nhỮng ĐiỂm tƯƠng ĐỒng vÀ khÁc biỆt giỮa dÂn chỦ xÃ...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ THU MAI
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ THU MAI
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC BÁCH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Lê Thị Thu Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN 6
1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến luận án 6
1.2. Giá trị của những công trình tổng quan và những nội dung luận án tập trung nghiên cứu 21
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU VỀ ĐIỂM
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 25
2.1. Quan niệm về dân chủ và các cách tiếp cận dân chủ 25
2.2. Quan niệm và những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa 43
2.3. Những yếu tố tác động tới sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa 53
Chương 3: THỰC CHẤT NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT
GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 71
3.1. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa 71
3.2. Thực trạng vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 103
Chương 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 119
4.1. Yêu cầu đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 119
4.2. Giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 127
KẾT LUẬN 144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 148
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ vốn là một giá trị phổ biến xuất phát từ thực tiễn sản xuất và
sinh hoạt của nhân loại từ thời nguyên thủy xa xưa - dân chủ nguyên thủy.
Sau đó, dân chủ còn là khát vọng và là mục tiêu đấu tranh không ngừng của
đại đa số nhân dân trong lịch sử hình thành và phát triển tiếp theo của xã hội
loài người. Thực tế cho thấy, vấn đề dân chủ đã và đang được các nhà tư
tưởng, các nhà hoạt động chính trị trong mọi thời đại, từ thời cổ đại đến nay,
tiếp tục quan tâm và bàn luận. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua một quá
trình hình thành và phát triển thực tiễn, lý luận và các chế độ dân chủ khác
nhau: dân chủ nguyên thủy (khi chưa có chế độ tư hữu, giai cấp); chế độ dân
chủ chủ nô, chế độ dân chủ tư sản và ngày nay, theo quan điểm mácxít, là chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa cộng sản là đích đến mà dù sớm hay muộn, tất cả nhân loại sẽ
vươn tới; là xã hội tốt đẹp trong đó mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do
và hạnh phúc. Dân chủ là một trong những giá trị, đặc trưng cơ bản thuộc về
bản chất của xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ điều
kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, trong di sản lý luận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ là
một trong những nội dung quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, to lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, dân chủ có nghĩa "dân là chủ" và
"dân làm chủ"; rằng, "dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân".
Trong thời đại ngày nay, đối với dân tộc Việt Nam, thực hiện tốt dân chủ
là một trong những mục tiêu và động lực cơ bản để hội nhập và phát triển
theo con đường cách mạng mà Đảng và dân tộc ta đã xác định. Có thể nói,
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đạt được trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó không thể không nói đến nền
2
dân chủ xã hội chủ nghĩa, cho dù vẫn đang trong quá trình từng bước hoàn
thiện, cụ thể hoá, thực thi và đã có nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, như Đại hội XII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế; tình trạng tách rời, thậm chí đối lập
giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi; quyền làm chủ
của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm; có lúc, có nơi, việc
thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [38, tr.168]… Đã xuất hiện không ít
những hoài nghi về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng,
rằng: Liệu dân chủ xã hội chủ nghĩa có "dân chủ hơn" dân chủ tư sản hay
không? Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì? Và có gì giống, khác với
dân chủ tư sản mà các nước phương Tây đang xây dựng? Tại sao có những
nước thực hiện dân chủ thành công, trong khi các nước khác lại thất bại? Tại
sao việc đánh giá thế nào là dân chủ và không dân chủ lại không giống nhau
giữa các nước? Đâu là mô hình dân chủ chung cho các quốc gia khi mà các
nước trên thế giới đang ngày càng xích lại gần nhau và Việt Nam học hỏi
được kinh nghiệm gì về xây dựng dân chủ ở các quốc gia đó?
Nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vừa xuất phát từ nguồn cội
của nó là "dân chủ nguyên thủy" với "nội hàm gốc" là "quyền lực của nhân
dân", vừa phải kế thừa những giá trị của chế độ dân chủ tư sản - một chế độ
dân chủ ra đời trước dân chủ xã hội chủ nghĩa hàng thế kỷ, với cả những thành
quả, giá trị lẫn những hạn chế của nó - trên cơ sở làm rõ những điểm tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản sẽ có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Nghiên cứu những điểm "tương đồng" và những "khác biệt" của dân chủ
xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản có ý nghĩa cấp thiết vì sẽ khắc phục
được cả hai xu hướng lệch lạc hiện nay: Một là, xu hướng bảo thủ với tư duy
cũ, thể hiện bệnh ấu trĩ tả khuynh, đối lập và phủ định sạch trơn dân chủ tư sản;
3
Hai là, xu hướng ngày càng mơ hồ, sai lệch, hữu khuynh, "hòa nhập" theo dân
chủ tư sản phương Tây - khi mà Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và toàn
diện hơn với thế giới, chủ yếu là với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Việc nghiên cứu này không những góp phần nhận thức đầy đủ, đúng
đắn và toàn diện, sâu sắc hơn lý luận về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là để vận dụng sáng tạo, đối chiếu với thực
tiễn, giải đáp những vấn đề thực tiễn đất nước đang đặt ra. Mặt khác, nghiên
cứu, so sánh bản chất cũng như thực tiễn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng với nền dân chủ tư sản ở nhiều quốc gia tư bản trên
thế giới hiện nay có thể tìm thấy nhiều lời giải cho việc xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, góp phần đấu tranh
chống chiến lược "diễn biến hòa bình", lợi dụng chiêu bài "dân chủ nhân
quyền" để chống phá nước ta. Đó thực sự là việc làm cấp thiết cả về lý luận
và thực tiễn, trước hết của giới lý luận ở nước ta.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề "Những điểm tương đồng
và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Ý nghĩa đối
với Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về những điểm tương đồng
và khác biệt giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận án
đề xuất những yêu cầu cơ bản và những giải pháp chủ yếu những giải pháp
vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa
và dân chủ tư sản vào xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cơ bản sau:
4
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, từ
đó xác định hướng nghiên cứu của luận án;
Hai là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về những điểm
tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay;
Ba là, phân tích thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng trong xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay;
Bốn là, đề xuất những yêu cầu cơ bản và những giải pháp chủ yếu
nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã
hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Sự điểm tương đồng và khác biệt giữa chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
và chế độ dân chủ tư sản và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Phạm vi về nội dung:Sự tương đồng và khác biệt giữa chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa và chế độ dân chủ tư sản.
Phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu: So sánh hai nền dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên ba lĩnh vực chủ yếu là chính trị, kinh
tế và văn hóa - xã hội cả về lý luận và thực tiễn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về
dân chủ xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các văn kiện của Đảng, Nhà nước về dân chủ.
Luận án cũng được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của những
công trình khoa học trong và ngoài nước thời gian qua có liên quan đến đề tài.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: Phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, so
sánh, đối chiếu, lịch sử - logic, lý luận - thực tiễn.
- Phương pháp cụ thể: Phân tích tài liệu thứ cấp (các công trình nghiên
cứu khoa học về dân chủ, các văn kiện của Đảng các văn bản, số liệu trong các
tài liệu có liên quan đến dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Một là, luận án góp phần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt
giữa hai chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó nêu lên
những giá trị cơ bản của dân chủ tư sản có thể tham khảo, chọn lọc, kế thừa
trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Hai là, luận án phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất các yêu cầu
cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương
đồng và khác biệt về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học: Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, những điểm tương đồng và khác biệt
giữa hai chế độ dân chủ này. Từ đó, cung cấp cơ sở lý luận cho việc bổ sung, phát
triển và hoàn thiện nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các nội dung liên quan đến dân chủ, nhà
nước và hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên
ngành khoa học khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả liên
quan đến đề tài và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quan niệm, cách tiếp cận,
bản chất của dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa
Hoàng Chí Bảo, Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu [9,
tr.7-11]; Nguyễn Đăng Quang, Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ [77,
tr.12-15]. Hai bài viết này bàn về dân chủ với những phương pháp tiếp cận
khác nhau: tiếp cận từ những cơ sở hình thành dân chủ, bao gồm: cơ sở kinh
tế của dân chủ và dân chủ trong kinh tế; cơ sở chính trị của dân chủ và dân
chủ trong chính trị; cơ sở văn hóa, xã hội và dân chủ trong lĩnh vực văn hóa,
xã hội; tiếp cận từ các nội dung cơ bản của dân chủ: theo nội dung chính trị,
dân chủ là một hình thái nhà nước; theo nội dung văn minh, dân chủ là sản
phẩm của nền văn minh; theo nội dung nhân đạo, dân chủ là phương thức tổ
chức xã hội hiện đại. Những tài liệu này là những gợi mở để tác giả luận án có
thêm những tiếp cận đa dạng khái niệm, quan niệm về dân chủ trong chương
2 của luận án.
Nguyễn Tiến Phồn, Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn
[73]; Cao Văn Thống, Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay [110]. Các tài liệu trên được sưu tầm và biên soạn về những vấn
đề lý luận và thực tiễn về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, tập trung dân chủ là cơ chế, nguyên tắc cốt tử trong tổ chức, vận hành
của Đảng, Nhà nước và của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
7
Vũ Văn Viên, Nhà nước pháp quyền - công cụ để thực hiện dân chủ
[133, tr.35-39]; Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề
dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay [43, tr.5-9] phân tích sự gắn bó mật
thiết giữa pháp luật và dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Nhà nước
pháp quyền tư sản là hình thức tổ chức quyền lực để thực hiện dân chủ tư sản.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ quan trọng để thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam gắn liền với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Trần Quang Nhiếp, Dân chủ với phát triển cộng đồng [70]. Đây là
cuốn sách đã trình bày, phân tích nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ
và dân chủ ở cơ sở như: tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; vai trò của dân
chủ đối với phát triển cộng đồng; những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn
chế trong thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta; vấn đề đặt ra và các giải pháp
phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta trong tiến trình đổi mới.
Nguyễn Thanh Tuấn, Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa [114, tr.114]. Cuốn sách này giúp
tác giả luận án có thêm cơ sở lý luận khi phân tích những quan điểm cơ bản
của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tác giả
cuốn sách, theo tinh thần đổi mới, đã phân tích việc vận dụng những quan
điểm đó trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hà Đăng, Mô hình tổ chức nền dân chủ [39]; Phan Xuân Sơn, Những
nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa [93]; Trương Minh Tuấn, Dân
chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần
Đại hội XI của Đảng [115, tr.3-8]; Vũ Hoàng Công, Vấn đề dân chủ trong các
văn kiện Đại hội XI của Đảng [29]. Đây là các công trình mà các tác giả đã
phân tích các quan điểm mới của Đảng về dân chủ xã hội chủ nghĩa như: mô
hình dân chủ; dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển; hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
8
chủ; nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hành cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước…
Hội đồng Lý luận Trung ương, Dân chủ, nhân quyền - giá trị toàn cầu
và đặc thù quốc gia [48]. Các tác giả của công trình không chỉ nêu lên những
vấn đề chung về dân chủ, về nhân quyền đang được các nhà lý luận ở nhiều
nước trên thế giới sử dụng mà còn đi sâu phân tích, phê phán những luận điệu
sai trái, phản động của các thế lực thù địch.
Lê Minh Quân, Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận cơ bản
[84, tr.13-21]; Cao Đức Thái, Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ
của chúng ta [97, tr.18-20]; Nguyễn Trọng Chuẩn, Một số vấn đề về dân chủ
[26, tr.9-21]. Các tác giả trong các công trình kể trên đã phân tích các vấn đề
về dân chủ, dân chủ hóa và khẳng định: dân chủ có nhiều cách tiếp cận: từ
góc độ giá trị, góc độ thể chế, góc độ phương pháp, phong cách. Dân chủ hóa
là xu thế khách quan của thời đại; nền dân chủ của Việt Nam đã và đang phát
triển đúng hướng, phù hợp với xu thế chung của thời đại ngày nay.
Đức Vượng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ đổi
mới [137]. Công trình này đã trình bày, phân tích quá trình đổi mới, phát triển
nhận thức lý luận của Đảng ta về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Qua
đó, nêu lên những nhận thức mới của Đảng về mục tiêu, đặc trưng và các nội
dung của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hồ Sĩ Quý, Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển [85]. Đây là
một công trình trình bày, phân tích nhiều nội dung lý luận, thực tiễn về dân
chủ, độc tài và phát triển ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Liên
Xô thời Stalin. Thông qua việc xử lý một khối lượng tư liệu khổng lồ, Hồ Sĩ
Quý đã phân tích, đối chiếu, xem xét nội hàm và mối quan hệ giữa các vấn đề
dân chủ, độc tài và phát triển. Đặc biệt, trong Phần II của Chương I cuốn
sách, tác giả đã luận bàn rất ngắn gọn, súc tích về khái niệm và một số quan
niệm cơ bản về dân chủ từ nhiều phương diện khác nhau. Ngoài quan niệm cơ
bản "Dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước mà trong đó, quyền lực
9
thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân" [85,
tr.37], ở những khía cạnh khác, trong các quan hệ khác nhau của đời sống xã
hội, tác giả còn nêu ra 11 quan niệm khác nhau về dân chủ. Một số quan niệm
đó là: “Dân chủ là một lối sống dựa trên sự tôn trọng quyền cá nhân”; “Dân
chủ là quyền bình đẳng của mỗi người trong việc nhận thức và hành động xây
dựng xã hội, theo cách mà đa số đều đạt được lợi ích”, “Dân chủ là một tư
tưởng chính trị, mà các giá trị cơ bản của nó là tự do, bình đẳng và thừa nhận
lẫn nhau” hay “Dân chủ là một sự trao đổi và đối thoại được thực hiện một
cách tự do nhất giữa các thành viên xã hội”; hoặc “Dân chủ là một hình thức
tổ chức chính quyền, để tất cả mọi người đều có thể, trực tiếp hoặc gián tiếp,
tham gia vào các quyết định quan trọng trong phân bổ các giá trị”... [85, tr.37-
38]. Đây là những tư tưởng rất quan trọng mà luận án kế thừa và làm rõ trong
chương 2. Cuốn sách còn có nhiều nhận định, đánh giá sâu sắc chứa đựng
nhiều gợi mở. Ví dụ: "Dân chủ nếu có khiếm khuyết, nó sẽ được sửa chữa
bằng một trình độ dân chủ cao hơn. Tuy nhiên, không phải chính thể nào cũng
thừa nhận chân lý này..." [85, tr.39].
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Vũ Văn Hiền, Dân chủ cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và Trung
Quốc [45]. Công trình đã phân tích việc thực hiện dân chủ cơ sở qua kinh
nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc về các vấn đề: Nhà nước phúc lợi xã
hội, về hệ thống chính trị; sự tham gia hoạt động quản lý nhà nước một cách
dân chủ; dân chủ điện tử - một công cụ chính trị mới; xây dựng chính phủ của
nhân dân trong thế kỷ mới. Hay xây dựng dân chủ cơ sở với xã hội khá giả,
quan hệ xây dựng dân chủ ở cơ sở với cải cách hệ thống chính trị... Khu dân
cư tự quản là thực tiễn mới của việc xây dựng nền dân chủ cơ sở ở đô thị.
Những phân tích này là tài liệu quý để tác giả luận án có thêm góc nhìn để so
sánh thực tiễn hai chế độ dân chủ ở hai quốc gia đi theo hai con đường phát
triển khác nhau là Trung Quốc và Thuỵ Điển.
10
Lê Văn Toan, Nguyễn Viết Thảo, Thể chế chính trị - Một số kinh
nghiệm của thế giới [111]. Tác giả đã khái quát những nét chính về thể chế
chính trị của các nước trong từng châu lục để có cách nhìn tổng quan hơn, so
sánh đậm nét hơn về những nét giống và khác nhau của thể chế chính trị từng
châu lục trên toàn thế giới, từ đó chỉ ra kinh nghiệm và những gợi mở đối với
việc xây dựng thể chế chính trị Việt Nam.
Phạm Văn Đức, Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất
cầm quyền [40]. Cuốn sách này dành hẳn Chương II để phân tích kinh nghiệm
thực hành dân chủ của một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó,
các tác giả đã phân tích nội dung thực hành dân chủ ở Cộng hòa Liên bang
Đức, ở Thái Lan, ở Xingapo, ở Đài Loan; từ đó nêu lên một số hạn chế trong
quá trình thực hành dân chủ ở những nước này cũng như những bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam. Viết về thực hành dân chủ ở Cộng hoà Liên bang
Đức và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Phạm Văn Đức cho rằng:
Kinh nghiệm thực hành dân chủ ở Đức có thể cung cấp cho chúng ta
những bài học bổ ích trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Về chính trị,
trước hết cần xây dựng một thể chế dân chủ, với các quyền và tự do
cơ bản của công dân được bảo đảm bằng những nguyên tắc hiến định.
Nhà nước pháp quyền đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo
đảm quyền tự do tư tưởng, tôn giáo, hội họp, lập hội (bao gồm thành
lập các nghiệp đoàn, đảng phái,...), tự do bầu cử, ứng cử, quyền sở
hữu và tự do kinh doanh của công dân. Về kinh tế, tăng cường và mở
rộng việc thực hành dân chủ các quyền kinh tế thông qua việc không
ngừng phát huy lợi thế của nền kinh tế thị trường nhưng trên nền tảng
có sự điều tiết bằng những chiến lược cụ thể [40, tr123-124].
Những nhận định như vậy có ý nghĩa quan trọng để luận án tham khảo
trong việc so sánh về thực tiễn hai nền dân chủ mà chúng tôi triển khai ở
chương 3.
11
Các công trình trên cũng đã chỉ ra những hạn chế, những "bế tắc" của
nền dân chủ phương Tây trước yêu cầu phát triển mới. Đặc biệt, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động tiếp tục đấu tranh đòi thực hiện nền dân chủ công
bằng hơn, bảo vệ lợi ích cho họ.
Từ một số công trình nghiên cứu trên có thể thấy, nền dân chủ tư sản
hay "dân chủ phương Tây" không phải là "một mô hình lý tưởng", một
"khuôn mẫu" để các nước học tập hay mô phỏng. Bản thân các học giả
phương Tây cũng thừa nhận điều này. Đây cũng là một bài học cho quá trình
xây dựng và thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta học hỏi,
tiếp thu các giá trị tiến bộ, tích cực của dân chủ phương Tây nhưng cũng phải
biết loại bỏ những tính chất tiêu cực của nó, đặc biệt đấu tranh phê phán các
quan điểm có tính chất áp đặt mô hình dân chủ phương Tây vào nước ta dưới
chiêu bài dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch.
Nguyễn Tiến Phồn, Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực tiễn
[73], là công trình trong đó tập hợp những chuyên luận nghiên cứu của tác giả
về dân chủ và tập trung dân chủ, tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ
và nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước.
Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường, Xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền [74]. Trong công trình này, tác giả luận
giải nhiều nội dung về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
như: cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng văn hóa pháp luật...
Lê Minh Quân, Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay [83]. Đây là một tác phẩm bàn về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam; các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hóa, xây dựng,
phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta như: hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng theo
12
hướng dân chủ hóa; xây dựng, phát triển xã hội công dân; xây dựng, phát
triển nền văn hóa và con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa... [83, tr.341].
Nguyễn Ngọc Hà, Luyện Thị Hồng Hạnh, Dân chủ và tính đặc thù của
việc thực hành dân chủ ở Việt Nam [42, tr.70] cho rằng, tùy theo điều kiện cụ
thể về kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa riêng, mỗi nước đều xác định
tiêu chuẩn dân chủ phù hợp với nước mình. Tính đặc thù của dân chủ và thực
hành dân chủ ở Việt Nam thể hiện: dân chủ đang xây dựng là dân chủ xã hội
chủ nghĩa; dân chủ ở Việt Nam không có đối trọng giữa các đảng; không có
tam quyền phân lập; có sự thống nhất giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội; không có quy định nhân dân trực tiếp bầu ra người đứng
đầu Nhà nước.
Đinh Thế Huynh và các cộng sự, 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt
Nam [53]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã dành hẳn một chương để phân
tích, tổng kết về xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, về đổi mới
hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền qua 30 năm đổi mới ở Việt
Nam. Đây là những vấn đề mà luận án sẽ tiếp tục làm rõ.
Đỗ Thị Thạch, Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước [96].
Trong báo cáo đề tài cấp bộ này, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn;
thực trạng nhận thức, xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi
mới; những vấn đề đặt ra; xu hướng phát triển dân chủ và các giải pháp góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Đây là một công trình quan trọng trong việc nêu lên
những giải pháp có tính khả thi trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta - vấn đề mà luận án đặc biệt quan tâm và kế thừa nhiều tư liệu.
1.1.1.3. Những công trình nghiên cứu mang tính so sánh những điểm
tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nguyễn Đức Bách, Mấy vấn đề về dân chủ và hệ thống chính trị ở nước
ta hiện nay dưới góc độ quan hệ giữa các lợi ích [3]. Trong bài viết này, tác
13
giả đã phân tích những điểm chung - tương đồng của ba chế độ dân chủ đã có
trong lịch sử: Dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản (hay dân chủ xã
hội chủ nghĩa). Những điểm chung - tương đồng đó là: 1) Đều là một chế độ
chính trị - một hình thức nhà nước khi xã hội còn giai cấp. 2) Đều có bộ máy
nhà nước và quan chức do bầu cử. 3) Đều có hệ thống pháp luật nhà nước để
buộc mọi người phải tuân thủ... 4) Đều chỉ có một giai cấp lãnh đạo nhà nước
và toàn xã hội... Đặc biệt, tác giả chỉ ra những khác biệt căn bản giữa các chế
độ dân chủ khác nhau (dù có kế thừa nhau), suy cho cùng là ở bản chất - mục
tiêu và lợi ích của các giai cấp lãnh đạo xã hội... đã chi phối sự khác nhau về
ý thức hệ, về nội dung cụ thể của các luật pháp và các mối quan hệ về địa vị,
về lợi ích... giữa các giai cấp lãnh đạo xã hội với các giai tầng còn lại trong
mỗi chế độ dân chủ đó.
Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo, Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa [72]. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích những quan điểm,
tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, lịch sử ra đời, phát
triển, thực trạng, bản chất, khuyết tật của dân chủ tư sản; bản chất, sự hình
thành và những thách thức của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ở đây, dân chủ xã
hội chủ nghĩa được tiếp cận toàn diện, hệ thống với 5 khía cạnh: hình thức tổ
chức xã hội, tổ chức nhà nước; giá trị xã hội; điều kiện để hình thành nhân
cách trung thực, sáng tạo; cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo, quản lý xã hội (tập
trung dân chủ); động lực, bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Công trình
này tuy không đặt dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong sự so
sánh nhưng cách triển khai vấn đề của các tác giả là cơ sở quan trọng để nhìn
nhận rõ những khác biệt giữa hai nền dân chủ này, từ tiền đề ra đời, bản chất,
vai trò của nó. Luận án sẽ kế thừa và làm rõ hơn vấn đề này.
Trần Thành, Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch sử
và hiện đại [101]. Đây là công trình mà tác giả trình bày lịch sử hình thành
phát triển dân chủ từ phương diện lý luận, thực tiễn; phân tích bản chất, thực
14
trạng của dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng chế độ
dân chủ ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp.
Nguyễn Văn Quyết, Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin làm
sáng tỏ sự tương đồng và khác biệt về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa [87]. Trong báo cáo đề tài khoa học này, tác giả đã trình bày rõ những
luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự tương đồng, khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tác giả của đề tài đã nêu những
gợi mở cho nhận thức và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Đây là phần cơ sở lý luận rất quan trọng mà luận án sẽ tham khảo để so
sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở phạm vi và góc độ rộng hơn, bao quát hơn.
Lô Quốc Toản, Giáo trình lý luận về dân chủ [112]. Trong công trình
này, tác giả đã dành một tiết của Chương IV để so sánh những điểm giống và
khác nhau cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản. Trong
đó, về những điểm giống nhau, tác giả nêu rõ: Một là, cả dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa đều phải thực hành dân chủ thông qua hình thức nhà
nước pháp quyền; Hai là, cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều
đề cao nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân; Ba là, chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa cũng như chế độ dân chủ tư sản đều bị quy định bởi trình độ phát
triển của kinh tế, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, dân trí và thông tin. Về những
điểm khác nhau, theo tác giả Lô Quốc Toản, một là, chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa lấy sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất làm cơ sở cho sự tồn tại của mình. Còn chế độ dân chủ tư sản lại
lấy sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất làm cơ sở cho sự tồn tại của mình; hai là, dân chủ xã hội chủ
nghĩa là chế độ dân chủ cho nhân dân, trong khi đó, trong nhà nước pháp
quyền tư sản, giai cấp tư sản nắm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, vì
vậy trên thực tế toàn bộ pháp luật cũng như cơ chế vận hành của xã hội đều
thể hiện và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản; ba là, nền dân chủ xã hội
15
chủ nghĩa là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ
kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội... Đây là những điểm gợi mở rất quan
trọng, làm cơ sở, hệ quy chiếu cho những phân tích sâu sắc, toàn diện về
những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Tất nhiên, những luận điểm tác giả đưa ra chỉ mang tính chất khái
quát, chưa có sự bình luận, phân tích cụ thể.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về
dân chủ, về thực hành dân chủ tư sản và thực hành dân chủ xã hội
chủ nghĩa
Một là, công trình nghiên cứu về dân chủ và các cách tiếp cận bản chất
dân chủ, tiêu biểu như:
N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina, Chế độ dân chủ, nhà nước và
xã hội [68] trình bày nhiều vấn đề về dân chủ, trong đó có nêu, phân tích các
quan niệm khác nhau về dân chủ; giá trị dân chủ; cơ chế dân chủ; thể chế dân
chủ, cấu trúc của chế độ dân chủ. Các tác giả cho rằng, dân chủ xã hội chủ
nghĩa theo mô hình Xôviết chỉ là một chế độ toàn trị, xa lạ với nguyên tắc, giá
trị dân chủ nên nó đã thành quá khứ của nước Nga .
Viện Triết học - Viện Hàn lâm khoa học Nga (Hội thảo bàn tròn): Dân
chủ: Giá trị phổ quát và những kinh nghiệm lịch sử [136]. Các học giả nêu,
bàn luận về những giá trị phổ biến của dân chủ, những kinh nghiệm thành
công và thất bại của lịch sử dân chủ, nhất là lịch sử, hiện trạng, thách thức và
triển vọng của quá trình phát triển dân chủ ở Nga.
David Held, Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại [32], bản dịch của
Phạm Nguyên Trường do Nhà xuất bản Tri thức ấn hành, đã trình bày, phân
tích các mô hình dân chủ và những biến thể của nó. Qua đó cho thấy, dân chủ
có một lịch sử phức tạp với nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau, và mô hình dân chủ là rất đa dạng. Tác giả viết: "Chúng ta không thể
hài lòng với những mô hình dân chủ hiện hữu. Xuyên suốt tác phẩm này
16
chúng ta đã nhận thấy lý do vững chắc để không chấp nhận bất cứ mô hình
nào, dù đó là mô hình cổ điển hay hiện đại" [42, tr.438].
O.T.Bogomolov, Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội [94, tr.3-14] là một nghiên cứu trong đó chỉ ra các nguyên tắc nền tảng
của dân chủ; cuộc khủng hoảng của dân chủ phương Tây; mối quan hệ giữa
dân chủ và phát triển ở các nước trên thế giới và ở Nga. Tác giả cho rằng,
chính ảnh hưởng của Liên Xô và những thành tựu mà Liên Xô đạt được trong
lĩnh vực xã hội đã thúc đẩy sự ra đời của mô hình nhà nước phúc lợi. Theo đó,
ở Nga hiện nay, việc xây dựng nhà nước phúc lợi theo mô hình Bắc Âu là phù
hợp với tâm lý của nhiều người và phù hợp với kinh nghiệm lịch sử của thời
kỳ xã hội chủ nghĩa.
Hồ Cẩm Đào, Bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm cải cách mở cửa [71]
khẳng định:
Nước Trung Quốc là nhà nước xã hội chủ nghĩa chuyên chính dân chủ
nhân dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng, do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Dân chủ nhân dân là sinh mệnh của xã hội chủ nghĩa,
nhân dân làm chủ là hạt nhân và bản chất của chính trị dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Không có dân chủ là không có xã hội chủ nghĩa, cũng là
không có hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa [72, tr.299-300].
Viện Quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử, Dân chủ trực tiếp: sổ tay
IDEA quốc tế [135]. Đây là công trình tổng quan về việc vận dụng dân chủ
trực tiếp, nhất là trưng cầu ý dân, sáng kiến công dân, sáng kiến chương
trình nghị sự và bãi miễn được thực hiện ở các vùng trên thế giới. Ở đây,
dân chủ được tiếp cận theo nghĩa là chế độ chính trị, hệ thống tổ chức quyền
lực và cơ chế, quy trình vận hành hệ thống dân chủ. Theo đó, dân chủ trực
tiếp được xem là một cơ chế độc đáo khuyến khích sự tham gia của công
dân và tự do ngôn luận để thúc đẩy xây dựng nền dân chủ trong các xã hội
đang phát triển.
17
Thoma Meyer, Tương lai của nền dân chủ xã hội [108]. Trong cuốn
sách này, các tác giả đã nêu lên một cách khá đầy đủ dự án "dân chủ xã hội"
và những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai trong thế giới toàn cầu
hóa. Theo đó, các quyền cơ bản về dân sự và chính trị phải được bổ sung bằng
các quyền xã hội và kinh tế nhằm tạo dựng được những điều kiện sống có
nhân phẩm cho tất cả mọi người. Trọng tâm mà cuốn sách muốn đề cập là nền
dân chủ hiện đại được hợp thức hóa như thế nào, công bằng xã hội có vai trò
ra sao đối với nền dân chủ hiện đại, nền dân chủ ấy dựa trên những quyền cơ
bản nào và nó có ý nghĩa thế nào đối với sự ổn định và hiệu quả của một xã
hội? Trên cơ sở các tiêu chuẩn cơ bản của dân chủ xã hội, cuốn sách giới
thiệu một cách khái quát mô hình thể chế dân chủ ở 6 quốc gia khác nhau.
Trong đó, Thụy Điển, Hà Lan và Cộng hòa Liên bang Đức là những quốc gia,
thông qua con đường riêng của mình, đã xây dựng tương đối thành công
những thể chế dân chủ đáp ứng được ở mức độ cao những đòi hỏi đối với một
thể chế dân chủ xã hội; Mỹ và Anh là những quốc gia, cũng bằng cách riêng
của mình và ở những mức độ khác nhau, đã xây dựng những thể chế dân chủ
theo kiểu tân tự do. Nhật Bản là một quốc gia với một nền văn hóa khác hẳn
nền văn hóa châu Âu, đã xây dựng được một thể chế dân chủ đáp ứng được
phần lớn các tiêu chuẩn của mô hình dân chủ xã hội. Những luận điểm trong
cuốn sách cung cấp thêm những cách nhìn đa chiều về mô hình dân chủ tư sản
với những ưu điểm và cả những hạn chế của nó. Đây là một vấn đề mà luận
án quan tâm làm rõ.
Davit Held, Các mô hình quản lý nhà nước [32] trình bày các mô hình
tổ chức hoạt động của nhà nước theo các quan niệm dân chủ trong các giai
đoạn lịch sử, trong đó, chủ yếu tác giả phân tích, đánh giá về các mô hình cơ
bản của dân chủ hiện đại cùng những biến thể của nó trước tác động của toàn
cầu hóa. Tác giả viết đại ý rằng, chúng ta không thể hài lòng với những mô
hình dân chủ hiện hữu, dù là mô hình cổ điển hay hiện đại; sẽ không có một
hình mẫu dân chủ cho mọi quốc gia.
18
Hai là, các công trình nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản, tiêu biểu
có thể kể đến như:
Lilia Sevtsova, Người Nga bàn về các giá trị phương Tây [61]. Câu
hỏi mà tác giả đặt ra là: tại sao những người tự do ở Nga không còn tin tưởng
vào giá trị tự do của phương Tây và Mỹ nữa? Qua việc nghiên cứu nền dân
chủ phương Tây, tiêu biểu là Mỹ, tác giả đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản là: "Sự
thật là bản thân chủ nghĩa tự do phương Tây hiện nay còn rất nhiều vấn đề,
nhất là vấn đề xuất khẩu dân chủ". Sự can thiệp của phương Tây vào các nước
kém phát triển trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền bằng bạo lực đã lộ rõ bộ mặt
bá quyền thế giới của họ. Trích dẫn các ý kiến của các học giả phương Tây
như F.Fukuyama hay W.Galstom, bản thân họ cũng cho rằng: "Chúng ta cần
một sự đổi mới cơ bản của tự do truyền thống nước Mỹ". Còn Z.Brenzinski,
cố vấn cao cấp của Tổng thống Mỹ cũng nhận định: "Châu Âu là nơi nghỉ hưu
lý tưởng nhất thế giới". Sự kém năng động của nền kinh tế các nước phương
Tây trong những năm vừa qua chính là cơ sở để ông đi đến nhưng kết luận
này. Như vậy, tự do, dân chủ phương Tây cũng đang đặt ra những vấn đề đòi
hỏi phải được đổi mới, cải cách.
Đài Tiếng nói quốc tế nước Nga, Những vấn đề của nền dân chủ Mỹ
[35]. Tác giả của bài viết đã chỉ ra tính vô căn cứ trong tham vọng toàn cầu
của Mỹ là "mở rộng và bảo vệ tự do nhân quyền trên toàn thế giới" bởi những
vấn đề đó của nước Mỹ cũng không tốt đẹp gì. Trích dẫn báo cáo: "Tình hình
nhân quyền tại Hoa Kỳ" do Bộ Ngoại giao Nga ban hành năm 2012; theo đó,
mức độ tự do ngôn luận tại Mỹ bị các tổ chức nhân quyền quốc tế đánh giá rất
thấp, đặc biệt là đối với hành động của chính phủ Mỹ ngăn cấm nhà báo đưa
tin phản ánh các cuộc biểu tình "Chiếm Phố Wall". Đây không phải là lần đầu
tiên nước Mỹ vi phạm nhân quyền, trước đó, các hành vi thô bạo của cảnh sát
chống người nhập cư, về các vụ xâm phạm quyền tự do ngôn luận, bất bình
đẳng về giai cấp ở Mỹ, đối xử bất công với trẻ em nhập cư từ Nga, mở các
19
nhà tù ở Trung Đông, bắn giết dân thường và vi phạm quyền con người tại
Afghanistan… cũng đã bị các tổ chức phi chính phủ phanh phui. Giám đốc
Viện Dân chủ và Hợp tác ở New York - ông Andranik Migranyan cũng phải
thừa nhận rằng: "nếu nhìn kỹ cách tổ chức đời sống xã hội, thì rất tiếc sẽ thấy
rõ nhiều vấn đề không cho phép Hoa Kỳ coi mình như thầy giáo giới thiệu mô
hình lý tưởng về việc bảo vệ quyền con người". Cuối cùng, bài báo đi đến kết
luận: "Mỹ không nên dạy người khác thế nào là tôn trọng nhân quyền, mà
trước hết cũng phải làm như vậy". Như vậy, bản thân nền dân chủ Mỹ cũng
chứa đựng rất nhiều tiêu cực, phi dân chủ.
Ba là, các nghiên cứu về thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu
là các công trình của các tác giả người Trung Quốc. Ở Trung Quốc, vấn đề
dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là chủ đề được Đảng Cộng sản Trung Quốc
quan tâm và là nội dung trọng tâm của nhiều nghiên cứu về chính trị học, luật
học và xây dựng Đảng. Những nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa chủ
yếu đi sâu phân tích những nội dung liên quan đến dân chủ cơ sở và dân chủ
trong Đảng. Khi bàn về thực hành dân chủ ở cơ sở, nhiều công trình đã tập
trung phân tích nội dung thực hiện dân chủ cơ sở, hình thức dân chủ cơ sở chủ
đạo (thực hành dân chủ trong bầu cử, nhất là việc bầu cử trực tiếp các vị trí
chủ chốt ở cơ sở; tham gia một cách dân chủ), chỉ ra nguyên nhân gây khó
khăn trong việc thực hiện dân chủ cơ sở (trình độ tham chính của các chủ thể
tương đối thấp, thiếu kinh nghiệm trong phát triển dân chủ, môi trường tham
gia dân chủ chưa hoàn thiện,...) và đưa ra những phương thức để phát triển
dân chủ cơ sở. Các công trình bàn nhiều về vấn đề này có thể kể ra là:
Cốc Văn Khang, Cuộc đọ sức giữa hai chế độ [55]. Trong cuốn sách
này, ở Chương II, mục 2, 3, 4, tác giả đã trình bày những thành tựu về nhận
thức cũng như thực thi dân chủ, nhân quyền và xây dựng pháp chế của Trung
Quốc. Trong đó, năm điểm nổi bật trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Trung Quốc được tác giả nhấn mạnh là: Xây dựng nền dân chủ xã hội
20
chủ nghĩa ở Trung Quốc gắn với chống tự do hóa tư sản, chống ảnh hưởng
của tàn dư phong kiến; từng bước loại trừ chủ nghĩa quan liêu; phân định rõ
ràng giữa chức năng của đảng với chính quyền; từng bước bãi bỏ chế độ "làm
cán bộ suốt đời" và ủng hộ quần chúng nhân dân thực hiện chế độ tự quản.
Trang Phúc Linh, Lịch sử chủ nghĩa Mác [62] - một bộ sách đồ sộ của
các học giả Trung Quốc xoay quanh các vấn đề lý luận về lịch sử chủ nghĩa
Mác và quá trình phát triển những lý luận này ở Trung Quốc. Trong tập IV
của bộ sách này có phần khái quát quá trình phát triển lý luận của Đảng Cộng
sản Trung Quốc về phát huy dân chủ gắn với xây dựng nền chính trị pháp trị
tại Trung Quốc qua các Đại hội XIII, XIV, XV. Hiện nay, xây dựng nền dân
chủ nhân dân là một trong những nội dung quan trọng trong lý luận về chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Đặng Đình Lựu, Phát triển chế độ chính trị dân chủ và dân chủ của
Đảng Cộng sản Trung Quốc [63, tr.57- 60]. Tác giả của bài viết này đã trình
bày khái quát những vấn đề chung về nguyên tắc, cơ chế, quan điểm, phương
hướng phát triển dân chủ trong Đảng và xây dựng, phát triển chế độ chính trị
dân chủ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Cục Lý luận - Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Trung Quốc đối mặt với những điểm nóng lý luận [30]. Các tác giả đã
luận giải 21 vấn đề nóng bỏng cả về lý luận và thực tiễn cần làm sáng tỏ về
mặt nhận thức và lý luận để thống nhất trong cách đánh giá, nhận định và xây
dựng thể chế, chính sách, hành động một cách nhất quán từ trên xuống dưới
trong quá trình phát triển của Trung Quốc. Trong đó, vấn đề nhận thức về chủ
nghĩa xã hội dân chủ; về dân chủ, tự do, nhân quyền phương Tây; về "dân chủ
kiểu Trung Quốc", con đường phát triển chính trị độc đáo trong lý luận về chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc cũng được bàn giải...
Thái Thượng Kim, Đảng cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như
thế nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa đảng với quần chúng
21
[59, tr.23-31] bàn về các biện pháp bảo đảm dân chủ. Từ kinh nghiệm của các
đảng, nhất là kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản
Cuba, Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả khẳng định giải pháp thực hiện dân
chủ trong đảng và thắt chặt quan hệ giữa đảng với quần chúng, đó là: lấy dân
chủ trong đảng để thúc đẩy dân chủ trong xã hội, thực hiện nguyên tắc nhân
dân làm chủ, tận dụng kênh dân chủ để biểu đạt, lắng nghe nguyện vọng quần
chúng và thống nhất lợi ích xã hội.
Qua các công trình kể trên, có thể thấy rõ sự phát triển lý luận của Đảng
Cộng sản Trung Quốc về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là tư tưởng
thực hiện dân chủ gắn với nền chính trị pháp quyền, đây cũng là một bài học
cho quá trình xây dựng lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đối với việc thực hành dân chủ ở Lào, có thể kể đến công trình Khăm
Phon Bun Na Di, Vấn đề xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Lào hiện nay
[56]. Luận án tiến sĩ triết học này đã đi sâu luận giải quá trình xây dựng,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân ở Lào: lịch sử ra đời, phát triển; quan
điểm đổi mới của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về nội dung kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội của chế độ dân chủ nhân dân; thực trạng và giải pháp xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Lào xét trên các nội dung kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và hoạt động đối ngoại. Đây là tài liệu giúp tác giả luận án
tham khảo thêm lý luận cũng như thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở quốc gia láng giềng và có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, từ
đó có thêm luận cứ để so sánh những tương đồng và khác biệt giữa hai nền
dân chủ.
1.2. GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG CÔNG TRÌNH TỔNG QUAN VÀ NHỮNG NỘI
DUNG LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU
1.2.1. Giá trị của các công trình tổng quan
Từ những công trình nghiên cứu ở trên, nghiên cứu sinh nhận thấy: Các
công trình nghiên cứu được giới thiệu trên đây đã có nhiều đóng góp quan
22
trọng về mặt khoa học, làm sáng tỏ trên nhiều phương diện lý luận và thực
tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản:
- Các tác giả đã có nhận thức chung về nội hàm của khái niệm dân chủ:
từ nghĩa gốc dân chủ là mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ được tiếp
cận trên những góc độ, phương pháp khác nhau và được nhận thức như là
phạm trù phức tạp có bản chất nhiều thứ bậc với nội hàm rất phong phú, đa
dạng. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng cho thấy điểm chung tương đối thống
nhất trong quan niệm về nội dung dân chủ. Dân chủ được hiểu là chế độ chính
trị, hình thức nhà nước khẳng định chủ quyền nhà nước của nhân dân; là
quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là của giai cấp thống trị; là thành quả
đấu tranh của nhân dân chống lại áp bức, bóc lột; là cơ chế, nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng và các tổ chức chính trị - xã hội; là
giá trị xã hội, giá trị nhân văn phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con
người trong tiến trình phát triển xã hội... Dân chủ không chỉ là phạm trù chính
trị mà còn là phạm trù xã hội; không chỉ là thể chế, tổ chức mà còn là cơ chế,
giá trị; không chỉ là tư tưởng, quan điểm mà còn là hành vi, phong cách,
phương pháp; không chỉ có giá trị nhân loại mà còn có giá trị giai cấp, dân
tộc; không chỉ là phạm trù lịch sử mà còn là phạm trù vĩnh viễn; dân chủ là xu
thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại.
- Các công trình trên có nhận thức chung tương đối thống nhất về
nền dân chủ: với những cách tiếp cận khác nhau về dân chủ, các nghiên
cứu cho thấy có nhiều loại hình dân chủ, chế độ dân chủ, nền dân chủ với
những nội dung, đặc trưng khác nhau; ngay cả một loại hình dân chủ cũng
có những biến thể khác nhau. Giữa các loại hình dân chủ, giữa các nền dân
chủ, kể cả giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa - là những loại
hình dân chủ có sự khác nhau về chất, cũng có những nguyên tắc, cơ chế,
giá trị chung, phổ biến cả trên phương diện nội dung, hình thức, cả nhận
thức và thực tiễn. Theo đó, nền dân chủ, chế độ dân chủ là một chỉnh thể xã
23
hội trong đó các giá trị, chuẩn mực, yêu cầu, các nguyên tắc dân chủ được
ghi nhận và thực thi trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Trong xã
hội có giai cấp, nền dân chủ là một chỉnh thể hiện thực trong đó có chế độ
chính trị, nhà nước, pháp luật dân chủ; sự làm chủ của nhân dân và mang
bản chất của giai cấp thống trị; sự đấu tranh, vươn lên không ngừng của
nhân dân lao động chống lại các biểu hiện phản dân chủ, phi dân chủ; sự
tồn tại, hoạt động tự chủ, tự quản của các tổ chức chính trị, xã hội; sự hiện
hữu của các nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực dân chủ phản ánh trạng thái,
mức độ giải phóng con người.
- Từ những góc độ, khía cạnh khác nhau, các nhà nghiên cứu đã dành
sự quan tâm lớn đối với các nội dung của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có
công trình nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ vô sản, dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ Xôviết. Có
công trình nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc trong
sự nghiệp cải cách mở cửa, nghiên cứu về dân chủ nhân dân và dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới ở Lào và ở Việt Nam. Trong đó có nhiều
công trình nghiên cứu sâu về nội dung chính trị, thể chế của dân chủ xã hội
chủ nghĩa; cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ
nghĩa từ góc độ cơ chế, giá trị xã hội, giá trị văn minh của nó. Đồng thời,
cũng đã có công trình quan tâm nghiên cứu nhận thức mới về dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam trên một số khía cạnh nội dung qua mỗi đại hội Đảng,
qua từng chặng đường đổi mới của đất nước ta (10 năm, 15 năm, 20 năm, 25
năm, 30 năm đổi mới).
Tóm lại, xung quanh vấn đề nhận thức về dân chủ, dân chủ tư sản, dân
chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới đã có rất nhiều công trình đề cập đến các khía cạnh, mức độ
khác nhau, tùy theo mục đích và phương pháp tiếp cận. Những kết quả nghiên
cứu của các công trình nói trên là tài liệu tham khảo có giá trị về nhiều mặt để
24
tác giả luận án tham khảo trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ và mục đích
đề ra.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm
Kế thừa thành quả trong những công trình nghiên cứu của các học giả
đi trước, luận án tiếp tục triển khai nghiên cứu, làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, phân tích những nhận thức chung về khái niệm "dân chủ"
một cách có hệ thống (từ nội hàm gốc là "quyền lực của nhân dân" cho đến
nhiều quan niệm "phái sinh" theo lịch sử...), trên cơ sở đó làm rõ bản chất,
quá trình ra đời, phát triển và vai trò của dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ
tư sản.
Thứ hai, so sánh những điểm tương đồng và khác biệt, những giá trị
của dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đề xuất những yêu cầu cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm
vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
25
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
VỀ ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN
VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. QUAN NIỆM VỀ DÂN CHỦ VÀ CÁC CÁCH TIẾP CẬN DÂN CHỦ
2.1.1. Quan niệm về dân chủ
2.1.1.1. Quan niệm chung về dân chủ
Dân chủ với tính cách là một phạm trù khoa học, một khái niệm chính
trị được nảy sinh và hình thành trong quan hệ với áp bức, chuyên chế, với
những hiện tượng độc tài, độc đoán, chuyên quyền. Là khái niệm mang tính
lịch sử, nên dân chủ không xuất hiện tức khắc và cũng không tồn tại bất biến.
Nó được phát triển trong tiến trình lịch sử nhân loại và trong quá trình đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa các mặt đối lập: giữa tư tưởng tự do và nô lệ,
giữa dân chủ và chuyên chế, độc tài.
Xét về mặt lịch sử, thuật ngữ "dân chủ" xuất hiện rất sớm, từ thực tiễn
"dân chủ nguyên thủy" - khi chưa có chế độ tư hữu và chưa xuất hiện giai
cấp. Dân chủ theo nguyên nghĩa từ tiếng Hy Lạp cổ là do hai từ hợp thành:
demos - nhân dân và kratos - để phản ánh thực tế đã có là quyền lực thuộc
về nhân dân. Sau đó, khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, trong cuộc đấu tranh
của phái "chủ nô dân chủ" chống phái "chủ nô quý tộc" trong chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ xã hội đầu tiên có sự phân chia thành giai cấp, về thực
chất, quyền lực của nhân dân đã bị giai cấp chủ nô "tiếm quyền" (theo cách
viết của Ph.Ăngghen).
Cũng như các khái niệm khoa học khác, khái niệm dân chủ cũng ngày
càng bổ sung và phát triển theo cả bề rộng lẫn chiều sâu. Khái niệm "dân chủ"
hiện nay được hiểu rất rộng và theo nhiều chiều cạnh phong phú, đa dạng: dân
chủ với tư cách là một giá trị xã hội (tự do, bình đẳng, quan hệ giữa người với
26
người trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: gia đình, bạn bè, thầy
trò...); dân chủ với tư cách là một hình thức nhà nước. Như vậy, dân chủ hiểu
theo nghĩa hiện đại có hàm nghĩa rất rộng. Dân chủ, không chỉ là phạm trù
chính trị, mà còn là phạm trù xã hội, không chỉ là phạm trù lịch sử, mà còn
phạm trù vĩnh viễn.
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của đời sống con người. Từ hàng ngàn năm trước Công nguyên, con
người đã biết hợp lực để sản xuất, chống thiên tai, thú dữ và đã tổ chức ra
những hoạt động chung mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra những người
đứng đầu để thực thi những quy định, điều hành hoạt động chung. Đồng thời,
cộng đồng sẽ phế bỏ những người đó, nếu họ không thực hiện những quy định
chung theo lợi ích và ý nguyện của mọi người. Đây là một trong những quyền
vốn có đương nhiên của mọi thành viên trong cộng đồng. Quyền lực ấy là
ngang nhau đối với mọi thành viên trong thị tộc, bộ lạc.
Những nội dung cốt lõi của khái niệm dân chủ được hình thành từ thời
cổ đại Hy Lạp về cơ bản vẫn được các nhà lý luận ngày nay kế thừa và phát
triển. Điều khác biệt cơ bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại và hiện
nay là ở nội hàm của khái niệm nhân dân và tính trực tiếp của mối quan hệ
sở hữu quyền lực công cộng. Ngày nay, mặc dù hầu hết các nhà lý luận, các
nhà chính trị khi bàn đến vấn đề dân chủ thường lấy thuật ngữ "Demokratos"
làm điểm tựa xuất phát, nhưng cuộc tranh luận về dân chủ vẫn diễn ra hết
sức gay gắt, những lập luận, lý giải về dân chủ rất đa dạng, phong phú và kết
quả là vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa thống nhất. Sở dĩ có tình trạng
như vậy là vì:
Một là, ở góc độ nghiên cứu, vấn đề dân chủ có thể được xem xét dưới
góc độ của nhiều ngành khoa học khác nhau. Mỗi ngành khoa học cụ thể có
một hệ phương pháp tiếp cận khác nhau, một hệ thống các phạm trù, khái
27
niệm biểu đạt đặc thù và có mục tiêu nghiên cứu riêng. Do đó, người ta đã
đưa ra những quan niệm khác nhau về dân chủ.
Hai là, ở góc độ thực tiễn của các chế độ chính trị, mặc dù các nước
đều tự cho mình là dân chủ, song do có sự khác nhau về thể chế chính trị,
trình độ phát triển, truyền thống văn hoá nên cũng dẫn đến việc mỗi nước có
cách hiểu và lý giải khác nhau về dân chủ.
Ba là, ở góc độ thuật ngữ, phạm trù dân chủ là một cơ cấu nhiều tầng
bản chất được hiểu với nhiều nghĩa. Do đó, với những nguyên tắc và phương
pháp tiếp cận khác nhau, người ta cũng sẽ đưa ra quan điểm khác nhau về dân
chủ [dẫn theo 112, tr.9].
2.1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ ra đời trên cơ sở kế
thừa các thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông phát triển những
tư tưởng dân chủ đã có, mặt khác bổ sung, phát triển quan điểm mới phù hợp
với điều kiện lịch sử đương thời.
Quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển về dân chủ được biểu hiện ở
một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, trên cơ sở từ "nội hàm gốc" của "dân chủ nguyên thủy" - với
nghĩa thật sự là "quyền lực của nhân dân" trong điều kiện chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, các ông đã tập trung nghiên cứu "vấn đề dân chủ" từ khi xã
hội loài người có chế độ tư hữu và phân chia thành giai cấp và xuất hiện các
loại nhà nước, dân chủ (chế độ dân chủ hoặc nền dân chủ). Đó là hình thức tổ
chức nhà nước dựa trên nguyên tắc nhân dân là chủ thể của quyền lực. Trong
tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác chỉ rõ: "từ "dân chủ" nếu chuyển
sang tiếng Đức thì có nghĩa là "nhân dân làm chủ""[22, tr.44-45]. Điều đó có
nghĩa trong chế độ dân chủ, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, nhân
dân tạo nên nhà nước, chứ không phải nhà nước tạo nên nhân dân. C.Mác
viết: "Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con
28
người được khách thể hóa. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra con người
mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: không phải chế độ nhà nước
tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra nhà nước" [15, tr.350].
Thứ hai, chủ nghĩa Mác-Lênin sử dụng khái niệm dân chủ trên phương
diện quyền lợi của nhân dân, là vấn đề quyền lợi dân chủ được hiểu theo
nghĩa rộng. C.Mác cho rằng, nhân dân nên là chủ nhân của nhà nước. Quyền
lợi căn bản nhất của nhân dân chính là quyền lực nhà nước phải thuộc sở hữu
của nhân dân, sở hữu của xã hội; đồng thời, bộ máy nhà nước phải phục vụ
nhân dân, phục vụ xã hội. Chỉ khi mọi quyền lực của nhà nước thuộc về nhân
dân mới có thể căn bản đảm bảo việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ,
hưởng quyền lợi dân chủ khắp mọi nơi.
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin cho rằng dân chủ là
việc nhân dân được hưởng quyền tham gia quyết định chế độ nhà nước và
quản lý nhà nước. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin
khẳng định: Quần chúng phải có quyền được tự mình cử ra những người lãnh
đạo có trách nhiệm, có quyền được thay đổi những người lãnh đạo của mình,
có quyền được hiểu rõ và kiểm tra mỗi một bước nhỏ nhất trong hoạt động
của những người đó. Quần chúng phải có quyền được đề bạt trong nội bộ của
họ bất kỳ một công nhân nào lên phụ trách chức vụ lãnh đạo. Nhưng như vậy
không mảy may có nghĩa là quá trình lao động tập thể có thể không cần một
sự lãnh đạo nào, không cần có sự xác định chính xác chức trách của người
lãnh đạo, không cần một trật tự hết sức nghiêm ngặt do ý chí thống nhất của
người lãnh đạo lập ra [125, tr.192].
Thứ ba, trên phương diện chế độ chính trị, chủ nghĩa Mác đã lý giải
khái niệm dân chủ như một hình thức nhà nước hay một hình thái nhà nước,
như là chế độ dân chủ hay chính thể dân chủ. C.Mác, trong tác phẩm Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel, đã gọi chế độ quân chủ và chế
độ dân chủ là chế độ nhà nước [15, tr.350].
29
Chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng, chế độ dân chủ làm nên một hình thức nhà
nước, hình thái nhà nước, trong lịch sử nhân loại nó xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của chế độ tư hữu, của giai cấp và của nhà nước; tính chất của nó
căn bản không giống kiểu "chế độ dân chủ hình thành tự nhiên thời kỳ nguyên
thủy " trong xã hội nguyên thủy. Trong xã hội của giai cấp bóc lột, chính thể
dân chủ giống với chính thể quân chủ và chính thể quý tộc, về thực chất, đều
chỉ là công cụ giúp giai cấp chiếm địa vị thống trị về chính trị và kinh tế thống
trị đối với giai cấp khác.
Không những thế, C.Mác còn chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa chế độ
dân chủ với chế độ chuyên chế, chế độ dân chủ có đặc trưng cơ bản là luật
pháp tồn tại vì con người: "Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại
vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con người… Dấu hiệu đặc trưng cơ bản
của chế độ dân chủ là như vậy" [15, tr.350].
Tuy nhiên, các nhà kinh điển cũng chỉ ra rằng, do xuất hiện trong điều
kiện xã hội có giai cấp nên cũng giống như nhà nước, dân chủ trước hết và
chủ yếu là một phạm trù chính trị, mang tính giai cấp và phục vụ giai cấp
thống trị, không có dân chủ "thuần túy", dân chủ nói chung [96, tr.10].
Tựu trung lại, quan niệm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin được
biểu hiện ở hai góc độ:
Một là, dân chủ được xem xét với tư cách là hình thức tổ chức nhà
nước, một chế độ xã hội trong đó quyền lực thuộc về nhân dân. Nói cách
khác, dân chủ là phương thức quản lý điều hành xã hội được xây dựng thành
các thiết chế, quy chế, chế độ được đảm bảo về mặt pháp lý và được biểu hiện
thành trật tự của tổ chức bộ máy nhà nước, thông qua tổ chức và quản lý để
thực hiện quyền lực đối với xã hội;
Hai là, dân chủ là giá trị tiến bộ xã hội. Kết tinh của giá trị tiến bộ xã
hội của dân chủ là ở chỗ, các cuộc đấu tranh để giành lấy dân chủ đều dẫn
đến những khả năng giải phóng, nâng cao vị trí của con người trong lịch sử,
30
hình thành và phát triển ở con người ý thức và năng lực làm chủ xã hội.
Những thành tựu đạt được của dân chủ trước chủ nghĩa xã hội, mà đỉnh cao
là dân chủ tư sản, xét về ý nghĩa khách quan, đều mang những tiến bộ xã
hội, vì nó từng bước chuẩn bị tiến tới nền dân chủ đầy đủ, triệt để và hoàn
thiện nhất trong chủ nghĩa xã hội. Mặc dù chưa đem lại quyền lực cho đa số
người lao động, nhưng nền dân chủ tư sản vẫn cần thiết đối với tiến bộ xã
hội. Nó tích lũy và làm chín muồi ý thức dân chủ, tinh thần phản kháng mọi
hiện tượng bất công, mất dân chủ, tạo nên sự trưởng thành về chính trị, ý
thức giai cấp của quần chúng, cung cấp cho họ kinh nghiệm thực tiễn cần
thiết để chuyển từ đấu tranh đòi cải thiện dân sinh dân chủ sang đấu tranh vì
chủ nghĩa xã hội, tức là vì dân chủ thực sự, triệt để nhất. V.I. Lênin đã chỉ
rõ, chính chủ nghĩa tư bản trong tiến trình phát triển của nó đã dẫn tới các
tiền đề cho sự chín muồi đầy đủ của dân chủ và một khi dân chủ đã phát
triển đầy đủ thì nó không thể dung nạp được trật tự tư sản. Do vậy, chủ
nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn.
2.1.1.3. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa
Về nền dân chủ tư sản, nghiên cứu vấn đề dân chủ được đặt ra trong
điều kiện phải đấu tranh trực tiếp với những quan điểm tư sản về dân chủ; sự
tuyệt đối hóa những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản đương
thời cũng như nhu cầu thực tiễn phải vượt qua dân chủ tư sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen trước hết vạch trần bản chất giả dối của dân chủ tư sản.
Ph.Ăngghen viết về chế độ dân chủ tư sản như sau:
Chế độ dân chủ, giống như bất kỳ chính thể nào khác, cũng là sự
dối trá, chẳng qua cũng chỉ là sự giả dối... Tự do chính trị là tự do
giả, là chế độ nô lệ tồi nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngoài của tự do, và
vì thế, trên thực tế, nó là chế độ nô lệ. Bình đẳng chính trị cũng như
vậy, vì thế chế độ dân chủ (tức là dân chủ trong chủ nghĩa tư bản -
31
người trích), giống như bất kỳ mọi hình thức quản lý nào khác, cuối
cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che
đậy ở trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra; hoặc là chế độ nô lệ thực sự, tức
là chế độ chuyên chế không che đậy, hoặc là tự do thực sự và bình
đẳng thực sự, tức là chủ nghĩa cộng sản [15, tr.723].
Khi nghiên cứu tư tưởng trên đây của Ph.Ăngghen, cần lưu ý rằng: một
là, chế độ dân chủ mà ông viết ở đây là chế độ dân chủ tư sản; hai là, dân chủ
tư sản chỉ là giả dối, là bức màn che của bản chất nô lệ trong chủ nghĩa tư
bản; ba là, nền dân chủ đó chứa đầy mâu thuẫn mà sự vận động nội tại của
những mâu thuẫn ấy nhất định sẽ dẫn chế độ dân chủ tư sản đến chỗ tiêu
vong; bốn là, tự do, bình đẳng thực sự chỉ đạt được trong chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, việc phân tích tính chất tạm thời, tính chất nhất định sẽ bị vượt qua
của dân chủ tư sản đã đưa các nhà kinh điển mácxít đến tư tưởng về cách
mạng xã hội chủ nghĩa như là bước đi tất yếu để tiến tới một xã hội dân chủ
chân chính mà đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó, dân chủ sẽ tiêu vong
[96, tr.10].
Về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền
lực chính trị thuộc về giai cấp công nhân: "Trước hết nó tạo ra một chế độ dân
chủ mà nhờ đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai
cấp vô sản" [17, tr.469].
Với tư cách đó, dân chủ là bản chất của chủ nghĩa cộng sản: "đối với
giai cấp công nhân, dân chủ và chủ nghĩa cộng sản là những danh từ hoàn
toàn đồng nghĩa" [16, tr.749]. Xã hội còn giai cấp và nhà nước thì tất yếu nền
dân chủ cũng mang tính giai cấp. Tuy nhiên, trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích
của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của đa số nhân dân lao động nên
đây là nền dân chủ giành cho số đông, nó khác về chất so với các kiểu dân
chủ đã có trong lịch sử.
32
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng cho rằng, việc thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa gắn với bảo đảm các quyền tự do, bình đẳng của công dân. Theo
các ông: "… những quyền tự do như tự do báo chí, tự do lập hội và tự do hội
họp, quyền đầu phiếu phổ thông, quyền tự trị của địa phương - những quyền
mà nếu không có… thì công nhân sẽ không bao giờ có thể giải phóng được
mình" [20, tr.98-99]. Trong bối cảnh giữa thế kỷ XIX, khi nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa mới ở giai đoạn phôi thai về mặt lý luận, các ông đã nhận ra cơ sở
nền tảng để thực hiện nó: "Mặc dầu quần chúng không phải bao giờ cũng hiểu
được rõ ràng cái ý nghĩa duy nhất chính xác đó của dân chủ nhưng đối với họ,
cái khái niệm dân chủ đã bao hàm khát vọng, tuy còn mơ hồ, về bình đẳng xã
hội" [16, tr.791]. Rất nhiều công trình nghiên cứu sau này đều có nhận định,
quyền bình đẳng xã hội của các công dân là tiền đề quan trọng nhất trong thực
hiện dân chủ [2, tr.10-21].
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, từ thực tiễn của cách
mạng vô sản Nga, V.I.Lênin đã tiếp tục hoàn thiện, phát triển quan niệm về
dân chủ. Trước hết, V.I.Lênin đã đưa ra những đánh giá khách quan, khoa học
về nền dân chủ tư sản. Theo ông, tư tưởng dân chủ tư sản là một nấc thang
trong tiến trình phát triển của tư tưởng dân chủ của nhân loại. Sự vận hành
của chế độ dân chủ tư sản trên thực tế đã tạo ra những thành tựu dân chủ quan
trọng. Tuy nhiên, hạn chế lịch sử của nó là "tính ước lệ, hạn hẹp". Xã hội tư
bản chủ nghĩa, xét trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem
lại một chế độ dân chủ ít nhiều đầy đủ trong chế độ cộng hoà dân chủ. Những
chế độ dân chủ ấy luôn bị bó buộc trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư
bản chủ nghĩa. Nó luôn là chế độ dân chủ đối với thiểu số, là chế độ dân chủ
của giai cấp có của, giàu có. So sánh nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô
sản, trong tác phẩm Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky, V.I.Lênin đã
có một luận điểm nổi tiếng khi khẳng định "nền dân chủ vô sản hơn gấp triệu
lần nền dân chủ tư sản". Những luận cứ điển hình mà ông đưa ra để làm sáng
33
tỏ quan điểm của mình là: Sau khi đánh đổ chế độ Nga sa hoàng, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đã xóa bỏ toàn bộ hệ thống chính quyền cũ,
xây dựng hệ thống chính quyền mới gọi là các "xô viết", về thực chất, quyền
lực của các xô viết này là do giai cấp công nhân và nhân dân lao động quyết
định. Cũng tại nước Nga, sau khi cách mạng thành công, các quyền tự do, dân
chủ cơ bản của công dân như tự do hội họp, tự do đi lại, tự do báo chí… được
thực hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động: "quyền tự do xuất bản
không còn là một cái gì giả dối nữa, vì các nhà in giấy đã được tước đoạt khỏi
tay giai cấp tư sản. Các lâu đài, các dinh thự, các tư thất, các nhà ở tốt nhất…
cũng thế.
Có thể thấy tư tưởng nổi bật của ông về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
nền dân chủ dựa trên và gắn liền với các quyền tự do cơ bản của con người -
điều mà nhà triết học Anh John Locke đã đưa ra từ thế kỷ XVII. Các quyền ấy
được thực hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động chứ không phải
chỉ là những lời tuyên bố suông [96]. Liên hệ với tình hình thực tế cuộc sống
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong những năm đầu thế kỷ XX
- khi mà đại bộ phận nhân dân lao động tại các nước Á, Phi, Mỹ Latinh đang
chịu cảnh nô lệ; giai cấp công nhân và nhân dân lao động tại các nước tư bản
đang bị bóc lột sức lao động một cách nặng nề sẽ thấy rõ, V.I.Lênin đã từ
những ví dụ thực tế và sinh động đó mà đi đến kết luận: "Chế độ dân chủ vô
sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần,
chính quyền xô viết, so với các cộng hòa tư sản dân chủ nhất, cũng dân chủ
hơn gấp triệu lần" [126, tr.312-313].
2.1.2. Một số cách tiếp cận xung quanh khái niệm dân chủ hiện nay
Từ những nội dung cơ bản ban đầu của khái niệm, trong những điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, tùy theo sự vận động, biến đổi phức tạp
của thực tiễn dân chủ, khái niệm dân chủ được người ta hiểu và sử dụng với
nhiều chiều cạnh, ý nghĩa khác nhau. Trên phương diện học thuật, hiện tượng
34
xã hội lịch sử phức tạp này từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu lý thú
của nhiều khoa học khác nhau trong hệ thống các khoa học xã hội và nhân
văn. Dân chủ được nghiên cứu dưới góc độ của triết học, chính trị học, luật
học, xã hội học, hành chính học, sử học, tâm lý học, đạo đức học, văn hóa
học... Trên phương diện chính trị thực tiễn, dân chủ được nhìn nhận, đánh giá,
lý giải cũng rất đa dạng, phong phú, thậm chí là trái ngược nhau do sự khác
nhau về lợi ích, lập trường giai cấp, thể chế chính trị, trình độ hiểu biết, đặc
thù văn hóa...
Thực tế đời sống tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay có nhiều cách
tiếp cận đối với khái niệm dân chủ. Dưới đây, chúng tôi trình bày khái quát
một số cách tiếp cận cơ bản về khái niệm dân chủ nhằm hiểu sâu sắc hơn
nhiều chiều cạnh của khái niệm không đơn giản này [79, tr.28-32].
Thứ nhất, cách tiếp cận xem dân chủ là một phạm trù chính trị, nó chỉ
ra đời, tồn tại trong xã hội có giai cấp.
Theo cách tiếp cận này, dân chủ tuy đã có mầm mống từ trong xã hội
cộng sản nguyên thủy nhưng nó xuất hiện đầy đủ như một chế độ chính trị,
chế độ nhà nước trong xã hội có giai cấp. Dân chủ với tư cách là chế độ nhà
nước, chế độ chính trị, là một hình thức lịch sử tất yếu của việc tổ chức và
thực thi quyền lực của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đây là phạm
trù lịch sử. Theo đó, khi nhà nước không còn thì dân chủ cũng tiêu vong; nhà
nước tự tiêu vong thì chế độ dân chủ cũng trở nên thừa. Tiếp cận như thế,
quan niệm như thế về dân chủ là không sai. Đó là lôgíc tất yếu khách quan
của dân chủ với tính cách là chế độ chính trị, chế độ nhà nước.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này có ý nghĩa về nhận thức luận cơ bản thì lại
không có nhiều ý nghĩa trực tiếp đối với các nghiên cứu ứng dụng về dân chủ
trong bối cảnh hiện nay. Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp và lôgíc
khách quan của dân chủ, của chính trị là xóa bỏ giai cấp. Muốn thực hiện
thành công việc đó, trước hết giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải
35
giành lấy quyền lực nhà nước (giành lấy dân chủ). Nhưng, khi đã có chính
quyền, một trong những nhiệm vụ cơ bản về mặt chính trị của chủ nghĩa xã
hội là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa mà vẫn tiếp tục thực hành dân chủ theo tinh thần xóa bỏ
giai cấp, dân chủ tiêu vong thì sẽ là không phù hợp.
Tính giai cấp của dân chủ là một thực tế lịch sử. Chừng nào xã hội còn
tồn tại giai cấp và nhà nước thì bản chất giai cấp của dân chủ vẫn còn tồn tại.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, bản chất giai cấp của dân chủ đặc biệt nổi bật
trong dân chủ chính trị. Nhưng trong điều kiện như thế, nếu tuyệt đối hóa tính
giai cấp của dân chủ, đề cao dân chủ về chính trị, xem nhẹ dân chủ trên các
lĩnh vực khác thì cũng tai hại không kém việc phủ nhận, lảng tránh bản chất
giai cấp của dân chủ [79, tr.28-32].
Thứ hai, cách tiếp cận coi nhân quyền là bộ phận cốt lõi của dân chủ,
đồng thời cho rằng nhân quyền cao hơn chủ quyền; và, xem dân chủ là một
giá trị phổ biến, có tính toàn nhân loại, thời gian và không gian không có
giá trị nhiều trong việc làm nó biến đổi.
Ở vế thứ nhất, quan niệm trên có mặt hợp lý nhưng có điểm sai lầm.
Đúng ở chỗ: nhân quyền là một bộ phận của dân chủ và đấu tranh cho quyền
con người là một bộ phận của cuộc đấu tranh cho dân chủ. Sai lầm ở chỗ, đã
nhấn mạnh nhóm quyền dân sự, chính trị và tự do cá nhân, coi đây là "chuẩn
mực quốc tế" về dân chủ, nhân quyền; coi "nhân quyền cao hơn chủ quyền",
nhân quyền không còn là công việc thuộc nội bộ của một nước và cho rằng,
cộng đồng quốc tế có quyền tiến công vào bên trong lãnh thổ của một quốc
gia để can thiệp nhân đạo và bảo vệ nhân quyền...
Quan điểm trên chỉ là một hình thức biến tướng của chủ nghĩa thực dân
mới. Bởi vì trước đây, để mở rộng thuộc địa, các nước đế quốc thường sử
dụng phương thức cổ điển là đánh thành và chiếm đất. Còn ngày nay, họ trắng
trợn can thiệp vào nội bộ các nước có chủ quyền bằng nhiều âm mưu, thủ
36
đoạn và hình thức khác nhau, không hẳn vì mục đích xâm chiếm lãnh thổ mà
vì muốn áp đặt quan niệm “nhân quyền” của mình đối với quốc gia, dân tộc
khác. Cần phải nói ngay rằng, những người đưa ra và cổ súy cho luận thuyết
“nhân quyền cao hơn chủ quyền”, hay “nhân quyền toàn cầu”, “nhân quyền
không biên giới”, ngay từ đầu họ đã cố tình hoặc lảng tránh một lẽ đơn giản
là, trên thế giới không thể có một con người nào sống ngoài cộng đồng quốc
gia, dân tộc; càng không có cái thế giới tồn tại mà không cần rạch ròi biên
giới giữa các quốc gia. Họ cũng bỏ qua một sự thật hiển nhiên là, thời đại mà
chúng ta đang sống có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, hàng nghìn dân tộc
khác nhau, theo những tôn giáo khác nhau và có truyền thống văn hóa khác
nhau. Trong các quốc gia và vùng lãnh thổ đó, con người thuộc các chế độ
chính trị - xã hội khác nhau, cùng một lúc chịu sự tác động của hai mối quan
hệ: quan hệ về nhân quyền và quan hệ về chủ quyền quốc gia. Quan hệ nhân
quyền là quan hệ về cá nhân, còn quan hệ chủ quyền quốc gia là quan hệ cộng
đồng các cá nhân trong quốc gia đó. Hai mối quan hệ cơ bản của con người là
nhân quyền và chủ quyền quốc gia không cùng một bậc, không cùng một
tuyến tiếp cận, và do đó, không thể đem so sánh cái này cao hoặc thấp hơn cái
kia. Việc quy chủ quyền quốc gia về cùng một bậc với nhân quyền, rồi coi
“nhân quyền” cao hơn “chủ quyền” là một việc làm khiên cưỡng, không
lôgíc, phản khoa học và thiếu tính thuyết phục.
Thực tế lịch sử cho thấy, đối với một dân tộc còn đang bị đế quốc đô hộ
thì yêu cầu quan trọng nhất là quyền được sống trong một quốc gia độc lập,
có chủ quyền. Không có độc lập dân tộc, không có chủ quyền quốc gia thì
không thể có quyền công dân, quyền con người theo đúng nghĩa của các từ
đó. Truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông cho chúng ta bài học về
quyền dân chủ, quyền con người. Nước mất thì nhà tan, dân khổ; nước thịnh
thì nhà yên, dân cường. Giành được chủ quyền là điều kiện để có nhân quyền.
Bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là một bộ phận cốt lõi, là điều
37
kiện khởi đầu trong cuộc đấu tranh cho quyền công dân, quyền con người.
Nhân quyền trước hết là quyền của mỗi người, mỗi dân tộc được tự quyết,
được sống trong độc lập, tự do và được phát triển về mọi mặt; các quyền dân
sự, chính trị phải gắn liền với các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; tự do cá
nhân phải gắn với lợi ích chung của dân tộc và trách nhiệm, nghĩa vụ với cộng
đồng. Bảo đảm và thực hiện quyền con người trước hết là trách nhiệm quốc
gia, không thể có sự áp đặt, can thiệp từ bên ngoài.
Vế thứ hai của quan niệm trên xem dân chủ là một giá trị phổ biến, có
tính toàn nhân loại, phi giai cấp, phi lịch sử. Sai lầm của quan niệm này là đã
tuyệt đối hóa cái chung, cái phổ biến của dân chủ, xem chúng tồn tại độc lập
không phụ thuộc vào cái riêng. Những nước nào không thực hiện theo những
cái chung này thì không được họ xem là dân chủ. Trên thực tế, quan niệm này
tuyệt đối hóa các giá trị dân chủ, nhân quyền đạt được dưới chủ nghĩa tư bản,
nhất là ở phương Tây, đặc biệt là dân chủ, nhân quyền kiểu Mỹ. Họ xem nhân
quyền phương Tây, dân chủ kiểu Mỹ là "khuôn vàng, thước ngọc" buộc mọi
nước phải khuôn theo. Theo đó, dân chủ đồng nghĩa với Mỹ, với phương Tây.
Họ xem nhân quyền phương Tây, dân chủ kiểu Mỹ là chuẩn mực quốc tế mà
các nước tất yếu phải tuân thủ trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.
Chúng ta không phủ nhận, giữa các loại hình dân chủ, nhân quyền khác
nhau đều có những giá trị chung, mang tính phổ biến. Nhưng thực tế lịch sử
chứng minh rằng, những cái chung, phổ biến ấy bao giờ cũng biểu hiện sự tồn
tại của nó bằng nhiều sắc thái, mức độ phong phú khác nhau thông qua những
nền dân chủ cụ thể. Các giá trị dân chủ, nhân quyền đó được thể hiện dưới
những hình thức khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử
và văn hóa. Mô hình dân chủ của phương Tây và Mỹ chỉ là một trong những
kiểu phát triển, một trong những phương án phát triển dân chủ của chủ nghĩa
tư bản. Mặc dù nó tạo ra không ít giá trị dân chủ có tính phổ biến nhưng thực
chất đó chỉ là dân chủ của giai cấp tư sản, dân chủ của một số ít người trong
38
xã hội. Mô hình này ra đời, tồn tại trong điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa cụ
thể của nó. Mỹ và phương Tây không phải toàn nhân loại; và phần lớn nhân
loại không cư trú ở Mỹ và phương Tây. Do đó, nếu đồng nhất mô hình dân
chủ của phương Tây và Mỹ với dân chủ như chính bản thân nó thì sẽ là một
sai lầm nghiêm trọng cả về nhận thức và thực tiễn [79, tr.29-30].
Thứ ba, cách tiếp cận cho rằng, dân chủ và lãnh đạo là hai khái niệm
không thể tương dung; và muốn có dân chủ phải đa nguyên về chính trị
Quan niệm này cho rằng, đã có lãnh đạo là có định hướng. Có lãnh đạo
tức là buộc con người phải suy nghĩ và hành động theo một khuôn khổ nhất
định, và như thế là mất dân chủ (!). Những người có quan niệm này không
hiểu hoặc cố tình không hiểu rằng, trong đời sống tự nhiên bầy đàn của động
vật bao giờ cũng có chỉ huy, lãnh đạo theo nghĩa sơ giản nhất của từ này. Con
người là động vật - xã hội. Tính xã hội, tính cộng đồng là thuộc tính vốn có
của con người. Cộng đồng xã hội là cộng đồng có tổ chức cao và phức tạp. Để
tồn tại và phát triển, cộng đồng xã hội trong những điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau không thể không có sự chỉ huy, điều khiển, lãnh đạo với những cá nhân,
tổ chức, những cách thức, tính chất nhất định. Vấn đề quan trọng là lãnh đạo,
chỉ huy như thế nào thì tạo ra dân chủ, thúc đẩy dân chủ phát triển và lãnh đạo
thế nào là cản trở, hủy hoại dân chủ.
Vai trò lãnh đạo có thể được thực hiện thông qua hoạt động của một cá
nhân, một tổ chức, thiết chế hoặc cả hai. Trong xã hội hiện đại, tổ chức thiết
chế có tác động định hướng, lãnh đạo hiệu quả nhất là đảng chính trị, nhất là
đảng chính trị (hoặc liên minh một số đảng) cầm quyền. Tuy nhiên, dân chủ
và phát triển không tùy thuộc một cách máy móc vào một công thức chung
duy nhất nào đó về cách thức tổ chức thực thi quyền lực hay số lượng đảng
tham chính. Có nước, nhờ đa đảng mà có dân chủ và phát triển. Có nước, đi
vào con đường ấy lại rơi vào bất ổn, huynh đệ tương tàn. Lịch sử chính trị thế
giới đương đại cũng cho thấy rằng, trình độ dân chủ và phát triển của một
39
quốc gia không tỷ lệ thuận với sự gia tăng của số lượng đảng chính trị. Hơn
nữa, trên thực tế, cái gọi là đa nguyên chính trị chỉ là đa nguyên đường lối
chính trị tư sản; đa đảng đối lập cũng chỉ là đa đảng tư sản tranh cử cầm
quyền. Về hình thức, các đảng chính trị đều "tự do", "bình đẳng" trong cuộc
cạnh tranh nghị trường và đều có khả năng thành đảng cầm quyền nhưng thực
tế chỉ có các đảng lớn, có thế lực (thực chất đều là đảng tư sản), có sự hậu
thuẫn của các tập đoàn tư bản độc quyền mới có khả năng chiến thắng. Nói
cách khác, đó vẫn là nhất nguyên hệ tư tưởng tư sản, độc đường lối chính trị
tư sản và độc đảng tư sản cầm quyền [79, tr.30-31].
Thực tiễn ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, nhất là ở Liên Xô
trước đây cũng cho thấy, từ khi chấp nhận bỏ Ðiều 6 trong Hiến pháp của
Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, đã dẫn đến tình trạng xuất hiện
đa đảng và hậu quả là, Ðảng Cộng sản Liên Xô đã dần dần đánh mất quyền
lãnh đạo xã hội. Những sự thỏa hiệp về “dân chủ hóa”, về “công khai hóa”
hay “đa nguyên chính trị”, không những không làm cho người dân được dân
chủ hơn, không làm cho xã hội phát triển hơn, mà còn là mảnh đất rất màu mỡ
cho các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá, làm cho chế độ
xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô nhanh chóng sụp đổ.
Một số nước khác tuy có hệ thống chính trị đa nguyên, đa đảng nhưng
vẫn thường xuyên xảy ra khủng hoảng chính trị, đảo chính làm cho xã hội bất
ổn. Những bất ổn chính trị ở Ucraina hay ở Thái Lan diễn ra trong thời gian
gần đây là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do đảng cầm
quyền và đảng đối lập mâu thuẫn với nhau về lợi ích, dẫn đến đảng đối lập đã
kích động quần chúng biểu tình, đưa yêu sách lật đổ chính phủ hợp pháp đang
điều hành đất nước. Hậu quả là, quyền dân chủ của người dân bị lợi dụng
phục vụ cho mục đích riêng của từng đảng; xã hội gặp phải những khó khăn,
trở ngại trong quá trình phát triển. Như vậy, rõ ràng là, đâu phải cứ có đa đảng
mới có dân chủ, mới bảo đảm cho xã hội phát triển!
40
Thứ tư, quan niệm cho rằng, đi tới dân chủ phải bằng khoan dung, đối
thoại hòa bình và xem dân chủ đối lập với cách mạng, đối lập dân chủ với
chuyên chính.
Theo quan niệm này, lịch sử dân chủ chỉ là quá trình vận động êm đềm,
tuần tự, bởi dân chủ mang trong mình những giá trị nhân văn, đạo đức, bác ái.
Việc giải quyết các mâu thuẫn, xung đột trong nền dân chủ và trong quá trình
dân chủ hóa phải tuân thủ nguyên tắc khoan dung, đối thoại hòa bình. Theo
đó, đã có chuyên chính thì không có dân chủ, đã có dân chủ thì không có
chuyên chính. Quan niệm này phủ nhận tính tất yếu khách quan của sự ra đời
và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua cách mạng vô sản, nhất
là bằng các biện pháp bạo lực, trấn áp. Theo họ, nền dân chủ tư sản phát triển
sẽ tự nó vượt khỏi giới hạn và tự thay đổi bản chất (!).
Lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử dân chủ nói riêng đã chứng minh
rằng, quá trình lịch sử - tự nhiên là quá trình có sự thống nhất biện chứng giữa
liên tục và đứt đoạn, giữa tuần tự, dần dần và nhảy vọt, đột biến. Thực tế lịch
sử cho thấy, trên nhiều phương diện, đi tới dân chủ bằng khoan dung, đối
thoại hòa bình vẫn là một điều quý hiếm. Để có nền dân chủ như hiện nay,
người Pháp, người Anh, người Mỹ... đã phải làm cách mạng và không chỉ làm
cách mạng một lần; và để bảo vệ chế độ dân chủ tư sản của mình, hàng trăm
năm qua họ đã phải không ngừng tăng cường quân đội, cảnh sát, cả về nhân
lực, vũ khí tối tân, kể cả những nhà tù không cần xét xử.
Đúng như V.I.Lênin đã khái quát, dân chủ, với tư cách là một hình
thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước, một mặt, là việc
"thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta", "mặt khác
chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa
những công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong
việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước" [123, tr.123]. Khi xã
hội còn tồn tại tình trạng phân chia giai cấp thì còn cần đến nhà nước với
tính cách là một công cụ của một giai cấp dùng để trấn áp sự đấu tranh của
các giai cấp khác, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, do vậy bất cứ nhà nước
41
nào cũng vừa có dân chủ, vừa có chuyên chính. Theo đó, trong thực tế,
không ở đâu, không ở nước nào cho phép tồn tại sự tự do vô tổ chức; bao
giờ dân chủ cũng gắn liền với kỷ cương, phép nước. Tự do, dân chủ phải
được thực hiện trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Không như thế, thì
không có một chế độ chính trị, một nhà nước nào có thể đứng vững, dù chỉ
trong thời gian ngắn; đồng thời, quyền tự do, dân chủ của mỗi người dân
khó có thể bảo đảm [79, tr.31-32].
Dân chủ và chuyên chính đều là những tồn tại khách quan của mỗi nền
dân chủ. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện
chứng với nhau. Chế độ dân chủ không phải chỉ là chuyên chính, chuyên
chính không hoàn toàn đối lập và loại trừ dân chủ, chuyên chính là một mặt
của chế độ dân chủ, là cái bảo đảm thực tế cho dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng khẳng định rất đúng rằng: Dân chủ và chuyên chính đi đôi với
nhau. Muốn dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự. Vì không chuyên
chính thực sự, bọn thù địch sẽ làm hại dân chủ của nhân dân. Dân chủ là cái
quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để phòng kẻ phá
hoại. Tất nhiên, mức độ, phạm vi, đối tượng dân chủ, chuyên chính ở các nhà
nước, các chế độ dân chủ sẽ không như nhau, do điều kiện lịch sử cụ thể quy
định. Chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt kia, nhấn mạnh mặt này mà xem
nhẹ mặt khác sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của nền dân chủ. Chính vì thế,
quan niệm cho rằng, đi tới dân chủ phải bằng khoan dung, đối thoại hòa bình
và xem dân chủ đối lập với cách mạng, đối lập dân chủ với chuyên chính
không những sai lầm cả về mặt lý luận, thực tiễn mà còn phản động về mặt
chính trị.
Thứ năm, xem dân chủ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử; lịch
sử xã hội loài người là lịch sử vươn lên của dân chủ với nghĩa rộng nhất của
khái niệm đó.
Đây là cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc theo phương pháp tổng hợp,
liên ngành về dân chủ. Phù hợp với quan điểm này, dân chủ là hiện tượng lịch
42
sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con
người. Theo đó, biện chứng của lịch sử dân chủ trên phạm vi toàn nhân loại
đã, đang và sẽ đi từ dân chủ tự quản cộng sản nguyên thủy đến dân chủ chủ
nô, dân chủ phong kiến, dân chủ tư sản và tiến tới dân chủ tự quản văn minh
trong xã hội cộng sản văn minh, mà bước quá độ lên hình thức dân chủ này là
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Ở đây, cần lưu ý, lịch sử dích dắc phức tạp của dân chủ cũng vận động
khách quan theo quy luật phủ định của phủ định, từ dân chủ tiền chính trị qua
dân chủ chính trị và đến dân chủ phi chính trị. Dân chủ, có những giá trị lịch
sử nhưng cũng có những giá trị vĩnh viễn, trường tồn. Theo cách hiểu này,
dân chủ, yêu cầu dân chủ bao quát mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với các
đòi hỏi ngày một cao [79, tr.32].
Từ việc phân tích những cách tiếp cận khác nhau về dân chủ trên đây
có thể nhận thấy rằng, mỗi cách tiếp cận có mặt mạnh và mặt yếu của nó. Cần
phải biết chắt lọc, kết hợp một cách biện chứng những nhân tố hợp lý từ các
cách tiếp cận đó để có một quan niệm đúng đắn, khoa học về dân chủ.
Xét về nhiều mặt, cách tiếp cận thứ năm về dân chủ bảo đảm tính cấu
trúc - hệ thống và tính liên ngành trong tiếp cận nên đây là cách tiếp cận có
nhiều nhân tố hợp lý hơn cả. Phù hợp với cách tiếp cận này, dân chủ được
hiểu là phương thức quan hệ giữa người với người trên tất cả các lĩnh vực xã
hội, giữa các thiết chế xã hội, giữa các con người trong tất cả mọi cấp độ tồn
tại khác nhau của nó; là một hình thức tổ chức quan hệ xã hội thừa nhận
quyền tự do, bình đẳng của mỗi thành viên, thừa nhận nhân dân là chủ thể của
quyền lực. Theo đó, với tư cách là một chỉnh thể hiện thực bao gồm các khía
cạnh vật chất và tinh thần của dân chủ, từ kinh tế, chính trị, xã hội đến văn
hóa, dân chủ được định danh bằng thuật ngữ nền dân chủ hay chế độ dân chủ.
Như vậy, nền dân chủ hay chế độ dân chủ là một chỉnh thể xã hội được tổ
chức, vận hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực dân chủ. Với cách
43
tiếp cận toàn diện này, dù là cốt lõi và rất quan trọng nhưng nhà nước dân chủ
cũng chỉ là một trong những bộ phận cấu thành của nền dân chủ trong xã hội
có giai cấp mà thôi.
2.2. QUAN NIỆM VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.2.1. Quan niệm về "tương đồng" và "khác biệt", "tương đồng
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa", "khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa"
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, khái niệm "tương đồng" được hiểu là "như
nhau, giống nhau" [139, tr.1768]. Trong ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay, có các
từ tương tự như: sự giống nhau, sự tương đồng, sự thống nhất… Những từ
này đều dùng để chỉ những mặt, thuộc tính, đặc điểm, mối liên hệ… có ở
nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau.
Trên phương diện triết học, cơ sở hình thành sự tương đồng giữa các sự
vật, hiện tượng có thể xuất phát từ bản thân các yếu tố cấu thành sự vật
(khách quan), có thể do nhu cầu của con người (chủ quan); ví dụ sắt, nhôm,
đồng đều có chung thuộc tính có thể dẫn nhiệt, dẫn điện, dát mỏng, kéo dài...
đây là thuộc tính tự nhiên của sự vật làm nên tính tương đồng của kim loại.
Trong xã hội, điểm tương đồng vừa có thể có nguồn gốc khách quan nhưng
cũng có thể do yếu tố chủ quan. Ví dụ, mọi dân tộc đều phải sản xuất ra của
cải để duy trì cuộc sống là điểm tương đồng khách quan; nhưng các dân tộc
khi bị áp bức, đều đấu tranh để giành lại quyền tự do thì đó là điểm tương
đồng có tính chủ quan (mong muốn của con người).
Từ đó, "tương đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa"
được hiểu là so sánh để tìm ra những nhận thức hay giá trị chung, phổ quát
của nhân loại giữa hai chế độ dân chủ này.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, khái niệm "khác biệt" được hiểu là:
"không giống hay những nét riêng biệt" [139, tr.883]. Trong ngôn ngữ tiếng
44
Việt hiện nay, có nhiều từ để chỉ nội dung này như: "khác nhau", "riêng biệt",
"khác biệt"… Các khái niệm này đều dùng để chỉ những mặt, thuộc tính, mối
liên hệ, yếu tố cấu thành khác nhau trong cùng một sự vật, hiện tượng hay
giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau.
Trên phương diện triết học, cơ sở hình thành sự khác nhau giữa các sự
vật, hiện tượng cũng có thể do yếu tố khách quan hoặc chủ quan. Ví dụ, yếu
tố cấu thành của nước và sắt là khác nhau (H,O và Fe) nên thuộc tính của hai
chất này khác nhau (khách quan); còn các dân tộc khi bị áp bức đều đấu tranh
chống áp bức nhưng mỗi dân tộc có phương pháp, cách thức khác nhau - đó là
sự khác biệt có tính chủ quan.
Từ đó, "khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa"
được hiểu là so sánh để tìm ra những sự khác nhau mang tính bản chất giữa
hai chế độ dân chủ này.
Khái niệm "tương đồng" và "khác biệt" trong luận án này rất gần với
cặp phạm trù "cái phổ biến" và "cái đặc thù"; cặp phạm trù "cái chung" và
"cái riêng". Những cặp phạm trù này đều là những phạm trù triết học thể
hiện những mối quan hệ khác nhau của thế giới cũng như trình độ nhận thức
những quan hệ ấy. Nó là những cặp phạm trù được hình thành trong tiến
trình phát triển của hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Bởi thế,
để làm rõ khái niệm "tương đồng" và "khác biệt", cần làm rõ cặp phạm trù
có liên quan này.
Theo quan điểm mácxít, "cái riêng" là phạm trù "được dùng để chỉ một
sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định" [47, tr.237]. Cái
riêng tồn tại với tư cách là một chỉnh thể trong mối quan hệ độc lập tương đối
với những cái khác, nó bao gồm nhiều mặt, nhiều thuộc tính cấu thành nên.
Tuy nhiên, những mặt, thuộc tính tạo nên cái riêng lại có mức độ phổ biến
khác nhau: có những mặt, thuộc tính chỉ tồn tại ở một cái riêng mà không lặp
lại ở bất kỳ cái riêng nào khác; có những mặt, thuộc tính lặp lại ở một nhóm
45
nhỏ các sự vật, hiện tượng; có những mặt, thuộc tính có ở tất cả các đối tượng
được xét đến.
Những mặt, yếu tố chỉ tồn tại ở một cái riêng mà không có sự lặp lại ở
những cái khác được gọi là cái đơn nhất. Theo quan điểm duy vật biện chứng,
"cái đơn nhất" là phạm trù "dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc
tính… chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ
một kết cấu vật chất nào khác". Cái đơn nhất là tiêu chí để tạo nên sự khác
biệt giữa cái riêng này với cái riêng khác.
Những mặt, thuộc tính tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau
được gọi là cái chung. "Cái chung" là phạm trù "dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà
còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác".
Cái chung là kết quả trừu tượng và khái quát của tư duy về sự giống nhau,
tương đồng mang tính tương đối giữa các thuộc tính nhất định của các sự vật,
hiện tượng. Cái chung của các sự vật, hiện tượng có thể là về thuộc tính vật
lý, hóa học, sinh học… hay những phẩm chất trong lĩnh vực xã hội.
Cái chung lại có thể phân thành cái phổ biến và cái đặc thù. Cái chung
có ở tất cả các sự vật, hiện tượng thì được gọi là cái phổ biến. Cái chung chỉ
có ở một loại sự vật hoặc một nhóm nhỏ sự vật mà không xuất hiện ở những
sự vật khác thì được gọi là cái đặc thù.
Theo Từ điển Triết học: Mỗi sự vật riêng lẻ đều được lĩnh hội như là
một cái đơn nhất. Những cái đơn nhất cũng có những đặc trưng chung, những
nét và đặc tính chung vốn chỉ có ở những nhóm nhỏ các sự vật thì khi đó
chúng là cái đặc thù, còn những nét đặc tính chung ấy vốn có ở tất cả các sự
vật và hiện tượng, thì khi đó chúng là cái phổ biến [58, tr.190-191].
Tính phổ biến và tính đặc thù có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Tính phổ biến và tính đặc thù luôn có mối quan hệ khăng khít, không tách rời
nhau, quy định lẫn nhau, chúng là một bộ phận của cái riêng, tồn tại trong cái
46
riêng và thông qua cái riêng, chúng phản ánh tính thống nhất khách quan của
các sự vật, hiện tượng của thế giới, trong sự tồn tại, vận động, phát triển của
các sự vật, hiện tượng đó gắn với điều kiện lịch sử cụ thể. Sự giống nhau cơ
bản của các sự vật, các quá trình chỉ là biểu hiện của mối quan hệ khách quan
sâu sắc đó. Hình thức của tính phổ biến trong tự nhiên, - Ăngghen viết, - đó là
quy luật… Hình thức của tính phổ biến là hình thức của sự hoàn chỉnh bên
trong và, do đó, là hình thức của tính vô hạn; nó là sự liên kết nhiều sự vật
hữu hạn thành cái vô hạn. Vì vậy, cái phổ biến thể hiện sự phong phú của cái
đặc thù, cái cá thể, cái riêng lẻ.
Mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù còn thể hiện ở chỗ, cái
này lấy cái kia làm tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của mình. Trong Từ
điển Triết học có viết:
Phép biện chứng của cái đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ biến nằm
trong mối liên hệ của chúng, ở chỗ cái đơn nhất không thể tồn tại
nếu không có cái phổ biến, cái phổ biến không thể tồn tại nếu
không có cái đơn nhất và trong điều kiện nào đó, cái đơn nhất có
thể chuyển hóa thành cái đặc thù và cái phổ biến, v.v.. [58].
Sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất, cái phổ biến và cái đặc thù gắn liền
với quá trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng; với sự hình
thành cái mới và sự mất đi của cái cũ. Sự chuyển hóa đó diễn ra theo một cơ
chế nhất định, thông qua cái đặc thù, cái đơn nhất có thể chuyển hóa dần dần
thành cái phổ biến và ngược lại, cũng thông qua cái đặc thù, cái phổ biến có
thể chuyển hóa thành cái đơn nhất. Trong tự nhiên và xã hội, cái mới khi xuất
hiện lần đầu nó chỉ là cái đơn nhất, nếu cái đơn nhất này là tiến bộ, phù hợp,
nó sẽ dần chuyển thành cái đặc thù và phát triển lên trở thành cái phổ biến.
Cái cũ khi không còn phù hợp thì nó sẽ chuyển dần thành cái đặc thù, cái đơn
nhất rồi mới mất hẳn. Trong xã hội, sự chuyển hóa cái mới từ cái đơn nhất
thành cái đặc thù, cái phổ biến là một quá trình lâu dài, phức tạp, với nhiều
47
bước quá độ, trung gian, nhiều khi có cả những thất bại tạm thời. Đó cũng
chính là mối quan hệ giữa "tương đồng" và "khác biệt", trong sự tương đồng
có những sự khác biệt và ngược lại.
Việc nghiên cứu về sự tương đồng và khác biệt, hay chính là nghiên
cứu về tính phổ biến và tính đặc thù có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và
cải tạo thế giới. Đối với luận án này, nghiên cứu về sự tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng
trong việc tìm ra những điểm chung, những sự giống nhau có tính quy luật
giữa hai nền dân chủ này, đồng thời thấy được những điểm khác biệt mang
tính bản chất giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, luận
án sẽ làm rõ sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân
chủ tư sản có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong sự tương đồng giữa
hai chế độ dân chủ này đã bao hàm cả sự khác biệt giữa chúng và ngược lại,
trong sự khác biệt giữa hai chế độ dân chủ này cũng vẫn có những điểm,
những yếu tố, những giá trị chung, thống nhất.
2.2.2. Những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội
chủ nghĩa và dân chủ tư sản
2.2.2.1. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị
Dân chủ trong chính trị cho phép làm sáng tỏ vấn đề bản chất của hệ
thống chính trị, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhà nước, giữa nhà
nước với xã hội công dân.
Dưới góc độ chính trị, bản chất giai cấp của dân chủ, chế độ dân chủ
của nhà nước và các thiết chế chính trị khác được bộc lộ rõ nét. Trong xã hội
có đối kháng giai cấp, dân chủ trong chính trị phản ánh một cách trực tiếp
tương quan về lợi ích và quyền lực giữa các giai cấp, tầng lớp khác nhau
trong xã hội. Một mặt, chế độ dân chủ đó được xác lập nhằm bảo vệ lợi ích và
48
quyền lực của giai cấp thống trị. Mặt khác, chế độ dân chủ đó cũng thừa nhận
ở những mức độ nhất định quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác
trong xã hội. Đó chính là những giá trị dân chủ mà các giai cấp, tầng lớp bị trị
giành được trong cuộc đấu tranh với giai cấp thống trị [112, tr.60].
Dân chủ trong lĩnh vực chính trị thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, dân chủ trong việc xây dựng, hoạt động của hệ thống chính
trị. Các đảng phái chính trị được tổ chức và hoạt động phải dựa trên các
nguyên tắc dân chủ, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật; phải
có quan hệ, liên hệ chặt chẽ của công dân, tôn trọng, lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng, nhu cầu dân chủ của công dân. Nhà nước là bộ máy quyền lực,
thể hiện tập trung ý chí, quyền lợi, quyền lực, quyền làm chủ của người dân
về chính trị, là công cụ thực hiện và bảo đảm quyền làm chủ, quyền dân chủ,
bình đẳng của công dân trên các lĩnh vực. Đấu tranh ngăn chặn, xử lý và loại
bỏ những quan điểm, hành động xâm phạm đến tính mạng, tài sản, quyền
làm chủ của công dân; thực hiện các chính sách đối ngoại, bảo vệ lợi ích
quốc gia dân tộc… Do đó, dân chủ trong xây dựng và hoạt động của nhà
nước phải làm cho công dân được thực hiện và bảo đảm các quyền dân chủ
trong toàn bộ các nội dung, các khâu, các bước xây dựng và hoạt động của
nhà nước. Phát huy vai trò làm chủ của người dân trong xây dựng thể chế
nhà nước, dân chủ từ việc quyết định cơ cấu tổ chức, lựa chọn đội ngũ cán
bộ đến ban hành các chủ trương, chính sách, đối nội, đối ngoại; xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thứ hai, ban hành và thực hiện các cơ chế dân chủ trong việc giải quyết
các quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị một cách dân chủ. Đó
là quan hệ lãnh đạo - quản lý - làm chủ nhằm phát huy được vai trò, chức
năng của mỗi thành tố, tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do dân chủ về
chính trị như: lập hội, biểu tình, ngôn luận…
49
Thứ ba, công dân được tham gia vào công việc quản lý xã hội, quản lý
nhà nước.
Thứ tư, quyền làm chủ chính trị của công dân được bảo vệ.
Cơ sở chính trị là mặt biểu hiện trực tiếp của dân chủ. Đó chính là
quyền lực chính trị, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân.
Công dân có thể thực hiện quyền này thông qua phương thức dân chủ đại diện
và dân chủ trực tiếp. Các quyền này được thể chế hóa bằng luật.
2.2.2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội
chủ nghĩa và dân chủ tư sản trên lĩnh vực kinh tế
Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất, quyết định thực chất của
dân chủ, cũng là nội dung cho thấy sự khác biệt mang tính bản chất giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về thực chất, dân chủ trong kinh tế là
tôn trọng và bảo đảm hài hòa các lợi ích, trước hết là lợi ích của người lao
động. Nhà nước phải thông qua cơ chế lợi ích, các nhân tố kích thích, các đòn
bẩy kinh tế mà khuyến khích, thúc đẩy người lao động quan tâm tới sản xuất,
nâng cao năng suất lao động và gắn bó với công việc.
Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế gắn liền với hoạt động mang tính bản
chất của con người là hoạt động lao động sản xuất, thực hiện lợi ích và thỏa
mãn các nhu cầu. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế là làm cho người lao động
được đảm bảo các quyền dân chủ về kinh tế. Đối với nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đó trước hết là quyền làm chủ về sở hữu tư liệu sản xuất của nhân dân.
Dân là chủ và làm chủ sở hữu về tư liệu sản xuất để từ đó họ được đảm bảo về
lao động, quyền tự do phát triển sản xuất, có thu nhập, nâng cao đời sống cho
bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội. Đó còn là việc nhân dân tham gia
vào quá trình tổ chức, quản lý kinh tế, tự chủ sản xuất - kinh doanh, phát huy
sáng kiến, sáng tạo trong lao động sản xuất; bảo đảm cho người lao động
được hưởng thụ xứng đáng thành quả lao động của họ, tương xứng với năng
50
suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất và sức lao động đã bỏ ra, được bảo đảm an
sinh xã hội.
Dân chủ trong kinh tế là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thành
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Các thành phần kinh tế được tôn
trọng, được bình đẳng trong sản xuất - kinh doanh, trong tiếp cận các nguồn
lực, không bị phân biệt đối xử, nhũng nhiễu; là cải thiện môi trường kinh
doanh thuận lợi cho doanh nghiệp và người lao động; phát triển các loại thị
trường, công dân được tự do tham gia vào các thị trường đó và được bảo đảm
cạnh tranh lành mạnh.
Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế là tạo nên mối quan hệ hợp tác, tôn
trọng, bình đẳng giữa các chủ thể: Nhà nước - doanh nghiệp - người lao động;
giải quyết hài hòa, hợp lý lợi ích giữa các bên, nhất là lợi ích kinh tế giữa
người sử dụng lao động và người lao động, giữa lợi ích cá nhân - lợi ích cộng
đồng, lợi ích toàn xã hội. Dân chủ trong kinh tế là làm cho sự phân hóa giàu
nghèo, tình trạng đói nghèo của một bộ phận nhân dân ngày càng thu hẹp, gắn
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Khắc phục tình
trạng bất bình đẳng về kinh tế giữa các cá nhân, nhóm xã hội, các giai cấp,
các dân tộc, các vùng miền, bảo đảm cho công dân có việc làm, có thu nhập,
cuộc sống được ấm no, hạnh phúc.
Thước đo trình độ dân chủ trong kinh tế thể hiện ở mức độ thực hiện
một số yếu tố cơ bản sau:
Một là, bảo đảm cho mỗi người có khả năng và nhu cầu lao động đều
nhận được việc làm phù hợp, có thu nhập tương xứng với kết quả lao động và
mức cống hiến của họ. Ở đây, nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và
mức cống hiến chính là cốt lõi của nội dung dân chủ trong kinh tế. Đối với
nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần thì vấn đề
quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh của công dân phải được bảo
51
đảm. Giữa các công dân và các thành phần kinh tế, ai cũng được quyền làm
những việc mà pháp luật không cấm.
Hai là, xã hội phải tạo ra những điều kiện nhằm phát huy tính tích cực
lao động, phát triển những khả năng chủ động, sáng tạo của người lao động
cũng như của các thành phần kinh tế. Muốn vậy, người lao động và các
nhóm lao động phải có quyền tham gia một cách chủ động vào quá trình xây
dựng kế hoạch sản xuất, các chỉ tiêu và định mức lao động. Họ phải được
cung cấp thông tin khách quan, kịp thời và đầy đủ về tình hình sản xuất, chất
lượng sản phẩm cũng như tiêu thụ sản phẩm và phương thức phân phối thu
nhập. Ở đây, tính công khai, công bằng xã hội phải được coi trọng và thực
hiện nhất quán. Bên cạnh đó, xã hội tạo điều kiện và khuyến khích người lao
động không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát
triển kinh tế.
Ba là, đề cao hiệu lực của pháp luật nhằm bảo vệ người lao động trung
thực, tận tụy với xã hội; trừng trị nghiêm minh những kẻ xâm phạm lợi ích xã
hội và lợi ích của nhân dân. Nhà nước phải có những chính sách kiểm soát
nghiêm ngặt và trừng trị bằng pháp luật mọi hành vi phá hoại sản xuất, gây
rối loạn nền kinh tế. Đây là yêu cầu cần thiết để hoạt động sản xuất kinh
doanh diễn ra trong kỷ luật, dân chủ gắn liền với kỷ cương, pháp luật.
2.2.2.3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Dân chủ là một phạm trù phản ánh một hiện tượng xã hội, một quan hệ
xã hội khách quan ghi đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể. Nội dung cốt lõi của
dân chủ là khát vọng về tự do, bình đẳng của người dân.
Hình thành trên cơ sở văn hóa và xã hội, bản chất dân chủ được thể
hiện như một giá trị xã hội và một thành tựu văn hóa. Động lực nội tại của
quá trình hình thành và phát triển dân chủ chính là chủ nghĩa nhân đạo, chủ
52
nghĩa duy lý, các giá trị nhân văn xoay quanh khát vọng giải phóng con
người. Khát vọng giải phóng luôn hướng con người phấn đấu vì lý tưởng tự
do, công bằng, bình đẳng. Mặt khác, chính sự nỗ lực không ngừng đó đã làm
cho ý thức và năng lực thực hành dân chủ của cá nhân, của xã hội phát triển
và dần dần hoàn thiện.
Nội dung cơ bản của dân chủ trong văn hóa là trình độ giải phóng cá
nhân, giải phóng xã hội về mặt tinh thần. Phát huy dân chủ trong lĩnh vực văn
hóa và xã hội phải tôn trọng tự do tư tưởng, khẳng định cá tính sáng tạo, đề
cao chân lý, tôn trọng nhân cách con người trong tranh luận, thảo luận để tiếp
cận chân lý. Ở nội dung văn hóa, dân chủ là tổng hòa các hoạt động sáng tạo
và giá trị sáng tạo của con người trong quá trình vươn tới tự do, bình đẳng và
làm chủ.
Sự phát triển đa dạng, phong phú của các giá trị dân chủ đó phản ánh
trình độ giải phóng con người và xã hội, năng lực làm chủ của con người.
Trong hành trình của con người, loài người vươn tới tự do, bình đẳng, công
bằng và làm chủ, mỗi giá trị và toàn bộ các giá trị dân chủ đó vẫn tiếp tục
được bổ sung, phát triển góp phần vào sự phát triển xã hội. Nhiều giá trị văn
hóa dân chủ đã thấm sâu vào các tầng, lĩnh vực văn hóa, trở thành những giá
trị bền vững, giá trị xã hội chuẩn mực, giá trị chung của toàn nhân loại, tác
động, chi phối, định hướng sự hoạt động trong đời sống con người và đời
sống xã hội, quyết định một phần quan trọng đến sự phát triển và tiến bộ xã
hội của mỗi dân tộc và toàn thế giới.
Trái lại, các phản văn hóa dân chủ là những thái độ, hành vi cũng như
sản phẩm, hệ quả, hệ lụy của nó, xâm phạm đến quyền dân chủ tự do, bình
đẳng của người khác; chà đạp nên những giá trị dân chủ đã được thừa nhận;
hành vi quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, cực đoan, vô chính phủ, sự thờ ơ
chính trị, thói an phận, cam chịu, né tránh, nhu nhược, hèn nhát, không dám
đứng lên bảo vệ các giá trị dân chủ và nhân dân, bảo vệ lẽ phải và chân lý.
53
2.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC
BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.3.1. Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời trong sự
tác động của những điều kiện lịch sử khác nhau
Nền dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều không xuất hiện
ngẫu nhiên mà có tính tất yếu. Nó không xuất hiện tùy ý, tùy tiện theo ý muốn
chủ quan của con người mà theo yêu cầu khách quan của lịch sử. Nó ra đời
trong những điều kiện lịch sử nhất định. Dựa trên những điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hóa - xã hội nhất định mà dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa ra đời và mang những điểm tương đồng và khác biệt với nhau.
Dân chủ tư sản với tính cách là một thiết chế nhà nước, ra đời gắn liền
với thắng lợi của cách mạng tư sản. Nó không xuất hiện tức khắc, tức thời mà
trải qua một quá trình phát sinh, phát triển từ thấp lên cao, từ ít đến nhiều, từ
những yếu tố dân chủ lẻ tẻ trong từng lĩnh vực kinh tế, tư tưởng xã hội đến
một nền dân chủ gắn liền với chế độ chính trị của giai cấp tư sản.
Để tồn tại và phát triển, ngay từ buổi đầu hình thành, chủ nghĩa tư bản
đã tiến hành cuộc đấu tranh trên nhiều mặt, trước hết là trên lĩnh vực tư tưởng,
chống lại thần học, thần quyền, chống lại mọi sự ức chế tình cảm và áp chế tư
tưởng, đòi tự do, bình đẳng, bình quyền và bảo vệ chân lý khoa học.
Ở Tây Âu, "phát súng" lớn đầu tiên của giai cấp tư sản nã vào dinh lũy
của chế độ phong kiến là do phong trào Phục hưng kéo dài từ thế kỷ XV đến
thế kỷ XVI. Phong trào này diễn ra trong lĩnh vực tinh thần, văn hóa nhưng
đã giáng một đòn mạnh vào chế độ phong kiến. Phục hưng văn hóa nói ở
đây là phục hưng văn hóa của thời cổ đại, nhất là văn hóa Hy Lạp cổ đại.
Toàn bộ nội dung văn hóa của phong trào này đã thể hiện rõ quan điểm tư
tưởng, lập trường của giai cấp tư sản, chĩa mũi nhọn vào chế độ phong kiến,
đòi dân chủ trong văn hóa, khoa học, đòi tự do tư tưởng không phải chỉ cho
một người (vua) mà cho toàn bộ giai cấp tư sản và tất cả những ai mà giai
54
cấp tư sản cần đến họ, liên minh với họ trong cuộc đấu tranh chống chế độ
phong kiến.
Cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến Tây Âu, giành tự do, dân chủ
trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng trước hết thể hiện trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa kinh viện, chủ nghĩa thầy tu và thần học. Các nhà tư tưởng đại biểu
cho lợi ích của giai cấp tư sản - giai cấp đang trở thành lực lượng trung tâm
của thời đại bấy giờ - đã triển khai cuộc đấu tranh trên nhiều lĩnh vực triết
học, khoa học, văn học, nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Tên tuổi nổi bật trong
thời kỳ này, về triết học, thiên văn học có Côpécních, Brunô; về văn học có
Sếchxpia, Xécvăngtét; về hội họa có Lêôna Đơ Vanhxi, Miken Lănggiơ.
Ph.Ăngghen đã suy tôn họ là "những người khổng lồ" của thời đại này. Tính
dân chủ, chủ nghĩa nhân văn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đấu tranh này. Nội
dung dân chủ của giai cấp tư sản thời này mang nhiều yếu tố tiến bộ. Họ đã
khẳng định giá trị thật sự và cái đẹp chân chính của cuộc sống là ở con người
chứ không phải ở thần thánh, ở trần gian chứ không phải ở thiên đàng. Cho
nên con người không thể cam chịu mà phải sống, phải đấu tranh cho con
người, vì con người chứ không phải cho thần thánh, vì thần thánh và do đó,
dân chủ, tự do cũng là vì con người, cho con người [72, tr.37].
Thành tựu lớn nhất trong phong trào này là đã phá được những mắt
khâu đầu tiên của xiềng xích phong kiến bao đời trói buộc con người vào thần
quyền và cường quyền, đã đẩy lùi được một bước thần học với chủ nghĩa kinh
viện, góp phần giải phóng tư duy, đem lại tự do, dân chủ cho con người từ
buổi bình minh của giai cấp tư sản.
Đòn lớn thứ hai giáng vào chế độ phong kiến Tây Âu là chủ nghĩa duy
lý (rationalisme) trong thế kỷ XVII. Đó là cuộc đấu tranh chống thần quyền
và thần học do các nhà duy lý khởi xướng, tiêu biểu là Đềcáctơ (1596-1650).
Nhà triết học và toán học này đề cao tư duy, trí tuệ con người; phủ định "chân
lý" của tôn giáo. Những thành tựu khoa học của thời kỳ này đã đẩy lùi vai trò
55
sáng thế của Chúa trời, Thượng đế và khẳng định mạnh mẽ vai trò của lý trí,
tư duy trong quá trình tìm tòi, phát hiện chân lý. Đây là con đường quan trọng
trong quá trình phát triển khoa học tự nhiên do yêu cầu khách quan của sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đây cũng là một thành tựu của giai cấp tư sản
đạt được trên lĩnh vực đấu tranh giành quyền tự do, dân chủ [72, tr.37].
Đòn lớn thứ ba giáng vào chế độ phong kiến cũng như ở Tây Âu là trào
lưu Khai sáng trong thế kỷ XVIII. Tiếp theo trào lưu Duy lý ở thế kỷ XVII,
bước sang thế kỷ XVIII, trào lưu Khai sáng (còn gọi là Thế kỷ Ánh sáng) đã
làm rạng rỡ nền văn hóa tư sản với những tư tưởng dân chủ, nhân đạo. Trào
lưu này chủ trương làm bùng lên ánh sáng văn hóa, soi rọi vào đêm trường
trung cổ, xua tan tình trạng tối tăm, ngu muội của chủ nghĩa kinh viện và thần
học bao trùm, áp đặt lên toàn bộ nhân quần, xã hội. Tinh thần đấu tranh cho
dân chủ của trào lưu này thể hiện nổi bật trong cuộc đấu tranh rất quyết liệt
chống lại thần quyền, cường quyền, chống lại thần học, nhất là chủ nghĩa kinh
viện và chủ nghĩa thầy tu nhằm mở mang trí tuệ, đổi mới tư duy; nêu cao tư
tưởng dân chủ về bình quyền, bình đẳng; khẳng định thế giới quan duy vật,
hình thành chủ nghĩa vô thần. Vonte (1694-1778) là nhà triết học, nhà văn,
cũng là một người khởi xướng trào lưu khai sáng văn hóa. Rútxô (1712-1778)
là người nổi tiếng đấu tranh đòi dân chủ với thuyết bình đẳng nhằm chống lại
chính quyền phong kiến phản nhân dân. Cũng trong trào lưu này, Điđơrô
(1713-1784) là người đã nêu ra lý tưởng về một nhà nước cộng hòa dân chủ.
Người ta đã coi nó là cuộc chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cách mạng tư sản,
nhất là cách mạng tư sản Pháp. Nội dung cơ bản của trào lưu khai sáng là nội
dung dân chủ, trong đó nổi bật là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, nhằm
chống lại chế độ phong kiến.
Đòn quyết định sự cáo chung của chế độ phong kiến Tây Âu là cách
mạng tư sản, mở đầu là cách mạng tư sản Hà Lan, Anh và điển hình nhất là
cách mạng tư sản Pháp. Nền dân chủ được hình thành tương đối đầy đủ trong
56
quá trình đấu tranh cách mạng tư sản - một nấc thang quan trọng của tiến bộ
lịch sử [72, tr.38-39].
Dân chủ tư sản không thể xuất hiện nếu không có giai cấp tư sản, nếu
không có chủ nghĩa tư bản cùng với chế độ chính trị, xã hội của nó. Điều kiện
ra đời của dân chủ tư sản, trước hết và căn bản nhất là điều kiện kinh tế.
Sự xuất hiện dân chủ tư sản gắn liền với sự hình thành của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình khẳng định dân chủ tư sản cũng đồng
thời là quá trình phủ định nền quân chủ. Quá trình đó diễn ra từ thấp đến cao
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ hẹp đến rộng, nhằm xóa bỏ từng yếu
tố phản dân chủ, đi tới phủ định nền quân chủ. Quá trình khẳng định và phủ
định đó là quá trình tự nhiên, là một quá trình đấu tranh giai cấp rất quyết liệt
của giai cấp tư sản và những đồng minh của nó, nhằm xóa bỏ phương thức
sản xuất phong kiến, lật đổ ách thống trị của giai cấp phong kiến.
Chủ nghĩa tư bản kể từ thời kỳ tích lũy sơ khai vào thế kỷ XIV, đã phải
đương đầu với biết bao xiềng xích phong kiến trói buộc con người, phải vượt
qua cả một cơ chế cường quyền, thần quyền kìm kẹp con người, ngăn cản sự
phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó là sự đối nghịch giữa hai nền kinh tế
với hai phương thức sản xuất khác nhau, thậm chí đối lập nhau, không thể
điều hòa, điều tiết. Một bên là chế độ phong kiến cát cứ, mỗi chúa đất là một
vương quốc riêng; về chính trị thì thả sức chuyên quyền độc đoán; về kinh tế
thì tự cấp, tự túc, tự sản, tự tiêu và sản xuất thì mang nặng tính chất tự nhiên,
chỉ trông chờ vào trời đất. Một bên thì sản xuất hàng hóa, cần xóa cát cứ để
mở rộng thị trường, phá vỡ nền kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc với hàng rào
thuế quan rất nghiêm ngặt của các vương quốc để lưu thông tiêu thụ được
hàng hóa, thu nhiều lợi nhuận.
Cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống chế độ thống trị của giai cấp
phong kiến, trước hết diễn ra trên lĩnh vực kinh tế, nhằm giành quyền tự do
sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường. Đó là cuộc đấu tranh đòi dân chủ
57
trong kinh tế. Dưới chế độ phong kiến, tình trạng bất công về sở hữu ruộng
đất giữa chúa đất và nông nô đã dẫn đến sự chênh lệch về của cải rất lớn, làm
cho sự phân biệt giai cấp, đẳng cấp rất sâu sắc, tạo nên những lối sống đối lập
nhau về nhiều mặt. Đó là những biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp giữa
phong kiến và nông nô. Những mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến những cuộc
khởi nghĩa của nông nô chống lại ách thống trị của giai cấp phong kiến và
những cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt về nhiều mặt của giai cấp tư sản
nhằm lật đổ chế độ phong kiến.
Những mâu thuẫn kinh tế trong xã hội phong kiến chính là nguyên
nhân kinh tế của cuộc đấu tranh tư tưởng của giai cấp tư sản chống lại tư
tưởng phong kiến và từ cuộc đấu tranh đó, những tư tưởng tư sản xuất hiện và
hình thành nên hệ tư tưởng tư sản, trong đó tư tưởng về dân chủ đã trở thành
mục tiêu, động lực của cuộc cách mạng tư sản. Chính nền dân chủ tư sản đã
được hình thành trong quá trình đấu tranh ấy.
Cuộc cách mạng tư sản chính là sự bùng nổ đó, là bước ngoặt đưa con
người đến một trạng thái xã hội mới, tiến bộ hơn, dân chủ hơn. Thế kỷ XVII,
XVIII, cao trào cách mạng tư sản diễn ra ở Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư sản
giành được thắng lợi chính trị như: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ
XVI, cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII (1640-1688); cách mạng tư sản Pháp
thế kỷ XVIII (1789-1794)...
Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ tình trạng
người bóc lột người, xoá bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu, xây dựng xã hội không
còn áp bức bóc lột, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Trong
xã hội đó, nhân dân lao động trở thành người chủ đích thực. Để thực hiện
được mục tiêu cao cả này, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải từng bước được
hiện thực hoá qua từng chặng đường, từng bước đi, thông qua quá trình lao
động đầy nhiệt huyết và sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động, bằng
công tác tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất cả các lĩnh vực của đời
58
sống xã hội, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Do đó, nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa chỉ được hình thành sau thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên phương diện chính trị và nó được hoàn thiện từng bước phù
hợp với sự phát triển kinh tế, chính trị và văn hoá - xã hội của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công mở ra một thời đại
mới, nhân dân lao động đã giành lại chính quyền, tư liệu sản xuất... giành lại
quyền lực thực sự của nhân dân, tức là dân chủ thực sự và lập ra nhà nước dân
chủ xã hội chủ nghĩa, để thực hiện quyền lực của nhân dân.
Thắng lợi chính trị trong cuộc cách mạng vô sản đã đưa giai cấp vô sản
và quần chúng lao động từ địa vị những người nô lệ bị bóc lột và áp bức lên
địa vị những người chủ của xã hội. Chính quyền đã thuộc về tay giai cấp công
nhân với tư cách là nhà nước kiểu mới, là bộ máy quản lý và điều hành mọi
hoạt động của xã hội để thực hiện quyền làm chủ của những người lao động
đã được giải phóng.
Nhờ bước ngoặt chính trị này, người lao động đã ra khỏi tình trạng bị
bóc lột về kinh tế và áp bức, nô dịch về chính trị và tinh thần, bắt đầu quá
trình tạo dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
Như vậy, với việc thiết lập chính quyền nhà nước kiểu mới - chính
quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, việc Đảng Cộng sản
khẳng định trong thực tế vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của mình, việc
xã hội bước vào thời kỳ quá độ lịch sử - xây dựng xã hội mới theo các định
hướng và mục tiêu xã hội chủ nghĩa - đã được xác định như những tiền đề và
nguyên tắc chính trị căn bản nhất để hình thành chủ nghĩa xã hội với tư cách
là một chế độ xã hội. Đây cũng chính là những tiền đề và nguyên tắc dẫn tới
sự hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - một nền dân chủ phát triển mới
về chất so với các nền dân chủ đã có từ trước trong lịch sử. Dân chủ xã hội
59
chủ nghĩa xuất hiện trong thắng lợi của cách mạng chính trị giành chính
quyền của giai cấp công nhân. Nó gắn liền với sự ra đời của nhà nước kiểu
mới sau thắng lợi của cuộc cách mạng đó. Dân chủ xã hội chủ nghĩa lại có
một quá trình phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện cùng với quá trình
lịch sử lâu dài mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động dựa trên nhà nước
của mình để xây dựng chủ nghĩa xã hội [72, tr.38-39].
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mà ở đó, những giá trị
dân chủ, quyền lực của nhân dân được thể chế hoá thành pháp luật, thành hệ
thống chính trị (trong đó nhà nước xã hội chủ nghĩa là trụ cột), thành nguyên
tắc, mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập
và chi phối mọi hoạt động của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội; mọi công
dân và tổ chức xã hội đều có khả năng nhận thức và vận dụng các giá trị dân
chủ, biến thành những nguyên tắc phổ biến trong hoạt động và các quan hệ xã
hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được hình thành sau thắng lợi của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phương diện chính trị và nó được hoàn thiện
từng bước phù hợp với sự phát triển kinh tế, chính trị và văn hoá - xã hội của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có thực sự
khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng đầy đủ.
2.3.2. Tính chất của các nền dân chủ tác động và quy định sự tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ có tính giai cấp, tính
nhân dân, tính dân tộc, tính toàn nhân loại, tính lịch sử, liên tục và kế thừa của
dân chủ, tính mục tiêu và phương tiện của dân chủ. Những tính chất cơ bản
này tác động làm cho dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có sự
tương đồng nhưng mặt khác lại có những khác biệt căn bản.
Tính giai cấp của dân chủ.
Trong xã hội có giai cấp, dân chủ phản ánh vị thế, vai trò của chủ thể
quyền lực trong hệ thống xã hội, nhất là hệ thống quyền lực chính trị trong xã
60
hội. Do đó, trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, dân chủ bao giờ
cũng mang tính giai cấp. Bản chất giai cấp quy định chế độ dân chủ cả về bản
chất, chức năng, nội dung và trình độ.
Trong chế độ dân chủ tư sản, tính chất tư sản thể hiện trước hết ở các
quan điểm tư tưởng tư sản về dân chủ. Chế độ dân chủ tư sản và quan điểm,
tư tưởng dân chủ của giai cấp tư sản thể hiện sâu sắc bản chất, mục đích, lợi
ích tư sản hơn bao giờ hết, hơn ai hết. Dân chủ thật sự trở thành công cụ,
phương thức, thủ đoạn để bảo vệ chế độ tư hữu tư sản, duy trì lợi ích kinh tế,
quyền lực thống trị của giai cấp tư sản, chế độ tư bản chủ nghĩa.
Tính giai cấp của dân chủ tư sản thể hiện rõ nhất ở những thể chế, thiết
chế, cơ chế chính trị trong xã hội. Nền dân chủ tư sản, dù ngụy trang, che đậy
như thế nào, vẫn lộ rõ là tổ chức quyền lực tập trung của giai cấp tư sản, là
công cụ của nền chuyên chính tư sản [76, tr.29].
Trong xã hội còn đối kháng giai cấp, còn tồn tại quan hệ chính trị thì
dân chủ cũng như bất cứ quan hệ xã hội nào cũng đều mang bản chất giai cấp
sâu sắc. Bản chất giai cấp là yếu tố cơ bản, chủ đạo quy định mục tiêu, nội
dung và hoạt động thực hiện dân chủ. Tính giai cấp thẩm thấu, hóa thân vào
các đặc điểm khác nhau của dân chủ, đời sống dân chủ xã hội trong sự thống
nhất biện chứng, tạo nên nền dân chủ, kiểu loại dân chủ gắn liền với một giai
cấp, một dân tộc, một chế độ xã hội và một thời đại lịch sử nhất định.
Tính nhân loại của dân chủ
Cũng như một giá trị văn hóa, xã hội, giá trị dân chủ có tính toàn
nhân loại.
Dân chủ là giá trị phổ biến, mang tính nhân loại vì nó phản ánh trình độ
phát triển của văn minh nhân loại. Dân chủ không chỉ chịu sự quy định, tác
động của các quan hệ giai cấp, quan hệ xã hội trong một quốc gia, mà còn
chịu sự chỉ định, ảnh hưởng của trình độ kinh tế, văn hóa, giáo dục, dân trí,
thông tin… của toàn bộ đời sống xã hội, quan hệ quốc tế. Đặc biệt, trong bối
61
cảnh toàn cầu hóa lan rộng và hội nhập quốc tế, của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, sự phát triển của truyền thông, mạng xã hội, internet vạn
vật kết nối, trí tuệ nhân tạo… thì dân chủ hóa là xu thế khách quan, tất yếu đối
với tất cả các quốc gia dân tộc. Nhờ đó, tính phổ quát của dân chủ được lan
truyền tới mọi quốc gia, mọi dân tộc, vùng, miền [76, tr.29].
Với ý nghĩa giá trị chung toàn nhân loại, dân chủ có tính chung, phổ
biến: ý thức, nhu cầu dân chủ, các nội dung dân chủ về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội; hình thức dân chủ, dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, cách thức
bầu cử, ứng cử…; nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số; các cơ chế điều tra,
giám sát, phản biện xã hội; trách nhiệm báo cáo, giải trình, tranh luận, thảo
luận…dân chủ. Đây chính là yếu tố làm cho dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa dù khác nhau về bản chất nhưng cũng có nhiều điểm tương đồng
với nhau.
Xu thế dân chủ hóa trên thế giới hiện nay cũng là một minh chứng cho
tính phổ biến toàn nhân loại của dân chủ. Đối thoại, thương lượng trên tinh
thần dân chủ, tôn trọng, bình đẳng, cùng có lợi… được loài người đồng tình,
ủng hộ.
Tính nhân dân của dân chủ
Sự thể hiện tính nhân dân của dân chủ dù xem xét dân chủ dưới góc độ
nào cũng là một thực tế khách quan. Bản chất giai cấp của dân chủ không triệt
tiêu, loại trừ tính nhân dân, xuất phát từ bản chất chung, tự thân của dân chủ
là quyền lực của nhân dân. Điều này không tùy thuộc vào ý muốn chủ quan
của giai cấp thống trị - mặc dù sự thể hiện tính nhân dân có thể khác nhau -
mà do cơ sở hiện thực của đời sống xã hội, cơ cấu xã hội và lợi ích của các
giai tầng trong xã hội quyết định.
Các quan điểm tư tưởng, chế độ dân chủ, các thiết chế, nguyên tắc dân
chủ của giai cấp cầm quyền đòi biểu hiện thành giá trị phổ biến của nhân dân,
62
được thể chế hiến pháp, chuẩn mực xã hội áp đặt cho xã hội. Và cũng vì lẽ đó,
giai cấp thống trị không thể không thừa nhận và thực hiện các quyền tự do,
dân chủ của nhân dân. Một chế độ dân chủ, dù ít dân chủ nhất, cũng không
thể không có sự tham gia của nhân dân. Hơn nữa các giá trị dân chủ không
phải là sản phẩm riêng biệt của một giai cấp nào, chế độ xã hội nào mà là
thành quả đấu tranh của nhân dân đem lại. Chính nhân dân, trong lịch sử là
lực lượng quyết định sự hình thành, tồn tại, phát triển của dân chủ. Đây cũng
là một điểm quan trọng để xem xét sự tương đồng giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa [76, tr.30].
Tính lịch sử và tính kế thừa của dân chủ
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng
tầng cùng cấu thành nên kết cấu của xã hội, hình thái xã hội là sự tồn tại cụ
thể và mang tính lịch sử; do đó, dân chủ với tư cách yếu tố thuộc về kiến
trúc thượng tầng cũng mang tính lịch sử và cụ thể, không tồn tại "dân chủ
phổ quát" ở bên ngoài một giai đoạn lịch sử cụ thể nào đó. Điều này cũng
giống như điều mà C.Mác từng khẳng định rằng, quyền lực tuyệt đối không
thể vượt ra ngoài kết cấu kinh tế của xã hội và kết cấu kinh tế quy định sự
phát triển văn hóa của xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng, phát triển cũng kế thừa có
phê phán, có chọn lọc các giá trị dân chủ quá khứ, kể cả dân chủ nguyên thủy,
mà trực tiếp là dân chủ tư sản. Chủ nghĩa xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa
không ra đời từ hư vô, cắt đứt liên hệ với lịch sử nhân loại, hoặc đóng cửa biệt
lập với thế giới bên ngoài. Sự kế thừa lịch sử là có cơ sở khoa học và mang
tính tất yếu. Các xã hội trước đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự phát
triển dân chủ xã hội chủ nghĩa [76, tr.29].
Đó là tiền đề kinh tế - xã hội gắn với tính xã hội hóa về lực lượng sản
xuất, của cách mạng công nghiệp, của sự ra đời, phát triển giai cấp công nhân
và các tổ chức chính trị, xã hội; sự phát triển của khoa học, công nghệ, của
63
trình độ học vấn, trình độ dân trí, tiền đề về tổ chức, quản lý xã hội; về pháp
luật, văn hóa pháp luật, văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ; tiền đề về tư
tưởng, lý luận dân chủ; về thiết chế, phương thức, hình thức dân chủ… Hơn
nữa, từ tất yếu lịch sử về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội do chủ nghĩa xã
hội hình thành từ sự phủ định chủ nghĩa tư bản, phát triển lên từ chủ nghĩa tư
bản, kết quả tác động của lực lượng sản xuất, lực lượng xã hội do chủ nghĩa
tư bản tạo ra.
2.3.3. Yếu tố thời đại tác động đến những điểm tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Ra đời trong những điều kiện lịch sử nhất định nhưng mỗi thể chế dân
chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn bị chi phối bởi yếu tố thời đại
làm cho chúng có xu hướng phát triển khác nhau. Bởi thế, bối cảnh thời đại
được coi là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới sự tương đồng hay khác biệt giữa chế
độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đương đại.
Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới đầy những biến động
khôn lường. Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, thế giới có nhiều
biến đổi nhanh chóng, phức tạp và sâu sắc trên nhiều mặt, cả về kinh tế, chính
trị, quân sự và khoa học - công nghệ, trong đó, có những đặc điểm, xu hướng
nổi bật và có cả những chấn động bất ngờ, biến hóa khôn lường, đầy kịch
tính. Những sự kiện lịch sử, những đặc điểm, xu hướng vận động ấy của thế
giới tác động, ảnh hưởng đến xu hướng cũng như thể chế, phương thức thực
hành dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa của các quốc gia trên thế
giới. Trong đó, đáng chú ý là những tác động của cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa.
Thứ nhất, toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa, xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những
mối liên hệ, những ảnh hưởng, những tác động phụ thuộc lẫn nhau của tất
cả các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hóa là kết quả tác
64
động phức tạp của nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và khoa học,
công nghệ...
Toàn cầu hoá là xu thế chủ đạo tác động trực tiếp đến hoạt động sống
còn của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Có người nói một cách hình ảnh
rằng, toàn cầu hoá giống như một con sống thần đang dần lan toả toàn cầu,
đến một lúc nào đó nó có thể “xoá nhoà” ranh giới phân định các quốc gia, do
vậy, bất kỳ một quốc gia lớn, nhỏ nào sớm muộn cũng phải hoà mình vào làn
sóng chung này. Đương nhiên, nó cũng là một quá trình có tính hai mặt, vừa
có tính tích cực, vừa có tính tiêu cực, vừa tạo cơ hội, vừa tạo thách thức rất
lớn đối với tất cả các nước.
Toàn cầu hóa làm cho dân chủ trở thành vấn đề của hàng tỉ người trên
hành tinh chứ không chỉ là công việc của hàng triệu người ở các quốc gia, dân
tộc. Toàn cầu hóa các lĩnh vực đời sống xã hội đòi hỏi nguồn lực phải được
phân bổ công bằng, hợp lý để cải thiện đời sống, việc làm, chỗ ở, môi trường,
sức khỏe, giáo dục, các quyền tự do, dân chủ; bảo đảm lợi ích và quyền phát
triển của tất cả mọi người, bất kể chủng tộc, màu da, quan điểm, dân tộc, tôn
giáo, quốc tịch, giai cấp hay giới tính, lứa tuổi… Muốn thế, phải có những thể
chế, thiết chế, cơ chế, cách thức để bảo đảm cho mọi công dân trên thế giới
tham gia bình đẳng vào việc ra các quyết định ở cấp độ địa phương, quốc gia,
khu vực cũng như cấp độ toàn cầu. Bởi vậy, toàn cầu hóa làm xuất hiện các
quá trình quản lý toàn cầu, mở rộng phạm vi, đối tượng và các chủ thể quản lý
trên phạm vi quốc tế. Toàn cầu hóa làm đa dạng hóa các chủ thể nắm giữ,
thực thi quyền lực và cũng làm đa dạng hóa các cơ chế, hình thức quản lý xã
hội trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Toàn cầu hóa đòi hỏi và thúc đẩy các
nhà nước, các tổ chức kinh tế và chính trị quốc tế, khu vực, châu lục, các
phong trào xã hội, các tổ chức phi chính phủ phải thay đổi về mô hình tổ
chức, nội dung và cơ chế hoạt động theo hướng công khai, minh bạch và dân
chủ hơn.
65
Trên thực tế, toàn cầu há đang làm thay đổi căn bản vai trò của nhà
nước. Trong tiến trình toàn cầu hoá, biên giới quốc gia về kinh tế, xã hội, văn
hoá mất dần tác dụng, tạo điều kiện cho sự ra đời của một xã hội toàn cầu,
trong đó vai trò quyền lực của các tổ chức toàn cầu (liên quốc gia) sẽ tăng lên
trong khi vai trò quyền lực nhà nước quốc gia sẽ phải điều chỉnh cho thích
ứng. Toàn cầu hoá đồng thời buộc mọi quốc gia phải thay đổi quan niệm
truyền thống về vai trò nhà nước. Trước đây, khi chưa xuất hiện xu hướng
toàn cầu hoá, với tính cách là những chủ thể riêng biệt, mỗi nhà nước có
những quyền lực độc tôn mang tính quốc gia như đánh thuế, cấm đoán, trừng
phạt và đòi hỏi đơn phương các đối tượng tham gia hoạt động. Trng đó, quyền
đánh thuế của nhà nước tạo khả năng cho các cơ quan nhà nước có thể tài trợ
cho việc phân phối, cung cấp các hàng hoá công cộng cũng như can thiệp vào
giá cả hàng hoá khi trên thị trường, giá cả có sự biến động - điều đã xảy ra
phổ biến trong các nước xã hội chủ nghĩa vận dụng cơ chế kinh tế kế hoạch
như Liên Xô, các nước Đông Âu hay Việt Nam,... Quyền cấm đoán và trừng
phạt của nhà nước cho phép nó bảo vệ sự an toàn cá nhân, an ninh quốc gia và
quyền sở hữu. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, nhà nước không thể
thực hiện các quyền độc tôn theo một cách cứng nhắc, võ đoán, tuỳ tiện mà
phải “tuỳ cơ ứng biến” theo “sự đỏng đảnh” của cơ chế thị trường và tuân thủ
nguyên tắc chung của luật pháp và thị trường quốc tế. Việc tranh tụng, khiếu
kiện về vấn đề bán phá giá giữa các nước có quan hệ xuất nhập khẩu hàng háo
với nhau thời gian vừa qua là một ví dụ điển hình chứng minh rằng, luật pháp
quốc gia này phải ít nhiều phụ thuộc, tham chiếu, học hỏi luật pháp quốc gia
khác và luật pháp mọi quốc gia phải nhất quán tuân thủ những quy định
chung của luật pháp quốc tế.
Về nguyên tắc, toàn cầu hóa với những luật lệ riêng của mình đã tạo ra
sân chơi bình đẳng, dân chủ cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Theo đó, cho
phép các quốc gia, dân tộc, các doanh nghiệp, cho đến từng con người cụ thể
66
trên khắp hành tinh có thể cùng với cộng đồng quốc tế chia sẻ khó khăn, chia
sẻ nguồn lực, phát huy tiềm năng, vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhằm tiếp cận,
nắm bắt, làm chủ vốn đầu tư quốc tế, công nghệ mới và thông tin toàn cầu để
đi tới văn minh và dân chủ. Tuy nhiên, do điểm xuất phát của các quốc gia,
dân tộc tham gia vào toàn cầu hóa là khác nhau, sân chơi không cùng mặt
bằng, luật chơi và những chuẩn mực, quy tắc dân chủ lại do kẻ mạnh định
trước, nên toàn cầu hóa không chia đều lợi ích, rủi ro và thua thiệt cho các
quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa không chỉ đem đến cho quá trình dân chủ hóa
trên thế giới những vấn đề mới mẻ, tiến bộ, mà trên thực tế, toàn cầu hóa còn
đặt các giá trị dân chủ, các thể chế dân chủ, các nền dân chủ ở các quốc gia,
dân tộc đứng trước nhiều thử thách, nguy cơ. Trong ba thập niên gần đây,
không ít khu vực trở nên bất ổn định, không ít quốc gia lâm vào chiến tranh,
xung đột, thù hận, mâu thuẫn, huynh đệ tương tàn và theo đó, nhiều giá trị
dân chủ bị chà đạp và bị tước đoạt bởi chiêu bài, thủ đoạn can thiệp, áp đặt
các chuẩn mực dân chủ, nhân quyền của Mỹ và phương Tây.
Thứ hai, cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
Trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin và truyền thong đang diễn ra với một tốc độ nhanh chóng. Trong tác
phẩm Cú sốc tương lai, nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffler đã cho
rằng, mỗi một phát minh khoa học trong thế giới hiện đại sẽ là một cú sốc cho
loài người về mọi phương diện cuộc sống.
Xét về phương diện thực tiễn, cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với sự phát triển của công nghệ sinh
học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới... tạo cơ sở vật chất, điều
kiện để các quốc gia, dân tộc hiểu biết lẫn nhau hơn, khắc phục khoảng cách
về không gian, thời gian và khoảng cách giàu nghèo.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại không chỉ tác động đến
kinh tế, đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất; không chỉ tác động đến văn
67
hóa, xã hội, đạo đức, giáo dục, mà còn tác động đến tâm lý, hành vi của công
dân, đến quan hệ giữa nhà nước với công dân và doanh nghiệp, giữa các giai
cấp, thành phần xã hội và giữa các quốc gia, dân tộc, đến cách thức tổ chức,
cơ chế vận hành và tính chất của thể chế chính trị, thể chế dân chủ...
Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là khoa học - công
nghệ về thông tin tác động đến đời sống chính trị, đến dân chủ cũng ngày
càng sâu sắc, trực tiếp. Những khái niệm như: dân chủ điện tử, cộng đồng
mạng, xã hội thông tin, công dân toàn cầu, bầu cử điện tử, hội nghị trực
tuyến, chính phủ điện tử, nghị viện điện tử, hành chính điện tử... đã phản ánh
những thay đổi chưa từng có trong đời sống chính trị - xã hội của nhân loại
dưới tác động của khoa học - công nghệ hiện đại nói chung và công nghệ
thông tin nói riêng.
Mặc dù cho đến nay, hầu hết những thành tựu cách mạng khoa học -
công nghệ của nhân loại đều do các tập đoàn tư bản lớn và các nước tư bản
phát triển chi phối, nó chủ yếu được sử dụng để củng cố địa vị thống trị và lợi
ích của chủ nghĩa tư bản, trong đó có không ít thành tựu được dùng làm
phương tiện để hủy diệt cuộc sống, đe dọa an ninh, hòa bình thế giới, xâm
phạm tự do, dân chủ và độc lập của các dân tộc, nhưng là lực lượng sản xuất,
khoa học - công nghệ hiện đại vận động khách quan bất chấp ý muốn chủ
quan, hẹp hòi của chủ nghĩa tư bản. Với tư cách đó, nó đem đến cho nhân loại
nói chung, các quốc gia, dân tộc nói riêng nhiều thời cơ, vận hội phát triển
nhưng cũng tạo ra không ít những thách thức, nguy cơ khó lường.
Tất nhiên, tiêu cực có thể chuyển thành tích cực và ngược lại; thời cơ
chứa đựng thách thức, thách thức bao hàm nguy cơ; thời cơ bị bỏ qua lại
biến thành thách thức và thách thức được giải quyết lại tạo nên thời cơ mới.
Do đó, thời cơ, vận hội, hay nguy cơ, thách thức đối với mỗi quốc gia, dân
tộc là khác nhau, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ quan của
mỗi nước.
68
Thứ ba, kinh tế tri thức
Nhờ những bước tiến mới của cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại, từ cuối thế kỷ XX đến nay, kinh tế tri thức đã trở thành hiện thực ở nhiều
quốc gia, dân tộc. Đó là nền kinh tế có hiệu quả cao, tiêu hao vật chất giảm
thiểu, phát triển nhanh và bền vững; là kết quả của việc sử dụng có hiệu quả
tri thức mới của toàn nhân loại và phát huy vai trò của con người trong mọi
lĩnh vực.
Sự ra đời, phát triển của kinh tế tri thức đã tạo ra những điều kiện thực tế
phong phú, sinh động cả bề rộng và chiều sâu để hiện thực hóa các giá trị dân
chủ. Khi tri thức trở thành tư liệu sản xuất chủ yếu và việc khai thác tri thức, trí
tuệ của người lao động trở thành vấn đề sống còn của sự phát triển sản xuất thì
vị trí và giá trị của người lao động trí tuệ được khẳng định cao hơn. Người lao
động sáng tạo với trình độ cao trở thành nguồn lực cơ bản của phát triển hiện
đại. Họ mang trong mình, họ nắm giữ, họ làm chủ một tư liệu sản xuất đặc biệt
đó là tri thức và công nghệ. Mỗi người lao động là một nhà quản lý, trước hết là
tự quản lý bản thân và phân công, phối hợp cùng quản lý đa chiều trong mạng
thông tin điện tử để bảo đảm tự chủ, tự do sáng tạo hiệu quả.
Theo đó, kinh tế tri thức vừa yêu cầu, đòi hỏi, vừa tạo ra điều kiện, môi
trường bảo đảm sự tự chủ, tự do và thúc đẩy, khuyến khích sáng tạo của
người lao động. Bảo đảm về điều kiện sống, làm việc; đầu tư cho học tập,
nghiên cứu và sáng tạo trở thành quan tâm lớn của người lao động và doanh
nghiệp. Xây dựng xã hội học tập, chính phủ điện tử, hoàn thiện nhà nước
pháp quyền, công khai hóa, minh bạch hóa, dân chủ hóa nền quản trị quốc gia
trở thành mối quan tâm thường trực của các chính phủ và các đảng chính trị
tiến bộ. Bởi thế, kinh tế tri thức là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới khả năng làm
chủ của mỗi người dân.
Tuy nhiên, không phải phát triển kinh tế tri thức là có ngay dân chủ,
không phải phát triển kinh tế tri thức là dân chủ sẽ lập tức đơm hoa, kết trái.
69
Kinh tế tri thức tạo ra điều kiện của dân chủ, thúc đẩy dân chủ hóa mạnh mẽ
nhưng nó cũng đặt các giá trị dân chủ, các thể chế dân chủ đứng trước những
thử thách gay gắt. Thực tế cho thấy, ngay tại những quốc gia có kinh tế tri
thức phát triển, phân hóa giàu nghèo, thiếu việc làm, khủng hoảng kinh tế, bất
ổn chính trị, xã hội vẫn là vấn đề nan giải. Việc thu nhận, tạo ra, quảng bá và
sử dụng tri thức trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong
nhiều trường hợp đã xâm phạm nghiêm trọng đến các giá trị tự do, nhân
quyền, dân chủ; thậm chí, trong điều kiện toàn cầu hóa, nó còn đe dọa đến an
ninh, hòa bình thế giới, đến cả sự tồn vong của các thể chế chính trị, dân chủ
và cả các nền văn hóa.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Một là, dân chủ được
xem xét với tư cách là hình thức tổ chức nhà nước, một chế độ xã hội trong
đó quyền lực thuộc về nhân dân. Hai là, dân chủ là giá trị tiến bộ xã hội.
Luận án đã chỉ ra 5 cách tiếp cận khái niệm dân chủ phổ biến hiện nay, từ
đó khẳng định: dân chủ được hiểu là phương thức quan hệ giữa người với
người trên tất cả các lĩnh vực xã hội, giữa các thiết chế xã hội, giữa các con
người trong mọi cấp độ tồn tại khác nhau của nó; là một hình thức tổ chức
quan hệ xã hội thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của mỗi thành viên, thừa
nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực.
Song song với việc phân tích, luận giải về thuật ngữ "dân chủ", quan
niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội
chủ nghĩa, luận án cũng đã phân tích hai khái niệm cơ bản là khái niệm
"tương đồng" và khái niệm "khác biệt", so sánh cặp khái niệm này trong
mối quan hệ với cặp phạm trù "cái chung" và "cái riêng" để thấy tính biện
chứng của sự "tương đồng" và "khác biệt"; từ đó khẳng định rằng: giữa dân
70
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có những điểm tương đồng và
những điểm khác biệt. Sự tương đồng và khác biệt giữa chúng có khi là bản
chất, có lúc chỉ mang tính tương đồng, chuyển hóa lẫn nhau, trong tương
đồng có khác biệt và ngược lại.
Luận án cũng đã chỉ ra những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa để
xem xét những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là khung lý thuyết đặc biệt quan trọng để phân
tích thực trạng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa mà luận án thực hiện ở chương 3.
Về cơ sở thực tiễn, luận án trình bày, phân tích những yếu tố tác
động tới sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Trong đó, yếu tố thời đại tác động mạnh mẽ đến xu hướng dân
chủ của cả hai nền dân chủ này, đáng chú ý là những tác động của cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa.
Đây là cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn chủ yếu để phân tích, đánh
giá thực chất những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó luận giải thực chất sự tương đồng và
khác biệt cũng như sự vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
hai nền dân chủ này trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
71
Chương 3
THỰC CHẤT NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT
GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. THỰC CHẤT NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3.1.1. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị
Thứ nhất, trên phương diện là một phạm trù chính trị, cả dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều đề cao nguyên lý "quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân". Tuy nhiên, bản chất giai cấp của hai chế độ dân chủ
này lại khác nhau.
Trong quan điểm của C.Mác và Ph.Ănghen, dân chủ tư sản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa được xem xét với tư cách là hình thức tổ chức nhà nước,
một chế độ xã hội trong đó quyền lực thuộc về nhân dân. Nói cách khác, dù
là dân chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa thì đó đều là phương thức
quản lý, điều hành xã hội được xây dựng thành các thiết chế, quy chế, chế
độ được bảo đảm về mặt pháp lý và được biểu hiện thành trật tự của tổ chức
bộ máy nhà nước, thông qua tổ chức và quản lý để thực hiện quyền lực đối
với xã hội.
Trong mối tương quan với quyền lực và chế độ nhà nước, dân chủ
được hiểu ở đây là chế độ dân chủ, là nền dân chủ. Chỉ với nghĩa này và
trong mối quan hệ này, giữa chế độ dân chủ với chế độ nhà nước thì dân chủ
mới là một phạm trù lịch sử và chỉ tiêu vong với nghĩa dân chủ được xây
dựng thành chế độ quyền lực và được tổ chức thành chế độ nhà nước. Sự
tiêu vong của nhà nước chỉ làm mất đi các hình thái biểu hiện quyền lực
bằng nhà nước của dân chủ chứ không làm mất đi nhu cầu xã hội của dân
chủ mà thực chất đó là nhân dân trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền
72
lực thuộc về nhân dân, do nhân dân tự quản lý, tự quyết định mọi vấn đề của
chính họ.
Vào những năm đầu của thập kỷ 40 thế kỷ XIX, C.Mác đã tiếp cận
vấn đề dân chủ, xem nó như là sự chiến thắng của lý trí trước cái phi lý, sự
khẳng định của nhân tính trước cái phi nhân tính, sự khắc phục tha hóa chính
trị, vốn là yếu tố bản chất dưới chế độ phong kiến. Trong tác phẩm Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen viết vào mùa Hè năm 1843,
C.Mác đã trình bày có hệ thống quan điểm của mình về dân chủ và nhà nước
thông qua việc phê phán quan điểm duy tâm của Hêghen trong lĩnh vực triết
học pháp quyền.
Phê phán quan điểm của Hêghen cho rằng, nhà nước sinh ra xã hội
công dân, C.Mác khẳng định rằng, không phải nhà nước sinh ra xã hội công
dân, mà ngược lại, xã hội công dân sinh ra nhà nước. Ông viết: "… sự thật là
nhà nước xuất hiện từ cái số đông ấy, cái số đông tồn tại dưới dạng những
thành viên của gia đình và những thành viên của xã hội công dân" [15,
tr.329]. Đồng thời, C.Mác bác bỏ quan điểm của Hêghen coi nhân dân là vật
liệu, là phương tiện biểu đạt nội dung khái niệm nhà nước. Theo Mác, nhân
dân là chủ thể đích thực của nhà nước, và bởi vậy, xét về mặt bản chất, nhà
nước không có chủ quyền, mà chủ quyền ấy thuộc về nhân dân: "Chế độ dân
chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được khách
thể hóa. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra con người mà con người tạo
ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: không phải nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân
dân tạo ra nhà nước" [15, tr.350].
Từ đó, C.Mác cho rằng, không phải mọi nhà nước đều mang hình thức
dân chủ, nhưng cơ sở hình thành và tồn tại của bất kỳ nhà nước nào cũng
không thể nào khác, là phải nhờ vào sự đóng góp chủ quyền của các công
dân. Bởi vậy, theo lẽ "tự nhiên" và theo "bản tính cố hữu" thì nhà nước phải
thuộc về nhân dân. Do vậy, dân chủ là trạng thái "tự nhiên", là "bản thể" của
nhà nước, là "tồn tại đồng nhất với chính nó", là chỗ để mọi nhà nước quay
về sau khi trút bỏ các hình thức tha hóa. C.Mác cũng đã chỉ ra rằng, dân chủ
73
hóa nhà nước là một tính quy luật trong lịch sử, quá trình ấy chỉ kết thúc khi
dân chủ đạt đến trạng thái hoàn bị của nó, tức là trở thành sự tự quy định của
nhân dân một cách trực tiếp mà không cần bất cứ hình thức nhà nước nào và
do đó, dân chủ theo nghĩa "quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" cũng sẽ
không còn nữa. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác cũng tiếp
tục khẳng định luận điểm nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Ông
viết: "từ "dân chủ" nếu chuyển sang tiếng Đức thì có nghĩa là "nhân dân làm
chủ"" [22, tr.44-45].
Kế thừa tư tưởng và quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
cũng đã nhiều lần khẳng định, dân chủ tức là quyền lực nhà nước phải thuộc
về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình để quản lý công việc nhà
nước, quyền lực nhà nước do nhân dân mà có và nó thuộc về nhân dân.
Nhân dân có quyền làm chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ
kinh tế đến chính trị, văn hóa, xã hội. Người viết: "Chuyên chế của nhân dân
toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải thuộc về các đại biểu của nhân
dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị nhân dân bãi chức bất cứ lúc nào và các
đại biểu đó hợp thành một quốc hội duy nhất, một hội nghị duy nhất" [123,
tr.347]. Theo Người, cơ chế để thiết lập quyền lực của nhân dân là, "chúng
tôi chủ trương tất cả mọi viên chức đều hoàn toàn do dân bầu ra và có thể bị
bãi miễn bất cứ lúc nào" [122, tr.180] và tất cả các cuộc tuyển cử đều theo
chế độ đại biểu tỷ lệ; tất cả các đại biểu và các người bầu ra không trừ một ai
đều có thể bị bãi chức bất cứ lúc nào. Người cho rằng, nhân dân phải tích
cực tham gia vào công việc quản lý nhà nước, và thực hiện dân chủ qua việc
mở rộng quyền tham gia quản lý công việc nhà nước của rộng rãi quần
chúng nhân dân: "điều cần thiết không phải chỉ là cơ quan đại biểu theo kiểu
chế độ dân chủ, mà toàn bộ việc quản lý nhà nước từ dưới lên phải do bản
thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia vào từng bước cuộc
sống và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý" [122, tr.180].
Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm "nhân dân" trong chế độ dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không giống nhau và về thực
74
chất, nhà nước tư sản vẫn là nhà nước của thiểu số giai cấp bóc lột. Nhân
dân là chủ thể quyền lực chỉ được biểu hiện qua hình thức phổ thông đầu
phiếu, qua quốc hội lập hiến hoặc nghị viện. Để bảo đảm trước hết lợi ích
của giai cấp mình, giai cấp tư sản bao giờ cũng thiết kế những nguyên tắc
bầu cử mà trong thực tế người dân lao động không bao giờ có cơ hội tham
gia công việc của nhà nước. Ví dụ ở Mỹ có quy định trong hiến pháp, những
người tham gia tranh cử phải là những người có khả năng tài chính nhất
định. Khi cầm lá phiếu đi bầu cử, người dân vốn đã không hẳn là người chủ
- nhưng họ vẫn được ủy quyền - và sau khi ủy quyền rồi, bỏ phiếu rồi thì
quyền của người dân không còn nữa. Điều quan trọng hơn là ở chỗ, hiến
pháp thì ghi nhận quyền lực thuộc về nhân dân, nhưng cơ sở kinh tế, nền
tảng cơ bản để thực hiện lời tuyên bố đó lại không có. Chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa vẫn được duy trì, giai cấp tư sản đặt quyền tự do sở
hữu tư liệu sản xuất, quyền tự do chuyển nhượng tài sản lên ngang với các
quyền tự do khác. Cùng với quá trình sản xuất giá trị thặng dư đã dẫn đến
sự tập trung tư bản ngày càng lớn vào giới chủ tư sản, đồng thời tách người
lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Một người dân trong xã hội tư bản muốn
có tiếng nói của mình thì họ phải có tiền, có tài sản; bằng không, cái gọi là
tự do, bình đẳng chỉ là hình thức và mang tính ước lệ mà thôi. Sự ghi nhận
quyền lực thuộc về nhân dân trong chế độ dân chủ tư sản chỉ đánh dấu sự
chuyển quyền lực từ tay một người sang tay một số người đông hơn trong
xã hội - là giai cấp tư sản, chứ không phải toàn thể nhân dân lao động. Đó
chính là sự khác nhau căn bản giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Thứ hai, cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều phải thực
hành dân chủ thông qua hình thức nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vai trò,
cơ cấu và mối quan hệ giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở hai
kiểu nhà nước khác nhau.
Bất kỳ nhà nước hiện đại nào cũng quản lý xã hội bằng pháp luật, điều
chỉnh công việc theo luật và xử lý các vụ vi phạm luật. Hệ thống các cơ quan
75
quyền lực nhà nước được phân định theo ba chức năng: lập pháp, hành pháp,
tư pháp, vừa có nhiệm vụ riêng biệt, vừa có quan hệ ràng buộc trên cơ sở
của luật pháp, nhà nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng được thiết kế chặt chẽ như vậy.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản được đánh dấu bằng việc thiết lập
chính quyền nhà nước tư sản sau khi đã đánh đổ quyền lực của các vương triều
phong kiến. Chế độ cộng hòa tư sản đã thay thế chế độ quân chủ chuyên chế.
Nhà nước tư sản trở thành thiết chế quyền lực của giai cấp tư sản, bảo đảm cho
giai cấp này ở địa vị thống trị xã hội với sức mạnh thao túng xã hội cả về kinh
tế và chính trị. Chính trị theo ý nghĩa trực tiếp nhất của nó là quyền lực và bộ
máy quyền lực của giai cấp thống trị, được biểu hiện tập trung ở chính quyền
nhà nước, có vai trò chi phối các giai cấp, các lực lượng xã hội khác và điều
khiển xã hội, chế ước và điều chỉnh các quan hệ giai cấp, quan hệ xã hội khác.
Thành quả của cuộc cách mạng tư sản thông qua sức mạnh của bộ máy nhà
nước đã thành vật sở hữu của giai cấp tư sản.
Việc xác lập nhà nước pháp quyền tư sản với sự phân định rõ vị trí, chức
năng, nhiệm vụ của các tổ chức, các thiết chế của nó và thể chế hóa nó bằng
luật pháp là một bước tiến căn bản của xã hội tư sản so với một xã hội phong
kiến trong quản lý xã hội. Chế độ tam quyền phân lập: quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp dù bản chất của nó vẫn nhằm vào mục tiêu chung
là bảo vệ quyền lực và lợi ích của giai cấp tư sản và duy trì trật tự xã hội tư bản
chủ nghĩa nhưng nó cũng cho thấy những yếu tố dân chủ và tiến bộ, tính cách
tân và xu hướng hiện đại trong cơ chế chính trị của xã hội tư sản. Nó có thể hạn
chế và khắc phục đến một mức độ nhất định tình trạng tuyệt đối hóa và lạm
dụng quyền hành của một tổ chức hoặc nhóm và cá nhân dẫn tới sự rối loạn hệ
thống hoặc những thao túng ngoài giới hạn quyền lực cho phép và không giải
quyết nổi. Đây là một vấn đề lớn, không chỉ thuộc về trình độ kỹ thuật của
quản lý xã hội mà còn thuộc về lý luận của cơ chế quản lý của hệ thống chính
trị mà nhiều nước đang phải tìm tòi những giải pháp tối ưu trong quá trình cải
cách [112, tr.40].
76
Nhà nước tư sản đã rất nỗ lực đầu tư vào hoạt động lập pháp và công tác
xây dựng pháp luật. Quản lý xã hội, quản lý nhà nước dựa vững chắc vào pháp
luật, xem pháp luật là công cụ duy nhất để quản lý có hiệu quả và là một quy
luật phổ biến. Không có bất cứ một nền dân chủ nào tồn tại được nếu vắng
bóng một nền pháp luật tương ứng. Xã hội tư sản đã đạt tới trình độ khá hoàn
hảo trong việc xây dựng, sử dụng pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội cũng như rất coi trọng giáo dục pháp luật cho công dân bằng mọi hình thức
và biện pháp, kể cả cưỡng chế và trừng phạt. Cùng với pháp luật, các quy chế,
kỷ luật xã hội được xây dựng chi tiết, cụ thể và được thực thi để kiểm soát hành
vi công dân trong mọi quan hệ, mọi tình huống. Dân chủ và pháp luật, nhà
nước và pháp luật - đó là những vấn đề mà ngày nay các nước xã hội chủ nghĩa
đang phải quan tâm giải quyết.
Nhà nước pháp quyền tư sản trong suốt lịch sử phát triển mấy trăm năm
đã rất chú trọng tới kỹ thuật quản lý hành chính và đào tạo đội ngũ nhân viên
nhà nước am hiểu nghề nghiệp, tinh thông nghiệp vụ, giáo dục cho số nhân
viên này - dù là giáo dục theo lập trường chính trị tư sản, ý thức sâu sắc về bổn
phận và nghĩa vụ.
Sự khác nhau căn bản giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa về phương diện này lại nằm ở chỗ: dân chủ tư sản thực hành dân chủ
thông qua hình thức nhà nước pháp quyền tư sản, trong khi đó, dân chủ xã hội
chủ nghĩa thực hành dân chủ thông qua hình thức nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Mặc dù nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền
tư sản đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy
nhà nước do pháp luật quy định. Nhưng bản chất và nội dung pháp luật về tổ
chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác
nhau rất cơ bản. Đó là sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp
luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền
lực như: quốc hội và nghị viện; tổng thống và chủ tịch nước, thủ tướng chính
phủ, tòa án, tòa án hiến pháp, v.v.. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội
77
chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân
bầu ra các cơ quan quyền lực (quốc hội, chính phủ...) và chỉ có nhân dân trực
tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên
bố chấm dứt hoạt động của quốc hội, chính phủ hoặc tổ chức ra quốc hội và
chính phủ nhiệm kỳ mới (như Việt Nam, Trung Quốc). Trong khi đó, hiến
pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân tổng thống hoặc
cá nhân thủ tướng có quyền giải tán nghị viện (quốc hội) hoặc giải tán chính
phủ... (điển hình là Mỹ).
Mặt khác, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và
công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong nhà nước
pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của
pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không
thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện
vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản. Nói
cách khác, luật pháp của nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai
cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động - những người bị áp
bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản.
Các nhà nước pháp quyền tư sản đều tổ chức theo nguyên tắc phân chia
quyền lực thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Một số nhà nước tư
sản cũng phân chia quyền lực một cách mềm dẻo giữa lập pháp và hành pháp
đã tạo nên hình thức tổ chức nhà nức của chính thể cộng hoà (như ở các nước
Anh, Đức, Italia...). Còn số khác lại phân chia quyền lực một cách cứng rắn
giữa lập pháp và hành pháp, tạo nên hình thức tổ chức nhà nước của chính thể
cộng hoà tổng thống (điến hình là Mỹ). Hiện nay, quyền lập pháp ở các nước
đều giao cho nghị viện. Còn việc thực hiện quyền hành pháp trong hệ thống
phân quyền đã có những thay đổi nhất định so với trước đây. Hiện đang có
khuynh hướng tạo ra hình thức cai trị linh hoạt hơn, pha trộn giữa các hình thức
chính thể của nhà nước và cơ cấu lãnh thổ. Đó là khuynh hướng tạo ra hình
78
thức chính thể nửa tổng thống, nửa đại nghị và tiếp thu một số yếu tố của chế
độ cộng hoà đại nghị vào chỉnh thể cộng hoà tổng thống, hay tiếp thu một số
yếu tố của chính thể tổng thống vào chính thể cộng hoà đại nghị. Quyền tư
pháp thống nhất được thể hiện ở Hoa Kỳ, Anh, Canađa, Ôxtrâylia, Ấn Độ,...
Nhìn chung, ở các nước theo hệ thống pháp luật án lệ đều theo xu hướng này.
Cũng cần nói thêm rằng, các nhà nước tư sản hiện đại coi bảo đảm
quyền con người và quyền công dân (về mặt lý thuyết) là điểm mấu chốt trong
xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người và
quyền công dân thì trách nhiệm quan trọng nhất thuộc về toà án. Tuy nhiên,
những gì trên lý thuyết về quyền con người và quyền công dân có đúng với
thực tiễn hay không là vấn đề khác. Trong việc biến ý tưởng nhà nước pháp
quyền thành hiện thực ở các nước phương Tây, có thể thấy rõ trong hiến pháp,
pháp luật của họ đều ghi nhận nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân nhưng thực chất, quyền lực ấy chỉ thuộc về giai cấp tư sản. Nhà nước pháp
quyền tư sản không thực hiện được nguyên tắc này vì nó không có cơ sở chính
trị - xã hội và kinh tế để bảo đảm quyền tự do và bình đẳng cho tất cả các thành
viên trong xã hội [86, tr.48-51].
Trong khi nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập"
là học thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; thì nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa không thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là
thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó có sự phân công, phối hợp, để thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực
nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước
pháp quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân
dân của Nhà nước Việt Nam, của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tất cả
79
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định đoạt, nhân dân
quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy quyền lực
nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn bộ dân
tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
so với chế độ dân chủ tư sản. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng về kỹ thuật và tổ chức hoạt
động của nó có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà
nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là phương
thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải lấy
hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa nhận
học thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng theo kiểu các quyền
hoàn toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế sức
mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng
không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền lực
cao nhất của nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân, hoặc
một cơ quan, tổ chức nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử tiến
bộ của nhân loại. Quyền lực nhà nước ở Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thốn nhất ở nguồn gốc, bản chất và mục tiêu chung của Nhà
nước là phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân. Sự thống nhất đó không
phải là sự tập trung quyền lực tuyệt đối vào một nhánh quyền lực nào mà có sự
phân công trong việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Có thể nói, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công, phối hợp là
phương thức để đạt được sự thống nhất quyền lực nhà nước. Theo đó, Quốc hội
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân được phân công thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao, quyết
định những vấn đề trọng đại của đất nước. Chính phủ là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, thống nhất quản lý việc thực
hiện các nhiệm vụ chinh trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quôc phòng và đối
ngoại của Nhà nước. Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư phap. Trong Nhà nước pháp quyền
80
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc xác định các hình thức và cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước là một đòi hỏi tất yếu để phòng chống sự tha hoá của
quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm kiểm soát bên trong giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, và kiểm
soát bên ngoài do nhân dân (là các cá nhân hoặc tổ chức) tiến hành.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong số những nội dung cơ bản nhất của
nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp
trên. Tập trung dân chủ được thể hiện trong quá trình tổ chức và xây dựng bộ
máy quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
trách nhiệm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, công dân phải làm
tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa
Nhà nước với công dân, giữa dân chủ với kỷ cương trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do pháp luật quy định và điều chỉnh. Đây là một
đặc điểm quan trọng, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền hiện nay và phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội
chủ yếu bằng pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập pháp,
hành pháp và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
Thứ ba, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa biểu hiện ra những
quan hệ giữa các tổ chức và quan hệ xã hội mang những tính chất khác nhau
Theo đó, dân chủ tư sản là nền dân chủ có tính giả dối về quyền lực
chính trị và về quyền làm chủ của đa số nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa là
nền dân chủ thực chất và triệt để.
Dân chủ tư sản là nền dân chủ phục vụ giai cấp tư sản, nên nó tìm cách
hạn chế, lừa gạt, trấn áp, tước đoạt dân chủ đối với số đông nhân dân lao động.
Bằng nhiều hình thức khác nhau, từ những quy định trong hiến pháp, luật pháp,
những thủ đoạn chính trị thường ngày, giai cấp tư sản tìm cách hạn chế, cắt xén
81
và tước đoạt dân chủ của số đông người lao động. Về điểm này, V.I.Lênin đã
từng viết:
Không có một nhà nước nào, dù là dân chủ nhất, mà lại không có
trong hiến pháp của nó những chỗ ngoắt ngoéo hay hạn chế, khiến
giai cấp tư sản có thể đem quân đội chống lại công nhân, có thể
tuyên bố luật giới nghiêm…trong trường hợp "vi phạm trật tự",
nhưng thực ra là trong trường hợp mà giai cấp bị bóc lột "vi phạm"
tình trạng nô lệ của mình và có mảy may ý gì không muốn sống đời
nô lệ nữa [126, tr.307].
Ở đây, V.I. Lênin muốn nói rằng, Hiến pháp, pháp luật tư sản luôn có
những quy định khiến giai cấp tư sản có thể thực hiện sự trấn áp công nhân và
nhân dân lao động, khi họ vùng dậy đấu tranh, đe dọa đến sự tồn vong của chế
độ tư sản.
Giai cấp tư sản đã "dùng trăm phương nghìn kế để gạt quần chúng ra,
không cho họ tham gia quản lý nhà nước, không cho họ tự do hội họp, tự do xuất
bản". Chế độ dân chủ tư sản đã dày công xây dựng nên hàng trăm pho luật ức
chế công nhân, trói chân tay người nghèo khổ, tạo nên hàng nghìn chuyện bắt bẻ
và trở ngại cho nhân dân lao động. Chính vì vậy: "Chế độ dân chủ tư sản là chế
độ tuyên bố một cách trịnh trọng và huyênh hoang đủ mọi thứ tự do và quyền
lợi, nhưng trên thực tế lại không để cho chính đại đa số dân cư, tức là công nhân
và nông dân, được hưởng dù là chút ít những thứ tự do và quyền lợi ấy" [127,
tr.116]. Đối với chế độ đại nghị tư sản, V.I.Lênin chỉ rõ: Hãy xem bất cứ nước
nào có chế độ đại nghị, từ Mỹ đến Thuỵ Sĩ, từ Pháp đến Anh, Na Uy… thì thấy
rằng, công tác thật sự của nhà nước đều làm ở hậu trường và đều do các bộ, các
văn phòng, các ban tham mưu làm. Trong các nghị viện, người ta chỉ chuyên nói
suông với mục đích duy nhất là lừa bịp "dân thường" thôi". Từ đó, có thể đi đến
kết luận, không chỉ trong các nước quân chủ lập hiến - đại nghị mà cả trong
những nước cộng hoà dân chủ nhất nữa, thì thực chất của chế độ đại nghị tư sản
là: cứ mấy năm lại một lần quyết định xem người nào trong giai cấp thống trị sẽ
chà đạp và đè nén nhân dân trong nghị viện [123, tr.56-57].
82
Trong khi đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thuộc về số đông,
là một nền dân chủ thực sự rộng rãi.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những điều kiện trên thực tế để giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình. Cách
mạng tháng Mười Nga thành công đã đưa đến cho giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Nga các quyền tự do cơ bản của công dân như tự do hội họp, tự
do đi lại, tự do báo chí… Những quyền này không chỉ được ghi nhận trong
đường lối, nghị quyết, luật pháp mà còn được thực hiện trong thực tế cho hầu
hết nhân dân lao động:
Quyền tự do xuất bản không còn là một cái gì giả dối nữa, vì các nhà
in giấy đã được tước đoạt khỏi tay giai cấp tư sản. Các lâu đài, các
dinh thự, các tư thất, các nhà ở tốt nhất… cũng thế. Chính quyền Xô
viết đã tước ngay một lúc hàng nghìn những nhà cửa tốt nhất của bọn
bóc lột, và chính như vậy chính quyền Xô viết đã làm cho quyền hội
họp của quần chúng được gấp triệu lần "dân chủ" hơn - quyền hội
họp đó, nếu mà thiếu, thì chế độ dân chủ chẳng qua chỉ là trò lừa bịp
[126, tr.312].
Về điểm này, V.I.Lênin đã chứng minh bằng việc so sánh với dân chủ
tư sản:
Trong số các nước tư bản dân chủ nhất, thử hỏi có lấy một nước nào
trên thế giới mà trong đó, người công nhân hạng trung, người công
nhân thông thường, người cố nông hạng trung, người cố nông thông
thường hay, nói chung, người nửa vô sản ở nông thôn (tức người đại
biểu cho quần chúng bị áp bức, cho đại đa số dân cư) lại được hưởng
gần như là một quyền tự do rộng rãi như ở nước Nga Xôviết để có
thể tổ chức các cuộc họp trong những tòa nhà tốt nhất, một quyền tự
do rộng rãi như thế để có thể sử dụng những nhà in lớn nhất và
những kho giấy tốt nhất nhằm mục đích diễn đạt tư tưởng của mình,
bênh vực quyền lợi của mình… [126, tr.313].
83
Khác với dân chủ tư sản là nền dân chủ phục vụ cho giai cấp tư sản, một
bộ phận nhỏ trong xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thuộc về
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là nền dân chủ cho số đông. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa ra đời, trước hết là vì lợi ích của nhân dân lao động. "Chế độ
dân chủ vô sản mà một trong những hình thức của nó là chính quyền Xôviết, -
đã phát triển và mở rộng chế độ dân chủ một cách chưa hề thấy ở một nơi nào
trên thế giới, chính là vì lợi ích của tuyệt đại đa số dân cư, vì lợi ích của những
người bị bóc lột và lao động" [126, tr.310].
Khi so sánh dân chủ tư sản với dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin từng
khẳng định:
Sự khác nhau giữa chế độ dân chủ tư sản, đại nghị, và chế độ dân
chủ xôviết hay vô sản, chung quy là ở chỗ trọng tâm của chế độ dân
chủ tư sản là tuyên bố một cách trịnh trọng và huênh hoang đủ mọi
thứ tự do và quyền lợi, nhưng trên thực tế lại không để cho chính đại
đa số dân cư, tức là công nhân và nông dân, được hưởng dù là chút ít
những thứ tự do và quyền lợi ấy. Trái lại, trọng tâm của chế độ dân
chủ vô sản hay xôviết không phải là ở chỗ tuyên bố những quyền lợi
và tự do cho toàn thể nhân dân, mà là ở chỗ thực sự đảm bảo cho
chính quần chúng lao động trước kia bị tư bản áp bức và bóc lột
được thực sự tham gia quản lý nhà nước [127, tr.116].
Để chứng minh dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thuộc về số
đông, là một nền dân chủ thực sự rộng rãi, V.I.Lênin đưa ra rất nhiều luận cứ:
Lần đầu tiên đây không phải là một thiểu số, không phải chỉ độc những người
giàu, chỉ độc những tầng lớp có học, mà là quần chúng chân chính, quảng đại
quần chúng lao động đang tự mình xây dựng đời sống mới của mình, đang dựa
vào kinh nghiệm bản thân để giải quyết các vấn đề gay go nhất của tổ chức xã
hội chủ nghĩa… Lần đầu tiên, quần chúng nhân dân giải quyết được, dựa trên
quy mô hàng trăm triệu người, nhiệm vụ thực hiện chuyên chính của những
người vô sản và nửa vô sản, nhiệm vụ mà không giải quyết được thì không thể
nào nói đến chủ nghĩa xã hội được [126, tr.74].
84
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quần chúng nhân dân lao động từ vị
thế bị giai cấp tư sản bóc lột, bị hạn chế, bị tước quyền dân chủ thì nay họ làm
chủ xã hội, tham gia thường xuyên và quyết định vào việc quản lý nhà nước và
xã hội. V.I.Lênin viết: "Mục đích của chúng ta là làm cho hết thảy những người
nghèo khổ, không trừ một ai, đều thực tế tham gia quản lý". Bản chất của nhà
nước Xôviết, của dân chủ xã hội chủ nghĩa là ở chỗ: "do đông đảo quần chúng
quản lý, do chính những giai cấp trước kia bị áp bức quản lý" [127, tr.286.]. Vì
vậy, Người đã khẳng định: "Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân
chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần, chính quyền Xôviết so với
nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần" [126,
tr.74]. Luận điểm này được V.I.Lênin nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm Cách
mạng vô sản và tên phản bội Cauxky. Sau khi đánh đổ chế độ Sa hoàng, giai
cấp công nhân và nhân dân lao động đã xóa bỏ toàn bộ hệ thống chính quyền
cũ, xây dựng hệ thống chính quyền mới gọi là các "xô viết", về thực chất,
quyền lực của các xô viết này là do giai cấp công nhân và nhân dân lao động
quyết định. Với cách tổ chức bộ máy như vậy, V.I.Lênin khẳng định "Chỉ một
sự thật đó cũng đủ cho tất cả mọi giai cấp bị áp bức thừa nhận rằng chính
quyền xô viết, cái hình thức ấy của chính quyền vô sản, còn một triệu lần dân
chủ hơn là nước dân chủ nhất trong số các nước cộng hòa tư sản" [126, tr.314].
V.I.Lênin cho rằng, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực thi ở
Nga, là một chế độ dân chủ cao hơn chế độ dân chủ tư sản. Những biện pháp
dân chủ cách mạng mà Cách mạng Tháng Mười thực hiện, đã mở rộng một
cách đáng kể nền dân chủ, quyền bình đẳng của phụ nữ và dân tộc thiểu số
được thực hiện đã làm tăng thêm số người được hưởng các quyền dân chủ.
Việc tiêu diệt đẳng cấp đã thủ tiêu được tầng lớp trung gian có đặc quyền, đặc
lợi; việc tách nhà thờ ra khỏi nhà nước và trường học đã thiết lập nguyên tắc
dân chủ của quyền tự do tín ngưỡng, v.v.. Tất cả những biện pháp này đã phát
triển và mở rộng chế độ dân chủ một cách chưa hề thấy ở một nơi nào trên thế
giới, chính là vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân lao động.
85
3.1.2. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế
Chế độ dân chủ tư sản và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đều bị quy
định bởi trình độ phát triển của kinh tế. Theo đó, chế độ dân chủ tư sản lấy sự
nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa làm cơ sở
cho sự tồn tại của mình. Trong khi đó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa lại lấy
sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất làm
cơ sở cho sự tồn tại của mình. Chính vì vậy sau khi ra đời, chế độ dân chủ tư
sản phải được xây dựng sao cho bảo đảm sự tồn tại, phát triển của chế độ sở
hữu tư bản chủ nghĩa và sự thống trị của giai cấp tư sản. Ngược lại, chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng sao cho người lao động thực sự là
người chủ xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà
nước, quản lý xã hội.
Trong các xã hội dân chủ, tự do, bình đẳng, công bằng thể hiện thành
các quyền của công dân và được nhà nước thừa nhận. Tuy nhiên, trên thực tế
chúng được thực hiện như thế nào còn tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế của xã hội đó, và mặt khác, tùy thuộc vào lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Nếu lợi ích của giai cấp cầm quyền đối lập với lợi ích của đa số nhân dân thì
các quyền đó luôn bị hạn chế, cắt xén; ngược lại, nếu lợi ích cơ bản của giai
cấp cầm quyền phù hợp với lợi ích cơ bản của quần chúng thì các quyền đó
luôn được quan tâm mở rộng. Quy luật cơ bản của sự phát triển dân chủ xã
hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng
cho người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà
nước, quản lý xã hội.
Như vậy, mối quan hệ lợi ích giữa giai cấp cầm quyền và nhân dân lao
động có căn nguyên từ chính bản chất của chế độ sở hữu. Muốn tạo ra sự hài
hòa về lợi ích căn bản giữa giai cấp cầm quyền và đông đảo quần chúng lao
động thì trước hết phải tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất. Điều mà trong chủ nghĩa tư bản không thể thực hiện thì trong chủ
nghĩa xã hội đang được từng bước thực hiện. Điều này lý giải vì sao muốn vượt
86
qua giới hạn chật hẹp của dân chủ tư sản, giai cấp công nhân thông qua chính
đảng của mình sau khi giành được chính quyền lại phải bắt tay ngay vào việc
cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới.
Dân chủ là một phạm trù chính trị, bản chất của nó là sự phản ánh của
các quan hệ kinh tế trong xã hội. Theo các nhà kinh điển mácxít, cơ sở kinh tế
của chế độ dân chủ bao giờ cũng dựa trên những quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội thuộc về một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong lịch sử. Kinh
tế chính là căn nguyên sâu xa hình thành chế độ dân chủ, trong đó, các quan hệ
sản xuất là yếu tố quyết định nhất. V.I.Lênin viết:
Cũng như bất cứ một thượng tầng chính trị nào nói chung, bất cứ nền
dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ sản xuất và xét đến
cùng đều do các quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quyết
định. Vì vậy, nếu tách "dân chủ trong sản xuất" ra khỏi bất cứ một
thứ dân chủ nào khác, thì không có ý nghĩa gì cả. Vì vậy, trong xã
hội "chế độ dân chủ không bao giờ "tách riêng" được, mà nó sẽ
"đứng chung trong toàn bộ", nó cũng sẽ ảnh hưởng đến kinh tế, sẽ
thúc đẩy sự cải tạo kinh tế; nó sẽ chịu ảnh hưởng của sự phát triển
kinh tế, v.v.. Đó là biện chứng của lịch sử sinh động [123, tr.97].
Cơ sở kinh tế của chế độ dân chủ tư sản là chế độ sở hữu tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. V.I.Lênin đã chỉ ra cơ sở của dân chủ tư sản
là chế độ tư hữu và văn hóa tư sản: "chủ nghĩa dân chủ nguyên thủy", dựa trên
cơ sở chủ nghĩa tư bản và văn hóa tư bản chủ nghĩa, không phải là chủ nghĩa
dân chủ nguyên thủy của những thời nguyên thủy hoặc tiền tư bản chủ nghĩa.
Văn hóa tư bản chủ nghĩa đã tạo ra nền sản xuất lớn, những công xưởng, những
đường sắt, bưu chính, điện thoại, v.v.." và:
Chế độ cộng hòa tư sản mà tư bản dùng để đàn áp những người lao
động, một công cụ cho quyền lực chính trị của tư bản, tức là chuyên
chính tư sản. Chế độ cộng hòa dân chủ tư sản đã hứa hẹn và đã tuyên
bố chính quyền của đại đa số, nhưng chừng nào mà chế độ tư hữu về
87
ruộng đất và về những tư liệu sản xuất khác vẫn còn tồn tại, thì
không bao giờ nó có thể thực hiện được điều đó [127, tr.369].
Do nhìn rõ mối quan hệ giữa kinh tế và chế độ dân chủ, V.I.Lênin đã chỉ
ra rằng, muốn xóa bỏ chế độ dân chủ tư sản, một chế độ dân chủ chỉ dành cho
số ít những người hữu sản "chỉ có thể dùng cách mạng kinh tế mà thôi".
Trong khi đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu các tư
liệu sản xuất chủ yếu.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nêu quan niệm sự đồng nhất giữa dân
chủ và chủ nghĩa cộng sản: "đối với giai cấp công nhân, dân chủ và chủ nghĩa
cộng sản là những danh từ hoàn toàn đồng nghĩa" [16, tr.749]. Chủ nghĩa cộng
sản bản chất đặc trưng là sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
V.I.Lênin đã cho rằng, "Nếu không khinh thường lẽ phải và không khinh
thường lịch sử, thì ai cũng thấy rõ rằng chừng nào mà còn có những giai cấp
khác nhau, thì không thể nói đến "dân chủ thuần tuý" được, mà chỉ có thể nói
đến dân chủ có tính chất giai cấp (Xin nói thêm rằng, "dân chủ thuần tuý"
không những là một câu nói của kẻ ngu dốt tỏ ra không hiểu một tí gì về đấu
tranh giai cấp cũng như về bản chất của nhà nước, mà còn là một câu nói hết
sức rỗng tuếch nữa, vì trong xã hội cộng sản, chế độ dân chủ, được cải biến và
thành tập quán, sẽ tiêu vong đi, nhưng sẽ không bao giờ là một chế độ dân chủ
"thuần tuý" cả) [126, tr.304].
Nói dân chủ thuần túy, dân chủ nói chung, bình đẳng, tự do, tính toàn
dân, trong khi công nhân và tất cả những người lao động đều đói ăn, thiếu mặc,
bị phá sản và kiệt quệ không những vì chế độ nô lệ làm thuê của chủ nghĩa tư
bản, mà còn vì cả bốn năm chiến tranh cướp bóc nữa, và trong khi bọn tư bản
và bọn đầu cơ vẫn tiếp tục nắm giữ "sở hữu", ăn cướp được và bộ máy chính
quyền nhà nước "y nguyên", - như thế là nhạo báng những người lao động và
những người bị bóc lột. Như thế là chà đạp lên những chân lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - là chủ nghĩa đã dạy cho công nhân phải lợi dụng chế độ dân chủ tư
sản, coi đó là một bước tiến lớn trong lịch sử so với chế độ phong kiến; nhưng
không được một lúc nào quên thực chất tư sản của chế độ "dân chủ" đó, tính có
88
điều kiện và hạn chế của nó về mặt lịch sử, không được nhiễm phải cái "lòng
tin mê muội" vào "nhà nước", không được quên rằng ngay cả trong một chế độ
cộng hòa dân chủ nhất, chứ không nói trong một chế độ quân chủ nữa, nhà
nước cũng không thể là cái gì khác hơn là một bộ máy để giai cấp này đàn áp
giai cấp khác.
Cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều dựa trên nền kinh tế
thị trường. Tuy nhiên, dân chủ tư sản dựa trên nền tảng kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa, còn dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát
triển nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị
trường vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản
xuất. Phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới
thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng
phải trong những quan hệ xã hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất
yếu kinh tế: người sản xuất hàng hóa phải mang sản phẩm dư thừa ra thị
trường; kẻ mua và người bán trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường. Kinh
tế thị trường thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó không bao giờ tự sản
sinh ra một hệ thống quan hệ sản xuất đầy đủ độc lập với các phương thức sản
xuất mà trong đó nó vận động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với hệ thống
các quan hệ sản xuất và trao đổi của từng thời đại kinh tế, với các quan hệ sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối của từng phương thức sản xuất trong lịch sử.
Sự gắn bó đó chặt chẽ đến mức chúng ta có thể nói đến nền kinh tế hàng hóa
của xã hội nô lệ; nền kinh tế hàng hóa giản đơn trong lòng xã hội phong kiến.
Đến chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hóa giản đơn trở thành kinh tế hàng hóa tư
bản chủ nghĩa, trở thành kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Cả hai kiểu kinh tế thị trường này đều chịu sự tác động của cơ chế thị
trường với hệ thống các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật
cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… Đồng thời, dù là nền kinh tế thị trường
ở các nước theo chế độ dân chủ tư sản hay nền kinh tế thị trường xã hội chủ
89
nghĩa đều là các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết (quản lý) của nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước ở các nền
kinh tế là khác nhau. Không có nền kinh tế thị trường thuần tuý (hoàn hảo) chỉ
vận hành theo cơ chế thị trường.
Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa là ở mục tiêu, phương thức, mức độ can thiệp của
nhà nước và sự can thiệp này là do bản chất của nhà nước quyết định. Nó thể
hiện qua những điểm chính là:
Về chế độ sở hữu, cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế. Còn cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu.
Trong đó chế độ công hữu giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi trong khi phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết. Kinh tế nhà
nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở
lĩnh vực an ninh quốc phòng... mà các thành phần kinh tế khác không có điều
kiện thực hiện.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự quản lý của
nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với
mục đích nhẳm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị
của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Còn
trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thì sự can thiệp của nhà nước xã
hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn
thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
90
Bên cạnh đó, về mối quan hệ tăng trưởng, phát triển kinh tế với công
bằng xã hội: Vấn đề công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn
đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe doạ sự tồn tại của chủ nghĩa xã
hội. Trong kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nhà nước chủ động giải quyết
ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn đề
công bằng xã hội không chỉ là phương tiện phát triển nền kinh tế hàng hoá mà
còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới.
Đặc biệt, về phân phối thu nhập, sự thành công của nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa không chỉ dừng lại ở mức độ tăng trưởng kinh tế mà
còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã
hội và công bằng bình đẳng trong xã hội. Tình hình đó đặt ra cho kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa là luôn phải kết hợp hài hoà ba vấn đề sau: Một là, kết
hợp vấn đề lợi nhuận và vấn đề xã hội, đảm bảo cho các chủ thể kinh tế có
được lợi nhuận cao, tạo điều kiện kinh tế chính trị - xã hội bình thường cho sự
phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa
xã hội và nguyên tắc kinh tế hàng hoá: phân phối theo lao động, theo vốn, theo
tài năng... trong đó nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Ba là, điều tiết
phân phối thu nhập: nhà nước luôn phải lưu ý để có chính sách giảm khoảng
cách chênh lệch giữa lớp giàu và lớp nghèo. Mặt khác, có biện pháp bảo vệ thu
nhập chính đáng của toàn xã hội.
Trong khi đó, nhà nước tư bản chủ nghĩa dù luôn ý thức tự điều chỉnh,
dung hoà lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhằm mục đích
giảm bớt mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn định xã hội, vì mục tiêu phát triển
kinh tế. Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là do sự chi phối điều
tiết của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, lợi ích giai cấp nên sự
điều tiết lợi ích vẫn còn nhiều bất cập. Biểu hiện rõ nhất là ở sự phân phối
thu nhập trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không công bằng;
phản ánh không đúng sức lao động, người lao động hưởng ít mà các nhà tư
bản hưởng nhiều.
91
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử kinh tế
thị trường nhân loại rất đa dạng, phong phú. Một số mô hình kinh tế thị trường
với những ưu, nhược điểm của nó có thể được phân tích qua một số ví dụ cụ
thể dưới đây [52].
Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu
Mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa Bắc Âu có một nhánh tương
đối điển hình là kinh tế thị trường “xã hội phúc lợi“ ở Thụy Điển từ những
năm 30 của thế kỷ XX. Mô hình này được xây dựng dựa trên lý thuyết “Ngôi
nhà chung cho mọi người“ của phái Xã hội - Dân chủ, mà đại diện là cựu Thủ
tướng Thụy Điển P.A.Hanson; xuất phát từ mục tiêu của “Chủ nghĩa xã hội
chức năng“, với khẩu hiệu: ”bình đẳng, đảm bảo xã hội, hợp tác và sẵn sàng
giúp đỡ“. Trong mô hình này, sự phát triển được thực hiện kết hợp hài hòa
giữa mở rộng phúc lợi xã hội với kinh tế thị trường tư nhân. Thực hiện mô
hình này, Thụy Điển đã đạt được những thành công nhất định, đưa Thụy Điển
từ một trong những nước nghèo nhất châu Âu trở thành một trong những quốc
gia giàu nhất châu lục này. Trong nền kinh tế, kinh doanh lớn tuy nằm trong
tay một nhóm nhỏ, nhưng sự phân hóa giàu - nghèo đần dần được thu
hẹp.Tuy vậy, việc giữ mức phúc lợi xã hội cao cho mọi công dân dần dần trở
thành gánh nặng cho nền kinh tế; phúc lợi xã hội “nuốt“ mất 1/3 GNP; sự
thiếu hụt ngân sách và cán cân thanh toán luôn trầm trọng; năng suất lao động
và khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp giảm; lạm phát cao. Do đó,
từ giữa những năm 70 đến những năm 90 (thế kỷ XX) nền kinh tế ngày càng
trở nên trì trệ. Do vậy, sau gần 50 năm thực hiện mô hình kinh tế thị trường
“xã hội phúc lợi“ với mức tiền lương cao và chế độ tiền lương mang tính bình
quân, đến những năm 90, Thụy Điển đã phải đặt mục tiêu giảm lạm phát lên
trên mục tiêu đảm bảo toàn dụng công nhân; giảm thuế thu nhập từ 72%
xuống còn 50%; tăng thuế gián thu; cắt giảm bớt các khoản trợ cấp phúc lợi;
tư nhân hóa trong các lĩnh vực dịch vụ. Nghĩa là một số đặc trưng của mô
hình đã bị loại bỏ.
92
Mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa kiểu Nhật Bản
Kinh tế thị trường Nhật Bản đã tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau
và trở thành một trong những nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhiều người
coi là mẫu mực cho các nước phát triển sau noi theo.Đánh dấu sự thay đổi
mạnh mẽ nhất của kinh tế Nhật Bản là thời Phục Minh Trị. Đây là thời kỳ đã
thực hiện những cải cách phi thường về chính trị, kinh tế và xã hội. Trước hết,
hệ thống chính trị phi tập trung hóa được bãi bỏ để tạo ra sự thống nhất về
chính trị của đất nước. Một Nhà nước tập trung được thành lập. Về kinh tế và
xã hội, sự phân chia xã hội thành các đẳng cấp cha truyền con nối bị thủ tiêu,
thay vào đó là một xã hội hướng vào thành tựu; những người có tài và có năng
lực đều có cơ hội tiến thân trong xã hội, bất chấp nguồn gốc xuất thân của họ.
Song song với việc thủ tiêu hệ thống đẳng cấp, các quy tắc và luật lệ phong
kiến hạn chế quyền tự do kinh tế cũng được bãi bỏ; các biện pháp tích cực thúc
đẩy cơ sở hạ tầng được thực hiện, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải; đẩy
mạnh việc cải cách hệ thông tài chính - tiền tệ, trong đó đặc biệt là cải cách hệ
thông thuế; thuế hiện vật được thay bằng thuế tiền, chế độ tiền tệ Tokagaoa
được thay thế bằng một đồng tiền hợp lý và chuẩn hóa cho cả nước, việc phát
hành tiền thuộc độc quyền của Chính phủ Trung ương; Nhà nước tập trung
mạnh cho đầu tư giáo dục; Chính phủ đồng thời khuyến khích tư nhân đầu tư
phát triển các ngành công nghiệp hiện đại gắn liền với thực hiện tư nhân hóa
các doanh nghiệp Nhà nước; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tiếp thu tư
tưởng và kỹ thuật mới nhằm hiện đại hóa đất nước.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản phục hồi và đạt được sự
tăng trưởng “thần kỳ“. Giai đoạn này gọi là nền kinh tế thị trường có hướng
dẫn. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản thời kỳ này là: Thứ nhất,
Chính phủ vừa thực hiện chính sách tạo điều kiện cho tư nhân tư do kinh doanh
thuận lợi; vừa loại bỏ những yếu tố không hoàn thiện của thị trường. Thứ hai,
Chính phủ đảm trách chi phí đầu tư cho những ngành công nghiệp hkông có lãi
nhưng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế như: xây dựng cơ sở hạ tầng, văn
hóa, giáo dục… Thứ ba, sự hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân trong phát triển
93
kinh tế được thực hiện một cách thường xuyên và chặt chẽ. Thứ tư, Chính phủ
coi trọng công cụ kế hoạch hóa gián tiếp trong điều tiết, quản lý nền kinh tế
quốc dân.
Tóm lại, sự phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa kiểu Nhật Bản
nổi lên mấy vấn đề cơ bản là: Thực hiện dân chủ hóa kinh tế gắn liền với dân
chủ hóa chính trị và xã hội; Kinh tế thị trường không có nghĩa là nền kinh tế vô
Chính phủ. Vì vậy cần có sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước. Thời kỳ đầu
tiên phát triển kinh tế thị trường, Chính phủ Nhật Bản can thiệp trực tiếp rộng
rãi và khá sâu vào nền kinh tế, nhưng sự can thiệp đó của Nhà nước càng về
sau càng giảm dần; Ngoài việc giải thoát về tư tưởng và đảm bảo quyền tự do
kinh doanh, phải không ngừng chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo; Tăng
cường và chủ động mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Tuy vậy, thời gian gần đây người ta bắt đầu đặt vấn đề về sự can dự quá
nhiều của Chính phủ vào những lĩnh vực cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng vì
tính hiệu quả giảm sút của sự can dự này.
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
Thời điểm đánh dấu sự thay đổi có tính lịch sử - chính thức chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang
màu sắc Trung Quốc là Hội nghị Trung ương 3 Đảng cộng sản Trung Quốc,
tháng 12- 1978. Quá trình cải cách, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường ở Trung Quốc được thực hiện với những bước đi
thận trọng, từ thực hiện thí điểm để rút kinh nghiệm, sau đó mới mở rộng trong
từng ngành và toàn bộ nền kinh tế qua các giai đoạn khác nhau.
Trước hết, về phương diện lý luận, quan điểm chính thống cho rằng, kinh
tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, là thủ đọan kinh tế có hiệu
quả cao, nó không có vấn đề “họ xã“ hay “họ tư “; mọi quốc gia đều cần sử
dụng nó. Song vẫn có sự phân biệt về bản chất giữa “kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa“ và “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa“. Sự phân biệt này chủ yếu
thể hiện ở hai mặt: cơ sở của chế độ sở hữu và chế độ phân phối. Với sở hữu,
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy sở hữu tư nhân làm cơ sở, còn kinh tế
94
thị trường Xã hội chủ nghĩa lấy sở hữu công cộng làm cơ sở. Tuy vậy, lấy sở
hữu công cộng làm cơ sở không có nghĩa là sở hữu công cộng thuần nhất, tuyệt
đối, mà sở hữu công cộng ở những ngành, những lĩnh vực nào nhằm giữ vai trò
chủ đạo đối với các hình thức sở hữu khác như: cá thể, tư nhân, hỗn hợp. Và
cũng không có nghĩa là, kinh tế công hữu phải có tỷ trọng lớn, vì tỷ trọng cho
từng ngành kinh tế đến đâu cho thích hợp là trên góc độ có lợi cho sự phát triển
của sức sản xuất.
Về chế độ phân phối, khẳng định, kết quả cuối cùng của kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa không nhằm tập trung tài sản vào trong tay một số ít cá nhân
như kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa, mà nhằm đem lại sự sung túc chung
cho mọi tầng lớp dân cư. Chủ nghĩa xã hội lấy phân phối theo lao động là
chính, nhưng cũng chấp nhận các hình thức phân phối khác.
Tất nhiên sự phân biệt này vẫn là những luận điểm mà nhiều học giả còn
tranh luận khi cho rằng nó thiếu chính xác, quá co dãn, gượng ép và không
thuyết phục, do đó vẫn còn nhiều tranh cãi.
Phân đoạn một cách tương đối, thì quá trình chuyển sang kinh tế thị
trường của Trung Quốc (từ tháng 12-1978 đến nay) có thể chia thành 4 giai
đoạn và được thực hiện tập trung vào những vấn đề chính như sau:
Thứ nhất, thay đổi phương thức quản lý, từ kế hoạch hóa tập trung sang
quản lý theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, mà hạt nhân là từ bỏ cách Chính
phủ trực tiếp quản lý nền kinh tế, thực hiện quản lý gián tiếp từ sản xuất kinh
doanh đến lĩnh vực phân phối; tách chức năng quản lý hành chính ra khỏi chức
năng kinh doanh; tách quyền sở hửu với quyền kinh doanh; mở rộng quyền tự
chủ cho các địa phương và các doanh nghiệp Nhà nước theo phương thức “đẩy
xí nghiệp ra thị trường”.
Thứ hai, cải cách giá. Đây là khâu quan trọng nhất và cũng gay go nhất
trong quá trình chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Quá trình tự do hóa giá
cả được thực hiện qua các giai đoạn khác nhau. Từ việc điều chỉnh giá nhiều
mặt hàng theo chế độ hai giá là, giá quy định và giá hướng dẫn, đồng thời thả
nổi giá cả hàng nông sản và hàng công nghiệp nhẹ; cho đến việc bãi bỏ tem
95
phiếu, thực hiện giá cả thị trường tự do với nhiều loại nguyên, vật liệu; thừa
nhận tư liệu sản xuất, thông tin khoa học, kỹ thuật, tiền tệ, sức lao động, đất
đai… là hàng hóa. Tới nay, khoảng 75% vật tư và toàn bộ hàng nông sản là do
thị trường quyết định giá; hàng tiêu dùng do Nhà nước chỉ định giá chỉ chiếm
khoảng 10% tổng doanh thu.
Thứ ba, hình thành và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất. Chính
phủ ban hành luật pháp và các chính sách để thúc sự hình thành và phát triển
các loại thị trường như: thị trường kỹ thuật, vật tư, vốn, sức lao động, đất đai…
Sự xuất hiện và phát triển hệ thống thị trường đã làm cho cơ chế thị trường của
Trung Quốc hoạt động ngày càng linh hoạt, mềm dẻo và rộng khắp trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tạo môi trường thuận lợi cho
sự phát triển của mọi thành phần kinh tế; thừa nhận một cách chính thức sự tồn
tại lâu dài và khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế thị
trường mang màu sắc Trung Quốc. Đồng thời đẩy mạnh quá trình cấu trúc lại
kinh tế Nhà nước. Vì vậy kinh tế tư nhân trong nước ngày càng được khuyến
khích phát triển mạnh bằng những chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng… và
được liên doanh, liên kết với kinh tế nước ngoài.
Thứ năm, hình thành phong cách kinh doanh thích ứng với kinh tế thị
trường và kinh doanh quốc tế; tự do hóa thương mại; mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại, gia nhập WTO.
Tóm lại, quá trình chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế
thị trường ở Trung Quốc được thực hiện với nhiều bước đi, nhưng luôn luôn
nhất quán. Và thực tiễn đã chứng minh rằng, xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường của Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu lớn lao, đặc biệt là tốc độ
tăng trưởng kinh tế, đứng vào hàng cao nhất thế giới trong hơn 20 năm qua.
Tất nhiên, gắn liền với những thành quả, quá trình phát triển kinh tế thị
trường Trung Quốc cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, như: tình
trạng thất nghiệp tăng, phân hóa giàu - nghèo có xu hướng ngày càng sâu sắc
thêm, tình trạng di dân cơ học vào các khu đô thị vượt ra khỏi tầm kiểm soát…
96
Nhưng Trung Quốc cho rằng, những khó khăn và phức tạp là tất yếu trên con
đường đi tới mục tiêu.
Phân tích những mô hình trên để khẳng định rằng, kinh tế thị trường là
thành quả quan trọng trong sự tiến bộ và phát triển của nền văn minh nhân loại.
Quá trình biến đổi từ nền kinh tế thị trường sơ khai sang nền kinh tế thị trường
hiện đại thực sự là một bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới. Đặc
biệt, nền kinh tế thị trường hiện đại đã đạt được mức độ tăng trưởng và hiệu
quả rất cao cùng với quá trình toàn cầu hoá kinh tế nói chung, khi kinh tế thị
trường trở thành thị trường toàn cầu và quá trình toàn cầu hoá mọi mặt của đời
sống xã hội loài người [40, tr.238].
3.1.3. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Thứ nhất, ở phương diện xã hội, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa đều được thể hiện với tính cách là phương thức tổ chức, quản lý và hoạt
động của tổ chức và xã hội. Tuy nhiên, cách thức thực hiện, tổ chức, quản lý và
hoạt động của tổ chức và xã hội lại có sự khác nhau mang tính bản chất.
Một tổ chức hoặc cộng đồng xã hội muốn tồn tại, vận động và phát triển
phải được tổ chức theo một cơ cấu hợp lý, với sự vận hành thông suốt, năng
động, nhịp nhàng. Muốn vậy, cần tìm ra những cách thức, phương pháp,
phương tiện phù hợp, hiệu quả có thế quy tụ và phát huy được các nguồn lực,
trước hết là nguồn lực con người để xây dựng và phát triển xã hội. Thực tiễn
lịch sử thế giới cho thấy, dân chủ là hình thức, phương pháp quản lý, tổ chức xã
hội ưu việt và có hiệu quả nhất [76, tr.18].
Khi giai cấp tư sản ra đời, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất, do các cuộc cách mạng công nghiệp đem lại, xu hướng dân chủ, tự do
nảy nở và phát triển mạnh mẽ. Tự do cá nhân, duy trì tư hữu tư sản, chạy theo
lợi nhuận là nhu cầu thiết yếu để giai cấp tư sản tự do kinh doanh, tự do mua
bán sức lao động, tự do thông thương mở rộng thị trường. Đây là cơ sở kinh tế
và cơ sở xã hội của dân chủ tư sản.
97
Giương cao ngọn cờ dân chủ, tự do, bình đẳng, giai cấp tư sản đã lãnh
đạo các cuộc cách mạng tư sản, thiết lập nền cộng hòa dân chủ tư sản hoặc chế
độ quân chủ đại nghị. Trong nền chuyên chính tư sản ấy, khác với chuyên
chính của giai cấp thống trị (chủ nô và phong kiến) trước đây, chuyên chính tư
sản thường được sử dụng các hình thức tổ chức và quản lý xã hội khác nhau,
mà nổi trội là chế độ dân chủ tư sản; điều này phù hợp với cơ sở kinh tế của
chế độ tư bản chủ nghĩa là quan hệ sản xuất tư sản, trong đó các cá nhân, công
dân của xã hội tư sản, về mặt hình thức là được tự do cá nhân, không thuộc
quyền sở hữu của giới chủ tư sản. Trong quản lý xã hội, giai cấp tư sản long
trọng tuyên bố quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, quyền tự do
ngôn luận, tự do hội họp, biểu tình, quyền bầu cử, ứng cử, đồng thời sử dụng
phương thức dân chủ trong tổ chức và hoạt động xã hội, trong đó có sự tham
gia nhất định của quần chúng nhân dân dưới các hình thức và mức độ, phạm vi
khác nhau. Mặc dù, về thực chất, mọi quyết định quan trọng, sự tham gia của
quần chúng nhân dân rất mờ nhạt, mang tính hình thức. Bởi, giai cấp tư sản với
sự lọc lõi về chính trị, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, nhiều mánh khóe về luật
pháp, quy định, quy chế, tạo ra các rào cản hữu hình và vô hình, hạn chế sự
tham gia của quần chúng trong việc đưa ra các quyết định, nhất là các vấn đề
động chạm đến sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và đe dọa đến chính quyền tư
sản, tới an ninh trật tự xã hội tư sản [76, tr.20].
Bên cạnh đó, giai cấp tư sản, trong nền dân chủ tư sản còn sử dụng
phương thức cưỡng chế, chuyên chính. Đây là một phương thức cơ bản của nhà
nước tư sản để quản lý xã hội, nhất là trong xã hội tư sản có khủng hoảng chính
trị và những biến động xã hội nghiêm trọng. Hoặc nhà nước tư sản thường kết
hợp hai phương thức cơ bản trong quản lý xã hội theo kiểu "vừa đấm vừa xoa",
"cây gậy và củ cà rốt", giai cấp tư sản, có thể sử dụng bất kỳ theo kiểu phương
thức gì, miễn là đem lại hiệu quả quản lý xã hội cho chế độ tư bản.
Từ đó có thể thấy, công cụ cơ bản của chuyên chính tư sản để quản lý xã
hội là chế độ dân chủ tư sản hay chế độ quân chủ đại nghị (quân chủ lập hiến)
cùng hai phương thức chủ yếu là chuyên chính và dân chủ. Dân chủ đã trở
98
thành phổ biến trong phương thức quản lý và tổ chức của chủ nghĩa tư bản,
mặc dù còn có nhiều hạn chế và mang tính hình thức nhất định. Việc sử dụng
hình thức nhà nước và phương thức quản lý xã hội gì, tùy thuộc vào bối cảnh
lịch sử cụ thể của mỗi nhà nước tư sản trong các giai đoạn, thời kỳ cụ thể, song
đều là nền chuyên chính tư sản và đều nhằm duy trì, bảo vệ quyền lợi kinh tế,
quyền lực chính trị thống trị của giai cấp tư sản. V.I Lênin nhấn mạnh: "Những
hình thức của các nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là
một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất
nhiên phải là nền chuyên chính tư sản" [123, tr.44].
Trong nền dân chủ tư sản, dân chủ không phải là mục tiêu mà giai cấp tư
sản theo đuổi với ý nghĩa là đem lại tự do, bình đẳng, công bằng, quyền làm
chủ thật sự cho nhân dân lao động, mà chủ yếu là một phương thức, phương
tiện để duy trì, quản lý xã hội tư sản, bảo vệ quyền lợi, quyền lực thống trị của
giai cấp tư sản.
Bởi thế, các thể chế và phương thức dân chủ có những hạn chế không
tránh khỏi, có tính hình thức, đặc biệt là đối với giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Thí dụ, quyền bình đẳng giữa các công dân trong tham gia quản lý xã
hội, quản lý nhà nước, được pháp luật ghi nhận, nhưng chừng nào, người dân
còn nghèo khổ, thất nghiệp, không được tiếp cận thông tin…thì thực tế họ cũng
không thiết gì đến dân chủ, đến tham gia quản lý xã hội. Được hưởng những
phúc lợi của tự do cá nhân trước hết là những người giàu có, khá giả, còn
những người đầu tắt mặt tối, do chạy việc làm, kiếm sống thì đó là điều xa vời,
trống rỗng. Tự do báo chí hay các thứ tự do về mặt xã hội khác được sử dụng
chủ yếu bởi các tập đoàn truyền thông khổng lồ, bởi các thế lực nắm quyền sở
hữu, nắm quyền kiểm soát các phương tiện truyền thông, và sử dụng chúng để
uốn nắn, định hướng dư luận theo ý đồ nào đó của các thế lực ấy, chứ không
thể là của những người dân bình thường.
Trong khi đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa coi dân chủ là thuộc tính bản
chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, giải phóng giai cấp, giải phóng con người,
giải phóng xã hội, đem lại tự do, bình đẳng thật sự, tạo mọi điều kiện để con
99
người phát triển toàn diện, trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và
làm chủ chính bản thân mình, là mục đích tự thân của chủ nghĩa xã hội. Do đó,
đương nhiên, dân chủ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Mặt khác, dân chủ lại là con đường, thiết chế, phương thức quan trọng đặc biệt
để xây dựng, bảo vệ và phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Chỉ có thực hiện và phát huy dân chủ mới có thể xây dựng, bảo vệ và
phát triển thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Người xưa thường nói "dân là thứ nhất",
"chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân". Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
"Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong"; đồng thời
khẳng định rằng: "dân chủ là của quý bậc nhất của nhân dân"; "dân chủ là chìa
khóa vạn năng để giải quyết công việc". Thực hiện và phát huy dân chủ bằng
việc vận dụng đúng đắn, có hiệu quả phương thức dân chủ sẽ phát huy tốt nhất
sức mạnh sáng tạo, tích cực, chủ động của nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
không chỉ là bản chất, là mục tiêu mà còn là công cụ, phương thức, động lực
quan trọng để đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, dân chủ là phương thức chủ đạo trong
việc xây dựng các mối quan hệ xã hội, xây dựng các tổ chức; đồng thời, là cách
thức vận hành của tất cả thể chế, thiết chế xã hội, đưa các giá trị dân chủ xã hội
chủ nghĩa đi và cuộc sống. Sự vận hành của toàn bộ phương thức dân chủ là
thuộc về nhân dân. Nhân dân tham gia một cách dân chủ vào việc xây dựng và
hoàn thiện thể chế, thiết chế, cơ chế, nguyên tắc, đồng thời chính nhân dân lại
là chủ thể tham gia vào sự vận hành dân chủ, và được hưởng thụ các thành quả
dân chủ. Quá trình này làm cho trình độ, năng lực làm chủ, dân chủ của nhân
dân ngày càng được nâng cao, nhân dân ngày càng quen và thuần thục hơn,
ngày càng hiểu biết toàn diện và sâu sắc hơn về dân chủ; Nhờ đó, càng phát
huy được quyền làm chủ, trí tuệ và năng lực sáng tạo của mình trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước
Thứ hai, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều là giá trị tiến
bộ xã hội, đều thừa nhận những quyền tự do, bình đẳng của công dân.
Các cuộc đấu tranh để giành lấy dân chủ đều dẫn đến những khả năng
giải phóng, nâng cao vị trí của con người trong lịch sử hình thành và phát triển
100
ở con người ý thức và năng lực làm chủ xã hội. Mặc dù có những khuyết tật,
những hạn chế nhưng những thành tựu của dân chủ tư sản, xét về ý nghĩa
khách quan, đều mang những tiến bộ xã hội, vì nó từng bước chuẩn bị tiến tới
nền dân chủ đầy đủ, triệt để và hoàn thiện nhất trong chủ nghĩa xã hội. Mặc dù
chưa đem lại quyền lực cho đa số người lao động, nhưng nền dân chủ tư sản
vẫn cần thiết đối với tiến bộ xã hội. Nó tích lũy và làm chín muồi ý thức dân
chủ, tinh thần phản kháng mọi hiện tượng bất công, mất dân chủ, tạo nên sự
trưởng thành về chính trị, ý thức giai cấp của quần chúng, cung cấp cho họ kinh
nghiệm thực tiễn cần thiết để chuyển từ đấu tranh đòi cải thiện dân sinh dân
chủ sang đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, tức là vì dân chủ thực sự, triệt để nhất.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, dân chủ luôn gắn liền với việc bảo đảm các
quyền tự do, dân chủ của công dân. Theo hai ông: "… những quyền tự do như
tự do báo chí, tự do lập hội và tự do hội họp, quyền đầu phiếu phổ thông, quyền
tự trị của địa phương - những quyền mà nếu không có… thì công nhân sẽ
không bao giờ có thể giải phóng được mình" [20, tr.98]. Hai ông cũng đã chỉ ra
nền tảng cơ bản để thực hiện dân chủ là bảo đảm quyền bình đẳng giữa các cá
nhân. Trong bối cảnh giữa thế kỷ XIX, khi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới ở
giai đoạn phôi thai về mặt lý luận, hai ông đã nhận ra cơ sở nền tảng để thực
hiện nó: "Mặc dầu quần chúng không phải bao giờ cũng hiểu được rõ ràng cái
ý nghĩa duy nhất chính xác đó của dân chủ nhưng đối với họ, cái khái niệm dân
chủ đã bao hàm khát vọng, tuy còn mơ hồ, về bình đẳng xã hội" [15, tr.791].
Khi phân tích dân chủ dưới góc độ là đảm bảo các quyền tự do, bình
đẳng, C.Mác đã chỉ ra rằng:
Cách mạng Pháp đã đặt cơ sở cho chế độ dân chủ ở châu Âu. Theo
quan điểm của tôi chế độ dân chủ, giống như bất kể chính thể nào
khác, rốt cuộc cũng là sự mâu thuẫn ở ngay trong bản thân, cũng là
sự dối trá. Tự do chính trị là tự do giả, là chế độ nô lệ tồi nhất; nó chỉ
là cái vẻ bề ngoài của tự do, và vì thế trên thực tế, nó là chế độ nô lệ.
Bình đẳng chính trị cũng vậy; vì thế chế độ dân chủ, giống như tất cả
mọi quản lý nào khác, cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn
101
tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong nó tất yếu sẽ phải bộc lộ ra;
hoặc là chế độ nô lệ thực sự, tức là chế độ chuyên chế không che
đậy, hoặc là tự do thực sự và bình đẳng thực sự tức là chủ nghĩa cộng
sản [15, tr.723].
Ở đây, C.Mác chỉ ra rằng, dân chủ dưới chủ nghĩa tư bản là giả dối vì
nhân dân không có tự do chính trị, không có bình đẳng thật sự, chỉ khi đến chủ
nghĩa cộng sản, con người mới có dân chủ đích thực, khi các quyền tự do, bình
đẳng của con người là thực sự.
Trong Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản do C.Mác và
Ph.Ăngghen soạn thảo, vấn đề bình đẳng giữa các thành viên của Liên đoàn
được xem như một vấn đề có tính nguyên tắc: "Tất cả các hội viên của Liên
đoàn đều bình đẳng, họ là anh em và trong mọi trường hợp, đều có nghĩa vụ
giúp nhau như anh em" [17, tr.733]. Khi xác định nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ:
Mỗi hội viên của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế đều có quyền
tham gia bầu cử đại biểu dự đại hội của toàn Hội Liên hiệp và có
quyền được bầu làm đại biểu… Mỗi chi bộ không kể số lượng hội
viên ra sao đều có quyền cử một đại biểu dự đại hội… Mỗi đại biểu
chỉ có một phiếu ở đại hội… Tất cả những vấn đề về nguyên tắc đều
được đưa ra biểu quyết có ghi tên… [21, tr.587-588].
Ở đây, hai ông đã nói đến dân chủ như là các quyền tự do và quyền
bình đẳng của các hội viên Hội Liên hiệp công nhân quốc tế trong các hoạt
động của hội.
Theo C.Mác, con người và sự tôn trọng những quyền của con người là
điểm xuất phát và cũng là điểm cuối cùng để đánh giá một chế độ là dân chủ
hay chuyên chế. Chỉ có trong chế độ dân chủ, con người mới là chủ thể của xã
hội. Dân chủ không chỉ đem lại sự bình đẳng về mặt chính trị, mà còn đem lại
sự bình đẳng về mặt xã hội.
Trong quá trình phát triển lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn cách
mạng ở nước Nga, V.I.Lênin cũng đã tiếp cận dân chủ từ góc độ giá trị. Theo
102
V.I.Lênin, dân chủ chỉ tồn tại trong hình thái nhà nước thừa nhận quyền tự do,
bình đẳng của nhân dân và thừa nhận sự thống trị của đa số. Trong Đại hội I
toàn Nga của ngành giáo dục ngoài nhà trường, V.I.Lênin coi dân chủ là tự do,
là bình đẳng, là quyết định của đa số:
Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao
hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa! Nếu các anh, những
người bônsêvích, các anh tách khỏi dân chủ và ngay cả khi làm như
vậy, các anh lại trắng trợn nói rằng các anh cao hơn cả tự do, cả bình
đẳng, cả quyết định của đa số, thì như vậy các anh đừng lấy làm lạ và
đừng có than phiền rằng chúng tôi coi các anh là những kẻ tiếm đoạt,
những kẻ cường bạo! [127, tr.414.].
Dân chủ nói một cách cụ thể, là: 1) Bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật; 2) Tự do chính trị cho mọi công dân; 3) Quyết định theo đa số của
mọi công dân; 4) Quyết định bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của dân chủ
hòa bình hoặc dân chủ thuần túy, v.v.. [128, tr.515]. Khi Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 thành công, V.I.Lênin vẫn tiếp tục khẳng định phải có sự
bình đẳng trong một chế độ nhà nước: "Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là
chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa những công dân, thừa nhận cho
mọi người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và
quản lý nhà nước" [123, tr.123]. Như vậy, tự do và bình đẳng với tư cách là
những giá trị cốt lõi của dân chủ đã được V.I.Lênin khẳng định và thực hành
trong thực tiễn vận hành nhà nước Xô viết. V.I.Lênin kêu gọi những người
cộng sản có nhiệm vụ "lôi cuốn ngày càng đông đảo quần chúng nhân dân lao
động vào việc sử dụng các quyền dân chủ và các quyền tự do và mở khả năng
vật chất để thực hiện điều đó" [127, tr.224].
Một trong những nội dung hết sức quan trọng mà V.I.Lênin quan tâm
chính là dân chủ giữa các dân tộc, tôn trọng quyền tự quyết, quyền bình đẳng
của các dân tộc. Theo Người, những người mácxít coi trọng việc thừa nhận
quyền bình đẳng của các dân tộc và các ngôn ngữ không những vì họ là những
người dân chủ triệt để mà còn vì lợi ích của tính đoàn kết vô sản, của sự nhất trí
103
thân ái của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân cũng đòi hỏi quyền
dân tộc bình đẳng hoàn toàn nhất để loại trừ mọi sự hiềm nghi, mọi xu hướng
biệt lập, mọi sự nghi kỵ, mọi sự thù hằn nhỏ nhặt giữa các dân tộc.
Với ý nghĩa là giá trị về tự do, bình đẳng, dân chủ không chỉ mang bản
chất giai cấp mà còn có tính nhân loại, gắn liền với khát vọng về tự do, bình
đẳng và phản ảnh trình độ giải phóng của con người trong cuộc đấu tranh xóa
bỏ áp bức, bóc lột, chống sự tha hóa.
3.2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC
BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Thành tựu của sự vận dụng những điểm tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Về nhận thức, qua 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã nhận
thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ
và sâu sắc hơn. Đó cũng là thành tựu của sự vận dụng đúng đắn hơn, đầy đủ
hơn những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Một trong những thành tựu rõ nhất của sự vận dụng này về mặt nhận
thức là Đảng ta đã cho rằng: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải
vừa thể hiện các giá trị dân chủ phổ quát của nhân loại, vừa thể hiện những giá
trị đặc trưng phản ánh bản sắc, đặc điểm văn hóa, truyền thống của Việt Nam;
có nội dung cốt lõi là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân,
quyền làm chủ của nhân dân, gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ công dân nhằm
tạo ra ngày càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng
tạo của con người, gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, trong đó nhân dân là chủ thể của các thiết chế chính trị và Nhà nước theo
đúng nguyên lý chủ quyền nhân dân (được quy định trong Hiến pháp năm
2013) [53, tr.239].
104
Đảng ta cũng nhận thức và vận dụng ngày càng đầy đủ hơn về tất yếu
khách quan phải đẩy mạnh phát triển các hình thức và phương thức thực hiện
dân chủ, nhất là các hình thức dân chủ trực tiếp. Để các quyền dân chủ được
thực hiện trong cuộc sống, các quyền đó phải được thể chế hóa thành Hiến
pháp, pháp luật và được thực hành bằng những chế định tương ứng của Nhà
nước và các giá trị xã hội. Trong đó, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương
không loại trừ, phủ định nhau, mà trái lại, chúng nằm trong sự thống nhất biện
chứng, là điều kiện, tiền đề phát triển của nhau. Không thể có dân chủ mà thiếu
pháp luật, kỷ luật, kỷ cương. Nhận thức rõ hơn dân chủ trong Đảng có ý nghĩa
quyết định đối với phát triển dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cả hệ
thống chính trị, gắn với dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội [53, tr.240].
Đại hội VI của Đảng (1986) đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử trong việc
phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước.
Tổng kết thực tiễn sự nghiệp cách mạng, Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm:
"Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm
gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động" [36, tr.28].
Đảng ta coi: "làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa" [36, tr.116], được thực hiện qua phương thức Đảng lãnh đạo,
Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa yêu
cầu: "Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp đến đời sống nhân dân
trên phạm vi cả nước cũng như ở các địa phương và đơn vị cơ sở, cấp ủy đảng
hoặc cơ quan chính quyền phải trưng cầu ý kiến nhân dân trước khi quyết định"
[36, tr.118]. Đây là những nội dung rất quan trọng trong nhận thức về bản chất,
phương thức thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới. Từ đây, quan niệm về dân chủ đã gắn liền với tư tưởng "dân là chủ", "dân
làm chủ", nội dung cốt lõi của xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác
định là xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Đã có bước phát triển khá rõ trong nhận thức lý luận về dân chủ và dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Dân chủ được đặt trong tương quan với Nhà
nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa; đồng thời dân chủ phải gắn với những điều
105
kiện để thực hiện như kinh tế, văn hóa, xã hội. Từ Đại hội VI, thuật ngữ "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" được sử dụng rộng rãi với việc cụ thể hóa
nội dung, mở rộng quyền dân chủ của công dân, thu hút, khuyến khích nhân
dân tham gia vào quản lý nhà nước, xã hội [96, tr.50].
- Về thực tiễn, thành tựu vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa được xem xét trên một số lĩnh
vực cơ bản là chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Trên lĩnh vực chính trị: Trong quá trình vận dụng đúng đắn những điểm
tương đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, học hỏi kinh
nghiệm và những ưu điểm của dân chủ tư sản trong lĩnh vực chính trị, qua hơn
30 năm đổi mới ở nước ta, dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước,
đoàn thể và xã hội, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan dân cử được
mở rộng và có những bước tiến mới.
Hệ thống chính trị đã có đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động
theo hướng dân chủ hóa. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa được khẳng định và thúc đẩy mạnh mẽ. Hơn 30 năm qua, nước ta đã hai
lần lập hiến (ban hành Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013), ba lần
sửa đổi Hiến pháp (năm 1988, 1989 sửa đổi Hiến pháp năm 1980, năm 2001
sửa đổi Hiến pháp năm 1992); số luật, pháp lệnh được ban hành tăng gấp gần 8
lần so với số luật, pháp lệnh được ban hành trong 41 năm trước đổi mới. Quốc
hội đã ban hành các luật về tổ chức nhà nước, Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin... là những luật
liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị.
Quyền bầu cử, ứng cử với nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và
bỏ phiếu kín được bảo đảm. Trong bầu cử đã có ứng cử tự do và số dư đã tăng
lên đáng kể để cử tri có điều kiện lựa chọn. Vai trò của Quốc hội được khẳng
định, hoạt động đã đi vào thực chất và thực quyền hơn; phương pháp làm việc,
hình thức sinh hoạt của Quốc hội đã dân chủ hơn. Việc phân công, phân cấp
nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa các bộ, ngành, giữa Chính phủ và
chính quyền các cấp đã được đẩy mạnh theo hướng cụ thể hoá nhiệm vụ, chức
106
năng, tăng quyền chủ động, tự chủ cho địa phương, cơ sở, tăng trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, đồng thời bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất,
thông suốt, hiệu quả và phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu, lợi ích của nhân
dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát
được củng cố và kiện toàn một bước, công tác xét xử có tiến bộ; những oan, sai
được sửa chữa, bồi thường theo quy định của pháp luật. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh việc đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động theo hướng dân chủ. Việc giám sát, phản biện đã được xây
dựng thành các cơ chế cụ thể.
Có thể nói, nền hành chính quốc gia được cải cách một bước trên cả bốn
phương diện: thể chế hành chính, tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức và tài
chính công đã nâng cao hơn hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước, góp
phần bảo đảm quyền dân chủ và giảm bớt phiền hà cho người dân. Các tầng
lớp nhân dân tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc quản lý nhà nước,
quản lý xã hội; tích cực, hăng hái góp ý dự thảo văn kiện các kỳ đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng, góp ý dự thảo sửa đổi, xây dựng Hiến pháp, pháp
luật, phản ánh ý kiến với cơ quan chức năng qua đường dây nóng, hay phản
ánh với báo chí, với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân...
Trên lĩnh vực kinh tế: Điểm nổi bật thể hiện sự vận dụng điểm tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
qua hơn 30 năm đổi mới là đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh, hình thức phân phối, bình đẳng
trước pháp luật, hoạt động theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, tạo nên điều kiện nền tảng cho việc thực hành và phát
huy dân chủ. Đại hội IX của Đảng (2001) đã đưa ra khái niệm nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nội dung đầy đủ của nó là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng
với kinh tế tập thể hợp thành nền tảng kinh tế quốc dân, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
107
nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế được khai thác một cách tối ưu,
triệt để và có hiệu quả. Trong cơ cấu này, cả sở hữu nhà nước và tư nhân đều
bình đẳng, tạo thành một cơ cấu thống nhất của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc chuyển từ cơ chế kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được coi là bước nhảy vọt trong nhận thức và thực hiện
dân chủ trên lĩnh vực kinh tế, góp phần xóa bỏ sự kỳ thị với những người giàu
có do kinh doanh mang lại, góp phần loại bỏ tư tưởng bình quân, cào bằng, ỷ
lại. Nó cũng là sự thừa nhận về mặt chính trị và pháp lý các quyền sở hữu của
cá nhân. Dân chủ về kinh tế tạo ra bước đột phá, góp phần giải phóng tiềm
năng kinh tế của của cộng đồng dân cư, tập thể, cá nhân, tạo ra một cơ chế thực
sự dân chủ để các tiềm năng đó chuyển hóa thành sức mạnh kinh tế phục vụ
mỗi người, mỗi nhà và xã hội [96, tr.59]. Đây chính là việc vận dụng những ưu
điểm của dân chủ tư sản trong lĩnh vực kinh tế nhằm thực hành dân chủ trong
kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Trong hơn 30 năm kể từ khi đổi mới đất nước đến nay, Nhà nước đã ban
hành Hiến pháp và nhiều đạo luật về kinh tế để tạo hành lang pháp lý cho sự
vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần và cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. Thể chế kinh tế thị trường được hình thành và từng bước hoàn thiện đã
tạo điều kiện huy động các nguồn lực trong nhân dân, nhất là phát huy tính tích
cực của các chủ thể kinh tế, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Một trong những bước tiến quan
trọng là thay chế định các thành phần kinh tế, các đơn vị kinh tế và mọi người
dân chỉ "được quyền kinh doanh những gì pháp luật cho phép" bằng chế định
"có quyền được tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm"... Đó thực
chất là việc trao quyền và tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ về kinh tế. Tính
chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của người dân ngày càng được
phát huy. Tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động kinh tế
ngày càng được thể hiện rõ hơn.
108
Thực trạng xã hội Việt Nam gần đây cho thấy, ai có năng lực làm kinh tế
đều có quyền tự do kinh doanh trong những lĩnh vực mà luật pháp không cấm.
Thu nhập và mức sống của họ hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực, hiệu quả hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Đối với người không có khả năng mở doanh
nghiệp, kinh doanh thì có quyền "bán" sức lao động của mình cho bất kỳ ai để
có việc làm và thu nhập theo năng lực [94, tr.60].
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Qua hơn 30 năm đổi mới, dân chủ trong
lĩnh vực văn hóa - xã hội đã được mở rộng và nâng lên một bước. Nhiều văn
bản pháp luật đã cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp
hơn với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên tắc mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật được luật hóa và từng bước đi vào cuộc sống. Quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo, sự bình đẳng của
các tôn giáo trước pháp luật được cụ thể hóa. Công bằng, bình đẳng xã hội có
những bước tiến rõ rệt.
Nước ta đã có nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người,
quyền công dân được triển khai đồng bộ và xuyên suốt trong chương trình xây
dựng Luật, pháp lệnh của Quốc hội và các chính sách, cơ chế nhằm triển khai
các Luật và văn bản luật này trên thực tế. Nhà nước sử dụng Hiến pháp như là
một trong những công cụ quan trọng hàng đầu để bảo đảm và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã dành một vị trí trang trọng ở
chương II quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.
Trong lĩnh vực văn hoá, một số luật, pháp lệnh, nghị định, quy định đã
được ban hành làm căn cứ cho quản lý nhà nước và cho hoạt động của nhân
dân đảm bảo quyền làm chủ, quyền tham gia vào đời sống văn hoá của nhân
dân; chẳng hạn: Luật di sản văn hoá dân tộc (2001), Luật xuất bản (2012), Luật
quảng cáo (2012), Pháp lệnh thư viện (2001), Nghị định 113/2013/NĐ-CP về
hoạt động mỹ thuật; Quy chế khen thưởng về khoa học - công nghệ, về văn học
nghệ thuật; Quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang (2011)... đã được ban hành và đi vào thực hiện. Đảng, Chính phủ, Bộ Văn
109
hoá - Thể thao và Du lịch chủ trương và khuyến khích các cấp xã, phường,
thôn, ấp, cụm dân cư, khu tập thể... xây dựng các quy ước về nếp sống văn hoá,
giữ gìn trật tự, vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường. Cùng với điều đó, hệ
thống thanh tra chuyên ngành, thanh tra nhân dân về văn hoá không ngừng
được hoàn thiện [40, tr.125].
Cùng với các chính sách đầu tư cho các phương tiện văn hoá, trong
những năm qua, nhóm chính sách đầu tư cho nguồn lực hoạt động văn hoá
cũng được chú trọng. Những chính sách này được ban hành nhằm khuyến
khích nhân dân lao động tham gia sự nghiệp xây dựng văn hoá trên cả hai mặt
sáng tạo và hưởng thụ; giúp đội ngũ văn nghệ sĩ chuyên nghiệp làm tốt vai trò
nòng cốt trong việc sáng tạo các giá trị văn hoá mới, tạo điều kiện thực hiện tốt
nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh
hoa văn hoá thế giới. Vì vậy, một mạng lưới rộng lớn các trường, viện thuộc
các hệ đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp... đã liên tục đào tạo nhân lực,
chuyên gia trong lĩnh vực văn hoá. Công tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh
vực văn hoá cũng được quan tâm đầu tư và triển khai có hiệu [40, tr.126].
3.2.2. Hạn chế và những vấn đề đặt ra trong quá trình vận dụng
những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
3.2.2.1. Hạn chế trong quá trình vận dụng những điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Về nhận thức: Trong quá trình vận dụng những điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhận thức và nghiên
cứu lý luận về bản chất của dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ
nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra; chưa đạt được nhiều kết quả có giá trị định
hướng, mang tính đột phá cho quá trình đổi mới, xây dựng và phát huy dân
chủ. Trên thực tế, còn có những nhận thức phiến diện, không đầy đủ, không
110
đúng về dân chủ, coi dân chủ là những giá trị tuyệt đối phi lịch sử, phi thực
tiễn... hoặc có những nhận thức sai lệch cho rằng dân chủ là những giá trị "tự
do" không có giới hạn, không bị hạn chế bởi luật pháp, bởi trình độ phát triển
cụ thể... [53, tr.242].
Mặt khác, quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cứu
và nhận thức sâu sắc, đầy đủ. Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân còn hạn chế, nhất là về mối quan hệ giữa quyền, quyền
lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân trong xã hội. Đồng
thời, nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, chưa toàn diện về nguyên tắc cơ bản
nhất, cốt lõi nhất để xây dựng và phát huy dân chủ: "Đảng lãnh đạo - Nhà nước
quản lý - Nhân dân làm chủ" là nhằm thực hiện ý nguyện, quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân.
- Về thực tiễn: Trong vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực tiễn xây dựng và phát
huy nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập.
Trên lĩnh vực chính trị: Dân chủ trong Đảng đóng vai trò quyết định chi
phối và lan tỏa dân chủ trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội, song có
nơi, có lúc dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn còn tình trạng
dân chủ hình thức. Nguyên tắc "tập trung dân chủ", "tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách" trên thực tế ở không ít nơi rơi vào hình thức, bị lợi dụng dẫn tới hiện
tượng hoặc dân chủ quá trớn, hoặc chuyên quyền độc đoán, thiếu hoặc đùn đẩy
trách nhiệm...
Nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát của ba nhánh quyền lực (lập
pháp, hành pháp, tư pháp) chưa rõ ràng, chưa có cơ chế để giám sát, kiểm tra
hiệu quả dẫn tới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn nhiều khiếm khuyết; nội
dung, mức độ, phương thức của việc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa ba cơ
quan nhà nước là gì, vẫn còn lúng túng. Do vậy, tình trạng đùn đẩy trách nhiệm
trong hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn diễn ra. Do không xác định được ai
là chủ thể nên không quy được trách nhiệm chính thuộc về ai khi có vấn đề xảy
ra tổn hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân. Đây cũng là nguyên nhân
111
dẫn tới tình trạng cán bộ làm liều, không sợ trách nhiệm, "nhờn" với cơ chế
phân công, phối hợp, kiểm soát.
Mặt khác, quy trình làm luật, chính sách ở Việt Nam vẫn còn tình trạng
thiếu sự tham gia của các chủ thể hưởng lợi từ chính sách. Dự thảo luật, chính
sách chủ yếu do các bộ, ngành xây dựng, sự tham gia của các nhà khoa học, tổ
chức đoàn thể, của Nhân dân còn chưa nhiều. Khi Quốc hội đưa dự thảo luật ra
lấy ý kiến đóng góp của các đối tượng nêu trên thì sự tham gia, khả năng tham
gia của họ, nhất là của nhân dân còn nhiều hạn chế. Từ đó dẫn đến hệ quả, một
số luật, chính sách được ban hành nhưng không phản ánh đúng ý nguyện của
nhân dân, không được nhân dân đồng tình, ủng hộ [96, tr.72].
Trên lĩnh vực kinh tế: Một là, sự bình đẳng (dân chủ) giữa các thành
phần kinh tế trong tiếp cận các nguồn lực như: tín dụng, thị trường, đất đai,
khoa học công nghệ, sự hỗ trợ của Chính phủ… vẫn chưa được coi trọng đúng
mức. Kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thường gặp khó khăn
hơn so với kinh tế nhà nước trong tiếp cận các nguồn lực trên. Mặt khác, thể
chế kinh tế thị trường còn thiếu đồng bộ. Công tác quản lý nhà nước về kinh tế
còn nhiều khuyết điểm. Việc đổi mới, phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể còn nhiều hạn chế. Nhiều nguồn lực, tiềm năng về vật chất và tinh thần để
phát triển kinh tế trong các tầng lớp nhân dân chưa được khai thác, phát huy
một cách hiệu quả. Tăng trưởng của nền kinh tế vẫn ở mức dưới tiềm năng,
hiệu quả và chất lượng tăng trưởng thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
kém. Tính tự phát, tuỳ tiện trong sản xuất, kinh doanh vẫn còn phổ biến. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, còn phân tán và lãng
phí. Doanh nghiệp nhà nước, trong đó có nhiều tập đoàn kinh tế và tổng công
ty nhà nước chưa thể hiện được đầy đủ vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế
nhà nước; hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả, gây nhiều lãng phí,
thất thoát. Kinh tế tập thể còn nhiều mặt yếu kém kéo dài. Doanh nghiệp tư
nhân chủ yếu là quy mô nhỏ. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đáp
ứng mục tiêu, yêu cầu chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ cao, công
nghệ nguồn và trình độ quản lý tiên tiến... [37, tr.74].
112
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Văn hóa chưa đủ sức tác động, chi phối,
điều chỉnh hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội theo hướng dân chủ, công bằng,
văn minh, hiện đại. Một số giá trị văn hoá đạo đức suy giảm; mê tín, hủ tục
phát triển. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao,
nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán
bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số cơ
quan báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật chưa thực hiện đúng tôn chỉ, mục
đích. Trong sáng tác, biểu diễn, truyền bá văn học, nghệ thuật còn nhiều sai sót,
lệch lạc cả về hình thức và nội dung tư tưởng. Đời sống văn hóa tinh thần ở
nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền
núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và giữa các tầng lớp nhân dân chậm được rút
ngắn. Lối sống thực dụng, coi thường kỷ cương phép nước, bất chấp pháp luật,
đạo đức xã hội, sống xa hoa, buông thả, hời hợt, vô cảm, vô trách nhiệm của
một bộ phận cán bộ, nhân dân, nhất là lớp trẻ đang là vấn đề nhức nhối xã hội.
Những hạn chế trong sự vận dụng điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay có thể được lý giải từ
những nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, Việt Nam thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ một xã hội
tiền tư bản. Nước ta thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng từng
bước nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ xuất
phát điểm là một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất còn rất
thấp lại bị chiến tranh tàn phá kéo dài. Đây là điểm khởi đầu từ một xã hội tiền
tư bản, cơ sở dân chủ mới chỉ có những mầm mống sơ khai trong truyền thống
xã hội phong kiến tập quyền phương Đông. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
cũng có nghĩa là bỏ qua dân chủ tư sản, nhân dân chưa có ý thức và năng lực
thực hành dân chủ, chưa có một nền văn hóa dân chủ ở mức cần thiết, chưa có
thói quen tuân thủ pháp luật nên dễ rơi vào cực đoan này hay cực đoan khác.
Đây là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới những hạn chế trong vận dụng sự
tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa vào
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
113
Hai là, thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước chưa đạt hiệu
quả cao nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội.
Ba là, trình độ dân trí chưa cao, các điều kiện để thực hành dân chủ còn
rất thiếu và yếu, chưa có ý thức pháp luật cũng có ảnh hưởng quan trọng đến
thực hành dân chủ.
3.2.2.2. Những vấn đề đặt ra
Thứ nhất, nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa còn theo tư duy cũ, hoặc
tuyệt đối hóa sự khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, ca
ngợi một chiều tính ưu việt của dân chủ xã hội chủ nghĩa; hoặc phủ nhận sạch
trơn những giá trị tiến bộ mà dân chủ tư sản mang lại với tư cách là một thành
tựu của nhân loại. Điều đó chỉ càng làm doãng hơn sự khác biệt giữa các nền
dân chủ.
Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân
còn nhiều hạn chế. Một số người đồng nhất hoàn toàn dân chủ hiện nay với dân
chủ xã hội chủ nghĩa theo nghĩa đầy đủ của nó. Một số lại có ảo tưởng muốn
đạt ngay một trình độ phát triển cao của dân chủ trong khi nhiều tiền đề khách
quan và chủ quan chưa chín muồi. Do không hiểu thực chất dân chủ trong chủ
nghĩa tư bản nên một bộ phận nhân dân ngộ nhận dân chủ đó như là giá trị
tuyệt đỉnh mà chủ nghĩa xã hội cũng phải khuôn theo.
Quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cứu và nhận
thức sâu sắc, đẩy đủ; có lúc, có nơi còn xem nhẹ việc thực hành dân chủ, coi
nhẹ vai trò làm chủ của nhân dân; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình
thức dân chủ trực tiếp. Chưa nhận thức đầy đủ để giải quyết tốt mối quan hệ
giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương; tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa
dân chủ với kỷ cương, dân chủ và pháp luật trong nhận thức, xây dựng và thực
thi nền dân chủ còn tồn tại ở nhiều nơi.
Thứ hai, nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có độ vênh đáng kể giữa lý luận và thực tiễn.
114
Các nguyên tắc về quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nguyên tắc
tập trung dân chủ, các quyền làm chủ trực tiếp và làm chủ thông qua cơ quan
đại diện,... mới chỉ được ghi nhận và khẳng định trong Cương lĩnh, nghị quyết
của Đảng, trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, nhưng chưa thật sự trở
thành hiện thực trong đời sống xã hội. Thậm chí, ngay trong các văn kiện của
Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước cũng còn có những quy định thiếu nhất
quán và bất cập so với đòi hỏi của dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhiều
nội dung về dân chủ xã hội chủ nghĩa cả lý luận và thực tiễn còn chưa được
nhận thức đầy đủ, tính phiến diện, giáo điều, máy móc vẫn chưa được khắc
phục, dẫn đến thiếu thống nhất trong hành động, gây lúng túng trong thực thi.
Một số vấn đề xung quanh dân chủ đang cần lời giải đáp. Chẳng hạn, mối quan
hệ giữa thực hiện dân chủ trong điều kiện nhất nguyên chính trị, một đảng cầm
quyền; đảm bảo quyền lực của nhân dân trong điều kiện nền kinh tế nhiều
thành phần, cơ chế thị trường; chế độ nhất nguyên chính trị với cơ chế của nhà
nước pháp quyền… Những biểu hiện vi phạm dân chủ, tha hóa quyền lực vẫn
chưa được kiểm soát hiệu quả, tệ quan liêu, cửa quyền và nạn tham nhũng, lãng
phí vẫn là những vấn đề gây nhức nhối trong xã hội, làm suy giảm niềm tin của
nhân dân đối với chế độ, với Đảng và với Nhà nước.
Độ vênh giữa lý luận và thực tiễn dẫn tới hàng loạt mâu thuẫn trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội đòi hỏi chúng ta phải giải quyết để
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo đảm nhân dân thật sự làm chủ thông
qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện với tình trạng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa mới bước đầu xây dựng, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hiệu quả; vai
trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận và các tổ chức thành viên còn hạn
chế; Đảng chưa thực sự nêu gương thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhất là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, kiến tạo phát triển của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ về kinh tế của nhân dân
115
với xu hướng tất yếu phải tuân thủ triệt để các quy luật thị trường trong xây
dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo đảm phát triển xã hội đoàn kết, đồng
thuận, công bằng, an sinh, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa với
những biểu hiện xung đột lợi ích, phân tầng xã hội và nhiều vấn đề xã hội phức
tạp nảy sinh.
Bốn là, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng để phát triển bền
vững đất nước với tình trạng văn hóa, con người Việt Nam còn nhiều hạn
chế, yếu kém.
Thứ ba, các điều kiện để thực hành dân chủ ở nước ta còn rất thiếu hụt.
Hiện nay, một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn chưa phù
hợp với nguyện vọng của Nhân dân, một số chính sách xã hội đưa ra nhưng
chưa được thực hiện nghiêm túc, cơ chế giám sát việc thực thi chính sách, pháp
luật còn lỏng lẻo. Vẫn còn biểu hiện của cơ chế "xin - cho", bao cấp, độc
quyền, lợi ích nhóm… làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân. Đời sống vật chất
và tinh thần của một bộ phận nhân dân còn thấp, nhất là đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa. Khoảng cách chênh lệch về mức sống, mức hưởng thụ
các phúc lợi xã hội… của các tầng lớp dân cư ngày càng cách xa; các chính
sách an sinh xã hội chưa thực thỏa đáng, hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội
vẫn còn tồn tại. Đây cũng là một dấu hiệu của việc thực hành dân chủ trong
lĩnh vực xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới. Chính vì chưa thực
hành dân chủ trong lĩnh vực xã hội tốt mà những vụ khiếu kiện đông người
đang gây căng thẳng trên bình diện xã hội. Nhất là tệ nạn xã hội đang có xu
hướng ngày càng tăng và khá phổ biến, nhất là tệ nạn trộm cắp, cướp, cờ bạc,
mại dâm, nghiện hút, đồng bóng, bói toán, mê tín dị đoan, v.v.. Tệ nạn xã hội
phát triển kéo theo các bệnh xã hội càng phát triển, đồng thời gây ra những hậu
quả nghiêm trọng về kinh tế - xã hội, làm xói mòn đạo đức, băng hoại hạnh
phúc của nhiều gia đình, làm tha hóa một bộ phận dân cư, đặc biệt là thanh
thiếu niên [96, tr.118].
116
Thứ tư, trong nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay chưa
làm sáng tỏ được sự khác biệt giữa dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội với dân chủ trong chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là hai trình độ
phát triển khác nhau, với các đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác
nhau. Trên phương diện kinh tế, tổng thể trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam hiện nay mới ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng về mặt
chính trị xác định xây dựng và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhận
thức như vậy là chưa hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan. Vì trong thời
kỳ quá độ, nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau, từ đó dẫn đến cơ
cấu xã hội, quan hệ giai cấp đa dạng, phức tạp, nội dung, hình thức, yêu cầu
dân chủ cũng khác nhau. Chính sự nhận thức chưa rõ ràng này dẫn đến hệ quả
có lúc Đảng ta quan niệm bản chất chế độ chính trị nước ta do nhân dân lao
động làm chủ (Đại hội VII) và do nhân dân làm chủ (Đại hội X).
Do đó, làm sáng tỏ sự khác biệt giữa dân chủ trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và dân chủ trong chủ nghĩa xã hội là cơ sở để thực hiện các
hình thức dân chủ cho phù hợp.
Thứ năm, trong nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay có
tình trạng những bất cập thực hiện dân chủ trong Đảng mâu thuẫn với bản chất
dân chủ tốt đẹp của dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Để thực hành dân chủ trong xã hội, trước hết cần thực hành dân chủ
trong Đảng. Bên cạnh những thành tựu về dân chủ trong hoạt động của Đảng,
hơn 30 năm đổi mới đất nước vừa qua còn không ít vấn đề về thực hành dân
chủ trong Đảng, làm cho tấm gương của Đảng có nơi, có lúc không những
không sáng mà còn mờ nhạt trước xã hội, trước Nhân dân [96, tr.117].
Do thực hành dân chủ trong Đảng trong các công tác lý luận, tư tưởng,
tổ chức, cán bộ, kiểm tra; trong các quan hệ nội bộ của Đảng, giữa Đảng và
Nhà nước, giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, giữa
117
Đảng với nhân dân, v.v., còn nhiều hạn chế nên đã ảnh hưởng xấu đến việc
thực hành dân chủ trong xã hội. Chúng ta đã có quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp
lệnh thực hành dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, Quy chế dân chủ
trong Đảng vẫn chưa được xây dựng, do vậy, các cơ chế nhân dân giám sát
Đảng; quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội; cơ chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, v.v.. đều thiếu
hoặc yếu, khó triển khai trong cuộc sống [96, tr.117].
Chúng ta đòi hỏi dân chủ phải được thực thi công khai, minh bạch trong
tất cả các thành viên của hệ thống chính trị. Trong đó, thực hiện trên thực tế
dân chủ trong Đảng đang là nhu cầu, là đòi hỏi bức xúc đặt ra từ thực tiễn.
Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian qua chưa đạt được kết
quả như mong muốn, dẫn tới dân chủ hình thức, thiếu nhất quán giữa nói và
làm; nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm. Nhiều cơ quan Đảng, nhiều cán
bộ, đảng viên không những chưa gương mẫu trong thực hiện dân chủ mà còn vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân. Nói hay nhưng làm dở, nói nhưng không
làm, nói một đường làm một nẻo…trong việc thực hành dân chủ là hiện tượng
khá phổ biến ở nước ta.
Đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình vận dụng những
điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
vào xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đặt ra đòi hỏi phải được làm sáng tỏ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Nghiên cứu thực chất những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa - xã
hội về sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ dân chủ tư sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đồng thời phân tích thực trạng vận dụng ở Việt Nam hiện nay
có thể rút ra một số kết luận sau:
118
Một là, giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có những điểm
tương đồng vì chúng đều phản ánh khía cạnh, nội dung của chế độ chính trị,
những phạm trù của đời sống xã hội.
Hai là, giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có những điểm
khác biệt căn bản trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Ba là, trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ra đời sau, kế thừa các giá trị tích cực của các nền dân chủ trước đó,
trong đó có dân chủ tư sản.
Bốn là, trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, việc nghiên cứu một cách
toàn diện, có hệ thống nền dân chủ tư sản ở các nước tư bản phát triển để kế
thừa các giá trị tích cực là việc làm cần thiết, có ý nghĩa tích cực. Cần phê
pháp các quan điểm tả khuynh, hữu khuynh trong nhận thức, tiếp thu dân chủ
tư sản. Đánh giá khách quan thành tựu dân chủ tư sản, tính chất, trình độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
cơ sở khoa học để tiếp thu có chọn lọc các giá trị dân chủ của nhân loại được
biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản. Đó là sự phát triển trình độ dân chủ của văn
minh nhân loại được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản chứ không phải là sản
phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay từ nghiên cứu và vận dụng
thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa là khắc phục tình trạng nhận thức lệch lạc, phiến diện, hoặc
tuyệt đối hóa sự khác biệt giữa hai chế độ dân chủ này, hoặc ca ngợi một
chiều những ưu việt của dân chủ xã hội chủ nghĩa mà không thấy những bất
cập trong quá trình hoàn thiện nền dân chủ này; hoặc phủ nhận sạch trơn
những giá trị tốt đẹp của dân chủ tư sản.
119
Chương 4
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN
VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG
VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
4.1.1. Vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam phải trên cơ sở nhận thức đúng và vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải kiên định và vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xem dân chủ xã hội chủ
nghĩa là mục tiêu, động lực và là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng. Đây là nguyên tắc cơ bản hàng đầu trong quá trình đổi
mới tư duy, phát triển nhận thức lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đổi mới tư duy, phát triển nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải gắn liền với việc
nhận thức đầy đủ, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
theo những yêu cầu:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự
thống nhất biện chứng với lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Với cách mạng Việt Nam và với Đảng ta, chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng, lý luận về dân chủ xã
120
hội chủ nghĩa là một chỉnh thể thống nhất chặt chẽ không thể tách rời. Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng. Mọi biểu hiện tách rời hoặc đối lập giữa tư tưởng
Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình đổi mới tư duy, phát
triển nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta đều là những lệch lạc, sai lầm cần phải phòng tránh và
phê phán.
Thứ hai, theo tinh thần khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, việc nhận thức các tư tưởng, quan điểm về dân chủ xã hội chủ
nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải trong tổng thể, trong
hoàn cảnh cụ thể, trong quá trình phát triển biện chứng và khi vận dụng nhất
thiết phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử. Điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị hiện
nay đã có nhiều thay đổi so với trước đây, nên giữa tư tưởng, lý luận dân chủ
xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực
tiễn cách mạng hiện nay sẽ không tránh khỏi có một độ "vênh" nhất định ở
mặt này hay mặt khác, ở luận điểm này hay luận điểm khác. Vì thế, đòi hỏi
công tác lý luận phải làm rõ trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa: những luận điểm có giá trị bền vững;
những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua; những luận điểm cần bổ sung, phát
triển; những luận điểm đã bị hiểu sai và vận dụng không đúng, nay cần nhận
thức lại; những luận điểm cần tiếp tục nghiên cứu, kiểm chứng...
Thứ ba, giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
không chỉ được tạo nên bởi sự đúng đắn, sâu sắc từ nội dung các quan điểm,
tư tưởng mà quan trọng hơn là giá trị về phương pháp luận toát lên từ những
tư tưởng và quan điểm đó. Mặc dù, các nhà kinh điển để lại cho chúng ta rất
nhiều chỉ dẫn cụ thể, quý báu về xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa; song phương pháp luận là cái có giá trị bền vững, là "cẩm nang thần
121
kỳ", là "cái bất biến" để Đảng và nhân dân ta vững vàng, chủ động, sáng tạo
ứng phó với "cái vạn biến" phức tạp, khó lường của tình hình đất nước và
thời đại.
4.1.2. Vận dụng những điểm tương đồng giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải gắn với việc chủ
động đấu tranh chống quan điểm, hành động sai trái, thù địch về dân chủ
Ngay khi ra đời, chủ nghĩa Mác và sau này là chủ nghĩa Mác - Lênin,
đã lập tức trở thành đối tượng phê phán, phủ nhận, xuyên tạc và bác bỏ của
các thế lực thù địch. Cũng ngay từ đầu, và trong toàn bộ quá trình hình thành,
phát triển hệ thống lý luận của mình, các nhà kinh điển đã phải liên tục đấu
tranh không khoan nhượng với rất nhiều quan điểm, hành động sai trái, thù
địch dưới mọi màu sắc. Đấu tranh tư tưởng, lý luận là một trong những nội
dung cơ bản của đấu tranh giai cấp. Tư tưởng, lý luận vừa phản ánh nội dung
đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp về kinh tế, chính trị, vừa làm sứ mệnh dẫn
đường, thúc đẩy cuộc đấu tranh về chính trị và kinh tế đi đến thắng lợi. Chính
hoạt động đấu tranh chống lại những quan điểm, hành động sai trái, thù địch
dưới nhiều hình thức đã tạo động lực thúc đẩy lý luận phát triển. Vì vậy, kết
hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận với đấu tranh lý luận là quy luật hình
thành, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về dân chủ
xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Trong những năm gần đây, các phần tử chống đối càng tăng cường lợi
dụng vấn đề dân chủ, tự do, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của
chúng ta. Đây là vấn đề khó khăn, phức tạp, nhạy cảm đòi hỏi chúng ta cần
nâng cao hơn nữa tinh thần cảnh giác, chủ động và kịp thời có những biện
pháp đồng bộ và hữu hiệu làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn của chúng.
Đồng thời, chúng ta phải đẩy mạnh đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Chủ động, kịp thời
122
đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, sai trái của các thế lực phản
động và thù địch.
Một là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội. Đây vừa là điều kiện trọng yếu vừa là nội dung cơ bản đảm bảo cho sự
phát triển lành mạnh, bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hai là, kết hợp tuyên truyền, phổ biến thông tin lý luận, thực tiễn về
dân chủ, nhân quyền với đấu tranh lý luận về dân chủ, nhân quyền một cách
công khai, rộng rãi trên các phương tiện thông tin khoa học chuyên ngành,
thông tin đại chúng, nhất là trên mạng thông tin toàn cầu. Như thế mới có thể
dần khắc phục được tình trạng, người dân, nhất là thanh niên, sinh viên, trí
thức, kể cả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và những người làm công
tác tư tưởng, lý luận khó tiếp cận thông tin lý luận chính diện, chính thống
nhưng lại dễ dàng tiếp cận thông tin lệch lạc, sai trái, thù địch, kể cả thông tin
lý luận và thực tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ba là, đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả
đấu tranh tư tưởng, lý luận xung quanh vấn đề về dân chủ, nhân quyền. Chú
trọng nghiên cứu, phát hiện, dự báo, nhận diện đầy đủ, đúng đắn những tư
tưởng, quan điểm, hành vi lệch lạc, sai trái trong nội bộ, những âm mưu, thủ
đoạn, luận điệu mới của các thế lực cơ hội, thù địch để từ đó chủ động phê
phán, uốn nắn, đấu tranh, ngăn chặn, bác bỏ. Đa dạng hóa hình thức đấu tranh
trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc; mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn
trong phương pháp; công khai, minh bạch, dân chủ, có lý có tình, nhưng phải
kiên quyết, triệt để, không nửa vời, không "nhân nhượng" về lý luận. Đối với
123
những người có quan điểm khác, cần đối thoại thẳng thắn trên tinh thần khoa
học, dân chủ, xây dựng, thuyết phục lẫn nhau bằng lý lẽ khoa học và bằng
thực tiễn là chính.
Bốn là, phải đặc biệt coi trọng việc hiện thực hóa tư tưởng, lý luận về
dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Sức sống của lý luận chính là ở sức mạnh của thực tiễn. Thực tiễn đổi
mới, dân chủ hóa các lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước, trong đó, trước
hết là thực tiễn đổi mới, dân chủ hóa tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị là bằng chứng có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất để khẳng định giá trị soi
đường của lý luận dân chủ xã hội chủ nghĩa và bác bỏ một cách đanh thép
mọi sự xuyên tạc, vu cáo, chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Chỉ
trên cơ sở hiện thực hóa các giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, chỉ khi tạo lập
được "thế trận lòng dân" vững chắc thì nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của
chúng ta mới có khả năng tự bảo vệ mình trước sự tấn công của cái xấu, cái
ác. Lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa càng được thực thi sâu rộng trong đời sống thì việc kết hợp chặt chẽ
giữa nghiên cứu lý luận với đấu tranh lý luận trong quá trình đổi mới tư duy,
phát triển lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam càng thuận lợi và hiệu quả.
4.1.3. Vận dụng những điểm tương đồng giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam phải gắn với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế vận động
khách quan của thời đại
Sinh thời, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đã có những
chỉ dẫn quý báu về những vấn đề có tính nguyên tắc của công tác tư tưởng, lý
luận trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo các ông, việc vận
dụng, phát triển các nguyên lý, luận điểm về chủ nghĩa xã hội, về dân chủ xã
hội chủ nghĩa nhất thiết phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
124
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: phải dùng lập trường, quan điểm,
phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của
Đảng ta, phân tích đúng đắn những đặc điểm của nước ta để dần dần hiểu
được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối,
phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với
tình hình nước ta [66, tr.92].
Trong tiến trình đổi mới, Đảng ta khẳng định: "Đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng
tạo… đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham
khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có
sẵn" [38, tr.631].
Bởi thế, việc vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa cần bám sát và phù hợp với điều kiện
thực tiễn đất nước ta hiện nay và xu thế của thời đại. Cần nhận thức sâu
sắc rằng:
Thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là một cuộc biến đổi to lớn, khó khăn và sâu sắc chưa từng có trong lịch sử
dân tộc ta. Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, từ dân chủ nhân dân tiến
lên dân chủ xã hội chủ nghĩa bỏ qua dân chủ tư sản, đó là con đường vận
động, phát triển tất yếu khách quan của lịch sử Việt Nam hiện đại.
Tuy nhiên, không thể dừng lại ở nhận thức chung có phần trừu tượng
về con đường phát triển dân chủ của dân tộc. Phải căn cứ vào điều kiện cụ thể
của đất nước, từ xuất phát điểm cũng như những đặc điểm cơ bản của truyền
thống dân chủ của nước ta, từ chiều sâu lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị của
dân tộc đến đặc điểm, thành tựu, hạn chế, xu hướng vận động biến đổi của
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, từ đó làm rõ lộ
trình, bước đi ngắn hạn và dài hạn với các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực đời sống xã hội sao cho việc
125
thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng thiết thực, hiệu quả,
đầy đủ, toàn diện, vững chắc và thực chất hơn. Cần làm rõ những kinh
nghiệm gì của các nền dân chủ tư sản hiện đại có thể vận dụng vào việc thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, nước ta thực hiện đổi mới, xây dựng phát triển nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế có những bước hồi phục nhưng còn phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thử thách. Xây dựng phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện không qua trường học dân chủ tư sản, không kinh qua nền
dân chủ tư sản. Bỏ qua chủ nghĩa tư bản, quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong
khi chủ nghĩa tư bản đang áp đảo trên nhiều phương diện; bỏ qua dân chủ tư
sản tiến lên dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện quan hệ hợp tác sâu rộng
với các nước tư bản và các nền dân chủ tư sản. Yếu tố nghịch chiều cản trở sự
nghiệp xây dựng phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta không chỉ là
những yếu tố vô hình và hữu hình trong nước mà còn đến từ bên ngoài bằng
chiến lược "diễn biến hòa bình" quy mô lớn và với nhiều thủ đoạn tinh vi,
thâm độc.
Xây dựng, phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa trong khi về cơ bản chưa
có một nền sản xuất công nghiệp hiện đại; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trong khi nhân loại đang phát triển kinh tế tri thức và
toàn cầu hóa. Xây dựng va phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
một đảng cộng sản duy nhất cầm quyền, bước đầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện cơ cấu xã hội giai cấp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng có nhiều biến
đổi đa dạng, nhanh chóng, phức tạp… Đó là những đặc điểm khách quan nổi
bật không thể thoát ly hay xem nhẹ trong quá trình đổi mới, phát triển nhận
126
thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.
Thứ ba, tính quá độ là một đặc điểm khách quan nổi bật của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đến nay, có mặt đã ở trình độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, có khía cạnh đang là định hướng xã hội chủ nghĩa, có khía
cạnh còn ở trình độ thấp hơn nữa. Công cuộc xây dựng, phát triển nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải làm rất nhiều công việc phức tạp mang
tính quá độ.
Yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa là cần xác định rõ:
Những công việc nào mà chúng ta đang làm để xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là công việc mà dân chủ tư sản ở nhiều nước đã làm cách đây mấy
trăm năm; đâu lả những việc mà nền dân chủ tư sản ở các nước tư bản phát
triển đang thực hiện. Mặt khác, cần phải khẳng định những việc nào chúng ta
đang làm là những công việc mà chủ nghĩa tư bản không làm và dân chủ tư
sản không thể làm được. Có việc không thể chần chừ, trì trệ, nhưng cũng
không thể nôn nóng, vội vàng. Có việc phải đi tắt, đón đầu nhưng có việc
không thể đốt cháy giai đoạn. Đấy là những điều cần phải đặc biệt lưu ý trong
việc vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta cả trên phương diện nhận thức và thực tiễn.
Yêu cầu vận dụng những điểm tương đồng giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam phải gắn với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế vận động
khách quan của thời đại thực chất cũng là nhấn mạnh việc xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có sự thống nhất hài hòa giữa bản
chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại.
Bảo đảm quá trình vận dụng để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ ở nước ta
127
không những kế thừa được những di sản dân chủ quý báu trong chiều sâu
văn hóa của dân tộc Việt Nam mà còn tiếp thu những giá trị dân chủ tiến
bộ của nhân loại, trong đó có giá trị dân chủ tư sản đương đại; không
những làm cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang lại những
lợi ích thiết thân về dân chủ, tự do, công bằng, hạnh phúc cho đông đảo
nhân dân vừa bảo đảm chung sống hòa bình, hợp tác hữu nghị với thế giới,
với các thể chế dân chủ tư sản. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, đi đến tận
cùng giá trị của nhân dân và dân tộc tất yếu sẽ gặp gỡ và vươn lên tầm giá
trị nhân loại một cách tự nhiên.
4.2. GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG
ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
4.2.1. Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ những nội
dung cần vận dụng từ những kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ của các
quốc gia trên thế giới
Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa; kinh nghiệm xây dựng nền dân
chủ của các quốc gia trên thế giới nhằm vận dụng đúng đắn, đầy đủ hơn vào
công cuộc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hiện nay, việc làm sáng tỏ vấn đề nêu trên vẫn còn hạn chế, nhất là
việc kế thừa những giá trị, học hỏi kinh nghiệm của nền dân chủ trên thế giới
vẫn chưa thoát khỏi lối tư duy cũ: hoặc ca ngợi một chiều; hoặc phủ định sạch
trơn, làm cho sự khác biệt của các nền dân chủ càng doãng xa hơn. Do vậy,
một mặt phải nghiên cứu sâu, có tính hệ thống lý luận về dân chủ, dân chủ xã
hội chủ nghĩa trong kho tàng chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ ra những điểm còn
nguyên giá trị, những điểm đã bị lịch sử vượt qua, thậm chí có những luận
điểm đã không đúng ngay từ lúc mới xuất hiện. Mặt khác, làm rõ giá trị hợp
lý của các nền dân chủ khác để kế thừa, học hỏi.
128
Đánh giá khách quan thành tựu dân chủ tư sản, tính chất, trình độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
cơ sở khoa học để tiếp thu có chọn lọc các giá trị dân chủ của nhân loại được
biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản. Đó là sự phát triển trình độ dân chủ của văn
minh nhân loại được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản chứ không phải là sản
phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Ví dụ: dân chủ gắn với xây dựng nhà
nước/chính phủ của dân, do dân và vì dân; dân chủ phải gắn với các quyền tự
do cơ bản của con người; hay các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp để
đảm bảo nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước… Những giá trị đó cần
thiết cho thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam
không tiếp thu bản chất giai cấp của dân chủ tư sản, nhưng tiếp thu, học tập
các hình thức thực hiện để đảm bảo quyền lực nhà nước thực sự thuộc về
nhân dân.
Trong khi chưa tìm ra những hình thức đặc thù để thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa, cần mạnh dạn nghiên cứu, áp dụng những hình thức dân chủ
mà nhân loại đã trải qua, được thực tiễn kiểm nghiệm là hiệu quả để vận
dụng, ví dụ như: nhân dân trực tiếp thể hiện ý kiến của mình trước các vấn đề
lớn của đất nước thông qua trưng cầu dân ý; cơ chế cụ thể để nhân dân bãi
miễn đại biểu của mình khi không còn phù hợp, hoặc trực tiếp lựa chọn người
lãnh đạo của mình thông qua bầu cử... Có thực tế là, một số quyền tự do, dân
chủ đã được thực tiễn thế kỷ XIX đạt tới hay vượt qua nhưng ở Việt Nam vẫn
ở tình trạng tranh luận có nên thực hiện hay không? [96, tr.134].
Trong quá trình xây dựng đất nước, chúng ta đã và đang vận dụng
những kinh nghiệm thực hành dân chủ ở các nước trên thế giới. Việc tham
khảo để vận dụng kinh nghiệm của các nước, chúng ta cần lưu ý một số điểm
sau đây: (1) Tham khảo kinh nghiệm của cả quá khứ và hiện tại, vì trong quá
khứ cũng có những kinh nghiệm rất quý; (2) Nếu có điều kiện, chúng ta nên
tham khảo kinh nghiệm của tất cả các nước trên thế giới để so sánh, không
129
phân biệt về địa lý, về chế độ chính trị; (3) Chúng ta tham khảo không chỉ
những kinh nghiệm thành công mà cả những kinh nghiệm không thành công
để tránh vấp váp, sai lầm; (4) Khi vận dụng một kinh nghiệm nào đó, cần phải
nghiên cứu rất kỹ hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam để tránh áp dụng máy móc,
rập khuôn [40, tr.188].
Có thể nói, dù dân chủ ở đâu và thời gian nào thì vẫn nổi lên những
kinh nghiệm quý báu mà Việt Nam cần vận dụng: Một là, dân là người chủ
thực sự của quyền lực nhà nước. Hai là, người cầm quyền phải có trí tuệ
cao. Ba là, dân ủy quyền (có giới hạn) cho các cán bộ chứ không mất quyền.
Dân có quyền chọn lọc và bãi miễn cán bộ nếu không đáp ứng được yêu cầu,
cán bộ nhà nước là công bộc phục vụ dân chứ không phải kẻ đứng trên cai
trị, chăn dắt dân. Cơ quan quyền lực nhà nước phải phục vụ dân, vì dân và
do dân. Bốn là, chế độ dân chủ hướng vào bảo vệ các quyền tự nhiên của cả
cộng đồng cũng như của từng cá nhân, như quyền được sống, quyền được
lao động, được học hành, được sống trong công bằng, được luật pháp bảo
vệ… Năm là, quyền lực nhà nước phải bị kiểm soát chặt chẽ theo hai loại
thể chế: Quyền lực nhà nước kiểm soát quyền lực nhà nước và nhân dân
kiểm soát quyền lực nhà nước. Sáu là, lợi ích và quyền lực của dân là cái chi
phối đời sống xã hội, dần dần phải được luật hóa. Cơ quan và cán bộ nhà
nước chỉ được làm những gì theo luật định, còn dân có thể làm tất cả những
gì mà luật không cấm [40].
Cần nhận thức tiêu chí kiểm chứng tính hiệu quả của thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở mức độ rộng hơn. Bản thân Ph.Ăngghen đã chỉ ra:
"… đặc trưng chủ yếu nhất của nền dân chủ chân chính là nó phải phủ nhận
lịch sử của nước nó, nó phải từ bỏ mọi trách nhiệm đối với cái quá khứ đầy
dẫy cảnh nghèo khổ, nền thống trị bạo tàn, ách áp bức giai cấp và mê tín dị
đoan" [17, tr.546]. Như vậy, mục tiêu hay tiêu chí kiểm chứng tính hiệu quả
của dân chủ rất toàn diện, không chỉ thuần túy là "quyền lực thuộc về nhân
130
dân" mà dân chủ phải hướng đến mục tiêu xóa bỏ nghèo khổ, ách thống trị
bạo tàn, áp bức giai cấp… hay nói cách khác, dân chủ phải vì hạnh phúc của
nhân dân. Nhận thức tiêu chí kiểm chứng tính hiệu quả của dân chủ theo
nghĩa rộng như vậy, vừa phù hợp với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản, vừa phân biệt được sự khác biệt giữa mục tiêu dân chủ
vô sản và dân chủ tư sản [96, tr.134].
Trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, cần phân biệt dân chủ
xã hội chủ nghĩa với tư cách là chế độ dân chủ đầy đủ của chế độ xã hội chủ
nghĩa đã phát triển tương đối toàn diện với dân chủ trong giai đoạn quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Đây là hai trình độ phát triển khác nhau của xã hội, với các
đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội khác nhau. Do đó, đặc điểm, tính
chất, hình thức thực hiện cũng khác nhau. Trong thời kỳ quá độ, nước ta tồn
tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau, cơ cấu xã hội, quan hệ giai cấp đa dạng,
phức tạp; từ đó cũng dẫn đến sự đa dạng về nhu cầu dân chủ.
4.2.2. Xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ xã
hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là sản phẩm trí tuệ của nhân loại trong quá trình tìm
kiếm mô hình phát triển kinh tế nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả sản
xuất, kinh doanh. Kinh tế thị trường được vận dụng ở các nước tư bản chủ
nghĩa truyền thống và thu được những thành tựu to lớn. Các quốc gia NICs
châu Á đã vận dụng cơ chế kinh tế này theo con đường phát triển rút ngắn và
thu được những thành tựu to lớn, tạo nên những con rồng châu Á.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba trụ cột
cơ bản của thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay (cùng với nhà
nước pháp quyền và các tổ chức xã hội tự nguyện, hợp pháp của nhân dân).
Để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Việt Nam cần
phải thực hiện một số giải pháp:
131
Một là, thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình
thức sở hữu, thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, loại hình
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối
với các tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu… quy định rõ,
quyền trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.
Nhà nước cần xây dựng lộ trình cụ thể tạo lập môi trường kinh doanh
thuận lợi, thông thoáng. Môi trường thuận lợi để cá nhân, doanh nghiệp phát
triển là con đường nâng cao nội lực kinh tế, bảo đảm thành công trong chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng để
phát triển các thành phần kinh tế; tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu
quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước; có cơ chế, chính sách hỗ trợ phát
triển, nâng cao chất lượng kinh tế tập thể với nòng cốt là các hợp tác xã; tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển; hỗ trợ các doanh nghiệp
nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn, công nghệ và thị trường; chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế; cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng hơn nữa để thu hút
mạnh mọi nguồn lực đầu tư vào những ngành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với
chiến lược và quy hoạch phát triển.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, thực hiện nhất quán chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ
phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều
hình thức sử hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước phải là thành phần quan trọng, giữ vai trò chủ đạo và
là công cụ định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đẩy mạnh cơ
cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung
vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc
phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
132
tế khác không đầu tư. Đẩy mạnh cổ phần hoá bán vốn tại những doanh nghiệp
mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần. Hoàn thiện thể chế
định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong cổ phần hoá theo
nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ
chính trị, công ích. Kiện toàn đội ngũ lãnh đạo, quản lý, nâng cao năng lực
quản trị doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng nâng cao chế độ tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về tổ chức, bộ máy, biên chế, nhân sự, tài chính.
Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể đẩy
mạnh liên kết và hợp tác rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh
doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, liên kết công nghiệp và nông nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn dựa trên quan hệ lợi ích, áp
dụng phương pháp quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước
có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực,
chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát
triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.
Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Nhà nước
cần hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh
kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế. Hoàn thiện chính sách
hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Khuyến khích thành lập các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân
góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước,
Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.
Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng
chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến. Tăng cường liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước [44,
tr.196-197].
133
Thể chế môi trường kinh doanh cũng như thể chế kinh tế nói chung chỉ
phát huy tác dụng có hiệu quả khi tạo được sự đổi mới triệt để nhận thức đúng
đắn của xã hội về vai trò quan trọng của thể chế. Đồng thời, xây dựng và hoàn
thiện thể chế phải được tiến hành đồng bộ cả ba khâu: thứ nhất, ban hành văn
bản, quy định của thể chế; thứ hai, xây dựng cơ chế vận hành, thực thi thể chế
trong hoạt động kinh doanh cụ thể; thứ ba, hoàn thiện tổ chức bộ máy theo
dõi, giám sát việc thi hành thể chế, xử lý vi phạm và tranh chấp trong thực thi
thể chế. Trong khi triển khai đồng bộ thể chế môi trường kinh doanh, phải tập
trung cải cách hành chính, từ bộ máy hành chính đến thủ tục hành chính.
Thắng lợi của cải cách hành chính sẽ nhanh chóng thúc đẩy cải thiện nhiều về
môi trường kinh doanh.
Ba là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
Sớm hình thành việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về
kinh doanh phù hợp với Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, để hoàn thiện
thể chế môi trường kinh doanh dân chủ, cần tập trung khắc phục thực trạng
yếu kém của một số văn bản luật pháp. Đổi mới, hoàn thiện các quy định về
giá, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, về ký kết, thực hiện hợp đồng và giải
quyết tranh chấp. Thực hiện nhất quán cơ chế giá trị trường có sự điều tiết của
Nhà nước.
Phát triển đồng bộ 5 loại thị trường chính yếu: tài chính, hàng hóa -
dịch vụ, công nghệ, bất động sản, lao động; đổi mới, nâng cao vai trò, hiệu
lực quản lý Nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường; không ngừng đóng góp
vào việc hoạch định cơ chế, chính sách chung của cả nước trong quá trình
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.2.3. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân được xem là bước ngoặt quan trọng cả trên phương diện nhận
134
thức và thực tiễn xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Trong thời gian tới, việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh sẽ là một trong
những giải pháp vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược để tiếp tục đổi
mới tư duy, phát triển nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần
chú ý nhận thức và giải quyết có hiệu quả một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, bảo đảm
Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Hoàn thiện cơ chế giám
sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Nâng cao chất lượng lập pháp của Quốc hội để xây dựng hệ thống pháp luật
đồng bộ, ổn định, tiên tiến và khả thi. Cần có những cơ chế, hình thức thích
hợp để thu hút nhân dân tham gia lập pháp nhằm bảo đảm pháp luật của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người,
quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện.
Thứ hai, thể chế hóa đường lối, chủ trương thực hành dân chủ thành
Hiến pháp và pháp luật [40, tr.231]. Quốc hội nói riêng và Nhà nước nói
chung cần kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách về thực
hành dân chủ thành Hiến pháp, thành hệ thống đồng bộ các đạo luật có tính
khả thi cao, không vì và không được để tạo kẽ hở trong luật cho những sự lợi
dụng của các nhóm lợi ích phi pháp, tiêu cực. Sau khi có bộ luật cơ bản, Nhà
nước cần có cơ chế bảo đảm để Hiến pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ
vai trò tối thượng. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không dung
135
túng đặc quyền ngoài pháp luật dưới bất kỳ hình thức nào. Đảng, Nhà nước,
công dân, các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội đều phải tuân thủ, chấp hành
pháp luật. Xử lý, trừng trị nghiêm khắc theo pháp luật những hành vi vi phạm
pháp luật của mọi cá nhân, tổ chức, bất kể ở cương vị, chức vụ nào. Đổi mới,
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Bảo đảm nguyên tắc độc lập, tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo và của đương sự. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của luật sư và các tổ chức bảo trợ tư pháp. Bảo đảm các điều kiện
cần thiết về cơ chế, thể chế để khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật như quy định tại điều 103 của Hiến pháp năm 2013.
Thứ ba, trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trước hết phải
bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và
kiểm soát có hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Giữa
các cơ quan Nhà nước các cấp, các ngành và mọi cá nhân, nhất là người đứng
đầu cơ quan phải được phân định rõ ràng, cụ thể về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm. Tập trung xây dựng hệ thống hành chính Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực,
hiệu quả.
Nhà nước cần tiếp tục kiện toàn bộ máy của Chính phủ, nâng cao hiệu
quả quản lý vĩ mô, nhất là chất lượng quy hoạch, xây dựng thể chế, năng lực
dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế. Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về
quy hoạch và những định hướng phát triển, đồng thời đề cao vai trò chủ động,
tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành và cơ sở.
Mặt khác, tiếp tục hiện thực hóa ý tưởng về một chính phủ điện tử
nhằm giảm bớt những công văn, giấy tờ không cần thiết. Tất nhiên, để có
một chính phủ điện tử thì trước hết phải có một công dân điện tử, kế đến là
136
một văn phòng, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, v.v.. điện tử. Thực tế
thời gian qua, nước ta đã triển khai nhiều dự án về chính phủ điện tử nhưng
hiệu quả còn thấp, nguyên nhân căn bản là do năng lực vận hành máy tính,
sử dụng mạng và các thiết bị truyền tin của cán bộ, công chức nhà nước còn
nhiều bất cập.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất
tốt, tận tuỵ phục vụ nhân dân, có tính chuyên nghiệp cao. Muốn làm được
việc này, phải thật sự dân chủ hóa công tác cán bộ; đổi mới cơ chế chính sách
phát hiện, tuyển dụng, đề bạt, đãi ngộ xứng đáng, có cơ chế, quy định đánh
giá, khen thưởng, kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh. Đồng thời phải thực hiện
chế độ trách nhiệm, chế độ công vụ và đạo đức công chức một cách cụ thể,
nghiêm ngặt. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công
chức; tinh giản biên chế đi đôi với cải cách tiền lương; nâng cao chất lượng
khu vực dịch vụ công và đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp công. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, có cơ chế cụ thể, thuận lợi để nhân dân giám sát
các hoạt động của bộ máy Nhà nước, hành vi của công chức. Thực hiện kiên
trì, kiên quyết và có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng
phí, thu hồi tài sản tham nhũng. Khẩn trương ban hành và thực hiện Luật
giám sát và phản biện xã hội.
Thứ năm, cùng với việc hoàn thiện pháp luật và nêu cao trách nhiệm thi
hành luật pháp của tổ chức, cá nhân, việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật để
hình thành ý thức pháp luật, tự giác chấp hành pháp luật, hình thành văn hoá
pháp luật cho nhân dân là một việc rất quan trọng trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mọi người
dân, mọi công dân phải được trang bị những tri thức phổ thông cần thiết về
pháp luật. Đây là điều kiện để nhân dân nắm lấy pháp luật làm công cụ tự bảo
vệ mình và bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là phương tiện hữu
hiệu để nhân dân chống tiêu cực, làm trong sạch bộ máy Nhà nước của mình.
137
Trong Nhà nước pháp quyền, mọi cá nhân, tổ chức phải sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật.
4.2.4. Củng cố, phát triển cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, không ngừng nâng cao năng lực thực hành dân chủ của người dân
Hiện nay, trong các văn kiện, Đảng ta đã xác định cơ sở kinh tế, cơ sở
chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vận
hành đồng bộ, cần thống nhất nhận thức cơ sở xã hội đó là các tổ chức xã hội
tự nguyện, hợp pháp của nhân dân. Hình thức tồn tại của tổ chức này là các
hội, hiệp hội, câu lạc bộ, nhóm xã hội. Yêu cầu các tổ chức này không trái với
các quy định pháp luật, thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Chức năng các tổ
chức này vừa đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, vừa
tham gia các hoạt động cộng đồng. Trước mắt, có lộ trình cụ thể thể chế hóa
các quyền tự do dân chủ trong Hiến pháp 2013 thành các quy định pháp luật
cụ thể. Rút kinh nghiệm nhiều Hiến pháp trước đây, có quy định về các quyền
tự do, dân chủ của công dân, nhưng các cơ quan nhà nước không thể chế hóa
các quyền đó thành các luật cụ thể; từ đó, người dân không được hưởng các
quyền làm chủ trên thực tế [96, tr.148]. Do vậy, để xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị cần chỉ đạo các cơ quan xây dựng pháp luật xây dựng lộ trình cụ thể
thể chế hóa các quyền tự do dân chủ của công dân trong Hiến pháp 2013
thành các luật cụ thể (các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình; quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng
cầu dân ý).
Mặt khác, không ngừng nâng cao năng lực thực hành dân chủ của
người dân. Trình độ phát triển của một chế độ dân chủ không chỉ phụ thuộc
vào việc trao quyền lực cho nhân dân như thế nào, mà quan trọng hơn là
người dân có đủ năng lực, điều kiện và trình độ để sử dụng và thực hiện các
quyền đó hay không. Trong một xã hội mà trình độ dân trí còn thấp, hiểu biết
về dân chủ còn mang nặng cảm tính, ý thức pháp luật chưa cao như ở Việt
138
Nam thì tất yếu sẽ hạn chế việc sử dụng và thực thi quyền lực của người dân.
Những quyền và nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của công dân được ghi trong Hiến
pháp và pháp luật sẽ không được thực hiện đầy đủ, hoặc sẽ bị lợi dụng, vi
phạm. Khi ấy trong xã hội sẽ xuất hiện các vấn đề: sự lãnh cảm, thờ ơ của
công dân đối với chính trị và pháp luật hoặc công dân sẽ sử dụng quyền một
cách thụ động, dẫn đến tình trạng dân chủ quá trớn, vô chính phủ, coi thường
kỷ cương, pháp luật.
Một quốc gia có trình độ dân trí cao thì dân chủ được bảo đảm. Một
công dân có hiểu biết về pháp luật sẽ tự bảo vệ được mình trong khuôn khổ
các quyền tự do dân chủ đã được thể chế hóa trong luật pháp. Điều kiện quan
trọng để mở rộng dân chủ là phải nâng cao dân trí, không ngừng nâng cao
nhận thức, hiểu biết về pháp luật; nâng cao năng lực thực hành dân chủ cho
nhân dân [112, tr.82]. Trình độ dân trí phụ thuộc cơ bản vào phương châm,
đường lối và nội dung giáo dục. Muốn có mặt bằng dân trí cao, trước hết cần
đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, biến phương châm đào tạo thành tự đào tạo,
biến học tập thành nhu cầu tự thân,biên xã hội thành xã hội học tập. Tuy
nhiên, trình độ dân trí không chỉ có được bằng giáo dục học đường mà còn
qua các phương tiện thông tin đại chúng, như truyền hình, radio, báo chí,
sách,... do vậy, mở rộng và đa dạng hóa việc giáo dục thông qua những
phương tiện thông tin đại chúng là việc làm cấp thiết.
Một phương diện nữa nhằm nâng cao năng lực thực hành dân chủ của
nhân dân chính là cần phát huy phản biện xã hội về pháp luật,mở rộng giám
sát xã hội.
4.2.5. Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây
dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hành dân chủ trong
Đảng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta vận động, phát triển như thế
nào trước hết là do Đảng quyết định. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng chỉ rõ: "Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải
139
bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ
trong xã hội" [38]. Do đó, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên đổi mới, chỉnh
đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, nhất là phải ra sức thực hành
dân chủ trong nội bộ tổ chức của mình. Đây là giải pháp cơ bản có ý nghĩa
tiên quyết đối với những bước tiến của lý luận, thực tiễn dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta trong chặng đường phát triển tiếp theo.
Dân chủ trong Đảng là tiền đề để có dân chủ ngoài xã hội. Đảng phải là
đầu tàu của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng phải chăm lo giáo dục, rèn
luyện, giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản chất khoa học và cách
mạng của mình, hoạt động thực sự vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc. Không ngừng nâng cao năng lực trí tuệ, bản lĩnh
chính trị, nhất là năng lực hoạch định đường lối, chính sách đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, cũng như cần đổi mới,
dân chủ hóa phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước, xã hội và cả nâng cao
năng lực tổ chức tập hợp, động viên nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật.
Đảng cầm quyền phải thực hiện cầm quyền vì dân và dựa vào dân, cầm
quyền theo Hiến pháp và pháp luật, cầm quyền một cách khoa học và cầm
quyền dân chủ. Đó là yêu cầu hàng đầu đối với đảng cầm quyền.
Để thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, cần thực hiện một
số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Đảng cần tiếp tục đổi mới công tác lý luận, tư tưởng, tổ
chức cán bộ, kiểm tra, phương thức lãnh đạo theo hướng mở rộng dân chủ
hơn nữa. Đảng phải thường xuyên coi trọng việc xây dựng, củng cố Đảng
về tổ chức, chăm lo công tác cán bộ; nâng cao trình độ trí tuệ và chất
lượng công tác lý luận với sức sáng tạo cao. Đường lối, chủ trương, chính
sách phải luôn luôn xuất phát từ lợi ích của nhân dân, không giáo điều,
bảo thủ.
140
Thứ hai, Đảng phải thật sự thấm nhuần dân là gốc, dân là chủ và
dân làm chủ; tránh dân chủ hình thức. Đại hội VI đã nêu: “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, sau đó Nhà nước đưa thành Quy chế dân chủ
cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, nhưng vẫn
còn những yếu kém trong thực tế. Cần bổ sung thêm vào nội dung dân
quyết vào công thức nói trên thì mới đầy đủ, vì dân biết, dân bàn… mà
không được quyết, thì thực chất dân chỉ đóng vai trò thụ động là thực hiện
những điều mà cấp trên đã quyết. Đồng thời, cần sớm xây dựng luật về
trưng cầu dân ý.
Thứ ba, Đảng phải giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh làm trong sạch
Đảng và chống tham nhũng, lãng phí. Hiện nay, đang có những biểu hiện tiêu
cực xuất hiện trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng nhiều, ảnh hưởng
đến niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, phá hoại quan hệ máu thịt giữa
Đảng và Nhân dân.
Thứ tư, cùng với việc chủ động nâng cao đạo đức trong Đảng, phải rất
coi trọng việc nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng và thu hút được nhiều nhân
tài vào Đảng [96, tr.151]. Mặt khác, Đảng cần tăng cường sự lãnh đạo đối với
công tác cán bộ. Đảng cần chủ động, tích cực xây dựng chiến lược, xác định
quan điểm,. nguyên tắc công tác cán bộ; chăm lo giáo dục, rèn luyện đảng
viên, lựa chọn những đảng viên ưu tú để nhân dân bầu vào cơ quan nhà nước,
bảo đảm tính dân chủ, khách quan trong lựa chọn và giới thiệu cán bộ vào các
cơ quan nhà nước. Chăm lo xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ của các tổ
chức chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới.
Kiện toàn các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn đủ sức tham mưu cho
Đảng trong các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội. Tập hợp
những đảng viên tiêu biểu về phẩm chất, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn
vào các cơ quan tham mưu cho Đảng trong các cơ quan nhà nước và tổ chức
chính trị - xã hội. Tập hợp những đảng viên tiêu biểu về phẩm chất, năng lực
141
và kinh nghiệm thực tiễn vào các cơ quan tham mưu của Đảng, thúc đẩy quá
trình xây dựng và hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Có làm được những đều nói trên thì mới thực hành được dân chủ trong
điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền
Mặt khác, rất cần thiết phải nghiên cứu, xây dựng quy chế thực hiện
dân chủ trong Đảng; tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa và thực hiện tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ; thực hiện nghiêm túc quy chế chất vấn trong sinh hoạt
Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái; xây dựng đội ngũ
cán bộ đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao;
tăng cường công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng; có cơ chế bảo vệ người dám
đấu tranh với những tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước; kiên quyết đưa
ra khỏi Đảng những kẻ thoái hoá, hư hỏng.
Một công việc đã xuất hiện nhưng chưa nghiêm túc và thường xuyên là
Đảng phải thực hiện nghiêm việc công khai hoá tài sản của cán bộ khi ứng cử,
bổ nhiệm cũng như khi họ rời cương vị đó. Cần phải có cơ chế công khai,
minh bạch về tài chính công, tài sản riêng, công khai về công tác tổ chức cán
bộ để mọi cán bộ, đảng viên dù muốn cũng không thể lộng quyền.
Mở rộng và phát huy dân chủ phải thực sự đi đôi với giữ vững kỷ
cương, xây dựng, bổ sung quy định về đề bạt, bổ nhiệm, quyền hạn và trách
nhiệm của người đứng đầu và quan hệ giữa người đứng đầu với tập thể lãnh
đạo; khen thưởng, bảo vệ những người dám đấu tranh, tố cáo những khuyết
điểm, sai phạm ngay trong tổ chức mình; đồng thời đấu tranh, xử lý những
người lợi dụng dân chủ để vu cáo, gây rối nội bộ. Dân chủ trong Đảng là bảo
đảm quyền được cung cấp thông tin của đảng viên, quyền được chất vấn cấp
uỷ và cán bộ lãnh đạo của mình về những chủ trương, chính sách, về công tác
tổ chức, quản lý các mặt của tổ chức đảng và cơ quan có liên quan đến từng
cấp uỷ viên và phải được trả lời của cấp ủy trong thời hạn quy định. Cán bộ,
142
đảng viên, ai cản trở thực hiện dân chủ, vi phạm quyền dân chủ của đảng viên
cần phải được xử lý nghiêm minh.
Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng thì Đảng mới thống nhất được ý chí
và hành động, đấu tranh chống quan liêu, chống nguy cơ suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống của đảng viên. Thực hiện tốt dân chủ trong
Đảng sẽ tăng cường đoàn kết nội bộ, tạo không khí tích cực và tin cậy trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường sức mạnh của tổ chức cơ sở đảng và
toàn Đảng. Bảo đảm dân chủ trong Đảng là cơ sở, điều kiện để mở rộng, phát
triển dân chủ trong xã hội. Tất nhiên, Đảng phải tạo điều kiện thuận lợi để
nhân dân tự giác, tích cực tham gia xây dựng, giám sát, bảo vệ Đảng. Làm
được như thế thì việc xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng mới thành công,
việc thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ trong Đảng mới thực sự có kết quả
và kéo theo là dân chủ trong hệ thống chính trị, trong toàn xã hội sẽ được thực
hiện một cách thực chất và đầy đủ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Trên cơ sở phân tích thực chất những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, phân tích thực trạng vận
dụng và những vấn đề đặt ra trong quá trình vận dụng những điểm tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay, ở chương này, luận án đã đưa ra một số gợi mở. Đó là: khi
đánh giá bản chất, sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa phải nắm chắc phép biện chứng duy vật, cần nghiên
cứu có hệ thống nền dân chủ tư sản, tìm ra những điểm hợp lý, giá trị tích
cực để kế thừa vào thực tiễn Việt Nam.
Yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là cần vận dụng trên cơ
143
sở nhận thức đúng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ; hai là phải gắn với việc chủ động đấu tranh chống
quan điểm, hành động sai trái, thù địch; ba là phải gắn với điều kiện cụ thể
của đất nước và xu thế khách quan của thời đại.
Về các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, luận án đã
đưa ra 5 giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ những nội
dung cần vận dụng từ kinh nghiệm xây dựng các nền dân chủ của các quốc
gia trên thế giới;
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân
chủ xã hội chủ nghĩa;
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;
Thứ tư, củng cố, phát triên cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam và không ngừng nâng cao năng lực thực hành dân chủ
của người dân;
Thứ năm, tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây
dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hành dân chủ trong Đảng
nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.
Nghiên cứu những điểm gợi mở và thực hiện đồng bộ các yêu cầu,
các nhóm giải pháp nêu trên là con đường đúng đắn để công tác lý luận tiếp
tục làm tròn sứ mệnh dẫn đường đối với công cuộc đổi mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong
điều kiện mới.
144
KẾT LUẬN
1. Trên cơ sở tổng quan các tài liệu, các công trình nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề dân chủ, dân chủ xã hội
chủ nghĩa, dân chủ tư sản, luận án đã luận giải về thuật ngữ "dân chủ", quan
niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Mặt khác, luận án cũng đã phân tích hai khái niệm cơ bản là khái
niệm "tương đồng" và khái niệm "khác biệt", so sánh cặp khái niệm này trong
mối quan hệ với cặp phạm trù "cái chung" và "cái riêng" để thấy tính biện
chứng của sự "tương đồng" và "khác biệt"; từ đó rút ra khẳng định rằng: giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có những điểm tương đồng và
những điểm khác biệt. Sự tương đồng và khác biệt giữa chúng có khi là bản
chất, có lúc chỉ mang tính tương đồng, chuyển hóa lẫn nhau, trong tương đồng
có khác biệt và ngược lại.
Từ đó, luận án đã nêu lên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn chủ yếu để
phân tích, đánh giá thực chất những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận giải những vấn đề đặt ra trong
nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nền dân
chủ này trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2. Nghiên cứu thực chất những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa - xã
hội về sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ dân chủ tư sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa cho thấy: giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có
những điểm tương đồng vì chúng đều phản ánh khía cạnh, nội dung của chế
độ chính trị, những phạm trù của đời sống xã hội; giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa có những điểm khác biệt căn bản trên các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ra đời sau, kế thừa các giá trị tích cực của các nền dân chủ trước đó,
trong đó có dân chủ tư sản.
145
Việt Nam đã vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua và đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Tuy nhiên, những hạn chế cũng còn tồn tại rất lớn mà nguyên
nhân chính được chỉ ra là do Việt Nam thực hiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa từ một xã hội tiền tư bản; thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà
nước chưa đạt hiệu quả cao nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã
hội; trình độ dân trí chưa cao, các điều kiện để thực hành dân chủ còn rất
thiếu và yếu, chưa có ý thức pháp luật cũng có ảnh hưởng quan trọng đến thực
hành dân chủ.
Yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là cần vận dụng trên cơ sở nhận
thức đúng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ; hai là phải gắn với việc chủ động đấu tranh chống quan điểm,
hành động sai trái, thù địch; ba là phải gắn với điều kiện cụ thể của đất nước
và xu thế khách quan của thời đại.
3. Dân chủ là một giá trị phổ biến của toàn nhân loại. Lịch sử phát triển
của các nước trên thế giới cho thấy, quốc gia nào cũng cố gắng hướng tới thực
hiện dân chủ theo quan niệm, cách thức, phương pháp của mình trên cơ sở
phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Không có mô hình chung về dân chủ cho
tất cả các nước. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng việc thực hành dân chủ ở
mỗi nước đều có những điểm hợp lý cũng như những hạn chế nhất định.
Nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó có những đánh giá khách quan thành tựu
dân chủ tư sản, tính chất, trình độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là cơ sở khoa học để tiếp thu có chọn lọc
các giá trị dân chủ của nhân loại được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản. Có thể
khẳng định rằng đó là sự phát triển trình độ dân chủ của văn minh nhân loại
146
được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản chứ không phải là sản phẩm riêng của chủ
nghĩa tư bản. Việt Nam không tiếp thu bản chất giai cấp của dân chủ tư sản,
nhưng tiếp thu, học tập các hình thức thực hiện để đảm bảo quyền lực nhà
nước thực sự thuộc về nhân dân. Chỉ khi nhận thức dân chủ trong thời kỳ quá
độ khác với dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mới cho phép học tập, vận
dụng, thực hiện đa dạng các hình thức dân chủ khác nhau. Đó cũng là sự phù
hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ.
Trong khi chưa tìm ra những hình thức đặc thù để thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa, cần mạnh dạn nghiên cứu, áp dụng những hình thức dân chủ
mà nhân loại đã trải qua, được thực tiễn kiểm nghiệm là hiệu quả để vận
dụng, ví như: nhân dân trực tiếp thể hiện ý kiến của mình trước các vấn đề lớn
của đất nước thông qua trưng cầu dân ý; cơ chế cụ thể để nhân dân bãi miễn
đại biểu của mình khi không còn phù hợp, hoặc trực tiếp lựa chọn người lãnh
đạo của mình thông qua bầu cử...
4. Trong điều kiện mới, để tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhận thức
lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam cần tập trung giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn đặt ra trên cơ
sở tuân thủ những nhóm giải pháp cơ bản với giải pháp cụ thể.
147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đỗ Thị Thạch, Lê Thị Thu Mai (2014), Nền dân chủ ở Cộng hòa Ấn Độ và
tham chiếu ở Việt Nam, tại trang http://cis.org.vn, ngày 12/8.
2. Lê Thị Thu Mai (2015), "Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Lê Thị Thu Mai (2017), "Tư tưởng của V.I. Lênin về chuyên chính vô sản
và sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh
hiện nay", Tạp chí Giáo dục và xã hội, (139) , tr.54-58.
4. Lê Thị Thu Mai (2017), "Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ", Tạp chí Dạy và học ngày nay, (9), tr.13-14.
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexis De Tocqueville (Phạm Toàn dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính)
(2008), Nền dân trị Mỹ, NXB Tri thức, Hà Nội.
2. Angelo Serrillo (2014), "Chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa Mác và xem xét lại lý
thuyết dân chủ", Thông tin những vấn đề lý luận, (7).
3. Nguyễn Đức Bách (1991), "Mấy vấn đề về dân chủ và hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay dưới góc độ quan hệ giữa các lợi ích", Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, (5).
4. Nguyễn Đức Bách (2007), "Về nhận thức, bổ sung, phát triển các luận điểm
trong chủ nghĩa xã hội khoa học", Tạp chí Lý luận chính trị, (3).
5. Nguyễn Đức Bách (2008),"Dân chủ là điều kiện, động lực và mục tiêu của
hoạt động khoa học xã hội - nhân văn ở nước ta, Dân chủ trong nghiên
cứu về khoa học xã hội - nhân văn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Đức Bách (2009), "Về một số biểu hiện "tự diễn biến trong nội bộ
ta" cần phòng ngừa và khắc phục", Tạp chí Tuyên giáo, (11).
7. Nguyễn Đức Bách (2016), Tập bài giảng Phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa
xã hội (cho đào tạo sau đại học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Chương
III: Phương pháp nghiên cứu về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa,
Hà Nội.
8. Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Thanh Tuấn và Nguyễn Lam Sơn (1991), Chủ
nghĩa xã hội - dân chủ, huyền thoại và bi kịch, NXB Sự thật, Hà Nội.
9. Hoàng Chí Bảo (1992), "Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên
cứu", Tạp chí Thông tin lý luận, (9), tr.7-11.
10. Hoàng Chí Bảo (2006), "Thành tựu hai mươi năm đổi mới - thành tựu của
dân chủ", Tạp chí Lịch sử Đảng, (9).
11. Phạm Văn Bính (2007), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
149
12. C.Mác (1962), Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, NXB Sự thật, Hà Nội.
13. C.Mác, Ph.Ănghen (1983), Tuyển tập, tập I, NXB Sự thật, Hà Nội.
14. C.Mác, Ph.Ănghen (1984), Tuyển tập, tập VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
15. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
16. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
17. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
18. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
19. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
20. C.Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
21. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 17, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
22. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
23. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 36, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
24. Quang Cận (1997), "Một cách tiếp cận về sở hữu xã hội chủ nghĩa và nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (21).
25. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), "Toàn cầu hóa hiện nay và quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội", Tạp chí Triết học, (1).
26. Nguyễn Trọng Chuẩn (2014), "Một số vấn đề về dân chủ", Tạp chí Triết
học, (1), tr.9-21.
150
27. Nguyễn Hồng Chuyên (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
28. Vũ Hoàng Công (2009), Xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
29. Vũ Hoàng Công (2013), Vấn đề dân chủ trong các văn kiện Đại hội XI của
Đảng, tại trang http://lyluanchinhtri.vn, [truy cập ngày 23-5-2015].
30. Cục Lý luận - Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
(2013), Trung Quốc đối mặt với những điểm nóng lý luận, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội
31. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, NXB Tư pháp, Hà Nội.
32. David Held (2013), Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại (bản dịch của
Phạm Nguyên Trường; Đinh Tuấn Minh hiệu đính), NXB Tri Thức,
Hà Nội.
33. Trần Hữu Dũng (2007), "Dân chủ và phát triển: Lý thuyết và chứng cớ",
Tạp chí Thời đại, (10).
34. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Khoa Triết học (2004), Tư tưởng của V.I.Lênin về dân chủ,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đài Tiếng nói quốc tế nước Nga (2012), Những vấn đề của nền dân chủ
Mỹ, tại trang http://vietnamese.ruvr.ru, [truy cập ngày 20/8/2017].
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
(Đại hội VI, VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
151
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
39. Hà Đăng (2010), Mô hình tổ chức nền dân chủ, tại trang http://www. tapchi
congsan.org.vn, [truy cập ngày 6/4/2016].
40. Phạm Văn Đức (2017), Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy
nhất cầm quyền, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
41. Farrukh Iqbal - Jong-II You (2002), Dân chủ kinh tế thị trường và phát
triển từ góc nhìn châu Á, NXB Thế giới, Hà Nội.
42. Nguyễn Ngọc Hà, Luyện Thị Hồng Hạnh (2014), "Dân chủ và tính đặc thù
của việc thực hành dân chủ ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (7), tr.70
43. Lương Đình Hải (2006), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân
chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (1), tr.5-9
44. Hoàng Thị Hạnh (2016), Xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện
đặc thù ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
45. Vũ Văn Hiền (2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và
Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Dương Phú Hiệp (1996), Con đường phát triển của một số nước châu Á -
Thái Bình Dương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt
Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hội đồng Lý luận Trung ương (2011), Dân chủ nhân quyền - giá trị toàn
cầu và đặc thù quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Phê phán các quan điểm sai trái,
bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
50. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học
Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
152
51. Trần Quốc Hùng (2006), "Dân chủ và phát triển: Kinh nghiệm Ấn Độ và
Trung Quốc", Tạp chí Thời đại mới, (7).
52. Đinh Sơn Hùng (2009), Một số mô hình kinh tế thị trường và bài học rút
ra, tại trang https://thongtinphapluatdansu.edu.vn, [truy cập ngày
25/10/2018].
53. Đinh Thế Huynh và các cộng sự (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. John Stuart Mill (do Bùi Văn Nam Sơn dịch) (2008), Chính thể đại diện,
NXB Tri thức, Hà Nội.
55. Cốc Văn Khang (1994), Cuộc đọ sức giữa hai chế độ, NXB Chính trị quốc
gia, Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
56. Khăm Phon Bun Na Di (2014), Vấn đề xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
ở Lào hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện khoa học xã hội,
Hà Nội
57. Nguyễn Hữu Khiển (1998), "Những vấn đề lý luận và thực tiễn của hình
thức dân chủ trực tiếp", Tạp chí Thông tin Lý luận, (1).
58. Không rõ tên (1986), Từ điển triết học, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
59. Thái Thượng Kim (2015), "Đảng cộng sản các nước trên thế giới tận dụng
như thế nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa đảng với
quần chúng", Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), (5),
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
60. Nhị Lê, Lê Khả Thọ (2005), "Một Đảng lãnh đạo và thực thi dân chủ", Tạp
chí Cộng sản, (1).
61. Lilia Sevtsova, Người Nga bàn về các giá trị phương Tây, tại trang
www.vietnamnet.vn, [truy cập ngày 22/5/2016].
62. Trang Phúc Linh (chủ biên) (2004), Lịch sử chủ nghĩa Mác, tập IV, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Đặng Đình Lựu (2008), "Phát triển chế độ chính trị dân chủ và dân chủ trong
Đảng Cộng sản Trung Quốc", Tạp chí Xây dựng Đảng, (7), tr 57- 60.
153
64. Nguyễn Văn Mạnh, Tào Thị Quyên (2010), Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam lý
luận và thực tiễn, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
65. Maridon Tuareno (1996), Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ XXI,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đỗ Mười (1998), Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
68. N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina (2008), Chế độ dân chủ, nhà nước
và xã hội, NXB Tri thức, Hà Nội.
69. Phạm Thành Nam, Đỗ Ngọc Thanh (2005), Phát huy dân chủ trong đấu
tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội.
70. Trần Quang Nhiếp (2006), Dân chủ với phát triển cộng đồng, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội.
71. Nhiều tác giả (2013), Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30
năm đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa, NXB Sự thật, Hà Nội.
73. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực
tiễn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
74. Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường (1992), Xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền, NXB Sự thật, Hà Nội.
75. Ngô Thị Phượng (2015), “Thực hành dân chủ trong Đảng hiện nay”, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, (94).
76. Ngô Thị Phượng, Mẫn Văn Mai (2017), Tập bài giảng dân chủ và dân chủ
hóa đời sống xã hội - Lịch sử và hiện tại (Dùng cho đào tạo sau đại
học), Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].
154
77. Nguyễn Đăng Quang (1992), "Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ", Tạp
chí Thông tin lý luận, (9), tr.12-15.
78. Nguyễn Văn Quang (2012), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính
trị", Tạp chí Xây dựng Đảng,.
79. Phạm Ngọc Quang (2010), Quan điểm, định hướng và giải pháp thực hành
dân chủ, đại đoàn kết dân tộc, đồng thuận xã hội, Đề tài cấp nhà nước,
mã số KX. 04-27/06-10, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
80. Phạm Ngọc Quang (2013), "Tiếp cận dân chủ từ giác độ rộng nhất của khái
niệm", Tạp chí Báo cáo viên, (8), tr.31.
81. Phạm Ngọc Quang (2014), “Một quan niệm mới về dân chủ”, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, (74).
82. Lê Minh Quân (2011), Dân chủ xã hội chủ nghĩa - bản chất của chế độ,
mục tiêu và động lực phát triển đất nước, tại trang http://dangcongsan.vn,
[truy cập ngày 15/6/2016].
83. Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Lê Minh Quân (2012), "Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận cơ
bản", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (10), tr.13-21.
85. Hồ Sĩ Quý (2014), Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển, NXB Lý
luận chính trị, Hà Nội.
86. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2010), Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực
tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Văn Quyết (Chủ nhiệm đề tài) (2015), Nghiên cứu lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin làm sáng tỏ sự tương đồng và khác biệt về dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Báo cáo đề tài tiềm lực năm 2014-
2015, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
155
88. Tô Huy Rứa và các cộng sự (2005), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý
luận của Đảng 1986 - 2005, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
89. Tô Huy Rứa (2005), Ở nước ta, dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển, tại trang
http://dangcongsan.vn, [truy cập ngày 15/6/2016].
90. Đỗ Tiến Sâm (2005), "Trung Quốc với việc thực hiện dân chủ cơ sở ở nông
thôn", Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (3), tr.8-18 .
91. Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Sùng và Vũ Hoàng Công (2002), Các đoàn thể
nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
92. Phan Xuân Sơn (Chủ nhiệm đề tài) (2005), Mở rộng và phát huy dân chủ
trong nội bộ Đảng Cộng sản, vấn đề và giải pháp, Tổng quan khoa
học đề tài cấp Bộ năm 2003-2004, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
93. Phan Xuân Sơn (2011), "Những nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa", Tạp chí Tuyên giáo, (1).
94. O.T.Bogomolov (2012), "Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội", Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (4), tr.3-14
95. Nguyễn Văn Tài (2011), Quan điểm của Đại hội Đảng XI về phát huy dân
chủ, tại trang http://vietnam.vn, [truy cập ngày 12/6/2016].
96. Đỗ Thị Thạch (Chủ nhiệm đề tài) (2015), Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công
cuộc đổi mới đất nước, Báo cáo đề tài trọng điểm năm 2013-2014,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
97. Cao Đức Thái (2014), "Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ của
chúng ta", Tạp chí Báo cáo viên, (11), tr.18-20.
98. Phạm Hồng Thái (2006), "Nhà nước pháp quyền từ nhận thức đến hiện
thực", Tạp chí Quản lý nhà nước, (6).
156
99. Nguyễn Văn Thanh (2003), OrtoAlegre bình minh của một toàn cầu hóa
khác: tiếng nói bè bạn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Phạm Thành (1991), Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, NXB Sự thật,
Hà Nội.
101. Trần Thành (2015), Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch
sử và hiện đại, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
102. Trần Hậu Thành (2000), "Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp
quyền với dân chủ", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (10).
103. Mạch Quang Thắng (1999), Bảo đảm và phát huy dân chủ trong chế độ một
Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
104. Nguyễn Thế Thắng (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
trong Đảng, tại trang http://tutuonghochiminh.vn, [truy cập ngày
2/8/2017].
105. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (2011), Trào lưu xã hội dân chủ ở một số
nước phương Tây hiện đại, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (Chủ biên) (2009), Phản
biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
107. Nguyễn Trọng Thóc (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Thomas Meyer, Nicole Breyer (2007), Tương lai của nền dân chủ xã hội,
NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
109. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Đảng Cộng sản Trung Quốc với vấn đề cải
cách dân chủ, Thông tấn xã Việt Nam.
110. Cao Văn Thống (sưu tầm và biên soạn) (2014), Nguyên tắc tập trung dân
chủ trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
157
111. Lê Văn Toan, Nguyễn Viết Thảo (2013), Thể chế chính trị - Một số kinh
nghiệm của thế giới, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
112. Lô Quốc Toản (Chủ biên) (2017), Giáo trình lý luận về dân chủ (dành cho
chương trình đại học chính trị), NXB Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
113. Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Nguyễn Thanh Tuấn (1999), "Những quan điểm cơ bản của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa", Kỷ yếu đề tài
tiềm lực, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
115. Trương Minh Tuấn (2012), "Dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XI của Đảng", Tạp chí Triết
học, (1), tr.3-8
116. Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên) (2018), Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Nguyễn Xuân Tùng (2011), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam, tại trang
http://moj.gov.vn, [truy cập ngày 20/10/207].
118. Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (Chủ biên) (2009), Xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
119. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 11, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
120. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 30, NXB b Tiến bộ, Mátxcơva.
121. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 31, NXB Tiến bộ, Mátxcơva .
122. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 32, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
123. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
158
124. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 35, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
125. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, NXBTiến bộ, Mátxcơva
126. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
127. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
128. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
129. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, NXB Tiến bộ Mátxcơva
130. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
131. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
132. V.I.Lênin (2003), Bàn về dân chủ trong quản lý xã hội, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
133. Vũ Văn Viên (2005), "Nhà nước pháp quyền - công cụ để thực hiện dân
chủ", Tạp chí Triết học, (11), tr.35-39.
134. Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (2014), Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB Lý luận Chính
trị, Hà Nội.
135. Viện Quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử (2014), Dân chủ trực tiếp: sổ tay
IDEA quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
136. Viện Triết học Viện Hàn lâm khoa học Nga (Hội thảo bàn tròn) (2009),
Dân chủ: Giá trị phổ quát và những kinh nghiệm lịch sử, tại trang
http://www.vanhoanghean.com.vn, [truy cập nhật ngày 18/11/2009].
137. Đức Vượng (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
138. Nguyễn Viết Vượng (chủ biên) (2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ trong sự nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam hiện
nay, NXB Lao động, Hà Nội.
139. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.