phÂn tÍch bai thƠ : ngƯỜi lÁi ĐÒ sÔng ĐÀ mau 12… · web viewphÂn tÍch bai thƠ :...

91
PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ Trong những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò song Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáocủa ông. Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn, là đến với sự tìm tòi và sáng tạo. Bởi vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và

Upload: others

Post on 23-Jun-2020

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Trong những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò song Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáocủa ông.

Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn, là đến với sự tìm tòi và sáng tạo. Bởi vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểunhững điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàngmười của màu sắc song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…

Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước sông Đà reonhư đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết

Page 2: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Miêu tả con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiệntrong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”… Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trongcuộc chiến đấu “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…

Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù , vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũngthế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo….

… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.

Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Và trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục. Ông bao giờ cũng đứng trên

Page 3: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải qui hàng. “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn viôlông. “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn là những Huấn Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng mộtthời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng sau cách mạng, Nguyễn đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi. Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả đời gắn bó với công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến đấu với tử thần bằngcây sào bé nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng ông chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh diện thiêng liêng. Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động. “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim táo tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi lao xuống “đáy hút sông Đà” để quay phim… Tất cả những gì nhà văn viết ra, những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên đều như được dựng lại trước người đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta như đang đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.

Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học… Cuộc chiến đấu giữa người lái với thạch trận sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì: “Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào

Page 4: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta quan cảnh một cuộc hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.

Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm. Với Người lái đò sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được tác giả nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La,Hát Loóng… Tất cả, tất cả chứng tỏ sựhiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết về sông Đà…

Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú. Mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc những dòng viết về con sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước giọng văn êm ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân.

Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động trong tácphẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.

Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của

Page 5: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác…

ĐỀ:PHÂN TÍCH ĐOAN THƠ SAU TRONG BÀI ĐẤT NƯỚC CỦA NKĐ: "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi ..................................................... Làm nên đất nước muôn đời"-

BÀI LÀM: Được hoàn thành năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

- Trường ca MĐKV gồm 9 chương, trong đó nhà thơ dành riêng một chương V để nói về "Đất nước". Đoạn trích "Đất nước" trong SGK là trích trong phần đầu chương V, là đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

+ Khác với nhiều tác giả đi trước và một số cây bút cùng thế hệ, thường lấy yếu tố lịch sử của các triều đại để chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc hay dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính biểu tượng để thể hiện cảm nhận của mình về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm thì khác, ông lại lại bắt đầu từ những yếu tố văn hóa gần gũi, giản dị. thân thiết để dựng nên hình ảnh đất nước Việt Nam.

Chín câu thơ đầu mở ra một không gian thời gian không hạn định nhưng đậm đà văn hóa dân tộc.

"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xua... Mẹ thường hay kể.

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Page 6: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng

Đất nước có từ ngày đó..."

Bằng giọng thơ ngọt ngào, thủ thỉ như lời bà lời mẹ tâm tình, cùng với sự am hiểu vốn văn hóa dân gian sâu sắc cùng với việc sử dụng chất liệu dân gian như mượn thành ngữ, ca dao, tục ngữ dân gian để lí giải nguồn gốc đất nước bằng chính những gì bình dị và gần gũi nhất. Đây là một kiểu lí giải đặc biệt làm nên cái hay của chương thơ Đất Nước. NKĐ nhẹ nhàng ghi vào lòng ta đưa ta trở về với một miền ấu thơ để được nghe bà nghe mẹ kể những câu chuyện cổ tích, thần thoại mà câu chuyện nào cũng đẹp, cũng giàu chất thơ. Không chỉ thế nhà thơ còn đưa ta về với những phong tục văn hóa đẹp tươi như tục nhuộm răng đen, tục ăn trầu của người Việt cổ mà bây giờ ta lại bắt gặp qua miếng trầu dung dị bà ăn hằng ngày, đó là tục bới tóc sau đầu tạo nên nét duyên Việt thuần hậu, chất phác giàu nữ tính của người phụ nữ, tục làm nhà kèo cột để chống đỡ thiên tai. Và đâu chỉ có phong tục, đất nước còn đẹp hơn bởi truyền thống, đó là truyền thống đánh giặc cứu nước qua hình ảnh Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc của chàng trai Phù Đổng tục gọi là Gióng. Truyền thống ấy qua bao nhiêu thế hệ vẫn cháy rực cho tới tận bây giờ. Đất nước còn đẹp bởi truyền thống ân nghĩa thủy chung - cội nguồn, gốc rễ của đạo lí dân tộc qua tình yêu của mẹ của cha "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" . Đó còn là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó qua câu thơ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng . Để làm nên hạt gạo trắng, dẻo, thơm mà ta ăn hằng ngày, ai biết được người nông dân đã phải trải qua bao khó khăn vất vả "một nắng hai sương", trải qua nhiều công đoạn " xay giã dần sàng" mới cho ra thành quả. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ tới công ơn của người đã làm ra nó " Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".

Chốt lại đoạn thơ mở đầu,NKĐ nhẹ nhàng ghi khắc vào lòng ta: 'Đất nước có từ ngày đó..."Ngày đó là ngày nào? Xin thưa ngày đó là ngày đất nước ta có phong tục, truyền thống, có văn hóa. Mà có văn hóa nghĩa là ta có Đất

Page 7: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nước.

Đất Nước không chỉ có chiều sâu văn hóa, Đất Nước còn được NKĐ cảm nhận bởi chiều rộng của không gian địa lý và thời gian lịch sử.

Nhà thơ NKĐ đã rất sáng tạo khi tách Đất Nước thành hai thành tố " Đất" và "Nước" để có dịp định nghĩa một cách hoàn chỉnh nhất về đất nước. Trong không gian địa lý bao la, tất cả đều trở nên gần gũi thiêng liêng. Gần gũi và thân thương như con đường rợp bóng hàng cây mà hằng ngày anh đi học, gần gũi như dòng nước trong xanh, mát lành nơi em tắm, gần gũi như cây đa, giếng nước, mái đình nơi ta hò hẹn:

" Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm..."

Đất _ Nước, một yếu tố thuộc âm, một yếu tố thuộc dương, có khi tách đôi có khi hòa hợp. Nhất là khi hai đứa hẹn hò, ĐN cũng trở nên thân thương gần gũi, đất nước nồng thắm trong cả anh và em, đất nước cũng là chứng nhân cho tình yêu của hai đứa. Câu thơ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm... làm ta nhớ đến câu ca dao "Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất/ Khăn thương nhớ ai khăn vắt lên vai/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn chùi nước mắt". Vâng, khi hai đứa yêu nhau thì tất cả mọi thứ đều đẹp, chiếc khăn quàng bỗng trở nên có duyên thầm của người con gái, cả đất nước như cùng sống trong tình yêu ngọt ngào, sống trong "nỗi nhớ thầm" của anh và em.

Đất nước là rừng vàng biển bạc, bao la từ Bắc chí Nam, là "nơi dân mình đoàn tụ", ĐN ngọt ngào như câu hò điệu hát:

"Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"

Về lịch sử, Đất Nước được cảm nhận bằng chiều sâu của "Thời gian đằng đẵng". NKĐ đưa ta trở về với khởi thủy cội nguồn dân tộc, dòng giống con

Page 8: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

người VN bằng truyền thuyết "Lạc Long Quân và Âu Cơ / Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng" lập ra triều đại đầu tiên của dân tộc đó là Vua Hùng (tục truyền tới 18 đời). Bởi vậy nhà thơ luôn nhắc nhở mọi người phải nhớ về cội nguồn dân tộc, phải biết gánh vác sứ mệnh đất nước " Gánh vác phần người đi trước để lại", duy trì giống nòi dân tộc " Yêu nhau và sinh con đẻ cái" và nhất là phải nhớ đến ngày giỗ Tổ vào ngày 10.3 âm lịch hằng năm " Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Đó chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn, một đạo lí bất di bất dịch của dân tộc.

"ĐN hiện diện và kết tinh trong mỗi con người, trong anh và em:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất nước trong ta hài hòa nồng thắm

Khi hai đứa cầm tay mọi người

Đất nước trong ta vẹn tròn to lớn"

Đất nước là của anh và em và cũng là của tất cả mọi người. Anh và em là hai tế bào trong hàng triệu triệu tế bào góp mình dựng xây đất nước. Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.

Cầm tay là một biểu tượng của tình yêu, của tình đoàn kết dân tộc. "Khi hai đứa cầm tay", tình yêu trong anh và em làm cho đất nước bỗng "hài hòa nồng thắm''. Nhưng khi hai đứa hòa mình vào mọi người, hòa cái riêng vào cái chung của cộng đồng thì đất nước "vẹn tròn to lớn". Tinh thần đoàn kết của khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng được nhân đôi nối thành một vòng Việt Nam rộng lớn và vĩnh cửu không gì có thể phá vỡ nổi.

Bốn câu thơ cuối đoạn như một lời nhắn nhủ thân tình:

Page 9: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

"Em ơi em đất nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời"

Từ sự cảm nhận nói trên về Đất nước, tác giả bày tỏ thái độ đầy trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc gìn giữ, xây dựng cho đất nước bền vũng muôn đời: "Đất nước là máu xương mình", là sinh mệnh của mình. Vận mệnh của đất nước chính là vận mệnh của chính bản thân mình. Số phận của cá nhân nằm trong vận mệnh của ĐN, bởi vậy nhà thơ đã hai lần nhấn mạnh điệp ngữ "Phải biết": gắn bó và san sẻ nghĩa là đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau, bảo vệ đất nước dân tộc. "Hóa thân" chính là sự cống hiến, sự hiến dâng tuyệt đối tinh thần và công sức, tuổi trẻ của mình vì sự phát triển đi lên của dân tộc. Đối với người học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường thì chúng ta phải biết siêng năng, chăm chỉ học tập để đắp xây một tương lai sáng lạng góp phần công sức của mình vào sự nghiệp chung của đất nước, có như vậy thì ĐN mới vĩnh cửu đến muôn đời.

ĐỀ:PHÂN TÍCH ĐOAN THƠ SAU TRONG BÀI ĐẤT NƯỚC CỦA NKĐ: "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi ..................................................... Làm nên đất nước muôn đời"-

BÀI LÀM: Được hoàn thành năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

- Trường ca MĐKV gồm 9 chương, trong đó nhà thơ dành riêng một chương V để nói về "Đất nước". Đoạn trích "Đất nước" trong SGK là trích trong phần đầu chương V, là đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

+ Khác với nhiều tác giả đi trước và một số cây bút cùng thế hệ, thường lấy

Page 10: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

yếu tố lịch sử của các triều đại để chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc hay dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính biểu tượng để thể hiện cảm nhận của mình về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm thì khác, ông lại lại bắt đầu từ những yếu tố văn hóa gần gũi, giản dị. thân thiết để dựng nên hình ảnh đất nước Việt Nam.

Chín câu thơ đầu mở ra một không gian thời gian không hạn định nhưng đậm đà văn hóa dân tộc.

"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xua... Mẹ thường hay kể.

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng

Đất nước có từ ngày đó..."

Bằng giọng thơ ngọt ngào, thủ thỉ như lời bà lời mẹ tâm tình, cùng với sự am hiểu vốn văn hóa dân gian sâu sắc cùng với việc sử dụng chất liệu dân gian như mượn thành ngữ, ca dao, tục ngữ dân gian để lí giải nguồn gốc đất nước bằng chính những gì bình dị và gần gũi nhất. Đây là một kiểu lí giải đặc biệt làm nên cái hay của chương thơ Đất Nước. NKĐ nhẹ nhàng ghi vào lòng ta đưa ta trở về với một miền ấu thơ để được nghe bà nghe mẹ kể những câu chuyện cổ tích, thần thoại mà câu chuyện nào cũng đẹp, cũng giàu chất thơ. Không chỉ thế nhà thơ còn đưa ta về với những phong tục văn hóa đẹp tươi như tục nhuộm răng đen, tục ăn trầu của người Việt cổ mà bây giờ ta lại bắt gặp qua miếng trầu dung dị bà ăn hằng ngày, đó là tục bới tóc sau đầu tạo nên nét duyên Việt thuần hậu, chất phác giàu nữ tính của người phụ nữ, tục làm nhà kèo cột để chống đỡ thiên tai. Và đâu chỉ có phong tục,

Page 11: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

đất nước còn đẹp hơn bởi truyền thống, đó là truyền thống đánh giặc cứu nước qua hình ảnh Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc của chàng trai Phù Đổng tục gọi là Gióng. Truyền thống ấy qua bao nhiêu thế hệ vẫn cháy rực cho tới tận bây giờ. Đất nước còn đẹp bởi truyền thống ân nghĩa thủy chung - cội nguồn, gốc rễ của đạo lí dân tộc qua tình yêu của mẹ của cha "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" . Đó còn là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó qua câu thơ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng . Để làm nên hạt gạo trắng, dẻo, thơm mà ta ăn hằng ngày, ai biết được người nông dân đã phải trải qua bao khó khăn vất vả "một nắng hai sương", trải qua nhiều công đoạn " xay giã dần sàng" mới cho ra thành quả. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ tới công ơn của người đã làm ra nó " Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".

Chốt lại đoạn thơ mở đầu,NKĐ nhẹ nhàng ghi khắc vào lòng ta: 'Đất nước có từ ngày đó..."Ngày đó là ngày nào? Xin thưa ngày đó là ngày đất nước ta có phong tục, truyền thống, có văn hóa. Mà có văn hóa nghĩa là ta có Đất Nước.

Đất Nước không chỉ có chiều sâu văn hóa, Đất Nước còn được NKĐ cảm nhận bởi chiều rộng của không gian địa lý và thời gian lịch sử.

Nhà thơ NKĐ đã rất sáng tạo khi tách Đất Nước thành hai thành tố " Đất" và "Nước" để có dịp định nghĩa một cách hoàn chỉnh nhất về đất nước. Trong không gian địa lý bao la, tất cả đều trở nên gần gũi thiêng liêng. Gần gũi và thân thương như con đường rợp bóng hàng cây mà hằng ngày anh đi học, gần gũi như dòng nước trong xanh, mát lành nơi em tắm, gần gũi như cây đa, giếng nước, mái đình nơi ta hò hẹn:

" Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm..."

Đất _ Nước, một yếu tố thuộc âm, một yếu tố thuộc dương, có khi tách đôi có khi hòa hợp. Nhất là khi hai đứa hẹn hò, ĐN cũng trở nên thân thương gần gũi, đất nước nồng thắm trong cả anh và em, đất nước cũng là chứng

Page 12: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

nhân cho tình yêu của hai đứa. Câu thơ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm... làm ta nhớ đến câu ca dao "Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất/ Khăn thương nhớ ai khăn vắt lên vai/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn chùi nước mắt". Vâng, khi hai đứa yêu nhau thì tất cả mọi thứ đều đẹp, chiếc khăn quàng bỗng trở nên có duyên thầm của người con gái, cả đất nước như cùng sống trong tình yêu ngọt ngào, sống trong "nỗi nhớ thầm" của anh và em.

Đất nước là rừng vàng biển bạc, bao la từ Bắc chí Nam, là "nơi dân mình đoàn tụ", ĐN ngọt ngào như câu hò điệu hát:

"Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"

Về lịch sử, Đất Nước được cảm nhận bằng chiều sâu của "Thời gian đằng đẵng". NKĐ đưa ta trở về với khởi thủy cội nguồn dân tộc, dòng giống con người VN bằng truyền thuyết "Lạc Long Quân và Âu Cơ / Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng" lập ra triều đại đầu tiên của dân tộc đó là Vua Hùng (tục truyền tới 18 đời). Bởi vậy nhà thơ luôn nhắc nhở mọi người phải nhớ về cội nguồn dân tộc, phải biết gánh vác sứ mệnh đất nước " Gánh vác phần người đi trước để lại", duy trì giống nòi dân tộc " Yêu nhau và sinh con đẻ cái" và nhất là phải nhớ đến ngày giỗ Tổ vào ngày 10.3 âm lịch hằng năm " Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Đó chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn, một đạo lí bất di bất dịch của dân tộc.

"ĐN hiện diện và kết tinh trong mỗi con người, trong anh và em:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất nước trong ta hài hòa nồng thắm

Khi hai đứa cầm tay mọi người

Đất nước trong ta vẹn tròn to lớn"

Page 13: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Đất nước là của anh và em và cũng là của tất cả mọi người. Anh và em là hai tế bào trong hàng triệu triệu tế bào góp mình dựng xây đất nước. Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.

Cầm tay là một biểu tượng của tình yêu, của tình đoàn kết dân tộc. "Khi hai đứa cầm tay", tình yêu trong anh và em làm cho đất nước bỗng "hài hòa nồng thắm''. Nhưng khi hai đứa hòa mình vào mọi người, hòa cái riêng vào cái chung của cộng đồng thì đất nước "vẹn tròn to lớn". Tinh thần đoàn kết của khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng được nhân đôi nối thành một vòng Việt Nam rộng lớn và vĩnh cửu không gì có thể phá vỡ nổi.

Bốn câu thơ cuối đoạn như một lời nhắn nhủ thân tình:

"Em ơi em đất nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời"

Từ sự cảm nhận nói trên về Đất nước, tác giả bày tỏ thái độ đầy trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc gìn giữ, xây dựng cho đất nước bền vũng muôn đời: "Đất nước là máu xương mình", là sinh mệnh của mình. Vận mệnh của đất nước chính là vận mệnh của chính bản thân mình. Số phận của cá nhân nằm trong vận mệnh của ĐN, bởi vậy nhà thơ đã hai lần nhấn mạnh điệp ngữ "Phải biết": gắn bó và san sẻ nghĩa là đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau, bảo vệ đất nước dân tộc. "Hóa thân" chính là sự cống hiến, sự hiến dâng tuyệt đối tinh thần và công sức, tuổi trẻ của mình vì sự phát triển đi lên của dân tộc. Đối với người học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường thì chúng ta phải biết siêng năng, chăm chỉ học tập để đắp xây một tương lai sáng lạng góp phần công sức của mình vào sự nghiệp chung của đất nước, có như vậy thì ĐN mới vĩnh cửu đến muôn đời.

Page 14: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

ĐỀ:PHÂN TÍCH ĐOAN THƠ SAU TRONG BÀI ĐẤT NƯỚC CỦA NKĐ: "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi ..................................................... Làm nên đất nước muôn đời"-

BÀI LÀM: Được hoàn thành năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

- Trường ca MĐKV gồm 9 chương, trong đó nhà thơ dành riêng một chương V để nói về "Đất nước". Đoạn trích "Đất nước" trong SGK là trích trong phần đầu chương V, là đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

+ Khác với nhiều tác giả đi trước và một số cây bút cùng thế hệ, thường lấy yếu tố lịch sử của các triều đại để chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc hay dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính biểu tượng để thể hiện cảm nhận của mình về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm thì khác, ông lại lại bắt đầu từ những yếu tố văn hóa gần gũi, giản dị. thân thiết để dựng nên hình ảnh đất nước Việt Nam.

Chín câu thơ đầu mở ra một không gian thời gian không hạn định nhưng đậm đà văn hóa dân tộc.

"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xua... Mẹ thường hay kể.

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Page 15: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng

Đất nước có từ ngày đó..."

Bằng giọng thơ ngọt ngào, thủ thỉ như lời bà lời mẹ tâm tình, cùng với sự am hiểu vốn văn hóa dân gian sâu sắc cùng với việc sử dụng chất liệu dân gian như mượn thành ngữ, ca dao, tục ngữ dân gian để lí giải nguồn gốc đất nước bằng chính những gì bình dị và gần gũi nhất. Đây là một kiểu lí giải đặc biệt làm nên cái hay của chương thơ Đất Nước. NKĐ nhẹ nhàng ghi vào lòng ta đưa ta trở về với một miền ấu thơ để được nghe bà nghe mẹ kể những câu chuyện cổ tích, thần thoại mà câu chuyện nào cũng đẹp, cũng giàu chất thơ. Không chỉ thế nhà thơ còn đưa ta về với những phong tục văn hóa đẹp tươi như tục nhuộm răng đen, tục ăn trầu của người Việt cổ mà bây giờ ta lại bắt gặp qua miếng trầu dung dị bà ăn hằng ngày, đó là tục bới tóc sau đầu tạo nên nét duyên Việt thuần hậu, chất phác giàu nữ tính của người phụ nữ, tục làm nhà kèo cột để chống đỡ thiên tai. Và đâu chỉ có phong tục, đất nước còn đẹp hơn bởi truyền thống, đó là truyền thống đánh giặc cứu nước qua hình ảnh Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc của chàng trai Phù Đổng tục gọi là Gióng. Truyền thống ấy qua bao nhiêu thế hệ vẫn cháy rực cho tới tận bây giờ. Đất nước còn đẹp bởi truyền thống ân nghĩa thủy chung - cội nguồn, gốc rễ của đạo lí dân tộc qua tình yêu của mẹ của cha "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" . Đó còn là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó qua câu thơ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng . Để làm nên hạt gạo trắng, dẻo, thơm mà ta ăn hằng ngày, ai biết được người nông dân đã phải trải qua bao khó khăn vất vả "một nắng hai sương", trải qua nhiều công đoạn " xay giã dần sàng" mới cho ra thành quả. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ tới công ơn của người đã làm ra nó " Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".

Chốt lại đoạn thơ mở đầu,NKĐ nhẹ nhàng ghi khắc vào lòng ta: 'Đất nước có từ ngày đó..."Ngày đó là ngày nào? Xin thưa ngày đó là ngày đất nước ta có phong tục, truyền thống, có văn hóa. Mà có văn hóa nghĩa là ta có Đất Nước.

Đất Nước không chỉ có chiều sâu văn hóa, Đất Nước còn được NKĐ cảm nhận bởi chiều rộng của không gian địa lý và thời gian lịch sử.

Page 16: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nhà thơ NKĐ đã rất sáng tạo khi tách Đất Nước thành hai thành tố " Đất" và "Nước" để có dịp định nghĩa một cách hoàn chỉnh nhất về đất nước. Trong không gian địa lý bao la, tất cả đều trở nên gần gũi thiêng liêng. Gần gũi và thân thương như con đường rợp bóng hàng cây mà hằng ngày anh đi học, gần gũi như dòng nước trong xanh, mát lành nơi em tắm, gần gũi như cây đa, giếng nước, mái đình nơi ta hò hẹn:

" Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm..."

Đất _ Nước, một yếu tố thuộc âm, một yếu tố thuộc dương, có khi tách đôi có khi hòa hợp. Nhất là khi hai đứa hẹn hò, ĐN cũng trở nên thân thương gần gũi, đất nước nồng thắm trong cả anh và em, đất nước cũng là chứng nhân cho tình yêu của hai đứa. Câu thơ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm... làm ta nhớ đến câu ca dao "Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất/ Khăn thương nhớ ai khăn vắt lên vai/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn chùi nước mắt". Vâng, khi hai đứa yêu nhau thì tất cả mọi thứ đều đẹp, chiếc khăn quàng bỗng trở nên có duyên thầm của người con gái, cả đất nước như cùng sống trong tình yêu ngọt ngào, sống trong "nỗi nhớ thầm" của anh và em.

Đất nước là rừng vàng biển bạc, bao la từ Bắc chí Nam, là "nơi dân mình đoàn tụ", ĐN ngọt ngào như câu hò điệu hát:

"Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"

Về lịch sử, Đất Nước được cảm nhận bằng chiều sâu của "Thời gian đằng đẵng". NKĐ đưa ta trở về với khởi thủy cội nguồn dân tộc, dòng giống con người VN bằng truyền thuyết "Lạc Long Quân và Âu Cơ / Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng" lập ra triều đại đầu tiên của dân tộc đó là Vua Hùng (tục truyền tới 18 đời). Bởi vậy nhà thơ luôn nhắc nhở mọi người phải nhớ về cội nguồn dân tộc, phải biết gánh vác sứ mệnh đất nước " Gánh vác phần người đi trước để lại", duy trì giống nòi dân tộc " Yêu nhau và sinh con đẻ cái" và

Page 17: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

nhất là phải nhớ đến ngày giỗ Tổ vào ngày 10.3 âm lịch hằng năm " Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Đó chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn, một đạo lí bất di bất dịch của dân tộc.

"ĐN hiện diện và kết tinh trong mỗi con người, trong anh và em:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất nước trong ta hài hòa nồng thắm

Khi hai đứa cầm tay mọi người

Đất nước trong ta vẹn tròn to lớn"

Đất nước là của anh và em và cũng là của tất cả mọi người. Anh và em là hai tế bào trong hàng triệu triệu tế bào góp mình dựng xây đất nước. Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.

Cầm tay là một biểu tượng của tình yêu, của tình đoàn kết dân tộc. "Khi hai đứa cầm tay", tình yêu trong anh và em làm cho đất nước bỗng "hài hòa nồng thắm''. Nhưng khi hai đứa hòa mình vào mọi người, hòa cái riêng vào cái chung của cộng đồng thì đất nước "vẹn tròn to lớn". Tinh thần đoàn kết của khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng được nhân đôi nối thành một vòng Việt Nam rộng lớn và vĩnh cửu không gì có thể phá vỡ nổi.

Bốn câu thơ cuối đoạn như một lời nhắn nhủ thân tình:

"Em ơi em đất nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Page 18: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Làm nên đất nước muôn đời"

Từ sự cảm nhận nói trên về Đất nước, tác giả bày tỏ thái độ đầy trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc gìn giữ, xây dựng cho đất nước bền vũng muôn đời: "Đất nước là máu xương mình", là sinh mệnh của mình. Vận mệnh của đất nước chính là vận mệnh của chính bản thân mình. Số phận của cá nhân nằm trong vận mệnh của ĐN, bởi vậy nhà thơ đã hai lần nhấn mạnh điệp ngữ "Phải biết": gắn bó và san sẻ nghĩa là đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau, bảo vệ đất nước dân tộc. "Hóa thân" chính là sự cống hiến, sự hiến dâng tuyệt đối tinh thần và công sức, tuổi trẻ của mình vì sự phát triển đi lên của dân tộc. Đối với người học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường thì chúng ta phải biết siêng năng, chăm chỉ học tập để đắp xây một tương lai sáng lạng góp phần công sức của mình vào sự nghiệp chung của đất nước, có như vậy thì ĐN mới vĩnh cửu đến muôn đời.

Bài tham khảo về "Người lái đò sông đà" của NTuân.

Bài 1: "Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.Khi lòng ta đã hóa những con tàuKhi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu."(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Trong những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò song Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáocủa ông.

Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn, là đến với sự tìm tòi và sáng tạo. Bởi vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”.

Page 19: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểunhững điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…

Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Miêu tả con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”… Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc

Page 20: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

chiến đấu “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…

Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù , vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo….

… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.

Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Và trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục. Ông bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải qui hàng. “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước

Page 21: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn viôlông. “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn là những Huấn Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng sau cách mạng, Nguyễn đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi. Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả đời gắn bó với công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến đấu với tử thần bằng cây sào bé nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng ông chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh diện thiêng liêng. Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động. “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim táo tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi lao xuống “đáy hút sông Đà” để quay phim… Tất cả những gì nhà văn viết ra, những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên đều như được dựng lại trước người đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta như đang đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.

Page 22: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học… Cuộc chiến đấu giữa người lái với thạch trận sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì: “Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta quan cảnh một cuộc hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.

Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm. Với Người lái đò sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được tác giả nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La,Hát Loóng… Tất cả, tất cả chứng tỏ sựhiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết về sông Đà…

Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú. Mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc những dòng viết về con sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước giọng văn êm ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân.

Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình

Page 23: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.

Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác

Bài 2: Cái nhan đề Người lái đò sông Đà ùa vào ta một liên tưởng kép: Nguyễn Tuân xưng tụng ông lái đò tài hoa trí dũng trên dòng sông thiên nhiên bạo liệt, còn ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông lái bậc thầy con thuyền chữ trên một dải sông văn không kém thác ghềnh. Bài ca lao động và bài ca ngôn từ song hành trong một áng kí lạ. Thì chính Nguyễn Tuân đã hạ bút ngay từ khúc dạo đầu: “Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu” (Mọi con sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà ngược bắc). Câu đề từ của Nguyễn Tuân vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà, vừa tóm luôn cái thần chữ của mình. Một mặt bắc lưu là sự cưỡng lại đông tẩu, cái riêng độc đáo là sự cưỡng lại sức xói mòn của cái chung nhàm cũ. Mặt khác, bắc lưu chỉ tồn tại trước đông tẩu, cái riêng độc đáo chỉ tồn tại trước cái chung khi nó đồng nghĩa với cái cao hơn sự khác lạ là cái sáng tạo (tức là cái độc đáo phải trở thành cái riêng mang giá trị). Phi giá trị, cái riêng hóa trò chơi duy mĩ. Đó là nguyên tắc của phép lạ hóa văn chương, để vừa

Page 24: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

chối bỏ sự nhàm lặp của cái chung, vừa hội nhập với cái chung mang giá trị văn chương bền vững. Còn nguyên tắc riêng của phép lạ hóa ngôn ngữ Nguyễn Tuân? Trong kho từ vị Việt, ngôn ngữ mang bản tính nguyên thủy của một vật liệu tĩnh, lạnh, khá ổn định. Tài năng nghệ sĩ là biết vung cây gậy thần biến nó thành chất liệu động và nóng, phập phồng sự sống. Nổi trội trong các tài năng, văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng giẫy sự sống. Có thể coi bài kí sông Đà này là cuộc thí nghiệm tâm đắc của ngôn ngữ nóng Nguyễn Tuân.Đầu tiên, sức nóng ngôn ngữ Nguyễn Tuân cũng tìm được một đối tượng “nóng”: sông Đà. Con sông độc lạ ấy thật thích hợp với một ngòi bút độc lạ. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy, tưới linh hồn vào nó, và ông khai sinh dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đủ in luôn tính nết vào đó: “hung bạo và trữ tình”. Nếu chỉ có một vế, con sông sẽ lười nhác trong đơn giản. Tính cách sông Đà phải là một hệ thống những phẩm chất đối chọi nhau như nước với lửa, và phải từ những nghịch lí nghịch âm ấy, con sông mới có điều kiện phô bày hết vẻ phức tạp phong phú, đầy hấp dẫn của smình.Đầu tiên là con thác – tâm điểm dữ dội của sông Đà. Nước dữ, đã đành. Đá cũng dữ. Đúng ra là do đá dữ mà nước dữ. Vậy thì cần phải dựng đá dậy cho lộ bản chất của nó ra. Và Nguyễn Tuân hạ một so sánh đắc địa: “Một hòn (đá) ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Trong công thức A = B của so sánh, cái độc lạ của Nguyễn Tuân chủ yếu tỏa sắc ở vế B. Trong câu văn trên, ông chêm động từ hất hàm vào B để mang đến cho nó một năng lượng sống, đủ khả năng truyền hồn vào đá vô tri, rọi một cái nhìn đậm tính điêu khắc vào thói du côn của thiên nhiên man dại. Nhưng gây cảm giác “chết người” nhất là cái hút nước. Nguyễn Tuân tả hình ảnh những cái thuyền bị dòng sông nuốt vào bụng, gợi cảm giác lạnh người: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Người ta nói văn Nguyễn Tuân là thứ văn ham cảm giác mạnh, có lẽ vì thế mà cái hút nước hiểm nguy kia trở thành một đam mê dưới ngòi bút của ông. Ông

Page 25: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

tiếp tục gây áp lực lên hệ thần kinh người đọc bằng cách bắt họ phải tự “chiêm nghiệm” cái cảm giác lạ lùng này: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà, – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đành phèn”. Hình ảnh những cái thuyền bị cái hút nước nuốt chửng, hình ảnh cái hút nước như một cái giếng xây bằng nước sông đang xoay tít… tạo nên ở người đọc một cảm giác hình hết sức mạnh mẽ. Họ bị đặt vào trong cuộc, và cảm thấy bối rối vì khó bứt thoát khỏi những ám ảnh đầy ma lực mà ngôn từ Nguyễn Tuân truyền tới họ. Và đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc là một sông Đà được nhìn như một hung thần, gây cảm giác hãi hùng về cuộc quyết đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra nơi đây hàng bao thế kỉ.Cảm giác hình gắn với cảm giác âm nên ám ảnh của văn Nguyễn Tuân càng mạnh. Ở đây, người đọc lại hứng khởi nhận ra một đặc điểm khác của văn Nguyễn Tuân: những câu văn của ông thường liên kết trong một tính liên hoàn giàu giá trị thẩm mĩ, có khả năng thôi miên người đọc trong một chuỗi dây chuyền liên tưởng ngỡ như vô tận. Tả cái thác nước, Nguyễn Tuân viết: “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Đúng là một cảnh tượng man rợ như thời tiền sử. Để dò hết năng lượng thẩm mĩ của câu văn, liên tưởng của người đọc phải nối nhau trong cơ chế ba chặng: tiếng thác (rống) – tiếng trâu mộng

Page 26: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

(lồng lộn) – tiếng rừng lửa (gầm thét). Liên tưởng của Nguyễn Tuân rất lạ: âm thanh thác được động vật hóa thành tiếng gầm “trâu mộng”, nhưng cao tay nhất là lấy thác (thủy) so sánh với lửa (hỏa) gây một bất ngờ thẩm mĩ. Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua miêu tả của Nguyễn Tuân, cứ như một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Nguyễn Tuân còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hai chữ “ặc ặc” mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.Mặt thứ hai của sông Đà là trữ tình. Để lột tả đặc tính này của sông Đà, Nguyễn Tuân rất tâm đắc với những so sánh. Mỗi so sánh chứa đựng một góc nhìn độc đáo, đầy tính phát hiện của nhà văn trước đối tượng thẩm mĩ của mình. Sông Đà như loài thủy quái với những nanh vuốt nơi mặt ghềnh, hút nước và thạch trận dữ hiểm, được nhà văn ví như “kẻ thù số một” của con người. Song những so sánh đam mê nhất của Nguyễn Tuân là dành cho một Đà giang trữ tình: “Cái dây thừng ngoằn ngoèo” dưới chân người ngồi trên tàu bay nhìn xuống, cái “áng tóc trữ tình (…) ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”; rồi lại “như một cố nhân” trong nỗi niềm du khách, như “cái miếng sáng lóe lên” trong trò chiếu gương con trẻ, như “một bờ tiền sử”, như “một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”… Những so sánh biến hóa không trùng lặp, luôn gây men bằng những đột ngột, người đọc sửng sốt vì những so sánh lạ lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn, đúng hơn, và cứ thế bị thôi miên vào mê hồn trận của những so sánh ăm ắp tràn bờ…Vẻ đẹp ngôn ngữ Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho. Nhà văn phải lao động cật lực, trong đó có khổ công quan sát. Liệu đã mấy ai đủ công phu quan sát những biến đổi tinh vi đến thế của sông Đà, với mùa xuân thì “dòng xanh ngọc bích” mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ”, giữa hai mùa ấy là cái “màu nắng tháng ba Đường thi”… Sông Đà giàu ám ảnh trở thành nỗi nhớ thật da diết của con người.Một sông Đà góc cạnh như thế ắt cần một đối tượng giao tiếp tương xứng cỡ ông lái đò. Hình như Nguyễn Tuân tô đậm sức hấp dẫn của sông Đà là để

Page 27: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

ngầm đề cao chính ông lái đó tài ba, nghệ sĩ này chăng. Để tiếp ông khách không vừa này, sông Đà “bày thạch trận trên sông” với một thế trận bài bản theo kiểu binh pháp Tôn Tử: nào là cửa tử, cửa sinh, đánh vu hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà… Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Ông lái đò thì nhỏ bé nhưng lại sừng sững hiện lên như một viên tướng trí dũng song toàn trước con thủy quái khổng lồ kia, với tư thế của kẻ đã nắm chắc “binh pháp của thần sông thần đá”. Để miêu ta cuộc giao tranh giữa người và thác dữ, Nguyễn Tuân có ngón chơi động từ độc đáo. Trong dăm trang kí, ông tốc tới ngót 300 động từ để đủ sức ganh tài cùng con nước cuồng nộ Đà giang và trí lực ông lái phi thường. Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường đoạn hỗn chiến giữa người và sông nước, khiến người đọc nghẹt thở. Cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ sông Đà: “rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp chặt… Phía ông lái, động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: nắm chặt, ghì cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, chọc thủng… Hai hệ thống động từ đối chọi, tương phản gay gắt, nhưng đọc kĩ, vẫn thấy nổi lên thế chủ động, thế lấn lướt của ông lái đò. Hãy xem tiếp động từ phát huy sức mạnh như thế nào trong đoạn văn sau đây của Nguyễn Tuân: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghi cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn mày, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến…”. Quả là một bức tranh chiến trận hào hùng, ngôn ngữ Nguyễn Tuân hả hê tụng ca con người trong cuộc quyết đấu với thiên nhiên để giành sự sống.Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa. Nàng văn của ông thật quảng giao đón du khách từ bốn phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc… Những kiến thức

Page 28: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

liên ngành đa dạng ấy tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Có thể coi Nguyễn Tuân là người đã nắm vững “binh pháp của ngôn ngữ”. Với một ý thức ngôn từ mới mẻ, hiện đại, Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ  truyền hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc.Song luận gì về Nguyễn Tuân cũng chớ quên văn ông không chỉ là tòa lâu đài chữ nghĩa mà còn là bể thẳm tâm hồn. Nhiều người từng than phiền văn Nguyễn Tuân cầu kì, rắc rối. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân tự nhận xét: “Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Đọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không bướng bỉnh sao được” (Đôi tri kỉ gượng). Nay ngôn ngữ Nguyễn Tuân là ngôn ngữ của một công dân đầy trách nhiệm trước một nước Việt Nam mới. Ông lái Nguyễn Tuân đã chở con đò chữ không chỉ bằng bàn tay khéo dùng từ, đặt câu mà còn bằng tình yêu tha thiết thiên nhiên và con người lao động xây dựng cuộc đời. Xin chiêm ngưỡng tấm lòng thơ của nhà văn ẩn trong câu văn òa ập nỗi niễm này: “Nói chuyện với người lái đò, như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”.

Phân tích bài thơ Tây Tiến

Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Đình Thi , Hoàng Trung Thông , Trần Hữu Thung , Hồng Nguyên , Trần Mai Ninh , Chính Hữu …Quang Dũng nổi tiếng với hai bài thơ : “ Tây Tiến “ và “ Đôi mắt người Sơn Tây “ . Bài thơ “Tây Tiến “ được sáng tác vào năm 1948 khi ông rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ niệm gắn bó một thời với Tây Tiến . Đoàn quân Tây Tiến bao gồm hầu hết những thanh niên Hà Nội hoạt động ở một địa bàn rộng lớn ở vùng núi biên giới Việt – Lào . Hào hoa mà anh dũng .

Page 29: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Đoạn đầu của bài thơ hồi tưởng lại những kỉ niệm của một thời chinh chiến , những cuộc hành quân gian khổ với thiên nhiên vừa khắc nghiệt lại vừa hùng vĩ , thơ mộng : “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Quang Dũng chịu ảnh hưởng sâu đậm nhạc điệu của thơ cổ điển . Có thể nói nhà thơ Quang Dũng , hiện thực là hiện thực kháng chiến ( chống Pháp ) được phô diễn bằng một tâm hồn lãng mạn và âm điệu cổ điển . Qua hai câu thơ mở đầu của bài “ Tây Tiến “ ta nắm bắt được hồn thơ Quang Dũng : “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”Âm điệu của câu thơ thất ngôn bát cú như từ thời Lí Bạch . Tình cảm thì dào dạt như các nhà thơ lãng mạn thời Thơ mới . Có điều là trong dòng thơ hoài niệm ấy đã xuất hiện một cái tên lịch sử . Tây Tiến ! Mà đã nói đến Tây Tiến là phải nói đến sông Mã , con sông hùng vĩ đã chứng kiến những vui buồn của cuộc đời người chiến binh , là phải nói đến rừng núi với những chặng đường hành quân cheo leo bên núi cao , bên vực thẳm , đi trong sương mù , trong hương hoa . Nỗi nhớ dâng trào như nỗi nhớ của các nhà thơ lãng mạn. Đây là câu thơ của Xuân Diệu : “Tương tư nâng lòng lên chơi vơi “ Còn đây là câu thơ của Quang Dũng : “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi “

Page 30: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Có điều là một đằng thì nhớ người yêu , một đằng thì nhớ những kỉ niệm kháng chiến . Những kỉ niệm về Tây Tiến , về kháng chiến cứ đậm dần lên trong sự hài hoà giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực của thơ Quang Dũng . Những địa danh miền sơn cước như Sài Khao , Mường Lát gợi bao cảm xúc mới lạ. Những “ sương “ , “ hoa “ từng hiện diện với thi nhân , với tình yêu thì nay hiện diện với đoàn quân , gian khổ mệt mỏi đấy nhưng không thiếu những giây phút lãng mạn . Thủ pháp đối lập được Quang Dũng triệt để sử dụng . “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi “ gian khổ biết bao! “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi “ thi vị biết bao ! Tưởng chừng như thiên nhiên ban thưởng cho người lính một chút hương hoa để có sức mạnh mà vượt qua đèo dốc . “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời” Những thanh trắc ( dốc , khúc , khuỷu , thẳm ) tức ngược miêu tả được thế núi hiểm trở . Và hay nhất là miêu tả chiều sâu thăm thẳm để tả chiều cao của “ dốc lên khúc khuỷu “ .Cao đến nỗi người lính có cảm giác mình ngự trên mây “ heo hút cồn mây “ và “ súng ngửi trời “ . Cách nhân hoá thú vị cũng là để nói cách đo chiều cao riêng của những người lính . Ta lại thấy một ông Lí Bạch trong thơ Quang Dũng . Cảm hứng lãng mạn tô đậm cái phi thường . Câu thơ “ Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống “ có khác gì câu thơ của Lí Bạch “ Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước “ trong bài thơ “ Xa ngắm thác núi Lư “ . Ta cũng lại nghe âm điệu của Tản Đà trong giai điệu buông thả mê li của Quang Dũng : “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”với “Giang hồ mê chơi trên quê hương” của Tản Đà Mơ mộng đó mà gian khổ cũng đó . Qua những

Page 31: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

chặng đường hành quân, vượt qua đèo cao lũng sâu , người lính sao tránh khỏi những giây phút mệt mỏi . Quang Dũng không tránh né thực tế khắc nghiệt của người lính trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp :“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời ! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Thật là bi tráng ! Hình ảnh người lính “ Gục lên súng mũ bỏ quên đời “ cho ta thấm thía thêm những nỗi gian lao , vất vả , hi sinh của người lính Tây Tiến . Hình ảnh núi rừng hoang vu , huyền bí tăng thêm chất bi tráng . Thiên nhiên đổi thay theo sắc màu của thời gian . Những nét lạ , những chi tiết rùng rợn càng tăng sức hấp dẫn của bút pháp lãng mạn . Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều hoà điệu với âm thanh rùng rợn của tiếng “ cọp trêu người “ đêm đêm thành một bản hoà tấu vang động cả núi rừng . Rồi tất cả lại trở về dịu êm với những kỉ niệm của con người và bản làng thân thương :“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Sợi khói ấm áp giữa núi rừng hoang vu , đó là chất thơ của đời sống chiến sĩ làm sao mà không nhớ ? Kỉ niệm cứ như trôi trong mộng : “ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi “ . Chữ của thơ thật lạ , có những chữ đã cũ mèm mà được đặt vào đúng văn cảnh thì lại dậy lên ý lạ . Chữ “ em “ thì có gì là mới , vậy mà thay vào đó bất cứ chữ nào khác thì câu thơ cũng mất hết linh hồn . Nói kiểu Pautôpxki là Quang Dũng đã trả lại cho chữ “ em “ cái trinh bạch ban đầu . Hương nếp hay là hương em đã làm bâng khuâng cả núi rừng , bâng khuâng cả lòng người ?

Page 32: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nhà thơ nhớ lại một đêm liên hoan lạ lùng giữa rừng biên cương :

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ “ Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng lại được dịp miêu tả những nét lạ : y phục lạ ( xiêm áo ) , nhạc cụ lạ ( khèn ) , âm điệu lạ ( man điệu ) , dáng vẻ lạ ( nàng e ấp ) . Tình quân dân nơi rừng núi xa xôi càng thêm sức mạnh cho người lính Tây Tiến . Cùng với dòng hồi tưởng đó , tác giả nhớ lại hình ảnh người lính Tây Tiến , những hình ảnh độc đáo không thể nào phai nhoà :“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm ““ Đoàn binh không mọc tóc “ quả là kì dị ! Thời đó , đoàn quân Tây Tiến hoạt động trong rừng núi phía Tây , bệnh sốt rét hoành hành . Tóc rụng đến nỗi không mọc lên được . Da xanh bủng như màu lá rừng . Tác giả miêu tả bằng cách đối lập giữa cái bên ngoài và cái bên trong . Bên ngoài người lính thì da xanh bủng ốm yếu , nhưng tinh thần thì vững vàng . Khí phách của người lính Tây Tiến chẳng những lấn át cả bệnh tật ốm yếu mà còn “ dữ oai hùm “ làm khiếp sợ kẻ thù . Tinh thần của người lính Tây Tiến thật là mãnh liệt . Mãnh liệt cả trong “ mộng “ , mãnh liệt cả trong “ mơ “ .“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Hình ảnh “ mắt trừng “ thể hiện ý chí quyết tâm

Page 33: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

của người lính Tây Tiến trong nhiệm vụ bảo vệ biên cương , nghĩa vụ quốc tế của mình . Trên kia ta đã từng gặp hình ảnh “ mộng “ ấy: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ“ . Nhưng tình cảm , tâm tưởng người lính lại hướng về Hà Nội , quê hương thân yêu của hầu hết binh đoàn Tây Tiến :“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm “Hà Nội đẹp nhất là Hồ Tây và thiếu nữ . Những chàng trai Hà Nội chưa trắng nợ anh hùng ra đi chinh chiến làm sao không mang theo trong hành trang của mình hình bóng của một “ dáng kiều thơm “ nào đó , hoặc hình bóng của người thân yêu? Một chút lãng mạn như vậy đủ nuôi dưỡng tinh thần của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ , hi sinh . Tứ thơ mộng mơ này cũng nằm trong cấu trúc chung của bài thơ “Tây Tiến“ là ngược – xuôi : con người , ý chí , hành động thì ngược về hướng tây , nhưng tình cảm thì lưu luyến xuôi về với quê hương thân yêu :“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa “ Liền với tứ thơ mộng mơ ấy là hình ảnh hi sinh cao quý của những người lính Tây Tiến . Từ tinh thần lãng mạn chuyển sang không khí bi tráng:“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành “Lần nữa ta lại thấy Quang Dũng không tránh né những chết chóc bi thương . Người lính Tây Tiến chiến đấu ở một miền núi rừng biên cương chống kẻ thù xâm lược làm sao tránh khỏi sự tổn thất về sinh mạng

Page 34: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ “ Câu thơ chỉ có từ “ rải rác “ là thuần Việt , còn lại là từ Hán Việt cổ kính , gợi không khí thiêng liêng , đượm chút ngậm ngùi . Đến câu thơ tiếp theo , tác giả hoá giải được tình cảm ngậm ngùi đó : “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh “ . “ Đời xanh “ đẹp biết bao! Còn gì quý bằng tuổi trẻ , vậy mà người lính Tây Tiến “ chẳng tiếc “ , cho nên họ chấp nhận tất cả . Tự vệ thành Hà Nội đã nêu cao lời thề “ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh “ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô . Những người con của Thủ đô ở biên cương cũng có tinh thần “ hiệp sĩ “ đó . Có lẽ gọi những chàng trai “ chẳng tiếc đời xanh “ này là “ hiệp sĩ “ cách mạng , như những người lính trong “ Đồng chí “ của Chính Hữu , trong “ Nhớ “ của Hồng Nguyên . Sự hi sinh của họ thật là cảm động : “Áo bào thay chiếu anh về đất “

Người lính Tây Tiến thời đó hết sức thiếu thốn . Theo Trần Lê Văn thì đồng bào thấy các chiến sĩ Tây Tiến rét đã cho chiếc áo khoác thay cho “ áo bào “ . Khi chết , đồng đội dùng chiếu bó lại để chôn vì không có quan tài . Câu thơ đó có một từ rất xứng với sự hi sinh của người lính là từ “ đất “. “Anh về đất “ là về với non sông đất nước , về với sự trường tồn , vĩnh hằng. Âm nhạc của thiên nhiên , non nước tấu lên đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng : “Sông Mã gầm lên khúc độc hành “ Cái chết của những người lính Tây Tiến nơi biên cương chẳng những làm xúc động sâu xa những chiến sĩ đồng đội mà còn động cả lòng trời đất . “ Sông Mã gầm lên “ đau đớn , tiếc thương . Khúc nhạc bi tráng hợp với sự hi sinh cao quý của những “ hiệp sĩ “ Tây Tiến .

Page 35: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Quang Dũng đi kháng chiến , đến đoàn quân Tây Tiến với tư cách là một trí thức có tâm hồn nghệ sĩ . Khi đặt bút làm thơ thì đã có ông Lí ông Đỗ ngự trong lòng . Âm nhạc đầy cám dỗ của nhà thơ Việt Nam hiện đâi như Tản Đà ( nhà thơ cùng quê hương với ông ) , Thế Lữ , Xuân Diệu cũng đã dội vang trong lòng ông . Các nhà thơ cổ kim đã bồi đắp trong hồn thơ kháng chiến mới mẻ của ông . Bằng nghệ thuật điêu luyện , Quang Dũng đã khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến , hình hài thì kì dị , độc đáo , chân dung tinh thần thì cao quý . Xuc cảm của nhà thơ được nuôi dưỡng bằng âm nhạc vừa cổ kính vừa hiện đại . Những trái tim “ hiệp sĩ “ Tây Tiến nằm lại rải rác ở biên cương chắc sẽ cảm thấy êm ái khi nghe thơ Quang Dũng . Bằng hội hoạ và âm nhạc , tượng đài của lòng dũng cảm đã được dựng lên trong thơ “ Tây Tiến “ – vĩnh hằng.

Phân tích khổ thơ tứ bình – việt bắc:Bài 1:

Cuộc chia tay đầy lưu luyến nhờ thương giữa những người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu phản ánh trong bài thơ “Việt Bắc” như cuộc chia tay của một đôi bạn tình. Ta và mình đã sống với nhau mười lăm năm keo sơn gắn bó, giờ đây phải chia tay để làm nhiệm vụ mới. Bài thơ được kết cấu theo lối hát đối đáp dân tộc. Đoạn trích dưới đây là lời của người cán bộ kháng chiến nói lên nỗi yêu thương nhớ của mình đối với Việt Bắc, với thiên nhiên tươi đẹp và với con người Việt Bắc tình nghĩa””..Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng người.Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao ánh nắng dao gài thắt lưngNgày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Page 36: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Mở đầu đoạn thơ, người cán bộ kháng chiến hỏi Việt Bắc có nhớ “ta” không và diễn tả nỗi nhớ của mình với Việt Bắc một cách khái quát:“Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng người”Điệp từ “Ta về” và “nhớ” tăng cường nhạc điệu êm ái hợp với tình cảm thương nhớ và nhấn mạnh tình cảm tha thiết giữa người đi kẻ ở. Trong nỗi nhớ của người ra về, ấn tượng sâu đậm nhất là “hoa” và “người”. “Hoa” là biểu tượng của thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp. Đặt “hoa” bên cạnh “người” làm tôn lên niềm yêu mến trân trọng của người đối với nhân dân các dân tộc Việt Bắc tình nghĩa.Đoạn thơ còn lại diễn tả nỗi nhớ dào dạt của người về xuôi đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ hiện lên trong từng thời gian và không gian của Việt Bắc. Người ra về nhớ cả hình ảnh bốn mùa của Việt Bắc. Cũng là cái cớ để nhà thơ phác họa vẻ đẹp rực rỡ và thơ mộng của núi rừng và gợi hình ảnh của nhân dân Việt Bắc ân tình thủy chung.Đây là mùa đông với màu xanh tha thiết lại đột ngột bùng lên màu “hoa chuối đỏ tươi” như ngọn lửa của rừng, ấm áp tìn yêu:“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao ánh nắg dao gài thắt lưng”Vẻ đẹp của màu sắc, của hoa lá, của ánh sáng, của hương hoa hòa quyện với vẻ đẹp của con người.Giữa “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” đã nổi bật lên hình ảnh người lao động miền núi:“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”Tố Hữu quan sát rất tinh. Người đi rừng bao giờ cũng có một con dao trần dắt lưng lấp lánh ánh sáng mặt trời. Hình ảnh “đèo cao ánh nắng”… ấy làm sao mà quên được?“Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”Bức tranh mùa xuân lại được chuyển sang gam màu lạnh. Ngày xuân rừng núi phủ một màu trắng tinh khiết của hoa mơ. Động từ “nở” khiến cho màu sắc như đang vận động, màu trắng càng có sức ám ảnh đối với người đọc. Dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái lao động Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng:“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”Mùa hè, âm thanh của tiếng ve là đặc trưng của rừng núi Việt Bắc:“Ve kêu rừng phách đổ vàng”Tác giả đã sử dụng bút pháp ấn tượng . Tưởng chừng như tiếng “ve kêu” đậm đặc, rung chuyển cả cây rừng khiến cho lá “phách đổ vàng”, Ấn tượng ấy mang lại nét lạ cho phong cách thơ Tố Hữu. Giữa cảnh rừng mua hè, bất chợt gặp một cô gái “hái măng một mình”, phong cảnh thật là hữu tình.Cảnh thu Việt Bắc lại được miêu tả về đêm với bầu trời cao rộng và mảnh trăng thu thanh bình.“Rừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”Những đêm trăng thu nổi lên “tiếng hát ân tình thủy chung” như tạc vào trong dạ của người ra đi. Trong trí nhớ của họ, phong cảnh Việt Bắc đầy màu sắc như một cái nền để làm nổi bật hình ảnh người Việt Bắc đảm đang,tình nghĩa, thủy chung.Như vậy là màu sắc, đường nét, âm thanh của rừng núi Việt Bắc được miêu tả trong sự vận động của thời gian, không gian. Mùa nào, cảnh rừng Việt Bắc cũng đẹp, cũng nên thơ đáng yêu, đáng nhớ. Có thể coi đấy là bộ tranh tứ bình đặc sắc của cảnh rừng Việt Bắc kháng chiến in đậm trong tâm trí của người về. Đây là đoạn thơ đặc sắc trong bài thờ “Việt Bắc” nổi tiếng của Tố Hữu. Đoạn thơ đã diễn tả được tình cảm nhớ thương Việt Bắc sâu nặng của người cán bộ kháng chiến khi rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Ngôn ngữ uyển chuyển, ngọt ngào. Những từ “ta”, “mình” được nhà thơ sử dụng có ý nghĩa mới. Những từ vón rất riêng được Tố Hữu dùng với nghĩa chung, khiến cho cái chung có sứ rung động lạ thường. Nhạc điệu của câu thơ lục bát êm đềm có sức ngân vang trong lòng người đọc như một khúc hát ru kỉ niệm. Điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần với nhiều cấp độ khác nhau tăng cường nhạc điệu du dương của đoạn thơ và nhấn mạnh được

Page 37: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

nỗi lòng lưu luyến của tác giả với chiến khu, với cảnh, với người Việt Bắc. Đặc biệt hơn cả là trong tâm tưởng của người ra vè in sâu hình ảnh sắc màu của bức tranh tứ bình tươi sáng rực rỡ thơ mộng. Đoạn thơ đã diễn tả được một khía cạnh sâu sắc của chủ đề bài thơ “Việt Bắc” là tình cảm thủy chung – thủy chung với cách mạng.

Bài 2:Việt Bắc của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ đi vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ đô kháng chiến”, thâm tâm đầy ắp kỷ niệm nhớ thương.Trong tâm trạng kẻ ở - người đi, hình bóng của núi rừng – con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Để hôm nay, những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm của tình người lan toả :

“ Ta về , mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưngMùa xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợ giangVe kêu rùng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng dọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

Bài thơ được Tố Hữu viết về buổi chia tay của cán bộ kháng chiến với người dân Việt Bắc.Bằng tiếng nói ngọt ngào tha thiết của khúc hát giao duyên trong ca dao, nhà thơ đã ca ngợi tình cảm gắn bó thủy chung với cách mạng, với đất nước , với nhân dân.Khổ thơ được phân tích thuộc đoạn 2 của bài thơ.Đây được coi là 10 câu thơ hay nhất diễn tả nỗi nhớ thiên nhiên và con người VB của người ra đi.Qua nỗi nhớ ấy người đọc liên tưởng tới thiên nhiên VB giống như 1 bức tranh tứ bình.Hai câu thơ đầu tiên của khổ thơ đã thể hiện rõ tâm trạng của người ra đi:“ Ta về , mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng người”.Hai câu thơ sử dụng từ “mình” và “ta” quen thuộc trong ca dao, “ta” chỉ người ra đi và “mình “ chỉ người ở lại.Cụm từ “ta về”, “nhớ” được nhắc đi nhắc lại tới 2 lần ,trong câu thơ đầu tiên là người ra đi hỏi người ở lại,còn trong câu thơ thứ 2 là để bày tỏ tâm trạng của người ra đi: nỗi nhớ “hoa cùng người”. “Hoa” tượng trưng cho thiên nhiên VB, “người” là để chỉ nhân dân VB.Nỗi nhớ hoa và người đan xen hòa trộn trong tâm trạng của người ra đi.Trong 8 câu thơ tiếp theo nỗi nhớ ấy lần lượt hiện lên với tất cả những gì đẹp nhất,thơ mộng nhất.Mở đầu cho bức tranh tứ bình là khung cảnh muà đông,một mùa đông mang vẻ đẹp lạ lùng:“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.Câu thơ tả những cánh rừng VB tràn ngập 1 màu xanh của cây lá,màu xanh của sự sống.Giữa màu xanh bạt ngàn bừng lên màu đỏ tươi của hoa chuối,màu đỏ tươi sáng ấm áp như xua đi không khí lạnh lẽo.hoang sơ của núi rừng .Hai màu xanh đỏ tương phản nhưng cùng tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm đẹp rực rỡ.Và giữa khung cảnh rừng núi thơ mộng ấy bỗng hiện lên bóng người trên đèo cao.Nhà thơ ko tả dáng người , ko tả gương mặt mà tả tư thế con người trong công việc, một tư thế khỏe khoắn của người làm chủ thiên nhiên.Trên trời cao ánh nắng hắt xuống lưng người , chiếu vào con dao làm ánh lên 1 màu sáng kì diệu.Cái nắng hiếm hoi của mùa đông đã tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm tươi tắn, mang 1 vẻ đẹp riêng độc đáo.

Page 38: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Màu xanh vô tận của những cánh rừng bỗng thay đổi thành 1 màu trắng của hoa mơ:“Mùa xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợ giang”.Hai câu thơ trên miêu tả mùa xuân của VB. “Ngày xuân” là từ báo hiệu thời gian thay đổi,1 mùa đông qua đi 1 mùa xuân mới đến.Rừng VB vào xuân trên khắp núi rừng những bông hoa mơ thi nhau nở rộ khoa 1 màu trắng tinh khiết.Nghệ thuật đảo ngữ trong câu thơ “trắng rừng” có tác dụng nhấn mạnh rừng VB bạt ngàn 1 màu trắng.Màu trắng tinh khiết của hoa mơ như lấn át tất cả màu xanh của cây lá làm bừng sáng cả khu rừng .Câu thơ đem lại cho người đọc 1 cảm nhận không khí xuân lan tràn, không gian núi rừng mênh mông, thiên nhiên VB giàu sức sống.Trong sắc x ân của thiên nhiên nhiên đất trời hiện lên hình ảnh con người lao động làm việc chăm chỉ cần cù, miệt mài “chuốt từng sợi giang”. “Chuốt” là 1 từ chỉ động tác làm đi làm lại, người dân Việt Bắc tỉ mỉ cẩn thận trong công vịêc bằng đôi bàn tay khéo léo tạo nên những sản phẩm đẹp.Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ.“Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình”Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên, cái độc đáo ở đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy mà nó biết kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng phách đổ vàng ở đây, chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kì lạ này. Rừng phách là những cây lạ ở miền Bắc. Nó không mọc riêng rẽ mà mọc thành rừng, rất nhạy cảm với thời tiết. Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Cái lạnh đang tràn ngập núi rừng, lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ ”hái măng một mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đên một hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bính, một nhà thơ của đồng quê:“Thơ thẩn đường chiều một khách thơSay nhìn ra rặng núi xanh lơKhí trời lặng lẽ và trong trẻoThấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ”Cô hái mơ”. Ta thấy có sự giống nhau rất ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang làm việc. Chỉ có điều ở đây là “hái mơ” chớ không phải “hái măng”.Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ nào khác: bẻ, đốn… vì chỉ có nó mới phù hợp nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có thần nữ. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần đẹp đẽ.”Rừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ ta thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng với đất nước.Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ, cùng thương” “nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật

Page 39: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại. Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ nhớ dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Từ ”rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu của màu sắc. Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru kỉ niệm. Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác là của ”ta” và cho người nhận là “mình”. Cả ”ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung ”Tiếng hát ân tình “ và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.Chúng ta có thể thấy, ở đoạn thơ trên thiên nhiên VB hiện lên với bao vẻ đẹp đa dạng trong hững thời gian và ko gian khác nhau, thay đổi theo từng thời tiết,từng mùa . Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình dị, bằng những việc làm tưởng chừng như nhỏ bé của mình, họ đã góp phần ko nhỏ vào sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến.Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ,bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ cùng chung mọi gian khổ và niềm vui,cùng gánh vác những trách nhiệm nặng nề khó khăn ....càng làm cho “VB” ngời sáng lung linh trong ánh hào quang của kỉ niệm.Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Cảnh thiên nhiên và con người trong đây được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp, tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy sắt son của người cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt Bắc.

Bài 3:Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình - nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta - mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết " Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được."Ta về mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưngNgày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe keo rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đông.Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

"Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng người"

Page 40: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này.Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người.Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại.Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏHồng liên trì đã tịn mùi hương

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng. Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" .Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - " đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do " Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:

Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Page 41: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ . Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốtTrắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hótThánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động " chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc. Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây Phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung lunh dịu mát:

"Rừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Trăng vào cửa sổ đòi thơViệc quân đang bận xin chờ hôm sau

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thuẤy tin thắng trận liên khu báo về

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Page 42: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.KẾT LUẬNVới những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

ĐỀ:Phân tích đoạn thơ sau trong bài "Việt Bắc "của TH. "Ta về mình có nhớ ta .................................... Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

MB: Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp:

Ta về, mình có nhớ taTa vê, ta nhớ những hoa cùng người.Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

II/Thân bài :

* Nhận xét chung :

Page 43: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Đây là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, có sự hoà quyện giữa cảnh và người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ cách mạng.

Mười câu thơ trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả tâm tình của người cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã 15 năm gắn bó với bao tình cảm máu thịt.

1/Hai câu đầu :

Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi:

Ta về, mình có nhớ ta

Nhưng thực ra, hỏi chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái cớ để giải bày nỗi lòng của mình:

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Câu thơ có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng (6/8) như một lời ru, một câu hát không chỉ diễn tả tâm trạng tha thiết của nhân vật trữ tình. Đây còn là lời ngợi ca về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp. Đặt hoa bên cạnh người là sự tôn vinh về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Vả lại, hoa và người hoà quyện, gắn bó với nhau. Nói tới thiên nhiên không thể nói đến con người và ngược lại, những con người ấy đã ở trong một thiên nhiên đẹp, gần gũi.

2/ Tám câu thơ sau :

- Nhận xét :Bốn câu thơ lục bát còn lại là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều người gọi đây là bộ tứ bình (xuân,

Page 44: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

hạ, thu, đông). Nhà thơ kế thừa nghệ thuật hội hoạ cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả thiên nhiên. Mỗi một câu thơ khắc hoạ một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn:

- Bức tranh thứ nhất:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn. Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng, nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi. Nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ ( Cỏ non xanh rợn chân trời – cành lê trắng điểm một vài bông hoa; Nguyễn Du ) tỏ ra rất hữu hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, màu đỏ của hoa chuối bỗng gợi lên sự ấm áp, có sức lan toả. Vì thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh. Hơn nữa, cách điểm xuyết ấy rất độc đáo: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyển động.

Thơ ca là một nghê thuật của thời gian. Với những nghệ sĩ tài hoa đó, việc tạo dựng nên những lớp thời gian chồng lấp và không gian không bất động, bất biến mà ngang sức sống nhờ sự tái sinh của những lớp ngôn từ. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng là một câu thơ như thế.

- Bức tranh thứ hai

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Page 45: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Khác bức tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:

Ngày xuân mở nở trắng rừng

Cách điệp âm (mơ/nở; trắng/rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.

Trên cái nền không gian rộng lớn và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt độnh có vẻ tỉ mỉ:

…Người đan nón chuốt từng sợi giang.

Nhiều người nói câu thơ ca ngợi “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc (1). Có người nói “dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh co gái Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng” (2). Câu thơ có hình ảnh ấy. Con người Việt Bắc trong hoài niệm của Tố Hữu là như thế. Nhưng đó là hình ảnh thực. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh kia chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhặt, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc ghi trong tâm khảm.

- Bức tranh thứ ba

Page 46: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình.

Câu thơ mở đầu bằng âm thanh ( ve kêu ), nhưng cũng là cách định vị bằng thời gian (mùa hè). Dòng thơ vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên. Nếu nói thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó thi đây quả thực là ngày hội của cảnh vật. Vì vậy, trong “ngày hội” ấy hình ảnh cô em gái hái măng một mình không lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh:

Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình.

Như đã nói, hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quỵên, cùng tôn vinh lẫn nhau. Trong hoài niệm này, tác giả dùng bút lực của mình để ca ngợi, tôn vinh sự hài hoà đó. Và chính sự hài hoà đó đã tạo nên chất thơ. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trưng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực.

- Bức tranh thứ tư

Rừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian (rừng thu). Đến đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên:

Rừng xanh => không gianNgày xuân => thời gianVe kêu => âm thanh ( thời gian )

Page 47: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Ứng với mỗi câu thơ và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ vì đó là bức tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:

Rừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh lẽo. “Trăng rọi hoà bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và, trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao nhiêu nghĩa tình sâu nặng.

Thơ Tố Hữu là khúc hát của tự do, của ân tình cách mạng. Bản thân cuộc đời ân tình ấy, đối với nhà thơ, luôn là bài ca sâu nặng. Vì thế, nhà thơ không chỉ cảm, nghĩ về cuộc đời mà cất tiếng ca ngợi. Tiếng hát ân tình thuỷ chung trong bài thơ Việt Bắc là tiếng hát như thế.

- Đánh giá :

Bộ tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được dệt dưới ánh sáng của hoài niệm da diết. Thông thường, nguời ta chỉ nhớ những gì mang ấn tượng nhất của quá khứ và thời gian càng lùi xa thì ấn tượng ấy càng trở nên tươi đẹp, huyền ảo hơn. Hàng loạt điệp từ nhớ ( 5 từ ) trong một khổ thơ như là sự nối dài của lòng hoài niệm không dứt.

III/ Kết bài

- Việt Bắc là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi

Page 48: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ.

- Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn say đắm.

Phân tích đoạn 3 bài tây tiến :

Bài 1:Cả bài thơ là nỗi nhớ dạt dào về tây tiến, với những kỉ niệm một thời. những khó khăn trong cuộc sống và chiến đấu. cũng như những giờ phút thanh bình bên người dân tây bắc. bài thơ còn miêu tả rất thực về hình ảnh của người lính. Về tinh thần và những phẩm chất tốt đẹp của họ.Tây tiến đoàn quân không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmMắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứChién trừơng đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông mã gầm lên khúc độc hànhMôt đoạn thơ khắc họa rõ về những chàng trai tây tiến. và hình ảnh tả thực gợi lên trong lòng người đọc nhiều niềm thương cảm và cả ngưỡng mộ.Đoạn được mở đầu bằng lời miêu tả thẳng không chút tránh né sự thật.Tây tiến đoàn quân không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmCuộc sống chốn rừng núi tây bắc thiếu thốn vô cùng. Quân chiến đấu không đủ ăn, mặc không đủ ấm. để chiến đấu họ phải cạo trọc đầu tạo thành đoàn “vệ trọc” “vệ đỏ” để P ko thể nắm được họ. nhưng nguyên nhân khác là những cơn sốt rét rừng cực kỳ nguy hiểm, cứ đe dọa, rình rập. sẵn sàng lấy đi tính mạng của họ bất cứ lúc nào. Trong bài “đồng chí” chính hữu cũng đã có đề cập tới những khó khăn và căn bệnh nàyÁo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá, chân không dày….Sốt run người vầng tráng ướt mồ hôi.Căn bệnh này thì bất cứ người lính nào cũng gặp nhưng đến với bài tây tiến ta những người

Page 49: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

chưa chứng kiến mới có thể hiểu được một cách chân thực nhất. Đó là sự thật không phải là nói quá hay là nói để tạo ấn tượng. thật thú vị vì nhà thơ lấy chính cái hiện thực khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh tự tốn cho mình. Đó là cái tên khác của tây tiến: “ đoàn quân không mọc tóc.” Cũng như phạm tiến duật gọi đoàn xe không kính của mình. Đó là một cách gọi dí dỏm thể hiện sự lạc wan và chất lính. Câu tiếp theo chia làm hai vế quân xanh màu lá/ dữ oai hùm. Màu xanh là màu xanh của lá ngụy trang hay chính là màu xanh da thịt của người lính cho quá vất vả và chịu đựng căn bệnh làm da nhợt nhạt không sức sống.Như tố hữu cũng nóiKhuôn mặt đã lên màu bệnh tậtĐâu còn tươi nữa những ngày qua.cả đoàn quân sao mà yếu ớt nhưng bên cạnh đó là cả một khí thế oai phong. Cái bi đặt bên cái tráng làm nổi bật cái oại phong của đoàn quân. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên âm hửơng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ. Người đọc cảm nhận khí thế của đoàn quân ra trận, dù yếu nhưng đã đánh cho P phải khiếp sợ. Dù cuộc sống có khó khăn nhưng những người lính tây tiến vẫn mang trong mình lắm mộng mơ, và khát vọng hòai bão.Mắt trừg gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ hà nội dáng kiều thơm.Hai câu mang hai chữ “mộng” và “mơ”. Từ trừng được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy bao tâm nguỵên, khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều gửi cả ở ánh mắt. “mắt trừng” không phải chỉ hành động mạnh nhìn trừng trừng zữ zằn, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện những mong ước đến khắc khoải, mong ước về một ngày chiến thắng kẻ thù. chữ “mộng” khiến câu thơ chùng xuống ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. câu thơ của quang dũng khiến ta nhớ tới một câu thơ của nguyễn đình thiNhững đêm dài hành quân nung nấuBỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.Nhớ “người yêu” hay nhớ “dáng kiều thơm” làm hình ảnh người lính trở nên gần gũi hơn rất nhiều. vì nỗi nhớ rất đỗi bình thường của những chàng thanh niên, nhưng trong lúc khó khăn cũng thật cao quý. Nỗi nhớ và những mộng mơ giúp tiếp thêm sức mạnh và nghị lực để vượt lên hoàn cảnh. Để vượt wa thiếu thốn vật chất, những con đau dằn xé. Để ko gục bởi hoàn cảnh trứơc khi gục trước kẻ thù. Quang dũng đã viết nên bốn câu thơ đầu với cái nhìn đa chiều, phong phú. Để ta thấy đằng sau phong thái hùng dũng cũng có một tâm hồn trẻ và tài hoa.Hai câu thơ tiếp theo là sự tiếp nối của sự chiến đấu giành độc lập tự do. Đó là sự hy sinh:Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trừơng đi chẳng tiếc đời xanh.Nếu ta chỉ đọc câu thơ đầu thì không thể không xúc động trước cái hiện thực quá đỗi bi thương. Cả một đoàn quân đang đi trên con đừơg dài thì thỉnh thoảng có một người ở lại sau lưng. Bên đường lại mọc lên một nấm mồ. giữa rừng núi, không một nén hương, không nước mắt người thân. Những cái chết cô độc giữa rừng lạnh lẽo. bi thảm. nhưng câu thơ sau như một lực kéo vô hình nâng câu đầu lên để kéo cái bi thảm thành cái bi tráng. Câu thơ thứ hai chính là câu hát đầu

Page 50: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

thách thức ngạo nghễ của các chàng trai. Biết đi là hy sinh đó nhưng một khi đã đi thì không quay đầu trở lại. dù có hy sinh cũng là sự hy sinh xứng đáng. Nói không tiếc thì cũng ko thể vì họ là thanh niên còn nhiều cái chưa làm đưọc, nhưng đây là hiến dâng phần còn lại của cuộc đời cho tổ quốc nên không tiếc nữa. như anh lính trong dáng đứng việt namVà anh chết trong khi đang đứng bắnMáu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.Những sự hy sinh vĩ đại. dù ta không thể biết ai đã hy sinh nhưng nguỹên khoa điềm của từng khẳng định “không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên đất nước.”Một khi xác định được lý tửơng những người lính xem cái chết mình nhẹ tựa lông hồng.Áo bào thay chiếu anh về đấtSông mã gầm lên khúc độc hành.Cuộc sốg thiếu thốn đến nỗi không có mảnh chiếu che thân nhưng với quang dũng mảnh áo kia chính là “áo bào” như những chiến tướng của ngày xưa. Một cái chết hào hùng và sang trọg vì là chết cho đất nước. đất đã sinh ra anh và lại đón nhận anh trở về khi đã làm xong nghĩa vụ thiêng liêng của anh. Anh ra đi không mang theo tiếng khóc của đồng đội nhưng tiếng gầm của sông mã đã tiễn anh ra đi. Cả quê hương đất nước như đang tiếc thương đưa anh về đất. vẫn là cái chết nhưng lại hào hùng. Ko bi lụy mà bi tráng. Đây là điểm nhấn xuyến suốt bài thơ. Là cái đặc sắc của quang dũng. Nhưng lúc bài thơ ra đời nhìu ngưòi không hiểu được. họ coi việc nói thực là cái chết là kể lể, yếu mềm theo kiểu tiểu tư sản. nhưng họ chưa hiểu được sâu là đằng sau cái chết là cái hào hùng. Cái chết chỉ là cái nên cho sự vinh quang. ở đây sông mã một lần nữa đựơc nhắc lại khi nói đến tây tiến. điều đó khẳng định sự hy sih và ra đi của các anh đã đi vào bất tử khi thân xác hòa vào cỏ cây và vào đất mẹ thiêng liêng. Đoạn thơ đã tạo nên được khí thế của đoàn quân. Những người lính với ý chí kiên cường, nghị lực và những ước mơ. Họ đã ra đi, chiến đấu và hy sinh. Họ đã bảo vệ tổ quốc không tiếc đời mình. Quang dũng là thể hiện đựơc điều đó bằng bút pháp tả thực và cả lãng mạn. nhà thơ bộc lộ đưọc tinh thần của một chiến sĩ cụ hồ thời chống pháp. “đoàn vệ quốc quân một lòng ra điNào có xá chi đâu ngày trở về.”

Bài 2:

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt trừng gửi

Page 51: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

mộng qua biên giới - Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm - Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành" "Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế QDũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và QDũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ"Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành"Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của QDũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của QDũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà

Page 52: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu - Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu - Thể diện sài long xâm lược quân"Có thể nói QDũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi QDũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:"Từ thuở mang gươm đi mở nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ QDũng.Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu QDũng đã mô tả một cách chân

Page 53: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. QDũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội"Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"Trong Chinh phụ ngâm:"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi - Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi - Chinh phu tử sĩ mấy người - Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ QDũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ"áo bào thay chiếu anh về đất"Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo QDũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế"ở đây không manh ván - Chôn anh bằng tấm chăn - Của đồng bào Cứa Ngàn - Tặng tôi ngày sơ tán"Chỉ có điều câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Page 54: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, QDũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của QDũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.

PHÂN TÍCH BÀI "SÓNG" – XUÂN QUỲNH Bài 1:

Page 55: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển.Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:“Lòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức”“Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt: “Hôn thật khẽ thật êmHôn êm đềm mãi mãi” (Xuân Diệu)Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.“Ở ngoài kia đại dươngTrăm ngàn con sóng nhỏCon nào cũng tới bờDù muôn vời cách trở”Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thủy chung là đặc tính của tình yêu:“Dẫu xuôi về phương Bắc...

Page 56: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Hướng về anh một phương”.Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thủy chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:“Làm sao được tan raThành trăm con sóng nhỏGiữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hòa nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung.Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.“Ôi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ được”Đọc xong bài thơ Sóng ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thủy chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Bài 2:

Page 57: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Với bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh viết năm 1967 in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968) được nhều người tiếp cận từ các góc độ khác nhau: có người chú ý đến hình tượng song đôi sóng và em, có người lại cảm nhận âm điệu dạt dào như sóng vang ngân trong suốt bài thơ. Và có người lại tìm hiểu lời tự bạch “và lời tự hát” của một trái tim phụ nữ đắm say, khao khát tình yêu. Nhưng thơ Xuân Quỳnh hay không chỉ nhờ âm điệu, sự cấu tứ hình tượng, hình ảnh và ngôn ngữ thơ đặc sắc. Cái độc đáo trong thơ chị là sự giản dị chân thành, nỗi cháy bỏng đam mê, thẳm sâu.Bài thơ có nhan đề Sóng, rất ngắn gọn, giản dị, nhưng hàm ẩn, gợi mở. Người đọc có thể tuỳ theo lứa tuổi, sự từng trải, óc tưởng tượng của mình để cảm hiêể chủ đề bài thơ ẩn chứa sau cái tên giản dị ấy. Sóng có thể là sóng biển, sóng lòng, sóng tình hay khát vọng dâng trào… Sóng với tính chất mãnh liệt trào dâng và âm vang trẻ trung muôn đời của nó, từ xưa đến nay luôn có mặt trong thi ca nhân loại.Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn, vốn vô cùng thân thiết với những ai yêu thơ Xuân Quỳnh. Vẫn cái nhịp thơ vừa sôi nổi vừa đằm thắm ấy của Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu… mà tiết tấu luôn luôn biến hoá theo sự phong phú của cảm xúc. Ngay từ khổ thơ đâầ, hình tượng sóng đã xuất hiện để rồi từ đó chiếm lĩnh toàn bộ bài thơ. Và cũng từ đấy âm điệu thơ xôn xao, ngân rung theo nhịp sóng. Nhà thơ đã dùng một loạt tính từ và thủ pháp đối với song hành để gieo vào lòng độc giả ấn tượng khó quên về tính chất của sóng:“Dữ dội và dịu êmỒn ào và lặng lẽ”.Đây là một nhật xét xác đáng, hiểu theo cả hai nghĩa tả thực và tượng trưng. Ai đã từng đến với biển hẳn không thể không suy ngẫm về trạng thái ngược kì lạ của nó: Biển trong giông bão, nhưng con sóng gầm gào sủi tung bọt trắng nổi bật trên nền trời và mặt nước xám xịt… Còn biển lúc đẹp trời, sóng nhấp nhô xanh, dịu dàng êm ả dẹt ren mềm vào chân cát. Hai đối cực ấy khiến cho ai đứng trước biển cũng phải ngỡ ngàng và băn khoăn liên tưởng tới tâm trạng con người, tới chính mình. Xuân Quỳnh chắc đã từng có những phút giây như vậy. Khí chất của Sóng mà chị miêu tả gợi độc giả liên tưởng đến tâm hồn người phụ nữ, đến những con sóng lòng

Page 58: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

dào dạt ở người phụ nữ đang đắm say yêu.Cũng ngay ở khổ thơ này, có một câu thơ thường được hiểu theo hai nghĩa: “Sông” hoặc “Sóng” không hiểu nổi bình… Nhưng dù là “sông” hay “sóng” thì đều chỉ chung cái ước vọng khao khát kiếm tìm, vươn tới sự lớn lao, khoáng đạt, tự khám phá và khẳng định mình: “Sóng tìm ra tận bể”.Nhưng nhà thơ miêu tả sóng có phải chỉ để nói về sóng, về biển cả thôi không ?“Ôi con sóng ngày xưaVà ngày sau vẫn thếNỗi khát vọng tình yêuBồi hồi trong ngực trẻ…”Ố! Hoá ra không! Sóng ở đây đươc dùng như một hình ảnh ẩn dụ hay một về so sánh liên tưởng để diễn tả sự “dữ dội và dịu êm” của lòng người, của khát vọng tình yêu tuổi trẻ.Biển vẫn ngàn năm cồnc ào, xáo động, dào dạt, không ngưng nghỉ, không đổi thay, vẫn trẻ trung và bất diệt thế. Ngực biển vẫn luôn rung nhịp đập phập phồng thuỷ triều. Điều này khiến nhà thơ không khỏi suy tư đến khát vọng tình yêu, tuổi trẻ của con người. Đời người là hữu hạn, nhưng tình yêu của con người thì mãi mãi trường tồn, bất diệt, trẻ trung, là mạch nguồn duy trì sự sống hết thế hệ này sang thế hệ khác, muôn đời như muôn nghìn lớp sóng kế tiếp nhau. Khát vọng tình yêu vượt qua thời gian, vượt qua khôn gian, là nhịp sóng dào dạt, bồi hồi của vô hồi vô hạn ngực trẻ. Lời thơ như một lời tâm sự giản dị mà thâm trầm, và nỗi niềm tác giả được bộc lộ. Đứng trước biển, nghĩ về mình, chị sẽ thể hiện điều chính yếu là khát vọng tình yêu của con người, chị phải mở lòng mình giữa biển trời bao la. Đến đây, có lẽ hình tượng sóng không đủ để nhá thơ giãi bày khát vọng của mình, chị muốn bộc bạch trực tiếp với nguời con gái – em – nhân vật trữ tình thứ hai xuất hiện:“Trước muôn trùng sóng bểEm nghĩ về anh, emEm nghĩ về biển lớnTừ nơi nào sóng lên?”Những lời thơ bình dị, chân thật như một lời tâm sự. Bao điều “em nghĩ”, “em nghĩ” ấy cứ dăng hàng kéo về như những đợt sóng nối tiếp nhau và thể thơ năm chữ dường như không

Page 59: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

ngắt nhịp đã chuyển tải thật đắc địa nỗi lòng ngày càng trào dâng ấy:“Sóng bắt đầu từ gióGió bắt đầu từ đâu?Em cũng không biết nữaKhi nào ta yêu nhau”.Vẫn câu hỏi muôn đời của đôi lứa yêu nhau. Những câu hỏi dường như không có lời đáp. Điều bí ẩn khiến con người ta luôn khao khát lí giải, kiếm tìm. Nhưng đó cũng là điều giản dị của tự nhiên - chỉ tự nhiên trả lời được. Nó khiến tự nhiên linh thiêng, tình yêu linh thiêng. Có bao giờ người ta hết ngạc nhiên trước sự thẳm sâu của vụ trụ, của lòng mình ? Có bao giờ hết những bâng khuâng, trăn trở, khao khát kiếm tìm ở những trái tim yêu!Cũng bắt đầu từ hai khổ thơ 3 – 4 này, hình tượng sóng và em luôn luôn sóng đôi nhau, tuy hai mà một, lúc tan trong nhau, lúc nâng nhau lên như những con sóng gối nhau vỗ bờ không ngưng nghỉ, thể hiện khát vọng tình yêu cháy bỏng. Và bởi vậy, lời thơ ngày càng sôi nổi, âm điệu dập dồn. Những con sóng ngày càng trào dâng như tình yêu của em, thiết tha, mãnh liệt:Con sóng dưới lòng sâuCon sóng trên mặt nướcÔi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ được…Nhịp sóng vang động cả bề sâu, về xa, bao trùm cả không gian, thời gian. Sóng không ngủ dù trong lòng sâu hay trên mặt nước, những con sóng dữ dội hay dịu êm, bộc lộ hay đằm sâu, nhưng đều là biển tràn dâng nỗi nhớ. Đọc những vần thơ ấy, không thể không nhớ đến Biển của Xuân Diệu, với làn sóng tình yêu biếc xanh - những nụ hôn nồng nàn của đất trời muôn đời dành cho bờ bãi – như tình yêu đắm say, mãnh liệt khôn cùng của tuổi trẻ. Và biết bao vần thơ khác nữa về nỗi biển nhớ dào dạt, cuồng si…Chỉ bốn câu thơ mà Xuân Quỳnh đã để lại cho điệp từ “con sóng” trở đi trở lại, vang ngân như một điệp khúc, kết hợp cùng thủ pháp đối khiến lời thơ ngập tràn tiếng sóng, lắng sâu vào lòng người đọc.Ngẫm về sóng để nghĩ, hiểu thêm mình, mượn sóng để nói

Page 60: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

lời tình yêu. Bởi vật nỗi nhớ của sóng cũng chính là nỗi nhớ của em, nỗi nhớ được nhân đôi càng cồn cào vời vợi:“Lòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức”. Không chỉ nói “em nhớ anh” mà sâu hơn là “lòng em nhớ đến anh”. Tiếng sóng biển dạt dào, khắc khoải khôn nguôi ấy cũng chính là tiếng sóng của lòng em đó! Sóng không ngủ ư ? Lòng em cũng luôn luôn thao thức, trở trăn nỗi nhớ. Nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức, “xáo trộn cả thực và mơ”. Xưa nay, có tình yêu nào không được đo bằng nỗi nhớ?“Nhớ ai bổi hổi bồi hồiNhư đứng đống lửa như ngồi đống than”(Ca Dao) Cha ông ta xưa đã diễn tả thật hay về nỗi nhớ tương tư của những trái tim yêu. Từ nỗi nhớ bồn chồn khó lí giải đến nỗi nhớ có hình có khối:“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh,Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!”(Tương tư chiều – Xuân Diệu)Thơ ca đã làm ngân rung những sợi tơ lòng đang đắm say yêu. Xuân Quỳnh đã góp thêm vào bản nhạc tương tư những sóng đàn thăm thẳm, dịu em mà nồng nàn, dữ dội. Những suy tưởng trước son sóng nhớ bờ ấy khiến người co gái (em) đằm sâu hơn trong nỗi nhớ thuỷ chung của chính mình:“Dẫu xuôi về phương bắcDẫu ngược về phương namNơi nào em cũng nghĩHướng về anh - một phương”. Không còn em và sóng, chỉ còn em và anh với dấu nối tình yêu. Chỉ có con sóng lòng ngầm ẩn, không có con sóng thực. “Chỉ còn anh và em. Cùng tình yêu ở lại” (Xuân Quỳnh). Ta lại gặp thủ pháp đối ở đây và những lời bộc bạch chân thành, giản dị mà đinh ninh như một lời thề chung thuỷ. Lời thề ấy càng được khắc sâu bằng cách nói trái với lệ thường (xuôi Nam, ngược Bắc):”Dẫu xuôi vè phương BắcDãu ngược về phương Nam”

Page 61: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Dẫu có đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy biến động, dù đất trời có đảo lộn dữ dội đến đâu, em vẫn hướng về phương anh, chẳng đổi thay. Em luôn hướng về anh dù ở đâu, đi đâu, về đâu; như trăm ngàn con sóng kia luôn hướng về bờ cát dù ở muôn trùng khơi xa vời, cách trở. Cũng như hành trình đến bến bờ hạnh phúc, dù khó khăn gian khổ đến đâu thì với tình yêu thuỷ chung, nhất định con thuyền tình yêu sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, cập bến bờ hạnh phúc! Lời thơ ở đây vẫn luôn chảy dạt dào theo mạch suy tưởng, vẫn trào dâng theo nhịp sóng:“Ở ngoài kia đại dươngTrăm ngàn con sóng nhỏCon nào chẳng tới bờDù muôn vời cách trở”. Dường như những con sóng ấy, chở cả niềm tin, niềm hy vọng lớn lao vào tình yêu, hạnh phúc tràn đầy của trái tim ngươờ phụ nữ. Trái tim ấy đang đắm say yêu, đang chất chứa một khát vọng khôn cùng về tình yêu bất diệt.Sang khổ thơ thứ 8, nhịp hthơ chợt chùng lại, thấm đẫm suy tư:“Cuộc đời tuy dài thếNăm tháng vẫn đi quaNhư biển kia dẫu rộngMây vẫn bay về xa…” Nỗi ám ảnh thời gian thường bảng lảng trong thơ Xuân Quỳnh ngay cả khi chị nói về tình yêu, hạnh phúc lại in bóng xuống những dòng thơ này. Có biết bao nỗi niềm ngẫm ngợi sâu xa về đời người, thời gian, không gian, khát vọng tình yêu, khát vọng sống ở bốn câu thơ thấm đậm nỗi buồn ấy.Đời người là hạn hẹp, thời gian là vĩnh hằng, không gian vũ trụ thì vô tận… Còn con người, để đạt được sự vĩnh cửu hoàn thiện ấy chỉ có tình yêu, bởi chỉ có tình yêu là muôn đời trẻ trung, bất tử. Như sóng biển cồn cào không bao giờ ngưng nghỉ, nỗi khát vọng tình yêu mãi mãi bồi hồi trong ***g ngực thanh xuân. Xuân Quỳnh đã hơn một lần nói về điều này trong thơ mình. Ở Thơ tình cuối mùa thu chị viết:

“Thời gian như là gióMùa đi theo tháng năm

Page 62: PHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ mau 12… · Web viewPHÂN TÍCH BAI THƠ : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Tuổi theo mùa đi mãiChỉ còn anh và emChỉ còn anh và emCùng tình yêu ở lại” Chị thường đặt tình yêu giữa không gian bao la (biển khơi, đất trời, mây gió…) và thời gian bất tận (mùa thu đi, ký ức, “thời gian trắng”, “thời gian ơi sao không đổi sắc màu”…) để đi đến tận cùng xứ sở, đến tận cùng đau đớn khổ đau của cuộc đời chị đã nếm trải. Cho nên, thật dễ hiểu cái khát vọng ngày càng dâng lên mãnh liệt khôn cùng trong trái tim người nữ thi sĩ của tình yêu và hạnh phúc đời thường:“Làm sao đựơc tan raThành trăm con sóng nhỏGiữa biển lớn tình yêuĐể ngàn năm còn vỗ”. Trái tim ấy không hề nhỏ nhoi, cô đơn trước sự vĩnh cửu mà rộng lớn, khao khát sẻ chia và hoà nhập vào cõi vĩnh hằng, vào mọi cuộc đời. Trái tim nồng nhiệt ấy ẩn chứa một khát vọng lớn lao được sống mãi trong tình yêu, bất tử với tình yêu.Bài thơ đã khép lại mà những con sóng dạt dào, khắc khoải vẫn vỗ nhịp trong lòng độc giả, vẫn cất tiếng ngân vang một tâm hồn, một tình yêu bất diệt.Sóng sẽ mãi mãi còn nổi sóng!