0% 52.0% 49.8% 54.9%
Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, tăng cường công tác dân vận của chính quyền; lãnh đạo
đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động để phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân
Số lượng 339 296 290 925
% 56.5% 49.3% 48.3% 51.4%
Lãnh đạo chăm lo nâng cao đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tập
trung giải quyết tốt các nhu cầu dân sinh, dân trí, dân chủ cấp thiết của Nhân dân
Số lượng 478 451 503 1432
% 79.7% 75.2% 83.8% 79.6%
Đẩy mạnh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các
tiêu cực xã hội
Số lượng 455 374 445 1274
% 75.8% 62.3% 74.2% 70.8%
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó
mật thiết với Nhân dân của các tổ chức đảng, của cán bộ và đảng viên
Số lượng 424 320 363 1107
% 70.7% 53.3% 60.5% 61.5%
Tổng Số lượng 600 600 600 1800
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.26: Tƣơng quan giữa địa phƣơng ngƣời trả lời và giải pháp cần thực hiện để tăng cƣờng mối quan hệ gắn bó mật
thiết giữa Đảng với Nhân dân hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
224
PHỤ LỤC 4
BÁO CÁO
Kết quả điều tra xã hội học phục vụ Đề án “Tăng cƣờng sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động quần chúng trong tình hình mới”
Thực hiện chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa XI), ngày 23 tháng 3 năm 2012, Ban Bí thư đã ra Quyết định số 69- QĐ/TW,
thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án đã lập kế hoạch nghiên cứu xây dựng Đề án
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần chúng trong
tình hình mới” để báo cáo với Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương trong
kỳ họp lần thứ 7.
Ban chỉ đạo Đề án đã tiến hành các việc làm cần thiết trong đó có điều tra xã hội
học nhằm thu thập thông tin, số liệu về công tác vận động quần chúng trong thời
gian qua. Dưới đây là kết quả:
A. THÔNG TIN CHUNG VỀ CUỘC ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
I. Địa bàn thực hiện điều tra
Cuộc điều tra xã hội học được thực hiện tại 7 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, bao gồm:
- Thành phố Hà Nội
- Thành phố Hồ Chí Minh
- Thành phô Cần Thơ
- Thành phố Đà Nẵng
- Tỉnh Gia Lai
- Tỉnh Thái Bình
- Tỉnh Lào Cai.
Các địa bàn trên được lựa chọn đại diện cho các vùng, miền cả nước. Thành phố
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước. Thành phố Hồ Chí
Minh đại diện cho khu vực miền Đông Nam bộ. Thành phố Cần Thơ đại diện cho
khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Đà Nãng đại diện cho khu vực
duyên hải miền Trung. Tỉnh Gia Lai đại diện khu vực Tây Nguyên. Tỉnh Thái Bình
đại diện khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Tỉnh Lào Cai đại diện khu vực miền núi phía
Bắc.
II. Phƣơng thức điều tra xã hội học
- Thực hiện bằng phiếu hỏi. Mẫu phiếu được áp dụng thống nhất cho các địa
phương. Tổng số phiếu khảo sát điều tra là 2100 phiếu, được phân đều cho 7 địa
phương, mỗi địa phương 300 phiếu.
- Ở mỗi địa phương đều thực hiện chọn điểm điều tra đảm bảo tính đại diện.
III. Đối tƣợng điều tra xã hội học
Cán bộ cơ sở và nhân dân ở các cộng đồng dân cư.
IV. Nội dung phiếu điều tra xã hội học
Phiếu điều tra gồm 24 câu hỏi, với 180 vấn đề khác nhau, được thiết kế dưới
dạng câu hỏi đóng kết hợp với câu hỏi mở. Chủ đề các câu hỏi như sau:
1. Việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước ở các địa phương.
2. Những chính sách liên quan mật thiết đến đời sống của nhân dân cần được
225
quan tâm?
3. Các kênh thông tin truyền tải đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận đến với người dân.
4. Sự hiểu biết của nhân dân về hệ thống Ban Dân vận các cấp.
5. Sự hiểu biết của người dân về khối dân vận ở cơ sở (xã, phường, thị trấn).
6. Sự quan tâm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội địa phương, cơ sở đối với công tác dân vận.
7. Sự hiểu biết của người dân về trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với
công tác dân vận.
8. Những đối tượng quần chúng cần đặc biệt quan tâm vận động hiện nay.
9. Những nội dung cơ bản cần tập trung giải quyết trong công tác dân vận hiện
nay.
10. Đánh giá hiệu quả công tác dân vận hiện nay.
11. Sự hiểu biết về các phong trào, các cuộc vận động tiêu biểu ở địa phương
hiện nay.
12. Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
13. Tình hình vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm ở địa phương, cơ sở.
14. Các tệ nạn xã hội phổ biến ở địa phương.
15. Những thể loại thông tin cơ bản được mọi người dân quan tâm hiện nay.
16. Ý kiến nhận định của người dân về nguồn gốc thu nhập của những người
giàu có ở các địa phương, cơ sở hiện nay.
17. Đánh giá hiệu quả công tác dân vận của cấp uỷ đảng, chính quyền và lực
lượng vũ trang.
18. Đánh giá hiệu quả công tác dân yận của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội.
19. Sự phối hợp giữa Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể trong công tác dân vận.
20. Tâm trạng của nhân dân trước tình hình xã hội hiện nay.
21. Cách thức làm dân vận của cán bộ dân vận địa phương, cơ sở.
22. Các giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận hiện
nay.
23. Những phẩm chất và năng lực cần có của người cán bộ dân vận hiện nay.
24. Một số thông tin cơ bản về đối tượng điều tra xã hội học.
V. Thời gian tiến hành khảo sát điều tra
Thực hiện trong Quý III và Quý IV năm 2011
B. KẾT QUẢ TỔNG HỢP
I. Thông tin chung về đối tƣợng tham gia khảo sát điều tra
Có 2100 người tham gia trả lời các câu hỏi theo mẫu phiếu. Thông tin chung về
đối tượng tham gia trả lời phiếu hỏi như sau:
- Về giới tính: 55,14% là nam 44,86% là nữ
- Về cơ cấu độ tuổi: 36,29% có độ tuổi dưới 30 tuổi; 48,48% có độ tuổi từ 30
đến 50 tuổi; 10,62% có độ tuổi từ 51 đến 60 tuổi; 4,62% có độ tuổi trên 60.
- Trình độ học vấn:
2,90% có trình độ tiểu học
11,00% có trình độ trung học cơ sở
77,29% có trình độ trung học phổ thông
226
- Trình độ chuyên môn:
40,62% có trình độ cử nhân
1,76% có trình độ thạc sĩ
0,48% có trình độ tiến sĩ
- Trình độ chính trị:
24,33% có trình độ sơ cấp chính trị
43,71% có trình độ trung cấp chính trị
6,19% có trình độ cao cấp chính trị
- Đảng viên, đoàn viên Đoàn TNCSHCM, hội viên đoàn thể:
63,90% là đảng viên ĐCSVN
21,62% là đoàn viên ĐTNCSHCM
21,66 là hội viên các đoàn thể nhân dân
- Dân tộc:
84,95% là dân tộc Kinh
15,05% là các dân tộc khác
- Tôn giáo:
98,05% không theo tôn giáo
1,95% là tín đồ các tôn giáo
II. Kết quả ý kiến trả lời theo phiếu hỏi
1. Về câu hỏi: Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước đã ban hành được thực hiện như thế nào ở địa phương?
Kết quả chung như sau:
- 56,66% đánh giá được thực hiện ở mức tốt;
- 30,95% đánh giá được thực hiện ở mức khá;
- 8,48% cho rằng ở mức trung bình;
- 0,76% cho rằng ở mức yếu;
- 0,33% cho rằng thực hiện kém.
2. Về câu hỏi những chính sách nào liên quan mật thiết đến đời sống của
nhân dân cần được quan tâm
Đây cũng là câu hỏi chỉ gồm các phương án gợi ý trả lời. Có 12 phương án lựa
chọn cho người trả lời. Kết quả được lựa chọn theo thứ tự như sau:
- Xoá đói giảm nghèo: 69,57%
- Bồi dưỡng phát huy sức dân: 64,90%
- Bảo hiểm y tế: 57,76%
- Vay vốn phát triển sản xuất: 55,29%
- Nhà ở, đất ở: 54,10%
- Cải cách hành chính: 53,57%
- Quy chế dân chủ ở cơ sở: 53,20%
- Bảo vệ môi trường: 51,33%
- Bảo hiểm xẵ hội: 50,14%
- Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc: 43,95%
- Đất sản xuất: 36,86%
- Chuyển dịch cơ cấu lao động : 34,95%
227
3. Về câu hỏi: Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước về công tác dân vận đã ban hành được ông (bà) biết qua các kênh
nào?
Đây là câu hỏi hỗn hợp giữa phần có gợi ý trả lời và phần câu mở. Phần có gợi ý
trả lời gồm 4 sự lựa chọn: Sách, báo, tạp chí; đài phát thanh, truyền hình; được học
tập; cán bộ tuyên truyền. Kết quả trả lời theo thứ tự như sau:
- 68,86% cho rằng được biết qua kênh phát thanh, truyền hình;
- 53,19% cho rằng qua sách, báo, tạp chí;
- 51,33% cho rằng qua việc học tập;
- 44,29% cho rằng qua cán bộ tuyên truyền.
4. Về câu hỏi: Hệ thống Ban Dân vận có ở những cấp nào?
Phương án trả lời đúng cho câu hỏi là hệ thống Ban Dân vận có ở bốn cấp:
Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Thứ tự kết quả khảo sát như sau:
- 70,71% trả lời có ở cả bốn cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, xã.
- 14,76% trả lời chỉ có ở ba cấp: Trung ương, tỉnh, huyện.
- 14,38% trả lời chỉ có ở hai cấp: Trung ương, tỉnh.
Nhìn vào kết quả có thể thấy rõ, có tới gần 29,14% số người được hỏi chưa hiểu
rõ hệ thống cơ quan tham mưu về công tác dân vận của Đảng. Trong số này, có
14,76% không biết đến Ban Dân vận cấp xã và 14,38% không biết đến Ban Dân vận
cấp huyện và xã.
Thực tế Ban Dân vận cấp huyện và cấp xã đã được thành lập từ nhiều năm trở
lại đây (cấp huyện từ những năm 90 của thế kỷ trước; cấp xã từ năm 2000). Vị trí,
vai trò của Ban Dân vận huyện, khối dân vận xã nói chung đã được khẳng định và
ngày càng phát huy tác dụng tích cực. Việc có nhiều người còn chưa biết đến Ban
Dân vận huyện và xã có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản là do
bản thân Ban Dân vận chưa thể hiện tốt vai trò của mình, chưa thực sự trở thành địa
chỉ để nhân dân tìm đến.
5. Về câu hỏi: Ông (bà) cho biết dân vận ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) có
tên gọi thế nào?
Phương án trả lời duy nhất đúng là Khối Dân vận. Kết quả trả lời qua khảo sát,
tổng hợp theo thứ tự như sau:
- 61,66% số người trả lời là Khối Dân vận.
- 21,19% số người trả lời là Ban Dân vận.
- 10,05% số người trả lời là Tổ Dân vận.
- 3,62% số người trả lời là Cụm Dân vận.
6. Về câu hỏi: Trong thời gian qua, công tác dân vận có được các cấp uỷ
đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thế chính trị-xã hội địa phương, cơ sở
nơi ông (bà) cư trú quan tâm?
Câu hỏi gồm có phần gợi ý trả lời và phần mở. Phần có gợi ý trả lời được thiết
kế theo 3 mức đánh giá khác nhau: Rất quan tâm; ít quan tâm và không quan tâm.
Tổng hợp phần có gợi ý phương án trả lời, có kết quả theo thứ tự như sau:
- 74,00% cho rằng công tác dân vận rất được quan tâm
- 19,14% cho rằng công tác dân vận ít được quan tâm
- 1,52% cho rằng công tác dân vận không được quan tâm.
- 5,33% còn lại không có ý kiến trả lời
228
7. Về câu hỏi: Theo ông (bà) công tác dân vận cần được thực hiện bởi
những chủ thể nào ?
Câu hỏi cũng gồm hai phần: phần có gợi ý phương án trả lời và phần mở dành
cho người trả lời nêu ý kiến của mình. Phần có gợi ý phương án trả lời nêu 4 chủ
thể của công tác dân vận: cấp uỷ đảng, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể. Phương
án đúng là lựa chọn cả 4 chủ thể này. Tổng hợp kết quả chung của phần có gợi ý
phương án trả lời như sau:
- 70,19% số người trả lời chủ thể là cấp uỷ đảng;
- 69,19% trả lời chủ thể là MTTQ;
- 65,71% trả lời chủ thể là các đoàn thể;
- 63,81% trả lời chủ thể là chính quyền.
8. Vê câu hỏi: Theo ông (bà) những đối tượng nào công tác dân vận cần đặc
biết quan tâm vận động hiện nay?
Câu hỏi này cũng gồm hai phần: phần có gợi ý phương án trả lời và phần câu hỏi
mở. Phần thứ nhất nêu 12 đối tượng thuộc các giai cấp, tầng lớp xã hội cần quan
tâm vận động. Trong 12 đối tượng được liệt kê, có những đối tượng mang tính
truyền thống từ thời kỳ vận động cách mạng đến nay, có những đối tượng mà vị trí,
vai trò mới chỉ được khẳng định gần đây. Kết quả tổng hợp phần có gợi ý phương
án trả lời, theo thứ tự như sau:
- 57,95% ý kiến lựa chọn cần phải đặc biệt quan tâm vận động đồng bào các
dân tộc thiểu số;
- 50,66% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động nông dân;
- 38,90% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động đồng bào có đạo;
- 35,05% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động phụ nữ;
- 31,71% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động thanh thiếu niên;
- 29 81% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động công nhân;
- 28,27% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động người Việt Nam ở nước ngoài;
- 24,90% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động trí thức;
- 24,71% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động các chủ doanh nghiệp;
- 24,33% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động cựu chiến binh;
- 13,95% chọn cần đặc biệt quan tâm vận động những người có công với
nước.
9. Về câu hỏi: Theo ông (bà) công tác dân vận hiện nay cần tập trung vào
những nội dung gì?
Câu hỏi đưa ra 10 phương án gợi ý để người được hỏi lựa chọn. Kết quả tổng
hợp theo thứ tự từ cao đến thấp như sau:
- 60,43% số người lựa chọn xoá đói giảm nghèo;
- 52,57% lựa chọn phát triển và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc;
- 48,05% lựa chọn phát triển kinh tế;
- 47,81% lựa chọn bảo đảm trật tự an toàn xã hội;
- 47,14% lựa chọn nâng cao dân trí;
- 45,48% lựa chọn bảo vệ môi trường;
- 43,66% lựa chọn đảm bảo an ninh quốc phòng;
- 40,43% lựa chọn mở rộng dân chủ;
- 39,52% lựa chọn khuyến khích làm giàu;
229
- 20,71% lựa chọn mở rộng đối ngoại.
10. Về câu hỏi: Theo ông (bà) hiệu quả công tác dân vận được đánh giá
như thế nào?
Câu hỏi này nhằm thăm dò ý kiến nhân dân về tính hiệu quả của công tác dân
vận hiện nay. Mức gợi ý đánh giá được chia làm 5 bậc: tốt, khá, trung bình, yếu và
kém. Kết quả tổng hợp chung như sau:
- 45,90% đánh giá hiệu quả tốt;
- 34,57% đánh giá hiệu quả khá;
- 9,86% đánh giá hiệu quả trung bình;
- 1,43% đánh giá hiệu quả yếu;
- 0,43% đánh giá hiệu quả kém.
11. Về câu hỏi: Ông (bà) cho biết ở địa phương có những phong trào và cuộc vận
động quần chúng tiêu biểu nào?
Câu hỏi này nhằm khảo sát đánh giá mức độ xã hội hoá và tính hiệu quả của các
phong trào, các cuộc vận động lớn, do Đảng và Nhà nước phát động. Kết quả cụ thể
theo thứ tự sau:
- 65,24% ý kiến nêu phong trào xây dựng đời sống văn hoá;
- 60,14% nêu phong trào xoá đói, giảm nghèo;
- 49,38% nêu phong trào xây dựng nông thôn mới;
- 37,24% nêu phong trào người Việt Nam dùng hàng Việt Nam;
- 28,81% nêu phong trào xây dựng xã hội học tập;
- 28,43% nêu phong trào xây dựng văn minh đô thị.
12. Về câu hỏi: Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở nơi
ông (bà) cư trú?
Thứ tự kết quả tổng họp từ các địa phương như sau:
- 50,95% đánh giá trật tự an toàn xã hội ở mức độ tốt;
- 33,38% đánh giá ở mức khá;
- 8,71% đánh giá ở mức trung bình;
- 2,81% đánh giá ở mức yếu;
- 0,38% đánh giá ở mức kém.
13. Về câu hỏi: Tình hình vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm ở địa
phương, cơ sở nơi ông (bà) cư trú?
Mức độ đánh giá vấn đề trong câu hỏi được sắp xếp theo 5 bậc từ cao xuống
thấp, tương ứng với tốt, khá, trung bình, yếu, kém. Kết quả tổng hợp vấn đề này như
sau:
- 23,76% ý kiến đánh giá ở mức độ tốt;
- 41,05% ý kiến đánh giá ở mức khá;
- 25,71% ý kiến đánh giá ở mức trung bình;
- 1,38% ý kiến đánh giá ở mức yếu;
- 0,33% ý kiến đánh giá ở mức kém.
14. Về câu hỏi: Ông (bà) biết nơi mình cư trú có người mắc tệ nạn xã hội?
Câu hỏi gồm hai phần: phần có gợi ý phương án lựa chọn trả lời và phần câu hỏi
mở. Phần thứ nhất gợi ý 4 phương án trả lời, đó là các tệ nạn mại dâm, ma tuý, trộm
cắp và cờ bạc, lô đề. Kết quả từ việc khảo sát điều tra như sau:
- 44,81% cho rằng có nạn trộm cắp;
230
- 40,05% cho rằng có tệ nạn lô đề, cờ bạc
- 35,81% cho rằng có tệ nạn ma tuý;
- 8,0% cho rằng có tệ nạn mại dâm.
15. Về câu hỏi: ông (bà) quan tâm đến những thể loại thông tin nào từ các
phương tiện thông tin đại chúng (qua sách, báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền
hình, internet)?
Câu hỏi gồm hai phần: phần có gợi ý phương án trả lời và phần câu hỏi mở.
Phần có gợi ý trước có 11 phương án để người được hỏi lựa chọn, gồm: thời sự,
chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, thể thao, ca nhạc, phim, vụ án, du lịch và khoa
học kỹ thuật. Kết quả có tỷ lệ theo thứ tự như sau:
- 67,71% quan tâm đến thời sự;
- 44,76 % quan tâm đến văn hoá;
- 44,76% quan tâm đến giáo dục;
- 43,14% quan tâm đến chính trị;
- 42,71% quan tâm đến kinh tế;
- 41,45% quan tâm đến phim ảnh;
- 32,38% quan tâm đến thể thao;
- 26,81% quan tâm đến các vụ án;
- 22,52% quan tâm đến khoa học kỹ thuật;
- 22,43% quan tâm đến ca nhạc;
- 14,43% quan tâm đến du lịch.
16. Về câu hỏi: Phần lớn những người giàu có ở địa phương, cơ sở nơi ông
(bà) cư trú có thu nhập chính từ đâu?
Tổng hợp kết quả khảo sát như sau:
- 66,86% ý kiến cho rằng do lao động mà có;
- 45,52% cho rằng biết chọn sản phẩm sản xuất kinh doanh;
- 35,24% cho rằng biết cách quản lý;
- 30,43% cho rằng biết giữ chữ tín;
- 25,90% cho rằng do biết liên kết;
- 22,14% cho rằng do biết tiếp thị;
- 6,0% cho rằng do tham nhũng;
- 5,95% cho rằng do buôn lậu;
- 5,95% cho rằng có người thân từ nước ngoài gửi tiền về.
17. Về câu hỏi: Đánh giá hiệu quả công tác dân vận của cấp uỷ đảng, chính
quyền và lực lượng vũ trang ở địa phương, cơ sở nơi ông (bà) sinh sống?
Kết quả tổng hợp như sau:
- Cấp uỷ đảng, tỷ lệ đánh giá hiệu quả là 72,95%; chưa hiệu quả là 21,0%; kém
hiệu quả là 1,48%.
- Tương tự, tỷ lệ dành cho chính quyền theo thứ tự là: 66,14%; 24,90% và
2,05%.
- Tỷ lệ dành cho lực lượng quân đội theo thứ tự là: 65,0%; 21,10% và 1,62%.
- Tỷ lệ dành cho lực lượng công an theo thứ tự là: 54,14%; 35,90% và 2,38%.
- Tỷ lệ dành cho dân quân tự vệ là: 48,33%; 40,43% và 3,19%.
18. Về câu hỏi: Đánh giá hiệu quả công tác dân vận của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương nơi ông (bà) sinh sống?
231
Kết quả tổng hợp như sau:
- Tỷ lệ đánh giá dành cho Mặt trận Tổ Quốc là: có hiệu quả 73,57%; chưa hiệu quả 19,81%; kém hiệu quả 1,71%.
- Tỷ lệ đánh giá Hội Cựu chiến binh theo thứ tự là: 70,05%; 19,19% và 1,95%.
- Tỷ lệ đánh giá Đoàn TNCSHCM theo thứ tự là: 46,38%; 30,29% và 13,29%.
- Tỷ lệ đánh giá Công đoàn theo thứ tự là: 41,48%; 36,71% và 14,24%.
- Tỷ lệ đánh giá Hội Nông dân theo thứ tự là: 55,57%; 26,66% và 2,0%.
- Tỷ lệ đánh giá Hội LHPN theo thứ tự là: 57,33%; 31,10% và 5,33%.
19. Về câu hỏi: Sự phối hợp giữa Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong công tác dân vận ở địa phương, cơ sở?
Câu hỏi gồm có gợi ý trả lời và phần câu mở. Phần có gợi ý trả lời gồm 4 mức
đánh giá theo thứ tự từ cao xuống thấp. Mức cao nhất là rất chặt chẽ, hiệu quả; mức
thấp nhất là thiếu sự phối hợp. Tổng hợp kết quả cho thứ tự đánh giá như sau:
- 53,29% đánh giá sự phối hợp rất chặt chẽ, có hiệu quả;
- 34,66% đánh giá ở mức bình thường;
- 4,57% đánh giá phối hợp chưa tốt, không hiệu quả;
- 2,14% cho rằng thiếu sự phối hợp.
20. Về câu hỏi: Tâm trạng của ông (bà) trước tình hình xã hội hiện nay?
Kết quả tổng hợp từ phiếu hỏi như sau:
- 34,14% trả lời lạc quan tin tưởng;
- 33,52% bình thường;
- 29,3 8% băn khoăn lo lắng.
21. Về câu hỏi: Thông qua hình thức nào mà ông (bà) biết cán bộ làm dân
vận?
Đẻ có thể thu được nhiều ý kiến khác nhau, câu hỏi được thiết kế thành hai
phần: phần có gợi ý trả lời là phần câu mở. Kết quả tổng hợp từ phần thứ nhất như
sau:
- 53,52% cho rằng họ nhận biết cán bộ dân vận thông qua việc cán bộ đến nhà
dân;
- 52,86% cho rằng qua việc tiếp xúc cử tri;
- 35,95% cho rằng qua hình thức trao đổi tọa đàm;
- 35,33% cho rằng thông qua hoạt động hòa giải;
- 23,38% cho rằng thông qua việc gặp gỡ trong các lễ hội;
- 18,24% cho rằng thông qua việc giải quyết đơn thư.
Các hình thức khác được biết đến theo các ý kiến nêu trong câu mở, đó là:
- Thông qua các cuộc họp được giới thiệu;
- Qua các cuộc tập huấn ở cơ sở;
- Qua các văn bản;
- Những người luôn gần dân, gắn bó với dân, thường xuyên lắng nghe ý kiến
nhân dân.
22. Về câu hỏi: Những nội dung nào để nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác dân vận hiện nay?
Kết quả có thứ tự như sau:
- 74,95% lựa chọn giải pháp chính quyền nhà nước cải cách thủ tục hành
chính để sát dân hơn, thực sự phục vụ nhân dân;
232
- 70,52% lựa chọn việc coi trọng sự phối hợp của các cấp, các ngành trong hệ
thống chính trị làm công tác dân vận;
- 68,86% lựa chọn giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng;
- 68,71 % lựa chọn giải pháp củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống dân
vận các cấp;
- 67,43% lựa chọn giải pháp chăm lo bồi dưỡng, đào tạo, bố trí, sử dụng và
chính sách với đội ngũ cán bộ dân vận;
- 65,19% lựa chọn đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MT và các
đoàn thể nhân dân;
- 49,81% lựa chọn giải pháp nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí công tác dân
vận.
23. Về câu hỏi: Theo ông (bà) người cán bộ dân vận hiện nay cần có những
năng lực và phẩm chất gì?
Từ các phương án gợi ý của câu hỏi, kết quả tỷ lệ lựa chọn của những người
tham gia khảo sát theo thứ tự như sau:
- 77,57% cho rằng phẩm chất quan trọng nhất của người cán bộ dân vận là nói
phải đi đôi với làm;
- 76,10% cho rằng điều quan trọng là phải biết lắng nghe ý kiến quần chúng;
- 70,71% cho rằng phải trung thực, khiêm tốn, giản dị;
- 68,00% cho rằng phải hiểu biết quần chúng;
- 67,86% cho rằng phải có trách nhiệm với dân;
- 66586% cho rằng biết đoàn kết, tập hợp quần chúng;
- 56,76% cho rằng biết diễn thuyết trước đám đông;
- 45,48% cho rằng phải kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực.
Nguồn: Ban Dân vận Trung ương.
233
PHỤ LỤC 5
TỔNG HỢP KẾT QUẢ
Khảo sát mối quan hệ giữa Đảng, nhân dân tại 03 tỉnh, thành phố
(Hà Nam, Hải Phòng, Hà Nội) I. Đối tƣợng, số lƣợng câu hỏi, phiếu:
- Tổng số câu hỏi: 14 câu hỏi
- Tổng số phiếu phát ra: 265 phiếu (trong đó Hải Phòng 64 phiếu; tỉnh
Hà Nam 55 phiếu; Hà Nội 146 phiếu).
- Số phiếu thu về : 265 phiếu
- Địa điểm khảo sát: Hải Phòng (cán bộ thành uỷ Hải phòng; Quận Đồ Sơn;
Phường Ngọc Hải; Huyện uỷ An Lão; xã Tân Viên); Hà Nam (Tỉnh uỷ Hà Nam;
huyện uỷ Kim Bảng; xã Thi Sơn); Hà Nội (quận uỷ Long Biên; Phường Đức
Giang).
- Đối tượng khảo sát của huyện (thành phố), xã, phường (Ủy ban nhân dân,
Hội đồng nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội, Mặt trận Tổ quốc, cán bộ hưu,
lão thành cách mạng, nhân dân tổ dân phố, doanh nghiệp. Tỉnh uỷ (đại diện các sở,
ban, ngành, đoàn thể của Tỉnh uỷ).
- Phương pháp:
Phiếu điều tra được Ban chủ nhiệm đề tài gặp trực tiếp và hướng dẫn cụ thể
những cá nhân được lấy ý kiến để trả lời câu hỏi được nêu ra trong phiếu. Phương
pháp này đảm bảo tính khách quan trong điều tra.
II. Kết quả khảo sát
Câu 1: Đƣờng lối, chủ trƣong của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nƣớc đã ban hành đƣợc thực hiện thế nào ở địa phƣơng, cơ sở nơi ông (bà)
sinh sống?
TT Phân loại mức độ thực hiện Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Tốt 111 41,9
2 Khá 114 43,02
3 Trung bình 33 12,45
4 Yếu 1 0,37
5 Kém
Câu 2: Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc
về công tác dân vận đã ban hành đƣợc ông (bà) biết qua các kênh nào?
TT Phân loại mức độ thực hiện Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Sách, báo, tạp chí 180 67,92
2 Đài phát thanh, truyền hình 217 81,88
3 Được học tập 191 72,0
4 Cán bộ tuyên truyền 126 47,54
5 Tự nghiên cứu 113 42,64
234
Câu 3: Trong thời gian qua công tác dân vận có đƣợc các cấp uỷ đảng, chính
quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị- xã hội địa phƣơng, cơ sở nơi ông
(bà) cƣ trú quan tâm?
TT Phân loại mức độ quan tâm Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Rất quan tâm 183 69,05
2 Ít quan tâm 66 24,90
3 Không quan tâm 1 0,37
Câu 4: Bí thƣ chi bộ nơi ông (bà) sinh sống có tiếp xúc và đối thoại về những
vấn đề nhân dân quan tâm không?
TT Mức độ tiếp xúc Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Có tiếp xúc 194 73,20
2 Ít tiếp xúc 54 20,37
3 Không tiếp xúc 8 3.01
Câu 5: Theo ông (bà) thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ cơ sở hiện nay
thế nào?
TT Sự thể hiện Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Tôn trọng 185 69,81
2 Không tôn trọng 38 14,33
3 Quan liêu, mệnh lệnh 24 9,05
Câu 6: Ở địa phƣơng ông (bà) đã ban hành quy chế tiếp xúc đối thoại ngƣời
đứng đầu cấp chính quyền với nhân dân chƣa?
TT Kết quả Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Đã ban hành 155 58,49
2 Chưa ban hành 79 29,81
3 Không biết 26 9,81
Câu 7: Khi thực hiện quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp giữa ngƣời đứng đầu
cấp chính quyền với nhân dân, theo ông (bà) định kỳ thời gian nhƣ thế nào thì
hợp lý nhất?
TT Định kỳ thời gian Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 1 tháng tiêp xúc, đối thoại 1 lần 96 36,22
2 3 tháng tiêp xúc, đối thoại 1 lần 101 38,11
3 6 tháng tiêp xúc, đối thoại 1 lần 52 19,62
235
Câu 8: Việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất ở địa phƣơng chính quyền có
công khai cho nhân dân đƣợc biết không ?
TT Sự minh bạch Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Có công khai 181 63,30
2 Không công khai 51 19,24
Câu 9: Các khoản đóng góp cho địa phƣơng trƣớc khi thu có đƣa ra lấy ý kiến
nhân dân không?
TT Mức độ đánh giá Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Có lấy ý kiên 188 70,94
2 Không lấy ý kiên 57 21,50
3 Không biết 8 3,01
Câu 10: Lòng tin của ông (bà) đối với cấp chính quyền hiện nay thế nào?
TT Mức độ lòng tin Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Rất tin tưởng 149 56,22
2 Ít tin tưởng 95 35,84
3 Không tin tưởng 6 2,26
Câu 11: Lòng tin của ông (bà) đối với cấp uỷ đảng hiện nay thế nào?
TT Mức độ lòng tin Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Rất tin tưởng 188 67,92
2 Ít tin tưởng 65 24,52
3 Không tin tưởng 2 0,75
Câu 12: Theo ông (bà) uy tín của Đảng hiện nay thế nào?
TT Mức độ uy tín Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Tăng 88 33,20
2 Giảm sút 141 53,20
3 Giảm sút nghiêm trọng 21 7,92
Câu 13. Theo ông (bà) tiêu chí để đánh giá khách quan mối quan hệ giữa Đảng
với nhân dân hiện nay nên thế nào ?
TT Tiêu chí để đánh giá Ý kiến đồng ý Tỷ lệ %
1 Phát huy dân chủ 184 69,43
2 Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên 182 68,67
3 Gắn chặt nghĩa vụ và quyền lợi của người
dân
148 55,84
4 Tôn trọng ý kiến đóng góp xây dựng Đảng
của người dân
169 63,77
236
Câu 14. Một số thông tin cá nhân của đối tƣợng điều tra
TT Thông tin chung Thông tin chi tiết Số lƣợng Tỷ lệ %
1 Giới tính Nam 179 67,54
Nữ 80 30,18
Dưới 30 11 4,15
2 Độ tuổi 31 đến 50 83 31,32
51 đến 60 73 27,54
Trên 61 91 34,33
Tiểu học 3 1,13
3 Trình độ học vấn THCS 27 10,18
THPT 172 64,90
4 Trình độ chuyên môn Cử nhân 110 41,50
Thạc sĩ 13 4,90
Tiến sĩ
5 Trình độ chính trị Sơ cấp 41 15,47
Trung cấp 104 39,24
Cao cấp 62 23,39
6 Đảng viên ĐCSVN 203 76,60
7 Đoàn viên ĐTNCSHCM 31 11,69
8 Hội viên đoàn thê nhân dân 74 27,92
9 Dân tộc Kinh 265 100,00
Nguồn: Ban Dân vận Trung ương
237
PHỤ LỤC 6
BÁO CÁO
Kết quả khảo sát mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nƣớc
và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
I. Phạm vi, đối tƣợng và số lƣợng khảo sát
Phạm vi tiến hành khảo sát đối với 11 huyện, thị xã Long Khánh, thành phố
Biên Hòa, Liên đoàn lao động tỉnh và tỉnh đoàn Đồng Nai.
Tổng số phiếu hỏi phát ra 1.000 phiếu, được phân bổ cho Liên đoàn lao động
tỉnh 100 phiếu, Tỉnh đoàn 100 phiếu, Biên Hòa 100 phiếu, các huyện, thị xã Long
Khánh, mỗi đơn vị 70 phiếu.
Tổng số phiếu thu vào 1.043 phiếu (trong đó Biên Hòa 103 phiếu, Long Khánh
138 phiếu, Vĩnh Cửu, Long Thành, Thống Nhất, Định Quán, Trảng Bom, Cầm Mỹ
(mỗi đơn vị 70 phiếu), Nhơn Trạch,Tân Phú (mỗi đơn vị 69 phiếu), Xuân Lộc 49
phiếu, Liên đoàn lao động 100 phiếu, Tỉnh đoàn 95 phiếu).
Đối tượng lấy ý kiến khảo sát là người dân trên địa bàn, bao gồm các thành phần
xã hội như: đảng viên, trí thức, tiểu thương, nông dân, doanh nhân, tôn giáo, dân tộc
ít người, đoàn viên công đoàn, đoàn viên thanh niên...
II. Kết quả khảo sát
Câu 1: Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nƣớc đã ban hành đƣợc thực hiện thế nào ở địa phƣơng, cơ sở nơi ông (bà)
sinh sống? (có 1.026/1.043 ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Tốt 696/1.026 67,83%
Khá 253/1.026 24,65%
Trung bình 68/1.026 6,62%
Yếu 9/1.026 0,9%
Kém 0 0
Câu 2: Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng đã ban hành đƣợc ông (bà) biết qua
các kênh nào?
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Đài phát thanh, truyền hình 661 63,37%
Được học tập 535 51,29%
Sách, báo, tạp chí 487 46,7%
Cán bộ tuyên truyền 476 45,63%
Tự nghiên cứu 187 17,92%
238
Câu 3: Trong thời gian qua, công tác Dân vận có đƣợc các cấp ủy Đảng,
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội địa phƣơng, cơ sở nơi
ông (bà) cƣ trú quan tâm? (có 1.033/1.043 ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Rất quan tâm 876/1.033 84,81%
Ít quan tâm 153/1.033 14,81%
Khồng quan tâm 4/1.033 0,38%
Câu 4: Bí thƣ chi bộ nơi ông (bà) sinh sống có tiếp xúc và đối thoại về
những vấn đề nhân dân quan tâm không? (có 1.043 ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Có tiếp xúc 819/1.043 78,52%
Ít tiếp xúc 212/1.043 20,32%
Không tiếp xúc 12/1.043 1,15%
Câu 5: Theo ông (bà) thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ cơ sở hiện nay
thế nào? (có 1.027/1.043 ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Tôn trọng 915/1.027 89,1%
Không tôn trọng 75/1.027 7,30%
Quan liêu, mệnh lệnh 37/1.027 3,60%
Câu 6: Ở địa phƣơng ông (bà) đã ban hành quy chế tiếp xúc đối thoại trực
tiếp giữa ngƣời đứng đầu cấp chính quyền với nhân dân chƣa? (có 1.014/1.043
ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Đã ban hành 746/1.014 73,57%
Chưa ban hành 156/1.014 15,39%
Không biết 112/1.014 11,04%
Câu 7: Khi thực hiện quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp giữa ngƣời đứng
đầu cấp chính quyền với nhân dân, theo ông (bà) định kỳ thời gian nhƣ thế nào
thì hợp lý nhất? (có 991/1.043 ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
1 tháng tiếp xúc, đối thoại một lần 369/991 37,23%
3 tháng tiếp xúc, đối thoại một lần 458/991 46,21%
6 tháng tiếp xúc, đối thoại một lần 164/991 16,56%
Câu 8: Việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất ở địa phƣong, chính quyền có
công khai cho nhân dân biết không? (có 1.015/1.043 ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Có công khai 921/1.015 90,73%
Không cồng khai 94/1.015 9,27%
239
Câu 9: Các khoản đóng góp cho địa phƣơng trƣớc khi thu có đƣa ra lấy ý kiến
nhân dân không? (có 1.026/1.043 ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Có lấy ý kiến 853/1.026 83,2%
Không lấy ý kiến 115/1.026 11,2%
Không biết 58/1.026 5,6%
Câu 10: Lòng tin của ông (bà) đối với cấp chính quyền hiện nay thế nào? (có
1.017/1.043 ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Rất tin tưởng 824/1.017 81%
Ít tin tưởng 186/1.017 18,3%
Không tin tưởng 7/17/1.017 0,7%
Câu 11: Lòng tin của ông (bà) đối với cấp ủy đảng hiện nay thế nào? (có
985/1.043 ý kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Rất tin tưởng 847/985 86%
Ít tin tưởng 135/985 13,7%
Không tin tưởng 3/985 0,3%
Câu 12: Theo ông (bà) uy tín của Đảng hiện nay thế nào? (có 1.005/1.043 ý
kiến trả lời)
Nội dung Ý kiến Tỷ lệ
Tăng 784/1.005 78%
Giảm sút 207/1.005 20,6%
Giảm sút nghiêm trọng 14/1.005 1,4%
Câu 13: Theo ông (bà) tiêu chí để đánh giá khách quan mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân hiện nay nhƣ thế nào?
Nội dung Ý kiến
Phát huy dân chủ 611
Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên 400
Tôn trọng ý kiến đóng góp xây dựng Đảng của người dân 388
Gắn chặt nghĩa vụ và quyền lợi của người dân 316
Câu 14: Một số thông tin cá nhân của đối tƣợng điều tra
Giới tính Số phiếu Tỷ lệ
Nam 608/1.043 58,29%
Nữ 376/1.043 36,04%
Không trả lời 59/1.043 5,6%
240
Độ tuổi Số phiếu Tỷ lệ
Dưới 30 tuổi 192/1.043 18,40%
Từ 31 đến 50 tuổi 422/1.043 40,46%
Từ 51 đến 60 tuổi 244/1.043 23,39%
Trên 61 tuổi 98/1.043 9,39%
Không trả lời 87/1.043 8,34%
Nội dung Số phiếu Tỷ lệ
Đảng viên 352/1.043 33,74%
Đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh 191/1.043 18,31%
Hội viên đoàn thể nhân dân 294/1.043 28,2%
Không xác định 206/1.043 19,75%
Học vấn, chuyên môn, chính trị Số phiếu
Trình độ học vấn: Tiểu học (cấp 1) 30/1.043
Trình độ học vấn: THCS (cấp 2) 200/1.043
Trình độ học vấn: THPT (cấp 3) 600/1.043
Trình độ chuyên môn: Cử nhân 213/1.043
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ 12/1.043
Trình độ chuyên môn: Tiến sĩ 0
Trình độ lý luận sơ cấp 222/1.043
Trình độ lý luận trung cấp 179/1.043
Trình độ lý luận cử nhân, cao cấp 49/1.043
Về thành phần dân tộc: 87 người (trong đó Hoa 32, Chơro 21, Tày 16, Khơ
me 07, Nùng 03, Thái 02, Chăm 01, Mán 01, S’tiêng 01, Thổ 01, Sán Dìu 01).
Về thành phần tôn giáo: 230 người (trong đó Công giáo 113, Phật giáo 111,
Cao Đài 06).
Nguồn: Ban Dân vận Trung ương
241
PHỤ LỤC 7
BẢNG TỔNG HỢP
Đánh giá niềm tin của nhân dân đối với Đảng qua báo cáo các tỉnh, thành uỷ
- Số tỉnh, thành uỷ gửi báo cáo: 59/63
- Số tỉnh, thành uỷ không gửi báo cáo: 4/63 (Bình Dương, Sóc Trăng, Khánh
Hòa, Ninh Thuận).
- Số tỉnh, thành uỷ đánh giá mối quan hệ Đảng - Dân: 47/59
- Số tỉnh, thành uỷ không đánh giá: 12/59.
Kết quả
I. NIỀM TIN
1. Tin tƣởng: Đại bộ phận nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng:
16/59 (27,1%) (Tỉnh Gia Lai, Hưng Yên, Thừa Thiên Huế, Tiền Giang, Lâm Đồng,
Cà Mau, Tuyên Quang, Sơn La, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bạc Liêu, Thái Nguyên, Đà
Nẵng, Cao Bằng, Hải Phòng, Hà Nội).
2. Niềm tin chƣa vững chắc: 2/59 (3,38%) (Quảng Bình, Bình Định)
3. Suy giảm lòng tin: 11/59 (18,64%) (Nam Định, Hậu Giang, Bắc Giang,
Lâm Đồng, Lạng Sơn, Đắk Nông, Tiền Giang, Kiên Giang, Bình Phước, Hà Nội,
Hải Phòng)
4. Hoài nghi, thiếu tin tƣởng: 1/59 (1,69%) (Nghệ An)
5. Niềm tin bị ảnh hƣởng: 1/59 (1,69%) (Điện Biên)
6. Không tin tƣởng: 0 (0%)
II. MỐI QUAN HỆ ĐẢNG - DÂN
1. Mối quan hệ Đảng - Dân tiếp tục được củng cố, tăng cường: 17/59 (28,8%)
(Tuyên Quang, Vĩnh Long, Quảng Nghãi, Lạng Sơn, Ninh Bình, Kiên Giang, Long
An, Quảng Bình, Vĩnh Phúc, Đắk Lăk, Bình Thuận, Lào Cai, TP. Hồ Chí Minh,
Nam Định, Quảng trị, Cần Thơ, Lai Châu, Quảng Ninh).
2. Mối quan hệ Đảng - Dân bị ảnh hưỏng: 3/59 (5,08%) (tỉnh Bà Rịa- Vũng
Tàu, Quảng Trị, Trà Vinh).
III. TÂM TRẠNG NHÂN DÂN
1. Bất bình: 2/59 (3,38%) (An Giang, Hà Nội).
2. Bức xúc: 6/59 (10,16%) (Bình Thuận, Điện Biên, Hưng Yên, Hải Dương,
Bạc Liêu, Hà Nội).
3. Băn khoăn, lo lắng: 6/59 (10,16%) (Thừa Thiên Huế, Hưng Yên, Hậu
Giang, Kon Tum, Thái Nguyên, Bình Định).
VII. KHÔNG ĐÁNH GIÁ
- Không đánh giá: 12/59 (20,33%) (Bắc Ninh, Bến Tre, Đồng Tháp, Hà Nam,
Hoà Bình, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Nam, Đồng Nai, Tây Ninh, Thái Bình, Thanh
Hoá)
Nguồn: Ban Dân vận Trung ương
242
PHỤ LỤC 8
Tỷ lệ số ngƣời coi các vấn nạn dƣới đây
là các vấn nạn bức xúc nhất trong năm 2011
1. Nạn tham nhũng 75%
2. Giá cả, lạm phát tăng cao 65%
3. Nạn cờ bạc, trộm cướp, xã hội đen 59%
4. Sự ô nhiễm môi trường sinh thái 57%
5. Vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm 55%
6. Vấn đề an toàn giao thông 53%
7. Vấn đề cải cách tiền lương 50%
8. Nạn ma tuý 49%
9. Hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy tội 49%
10. Những tiêu cực trong y tế 48%
11. Thiên tai, lũ lụt 46%
12. Thất nghiệp, thiếu việc làm 46%
13. Những yếu kém trong giáo dục - đào tạo 43%
14. Các tội phạm về kinh tế 42%
15. Sự gia tăng của các loại dịch bệnh 42%
16. Tình trạng lãng phí của công 42%
17. Tình trạng đầu tư kém hiệu quả 42%
18. Nạn mại dâm 41%
19. Sự phát triển của HIV - AIDS 40%
20. Tác động của các thủ đoạn “diễn biến hoà bình” 38%
21. Thất thoát, tiêu cực trong đầu tư, xây dựng cơ bản 38%
22. Tình trạng tụt hậu, suy thoái về kinh tế 37%
23. Tệ quan liêu, mất dân chủ 37%
25. Tình trạng yếu kém, tiêu cực trong các tổng công ty, tập đoàn kinh tế
nhà nước
36%
26. Lối sống cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng 35%
27. Bộ máy NN cồng kềnh, chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm 35%
28. Lợi dụng dân chủ, tôn giáo, nhân quyền gây mất trật tự XH 32%
29. Tệ mê tín, dị đoan 30%
30. Tình trạng mất cân đối về cơ cấu dân số 29%
31. Vấn đề khiếu kiện, tố cáo của công dân 28%
32. Sản phẩm, dịch vụ VH chất lượng thấp, khiêu dâm, đồi trụy 28%
33. Hiện tượng phát tán tài liệu xấu, tuyên truyền các quan điểm sai trái;
xuyên tạc, bôi nhọ chế độ
26%
34. Tình trạng phai nhạt lý tưởng cách mạng, lý tưởng XHCN 24%
35. Những yếu kém trong điều hành kinh tế của Chính phủ 23%
36. Tình trạng chệch hướng xã hội chủ nghĩa 19%
Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương.
243
PHỤ LỤC 9
TỔNG HỢP SỐ LIỆU ĐÌNH CÔNG
TỪ NĂM 1995 ĐẾN THÁNG 7 NĂM 2012
Năm Số vụ
đình
công
Doanh nghiệp
Nhà nƣớc
Doanh nghiệp có
vốn ĐTNN
Doanh nghiệp
dân doanh
Số vụ % Số vụ % Số vụ %
1995 60 11 18,3 28 46,7 21 35
1996 59 6 10,2 39 66,1 14 13,7
1997 59 10 16,9 35 59,4 14 23,7
1998 62 11 17,7 30 48,4 21 33,8
1999 67 4 6 42 62,7 21 31,3
2000 71 15 21,1 39 54,9 17 23,9
2001 89 9 10,1 54 60,7 26 29,9
2002 100 5 5 66 66 29 29
2003 139 3 2,2 101 72,7 35 25,1
2004 125 2 1,6 93 74,4 30 24
2005 147 8 5,5 100 68 39 26,5
2006 387 4 1 287 74,2 96 24,8
2007 541 1 0,2 405 74,9 135 25,0
2008 762 0 0,0 592 77,7 170 22,3
2009 310 4 1,3 239 77,1 67 21,6
2010 424 1 0,2 339 80,0 84 19,8
2011 981 3 0,3 734 74,7 244 24,9
T7/2012 450 0 0 354 78,7 96 24,0
Tổng số 4.833 97 2,0 3.577 74,0 1.159 24,0
Nguồn: Ban Chính sách - pháp luật, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
244
PHỤ LỤC 10
TỔNG SỐ VỤ THAM NHŨNG TỪ NĂM 2007 ĐẾN 2012
Năm Số vụ đƣợc
giải quyết
Bị can Tỷ lệ % số vụ đƣợc
giải quyết
Thiệt hại (tỷ đồng)
2007 427 960 100% 865
2008 282 622 “ 882
2009 289 631 “
2010 228 437 “ 760 tỷ & 630.000 USD
2011 232 501 “ 10.430
2012 267 574 “
Tổng 1.725 3.725 100% 12.877 tỷ & 630.000
USD
Nguồn: Ban Dân vận Trung ương.
245
PHỤ LỤC 11
TỶ LỆ HỘ NGHÈO (Đơn vị tính: %)
Phân theo thành thị,
nông thôn, vùng
Năm
2004
Năm
2006
Năm
2008
Năm
2010
Năm
2011
Cả nước 18,1 15,5 13,4 14,2 12,6
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị 8,6 7,7 6,7 6,9 5,1
Nông thôn 21,2 18,0 16,1 17,4 15,9
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng 12,7 10,0 8,6 8,3 7,1
Trung du và miền núi phía Bắc 29,4 27,5 25,1 29,4 26,7
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung
25,3 22,2 19,2 20,4 18,5
Tây Nguyên 29,2 24,0 21,0 22,2 20,3
Đông Nam Bộ 4,6 3,1 2,5 2,3 1,7
Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13,0 11,4 12,6 11,6
Nguồn: Ban Dân vận Trung ương.
246
PHỤ LỤC 12
Kết quả giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo từ năm 2009 đến năm 2012
----------
Năm
Đơn khiếu nại Đơn tố cáo
Nhận đơn Kết quả giải quyết Nhận đơn Kết quả giải quyết
Tổng
số đơn
nhận
(vụ)
Tăng,
giảm so
với
cùng kỳ
(%)
Số
đơn
thuộc
thẩm
quyền
giải
quyết
Số đơn
đã giải quyết Tổng
số
đơn
nhận
(vụ)
Tăng,
giảm so
với
cùng
kỳ (%)
Số
đơn
thuộc
thẩm
quyền
giải
quyết
Số đơn đã giải
quyết
Tổng
số Tỷ lệ
Tổng
số Tỷ lệ
2009 105.219 65.981 55.403 83,96% 20.399 10.817 8.676 80,20%
2010 125.778 tăng
11,9% 62.810 60.553 96,40% 22.281
tăng
10,9% 11.456 9.487 82,81%
2011 114.458 giảm
9,1% 96.999 53.255 54,90% 20.590
giảm
9,2% 17.428 7.573 43,45%
2012 106.360 54.927 46.568 20.464 9.223 8.218
Nguồn: Ban Dân vận Trung ương.
247
PHỤ LỤC 13
Số liệu tập hợp đoàn viên, hội viên của các đoàn thể chính trị - xã hội (tính đến 31/12/2012)
Năm
Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam
Hội Nông dân Việt Nam Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam
Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh
Hội Cựu chiến binh
Việt Nam
Tổng số Tỷ lệ
tập hợp
Tổng số Tỷ lệ
tập hợp
Tổng số Tỷ lệ
tập hợp
Tổng số Tỷ lệ
tập hợp
Tổng số Tỷ lệ
tập hợp
1990 9.660.834 ≈ 74% 10.058.023 69,01% 2.500.000 63%
2000 3.761.834 7.386.519 ≈ 63% 11.633.144 69,59% 3.812.241 62% 1.622.589 79%
2010 7.168.492 10.073.591 ≈ 84% 14.746.036 71,44% 6.660.214 61% 2.545.431 90,74%
2011 7.536.901 10.266.311 ≈ 87% 15.342.302 72,73% 6.715.427 58% 2.616.555 90,76%
2012 7.012.389 10.368.347 ≈ 88% 15.967.000 72,91% 7.036.834 60% 2.698.732 90,78%
Số liệu tổ chức đoàn, hội cấp cơ sở (xã, phƣờng, thị trấn) của các đoàn thể chính trị - xã hội năm 2011
Năm Tổng Liên đoàn
lao động Việt Nam
Hội Nông dân
Việt Nam
Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam
Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh
Hội Cựu chiến binh
Việt Nam
2011 11.140.200 10.529 111.112 36.600 16.722
2012 11.163.906 10.529 111.112 36.600 16.731
Số liệu các hội quần chúng
TT Lĩnh vực hoạt động Số lƣợng hội TT Lĩnh vực hoạt động Số lƣợng hội
1 Giao thông, xây dựng 36 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 30
2 Công nghiệp, thương mại và đầu tư 84 Tài chính, ngân hàng 13
3 Giáo dục và đào tạo 10 Thông tin, truyền thông 08
4 Khoa học và Công nghệ 51 Văn hoá, thể thao và du lịch 55
5 Ngoại giao, hữu nghị 57 Xã hội, từ thiện và nhân đạo 16
6 Nội chính, tư pháp 06 Y tế 63
Tổng số: 429 hội
Nguồn: Ban Dân vận Trung ương
248
PHỤ LỤC 14
MỨC SỐNG DÂN CƢ ۩ Tỷ lệ hộ nghèo (ĐVT %)
Phân theo thành thị, nông thôn,vùng Năm
2004 2006 2008 2010 2011
Cả nƣớc 18,1 15,5 13,4 14,2 12,6
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị 8,6 7,7 6,7 6,9 5,1
Nông thôn 21,2 18,0 16,1 17,4 15,9
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng 12,7 10,0 8,6 8,3 7,1
Trung du và miền núi phía Bắc 29,4 27,5 25,1 29,4 26,7
Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung 25,3 22,2 19,2 20,4 18,5
Tây Nguyên 29,2 24,0 21,0 22,2 20,3
Đông Nam Bộ 4,6 3,1 2,5 2,3 1,7
Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13,0 11,4 12,6 11,6
۩ Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động khu vực Nhà nƣớc
do địa phƣơng quản lý theo giá thực tế phân theo vùng (nghìn đồng)
Phân theo vùng Năm
2005 2008 2009 2010 2011
Cả nƣớc 1297,1 2159,0 2592,9 3048,4 3457,8
Đồng bằng sông Hồng 1206,7 2013,5 2668,6 3041,2 3292,3
Trung du và miền núi phía Bắc 1195,3 2109,4 2673,0 2990,7 3326,1
Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung 1238,9 2078,9 2440,8 2901,6 3282,0
Tây Nguyên 1245,5 2169,1 2594,7 3069,6 3516,6
Đông Nam Bộ 1696,3 2573,9 2858,7 3426,9 4033,4
Đồng bằng sông Cửu Long 1257,8 2118,0 2478,4 2945,9 3403,9
Nguồn: Ban Dân vận Trung ương
249
PHỤ LỤC 15
TỔNG HỢP MỘT SỐ SỐ LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH HÌNH NHÂN DÂN
TT Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
1. Tổng số hộ nghèo Hộ 3.055.5651 2.580.885
Tỷ lệ hộ nghèo % 15,47% 14,8% 13,4% 12,3% 14,2% 11,76% 10%
2. Số vụ đình công của công nhân,
người lao động trong các doanh nghiệp
Vụ 310 424 978
3. Số doanh nghiệp tạm dừng hoạt
động và giải thể/số doanh nghiệp
mới thành lập
7.611/
77.548
48.473/
65.091
4. Số vụ tai nạn giao thông Vụ 13.300
(giảm
1,9%)
13.300
(tăng
0,48%)
11.500 (giảm
13,3%)
11.100
(giảm 3,7%)
12.600
(tăng
13,4%)
12.100
(giảm
2,9%)
10.081
(giảm
28,1%)
Số người chết do tai nạn giao thông Người 11.500
(tăng 9%)
11.900
(tăng
3,85%)
10.400 (giảm
12,7%)
10.400
(giảm 0,1%)
10.400
(tăng
3,85%)
10.100
(giảm
2,5%)
9.838
(giảm
14,1%)
5. Số vụ tai nạn lao động Vụ 5881 5951 5836 6250 5125 5896
Số người chết do tai nạn lao động Người 536 621 573 550 601 574
6. Số người nghiện ma tuý Người 146.731 186.636
7. Tình hình nhiễm
HIV/AIDS
Số người
nhiễm HIV
Người 115.800 138.700 178.300 203.600 231.200 248.600
Chuyển sang
giai đoạn AIDS
Người 20.000 28.800 71.000 80.000 91.900 100.800
Số người chết Người 11.700 16.000 41.600 44.500 48.900 52.000
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội.
1 Từ 2010, hộ nghèo tính theo chuẩn mới nên có sự thay đổi về số liệu