tai lieu nhiep anh co ban (1)

36
Bài 1: Điều chỉnh khẩu độ & tốc độ chụp Mặc dù công nghệ kỹ thuật có thể thay đổi nhưng những nguyên tắc cơ bản của việc chụp ảnh vẫn y nguyên như 100 năm trước. Có hàng đống sách nhồi đầy những công thức và lý thuyết về ống kính và nhiếp ảnh, nhưng may thay tất cả những gì bạn cần biết chỉ là vài nguyên tắc cơ bản mà chúng tôi sẽ chỉ cho bạn trong khóa học cấp tốc này, một chút kiến thức mà nếu bạn nắm vững bạn sẽ tiến xa trên con đường nhiếp ảnh. Chúng ta sẽ bắt đầu với khẩu độ, tốc độ và ảnh hưởng của chúng tới bức ảnh của bạn. Tại sao ảnh cần phơi sáng đúng? Phơi sáng đúng là yếu tố then chốt để có 1 bức ảnh đẹp, đặc biệt là với nhiếp ảnh số. Nếu bức ảnh của bạn thiếu sáng, những vùng sáng sẽ bị lu mờ còn những vùng tối trở thành đen kịt. Một bức ảnh thừa sáng còn tệ hơn do nguyên lý hoạt động của cảm biến sáng có khuynh hướng làm mất chi tiết của những vùng quá sáng trong ảnh nhiều hơn so với phim chụp truyền thống. Những vùng bị cháy sáng hiện ra như 1 mảng trắng xóa nhìn rất khó chịu mà không một software nào có thể cứu vãn được bởi vì không có chi tiết nào trong những vùng cháy sáng đó _ bạn không thể tăng cường hay cứu vãn những gì không tồn tại. Điều chỉnh khẩu độ ống kính (Aperture) Mặc dù các loại máy đời mới hiện đại được trang bị hàng loại tính năng rối rắm, về cơ bản chúng cũng chỉ là 1 cái hộp chứa 1 bộ phận cảm quang bên 1

Upload: nguyen-nguyen

Post on 15-Dec-2015

30 views

Category:

Documents


0 download

DESCRIPTION

nhiếp ảnh

TRANSCRIPT

Bài 1: Điều chỉnh khẩu độ & tốc độ chụp

Mặc dù công nghệ kỹ thuật có thể thay đổi nhưng những nguyên tắc cơ bản của việc chụp ảnh vẫn y nguyên như 100 năm trước. Có hàng đống sách nhồi đầy những công thức và lý thuyết về ống kính và nhiếp ảnh, nhưng may thay tất cả những gì bạn cần biết chỉ là vài nguyên tắc cơ bản mà chúng tôi sẽ chỉ cho bạn trong khóa học cấp tốc này, một chút kiến thức mà nếu bạn nắm vững bạn sẽ tiến xa trên con đường nhiếp ảnh.

Chúng ta sẽ bắt đầu với khẩu độ, tốc độ và ảnh hưởng của chúng tới bức ảnh của bạn.

Tại sao ảnh cần phơi sáng đúng?Phơi sáng đúng là yếu tố then chốt để có 1 bức ảnh đẹp, đặc biệt là với

nhiếp ảnh số. Nếu bức ảnh của bạn thiếu sáng, những vùng sáng sẽ bị lu mờ còn những vùng tối trở thành đen kịt. Một bức ảnh thừa sáng còn tệ hơn do nguyên lý hoạt động của cảm biến sáng có khuynh hướng làm mất chi tiết của những vùng quá sáng trong ảnh nhiều hơn so với phim chụp truyền thống. Những vùng bị cháy sáng hiện ra như 1 mảng trắng xóa nhìn rất khó chịu mà không một software nào có thể cứu vãn được bởi vì không có chi tiết nào trong những vùng cháy sáng đó _ bạn không thể tăng cường hay cứu vãn những gì không tồn tại.

Điều chỉnh khẩu độ ống kính (Aperture)Mặc dù các loại máy đời mới hiện đại được trang bị hàng loại tính năng

rối rắm, về cơ bản chúng cũng chỉ là 1 cái hộp chứa 1 bộ phận cảm quang bên trong (đó là phim trong nhiếp ảnh truyền thống, và tấm sensor với nhiếp ảnh số ngày nay).

Ống kính định hướng ánh sáng đến bộ phận cảm quang này và hình ảnh được ghi lại. Vấn đề duy nhất là bạn cần phải kiểm soát được lượng ánh sáng tác động vào bộ phận cảm quang. Điều đó được thực hiện qua việc điều chỉnh khẩu độ của ống kính và tốc độ chụp - 2 thông số cơ bản nhất để tạo thành 1 bức ảnh.

Khẩu độ (hay độ mở) của ống kính, được điều chỉnh mở lớn hay khép nhỏ bởi những lá thép nằm trong ống kính, quyết định lượng ánh sáng tác động đến sensor khi bạn chụp; còn tốc độ chụp, điều chỉnh bởi thời gian đóng mở một màn che phía trước sensor, kiểm soát thời gian lượng ánh sáng đó tác động vào sensor. Phối hợp 2 thông số này bạn sẽ có độ phơi sáng mong muốn trong mọi điều kiện chụp. VD: tốc độ chụp nhanh + khẩu độ

1

khép nhỏ để chụp trong hoàn cảnh ánh sáng mạnh như trời nắng gắt ngoài bãi biển. Ngược lại, tốc độ chậm + khẩu độ mở lớn để chụp nơi thiếu ánh sáng. Một bức ảnh có độ phơi sáng đúng sẽ tái tạo trung thực những mức sáng mà mắt người cảm nhận được, bức ảnh phơi sáng thiếu sẽ bị tối đen , bức ảnh phơi sáng dư sẽ trắng lóa (mà ta hay nói là thiếu sáng, thừa sáng).

Khoảng rõ nét (depth of field, depth of focus): Tuy nhiên, điều chỉnh độ phơi sáng không phải là mục đích duy nhất của khẩu độ và tốc độ. Ngoài việc kiểm soát độ phơi sáng, thay đổi các thông số này còn tạo ra những hiệu ứng khác cho bức ảnh của bạn. Hiệu ứng chính gắn liền với khẩu độ là khoảng rõ nét của ảnh (còn gọi là chiều sâu ảnh trường). Nguồn gốc hình thành khoảng rõ nét này khá phức tạp nhưng quy tắc ứng dụng nó thì đơn giản: khẩu độ ống kính khép nhỏ sẽ khiến cho nhiều vật thể của cảnh chụp nằm trong khoảng rõ nét hơn là khẩu độ mở lớn. Vận dụng nó phù hợp bạn sẽ đạt được hiệu quả sáng tạo mong muốn: mở khẩu độ thật lớn để xóa mờ hậu cảnh khi chụp chân dung hay khép nhỏ tối đa để làm rõ nét từ cành cây trước mặt đến ngọn núi xa xa khi chụp phong cảnh.

Độ sắc nét của ảnh (image sharpness): khẩu độ cũng có thể ảnh hưởng phần nào tới độ nét của bức ảnh, đặc biệt nếu bạn dùng máy DSLR. Một bức ảnh có thể nhìn kém sắc nét mặc dù, xét về kỹ thuật, đối tượng chụp vẫn nằm đúng khoảng rõ nét (in focus). Điều này thường xảy ra khi bạn chụp ở khẩu độ mở tối đa của ống kính, lúc này toàn bộ bề mặt thấu kính được sử dụng mà chất lượng quang học của thấu kính thường bị suy giảm ở phần rìa ngoài (vì thế mà các ống kính vẫn duy trì được chất lượng tốt ở độ mở lớn rất đắt tiền). Khép bớt khẩu độ 1, 2 nấc sẽ hạn chế được vấn đề này, đồng thời giúp giảm thiểu các lỗi quang sai khác.

Chỉ số khẩu độ: Độ mở của ống kính được biểu thị bằng dãy số F trên các ống kính điều khiển cơ học đời cũ hoặc bằng các giá trị Av trên máy ảnh số hiện nay gồm 1, 1.4, 1.8, 2, 2.8…11, 22, 32. Bạn không cần tìm hiểu nhiều về cách thức hình thành dãy số này mà chỉ cần nhớ một điều: chỉ số khẩu độ và độ mở ống kính có tương quan tỷ lệ nghịch với nhau _ số càng nhỏ tương ứng với ống kính mở càng lớn, lượng ánh sáng vào càng nhiều, số càng lớn thì khẩu độ càng nhỏ, lượng ánh sáng vào càng ít. Vì vậy, khi cần đóng nhỏ khẩu độ thì bạn lại phải tăng chỉ số lên và ngược lại .

Các ống kính bình thường có dãy khẩu độ từ 3.5 hay 4 - 22, các ống kính có chỉ số khẩu độ từ 2.8 trở xuống được gọi là ống kính “nhanh” và thường đắt tiền nhưng rất được ưa chuộng bởi các nhiếp ảnh gia chụp thể thao hay sinh hoạt đường phố do tác nghiệp được trong nhiều điều kiện ánh sáng khác nhau.

2

Điều chỉnh tốc độ chụp (shutter speed)

Cùng với khẩu độ ống kính, tốc độ chụp là thông số thứ 2 bạn cần nắm vững để chụp được những tấm ảnh đúng sáng. Cụm từ “tốc độ chụp” có thể gây lúng túng đôi chút với những ai mới làm quen với nhiếp ảnh, vì thực ra nó không biểu thị tốc độ đóng mở của màn chắn sensor (màn trập _ theo ngôn ngữ chuyên nghiệp ) mà biểu thị khoảng thời gian cái màn trập đó mở ra cho ánh sáng lọt vào (thuật ngữ "thời chụp" có lẽ thích hợp và dễ hiểu hơn). Màn trập đơn giản chỉ là 1 cái màn che trước sensor không cho ánh sáng lọt vào, chỉ mở ra khi bạn nhấn nút chụp và chỉ duy trì trạng thái mở trong 1 khoảng thời gian đã được bạn ấn định trước. Chỉ số tốc độ được biểu thị bằng giây và các phân số của giây như 1s, 2s, …1/60, 1/125, 1/250…, 1/8000. Thường thì người ta lược bỏ phần tử số của phân số và chỉ ghi là 60, 125, 250… Hầu hết các bức ảnh thông thường được chụp với tốc độ trong khoảng 1/60 – 1/250s.

Giống như khẩu độ, ngoài việc kiểm soát lượng ánh sáng tác động vào cảm biến, tốc độ còn có hiệu ứng khác đối với ảnh chụp. Một bức ảnh là sự bắt đứng của 1 khoảnh khắc thời gian, vì thế tùy vào tốc độ chụp khác nhau ta sẽ có những khoảnh khắc dài ngắn khác nhau. Bạn có thể tùy biến tốc độ để tạo ra những hiệu quả sáng tạo kỳ thú nhưng bạn cũng cần lưu ý để tránh những vấn đề của nó.

Tốc độ chụp khác nhau sẽ mang đến cho bạn 3 loại hiệu ứng sáng tạo khác nhau: bắt đứng 1 hành động hay chuyển động với tốc độ thật nhanh, tạo hiệu ứng huyền ảo cho chuyển động với tốc độ chụp chậm tới vài giây hoặc lâu hơn, và tạo ra ấn tượng sinh động cho hành động với 1 tốc độ chụp vừa phải thích hợp.

Tốc độ thích hợp để bắt đúng chuyển động của đối tượng chụp tùy thuộc vào ý đồ chụp và các yếu tố sau: tốc độ chuyển động của đối tượng, khoảng cách từ máy đến đối tượng và góc tương quan giữa trục ống kính với hướng di chuyển của đối tượng. Thông thường thì với tốc độ 1/250s trở lên bạn có thể bắt đứng 1 hành động mà không bị mờ nhòe. Với các hiệu ứng của tốc độ chụp chậm, cách tốt nhất là chụp thử và rút kinh nghiệm cho từng tình huống.

Tạo sự sinh động cho hành động: Thách thức lớn nhất trong việc chọn tốc độ chụp một hành động là làm sao tốc độ đủ chậm khiến cho đối tượng hơi bị mờ nhòe để diễn tả sự chuyển động nhưng không chậm đến mức khiến cho cả bức ảnh biến thành 1 mớ hỗn độn. Hãy thử các tốc độ từ 1/10s – 1/30s, tất nhiên với những điều chỉnh khẩu độ tương ứng để đảm bảo ảnh đúng sáng và nên sử dụng chân máy.

3

Tốc độ chụp và sự rung máy: Nếu bạn giữ máy bằng tay, bạn cần phải chú ý đến điều này: bạn không thể nào giữ máy cố định tuyệt đối, tay bạn luôn luôn có sự rung nhẹ cho dù bạn có giữ máy chắc thế nào đi nữa. Thông thường với tốc độ chụp 1/125s thì bạn không phải lo lắng vì sự rung tay không đủ thời gian gây hậu quả tới bức ảnh, nhưng với tốc độ từ 1/60s hoặc chậm hơn, rung tay sẽ gây ra sự mờ nhòe làm hỏng bức ảnh. Tuy nhiên giới hạn tốc độ an toàn tối thiểu còn phụ thuộc vào trọng lượng bộ máy và tiêu cự ống kính bạn sử dụng.

Làm thế nào để tránh bị rung máy: Có nhiều cách bạn có thể làm để giảm thiểu tác hại của sự rung máy.

Đầu tiên là, quá hiển nhiên, giữ máy cho thật chắc bằng cách ép 2 tay sát người tựa hẳn lên ngực, thở hết hơi khỏi lồng ngực trước khi bấm máy, đừng bấm máy một cách đột ngột rồi thả ra ngay mà hãy nhấn xuống từ từ và giữ nguyên ngón tay tại nút bấm thêm khoảng nửa giây sau khi chụp. Thực hành theo hướng dẫn trên và bạn sẽ thấy mình giữ máy chụp tay được ở những tốc độ chậm hơn so với trước đó.

Dựa người vào đâu đó: Nếu bạn có thể tựa mình vào vật gì đó bạn sẽ có thể giữ máy chắc chắn hơn _ dựa vào khung cửa hay thân cây, tì khuỷu tay lên lưng ghế, quỳ xuống đất… Tất nhiên lý tưởng nhất là sử dụng chân máy nhưng nó khá cồng kềnh để mang theo khắp nơi. Một dụng cụ phụ trợ tốt là một cái túi nhỏ nhồi hạt xốp (ai cũng có thể tự làm), nó cho phép bạn cố định máy trên những vị trí không bằng phẳng (như trạc cây hay bờ tường) nhưng vẫn đủ linh hoạt để xoay sở với việc bố cục.

Bên cạnh đó, máy ảnh cũng có thể giúp bạn phần nào. Nếu bạn phải chụp với tốc độ chậm trong điều kiện ánh sáng yếu, hãy mở chế độ chụp liên thanh (burst mode). Cố giữ máy chắc tối đa như hướng dẫn ở trên, bấm và giữ nút chụp để máy chụp liên tục 4, 5 kiểu. Bạn sẽ tìm được 1 hay 2 tấm ảnh rõ nét hơn các ảnh khác bởi vì thời điểm màn trập nhảy rơi đúng vào giữa 2 nhịp đập của tim bạn _ dù bạn có tin hay không thì nhịp tim bạn cũng có thể tác động đáng kể đến sự rung máy.

Một kế sách nữa là hãy lùi ra xa (hoặc zoom out). Bạn càng đứng gần (hoặc zoom in càng gần) thì ảnh hưởng của sự rung máy càng lớn. Tuy nhiên cần nhớ mục đích chính của zoom (cả bằng chân lẫn bằng ống kính) là để tạo bố cục ảnh phù hợp chứ không phải để chữa parkinson .

Lợi ích của việc tùy chỉnh ISO trên máy ảnh số: thay đổi độ nhạy sáng ISO tùy thích là điểu mà máy chụp phim không thể làm được như máy số.

4

Bạn có thể tận dụng tính năng này khi chụp trong điều kiện ánh sáng yếu _ tăng chỉ số ISO lên và bạn có thể chụp với tốc độ nhanh hơn, hệ quả tất yếu là giảm nguy cơ rung máy.

Quy tắc vàng: Lỗi do rung máy rất khó phát hiện khi bạn xem lại hình trên cái lcd nhỏ xíu của máy ảnh, cho dù bạn có phóng đại hết cỡ. Tất cả có vẻ hoàn hảo. Nhưng khi bạn trở về nhà và load ảnh vào máy tính thì ôi thôi, sao nó lại bị nhòe thế này .

Hầu hết các khóa dạy nhiếp ảnh đều dạy bạn là tốc độ chụp an toàn tối thiểu là bằng (hoặc số gần nhất bằng) với tiêu cự ống kính đang sử dụng. Tuy nhiên nếu bạn sử dụng máy cùng ống kính pro nặng trịch và thường xuyên phóng ảnh khổ lớn thì quy tắc vàng thực sự là hãy nhân đôi số đó lên, tức tốc độ chụp an toàn khi giữ máy bằng tay phải gấp đôi tiêu cự đang chụp.

Với những bạn mới sử dụng máy ảnh hoặc chưa có nhiều kinh nghiệm thì việc ghi nhớ các thông số dưới đây là vô cùng cần thiết để có thể chụp ảnh đẹp mà không bị rung máy (trừ khi bạn cố ý muốn hiệu quả này):

- Tốc độ nhỏ hơn <1/60s bạn cần sử dụng chân máy ảnh hoặc đặt máy ảnh trên một điểm tựa vững chắc.

- Tốc độ 1/60s là giới hạn để chụp ảnh cầm tay - Tốc độ 1/250 dùng để chụp các chuyển động - Tốc độ từ 1/500s trở lên dùng để ghi lại chính xác những chuyển động

nhanh và tinh tế - Tốc độ từ 1/4000s trở lên có thể làm "đóng băng" các chuyển động.

5

Bài 2: Camera settings

Các máy ảnh số ngày nay thường được lèn đầy ắp các chế độ chụp, các nút điều chỉnh, các trình đơn và nhiều tính năng khác. Tuy chúng có thể làm bạn bối rối nhưng đừng coi chúng là trở ngại _ vì đó chính là lợi ích của nhiếp ảnh số: sự linh hoạt. Một số tính năng cực kỳ hữu dụng trong khi một số khác thì không mấy khi được dùng đến. Trong phần tiếp theo này chúng ta sẽ tìm hiểu về các tính năng liên quan đến việc chụp ảnh mà bạn nhất thiết phải biết, và tác động của chúng lên những bức ảnh bạn chụp.

Các chế độ chụp của máy ảnh

Nếu bạn chỉ sử dụng máy ảnh của bạn ở mỗi chế độ tự động hoàn toàn thì thật là thiếu sót. Tất cả các máy ảnh DSLR và nhiều máy ảnh số bỏ túi loại tốt đều có các chế độ chụp từ bán tự động đến chỉnh tay hoàn toàn cho phép bạn lựa chọn những gì mình muốn trong sáng tác thay vì để con chip trong máy ảnh quyết định giúp. Dưới đây chúng ta sẽ điểm qua những chế độ chụp chính yếu mà hầu như máy ảnh nào cũng có. Ngoài chế độ chụp tự động hoàn toàn (thường được ký hiệu bằng 1 hình chữ nhật màu xanh), có 4 chế độ chụp cơ bản được ký hiệu là P, A (hay Av), S (hay Tv) và M. P là viết tắt của Program, A là Aperture (khẩu độ), S là Shutter (tốc độ _ hay Time, thời chụp), M là Manual (chỉnh tay).

Chế độ Program (P mode): khi bạn nhận ra những hạn chế của việc chụp tự động hoàn toàn thì chế độ P sẽ là nấc thang kế tiếp trên con đường học hỏi. Chế độ P vẫn chưa cho phép bạn tự chủ về khẩu độ lẫn thời chụp nhưng nó cho bạn truy xuất qua trình đơn (menu) đến những tùy chọn thường bị khóa trong chế độ tự động hoàn toàn. Với máy DSLR, nó cho phép bạn chọn lưu ảnh theo định dạng RAW và tùy chọn độ nhạy sáng ISO. Nếu bạn thay đổi 1 thông số nào đó có ảnh hưởng đến độ phơi sáng, ví dụ như tăng ISO lên, thì máy ảnh sẽ tự động giảm thời chụp để giữ cho ảnh đúng sáng. Bạn cũng có nhiều quyền điều khiển hơn với các chế độ lấy nét. Bạn có thể làm vài điều chỉnh nho nhỏ với độ phơi sáng và máy ảnh sẽ tự động đồng bộ các thông số liên quan khác.

Chế độ ưu tiên thời chụp (Tv hay S mode): đây là chế độ ưa thích của các nhiếp ảnh gia thể thao và bất kỳ ai thích chụp ảnh hành động hay các đối tượng di động. Nguyên tắc hoạt động của chế độ này rất đơn giản: điều duy nhất bạn cần làm là chọn thời chụp bạn muốn và máy ảnh sẽ thiết lập thông số còn lại _ khẩu độ _ để ảnh được phơi sáng đúng. Tại sao chế độ này hữu ích? Bởi vì khi bạn muốn bắt được 1 hành động nhanh, điều cốt yếu là tốc độ phải đủ nhanh, những yếu tố khác như khoảng rõ nét hay đặt ISO thấp

6

(để ảnh mịn hơn) không quan trọng. Vì bạn đã xác lập 1 thời chụp nhất định, máy ảnh sẽ phối hợp các thông số khác sao cho đúng sáng để bạn có thể tập trung theo dõi hành động.

Chế độ ưu tiên khẩu độ (Av mode): chế độ Av là nghịch đảo của chế độ Tv, và được sử dụng thường xuyên trong chụp ảnh chân dung, và phong cảnh. Như tên gọi đã thể hiện rõ, bạn chọn khẩu độ muốn sử dụng và máy ảnh sẽ tự tính toán thời chụp để phơi sáng đúng mức. Nhớ rằng khẩu độ không chỉ điều chỉnh lượng ánh sáng vào cảm biến mà còn tác động đến khoảng rõ nét của ảnh. Khi chụp chân dung, ta thường mở khẩu độ thật lớn để có khoảng rõ nét mỏng, nhờ đó phần hậu cảnh nằm ngoài khoảng rõ sẽ bị xóa nhòa và lảm nổi bật đối tượng chụp. Ngược lại, khi chụp phong cảnh, thường bạn sẽ muốn lấy được càng nhiều chi tiết rõ nét càng tốt và bạn sẽ đặt 1 khẩu độ thật nhỏ để có được khoảng rõ sâu tối đa, máy ảnh sẽ tự thiết lập thời chụp tương ứng.

Ở đây có 1 điểm cần lưu ý: khi bạn đặt khẩu độ nhỏ thì máy sẽ tăng thời gian phơi sáng để bù cho lượng ánh sáng bị hạn chế, nghĩa là thời chụp giảm đi, có thể dưới mức an toàn để giữ máy bằng tay, hãy nhớ kiểm tra thông số trước khi chụp và sử dụng chân máy nếu cần thiết. Khi chụp phong cảnh ta thường đặt chỉ số ISO thấp để đạt độ nét tối đa, nên hiếm khi sử dụng biện pháp tăng chỉ số ISO để tăng thời chụp.

Chế độ chỉnh tay hoàn toàn (Manual mode): không dành cho những người nhút nhát, chế độ này cho bạn toàn quyền thiết lập mọi thông số trên máy ảnh. Bạn có thể thay đổi tất cả các chức năng, tùy biến … trong trình đơn. Khẩu độ và thời chụp được thiết lập độc lập với nhau, tùy theo ý bạn. Điều này có nghĩa là, bạn có thể đặt các thông số phơi sáng sai bét nhè, trừ phi bạn biết rõ mình đang làm cái gì, và máy ảnh không thực hiện bất cứ sự chỉnh sửa nào. Chế độ chỉnh tay rất khó sử dụng và bạn cần tốn nhiều thời gian học hỏi và thực hành trước khi xách máy đi chụp bất kỳ cái gì. Nhưng một khi bạn làm chủ được nó, đó sẽ là cách hữu dụng nhất để sử dụng máy ảnh của bạn, chưa kể đó chính là lý do tốt nhất để mua một cái máy ảnh DSLR .

Các chế độ tự động khác: nhiều máy ảnh số hiện nay được trang bị hàng chục chế độ chụp khác nhau, được thiết kế cho từng tình huống cụ thể như chụp tuyết, chụp hoàng hôn, chụp thể thao, pháo hoa… Thực ra tất cả các chế độ đó đều dựa trên 4 chế độ cơ bản PASM ở trên, vì thế một khi bạn đã quen thuộc với các chế độ cơ bản thì những chế độ kia chỉ có tính chất trang trí mà thôi. Đó cũng là lý do máy pro chỉ có PASM trong khi những máy ảnh compact có 1 danh sách dài dằng dặc các kiểu chế độ. VD trong chế độ tự động chụp thể thao, máy sẽ ưu tiên cho thời chụp hơn các thông số

7

khác nhưng không cho phép bạn tự xác định thời chụp. Lý do: nếu bạn thiếu kinh nghiệm, bạn có thể đẩy thời chụp lên qua nhanh khiến cho máy không có đủ mức khẩu độ bù trừ tương ứng và ảnh của bạn sẽ bị thiếu sáng. Nói chung, vài chế độ tự động có thể có ích nhưng bạn sẽ kiểm soát được kết quả cuối cùng tốt hơn nếu bạn dùng các chế độ chỉnh tay hay bán tự động.

Độ nhạy sáng ISO

Số megapixel mà máy ảnh đạt được từng là công cụ quảng cáo mạnh nhất trên thị trường máy ảnh số nhưng ngày nay bạn thường thấy thêm 1 con số nữa, đó là chỉ số độ nhạy sáng ISO, có thể lên tới 1600, 3200 hay thậm chí 6400. Nói một cách đơn giản, máy ảnh có chỉ số ISO tối đa càng cao thì lượng ánh sáng cần thiết để chụp được ảnh càng nhỏ, nghĩa là tính khả dụng của máy trong điều kiện ánh sáng yếu càng lớn. Tất nhiên là không tính đến việc dùng đèn flash. Tại sao lại không dùng flash nhỉ? Vì flash thường không phải là công cụ tốt để bổ sung ánh sáng cho cảnh chụp. Trong khi ánh sáng tự nhiên thường mượt mà và tôn chủ đề lên, thì flash lại tạo ra những bóng đổ khó chịu không đúng chỗ làm hỏng bức ảnh. Thậm chí, với ảnh chân dung, flash có thể khiến 1 đối tượng hấp dẫn trông như vừa trải qua 1 tháng ăn chơi vô độ. Đây là lúc chức năng chỉnh ISO thể hiện vai trò của nó. Hãy tăng gấp đôi, thậm chí gấp 3 chỉ số ISO lên và bạn có thể chụp những gì mình muốn mà không cần đến flash. Đối với máy ảnh số điều đó quá đơn giản, chỉ cần khuếch đại các tín hiệu số thu được từ cảm biến.

Ví dụ bạn đang chụp một bữa tiệc trong nhà cùng bạn bè với ISO đặt ở 100, thời chụp cần thiết có thể lên tới 1/2s và chắc chắn ảnh của bạn sẽ bị nhòe do rung máy. Tăng ISO lên 400, bạn sẽ có thời chụp rút ngắn còn 1/8s và bạn có cơ may có vài tấm ảnh nhìn tạm được. Nhưng nếu máy ảnh của bạn có chỉ số ISO lên tới 3200 thì trong cùng điều kiện ánh sáng đó bạn chỉ cần thời chụp 1/60s, và bạn có thể có những tấm ảnh khá rõ nét, đặc biệt nếu bạn để máy chụp liên thanh.

Mặt trái của ISO cao: Nếu ISO cao có lợi như thế thì tại sao các máy ảnh số vẫn duy trì cái chỉ số 100 nhàm chán đó? Bởi vì nhược điểm khi đặt chỉ số ISO cao là ảnh sẽ bị nhiễu. Nó biểu hiện trên bức ảnh dưới dạng những đốm màu và các hạt lấm tấm. Nguyên nhân là khi máy ảnh khuếch đại các tín hiệu số từ cảm biến, nó cũng khuếch đại luôn các tạp nhiễu nội tại mà mọi thiết bị điện tử đều có. Hiệu ứng này giống hệt như tiếng ù nền mà bạn nghe thấy khi vặn to volume tivi hay dàn hi-fi. Đặt chỉ số ISO càng cao, tức là mở volume càng lớn, và nhiễu cũng càng lớn. Thật là tệ! Cho đến gần đây, hầu hết các máy ảnh số loại bỏ túi không thể đặt ISO lớn hơn 400 vì sẽ cho ra những bức ảnh không thể chấp nhận được. Nhưng kỹ thuật ngày càng tiến bộ và xuất hiện ngày càng nhiều máy ảnh có thể đặt ISO lên tới 6400.

8

Tuy nhiên đừng bị đánh lừa bởi những con số đó, việc máy ảnh của bạn cho phép đặt ISO tới 1600, 3200 hay 6400 không đồng nghĩa với việc bạn có thể chụp những bức ảnh khả dụng ở độ nhạy đó. Bạn cần phải tự thực nghiệm để xác định lên tới số ISO nào thì chất lượng ảnh còn chấp nhận được. Lưu ý: thế nào là chấp nhận được cũng còn tùy thuộc vào việc bạn chụp cái gì và đôi khi một chút nhiễu sẽ làm tăng hiệu quả thị giác cho bức ảnh.

Kiểm soát thiết lập ISO của máy ảnh: Ở chế độ tự động hoàn toàn, máy ảnh sẽ cố gắng giữ ISO ở mức thấp nhất có thể để bảo đảm ảnh được rõ nét, và thay vì nâng ISO lên nó sẽ tự động bật flash gắn kèm (built-in flash, nếu có)_ điều mà bạn không muốn. Hãy chuyển máy ảnh qua các chế độ chụp nâng cao (như Av hay P) rồi tìm trong trình đơn máy mục ISO setting để đặt đúng mức ISO bạn muốn. Tất nhiên bạn cũng có thể làm theo hướng ngược lại: nếu bạn chụp phong cảnh với ánh sáng yếu nhưng có chân máy vững chắc bạn có thể bắt máy chụp ở mức ISO thấp nhất để đạt độ chi tiết tối đa. Nếu bạn chỉ chụp ảnh để chia xẻ trên internet thì bạn có thể yên tâm sử dụng ISO cao vì hiệu ứng nhiễu hầu như không thể nhận ra khi ảnh được giảm độ phân giải và kích thước cho phù hợp với các ứng dụng web.

(Để khắc phục những nhược điểm của flash bạn có thể dùng tấm tản sáng, dùng 2 hay 3 đèn từ nhiều hướng cùng lúc hoặc dùng kỹ thuật đánh flash gián tiếp _ không chiếu đèn trực tiếp vào đối tượng mà hướng đèn vào một mặt phẳng khác để ánh sáng phản xạ từ đó chiếu lên đối tượng _ nhưng đó lại là 1 câu chuyện khác.)

Cân bằng trắng (White Balance _ WB)

Cũng tương tự như với chỉ số ISO, máy ảnh của bạn thường tự động thiết lập thông số cân bằng trắng. Thiết lập tự động này tương đối đúng ở mức độ nào đó nhưng hiếm khi đúng tuyệt đối. Trong hầu hết các tình huống chụp thông thường, bạn có thể phó thác việc này cho máy ảnh nhưng khi bạn muốn đạt được 1 bức ảnh hoàn hảo về màu sắc, hãy dành vài giây để tự xác lập thông số này.

Cân bằng trắng là gì? Chúng ta nhìn thấy được mọi vật xung quanh là vì chúng phản xạ ánh sáng. Các vật thể có màu sắc khác nhau là do chúng hấp thu và phản xạ các sóng ánh sáng khác nhau trong dải quang phổ. Một vật thể mà ta nhìn thấy màu trắng nghĩa là nó phản xạ hầu hết dải quang phổ của ánh sáng mặt trời, tức là loại ánh sáng trắng như chúng ta thường gọi. Nhưng nếu ánh sáng chiếu lên vật thể không phải là ánh sáng trắng thì khi đó cái vật thể trắng đó cũng không còn trắng nữa. Tuy nhiên hệ thống mắt và thần kinh thị giác của con người có khả năng tự động bù trừ sai biệt màu sắc

9

đó và cái gì mà chúng ta đã biết là màu trắng thì ta vẫn cảm thấy nó trắng. Máy ảnh thì không thông minh như thế và để ghi nhận màu trắng của nững vật thể trắng, lấy đó làm chuẩn cho các màu khác, nó áp dụng bù màu bằng cách suy đoán loại ánh sáng chiếu lên vật thể mà bạn đang chụp rồi điều chỉnh những thông số cần thiết.

VD: ánh sáng mặt trời có nhiều sắc lam hơn là ánh đèn dây tóc (tungsten), nếu bạn đang chụp ngoài trời và máy ảnh nhận biết đúng điều đó thì nó sẽ điều chỉnh giảm bớt sắc lam và màu sắc tổng thể sẽ cân bằng. Nếu nó nghĩ sai và cho rằng bạn đang ở trong nhà, dưới ánh sáng vàng của đèn dây tóc thì nó sẽ tăng sắc lam lên để cân bằng tổng thể màu, khiến cho toàn bộ bức ảnh của bạn bị ngả sang màu lam (thuật ngữ chuyên môn gọi là bị áp sắc).

Thiết lập chính xác độ cân bằng trắng: Để tránh cho máy ảnh phải đoán (và có thể sai), bạn cần chỉ rõ cho nó biết là bạn đang ở trong điều kiện ánh sáng nào bằng cách đặt thông số WB phù hợp. Có 2 cách để thực hiện điều này, cách 1 rất nhanh và dễ và cũng khá chính xác, cách 2 chậm hơn 1 chút nhưng sẽ chính xác tuyệt đối nếu bạn làm đúng.

Cách 1: chọn 1 trong những thông số cài đặt sẵn trên máy ảnh của bạn phù hợp với hoàn cảnh ánh sáng thực tế. Thường có ít nhất 5 lựa chọn gồm: tungsten (đèn dây tóc), fluorescent (đèn huỳnh quang), flash dành cho lúc chụp trong nhà; và nắng gắt (sunny, sunlight), nhiều mây (cloudy), trong bóng râm (shadow)… dành cho chụp ngoài trời. Một số máy ảnh cho phép bạn chọn WB ngay cả ở chế độ tự động hoàn toàn, một số máy khác bắt bạn phải chuyển sang 1 chế độ bán tự động hay chỉnh tay. Chuyển qua chế độ chụp cần thiết, chọn kiểu WB phù hợp, thế là xong. Nhưng đừng quên chỉnh lại WB (hoặc trả nó về tự động) khi hoàn cảnh chụp thay đổi.

Cách 2: Chụp mẫu. Với cách này, bạn sẽ báo cho máy ảnh biết chính xác điều kiện ánh sáng mình chụp bằng cách cho nó “nhìn thấy” một bề mặt màu trung tính dưới đúng ánh sáng đó. Thuật ngữ “trung tính” có thể hơi khó hiểu nếu bạn chưa quen, đại loại nếu 1 màu nào đó nhìn có vẻ ấm hay lạnh thì màu đó không “trung tính”.

Hãy giữ 1 mảnh giấy hay bìa hoàn toàn trắng, không lẫn hay pha 1 màu nào khác (hoặc tốt hơn là một miếng bìa xám trung tính _ gray card_ có bán tại các camera shop) phía trước ống kính sao cho nó lấp đầy khung ngắm, được chiếu sáng trực tiếp và không bị bóng đổ của vật nào in lên.

Chụp tấm bìa đó rồi nạp ảnh đó vào mục Custom White Balance trong trình đơn máy. Từ việc phân tích màu mẫu trung tính đó, máy ảnh sẽ suy ra phải thực hiện cân bằng trắng như thế nào cho đúng và ghi nhận chính xác các màu sắc khác của khung cảnh. Bức ảnh của bạn sẽ không bị sai sắc.

10

Tất nhiên cũng có những tình huống mà bạn muốn bức ảnh có màu sắc không giống như thực tế, bạn có thể muốn bức ảnh có tông màu ấm áp hơn. Đừng lo về việc đó. Điều thú vị trong nhiếp ảnh kỹ thuật số là bạn có thể làm tất cả những điều chỉnh đại loại như thế trên máy tính, sau khi bạn tải ảnh vào. Tốt nhất là luôn luôn khởi đầu bằng cách ghi lại dữ liệu cơ bản một cách chính xác rồi hãy sử dụng software để biến hóa dữ liệu đó tùy thích.

Các chế độ đo sáng (metering modes)

Nhiếp ảnh là trò chơi với ánh sáng, bạn không thể chụp được những bức ảnh đẹp nếu bạn không tính được có bao nhiêu ánh sáng đang chiếu lên đối tượng bạn định chụp. Hầu như bạn không thể đoán đúng được lượng ánh sáng hiện có của khung cảnh vì hệ thống thị giác của mắt người luôn tự điều tiết theo ánh sáng xung quanh. Bạn cần phải dựa vào hệ thống đo sáng của máy ảnh để quyết định độ phơi sáng cần thiết. Nhưng ngay cả máy ảnh của bạn cũng có nhiều cách khác nhau để ước đoán lượng ánh sáng cần thiết.

Cần biết rằng, điều chỉnh độ phơi sáng (kết hợp khẩu độ và thời chụp) thường là một sự thỏa hiệp vì máy ảnh không thể ghi nhận toàn bộ dải cường độ ánh sáng. Sự thỏa hiệp thường diễn ra như sau: bạn muốn có độ phơi sáng đúng cho 1 phần đặc biệt nào đó của bức ảnh và chấp nhận những phần khác sẽ chìm trong bóng tối hoặc trở nên trắng xóa do thiếu hay thừa sáng; hay là bạn chọn một mức phơi sáng trung bình nào đó để toàn cảnh đều hiện rõ tương đối; hay là bạn muốn kết hợp cả 2 cách trên nhưng hơi ưu tiên cho phần chi tiết bạn ưa thích. Ba lựa chọn trên cũng chính là những gì mà các chế độ đo sáng của máy ảnh cung cấp cho bạn.

Chế độ đo ma trận (matrix metering): còn được gọi là chế độ đo lượng giá (evaluative), là chế độ đo sáng mặc định của tất cả các máy ảnh khi ở chế độ chụp tự động. Chế độ này sử dụng những thuật toán phức tạp phân tích khung hình của bạn và so sánh với dữ liệu mẫu nạp sẵn trong máy để suy ra bạn đang chụp cái gì và thiết lập độ phơi sáng phù hợp. Chế độ này ít khi sai lệch nhiều và hầu như bạn chỉ cần điều chỉnh nó khi muốn đạt một hiệu ứng đặc biệt nào đó.

Chế độ đo điểm (spot metering): Nhược điểm của kiểu đo ma trận là nó không thể biết phần nào của khung hình là phần bạn quan tâm nhất. Nếu bạn chụp một khuôn mặt được 1 luồng sáng chiếu lên, máy ảnh sẽ đưa ra một độ phơi sáng bình quân để lấy được chi tiết cả khuôn mặt trong ánh sáng mạnh và bối cảnh sáng lờ mờ xung quanh, và điều này sẽ phá hỏng sự kịch tính

11

của bức ảnh _ điều bạn muốn là chỉ diễn tả khuôn mặt nổi bật trong luồng sáng, còn bối cảnh xung quanh sẽ chìm trong bóng tối.

Khi đó chế độ đo điểm sẽ phát huy tác dụng, nó chỉ đo một phần rất nhỏ ở giữa khung hình (2-4% diện tích khung hình), cho bạn thông số phơi sáng cần thiết chỉ cho vùng đó, bỏ qua các phần khác của bức ảnh. Lưu ý: trừ phi bạn bố cục chủ đề ở đúng giữa khung hình, bạn sẽ phải kết hợp chế độ đo điểm với tính năng khóa thông số phơi sáng. Nghĩa là sau khi đo, bạn sẽ cần nhấn nút AE Lock để cố định thông số đo rồi bố cục lại để chụp, hoặc bạn có thể ghi nhớ thông số đo rồi chuyển qua chế độ manual, đặt khẩu độ và thời chụp theo thông số đó để chụp.

Chế độ đo một phần (partial metering): Đây là một phiên bản an toàn hơn của kiểu đo điểm. Nó cũng tương tự như đo điểm nhưng với vùng đo hơi lớn hơn (khoảng 9-10% diện tích khung hình). Đo điểm rất hiệu quả khi bạn muốn có những bức ảnh kịch tính trong những hoàn cảnh ánh sáng phức tạp nhưng rủi ro của nó là nếu bạn để vùng đo lệch đi một tí thì kết quả sẽ sai hoàn toàn. Sử dụng chế độ đo 1 phần giúp bạn vận dụng hiệu quả của chế độ đo điểm một cách an toàn hơn.

Chế độ đo trung bình ưu tiên vùng trung tâm: Đây là kiểu đo sáng được sử dụng khi máy ảnh chưa được tích hợp thành công các chip vi xử lý. Đúng như tên gọi, chế độ này đo ánh sáng của toàn khung hình rồi lấy độ phơi sáng bình quân giữa các vùng tối và vùng sáng nhưng tính ưu tiên một chút cho phần giữa khung hình. Mặc dù vẫn còn hiện diện trong nhiều máy ảnh số nhưng có lẽ chỉ để thỏa mãn tính hoài cổ của những người từng quen chụp phim. Không còn lý do gì để sử dụng nó sau khi đã có chế độ đo ma trận. Vài máy ảnh số thậm chí còn có chế độ đo trung bình-không-ưu tiên-vùng-trung-tâm, và nó cũng hoàn toàn vô dụng.

Bổ sung một số kiến thức nâng cao

Kỹ thuật đo sáng nâng cao

Mặc dù hầu hết mọi người chụp ảnh bình thường có thể yên tâm sử dụng cơ chế đo sáng có sẵn trong máy ảnh nhưng cơ chế đo sáng này không phải luôn luôn chính xác vì lý do dưới đây.

Máy đo sáng tích hợp trong máy ảnh hoạt động theo cơ chế đo ánh sáng phản xạ. Nghĩa là nó ước đoán lượng ánh sáng chiếu lên đối tượng bằng cách đo lượng ánh sáng được phản xạ bởi đối tượng đó.

Ánh sáng tự nhiên tại một thời điểm và vị trí nhất định chỉ có 1 cường độ duy nhất, nhưng cường độ của ánh sáng phản xạ không chỉ tùy thuộc vào

12

nguồn sáng tự nhiên mà còn bị ảnh hưởng bởi tính chất màu sắc của vật phản xạ. Trong khi đó các máy đo lượng sáng phản xạ không hề nhận biết màu sắc của vật thể mà chỉ nhận biết lượng ánh sáng được phản chiếu.

Ví dụ bạn chụp 2 con mèo, một đen và 1 trắng. Nếu bạn lần lượt chụp từng con tại cùng 1 chỗ, trong cùng 1 điều kiện ánh sáng với chế độ đo sáng auto, bạn sẽ thấy máy ảnh đặt độ phơi sáng lớn hơn cho con mèo đen. Hiển nhiên là, với mắt người thì con mèo đen không hề khó nhìn thấy hơn con mèo trắng và không cần phải thêm ánh sáng cho nó. Nhưng cái máy ảnh ngốc nghếch lại “nhìn” thấy ít ánh sáng phản xạ từ con mèo đen hơn, so với con trắng, và cho rằng nó cần có khẩu độ lớn hơn hay thời chụp dài hơn hoặc cả hai.

Trong lý thuyết về màu sắc của ánh sáng, người ta quy độ sáng của mỗi màu sắc về một thang sắc độ xám với 2 màu đen và trắng ở mỗi đầu. Mọi màu sắc đều có 1 độ xám tương ứng trong thang sắc độ này. Màu đỏ, xanh dương và xanh lục có cùng 1 độ sáng và chiếm cùng 1 vị trí trên thang sắc độ, sắc độ xám ở vị trí đó có độ sáng bằng 18% _ độ xám 18% này được sử dụng làm chuẩn cho máy đo sáng. Mọi máy đo sáng phản xạ đều được lập trình nhằm đưa mọi màu sắc mà nó đang đo, kể cả màu trắng và màu đen, về độ sáng trung bình chuẩn ứng với độ xám 18% này.

Dưới ánh sáng trời, những vật màu trắng thường phản xạ lượng sáng nhiều hơn 2 nấc khẩu độ so với mức trung bình chuẩn (18%), ngược lại những vật màu đen phản xạ lượng ánh sáng ít hơn 2 khẩu so với mức trung bình chuẩn (18%). Vì vậy khi bạn hướng máy ảnh vào con mèo trắng, máy đo tích hợp trong máy ảnh sẽ nghĩ “tôi không biết nó màu gì nhưng bất kể nó màu gì thì nó lượng ánh sáng phản xạ từ nó cũng nhiều hơn trung bình chuẩn 2 khẩu, nghĩa là vật này thừa sáng 2 khẩu và sẽ mất chi tiết _ nên ta cần khép bớt 2 khẩu lại.” Kết quả ảnh chụp là con mèo trắng sẽ bị thiếu sáng và bộ lông nó sẽ có màu cháo lòng. Tương tự nhưng theo hướng ngược lại với con mèo đen, màu đen sẽ không đủ đậm do bị chụp thừa sáng.

Để khắc phục những sai lệch của máy đo tích hợp trong máy ảnh, ta có thể sử dụng 1 trong 2 phương pháp sau.

1. Sử dụng 1 máy đo sáng cầm tay độc lập. Khi để máy vào vị trí của đối tượng định chụp, máy này sẽ đo được lượng ánh sáng chiếu trực tiếp lên đối tượng và hiển thị thông số phù hợp. Sau đó bạn chuyển máy ảnh qua chế độ chỉnh tay và đặt các thông số cần thiết theo kết quả từ máy đo. Những hạn chế của việc dùng máy đo độc lập là nó vô dụng khi cần chụp nhanh, thêm khối lượng vào túi đồ nghề vốn đã nặng nề của bạn và khá đắt.

13

2.Sử dụng 1 miếng bìa xám trung tính chuẩn (18% gray card) mua ở các tiệm bán đồ máy ảnh, rất rẻ và gọn nhẹ. Đặt miếng bìa cạnh đối tượng định chụp sao cho nó có cùng điều kiện chiếu sáng như đối tượng, hướng ống kính vào miếng bìa và dùng hệ thống đo sáng của máy ảnh để đo rồi đặt thông số chụp theo kết quả đó. Cách này phù hợp cho hầu hết mọi người, từ mới chụp đến nâng cao, vừa cho số đo sáng chính xác vừa dùng để thiết lập độ cân bằng trắng chuẩn. Áp dụng nó thường xuyên và bạn sẽ thấy những bức ảnh của bạn khác hẳn trước kia.

Nói thêm về khoảng rõ nét

Khi mới tập chụp, chúng ta thường nghe nói rằng (và nhìn qua cũng có cảm giác như thế) tiêu cự ống kính có ảnh hưởng tới khoảng rõ nét, ống kính góc rộng thì có khoảng rõ sâu hơn ống kính tele. Nhưng thực ra, xét thuần túy về kỹ thuật, khoảng rõ nét của một khẩu độ là như nhau trên bất kỳ ống kính nào, wide cũng như tele.

Giả dụ ta chụp cùng một khung cảnh với các tiêu cự ống kính khác nhau nhưng đặt cùng 1 nấc khẩu độ. Nếu ta di chuyển vị trí đứng chụp sao cho với mọi ống kính ta thu được khuôn hình giống hệt nhau thì ta sẽ thấy các bức ảnh có khoảng rõ y hệt nhau. Các ống kính tele cho cảm giác khoảng rõ mỏng hơn là do chúng có độ phóng đại lớn hơn, nhưng nếu bạn lùi lại cho đến khi bạn bao quát đủ khung hình như với ống kính góc rộng thì với cùng một khẩu độ bạn sẽ có chính xác cùng một khoảng rõ nét.

14

Bài 3: Con mắt của nhiếp ảnh gia

Có lẽ bạn đã nhìn thấy hàng ngàn bức ảnh đẹp trên trong sách báo, và có lẽ cũng như hầu hết mọi người, bạn nghĩ “ước gì mình chụp được một bức ảnh như thế.” Nhưng chỉ nhìn những bức ảnh đẹp sẽ không giúp bạn chụp ảnh đẹp hơn.

Tại sao vậy? Bởi vì bạn không biết nhìn vào cái gì. Bạn nhìn thấy 1 bức ảnh đẹp, bạn cảm thấy nó đẹp nhưng bạn không nói được tại sao nó đẹp, bạn không nói được tác giả đã làm những gì để tạo nên tác phẩm đẹp đẽ ấy. Cùng với bức ảnh bạn có thể biết loại camera và ống kính mà tác giả dùng, thậm chí cả thông số phơi sáng và loại phim sử dụng nữa. Đó là những thông số kỹ thuật _ tuy nhiên chúng cũng không giúp bạn tự chụp được những bức ảnh đẹp hơn, cũng giống như biết loại sơn và cọ vẽ mà Leonardo da Vinci từng sử dụng không hề giúp bạn vẽ được 1 tuyệt tác như Mona Lisa.

Điều mà bạn còn thiếu là khả năng biết phải nhìn vào cái gì _ và có lẽ đó là điều quan trọng nhất mà chúng tôi sẽ dạy bạn trong suốt khóa học. Ngay trong bài đầu tiên này, chúng tôi sẽ dạy bạn vài nguyên tắc khái quát _ áp dụng những nguyên tắc này, bạn sẽ dần dần phát triển một trực giác nhiếp ảnh trong cách nhìn thế giới xung quanh. Khả năng phát hiện những bức ảnh đẹp trong thế giới xung quanh bạn là điều mà chúng tôi gọi là “con mắt của nhà nhiếp ảnh”.

3 nguyên tắc cơ bản:

1. Một bức ảnh tốt phải có 1 chủ đề (subject or theme) rõ ràng. Nó có thể là về một người nào đó hay một vật gì đó. Thậm chí nó có thể kể cả 1 câu chuyện về chủ đề. Nhưng chủ đề phải rõ ràng và dễ hiểu. Bất cứ ai nhìn vào bức ảnh đều ngay lập tức nhận ra chủ đề.

2. Một bức ảnh tốt phải làm nổi bật chủ đề. Nói cách khác, ánh mắt của người xem phải hướng đến chủ đề ngay khi nhìn vào bức ảnh.

3. Một bức ảnh tốt phải đơn giản. Nó chỉ bao gồm những yếu tố giúp định hướng ánh mắt vào chủ đề và loại bỏ những gì kéo ánh mắt rời xa khỏi chủ đề.

Hướng tư duy của bạn theo 3 nguyên tắc trên và ngay lập tức bạn sẽ thấy mình nhìn những bức ảnh trên sách báo theo một cách mới, bạn sẽ thấy mình nhìn thế giới xung quanh theo một cách mới. Điều quan trọng nhất là bạn sẽ thấy mình chụp ảnh theo một cách mới. Bạn sẽ bắt đầu quan sát thế giới xung quanh qua kính ngắm máy ảnh với con mắt của một nhiếp ảnh gia.

15

3 nguyên tắc cơ bản này là nền móng cho sự phát triển sự nghiệp nhiếp ảnh của bạn, và chúng ta sẽ lần lượt bàn sâu hơn về từng nguyên tắc.

Nguyên tắc số 1: Một bức ảnh tốt phải có chủ đề

Để có 1 bức ảnh tốt, điều đầu tiên là bạn phải xác định đề tài của bức ảnh sẽ là gì và bảo đảm rằng người xem cũng nhận ra nó một cách rõ ràng. Đó phải là mục tiêu cơ bản trong từng bức ảnh bạn chụp.

Một bức ảnh thật sự xuất sắc sẽ đòi hỏi hơn thế. Nó không chỉ thể hiện rõ đề tài mà còn diễn tả một chủ đề có tính khái quát. Điều này khó đạt hơn nhiều và chính nó sẽ phân loại một bức ảnh tốt chung chung và một bức ảnh xuất sắc. Ngay từ khi bắt đầu, hãy cố gắng đạt được những bức ảnh tốt bằng cách thể hiện đề tài một cách rõ ràng và một ngày nào đó bất chợt bạn sẽ thấy mình có một bức ảnh xuất sắc với một chủ đề khái quát.

Đã bao nhiêu lần bạn chụp một người nào đó, có thể là vợ bạn, con bạn hay cô hàng xóm… và đã có bức ảnh nào truyền tải được một chủ đề khái quát chưa? Nếu hầu như không có hoặc chưa từng có, hãy tự hỏi: tại sao? Có phải vì trong thâm tâm bạn nghĩ đó không phải là người mẫu thực sự? Có phải bạn nghĩ rằng một bức ảnh phụ nữ đẹp cần có một người mẫu xinh đẹp như Sophia Loren? Có phải bởi vì nhân vật bạn chụp quá quen thuộc với bạn nên bạn chỉ thấy con người cụ thể đó là Jane Smith hay Mary Jones, mà không nhìn thấy họ như “Phụ nữ”, “Mẹ hiền”, “Thanh xuân”? Có phải vì bạn thấy họ chưa từng làm được điều gì đặc biệt và nghĩ sao mà tôi có thể chụp được một bức ảnh thú vị với một người bình thường như thế?

Trong khóa học này chúng tôi sẽ từng bước hướng dẫn bạn mọi chi tiết giúp bạn luôn chụp được những tấm ảnh đúng kỹ thuật. Đồng thời chúng tôi cũng sẽ hướng dẫn bạn tìm, nhận thấy và chọn lựa những chủ đề trong thế giới xung quanh bạn. Chúng tôi sẽ đưa bạn xem những bức ảnh đẹp và hướng dẫn bạn tìm hiểu “chủ đề của bức ảnh này là gì?”, “Đâu là thông điệp khái quát tôi cảm nhận được từ bức ảnh?”, “ Yếu tố nào trong bức ảnh đã truyền tải thông điệp đó?”

Tuy nhiên, đừng mong đợi rằng chỉ cần nhìn vài tấm ảnh đẹp là bạn “ngộ đạo” ngay tức khắc và có thể reo lên “ơ rê ka! Ta nắm được bí quyết về tính khái quát rồi!” Điều đó sẽ không xảy ra đâu. Từ từ, chậm rãi, cùng với khóa học bạn sẽ dần dần cảm nhận được tính khái quát không phải chỉ qua những bức ảnh trong giáo trình mà cả qua kính ngắm của bạn nữa, và thời khắc của bạn sẽ đến. Điều đó cần có thời gian.

16

Rất nhiều nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp không có được cảm nhận này, dù đã nhiều năm hành nghề. Rất nhiều nhiếp ảnh gia đã chụp (và bán) hàng trăm bức ảnh trẻ em có tên Tí hay Tèo… nhưng chưa từng chụp được một bức ảnh về “Thời thơ ấu”, “Ngây thơ” hay “Hồn nhiên”. Rất nhiều nhiếp ảnh gia đã chụp (và bán) hàng trăm bức ảnh đám cưới của các ngôi sao nhưng chưa từng chụp được một bức ảnh về “Tình yêu”, “Thương nhớ" hay “Niềm vui”.

Chúng tôi sẽ dạy bạn mọi kỹ năng cần thiết để có thể kiếm cơm bằng máy ảnh nhưng chúng tôi cũng sẽ đưa bạn đi xa hơn, cao hơn với những bức ảnh có chủ đề phổ quát, vì đó mới chính là chứng nhận đẳng cấp thực sự của những nhiếp ảnh gia tài ba dù là nghiệp dư hay chuyên nghiệp.

Giờ đây bạn đã biết câu hỏi số 1 để tự hỏi trước khi bấm máy:

1. Chủ đề mà tôi muốn thể hiện trong bức ảnh là gì?

Nguyên tắc số 2: Một bức ảnh tốt phải làm nổi bật chủ đề

Thông thường, để truyển đạt ý tưởng chủ đề, trong bức ảnh cần có một chủ thể thu hút sự chú ý. Chủ thể đó có thể là một hay một nhóm người hoặc vật. Trong bức ảnh của Rene Burri (xem file kèm theo), trung tâm thu hút sự chú ý hiển nhiên là con bê đang ngóc đầu lên. Chúng ta thấy cả đàn bê ở đây nhưng toàn bộ sự chú ý của chúng ta hướng vào đúng con bê đó. Vì sao? Bởi vì không có gì khác làm phân tán sự chú ý của chúng ta, không có gì kéo ánh mắt ta đi chỗ khác. Tất cả các con bê khác đều như nhau, riêng chú bê đó nổi bật lên.

Chủ đề của bức ảnh này là gì? Nó có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau, phụ thuộc vào thái độ của người xem đối với con bê đó. Một bức ảnh có thể có ý nghĩa này với người này và ý nghĩa khác với người khác. Nói cách khác, ý nghĩa của một bức ảnh nằm trong tư tưởng người xem. Ý nghĩa này có thể đồng nhất hoặc không với mục đích của người chụp.

Bạn cảm nhận bức ảnh này như thế nào? Con bê đó đang thể hiện “Cá tính” hay “Ngây thơ” hay “Tò mò”? Bất kể bạn diễn giải bức ảnh thế nào, chủ đề hiện ra ngay lập tức từ chú bê không thể nhầm lẫn đó.

Khi chụp bức ảnh này, Burri đã kiên nhẫn chờ đến thời khắc đúng. Ánh mắt anh dõi theo đàn bê và tự nhủ:”chưa…, chưa phải lúc…, chờ thêm chút

17

nữa…, hãy kiên nhẫn…” và rồi điều anh chờ đợi đã xảy ra. Một con bê, tò mò và ngây thơ, quay mặt về phía camera. Ngón tay anh căng lên trên nút chụp và não bộ gửi đến tín hiệu “Ngay bây giờ”. Thời cơ đến và anh đã ghi lại thành công bức ảnh đáng yêu này.

Làm cách nào để bạn thu hút được sự chú ý vào chủ thể trong những bức ảnh của bạn? Có hàng tá kỹ thuật khác nhau mà bạn có thể áp dụng và bạn sẽ học được tất cả trong khóa học này: thu hút sự chú ý bằng cách đóng khung chủ thể, bằng cách chiếu sáng…, vận dụng khẩu độ và tốc độ để diễn tả ý tưởng của bạn, sử dụng kính lọc để thể hiện câu chuyện của bạn rõ ràng hơn, và nếu bạn tự tay làm phòng tối, bạn sẽ học được cách cắt cúp, tráng phim và in ảnh sao cho làm nổi bật chủ đề trong mỗi bức ảnh.

Giờ đây bạn có 2 câu để tự hỏi trước mỗi lần bấm máy:

1. Chủ đề mà tôi muốn thể hiện trong bức ảnh là gì?

2. Bằng cách nào tôi có thể làm nổi bật chủ thể và thu hút ánh mắt người xem vào đó?

Nguyên tắc số 3: Một bức ảnh tốt phải đơn giản

Không thể có sự hiểu nhầm nào về chủ đề của bức ảnh thương tâm này. Không cần biết người phụ nữ là ai hay hoàn cảnh cụ thể là gì bạn vẫn hiểu được chủ đề: nỗi thống khổ sâu sắc. Biết thêm rằng đây là người mẹ vừa mất một người con trai do chiến tranh, chụp vào lúc cái quan tài phủ quốc kỳ đang hạ xuống huyệt mộ chỉ tăng cường thêm cảm nhận của ta về chủ đề. Sức mạnh của bức ảnh là chúng ta không cần phải biết những sự kiện liên quan mới hiểu được nó diễn tả cái gì. Tự thân bức ảnh đã nói lên tất cả.

Tác giả Manor đã làm gì để diễn tả chủ đề này một cách mạnh mẽ nhất? Anh ấy đang tham dự một đám tang bi thương, nhưng anh ấy không để mình bị cuốn theo cảm xúc và chụp mọi thứ trong tầm mắt. Anh bình tĩnh quan sát xung quanh và nghĩ “cảm xúc chủ đạo ở đây là gì?” Nỗi đau buồn, tất nhiên rồi. Xung quanh anh là hàng chục người đầm đìa nước mắt, anh có thể lùi lại và chụp cả một đám đông đang nức nở bên huyệt mộ. Nhưng liệu nỗi buồn đau sẽ sầu thảm hơn với cả chục khuôn mặt hay với chỉ một thôi? Đau thương là một cảm xúc có tính cá nhân cao, vì vậy Manor đã chọn cách đơn giản hóa. Không phải cả chục khuôn mặt, chỉ một mà thôi. Cắt bỏ tất cả những gì xung quanh, chỉ nhắm vào một khuôn mặt bộc lộ những cảm xúc rõ rệt nhất, bi thương nhất, cá biệt nhất.Và kết quả là bức ảnh xuất sắc này.

18

Khi bạn nhìn qua khung ngắm, trước khi bấm máy hãy luôn tự hỏi:”Mình đã làm nổi bật chủ đề chưa? Mình đã tập trung vào yếu tố chính của khung cảnh? Mình đã loại bỏ những thứ rối rắm làm xao lãng chủ đề? Mình đã đơn giản hóa để đạt tới bản chất cốt lõi của khung cảnh chưa?” Sau đó hẵng bấm máy.

Burri đã đơn giản hóa bức ảnh của anh như thế nào? Hãy nhìn lại bức ảnh. Không hề có một vật gì làm phân tán sự chú ý, bạn không hề thấy một con bê khác nhìn bạn, bạn không hề thấy một đoạn đường ray xe lửa hay đôi ủng của chàng cao bồi. Mọi thứ trong bức ảnh đều hỗ trợ cho chủ đề. Bạn chỉ thấy mặt một con bê giữa một đàn bò đang di chuyển về mọi hướng. Rất đơn giản.

Đơn giản nghĩa là loại trừ những yếu tố gây rối ra khỏi chủ đề. Nó hoàn toàn không phải là loại bỏ tất cả các loại bối cảnh hay hậu cảnh. Khi nào mà bối cảnh có ích cho sự cảm nhận về chủ đề thì nó là cần thiết. Sự đơn giản không phải tự nhiên mà đến, nó là kết quả của việc bố cục cẩn thận và đơn giản hóa có cân nhắc.

Giờ đây bạn có 3 câu để tự hỏi khi chuẩn bị chụp một bức ảnh:

1. Chủ đề mà tôi muốn thể hiện trong bức ảnh là gì?

2. Bằng cách nào tôi có thể làm nổi bật chủ thể và thu hút ánh mắt người xem vào đó?

3. Tôi đã đơn giản hóa bức ảnh chưa? Có phải bức ảnh chỉ bao gồm những gì hỗ trợ cho chủ thể và mọi thứ không cần thiết đã bị loại bỏ?

19

Nhiếp ảnh cơ bản: Bố cục

Nếu như vẽ tranh là hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó thì trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại. Trong bố cục ảnh, có 6 chuẩn mực để bạn dựa vào, nhưng để các tấm ảnh có hồn, thu hút và tránh nhàm chán rất cần tới sự vận dụng linh hoạt.

Bố cục ảnh so sánh kích thước Cả hội hoạ và nhiếp ảnh đều là nghệ thuật truyền tải thông tin thị giác

và chịu sự chi phối của những nguyên lý căn bản về cảm nhận thực thể bằng ánh sáng. Nhưng nếu hội hoạ là nghệ thuật tổng hợp thì nhiếp ảnh là kỹ thuật phân tích. Khi vẽ tranh, hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó. Nhưng trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại…

Với bối cảnh thực có sẵn nội dung và bố cục, tay máy phải thay đổi góc nhìn, sử dụng ống kính wide hay tele, xoay trở khuôn hình để chọn lọc những yếu tố xây dựng lên bức ảnh. Tuy nhiên, dù là thêm vào hay bớt đi các mảng khối trong khuôn hình, cả hội hoạ và nhiếp ảnh đều hướng tới cách xếp đặt hiệu quả nhất để thể hiện nội dung các tác phẩm. Trong kết quả cuối cùng, ở mức độ nào đó, cả tranh vẽ và ảnh chụp đều được đánh giá bởi một chuẩn mực về bố cục.

Khi đánh giá một bức ảnh, người ta xem xét nó trên những yếu tố căn bản về nội dung, màu sắc, trạng thái và hiệu ứng quang học. Nếu bố cục được nhấn mạnh trong khi các yếu tố khác bị khoả mờ, bản thân nó có thể là chủ đề của nhiếp ảnh.

Hầu hết các yếu tố căn bản này giúp truyền tải thông tin thị giác như điểm và đường nét, hình dạng, màu sắc, chất liệu bề mặt và độ tương phản đều liên quan đến bố cục bức ảnh. Người chụp ảnh dựa trên những nguyên tắc này để phát triển kỹ năng sắp xếp các đối tượng trong khuôn hình.

Tiết tấu tạo bởi hiệu ứng quang học.

1 - Tìm ra tiết tấu hay mô thức xếp đặt trong bối cảnh

Đó là kỹ thuật rút ra logic về vị trí, sự xếp đặt các vật thể trong khuôn hình, chọn được góc đặt máy tốt nhất phản ánh tiết tất và mô thức trên các vật thể. Kỹ thuật này rất phổ dụng đối với ảnh kiến trúc, giao thông, dây chuyền sản xuất… Việc phát hiện logic xếp đặt trong một bối cảnh lớn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng quan sát và xâu chuỗi của tay máy. Tuy nhiên,

20

việc lạm dụng tiết tấu, thiếu suy ngẫm và phân tích sẽ dẫn đến những bức ảnh dập khuôn nhàm chán. Việc áp dụng hiệu quả bố cục này phải đi liền với các hiệu ứng ánh sáng, tạo bóng và góc đặt máy khác thường.

Ví dụ, một hàng cột tròn đều tăm tắp và sáng rõ trong nắng trưa sẽ không thể đẹp bằng bức ảnh chúng đứng trong ánh sáng xiên thấp hơi lệch phương ống kính. Nhờ nắng tạt ngang, bóng cột sẽ đổ dài tạo một hàng cột nữa nằm dưới đất, thân của chúng sẽ được “vê” tròn lẳn vì hiệu ứng chuyển sáng tối. Nếu đặt máy thật thấp dưới chân hàng cột với ống kính góc rộng, đầu của chúng sẽ sẽ chạm vào nhau và lao vút lên trời, rất thú vị. Nhiều khi các tiết tấu lại xuất hiện cùng hiệu ứng quang học và chỉ tác động vào ống kính ở một góc nhìn nhất định, vấn đề là phải tìm tòi và sáng tạo.

Phản ánh chiều sâu không gian.

2 -Thể hiện được kích cỡ vật thể hoặc khoảng cách

Kỹ thuật này giúp người xem ảnh hình dung kích thước của vật thể trong khuôn hình. Sử dụng tốt phép so sánh chênh lệch về kích thước có thể nêu bật được độ lớn của đối tượng trong bức ảnh.

Ví dụ, nếu muốn minh hoạ độ lớn của một con voi nên đặt chú sáo bé như hạt gạo trên lưng nó. Ngược lại, khi chụp macro một bông hoa nhỏ, người ta nhấn mạnh mức phóng đại của bức ảnh bằng một chú kiến vàng lớn như con ong chúa. Vật thể làm mẫu so sánh nên thuộc loại hình ảnh quen thuộc, dễ hình dung kích thước như con người, ôtô, que diêm, cái bút… Có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả của thủ pháp so sánh khi xem những thước phim hoạt hình kinh điển về người khổng lồ, tí hon. Tay máy khi đứng trước bối cảnh hoành tráng hay vật thể quá lớn, anh ta dễ bị ngợp tới mức quên mất là cần một vật thể so sánh. Kết quả là bức ảnh sẽ còn cảm xúc mà anh ta đã trải nghiệm, mọi thứ sẽ chỉ giống như cảnh trên bàn hay những món đồ chơi của trẻ con.

Điểm nhấn màu.

3 - Tạo sức hút cho điểm nhấn của bức ảnh

Vùng trọng tâm hay điểm nhấn của bức ảnh được thể hiện bằng kỹ thuật tạo độ tương phản, hay đường dẫn hướng. Theo nguyên lý thị giác thì điểm tương phản nhất trong khuôn hình sẽ thu hút thị giác, vùng sẫm sẽ nặng và hút mắt hơn khoảng trắng. Mặt khác, ánh mắt người xem cũng sẽ di chuyển theo hướng chiếu của tia sáng trong khuôn hình, tức là đi từ chỗ nhạt nhất đến chỗ đậm nhất. Những đường cong, nét chéo kết thúc tại điểm nhấn

21

sẽ dẫn ánh mắt người xem đến đó. Tuy nhiên, chúng cũng có thể gây hậu quả phân tán và khó hiểu nếu chỉ lệch hướng tới chủ đề chính.

Trong bố cục cổ điển, điểm mạnh của bức ảnh thường được đặt ở toạ độ giao nhau của đường 1/3 dọc và 1/3 ngang bức ảnh (gần 4 góc khuôn hình). Cách sắp xếp này đặc biệt phù hợp với cỡ phim 35 mm. Nhiếp ảnh hiện đại không bị lệ thuộc vào những công thức cổ điển. Thậm chí, những tay máy cách tân còn cố tính đặt chủ đề vào những vị trí oái oăm và điều đó lại gây sự chú ý và ấn tượng về bức ảnh. Thực ra, những tay máy này phải rất hiểu về Tỷ Lệ Vàng để có thể làm điều ngược lại và tạo nên hiệu quả thú vị. Giá trị cao nhất mà nhiếp ảnh hiện đại nhắm tới không hoàn toàn là cái đẹp, mà là cảm xúc và ấn tượng.

Bố cục đường dẫn.

4 - Đặc tính về cân bằng và trạng thái

Sự cân bằng trong bức ảnh sẽ quyết định trạng thái tĩnh hoặc động của nó. Nếu thủ pháp sử dụng đường chân trời nằm ngang chính giữa bức ảnh nhằm tạo nên cảm xúc tĩnh lặng, thì khi đặt nghiêng, đưa lên cao hay hạ xuống thấp sẽ cho hiệu quả động. Bức ảnh nhiều trời ít đất thì tạo cảm xúc nhẹ nhõm thanh cao. Còn khi đảo tỷ lệ này, những hiệu quả sẽ ngược lại. Mắt người xem có một đặc tính là bị thu hút theo hướng chuyển động của chủ đề. Do vậy, trong bố cục cổ điển các chuyển động phải hướng vào trong bức ảnh. Nhưng các nhiếp ảnh gia hiện đại lại không muốn người xem thấy ngay mọi thứ, họ đòi hỏi sự quan sát và suy ngẫm về thông điệp của bức ảnh, nên họ có thể không tuân thủ quy tắc này.

Sự cân bằng cũng bị chi phối bởi màu sắc, một chấm vàng tươi bên phải sẽ nặng bằng cả một mảng nhạt trắng. Cách lấy một diện tích nhỏ có sức hút mạnh để tạo ra sự cân bằng với một mảng lớn nhẹ nhõm hơn sẽ tạo ra trạng thái cân bằng động - một bố cục khá phổ biến trong nhiếp ảnh.

5 - Chụm vào tản raViệc sử dụng hình tròn hay những đường cong kín tạo nên sức hút khá

mạnh và gây hiệu ứng hợp nhất - phương pháp thể hiện tốt những hiện thực đơn lẻ như bông hoa, mạng nhện… Khi được sử dụng hợp lý, bố cục này sẽ hướng sự chú ý vào giữa tâm của nó. Mục tiêu hợp nhất vào điểm mạnh còn có thể được thực hiện bởi nhiều đường dẫn hướng tới đối tượng chính (ví dụ: nút giao thông). Không cần phải là những nét dẫn thực thể, ánh mắt tập trung của các sinh vật trong khuôn hình cũng sẽ định hướng sự quan sát của người xem ảnh.

22

Thủ pháp bố cục phân tán thường được dùng để diễn giải những nội dung trừu tượng như: giận dỗi, làm ngơ, đa dạng, hỗn loạn… Đi liền với kỹ thuật này là ống kính góc rộng, bao quát nhiều cụm đối tượng mạnh tương đương. Ví dụ, bức hình chụp từ trên xuống một trung tâm giao dịch chứng khoán, hay một cái chợ ngoài trời đông đúc.

Tận dụng nét lượn chữ S.

6 - Phản ánh chiều sâu không gian

Là một thủ pháp rất hiệu quả để khắc phục bản chất phẳng dẹt của bức ảnh. Một bố cục khéo léo có thể làm khuôn hình trở nên sâu hút, cũng có thể khiến chủ đề nổi bật hình khối trên một bối cảnh mờ nhoà. Nhiều khi một bức ảnh nét suốt từ cận cảnh tới vô cự không tạo cảm giác sâu bằng bức macro nét cạn, chính phần vật thể bị mờ lại tạo cảm giác về hình khối và chiều sâu không gian. Một bức ảnh bố cục tốt có thể bao gồm nhiều lớn không gian với các tone màu và cường độ chiếu sáng khác nhau. Kỹ thuật phổ biến là sử dụng cận cảnh làm khuôn hình, nhưng nếu không tìm được những mẫu khung đặc biệt thú vị thì bức ảnh khó mà thoát ra khỏi sự nhàm chán.

Những nguyên tắc bố cục cổ điển (Tỷ Lệ Vàng):

- Đường chân trời ở 1/3 hoặc 2/3 chiều cao bức ảnh.- Mỗi khuôn hình chỉ có một điểm mạnh, điểm này không đặt giữa

ảnh mà phải ở toạ độ 1/3 rộng x 1/3 cao.- Hướng ánh mắt người xem từ ngoài vào trong bức ảnh.- Tận dụng nét lượn chữ S nếu có trong bối cảnh.

(Tuy nhiên, với những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp và có tính sáng tạo, họ lại đưa chủ thể vào những điểm “ngược” với nguyên tắc bố cục cổ điển – một cách chủ ý – chính điều này lại tạo ra sức hút đối với người xem và tạo ấn tượng đặc biệt cho bức ảnh).

23