khÓa bÀi gi ng v t nhÂn h c - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/tai lieu khoa...

42
TRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HC XÃ HI VÀ NHÂN VĂN-ĐHQGHN BMÔN NHÂN HC KHÓA BÀI GING VLÝ THUYT NHÂN HC Nhân hc biu tượng và các tiếp cn lý thuyết trong nghiên cu biu tượng Ging viên: TS. Đinh Hng Hi TS. Đinh Hng Hi công tác ti Vin Nghiên cu Văn hóa (VASS), Visiting Fellow ti Đại hc Harvard, Hoa Knăm 2008-2010. Các lĩnh vc quan tâm gm: Nhân hc văn hoá, nghthut hc, nghiên cu biu tượng, biến đổi văn hoá & tôn giáo.

Upload: lytuyen

Post on 01-Apr-2018

217 views

Category:

Documents


2 download

TRANSCRIPT

Page 1: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN-ĐHQGHN

BỘ MÔN NHÂN HỌC

KHÓA BÀI GIẢNG VỀ LÝ THUYẾT NHÂN HỌC

Nhân học biểu tượng và các tiếp cận lý thuyết trong nghiên cứu biểu tượng

Giảng viên: TS. Đinh Hồng Hải

TS. Đinh Hồng Hải công tác tại Viện Nghiên cứu Văn hóa (VASS), Visiting

Fellow tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ năm 2008-2010. Các lĩnh vực quan tâm

gồm: Nhân học văn hoá, nghệ thuật học, nghiên cứu biểu tượng, biến đổi văn

hoá & tôn giáo.

Page 2: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

2

I. Đề cương khóa học

Khóa bài giảng về lý thuyết nhân học giới thiệu về nghiên cứu biểu tượng và các

tiếp cận lý thuyết trong trong nghiên cứu biểu tượng. Khóa học được tổ chức thành các

seminar. Các bạn sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và những ai quan tâm đến

khóa học này xin đăng ký với Bộ môn Nhân học.

16h30-19h00 thứ Tư, 5/12, Phòng 203 Nhà G:

Seminar 1: Biểu tượng là gì?

1. Định nghĩa

2. Biểu tượng trong đời sống con người

16h30-19h00 thứ Năm, 6/12, Phòng 203 Nhà G:

Seminar 2: Các hướng nghiên cứu biểu tượng

1. Ngôn ngữ học

2. Ký hiệu học

3. Nhân học biểu tượng

16h30-19h00 thứ Hai, 10/12, Phòng 203 Nhà G:

Seminar 3: Nhân học biểu tượng

1. Các định nghĩa trong nhân học về biểu tượng

2. Các nhà lý thuyết tiêu biểu

3. Những vấn đền cơ bản của nhân học biểu tượng

16h00-19h00 thứ Ba, 11/12, Phòng 203 Nhà G:

Seminar 4: Các tiếp cận lý thuyết trong nghiên cứu biểu tượng

1. Một số quan điểm lý thuyết nổi bật

2. Nghiên cứu biểu tượng: Phương pháp tiếp cận và tiếp cận phương pháp

3. Vai trò và vị trí của nhân học biểu tượng

16h:00-19h00 thứ Tư, 12/12, Phòng 203 Nhà G:

Seminar 5: Các tiếp cận lý thuyết trong nghiên cứu biểu tượng (tiếp theo)

Page 3: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

3

II. Một số gợi ý về nội dung chính của khóa học

Tiếp cận nhân học biểu tượng

• Thuật ngữ, lý thuyết nhân học biểu tượng

• Một số nhà lý thuyết hàng đầu về nhân học biểu tượng

• Nghiên cứu nhân học biểu tượng ở Việt Nam

Đối tượng của nhân học biểu tượng

(Myth, Ritual, and Symbolism)

• Metaphor and Other Figurative Language (Ẩn dụ và biểu hiện khác của ngôn ngữ)

• The Raw Materials of Symbolism, especially Animals and The Human Body (Chất

liệu thô của biểu tượng luận, đặc biệt là động vật và cơ thể con người)

• Cosmology and Complex Symbolic Systems (Vũ trụ luận và hệ thống biểu tượng

phức hợp)

• Ritual, including Symbolic Curing and Magic (Nghi lễ, bao gồm cả điều trị và ma

thuật mang tính biểu tượng)

• Narrative and Life (Miêu thuật và đời sống)

• Mythology (Thần thoại học)

Các định nghĩa nhân học biểu tượng

• Theo Jonathan Spencer trong Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology

(Bách khoa thư nhân học văn hoá và xã hội) thì: “Nhân học biểu tượng đề cập đến

văn hoá như một thực thể có tính độc lập tương đối, là một hệ thống ý nghĩa mà

qua đó các nhà nhân học muốn tạo ra để làm giải mã và diễn dịch các biểu

tượng và các nghi lễ trọng tâm”.

• Trong Encyclopedia of Cultural anthropology (Bách khoa thư nhân học văn hoá),

Mary Des Chene định nghĩa rằng: “Nhân học biểu tượng là khoa học nghiên cứu

ý nghĩa trong đời sống xã hội loài người, bằng cách nào chúng ta tri nhận và

diễn giải những gì diễn ra xung quanh và bằng cách nào chúng ta sáng tạo và sẽ

chia với thế giới hoặc hệ thống ý nghĩa văn hoá. Nhân học biểu tượng tiếp cận

với một góc nhìn rộng lớn về các biểu tượng, biểu tượng hoá, sự vật và ý nghĩa

mà con người đặt cho với ý nghĩa, sự nhận biết, quá trình giao tiếp...”.

• Trong Folklore: An encyclopedia of beliefs, customs, tales, music, and art (Văn hoá

dân gian: Bách khoa thư về các tín ngưỡng, phong tục, chuyện kể, âm nhạc và nghệ

thuật) Edith Turner đã định nghĩa như sau: “Nhân học biểu tượng là khoa học

nghiên cứu về các biểu hiện tự nhiên của các biểu tượng được sử dụng ở các nền

văn hoá khác nhau, các nghi lễ, trình diễn, và trong đời sống hàng ngày nơi mà ý

Page 4: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

4

nghĩa đầy đủ có nhiều hơn các biểu hiện thành văn. Mỗi biểu tượng có hai

thành phần - là những thực thể nhìn thấy và phần còn lại là ý nghĩa biểu hiện

của nó. Nhân học biểu tượng diễn giải các biểu tượng trong ngữ cảnh của tiến

trình xã hội và đời sống văn hoá.”

III. Danh mục học liệu

Tiếng Việt

1) Từ Chi 1996, Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nhà xuất bản Văn hoá thông

tin.

2) Đinh Hồng Hải 2012, Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt

Nam – tập 1, Nhà xuất bản Tri thức.

3) Đinh Hồng Hải 2011, Giáo trình nghiên cứu biểu tượng, tài liệu giảng dạy dành cho

khối ngành nhân học và nghiên cứu văn hoá.

4) Đinh Hồng Hải 2011 (biên dịch), Nghiên cứu biểu tượng: Một số hướng tiếp cận

đương đại, tuyển chọn một số nghiên cứu tiêu biểu trên thế giới (bản thảo tiếng Việt).

5) Đinh Hồng Hải 2010, Nghiên cứu văn hoá bằng phương pháp luận nhân học biểu

tượng, trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Nghiên cứu và đào tạo nhân học ở Việt Nam

trong quá trình chuyển đổi và hội nhập quốc tế, 2010, tr 229-246.

6) Đinh Hồng Hải 2010, Ngôn ngữ biểu tượng trong văn hóa Cơtu (Symbolic Language

in Katu Culture), Báo cáo hoàn thành chương trình trao đổi Nghiên cứu sinh tại Đại

học Harvard, Hoa Kỳ (2008-2010).

7) Đinh Hồng Hải 2007, Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề tiếp cận nhân học biểu tượng ở

Việt Nam, trong Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Dân tộc học, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội, tr 395-425.

8) Lương Văn Hy, Đinh Hồng Hải, Tiếp cận nhân học trong nghiên cứu văn hóa: Nền

tảng lý thuyết và thực tiễn của Việt Nam, Đề cương bài giảng lý thuyết nhân học dành

cho giảng viên ĐH Văn hóa Hà Nội, tháng 4/2011.

9) Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Những vấn đề nhân học tôn giáo, t/c Xưa và Nay –

Nxb. Đà Nẵng xuất bản 2006.

10) Nhiều tác giả, Ngôn ngữ, văn hóa & xã hội: Một cách tiếp cận liên ngành, Nxb Thế

giới 2006.

11) James Robson, Đinh Hồng Hải, Một số quan điểm về nghiên cứu tôn giáo: So sánh

hướng tiếp cận lịch sử và nhân học qua một số biểu tượng Phật giáo, Đề cương bài

giảng tại Viện Dân tộc học và BTDTHVN.

Page 5: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

5

12) Thích Đồng Thành, Đinh Hồng Hải, Nghiên cứu biểu tượng từ văn bản đến hiện thực

xã hội: Một góc nhìn đối sánh qua các biểu tượng Phật giáo, đề cương thuyết trình tại

Viện Văn học, Viện KHXHVN.

Tiếng Anh:

1) Raymon Firth, Symbols: Public and private, London, George Allen & Unwin Ltd.

1973.

2) Clifford Geertz, The Interpretation of Cultures, New York: Basic Books, Inc. 1973.

3) Clifford Geertz, Myth, Symbol, and Culture, New York: W.W. Norton and Company,

Inc. 1974.

4) Alfred Gell 1998, Art and Agency: An Anthropological Theory. Oxford University

Press.

5) Dinh Hong Hai, Maitreya Image in Asian Buddhist Fine Arts, Harvard-Yenching

Working papers Series 2009, USA.

6) Dinh Hong Hai, The Role of the Silk Road on the Development of Mahayana Buddhist

Arts, Astha Bharati Magazine, Q2, 2010, India.

7) Levi-Strauss, C., Structural Anthropology, Basic Books 1963.

8) Levi-Strauss, C. , Myth and Meaning, Routledge book 2001.

9) David Schneider, Kemnitzer, and Janet Dolgin, Symbolic Anthropology: A Reader in

the Study of Symbols and Meanings, Columbia University Press 1977.

10) Victor Turner, The Forest of Symbols: Aspects of Ndembu Ritual, Ithaca and London:

Cornell University Press 1967.

11) Victor Turner, Dramas, fields and metaphors: Symbolic action in Human society,

Cornell University Press 1974.

12) Gabor Vargyas, Soldier’s dog-tag in a shamanic headdress: A semiotic guerilla

warfare? International conference in Binh Chau, Vietnam 2007.

Page 6: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

6

IV. Trích đoạn một số học liệu

NHÂN HỌC BIỂU TƯỢNG VÀ NHÂN HỌC THN GIÁC

Nhân học biểu tượng (symbolic anthropology) và nhân học thị giác (visual anthropology) là những lĩnh vực nghiên cứu đã ra đời trong nền khoa học của thế giới từ cách đây vài thập niên nhưng vẫn còn là những thuật ngữ khá mới mẻ trong khoa học xã hội ở Việt Nam. Mặc dù đây là hai lĩnh vực có một số điểm giống nhau nhưng trên thực tế chúng hoàn toàn độc lập. Vì vậy, các từ điển và bách khoa thư về nhân học đều có các mục từ dành riêng cho chúng. Để giúp các nhà nghiên cứu và sinh viên đang theo học chuyên ngành này có thêm tài liệu so sánh, chúng tôi xin trích dịch hai mục từ này trong Bách

khoa thư Nhân học văn hoá (Encyclopedia of Cultural Anthropology) do David Levinson và Melvin Ember biên tập. Sách do nhà xuất bản Henry Holt & Company ấn hành tại New York năm 1996.

Đinh Hồng Hải - dịch và giới thiệu

Nhân học biểu tượng1

Trọng tâm của nhân học biểu tượng là việc nghiên cứu ý nghĩa trong đời sống xã hội của con người – làm cách nào chúng ta tri nhận và diễn giải những gì diễn ra xung quanh mình, và bằng cách nào, trên nền tảng sự hiểu biết của mình, chúng ta sáng tạo nên những thế giới thông tin cần chia sẻ, hoặc hệ thống ý nghĩa văn hoá. Như đã đề cập, nhân học biểu tượng tiếp cận rất nhiều câu hỏi quan tâm đến các biểu tượng và sự biểu tượng hoá – các sự vật và ý tưởng mà chúng ta lấp đầy các ý nghĩa, sự nhận thức và quá trình giao tiếp với những gì chúng ta đã làm. Nhân học biểu tượng đặt mối quan tâm chính trong vai trò của sự thể hiện, ý nghĩa và sự diễn giải và các hình mẫu được phân biệt của sự hiểu biết được thể hiện thông qua nó kết hợp với một số phân ngành khác, đặc biệt là nhân học nhận thức, văn hoá dân gian, nhân học tâm lý, và ngôn ngữ xã hội.

Cơ sở lý luận và phạm vi nghiên cứu

Giống như các hướng tiếp cận khác trong nhân học văn hoá, nhân học biểu tượng lấy nền tảng so sánh liên văn hoá được tiếp nối từ những đánh giá về tính chất phát sinh của hệ thống tín ngưỡng mô tả đặc điểm xã hội loài người. Hầu hết các nghiên cứu về biểu tượng đều cho rằng tín ngưỡng, tuy khó hiểu, nhưng khi cân nhắc trong trạng thái biệt lập, trở nên rõ ràng khi được hiểu như một phần của hệ thống văn hoá về các ý nghĩa. Một tiền đề khác của nhân học biểu tượng là sự diễn giải các hành động định hướng, và do vậy nó cho thấy tính ưu việt hơn trong việc tìm hiểu thế giới quan, đóng vai trò chính thống trong việc giải nghĩa kể cả những hoạt động căn bản mang tính duy vật nhất. Vì lý do đó nhân học biểu tượng đôi lúc được mô tả như sự định hướng của những người theo chủ nghĩa duy tâm, ngược lại với các hướng tiếp cận duy vật, như chủ nghĩa Mác.

Trong phạm vi rộng lớn của nó, nhân học biểu tượng có thể tìm hiểu ở nhiều chủ đề khác nhau. Tôn giáo, nghi lễ và biểu tượng luận là những chủ đề nghiên cứu nổi bật. Và nghệ thuật biểu lộ truyền thống, chẳng hạn như mỹ thuật, múa, thần thoại và hùng biện là những chủ đề được ưa thích khác. Những chủ đề này thu hút sự chú ý của các nhà nhân học biểu tượng bởi vì chúng thường được xem như sự biểu hiện của những tín ngưỡng cao nhất

1 Còn được gọi là Nhân học diễn giải (Interpretive Anthroplogy).

Page 7: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

7

trong một nền văn hoá, và chỉ một số trong tất cả quan sát về những ý nghĩa của một nền văn hoá thông qua thao tác thủ công đối với nguyên liệu hoặc lời mô tả về các biểu tượng. Tuy nhiên, các nhà nhân học biểu tượng cũng khám phá các chủ đề ít chứng cứ hơn trong nội dung của họ, như thân tộc, sinh thái văn hoá, hệ thống chính trị, và tranh luận rằng đó là những các chiều kích biểu tượng đối với tất cả các hình mẫu tổ chức xã hội và tìm cách làm sáng tỏ không chỉ là những biểu hiện văn hoá bí Nn và tinh vi nhất mà còn là những thứ trần tục được ban ra. Một số nghiên cứu cơ bản, chẳng hạn như của Victor Turner (1967) và Sherry Ortner (1978), đã xem xét tầm quan trọng của những gì mà Ortner gọi là “biểu tượng trọng tâm” liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cả bí Nn và trần tục. Những công trình như vậy, đưa ra một hệ thống biểu tượng, chẳng hạn như tôn giáo, về cơ bản, được quan tâm nhiều hơn bằng việc chỉ ra lĩnh vực văn hoá này khác với những lĩnh vực khác như thế nào, và đạt được sự gắn kết chung, qua việc xây dựng biểu tượng của một vài ý tưởng trung tâm.

Những tiền đề và ảnh hưởng

Trong những mối quan tâm của nhân học biểu tượng, người ta có thể quan sát ảnh hưởng của hai tiền đề chính: Cấu trúc luận và phân tích cấu trúc chức năng. Nhân học cấu trúc, vốn có sự ảnh hưởng đặc biệt trong những năm 60 của thế kỷ XX, được sử dụng cho ngôn ngữ và ký hiệu học (nghiên cứu ký hiệu). Một bậc thầy trong lĩnh vực này, nhà nhân học người Pháp – Claude Levi-Strauss, cho rằng phân loại nhị nguyên (binary clasification) là một điểm đặc trưng phổ quát của nhận thức con người. Các nghiên cứu mở rộng của ông đối với thần thoại, nghệ thuật và hệ thống thân tộc đã khám phá ra những hình mẫu văn hoá khác nhau ở mức độ phức tạp và diện mạo bên ngoài, về bản chất, dựa vào tính đối ngẫu: tự nhiên/văn hoá, đàng ông/đàn bà, tinh khiết/không tinh khiết,v.v... Hệ thống văn hoá, dưới góc nhìn này, với những nền tảng tinh vi của nó đã khai hoá thế giới, xã hội hoá nó, đưa ra sự phân loại tuỳ theo biểu hiện của tự nhiên. Mối quan tâm của các nhà cấu trúc luận trong các hệ thống văn hoá của ý nghĩa ở những gì họ có thể bộc lộ ra và khi nào thì phân tích về tiến trình nhận thức phổ quát của con người.

Mặc dù nhân học biểu tượng thường cố gắng thể hiện sự thấu triệt về phương pháp luận và lý thuyết của cấu trúc luận, nhưng nó lại nhấn mạnh yếu tố khác. Hơn là làm giảm mức độ phức tạp của các hình mẫu văn hoá trở về những nhân tố phổ biến của chúng, nhân học biểu tượng lại cho thấy sự phức tạp của các hình mẫu này trên thực tại. Trong khi nhân học biểu tượng chia sẻ mối quan tâm đối với diện mạo chung trong khả năng biểu tượng hoá của con người, rút cục mối quan tâm của nó ít dựa vào quá trình nhận thức đặc tính trừu tượng hơn là dựa vào các tín ngưỡng văn hoá. Hơn là chia tách thần thoại hoặc các hiện vật văn hoá khác từ bối cảnh ra đời và cách sử dụng, nhân học biểu tượng lại nhấn mạnh quan điểm của người thể hiện và tập trung vào vai trò của các hiện vật đó trong việc định hướng sản phNm của đời sống xã hội.

Một hướng tiếp cận khác, ít tạo tiền đề trực tiếp hơn với nhân học biểu tượng, đó là phân tích cấu trúc chức năng, hình mẫu điển hình của những năm 40 và 50 của thế kỷ XX. Phân tích cấu trúc chức năng quan niệm về xã hội như là toàn bộ sự hội nhập theo chức năng, với các phần lý tưởng thừa nhận nhau để tồn tại ở một thể cân bằng. Quá trình phân tích này bao gồm hai bước - dẫn chứng tài liệu từ việc thực hiện chức năng của các lĩnh vực riêng biệt, chẳng hạn như thân tộc, kinh tế, chính trị, tôn giáo và giải thích về sự hội nhập chức năng của chúng, làm cách nào chúng tương tác lẫn nhau và tăng cường cho một cái khác. Do vậy, xin được lấy ví dụ, một hệ thống thân tộc đặc thù sẽ tìm ra cách thức thay thế cho các mối quan hệ trao đổi kinh tế trong số các mối quan hệ được xem như họ hàng,

Page 8: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

8

trong khi đó, thần thoại thể hiện và tăng cường thông qua nghi lễ, điều đó có thể được hiểu như là để đưa ra một tuyên bố về việc thiết lập sự hoà hợp xã hội. Chiều hướng biểu tượng của các hệ thống xã hội đã không được chú ý trong cách tiếp cận này. Một quan hệ tốt đã gây được sự chú ý dành cho vai trò của thần thoại, nghi lễ, ma thuật, và tôn giáo tín ngưỡng như một loại keo gắn kết xã hội, tạo sự kiềm tỏa hiện trạng và do đó có chức năng hỗ trợ sắp xếp xã hội hiện tại.

Nhân học biểu tượng tiếp quản từ cấu trúc chức năng luận một tiền đề cho rằng các hệ thống văn hoá xã hội phô bày một sự cố kết toàn bộ và một sự quan tâm đối với những ảnh hưởng của thực tại xã hội về hệ thống tín ngưỡng, đặc biệt là trong những hướng xây dựng biểu tượng trên các cơ sở lý luận văn hoá có thể tạo ra sự kiềm toả cảm xúc trong xã hội. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển của nó, nhân học biểu tượng đã cho phép nhiều mối quan hệ thay đổi của các cá nhân đối với xã hội và ít nhấn mạnh đến vai trò của chức năng. Đặc biệt trong những công bố gần đây nhất, nhân học biểu tượng coi nhẹ sức tác động của truyền thống và tăng cường trung gian con người, điều đó cho phép các lập trường phức tạp hơn như khôi hài và hoài nghi (Lavie, 1993).

Nhân học biểu tượng từ thập niên 90

Nhân học biểu tượng đã thống trị nhân học văn hoá trong khoảng hai thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ XX. Sự gia tăng tính phức tạp trong ý nghĩ về chiều kích biểu tượng của văn hoá có nghĩa là những câu hỏi đối với nó lúc đầu vẫn còn phải theo đuổi, và do đó nó có thể ít được cân nhắc như một phân ngành chuyên biệt hơn là một diện mạo chung của nhân học văn hoá. Nhân học diễn giải theo truyền thống của Geertz, và một hướng ít phát triển hơn về nhân học trải nghiệm được phát triển bởi Turner, có thể chứng minh được nó là những hậu duệ trực hệ. Như những nghiên cứu về đa nguyên luận văn hoá và sự tăng cường hoán đổi tự nhiên của các hiện tượng văn hoá được kết hợp với sự hồi sinh trong phân tích lịch sử, những câu hỏi trọng tâm của nhân học biểu tượng đã duy trì sự thích hợp của nó. Trong một thế giới được đánh dấu bởi sự hoán đổi và chuyển đổi nó trở thành tất cả những gì có liên quan đến câu hỏi cấp thiết rằng chúng ta đã mạo nhận thế giới ý nghĩa bằng những kinh nghiêm khác nhau như thế nào.

Mary Des Chene

Nhân học thị giác2

Nhân học thị giác là sự tiếp nối hợp lý từ niềm tin rằng văn hoá được thể hiện thông qua các biểu tượng cụ thể được gắn với các cử chỉ, nghi thức, nghi lễ và những gì được tạo tác tồn tại trong môi trường được tạo dựng và tự nhiên. Văn hoá được xem như sự thể hiện bản thân nó trong vai diễn với nguyên mẫu có liên quan đến đội ngũ nam nữ diễn viên, trang phục, đạo cụ và sự xếp đặt. Bản thân văn hoá đã là sự tổng hợp của một kịch bản mà người ta tham dự vào. Nếu người ta có thể nhìn thấy văn hoá, thì nhà nghiên cứu cũng có thể sử dụng các công nghệ nghe nhìn để ghi lại như một loại dữ liệu theo sự phân tích và trình bày của họ. Xét về phương diện lịch sử, mặc dù nguồn gốc của nhân học thị giác đã được tìm ra trong giả định thực chứng như một thực thể nhìn thấy được, hầu hết các nhà lý thuyết văn hoá đương đại đều nhấn mạnh đến tính chất xã hội trong bản chất xây dựng của thực tại văn hoá và bản chất dự báo trong sự hiểu biết của chúng ta trong mọi nền văn hoá.

2 Còn được gọi là Nhân học hình ảnh.

Page 9: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

9

Có một mối quan hệ đương nhiên giữa giả định rằng văn hoá là quan sát khách quan và niềm tin phổ biến vào sự trung lập, minh bạch và khách quan của công nghệ nghe nhìn. Từ một quan điểm thực chứng, thực tại có thể chụp trên phim ảnh mà tránh được những sự hạn chế của ý thức con người về Hình ảnh, được cung cấp một bằng chứng không thể chối cãi và nguồn dữ liệu có độ tin cậy cao. Với những giả định đó, nó hợp lý tới mức chỉ với các công nghệ sẵn có, các nhà nhân học đều có thể cố gắng để đạt được với chiếc máy ảnh về loại dữ liệu về đối tượng nghiên cứu khách quan có thể lưu lại trong các kho lưu trữ dành cho các thế hệ tương lai (Edwards 1992).

Các tư tưởng đương đại thiên về lý thuyết giả định hơn là lý thuyết thực chứng về bản chất của tri thức văn hoá và về những gì phim ảnh có thể ghi lại. Trong một thế giới hậu thực chứng và hậu hiện đại, máy ảnh bị chế ngự bởi văn hoá của người đứng sau nó; điều đó có nghĩa là, phim ảnh luôn quan tâm đến hai thứ - văn hoá của những người được làm phim và văn hoá của những người làm phim. Kết quả của việc xem các hình ảnh đại diện cho một hệ tư tưởng, nó được gợi ý rằng các nhà nhân học sử dụng công nghệ theo một thói quen của bản thân, nó khiến người xem xa lánh vì những giả định sai về thực tế của những hình ảnh họ nhìn thấy, và rằng các nhà dân tộc học thị giác tìm mọi cách để chia sẻ quyền hạn của họ với những người mà họ nghiên cứu.

Về khái niệm, nhân học thị giác bao trùm lên tất cả các khía cạnh của văn hoá từ những giao tiếp vô thanh, môi trường hình thành, nghi lễ và trình diễn nghi thức, khiêu vũ và nghệ thuật đối với văn hoá vật thể (ở đây không bao gồm việc thảo luận về các nghiên cứu khác nhau có sử dụng công nghệ nghe nhìn trong nhân thể học và khảo cổ học). Mặc dù một số nhà nhân học thị giác thực hiện công việc này trong mọi lĩnh vực, nhưng lĩnh vực này thiếu đi một truyền thống về một lý thuyết bao hàm phổ biến - một ngành nhân học về thị giác hoặc giao tiếp bằng hình tượng (Worth 1981).

Do bản chất không gắn kết của lý thuyết đương đại, dường như khó có thể có một lý thuyết tổng quát được chấp nhận ở mức độ phổ biến. Lĩnh vực này sẽ phải chấp nhận một khái niệm rộng lớn, nhưng trong thực tế nhân học thị giác nắm ưu thế chủ yếu bởi những quan tâm đến truyền thông thị giác như một loại hình truyền tải tri thức nhân học, đó là, phim ảnh dân tộc học, và thứ nữa là các nghiên cứu văn hoá thông qua sự biểu hiện của hình ảnh.

Nhân học thị giác chưa từng được tích hợp hoàn toàn vào dòng chảy chính của nhân học. Nó bị đơn giản hoá bởi một số nhà nhân học như một sự hỗ trợ về nghe nhìn để phục vụ giảng dạy. Sự thiết lập nền tảng nhân học chưa xác nhận tính chất trung tâm của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc hình thành bản sắc văn hoá trong nửa cuối thế kỷ XX. Do vậy, các nhà nhân học thị giác đôi khi cảm thấy họ có mối liên quan đến việc nghiên cứu và suy nghĩ của các nhả sản xuất hình ảnh chuyên nghiệp và các học giả từ các chuyên ngành khác như xã hội học thị giác, nghiên cứu văn hoá, lý luận điện ảnh, lịch sử điện ảnh, múa và nghệ thuật trình diễn, lý luận kiến trúc – hơn là công việc của những nhà nhân học văn hoá.

Jay Ruby

Page 10: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

10

CÁC QUAN ĐIỂM NHÂN HỌC

VỂ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG BIỂU TƯỢNG∗∗∗∗ (Bài đã đăng trên Tạp chí văn hoádân gian số 5, năm 2011)

Raymond Firth Đinh Hồng Hải dịch

Lời dẫn: Ý nghĩa của các biểu tượng luôn là một đối tượng nghiên cứu hấp dẫn các nhà khoa học. Nhưng những tranh cãi đôi khi không có hồi kết về ý nghĩa của chúng đã khiến cho một ngành khoa học độc lập nghiên cứu về biểu tượng dường như chưa thể phát triển. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các biểu tượng bằng sự kết hợp liên ngành: ngôn ngữ học, kí hiệu học, nhân học... đã cho thấy những kết quả khả quan. Nhân học biểu tượng là một trong những hướng nghiên cứu ra đời từ những năm 70 của thế kỷ XX “liên kết và giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể”(Raymond Firth). Trên thực tế, nhân học biểu tượng đã kế thừa những nền tảng lý thuyết về kí hiệu học của Ferdinand de Sausure, xã hội học của Emile Durkheim, nhân học cấu trúc của Claude Levi-Strauss,.... Nó tiếp tục được hoàn thiện bởi nhiều nhà nhân học khác như Raymon Firth, Mary Douglass, Victor Turner, Cliford Geertz, David Schneider,... Dưới đây là bản dịch một phần Chương 1 trong cuốn Biểu tượng - Chung và riêng (Symbols: Publish and private) của Raymond Firth, trong tập hợp sách: Biểu tượng, thần thoại và nghi lễ (Symbol, myth, and ritual) do Victor Turner tuyển chọn. Ở đây có những kiến thức căn bản đối với sinh viên, giảng viên và những người đang tìm kiếm tài liệu“nhập môn nhân học biểu tượng.” Hy vọng trong tương lai, những tài liệu này sẽ được chuyển ngữ sang tiếng Việt để tập hợp thành một bộ tài liệu cơ bản phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu.

Đinh Hồng Hải

Biểu tượng hóa là một hiện tượng phổ biến trong tiến trình phát triển của loài người. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần hiểu nhiều hơn nữa về nó, đặc biệt nhìn nhận nó theo khía cạnh so sánh trong các xã hội khác nhau, các tầng lớp khác nhau, các tôn giáo khác nhau. Thâm nhập vào trong giao tiếp, nó được xem là căn cứ cho việc sử dụng ngôn ngữ, biểu tượng hóa là một phần của cuộc sống chứa đầy trong đó các mối quan hệ xã hội. Văn học phương Tây đã đóng góp một phần thông qua những tài liệu tham khảo, chúng gợi cho chúng ta những câu hỏi về sự tồn tại và nhận dạng các giới hạn của biểu tượng. Trong một bài luận về một nhà thơ, Emerson đã viết về tính phổ biến của ngôn ngữ biểu tượng: “những gì được thừa nhận sử dụng như những biểu tượng là bởi vì chúng vốn đã là một biểu tượng” (kể cả văn hóa) - “chúng ta là những biểu tượng và sống trong thế giới của những biểu tượng”. Trong Sartor Resartus Carlyle tin rằng trong một biểu tượng luôn có cả sự che giấu và sự bộc lộ. Các bản ghi chép của phương đông cũng đưa ra những quan điểm tương tự như vậy. Có cái gì bày tỏ trong đó khiến chúng ta bị hấp dẫn? Nó là thực hay chỉ là ảo tưởng cá nhân của con người? Và nếu ở đó không có những câu hỏi để các nhà nhân học trả lời, liệu chúng ta có thể đưa ra chí ít là những bình luận có ý nghĩa dựa trên những cấu trúc diễn giải, các điều kiện bày tỏ của họ, và các ảnh hưởng xã hội của họ?

Trong các nhóm tri thức, tính biểu tượng trong văn học, nghệ thuật và tôn giáo là một chủ đề xuyên suốt các nghiên cứu; các nhà triết học và nhà ngôn ngữ học đã có những nghiên cứu kỹ lưỡng về khái niệm biểu tượng trong những bản tóm tắt đầy ý nghĩa. Tôi sẽ chỉ ra sau đây tại sao tôi lại suy nghĩ và luận bàn về mối quan tâm của các nhà nhân học. Nhưng các nhà nhân học cũng liên quan tới vài hướng mà ở đó thông thường con người

∗ Bài này trích trong cuốn: Symbols: Public and Private của Raymond Firth, do nhà xuất bản Đại học Cornell ấn hành năm 1973. Đinh Hồng Hải dịch, với sự cộng tác của Chu Tú Lệ.

Page 11: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

11

nghĩ về các biểu tượng, cư xử bằng các biểu tượng trong cuộc sống thường ngày của họ như các thành viên trong một xã hội, và thể hiện một cách có ý thức những gì họ tạo ra các ý nghĩa biểu tượng.

Bản chất của tính biểu tượng nằm trong nhận thức về một cái gì đó thay thế hoặc diễn giải cho một cái khác, mối quan hệ giữa chúng thường là từ cụ thể tới trừu tượng, từ cái đặc thù tới cái chung. Mối quan hệ này cho thấy bản thân biểu tượng đã bộc lộ khả năng cho và nhận mặt khác lưu giữ cho những đối tượng mà nó đã đề cập đến - và những ảnh hưởng đó thông thường mang tính cảm xúc cao hơn.

NHẬN THỨC PHỔ BIẾN VỀ CÁC BIỂU TƯỢNG

Ngày nay, những gì nổi bật trong bối cảnh xã hội đương thời, được lưu hành rộng rãi theo quan điểm về tính tượng trưng, và công khai, thường đươc sử dụng như một biểu tượng để mô tả về những đồ vật, những con người, những hành động, những mối quan hệ về các mối quan tâm của công chúng∗. Đặc biệt trong một vài năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa ra nhiều ví dụ. Tôi xin nhặt ngẫu nhiên ở đây một vài trong số đó.

Nhiều quốc gia sử dụng những sản phNm của riêng họ để làm vật biểu tượng. Vì vậy, có thể thấy rằng trong những năm đầu của thế kỷ này, than bùn, khoai tây và vồ đập đá của các mục sư trong giáo phận có nghĩa là Ai-len, và rằng chúng “vẫn là những biểu tượng có giá trị”. Nhưng một vài sản phNm quốc gia đã trở thành biểu tượng của một số tổ chức quốc tế bởi vì nét đặc biệt của sản phNm đó. Ví dụ một loài động vật của Trung Quốc, gấu trúc khổng lồ quý hiếm (panda), đã được lấy làm biểu tượng của Quỹ động vật hoang dã thế giới, và hình ảnh của nó đã được chạm nổi trên thẻ bảo đảm của những người buôn bán lông thú cam kết không sử dụng da của những loài có nguy cơ tuyệt chủng. Trong lĩnh vực chính trị-xã hội, quân đội quốc gia lập căn cứ quân sự ở nước ngoài, luôn được xem là “một biểu tượng của sự lãnh đạo thế giới.” Các cuộc gặp gỡ của lãnh đạo các quốc gia được cho là sẽ trở nên có chất lượng vượt trội nhân một dịp đặc biệt nào đó. Quan điểm cá nhân của Tổng thống Pháp và thủ tướng Anh có thể trao đổi về Thị trường chung châu Âu, được cho là để đáp ứng tương lai của lịch sử châu Âu như là “điểm rẽ mang tính biểu tượng” trong thế kỷ XX. Hành trình của Tổng thống Nixon tới Alaska để chào đón Thiên hoàng Nhật Bản - đi 4000 dặm cho một cuộc nói chuyện chỉ kéo dài 50 phút - cuối năm 1971 được xem như “một hành động biểu tượng mang tính cốt lõi”, cuộc gặp này được hy vọng có thể giảm nhẹ sự căng thẳng trong mối quan hệ Nhật-Mỹ; cuộc gặp đóng góp “tầm quan trọng mang tính biểu tượng to lớn.” Chuyến thăm của tổng thống tới Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được một phần tư người dân Mỹ quan tâm chú ý như “một động thái ngoại giao biểu tượng”- ở đó thực tế chuyến đi của tổng thổng tới Bắc Kinh sẽ đóng góp tầm quan trọng về ngoại giao hơn bất kỳ một sự đồng thuận nào, chuyến đi có thể đạt được khi tổng thống tới đó. Nhưng từ khi chuyến đi “mang tầm quan trọng có tính biểu tượng,” được nhận ra rằng nó có thể biểu tượng hóa cho những thứ khác ở các thủ đô châu Á, và nó được diễn giải cả ở Tokyo và Bắc Kinh.

Trong cuộc đối thoại giữa Bắc Kinh và Washington một cuộc bóng bàn “được tạo ra như một biểu tượng” cho những trao đổi “của nhân dân hai nước.” Sẽ có một sự vô tư nếu hành động hiềm thù của những lính trẻ người Do Thái giải thoát những con ếch và con chuột trong các trung tâm thương mại Xô Viết ở New York trong suốt tuần lễ Passover (một nghi lễ của người Do Thái -ND) như là một phần nỗ lực giành được tự do cho những người Do Thái ở Liên bang Xô Viết rời đến Isarel được miêu tả như một sự quấy nhiễu

∗ Vấn đề này cũng được đề cập đến trong lĩnh vực thương mại như một nhãn hiệu, ví dụ hãng bánh qui London (được cho là một nhà cung cấp có uy tín thông qua việc họ được bổ nhiệm như một thành viên của Gia đình Hoàng tộc) từ đó hãng này được gọi là Hãng bánh quy Biểu tượng, với nhãn hiêụ cái đầu voi.

Page 12: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

12

của các “tai họa biểu tượng”. (Điều này được cho là tương ứng với sự tính toán trong kinh thánh về những nỗ lực của Chúa để giải phóng cho những người Do Thái bởi những người Ai Cập). Và theo lời kể trong Psalm 83, trong tang lễ của một người Do Thái hy sinh trong chiến tranh được mô tả như “một ý nghĩa biểu tượng có liên quan tới sự đàn áp văn hóa của người Do Thái và quyền lợi tinh thần ở Liên bang Xô Viết”. Ở một phương diện khác, khi Thống đốc bang Illinois ngồi trong văn phòng của ông ta lúc nửa đêm cùng với các sỹ quan phụ tá để thách thức một quả bom đe dọa, ông ta giải thích rằng đó là “một hành động biểu tượng - chúng ta đang cố gắng nói một vài điều gì đó tới một số người những kẻ kêu gọi và đang cố gắng hăm dọa chính quyền.”

Giới trí thức có thể dễ dàng đồng ý với tổng thống Columbia rằng trường đại học là “biểu tượng và là đại diện của một xã hội rộng lớn hơn” và như vậy nó nên được phê bình công khai, rằng “những công kích điển hình không văn minh” không làm cho nó bị sụp đổ mà còn là sự cải tổ. Một ghi chú mỉa mai hơn đã lộ ra trong sự mô tả về thư viện khổng lồ Lyndon Baines Johnson ở Đại học Texas. “Kiến trúc cũng như nghệ thuật và biểu tượng là một trong những trò chơi cổ nhất của nền văn minh” và kiến trúc của công trình kỷ niệm vĩ đại này đã “tạo ra một sự thể hiện tuyệt vời những thành tựu của chính họ tạo nên hiệu quả đáng kinh ngạc về biểu tượng và mỹ học”. Trong các hoạt động phát triển của xã hội loài người nhát thọc mạnh của một chiếc xẻng vào lòng trái đất “trong một nghi lễ biểu tượng” bởi một người Anh-điêng trong trang phục áo khoác bằng da hoẵng và đội trên đầu chiếc mũ gắn lông vũ đại bàng đã đánh dấu sự bắt đầu của một mô hình kiếm tiền mới của thổ dân - từ những trung tâm hội nghị khách sạn, cùng với mặt đất hiện tại bị đe doạ san phẳng bởi những chiếc máy ủi. Trái lại, khách sạn cổ kính đồ sộ Mississipi Gulf Coast đã bị phá hủy để làm đường cho một cửa hàng và trung tâm mua sắm được mô tả như “một biểu tượng của ngày mới”. Khái niệm hóa về biến đổi xã hội đã đưa đến một hình mẫu quan niệm rằng người dân chống lại sự hợp pháp hóa cây thuốc lá được xem như “như một thanh chắn biểu tượng với sự huỷ hoại văn hóa” bởi những áp lực khó tránh. Một hình mẫu khác là khi các nhà đấu tranh bình quyền ở Mỹ tranh luận về việc yêu cầu một người phụ nữ chỉ rõ vị thế hôn nhân của cô ấy bằng tiền tố Miss hoặc Mrs, điều đó là thể hiện sự phân biệt và rằng nó nên được thay thế bằng Ms - “Ms thực sự chỉ là một biểu tượng - một kí hiệu - nhưng nó quan trọng đối với nhiều phụ nữ.”

Một loạt những đồ vật và hành động đã được viện dẫn như những biểu tượng - từ bóng bàn tới gấu trúc, từ thọc xẻng vào trái đất tới sự ngăn cấm cây thuốc lá - cho thấy rằng bản thân chúng không mang ý nghĩa căn bản và rằng chìa khóa để hiểu các giá trị biểu tượng của chúng nằm trong bối cảnh mà ở đó chúng được quy kết hoặc là một phần trong đó. Đó không phải là bản chất tự nhiên đặc thù của chúng mà là những mối quan hệ của chúng để đánh giá sự lựa chọn như là những biểu tượng. Đồng thời, người ta không thể phủ nhận hoàn toàn đặc điểm của một vật thể được sử dụng như một biểu tượng (ví dụ như tóc, máu), vì một vài loại đồ vật có xu hướng đại diện cho một số mối quan hệ đương nhiên được đưa ra trong các tình huống.

Đây có lẽ là một trường hợp khá đặc biệt khi một vật được đề cập đến như đang sở hữu một ít quyền tự trị, một ít tự do trong hành động bản thân, và vì vậy được công nhận rằng với những giá trị tự thân được cho là phù hợp với hoàn cảnh. Vì vậy, nó là một phần của thành ngữ phổ biến hiện đại rằng con người có thể dễ dàng trở thành những biểu tượng. Một mục sư được cho là có “một vai trò biểu tượng như là một ‘dấu hiệu’ của nhà thờ”. Một giáo sĩ cống hiến có một lương tâm vì xã hội - chẳng hạn như như cuộc tranh luận về vị tổng giám mục người Braxin Dom Helder - được những người bạn và những người ngưỡng mộ ông ta mô tả như một vị thánh, hoặc “chí ít cũng là một nhân vật biểu tượng” người có những lời tuyên bố dũng cảm ở trong và ngoài nước để kêu gọi chú ý tới những người có hoàn cảnh khốn khổ ở đất nước của ông ta. Cardinal Mindszenty của Hungary người có 15 năm Nn dật trong sự phản đối chống lại chính quyền được xem như

Page 13: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

13

là “một biểu tượng về sự kháng cự cứng rắn của thời đại chiến tranh lạnh”. Mô tả về các thủ lĩnh chính trị giống như các biểu tượng cũng rất phổ biến. P.C.Lloyd đã chỉ ra trong tài liệu tham khảo về các xã hội châu Phi mà ở đó những biểu tượng hiện đại về sự thống nhất quốc gia có xu hướng là những cá nhân hơn là những khách thể hoặc tư tưởng (1967, 316). Một trong những người theo chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc, người bác bỏ kịch liệt bất kỳ ý tưởng nào về sự hòa giải với những người theo chủ nghĩa cộng sản, được “biểu tượng hóa” Tưởng Giới Thạch; Lon Nol của Campuchia được mô tả như “một biểu tượng về một thủ tướng hoàn toàn trong sạch” sau một tai hoạ gần như không thể tránh khỏi làm ông ta chết đứng; Sheikh Mujihurb Rahman, thuộc Đông Pakistan (nay là Bangladesh), là “một biểu tượng kháng cự của người Bengal.” Nhưng hiện tượng tương tự đã công nhận sự đi xuống trong nấc thang chính trị. Ernest Bevin, người lãnh đạo công đoàn Anh quốc, là “biểu tượng công nghiệp trong bước chuyển của tầng lớp lao động” và khi ông ta trở thành Bộ trưởng ngoại giao “vai trò của ông ta trong việc thành lập NATO và bác bỏ kế hoạch Schumann của Hiệp hội Than đá và Thép đã trở thành biểu tượng”. Khi cựu thủ tướng David Ben-Gurion tham dự hội nghị đảng lao động Israel vào năm 1971, sự có mặt của ông “được biểu tượng hóa như là sự thiết lập lại quan hệ hữu nghị của ông với giới lãnh đạo của đảng” sau hơn một thập niên tranh cãi về tư tưởng của đảng này. Charles Ever, thị trưởng người da đen của Fayette, Mississipi, với những người bạn của ông “không phải là một người bình thường hoặc là một thị trưởng tép riu mà là một biểu tượng quý giá - một anh hùng về sự phục hưng chính trị của những người da đen ở miền Nam”. Adam Clayton Powell, “người da đen” đầu tiên đến từ khu vực miền đông tới làm việc trong Quốc hội Mỹ, trong một thời gian dài “là một biểu tượng thành công của người da đen”. Tiến sĩ Eric William, Thủ tướng đầu tiên của Trinidad-tobago thăng tiến trong ngọn lửa đấu tranh của những người da đen địa phương, “từng là biểu tượng của những người da đen” khi đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân Anh. Và trong lĩnh vực kinh tế, một nhà tư bản công nghiệp Scotland, người đã quan tâm tới việc mua xưởng đóng tàu đang bị phá sản Clydebank, “đã nổi lên từ chỗ không có tên tuổi gì trở thành biểu tượng hy vọng cho hàng nghìn công nhân đóng tàu ở Clydeside”.

Một ví dụ tiêu biểu về sự hợp nhất rõ ràng của khái niệm biểu tượng trong mối quan hệ của một người với một thực thể trừu tượng đó chính là Thiên hoàng Hirohito của Nhật Bản. Trước khi xảy ra thất bại của Nhật Bản ở cuối cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, Thiên hoàng thường được xem như một vị thánh thiêng liêng, người nối dõi trực tiếp của Nữ thần Mặt trời. Được phong thần và được tôn kính công khai trong nhiều năm liền, trong lời công bố của Thiên hoàng vào tháng 1 năm 1946 ông đã không thừa nhận quan niệm thần thánh của mình “được dựa trên ý tưởng hư cấu cho rằng Thiên hoàng hiển nhiên là một vị thần”- và đã trở thành “Biểu tượng quốc gia và sự thống nhất của nhân dân.” Bằng hành động này, Thiên hoàng đã biến chính bản thân ông từ huyền thoại thành thế tục, từ một vị thần trở thành một con người bình thường. Trong vai trò của mình khi là một biểu tượng quốc gia, sự xuất hiện của ông sẽ dễ dàng được phần đông những người Nhật chấp nhận, và ông ta dường như có thể thi hành được phần lớn các chính sách khi có được sự ảnh hưởng khôn khéo lên các quyết định chính trị được đưa ra bởi chính phủ. Một con người trong vai trò một biểu tượng chính trị có thể có những chức năng cả tích cực lẫn bị động∗.

Những quan điểm phổ biến hiện nay về luật pháp và đạo đức cũng rất phong phú trong việc thừa nhận con người như là các biểu tượng. Có thể nói rằng những công dân Mỹ không chịu ảnh hưởng nền tảng quân chủ hay được thiết lập bởi nhà thờ, Tòa án Tối

∗ Lưu ý rằng một vài nghiên cứu gần đây đã được đưa ra để xác định lại vị trí của Thiên hoàng, đưa ông lên vị trí nguyên thủ quốc gia, theo đúng nghi thức ngoại giao và niềm kiêu hãnh của quốc gia Nhật (Cf, New York Times, 21/9/1971, 26/9/1971, 31/10/1971)

Page 14: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

14

cao đã biểu tượng hóa bộ máy tư pháp, và tiến gần tới mức độ của một thể chế bất khả xâm phạm. Người ta cũng cho rằng J.Edgar Hoover, lãnh đạo Cục điều tra Liên bang (FBI) trong một thời gian dài, đã trở thành “biểu tượng của sự đấu tranh chống lại cái ác.” Ở một thời điểm khác, cựu lãnh đạo Black Panther đã bị buộc tội tấn công cảnh sát và bị cầm tù với khoản bảo lãnh rất cao nắm giữ bởi những thành viên trong cộng đồng địa phương của ông, đã trở thành “một nạn nhân biểu tượng về sự tù tội quá đáng” tương tự như một sự giam giữ có tính phòng ngừa. Cũng giống như vậy, một Nhân viên quân lực bị kết án tù vì tội sát hại một tù nhân địa phương trong cuộc tàn sát Mỹ Lai và trường hợp này được nhiều người xem như là “một biểu tượng cho tất cả những sai trái trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam.” Trong một xung đột phổ biến qua những gì khác nhau được đề cập như một sự ép buộc hoặc giá trị của những quy tắc đã được thiết lập, trưởng nhóm nhạc Rock Rolling Stones, Mick Jagger, đến với nhiều người như “để biểu tượng hóa và tiêu biểu cho toàn bộ các thế hệ nổi loạn nói chung với việc hướng tới thuốc phiện, tự do đạo đức”. Và một hình mẫu gần đây về khả năng lực chọn một ứng viên người da đen vào chức phó tổng thổng của Mỹ, cuộc bầu cử năm 1972 đã để lại dấu ấn mạnh mẽ về giá trị đạo đức của hành động mang tính biểu tượng. Người ta tranh luận rằng ứng viên người da đen vào chức phó tổng thống sẽ có “một tác động ghê gớm mang tính biểu tượng đối với mối quan hệ sắc tộc ở Mỹ.” Con người không chỉ sống với biểu tượng, nhưng con người còn sắp đặt và bộc lộ bản chất thông qua chính những biểu tượng của anh ta, và thậm chí cấu trúc lại nó. Một người da đen ôn hòa chạy đua vào chức phó tổng thống sẽ “là một biểu tượng vô cùng mạnh mẽ về khả năng đạt được sự công bằng về mặt sắc tộc và sự hòa hợp trong xã hội Mỹ.” Biểu tượng bản thân nó không tạo ra sự công bằng hay sự hòa hợp, nhưng nó có thể tạo ra một bầu không khí mà ở đó họ trở nên dễ thở hơn. Vì vậy một ứng cử viên phó tổng thống da đen trong liên danh tranh cử với tên gọi hòa giải và tiến bộ xã hội sẽ giống như “đào được nguồn nước lành trong hệ thống biểu tượng chính trị Mỹ”.

Rất nhiều những ví dụ như vậy,∗ đã được chọn lọc chỉ từ một vài nguồn báo chí trong một số giai đoạn nhất định, minh họa phạm vi mở rộng khái niệm biểu tượng đã thấm nhuần thành suy nghĩ phổ biến. Có rất ít những thắc mắc theo sau như một chuyên gia luật người Mỹ, Steward Alsop, người phê bình về những khuynh hướng chính trị của các đảng hiện đại, đã viết về những gì mà ông gọi là “suy nghĩ biểu tượng.” Các thành viên của một đảng “không phải suy nghĩ về những chính sách sẽ ban hành hoặc tranh cãi về chúng. Thay vào đó, họ phản ứng với các biểu tượng.” Những người không phản ứng theo cách này đối với các biểu tượng tương tự sẽ “không thực sự” là các thành viên trong đảng và vì vậy họ đáng bị đNy xuống địa ngục∗. Trái lại các đảng viên đảng Cộng hòa trước đây “những người có suy nghĩ biểu tượng” chống đối mạnh mẽ với chính phủ một khi được sử dụng sức mạnh, hiện nay họ đã được thay thế bởi đảng Dân chủ “những người có suy nghĩ biểu tượng”…và cứ như vậy (Newsweek, 26/4/1971). Nhận thức xã hội được đề cập bằng một quan điểm được gợi lại từ một phát biểu kinh điển của Emile Durkhiem: “Đây chính là một quy luật nổi tiếng mà ở đó những Nn ý gợi lên trong chúng ta bởi một vài thứ tự động gán cho chính bản thân chúng bằng những biểu tượng tự thân.” (1926, 219). Những gì đáng kể trong những quan điểm phổ biến hiện đại không phải là sự tự do sử dụng biểu tượng mà là sợ mở rộng cách nhìn nhận việc sử dụng và gọi nó một cách biểu tượng.

Thêm một sự công khai sử dụng khái niệm biểu tượng không cần thiết chuyển tải một cách rõ rệt loại quan hệ được xem xét giữa vật biểu tượng và những gì mà nó muốn đại diện. Ý tưởng về biểu tượng tình dục dường như có thể minh họa đủ rõ ràng cho vấn

∗ Các trích dẫn đề cập đến Ernest Bevin lấy từ Roy Jenkins, The Times, 9/6/1971; Những gì quan tâm đến Thư viện Johnson là từ Ada Louise Huxtable, New York Times, 23/5/1971.v.v... ∗ Nguyên văn: Cast into outer darkness – thành ngữ tiếng Anh - ND.

Page 15: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

15

đề trên. Nhưng khi một diễn viên điện ảnh hoặc ca sĩ được ví như một biểu tượng tình dục, điều này vốn thường xuyên xảy ra, thì nó có ý nghĩa gì? Một hình ảnh thu nhỏ của những suy nghĩ và ham muốn tình dục, được minh họa một cách sinh động trong một con người cụ thể và điều này liên tưởng đến khiêu dâm một cách tế nhị - hoặc hiển nhiên - kết hợp với hình ảnh và động tác? Vâng, nhưng trong mọi chuNn mực: một biểu tượng tình dục chỉ dành cho một giới nhất định - nam giới cho nữ giới, nữ giới cho nam giới; chỉ với một số người – còn đa số thờ ơ, ngoại trừ những câu hỏi phức tạp từ những người bác bỏ biểu tượng luận một cách tức giận. Và ngoại trừ các giá trị về thể chất, có vẻ như nếu một người thường xuyên được tôn vinh sự hấp dẫn của bản thân một cách mơ hồ cả tinh thần cũng như thể chất, để cho biểu tượng tình dục không chỉ thể hiện hoặc gợi ra sự tiếp xúc xác thịt, mà còn ngụ ý thêm về cảm xúc, thậm chí là có phần thanh tao. Có lẽ đó cũng là một trong những lý do khiến Marilyn Monroe, được phong danh hiệu là một biểu tượng tình dục vĩ đại nhất trong thời đại của cô ấy, có những lời bình luận rằng biểu tượng về cô ấy là “những gì được va đụng cùng nhau.” Dưới sự dí dỏm của cô ấy, rất có thể, là những cách nhìn mơ hồ là thế nào mà có những biểu tượng như vậy. Những phức tạp trong khái niệm này nằm ở chỗ sự phản đối đàn bà, thể hiện ở sự phân biệt đối xử với những gì phụ nữ được giáo dục, thông qua hình ảnh những ông chủ với “biểu tượng hội chứng tình dục thư ký” (Time Magazine, 6 December,1971).

Một biểu tượng đại diện cho một cái gì khác nó - nhưng ở đây có rất nhiều mức độ ý nghĩa có liên quan. Chuyến thăm của tổng thống Nixon tới Alaska để gặp Thiên hoàng Nhật Bản được coi như là một hành động mang tính biểu tượng bởi vì nó được coi như không có sự tìm kiếm mục tiêu cụ thể - không có sự sắp đặt trước, không có câu hỏi nào cần phải giải quyết, không có hiệp ước nào được ký kết, những điều đòi hỏi sự có mặt của ông. Động tác thực hiện chuyến đi với khoảng cách dài như vậy có lẽ ngụ ý cho dấu hiệu về tình hữu nghị đã có hoặc được hy vọng sẽ tồn tại giữa lãnh đạo hai nước. Thực vậy, nó được bắt đầu với mục đích rõ ràng của tổng thống là để biểu lộ tình cảm mà trong thời gian qua đang có xu hướng mất dần trong các cuộc thảo luận về quan hệ kinh tế giữa Mỹ với Nhật, và rằng liên minh bền vững với Nhật có liên quan mạnh mẽ tới chính sách của Mỹ ở Châu Á. Nó cũng được bắt đầu rằng ông có ý muốn chỉ ra một đối trọng biểu tượng trong lần đàm phán hữu nghị với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đó là còn chưa kể đến quan điểm của một tác giả cho rằng trong khi cả hai người đàn ông và hai chính phủ trên đều “kịp thời nắm bắt được chủ nghĩa biểu tượng cơ hội”, “chủ nghĩa biểu tượng đã thuộc về quá khứ” (Max Frank, New York Times, 28/9/1971).

Theo cách nhìn nhận này, ở đây có một sự cân nhắc đáng kể giữa các quan chức của cả hai bên Nn đằng sau vẻ bề ngoài lịch sự, vì vậy nghi thức chào đón mang tính biểu tượng quốc gia đã không được đưa ra như nó vẫn tồn tại trong ngoại giao giữa các quốc gia, nhưng chính điều đã bị bỏ qua đó được hy vọng là sẽ quay trở lại. Đây là một hình ảnh minh họa cho thấy làm thế nào mà một biểu tượng có thể được tách ra từ thực tế hiện tại và đã thay thế cho một thực tế trong quá khứ hoặc sự ngẫu nhiên trong tương lai. Hoặc đặt nó trong một cách thức khác, những gì đang được “tuyên bố” thông qua các hành vi biểu tượng lại nằm trong sự ảnh hưởng của nó: hành động chào đón này không biểu lộ thực sự những gì các nhà lãnh đạo - hoặc các quan chức và người dân hai bên - đang nghĩ, nhưng phía đối nghịch của chúng ta đang cảm nhận, hoặc một diện mạo thứ yếu chứ không phải là một khía cạnh quan trọng. Ý nghĩa của một biểu tượng sau đó có thể là một hành vi mà, nếu nó vô nghĩa, chí ít sẽ là phản tác dụng đối với các mối quan hệ quốc gia. Nghĩa rộng của biểu tượng ở đây lại chỉ nằm ở bề ngoài, chứ không phải ở thực tế sâu xa. Hơn thế, Thiên Hoàng Nhật Bản là một bảo chứng hoàng gia về biểu tượng quốc gia. Vì vậy “sự dừng chân biểu tượng” của ông dành cho cuộc gặp gỡ có thể được miêu tả như một hành vi biểu tượng của một người vốn đã là một biểu tượng - một loại biểu tượng của sức mạnh thứ hai.

Page 16: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

16

Quan điểm cho rằng “biểu tượng” chỉ tương tự như những thứ “phi thực tế” được dẫn ra bởi một ví dụ khác - mặc dù nó cũng đặt ra câu hỏi liệu rằng trong việc sử dụng phổ biến giới hạn “biểu tượng” thường không dễ bị dùng sai. Như một phần của sự cố gắng để giúp kiểm soát việc buôn lậu những bức tranh cổ ra khỏi nước Ý, các nhà chức trách thuế quan Hoa Kỳ năm 1971 cho phép “bắt giữ mang tính biểu tượng” với tên gọi Boston Raphael, về tính xác thực của nó các chuyên gia giám định vẫn còn mâu thuẫn (Tạp chí Times, 6/3/1971; New York Times, 11/9/1971). Việc sử dụng thuật ngữ “mang tính biểu tượng” là gì trong bối cảnh này? Điều gì đã thực sự xảy ra dưới vẻ bề ngoài của việc các nhà chức trách thuế quan chịu trách nhiệm với những bức tranh và cho phép nó được gỡ ra từ bức tường của Bảo tàng Mỹ thuật Boston, nơi nó được treo lên để triển lãm cho công chúng, tới kho của bảo tàng. Ở đó nó vẫn còn dấu hải quan, dựa trên yêu sách cho rằng nó đã có thể bị buôn lậu trong nước mà không có phép. Ý nghĩa biểu tượng ở đây là gì? Các nhân viên thuế quan trên thực tế có thể đã không chạm tay lên các bức tranh, và vì vậy không thực sự “bắt giữ” nó; hành động của họ có thể vì vậy mà đã được mô tả như một sự bắt giữ 'n dụ; bằng cách này họ đã giành được quyền kiểm soát bức tranh mà không cần nắm giữ nó. Được mô tả hợp thức như “biểu tượng” trong những giới hạn thông thường, nó có thể dẫn đến tranh cãi rằng một hành động của sự chiếm đoạt nên được diễn giải bằng những cái khác, chứ không phải một hành động khác thể hiện sự bắt giữ. Cụm từ “bắt giữ mang tính biểu tượng”đương nhiên chỉ là một phát minh của báo chí. Nhưng từ quan điểm của công chúng khi nhìn nhận về nó có thể cho rằng “bắt giữ” thực sự chỉ là tượng trưng chứ ở đó không có ý định tóm lấy bức tranh nổi tiếng kia. Hành động này có thể có ý nghĩa như một sự ngăm cấm của các nhà chức trách thuế quan (hoặc cơ quan chính quyền nào đó) trong việc phát triển các bảo tàng và phòng trưng bày nghệ thuật từ các tác phNm của nước ngoài bỏ qua những quy định về các loại giấy phép thích hợp – nói cách khác, là buôn lậu những thứ có giá trị.

Trong một ví dụ khác, tính đa nghĩa của biểu tượng luận được thể hiện rõ rệt hơn trên nhiều chứng cứ. Khi những cuộc bầu cử dân chủ được đưa ra sau chiến tranh ở một vài quốc gia có trình độ dân trí thấp, những biểu hiệu bằng tranh ảnh thường được sử dụng để giới thiệu về các chính đảng khác nhau trong quá trình vận động tranh cử. Năm 1969, đảng Quốc đại Ấn Độ bị chia tách thành 2 phe đối nghịch, và một cuộc chiến hợp lệ kéo dài đã diễn ra để quyết định xem phe nào được dùng “biểu tượng cũ của đảng, hình ảnh hai con bò lồng ách”. Vấn đề này được xem là rất quan trọng vì có rất nhiều cử tri là những người mù chữ sẽ nhận ra và bầu trước hết cho biểu tượng hơn là cho đảng được đại diện (Times, 14/1/1971). Và cho đến khi Tòa án Tối cao từ chối không trao biểu tượng hai con bò bị lồng ách cho phe nào, đảng của bà Gandhi đòi chọn một biểu tượng về hình ảnh bà mẹ và đứa trẻ - nhưng trong sự kiện quan trọng này họ đã sử dụng hình ảnh con bò và con bê. Một vài đảng khác để hướng tới cuộc bầu cử đã sử dụng những phương sách tương tự để gợi tới hoạt động của nông dân - cái liềm và bông lúa; người phụ nữ bên khung xe sợi; chiếc đèn dầu (Neville Maxwell, New Society, 4/3/1971). Hình hoạ về những thứ này được mô tả như những biểu tượng của các chính đảng. Tới lúc đó, các bức vẽ được quy ước hóa như sự tượng trưng của con bò, hạt lúa,v.v... như những tín hiệu của họ. Có thể nói rằng phác họa của những thiết kế này chính là “những biểu tượng” của nhiều đảng chính trị khác nhau, chừng như nó có ý nghĩa rằng họ muốn gợi lên suy nghĩ từ các lãnh đạo đảng, các đảng viên, và toàn thể cử tri bản chất của mỗi đảng chính là thực thể chính trị của họ, những ý tưởng của họ, và chương trình hành động của họ. Cũng có thể, sự lựa chọn những biểu tượng “mang tính tự nhiên” giống như những con bò đực, bò cái và con bê, người mẹ và đứa con, hạt lúa, khung xe sợi, đèn dầu, đều có nghĩa để gợi tới tầm quan trọng của cử tri mà ở đó có sự kết nối giữa các đảng và sự quan tâm của họ tới cuộc sống của người dân sẽ được thể hiện.

Page 17: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

17

Với ngụ ý đối với cuộc chiến hợp lệ về ách bò kể trên, có thể thấy những giá trị, bao gồm cả uy tín, đã được đính kèm vào những biểu tượng này. Nhưng những gì mà các khNu hiệu thực sự biểu tượng hóa đối với các cử tri vẫn còn là cái gì đó rất mờ mịt. Liệu có phải họ đã kết nối hình ảnh những con bò đực với đảng Quốc đại truyền thống một cách thường xuyên đến mức người ta sẽ bầu cho những con bò đực với suy nghĩ rằng họ vẫn đang bầu cho chính đảng đó? Liệu họ có nhận ra rằng hình ảnh những con bò đực không còn đại diện cho đảng nhưng vẫn bầu cho khNu hiệu dựa trên nền tảng rằng những người đã sử dụng hình ảnh con bò đực tự động sử dụng các chính sách đã được cử tri thông qua - rằng chính sách đi cùng với biểu hiệu, chứ không phải với chính đảng mà ở đó nó có thể thay đổi biểu hiệu? Hoặc có phải những cử tri không băn khoăn về những vấn đề này, nhưng đơn giản là bầu cho khNu hiệu mà họ ngưỡng mộ hơn là trên những nền chữ nghĩa - và rằng họ thích hình ảnh từ những con bò đực tới hình ảnh bò cái hay bê, hoặc họ thích sự bộc lộ tình cảm của khNu hiệu về hình ảnh một người mẹ và đứa con? Cuối cùng thì điều đó không nằm trong tất cả các câu hỏi trên mà được minh hoạ bởi lời bình luận của một người phụ nữ mù chữ Kelantan Malay với một nhà nhân học khi được đối chất với chính đảng địa phương về các biểu tượng của một bó lúa, một chiếc thuyền đánh cá dưới cánh buồm, một ngôi sao và trăng lưỡi liềm. Cô nói rằng cô sẽ bầu cho hình ảnh bó lúa bởi vì với cô lúa gạo là liên quan đến phụ nữ trái lại chiếc thuyền đánh cá liên quan đến công việc của đàn ông, và các thiên thể thì ở rất xa. Vì vậy để miêu tả các khNu hiệu chính trị như “những biểu tượng” của các chính đảng thì phải phớt lờ đi một sự khác biệt có thể xảy ra ở trình độ của lời phát biểu - trong tính mộc mạc hồn nhiên hoặc tính thẳng thắn đối nghịch với tính phức tạp hoặc không thẳng thắn của sự diễn giải. Nói một cách khác - những sự kết hợp của các khNu hiệu chính trị có thể bị điều chỉnh bởi một số người thuộc nhóm nông dân hoặc nội trợ, không phải là khNu hiệu chính trị được phổ biến rộng như ý muốn. TIẾP CẬN NHÂN HỌC ĐỐI VỚI BIỂU TƯỢNG LUẬN

Tôi đã chỉ ra sự tồn tại ở một phạm vi rất rộng của thực thể mang tính biểu tượng - những thứ được gọi là biểu tượng và những ý tưởng về các biểu tượng - trong bối cảnh xã hội hiện tại tất cả chúng ta đều chuyển động. Tôi cũng đã đưa ra đề nghị rằng các thực thể có thể thích hợp với bất kỳ một nghiên cứu nhân học biểu tượng thông thường nào bởi vì những vấn đề để xác định và tưởng tượng về nó vẫn đang tiếp tục tăng lên.

Vậy đóng góp cụ thể của nhân học trong việc tìm hiểu biểu tượng luận là gì? Một nhà nhân học có thể làm gì để không giống với những gì mà nhà logic học, nhà siêu hình học, nhà ngôn ngữ học, nhà tâm lý học, nhà thần học, nhà lịch sử nghệ thuật và những người khác nữa đã làm? Về bản chất như tôi nhận thấy, cách tiếp cận theo hướng nhân học mang tính so sánh, quan sát, chức năng luận, trung lập tương đối. Nó liên kết và giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể. Vượt qua phạm vi rộng lớn của những trường hợp cụ thể, các nhà nhân học đã quan sát xem những biểu tượng gì được con người sử dụng thực sự, họ nói gì về những biểu tượng ấy, trong tình huống nào những biểu tượng sẽ bộc lộ ra và sự phản ứng với chúng. Theo đó, các nhà nhân học được trang bị để giải thích ý nghĩa của các biểu tượng trong các nền văn hóa mà họ đang nghiên cứu, và để sử dụng những lý giải như những phương tiện trung gian để hiểu xa hơn về các tiến trình trong đời sống xã hội. Victor Turner đã chỉ ra ở một trong những nghiên cứu của ông – góp một phần quan trọng trong những hướng phát triển mới - đó chính là một minh chứng của việc sử dụng nghi lễ và biểu tượng như một chìa khóa để tìm hiểu cấu trúc xã hội và tiến trình xã hội. Những người khác đã kiểm tra một cách rõ ràng những hành động mang tính biểu tượng trong các bối cảnh xã hội của họ để làm rõ cách hiểu về hiện tượng thay đổi chính trị hoặc tôn giáo. Nhưng tôi nghĩ rằng nhiều người trong chúng ta có liên quan chủ yếu đến một cách tiếp

Page 18: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

18

cận nhân học để nghiên cứu về biểu tượng luận chính là sự cố gắng để níu giữ lấy kinh nghiệm càng nhiều càng tốt dựa trên những vấn đề cơ bản của con người về những gì mà tôi muốn gọi là sự rời rạc - một khoảng cách giữa sự bày tỏ hời hợt công khai của hành động và ý nghĩa Nn tàng bên trong của nó. Bề ngoài, một người đang nói hoặc làm gì đó thì những quan sát và suy luận của ta sẽ nói cho ta biết nó không đơn giản như những gì đang diễn ra trước mặt - nó Nn chứa đằng sau điều gì đó, có ý nghĩa quan trọng hơn rất nhiều đối với anh ta.

Tôi sẽ đưa ra một minh họa xuất phát từ kinh nghiệm của tôi ở Thái Bình Dương cách đây nhiều năm∗. Tôi vẫn nhớ hình ảnh một thủ lĩnh dị giáo Tikopia nhiều lần đứng trong ngôi đền của ông ta và lau chùi cây cột lễ trung tâm của nó bằng những chiếc lá thơm được ngâm trong dầu dừa. Bây giờ bạn có thể bôi dầu lên gỗ để bảo quản nó hoặc bôi lên nó nước đánh bóng, như một kiểu trang trí. Và ở Thái Bình Dương, bạn có thể bôi dầu lên cơ thể bạn và thấm nó với những chiếc lá, khi bạn muốn trang trí cho cơ thể bạn, ví dụ khi tham gia vũ hội. Nhưng khi một thủ lĩnh làm việc chà xát những chiếc lá như vậy anh ta nói rằng: “thân thể của mày đã được tắm trong sức mạnh.” Ngày nay việc lau chùi xà nhà gỗ với một lượng lớn những chiếc lá đã được ngâm dầu không được xem như là một hành động tài trí. Nhưng hãy nghĩ rằng cây cột gỗ như một cơ thể thơm ngát mùi dầu giống như một cách trang điểm cho bà đồng (medium). Không nghĩ quá nhiều về một cơ thể vật chất, mà là một cơ thể vô hình - không cần thiết phải có hình dạng của một cột trụ, nhưng trong một bối cảnh khác, một cơ thể theo thuyết hình nhân, của một linh hồn, được tin là có thể kiểm soát mùa vụ, đánh bắt cá, và sức khỏe của con người. Nghĩ quá về việc tắm rửa như lau chùi, và lau chùi như một khởi đầu của việc trang trí, và trang trí mang lại sự dễ chịu cho một ai đó cũng như cho những người khác. Cho nên bạn có thể xem hành động này tượng trưng cho việc xức dầu lên thân thể của một vị thần với mùi hương thơm ngát để biểu lộ tình trạng những mối quan hệ và tình cảm của việc thờ cúng - và để dâng lên thần thánh lòng thành kính nhiều hơn với những lời thỉnh cầu của những người thủ lễ. Đây dường như là bước đi rất xa của biểu tượng luận. Đó là chưa kể đến việc rửa chân của chúa Giê-su bởi những môn đồ của ngài; việc xức dầu thánh của Giê-su bởi đức Mary của Bethany; giá trị biểu tượng đối với những người theo đạo Cơ-đốc của cây thánh giá, với những gì tương đồng với nó như Cây gỗ, Cây nghi lễ; và cũng nghĩ về khái niệm Bánh thánh (Chap.12), về Cơ thể Thần thánh của đức chúa Giê-su, về Cơ thể Tôn kính của Đức mẹ Đồng trinh. Không khó để nhận thấy rằng những gì chúng ta được thấy trong trường hợp người Tikopia chính là một dạng biểu tượng mặc dù vẻ bề ngoài của nó không giống như của đạo Cơ-đốc, nhưng có chung các dạng thức căn bản về khái niệm hóa biểu tượng và hình mẫu. Nhưng sự sắp xếp mang tính biểu tượng được sắp đặt trong một ma trận của xã hội của thị tộc, thủ lĩnh, các cách thức trang trí thân thể, thậm chí thiết kế kiến trúc đều cần đến sự nghiên cứu sâu về biểu tượng luận để được hiểu một cách đầy đủ.

Tiếp cận nhân học, với việc áp dụng một cách đầy đủ, sẽ có mục tiêu riêng của nó để đưa ra một sự mô tả mang tính hệ thống và phân tích một hành động mang tính biểu tượng bằng phương diện ngôn từ và phi ngôn từ của nó; để phân biệt các thành phần có ý nghĩa của hành động nói trên từ những gì ngẫu nhiên; để đánh dấu những thói quen hoặc các yếu tố chuNn mực ngược lại với những gì thuộc về cá nhân và các phong cách riêng; làm sáng tỏ từ chính người đang thực hiện hành động, những người tham gia và những người không tham gia với những ý nghĩa mà họ đã gắn kèm với hành động; và để đưa tất cả những cái đó vào một khung khái niệm chung, và trong một khung cảnh cụ thể với vị thế và mối quan hệ nhóm của những người liên quan. Đây là một nhiệm vụ đòi hỏi khắt khe. Nhưng nó lại được thực hiện bởi những nhà nhân học đáng ngưỡng mộ - được đề cập

∗ Chi tiết hơn và được thuật lại trong các hoạt động mang tính lễ nghi của Raymond Firth, 1967a, 209-11, 218-20, 234, 245; 1970a, 117- 19, pl.I

Page 19: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

19

đến ở đây như Audrey Richard, Monica Wilson và Victor Turner – tôi sẽ phân tích những nghiên cứu của họ trong các chương sau. Một vài nhà nhân học khác cũng đã có những nghiên cứu về sự thay đổi trong thành ngữ biểu tượng - ví dụ như bản thân tôi đã thực hiện trong nghiên cứu về lĩnh vực tôn giáo của người Tikopia (Firth, 1970a).

Nghiên cứu về biểu tượng luận, đặc biệt biểu tượng luận tôn giáo, là chủ đề thu hút nhất hiện nay trong nhân học xã hội. Đây là một xu hướng tìm kiếm trong nghiên cứu này giống như một hướng phát triển hoàn toàn mới, nhưng thực tế như tôi sẽ trình bày cụ thể trong chương 3, sự quan tâm về mặt nhân học đối với các biểu tượng đã được xem xét từ hàng trăm năm nay, trước cả thời của McLenan và Tylor. Có thể nhận thấy một thực tế rằng cho tới tận gần đây lĩnh vực này vẫn rất ít được quan tâm thoả đáng, có hệ thống hoặc được duy trì liên tục, và mối quan tâm hiện tại có phần phức tạp và tinh vi hơn, với việc sử dụng phép phân tích và tập trung ở cường độ cao∗. Tôi cho rằng có một vài lý do dẫn đến sự phát triển chậm trễ này. Thứ nhất, do một hệ quả của quá trình thực hiện mang tính chuyên nghiệp, các nghiên cứu mang tính hệ thống về biểu tượng luận đã phải chờ cho tới khi có đánh giá về sự tiến triển được thực hiện những lĩnh vực hợp thức hơn về cấu trúc xã hội, chẳng hạn như thân tộc hay chính trị. Giờ đây đã có khá nhiều nền tảng được đặt ra nên chúng ta có thể dựng nên những cấu trúc cao siêu hơn trong việc diễn giải biểu tượng. Thứ hai, những phát triển về mặt lý thuyết trong giao tiếp và ngữ nghĩa học, về những kí hiệu và hàm nghĩa của chúng, đã tập trung vào sự diễn giải các yêú tố hành vi mà ở đó ý nghĩa của kí hiệu dường như luôn trở nên phức tạp và mờ mịt. Thứ ba, sự gia tăng hệ thống định nghĩa văn hóa trong ý nghĩ và trong quan niệm cũng như quá trình suy nghĩ trở nên phổ biến hơn, điều đó đã kích thích sự quan tâm đối với các lĩnh vực như biểu tượng luận, nơi mà mối quan hệ giữa các thành tố dường như ở trên tất cả các loại khái niệm. Tất cả những thứ đó chỉ là một phần tương đối giản đơn trong chiều sâu học thuật.

Tuy nhiên tôi cho rằng còn có hai lý do quan trọng khác. Nó được lưu giữ trong tâm lý phổ biến của thời đại chúng ta của thời chúng ta đã bị cuốn hút với những nghiên cứu chỉ liên quan đến bản thân chúng mà ít đề cập đến khía cạnh hành vi của con người, điều này có xu hướng loại bỏ hoặc phê phán cách tiếp cận của các nhà thực chứng luận, và nó đã làm cho các ý tưởng trở nên tối nghĩa, thiếu chắc chắn, huyền bí. Đây có thể là một phần của sự chống lại hoặc giảm bớt các đòi hỏi cấp bách về sự hợp lý và sự chính xác trong xã hội công nghiệp, xã hội máy móc thống trị của chúng ta. Một lý do khác mang tính cá nhân hơn. Một số nhà nhân học (tôi cho rằng nên có cả bản thân tôi ở đây) đã tìm ra vị trí công việc của họ trong biểu tượng luận như một phương tiện để thNm định và bắt đầu, có lẽ đang quyết tâm, một vài quan điểm cá nhân của họ về bản chất và những yếu tố quyết định tới các mối quan hệ xã hội và hoạt động của con người. Ở đây tôi có thể nói rằng trong khi tôi đang có ấn tượng mạnh mẽ bởi sự kết hợp tuyệt vời của các nghiên cứu nhân học hiện đại với biểu tượng luận, tôi không thể đưa ra tất cả những viễn cảnh chỉ bằng một vài luận giải nổi bật trong số đó.

Nó dường như có ý nghĩa hơn đối với tôi, và để làm phù hợp với thế giới ngày nay, rằng các nhà nhân học nên có gắng làm sáng tỏ ngôn ngữ biểu tượng và hành vi biểu tượng và liên kết chúng trong phạm vi của các hình mẫu xã hội và các giá trị xã hội. Trong đó nghiên cứu về các biểu tượng chính trị là rất quan trọng. Nhưng tôi không cho rằng chỉ những vấn đề này là phù hợp với các mối quan hệ chính trị - trừ phi ai đó hiểu được những gì thuộc về chính trị, giống như một vài đồng nghiệp của tôi đã làm, giống như sự đòi hỏi bất cứ loại quan hệ nào giữa con người với con người mà ở đó quyền lực luôn có sự liên

∗ Năm 1956, tại cuộc gặp gỡ ở Philadelphia của Hội nghị Dân tộc học Quốc tế, bản thân tôi đã phát biểu rằng các nhà nhân học ít quan tâm một cách cụ thể tới biểu tượng luận. Trái lại, Rodney Needham gần đây đã viết “ngày nay, khi ở đó có một sự nở hoa trong sự quan tâm tới tất cả các dạng thức của biểu tượng luận” (trong Hocart, 1970, xxix).

Page 20: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

20

quan, bất kể trên quy mô nào. Các biểu tượng tôn giáo cũng rất quan trọng, nhưng tôi nhìn chúng như một cách để đề cập tới những yêu cầu tương tự của thực tế như một chỗ dựa, được phân loại bởi mức độ quan tâm giành cho chúng, chứ không bởi tính độc nhất của những chủ thể mà họ đề cập. Cho nên trong khi tôi gộp cả biểu tượng chính trị và biểu tượng tôn giáo vào trong sự thNm định của chính mình ở cuốn sách này tôi đã lấy ra một cách thận trọng trong những chất liệu của cuộc sống đơn giản thường ngày - chẳng hạn như tính biểu tượng trong những cách đội mũ, chào đón và chia tay, trao và nhận quà, hay vẫy những lá cờ. Tôi cũng rất thận trọng khi cố gắng cân nhắc tới khía cạnh riêng và chung trong các hành vi biểu tượng và các khái niệm biểu tượng, bởi vì tôi cho rằng mối quan hệ liên kết giữa chúng thường bị sao lãng, bởi một số nhà nhân học cũng như những sinh viên của các ngành khác khi nghiên cứu về biểu tượng luận. Tôi nghĩ rằng các mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, các biểu tượng xã hội và cá nhân là rất quan trọng để cân nhắc bởi vì chắc chắn ngày nay dường như đang có những xu hướng mạnh mẽ trong xã hội nhằm chối bỏ những biểu tượng truyền thống và hướng tới sự khám phá, thậm chí là phát minh ra những biểu tượng mới - những xu hướng mà ở đó những ý thích và quyết định cá nhân được đưa ra nhằm được thừa nhận là những hình mẫu biểu tượng của cộng đồng.

Phổ biến hiện nay, những diễn đạt chưa được phân tích về biểu tượng luận lại gây được sự chú ý đối với một số nhà nhân học bởi vì chúng là một phần nguyên liệu thô dùng trong nghiên cứu so sánh về quá trình suy nghĩ và hành động của con người. Chúng bộc lộ khuynh hướng và kéo dài thêm những rối rắm của con người trong vô số loại tiến trình xã hội, và đặc tính trừu tượng đó lại được áp dụng vào những quá trình nói trên. Nhưng ở mức độ phân tích cao hơn, đặc trưng hoá việc xử lý về biểu tượng luận cũng mang tầm quan trọng về mặt nhân học đối với họ. Rất nhiều nhà triết học, nghệ thuật học, lịch sử nghệ thuật, phê bình văn học, thần học đã viết về biểu tượng luận không phải ngay lập tức đã có sự phù hợp với những nghiên cứu nhân học. Nhưng tôi cho rằng nó có giá trị rõ ràng cho những mục đích nghiên cứu trong nhân học. Trước hết, tôi nhận thấy nó giúp thỏa mãn kịp thời cho những trí óc tò mò để biết được những tranh luận đã được đưa ra về biểu tượng luận bởi các chuyên gia trong những lĩnh vực khác và trong phạm vi tài liệu mà họ bao quát. Thứ hai, một vài minh họa họ đưa ra giúp gợi ý gián tiếp về một số dữ liệu nhân học có liên quan, và có thể là những gợi ý đan xen trong quá trình xử lý. Cuối cùng, một số giả thuyết mà họ đưa ra về những tiêu chuNn nhận dạng các biểu tượng, mối quan hệ giữa các biểu tượng chung và riêng, mối quan hệ biểu tượng hóa trong diễn đạt và giao tiếp đã cung cấp những thứ tương tự hoặc thách thức các quan điểm nhân học. Đó là chưa kể tới việc họ dường như luôn bỏ qua khía cạnh xã hội rất quan trọng đối với một nhà nhân học, và để đưa ra những khẳng định đối với nhà nhân học đó là ràng buộc văn hoá (culture-bound), hoặc “vị chủng” (ethnocentric). Vì vậy tôi nghĩ rằng hệ thống lý thuyết để khám phá biểu tượng luận của các nhà nhân học nên bỏ qua sự tồn tại về mối quan tâm từ các lĩnh vực khác.

Từ sự bao la của những đóng góp học thuật tôi chỉ có thể đưa ra những lựa chọn mang tính cá nhân về một vài ví dụ mà theo quan điểm của tôi nó phù hợp với những vấn đề mà các nhà nhân học cần xem xét một cách căn bản. Chúng có thể có những đóng góp cho những nghiên cứu liên ngành còn rất hạn chế mà các nhà nhân học đã theo đuổi./.

Page 21: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

21

CẤU TRÚC LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU BIỂU TƯỢNG: TỪ KÝ HIỆU HỌC ĐẾN NHÂN HỌC BIỂU TƯỢNG

TS. Đinh Hồng Hải Viện Nghiên cứu văn hoá

27 Trần Xuân Soạn, Hà Nội ĐT: 0985731933 Email: dinhhaih@yahoo/gmail.com

Đặt vấn đề Khoa học xã hội nói chung và khoa học nghiên cứu biểu tượng nói riêng đã được

du nhập vào Việt Nam từ hơn 100 năm qua theo hướng tiếp cận hàn lâm của phương Tây. Cho đến nay, các nghiên cứu khoa học xã hội trên bình diện văn bản học (như văn học, sử học, triết học, ngôn ngữ học,...) đã đạt được khá nhiều thành tựu, trong khi nghiên cứu biểu tượng (như ký hiệu học, nhân học biểu tượng,...) dường như vẫn đang là một mảnh đất còn bỏ trống với số lượng các công trình nghiên cứu chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thậm chí trong số những nghiên cứu ít ỏi đó, chưa một công trình nào thực sự “đặt nền móng” cho một khoa học nghiên cứu về biểu tượng. Tại sao có tình trạng như vậy? Thật khó để đưa ra một câu trả lời đầy đủ, nhưng nếu xét trên bình diện chung của các bộ môn khoa học có liên quan đến nghệ thuật và biểu tượng, chúng ta có thể nhận thấy: Thiếu nền tảng lý thuyết và phương pháp luận chính là mấu chốt của vấn đề.

Trên thực tế, đã có nhiều hệ thống phương pháp luận nghiên cứu có liên quan đến nghệ thuật và biểu tượng trên thế giới ra đời trên cơ sở lý thuyết nghiên cứu của các chuyên ngành như triết học, văn học, dân tộc học, mỹ học, đặc biệt là ký hiệu học. Một trong những lý thuyết có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, được coi như một “cuộc cách mạng” về lý thuyết trong khoa học xã hội thế kỷ XX, là cấu trúc luận (structuralism). Cho đến nay, cấu trúc luận đã được sử dụng làm một trong những lý thuyết nền tảng của nhiều chuyên ngành khác nhau trong khoa học xã hội như nhân học cấu trúc (structural anthropology), ngôn ngữ học cấu trúc (structural linguistics), ký hiệu học văn hoá (cutural semiology),v.v... Trong nội dung của nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề cập đến cấu trúc luận và việc sử dụng khung lý thuyết này dưới góc nhìn ký hiệu học và nhân học biểu tượng như một hướng tiếp cận cụ thể đối với nghiên cứu biểu tượng trong giai đoạn hiện tại. 1. Cấu trúc luận với ngôn ngữ học và ký hiệu học

Cấu trúc luận là một lý thuyết khoa học được sáng lập bởi nhà ngôn ngữ học Thuỵ Sỹ - Ferdinand de Saussure cách đây gần một thế kỷ.3 Ban đầu cấu trúc luận chỉ sử dụng trong phạm vi của ngôn ngữ học, nhưng với phương pháp tiếp cận ký hiệu học, nó nhanh chóng mở rộng tầm ảnh hưởng đến nhiều ngành khoa học xã hội khác trở thành một trong những lý thuyết quan trọng nhất đối với khoa học xã hội và nhân văn trong thế kỷ XX. Ngay tại thời điểm đưa ra những nguyên lý căn bản của cấu trúc luận, Ferdinand de Saussure đã tiên đoán được tầm ảnh hưởng của nó sẽ vượt ra ngoài phạm vi của ngôn ngữ học với một nhận định hết sức chính xác: “Một ngành khoa học nghiên cứu về sự tồn tại của các ký hiệu trong đời sống xã hội là hoàn toàn phù hợp, khoa học này sẽ là một phần của tâm lý học xã hội và do đó cũng là một phần của tâm lý học nói chung; tôi sẽ gọi nó là ký hiệu học - semiology (trong tiếng Hy Lạp semeion có nghĩa là “ký hiệu”). Ký hiệu học sẽ nghiên cứu về những yếu tố cấu thành của ký hiệu, những quy luật chi phối chúng. Khi

3 Ferdinand de Saussure được coi như “cha đẻ”của cấu trúc luận trong ngôn ngữ học trên cơ sở của ký hiệu học ngôn ngữ, tuy nhiên, ý tưởng về ký hiệu học đã được nhà triết học người Anh là John Locke đưa ra từ thế kỷ XVII. Và ở bên kia bờ Đại Tây Dương, nhà logic toán học triết học người Mỹ Charles Sander Peirce cũng đã thiết lập nên một hệ thống lý thuyết ký hiệu học được sử dụng rộng hơn trong khoa học liên ngành (Peirce được coi như cùng thế hệ với Sausure nhưng nhiều hơn 18 tuổi). Vì vậy mà khi nói đến ký hiệu học thì cả Saussure và Peirce đều được xem như những nhà sáng lập.

Page 22: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

22

ngành khoa học này chưa ra đời, không một ai có thể nói nó thực sự là cái gì; nhưng nó có quyền được tồn tại, tại một nơi đã được chọn trước. Ngôn ngữ học cũng chỉ là một phần trong khoa học về ký hiệu học nói chung; những quy luật được khám phá trong ký hiệu học sẽ được ứng dụng vào ngôn ngữ học, và sau cùng nó sẽ giới hạn rạch ròi tại một khu vực trong tổng thể các lĩnh vực của nhân học” (Ferdinand de Sausure 1915, tr.16).

Tới nay, gần 100 năm sau ngày ông qua đời (1913), cấu trúc luận của Ferdinand de Saussure vẫn được các nhà khoa học nối tiếp nhau mở rộng và đào sâu thêm các khái niệm chỉ từ một mô hình cấu trúc ban đầu vô cùng đơn giản:

Ký hiệu (Sign) =

Cái biểu đạt (Signifier)

Cái được biểu đạt (Signified)

Theo đó: “Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ có hai phần: cái biểu đạt (le signifiant) và cái được biểu đạt (le signifié). Cái biểu đạt là một hình ảnh thính giác, cái được biểu đạt là một khái niệm. Không có mối liên hệ tất yếu nào giữa ký hiệu với vật được chỉ định, hay như người ta thường nói, liên hệ giữa chúng là võ đoán” (Trịnh Bá Đĩnh 2011).

Từ mô hình trên nhiều nhà khoa học như Romand Jakobson, Roland Barthes, Louis Hjelmslev, Jacques Derrida, Claude Levi-Strauss, Michel Foucault,... đã tiếp tục phát triển cấu trúc luận dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, cả trong cũng như ngoài ngôn ngữ học, hình thành nên một hệ thống lý thuyết về cấu trúc vô cùng phong phú dựa trên nền tảng ký hiệu học. Với góc độ tiếp cận rộng lớn như vậy, thuật ngữ ký hiệu (sign) trong ngôn ngữ học cơ bản đã phát triển thành một thuật ngữ chung được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau để chỉ một khái niệm mới rộng lớn hơn bao gồm mọi ký hiệu, dấu hiệu, tín hiệu, sự vật, hiện tượng, lời nói, cử chỉ, hành động,... có tính thông tin. Và ngôn ngữ cũng không còn là một thuật ngữ riêng của ngôn ngữ học mà nó bao hàm mọi thành tố được con người biểu thị. Theo Roman Jakobson, hệ thống ký hiệu này bao gồm “mọi loại thông tin được tạo bởi các ký hiệu; tương ứng với điều đó, khoa học về các ký hiệu được gọi bằng thuật ngữ ký hiệu học có quan hệ với các yếu tố nền tảng cơ bản này là cơ sở cho cấu trúc của tất cả các ký hiệu bất kỳ loại nào, và với những đặc tính của chúng trong nội hàm thông tin, cũng như với những đặc trưng riêng biệt của các hệ thống ký hiệu khác nhau, và trong vô vàn loại thông tin khác nhau được sử dụng bằng các loại ký hiệu khác nhau.” (“Ngôn ngữ trong mối liên hệ tới các hệ thống giao tiếp khác” Tuyển tập Roman Jakobson, Tập II, tr.698)4.

Trên cơ sở các lý thuyết mở rộng như trên, Louis Hjelmslev đã mô hình hoá khái niệm của Ferdinand de Saussure bằng sơ đồ:

4 Dịch từ Terence Hawces 1973, tr.125-126.

Page 23: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

23

Đóng góp quan trọng nhất của L.Hjelmslev là sự phân biệt giữa"Ký hiệu học biểu thị" với "Ký hiệu học hàm nghĩa." Hệ thống ký hiệu thông thường là hệ thống ký hiệu biểu thị. Còn hệ thống ký hiệu hàm nghĩa là một hệ thống ký hiệu mà bình diện biểu đạt (hình thức) của nó cũng là một hệ thống ký hiệu biểu thị (Nguyễn Văn Hậu 2010).

Đi xa hơn, Roland Barthes đã áp dụng lý thuyết cấu trúc trong ký hiệu học để kiến giải thần thoại bằng một sơ đồ phát triển như sau: Huyền thoại (Mythology)

Ngôn ngữ (Language)

1. Cái biểu đạt (Signifier)

2.Cái được biểu đạt (Signified)

3. Ký hiệu (Sign) I.CÁI BIỂU ĐẠT

(SIGNIFIER)

II.CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT

(SIGNIFIED)

III. KÝ HIỆU (SIGN)

Nguồn: Roland Barthes (Annette Lavers chuyển ngữ). Mythologies Straus Farrar & Giroux. 1-1, 1972, tr.115

Với sơ đồ này, Roland Barthes đã phát triển mô hình cấu trúc của ký hiệu, cái biểu đạt và cái được biểu đạt ở một mức cao hơn. Theo đó, ký hiệu được hình thành từ cái biểu đạt và cái được biểu đạt ban đầu lại kết hợp với nhau bằng mô thức của CÁI BIỂU ĐẠT và CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT cao hơn tạo nên các KÝ HIỆU5 mới. Đó cũng là mô thức mà ông dựa vào để phân tích cấu trúc của huyền thoại. Hướng tiếp cận mở rộng này cũng được Jacques Derrida, Umberto Eco, Michel Foucault và nhiều nhà khoa học khác phát triển trong các nghiên cứu của họ. Từ đây, quan niệm về cái biểu đạt, cái được biểu đạt và ký hiệu đã vượt ra ngoài khuôn khổ của cấu trúc luận giai đoạn đầu để hình thành nên một trào lưu mới với tên gọi giải cấu trúc hay hậu cấu trúc luận.6

Trên đây chỉ là một vài nét tóm lược (qua một số ví dụ) về việc áp dụng cấu trúc luận trong ký hiệu học ngôn ngữ, còn trên thực tế, tầm mức ảnh hưởng của nó đối với các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn khác đã vượt xa những điều mà Ferdinand de Saussure dự đoán: “Lĩnh vực ký hiệu học rất rộng lớn, bắt đầu từ những nghiên cứu về hành vi giao tiếp của các loài động vật (ký hiệu học động vật-zoosemiotics) tới những phân tích về các hệ thống ký hiệu biểu tượng như giao tiếp thông qua điệu bộ cơ thể con người (kinesics và proxemics) các ký hiệu khứu giác (“sự mã hóa” của các mùi hương), lý thuyết mỹ học, và tu từ học. Hầu hết, các ranh giới của nó (nếu có) đều có sự giáp giới với những

5 Các chữ viết hoa ở đây là cách dùng của Roland Barthes nhằm nhấn mạnh và làm rõ hơn các khái niệm mà ông đưa ra nên chúng tôi xin được giữ nguyên. 6 Tên gọi của trơờng phái này cũng đang là một đề tài gây tranh luận. Xin xem thêm các nghiên cứu của Nguyễn Văn Dân, Phơơng Lựu,... đã xuất bản trong thời gian qua.

Page 24: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

24

gì thuộc về cấu trúc luận: sự hấp dẫn của hai lĩnh vực này về cơ bản không tách rời nhau, và trong dài hạn, cả hai đều cần phải được đưa vào một lĩnh vực thứ ba phù hợp hơn, bao hàm nhiều lĩnh vực được gọi đơn giản là giao tiếp (communication). Trong bối cảnh đó, bản thân cấu trúc luận sẽ trở nên nổi bật như một phương pháp phân tích kết nối các lĩnh vực ngôn ngữ học, nhân học và ký hiệu học”(Terence Hawce 1977, tr.123). 2. Khoa học nghiên cứu về biểu tượng

Biểu tượng là gì? khoa học nghiên cứu biểu tượng là gì? nghiên cứu biểu tượng nhằm mục đích gì? là những câu hỏi mà chúng tôi đặt ra để giải quyết trong chuyên mục này trước khi đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa cấu trúc luận với các khoa học nghiên cứu về biểu tượng.

Biểu tượng trong tiếng Việt là một từ gốc Hán được dùng khá trừu tượng. Theo Từ điển Tiếng Việt, biểu tượng có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là: “hình ảnh tượng trưng,” nghĩa thứ hai là: “hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt” (Hoàng Phê 1998, tr.26). Còn symbol trong tiếng Anh là một từ bắt nguồn từ ngôn ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong tiếng La Mã và symbolon trong tiếng Hy Lạp). Theo Từ điển Biểu tượng thì “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho chính bản thân nó” (C.G.Liungman 1991, tr.25). Biểu tượng có tính đa nghĩa nhưng chúng ta có thể chia làm hai nghĩa chính là biểu hình và biểu ý. Trên thế giới, thuật ngữ symbology được nhiều từ điển giải thích với các ý nghĩa: là 1-Việc nghiên cứu hoặc sử dụng các biểu tượng và 2-Tập hợp các biểu tượng (1: the study or use of symbols. 2: symbols collectively). Các từ điển nghệ thuật có thêm một ý nghĩa là: 3-Nghệ thuật sử dụng các biểu tượng để nhắc đến một trào lưu nghệ thuật thịnh hành ở châu Âu vào thế kỷ XIX. Như vậy, thuật ngữ symbology trong tiếng Anh tương đương với nghiên cứu biểu tượng (hoặc biểu tượng học) trong tiếng Việt.

Có thể thấy rằng, đối với khoa học nghiên cứu về biểu tượng, tiếp cận liên ngành (interdiciplinary) là một hướng đi bắt buộc, tuy nhiên, sự kết nối các lĩnh vực ngôn ngữ

học, nhân học và ký hiệu học như Terence Hawkes đã đề cập ở trên cần phải được đặt làm nền tảng và là hướng đi phù hợp nhất trong giai đoạn hiện nay (chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần cuối của bài viết). Thực tế ở Việt Nam, cho tới nay, các chuyên ngành nghiên cứu biểu tượng như ký hiệu học hay nhân học biểu tượng vẫn chưa được công nhận như một bộ môn khoa học độc lập và cũng chưa có mã ngành đào tạo. Trong khi đã có khá nhiều trường đại học lớn trên thế giới như Columbia, Indiana, MIT (Massachusetts Institute of Technology), Standford, Hawaii ở Mỹ, Toronto, McGill, Western Ontario ở Canada, Tartu ở Estonia, Helsinki ở Phần Lan,v.v... tiếp cận theo hướng chuyên môn hoá.7 Gần đây, Khoa Văn học, Đại học KHXH&NV- ĐHQG HN đã cho ra đời môn học mới là Nhập môn nghệ thuật; Khoa Nhân học, Đại học KHXH&NV- ĐHQG Tp.HCM với môn Nhân học nghệ thuật và Biểu tượng; Khoa Văn hoá học, Đại học Văn hoá Hà Nội với môn Ký hiệu học văn hoá được coi như những bước đột phá trong việc tiếp cận lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu nghệ thuật và biểu tượng. Trong khi đó, các trường thuộc khối nghệ thuật thường chỉ tập trung vào các vấn đề có

7 Năm 2009, sau khi tác giả Dan Brown cho ra đời cuốn sách thứ 2 “The lost symbol” (Biểu tượng đã mất) sau thành công vang dội của “The Davinci code” (Mật mã Davinci), tại Đại học Harvard đã diễn ra cuộc tranh luận là có nên thành lập Department of Symbology không? Câu trả lời cuối cùng của bộ phận quản trị hành chính của trường là không, bởi vì tại Đại học Harvard đã có các phân ngành liên quan như “religious iconography” (nghiên cứu thánh tượng tôn giáo) “cryptography” (mật mã học) và lịch sử nghệ thuật. Xem thêm bài viết trên blog của The New Yorker (Tạp chí Người New York) ngày 15/9/2009: http://www.newyorker.com

Page 25: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

25

tính thực hành mà ít quan tâm đến các vấn đề lý thuyết và phương pháp luận. Đây là những bất cập lớn trong hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta cần được khắc phục.

Với câu hỏi chúng ta nghiên cứu biểu tượng nhằm mục đích gì? Câu trả lời đơn giản là để tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nhưng ý nghĩa của nó như thế nào, được sử dụng ra sao lại là những vấn đề không hề đơn giản vì mỗi biểu tượng đều có ý nghĩa riêng tuỳ thuộc vào thời gian và không gian của nó, nói cách khác, ý nghĩa của mỗi biểu tượng phụ thuộc vào nền văn hoá sản sinh ra nó, phụ thuộc vào bối cảnh và thời điểm mà nó ra đời, và tất nhiên, mục đích sử dụng của nó cũng thay đổi tuỳ thuộc vào các yếu tố trên. Để có thể minh họa cho các vấn đề đã nêu, dưới đây, chúng tôi xin lấy một ví dụ về vật biểu tượng và hành vi biểu tượng trong một nghi lễ biểu tượng diễn ra trong cùng một bối cảnh cụ thể để làm rõ hơn các khái niệm.

Trong chuyến điền dã dài ngày của chúng tôi (PGS.TS. Gabor Vargyas, Đại học Pecs, Hungary và tác giả bài này) ở khu vực cư trú của người Bru -Vân Kiều, tại nhà Chuôi Cươm (còn gọi là Pạ Thưq) ở xã Ea Hiu, Krông Pak, Đaklak. Ngày 2/5/2007, khi chúng tôi đến, ông đang bị ốm, và trận ốm cũng đã kéo dài nhiều tháng. Thế nhưng, câu chuyện mà gia đình ông trao đổi với chúng tôi không hề đề cập đến vấn đề bệnh tật mà lại xoay quanh nỗi lo về một lễ cúng đã trì hoãn nhiều năm do không có tiền tổ chức. Cũng như những năm trước, hôm đó là ngày ông phải “báo cáo” với Yang về hoàn cảnh bệnh tật và mức độ khó khăn của gia đình. Cùng với việc đó, ông sẽ phải tiếp tục xin phép Yang cho được “khất nợ” việc tổ chức lễ cúng trong năm nay. Lễ khất nợ của ông diễn ra đơn giản như sau: Từ bát cơm cúng, ông nối một sợi dây tới cây cột đóng bàn thờ. Sau đó ông khấn Yang với nội dung như đã từng làm với các lần trước đó (xin khất nợ). Khi chúng tôi hỏi bát cơm và sợi dây có ý nghĩa gì? Ông giải thích, bát cơm tượng trưng cho lễ cúng mà ông sẽ phải làm và sợi dây là sự xác nhận lời hứa của ông được thực hiện trước Yang. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy vật biểu tượng ở đây chính là bát cơm và sợi dây, còn hành vi biểu tượng chính là lời hứa và sự khất nợ. Các thành tố đó được diễn ra trong một nghi lễ biểu tượng (một lễ khất nợ đơn sơ thay cho một lễ cúng đầy đủ). Trở lại với câu hỏi nghiên cứu biểu tượng để làm gì? Theo Raymond Firth, đó là để “làm sáng tỏ ngôn ngữ biểu tượng (symbolical language) và hành vi biểu tượng (symbolical behaviour), liên kết chúng trong phạm vi của các hình mẫu xã hội và các giá trị xã hội”(Raymond Firth, 1973. tr.28).

Vật biểu tượng: sợi dây và bát cơm

Ảnh TG Ảnh chụp tại Eahiu, Krông Pak, Đaklak, năm 2007 Ở trên chúng ta đã có ví dụ minh hoạ về hành vi biểu tượng trong một nghi lễ biểu

tượng. Vậy ngôn ngữ biểu tượng mà Raymond Firth đã đề cập là gì?

Page 26: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

26

Trong Từ điển tiếng Việt thuật ngữ ngôn ngữ được giải nghĩa là: “Hệ thống kí hiệu dùng làm phương tiện diễn đạt, thông báo”- bên cạnh ý nghĩa được sử dụng cho ngôn ngữ học (Hoàng Phê 1998, tr.666). Trong Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, phần Lý thuyết kí hiệu ngôn ngữ định nghĩa: “Lý thuyết coi ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu và do đó, việc nghiên cứu ngôn ngữ phải đi từ sự xem xét các thuộc tính của các đơn vị và các mối quan hệ giữa chúng trên cơ sở bản chất kí hiệu của chúng.” Và theo Edmund Leach: “Đối với nhà nhân học, ngôn ngữ là một phần của văn hoá, chứ không phải là một đối tượng nghiên cứu tự thân. Hầu hết các vấn đề của nhà nhân học liên quan đến việc giao tiếp của con người. Ngôn ngữ là một phương tiện, nhưng những hành vi thông thường cũng là phương tiện giao tiếp”(Edmund Leach 2006, tr.217).

Trong khi ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cho phép con người giao tiếp với nhau bằng khả năng tri nhận trực tiếp của các giác quan thì ngôn ngữ biểu tượng cho phép con người ở nhiều nền văn minh khác nhau, nhiều vùng văn hoá khác nhau, thậm chí ở nhiều thời gian và không gian khác nhau hiểu được nhau nhờ vào đặc tính căn bản của nó là thông tin và giao tiếp thông qua hệ thống kí hiệu hàm nghĩa của nó. Nhờ có ngôn ngữ biểu tượng mà con người có khả năng giao tiếp vượt thời gian và không gian để hiểu được con người sống ở các nền văn minh cổ xưa cách chúng ta hàng nghìn năm thông qua những di vật văn hoá mà họ để lại.8 Trong xã hội hiện đại, ngôn ngữ biểu tượng giúp con người giao tiếp và hoà nhập với nhau mà không nhất thiết phải nói chung một thứ tiếng (chẳng hạn: ngôn ngữ máy tính, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ mật mã...). Có thể thấy, mối quan hệ giữa ký hiệu học với ngôn ngữ biểu tượng là một mối quan hệ đặc biệt: Các ký hiệu hình thành nên ngôn ngữ biểu tượng và ngôn ngữ biểu tượng lại chính là ngôn ngữ biểu đạt của các ký hiệu. Bằng mối quan hệ này, Claude Levi-Strauss, người được coi như “cha đẻ” của nhân học hiện đại, đã thiết lập nên lý thuyết về nhân học cấu trúc (structural anthropology). Lý thuyết này không chỉ giúp giải quyết được nhiều vấn đề trong nghiên cứu ngôn ngữ, văn bản hay thần thoại mà còn cả trong các vấn đề có liên quan đến đời sống văn hoá và xã hội của loài người. Theo ông: “Mọi nền văn hoá có thể được xem như là một tổng thể các hệ thống biểu tượng mà ở hàng đầu là ngôn ngữ, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật khoa học, tôn giáo. Tất cả các hệ thống đó nhắm đến sự thể hiện một số mặt của thực tại thể xác và thực tại xã hội, và hơn thế nữa, thể hiện các quan hệ mà hai loại hình thực tại đó và bản thân các hệ thống biểu tượng có với nhau” (Levi-Strauss 2011).

Tóm lại, ngôn ngữ biểu tượng là một thành tố văn hoá do con người tạo ra để sử dụng như một loại công cụ thông tin và giao tiếp có tính tượng trưng. Chúng ra đời, tồn tại và tác động đến đời sống văn hóa của con người. Vì vậy, việc tìm hiểu ngôn ngữ biểu tượng cũng chính là tìm hiểu đời sống văn hoá và xã hội loài người thông qua các biểu tượng văn hoá do họ tạo ra. Và do vậy, nghiên cứu biểu tượng là khoa học có chức năng giải mã các thành tố văn hoá được sản sinh trong đời sống của con người. Nền tảng của khoa học này có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với lý thuyết ký hiệu học. 3. Nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn ký hiệu học

Nghiên cứu ý nghĩa của các biểu tượng, hay nói cách khác là tìm hiểu ngôn ngữ biểu tượng trong đời sống văn hoá của con người, cho tới nay không còn là một công việc mới mẻ trong nền khoa học thế giới. Nhưng ở nước ta, một hệ thống lý thuyết cần có (như nhiều chuyên ngành khác đã có) để các nhà khoa học tiếp cận với đối tượng nghiên cứu này vẫn còn là một vấn đề chưa ngã ngũ. Đây là một khoảng trống cần được khoả lấp bởi nếu không có cơ sở lý thuyết, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu thì không

8 Chẳng hạn, bộ môn Nghiên cứu chữ tượng hình (hieroglyph) đã giúp các nhà khoa học dịch được rất nhiều văn bản tượng hình cổ của người Ai Cập cách ngày nay 3-8000 năm.

Page 27: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

27

một ngành hay chuyên ngành khoa học nào có thể tồn tại và phát triển. Theo chúng tôi, để có thể đặt nền móng cho bộ môn nghiên cứu biểu tượng thì một nền tảng căn bản từ lý thuyết ký hiệu học sẽ giúp cho hệ thống lý thuyết nghiên cứu biểu tượng hình thành và phát triển một cách vững chắc hơn. Trong chuyên mục này, chúng tôi sẽ đưa ra một số khái niệm và mô hình mà các nhà khoa học đã thực hiện dưới góc nhìn ký hiệu học, để từ đó chúng ta có thể đi xa hơn trong việc sử dụng cấu trúc luận trong khoa học nghiên cứu biểu tượng.

Trong chú thích đầu tiên của nghiên cứu này, chúng tôi đã đề cập đến tên tuổi của một nhà khoa học lớn cùng thời với Ferdinand de Saussure trong vai trò sáng lập chuyên ngành ký hiệu học, đó là Charles Sander Peirce. Điểm tương đồng trong lý thuyết của họ là sử dụng khung cấu trúc, còn sự khác biệt là ở phương pháp tiếp cận: Phương pháp tiếp cận của Saussure là ngôn ngữ học và với Peirce đó là logic học theo hướng tiếp cận đa ngành. Đóng góp về mặt lý thuyết của Peirce đối với khoa học (cả tự nhiên và xã hội) vô cùng lớn, nổi bật trong đó là triết học dụng hành (pragmatism), 9 tương tác biểu tượng (symbolic interactionism)... Tuy nhiên, trong nội dung mục này chúng tôi chỉ đề cập đến các vấn đề có liên quan đến ký hiệu học và cấu trúc luận.

Mô hình cấu trúc trong lý thuyết của Peirce là một tương tác giao tiếp phi ngôn ngữ để tìm hiểu ký hiệu của các quá trình liên tưởng. Ông sử dụng thuật ngữ ký hiệu học theo quan điểm của logic học, theo đó, ký hiệu học được sắp xếp bởi một cấu trúc tam vị (triadic structure) mà qua đó các thành tố luôn có sự ảnh hưởng tương tác lẫn nhau. Từ ký hiệu này sẽ sản sinh ra ký hiệu khác thông qua việc diễn giải ký hiệu trước đó. Một ký hiệu hoặc đại diện của nó chính là “một cái gì đó đại diện cho ai đó bằng một cái gì khác trong các quan hệ hoặc khả năng nào đó... Vì vậy một ký hiệu đại diện cho một cái gì đó (đối tượng của nó); thay thế một cái gì đó của một ai đó (sự biểu thị của nó); và cuối cùng thay thế một cái gì đó cho một ai đó trong một vài phương diện (các phương diện này được gọi là nền móng). Những khía cạnh đó, sự đại diện (representamen), đối tượng (object), sự biểu thị (interpretant) và nền móng (ground) do vậy có thể được xem như để đề cập đến các ý nghĩa mà các ký hiệu đã biểu thị thông qua chúng; mối quan hệ giữa chúng quyết định nghiêm ngặt tiến trình căn bản của ký hiệu học.” (Terence Hawkes 1977, tr. 126-127).

Xem phần diễn giải trên đây chúng ta có cảm giác là các thuật ngữ, các đối tượng, và các mối quan hệ của chúng khá phức tạp, thậm chí là rắc rối. Tuy nhiên, với mô hình dưới đây chúng ta có thể dễ dàng hình dung được các thành tố mà Peirce đã đưa ra trong lý thuyết ký hiệu học của mình. Từ mô hình đơn giản này, Peirce đã phát triển thêm nhiều mô hình khác bằng tư duy logic để giải quyết nhiều vấn đề bao gồm cả khoa học tự nhiên (như logic học, toán học, thống kê học,...) và khoa học xã hội (như triết học, xã hội học, tâm lý học,...). Tuy nhiên, ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một cấu trúc đơn giản nhất của ông để chứng minh cho hiệu quả của cấu trúc luận với khoa học nghiên cứu biểu tượng dưới góc nhìn ký hiệu học và sẽ không đưa thêm các ví dụ phức tạp hơn trong các nghiên cứu mà Peirce đã công bố.

9 Trào lưu lý thuyết này hình thành từ một nhóm học giả tại Đại học Harvard từ cuối thế kỷ XIX do Charles Sander Peirce và William James đứng đầu cùng John Dewey và George Santayana. Ảnh hưởng của nó lớn tới mức đã định hình nên một lối sống Mỹ, một phong cách Mỹ và một văn hoá Mỹ không giống bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. Một số tài liệu khác dịch thuật ngữ pragmatism thành chủ nghĩa thực dụng. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy cách dùng này dễ bị hiểu theo hướng tiêu cực nên sẽ sử dụng thuật ngữ này là triết học dụng hành.

Page 28: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

28

Ký hiệu (Sign)

Sự biểu thị (Interpretant) Khách thể (object)

Mô hình tam vị (triadic relation) của Peirce Trở lại với mối quan hệ giữa ngôn ngữ học, ký hiệu học và nhân học mà Terence

Hawkes đã đặt ra. Có thể dễ dàng nhận thấy cả ba chuyên ngành này đều nằm trong một khoa học tổng thể về con người và văn hoá. Charles Sander Peirce đã từng đặt câu hỏi: “Con người là gì? con người phải chăng là một ký hiệu?” Và câu trả lời đã được một nhà ký hiệu học nổi tiếng khác người Italia là Umberto Eco trả lời: Con người là một động vật có tín ngưỡng; con người luôn mang trên mình hai tín hiệu gắn với cái xấu và cái đẹp; con người là một cỗ máy sản xuất tín hiệu khổng lồ... Bởi vậy, lý thuyết “tín hiệu vô hạn định” của Charles Sander Peirce, qua Eco đã trở thành “chuỗi tín hiệu vô hạn định, gắn chặt với bối cảnh văn hoá của đời sống xã hội loài người” (Huyền Sâm-Ngọc Anh 2009). Chuỗi tín hiệu đó được Umberto Eco mô hình hoá như sau:

(Source) Sender: (Nguồn) Người gửi thông tin Code: Mã Subcode: Mã nhánh Message emitted as signifier bearing a signified:Thông tin đưa ra là cái biểu đạt chứa đựng cái được biểu đạt

Chanel: Kênh thông tin/đường dẫn Addressee: Người nhận Message received as signifier: Thông tin nhận được là cái biểu đạt Message received as signified: Thông tin nhận được là cái được biểu đạt

(Nguồn: Umberto Eco, Apocalypse Postponed, 1994) Trong mô hình cấu trúc của Eco, thông tin từ người gửi sẽ được mã hoá qua một số

bước trước khi trở thành một loại thông tin mới (chúng tôi tạm gọi là thông tin cấp 2 - viết tắt là T2). T2 là cái biểu đạt nhưng chứa đựng cái được biểu đạt. T2 thông qua các kênh truyền dẫn được biến thành một loại thông tin mới khác (T3) được tiếp nhận như cái biểu đạt mới. Từ đây nó lại trải qua các bước mã hoá để đến với người nhận trong vai trò là cái được biểu đạt mới hơn. Quá trình ký hiệu được mã hoá để tạo thành thông tin như trên có thể được diễn ra nhiều lần, không có giới hạn. Có thể tóm tắt quá trình này là một sự mã hoá ký hiệu tạo thông tin với sơ đồ sau:

Ký hiệu + Mã hoá = TÍN HIỆU THÔNG TIN

Page 29: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

29

Việc ứng dụng sơ đồ này trong thực tiễn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống của con người: Từ tín hiệu Morse (do Samuel F. B. Morse phát minh năm 1938) và ngôn ngữ ký hiệu dùng cho người câm điếc đến công nghệ số (digital technology) với việc mã hoá hai con số 0 và 1 thành các ký hiệu thông tin đã tạo nên một trong những cuộc cách mạng khoa học công nghệ lớn nhất trong lịch sử nhân loại với phạm vi ảnh hưởng ở mức độ toàn cầu. Đây chính là cuộc cách mạng đã đưa con người đến một thế giới hoàn toàn mới, thế giới phẳng10, một thế giới của ký hiệu số.

Vẫn là những lý thuyết cấu trúc dựa trên cơ sở ký hiệu học nhưng cách tiếp cận của Michel Foucault lại đưa đến cho người đọc những trải nghiệm hết sức khác biệt. Đó là “một Foucault dám nghĩ khác, nghĩ rộng, thậm chí nghĩ đến tất cả. Có một năng lượng Foucault mạnh mẽ trong suy tư, những khám phá, những gợi ý mang ý nghĩa to lớn cho bất kỳ con người hiện đại nào muốn suy nghĩ về lịch sử, triết học, y học và kiến thức.”(Cao Việt Dũng 2009)11. Quả thực, trong cuốn: Sự sắp đặt của sự vật: Một nghiên cứu khảo cổ học về các khoa học nhân văn,12 Foucault đã dẫn chúng ta đi qua hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác mà nội dung của bài viết ngắn này không đủ để diễn tả. Từ cách tiếp cận liên ngành rộng lớn nhưng lại hết sức chặt chẽ đến việc sử dụng các thuật ngữ hết sức độc đáo để diễn tả các vấn đề xã hội. Phương pháp tiếp cập của Foucault về cơ bản vẫn là dựa trên nền tảng cấu trúc luận và cơ sở ký hiệu học nhưng các đối tượng mà ông đề cập, các phân tích, tìm tòi,... đã vượt ra ngoài phạm vi của cấu trúc luận và ký hiệu học. Chính vì lý do này mà giới khoa học đã gọi Foucault là một trong những nhà giải cấu trúc/hậu cấu trúc luận xuất sắc nhất. Dưới đây là một mô hình cấu trúc trong cuốn sách nói trên của Foucault:

General science of order: Nền tảng khoa học của sự sắp đặt Simple natures: Các yếu tố tự nhiên căn bản Mathesis: Thuật toán Algebra: Biểu thức đại số

Complex representations: Tập hợp các đại diện Taxinomia: Hình mẫu ký hiệu biểu thị Signs: Ký hiệu

(Nguồn: Michel Foucault, The Order of Things: An archaeology of the human sciences, Routledge 2002, London & New York, tr. 80)

Ở mô hình này, các thành tố vừa có sự tương tác lẫn nhau lại vừa được phân loại một cách rõ ràng. Sự tương tác có thể nhận ra giữa các yếu tố tự nhiên căn bản và tập hợp

10 Thuật ngữ của Thomas Friedman trong cuốn sách nổi tiếng của ông: The world is Flat. Cuốn sách này đđã được nhóm tác giả Nguyễn Quang A, Cao Việt Dũng, và Nguyễn Tiên Phong dịch. Có thể download miễn phí cuốn sách tại trang: http://www.esnips.com 11 Cao Việt Dũng, Mô hình phát triển của kiến thức theo Michel Foucault, Tạp chí Tia sáng, trích lại theo nguồn: http://vn.360plus.yahoo.com/hoangnguuson/article?mid=260&fid=-1 12 Đây là một trường hợp khá đặc biệt trong số rất ít những cuốn sách nghiên cứu được báo Le Monde bình chọn (1999) là 100 cuốn sách hay nhất thế kỷ XX. Tên sách dịch từ bản tiếng Anh: The order of Things: An archaeology of the human sciences. Bản tiếng Pháp: Les Mots et les Choses: Une archéologie des sciences humaines, được dịch là: Từ và Vật: Một khảo cổ học về các khoa học nhân văn (Cao Việt Dũng). Lý do về sự thay đổi tên gọi này đã được giải thích trong lời giới thiệu của bản tiếng Anh nên chúng tôi không nêu ở đây.

Page 30: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

30

các đại diện; giữa ngôn ngữ biểu thức đại số và ngôn ngữ ký hiệu; giữa các tiền tố và hậu tố qua các yếu tố trung gian. Còn sự phân loại ở đây có thể được nhận ra dưới góc nhìn cấu trúc: Theo chiều ngang, hàng thứ nhất là các tiền tố cơ sở, hàng thứ hai là các ngôn ngữ biểu đạt/kênh thông tin..., hàng thứ ba là thông tin được đưa ra. Theo chiều dọc, chúng ta nhận thấy cột thứ nhất đề cập đến các thuật ngữ trong khoa học tự nhiên hoặc có liên quan đến tự nhiên. Cột thứ hai đề cập đến các yếu tố mang tính xã hội (ngôn ngữ, ký hiệu hay sự biểu đạt). Đây là một mô hình trọng tâm trong công trình nghiên cứu của Foucault nên nó xuyên suốt toàn bộ nội dung tác phNm mà chúng ta có thể gọi một cách ví von cột thứ 1 và cột thứ 2 là Vật (1) và Từ (2) như tên gọi của cuốn sách (bản tiếng Pháp).

Vượt ra ngoài các khái niệm và các mô hình mang tính lý thuyết, ký hiệu học được áp dụng trong thực tiễn của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, nhiều đối tượng nghiên cứu khác nhau trong đời sống của con người, chẳng hạn như phân tích cấu trúc của các sản phNm nghệ thuật... Điều này cũng cho thấy lý do tại sao các nghiên cứu về nghệ thuật và biểu tượng thường có mối liên hệ chặt chẽ với ký hiệu học. Dưới đây, chúng tôi xin được nêu một ví dụ trong các ứng dụng này. Bằng mô hình hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa của Roland Barthes, Nguyễn Văn Hậu đã đưa ra một mô hình chuyển đổi để phân tích cấu trúc của ngôn ngữ biểu tượng như sau:

Ở đây, cái biểu đạt được “chuyển ngữ” thành hình thức, cái được biểu đạt thành nội

dung. Đây cũng là hai thành phần giúp hình thành nên mọi tác phNm nghệ thuật. Và ký hiệu ở “cấp cao hơn” được gọi là siêu ký hiệu, đó chính là ngôn ngữ biểu tượng. Từ ứng dụng này, theo quan điểm ký hiệu học, ông đã đi đến một nhận định về văn hoá dưới góc nhìn ký hiệu học như sau: Văn hoá là một tập hợp các hệ thống kí hiệu phụ thuộc vào những quy luật mang tính cấu trúc nhất định. Theo đó, văn hoá chính là tập hợp của hệ thống các biểu tượng và biểu tượng là “đơn vị cơ bản” của văn hoá (Nguyễn Văn Hậu 2010).

Tới đây, chúng ta có thể đi đến một lời tạm kết rằng, ký hiệu học là bộ môn khoa học đóng vai trò nền tảng cho khoa học nghiên cứu về biểu tượng. Phương pháp tiếp cận rõ ràng, khúc chiết của ký hiệu học giúp cho các nhà khoa học có thể tránh được những “đặc tính khó lường” của biểu tượng – đó là tính trừu tượng và đa nghĩa. Bên cạnh đó, góc độ tiếp cận rộng lớn của ký hiệu học (từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội) giúp cho ký hiệu học có thể giải quyết nhiều vấn đề mà khoa học đơn ngành không thể giải quyết. Chẳng hạn, chúng ta không thể đưa các phương pháp của đại số, lượng giác, đạo hàm,...

Page 31: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

31

trong toán học vào phương pháp luận nghiên cứu văn học. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể đưa ngôn ngữ thuật toán (như Foucault đã đưa) vào trong nội dung bản văn, hơn thế, chúng ta còn có thể sử dụng ký hiệu toán học để lập nên các mô hình cấu trúc như Peirce đã làm để giải mã các thành tố văn hoá có tính biểu tượng trong khoa học xã hội. Tuy nhiên, nếu chỉ tiếp cận nghiên cứu các biểu tượng dưới góc nhìn ký hiệu học thì chúng ta vẫn có thể gặp khó khăn khi buộc phải giải nghĩa một thành tố văn hoá trong môi trường sống của nó (nghĩa là trong thời gian và không gian của riêng nó). Vấn đề này dường như có thể được giải quyết với lợi thế của phương pháp tiếp cận nhân học. 4. Nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn nhân học biểu tượng

Trong cuốn Biểu tượng: Chung và Riêng, Raymond Firth đã phân biệt nhân học biểu tượng với khoa học nghiên cứu biểu tượng từ các chuyên ngành khác như sau: “Một nhà nhân học có thể làm gì để không giống với những gì mà nhà logic học, nhà siêu hình học, nhà ngôn ngữ học, nhà tâm lý học, nhà thần học, nhà lịch sử nghệ thuật và những người khác nữa đã làm? Về bản chất như tôi nhận thấy, cách tiếp cận theo hướng nhân học mang tính so sánh, quan sát, chức năng luận, trung lập tương đối. Nó liên kết và

giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể. Vượt qua phạm vi rộng lớn của những trường hợp cụ thể, các nhà nhân học quan sát xem những biểu tượng gì được con người sử dụng thực sự, họ nói gì về những biểu tượng ấy, trong tình huống nào những biểu tượng sẽ bộc lộ ra và sự phản ứng với chúng. Theo đó, các nhà nhân học được trang bị để giải thích ý

nghĩa của các biểu tượng trong các nền văn hóa mà họ đang nghiên cứu, và để sử dụng

những lý giải như những phương tiện trung gian để hiểu xa hơn về các tiến trình trong đời sống xã hội” (Firth 1973, tr.25 - phần in nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh).

Ở chuyên mục trên, chúng ta đã được tiếp cận khoa học nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn ký hiệu học trong mối quan hệ hết sức chặt chẽ với cấu trúc luận. Trong nhân học, hướng tiếp cận cấu trúc luận cũng đã được Claude Levi-Strauss sử dụng hết sức thành công trong công trình nổi tiếng của ông: Nhân học cấu trúc. Thế nhưng không một ai gọi Levi-Strauss là nhà nhân học biểu tượng(!) mà chỉ nhắc đến ông với vai trò của một nhà nhân học cấu trúc. Điều này có thể do hai nguyên nhân sau:

Nguyên nhân thứ nhất, Levi-Strauss đã được coi như ông tổ/cha đẻ/người xây nền... (rất nhiều danh xưng – xin xem thêm tiểu sử của ông trong bách khoa thư) đối với nhân học hiện đại. Ông còn được gọi là nhà xã hội học hiện đại, nhà cấu trúc luận, là “ông tổ”của nhân học cấu trúc,v.v... Bằng ấy danh xưng, có lẽ, cũng đã quá đủ để nói lên sự vĩ đại của nhà khoa học này. Có thể vì vậy mà người ta “quên” mất những đóng góp của ông đối với nhân học biểu tượng chăng?

Nguyên nhân thứ hai cụ thể hơn từ quan điểm cấu trúc luận: “Claude Levi-Strauss cho rằng phân loại nhị nguyên (binary clasification) là một điểm đặc trưng phổ quát của nhận thức con người. Các nghiên cứu của ông đối với thần thoại, nghệ thuật và hệ thống thân tộc đã khám phá ra những hình mẫu văn hoá khác nhau ở mức độ phức tạp và diện mạo bên ngoài, về bản chất, dựa vào tính đối ngẫu: tự nhiên/văn hoá, đàng ông/đàn bà, tinh khiết/không tinh khiết,v.v... Hệ thống văn hoá, dưới góc nhìn này, với những nền tảng tinh vi của nó đã khai hoá thế giới, xã hội hoá nó, đưa ra sự phân loại tuỳ theo biểu hiện của tự nhiên. Mối quan tâm của các nhà cấu trúc luận trong các hệ thống văn hoá của ý nghĩa ở những gì họ có thể bộc lộ ra và khi nào thì phân tích về tiến trình nhận thức phổ quát của con người”(Mary Des Chene 1996).13 Đây chính là đóng góp quan trọng của

13 Nguồn: Bách khoa thư Nhân học văn hoá (Encyclopedia of Cultural Anthropology) do David Levinson và Melvin Ember biên tập. Sách do nhà xuất bản Henry Holt & Company ấn hành tại New York năm 1996, tr.1275.

Page 32: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

32

Levi-Strauss đối với nghiên cứu biểu tượng cũng như với nhân học văn hoá nói chung. Nhưng trước hết chúng ta cần xác định đối tượng và mục đích nghiên cứu của nhân học biểu tượng, để từ đó thấy được tầm quan trọng của nền tảng cấu trúc luận đối với nhân học biểu tượng.

Theo tài liệu giảng dạy của Khoa Nhân học, Học viện Công nghệ Massachusetts-MIT (Mã môn học: 21A.212), nhân học biểu tượng bao gồm các lĩnh vực nghiên cứu sau: 1. Ẩn dụ và biểu hiện khác của ngôn ngữ (Metaphor and Other Figurative Language) 2. Chất liệu thô của biểu tượng luận, đặc biệt là động vật và cơ thể con người (The Raw

Materials of Symbolism, especially Animals and The Human Body) 3. Vũ trụ luận và hệ thống biểu tượng phức hợp (Cosmology and Complex Symbolic

Systems) 4. Nghi lễ, bao gồm cả điều trị và ma thuật mang tính biểu tượng (Ritual, including

Symbolic Curing and Magic) 5. Miêu thuật và đời sống (Narrative and Life) 6. Thần thoại học (Mythology) Qua đây chúng ta có thể xác định (một cách tương đối) các đối tượng nghiên cứu của nhân học biểu tượng là: Ẩn dụ, ngôn ngữ, hệ thống biểu tượng, nghi lễ, ma thuật, đời sống, biểu tượng luận, vũ trụ luận, và thần thoại. Nói một cách khái quát là các thành tố văn hoá có

tính biểu tượng trong đời sống của con người. Định nghĩa về nhân học biểu tượng theo các bách khoa thư nhân học lớn trên thế

giới như sau: - Bách khoa thư nhân học văn hoá và xã hội (Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology): “Nhân học biểu tượng đề cập đến văn hoá như một thực thể có tính độc lập tương đối, là một hệ thống ý nghĩa mà qua đó các nhà nhân học muốn tạo ra để giải mã và diễn dịch các biểu tượng và các nghi lễ trọng tâm” (Jonathan Spencer 1996, tr.535-539). - Bách khoa thư nhân học văn hoá (Encyclopedia of Cultural anthropology): “Nhân học biểu tượng là khoa học nghiên cứu ý nghĩa trong đời sống xã hội loài người, bằng cách nào chúng ta tri nhận và diễn giải những gì diễn ra xung quanh và bằng cách nào chúng ta sáng tạo và sẽ chia với thế giới hoặc hệ thống ý nghĩa văn hoá. Nhân học biểu tượng tiếp cận với một góc nhìn rộng lớn về các biểu tượng, biểu tượng hoá, sự vật và ý nghĩa mà con người đặt cho với ý nghĩa, sự nhận biết, quá trình giao tiếp”(Mary Des Chene 1998, tr.1274-1278). - Văn hoá dân gian: Bách khoa thư về các tín ngưỡng, phong tục, chuyện kể, âm nhạc và nghệ thuật (Folklore: An encyclopedia of beliefs, customs, tales, music, and art): “Nhân học biểu tượng là khoa học nghiên cứu về các biểu hiện tự nhiên của các biểu tượng được sử dụng ở các nền văn hoá khác nhau, các nghi lễ, trình diễn, và trong đời sống hàng ngày nơi mà ý nghĩa đầy đủ có nhiều hơn các biểu hiện thành văn. Mỗi biểu tượng có hai thành phần - là những thực thể nhìn thấy và phần còn lại là ý nghĩa biểu hiện của nó. Nhân học biểu tượng diễn giải các biểu tượng trong ngữ cảnh của tiến trình xã hội và đời sống văn hoá”(Edith Turner 1997, tr.24-29).

Có thể nhận thấy đối tượng được nhắc đi nhắc lại trong các định nghĩa trên là “văn

hoá và hệ thống ý nghĩa của nó,” đây là đối tượng chính của nhân học biểu tượng. Trong khi văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó lại là đối tượng mà các nhà kí hiệu học đã đề cập đến trước khi nhân học biểu tượng ra đời tới hơn nửa thế kỷ(!). “Điều đó cho thấy kí hiệu học và nhân học biểu tượng tuy là những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau nhưng đều co chung một mục tiêu là nghiên cứu văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó thông qua ngôn ngữ biểu tượng. Đây là những phương pháp tiếp cận khác nhau (giữa kí hiệu học và nhân học biểu tượng) với những cách tiếp cận phương pháp khác nhau nhưng vẫn chỉ để giải quyết

Page 33: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

33

một vấn đề chung đó là nghiên cứu ý nghĩa của các biểu tượng”(Đinh Hồng Hải 2010a). Và trên thực tế, các nhà khoa học đã có những sự khẳng định về sự kế thừa đó: “Nhân học biểu tượng tiếp quản từ cấu trúc chức năng luận một tiền đề cho rằng các hệ thống văn hoá xã hội phô bày một sự cố kết toàn bộ và một sự quan tâm đối với những ảnh hưởng của thực tại xã hội về hệ thống tín ngưỡng, đặc biệt là trong những hướng xây dựng biểu tượng trên các cơ sở lý luận văn hoá”(Lavie, 1993).14

Có thể thấy, từ đối tượng nghiên cứu đến mục đích nghiên cứu của nhân học biểu tượng đều đã được đề cập tới trong cấu trúc luận của Levi-Strauss. Ở đây chỉ có sự khác biệt về phương pháp tiếp cận: Levi-Strauss tiếp cận dưới góc nhìn cấu trúc và các nhà nhân học biểu tượng (như Geertz, Turner, Schneider,...)15 tiếp cận bằng sự diễn giải. Nhưng dù tiếp cận bằng cấu trúc hay diễn giải thì mục tiêu cuối cùng cũng là để nghiên cứu văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó, hay nói cách khác là để giải mã các thành tố văn

hoá trong đời sống của con người. Đây chính là điểm tương đồng và cũng là đặc điểm của nhân học biểu tượng cũng như các bộ môn khoa học nghiên cứu về biểu tượng như ký hiệu học hay nhân học cấu trúc. Đó có thể là lý do để nhân học biểu tượng được gọi bằng một cái tên khác là nhân học diễn giải (interpretive anthropology). Ở đây chúng ta có thể nhận thấy sự diễn giải chính là một thành tố trọng tâm trong các mô hình cấu trúc của Roland Barthes, Charles S. Peirce, Umberto Eco, Michel Foucault,... đã sử dụng trong cấu trúc luận. Điều đó cho thấy, dù được gọi bằng một cái tên khác (nhân học biểu tượng) và được sử dụng bằng một khuynh hướng lý thuyết khác (diễn giải) để phản ứng lại lý thuyết (cấu trúc luận) của Levi-Strauss nhưng cuối cùng các nhà nhân học biểu tượng vẫn không thể bỏ qua những nền tảng mà cấu trúc luận đã tạo ra. Nói cách khác, nhân học biểu tượng chính là “ngôi nhà” đã được xây trên nền móng của cấu trúc luận. THAY LỜI KẾT

Thật khó để nói khoa học nghiên cứu biểu tượng gần với chuyên ngành nào hơn trong các chuyên ngành gần gũi với nó như ngôn ngữ học, ký hiệu học và nhân học. Chúng ta cũng không thể bỏ qua vai trò của những chuyên ngành khác “ít gần” hơn như triết học, logic học, xã hội học,... bởi tuy “ít gần” nhưng nghiên cứu biểu tượng lại cũng không thể thiếu chúng. Vì vậy, việc xác định nghiên cứu biểu tượng là một khoa học liên ngành không chỉ đúng trong hiện tại mà còn phù hợp cả trong tương lai. Điều mà chúng ta cần xác định, thậm chí phải xác định sớm, là một khung lý thuyết và phương pháp luận dành cho đối tượng nghiên cứu vô cùng hấp dẫn nhưng cũng hết sức phức tạp này. Theo chúng tôi, trong bối cảnh của khoa học xã hội hiện nay thì cấu trúc luận chính là một lý thuyết phù hợp nhất. Bởi lẽ, cấu trúc luận không chỉ là thành tố quan trọng trong ngôn ngữ học, ký hiệu học mà còn là “xương sống” trong lý thuyết của nhân học, đặc biệt là nhân học cấu trúc và nhân học biểu tượng, vì vậy, nó có thể kết nối các khoa học chuyên ngành đó trong cùng một hệ thống lý thuyết dành cho khoa học nghiên cứu về biểu tượng.

Trên thực tế, cấu trúc luận không chỉ là một lý thuyết phù hợp với một khoa học liên ngành nghiên cứu biểu tượng mà còn được sử dụng có hiệu quả đối với nhiều chuyên ngành khác trong khoa học xã hội. Chẳng hạn, với triết học - “triết học của chủ nghĩa cấu trúc là thứ “triết học văn hoá” nghĩa là sự nhận thức những nguyên lý hình thành, những

14 Nguồn: Bách khoa thư Nhân học văn hoá, Sđd, tr. 1275. Dẫn theo Mary Des Chene.

15 Clifford Geertz sinh năm 1923, là một trong những nhà nhân học thế hệ mở đầu của các trường phái nhân học Mỹ được đào tạo tại Đại học Harvard. Phần tổng hợp nói trên được lấy từ: Clifford Geertz, The Interpretation of Cultures. New York: Basic Books, Inc, 1973. Victor W. Turner (1920-1983) quê Glasgow, học tại London, ông thuộc thế hệ các nhà lý thuyết nhân học đầu tiên ảnh hưởng tư tưởng của Max Gluckman tại Đại học Manchester, Turner sau đó giảng dạy tại đại học Stanford, Cornell, Chicago và Virginia. Davis M. Schneider (1918 – 1995) với trường phái Chicago về nhân học biểu tượng, tiến sĩ tại đại học Harvard - 1949.

Page 34: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

34

cơ sở chung nhất chi phối mọi lĩnh vực của đời sống văn hoá” (Trịnh Bá Đĩnh 2011). Xét rộng ra, đối với khoa học liên ngành nghiên cứu văn hoá, cấu trúc luận sẽ là phương pháp khả dĩ có thể giúp chúng ta tìm được hướng đi cụ thể để xác định được những đặc trưng văn hoá của một quốc gia hay cộng đồng người. Đây cũng chính là một trong những mục tiêu quan trọng của nghiên cứu văn hoá trong một thế giới toàn cầu hoá.

Trong bối cảnh hiện nay, nghiên cứu biểu tượng tuy nhận được sự chú ý của nhiều người và nhiều tầng lớp xã hội (bằng chứng như đã dẫn ở chú thích số 5) nhưng đôi lúc nó mang đến cho giới khoa học một cái nhìn hồ nghi. Sự hồ nghi này là có cơ sở, bởi vì ý nghĩa của các biểu tượng luôn có sự thay đổi mà chúng tôi gọi là “đặc tính khó lường” của nó. Bên cạnh những thay đổi tuỳ thuộc vào thời gian và không gian, cũng như sự ra đời và tồn tại của nó, sự thay đổi đó còn đến từ mục đích của người sử dụng và vô số lý do khác. Có thể tóm tắt diễn trình của khoa học nghiên cứu biểu tượng bằng sơ đồ sau:

CBĐ Cái biểu đạt

KH Ký

hiệu

NNBT Ngôn

ngữ biểu tượng

BT

Biểu tượng

ND Nội

dung

MĐSD

Mục đích sử dụng CĐBĐ

Cái được biểu đạt

HT Hình thức

Diễn trình của biểu tượng Để có thể xoá bỏ được những sự hồ nghi nói trên, giải pháp khả thi là phải tìm hiểu

các biểu tượng trong chính môi trường “sống” của nó. Và để làm việc đó thì nhân học, với thế mạnh về các phương pháp chuyên biệt như điền dã thực địa (fieldwork) hay quan sát tham dự (participant observation), sẽ là những biện pháp tối ưu. Vấn đề này đã từng được Raymond Firth đề cập đến gần nửa thế kỷ trước: “Tiếp cận nhân học, với việc áp dụng một cách đầy đủ, sẽ có mục tiêu riêng của nó để đưa ra một sự mô tả mang tính hệ thống và phân tích một hành động mang tính biểu tượng bằng phương diện ngôn từ và phi ngôn từ của nó; để phân biệt các thành phần có ý nghĩa của hành động nói trên từ những gì ngẫu nhiên; để đánh dấu những thói quen hoặc các yếu tố chuNn mực ngược lại với những gì thuộc về cá nhân và các phong cách riêng; làm sáng tỏ từ chính người đang thực hiện hành động, những người tham gia và những người không tham gia với những ý nghĩa mà họ đã gắn kèm với hành động; và để đưa tất cả những cái đó vào một khung khái niệm chung, và trong một khung cảnh cụ thể với vị thế và mối quan hệ nhóm của những người liên quan”(Raymond Firth 1973, tr. 27). Có thể thấy, “khung khái niệm chung” mà Firth đề cập ở đây chính là hệ thống lý thuyết mà chúng ta đã bàn xuyên suốt nội dung của nghiên cứu này.

Để kết thúc bài viết, chúng tôi xin trích lại lời đề dẫn (trong chương trình giảng dạy tại Khoa Nhân học, Học viện Công nghệ Massachusetts) của GS. James Howe: “Sự kiến tạo nên các biểu tượng của con người cũng giống như việc sử dụng công cụ của loài vật. Công việc tìm hiểu thế giới và bảo vệ cuộc sống của chúng ta phần lớn thể hiện các ý nghĩa đối với đồ vật, sự vật, hiện tượng và con người bằng sự kết nối chúng với nhau thông qua hình mẫu của các biểu tượng và bằng sự sáng tạo nên các dạng thức phức tạp của những hành động biểu tượng và sự diễn giải. Ở đây chúng ta tìm hiểu các biểu tượng đã được sáng tạo và cấu trúc như thế nào? Chúng biểu hiện ra sao và có ý nghĩa thế nào đối với các phần còn lại của thế giới? Chúng đan dệt nên đời sống chính trị, gia đình, vòng

Page 35: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

35

đời người... Làm cách nào để diễn giải được chúng?.”16 Câu hỏi của James Howe đặt ra ở đây chính là nhiệm vụ của các nhà khoa học nghiên cứu biểu tượng trong giai đoạn hiện nay. Đó là sự cần thiết phải có một hệ thống lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu, mà theo chúng tôi, cấu trúc luận sẽ là một lý thuyết nền tảng. Rất có thể đây sẽ là “khung xương” để các nhà khoa học xây dựng nên một bộ môn khoa học liên ngành có tên gọi: Nghiên cứu biểu tượng hay biểu tượng học.

Đ.H.H Tài liệu trích dẫn:

1. Carl G. Liungman 1991, Dictionary of Symbols, W.W. Norton&Company, New York&London

2. Charles S. Peirrce 1931, Collected papers, Ed. Charles Hartshorne, Harvard University Press

3. Claude Levi-Strauss 1963, Structural Anthropology, Basic Books 4. Claude Levi-Strauss 2011, 1950, trong: Marcel Mauss, Luận về biếu tặng: Hình thức và lý

do của sự trao đổi trong các xã hội cổ sơ, Nguyễn Tùng dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội 5. Clifford Geertz 1973, The Interpretation of Cultures, New York: Basic Books, Inc. 6. Clifford Geertz 1974, Myth, Symbol, and Culture, New York: W.W. Norton and Company,

Inc. 7. David Schneider, Kemnitzer, and Janet Dolgin 1977, Symbolic Anthropology: A Reader in

the Study of Symbols and Meanings, Columbia University Press 8. David Schneider 1980, American Kinship: A Cultural Account. 2nd edition. Chicago and

London: University of Chicago Press 9. Cao Việt Dũng 2009, Mô hình phát triển của kiến thức theo Michel Foucault, Tạp chí Tia

sáng, 10. Trịnh Bá Đĩnh 2011, Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb. Hội Nhà văn 11. Edmund Leach 2006, trong: ĐHKHXH&NV- ĐHQG Tp. HCM, Một số vấn đề lý thuyết

và phương pháp luận nghiên cứu nhân học, Nxb. ĐHQG Tp. HCM 12. Edith Turner 1997, trong: Thomas A. Green, Folklore: An encyclopedia of beliefs,

customs, tales, music, and art, ABC Clio 13. Ferdinand de Sausure 1915, Course in General Linguistics, Translated by Wade Baskin,

McGraw-Hill Book 14. Đinh Hồng Hải 2007, Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề tiếp cận nhân học biểu tượng ở

Việt Nam, trong Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Dân tộc học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 15. Đinh Hồng Hải 2010a, Nghiên cứu văn hoá từ góc nhìn nhân học biểu tượng, Tạp chí

Dân tộc học, số 5 năm 2011. 16. Đinh Hồng Hải 2010b, Ngôn ngữ biểu tượng trong văn hóa Cơtu (Symbolical Language

in Katu Culture), Báo cáo hoàn thành chương trình Nghiên cứu sinh trao đổi tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ 2008-2010 (bản tiếng Anh).

17. Nguyễn Văn Hậu 2010, Về tính hình tượng và tính biểu tượng trong tác ph'm văn hóa, nghệ thuật, http://www.huc.edu.vn

18. Huyền Sâm, Ngọc Anh, Nhà ký hiệu học Umberto Eco và tiểu thuyết, Tạp chí Sông Hương online, 14/10/2009

19. Jonathan Spencer 1996, trong: Alan Barnard & Jonathan Spencer, Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology, London and New York: Routledge

20. Mary Des Chene 1998, trong: David Levinton & Melvin Ember, Encyclopedia of Cultural Anthropology, Vol. 4, pp 1274 – 1278

16 Department of Anthropology, Massachussetts Institute of Technology, http://web.mit.edu/anthropology

Page 36: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

36

21. Michel Foucault 2002, The Order of Things: An archaeology of the human sciences, Routledge, London & New York

22. Raymon Firth 1973, Symbols: Public and private, London, George Allen & Unwin Ltd. 23. Roland Barthes 1972, Annette Lavers translated, Mythologies, Straus Farrar & Giroux 24. Roman Jakobson 1971, Language in relation to other communication systems, Selected

writings Vol.2, The Hague Mountain 25. Terence Hawkes 1977, Structuralism and Semiotics, University of California Press 26. Trung tâm Từ điển bách khoa, Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam

www.bachkhoatoanthu.gov.vn 27. Umberto Eco 1976, A Theory of Semiotics, (Bloomington & London, Indiana University

Press 28. Umberto Eco 1994, Apocalypse Postponed, edited by Robert Lumley, Bloomington,

Indiana University Press 29. Victor Turner 1967, The Forest of Symbols: Aspects of Ndembu Ritual, Ithaca and London:

Cornell University Press 30. Victor Turner 1974, Dramas, fields and metaphors: Symbolic action in Human society,

Cornell University Press

TỪ KỸ THUẬT & MA THUẬT ĐẾN NGHỆ THUẬT & TÁC LỰC QUA GÓC NHÌN CỦA ALFRED GELL∗∗∗∗

Đinh Hồng Hải (Bài đã đăng trên tạp chí Tia sáng số 13/2012)

Kỹ thuật & ma thuật cùng với Nghệ thuật & tác lựci là những tác phNm cuối cùng được Alfred Gell viết trong thập niên trước lúc qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi 51. Kỹ thuật & ma thuật được xuất bản trong Tạp chí Nhân học ngày nay năm 1988 và Nghệ thuật & tác lực được xuất bản sau đó 10 năm ngay sau khi ông mất. Sự ra đi của ông trong khi tài năng đang độ chín đã khiến cho giới khoa học xã hội và nhân văn châu Âu và Mỹ bàng hoàng. Hàng chục tờ báo với nhiều bài bình luận của các học giả, các nhà báo và bạn bè, đồng nghiệp đã viết về ông trong hơn mười năm qua. Cá nhân tôi mới chỉ được tiếp cận với các công trình khoa học của ông từ năm 2008 khi đang du học ở Hoa Kỳ nhưng góc nhìn của Alfred Gell dường như đã giúp mở ra cánh cửa trước mắt tôi khi nhìn vào thế giới nghệ thuật huyền ảo lung linh nhưng vô cùng bí Nn. Tôi viết bài này nhân 15 năm ngày mất của ông như một lời tri ân đối với một học giả bậc thầy với những trước tác quan trọng còn ít được giới khoa học ở Việt Nam biết tới.

Từ kỹ thuật và ma thuật đến nghệ thuật và tác lực của nó là một bước tiến dài trong hành trình phát triển hàng triệu năm của loài người. Nói cách khác, kỹ thuật và ma thuật là những yếu tố văn hoá đã được hình thành từ giai đoạn sơ khai của loài người, trong khi nghệ thuật và tác lực của nó chính là những thành tựu đỉnh cao mà loài người đã đạt được trong lịch sử văn minh của mình. Với sự nhạy cảm khoa học và hệ thống kiến thức phong phú có được trong lĩnh vực nghiên cứu của mình (nhân học), Alfred Gell đã kết nối các vấn đề lịch sử văn minh của nhân loại với khoa học và nghệ thuật chỉ gói gọn trong thuật

∗ Alfred (Antony Francis) Gell sinh ngày 12/6/1945 mất ngày 28/1/1997 là nhà nhân học xã hội Anh có ảnh hưởng lớn đối với nhân học nghệ thuật, ngôn ngữ, biểu tượng và nghi lễ. Ông là học trò của Edmund Leach khi theo học chương trình MPhil (Thạc sĩ bậc cao - ở Việt Nam không có chương trình này) tại Đại học Cambridge và Raymond Firth chính là người hướng dẫn luận án tiến sĩ của ông tại trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics). Alfred Gell trở thành giảng viên của trường này cho đến khi ông qua đời.

Page 37: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

37

ngữ: Nhân học nghệ thuật (anthropology of art). Theo ông, “nhân học nghệ thuật tập trung vào bối cảnh xã hội của việc chế tác, lưu hành, tiếp nhận nghệ thuật hơn là đánh giá những tác phNm cụ thể” vì “công việc đánh giá đó là chức năng của một nhà phê bình” (Gell, 1998)ii. Với nhân học nghệ thuật, Gell đã giúp các nhà nghiên cứu có thể phân biệt được giá trị của các sản phNm kỹ thuật hay nghệ thuật mang tính ma thuật của thổ dân khác với các tác phNm nghệ thuật của các nghệ sĩ như thế nào. Xa hơn, nhà nghiên cứu có thể đi sâu tìm hiểu giá trị của tác phNm nghệ thuật trong đời sống xã hội mà ông gọi đó là tác lựciii của nó.

Trước Gell, các nhà khoa học xã hội và nhân văn hàng đầu trên thế giới đều đặt sự quan tâm đặc biệt đối với mối quan hệ xã hội giữa ma thuật, khoa học & tôn giáo. Đã có tới hàng chục công trình “kinh điển” mang nội dung ma thuật, khoa học và tôn giáo... của Tylor (1871), Frazer (1900), Mauss (1902), Durkheim (1012), Leeuw (1933), Evans-Prichard (1937), Malinowski (1948) Tambiah (1984),... ra đời chủ yếu trong nửa đầu thế kỷ XX.iv Nhưng thật đáng ngạc nhiên, các nhà khoa học xã hội và nhân văn hàng đầu đó lại rất ít đề cập trực tiếp đến nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật đương đại, như cách làm của Gell. Một số công trình nghiên cứu căn bản của các nhà nhân học biểu tượng như Turner, Geertz, Schneider,... cũng chỉ chủ yếu xoay quanh việc phân tích các yếu tố nghệ thuật mang tính biểu tượng và ma thuật của các bộ lạc đang sống trong nền văn minh tiền công nghiệp hoặc tìm hiểu tính biểu tượng của hệ thống thân tộc trong xã hội... Hầu như chưa có một công trình nào của họ khả dĩ có thể được sử dụng như một công cụ lý thuyết để tiếp cận đối với nghệ thuật hiện đại và đương đại. Có lẽ vì những lý do đó mà các công trình nghiên cứu của Gell ra đời trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX đã nhận được nhiều sự quan tâm và cả sự tranh luận của giới khoa học. Các tác phNm của Gell, nổi bật là Nghệ thuật & tác lực, đã tạo nên một hiện tượng khoa học gây tác động mạnh đối với các nhà khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là với giới nghiên cứu nghệ thuật trong những năm đầu thế kỷ XXI.

Kỹ thuật và Ma thuật Trên thực tế, Kỹ thuật & ma thuật chỉ là một bài viết ngắn của Gell với vỏn vẹn 4

trang, từ trang 6 đến trang 9 ở Tạp chí Nhân học ngày nay (trong tập 4, số 2, tháng 4/1988). Vì vậy, rất khó để có thể đặt nó lên ngang hàng cùng với Nghệ thuật & tác lực là một cuốn sách dày gần 300 trang được xuất bản sau đó 10 năm. Tuy nhiên, ý đồ của tôi khi chọn các công trình nghiên cứu này để giới thiệu ở đây chính là cái nhìn xuyên suốt thời gian và không gian của Gell đối với nghệ thuật dưới góc nhìn nhân học nghệ thuật. Kỹ thuật và ma thuật là những thành tố văn hoá đã được con người sử dụng ngay từ buổi bình minh của nhân loại. Thậm chí, Gell cho rằng khả năng kỹ thuật không chỉ có ở loài người mà còn tồn tại ở nhiều loài khác như vượn người, tinh tinh,... và ông không chấp nhận giả định về việc sử dụng công cụ như một yếu tố duy nhất chỉ loài người mới có (Gell, 1988). Cái nhìn xuyên thời gian của Gell đã được chứng minh bởi trong sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay, kỹ thuật vẫn là một yếu tố then chốt trong đời sống văn hoá của con người trong thế kỷ XXI. Không chỉ có cái nhìn xuyên suốt lịch sử hàng triệu năm tiến hoá của loài người như đã nêu, Gell còn cho chúng ta một cái nhìn khái quát về không gian dưới góc độ nghệ thuật: Từ các hình vẽ ma thuật của các tộc người tiền sử đến các tác phNm kinh điển trong nghệ thuật Phục Hưng và nghệ thuật hiện đại; từ những hình minh hoạ của thổ dân châu Phi và châu Á – Thái Bình Dương đến các tác phNm hội hoạ ở các trung tâm nghệ thuật ở châu Âu, thậm chí là ngôn ngữ biểu tượng trong các chương trình quảng cáo bia và xe hơi... Tất cả các sản phNm nghệ thuật đó đều đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của con người thông qua tác lực của chúng. Có thể nói, cái nhìn xuyên thời gian và không gian dưới ánh sáng của lý thuyết nhân học nghệ thuật, trước

Page 38: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

38

Gell, chưa một ai dám “đụng” tới vì đặc tính trừu tượng và tính chất phức tạp của biểu tượng.

Sự tách bạch về mặt thuật ngữ của Gell giữa kỹ thuật và ma thuật với nghệ thuật và tác lực có ý đồ sâu xa bằng một cái nhìn mang tính hệ thống. Trong Kỹ thuật & ma thuật ông gọi đó là “hệ thống kỹ thuật” với ba trọng tâm là kỹ thuật chế tác, kỹ thuật sản sinh và kỹ thuật mê hoặc.

Bằng việc tìm hiểu hệ thống kỹ thuật từ kỹ thuật chế tác đến kỹ thuật mê hoặc trong quá trình phát triển văn minh của nhân loại, Gell đã tìm ra mối quan hệ đặc biệt quan trọng giữa kỹ thuật và ma thuật. Mà theo ông, ma thuật là, hay đã từng là một yếu tố trong mỗi kỹ thuật đã nêu ở trên nhưng điểm khác biệt là ma thuật có tính biểu tượng, và “ma thuật với tư cách là một phần phụ thêm vào quá trình kỹ thuật, tiếp tục tồn tại bởi vì nó như là những mục đích mang tính ‘biểu tượng’... Suy nghĩ mang tính ma thuật hình thành và mã hoá các yếu tố cấu trúc của hoạt động kỹ thuật, áp đặt vào nó một bộ khung tổ chức điều chỉnh mỗi giai đoạn tiếp nối trong một quá trình phức tạp” (Gell, 1988). Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa Gell và các nhà nhân học biểu tượng như Turner, Geertz, Schneider,... trong các công trình nghiên cứu nhân học biểu tượng. Các nhà nhân học biểu tượng nói trên đã tiếp cận các biểu tượng bằng việc diễn giải chúng (đó cũng là lý do nhân học biểu tượng còn được gọi là nhân học diễn giải), trong khi Gell tiếp cận các biểu tượng bằng một cái nhìn hệ thống từ yếu tố kỹ thuật đến ma thuật. Ông cho rằng, ma thuật “tạo ra một tiêu chuNn lý tưởng, không phải để đạt được trong hiện thực, mà hướng tới những hành động kỹ thuật mang tính thực hành nhưng có thể định hướng được”(Gell, 1988).

Góc nhìn này của Gell dường như có thể khai thông được sự bế tắc mà các nhà nhân học biểu tượng đã vấp phải khi họ bị “cuốn” theo việc diễn giải các biểu tượng, các hành vi biểu tượng và các hệ thống biểu tượng. Việc diễn giải các biểu tượng dù là diễn ngôn của nhà khoa học hay “nhìn qua vai” của chủ thể (như Geertz đã thực hiện), thậm chí là triệt để tôn trọng chủ thể (thông qua phỏng vấn trực tiếp hay quan sát tham dự) vẫn có thể dẫn dắt chúng ta lạc vào “rừng biểu tượng” (thuật ngữ của Turner). Căn nguyên của tình trạng này chính là do đặc tính đa nghĩa và trừu tượng của biểu tượng. Sự bế tắc đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến thoái trào của nhân học biểu tượng vào cuối thập kỷ 80 tới đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Theo cách nhìn của Gell, nhà khoa học không nên quá lệ thuộc vào việc diễn giải ý nghĩa các biểu tượng, đặc biệt là đối với ma thuật. Bởi một khi yếu tố kỹ thuật mang tính biểu tượng biến thành ma thuật thì mục tiêu căn bản của nó vẫn chỉ là để phục vụ ý tưởng của chủ thể tạo ra nó. Nếu nhà khoa học bị “cuốn” theo những ý tưởng đó thì vô hình trung họ lại bị ma thuật chinh phục, và khi đó, tính khách quan của khoa học sẽ không còn. Thuật ngữ ‘ma thuật’ trong cách dùng của Gell không chỉ là các vật biểu tượng, hành vi biểu tượng, nghi lễ biểu tượng,... được tạo bởi chủ thể như các vị thầy cúng mà các nhà nhân học biểu tượng trước ông đã nghiên cứu mà còn là mọi loại kỹ thuật mang tính biểu tượng được tạo ra để phục vụ cho chủ thể của nó. Theo ông: “Những nhà tuyên truyền, những người chụp ảnh và những nhà lý luận về nền văn minh kỹ thuật là những người tạo nên ma thuật, và nếu họ không cho đó là thế lực siêu nhiên thì chỉ vì bản thân kỹ thuật đã trở nên mạnh đến mức họ không phải làm điều đó. Và nếu chúng ta không còn thừa nhận ma thuật một cách rộng rãi nữa thì đó là vì kỹ thuật và ma thuật, với chúng ta là một và như nhau” (Gell, 1988).

Nghệ thuật và tác lực Ở trên, chúng ta đã lướt qua những nét khái lược nhất mang tính tiền đề để đến với

một hệ khái niệm mới mẻ hơn, phức tạp hơn, nhưng cũng quan trọng hơn trong nghệ thuật. Tôi cho rằng nó quan trọng hơn là vì trước Gell chưa có một nhà nhân học nào đề cập đến nghệ thuật và tác lực của nó như cách nhìn của ông trong Nghệ thuật & tác lực. Trên thực tế lịch sử nghệ thuật, nếu tính từ giai đoạn sơ khai của loài người, đã có tuổi hàng vạn năm

Page 39: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

39

nếu không nói là xa hơn. Nhưng nghiên cứu nghệ thuật thì có tuổi đời “trẻ” hơn nhiều và dĩ nhiên nó nó phải ra đời sau khi có chữ viết. Nghiên cứu nghệ thuật là một loại hình công việc học thuật mang tính hàn lâm nhằm tìm hiểu giá trị của các tác phNm nghệ thuật trên nhiều khía cạnh như bản thể luận nghệ thuật (ontology of art), mỹ học (easthetic), mỹ học môi trường (environmental easthetic),... và tất nhiên không thể thiếu lịch sử nghệ thuật (art history) và phê bình nghệ thuật (art criticism). Nếu coi lịch sử nghệ thuật là cách tiếp cận theo chiều dọc và phê bình nghệ thuật là chiều ngang thì việc tìm hiểu các khái cạnh còn lại của các tác phNm nghệ thuật chính là chiều thứ ba mà nhà nghiên cứu phải hướng tới, và nhân học nghệ thuật theo hướng tiếp cận của Gell nằm trong chiều kích thứ ba này.

Mặc dù nhân học nghệ thuật của Alfred Gell mới chỉ ra đời hơn một thập niên tính từ thời điểm Nghệ thuật & tác lực được xuất bản tới nay, nhưng hướng tiếp cận này của ông ngay lập tức nhận được nhiều sự quan tâm của giới nhân học nói riêng và các nhà nghiên cứu nghệ thuật nói chung. Vậy nhân học nghệ thuật là gì? Gell định nghĩa: Nhân học nghệ thuật là nghiên cứu mang tính lý thuyết về các mối quan hệ xã hội diễn ra quanh các hiện vật (Gell, 1998. tr.7). Nhưng như thế nào là ‘mối quan hệ xã hội’ theo quan niệm của Gell? Trong Nghệ thuật & tác lực, ông đã chỉ ra tám loại quan hệ dạng này, khởi đầu bằng chỉ báo (index) một thuật ngữ được Charles Sanders Peircev sử dụng trong lý thuyết Ký hiệu học từ những năm đầu thế kỷ XX.vi Dường như Gell đã có ý chọn lý thuyết ký hiệu học để tạo nền tảng cho nhân học nghệ thuật của mình, nếu quả như vậy, đó sẽ là một hướng đi khôn ngoan sau giai đoạn thoái trào của nhân học biểu tượng. Các mối quan hệ xã hội tiếp theo mà ông đã chọn bao gồm: Quy gán (abduction, có dịch giả sử dụng là quy kết), tác nhân xã hội (social agent), nghịch biện loại suy (paradox elimination), tác nhân và đối tượng (agents and patients), nghệ sĩ (artist), người thưởng thức/thụ hưởng (recipient), và cuối cùng là nguyên mẫu (prototype). Tất cả các mối quan hệ xã hội này đều diễn ra quanh các hiện vật/chủ thể (objects).

Xuyên suốt lý thuyết nhân học nghệ thuật được đề cập trong Nghệ thuật & tác lực là hai thuật ngữ chỉ báo (index) và quan hệ nghệ thuật (art nexus). Gell đã dành trọn chương 3 để tìm hiểu các mối liên hệ giữa hai khái niệm này với các cặp phạm trù giữa: tác nhân với đối tượng; chỉ báo với nghệ sĩ; chỉ báo với người thưởng thức; chỉ báo với nguyên mẫu; nghệ sĩ với chỉ báo; người thưởng thức với chỉ báo; nguyên mẫu với chỉ báo. Thông qua các mối liên hệ này ông cho rằng các thành tố trọng tâm của chỉ báo chính là tính logic của tiền tố và hậu tố giữa tác nhân và đối tượng (agent and patient). Trong ba chương tiếp theo của cuốn sách (4,5 và 6), Gell tiếp tục đề cập đến sự kết nối phức tạp giữa chỉ báo với các mối quan hệ nghệ thuật, bản chất của chỉ báo và các vấn đề của chỉ báo (Gell, 1998. tr.51-94). Ông cho rằng đã có sự gắn kết trật tự đối với mối quan hệ đặc biệt của cặp phạm trù tác nhân và đối tượng. Theo đó, Một cặp phạm trù tác nhân và đối tượng này sẽ là tiền đề để nó hình thành một cặp mới mà cặp cũ sẽ là tác nhân của cặp phạm trù mới. Sự thay thế đó được ông mô hình hoá như sau:

Page 40: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

40

Sự bao hàm của chỉ báo: Tính đa tầng của tác lực trong chỉ báo.

Hình 4.3/1, Tr. 54, trong Alfred Gell (1998), Nghệ thuật & tác lực: Một lý thuyết nhân học. Tác động thay thế của chúng diễn ra giống như trong mô hình cái biểu đạt và cái

được biểu đạt tạo ra cái biểu đạt mới hơn mà Roland Barthes và Umberto Eco đã sử dụng.vii Chính vì lý do này mà tôi cho rằng, có thể Gell đã ứng dụng nền tảng lý thuyết ký hiệu học trong việc mô hình hoá sự bao hàm (involution) của các cặp phạm trù tác nhân và đối tượng. Ở đây, Gell đã sử dụng nền tảng ký hiệu học một cách hết sức hợp lý nhằm xây dựng hệ thống ký hiệu riêng của mình để sử dụng trong nhân học nghệ thuật. Từ những phân tích như vậy, Gell đã đi đến kết luận là khởi nguồn của chỉ báo là tác lực (agency) và sự quyến rũ (captivation). Đây có thể được coi như một chiếc chìa khoá mở ra cánh cửa của thế giới bí Nn trong nghệ thuật vốn gây ít nhiều lúng túng cho các nhà nghiên cứu lịch sử và phê bình nghệ thuật. Hướng tới một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam

Dễ dàng nhận thấy một sự bất cân xứng trong sự phát triển giữa sánh tạo nghệ

thuật với nghiên cứu nghệ thuật không chỉ ở Việt Nam mà còn ở mọi trung tâm khoa học và nghệ thuật trên thế giới. Trong khi sáng tạo nghệ thuật phát triển một cách hết sức nhanh chóng và khó lường trước (chẳng hạn như các trào lưu hậu hiện đại) thì nghiên cứu nghệ thuật ở nước ta vẫn “dậm chân” tại chỗ với hai bộ môn khoa học đã được du nhập từ nền khoa học và nghệ thuật hàn lâm phương Tây non một thế kỷ trước, đó là lịch sử nghệ thuật và phê bình nghệ thuật. Cả hai bộ môn này chỉ giúp giải quyết những vấn đề mang tính lịch đại (với lịch sử nghệ thuật) và tìm hiểu giá trị nghệ thuật (với phê bình nghệ thuật) mà rất ít đề cập đến những khía cạnh mang tính xã hội của nghệ thuật (chẳng hạn như tác lực của nó). Và chiều kích thứ ba như góc nhìn của Gell chính là chiều kích xã hội của các tác phNm nghệ thuật thông qua tác lực của chúng.

Nếu không lưu tâm đến chiều kích thứ ba này, nhà nghiên cứu có thể vấp phải những sự cố vô cùng đáng tiếc. Chẳng hạn, một nhà phê bình mỹ thuật viết một tác phNm “để đời” về một bức tranh nổi tiếng trong lịch sử được trưng bày ở một bảo tàng lớn. Tác phNm phê bình này dĩ nhiên có thể được coi là “kinh điển” nếu như không có một vấn đề mang tính xã hội xen vào: Bức tranh đó là đồ giả! Vậy bức tranh đó có thể là một đối tượng nghiên cứu hay không? Câu trả lời là Không đối với nhà nghiên cứu lịch sử và phê bình nghệ thuật nhưng lại là Có đối với nhà nhân học nghệ thuật. Vậy nhà nhân học sẽ làm gì với món hàng giả này? Dĩ nhiên, anh ta sẽ phải tìm hiểu lịch sử, giá trị nghệ thuật của của bức tranh thật và hiệu ứng xã hội từ khi nó ra đời. Tiếp theo, anh ta sẽ phải tìm hiểu xem những nguyên nhân nào khiến cho những kẻ làm đồ giả rắp tâm làm giả bức tranh đó?

Page 41: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

41

Lại nữa, con đường nào và bàn tay của ai đã giúp cho bức tranh đó có một vị trí trang trọng trong bảo tàng?... Đó chính là một vài công việc trong vô số công việc của nhà nhân học đối với một thứ “đồ bỏ” của nhà phê bình nghệ thuật. Thực tế là tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã xảy ra việc chép tranh, trưng bày tranh giả và đã “lừa” được công chúng và các nhà nghiên cứu lịch sử và phê bình nghệ thuật trong suốt hơn 40 năm qua!viii Hãy thử tưởng tượng xem trong hơn 40 năm qua có biết bao nhiêu tác phNm nghiên cứu và phê bình mỹ thuật “ca ngợi” vẻ đẹp của những tác phNm giả và nhái này?

Có thể nói một cách không quá lời rằng, nếu không đưa chiều kích thứ ba (chiều kích có tính xã hội) vào nghiên cứu nghệ thuật thì một bộ môn khoa học hàn lâm có tên gọi nghiên cứu nghệ thuật sẽ chỉ mãi là một “cậu bé cao tuổi” mà không có sự trưởng thành. Đặc biệt, với những quốc gia có trình độ quản lý nghệ thuật yếu kém như Việt Nam, nếu nghiên cứu nghệ thuật mãi nằm ở tình trạng “không thể phát triển” thì đó chính là môi trường tốt cho đồ giả và hàng nhái phát triển. Và thực tế là đồ giả và hàng nhái hiện nay tràn ngập khắp mọi nơi, kể cả nơi “thâm nghiêm” như bảo tàng quốc gia(!). Hệ lụy của nó là trong mấy chục năm qua, mặc dù điều kiện kinh tế có những bước phát triển vượt bậc nhưng những “tác phNm nghệ thuật bậc thầy” của Việt Nam hầu như vắng bóng. Càng không có những “bậc thầy” của nghệ thuật Việt Nam như đã được sản sinh trước đó, chỉ trong vài thập niên đầu tiếp thu nền khoa học và nghệ thuật hàn lâm phương Tây. Hệ lụy của nó còn tệ hại hơn nữa khi đồ giả và hàng nhái chặn hết đường sống của những nghệ sĩ đích thực. Họ chính là đối tượng có tri thức, có lương tâm và có liêm sỉ dễ bị tổn thương nhất trong bối cảnh xã hội hiện nay.

*** Từ góc nhìn của Alfred Gell soi chiếu vào thực trạng nền nghệ thuật cũng như vai

trò và vị trí của nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận thấy các vấn đề xã hội có tầm ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với nghệ thuật. Ở chiều ngược lại, chúng ta cũng có thể nhận thấy nghệ thuật có tác động hết sức mạnh mẽ đối với xã hội thông qua tác lực của nó. Từ kỹ thuật và ma thuật đến nghệ thuật và tác lực đã được nêu trong hai công trình khoa học của Alfred Gell chính là sự khái quát hoá hành trình phát triển hàng triệu năm của nền văn minh nhân loại. Đó cũng là hành trình đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật và cái đúng (chân lý) trong khoa học mà nhân loại đang hướng tới. Hy vọng trong tương lai những trước tác quan trọng như vậy sẽ được dịch ra tiếng Việt để bạn đọc và giới chuyên môn ở Việt Nam có thêm một loại tài liệu tham khảo, một hướng tiếp tiếp cận mới, một phương pháp nghiên cứu mới,... đối với nghiên cứu nghệ thuật nói chung và nhân học nghệ thuật nói riêng.

Đ H H

i Kỹ thuật & ma thuật (Technology and Magic) và Nghệ thuật & tác lực: Một lý thuyết nhân học (Art and Agency: An Anthropological Theory) là tên hai tác phNm của Gell mà tôi chọn giới thiệu trong bài viết này. Kỹ thuật, ma thuật, nghệ thuật, tác lực lại cũng là các thuật ngữ trọng tâm mà Gell đã sử dụng xuyên suốt các tác phNm của ông. Vì vậy, để phân biệt tên các công trình nghiên cứu của ông với các thuật ngữ mà ông sử dụng, tôi xin được dùng ký hiệu “&” thay cho chữ “và” khi đề cập đến các tác phNm của ông. Cũng xin được gọi tắt tên tác phNm thứ 2 được đề cập ở đây là Nghệ thuật & tác lực để đối sánh với Kỹ thuật & ma thuật trong tác phNm thứ nhất. ii Xem: “Những phương pháp tiếp cận nhân học về tôn giáo, nghi lễ và ma thuật” do Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam xuất bản năm 2010, bản dịch của Nguyễn Thị Hiền và Nguyễn Thị Thu Hương. iii Thuật ngữ Alfred Gell đã dùng là agency có các nghĩa cơ bản là: chủ thể, trung gian, lực, tác động... Cách dùng thuật ngữ này trong tiếng Việt rất phức tạp. TS. Trương Huyền Chi gọi thuật ngữ này là hấp lực và TS. Nguyễn Thị Hiền gọi là ma lực. Cá nhân tôi cho rằng những cách sử dụng này khá “đắt” với các đối tượng nghiên cứu trong nhân học. Tuy nhiên, trong nghệ thuật, agency có hai nghĩa căn bản rộng hơn là lực (nội hàm) và tác động (ngoại hàm) theo góc nhìn kí hiệu học mà Gell đã sử dụng trong nghiên cứu của mình.

Page 42: KHÓA BÀI GI NG V T NHÂN H C - nhanhoc.edu.vnnhanhoc.edu.vn/attachments/article/200/Tai lieu Khoa hoc ve Ly...u t ư ng Ph t giáo, cươ ng thuy t trình t i Vi n V ăn h c, Vi

42

Qua trao đổi với GS. Hồ Huệ Tâm-Đại học Harvard, tôi tạm sử dụng thuật ngữ này theo hướng tiếp cận rộng là tác lực. iv Chẳng hạn: The Golden Bough: A Study in Magic and Religion của James G. Frazer (1900); A General theory of Magic của Marcel Mauss (1902); The Elementary Forms of Religious Life của Emile Durkheim (1912); Religion in Essence and Manifestation của Gerardus van der Leeuw (1933); Witchcraft, Oracles and Magic among the Azande của Evans-Pritchard (1937); Magic, Science and Religion của Bronislaw Malinowski (1948); African Traditional Thought and Western Science của Robin Horton (1967); The Form and Meaning of Magical Acts của Stanley J Tambiah (1973); Culture & Communication của Edmund Leach (1976)... v Peirce là một trong hai “ông tổ” của ký hiệu học, là cha đẻ của logic học và triết học dụng hành (pragmatism) của Hoa Kỳ. Xem thêm các thông tin về Peirce trong Từ điển triết học trục tuyến của Đại học Standford: http://plato.stanford.edu/. vi Một số dịch giả chuyển ngữ index là chỉ dẫn sẽ không hoàn toàn phù hợp với quan điểm ký hiệu học của Peirce. Về các thuật ngữ trong lý thuyết Ký hiệu học, xin xem thêm bản dịch của Đinh Hồng Hải: Khoa học về các ký hiệu của Terence Hawkes đăng trên trang www.lyluanvanhoc.com. vii Xem thêm: Đinh Hồng Hải “Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng: Từ ký hiệu học đến nhân học biểu tượng, trong trang: http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacgia&action=detail&id=675 viii Xem thêm bài “Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam trưng bày tranh, tượng giả?” trong trang: http://www.tinmoi.vn/Bao-tang-My-thuat-Viet-Nam-trung-bay-tranh-tuong-gia-0610752.html