thu hót §Çu t¦ trùc tiÕp n¦íc ngoµi ë vïng b¾c trung bé ...hcma.vn/uploads/2016/5/4/la...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN NGHĨA HÒA
THU HóT §ÇU T¦ TRùC TIÕP N¦íC NGOµI ë VïNG B¾C TRUNG Bé VIÖT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ Mã số: 62 34 01 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ MINH CHÂU
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Trần Nghĩa Hòa
MỤC LỤC
Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VÙNG BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM 6
1.1. Những thành quả nghiên cứu ở các nước về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 6
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 18 1.3. Những vấn đề về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải tiếp
tục nghiên cứu 23 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VÙNG KINH TẾ 27 2.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 27 2.2. Nội dung, hình thức, tiêu chí và các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế 42 2.3. Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số vùng
và bài học cho vùng Bắc Trung Bộ 52 Chương 3: THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO VÙNG BẮC TRUNG BỘ 64 3.1. Lợi thế và bất lợi thế của vùng Bắc Trung Bộ về điều kiện, tự
nhiên, kinh tế và xã hội liên quan đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 64
3.2. Thực trạng thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng Bắc Trung Bộ 68
3.3. Đánh giá thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng Bắc Trung Bộ 88
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VÙNG BẮC TRUNG BỘ 116
4.1. Dự báo và phương hướng tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng Bắc Trung Bộ 116
4.2. Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng Bắc Trung Bộ 132
KẾT LUẬN 152 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 154 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN : Association of Southeast Asian Nations - Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DN : Doanh nghiệp
ĐT : Đầu tư
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
GDP : Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm quốc nội
FDI : Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IMF : International Monetary Fund - Quỹ tiền tệ quốc tế
KCN : Khu công nghiệp
KH&CN : Khoa học và công nghệ
KT-XH : Kinh tế - xã hội
MNEs : Multinational Cporation - Công ty đa quốc gia
NK : Nhập khẩu
ODA : Official Development Assistance - Hỗ trợ phát triển
chính thức
PTA : Preferential Trade Arangements - Thỏa thuận thương
mại ưu đãi
SXKD : Sản xuất, kinh doanh
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TNCs : Transnational Corpration - Công ty xuyên quốc gia
USD : United States dollar - Đô la Mỹ
UBND : Ủy ban nhân dân
XK : Xuất khẩu
WTO : World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, HÌNH
Trang
Bảng 3.1 Số dự án và vốn FDI đăng ký còn hiệu lực giai đoạn
2012-2014 (theo lũy kế tính đến ngày 31/12)
88
Bảng 3.2 Số doanh nghiệp FDI đang hoạt động sản xuất, kinh
doanh tại thời điểm 31/12 hàng năm ở vùng Bắc Trung
Bộ giai đoạn 2007-2014
89
Bảng 3.3 Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lũy kế đến
ngày 31/12 ở vùng Bắc Trung Bộ đang hoạt động
giai đoạn 2007-2014
91
Bảng 3.4 Thuế đã nộp trong năm của các doanh nghiệp FDI
vùng Bắc Trung Bộ (2007-2014)
102
Hình 3.1 Tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp FDI đang hoạt
động sản xuất, kinh doanh tại thời điểm 31/12 hàng
năm ở vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2007-2014
90
Hình 3.2 Mức tăng trưởng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2007-2014
91
Hình 3.3 FDI vào vùng Bắc Trung Bộ phân theo lĩnh vực năm 2014
92
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư (ĐT) dài hạn của cá
nhân hay doanh nghiệp (DN) nước này vào nước khác bằng cách thành lập cơ sở
sản xuất, kinh doanh (SXKD) và nắm quyền quản lý trực tiếp. Động lực để nhà
đầu tư nước ngoài (ĐTNN) bỏ vốn vào cơ sở SXKD ở nước khác là tìm kiếm cơ
hội ĐT có tỷ suất sinh lời cao hơn, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm vốn có
của họ, tiếp cận nguồn lực của nước khác. Động cơ để một nước thu hút FDI là
bổ sung vốn phục vụ phát triển kinh tế, du nhập công nghệ mới vào trong nước,
mở rộng thị trường ở nước ngoài, tạo việc làm, thu nhập mới cho dân cư. Sự gặp
nhau giữa nhà ĐTNN và chính sách thu hút FDI của nước sở tại sẽ đem đến
thành công cho cả hai bên.
Nhận thức rõ lợi ích của đầu tư nước ngoài đối với quá trình phát
triển kinh tế trong nước, trong nhiều năm nay Chính phủ và các cấp chính
quyền địa phương ở Việt Nam đã tích cực đưa ra nhiều chính sách thu hút
FDI. Nhờ đó lượng FDI vào Việt Nam khá lớn. Tính đến ngày 31/12/2014,
cả nước đã thu hút được 17.768 dự án FDI từ 101 quốc gia và vùng lãnh
thổ với tổng vốn đăng ký đạt 252,7 tỷ USD [29]. Những năm gần đây bình
quân, khu vực FDI đã đóng góp gần 20% GDP, cung cấp nhiều việc làm
với mức thu nhập khá cao, cung cấp phần lớn nguồn hàng công nghiệp cho
xuất khẩu (XK). Tuy nhiên, FDI vẫn phân bố chủ yếu ở các địa phương
phát triển trong nước. Các địa phương kém phát triển hơn gặp khá nhiều
khó khăn trong thu hút FDI.
Bắc Trung Bộ là một trong những vùng thu hút được ít FDI. Từ năm
1987 đến nay, cả vùng mới thu hút được 272 dự án FDI với số vốn đăng ký gần
25 tỷ USD, tương đương 1,5% số dự án và gần 10% vốn đăng ký của cả nước
[96]. Trong khi đó Bắc Trung Bộ là khu vực rộng lớn, trọng yếu của quốc gia,
rất cần vốn để phát triển. Mặc dù về nhiều phương diện Bắc Trung Bộ không
2
có sức mạnh cạnh tranh như Vùng Đông Nam Bộ, Vùng Đồng bằng sông
Hồng, nhưng các tỉnh trong Vùng cũng có một số lợi thế nhất định như nguồn
lao động dồi dào, siêng năng, sáng tạo, nguồn tài nguyên khoáng sản phong
phú, bờ biển dài với nhiều bãi biển có tiềm năng du lịch, nằm trên các
tuyến đường giao thông chính của quốc gia, quốc tế…Trong những năm
gần đây, các tỉnh trong Vùng cũng sáng tạo tìm cách thu hút nhiều dự án
FDI hơn nữa để phát huy được thế mạnh của vùng phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội (KT-XH). Nếu thu hút được nhiều FDI vào địa bàn, vùng Bắc
Trung Bộ không những có điều kiện đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, đuổi
kịp các vùng khác trong nước, mà còn tạo cú hích về đào tạo tay nghề cho
lực lượng lao động của địa phương, thúc đẩy cải cách hành chính trong khu
vực, kích thích ĐT trong nước phát triển.
Hơn nữa, chủ trương mở rộng phân cấp ra quyết định ĐT cho chính
quyền địa phương của Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho chính quyền các tỉnh
trong Vùng có thể năng động, linh hoạt trong xây dựng chính sách đặc thù thu
hút FDI, khuyến khích các tỉnh liên kết, hợp tác phát triển các chuỗi giá trị sản
phẩm lấy FDI làm chất xúc tác.
Để giúp chính quyền các tỉnh trong Vùng thu hút FDI, cần tiến hành
nghiên cứu có hệ thống những vấn đề liên quan đến thu hút FDI vào Vùng. Đó
là lý do nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài "Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
ở vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam" làm đối tượng nghiên cứu trong luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu đề tài là hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về
thu hút FDI phục vụ phát triển KT-XH tại vùng lãnh thổ của Việt Nam; phân
tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2007-
2014; đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường FDI vào vùng trong
giai đoạn đến 2020.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để hoàn thành mục đích trên, quá trình nghiên cứu đề tài luận án đã
hoàn thành các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa có bổ sung, phát triển cơ sở lý luận về thu hút FDI phục vụ
phát triển KT-XH vùng lãnh thổ của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
- Tìm hiểu kinh nghiệm thu hút FDI ở một số nước và một số vùng trong
nước, rút ra bài học cho vùng Bắc Trung Bộ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI ở vùng Bắc Trung Bộ trong
giai đoạn 2007-2014, chỉ ra những thành công và hạn chế trong thu hút nguồn
vốn ĐT này.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI
vào các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn đến 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài là thu hút FDI vào các tỉnh trong Vùng Bắc
Bộ đặt trong khung khổ chính sách chung của cả nước, có tính đến tính liên kết,
hợp tác giữa các tỉnh trong vùng Bắc Trung Bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Vùng Bắc Trung Bộ bao gồm 6 tỉnh: Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi về thời gian: Thời gian khảo sát, phân tích và đánh giá thực
trạng thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ giới hạn trong giai đoạn 2007-
2014, tức là từ khi Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) đến nay. Phạm vi đề xuất phương hướng và giải pháp
được xác định cho giai đoạn đến 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận chủ yếu từ góc độ hành động của chính quyền
các tỉnh nhằm thu hút FDI vào tỉnh mình. Sự liên kết vùng chỉ được xem xét ở
4
phương diện hợp tác tự nguyện của chính quyền các tỉnh nằm trong vùng trên
cơ sở chính sách thu hút FDI chung của cả nước. Góc độ động cơ của nhà
ĐTNN chỉ được xem xét ở phương diện đối tượng thu hút của chính quyền
cấp tỉnh.
Khung phân tích dựa trên lý thuyết lợi thế về chi phí để thu hút FDI vào
vùng. Chủ thể thu hút là chính quyền các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ trong
khung khổ chính sách chung của quốc gia và thẩm quyền phân cấp cho cấp
tỉnh. Quá trình phân tích nội dung thu hút có xem xét lợi thế so sánh của vùng
trong quan hệ với vùng khác trong nước.
Các nghiên cứu, khảo luận dựa trên các giả định là sẵn có các nhà
ĐTNN mong muốn ĐT trực tiếp vào vùng Bắc Trung Bộ. Vấn đề là chính
quyền các tỉnh trong vùng phải có chính sách thích hợp nhằm thu hút sự quan
tâm của họ và tạo điều kiện cho họ hoạt động hiệu quả trong Vùng. Do ở Việt
Nam không có chính quyền cấp vùng, cũng không có trung tâm điều phối
chính sách vùng đủ mạnh, nên hướng tiếp cận trong luận án chú trọng vai trò
hạt nhân của chính quyền cấp tỉnh, đặt trong khung khổ chính sách quốc gia
và lợi ích vùng để xem xét.
Ngoài các phương pháp chung, phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã hội
như phương pháp trừu tượng khoa học, phương pháp phân tích hệ thống, phương
pháp phân tích logic kết hợp với lịch sử, phân tích - tổng hợp dựa trên các dữ liệu
thu thập được, trong luận án còn sử dụng một số phương pháp đặc thù sau:
- Phương pháp phân tích dựa trên các khung phân tích đã được ứng dụng
thành công trong nghiên cứu FDI, cụ thể là phương pháp nghiên cứu lực hút từ
nước nhận ĐT thông qua các chính sách tạo lợi thế so sánh về chi phí đầu tư
thấp, môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi. Phương pháp này được sử dụng
trong phân tích, tổng hợp các vấn đề lý thuyết.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn dựa trên số liệu thống kê của các cơ
quan nhà nước để đánh giá thực trạng thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ.
5
- Phương pháp phân tích - so sánh dựa trên dữ liệu chính thống của các
cơ quan nhà nước, thành quả nghiên cứu thể hiện trong các công trình khoa
học đã công bố nhằm so sánh kết quả và thực trạng thu hút FDI vào vùng Bắc
Trung bộ trong các thời kỳ khác nhau, so sánh FDI vùng Bắc Trung Bộ với
vùng khác trong nước.
- Phương pháp nhân - quả để đánh giá định tính tác động của FDI đến
phát triển kinh tế và việc làm, thu nhập của dân cư trong vùng.
Ngoài ra, trong luận án còn sử dụng ở mức độ hạn chế phương pháp dự
báo, ngoại suy để đưa ra các kiến nghị khoa học về phương hướng, giải pháp tăng
cường thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ trong giai đoạn từ nay đến 2020.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận thu hút FDI vào vùng kinh tế từ phương
diện địa phương nhận ĐT gắn với đặc điểm, điều kiện thực tế của vùng kinh
tế trong tiến trình hội nhập quốc tế.
- Làm rõ điểm mạnh, điểm yếu của thực trạng thu hút FDI vào các tỉnh
trong vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2007-2014, chỉ ra các nguyên nhân dẫn
đến các hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường thu hút FDI vào
vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn đến 2020.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận án được trình bày trong 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀO VÙNG BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM
1.1. NHỮNG THÀNH QUẢ NGHIÊN CỨU Ở CÁC NƯỚC VỀ THU HÚT ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Những nghiên cứu xác định nguyên nhân dịch chuyển vốn ra
nước ngoài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu nước ngoài nhận định
rằng, thu hút FDI là một trong những giải pháp quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở các nước. Điển hình là một số công trình sau:
- Trong nghiên cứu lý thuyết về nguyên nhân ĐT trực tiếp ra nước ngoài
của các công ty lớn, tác giả A. L. Calvet trong bài: "A synthesis of foreign
direct investment theories and theories of the multinational firm" (Một sự tổng
hợp của các lý thuyết đầu tư trực tiếp nước ngoài và các lý thuyết của các công
ty đa quốc gia) [116] đã phân loại các lý thuyết FDI theo mô hình không hoàn
hảo của thị trường và cho rằng, sự khác biệt quốc tế của các hoạt động và hội
nhập qua biên giới các quốc gia là một nhân tố quan trọng thúc đẩy di chuyển
vốn ra nước ngoài. Sự hấp dẫn của dịch chuyển tư bản ra ngoài xuất phát từ
việc tránh thuế nhập khẩu, thị trường tiêu thụ mới, nguồn lao động rẻ và sự sẵn
có của tài nguyên.
- Pan Long Tsai, giáo sư kinh tế của Đại học quốc gia Đài Loan - NTU,
trong bài: "Determinants of foreign direct investment and its impact on economic
growth" (Yếu tố quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động của nó đối
với tăng trưởng kinh tế) [163], bằng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, đã đi
đến kết luận: quy mô thị trường trong nước và cán cân thương mại là hai yếu tố
quyết định FDI vào một nước nào đó, mặc dù tăng trưởng kinh tế, chi phí lao
7
động và sự khác biệt về địa lý cũng là những yếu tố tác động rất lớn đến xu
hướng di chuyển dòng vốn ĐT này.
- ELhanan Helpman cùng các cộng sự trong bài: "Export Versus FDI with Heterogeneous Firms" (Xuất Versus FDI với các hãng không đồng nhất) [134]; Richard Bruton trong bài viết: "Policy Statement on Foriegn Direct Investment in Ireland" [168] đã cho rằng các DN của một nước, nhận thấy lợi ích từ việc tránh chi phí thương mại khi XK sản phẩm ra nước ngoài lớn hơn chi phí của việc duy trì năng lực sản xuất của DN tại nước đó, sẽ lựa chọn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, hình thành FDI.
- Lý thuyết giải thích FDI từ chu kỳ sản phẩm: Akamatsu Kaname trong bài: "A Historical Pattern of Economic Growth in Developing Countries" (Một mẫu lịch sử của tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển) [148] đã cho rằng, sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở nước ĐT, sau đó được XK ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu (NK), ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường bản địa tăng lên, nên nước NK chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm NK này bằng cách thu hút vốn, kỹ thuật của nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu XK lại xuất hiện. Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI [148]. Cũng cùng quan điểm này, Raymond Vernon trong: "International Investment and International Trade in the Product Cycle" (Đầu tư quốc tế và thương mại quốc tế trong các chu kỳ sản phẩm) [166] đã viết: khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình, cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn.
- Tiếp cận từ lợi thế của công ty đa quốc gia, Stephen H. Hymes trong
"Product life-cycle theory" (Lý thuyết vòng đời sản phẩm), "FDI and Portfolio
8
Investment Theory" (FDI và Lý thuyết Danh mục đầu tư) [173] đã cho rằng, các
công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho
phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài, nên họ sẵn sàng
ĐT trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm ĐT, những công ty đa quốc gia sẽ
chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai, chính trị) cho phép họ phát huy
các lợi thế đặc thù nói trên.
- Quan điểm tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại (nảy sinh
từ các cuộc xung đột thương mại giữa Nhật Bản và các nước như Mỹ, Tây Âu
từ sau chiến tranh thế giới thứ hai). Những người theo quan điểm này cho
rằng, ĐT trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương
mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn
do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại
trong quan hệ song phương. Để đối phó, Nhật Bản đã tăng cường ĐT trực tiếp
vào các thị trường đó, như sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu
Âu, để giảm XK các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Nhật còn ĐT trực tiếp
vào các nước thứ ba, và từ đó XK sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu để
hưởng ưu đãi NK mà các nước phát triển dành cho nước chậm phát triển [183].
- Tiếp cận tổng hợp từ nhiều nguyên nhân hình thành DN FDI. Chẳng hạn,
trong công trình nghiên cứu của nhóm John Dunning: "Why Do Companies Invest
Overseas?" (Tại sao công ty Đầu tư nước ngoài?) [130] đã giải thích vì sao công
ty lựa chọn ĐT vào các thị trường nước ngoài. Ngoài lý do mở rộng hoạt động của
mình ra nước ngoài, còn có bốn lý do chính để công ty ĐT ra nước ngoài, bao
gồm: i) Tìm kiếm thị trường (Sutherland 1998); ii) Chi phí thấp hơn; iii) Tìm kiếm
sản phẩm chiến lược; và iv) Hiệu quả tìm kiếm. Ví dụ, biến động tỷ giá hối đoái
cũng có thể thay đổi những tính toán lợi nhuận của một công ty hàng đầu để thay
đổi việc phân bổ các nguồn tài nguyên của nó....
Dunning, J. H. trong: "Trade, location of economic activity and the
MNE: a search for an eclectic approach" (Thương mại, vị trí của hoạt động
9
kinh tế và các doanh nghiệp đa quốc: tìm kiếm một phương pháp chiết trung)
[128] đã nêu các khái niệm, lý thuyết và định hướng nghiên cứu thực nghiệm,
phát triển các mô hình chiết trung của các các nhà nghiên cứu quốc tế nhằm
giải thích lực chính thúc đẩy FDI, bao gồm quyền sở hữu (O), vị trí (L), và
nhu cầu được quốc tế hóa (I). Theo tác giả, các công ty công nghệ cao có thể
có một mức độ độc quyền, và lợi nhuận độc quyền có thể là phần thưởng cho
sự đổi mới. Trong điều kiện nhất định, cho dù nắm quyền kiểm soát công
nghệ của mình, nhưng các công ty đa quốc gia có thể phát triển công nghệ ra
các nước thông qua ĐT nước ngoài hoặc hợp tác với các DN của nước sở tại
để thay thế công nghệ ở đó. Lý thuyết quốc tế hóa và mô hình chiết trung này
đã được hoàn thiện trong hơn 40 năm qua để trở thành cơ cở lý thuyết nền
tảng giải thích hoạt động FDI của công ty đa quốc gia.
Ngoài ra, còn có những công trình khác viết về vai trò của FDI trong dòng
chảy vốn quốc tế, như: "The role of foreign direct investment in international
capital flows" (Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dòng vốn quốc tế)
của RE Lipsey, RC Feenstra, CH Hahn [169], "Tax policy and foreign direct
investment" (Chính sách thuế và đầu tư trực tiếp nước ngoài) của David G.
Hartman [124]; "Perspectives on China's outward foreign direct investment"
(Những quan niệm về đầu tư trực tiếp ra bên ngoài nước ngoài của Trung
Quốc) của R Morck, B Yeung, M Zhao [170]...
1.1.2. Những nghiên cứu về tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với sự phát triển của nước tiếp nhận
Các nghiên cứu tiếp cận từ cách giải thích sự tồn tại của FDI bắt nguồn
từ tác động của nó đối với nước tiếp nhận cũng xuất hiện khá nhiều. Có thể
nêu ra một số công trình điển hình sau:
- Các công trình nghiên cứu về vai trò của FDI đối với việc làm và thu
nhập: Nhiều nghiên cứu cho rằng, FDI không chỉ góp phần trực tiếp tạo ra
việc làm mà còn gián tiếp tạo ra các cơ hội việc làm tại các tổ chức khác như
10
nhà cung cấp hoặc người tiêu dùng sản phẩm của các DN có vốn ĐTNN.
Theo UNCTAD, các công ty đa quốc gia đã tạo ra khoảng 73 triệu việc làm
trên toàn thế giới, trong đó hơn 60% việc làm được tạo ra từ các công ty mẹ
và 40% là từ các chi nhánh tại nước ngoài [180]. Slaughter đã sử dụng một bộ
dữ liệu trong giai đoạn 1982 - 1990 của 7 ngành công nghiệp thuộc 16 nước
phát triển và đang phát triển để hồi qui tìm ra mối quan hệ giữa tiền công và
sự hiện diện của các DN nước ngoài. Kết quả cho thấy sự hiện diện của các
DN nước ngoài có tác động tích cực đến việc nâng cao kỹ năng của người lao
động [155]. Fenstra và Hanson sử dụng mô hình trao đổi thương mại Bắc -
Nam và mô hình ĐT để kiểm tra tác động của FDI đến nhu cầu lao động có
tay nghề tại Mexico trong giai đoạn 1975-1988. Kết quả cho thấy, tăng trưởng
FDI làm tăng nhu cầu đối với lao động có tay nghề cao. Tại các khu vực FDI
tập trung nhiều, các công ty nước ngoài chiếm trên 50% nhu cầu lao động kỹ
thuật của thị trường. Tác giả cho rằng, kết quả này phản ánh một thực tế là
hầu hết các công ty nước ngoài sử dụng công nghệ đòi hỏi người lao động
phải có kỹ năng cao [171].
- Các công trình nghiên cứu về FDI có tác động thúc đẩy tăng trưởng
và giảm nghèo ở nước tiếp nhận: Nghiên cứu của De Melo đã sử dụng hàm
sản xuất Cobb Douglas mở rộng có tính đến sự tồn tại của mô hình nội sinh
trong FDI, lấy mẫu ở 16 nước phát triển và 17 nước đang phát triển. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng, FDI có hiệu ứng tích cực và quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế thời kỳ 1970 - 1990. Tác động này càng lớn hơn đối với các
nước đang phát triển ở châu Phi trong giai đoạn 1980-2005 [125].
Nghiên cứu của các học giả Berthelemy và Demurger; Graham và
Wada và Buckey et al, sử dụng số liệu FDI phân theo địa bàn lãnh thổ của
Trung Quốc cũng cho thấy, FDI đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của các tỉnh. Các tỉnh ven biển, nơi thu hút phần
lớn FDI của Trung Quốc, đã có tốc độ phát triển nhanh hơn các tỉnh khác.
11
Công trình của MU Klein, C Aaron, B Hadjimichael viết cho Ngân hàng
Thế giới (WB): "Foreign direct investment and poverty reduction" (Đầu tư
trực tiếp nước ngoài và giảm nghèo) [157] đã đề cập đến vấn đề này. Trong
công trình này các tác giả chứng minh rằng, FDI có vai trò quan trọng
trong góp phần xóa đói giảm nghèo. Sự tăng trưởng của FDI kéo theo sự
tăng trưởng GDP của nước tiếp nhận đầu tư và do đó làm tăng thu nhập của
người dân bản địa.
H Jalilian, J Weiss trong bài: ''Foreign direct investment and poverty in
the ASEAN region" (Đầu tư trực tiếp nước ngoài và nghèo đói trong khu vực
ASEAN) [140] đã đi sử dụng dữ liệu của một số nước để xác định mối quan
hệ giữa FDI với tăng trưởng và giảm nghèo. Kết quả cho thấy, không có bằng
chứng chứng minh FDI làm suy yếu tăng trưởng và giảm thu nhập của người
nghèo. Ngược lại, dòng vốn FDI, đặc biệt là trong trường hợp của ASEAN, có
liên quan với tăng trưởng kinh tế cao và có một mối quan hệ chặt chẽ với tăng
trưởng thu nhập bình quân đầu người và tăng trưởng thu nhập của người nghèo.
Hans-Rimbert Hemmer và Nguyen thi Phuong Hoa, "Contribution of
Foreign Direct Investment to Poverty Reduction: The Case of Vietnam in the
1990" (Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài để giảm nghèo: Trường hợp
của Việt Nam trong năm 1990) [139] đã phân tích vai trò của FDI đối với
giảm nghèo ở Việt Nam, chỉ ra ích lợi của dòng vốn đầu tư này và kiến nghị
nhà nước Việt Nam phải có chính sách thu hút FDI thích hợp.
Nghiên cứu Prof. Martin Paldam chỉ ra rằng, FDI và tăng trưởng kinh
tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. FDI không những trực tiếp tác động đến
tăng trưởng kinh tế, mà còn thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và đổi mới
công nghệ. Điểm đáng lưu ý trong nghiên cứu này là, nước nhận FDI phải có
nguồn nhân lực và công nghệ đạt tới trình độ nhất định mới hấp dẫn FDI. Nếu
nước nhận ĐT có trình độ nguồn nhân lực và công nghệ thấp hơn nước ĐT thì
sẽ ít nhận được tác động tích cực [165].
12
- Vai trò của FDI đối với phát triển thương mại quốc tế: Nhiều nghiên
cứu thực nghiệm về FDI và thương mại đã tập trung giải quyết vấn đề liệu
FDI có khả năng kích thích hoặc thay thế cho thương mại hay không? Thông
qua việc sử dụng mô hình hồi quy, họ giải thích mối quan hệ giữa XK, FDI và
các biến giải thích có liên quan khác. Hầu hết các nghiên cứu định lượng cho
thấy, FDI kích thích thương mại phát triển (Amit và Wakelin, 2003; Liu et al,
2001). Chẳng hạn, Zhang và Felmingham đã dựa trên chuỗi số liệu theo tháng
trong giai đoạn 1986 - 1990 đã phát hiện có mối quan hệ hai chiều giữa FDI
và XK ở cấp quốc gia và cấp tỉnh Trung Quốc theo hướng: FDI là một nhân
tố thúc đẩy XK. Fukao et al, Prof. Martin Paldam đã phân tích vai trò của FDI
trong những thay đổi thương mại của các nước Đông Á trong giai đoạn 1980 -
2000 và đi đến nhận định: FDI có tác động rất tích cực trong trao đổi thương
mại ngành công nghiệp thiết bị điện và có vai trò quan trọng đối với sự gia
tăng thương mại giữa các DN trong cùng ngành thuộc khu vực Đông Á.
Aizenmen và Noy thông qua nghiên cứu mối quan hệ hai chiều giữa FDI và
thương mại của hai nhóm nước phát triển và đang phát triển đã đi đến kết luận
rằng, mối quan hệ hai chiều giữa thương mại và FDI mạnh hơn ở các nước
đang phát triển [155].
- Các nghiên cứu về vai trò của chính quyền địa phương trong thu hút
FDI: C.Chunlai, trong cuốn: "Provincial characteristics and foreign direct
investment location decision within China" (Đặc điểm của tỉnh và trực tiếp
quyết định địa điểm đầu tư nước ngoài trong phạm vi Trung Quốc) [122] đã
sử dụng mô hình hồi quy bội số để chứng minh: nhờ thu hút FDI trong giai
đoạn 1987-1994 mà 29 tỉnh của Trung Quốc có GDP tăng cao, thu nhập bình
quân đầu người cao hơn. Họ cũng chứng minh rằng, kết cấu hạ tầng giao
thông vận tải chuyên sâu đã có tác dụng lớn trong thu hút FDI. Một nhận xét
khác trong công trình này là: chính sách phát triển theo khu vực của Trung
Quốc đã có một tác động mạnh mẽ đến phân bố FDI vào các địa phương.
13
E. Malesky trong: "Straight ahead on red: how foreign direct investment
empowers subnational leaders" (Thẳng về phía trước màu đỏ: làm thế nào
nước ngoài đầu tư trực tiếp trao quyền cho các nhà lãnh đạo quốc gia phụ)
[132] đã đưa ra bằng chứng chứng minh ảnh hưởng của FDI vào các quyết
định cải cách kinh tế của 61 tỉnh thành Việt Nam giai đoạn 1990 - 2000.
Nghiên cứu kinh nghiệm thu hút FDI ở các nước đang phát triển, K
Akamatsu trong cuốn: "A historical pattern of economic growth in developing
countries" (Một mô hình lịch sử của sự phát triển kinh tế ở các nước đang
phát triển) [148], thông qua phân tích các giai đoạn phát triển của một số
nước đang phát triển ở khu vực Đông Á, đã ví quá trình phát triển công
nghiệp của các nền kinh tế này như "mô hình đàn sếu bay", trong đó di
chuyển FDI từ nước phát triển sang nước kém phát triển hơn trở thành động
lực phát triển công nghiệp ở các nước này. Từ nhận xét đó, ông đưa ra lý
thuyết "đuổi bắt sản phẩm" và "khoảng cách công nghệ" với kết luận: khoảng
cách công nghệ càng gần thì càng có điều kiện để nước đi sau có thể tiếp thu
công nghệ đuổi kịp nước đi trước và nó sẽ tạo ra sự năng động trong khu vực.
E Asiedu trong: ''Foreign direct investment in Africa: The role of natural
resources, market size, government policy, institutions and political instability''
(Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại châu Phi: Vai trò của tài nguyên thiên nhiên, quy
mô thị trường, chính sách của chính phủ, các tổ chức và bất ổn chính trị) [131],
bằng khảo sát dữ liệu từ một số nhà ĐT, đã cho rằng, sự bất ổn kinh tế vĩ mô, hạn
chế ĐT, tham nhũng và bất ổn chính trị có tác động tiêu cực đến FDI vào châu
Phi. Tác giả sử dụng dữ liệu bảng cho 22 quốc gia trong giai đoạn 1984-2000 để
xem xét và đi đến kết luận các nguồn tài nguyên thiên nhiên, quy mô thị trường,
các chính sách của chính phủ, bất ổn chính trị và chất lượng của các tổ chức của
nước chủ nhà vào FDI có tác động nhiều chiều luồng FDI.
M Blomström, A Kokko, JL Mucchielli trong cuốn: "The economics of
foreign direct investment incentives" (Kinh tế học về ưu đãi đầu tư trực tiếp
14
nước ngoài) [154] đã phát hiện ra tình trạng: FDI tăng đáng kể trong vài thập
kỷ gần đây do hầu hết các nước đã giảm bớt rào cản và mở ra các lĩnh vực
mới cho FDI từ các tập đoàn nước ngoài với hy vọng sẽ tăng việc làm, tăng
XK hoặc doanh thu thuế, hoặc tăng kỹ năng làm việc cho người lao động.
T. Buthe, H.V. Milner trong: "The politics of foreign direct investment
into developing countries: increasing FDI through international trade
agreements?" (Tính chính trị của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước
đang phát triển: tăng FDI thông qua các hiệp định thương mại quốc tế?) [176]
đã cho rằng, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển thay đổi theo
thời gian do thay đổi các yếu tố chính trị, chủ yếu nhờ các thỏa thuận thương
mại quốc tế GATT/WTO hoặc các hiệp định thương mại ưu đãi (PTA). Phân
tích thống kê của 122 nước đang phát triển từ năm 1970 - 2000 đã ủng hộ lập
luận này. Các nước đang phát triển trong WTO tham gia vào nhiều PTA
thường thu hút dòng vốn FDI nhiều hơn các nước khác.
H Mirza, A Giroud trong: "Regionalization, foreign direct investment
and poverty reduction: Lessons from Vietnam in ASEAN" (Khu vực hóa, đầu
tư trực tiếp nước ngoài và giảm nghèo: Bài học từ Việt Nam trong ASEAN)
[141] đã cho thấy Việt Nam được hưởng lợi từ FDI do gia nhập vào ASEAN
năm 1995. Chính sự lạc quan và các hiệu ứng khu vực đã tạo ra thị trường, tạo
mối liên kết thành các giá trị khu vực và chuỗi giá trị toàn cầu khuyến khích FDI
vào Việt Nam nhiều hơn. Hơn nữa, các công ty con nước ngoài tại Việt Nam được
tích hợp chặt chẽ vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu sẽ mang lại cho Việt Nam
những sự đổi mới nhanh chóng. Tuy nhiên, sự tham gia chuỗi giá trị này đòi hỏi
Việt Nam phải được quản lý rất cẩn thận để có được hiệu ứng lan tỏa.
"Does foreign direct investment promote economic growth in
Vietnam?" (Có đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam?) của Thâu Thị Hoàng, P Wiboonchutikula [177], xem xét các tác
động của FDI vào tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam bằng cách sử dụng các mô
15
hình dữ liệu bảng trên 61 tỉnh, thành phố trong giai đoạn 1995-2006 để đi đến
kết luận: FDI có ảnh hưởng mạnh mẽ và tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam, là một kênh tăng chứng khoán vốn, nâng cao trình độ công nghệ và
kiến thức của Việt Nam.
"Foreign direct investment in Vietnam: An overview and analysis the
determinants of spatial distribution across provinces" (Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam: Tổng quan và phân tích các yếu tố quyết định phân bố
không gian giữa các tỉnh) của N.A. Nguyen, Nguyen T [160] đã cung cấp một
cái nhìn tổng quan về FDI tại Việt Nam và cố gắng xem xét về tình trạng hiện
tại của các yếu tố quyết định đến FDI cũng như tác động của nó đến nền kinh
tế của Việt Nam. Phân tích hồi quy về các yếu tố quyết định của không gian
phân phối FDI giữa các tỉnh cho thấy tầm quan trọng của thị trường, lao động
và kết cấu hạ tầng trong việc thu hút FDI. Chính sách của Chính phủ được đo
bằng khả năng cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) có tác động không rõ nét. Đồng
hướng nghiên cứu trên có bài: "Foreign direct investment in provinces: A
spatial regression approach to FDI in Vietnam" (Đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại tỉnh: Một phương pháp hồi quy không gian đối với FDI tại Việt Nam) của
Esiyok, Bulent và Ugur, Mehmet [135] đã sử dụng phương pháp hồi quy
không gian của FDI tại Việt Nam.
Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu khác giải thích về thu hút FDI ở
các nước đang phát triển và Việt Nam, như "Provincial Governance and
Foreign Direct Investment in Vietnam" (Quản trị cấp tỉnh và đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam) của Edmund J. Malesky [133]; "Does foreign direct
investment increase the productivity of domestic firms? In search of spillovers
through backward linkages" (Có đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng năng suất
của các doanh nghiệp trong nước? Trong tìm kiếm của sự lan tỏa thông qua
các liên kết ngược) của Beata Smarzynska Javorcik [117], "BIT by BIT The
growth of bilateral investment treaties and their impact on foreign investment
16
in developing countries..." (BIT bởi BIT Sự phát triển của các hiệp ước đầu tư
song phương và tác động của đầu tư nước ngoài ở các nước đang phát triển
...) của JW Salacuse [147]; "Foreign direct investment and the business
environment in developing countries: The impact of bilateral investment
treaties..." (Đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường kinh doanh ở các nước
đang phát triển: Tác động của hiệp định đầu tư song phương ...) của J Tobin,
S Rose-Ackerman [146] ... Các công trình khoa học này đã cung cấp cơ sở lý
thuyết và gợi ý về các yếu tố thu hút FDI vào các nước đang phát triển, so sánh
chính sách của các nước khác nhau trong thu hút FDI để rút ra kinh nghiệm thu
hút FDI cũng như nhấn mạnh vai trò của các Hiệp định hợp tác quốc tế trong thu
hút FDI vào các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
1.1.3. Những nghiên cứu về xu hướng dịch chuyển của dòng đầu tư
trực tiếp nước ngoài
Hướng nghiên cứu về dịch chuyển dòng FDI cũng được nhiều nhà khoa
học quan tâm. Công trình: "Trends in foreign direct investment flows: A
theoretical and empirical analysis" (Xu hướng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài: Một phân tích lý thuyết và thực nghiệm) của D Sethi, S E Guisinger, S
E Phelan and D M Berg [126] đã giải thích xu hướng thay đổi dòng chảy FDI
là những cân nhắc chiến lược kinh tế vĩ mô. Thông qua phân tích số liệu
thống kê ĐT của các DN đa quốc gia (MNEs), các tác giả đã đi đến nhận
định: các MNEs tăng ĐT vào châu Á để khai thác mức lương thấp và hướng
tới mục tiêu thâm nhập vào các thị trường mới.
"World Investment Report 2013: Global Value Chains: Investment and
Trade for Development" (Báo cáo đầu tư thế giới năm 2013: Chuỗi giá trị
toàn cầu: Đầu tư và Thương mại để phát triển) [183] đã phân tích xu hướng
phục hồi FDI hậu khủng hoảng (2008-2009), coi đó là xu hướng tích cực do
hiệu ứng của cải thiện điều kiện kinh tế vĩ mô và các nhà ĐT đã lấy lại được
niềm tin trong trung hạn. Vì thế các công ty xuyên quốc gia (TNCs) có thể
17
thay đổi các mức nắm giữ tiền mặt trong các khoản ĐT mới. Tuy nhiên, xu
hướng phục hồi dòng FDI toàn cầu còn phải mất nhiều thời gian hơn dự kiến.
Theo hướng nghiên cứu này, James Zhan trong: "Latest Developments in FDI
Trends and Policies" (Diễn biến mới nhất trong xu hướng và chính sách FDI)
[144] đã khẳng định: những phát triển mới nhất trong xu hướng FDI toàn cầu
giảm chủ yếu là do các nhà ĐT cảm nhận về sự mong manh kinh tế vĩ mô và
không chắc chắn của chính sách.
Richard Bruton, T.D. trong: "Policy Statement on Foreign Direct
Investment in Ireland" (Tuyên bố Chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Ireland) của Richard Bruton, T.D [168] đã cho rằng, xu hướng của FDI
vẫn tăng trưởng mạnh trong thời gian tới vì nó giữ vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy phát triển kinh tế của Ireland trong những thập kỷ vừa qua và sẽ
tiếp tục như vậy trong nhiều thập kỷ tới. Vì vậy, để thu hút được nguồn đầu tư
này, Chính phủ cần nỗ lực hơn về mặt chính sách để làm thế nào để có thể
duy trì một môi trường kinh doanh cạnh tranh trên toàn cầu, tạo môi trường
thuận lợi cho dòng chảy FDI.
Gordon G. Chang trong: "Foreign Direct Investment Falling: Trend
Could Last Long" (Ngoại rơi Đầu tư trực tiếp: Trend sẽ kéo dài) [138] đã
phản ánh xu hướng suy giảm FDI vào Trung Quốc trong mấy năm gần đây
bởi chính sách chống độc quyền của nước này.
Ngoài các sách và bài viết trên, còn có những những nghiên cứu về xu
hướng dòng FDI trên thế giới hiện nay, như: James K. Jackson trong "U.S.
Direct Investment Abroad: Trends and Current Issues" về ĐT FDI của Hoa
Kỳ; "Foreign Direct Investment in China: Recent Trends and Current Policy
Issues" của John Henley, Colin Kirkpatrick and Georgina Wilde; "Foreign
Direct Investment Falling: Trend Could Last Long", "How beneficial is
foreign direct investment for developing countries?" của P Loungani, A Razin;
"Foreign direct investment and economic development" của T Ozawa;
18
"Explaining the international direct investment position of countries: towards
a dynamic or developmental approach"; "The determinants of foreign direct
investment in transition economies" của Alan A. Bevan (12/2000); "Foreign
Direct Investment - Global Trend and Pattern" của M. Tahlin Azim; 2015
World FDI Report - Free investment crossborder report [178] … Các nghiên
cứu này đã quan tâm đến các xu hướng dòng chảy của FDI những năm gần
đây không chỉ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, mà còn
diễn ra chiều hướng ngược lại: ĐT từ các nước đang phát triển sang các nước
phát triển để tiếp cận công nghệ của các nước phát triển và mở rộng thị
trường. Xu hướng này đang ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Những nghiên cứu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam
Đã có nhiều công trình khoa học phân tích thực trạng hoạt động của
FDI tại Việt Nam những năm qua. Một số trong những công trình tiêu biểu đã
công bố tại Việt Nam gần đây là: Nguyễn Huy Thám: "Kinh nghiệm thu hút
vốn FDI ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam" [77]; Nguyễn Bích
Đạt, "Khu vực kinh tế có vốn ĐT nước ngoài - vị trí, vai trò của nó trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam" [25]; Trung tâm Thông tin
Kinh tế - Viện Nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh: "Xu hướng FDI
của các công ty đa quốc gia hiện nay"[98]. Các tác giả của các công trình nêu
trên đã tiến hành tổng kết kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước khu vực
Châu Á khi đã là thành viên của WTO để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam và xác định tầm quan trọng của FDI đối với quá trình phát triển kinh tế
Việt Nam.
Mai Ngọc Cường trong cuốn sách: "Hoàn thiện chính sách và tổ chức
thu hút ĐT trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam" [19]; Trần Quang lâm và An
19
Như Hải trong cuốn sách "Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện
nay" [44]; Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Trung tâm thông tin tư
liệu trong cuốn: "Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI vào Việt Nam"
[113]; … đã khái quát về tình hình thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam từ khi
Nhà nước ban hành Luật ĐT nước ngoài vào Việt Nam và xác định xu hướng
FDI vào Việt Nam trong các năm tiếp theo cùng những gợi ý chính sách.
Phạm Thị Hoàng Anh và Lê Hà Thu, trong bài: "Đánh giá tác động
giữa vốn FDI và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam" [1] đã dựa vào mô hình
VAR để phân tích mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Nghiên cứu cho thấy FDI có tác động rất tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại
Việt Nam và ngược lại. Nguồn vốn FDI đã kích thích XK, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, công nghệ, là những tiền đề quan trọng cho sự tăng
trưởng của kinh tế Việt Nam. Những kiến nghị chính sách góp phần hoàn
thiện cơ chế quản lý của nước ta về FDI, cũng như nâng cao tác động qua lại
giữa FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Cuốn: "Điều chỉnh chính sách FDI ở Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế" của Phùng Xuân Nhạ [58] đã nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn điều chỉnh chính sách thu hút FDI ở Việt Nam giai đoạn 1988-2008, tác
động của điều chỉnh chính sách FDI ở Việt Nam và một số gợi ý cho việc điều
chỉnh chính sách FDI ở Việt Nam trong thời gian tiếp theo.
Phùng Xuân Nhạ: "FDI tại Việt Nam: Lý luận và thực tiễn" [59] đã tiếp
cận từ quan điểm cho rằng: điều chỉnh chính sách FDI là công việc thường
xuyên của các cơ quan hoạch định chính sách. Mỗi lần điều chỉnh, có nhiều
quy định thay đổi, trong đó có những thay đổi đảm bảo nguyên tắc "không hồi
tố", nhưng cũng có những thay đổi hoặc bổ sung làm giảm tính nhất quán của
các chính sách. Các tác giả bổ sung, phát triển các kết quả nghiên cứu đã có,
phân tích một cách có hệ thống, cập nhật các vấn đề lý luận và thực tiễn của
FDI ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tập trung phân
20
tích các luận cứ khoa học, làm rõ thực trạng các chính sách và kết quả hoạt
động FDI ở Việt Nam trong hơn 20 năm qua, đưa ra gợi ý điều chỉnh chính
sách, biện pháp điều tiết thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI ở Việt Nam.
Lê Như Tùng: "Cơ sở lý luận về FDI (FDI)" [102] đã nghiên cứu về vai
trò và bản chất của FDI, chính sách của các nước đang phát triển đối với hoạt
động của FDI, Liên minh châu Âu đối với FDI, tình hình FDI và ĐT trực tiếp của
EU tại Việt Nam, khái quát ĐT của từng nước EU. Cuốn sách có ý nghĩa làm tài
liệu tham khảo khi nghiên cứu về thu hút FDI vào các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Nguyễn Thị Tuệ Anh trong đề tài "Nghiên cứu điều chỉnh chính sách
FDI ở Việt Nam đến năm 2020" [3] đã phân tích cơ sở lý luận của điều chỉnh
chính sách FDI đối với các nước đang phát triển, kinh nghiệm của các nước
Malaysia, Trung Quốc và Hàn Quốc trong điều chỉnh chính sách, đánh giá
thực trạng chính sách thu hút FDI của Việt nam, hiệu quả của FDI và đề xuất
các định hướng, giải pháp điều chỉnh chính sách thu hút FDI.
Nguyễn Duy Quang trong công trình: "Đầu tư trực tiếp của Liên minh
Châu Âu vào Việt Nam" [64] đã phân tích các yếu tố hấp dẫn nhà đầu tư thuộc
Liên minh Châu Âu của Việt Nam và đưa ra các kiến nghị nhằm tăng cường thu
hút nhiều hơn FDI của khu vực này vì đó là nguồn đầu tư có chất lượng cao.
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu về sự cần thiết, kinh nghiệm
và thực trạng thu hút FDI vào Việt Nam như: Nguyễn Như Bình và Johnathan
Haughton, S. Parker, Phan Vinh Quang và Nguyễn Ngọc Anh nêu lên Hiệp
định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ giúp thu hút FDI
vào Việt Nam; Nguyễn và K. Meyer chỉ ra yếu tố pháp lý có tác động đáng kể
đến quyết định ĐTNN vào Việt Nam. Năm 2006, Nguyễn Phi Lân, bằng việc
sử dụng mô hình GMM, đã đi đến kết luận rằng, mối quan hệ giữa FDI và
tăng trưởng kinh tế Việt Nam là tích cực. Trần Quang Tiến chỉ ra FDI làm
nâng cao kết cấu hạ tầng của nước ta, và ngược lại.
21
1.2.2. Những nghiên cứu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
vùng kinh tế của Việt Nam và vùng Bắc Trung Bộ
1.2.2.1. Nghiên cứu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng
kinh tế của Việt Nam Trong những năm gần đây, trên diễn đàn lý luận trong nước đã xuất
hiện một số công trình nghiên cứu về thu hút FDI vào vùng. Nguyễn Thị
Tường Anh và Nguyễn Hữu Tâm trong bài "Nghiên cứu định lượng về các
nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI tại các tỉnh thành của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay" [5] đã phản ánh những nét chung của dòng vốn FDI
vào Việt Nam, xu hướng phân bổ FDI theo vùng kinh tế, khu vực địa lý và theo
nước ĐT trong mối tương quan với các quốc gia trong khu vực và các thời kỳ
khác nhau; nghiên cứu định lượng về các nhân tố tác động đến dòng FDI đổ vào
các tỉnh, thành ở Việt Nam trong 2 giai đoạn 2001-2007 và 2008-2010 nhằm chỉ
ra những thay đổi trong quyết định về địa điểm ĐT. Nhóm tác giả đã đi sâu phân
tích giai đoạn thứ 2 để chỉ rõ hơn các nhân tố về nguồn lao động và điều kiện
chính trị đã tác động đến dòng vốn FDI đổ vào các tỉnh như thế nào.
Bài viết: "Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng Đồng Bằng
sông Cửu Long" của Lê Văn Công [15] đã phân tích, đánh giá tình hình thu hút
FDI vào vùng Đồng Bằng sông Cửu Long, phân tích tác động của các dự án lớn
đến vùng và phát hiện một số nguyên nhân khiến FDI vào vùng này còn ít.
Cục Xúc tiến thương mại - Bộ Công Thương xuất bản công trình:
"Thực trạng thu hút vốn FDI (FDI) của vùng Đông Nam Bộ thời gian qua"
[17] đã phân tích thực trạng thu hút FDI vào vùng Đông Nam Bộ, phân tích
các yếu tố cho phép vùng này dẫn đầu cả nước về thu hút FDI năm 2010,
phân tích hiện tượng các địa phương trong Vùng hạn chế tiếp nhận các dự án
gây ô nhiễm môi trường, dự án có hàm lượng công nghệ thấp, đồng thời tích
cực thu hút những dự án có hàm lượng công nghệ cao, hạn chế những tác
động tiêu cực đến môi trường và sử dụng ít lao động.
22
Luận án tiến sĩ của Trần Thị Tuyết Lan về: "Đầu tư trực tiếp nước
ngoài theo hướng phát triển bền vững ở Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ"
[43] đã chỉ rõ yêu cầu, nhân tố ảnh hưởng, nội dung và các tiêu chí đánh giá
FDI vào vùng kinh té trọng điểm. Công trình này cũng đưa ra một số giải
pháp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI theo hướng pháttriển bền vững ở vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ.
Ngoài ra còn có một số bài viết trên các báo và bản tin về đề tài đầu tư
vào vùng kinh tế như bài "Liên kết để phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm
miền Trung" của Hồng Hạnh [31]; "Giải pháp chiến lược liên kết vùng để thu
hút FDI vào Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung" của Bùi Duy Hoàng; "Giải
pháp chiến lược liên kết vùng để thu hút FDI vào Vùng Kinh tế trọng điểm
miền Trung" của Bùi Tất Thắng. Kiến nghị chung của các bài viết nêu trên là
cần đẩy mạnh liên kết vùng, nhất là liên kết hệ thống kết cấu hạ tầng và chính
sách để thu hút FDI có lợi cho các vùng.
1.2.2.1. Nghiên cứu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng
Bắc Trung Bộ Đến nay, chưa có những công trình nghiên cứu mang tính hệ thống về
FDI vào các tỉnh Bắc Trung Bộ. Trên các phương tiện thông tin đại chúng
mới có một số thông tin giới thiệu về tiềm năng và cơ hội thu hút FDI của
Vùng và của một số tỉnh như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thanh Hóa và
tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây mới chỉ là những bài báo có tính cung cấp thông
tin. Chẳng hạn, có các bài: "Bắc Trung Bộ - tiềm năng và cơ hội thu hút ĐT"
của Cục xúc tiến thương mại [18] đã giới thiệu về các tiềm năng của các tỉnh
trong việc thu hút FDI và nêu những thách thức đặt ra trong hoạt động này
trên địa bàn. Sơn Thắng với bài: "Thừa Thiên Huế khơi dòng hút vốn FDI"
[78] đã đưa tin về việc tỉnh này đang nỗ lực huy động mọi tiềm lực, cải thiện
môi trường thu hút FDI, trong đó đáng chú ý là ban hành một số chính sách
ưu đãi và hỗ trợ ĐT trên địa bàn tỉnh được các nhà ĐT đánh giá cao. "Tiềm
23
năng phát triển KT-XH tại khu vực Bắc Trung Bộ" của Cục xúc tiến thương
mại của Bộ Công Thương [17] nhằm giới thiệu tiềm năng và cơ hội để các
nhà đầu tư hướng vào các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Ngoài ra, còn có một số thông tin khác giới thiệu và xúc tiến đầu tư như
bài viết: "Bắc Trung Bộ mời gọi FDI" của tác giả Dương Hà [28]; "Nghệ An
thu hút đầu tư vào khu kinh tế Đông Nam" của tác giả Nguyễn Văn Nhật [60].
Đặc biệt là một số tài liệu của Hội nghị xúc tiến ĐT vào các tỉnh Bắc Trung
Bộ được tổ chức vào ngày 17/10/2011 do Bộ KH&ĐT phối hợp với UBND
sáu tỉnh Bắc Trung Bộ tổ chức tại Nghệ An. Đây là bộ tài liệu tham khảo khá
tốt mang tính thông tin xúc tiến ĐT vào địa bàn các tỉnh Bắc Trung Bộ giai
đoạn 2011-2020.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CẦN PHẢI TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố
Các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế nêu trên đã giải quyết
được nhiều vấn đề về thu hút FDI, như: đã luận giải rõ động lực di chuyển
FDI của nước ĐT là tìm kiếm thị trường, lợi nhuận và mở rộng chuỗi giá trị
toàn cầu. Đã phân tích khá rõ lợi ích từ FDI ở các nước nhận ĐT. Đặc biệt,
nhiều công trình nhấn mạnh rằng, đối với các nước đang phát triển, FDI
không chỉ làm tăng thêm nguồn lực cho phát triển KT-XH, mà còn là điều
kiện để phát huy nguồn lực và sức sản xuất trong nước, giảm chi phí sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm nội địa, mở rộng thị trường, nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm, của DN và của quốc gia. Thu hút FDI sẽ mang lại nhiều
hiệu ứng tích cực không chỉ góp phần vào tăng trưởng kinh tế, thu NSNN, tạo
việc làm, thu nhập và nâng cao mức sống của người dân, mà còn có tác động
tích cực về văn hóa xã hội... Một số nghiên cứu cũng chỉ ra mặt trái của thu
hút FDI nếu chính quyền nơi tiếp nhận thiếu một chính sách và biện pháp
quản lý "khôn ngoan". Đa phần các tác giả nhất trí rằng, mức độ thu hút FDI
24
như thế nào, cơ cấu ra sao, ĐT vào lĩnh vực nào… không chỉ phụ thuộc vào
các nhà ĐT nước ngoài, mà phụ thuộc rất lớn vào thể chế, chính sách, năng
lực quản lý, môi trường KT-XH của nước và vùng lãnh thổ tiếp nhận FDI.
Một số nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm thu hút FDI của các
nước, trong đó có kinh nghiệm thu hút FDI vào vùng lãnh thổ, và cho rằng,
đặc thù vùng lãnh thổ cũng tạo điều kiện cho dòng chảy FDI. Có công trình
nghiên cứu sâu về thu hút FDI, cơ chế vận hành dòng đầu tư trực tiếp này và
chỉ ra một số kinh nghiệm cần thiết trong thu hút và sử dụng FDI... Có một số
đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực, trình độ quản lý để thu hút nguồn
vốn FDI và phát huy tác động tích cực của nguồn vốn ĐT này v.v... Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu trên còn đang "bỏ ngỏ" hay còn "khoảng
trống" trong một số vấn đề về thu hút FDI như sau:
Thứ nhất, chính sách thu hút FDI của nước đang phát triển trong bối
cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, nhất là bối cảnh các nền kinh tế đang phải
tái cơ cấu sau tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009,
tiếp đó là khủng hoảng nợ công… Bối cảnh này đã tác động tiêu cực đến việc
thực hiện vai trò hỗ trợ của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, trong đó
có hoạt động thu hút FDI.
Thứ hai, những điểm mới của dòng chảy FDI sau khủng hoảng tài
chính toàn cầu (2008-2009). Hơn nữa, chưa có công trình nghiên cứu về tác
động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại với những sản
phẩm mới đến nhận thức, định hướng chính sách thu hút và quản lý FDI trước
đây không còn phù hợpở các nước đang cần công nghiệp hóa nhanh như Việt
Nam. Những nghiên cứu mới nhằm đề xuất chính sách mang tính phù hợp
hơn với những thay đổi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ chưa
được các nhà khoa học giải quyết thấu đáo.
Thứ ba, chính sách thu hút FDI vào các vùng kinh tế đặc thù phù hợp
với nhiệm vụ phát triển KT-XH của mỗi vùng, nhất là các vùng được coi là
25
chậm phát triển trong so sánh với các vùng khác của Việt Nam. Mối liên kết
giữa các tỉnh trong vùng nhằm nâng cao lợi ích nhận được từ FDI của mỗi địa
phương trong vùng cũng như của cả vùng và quốc gia chưa được nghiên cứu
taonf diện, hệ thống. Hơn nữa, vấn đề phát huy các nguồn lực trong nước và
thu hút các nguồn lực từ bên ngoài như thế nào, tuy đã được khá nhiều công
trình nghiên cứu và công bố, nhưng mới chỉ giới hạn trong tư duy cũ khuyến
khích tăng trưởng dựa vào tăng đầu tư vốn, phát triển theo chiều rộng, mà
chưa chú trọng nghiên cứu các điều kiện, yếu tố thu hút FDI nhằm phát triển
theo chiều sâu, đảm bảo tính bền vững trong phát triển kinh tế. Chưa có
những phát hiện mới trong lĩnh vực thu hút FDI phù hợp với tái cấu trúc nền
kinh tế nói chung, tái cấu trúc mỗi vùng lãnh thổ ở nước ta nói riêng.
Thứ tư, cho đến nay, các nghiên cứu về thu hút FDI vào vùng Bắc
Trung Bộ chưa nhiều, chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, có hệ
thống về thu hút và sử dụng FDI vào các tỉnh trong vùng. Đặc biệt, những vấn
đề mang tính vùng, liên kết vùng trong thu hút FDI hầu như còn bỏ ngỏ. Nếu
không nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này để có giải pháp phù hợp, thì các
mục tiêu thu hút FDI phục vụ phát triển KT-XH của vùng có nguy cơ không
thể đạt được.
1.3.2. Những vấn đề tập trung nghiên cứu trong luận án
Đề góp phần lấp đầy một phần "khoảng trống" này và để phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong thu hút và sử dụng FDI vào các tỉnh Bắc
Trung Bộ trong giai đoạn 2016-2020, trong luận án sẽ tập trung nghiên cứu
các vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ đặc tính vùng của thu hút FDI, trong đó chú trọng vấn
đề lợi thế thu hút FDI theo vùng, liên kết giữa các tỉnh nhằm tăng khả năng
cạnh trnah thu hút FDI với vùng khác cũng như tăng lợi ích nhận được cho
vùng từ FDI. Những vấn đề liên quan đến vai trò, nội dung, yêu cầu, nhân tố
ảnh hưởng đến thu hút FDI vào vùng kinh tế được quan tâm làm rõ.
26
Thứ hai, tổng hợp có phân tích kinh nghiệm thu hút FDI theo vùng của
một số vùng trong nước và nước ngoài và rút ra những bài học có thể áp dụng
vào vùng Bắc Trung Bộ.
Thứ ba, phân tích thực trạng thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ trong
giai doạn 2011-2014 trên các phương diện xây dựng môi trường hấp dẫn ĐT,
xây dựng chính sách ưu đãi đối với nhà ĐT nước ngoài trên ba phương diện:
triển khai thực hiện chính sách của Chính phủ, liên kết giữa các tỉnh và chính
sách đặc thù của từng tỉnh. Các hoạt động thu hút FDI mang tính truyền thống
khác nha xúc tiến ĐT nước ngoài, hỗ trợ nhà ĐT nước ngoài,.. cũng được chú
trọng phân tích để làm rõ thành công và hạn chế. Đặc điểm mới trong thu hút
FDI sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008-2009 và dư âm của khủng hoảng nợ
công cũng được lồng ghép xem xét khi đánh giá thực trạng thu hút FDI vào
Vùng bắc Trung Bộ.
Thứ tư, thực hiện một số dự báo về bối cảnh trong nước, quốc tế ảnh
hưởng đến thu hút FDI vào vùng bắc Trung Bộ trong giai đoạn đến 2020 và
tìm kiếm phương hướng, giải pháp có cơ sở khoa học, khả thi nhằm tăng
cường thu hút FDI hơn nữa vào vùng Bắc Trung Bộ phù hợp với định hướng
phát triển kinh tế - xã hội của vùng đến năm 2020.
27
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VÙNG KINH TẾ
2.1. KHÁI QUÁT VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
VÙNG KINH TẾ
2.1.1. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Có nhiều quan niệm khác nhau về FDI. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế, FDI
là "Một khoản ĐT với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một
nền kinh thế thu được lợi ích lâu dài từ một DN đặt tại một nền kinh tế khác"
[157]. Định nghĩa này nhấn mạnh khía cạnh hoạt động ĐT của FDI.
Theo UNCTAD: FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông
qua các công ty liên quan khác) bởi nhà ĐTNN cho các DN, hoặc vốn mà nhà
ĐTNN nhận được từ DN mà họ ĐT ở nước ngoài. FDI gồm có ba bộ phận:
vốn cổ phần, thu nhập tái ĐT và các khoản vay trong nội bộ công ty [180].
Định nghĩa này nhấn mạnh khía cạnh vốn ĐT ở nước ngoài của FDI.
Theo WTO, "FDI xảy ra khi một nhà ĐT từ một nước (nước chủ ĐT) có
được một tài sản ở một nước khác (nước tiếp nhận ĐT) cùng với quyền quản lý
tài sản đó" [186]. Trong định nghĩa này khía cạnh quản lý được nhấn mạnh.
Khoản 3, Điều 2, Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1987 xác định: "Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam
chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc DN 100% vốn nước ngoài " [66]. Định nghĩa này nêu
khá toàn diện các dặc tính của FDI.
Kế thừa điểm hợp lý của các quan niệm nêu trên, trong luận án này đầu
tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ từ
28
nước ĐT sang nước tiếp nhận ĐT để thành lập hoặc kiểm soát DN nhằm mục
đích kinh doanh thu lợi nhuận và lợi ích khác.
Như vậy, FDI là một quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc
điểm cơ bản của FDI là: i) Sự dịch chuyển vốn từ nước này sang nước khác;
và ii) Chủ ĐT (pháp nhân, thể nhân) có quyền quản lý trực tiếp tài sản hình
thành từ ĐT. Ngoài ra, FDI còn là hình thức ĐT dài hạn bằng cách thiết lập
cơ sở SXKD.
2.1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài Từ hình thức thành lập DN hoặc chi nhánh của DN ở nước ngoài, đến
nay đã xuất hiện khá nhiều hình thức FDI. Có thể nêu một số hình thức sau:
* Đầu tư thành lập DN liên doanh với nhà ĐT trong nước nhận ĐT.
Doanh nghiệp liên doanh có vốn ĐTNN ngoài là hình thức được sử
dụng phổ biến ở các nước đang phát triển. Đặc điểm của hình thức DN liên
doanh là nhà ĐTNN và nhà ĐT trong nước cùng nhau góp vốn, cùng chia xẻ
lợi nhuận, rủi ro và chung trách nhiệm quản lý DN. Ưu điểm của DN liên
doanh là nước nhận ĐT có thể kiểm soát được hoạt động của DN, đồng thời
vẫn có thể thu hút vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý của nước ngoài. Đối với
nhà ĐTNN, hình thức DN liên doanh tạo điều kiện thâm nhập thị trường dễ
dàng, giảm rủi ro khi ĐT vào thị trường mới và tận dụng được uy tín, thương
hiệu của nhà ĐT ở nước sở tại. Nhược điểm của DN liên doanh là mất thời
gian tìm kiếm đối tác, trong quá trình hoạt động có thể xuất hiện mâu thuẫn
do bất đồng quan điểm hoặc khác biệt về văn hóa.
* Thành lập DN 100% vốn nước ngoài.
Các nhà ĐTNN thường ưa chuộng hình thức thành lập DN 100% vốn
của họ ở nước ngoài do nó có ưu điểm là giữ được bí quyết công nghệ, uy tín
thương hiệu và nhà ĐT nước ngoài chủ động trong điều hành, quản lý DN.
Nếu cho phép nhà ĐT nước ngoài thành lập DN 100% vốn của họ, nước nhận
ĐT có thể thu hút được nhiều FDI hơn. Tuy nhiên, DN 100% vốn nước ngoài
29
có nhược điểm là khó huy động nguồn lực của nước nhận ĐT, rủi ro do thiếu
hiểu biết thị trường trong nước cao, nước nhận ĐT khó kiểm soát hoạt động
của nhà ĐTNN, nhất là quan hệ giữa DN FDI với DN chủ đầu tư ở nước
ngoài trong lĩnh vực chuyển giá.
* Thành lập công ty cổ phần có sự tham gia của nhà ĐT trong nước
Nhà ĐTNN có thể thành lập công ty cổ phần mới ở nước ngoài dưới
hình thức huy động vốn của cả nhà ĐT nước ngoài lẫn nhà ĐT trong nước.
Lúc đầu có thể thành lập công ty cổ phần chưa phải đại chúng. Trong quá
trình hoạt động, nhà ĐTNN có thể niêm yết cổ phiếu của công ty ở thị trường
chứng khoán trong nước và nước ngoài nếu đủ điều kiện. Nhà ĐTNN thường
ưa thích hình thức ĐT này do có thể huy động vốn linh hoạt và giảm thiểu rủi
ro cho nhà ĐT lớn. Tuy nhiên, các nước nhận ĐT không khuyến khích hình
thức này do lo ngại sự di chuyển vốn khó kiểm soát của nhà ĐTNN nước
ngoài cũng như sự lũng đoạn của họ ở thị trường chứng khoán trong nước.
* Thành lập chi nhánh của DN nước ngoài
Chi nhánh của DN ở nước ngoài không được coi là một pháp nhân độc
lập ở nước nhận ĐT. Về mặt phạm vi hoạt động, chi nhánh hoàn toàn chịu sự
chi phối của DN ở nước ngoài. Ưu điểm của chi nhánh là thủ tục thành lập dễ
dàng. Nhược điểm của chi nhánh là rủi ro cho DN ở nước ngoài cao vì họ
phải thực hiện các nghĩa vụ do chi nhánh làm phát sinh. Đối với nước nhận
ĐT, hình thức chi nhánh không được ưa chuộng do nó không có khả năng
đem nhiều vốn, công nghệ đến nước sở tại.
* Hợp tác đầu tư
Hợp tác ĐT giữa nhà ĐTNN và nhà ĐT trong nước là hình thức FDI
khá phổ biến. Có nhiều hình thức hợp tác đầu tư như BOT (thường là nhà ĐT
nước ngoài hợp đồng xây dựng công trình, kinh doanh một thời gian, sau đó
chuyển giao cho nước chủ nhà), BTO (hợp đồng xây dựng, chuyển giao, kinh
doanh công trình đó một thời gian), BT (nhà ĐT nước ngoài ký hợp đồng xây
30
dựng công trình, chuyển giao cho nước chủ nhà để đổi lại một ưu đãi kinh
doanh khác)…
Ưu điểm của hợp tác ĐT là thu hút được lượng vốn lớn từ nước ngoài
để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng ở nước sở tại. Nhược điểm của hình
thức này là nước sở tại khó tiếp nhận công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ
nhà ĐTNN đồng thời phải gánh chịu rủi ro từ hợp đồng hợp tác ĐT.
* Mua DN của nước sở tại
Đây là hình thức nhà ĐTNN ngoài mua lại (100% hoặc phần lớn) DN trong
nước để nắm quyền kiểm soát DN này. Ưu điểm của hình thức FDI này là nhà
ĐTNN có thể làm chủ thị phần và thương hiệu của DN trong nước mà không mất
thời gian làm quen với thị trường. Ngoài ra, các công ty quốc gia có thể sử dụng
hình thức này để thiết lập chuỗi giá trị toàn cầu của họ mà không quá tốn kém.
Nước nhận đầu tư cũng có lợi vì thu hút được nhà ĐT chiến lược, có thế mạnh và
uy tín trên thị trường quốc tế, nhờ đó dễ dàng hơn trong tái cơ cấu các DN trong
nước theo hướng tăng năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên hình thức FDI này có thể
không được giới ĐT trong nước hưởng ứng do mất lợi thế cạnh tranh và đôi khi
không nhận được sự ủng hộ của lao động trong các DN bị mua lại.
2.1.1.3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nước tiếp nhận
đầu tư * Tác động có lợi cho nước nhận ĐT
Nhìn tổng thể FDI mang lại cho nước nhận ĐT nhiều lợi ích, đó là:
Thứ nhất, FDI là nguồn vốn quý đối với nước nhận ĐT. Nhà ĐT nước
ngoài không chỉ cung cấp cho nước nhận đầu tư một nguồn tài chính dồi dào,
mà còn đem theo năng lực sản xuất mới vào nước đầu tư. Đặc biệt, đối với
các nước nghèo, sự xuất hiện các DN FDI không chỉ trực tiếp nâng cao năng
lực sản xuất của nước sở tại, mà còn có tác động lan tỏa, kích thích giới ĐT
trong nước cung cấp hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ cho DN FDI, qua đó thúc đẩy
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước nhận ĐT.
31
Thứ hai, FDI góp phần chuyển giao công nghệ tiến bộ hơn công nghệ sẵn
có trong nước sở tại. Các nhà ĐT nước ngoài phải đem tới công nghệ tiến bộ hơn
ở nước sở tại mới có khả năng cạnh tranh với DN trong nước. Chính vì thế các
nước thu hút FDI đồng thời cũng thu hút được công nghệ tiến bộ mà không phải
thông qua quá trình chuyển giao phức tạp trên thị trường công nghệ ở nước ngoài.
Thứ ba, FDI góp phần chuyển giao kinh nghiệm, kỹ năng quản lý và
đào tạo tay nghề cho người địa phương. Các DN FDI thường sử dụng người
địa phương đảm nhiệm các vị trí lao động sản xuất trực tiếp và quản lý.
Thông qua quá trình làm việc tại các DN FDI, người lao động ở nước sở tại
nhận được các kỹ năng và tri thức mà các DN trong nước chưa có.
Thứ tư, FDI tạo điều kiện cho nước sở tại giao lưu kinh tế với nước
ngoài. Nhờ có thị trường truyền thống và đối tác ở nước khác, DN FDI có
điều kiện thuận lợi hơn DN của nước sở tại trong XK, NK hàng hóa, dịch vụ.
Hơn nữa, nhiều nhà ĐTNN có thể trở thành nhân tố kết nối chính phủ nước
nhận ĐT với các tổ chức và chính phủ nước khác. Thông qua các DN FDI,
dân chúng giữa hai nước cũng có điều kiện giao lưu, hiểu biết lẫn nhau.
Thứ năm, tổng hợp lại FDI đóng góp vào tăng trưởng, tạo việc làm mới
và tăng thu nhập cho nước sở tại. Dù ít, dù nhiều, các DN FDI đều đóng góp
một phần vào GDP, vào tạo việc làm mới và thu nhập cho dân cư của nước sở
tại. Ở các nước đang phát triển, người dân làm việc trong các DN FDI thường
có mức thu nhập cao hơn người làm việc ở DN trong nước.
* Tác động không có lợi cho nước nhận ĐT
Mặc dù đem đến nhiều lợi ích cho nước nhận ĐT, DN FDI cũng gây ra
một số tác động không có lợi cho các nước này, đó là:
Thứ nhất, DN FDI cạnh tranh với DN trong nước, khiến nhiều DN
trong nước phá sản, có thể gây nên tình trạng phụ thuộc của nước nhận ĐT
vào ĐT nước ngoài, nhất là ở các nước chậm phát triển. Bởi vì nhà ĐT nước
ngoài có thế mạnh về vốn, công nghệ, quản lý, thị trường, nên nếu nhà ĐT
32
trong nước không đủ mạnh thì sẽ khó cạnh tranh trên thị trường nội địa. Khi
các ngành kinh tế quan trọng của đất nước do DN FDI nắm giữ thì nền kinh tế
quốc gia tất yếu rơi vào vị thế phụ thuộc.
Thứ hai, DN FDI tận dụng thị trường trong nước bằng cách gia công,
lắp ráp và khai thác tài nguyên của nước nhận ĐT khiến nước nhận ĐT không
thu được nhiều giá trị gia tăng, trong khi đó lại phải gánh chịu những hậu quả
của ĐT như ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên. Hình thức phổ biến là
nhà ĐTNN nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ của họ dưới dạng thành lập DN để
gia công, lắp ráp linh kiện, chi tiết sản phẩm NK. Nhờ đó, nhà ĐTNN tránh
được thuế NK và sử dụng được lao động giá rẻ của nước sở tại. Ngoài ra,
nhiều nhà ĐTNN nhắm vào nguồn tài nguyên khan hiếm của nước sở tại, chỉ
ĐT vào khai thác và xuất khẩu, nên giá trị gia tăng mà nước sở tại nhận được
không đáng kể, trong khi phải gánh chịu tình trạng mất mát tài nguyên và chịu
ô nhiêm môi trường do hoạt động công nghiệp của nhà ĐTNN.
Thứ ba, các DN FDI có thể trốn thuế bằng chuyển giá giữa công ty con
ở nước nhận ĐT và CT mẹ ở nước ĐT. Trong trường hợp này, nước nhận ĐT
nhận được ít hơn lượng giá trị gia tăng mà họ đáng lẽ phải được hưởng. Việc đấu
tranh chống chuyển giá của các nước đang phát triển gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ tư, thông qua các công ty con, chi nhánh ở nước ngoài, các công ty
xuyên quốc gia, đa quốc gia có thể lũng đoạn thị trường trong nước nhận ĐT.
Vì mục tiêu lợi nhuận, các công ty lớn ở nước ngoài có thể thâu tóm các DN
trong nước, thậm chí gây sức ép với chính phủ để đạt được mục tiêu của họ.
Nếu nước sở tại không có chính sách khôn khéo và có thực lực, sự lũng đoạn
của công ty nước ngoài có thể gây thiệt hại cho nước nhận ĐT.
2.1.2. Khái niệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế
2.1.2.1. Khái niệm vùng kinh tế Đến nay, ở nước ta, vẫn chưa đạt được sự thống nhất trong cách hiểu về
"vùng kinh tế". Nhiều nhà khoa học đã thảo luận về việc nên gọi là "vùng
33
kinh tế", hay "khu vực kinh tế". Tuy nhiên, thể nhận có thấy, trong một quốc
gia, do có những đặc điểm tự nhiên, sinh thái và văn hóa chung, nên một số
khu vực hành chính nào đó có một số đặc điểm chung về phát triển KT-XH
hình thành nên một không gian phát triển kinh tế chung. Ở nước ta, nhiều
người gọi không gian phát triển kinh tế chung đó là "vùng kinh tế".
Hơn nữa, trong kinh tế thị trường, để có sản xuất tối ưu theo điều kiện
tự nhiên, người ta cũng nhận thấy, cần quy hoạch các khu vực địa lý phù hợp
với điều kiện sản xuất một số loại sản phẩm, dịch vụ nào đó. Vì thế, trong quy
hoạch, phân vùng kinh tế được mọi người đón nhận một cách tự nhiên.
Tóm lại, có thể hiểu, vùng kinh tế là một phần lãnh thổ đặc thù của nền
kinh tế quốc dân gắn với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội chung và được
ghi nhận trong quy hoạch phân bố không gian phát triển của quốc gia.
Như vậy, vùng kinh tế, trước hết là một phần lãnh thổ liên tục về không
gian của quốc gia. Phạm vi lãnh thổ vùng kinh tế thường bao trùm nhiều hơn
một lãnh thổ hành chính của một nước. Ở một số nước, cơ quan quản lý vùng
kinh tế thường là các văn phòng đại diện của các bộ ngành thuộc chính phủ
hoặc các cơ quan chỉ đạo trực thuộc chính phủ. Những đơn vị này không có chức
năng quản lý hành chính toàn diện, thường chỉ làm chức năng giám sát, truyền
tải thông tin theo ngành, lĩnh vực hoặc chương trình - mục tiêu quốc gia.
Vùng kinh tế cũng thường có một số ngành sản xuất chuyên môn hóa theo
lợi thế tự nhiên, văn hóa, truyền thống lịch sử. Các ngành chuyên môn hóa nói
lên chức năng sản xuất của vùng kinh tế trong một giai đoạn phát triển nhất định
trong quan hệ với các vùng kinh tế còn lại của đất nước và có thể thay đổi theo
thời gian. Trong các nền kinh tế được quản lý theo kế hoạch quốc gia thống nhất,
các ngành sản xuất chuyên môn hóa của vùng kinh tế thể hiện sự phân công lao
động và chức năng sản xuất mà vùng kinh tế phải gánh vác đối với quốc gia.
Mặc dù có một số ngành sản xuất chủ đạo, nhưng trên địa bàn vùng
kinh tế vẫn hình thành cơ cấu kinh tổng thể bao gồm ba phân đoạn chủ yếu là
34
các ngành sản xuất chuyên môn hóa, các ngành sản xuất bổ trợ và các ngành
sản xuất phụ. Các ngành sản xuất chuyên môn hóa là ngành đóng vai trò chủ
yếu trong vùng kinh tế, quyết định phương hướng sản xuất chủ yếu của vùng
kinh tế, quyết định vị trí của vùng kinh tế trong sự phân công theo lãnh thổ
trong nước, quyết định hình thành cơ cấu của vùng kinh tế. Các ngành sản
xuất bổ trợ là ngành chủ yếu phát triển để trực tiếp phục vụ cho các ngành sản
xuất chuyên môn hóa. Đó là những ngành khai thác nguyên liệu, làm giàu
nguyên liệu, các ngành cung cấp thiết bị, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng cho
các ngành sản xuất chuyên môn hóa. Các ngành sản xuất phụ bao gồm những
ngành không có liên quan trực tiếp với các ngành sản xuất chuyên môn hóa,
nhưng rất cần thiết cho sự phát triển của vùng kinh tế như giao thông, liên lạc,
dịch vụ tài chính….
Vùng kinh tế cũng là địa bàn sinh sống của các cộng đồng dân cư, tạo
nên nét đặc sắc văn hóa và trình độ phát triển KT-XH của cả lãnh thổ vùng.
Mỗi cộng đồng dân tộc có nền văn hóa riêng, có ngành sản xuất truyền thống
riêng. Ở các vùng kinh tế có nhiều dân tộc thiểu số sẽ hình thành một cơ cấu
các nền văn hóa khác nhau vừa tồn tại cạnh nhau, vừa cải hoán lẫn nhau.
Trải qua quá trình hình thành một cách tự nhiên hoặc nhân tạo, nhìn
chung, vùng kinh tế mang các đặc điểm sau đây: (i) Là một khu vực địa lý xác
định có đặc tính tự nhiên, văn hóa, xã hội tương đối đồng nhất bên trong, khác
biệt với bên ngoài; (ii) Bao gồm một số đơn vị hành chính nhất định; (iii) Tồn
tại sự trao đổi nội vùng và với vùng khác về các mặt kinh tế, xã hội và môi
trường sinh thái.
2.1.2.2. Khái niệm thu hút đầu tư nước ngoài vào vùng kinh tế * Khái niệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong nhiều năm nay FDI đã lôi cuốn một lượng lớn vốn ĐT di chuyển
từ quốc gia này sang quốc gia khác. Quá trình di chuyển đó được thực hiện
bởi nỗ lực của hai chủ thể có liên quan bao gồm nước ĐT và nước nhận ĐT.
35
Nước ĐT cần có động lực thúc đẩy di chuyển vốn ĐT ra nước ngoài. Động
lực thúc đẩy được tạo bởi tình trạng dư thừa vốn trong nước do có tỷ suất sinh
lời thấp. Nước nhận ĐT cần tạo điều kiện để FDI vào nước mình. Việc lựa
chọn và tìm giải pháp để có được nguồn vốn ĐT trực tiếp từ các tổ chức nước
ngoài vào trong nước nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh của nước tiếp nhận
ĐT được gọi là thu hút ĐT trực tiếp nước ngoài hay thu hút FDI. Trong phạm
vi của đề tài luận án, chỉ đi sâu nghiên cứu thu hút FDI của nước nhận ĐT.
Với góc độ tiếp cận từ nước nhận ĐT, thu hút FDI là tổng thể các chính
sách và biện pháp mà nước tiếp nhận ĐT thực hiện nhằm khuyến khích nhà
ĐTNN đưa vốn, tài sản, công nghệ vào các DN ở nước mình dưới hình thức
trực tiếp SXKD, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu nhập cho dân
cư và tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường sẵn có của nhà ĐTNN.
Thu hút FDI là việc làm chủ động của nước tiếp nhận ĐT nhằm đạt
được lợi ích của chính mình bằng cách kích thích lợi ích của nhà ĐTNN. Lợi
ích của nhà ĐTNN khi ĐT vào nước khác là lợi nhuận, thị trường và tối đa
hóa chuỗi giá trị sản phẩm của họ. Do đó, muốn thu hút FDI, nước nhận ĐT
phải có cơ chế, chính sách và biện pháp hấp dẫn các nhà ĐTNN. Hiện nay,
nhiều nước, nhất là nước đang phát triển đã coi thu hút FDI còn là một bộ
phận trong chiến lược phát triển dài hạn của mình.
Thu hút FDI khác với khuyến khích ĐT trong nước. Trước hết, thu hút
FDI mang tính đối ngoại. Bởi vì, việc thu hút FDI có thành công hay không
không chỉ phụ thuộc vào môi trường ĐT có thuận lợi và hấp dẫn hay không,
mà còn phụ thuộc vào quan hệ đối ngoại của nước nhận ĐT với nước ĐT và
các nước liên minh với nước ĐT. Nếu nước nhận ĐT bị nước ĐT cấm vận thì
các nhà ĐT của nước ĐT, thậm chí các nhà ĐT của các nước phụ thuộc vào
nước ĐT, sẽ không thể chuyển vốn đến nước nhận ĐT. Vì thế, để thu hút FDI,
các nước nhận ĐT phải điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tạo quan
hệ tốt với nước khác.
36
Thứ hai, mức độ mở cửa của một nước đối với FDI cũng có giới hạn
nhằm đảm bảo tính độc lập kinh tế của nước nhận ĐT. Điều này giới hạn khả
năng thu hút FDI. Thường chính phủ ưu tiên khuyến khích ĐT trong nước
hơn thu hút FDI. Bởi vì nhà nước nào cũng muốn bảo hộ cho công dân nước
mình hơn công dân nước khác, muốn tăng thu nhập cho nước mình hơn cho
nước khác. Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập, những hạn chế đối với
FDI thường chỉ được phép thực hiện ở biên giới, với những điều kiện cho
phép chuyển vốn vào, rút vốn ra khỏi nước nhận ĐT.
Thứ ba, thu hút FDI còn phụ thuộc vào các yếu tố nước ngoài. Khi thu
hút FDI, các chính sách của chính phủ nước nhận ĐT có tác động hạn chế do
phải tương tác với chính sách của nước ĐT, phải phù hợp với các cam kết
trong các tổ chức hợp tác quốc tế, phụ thuộc vào chiến lược di chuyển vốn
của các công ty đa quốc gia, chính sách cạnh tranh thu hút FDI của các nước
nhận ĐT khác.
Thu hút FDI cũng khác so với thu hút ĐTNN gián tiếp. Một là, thu hút
FDI đòi hỏi chính sách và biện pháp toàn diện hơn, phức tạp hơn, dài hạn hơn
thu hút ĐTNN gián tiếp. Thu hút FDI không chỉ là thu hút vốn (dưới hình
thức ngoại tệ), mà còn thu hút cả tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, công
nghệ), kinh nghiệm quản lý và thương hiệu của nhà ĐT. Chính vì thế, thu hút
FDI cần các chính sách và biện pháp đặc biệt như xúc tiến ĐT nhằm giới
thiệu với các nhà ĐTNN môi trường SXKD an toàn, cam kết bảo hộ tài sản
của nhà ĐT lâu dài, cam kết về các điều kiện thuận lợi đối với bản thân nhà
ĐT với tư cách môi trường làm việc, quan hệ với đối tác…
Hai là, thu hút FDI còn liên quan đến các rủi ro khi xây dựng và điều
hành DN trong thời gian dài. Chính vì thế, thu hút FDI cần sự cam kết mạnh
mẽ của chính quyền, cần phát triển các thị trường liên quan đến hoạt động
SXKD, cần cho phép nhà ĐTNN tiếp cận các nguồn lực địa phương như lao
động, tài nguyên, thể chế hành chính, dịch vụ tương thích với nước ĐT.
37
Ba là, thu hút FDI là du nhập cả nhà ĐT lẫn năng lực sản xuất của nhà
ĐT vào trong nước, du nhập đối thủ cạnh tranh trực diện với DN trong nước,
du nhập nguồn gây ô nhiễm môi trường tiềm tàng…. Chính vì thế, cần có
chính sách thu hút FDI trong cân đối lợi ích với bảo vệ sản xuất của DN trong
nước, bảo vệ môi trường, lợi ích quốc gia. Chính sách thu hút FDI thành công
phải được xem xét toàn diện trên cả năng lực sản xuất lẫn lợi ích của nước
nhận ĐT và nhà ĐTNN.
Bốn là, thu hút FDI có mục đích đa dạng hơn thu hút ĐTNN gián tiếp.
Nhà ĐTNN gián tiếp chỉ cung cấp nguồn vốn ngoại tệ, chỉ quan tâm đến lợi
nhuận, trong khi đó nhà ĐT trực tiếp nước ngoài còn cung cấp công nghệ, thị
trường, đào tạo tay nghề, kinh nghiệm quản lý và quan tâm đến nhiều mục
tiêu như lợi nhuận, phát triển thị trường, tiếp cận tài nguyên của nước nhận
ĐT, phân tán rủi ro… Chính vì thế, chính sách thu hút FDI cũng đa dạng hơn
chính sách thu hút ĐTNN gián tiếp.
Năm là, khác với thu hút ĐTNN gián tiếp, thu hút FDI liên quan trực
tiếp đến lợi thế sản xuất cạnh tranh của quốc gia, địa phương. Lợi thế sản xuất
cạnh tranh có thể là lao động rẻ, nguồn tài nguyên khan hiếm, thị trường tiêu
thụ rộng lớn, chi phí ĐT thấp…Khi còn lợi thế cạnh tranh, nước nhận ĐT còn
khả năng thu hút FDI. Khi hết lợi thế cạnh tranh, dù có cố gắng xúc tiến ĐT,
FDI cũng rút đi. Trong khi đó, ĐTNN gián tiếp chỉ cần lãi suất cao và khả
năng đảm bảo trả nợ của nước nhận ĐT.
Thu hút FDI vào vùng kinh tế thực chất cũng là thu hút FDI nhưng địa
bàn thu hút và mục tiêu thu hút đã được xác định, đó là thu hút FDI vào một
vũng lãnh thổ cụ thể (được gọi là vùng kinh tế) đặt trong mối quan hệ liên kết
giữa các đơn vị hành chính trong vùng nhằm mục tiêu nâng cao lợi ích chung
của cả vùng. Nói cách khác, thu hút FDI vào vùng kinh tế là nỗ lực của các
địa phương trong vùng kinh tế nhằm đề ra và phối hợp thực hiện tổng thể các
chính sách và biện pháp khuyến khích nhà ĐTNN đưa vốn, tài sản, công nghệ
38
vào các DN có trụ sở đặt trên địa bàn vùng kinh tế hướng đến mục tiêu nâng
cao lợi ích nhận được từ FDI của cả vùng kinh tế.
Điều cần nhấn mạnh trong khái niệm này là sự phối hợp giữa các địa
phương trong vùng kinh tế nhằm nâng cao lợi ích thu được từ FDI của cả
vùng kinh tế. Tuy nhiên, đây cũng chính là khó khăn của thu hút FDI theo
vùng kinh tế, bởi về cơ bản không có chính quyền vùng kinh tế nên không
hình thành một trung tâm điều hành chính sách riêng của vùng. Thông thường
chính phủ đảm nhiệm vai trò điều phối chung này. Có nhiều hình thức điều
phối như quy hoạch vùng kinh tế, thành lập cơ quan điều phối theo chướng
trình phát triển vùng kinh tế, thành lập các văn phòng chỉ đạo vùng kinh tế…
Tuy nhiên, do các địa phương trong vùng kinh tế đôi khi cạnh tranh với nhau
trong thu hút FDI, dẫn đến xu hướng hành động lợi mình, hại chung cho cả
vùng kinh tế. Trong trường hợp này, nếu các cơ quan điều phối vùng kinh tế
không có đủ quyền hành để phối hợp hành động giữa các địa phương, sẽ xuất
hiện nguy cơ một vài địa phương "xé rào", khiến cơ chế phối hợp theo vùng
kinh tế phá sản. Khi đó, thu hút FDI theo vùng kinh tế chỉ là con số cộng các
nỗ lực của các địa phương trong vùng, không loại trừ các nỗ lực này ngược
chiều lợi ích với nhau.
2.1.2.3. Đặc điểm thu hút đầu tư nước ngoài vào vùng kinh tế * Sự khác biệt của thu hút FDI vào vùng kinh tế so với thu hút FDI vào
một quốc gia.
Thu hút FDI vào vùng kinh tế khác với thu hút FDI vào một quốc gia ở
những điểm sau đây:
- Chủ thể thu hút FDI vào một quốc gia là Chính phủ, Quốc hội đại
diện cho lợi ích quốc gia và có quyền hạn, sức mạnh rất lớn, có uy tín với
chính phủ và nhà ĐT nước ngoài. Thu hút FDI vào vùng kinh tế không có chủ
thể đại diện cho lợi ích của vùng, không có ngân sách riêng và không có cơ
quan điều hành toàn diện. Thu hút FDI vào vùng kinh tế phụ thuộc rất lớn vào
39
thiện ý hợp tác của các cơ quan quản lý hành chính địa phương. Nếu không
được các cơ quan này ủng hộ, vùng kinh tế sẽ không có chính sách chung.
Song trong thực tế, nhiều khi cơ chế hợp tác chỉ manh tính tự nguyện nên hiệu
lực hợp tác không vững bền, nguy cơ các bên hợp tác phân ly vì mâu thuẫn
lợi ích là rất lớn.
- Vùng kinh tế có phạm vi và lợi thế hạn hẹp hơn quốc gia rất nhiều.
Đối với một quốc gia, có thể ưu tiến phát triển các vùng có lợi thế ĐT trước, các
vùng khó khăn phát triển sau. Đối với vùng, do các địa phương có điều kiện
tương đồng nên không thể để tỉnh này đi trước, kéo tỉnh kia đi sau nhờ lợi thế
ĐT. Chính vì thế, thu hút FDI vào vùng kinh tế mang tính cạnh tranh gay gắt
hơn so với thu hút FDI vào quốc gia. Hơn nữa, trong ngắn hạn, với lợi thế như
nhau, các địa phương trong vùng kinh tế có xu hướng cạnh tranh mạnh hơn là
liên kết. Muốn có sự liên kết, cần thời gian để hình thành quá trình chuyên môn
hóa nội vùng, mà điều này là không dễ dàng với các vùng khó khăn.
- Thu hút FDI vào vùng kinh tế còn phải đối mặt với sự cạnh tranh của
vùng khác. Về mặt lý thuyết, nhà ĐTNN sẽ lựa chọn vị trí xây dựng DN dựa
trên các tiêu chí: sự sẵn có của nguồn lực đầu vào với giá cả cạnh tranh; môi
trường ĐT thuận lợi, nhất là hiệu lực quản lý theo luật pháp, kết cấu hạ tầng;
khoảng cách đến thị trường và sự sẵn có cũng như chi phí cạnh tranh về vận
chuyển… Vì thế, có những vùng thuận lợi thì thu hút FDI dễ dàng, dù rằng
chính quyền địa phương ít ưu đãi. Những vùng khó khăn, dù chính sách ưu
đãi khá rộng, thu hút FDI vẫn khó khăn. Tính đồng nhất và chuyên môn hóa
của vùng cũng gây khó khăn cho thu hút FDI nếu như ở đó chưa có các kênh
tiêu thụ và vận chuyển liên vùng thuận tiện.
Thông thường các vùng có điều kiện thuận lợi cho ĐT có lợi thế thu
hút FDI hơn. Các vùng khó khăn, hoặc phải chờ làn sóng đầu tư muộn hơn
khi các vùng phát triển trở nên kém hấp dẫn hoặc nhờ có tác động nào đó làm
thay đổi lợi thế cạnh tranh của vùng. Các vùng thuận lợi cũng có thể trở nên
40
khó thu hút FDI khi mật độ ĐT khá lớn, không gian ĐT chật hẹp, chi phí cho
hoạt động ĐT tăng lên… Nói cách khác, ngay cả khi FDI vào một nước
không thay đổi, FDI vào một vùng kinh tế nào đó vẫn có thể có biến động rất
lớn do thay đổi lợi thế cạnh tranh theo vùng.
* Sự khác biệt của thu hút FDI vào vùng kinh tế so với thu hút FDI một tỉnh:
Thứ nhất, khác với thu hút FDI vào đơn vị hành chính cấp tỉnh, thu hút FDI
vào vùng không có cơ chế hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách và hành
động chung cho vùng. Ở nhiều nước, chính phủ khắc phục nhược điểm này bằng
cách xây dựng các chương trình phát triển vùng và giao cho một cơ quan điều
phối. Ở Việt Nam thường đặt ra các ban chỉ đạo vùng nhưng thẩm quyền và tiềm
lực tài chính hạn chế, ít có khả năng thiết lập khung khổ hợp tác chung nếu không
nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của bộ máy quản lý hành chính các tỉnh.
Thứ hai, hợp tác giữa các đơn vị hành chính trong vùng để thu hút FDI
thường bị phá vỡ bởi hành vi chạy theo lợi ích cục bộ và cạnh tranh không
lành mạnh. Sự thống nhất hành động theo vùng thường dựa trên cơ chế điều
tiết của Ban chỉ đạo vùng hoặc chương trình chỉ đạt được nỗ lực thực thi một
số chính sách, chương trình khuyến khích ĐT của chính quyền trung ương.
Trong khi đó các chính quyền địa phương có nhu cầu, mục tiêu và phương
tiện hành động khác nhau. Vì thế, đôi khi các tỉnh khó phối hợp với nhau,
nhất là về phương diện bảo vệ nguồn tài nguyên chung (ví dụ các dòng sông,
bầu khí quyển…), các biện pháp về thu hút nhân lực, các chính sách ưu đãi
tiếp cận đất…. Trong trường hợp FDI khan hiếm so với nhu cầu, hợp tác giữa
các đơn vị hành chính trong vùng càng khó khăn.
Nếu chính quyền các tỉnh trong vùng không có khả năng phối hợp với
nhau trong khuôn khổ quy hoạch chung của vùng để định hướng thu hút FDI
thì hậu quả sẽ là lợi ích tính theo vùng sẽ giảm sút, trong khi có tỉnh được lợi,
có tỉnh chịu thiệt. Trên thực tế, cơ chế phối hợp giữa các tỉnh là rất khó và
không có hiệu lực mạnh nếu tỉnh có tiềm lực tài chính, có trình độ phát triển cao
41
trong vùng không đứng ra kêu gọi, hỗ trợ các tỉnh khác thực hiện chiến lược
chung. Hơn nữa, khi một tỉnh nào đó bị thiệt mà không có cơ chế bù đắp, phá lệ
nhằm vụ lợi mà không bị trừng phạt, thì cơ chế hợp tác có nguy cơ bị vô hiệu
hóa. Đây là đặc điểm nổi bật và rất khó khắc phục của thu hút FDI theo vùng.
Thứ ba, thu hút FDI theo vùng còn gặp khó khăn do tập trung lao động và di chuyển dân cư theo ngành chuyên môn hóa gây áp lực vào hệ thống kết cấu hạ tầng chung như nhà ở, trường học, bệnh viện, đường giao thông. Mức độ tập trung, chuyên môn hóa theo vùng cũng khiến các dịch vụ sinh hoạt phải lưu chuyển từ vùng khác đến làm cho giá cả có xu hướng tăng lên, ảnh hưởng đến chất lượng sống của dân cư, chi phí sản xuất của nhà ĐT. Ngoài ra, sản xuất tập trung đòi hỏi phải phát triển các dịch vụ hỗ trợ như xử lý chất thải, cung ứng sản xuất ở quy mô lớn…cũng đòi hỏi năng lực tổ chức tốt của các cơ quan điều phối chung.
2.1.3. Lợi ích của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế
Thu hút FDI theo vùng kinh tế mang lại những lợi ích sau đây: - Chính sách thu hút FDI chung của vùng kinh tế sẽ tạo điều kiện để
các tỉnh tham gia vào phân công chuyên môn hóa, qua đó thu được lợi ích tổng thể lớn hơn cho dân cư trong vùng kinh tế, cho quốc gia, làm tăng vị thế đàm phán, thỏa thuận của chính quyền cấp tỉnh với nhà ĐTNN, hạn chế cạnh tranh bất lợi giữa các tỉnh. Bởi vì mỗi tỉnh trong vùng ít nhiều cũng có lợi thế khác nhau. Nếu các tỉnh hợp tác với nhau trên nền tảng phát huy lợi thế riêng nhằm thu hút dự án FDI mang tính chuyên môn hóa, đồng thời hợp tác cung ứng dịch vụ cho nhau, nhất là hợp tác để có chính sách chung, quan điểm chung trong thỏa thuận với nhà ĐTNN, hạn chế tối đa việc nhà ĐTNN khai thác sự khác biệt trong chính sách ưu đãi không cần thiết của các tỉnh trong vùng kinh tế, thì lợi ích của các địa phương nhận được sẽ cùng tăng.
- Chính sách thu hút FDI thống nhất theo vùng kinh tế tạo điều kiện tập
trung nguồn lực kết nối hệ thống kết cấu hạ tầng, phân công trách nhiệm của
mỗi tỉnh trong vùng nhằm tạo môi trường có tổ chức, có sức cạnh tranh, có thị
42
trường lớn, qua đó phát huy lợi thế của vùng kinh tế, hấp dẫn các nhà ĐTNN.
Quy mô vùng kinh tế sẽ đủ lớn để cho phép bố trí theo hướng chuyên môn
hóa sâu các cơ sở sản xuất chính, cơ sở sản xuất hỗ trợ, cơ sở dịch vụ chung
một cách hợp lý, tạo điều kiện cho nhà ĐTNN tổ chức sản xuất theo quy mô
hiệu quả, nhờ đó các bên cùng có lợi.
- Chính sách thu hút FDI theo vùng kinh tế tập trung nguồn lực, sức
mạnh và cơ chế giải quyết các vấn đề liên tỉnh như xây dựng các công trình
phục vụ lao động di cư, kiểm soát ô nhiễm môi trường, kết nối hệ thống
đường giao thông, năng lượng, cấp thoát nước. Thu hút FDI theo vùng kinh tế
còn cho phép kết hợp giữa các vùng sinh thái nhằm sử dụng tiết kiệm nguồn
tài nguyên khan hiếm, nhất là tài nguyên đất, nước…
Tuy nhiên, thu hút FDI theo vùng kinh tế cũng đặt ra những yêu cầu và áp
lực mới mà nếu vùng không có khả năng hóa giải, thích ứng thì tác động không
mong muốn của FDI có thể làm giảm đáng kể các lợi ích mà nó mang lại cho
vùng, thậm chí có thể mang lại tác động âm đến phát triển kinh tế vùng. Cụ thể là:
- Chính sách chung của vùng kinh tế có thể giảm độ hấp dẫn của từng
tỉnh khiến nhà ĐTNN không muốn ĐT vào vùng.
- Sự phối hợp các tỉnh trong vùng kinh tế nếu thiếu chặt chẽ cũng làm
giảm tính tích cực của nhà ĐTNN vào vùng. Nhà ĐTNN thường "ái ngại" về
tính bền vững của các hợp tác không được bảo đảm nên họ sẽ không tin tưởng
ĐT theo chính sách chung của vùng kinh tế. 2.2. ĐIỀU KIỆN, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VÙNG KINH TẾ
2.2.1. Điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế
2.2.1.1. Tạo lập môi trường chung nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
vì lợi ích của cả vùng kinh tế Môi trường ĐT là tổng thể các bộ phận tác động qua lại lẫn nhau và chi
phối mạnh mẽ hoạt động ĐT, buộc các nhà ĐT phải tự điều chỉnh các mục
43
đích, hình thức và phạm vi hoạt động cho thích hợp. Môi trường ĐT phụ
thuộc vào thiện ý của chính quyền và điều kiện khách quan. Các yếu tố cấu
thành môi trường đầu tư trong vùng kinh tế gồm: môi trường chính trị, môi
trường kinh tế, môi trường văn hóa, xã hội, môi trường thông tin.
Trước hết là xây dựng và duy trì môi trường chính trị ổn định, hệ thống
luật pháp đồng bộ. Tính chất ổn định của môi trường chính trị thể hiện ở sự
đầy đủ, rõ ràng, minh bạch của các thể chế chính trị. Mặc dù vùng kinh tế
không có cơ quan hành chính điều hành, nhưng để môi trường vùng kinh tế
đủ sức hấp dẫn nhà ĐTNN, thì các quyết định chính trị của chính quyền trung
ương và chính sách của địa phương phải hợp lý, tuân thủ các cam kết có tính
dài hạn, có cơ chế đền bù khi thay đổi chính sách làm tổn hại lợi ích của nhà
ĐT. Đặc biệt, hệ thống luật pháp phải đảm bảo an toàn cho các nhà ĐTNN,
đảm bảo hiệu lực thực thi các quan hệ giao kết hợp đồng. Đây là các điều kiện
tiên quyết để nhà ĐTNN tin tưởng bỏ vốn thành lập cơ sở SXKD lâu dài tại
địa phương.
Tạo lập môi trường kinh tế thị trường đồng bộ, nhất là thị trường tài
chính, thị trường đất đai và thị trường lao động cho phép các DN FDI hoạt
động thuận lợi. Những điều kiện hạn chế tiếp cận thị trường nhằm bảo vệ lợi
ích quốc gia, lợi ích của địa phương phải được công bố công khai và hỗ trợ
nhà ĐTNN tuân thủ. Tuân thủ các cam kết về mở cửa thị trường, hỗ trợ DN
FDI tiếp cận nguồn lực theo nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng với các DN
khác trong vùng.
Bên cạnh bảo đảm một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà
ĐT trong vùng, cần bảo hộ ở mức độ nhất định cạnh tranh của sản phẩm trong
nước với với hàng NK phù hợp, tạo điều kiện cho các nhà ĐTNN nhập khẩu
nguyên, vật liệu, máy móc phục vụ công việc kinh doanh của họ. Các hàng hóa,
dịch vụ sản xuất trong nước thuộc những ngành được coi là non trẻ nên có một
thời gian được bảo hộ để cạnh tranh được với hàng hóa và dịch vụ NK.
44
Chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý nhà nước phải thiết lập
các kênh thông tin tạo thuận lợi cho trao đổi hai chiều với nhà ĐTNN về các
vấn đề chính sách, quy định luật pháp liên quan đến FDI, có thiện chí thu với
nhà ĐTNN, hỗ trợ họ tháo gỡ khó khăn trong quá trình đầu tư.
Để bảo đảm quyền cơ bản của nhà ĐT nói chung, trong đó có nhà
ĐTNN, thể chế luật pháp phải rõ ràng, minh bạch, cụ thể là:
- Bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng đối với nhà ĐTNN
trên cơ sở các quy định ở những điều khoản đầu tiên của Luật Đầu tư cũng
như thông qua việc tham gia vào Hiệp định bảo đảm ĐT đa phương.
- Bảo hiểm cho những mất mát, rủi ro có tính chính trị, như DN có vốn
DTNN không bị quốc hữu hóa, được đền bù thỏa đáng khi có rối loạn, có cơ
chế cân bằng ngoại tệ cần thiết trong việc chuyển đổi từ đồng nội tệ sang
đồng ngoại tệ.
- Chuyển thu nhập về nước: Trong mọi trường hợp, nhà ĐTNN phải
được chuyển các khoản lợi nhuận, lợi tức đầu tư, vốn ĐT cả gốc và lãi, thu
nhập của nhân viên nước ngoài, tiền bản quyền, phí kỹ thuật... về nước nếu họ
muốn. Có các cam kết quốc tế về quyền lợi chính đáng của nhà ĐT.
- Đặt quy chế phối hợp giữa các địa phương trong vùng kinh tế nhằm
đảm bảo các quy định của chính phủ và các cam kết hợp tác trong vùng kinh
tế được thực thi nghiêm minh. Có cơ chế chế tài các tổ chức phá vỡ cam kết.
2.2.1.2. Phối hợp giữa các tỉnh trong thực thi chính sách ưu đãi dành
cho nhà đầu tư nước ngoài - Phối hợp chính sách cho phép người nước ngoài làm việc trong vùng
kinh tế. Các chính sách này bao gồm các quy định liên quan đến xuất, nhập
cảnh của nhà ĐTNN để phục vụ công việc ĐT của họ. Trong nội dung này,
các tỉnh phải phối hợp để có quy định chung về: (i) Điều kiện để người nước
ngoài vào làm việc trong vùng; (ii) Phối hợp công nhận bằng chứng xác nhận
người nước ngoài đủ điều kiện làm việc trong vùng; (iii) Phối hợp quy định
45
những ngành nghề cần thiết phải sử dụng lao động nước ngoài; (iv) Phối hợp
thiết kế các chương trình đào tạo để thay thế lao động nước ngoài bằng lao
động trong nước.
- Phối hợp cùng bảo đảm về quyền sở hữu sáng chế, nhãn hiệu thương
mại cũng là một điều kiện kích thích các nhà ĐTNN đưa sáng chế, phát minh
của họ vào nước nhận ĐT.
- Thống nhất các ưu đãi đối với nhà ĐTNN về tiếp cận nguồn lực như
tín dụng, bất động sản nói chung, đất đai nói riêng.
- Thống nhất chính sách miễn, giảm thuế cho nhà ĐTNN bao gồm:
Miễn thuế vốn đối với các khoản chuyển nhượng hay phần kiếm được từ cổ
phiếu. Miễn, giảm thuế suất, thuế thu nhập DN. Kinh nghiệm cho thấy, sau một
thời gian miễn thuế, các nước thường giảm thuế để khuyến khích các nhà ĐTNN
để họ hoạt động lâu dài. Miễn, giảm các loại thuế thu nhập khác như không phải
nộp các khoản thuế địa phương. Phải quy định rõ ràng ngành được miễn, giảm
thuế, ví dụ như ngành định hướng XK hay ngành thu về nhiều ngoại tệ cho đất
nước. Miễn thuế bản quyền để khuyến khích nhà ĐT nước ngoài chuyển giao
công nghệ vào nước sở tại. Miễn các khoản thuế và phí khác, như thuế thu nhập
cá nhân đối với chuyên gia kỹ thuật nước ngoài làm việc ở các khu vực được ưu
tiên, thuế doanh thu hay các mức thuế đặc biệt khi khởi sự kinh doanh... Trong
một số dự án cần khuyến khích, nhà ĐTNN có thể được hưởng ưu đãi về giá cho
thuê đất và chi phí khác khi triển khai và vận hành dự án.
- Thống nhất những khoản hỗ trợ cho nhà ĐTNN, như có thể cho phép
tính các chi phí tổ chức và tiền vận hành vào chi phí của dự án trong một thời
gian nhất định nhằm giảm thuế thu nhập DN; nếu DN dùng lợi nhuận để tái
ĐT thì sẽ giảm thuế theo những ưu đãi nhất định; trợ cấp ở một tỷ lệ và trong
một thời hạn nhất định đối với của khoản ĐT; miễn trừ các khoản khấu trừ
khác dưới những quy định ưu đãi đặc biệt đối với một số dự án để khuyến
khích ĐT. Trả lại những khoản thuế đã phải nộp nếu họ thực hiện tái ĐT...
46
- Thống nhất các khuyến khích đặc biệt: Đối với các công ty đa quốc gia,
do vị thế và ảnh hưởng đặc biệt của nó, nên nước tiếp nhận ĐT thường có những
khuyến khích đặc biệt. Các địa phương phải cùng nhau cân nhắc xem nên thực
hiện chính sách khuyến khích đặc biệt đó như thế nào để vẫn đảm bảo nguyên
tắc "sân chơi bình đẳng" giữa các nhà ĐT, vừa có lợi cho vùng. Một số trường
hợp có thể sử dụng khuyến khích đặc biệt đối với các công ty đa quốc gia có ghi
tên ở thị trường chứng khoán, các công ty đa quốc gia được thành lập các công
ty cổ phần, công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ và khuyến khích việc
thiết lập các trụ sở chính bằng việc cho phép thành lập các công ty mua sắm của
công ty đa quốc gia đó ở nước sở tại; đơn giản hóa các thủ tục hải quan và các
đòi hỏi về quản lý ngoại hối, đăng ký làm thẻ cho nhân viên... Việc thành lập các
khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghiệp tập trung cũng là một biện
pháp khuyến khích các công ty đa quốc gia hoạt động ở nước sở tại.
Tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động của các tổ chức tài
chính nước ngoài bằng cách miễn, giảm các khoản thuế và nghĩa vụ tài chính
nhằm khuyến khích các DN nước ngoài ĐT vào nước sở tại. Có thể ban hành
những quy định nhằm tạo điều kiện cho nhà ĐTNN tiến hành công việc kinh
doanh ở nước sở tại.
2.2.1.3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kết nối trong vùng kinh tế
thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài Các dự án FDI thường đòi hỏi kết cấu hạ tầng hiện đại. Trong điều kiện
khó khăn, các nước đang phát triển thường tập trung hỗ trợ xây dựng kết cấu
hạ tầng KCN phù hợp với các dự án FDI để gom các cơ sở vào một số địa
điểm có kết cấu hạ tầng thuận lợi hơn. Để thu hút FDI vào KCN trong vùng
kinh tế, các tỉnh cần phối hợp với nhau trong thực hiện các hoạt động sau:
- Quy hoạch hợp lý các KCN. Trong các KCN tạo mặt bằng "sạch" giao
cho dự án ĐT. Thông thường, việc thu hồi đất của nông dân để xây dựng
KCN là khó khăn nên các chính quyền trong vùng cần bàn bạc thống nhất
47
thực hiện theo nguyên tắc: ưu tiên củng cố và lấp đầy các KCN cũ, hạn chế
giao đất ngoài KCN cho các DN FDI. Việc xây dựng các KCN ở vị trí thuận
lợi và có kết cấu hạ tầng đồng bộ, kết nối trong vùng kinh tế và liên vùng cần
phải được ưu tiên nhằm tạo điều kiện hấp dẫn nhà ĐTNN.
- Các tỉnh trong vùng phối hợp kết nối hệ thống kết cấu hạ tầng đảm
bảo quá trình vận chuyển thuận lợi, chi phí dịch vụ thấp. Chương trình xây
dựng hạ tầng nhà ở, khu vui chơi, giải trí cho công nhân cũng phải được thực
hiện trên quan điểm vùng nhằm giải quyết hiệu quả vấn đề lao động di cư.
2.2.1.4. Xúc tiến đầu tư, hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự
án trong vùng kinh tế Đẻ giảm chi phí, các tỉnh trong vùng kinh tế cần thiết lập các kênh
thông tin, quảng bá, xúc tiến đầu tư để cộng đồng và các nhà ĐT trên thế giới
thấy được tiềm năng, lợi thế, danh mục các lĩnh vực ưu đãi ĐT của vùng kinh
tế, tránh cạnh tranh với nhau dẫn đến tổn hại lợi ích chung cả vùng. Thông
thường, các tỉnh cần hợp tác để tổ chức xúc tiến ĐT ở trong nước và nước
ngoài, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, tiềm năng, ưu thế của vùng kinh tế
đến cộng đồng các nhà ĐTNN thông qua các hội nghị xúc tiến ĐT tổ chức ở
quy mô vùng kinh tế, phối hợp tổ chức xúc tiên sở nước ngoài. Có thể xây
dựng trang thông tin xúc tiến ĐT của vùng do địa phương phát triển nhất đảm
nhiệm. Tiến hành phân công xúc tiến ĐT ở các khu vực khác nhau trong vùng
kinh tế cho các tỉnh trong vùng phụ trách. Cần có sự hợp tác của các tỉnh để
biên tập và phát hành tài liệu xúc tiến ĐT, quảng bá hình ảnh ở nước nước.
2.2.3. Tiêu chí đánh giá kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
theo vùng
Để đánh giá kết quả thu hút FDI, người ta sử dụng hệ thống các tiêu chí
như sau:
Một là, quy mô, cơ cấu các dự án FDI. Tiêu chí này được đo bằng số
tuyệt đối, tức tổng vốn đăng ký, tổng vốn thực hiện, số lượng dự án, cơ cấu
48
ngành nghề, nước ĐT, trình độ công nghệ,… của FDI. Cũng có thể đo bằng
số tương đối, tức tỷ trọng của FDI trong tổng vốn ĐT, trong vốn ĐT theo
ngành, lĩnh vực, tỷ trọng các dự án FDI trong tổng các dự án ĐT…
Hai là, tỷ trọng của FDI trong giá trị sản xuất theo vùng, theo ngành, trong
cung cấp thu nhập, việc làm của dân cư, trong XK, NK, trong tổng vốn ĐT xã hội,
trong thu NSNN. Tiêu chí này đo lường mức độ đóng góp của FDI vào thành quả
chung; nó cũng có thể đo lường bằng cách so với các chủ ĐT khác. Ví dụ: Tỷ
trọng FDI trong giá trị sản xuất (GTSX) công nghiệp trong vùng được tính bằng tỷ
lệ GTSX do các DN FDI cung cấp/ Tổng GTSX của vùng hoặc theo ngành.
Ba là, đối tác ĐT vào vùng kinh tế. Chỉ tiêu này đo bằng số lượng các
nước có vốn ĐT vào vùng kinh tế có gắn với vị thế của các nước đó trong nền
kinh tế thế giới để thấy được mức độ hấp dẫn của vùng kinh tế.
Bốn là, lợi ích nhận được từ FDI đến vùng. Chỉ tiêu này đo lường tác
động trực tiếp và gián tiếp của của FDI đối với phát triển vùng. Ví dụ, đống
góp của FDI đối với tăng trưởng của vùng kinh tế, với thu nhập và việc làm
của dân cư trong vùng, đối với cải thiện trình độ công nghệ của vùng, đối với
xuất, nhập khẩu, nâng cấp kết cấu hạ tầng, liên kết của FDI với DN trong
nước, các ngành mới xuất hiện nhờ FDI…
Năm là, các tác động không mong muốn của FDI. Chỉ tiêu này đo bằng
mức độ ảnh hưởng của FDI đến môi trường, đến tài nguyên khan hiếm, ….
2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào vùng kinh tế
Việc thu hút FDI vào vùng kinh tế chịu tác động bởi nhiều yếu tố, có
thể phân chia thành các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong vùng.
2.2.4.1. Các yếu tố bên ngoài vùng kinh tế Yếu tố bên ngoài vùng ảnh hưởng đến thu hút FDI được hiểu là các tác
động vào hoạt động thu hút FDI mà không phụ thuộc vào vùng tiếp nhận ĐT.
Các yếu tố này bao gồm:
49
- Tình hình kinh tế thế giới, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và liên kết
khu vực. Tình hình kinh tế thế giới sáng sủa hay ảm đạm đều ảnh hưởng trực
tiếp đến luồng di chuyển FDI. Nếu các DN ở nước đầu tư gặp khó khăn,
không những vốn của nước này ĐT ra nước khác có xu hướng giảm, mà các
dự án đang ĐT dở dang ở nước ngoài cũng sẽ có nguy cơ chậm tiến độ. Nếu
nhà ĐTNN dự báo kinh tế thế giới gặp khó khăn, nhiều rủi ro thì họ cũng sẽ
không tích cực ĐT ra nước ngoài do lo sợ thị trường co hẹp và ngược lại.
Nếu xu thế hội nhập và liên kết khu vực gia tăng thì vùng tiếp nhận ĐT
sẽ có cơ hội để thu hút thêm FDI và ngược lại, nó sẽ gây ra bất lợi và giảm sút
nguồn vốn ĐT này.
- Sự sẵn có vốn và động cơ của các nhà ĐTNN. Những yếu tố này tác
động trực tiếp tới khả năng ký kết, thực hiện và triển khai dự án FDI, qua đó
ảnh hưởng tới tiến độ thu hút FDI của vùng tiếp nhận. Ngoài yêu cầu về an
toàn tài sản, động cơ chung nhất của các nhà ĐTNN là tìm kiếm lợi nhuận cao
và sự thịnh vượng lâu dài của DN. Tuy nhiên, động cơ cụ thể của từng chủ
ĐT trong từng dự án là rất khác nhau, tùy thuộc vào chiến lược phát triển của
DN và mục tiêu của chủ ĐT ở thị trường nước ngoài, tùy thuộc vào mối quan
hệ sẵn có của chủ ĐT với vùng kinh tế. Có ba động cơ tạo nên ba định hướng
khác nhau của nhà ĐT nước ngoài ảnh hưởng đến nước thu hút FDI là: động
cơ định hướng thị trường, động cơ định hướng chi phí và động cơ định hướng
nguồn nguyên liệu. Ngoài ra, hiện nay còn tồn tại một số động cơ khác khi
ĐT ra nước ngoài. Ví dụ, như động cơ theo định hướng liên minh với mục
đích là tạo thế độc quyền, thường xuất hiện ở các nhà ĐT tiến hành sáp nhập.
Hình thức này đem lại lợi nhuận lớn hơn cho nhà ĐT nhưng không có lợi cho
thị trường nước sở tại.
- Sự cạnh tranh của các vùng khác trong nước. Mỗi quốc gia được cấu
thành bởi các vùng kinh tế khác nhau, mỗi vùng có lợi thế nhất định. Nếu sức
cạnh tranh của các vùng khác mạnh hơn vùng kinh tế nghiên cứu thì sẽ khó
50
thu hút FDI vào vùng. Ngược lại, vùng kinh tế nghiên cứu có sức cạnh tranh
cao hơn các vùng kinh tế khác thì thuận lợi cho thu hút FDI vào vùng kinh tế
nghiên cứu hơn.
- Quy hoạch phát triển và chính sách phát triển vùng của quốc gia. Chính phủ ở các nước có quy hoạch và chương trình phát triển các vùng kinh tế trong dài hạn. Nếu quy hoạch và chính sách phát triển vùng kinh tế của chính phủ cùng hướng với động cơ của các nhà ĐTNN thì khả năng sẽ thu hút được nhiều FDI hơn và ngược lại.
2.2.4.2. Các yếu tố bên trong vùng kinh tế Yếu tố bên trong được hiểu là các yếu tố thuộc về vùng kinh tế tiếp
nhận FDI. Tùy theo điều kiện cụ thể của từng vùng kinh tế mà mức độ tác động của từng yếu tố có khác nhau.
- Điều kiện tự nhiên của vùng kinh tế. Đây là yếu tố quy định các ngành mà vùng kinh tế có thể thu hút FDI. Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên của vùng mà có thể tác động vào động cơ của nhà ĐTNN trong thu hút FDI. Đặc biệt, lợi thế so sánh về địa hình, vị trí, khoảng cách của vùng so với các vùng kinh tế khác có ảnh hưởng rất lớn đến thu hút FDI.
- Trình độ phát triển kinh tế, xã hội nội vùng kinh tế. Yếu tố này ảnh hưởng lớn đến đến quy mô, cơ cấu, số lượng dự án FDI có thể thu hút vào vùng kinh tế. Một vùng kinh tế có trình độ phát triển cao sẽ hấp dẫn nguồn vốn FDI hơn vùng lạc hậu. Đặc biệt, mức độ đầy đủ của các dịch vụ hỗ trợ, giao thông thuận tiện, dân cư thân thiện, thông thạo ngoại ngữ sẽ hỗ trợ đắc lực cho chính sách thu hút FDI. Nếu trật tự xã hội trong vùng kinh tế ổn định, dân trí có trình độ và tay nghề tốt, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển, thì dễ dàng thu hút FDI hơn các vùng vùng kinh tế thiếu vắng điều kiện này.
Một hệ thống DN trong nước phát triển, đủ sức tiếp nhận công nghệ chuyển giao và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà ĐTNN là điều kiện cần thiết để mở rộng tiếp nhận FDI. Tương tự, mạng lưới dịch vụ tài chính - ngân hàng có vai trò quan trọng trong thu hút FDI vào phát triển vùng kinh tế.
51
- Tính năng động của chính quyền trong vùng. Đây là yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến thu hút FDI. Nhà ĐTNN thường phải xin giấy phép ĐT từ các cơ
quan chính quyền, phải quan hệ với cơ quan thuế, cơ quan quản lý môi
trường, tài nguyên, lao động… Nếu các cấp chính quyền trong vùng năng
động, có thiện chí hợp tác với nhà ĐTNN thì chi phí của nhà ĐTNN sẽ giảm,
do đó sức thu hút FDI mạnh hơn so với nếu không có điều kiện đó.
Tính đơn giản hay phức tạp, thuận tiện hay không thuận tiện… của các
thủ tục hành chính cũng ảnh hưởng đến mức độ thu hút FDI. Thủ tục hành
chính còn là yếu tố gây ấn tượng về thái độ ứng xử của nước sở tại đối với
nhà ĐTNN.
- Năng lực và mức độ hoàn thiện của hệ thống kết cấu hạ tầng sẵn có
trong vùng kinh tế. Nếu năng lực sử dụng của hệ thống này yếu kém thì khó
có thể thu hút được FDI, nhất là những dự án có thị trường tiêu thụ hàng hóa
lớn và đòi hỏi nguồn cung cấp đầu vào đa dạng, khối lượng lớn. Nếu hệ thống
kết cấu hạ tầng sẵn có không đồng bộ, phí dịch vụ cao thì sẽ làm nguội lạnh
các ý định ĐT vào vùng. Nhà ĐTNN không thể tự mình tạo dựng các điều
kiện kinh doanh cho mình, nên nơi nào hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển
đồng bộ và hoàn thiện thì nơi đó có sức hấp dẫn, do đó có sức thu hút FDI
mạnh hơn so với nơi không có được các điều kiện này. Chính vì thế, để thu
hút mạnh mẽ FDI, các nước thường phát triển trước một bước hệ thống kết
cấu hạ tầng cho các vùng kinh tế dự định thu hút FDI.
- Dân số và lực lượng lao động sẵn có trong vùng kinh tế. Đội ngũ nhân
lực có trình độ cao, chi phí nhân công rẻ là điều kiện hàng đầu hấp dẫn các
nhà ĐTNN. Việc thiếu nhân lực lành nghề, các nhà quản lý giỏi, sự lạc hậu về
trình độ công nghệ trong nước sẽ gây khó khăn và đòi hỏi chi phí phụ thêm
của các nhà ĐTNN. Quy mô dân số lớn hứa hẹn thị trường tại chỗ đủ rộng để
nhà ĐTNN duy trì quy mô sản xuất hiệu quả cũng là những điều kiện thuận
lợi để thu hút FDI.
52
2.3. KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA
MỘT SỐ VÙNG VÀ BÀI HỌC CHO VÙNG BẮC TRUNG BỘ
2.3.1. Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát
triển vùng kinh tế của Trung Quốc
Từ thập kỷ 80, Trung Quốc đã có trong danh sách 10 nước đang phát
triển đứng đầu thế giới về thu hút FDI. Đặc biệt, trong những năm cuối thế kỷ
XX, với lượng FDI tiếp nhận trung bình mỗi năm khoảng gần 50 tỷ USD,
Trung Quốc đã trở thành nước thu hút FDI nhiều nhất Châu Á và là một trong
5 nước thu hút được nhiều FDI nhất thế giới. Trong hai thập kỷ gần đây, hàng
năm Trung Quốc thu hút khoảng 87 tỷ USD/năm, chiếm xấp xỉ 6% tổng FDI
toàn cầu [29].
Có được kết quả khả quan như vậy là do Trung Quốc vừa có nhiều lợi
thế thu hút FDI, vừa có chính sách thu hút theo vùng kinh tế rất hấp dẫn. Vào
năm 1980, Trung Quốc đã triển khai xây dựng bốn Đặc khu kinh tế ven biển
phía Bắc là Thâm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn và Sán Đầu nhằm tạo ra các vùng
kinh tế có nhiều ưu đãi thu hút FDI. Thành công vang dội của 4 Đặc khu này
đã thúc đẩy Nhà nước Trung Quốc tiếp tục xây dựng Đặc khu kinh tế ở 14
tỉnh vùng ven biển và Đảo Hải Nam vào năm 1984.
Năm 1985, Nhà nước Trung Quốc xây dựng ba vùng "tam giác phát
triển" là đồng bằng sông Dương Trạch, đồng bằng sông Ngọc ở Quảng Đông
và vùng Mẫn Nam ở Phúc Kiến để mở cửa đón các nhà ĐTNN. Năm 1988,
đảo Hải Nam trở thành Đặc khu kinh tế thứ 15 và lớn nhất ở Trung Quốc.
Đến 1990, các Đặc khu kinh tế đã được mở rộng đến vùng đất mới Phố Đông
ở Thượng Hải.
Từ năm 1986 đến trước cuộc khủng hoảng 1997-1998 ở các nước châu
Á, nhờ những chính sách khuyến khích ĐTNN hấp dẫn, nhờ cải cách thủ tục
thẩm định các dự án liên doanh được đơn giản hoá, tổng số vốn FDI thực sự
ĐT vào Trung Quốc tăng nhanh (vốn FDI đăng ký tăng bình quân 46% năm
53
trong giai đoạn 1986-1999. Đặc biệt trong 3 năm 1991 - 1993 đạt tốc độ tăng
cao nhất, với tổng số vốn là 182.593 triệu USD. Từ năm 1993 đến 2005, khối
lượng thu hút vốn FDI của Trung Quốc đứng thứ 2, sau Hoa Kỳ. Trong suốt
giai đoạn 1997 - 1998, số vốn FDI lũy kế thực sự ĐT vào Trung Quốc xấp xỉ
255 tỷ USD, đạt tỷ lệ 45% so với tổng số vốn FDI đăng ký.
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á diễn ra vào cuối 1997 đầu 1998 đã
có tác động xấu đến nền kinh tế Trung Quốc. Năm 1999, theo UNCTAD số
vốn FDI thực hiện ở Trung Quốc giảm chỉ còn 32,1 tỷ USD, giảm 17% so với
năm trước. Nguyên nhân sụt giảm FDI mới chủ yếu là dịch chuyển luồng FDI
vào các nước phát triển bằng cách gia tăng các các vụ sát nhập và mua lại của
công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia. Hơn nữa, sau nhiều năm FDI đổ vào
Trung Quốc, ở nước này đã xuất hiện trạng thái bão hòa công suất sản xuất
hàng hoá tiêu dùng.
Nhằm chặn lại đà giảm sút của dòng vốn FDI, Chính phủ Trung Quốc
đã đưa ra hàng loạt các chính sách ưu đãi mới, tích cực cải thiện môi trường
ĐT hơn nữa. Chính phủ thực hiện miễn thuế NK và thuế giá trị gia tăng cho
các thiết bị sản xuất NK, đồng thời đưa ra một danh mục các ngành bổ sung
vào danh mục khuyến khích ĐTNN. Nhà ĐTNN được khuyến khích lập các
công ty buôn bán với nước ngoài ở miền Trung, miền Tây và các thành phố
vùng Duyên hải. Ngoài ra, Trung Quốc còn thông qua danh mục khuyến
khích ĐT, giảm thuế thu nhập cho các công ty nước ngoài ĐT ở những khu
vực nội địa kém phát triển với mức từ 33% xuống còn 15% (từ 1/1/1998).
Tháng 3/1999, Trung Quốc mở thêm một số lĩnh vực mà trước đây người
nước ngoài không được ĐT như: viễn thông, bảo hiểm. Chính phủ đưa ra
nhiều biện pháp xóa bỏ các khoản chi phí bất hợp lý và bảo đảm khoản thu
hợp pháp của DN như: cấm hoàn toàn các hoạt động thanh tra trái phép, thu lệ
phí không hợp pháp, áp đặt thuế và xử phạt vô cớ. Nếu như trước kia muốn có
được một dự án ĐT cần phải có 70 con dấu thì đến năm 2000 chỉ cần một con
54
dấu của cơ quan có thẩm quyền cao nhất. Ngoài ra, Trung Quốc còn mở rộng
quyền hạn cho từng địa phương, giao cho các nhà chức trách tỉnh, thành phố
quyền phê chuẩn những dự án ĐT dưới 30 triệu USD. Nhà nước khuyến
khích các công ty đa quốc gia ĐT vào các lĩnh vực khác nhau trên lãnh thổ
Trung Quốc, nhất là lĩnh vực công nghệ cao, khuyến khích các công ty này
mở rộng các dây chuyền sử dụng và nâng cấp kỹ thuật theo chiều dọc. Chính
quyền cũng thúc đẩy các công ty vừa và nhỏ trong nước sản xuất các phụ
tùng, linh kiện cung cấp cho các DN có vốn nước ngoài. Sau hàng loạt những
cố gắng, nỗ lực của Chính phủ đối với việc cải cách các cơ chế và môi trường
ĐT, từ năm 2000 lượng vốn FDI đổ vào Trung Quốc phục hồi trở lại và đạt
mức trên 42 tỷ USD [44, tr.102].
Sau khi đã chính thức gia nhập WTO, Trung Quốc công bố một số bản
danh sách mới về các dự án kêu gọi ĐTNN bao gồm 371 lĩnh vực, chỉ còn 34
lĩnh vực không cho phép ĐTNN. Riêng thành phố Bắc Kinh thực hiện mở cửa
hoàn toàn với 262 lĩnh vực kinh tế cho tất cả các nhà ĐTNN. Trước khi gia
nhập WTO, con số này chỉ là 186 lĩnh vực. Số lĩnh vực hạn chế ĐTNN trong
cả nước từ 112 giảm xuống còn 75. Tháng 4/2002, Hội đồng Nhà nước đã phê
chuẩn Luật ĐT sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/4/2002. Sự kiện này đã mở ra
một tương lai sáng sủa cho việc thu hút FDI ở Trung Quốc. Hiện có tới hơn
400 trong số 500 tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới đã ĐT trực tiếp
vào Trung Quốc, trong đó có 17 trong số 20 công ty lớn nhất của Nhật Bản, 9
trong số 10 công ty lớn nhất của Đức cùng các công ty nổi tiếng của Mỹ. Số
các công ty lớn còn lại đều trong quá trình phân tích, đánh giá tìm kiếm dự án
ĐT vào quốc gia này [44, tr.102].
Các nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận định cho ràng, sự gia tăng ĐT
của các tập đoàn xuyên quốc gia vào Trung Quốc đã giúp nước này duy trì
khu vực FDI có quy mô lớn và chất lượng cao hơn hẳn so với thập kỷ 80. FDI
đóng góp ngày càng nhiều vào tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, góp phần
55
nâng cao vị thế quốc tế của ngành chế tạo Trung Quốc, thúc đẩy tiến bộ về kỹ
thuật, công nghệ, cải thiện việc quản lý kinh doanh của các DN Trung Quốc,
mở rộng việc làm cho người lao động, thúc đẩy mở cửa đối ngoại, đẩy nhanh
nhịp độ thị trường hoá, phát huy vai trò tích cực trong việc thiết lập và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc [44, tr.102].
Sở dĩ có được những thành công như trên, là do Trung Quốc đã chuyển
hướng thu hút FDI từ lượng sang chất, chú ý thu hút FDI theo vùng, với các
chủ trương: (i) Thu hút FDI nhằm mục tiêu tổng hợp như: ngoài vốn còn
hướng đến du nhập hàm lượng kỹ thuật, giảm tiêu hao năng lượng, tăng
bảo vệ môi trường, tạo việc làm mới; (ii) Chuyển từ thu hút ĐT theo hướng
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tổng thể sang ưu tiên thu hút kỹ thuật, nhân tài
quản lý nhằm nâng cao năng lực tự chủ, sáng tạo trong nước, khuyến khích
NK kỹ thuật cao; (iii) Khuyến khích FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, ngành
kỹ thuật cao, xây dựng cơ sở hạ tầng, ngành bảo vệ môi trường và ngành
dịch vụ…; (iv) Từng bước hình thành hệ thống chính sách ĐT thống nhất
cho cả DN FDI và DN trong nước, tạo môi trường cạnh tranh công bằng,
tăng độ hấp dẫn của thể chế, gảm bớt chính sách ưu đãi cho DN FDI; (v)
Tăng cường kiểm tra và giám sát việc công ty nước ngoài mua lại những
DN trọng điểm thuộc các ngành nhạy cảm của Trung Quốc, giám sát chặt
chẽ những vấn đề khác liên quan đến an ninh kinh tế quốc gia; (vi) Ban
hành Luật Chống độc quyền, chú trọng chống độc quyền; (vii) Tăng cường
quản lý, giám sát thuế, phòng ngừa DN FDI thông qua định giá chuyển
dịch tài sản, chuyển lợi nhuận phi pháp ra ngoài; (viii) Xây dựng cơ chế
định giá tài sản DN hợp lý, phù hợp với yêu cầu của thông lệ quốc tế,
phòng tránh tổn thất do nhà ĐTNN thông qua mua lại công ty trong nước
thu lợi lớn; (ix) Khuyến khích công ty xuyên quốc gia triển khai ĐT vào
lĩnh vực xây dựng trung tâm nghiên cứu phát triển tại Trung Quốc, chuyển
hướng ĐT từ gia công đơn giản, lắp ráp trình độ thấp sang lĩnh vực nghiên
56
cứu phát triển, thiết kế công nghệ mũi nhọn và phát triển ngành lưu thông
hiện đại; (x) Nâng cao chất lượng và trình độ, mở rộng quy mô ĐTNN vào
các vùng khó khăn ở miền Trung, miền Tây và khu vực công nghiệp cũ
vùng Đông Bắc, thúc đẩy phát triển hài hòa kinh tế giữa các khu vực. Ban
hành và thực hiện chính sách ưu đãi, khuyến khích DN nước ngoài ĐT xây
dựng cơ sở hạ tầng và môi trường sinh thái ở 3 vùng này; (xi) Giảm bớt thủ
tục hành chính, nâng cao hiệu suất hoạt động của ngành Hải quan, tăng
cường xây dựng hệ thống tổ chức tín dụng xã hội, tạo môi trường ưu đãi
cho các nhà ĐTNN bỏ vốn vào hệ thống tổ chức tín dụng xã hội [29].
Chính phủ Trung Quốc nhấn mạnh rằng, chính quyền địa phương trong
vùng có nghĩa vụ phải hợp tác mạnh với nhau thông qua các kênh như thương
mại, tuyên truyền, phổ biến xúc tiến ĐT, hợp tác về chính sách. Chính phủ
mong muốn tạo ra hiệu ứng thúc đẩy hợp tác giữa các địa phương trong vùng
nhằm thu hút FDI. Chính phủ Trung Quốc đã hướng nguồn FDI vào từng
vùng lãnh thổ thông qua chính sách ưu tiên phát triển riêng biệt. Trong những
năm 80, hướng ưu tiên phát triển FDI tập trung vào các thành phố Duyên hải.
Từ thập kỷ 90 đến nay, hướng ưu tiên vào các thành phố ven sông, ven biên
giới và trong nội địa, nhất là vào miền Tây và miền Trung của Trung Quốc.
Biện pháp và chính sách chủ yếu mà Chính phủ Trung Quốc áp dụng là xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đi trước, mở rộng quyền quyết định ĐT cho
chính quyền địa phương. Để khuyến khích FDI vào miền Trung và miền Tây,
Trung Quốc đã cho phép các tỉnh vùng sâu, vùng xa, các khu tự trị được phê
chuẩn các dự án nước ngoài với tổng ĐT lên tới 30 triệu USD (mức cũ là 10
triệu USD); cho phép giảm thuế thu nhập từ mức 33% xuống còn 15% -
ngang bằng mức thuế dành cho các DN ở các đặc khu kinh tế. Trung Quốc
đặc biệt coi trọng thu hút FDI vào các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích
như xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo vệ môi trường, nông nghiệp sinh thái, sử
dụng tổng hợp nguồn nước, v.v... ở miền Trung và miền Tây.
57
Thực tế cho thấy, FDI không chỉ mang lại những tác động tích cực cho
Trung Quốc, mà còn đem đến cả những tác động tiêu cực. Thứ nhất là gia
tăng ô nhiễm, biến Trung Quốc thành một trong những quốc gia có mức độ ô
nhiễm cao nhất thế giới. Hậu quả ô nhiễm là do ở nhiều vùng chính quyền địa
phương quá coi trọng phát triển công nghiệp, bỏ qua yêu cầu bảo vệ môi
trường và sức khỏe con người [42].
2.3.2. Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát
triển vùng Đông Nam Bộ
Vùng Đông Nam Bộ của Việt Nam gồm 6 tỉnh, thành phố (thành phố
Hồ Chí Minh, tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai và tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu). Đây là vùng dẫn đầu cả nước về thu hút FDI.
Thành phố Hồ Chí Minh đi đầu trong thu hút FDI và là địa phương đầu
tiên chuyển sang chú trọng chất lượng dự án ĐTNN. Nhờ đó, những năm gần
đây, số lượng dự án FDI ĐT vào các lĩnh vực cơ khí chế tạo, điện - điện tử,
bất động sản, các ngành dịch vụ,… của Thành phố luôn giữ tỷ trọng cao. Năm
2010, Thành phố thu hút được khoảng 2 tỷ USD vốn FDI vào các dự án bất
động sản, trung tâm thương mại, sản xuất công nghiệp,… Đáng chú ý là dự án
phát triển trung tâm thương mại của Tập đoàn Lotte (Hàn Quốc) ở quận 11 có
tổng vốn đăng ký 100 triệu USD; dự án phát triển khu trung tâm thương mại ở
quận 7 có vốn ĐT đăng ký 360 triệu USD do Saigon Co.op, Samco liên doanh
với Map- pletree thực hiện,… Trong lĩnh vực cơ khí, Ban Quản lý Khu công
nghệ cao Thành phố trao giấy chứng nhận ĐT cho Công ty Nidec Copal
(thuộc Tập đoàn Nidec, Nhật Bản) với dự án Nidec Copal Precision Việt
Nam, vốn ĐT 70 triệu USD, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thiết kế, sản
xuất và kinh doanh các sản phẩm môtơ chính xác cao và linh kiện môtơ dùng
trong các thiết bị di động, kỹ thuật số. Ngoài ra còn rất nhiều dự án vừa và
nhỏ khác công nghệ cao đã và đang được triển khai ở thành phố Hồ Chí
Minh. Để tạo thuận lợi cho các nhà ĐT, thành phố hỗ trợ về mặt thủ tục để
58
DN đẩy nhanh tốc độ giải ngân, xử lý kiên quyết các trường hợp gây khó
khăn trong giải phóng mặt bằng. Đặc biệt, trong lĩnh vực bất động sản, Thành
phố đang khẩn trương hoàn chỉnh quy hoạch về sử dụng đất, thống kê quỹ đất
trống trên địa bàn với thông số cụ thể về hệ số sử dụng đất, mật độ xây
dựng, chỉ tiêu về quy hoạch, hình thức ĐT để công bố rộng rãi cho các nhà
ĐT. Thành phố Hồ Chí Minh cũng tích cực cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng
phục vụ ĐT.
Tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu nằm trong nhóm các tỉnh, thành thu hút vốn
FDI cao của cả nước. Trong giai đoạn 2006-2010, tỉnh đã cấp mới 196 Giấy
chứng nhận ĐT cho nhà ĐTNN với tổng vốn đăng ký là 24,258 tỷ USD, nâng
tổng số dự án ĐT trên địa bàn lên 280, đạt tổng vốn đăng ký khoảng 27 tỷ
USD. Các dự án FDI tập trung chủ yếu vào du lịch và công nghiệp. Chính
quyền tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu luôn hỗ trợ DN thực hiện các thủ tục hành
chính, cùng DN tháo gỡ khó khăn, cùng bàn bạc giải quyết vướng mắc, tạo
điều thuận lợi cho các nhà ĐTNN, đồng thời cũng kiên quyết xử lý những
hiện tượng tiêu cực, những dự án không thực hiện đúng cam kết, chậm triển
khai, không bảo vệ môi trường.
Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, tính đến năm 2010, tổng vốn FDI đăng ký
cấp mới đạt trên 1,5 tỷ USD; vốn giải ngân đạt 800 triệu USD. Ở đay cũng
xuất hiện nhiều dự án FDI có quy mô vốn lớn. Nhiều dự án FDI trong các
ngành dịch vụ, công nghiệp hỗ trợ, sản xuất chi tiết máy móc thiết bị và nông
lâm nghiệp. Các dự án có tính chất gia công sử dụng nhiều lao động giảm
dần, thay vào đó là những dự án công nghệ cao trong các KCN. Có sự thay
đổi chất lượng của dòng vốn FDI vào Đồng Nai là do Tỉnh có chính sách ưu
tiên cho các dự án công nghệ cao, sử dụng ít lao động, không tác động tiêu
cực đến môi trường.
Bình Dương cũng là tỉnh nổi bật trong thu hút FDI, với quy mô đạt gần
1 tỷ USD vào năm 2010, trong đó có 104 dự án ĐT mới với tổng vốn đăng ký
59
413 triệu USD và 135 dự án bổ sung với số vốn tăng thêm 536 triệu USD.
Đến cuối năm 2012, toàn tỉnh có 2.006 dự án FDI với tổng vốn đăng ký gần
13,7 tỷ USD. Điểm nổi bật trong thu hút FDI tại Bình Dương là tăng nhanh về
số lượng và đa dạng về cơ cấu ngành nghề, gồm bất động sản, thương mại
dịch vụ, sản xuất phụ tùng xe ô tô, hàng điện tử, thiết bị y tế,… Năm 2010,
gần 70% số vốn FDI đầu tư vào các KCN của Tỉnh. Có được kết quả này là
do Bình Dương tập trung xây dựng các KCN hoàn chỉnh có kết cấu hạ tầng
tốt, thuận lợi cho các nhà ĐT.
Gần đây, hầu hết các tỉnh trong vùng hạn chế tiếp nhận các dự án gây ô
nhiễm môi trường, dự án có hàm lượng công nghệ thấp, đồng thời tích cực
thu hút những dự án có hàm lượng công nghệ cao, sử dụng ít lao động, nhằm
giảm thiểu ô nhiễm và tăng giá trị gia tăng của các dự án FDI.
Chính sách thu hút FDI vào Vùng Đông Nam Bộ cũng đưa đến một số
kết quả không mong muốn như:
- Gây áp lực lớn lên hệ thống kết cấu hạ tầng trong vùng dẫn đến ách
tắc, giao thông, chất lượng sống của một bộ phận người lao động trong các
KCN thấp. Một số cảng biển chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải biển. Giao
thông đường sông trong Vùng chưa đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành
khách và hàng hóa đang tăng lên nhanh chóng. Hệ thống giao thông đường bộ
quá tải. Giao thông ở thành phố Hồ Chí Minh đã rất ách tắc.
- Gây ra luồng di chuyển lớn lao động từ ngoài vào Vùng đã làm
nảy sinh nhiều bất cập về nhà ở, điện, nước, giao thông, y tế, giáo dục, thiếu
nguồn lao động trong một số thời điểm trong năm.
Nguyên nhân dẫn đến các tác động không mong muốn là do quản lý
tổng thể và quản lý theo ngành trên địa bàn vùng Đông Nam Bộ còn rất hạn
chế. Khi tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội cho thời kỳ 1996-2010,
các tỉnh đã cố gắng tìm kiếm một cơ chế phối hợp giữa các địa phương và
ngành nhưng rất khó khăn. Cơ chế phối hợp có tính chất vùng hoặc liên vùng
60
lại càng khó thực hiện hơn nữa. Thể chế hành chính và tài chính công vừa
không tạo được tính chủ động cho sự phát triển của địa phương, vừa không
kiểm soát được tính kỷ cương trong hợp tác theo vùng. Hiện nay chưa có
sự phối hợp trong thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế toàn Vùng.
Các tỉnh chỉ thực thi quy hoạch đó theo trách nhiệm và thẩm quyền riêng của
họ, chưa thiết lập được liên kết trách nhiệm trong điều phối thực hiện quy
hoạch phát triển, bó gọn hành động trong kế hoạch, ngân sách phân cấp cho
chính quyền địa phương, không khuyến khích họ hoạch định và thực thi chính
sách, quy hoạch đứng trên lợi ích của Vùng. Đồng Nai, Bình Dương, Thành
phố Hồ Chí Minh chưa phối hợp hiệu quả nhằm giảm ô nhiễm môi trường
nước. Nhiều điểm dân cư tập trung đang có xu hướng trở thành đô thị, song
chưa có đủ điều kiện và kết cấu hạt tầng kỹ thuật của đô thị. Nhiều KCN tập
trung không có nhà ở cho công nhân.
2.3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho vùng Bắc Trung Bộ
Từ phân tích kinh nghiệm thu hút FDI vào phát triển KT-XH vùng lãnh
thổ của Trung Quốc và kinh nghiệm thực tế ở vùng Đông Nam Bộ Việt Nam,
có thể rút ra một số bài học sau cho vùng Bắc Trung Bộ như sau:
Một là, nhận thức đúng về vai trò, vị trí của FDI để có chính sách thu
hút hiệu quả. Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, FDI là một nguồn lực quan
trọng góp phần phát triển đột biến của vùng kinh tế. Ngoài ra, FDI còn là
"chất xúc tác" để kích thích các nguồn vốn ĐT khác vào vùng kinh tế. Muốn
thu hút nhiều FDI vào vùng kinh tế, cần xây dựng trước hệ thống kết cấu hạ
tầng ở những địa điểm thuận lợi trong vùng kinh tế dưới hình thức các KCN,
khu chế, xuất, đặc khu kinh tế. Thu hút FDI vào các khu kinh tế tập trung có
ưu điểm là tập trung nguồn lực khan hiếm vào hoàn thiện kết cấu hạ tầng ở
phạm vi hẹp nên có thể xây dựng đồng bộ ngay. Hơn nữa, thu hút vào khu
kinh tế tập trung cũng thuận tiện cho chính quyền kiểm soát hoạt động của
nhà ĐTNN vì lợi ích chung của vùng.
61
Hai là, để đạt được những thành công về thu hút dòng vốn FDI vào
vùng kinh tế theo mong muốn, Trung Quốc rất coi trọng công tác quy hoạch
phát triển, xây dựng chính sách ưu đãi ĐT chung. Nhà nước Trung Quốc đã
xây dựng định hướng chiến lược đúng đắn về phát triển vùng kinh tế và cơ
cấu các ngành kinh tế trong vùng kinh tế, cũng như định hướng thu hút FDI
vào các địa bàn, ngành này, tạo điều kiện cho các nhà ĐTNN biết rõ hướng
phát triển của vùng kinh tế để họ có những quyết định lựa chọn ĐT thích hợp.
Chiến lược và quy hoạch phát triển vùng kinh tế của Trung Quốc phù hợp với
điều kiện tự nhiên, điều kiện nguồn vốn, nhân lực, khoa học, công nghệ và kết
cấu hạ tầng hiện có của toàn vùng kinh tế, bảo đảm phát triển cơ cấu kinh tế
vùng hợp lý, bảo đảm sự hợp tác, liên kết các tỉnh trong vùng và phù hợp với
cơ chế, chính sách phát triển vùng kinh tế. Thu hút FDI của Trung Quốc vào
vùng kinh tế thành công là nhờ họ hướng ưu tiên vào lĩnh vực đột phá trong
phát triển vùng kinh tế phù hợp với từng giai đoạn nhất định.
Kinh nghiệm thu hút FDI vào vùng Đông Nam Bộ cho thấy việc thu
hút FDI chỉ dựa trên mục tiêu phát triển và thẩm quyền của các đơn vị hành
chính cấp tỉnh, thành phố mà không có mối liên kết trách nhiệm nào đối với
việc triển khai quy hoạch phát triển vùng kinh tế sẽ dẫn đến giảm hiệu quả
chung. Do thiếu một cơ chế phối hợp có tính chất vùng kinh tế hoặc liên vùng
và chưa có sự phối hợp về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế trên quy mô
vùng kinh tế, nên tuy số lượng dự án và quy mô vốn FDI vào vùng Đông
Nam Bộ rất nhiều, nhưng tác động lan tỏa không như mong muốn, sự phân
công, hợp tác trong Vùng chưa hợp lý.
Ba là, chính quyền trung ương và dịa phương phải chú ý tạo môi
trường ĐT và có hệ thống chính sách ĐT, nhất là chính sách miễn, giảm thuế,
tiếp cận đất đai, lao động, tài nguyên phù hợp, coi đó là công cụ làm tăng
thêm tính hấp dẫn và sự ổn định môi trường ĐT, tăng lợi nhuận kỳ vọng của
nhà ĐT. Kinh nghiệm thành công của Trung Quốc là các chính sách khuyến
62
khích ĐT phải tuân thủ quy luật của kinh tế thị trường, cạnh tranh công bằng,
ưu việt hóa môi trường ĐT, xóa bỏ chính sách "siêu đãi ngộ" đối với dự án
FDI và dự án của DN nhà nước. Nhà nước Trung Quốc đã rất thành công
trong khuyến khích phát triển ở các vùng kinh tế theo quan điểm và mục tiêu
mà Nhà nước đã lựa chọn trong chiến lược, quy hoạch phát triển chung của
quốc gia. Các chính sách miễn, giảm thuế được thiết kế hợp lý nhằm khuyến
khích du nhập công nghệ cao vào các vùng kinh tế, khuyến khích NK nguyên
vật liệu, thiết bị phục vụ chuyển giao công nghệ hiện đại, phù hợp với điều
kiện sản xuất trong nước và góp phần cải thiện công nghệ hiện có của quốc
gia. Trung Quốc cũng có những cơ chế, chính sách và những quy định hạn chế,
kiểm soát đối với các dự án FDI liên quan đến chính trị, an ninh quốc gia, đến
môi trường sinh thái, cũng như cân nhắc khi cho phép ĐTNN vào những ngành
nghề giữ vị trí quan trọng trong từng vùng kinh tế và trong cả nước.
Bốn là, kinh nghiệm của Trung Quốc và vùng Đông Nam Bộ cho thấy,
cần mở rộng, đa dạng hóa các hình thức ĐTNN, các chủ thể ĐTNN để tận
dụng thế mạnh của đối tượng này. Các hình thức FDI phải nhằm vào phục vụ
mục tiêu chuyển từ thu hút ĐT theo kiểu "lôi kéo" các ngành, lĩnh vực kinh tế
sang thu hút kỹ thuật, quản lý, nhân tài, chú trọng NK công nghệ, nâng cao
năng lực tự chủ sáng tạo trong sử dụng ĐTNN. Sự thận trọng, cân nhắc của
Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai đối với các dự án FDI có khả năng gây
ô nhiễm cho thấy các tỉnh vùng Đông Nam Bộ đã bước đầu có sự phân định
cơ cấu ĐTNN giữa các địa phương trong vùng. Nhờ đó, vùng này luôn duy trì
được mật độ FDI cao.
Năm là, kinh nghiệm của vùng Đông Nam Bộ cho thấy, ngoài chính
sách ưu đãi chung của cả nước, sự năng động, dám nghĩ, dám làm của chính
quyền địa phương giữ vai trò quan trọng trong thành công về thu hút FDI. Các
tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ luôn đi dầu về sáng kiến tranh thủ sự ủng hộ
của nước ĐT, trong cải cách hành chính nhằm giảm chi phí cho nhà ĐTNN,
63
trong xây dựng các KCN tập trung…Chính vì thế, mặc dù các tỉnh trong vùng
không có nhiều ưu thế về điều kiện tự nhiên, song quy mô thu hút FDI luôn
đứng đầu cả nước.
Sáu là, sự lơ là về bảo vệ môi trường đã khiến cả Trung Quốc và Vùng
Đông Nam bộ phải trả giá. Ở Trung Quốc là mức độ ô nhiễm không khí,
nước, đất rất cao. Hiện chưa có giải pháp hiệu quả khắc phục tình trạng ô
nhiễm này khiến người dân ở nhiều vùng của Trung Quốc chịu ảnh hưởng
nặng nề. Ở Đông nam Bộ, nhất là ở Bình Dương và Đồng Nai, mật độ các
KCN quá dày, sự kiểm soát về tiêu chuẩn môi trường của các dự án chưa
nghiêm ngặt dẫn đến ô nhiễm các dòng sông.
Bảy là, cả Trung Quốc và vùng Đông Nam bộ còn chưa có chính sách
phối hợp nội vùng chặt chẽ. Quy hoạch phát triển vùng còn do Trung ương áp
đặt cho vùng mà thiếu sự tham gia hợp tác chủ động của các địa phương.
Trong vùng Đông Nam bộ, các tỉnh mới phát huy tính cạnh tranh theo lợi thế,
mà chưa đạt tới sự phối hợp trong phân bổ hợp lý các dự án FDI. Vì thế, cơ
cấu ĐT vào các KCN ở các tỉnh còn khá giống nhau, chưa thể hiện sự liên kết
sản xuất theo chuỗi. Do ách tắc về giao thông nội đô nên thành phố Hồ Chí
Minh chưa phát huy vai trò trung tâm dịch vụ cho cả vùng, chưa trở thành
trung tâm phối hợp có tiếng nói định hướng liên kết vùng.
64
Chương 3
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO VÙNG BẮC TRUNG BỘ
3.1. LỢI THẾ VÀ BẤT LỢI THẾ CỦA VÙNG BẮC TRUNG BỘ TRONG
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Vùng Bắc Trung Bộ gồm có 6 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, là phần phía bắc của Trung Bộ
Việt Nam, tọa lạc trên địa bàn từ Nam dãy núi Tam Điệp tới Bắc đèo Hải
Vân. Phía Tây của Vùng là dãy núi Trường Sơn, giáp với nước CHDCND
Lào, phía Bắc giáp với vùng Tây Bắc và Đồng bằng sông Hồng, phía Nam
giáp vùng Duyên hải miền Trung và phía đông giáp biển. Diện tích tự nhiên
toàn vùng hơn 52,5 nghìn km2 với số dân hơn 10,4 triệu người (năm 2014),
mật độ dân số là 202 người/km2, trong đó hơn 6 triệu người trong độ tuổi lao
động, chiếm gần 13% lực lượng lao động cả nước. Bắc Trung Bộ là vùng kinh
tế được Chính phủ giao lập quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH.
3.1.1. Lợi thế của vùng Bắc Trung Bộ trong thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài
- Lợi thế về vị trí địa lý: Vùng Bắc Trung Bộ hội đủ các địa hình, thổ
nhưỡng của Việt Nam, gồm đồi núi, rừng xanh, đồng bằng, đất ven biển, đảo.
- Lợi thế về khoáng sản: Bắc Trung Bộ có nhiều loại khoáng sản có trữ
lượng lớn sso với cả nước như quặng sắt (60%), thiếc (80%), thiếc (chiếm 80%),
đá vôi (40%). Đặc biệt vùng Bắc Trung Bộ là nơi duy nhất có quặng cromit ở
Việt Nam. Trong vùng có một số địa điểm tập trung mỏ khoáng sản có giá trị
lớn như: mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh), mỏ cromit Cổ Định (Thanh Hóa), mỏ
thiếc Quỳ Hợp (Nghệ An). Bắc Trung Bộ cũng là nơi cung cấp đá hoa cương
và đá vôi với trữ lượng lên tới hàng tỷ tấn. Dầu mỏ, khí đốt ở thềm lục địa
ven biển đang được thăm dò và có nhiều triển vọng.
65
- Lợi thế về lâm nghiệp: Hiện vùng Bắc Trung Bộ quản lý 3.436 ngàn
ha đất đồi núi, trong đó đất rừng là 1.633 ngàn ha, đất không rừng gần 1.600
ngàn ha. Bắc Trung Bộ được đánh giá là vùng có thế mạnh để phát triển lâm
nghiệp với tổng trữ lượng gỗ đạt 124,737 triệu m3 và 1,5 triệu cây nứa, luồng,
chiếm 17,9% trữ lượng gỗ và 25,4% trữ lượng tre nứa toàn quốc. Tài nguyên
rừng của vùng chỉ đứng sau Tây Nguyên và hiện là nơi cung cấp phần lớn gỗ
và lâm sản hàng hoá cho các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, đáp ứng một phần
nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất gỗ ở nước ta.
- Lợi thế về kinh tế biển: Vùng Bắc Trung Bộ có bờ biển dài 670 km
với thềm lục địa rộng, nhiều tài nguyên, 23 cửa sông, trong đó có nhiều cửa
sông lớn tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng bến cảng phục vụ vận tải, đánh
bắt cá như: Nghi Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò, Cửa Hội (Nghệ An). Ước tính trữ
lượng đánh bắt hàng năm khoảng 620.000 tấn cá, 2.750 tấn tôm, 5.000 tấn
mực. Trong Vùng có nhiều nhiều đầm phá, nhiều tài nguyên biển, thuận lợi
cho phát triển kinh tế biển tổng hợp.
- Lợi thế về giao thông: Vùng Bắc Trung Bộ nằm trên trục giao thông
Bắc Nam có cả đường sắt, đường bộ với nhiều đường ô tô chạy theo hướng
Đông Tây (quốc lộ 7, 8, 9 và 29) nối Lào với Biển Đông. Trên địa bàn Vùng
có hệ thống ba sân bay (Vinh, Đồng Hới, Phú Bài), nhiều bến cảng (Nghi
Sơn, Cửa Lò, Cửa Hội, Cửa Gianh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Thuận An...) rất thuận
lợi cho mở rộng giao lưu kinh tế giữa các tỉnh trong vùng, với các vùng khác
và nước ngoài, đặc biệt là với Lào, Đông Bắc Thái Lan, Mianma...
- Lợi thế về du lịch: Bắc Trung Bộ là nơi có nhiều bãi biển đẹp như
Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Nhật Lệ, Cửa Tùng, Thuận An, Lăng Cô,....
Khu vực này còn có các vườn quốc gia như Bến En, Pù Mát, Vũ Quang,
Phong Nha - Kẻ Bàng, Bạch Mã. Trong Vùng cũng có nhiều cảnh quan thiên
nhiên kỳ thú. Quá trình phát triển Vùng đã để lại nhiều hang động, di tích lịch
sử, văn hoá, kiến trúc (trong đó có 144/1221 di tích đã xếp hạng) có giá trị
66
khoa học, nghệ thuật và du lịch cao. Ngoài ra, nhiều tỉnh trong vùng còn có
các lễ hội truyền thống mang tính văn hoá dân tộc đặc sắc, là tài nguyên nhân
văn để phát triển du lịch.
Những năm gần đây, một số tiềm năng của vùng Bắc Trung Bộ đã được
phát huy, thu hút một số dự án FDI lớn, góp phần tạo nên sự phát triển mạnh
mẽ của các khu kinh tế ven biển như: Khu kinh tế Nghi Sơn (Thanh Hóa);
Khu kinh tế Đông Nam (Nghệ An), Khu kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh); Khu
kinh tế Hòn La (Quảng Bình); Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô (Thừa Thiên
Huế). Ngoài ra, Bắc Trung Bộ có 3 khu kinh tế cửa khẩu: Lao Bảo (Quảng
Trị), Cha Lo (Quảng Bình), Cầu Treo (Hà Tĩnh). Các khu kinh tế cũng là lợi
thế thu hút các nhà ĐTNN vào vùng Bắc Trung Bộ. Bởi vì, trong các khu
kinh tế này Nhà nước hỗ trợ ĐT đồng bộ về kết cấu hạ tầng và nhà ĐT được
hưởng các ưu đãi đặc biệt.
3.1.2. Bất lợi thế trong thu hút đầu tư nước ngoài của vùng Bắc
Trung Bộ
- Bất lợi về điều kiện tự nhiên: Do nằm khá xa hai hai thị trường lớn
nhất cả nước là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nên vùng Bắc Trung Bộ
chưa nhận được hiệu ứng lan tỏa của các vùng này. Hơn nữa, vùng Bắc Trung
Bộ nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhiều hiện tượng thiên tai
khắc nghiệt như bão, lũ, gió mùa khô nóng … Đây cũng là vùng chịu tác động
rất mạnh của biến đổi khí hậu với nguy cơ nước biển dâng làm ngập một số
diện tích đất ven biển, với những cơn bão dữ dội có thể phá hủy các công
trình kiến trúc, tiềm ẩn nhiều rủi ro thiên tai,...
- Bất lợi về điều kiện kinh tế và xã hội: Tuy Chính phủ đã có những
chính sách khuyến khích ĐT phát triển Vùng và các chính quyền địa phương
trong Vùng đã có nhiều nỗ lực ĐT xây dựng trong những năm qua, nhưng cho
đến nay, Bắc Trung Bộ vẫn là vùng kinh tế kém phát triển, nhiều điều kiện
cho phát triển kinh tế còn thiếu thốn, thu nhập của dân cư thấp. Năm 2013,
67
GTSX bình quân đầu người trong Vùng chỉ đạt 20,8 triệu đồng/người/năm,
tính theo tỷ giá thực tế là 988 USD, bằng 52% mức trung bình của cả nước.
- Bất lợi về năng lực công nghệ sản xuất: Tuy có tiềm năng và lợi thế,
nhưng các cơ sở sản xuất công nghiệp và dịch vụ, thương mại của các tỉnh
trong Vùng còn có quy mô nhỏ, phân tán. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê, năm 2013, giá trị sản lượng công nghiệp (tính theo giá cố định 1994) của
Thanh Hóa - tỉnh lớn nhất trong Vùng, mới chỉ đạt hơn 20 nghìn tỷ đồng; của
tỉnh nhỏ nhất là Quảng Trị chỉ có 1,9 nghìn tỷ đồng. Mức tăng trưởng GTSX
của các địa phương trong tỉnh chưa thực sự vững chắc. Tổng giá trị sản lượng
công nghiệp của vùng chỉ chiếm 5,4% tổng giá trị sản lượng công nghiệp cả
nước. Một số ngành, lĩnh vực phát triển còn chậm như: chế biến hải sản XK,
dệt may, chế biến súc sản, thức ăn gia súc... Các ngành, lĩnh vực khác như: cơ
khí, điện tử, cao su, vật liệu xây dựng, các sản phẩm làm từ đường... mới
bước đầu phát triển. Một số ngành công nghiệp còn thiếu nguyên liệu và khó
khăn về thị trường tiêu thụ. Tiểu thủ công nghiệp phát triển ì ạch. Việc nhân cấy
tay nghề để duy trì, phát huy ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống còn
chưa phát triển mạnh do thanh niên không hứng thú học nghề. Sức cạnh tranh
của các DN trong Vùng còn thấp. Một số sản phẩm có chất lượng thấp, qui cách,
chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã kém hấp dẫn, giá thành chưa hợp lý.
Kinh tế biển của vùng Bắc Trung Bộ mới chỉ dừng lại ở mức khai thác
biển cận duyên, chưa đủ sức vượt ra đại dương để đánh bắt hải sản xa bờ. Các
phương tiện khai thác thủy, hải sản còn có công suất thấp. Hiện nay mới chỉ
có một bộ phận nhỏ dân chài sinh sống bằng nghề biển dựa vào khai thác các
nguồn tài nguyên vùng thềm lục địa.
Tuy có lợi thế về tài nguyên khoảng sản, nhưng các DN trong vùng
thiếu năng lực khai thác và chế biến. Một số DN khai thác vật liệu xây dựng
theo công nghệ lạc hậu, thậm chí sử dụng lao động thủ công; công nghệ khai
thác và chế biến lâm sản còn thô sơ, năng suất và hiệu quả thấp.
68
- Bất lợi về cơ cấu kinh tế: Tỷ trọng nông nghiệp trong giai đoạn 2007-
2014 tuy đã giảm 14,3% (trung bình mỗi năm giảm 1,42%), nhưng vẫn chiếm
37,8%. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, giá trị nông sản còn
thấp, trung bình đạt 15-17 triệu đồng/ha. Lao động nông thôn thiếu việc làm,
thu nhập thấp, đời sống khó khăn.
- Bất lợi trong phát triển du lịch: Tuy có nhiều lợi thế về vị trí địa lý và
các tài nguyên du lịch khác nhưng do thiếu vốn, nên kết quả hoạt động du lịch
của các tỉnh trong Vùng chưa tương xứng. Chưa thu hút được nhiều dự án xây
dựng hạ tầng cho du lịch nên sức hút khách thấp.
3.2. THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
VÙNG BẮC TRUNG BỘ
3.2.1. Thực trạng xây dựng môi trường đầu tư chung cho nhà đầu
tư nước ngoài
3.2.1.1. Thực trạng xây dựng môi trường pháp lý cho nhà đầu tư
nước ngoài Năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp
áp dụng chung cho cả ĐT trong nước và ĐTNN. Đây là lần đầu tiên ở Việt
Nam nhà ĐTNN được đối xử bình đẳng với nhà ĐT trong nước theo nguyên
tắc "đối xử quốc gia". Điểm nổi bật của Luật Đầu tư 2005 là chế định môi
trường ĐT bình đẳng cả về quyền tự do ĐT kinh doanh lẫn quyền tiếp cận
dịch vụ trong nước, nhất là dịch vụ công, với một giá chung cho cả nhà ĐT
trong nước và nước ngoài. Luật này cũng chế định các thủ tục ĐT theo hướng
đơn giản hoá, quy định thời gian cơ quan nhà nước phải hoàn thành thủ tục
ĐT theo quan điểm tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các
nguồn vốn tương thích với các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Về cơ bản, Luật Đầu tư tuyên bố quyền tự do của nhà ĐTNN trong các
lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Nhà nước cam kết bảo hộ
quyền sở hữu tài sản, vốn ĐT, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác,
69
tạo điều kiện cho nhà ĐTNN hoạt động lâu dài ở Việt Nam, cũng như có thể
chuyển thu nhập về nước bằng ngoại tệ. Nhà nước cam kết mạnh mẽ không
quốc hữu hóa, không tịch thu bằng biện pháp hành chính tài sản hợp pháp của
nhà ĐTNN. Khi thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia
Nhà nước sẽ chỉ trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà ĐTNN theo giá thị
trường giống như đối với nhà ĐT trong nước.
Các quyền sở hữu trí tuệ, quyền tự do thương mại, tự do XK, NK trực
tiếp, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong việc chuyển giao công nghệ tại
Việt Nam được Nhà nước bảo hộ theo tinh thần của các Hiệp định quốc tế.
Nhà ĐTNN còn được mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng, được quyền kinh
doanh ngoại tệ để đáp ứng các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao
dịch khác theo quy định chung về quản lý ngoại hối.
Các quyền về tự do kinh doanh của nhà ĐTNN được Luật Đầu tư 2005
tuyên bố bảo hộ như nhà ĐTNN được bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng các
nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, bình đẳng trong tiếp cận và sử dụng đất, tài
nguyên trong lòng đất, trong thuê hoặc mua thiết bị, máy móc ở trong nước và
nước ngoài để thực hiện dự án ĐT, trong thuê lao động trong nước và nước
ngoài theo nhu cầu SXKD… Nhà ĐTNN có quyền quảng cáo, tiếp thị sản phẩm,
dịch vụ của mình và giao dịch hàng hóa, liên kết sản xuất với DN tư nhân trong
nước, DN có vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam như nhà ĐT trong nước.
Thậm chí Luật cho phép nhà ĐTNN chuyển nhượng, điều chỉnh vốn hoặc dự án
đầu tư, được thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại tổ chức tín
dụng để vay vốn thực hiện dự án. Các hình thức ĐTNN được mở rộng từ liên
doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn đến công ty cổ phần, hợp tác
với cơ quan nhà nước và doanh nghiệp tư nhân ĐT vốn, tham gia đấu thầu các
dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng dưới các hình thức BOT, BTO…
Nhà ĐTNN được quyền tiếp cận các văn bản pháp luật, chính sách liên
quan đến đầu tư, các dữ liệu của nền kinh tế quốc dân, của từng vùng kinh tế
70
và các thông tin kinh tế - xã hội khác có liên quan đến hoạt động ĐT. Nhà
nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến ĐT. Trường hợp
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định
của luật trong nước thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế. Luật Đầu
tư 2005 cũng đảm bảo tính nhất quán trong chính sách của Nhà nước bằng
tuyên bố bảo đảm lợi ích chính đáng của nhà ĐT trong trường hợp Nhà nước
thay đổi pháp luật, chính sách. Cơ chế giải quyết tranh chấp khá mở, cho phép
nhà ĐTNN được quyền lựa chọn một trong các cơ quan giải quyết tranh chấp.
Điểm mới nữa trong thu hút FDI của Luật Đầu tư năm 2005 là phân cấp
mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý KCN, khu chế xuất, khu công nghệ
cao và khu kinh tế (gọi chung là Ban quản lý) cấp Giấy chứng nhận ĐT cũng
như quản lý hoạt động ĐT, giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính
phủ. Theo quy định này, UBND cấp tỉnh và Ban quản lý được phân cấp, tự
quyết định và cấp Giấy chứng nhận cho một số dự án FDI đến 30 triệu USD.
Luật ĐT 2005 còn quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ
quan quản lý nhà nước, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của
UBND cấp tỉnh trong quản lý hoạt động ĐTNN. UBND tỉnh thực hiện chức
năng quản lý toàn diện về phát triển KT-XH của địa phương, trong đó có cấp
Giấy chứng nhận ĐTNN và quản lý hoạt động ĐTNN trên địa bàn.
Triển khai các quy định của Luật Đầu tư 2005, Chính phủ và các cơ
quan chức năng của Chính phủ đã ban hành cơ chế, chính sách bao gồm: nghị
định, nghị quyết, quyết định, thông báo, quy hoạch của cấp Trung ương và
các hướng dẫn, quy định, quy hoạch của cấp ngành và cấp tỉnh để nhanh
chóng tổ chức thực hiện chính sách khuyến khích ĐTNN của Nhà nước.
Nhằm chuẩn hóa môi trường đầu tư theo các định chế quốc tế, ngày
26/11/2014, Quốc hội ban hành Luật Đầu tư 2014 với một số thay đổi so với
luật Đầu tư 2005, như: bỏ một số hình thức ĐT hợp đồng BOT, BTO, BT; ĐT
phát triển kinh doanh, ĐT thực hiện việc sáp nhập và mua lại DN, bổ sung
71
hình thức ĐT theo hợp đồng đối tác công tư (PPP). Theo đó, nhà ĐT, DN sẽ
ký kết hợp đồng PPP với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện dự án
ĐT xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công
trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Các hình thức ĐT còn lại có
những thay đổi đáng kể như sau: Để thành lập tổ chức kinh tế, nhà ĐTNN
phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
và phải đáp ứng các điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ và các điều kiện
theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Nhà ĐTNN
được sở hữu vốn điều lệ không hạn chế trong tổ chức kinh tế, trừ một số
trường hợp hạn chế theo quy định của pháp luật về chứng khoán, về cổ phần
hóa và chuyển đổi DN nhà nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Luật Đầu tư 2014 cũng quy định chi tiết về điều kiện, thủ tục đầu
tư, các nội dung chủ yếu của hợp đồng BCC.
3.2.1.2. Thực trạng xây dựng môi trường ưu đãi đầu tư chung cho
nhà đầu tư nước ngoài Từ khi mở cửa hội nhập quốc tế đến nay, Nhà nước Việt Nam đã đưa ra
nhiều chính sách ưu đãi ĐTNN và liên tục được bổ sung, điều chỉnh cho phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Cụ thể là:
- Chính sách ưu đãi thuế
Nhà nước Việt Nam áp dụng mức thuế thấp hơn mặt bằng thuế từng
thời kỳ cho các nhà ĐT có dự án thuộc đối tượng ưu đãi theo ngành và địa
bàn. Hình thức ưu đãi áp dụng cả về mức thuế suất và thời gian hưởng thuế
suất ưu đãi, thời gian miễn, giảm thuế. Nhà ĐTNN cũng được hưởng ưu đãi
về thuế cho phần thu nhập được chia từ hoạt động góp vốn, mua cổ phần vào
tổ chức kinh tế trong nước. Nhà ĐT được miễn thuế NK đối với thiết bị, vật
tư, phương tiện vận tải và hàng hóa khác để thực hiện dự án ĐT tại Việt Nam.
Thu nhập từ hoạt động chuyển giao công nghệ đối với các dự án thuộc diện
ưu đãi ĐT được miễn thuế thu nhập. Ngoài việc giảm mức thuế suất thuế thu
72
nhập DN từ 28% năm 2003 còn 25% từ năm 2009 đến nay, từ năm 2004 đến
nay, các nhà ĐTNN còn được hưởng mức thuế và giá dịch vụ đầu vào bình
đẳng như các nhà ĐT trong nước. Luật thuế thu nhập DN 2003 lần đầu tiên
thiết lập chế độ đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt xoá bỏ
sự phân biệt đối xử giữa ĐTNN và ĐT trong nước.
Ngày 13/6/2008 Quốc hội ban hành Luật Thuế thu nhập DN thay thế
cho Luật Thuế Thu nhập DN 2003. Luật thuế thu nhập DN 2008 đã thu hẹp
diện ưu đãi theo ngành, lĩnh vực để thu hút FDI có chọn lọc nhằm phát triển
các vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn và tập trung vào các ngành,
lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ĐT
phát triển kết cấu hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản
phẩm phần mềm và các lĩnh vực xã hội hoá.
Năm 2005, Quốc hội ban hành Luật Thuế XK, thuế NK quy định cụ thể
các khoản được miễn thuế XK, NK. Ví dụ, hàng hóa XK ra nước ngoài để gia
công cho phía Việt Nam được miễn thuế XK và khi NK trở lại được miễn thuế
NK trên phần trị giá của hàng hóa XK ra nước ngoài để gia công theo hợp đồng.
Miễn thuế NK đối với hàng hóa để tạo tài sản cố định đối với các dự án ĐT vào
các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích ĐT, lĩnh vực khuyến khích ĐT và các dự án
ĐT tại địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn và đặc biệt khó khăn, đối với dự
án ĐT bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Miễn thuế NK trong
thời hạn 05 năm kể từ ngày bắt đầu sản xuất đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện
trong nước chưa sản xuất được NK để sản xuất của các dự án ĐT và lĩnh vực đặc
biệt khuyến khích ĐT hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Chính sách hoàn thuế NK và không thu thuế XK đối với các sản phẩm XK được
sản xuất toàn bộ từ nguyên liệu NK... Cắt giảm thuế quan hàng năm theo các
cam kết trong WTO và trong khu vực ASEAN đối với các nguyên liệu, vật tư
trong nước chưa sản xuất được tạo điều kiện giúp các DN giảm chi phí đầu vào
và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước so với hàng NK.
73
- Chính sách ưu đãi tiếp cận đất đai
Chính sách đất đai được điều chỉnh nhằm đảm bảo công bằng giữa nhà
ĐT trong nước và nhà ĐTNN, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt
Nam. Luật đất đai 2003, 2013 cho phép DN có vốn ĐTNN và DN trong nước
bình đẳng trong lựa chọn hình thức thuê đất; bình đẳng về nghĩa vụ tài chính
như trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. DN trong nước và nước
ngoài đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi được Nhà nước cho thuê đất.
Luật Đất đai 2003 quy định chung về thời hạn cho thuê đất để thực hiện dự án
ĐT là không quá 50 năm, trường hợp ĐT vào địa bàn có điều kiện KT-XH
khó khăn và đặc biệt khó khăn thì thời hạn không quá 70 năm không phân
biệt là DN trong nước hay DN nước ngoài. Các dự án ĐT được hưởng mức
ưu đãi giống nhau nếu dự án ĐT được thực hiện trên cùng địa bàn ưu đãi ĐT
hoặc có cùng lĩnh vực ưu đãi ĐT. Khi hết thời hạn sử dụng đất, nếu nhà đầu
tư chấp hành đúng pháp luật về đất đai và có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì
sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét gia hạn sử dụng đất phù hợp
với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. Nhà đầu tư đầu tư trong lĩnh vực
hay địa bàn ưu đãi đầu tư, sẽ được miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất,
thuế sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật thuế.
- Ưu đãi đối với nhà đầu tư đầu tư vào KCN, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế: Căn cứ vào điều kiện phát triển KT-XH trong từng thời
kỳ Chính phủ quy định những ưu đãi cho các nhà đầu tư đầu tư vào KCN, khu
chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
- Chính sách tài chính ưu đãi khác
Chính phủ đã ban hành các cơ chế chính sách tài chính phù hợp, đồng
bộ để đảm bảo hiệu lực thực thi và thúc đẩy phát triển KT-XH, đồng thời đề
xuất các giải pháp cấp thiết nhằm giảm thiểu rủi ro, giảm chi phí cho các DN
hoạt động tại Việt Nam. Các văn bản thuế, tài chính đảm bảo nguyên tắc đối
xử bình đẳng giữa DN FDI và DN trong nước.
74
+ Chính sách ưu đãi chuyển lỗ. Nhà ĐT, sau khi đã quyết toán thuế với
cơ quan thuế mà bị lỗ, thì được chuyển lỗ sang năm sau. Số lỗ này được trừ
vào thu nhập chịu thuế thu nhập DN. Thời gian được chuyển lỗ không quá
năm năm.
+ Ưu đãi khấu hao tài sản cố định: Dự án ĐT trong lĩnh vực, địa bàn ưu
đãi ĐT và dự án kinh doanh có hiệu quả được áp dụng khấu hao nhanh đối
với tài sản cố định. Mức khấu hao tối đa là hai lần mức khấu hao theo chế độ
khấu hao tài sản cố định.
+ Cho phép nhà ĐTNN thực hiện các dịch vụ bảo hiểm qua biên giới,
không phân biệt đối xử quốc gia; thực hiện không phân biệt đối với người
nước ngoài về tái bảo hiểm, bảo hiểm vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm và
môi giới tái bảo hiểm, dịch vụ đánh giá, tư vấn, định phí và giải quyết bồi
thường. Không áp dụng hạn chế phân biệt đối xử quốc gia và xóa bỏ hạn chế
về phạm vi kinh doanh bảo hiểm bắt buộc đối với DN bảo hiểm có vốn FDI
khi cung cấp dịch vụ; cho phép mở chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ phù hợp
với quy định thận trọng theo phương thức thương mại.
+ Cho phép nhà ĐTNN tiếp cận các dịch vụ chứng khoán, dịch vụ cung
cấp thông tin tài chính và tư vấn, trung gian và dịch vụ hỗ trợ - bảo lưu quyền
áp dụng với các dịch vụ khác. Đối với phương thức hiện diện thương mại, cho
phép mở liên doanh 49% vốn nước ngoài, thành lập DN 100% vốn nước
ngoài, thành lập chi nhánh của DN chứng khoán nước ngoài cung cấp dịch vụ
quản lý tài sản, thanh toán bù trừ, cung cấp thông tin, tư vấn và dịch vụ hỗ trợ.
+ Nhà ĐTNN được thực hiện các dịch vụ kiểm toán, kế toán theo Luật
Kế toán 2004. Đến nay, khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán về cơ bản đã
được xây dựng khá đầy đủ, toàn diện và tương đối hoàn thiện, phù hợp với
thông lệ quốc tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường chuyển đổi của Việt
Nam như ban hành hệ thống Chuẩn mực kế toán DN (VAS) trên cơ sở các
chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IAS và
75
IFRS), ban hành mới các Chế độ kế toán cơ bản áp dụng cho các lĩnh vực trong
nền kinh tế quốc dân: DN; hành chính sự nghiệp; DN nhỏ và vừa; Ngân sách và
hoạt động nghiệp vụ Kho bạc Nhà nước; Tài chính và Ngân sách xã;… Ngoài ra,
Nhà nước còn xây dựng các Chế độ kế toán đặc thù phù hợp với đặc điểm kinh
tế - kỹ thuật và điều kiện hoạt động của từng ngành, từng lĩnh vực.
+ Mở rộng ưu đãi đối với dự án ĐT trong trường hợp cần khuyến khích
phát triển một ngành hoặc một vùng, một khu vực kinh tế đặc biệt nếu được
Quốc hội xem xét, quyết định theo quy định trong Luật Đầu tư 2005.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2008
gây bất lợi cho thu hút FDI của Việt Nam, Quốc hội ban hành Luật Đầu tư
2014 với một số đổi mới như sau:
- Quy định rõ hình thức và đối tượng áp dụng ưu đãi đầu tư: Hình thức
áp dụng ưu đãi đầu tư gồm: Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập DN thấp
hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện
dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập DN; Miễn thuế NK đối với hàng hóa
NK để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án
đầu tư; Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất.
- Mở rộng đối tượng được hưởng ưu đãi ĐT: Dự án ĐT thuộc ngành,
nghề, địa bàn cần ưu đãi ĐT; dự án ĐT có quy mô vốn từ 6.000 tỷ đồng trở
lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 6.000 tỷ đồng trong thời hạn 03 năm kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký ĐT hoặc quyết định chủ trương ĐT;
dự án ĐT tại vùng nông thôn sử dụng từ 500 lao động trở lên; DN công nghệ
cao, DN KH&CN, tổ chức KH&CN.
Chính sách ưu đãi ĐT được áp dụng cả với dự án ĐT mới và dự án ĐT
mở rộng. Mức ưu đãi cụ thể đối với từng loại ưu đãi ĐT được áp dụng theo
quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về đất đai. Không áp dụng ưu đãi
ĐT đối với dự án khai thác khoáng sản; sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, trừ sản xuất ô tô.
76
Ngành, nghề ưu đãi ĐT cũng được chính xác hóa và mở rộng ra hoạt
động công nghệ cao, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; hoạt động
nghiên cứu và phát triển; sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, năng lượng
sạch, năng lượng tái tạo; sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng từ 30% trở lên,
sản phẩm tiết kiệm năng lượng; sản xuất sản phẩm điện tử, sản phẩm cơ khí
trọng điểm, máy nông nghiệp, ô tô, phụ tùng ô tô; đóng tàu; sản xuất sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may, da giày và các sản phẩm quy
định tại điểm c khoản này; sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, phần
mềm, nội dung số; nuôi trồng, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản; trồng và
bảo vệ rừng; làm muối; khai thác hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá; sản xuất
giống cây trồng, giống vật nuôi, sản phẩm công nghệ sinh học; thu gom, xử
lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải; đầu tư phát triển và vận hành, quản lý
công trình kết cấu hạ tầng; phát triển vận tải hành khách công cộng tại các đô
thị; giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp; khám
bệnh, chữa bệnh; sản xuất thuốc, nguyên liệu làm thuốc, thuốc chủ yếu, thuốc
thiết yếu, thuốc phòng, chống bệnh xã hội, vắc xin, sinh phẩm y tế, thuốc từ
dược liệu, thuốc đông y; nghiên cứu khoa học về công nghệ bào chế, công
nghệ sinh học để sản xuất các loại thuốc mới; đầu tư cơ sở luyện tập, thi đấu
thể dục, thể thao cho người khuyết tật hoặc chuyên nghiệp; bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa…
- Địa bàn ưu đãi ĐT được xác định rõ: ngoài địa bàn có điều kiện KT-
XH khó khăn và đặc biệt khó khăn, các địa bàn khác như KCN, khu chế xuất,
khu công nghệ cao, khu kinh tế cũng được hưởng ưu đãi.
3.2.2. Thực trạng chính sách ưu đãi nhằm thu hút dầu tư trực tiếp
nước ngoài vào vùng Bắc Trung Bộ
3.2.2.1. Thực trạng chính sách ưu đãi đầu tư cho vùng Bắc Trung Bộ
Để hỗ trợ thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ, các cấp quản lý Trung
ương đã ban hành nhiều chính sách như: Nghị quyết số 39-NQ/TW, của Bộ
77
Chính trị khóa IX về phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng
Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010, trong đó yêu cầu: rà
soát, điều chỉnh và hoàn thiện quy hoạch ngành, lĩnh vực của toàn vùng theo
hướng khai thác tối đa mọi tiềm năng, thế mạnh của từng tỉnh, thành phố và
của cả vùng; bảo đảm sự phát triển gắn kết, hài hòa giữa các tỉnh, thành phố
tạo thành không gian kinh tế vùng liên hoàn, hợp lý.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 162/2007/QĐ-TTg, ngày
19/10/2007 về Quy chế hoạt động của Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo tỉnh Hà
Tĩnh đã quy định các ưu đãi đầu tư cho các dự án ở khu kinh tế này, ví dụ: tất cả
các dự án đầu tư vào Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo được hưởng các ưu đãi tối
đa áp dụng đối với các địa bàn KT-XH đặc biệt khó khăn theo quy định của Luật
Đầu tư, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập DN, Luật thuế tiêu thụ đặc
biệt và các ưu đãi khác theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tiếp đến là Quyết định số 158/2007/QĐ-TTg ban hành ngày 9/10/2007
của Thủ tướng Chính phủ "Phê duyệt Chương trình quản lý tổng hợp dải ven
biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020", trong đó yêu cầu lồng ghép và phối hợp một cách hiệu
quả các chương trình, kế hoạch, dự án, kể cả các dự án FDI, đang triển khai
hoạt động hoặc đã được phê duyệt liên quan đến dải ven biển vùng Bắc Trung
Bộ nhằm bảo đảm phát triển bền vững vùng lãnh thổ này phù hợp với cam kết
của Việt Nam trong quản lý và phát triển bền vững vùng biển và ven biển.
Ngày 7/4/2009, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị quyết số 13/NQ-CP về
định hướng, giải pháp thu hút và quản lý vốn FDI trong thời gian tới. Thủ
tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 1617/CT-TTg ngày 19/9/2011 về tăng
cường thực hiện và chấn chỉnh công tác quản lý FDI trong thời gian tới. Ngày
29/8/2013, ban hành Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 29/8/2013 của Chính
phủ Về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý FDI trong
thời gian tới. Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 7/4/2009 về Phê duyệt điều
78
chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến
năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 trong đó Bắc Trung Bộ là tiểu vùng
thuộc vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung. Kể từ đây, tư duy quản
lý phát triển vùng được hình thành và khẳng định, theo đó là các chủ trương
quy hoạch phát triển KT-XH vùng và thu hút FDI theo vùng được hoạch định
và triển khai tích cực hơn.
Đến nay, việc quy hoạch phát triển và thu hút FDI vào vùng Bắc Trung
Bộ của Chính phủ chủ yếu đặt trong quy hoạch chung của toàn vùng Bắc
Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
1447/QĐ-TTg ngày 16/9/2009, Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch xây dựng vùng
Nam Thanh - Bắc Nghệ đến năm 2025 và tầm nhìn sau năm 2025. Quyết định số
1114/QĐ-TTg ngày 16/9/2009, Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH
vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung đến năm 2020, yêu cầu xây dựng
và ban hành danh mục các chương trình, dự án cần kêu gọi ĐT đến năm 2020 ở
vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung. Ngoài ra, Chính phủ còn ban
hành các quyết định về công tác quy hoạch phát triển KT-XH Vùng Bắc Trung
Bộ theo hướng xây dựng mục tiêu cho từng tiểu vùng: Vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung trong đó có tỉnh Thừa Thiên Huế; tiểu vùng Bắc Trung Bộ (Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng Trị); khu vực miền núi phía Tây
của các tỉnh, thành phố trong vùng. Việc quy hoạch phát triển các khu kinh tế
gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương...
Nhìn chung, chỉ đạo phát triển kinh tế vùng được Chính phủ quan tâm
hơn trong thời gian gần đây thể hiện qua tần xuất dày đặc các văn bản pháp
luật chế định các hoạt động kinh tế ở vùng này.
3.2.2.2. Chính sách tạo điều kiện thu hút FDI của cấp tỉnh thuộc
vùng Bắc Trung Bộ Trên cơ sở Luật pháp và chính sách của Nhà nước, nhất là từ khi ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài 2005, Trung ương đã phân cấp cho UBND cấp
79
tỉnh và Ban quản lý KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế
quyền quyết định cấp Giấy phép đầu tư cho các dự án có vốn ĐTNN. Trên cơ
sở đó, các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ đã ban hành nhiều chính sách chủ động
thu hút FDI. Đến nay, các tỉnh đã có các văn bản chính sách sau:
- Tỉnh Thanh Hóa
Với quan điểm: không hạn chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực và địa
bàn, trên cơ sở Luật ĐT và Luật DN, Thanh Hoá đưa ra chính sách khuyến
khích FDI tập trung vào các lĩnh vực: giải phóng mặt bằng, giảm giá thuê đất,
khuyến khích ĐT hạ tầng, khuyến khích dự án sử dụng lao động, dự án phát
triển vùng nguyên liệu. Tỉnh còn chú trọng cải cách thủ tục hành chính liên
quan đến ĐTNN. Tùy theo quy mô, tính chất của từng dự án FDI, trên cơ sở
xem xét đề nghị của các nhà ĐT, Thanh Hóa đã đưa ra chính sách đặc biệt ưu
đãi để thu hút ĐT. Từ năm 2006 đến nay, Thanh Hóa đã tiến hành công bố
rộng rãi danh mục dự án cần thu hút ĐTNN để kêu gọi các nhà ĐT.
- Tỉnh Nghệ An
Xây dựng Quy hoạch xúc tiến ĐT và phát triển kinh tế đối ngoại trên
địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020 theo Quyết định số 5821/QĐ-UBND của
UBND tỉnh ngày 29/12/2011. Ban hành Danh mục dự án kêu gọi ĐT giai
đoạn 2011 - 2015 của Sở Kế hoạch và ĐT tỉnh Nghệ An. Tuyên bố "Quan
điểm, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế đối ngoại" của UBND tỉnh
Nghệ An (năm 2011). Ban hành nhiều Quyết định triển khai thực hiện
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 30/7/2013
của Bộ Chính trị về Phương hướng, nhiệm vụ phát triển tỉnh Nghệ An đến
năm 2020. Đặc biệt, tỉnh Nghệ An còn có sáng kiến tổ chức Hội nghị gặp mặt
các nhà ĐT vào đầu xuân. Từ năm 2009-2013, tỉnh đã 5 lần tổ chức cuộc gặp
mặt này, thông qua đó đã giới thiệu quảng bá và thu hút ĐT trong và ngoài
nước đến nhiều đối tác, đã hỗ trợ cấp giấy chứng nhận ĐT và ký kết 47 dự án
với tổng số vốn gần 62.000 tỷ đồng, trong đó, có 5 dự án FDI số vốn 125,75
80
triệu USD. Các dự án ĐTNN trên địa bàn tỉnh Nghệ An tập trung vào các lĩnh
vực: công nghiệp, trung tâm thương mại, bất động sản, du lịch, giáo dục đào
tạo, chăn nuôi... Tại Hội nghị gặp mặt các nhà ĐT nhân dịp năm mới tỉnh đã
tạo điều kiện cho các bên liên kết gặp gỡ, trao đổi với nhau các kế hoạch ĐT.
Tỉnh còn ban hành các chính sách: hỗ trợ từ ngân sách một khoản 0,15- 0,3%
kinh phí hoạt động xúc tiến ĐT đối với các dự án FDI; chính sách ưu đãi thuế:
các dự án FDI, ngoài ưu đãi theo quy định hiện hành, còn được ngân sách tỉnh
hỗ trợ bằng 100% thuế thu nhập DN thực nộp trong 3 năm tiếp theo; và hỗ trợ
về mặt bằng theo hướng ngân sách tỉnh hỗ trợ bồi thường, giải phóng mặt
bằng theo phương án được phê duyệt với mức: dự án nông, ngư nghiệp là 10-
30%; các dự án còn lại 50%...
- Tỉnh Hà Tĩnh
Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 16/2007/QĐ-UBND
ngày 27/4/2007 về việc quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ ĐT vào
Khu kinh tế Vũng Áng và các KCN của tỉnh Hà Tĩnh, trong đó quy định DN
được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập DN 10% áp dụng trong 15 năm, kể
từ khi dự án bắt đầu hoạt động kinh doanh; được miễn thuế thu nhập DN
trong 04 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp
cho 9 năm tiếp theo; Quyết định số 04/QĐ-KKT ngày 1/2/2007 về Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của các phòng trực
thuộc Ban Quản lý Khu Kinh tế Vũng Áng" được hỗ trợ thuế đất và sử dụng
đất, hỗ trợ hạ tầng kỹ thuật và hỗ trợ khác… Ngày 21/3/2012, UBND tỉnh đã
ban hành Quyết định số 07/2012/QĐ-UBND về Quy định một số chính sách
ưu đãi, hỗ trợ ĐT trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong đó có FDI. Ngoài các ưu đãi
được hưởng theo quy định hiện hành của Nhà nước, các nhà ĐT trong và
ngoài nước có dự án ĐT phát triển SXKD ở Hà Tĩnh còn được hưởng các
chính sách ưu đãi, hỗ trợ ĐT của tỉnh về đất đai, về san lấp mặt bằng, hạ tầng
kỹ thuật và các chính sách hỗ trợ khác như: ĐT dây chuyền sản xuất, mở rộng
81
quy mô, đổi mới công nghệ đối với cơ sở sản xuất hiện có; hỗ trợ về đào tạo,
khoa học công nghệ, hỗ trợ lãi suất sau ĐT. Ngày 19/12/2012, UBND tỉnh ra
Quyết định số 65/2012/QĐ-UBND Ban hành quy định chính sách hỗ trợ SXKD
hàng hóa, dịch vụ XK trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh và các quy định liên quan.
- Tỉnh Quảng Bình
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chương trình phát triển công nghiệp
tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 1798/QĐ-UBND
ngày 29/7/2011, trong đó có chính sách thu hút FDI như: Bổ sung và xây
dựng mới các chính sách thu hút, kêu gọi ĐT các dự án ưu tiên từ các tập
đoàn, tổng công ty trong và ngoài nước; Đổi mới các hình thức xúc tiến kêu
gọi ĐT, lựa chọn hình thức phù hợp và có trọng tâm nhằm kêu gọi, thu hút
các nhà ĐT, đặc biệt là các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn trong nước và
nước ngoài tham gia ĐT trực tiếp, liên kết liên doanh, hợp tác ĐT khai thác
các tiềm năng của tỉnh, tạo ra những đột phá trong phát triển sản xuất công
nghiệp. Quyết định số 1665/QĐ-UBND tỉnh Quảng Bình ngày 15/7/2011 Ban
hành Chương trình phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Bình giai đoạn
2011-2015, trong đó yêu cầu tăng cường thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài
(gồm cả vốn ĐT trực tiếp, vốn viện trợ chính thức và tài trợ của các tổ chức,
cá nhân, vốn của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài...) cho phát triển
nguồn nhân lực.
- Tỉnh Quảng Trị
Ủy ban nhân dân tỉnh có các chính sách triển khai thực hiện Quyết định
số 219/1998 ngày 12/11/1998 của Thủ tường Chính phủ ban hành quy chế
khuyến khích phát triển kinh tế và thương mại Lao Bảo Quảng Trị. Tiếp theo
là Quyết định số 11/2005/TTg ngày 12/1/2005 Ban hành quy chế khu kinh tế -
thương mại đặc biệt Lao Bảo với tư cách mô hình kinh tế mới có tính đặc thù
để tăng cường thu hút FDI vào địa bàn. Quyết định số 984/2005/QĐ-UBND
ngày 25/5/2005 của UBND tỉnh quy định về chính sách khuyến khích ưu đãi
82
ĐT vào tỉnh Quảng Trị với các nội dung ưu đãi cụ thể. Tỉnh còn tiến hành
công bố danh mục các dự án kêu gọi ĐT nước ngoài vào địa bàn. Quyết định
số 1099/QĐ-UBND ngày 08/6/2009 của UBND tỉnh Quảng Trị về việc Quy
định một số chính sách ưu đãi và hỗ trợ ĐT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Các
dự án ĐT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt
và tùy theo từng lĩnh vực ĐT, địa bàn ĐT được hưởng các mức ưu đãi cao
nhất theo khung quy định của pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ ĐT. Đối với các
dự án ĐT trong các KCN, Khu Kinh tế Thương mại đặc biệt Lao Bảo, ngoài
các chính sách được hưởng theo quy định của Chính phủ, còn được hưởng các
chính sách ưu đãi và hỗ trợ ĐT nếu đáp ứng các điều kiện của Tỉnh.
- Tỉnh Thừa Thiên Huế
Có các chính sách: Quyết định số 04/2006/QĐ-TTg, ngày 5/1/2006 của
Thủ tướng Chính phủ về thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Khu
kinh tế Chân Mây-Lăng Cô, tỉnh Thừa Thiên Huế; Quyết định số 040/QĐ-
UBND ngày 6/9/2006 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về Ban hành chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 23/6/2006 của Tỉnh
ủy về phát triển Khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô giai đoạn 2006-2010 và tầm
nhìn đến 2020; Quyết định số 86/2009/QĐ-TTg ngày 17/6/2009 của Thủ
tướng Chính phủ về việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã
hội tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020; Quyết định số 13/2011/NQ-HĐND
của Hội đồng nhân dân tỉnh ngày 9/12/2011, Điều chỉnh quy hoạch xây dựng
vùng tỉnh Thừa Thiên Huế (theo định hướng Thừa Thiên Huế trở thành thành
phố trực thuộc Trung ương); Quyết định số 01/2013/QĐ-UBND ngày
05/1/2013 Quy định một số chính sách ưu đãi và hỗ trợ ĐT trên địa bàn tỉnh
nhằm thu hút các nhà ĐT đến với địa phương. Bảm bảo ĐT công trình giao
thông, điện, nước đến chân hàng rào dự án phù hợp với quy hoạch được
duyệt, quy mô ĐT đáp ứng yêu cầu tối thiểu phục vụ dự án của nhà ĐT khi
được phê duyệt...
83
Nhìn chung, mỗi tỉnh trong vùng đều cố gắng tận dụng ưu thế của mình
cũng như chính sách ưu đãi của trung ương cho các địa bàn đặc biệt của tỉnh
để thu hút FDI. Các tỉnh đều nâng ưu đãi của mình lên mức cao hơn ưu đãi
chung cả nước để cạnh tranh thu hút FDI. Ít tỉnh có nỗ lực liên kết với tỉnh
khác để hình thành các đặc khu chung, Chính sách ưu đãi cúng chưa được bàn
bạc, thiết kế chung, đôi khi còn cạnh tranh với nhau.
3.2.3. Thực trạng xây dựng kết cấu hạ tầng trong vùng Bắc Trung Bộ
Căn cứ quy hoạch tổng thể phát triển KCN, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế đã được Chính phủ phê duyệt, các bộ, cơ quan ngang bộ
và UBND cấp tỉnh lập kế hoạch ĐT và tổ chức xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế thuộc phạm vi quản lý. Đối với một số địa phương có
địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, Nhà nước hỗ trợ một
phần vốn cho địa phương để cùng với nhà ĐT phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng trong hàng rào KCN, khu chế xuất theo quy định của Chính phủ. Nhà
nước dành nguồn vốn ĐT từ ngân sách và tín dụng ưu đãi để hỗ trợ ĐT phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội trong khu công nghệ
cao, khu kinh tế và áp dụng một số phương thức huy động vốn để ĐT phát
triển kết cấu hạ tầng khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Được sự hỗ trợ của Trung ương, mà trực tiếp là Bộ Giao thông vận tải
và Bộ Bưu chính viễn thông, các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ đã từng bước tiến
hành nâng cấp, mở rộng và hiện đại hóa toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng
trong Vùng. Nhiều tỉnh trong vùng đã tập trung vào việc nâng cấp, mở rộng
các công trình giao thông huyết mạch, kết hợp xây dựng mới một số công
trình trọng điểm theo hướng phát triển, hoàn chỉnh, hiện đại, đảm bảo vận tải
tối ưu. Đã mở rộng và nâng cấp các tuyến đường: Quốc lộ 1, đường 15 và
đường sắt xuyên Việt. Phát triển đường 217 từ Thanh Hoá qua biên giới Việt
Lào; đường 7 nối đường 1 với Diễn Châu (Nghệ An); đường 8 từ Vinh đi Hương
84
Sơn đến thị trấn Napê của Lào; đường 12 từ Ba Đồn (Quảng Bình) đi Lào nối
liền vùng thiếc, gỗ, thạch cao của Trung Lào qua đường 1 đến cảng Vũng áng và
đường 9 qua Lào. Ngoài ra, còn nhiều tuyến đường địa phương theo hướng Bắc -
Nam hoặc Tây - Đông cũng được xây dựng và đưa vào sử dụng.
Các tuyến đường sông bao gồm đường thủy Bắc - Nam vận chuyển
than và sắt trên sông Cả, sông Mã được khai thông có vai trò cực kỳ quan
trọng trong mùa mưa bão khi vận chuyển theo đường biển không an toàn;
tuyến sông Mã, sông Chu cập bến Hàm Rồng, Hà Trung, Vĩnh Lộc, Bái
Thượng có ý nghĩa vận chuyển hàng hoá giữa vùng đồng bằng, trung du với
miền núi. Khai thông đưa vào vận hành tuyến đường biển Hàm Rồng - Hải
Phòng dài 129 km nối KCN Bắc Thanh Hoá với cảng Hải Phòng; tuyến Bến
Thuỷ - Hải Phòng dài 339 km nối thành phố Vinh với cảng Hải Phòng. Ngoài
ra còn phát triển tuyến vận chuyển từ cảng Cửa Lò đi Đà Nẵng, Quy Nhơn,
Hội An, Hồng Kông, Tokyo, Singapo... Phát triển đường hàng không với các
sân bay Huế, Vinh và gần đây là sân bay Thọ Xuân.
Để hỗ trợ phát triển KT-XH trong vùng, ngày 6/12/2013, Bộ Giao
thông vận tải ra Quyết định số 4002/QĐ-BGTVT, phê duyệt phương hướng,
kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng Bắc Trung Bộ và Duyên
hải Miền Trung đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, trong đó hoàn
thành nâng cấp Quốc lộ số 1 qua các tỉnh Bắc Trung Bộ, quốc lộ 15 đoạn cầu
Linh Cảm đoạn nối thành phố Hà Tĩnh - Phúc Đồng, đường Hồ Chí Minh,
một phần Tiểu dự án 2 đoạn tránh ngập thủy điện Hồi Xuân thuộc dự án Quốc
lộ 15 đoạn qua tỉnh Hòa Bình và Thanh Hóa; một phần đoạn qua khu di tích
Truông Bồn. Hoàn thành xây dựng nâng cấp Quốc lộ 12C đoạn Vũng Áng -
Quốc lộ 1, xây dựng nâng cấp Quốc lộ 12A các đoạn Rào Trổ - Xóm Sung,
Khe Ve - Cha Lo và đoạn tránh nhà máy xi măng sông Gianh; hoàn thành
nâng cấp Quốc lộ 7 các đoạn Tây Đô Lương - Nậm Cắn và đoạn nối từ Diễn
Châu - Bãi biển Diễn Thành... Huy động các nguồn lực xây dựng đường sắt
85
quốc gia kết nối đến cảng biển, KCN, khu mỏ và trung tâm du lịch lớn. Tiếp
tục ĐT mở rộng các công trình tại một số cảng hàng không: sân bay Vinh và
sân bay Thọ Xuân. Xây dựng bến tổng hợp số 3 tại Vũng Áng cho tàu có
trọng tải 50.000 DWT; bến phục vụ trung tâm nhiệt điện tại Nghi Sơn,
Vũng Áng (Hà Tĩnh). Hoàn thiện xây dựng bến xăng dầu tại Sơn Trà - Thọ
Quang phục vụ di dời bến Nại Hiên; xây dựng bến than cho trung tâm nhiệt
điện Quảng Trạch; cải tạo, nâng cấp luồng tầu cảng Cửa Lò đảm bảo cho tầu
có trọng tải 10.000 DWT đầy tải lợi dụng mực nước ra, vào...
3.2.4. Thực trạng xúc tiến đầu tư nước ngoài và hỗ trợ đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở vùng Bắc Trung Bộ
Nhà nước có chính sách hỗ trợ các dự án ĐTNN trên các phương diện:
- Hỗ trợ chuyển giao công nghệ: Tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chuyển giao công nghệ, bao gồm cả việc
góp vốn bằng công nghệ, để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam theo quy
định của pháp luật về chuyển giao công nghệ. Khuyến khích việc chuyển giao
vào Việt Nam những công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn và các công nghệ
để tạo ra sản phẩm mới, nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh, chất
lượng sản phẩm, tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguyên liệu, nhiên liệu,
năng lượng, tài nguyên thiên nhiên.
- Hỗ trợ đào tạo: Khuyến khích lập quỹ hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực từ
nguồn vốn góp và tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài. Chi
phí đào tạo của DN được tính vào chi phí hợp lý làm căn cứ xác định thu nhập
chịu thuế thu nhập DN. Nhà nước hỗ trợ từ nguồn ngân sách cho việc đào tạo lao
động trong các DN thông qua các chương trình trợ giúp đào tạo.
- Hỗ trợ và khuyến khích phát triển dịch vụ đầu tư: Khuyến khích và hỗ
trợ các tổ chức, cá nhân tiến hành các dịch vụ hỗ trợ ĐT sau đây: Tư vấn ĐT,
tư vấn quản lý; tư vấn về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; dạy nghề,
đào tạo kỹ thuật, kỹ năng quản lý; cung cấp thông tin về thị trường, thông tin
86
KH&CN và các thông tin KT, XH khác mà nhà đầu tư yêu cầu; tiếp thị, xúc
tiến đầu tư và thương mại; thành lập, tham gia các tổ chức XH, tổ chức XH -
nghề nghiệp; thành lập các trung tâm thiết kế, thử nghiệm để hỗ trợ phát triển
các DN vừa và nhỏ.
- Ưu đãi thị thực xuất cảnh, nhập cảnh: Nhà ĐT thực hiện hoạt động
ĐT, chuyên gia và lao động kỹ thuật là người nước ngoài làm việc thường
xuyên trong dự án ĐT tại Việt Nam và các thành viên gia đình họ được cấp
thị thực xuất cảnh, nhập cảnh nhiều lần. Thời hạn của thị thực tối đa là 5 năm
cho mỗi lần cấp.
- Hoạt động xúc tiến ĐT của các cơ quan nhà nước các cấp được Chính
phủ khuyến khích. Kinh phí cho hoạt động xúc tiến ĐT của các cơ quan nhà
nước được cấp từ NSNN. Với nguồn hỗ trợ này các cơ quan nhà nước đẩy
mạnh công tác quảng bá giới thiệu, xúc tiến nhằm thu hút vốn ĐT từ các
thành phần kinh tế; sử dụng và tranh thủ tối đa các nguồn vốn để ĐT phát
triển cơ sở hạ tầng KT-XH có quy mô lớn, đồng bộ và hiện đại.
Bên cạnh các hoạt động xúc tiến ĐT ở cấp Trung ương, các tỉnh vùng
Bắc Trung Bộ còn chủ động thực hiện hoạt động giới thiệu tiềm năng, nhu
cầu và điều kiện của địa phương cho các nhà ĐT tiềm năng ở nước ngoài với
nhiều hình thức linh hoạt.
Chẳng hạn, tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức Diễn đàn xúc tiến ĐT vào Khu
kinh tế Nghi Sơn và vùng phụ cận trên cơ sở nhận thức: "Thành công của DN
cũng chính là thành công của tỉnh. Lợi ích của DN là mục tiêu trước mắt và
lâu dài của Thanh Hóa" và cam kết "Luôn đồng hành, luôn luôn là đối tác tin
cậy, lâu dài của DN"; đồng thời sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để các nhà
ĐT đến ĐT kinh doanh có hiệu quả cao trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Tỉnh
Nghệ An coi trọng xúc tiến ĐT tại chỗ như tập trung, duy trì các kênh đối
thoại với các nhà ĐT để giải quyết kịp thời những kiến nghị hợp lý của DN
nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Xây dựng chiến lược vận động kêu gọi
87
ĐT FDI từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore (nhất là Nhật Bản) một cách toàn
diện, bài bản, ổn định và phù hợp với đường lối đối ngoại của Nhà nước và
Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị. Tập trung thu hút các nhà ĐT phát triển kinh
doanh hạ tầng có khả năng, kêu gọi nhà ĐT thứ cấp vào KCN và dịch vụ đô
thị mà họ ĐT (như Becamex, VSIP), các đối tác có năng lực tài chính lớn, có
bề dày kinh nghiệm, có khả năng ĐT ổn định, lâu dài, các DN đến từ các nền
kinh tế phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… Kêu gọi
ĐT của các đối tác trọng tâm theo quốc gia, vùng lãnh thổ: Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore, Israel và các nhà ĐT đến từ các nước có nền kinh tế phát
triển, các nước sở hữu công nghệ nguồn thuộc nhóm G7 bao gồm: Mỹ,
Canada, Pháp, Đức, Ý, Anh, các nước có nền kinh tế mới nổi như: Ấn Độ,
Nga, Brazil,… Đồng thời, tỉnh Nghệ An còn hỗ trợ nhà ĐT trên 4 phương
diện: nắm bắt và kịp thời giải quyết các vướng mắc, thường xuyên giao ban
để chỉ đạo các dự án, nhất là các dự án trọng điểm; giải phóng mặt bằng; hỗ
trợ cung ứng và đào tạo lao động; hỗ trợ ĐT kết cấu hạ tầng trong và ngoài
hàng rào dự án. Tỉnh Hà Tĩnh tiến hành nhiều phương thức xúc tiến ĐT như
tranh thủ Hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm
2011 (đến dự hội nghị có 83 đoàn, trong đó 21 đại sứ quán, 26 tổ chức quốc
tế, 30 bộ, ngành và các tổ chức khác ở Trung ương) để giới thiệu về cơ hội
ĐT vào Hà Tĩnh... Tỉnh Thừa Thiên Huế một mặt tập trung đẩy nhanh tiến độ
xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, hoàn chỉnh quy hoạch sử
dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, đẩy mạnh cải cách hành chính đối với
công tác quản lý hoạt động FDI, mặt khác đẩy mạnh công tác xúc tiến FDI
vào tỉnh như hoàn thiện hồ sơ dự án kêu gọi ĐT, định hướng lại các thị trường
tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... Tỉnh đảm bảo ĐT công
trình giao thông, điện nước đến chân hàng rào dự án phù hợp với quy hoạch
được duyệt, quy mô ĐT đáp ứng yêu cầu tối thiểu phục vụ dự án của nhà ĐT
được cấp có thẩm quyền phê duyệt...
88
Đặc biệt, ngày 17/10/2011, tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Cục
ĐTNN (Bộ Kế hoạch và ĐT) đã phối hợp với 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
mở Hội nghị xúc tiến ĐT vào 342 dự án thuộc các lĩnh vực thuộc các tỉnh
Bắc Trung Bộ. Đây là hội nghị xúc tiến ĐT lớn nhất và lần đầu tiên được
thực hiện trên địa bàn các tỉnh Bắc Trung Bộ, với mục đích tạo cơ hội để
các địa phương giới thiệu, quảng bá hình ảnh, tiềm năng và môi trường ĐT
nhằm tăng cường thu hút các nguồn lực ĐT trong và ngoài nước. Đây cũng
là dịp để các nhà ĐT gặp gỡ, trao đổi, tìm kiếm cơ hội hợp tác, ĐT tại các
tỉnh trong vùng. 3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO VÙNG BẮC TRUNG BỘ
3.3.1. Những kết quả đạt được trong thu hút FDI vào vùng Bắc
Trung Bộ
3.3.1.1. Số lượng các dự án FDI tăng lên, cơ cấu ngành được cải
thiện, xuất hiện nhiều dự án lớn - Số dự án và tổng vốn FDI tăng nhanh
Bảng 3.1: Số dự án và vốn FDI đăng ký còn hiệu lực giai đoạn
2012-2014 (theo lũy kế tính đến ngày 31/12) Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Số dự án
Số vốn đăng ký
(triệu USD)
Số dự án
Số vốn đăng ký
(triệu USD)
Số dự án
Số vốn đăng ký
(triệu USD) Toàn vùng 211 19.191,80 235 24.692,10 272 24.994,66
Chia ra Thanh Hóa 44 7.150,20 47 10.084,90 56 10.276,04
Nghệ An 33 1.543,70 38 1.569,50 41 1.580,50
Hà Tĩnh 46 8.447,10 52 10.661,70 59 10.653,86
Quảng Bình 5 34,80 6 34,80 13 94,13
Quảng Trị 16 67,70 18 80,20 20 84,69
Thừa Thiên-Huế 67 1.948,30 74 2.261,00 83 2.305,44
Nguồn: [96].
89
Tính đến hết tháng 12/2014, toàn vùng Bắc Trung Bộ đã thu hút được
272 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng số vốn ĐT đăng ký đạt gần 25 tỷ USD.
Trong các dự án còn hiệu lực, số vốn đã giải ngân và đang hoạt động đạt gần
7,6 tỷ USD, chiếm 30,4% vốn đăng ký. Bảng 3.2 và bảng 3.3 cho thấy, số DN
FDI hoạt động tại Bắc Trung Bộ sau 7 năm đã tăng lên gấp gần 7 lần, số vốn
đã đi vào hoạt động tăng gấp 23,6 lần [96].
Nguồn vốn FDI đã góp phần khắc phục tình trạng thiếu vốn ĐT, nâng
cao năng lực hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế của các tỉnh trong vùng.
Bảng 3.2: Số doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại thời điểm 31/12 hàng
năm ở vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2007-2014 Đơn vị tính: DN
Số doanh nghiệp Địa phương 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Toàn vùng 39 55 65 82 127 211 241 272
Chia ra FDI tại các tỉnh trong vùng: Thanh Hóa 10 13 15 18 30 44 48 56
Nghệ An 7 10 13 18 27 33 38 41
Hà Tĩnh 3 4 7 18 39 46 57 59
Quảng Bình 1 1 1 2 2 5 6 13
Quảng Trị 3 6 7 5 5 16 18 20
Thừa Thiên-Huế 15 21 22 21 24 67 74 83
Nguồn: [95, tr.185; 96].
Tỷ trọng thu hút FDI của vùng Bắc Trung Bộ từ chỗ chỉ chiếm 0,8%
vào năm 2007 so với lượng thu hút FDI chung của cả nước cùng thời kỳ, đã
được tăng lên đạt mức 1,6% vào năm 2014; tỷ trọng vốn tăng từ 0,7% lên
10,4%, với nhiều dự án lớn [93; 94].
Bảng 3.3 phản ánh kết quả thực tế thu hút FDI giai đoạn 2007-2014 của
vùng và từng tỉnh. Tỉnh Hà Tĩnh thu hút lượng vốn FDI từ chỗ mới đạt 0,5 triệu
90
USD vào năm 2007, đã tăng lên 2.932,52 triệu USD vào năm 2014, mức tăng
gấp hơn 5,8 nghìn lần sau 7 năm; tỉnh Thanh Hóa tăng từ 301,1 triệu USD vào
năm 2007, sau 7 năm đã đạt mức 3.624,81 triệu USD, tức là tăng lên gấp 12 lần.
Bảng 3.2 và bảng 3.3 còn cho thấy Thừa Thiên - Huế, Hà Tĩnh và Thanh
Hóa là ba tỉnh có nhiều DN FDI nhất, mức tăng về số DN của ba tỉnh này trong 7
năm qua lần lượt là: 16,6 lần; 21,3 lần và 5,7 lần; mức tăng về vốn lần lượt là: 45,7
lần; 5.996 lần và 12,0 lần. Hình 3.2 mô tả kết quả gia tăng của lượng vốn FDI ĐT
vào vùng Bắc Trung Bộ theo thời gian như đã đánh giá ở trên.
Hình 3.1: Tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại thời điểm 31/12 hàng năm ở vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2007-2014 (%)
Nguồn: [95, tr.185; 96].
91
Hình 3.1 thể hiện mức tăng trưởng DN FDI giai đoạn 2007-2014 chung
của toàn vùng Bắc Trung Bộ (H.1) và mức tăng riêng của từng tỉnh trong
vùng (H.2), trong đó Hà Tĩnh, Thanh Hóa và Thừa Thiên - Huế là ba tỉnh có
mức tăng trưởng tương đối ổn định.
Bảng 3.3: Lượng vốn FDI lũy kế đến ngày 31/12 ở vùng Bắc Trung Bộ
đang hoạt động giai đoạn 2007-2014
Đơn vị tính: triệu USD
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Toàn vùng 321,6 721,2 931,2 1.324,6 1.604,8 4.144,65 7.233,86 7.598,43
Chia ra FDI tại các tỉnh trong vùng Thanh Hóa 301,1 391,8 505,3 754,4 597,5 518,96 3443,16 3624,81 Nghệ An 5,3 84,9 88,3 108,2 522,7 249,27 272,4 316,9 Hà Tĩnh 0,5 7,3 21,2 90,0 84,9 2840,7 2890,3 2932,52
Quảng Bình 0,7 11,3 8,6 19,0 33,8 26,22 26,3 73,6 Quảng Trị 0.7 10,5 12,0 10,0 9,3 25,21 37,7 42,2
Thừa Thiên-Huế
13,3 215,4 295,8 343,0 356,6 484,29 564 608,4
Nguồn: [95, tr.165; 184; 96].
Hình 3.2: Mức tăng trưởng vốn FDI tại vùng Bắc Trung Bộ
giai đoạn 2007-2014 (%)
Nguồn: [95, tr.185; 96].
92
- Đối tác ĐT phong phú hơn
Hiện nay đã có 21 quốc gia và vùng lãnh thổ ĐT vào vùng Bắc Trung
Bộ. Dẫn đầu là Đài Loan với 41 dự án, tổng vốn đăng ký 10,5 tỷ USD, chiếm
46,5% tổng vốn ĐT đăng ký. Đứng thứ 2 là Nhật Bản với 9 dự án, tổng vốn
đăng ký gần 10 tỷ USD, chiếm 44,2% tổng vốn ĐT đăng ký. Singapore đứng
thứ ba với 5 dự án, tổng vốn đăng ký gần 1,2 tỷ USD, chiếm 5,3 % tổng vốn
ĐT đăng ký, Trung Quốc (6 dự án với 274,3 triệu USD), Hàn Quốc (8 dự án
với 153 triệu USD). Tiếp theo là BritishVirginIslands với 6 dự án, số vốn
đăng ký 318 triệu USD. Còn lại là các quốc gia và vùng lãnh thổ khác.
- Các lĩnh vực thu hút FDI được mở rộng
Hình 3.3: FDI vào vùng Bắc Trung Bộ phân theo lĩnh vực năm 2014
Nguồn: [96].
FDI đã ĐT vào 14 ngành lĩnh vực. Trong đó, lĩnh vực công nghiệp chế
biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà ĐTNN với
87 dự án ĐT đăng ký mới và 32 lượt dự án tăng vốn, với tổng số vốn cấp mới
và tăng thêm gần 4,2 tỷ USD, chiếm 54,7% tổng vốn ĐT đang hoạt động.
Lĩnh vực kinh doanh bán buôn, bán lẻ, sửa chữa đứng thứ hai với 49 dự án
đăng ký đã đưa vào hoạt động với tổng vốn ĐT 623,1 triệu USD, chiếm 8,2%
tổng vốn ĐT. Đứng thứ 3 là lĩnh vực bất động sản với 46 dự án ĐT, tổng vốn
ĐT đang hoạt động là 395,1 triệu USD (hình 3.3). Số dự án ĐT vào công
93
nghiệp tuy không nhiều nhưng lại có vốn ĐT lớn. Ví dụ, dự án Lọc hóa dầu
Nghi Sơn (Thanh Hóa) có đăng ký vốn ĐT 9 tỷ USD của nhà ĐT Nhật Bản;
dự án Khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương do Tập đoàn Formosa (Đài
Loan) ĐT với tổng mức ĐT giai đoạn 1 là 10 tỷ USD. Nhà máy Nhiệt điện
Vũng Áng 2 công suất 1.200 MW vốn ĐT 2,4 tỷ USD do Tập đoàn Mitsubisi
Nhật Bản làm cổ đông chính đang hoàn thiện thủ tục để khởi công…[38].
- Vốn FDI thực hiện đã tăng nhanh trong các năm gần đây
Giai đoạn năm 2007-2014 vốn FDI thực hiện đã đưa vào hoạt động đạt
7,6 tỷ USD, tương đương 161.436,2 tỷ VND chiếm 28,1% tổng vốn ĐT toàn
vùng (giai đoạn 1988-2000, vốn FDI thực hiện mới đạt 552,5 triệu USD,
tương đương 8.591,3 tỷ VND, chiếm 22,4% tổng vốn ĐT của vùng, giai đoạn
2001 - 2006 tăng lên 1.230,8 tỷ USD, tương đương 22.744,0 tỷ VND chiếm
25,4% tổng vốn ĐT toàn vùng).
- Hầu hết các địa phương đều có số dự án và vốn FDI tăng lên
Thừa Thiên - Huế, Hà Tĩnh và Thanh Hóa là 3 tỉnh có nhiều dự án FDI
hơn so với các tỉnh khác trong vùng Bắc Trung Bộ. Thứ nhất là tỉnh Thừa
Thiên - Huế. Tính đến hết tháng 12/2014, toàn tỉnh đã có 83 dự án FDI với
tổng vốn ĐT đăng ký hơn 2,3 tỷ USD, đứng thứ 24/63 tỉnh, thành phố trong
cả nước. Trong đó, tổng vốn ĐT đã thực hiện là 608,4 triệu USD, chiếm
27,1% tổng vốn ĐT đăng ký. Đã có 21 quốc gia và vùng lãnh thổ ĐT vào tỉnh
này, dẫn đầu là Singapore với 5 dự án, tổng vốn đăng ký 1,17 tỷ USD, chiếm
51% tổng vốn ĐT đăng ký. Đứng thứ 2 là British VirginIslands với 6 dự án,
số vốn đăng ký đạt 318 triệu USD chiếm 13,8% vốn đăng ký. Trung Quốc
đứng thứ 3 với 6 dự án với tổng vốn đăng ký 274,3 triệu USD chiếm 11,9% về
vốn đăng ký. Tiếp theo là Đan Mạch với 4 dự án, số vốn đăng ký 113 triệu USD.
Còn lại là các quốc gia và vùng lãnh thổ khác [76].
Vốn FDI trên địa bản tỉnh Thừa Thiên - Huế tập trung chủ yếu vào lĩnh
vực nghệ thuật vui chơi và giải trí với 2 dự án, tổng vốn đăng ký là 879,8
94
triệu USD, chiếm 2,4% về số dự án và 38,1% về vốn đăng ký. Lĩnh vực dịch
vụ lưu trú và ăn uống đứng thứ 2 với 10 dự án với tổng vốn đăng ký 563,7
triệu USD, chiếm 24,4% về vốn đăng ký. Tiếp đến là lĩnh vực công nghiệp
chế biến chế tạo với 34 dự án, tổng vốn đăng ký là 552,9 triệu USD, chiếm
24% tổng vốn ĐT đăng ký. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản có 4 dự án với
tổng số vốn là 156,8 triệu USD, còn lại thuộc các ngành lĩnh vực khác. Các
dự án FDI trên địa bàn Thừa Thiên - Huế được ĐT tập trung chủ yếu vào hình
thức 100% vốn nước ngoài với 56 dự án với tổng số vốn là 1,86 tỷ USD chiếm
68,2% số dự án và 81% tổng vốn ĐT. Hình thức liên doanh có 24 dự án, tổng
vốn ĐT đăng ký là 434,9 triệu USD, chiếm 18,8% tổng vốn ĐT đăng ký. Còn lại
là 2 dự án thuộc hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh [76].
Tỉnh đứng thứ hai trong vùng về thu hút được nhiều dự án FDI là Hà
Tĩnh. Toàn tỉnh hiện có 59 dự án FDI còn hiệu lực, tổng vốn ĐT đăng ký 16,5
tỷ USD, đứng thứ 6/63 tỉnh, thành phố trong cả nước với trên 220 DN được
cấp chứng nhận kinh doanh tính đến cuối năm 2014. Bình quân vốn ĐT của 1
dự án là 200,24 triệu USD, cao hơn bình quân chung của 1 dự án có vốn
ĐTNN vào Việt Nam. Tuy thu hút số dự án FDI thấp hơn so với tỉnh Thừa
Thiên - Huế (ở mức 64 DN), nhưng số vốn thực hiện của tỉnh Hà Tĩnh lại cao
gấp 4,8 lần ở mức hơn 2,9 tỷ USD. Hà tĩnh là tỉnh dẫn đầu vùng Bắc Trung Bộ
trong thu hút vốn FDI. Riêng năm 2014, đã thu hút được 42,2 triệu USD với 7
dự án FDI từ 12 nước và vùng lãnh thổ ĐT [30]. Vốn FDI vào Hà Tĩnh tập trung
chủ yếu các lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo: 17 dự án, tổng vốn đăng ký
10,123 triệu USD, chiếm 32,07% về số dự án và 95,4% về vốn đăng ký. Một số
ít dự án còn lại thuộc các lĩnh vực xây dựng, dịch vụ lưu trú, ăn uống, kinh
doanh bất động sản, nông lâm nghiệp, kho bãi, bán buôn, bán lẻ, sửa chữa...
Có 3 dự án lớn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, gồm: Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh, tổng vốn ĐT đăng ký gần 10 tỷ USD do nhà ĐT Đài Loan ĐT với mục tiêu luyện kim, sản xuất, mua bán xuất NK
95
gang thép, kinh doanh cảng sản xuất sản phẩm từ xỉ lò, xi măng, sản phẩm thép; Công ty TNHH 2 thành viên Human City (khách sạn 5 sao và cao ốc văn phòng), tổng vốn ĐT 78,6 triệu USD nhà ĐT Hàn Quốc với mục tiêu kinh doanh khách sạn, chung cư, văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại, du lịch, nghỉ ngơi; và Công ty TNHH quốc tế Polaris Kty Vietnam, tổng vốn ĐT 70 triệu USD nhà ĐT Đài Loan ĐT với mục tiêu xây dựng nhà hàng khách sạn, nhà ở công nhân, khu vui chơi giải trí.
Thanh Hóa là tỉnh đứng thứ ba trong vùng. Tính đến hết tháng 12/2014, đã có 56 dự án FDI còn hiệu lực, tổng vốn ĐT đăng ký 16 tỷ USD, đứng thứ 8/63 tỉnh, thành phố trong cả nước (nếu tính cả dự án Nhiệt điện Nghi Sơn 2 với số vốn 2,3 tỷ USD - đã ký hợp đồng BOT khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư thì sẽ đứng thứ 7). Quy mô bình quân của một dự án FDI của Thanh Hóa đạt khoảng 205 triệu USD, cao hơn rất nhiều so với quy mô bình quân trên 1 dự án của cả nước (16 triệu USD/1 dự án). Tuy là tỉnh đứng thứ ba trong 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ về số dự án (57 dự án), nhưng quy mô thu hút vốn FDI lại đứng thứ nhất với hơn 3,6 tỷ USD, chiếm 47,4% tổng vốn FDI thực hiện trong vùng Bắc Trung Bộ [44]. Năm 2015, Thanh Hóa là tỉnh thu hút nhiều vốn ĐT từ Nhật Bản nhất với tổng vốn đăng ký quý 1/2015 là 9,68 tỷ USD, chiếm 26% tổng vốn ĐT của nước này vào Việt Nam trong cùng thời kỳ. Vốn FDI của Thanh Hóa tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 43 dự án, tổng vốn đăng ký là 10,05 tỷ USD, chiếm 86% về số dự án và 98,95% về vốn đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa; sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa và lĩnh vực hoạt động chuyên môn và khoa học công nghệ.
3.3.1.2. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bổ sung nguồn vốn, góp phần vào tăng trưởng kinh tế của vùng Bắc Trung Bộ
Do tác động của FDI mà tốc độ tăng trưởng kinh tế của các tỉnh trong
Vùng được nâng lên. Khu vực FDI đã tạo ra 48,2% GTSX công nghiệp của toàn
Vùng. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của các tỉnh cao hơn so với dự kiến.
96
Tỉnh Hà Tĩnh luôn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong vùng
mấy năm vừa qua; riêng năm 2014 đạt 25,9% [19]. Ngành công nghiệp tỉnh
Hà Tĩnh năm 2014 đạt giá trị sản lượng 9.004,64 tỷ đồng, tăng 22,97% so
cùng kỳ và đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua [96].
Giai đoạn 2011 - 2013 tỉnh Thanh Hóa đạt tốc độ tăng trưởng bình
quân 11,2%, năm 2014 đạt 11,7% [46], công nghiệp tăng trưởng 13,5%, đóng
góp vào 40,9% tổng giá trị sản lượng trong tỉnh [44].
Năm 2014, tốc độ tăng trưởng của tỉnh Thừa Thiên-Huế là 8,23%, tăng
trưởng công nghiệp là 9,7%, cao hơn nhiều so với mức tăng 7,2% của năm
2013, so với mức dự kiến kế hoạch (7%) và cũng cao hơn so với mức tăng dự
tính của toàn quốc (6,7%) [78].
Các tỉnh còn lại có tốc độ tăng trưởng năm 2014 chậm hơn là Nghệ An:
7,24%, tỉnh Quảng Bình: 7,4% và tỉnh Quảng Trị: 6,7%. Có thể thấy, tốc độ
tăng trưởng của ba tỉnh này chậm hơn các tỉnh khác trong vùng, nhưng cao
hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nước (5,8%).
3.3.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển giao công nghệ
và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng
- Tác động cải thiện chất lượng công nghệ các ngành sản xuất trong vùng
Đến nay, 62,1% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung của vùng. Tại vùng Bắc
Trung Bộ, đã có một số dự án FDI rất lớn đăng ký hoạt động như dự án Lọc
hóa dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa); Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 2 sử dụng
công nghệ Nhật Bản; dự án Khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương (Hà
Tĩnh) sử dụng công nghệ mới của Đài Loan; Nhà máy chế biến bột giấy, Nhà
máy khai thác chế biến đá granit tự nhiên, Nhà máy xi măng Đô Lương tại
Nghệ An. Thông qua các dự án ĐT, khu vực FDI đã góp phần thúc đẩy
chuyển giao công nghệ tiên tiến vào các tỉnh trong vùng, nâng cao năng lực
công nghệ trong một số lĩnh vực. Xét về cấp độ chuyển giao công nghệ, công
97
nghiệp chế biến, chế tạo, thu hút FDI vào Vùng thời gian qua đã đạt đạt hiệu
quả khá cao.
Khu vực FDI có tác động lan tỏa gián tiếp tới các DN sản xuất và DN
dịch vụ cùng ngành và khác ngành trong vùng. Thông qua mối quan hệ với
DN FDI, các DN trong vùng đã tích cực ứng dụng công nghệ sản xuất tương
tự để sản xuất sản phẩm có thể cung ứng cho các DN FDI. Các DN FDI cũng
tạo tác động tạo ra các ngành sản xuất, dịch vụ khác trong vùng để hỗ trợ cho
hoạt động của họ.
- Tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự gia tăng vốn FDI tạo cú hích cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng
Bắc Trung Bộ theo hướng tích cực. FDI đã hướng vào phát triển các nhóm
ngành chủ lực tạo sự phát triển đột phá (như công nghiệp luyện kim, sản xuất
điện, cơ khí, chế tạo, đóng tàu, điện tử), nhóm ngành nền tảng khai thác thế
mạnh của tỉnh (công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, khai thác khoáng
sản, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp sản xuất rượu, bia, nước giải khát).
Tỉnh Thanh Hoá đang trên đà phát triển thành một trung tâm của ngành
lọc hoá dầu, với dự án khu liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn có vốn ĐT trên 6 tỷ
USD và bên cạnh có các dự án: Nhà máy Xi măng Nghi Sơn, Nhà máy Nhiệt
điện, Nhà máy luyện cán thép Nghi Sơn vv… Tỉnh Hà Tĩnh đang nổi lên là
một trung tâm phát triển công nghiệp thép, tập trung chủ yếu tại Khu kinh tế
Vũng Áng với dự án Formosa (Đài Loan) và các dự án trong lĩnh vực đa
ngành từ luyện thép, cảng nước sâu, hóa dầu, nhiệt điện... Tỉnh Thừa Thiên
Huế có nhiều DN FDI hoạt động phù hợp với ưu thế dịch vụ và du lịch của
tỉnh. Các dự án FDI hoạt động khá hiệu quả, với tốc độ tăng trưởng cao, là lực
mạnh thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh sang hướng sản xuất hàng tiêu
dùng, dịch vụ du lịch. Điển hình là Công ty TNHH Bia Huế, Công ty TNHH
Thực phẩm Huế (Rượu Sake), Công ty TNHH Luks Xi măng, Công ty HBI,
Công ty cổ phần Scavi Huế, Công ty cổ phần Liên doanh Dược phẩm
98
Medipharco Tenamyd BR s.r.l, Công ty cổ phần Espace Business Huế, Công
ty TNHH Laguna Huế, Công ty Khách sạn Kinh Thành, Công ty cổ phần
Chăn nuôi C.P Việt Nam, Công ty Liên doanh trồng và chế biến nguyên liệu
giấy, Công ty Chaiyoo…
Tỉnh Nghệ An có một số DN FDI lớn đang phát huy vai trò đầu tàu
trong phát triển công nghệ, tăng sức cạnh tranh như Công ty TNHH sắt xốp
Kobelco Việt Nam, Công ty ĐT kinh doanh hạ tầng KCN Đông Hồi và Công
ty liên doanh mía đường Nghệ An TATE & LYLE.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp và xây dựng của khu vực FDI giai
đoạn 2007-2014 cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của ngành. Khu vực FDI
đã tạo ra khoảng 48,0% GTSX công nghiệp trong vùng, góp phần hình thành
một số ngành công nghiệp chủ lực của vùng Bắc Trung Bộ như Liên hợp Lọc
hóa dầu Nghi Sơn - dự án lọc hóa dầu tầm cỡ Đông Nam Á, Nhiệt điện Nghi
Sơn, xi măng Công Thanh, Khu liên hiệp thép - cảng Sơn Dương là dự án
FDI lớn nhất Việt Nam hiện nay với công suất đã đạt 22,5 triệu tấn năm 2014,
nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 2 công suất 1.200 MW, Nhà máy nhiệt điện 3
do Tập đoàn Samsung Hàn Quốc ĐT đang triển khai và cụm 10 tổ máy nhiệt
điện của Tập đoàn Formosa có công suất 2.200 MW…[30].
Một số khu kinh tế trong vùng được hình thành, đi vào hoạt động như
Khu kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh) là 1 trong 5 khu kinh tế ven biển trọng điểm
quốc gia, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của vùng và từng bước trở
thành trung tâm công nghiệp lớn nhất khu vực, tầm cỡ quốc gia và đang trở
thành một trung tâm công nghiệp nặng lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Vùng
Bắc Trung Bộ đã hình thành những mũi nhọn công nghiệp mang đặc trưng
riêng, như Hà Tĩnh với công nghiệp thép; Thanh Hóa với công nghiệp hóa
dầu, điện, xi - măng; Thừa Thiên - Huế nổi tiếng với phát triển du lịch...
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành nhân tố lôi kéo ĐT, thúc đẩy
phát triển các KCN và các ngành công nghiệp trong vùng. Tại Hà Tĩnh, sự
99
tăng trưởng của FDI đã thúc đẩy phát triển KCN Vũng Áng. Hiện toàn tỉnh có
16 khu và cụm công nghiệp. Sau khu kinh tế Vũng Áng được coi là lớn nhất
tỉnh và vùng Bắc Trung Bộ là KCN Gia Lách quy mô 350 ha, KCN Hạ Vàng
300 ha, khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo... Tính đến đầu năm 2015, tỉnh Hà
Tĩnh đã có trên 700 DN sản xuất công nghiệp với hàng chục nghìn tỷ đồng
vốn ĐT; trong đó có trên 200 DN tư nhân với tổng vốn đăng ký 247,3 tỷ
đồng, 253 công ty trách nhiệm hữu hạn với số vốn 452,57 tỷ đồng và 160
công ty cổ phần, vốn điều lệ gần 10.500 tỷ đồng cùng 38 HTX tiểu thủ công
nghiệp và hơn 16.000 hộ SXKD cá thể. Tổng GTSX công nghiệp của tỉnh
năm 2014 đạt 2.300 tỷ đồn. Hà Tĩnh được xếp vào một trong những tỉnh thu
hút nguồn vốn FDI vào lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ lớn nhất cả nước.
Bắng cú hích của FDI, tỉnh Thanh Hóa đã hình thành và đưa vào hoạt
động 8 KCN, trong đó có 3 KCN lớn, rộng 100 ha là Nghi Sơn, Như Thanh
và KCN Tây Bắc Gia - Thanh hóa, thu hút hàng trăm DN vào hoạt động.
Trong 3 năm 2011-2013 các DN trong tỉnh đã huy động trên 122 nghìn tỷ
đồng (khoảng 6,1 tỷ USD) vào ĐT phát triển, gấp 1,9 lần giai đoạn 2008-
2010. Năm 2014, toàn tỉnh có 6.733 DN hoạt động với tổng doanh thu của các
DN đạt khoảng 76.650 tỷ đồng, tăng 27,8% so với năm 2013, trong dó có 98
DN tham gia XK đạt giá trị 910 triệu USD, tăng 24,5% với năm 2013 [44].
Tỉnh Thừa Thiên-Huế có 3 KCN, trong đó lớn nhất là KCN Phú Bài
quy mô 891 ha, hiện đã thu hút 41 dự án ĐT. Đến hết tháng 6/2012, các KCN
tỉnh Thừa Thiên-Huế đã có 97 dự án ĐT, trong đó có 74 dự án trong nước và
23 dự án ĐTNN với tổng vốn ĐT hơn 22.000 tỷ đồng [114].
Một số sân bay, cảng biển được xây dựng và đi vào hoạt động như cảng
biển nước sâu Nghi Sơn, cảng nước sâu Sơn Dương, sân bay Thọ Xuân.
Bằng việc thu hút FDI vào phát triển công nghiệp chế biến nông sản,
thực phẩm, công nghiệp sản xuất rượu, bia, nước giải khát…, FDI đã góp
phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa sản
100
phẩm, nâng cao giá trị hàng nông sản XK và tiếp thu một số công nghệ tiên
tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế,
tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là các dự án ĐT vào
phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán canh tác và điều
kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Khu vực FDI đã tạo nên bộ mặt mới trong lĩnh vực dịch vụ chất lượng
cao như khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm
toán, tư vấn luật, vận tải biển, siêu thị... Các dịch vụ này cũng góp phần tạo ra
phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, kích thích hoạt động
thương mại nội địa và góp phần tăng kim ngạch XK hàng hóa.
3.3.1.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo việc làm, thu nhập, tăng thu
cho ngân sách nhà nước
- FDI tạo nhiều việc làm, góp phần đào tạo nghề cho dân cư trong vùng
Đến nay, tại vùng Bắc Trung Bộ, khu vực FDI tạo ra trên 300 nghìn lao
động trực tiếp và khoảng 450-500 nghìn lao động gián tiếp, có tác động mạnh
đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH. Riêng tỉnh Thừa
Thiên Huế tính đến tháng 9/2014, khu vực FDI đã giải quyết việc làm trực
tiếp cho 14.700 lao động là người địa phương.
Tại tỉnh Hà Tĩnh, năm 2013 khu vực FDI đã tạo việc làm trực tiếp cho hơn
16.000 lao động. Năm 2014, các DN FDI đã cùng với các DN và cơ sở kinh tế nội
địa giải quyết việc làm cho gần 70.000 lao động. Theo báo cáo của Khu kinh tế
tỉnh Hà Tĩnh, tính đến 9/4/2015, tổng số lao động tại Khu kinh tế Vũng Áng là
33.738 người, trong đó, lao động Việt Nam 27.786 người. Lao động thuộc Dự án
Formosa có 26.845 người, trong đó lao động Việt Nam 21.013 người [94].
Tại tỉnh Thanh Hóa, tổng số công nhân tính đến tháng 12/2014 đang làm
việc ở 14 DN FDI là 62.737 người, tăng 1.619 công nhân so với kỳ trước.
Việc tuyển mới lao động ở các DN FDI thực hiện đúng quy định. Các
DN FDI chi trả đầy đủ tiền công, các khoản hỗ trợ và phúc lợi xã hội cho
101
công nhân với mức bình quân 3-5 triệu đồng/người/tháng. Các DN FDI cũng
nghiêm chỉnh thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn
và các chế độ phúc lợi khác cho người lao động. Chẳng hạn, ở tỉnh Thanh Hóa
đã có 80,5% tổng số người lao động (50.515 người) đang làm việc tại các DN
FDI được tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp
[100].
Các DN FDI tích cực đào tạo nhân lực quản lý, vận hành. Nhờ đó đã
góp phần hình thành một đội ngũ cán bộ, công nhân có trình độ kỹ thuật và
tay nghề cao. Đối với một số khâu chủ yếu của dây chuyền công nghệ đặc
thù, lao động Việt Nam sau khi được tuyển dụng, đều được đưa đi bồi dưỡng
kỹ thuật và tay nghề tại các công ty mẹ ở nước ngoài. DN FDI đang được xem
là tiên phong trong việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình
độ của công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý, do đó đã tạo ra một bộ phận
người lao động có năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay
thế chuyên gia nước ngoài. Đến nay, tại khu vực FDI hầu hết đều sử dụng
công nghệ tiên tiến và đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Ngoài ra, FDI còn
đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động thông qua hiệu
ứng lan tỏa khuyến khích người lao động trong vùng tham gia đào tạo tay nghề,
cập nhật kỹ năng lao động cho DN cung ứng và mua hàng của DN FDI.
- Đóng góp vào nguồn thu ngân sách
Đóng góp của khu vực FDI vùng Bắc Trung Bộ vào NSNN ngày càng
tăng. Bảng 3.4 cho thấy khoản thu thuế tại các DN FDI vùng Bắc Trung Bộ
giai đoạn 2007-2014: đạt mức thu từ 780,6 tỷ đồng năm 2007 lên 2.815,9 tỷ
đồng năm 2014, gấp hơn 3,6 lần.
Năm 2012, nộp NSNN của khu vực FDI của vùng Bắc Trung Bộ là
1.367,4 tỷ VND, chiếm 7,8% tổng thu NSNN của vùng. Năm 2013, riêng tỉnh
Thanh Hóa, thu NSNN của khu vực DN FDI là FDI 680 tỷ đồng, chiếm 8,9%
tổng thu NSNN toàn tỉnh, tăng 22,1% so với cùng kỳ. Tính đến tháng 9/2014,
102
nộp NSNN các DN FDI ở tỉnh Thừa Thiên Huế 1.350 tỷ đồng (khoảng 68
triệu USD), tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó Công ty TTHH Bia
Huế (thuộc Tập đoàn Carlsberg - Đan Mạch) tăng 15%. Tỉnh Hà Tĩnh, năm
2014 thu thuế từ DN FDI đạt 428,5 tỷ đồng, gấp 2,3 lần số thu năm 2013,
bằng 176% kế hoạch của tỉnh và 254% kế hoạch Trung ương giao [19].
Bảng 3.4: Thuế đã nộp trong năm của các doanh nghiệp FDI
vùng Bắc Trung Bộ (2007-2014)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tỉnh 2007 2008 2009 2010 2011 2012* 2013* 2014* Toàn vùng 780,6 1.044,1 1.139,7 1.274,5 1.188,7 1.367,4 2.033,4 2.815,9
Thanh Hóa 152,8 271,6 243,7 234,1 235,6 280,5 680,5 768,9
Nghệ An 37,1 36,4 45,8 63,1 98,2 104,8 223,1 241,2
Hà Tĩnh 0,2 1,8 -2,1 2,3 56,5 73,5 186,3 428,5
Quảng Bình 3,1 6,6 3,3 0,16 0,2 0,4 1,1 1,2
Quảng Trị 0,14 0,2 0,5 0,8 12,4 20,1 24,2 26,1
Thừa Thiên Huế 587,0 727,5 848,5 974,1 785,9 888,1 918,2 1.350,0
Nguồn: [95, tr.248, 246-247; 96]. (*) Số liệu các năm 2012-2014 là tổng hợp của tác giả qua các con số trên thông tin.
3.3.1.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần quan trọng cung cấp
chủng loại hàng hóa phong phú cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu Các DN FDI đã tạo ra nhiều sản phẩm mới, chủ lực, tạo thương hiệu
cho các tỉnh Bắc Trung Bộ, góp phần quan trọng vào thay thế sản phẩm trước
đây phải nhập từ nước ngoài. Các sản phẩm của công nghiệp chế biến thực
phẩm, xi măng, chế biến nông - lâm - thủy sản... và nhiều sản phẩm như bia
Huda, xi măng Luks, rượu Sake, hàng may mặc HBI, Scavi, tôm của Tập
đoàn C.P Thái Lan... đã có uy tín, thương hiệu trên thị trường. Một số sản
phẩm được tạo ra từ DN FDI trong vùng đã góp phần tạo hiệu ứng lan toả
cao, nhất là việc tập trung ĐT khai thác tiềm năng du lịch Huế, một số dự
án du lịch nổi bật thu hút nhiều khách như Laguna Lăng Cô, Khách sạn
103
Kinh Thành... Các dự án này đã góp phần làm tăng năng lực sản xuất, thúc
đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý ở nhiều ngành và thay
thế các sản phẩm NK. Việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm
chất lượng cao do DN trong nước sản xuất đã thay cho phải NK sản phẩm
trước đây. Sản phẩm của DN FDI đã góp phần ổn định thị trường trong
nước, hạn chế nhập siêu.
Sản phẩm của DN FDI còn góp phần quan trọng vào thúc đẩy XK.
Trước năm 2007, khu vực FDI chỉ đạt 44,2% tổng KNXK của toàn vùng Bắc
Trung Bộ. Từ khi Việt Nam là thành viên của WTO (năm 2007) và nhất là khi
trong vùng tiến hành đẩy mạnh thu hút FDI (từ năm 2011 đến nay), khu vực
FDI dần dần trở thành nhân tố chính thúc đẩy XK của vùng: chiếm khoảng
66% tổng KNXK của vùng năm 2014. Bên cạnh đó, FDI góp phần làm thay
đổi cơ cấu mặt hàng XK theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng,
mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo. Thông qua hoạt
động của FDI, nhiều sản phẩm XK của vùng Bắc Trung Bộ có thể cạnh tranh
và có chỗ đứng trên các thị trường thế giới, kể cả thị trường "khó tính" như
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.
3.3.1.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần nâng cao năng lực
quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, tạo thêm áp lực cải thiện môi
trường kinh doanh Hoạt động của DN FDI trên địa bàn vùng Bắc Trung Bộ đã cung cấp
cho DN, người dân và chính quyền trong vùng nhiều bài học, kinh nghiệm bổ
ích về quản lý kinh tế và DN, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc đẩy quá
trình hoàn thiện luật pháp, chính sách theo hướng bình đẳng, công khai, minh
bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý phù
hợp với xu thế hội nhập.
Bằng kinh nghiệm quản lý thu hút FDI thời kỳ trước, Trung ương đã
phân cấp rộng hơn cho địa phương quản lý FDI. Mức độ phân cấp rộng hơn
104
cho địa phương trong quản lý FDI đã góp phần giảm thiểu tính quan liêu,
chậm trễ trong các quyết định quan quản lý liên quan đến dự án FDI vào
Vùng, nhờ đó phát huy tính năng động, tự chủ của các chính quyền địa
phương, phát huy được hiệu quả của các cơ quan và các cấp quản lý có liên
quan. Trên cơ sở phân cấp quản lý FDI, trực tiếp là UBND các tỉnh trong
Vùng, đã đẩy mạnh các hoạt động cải cách thủ tục quản lý trong phạm vi
thẩm quyền. Trong quá trình phân cấp này, vai trò của các ban quản lý được
đề cao và mở rộng rất hiệu quả. Nhờ đó, việc thu hút FDI vào các tỉnh trong
vùng Bắc Trung Bộ được đẩy mạnh hơn, nhanh hơn.
Kinh nghiệm quản lý thu hút FDI đã góp phần hình thành tư duy kinh
tế vùng lãnh thổ như phát triển kinh tế - xã hội vùng và thu hút FDI theo vùng
dựa trên kết hợp chặt chẽ tính đặc thù về chuyên môn hóa sản xuất với sự phát
triển tổng hợp.
Ngoài ra, những kết quả của thu hút FDI còn góp phần thúc đẩy hợp tác
ĐT với các nước, thúc đẩy hội nhập của vùng và quốc gia với các nền kinh tế
trên thế giới, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tính đến hết tháng
12/2014, đã có 26 tập đoàn của 21 quốc gia và vùng lãnh thổ ĐT vào vùng
Bắc Trung Bộ trong đó có 11 tập đoàn đứng trong danh sách "Global 500" do
Tạp chí Fortune bình chọn.
Hoạt động thu hút FDI còn góp phần để vùng Bắc Trung Bộ cùng cả
nước phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận
lợi để nước ta gia nhập các tổ chức kinh tế, thương mại và các Hiệp định đối
tác kinh tế với các nước. Thông qua thu hút FDI, hoạt động kinh tế đối ngoại,
xúc tiến ĐT được chú trọng, quan hệ hợp tác với các đại sứ quán, các tổ chức
tài chính quốc tế được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu.
Tóm lại, bằng nhiều chính sách, biện pháp, hoạt động thu hút FDI vào
vùng Bắc Trung Bộ thời gian qua đã góp phần quan trọng vào các yếu tố tạo
yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như bổ sung nguồn vốn ĐT, chuyển giao
105
công nghệ, đẩy mạnh XK, tạo việc làm và phát triển nhân lực, góp phần thúc
đẩy các tỉnh trong vùng hội nhập sâu, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
3.3.2. Hạn chế của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng
Bắc Trung Bộ thời gian qua
3.3.2.1. Lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu hút chưa xứng với
tiềm năng của vùng Xét về số dự án, đến nay (31/12/2014) vùng Bắc Trung Bộ mới thu hút
được 272 dự án FDI với số vốn đăng ký còn hiệu lực 14.340,8 triệu USD,
bằng 1,5% số dự án và 5,7% số vốn đăng ký trong tổng dự án và vốn đăng ký
còn hiệu lực của cả nước. Trong khi đó, vùng Nam Trung Bộ thu hút 576 dự
án với số vốn đăng ký còn hiệu lực là 21.643,32 triệu USD, tức là gấp 2,8 lần
về số dự án và 1,5 lần về số vốn.
Về đối tác ĐT, đến nay vùng Bắc Trung Bộ đã có 21 nước, vùng lãnh
thổ trên thế giới đến ĐT. Tuy nhiên, phần lớn số vốn và dự án của vùng lại
đến từ 8 quốc gia và vùng lãnh thổ cùng khu vực, trong đó nhiều nhất là Đài
Loan, tiếp đến là Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc và Hàn Quốc. Trong khi
đó, vùng Nam Trung Bộ thu hút được 41 nước, Đồng Bằng sông Hồng thu
hút được 76 nước, vùng Đông Nam Bộ thu hút được 86 nước, có cả các đối
tác đến từ các nước châu Âu, EU, Mỹ và Canada…
Đa phần số dự án FDI ĐT vào vùng Bắc Trung Bộ có vốn đăng ký bình
quân chỉ là 25-50 triệu USD/dự án tùy mỗi tỉnh. Ngoại trừ 2 dự án có quy mô
lớn là dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn của nhà ĐT Nhật Bản có số vốn 9 tỷ USD
và dự án Khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương của nhà ĐT Đài Loan
có số vốn 10 tỷ USD, thì 270 dự án còn lại trong vùng Bắc Trung Bộ có số
vốn bình quân chỉ ở mức 22,2 triệu USD/ dự án, tuy có cao hơn mức chung
của cả nước (14,2 triệu USD), nhưng vẫn thấp hơn so với mức bình quân FDI
của vùng Nam Trung Bộ (28,4 triệu USD). Riêng tỉnh Quảng Trị, vốn FDI
bình quân chỉ là 4,2 triệu USD/ dự án, tức là ở mức rất thấp. Tỉnh Hà Tĩnh có
106
mức bình quân vốn ĐT của 1 dự án là 200,24 triệu USD, cao hơn bình quân
chung của 1 dự án có vốn FDI vào các tỉnh khác trong cùng vùng và cao hơn
mức bình quân chung của cả nước, là do Hà Tĩnh có 1 dự án Formosa với
tổng vốn ĐT đăng ký là 10 tỷ USD.
3.3.2.2. Tiến độ giải ngân vốn các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
khá chậm
Cho đến cuối năm 2014, số vốn FDI giải ngân đi vào hoạt động ở Vùng
Bắc Trung Bộ mới chỉ đạt 30,4% vốn đăng ký còn hiệu lực, tương đương mức
trung bình của cả vùng vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
(30,1%), thấp hơn mức trung bình của cả nước là 33,5%.
Những năm gần đây, trong Vùng còn xuất hiện tình trạng nhà ĐTNN trì
hoãn thực hiện dự án và muốn rút vốn ĐT. Có dự án FDI bị bỏ dở, bị trì hoãn
do nhà ĐTNN gặp khó khăn về vốn ĐT hoặc không thể thu xếp được với các
đối tác liên doanh của họ.
Điều thấy rất rõ ý là số dự án FDI ĐT vào nông nghiệp còn rất ít, toàn
Vùng Bắc Trung Bộ mới chỉ có 13 dự án với số vốn ĐT đăng ký là 9,3 triệu
USD, chỉ bằng 0,04% tổng vốn FDI ĐT đăng ký vào Vùng năm 2014.
3.3.2.3. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa đạt được một số
mục tiêu kỳ vọng Trung ương và các tỉnh trong vùng kỳ vọng rằng, với những ưu đãi lớn
như vậy, sẽ thu hút được các dự án công nghệ cao, công nghệ nguồn, công
nghiệp hỗ trợ, ĐT phát triển hạ tầng và chuyển giao công nghệ từ DN FDI
cho các DN trong nước theo chuỗi giá trị. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chất
lượng của nhiều dự án FDI chưa cao, giá trị gia tăng để lại cho Vùng thấp,
chủ yếu là dự án có quy mô vừa và nhỏ, chưa thu hút được các tập đoàn
xuyên quốc gia có tiềm lực công nghệ cao. Cá biệt có DN FDI còn du nhập
vào Vùng công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường. Tỷ trọng dự
án FDI triển khai sản xuất theo phương thức gia công, lắp ráp, nhất là trong
107
các ngành ô tô, xe máy, điện - điện tử, may mặc, da giầy, ... còn cao. Các nhà
ĐTNN vẫn còn xu hướng tận dụng ưu thế lao động phổ thông giá rẻ. Tác
động lan tỏa của DN FDI đối với sự phát triển DN ở vùng Bắc Trung Bộ, nhất
là về chuyển giao công nghệ và tạo mạng lưới liên kết, còn khá hạn chế so với
nhiều vùng khác.
Một số dự án được cấp phép nhưng tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường, tiêu tốn nhiều năng lượng, tài nguyên. Một vài quyết định cho phép
ĐT chưa chú ý đầy đủ tới yêu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng. Một số DN
FDI không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các cam kết về xử lý chất
thải công nghiệp…
Tỷ lệ việc làm mới do khu vực DN FDI tạo ra không tương xứng với sự
gia tăng của nguồn vốn FDI cũng như diện tích đất bị thu hồi. Có những công
việc phổ thông mà người Việt Nam có thể làm được nhưng chủ ĐT lại thuê
lao động nước ngoài. Các DN FDI mới tạo việc làm cho 3,4% lao động có
việc làm năm 2014. Thu nhập bình quân theo tháng của người lao động ở khu
vực DN FDI chỉ cao hơn khu vực DN tư nhân trong nước chút ít, thấp hơn
khu vực DN nhà nước.
Một số DN FDI chưa tôn trọng lợi ích của người lao động, chưa tạo
điều kiện cho tổ chức công đoàn hoạt động theo đúng chức năng. Việc xây
dựng nội quy, quy chế, thang bảng lương, chế độ bảo hiểm ở một vài DN
còn chưa đúng chính sách của Nhà nước (Công ty Thủy sản Vina (huyện
Yên Định, Thanh Hóa) chưa tạo điều kiện để người lao động tham gia các
buổi tuyên truyền pháp luật, nên DN này mới đi vào hoạt động hơn 2
tháng, nhưng đã xảy ra hai cuộc ngừng việc. Công ty Ivory (ở huyện Hậu
Lộc, Thanh Hóa), Công ty Tae il Beauty (thị xã Bỉm Sơn) chưa trích nộp
kinh phí công đoàn 2%. Ở Công ty Ivory bình quân mỗi năm xảy ra một vụ
ngừng việc. Công ty Tae il Beauty không nộp bảo hiểm xã hội cho người
lao động [101]. Một số vụ tai nạn lao động xẩy ra trong công trường
108
Forrmosa (Hà Tĩnh) đầu năm 2015 khiến nhiều người chết và hàng chục
người khác bị thương).
3.3.2.4. Đã xuất hiện dấu hiệu chuyển giá, trốn thuế Một số DN FDI có biểu hiện chuyển giá tinh vi như nâng khống giá trị
góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản quyền…), giá trị mua bán nguyên vật
liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành phẩm, dịch vụ, phí quản lý, tiền bản
quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương, đào tạo, quảng cáo, nhà thầu,
chuyển nhượng vốn… gây nên tình trạng thất thu NSNN. Hơn nữa bên nước
ngoài còn cố tình báo lỗ để loại bên Việt Nam ra khỏi liên doanh do không có
nguồn tài chính bù lỗ. Hiện tượng chuyển giá diễn ra chủ yếu ở 3 lĩnh vực:
ĐT để sản xuất sản phẩm tiêu thụ trong nước, ĐT vào sản xuất trong nước để
XK, ĐT vào để gia công sản phẩm XK.
Trên địa bàn vùng Bắc Trung Bộ đã phát sinh những dự án của các nhà
ĐT không có năng lực nên phải chấm dứt nửa chừng,. Đồng thời cũng phát
sinh những khiếu kiện giữa các nhà thầu xây dựng dự án với nhà ĐT về thực
hiện các hợp đồng kinh tế; khiếu kiện của nhà ĐT với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về quyết định thu hồi Giấy chứng nhận ĐT... Riêng năm 2014,
UBND tỉnh Hà Tĩnh đã thu hồi 2 dự án ĐTNN gồm Dự án 24h - Non - Stop
City (xây dựng siêu thị, văn phòng) tại xã Kỳ Trinh, huyện Kỳ Anh của nhà
ĐT Công ty cổ phần đa quốc gia (Y.E.S); dự án Khu du lịch Bắc Thiên Cầm,
đã hơn 5 năm, nhà ĐT không triển khai được các hạng mục dự án theo quy
định của Giấy chứng nhận ĐT và cam kết của nhà ĐT…
3.3.2.5. Chính quyền địa phương chưa kiểm soát tốt lao động người
nước ngoài vào làm việc trong các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài Tính đến ngày 9/4/2015, tổng số lao động nước ngoài đã được cấp phép
vào Vùng là 7.526 người, trong đó, 1.491 lao động đã trả giấy phép (lao động
nước ngoài về nước trước tết chưa quay lại làm việc nên số lượng cấp phép
lớn hơn số lượng lao động thực tế trên địa bàn).
109
Việc quản lý và cấp phép lao động là người Trung Quốc của các nhà
thầu nước ngoài gặp nhiều khó khăn, do các gói thầu của từng dự án được tổ
chức thi công với nhiều tầng: Thầu chính, thầu phụ cấp 1, thầu phụ cấp 2... rất
khó khăn cho các cấp chính quyền quản lý di chuyển lao động.
Việc kiểm soát chính xác số lượng lao động của các nhà thầu rất khó
khăn, bởi số lượng lao động đông, biến động xuất - nhập cảnh liên tục, tạm
trú tại nhiều nơi, nhiều địa bàn khác nhau, thậm chí nhà ĐT không khai báo
với chính quyền. Một số người lao động nước ngoài đã lén lút ra ở ngoài khu
vực dự án, thậm chí kết hôn trái phép với người vn mà chính quyền địa
phương không nắm bắt được kịp thời.
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào vùng Bắc Trung bộ
3.3.3.1. Nguyên nhân do đường hướng và chính sách phát triển vùng
chưa rõ ràng Đường hướng CNH, HĐH tuy đã được triển khai nhiều năm trong
Vùng nhưng chưa xác định rõ các ngành chuyên môn hóa. Các quy hoạch
phát triển vùng, dù đã được phê duyệt, chủ yếu định hướng phát triển các
ngành có lợi thế tự nhiên như đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, phát triển công
nghiệp khái khoáng, chế biến, nông nghiệp… Những nỗ lực định hướng
chuyển nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, phát huy ưu thế lao
động rẻ, sẵn có tài nguyên sang kết hợp phát triển chiều rộng và chiều sâu
chưa rõ ràng, chưa thu được kết quả. Mục tiêu các tỉnh đề ra là tái cấu trúc các
ngành kinh tế trên cơ sở coi trọng năng suất, chất lượng, hiệu quả và tính bền
vững, thế nhưng giải pháp đề ra chưa đủ mạch lạc, thiếu nguồn lực thực hiện,
chưa chỉ đạo rốt ráo. Đa phần các tỉnh chỉ đạo chiến lược phát triển KT-XH
một cách toàn diện, dựa trên kết quả những năm trước, thậm chí vẫn còn tình
trạng ĐT vốn từ NSNN một cách dàn trải, chưa ưu tiên xây dựng hạ tầng
đồng bộ cho các KCN, khu kinh tế định hướng thu hút FDI. Vì đa phần các
110
tỉnh trong vùng có tiềm lực tài chính công hạn chế, nên chưa có nguồn lực đối
ứng đủ để lôi cuốn các nhà ĐTNN tham gia vào những lĩnh vực địa phương
mong muốn. Trong một số lĩnh vực kinh tế, dù được quan tâm kêu gọi FDI,
nhưng các nhà ĐTNN không mấy quan tâm nên chưa thu hút được nhiều dự
án. Một số chính sách (ví dụ giảm thuế thu nhập DN) chưa đủ hấp dẫn (vì DN
đang trong thời kỳ lỗ giả, lãi thật). Cơ quan quản lý ngành chưa thực sự hỗ trợ
địa phương nâng cao năng lực tiếp nhận dự án công nghệ cao. Một số định
hướng thu hút FDI như nông nghiệp, kết cấu hạ tầng, công nghệ cao… chưa
hấp dẫn các nhà ĐTNN.
Chính phủ cũng chưa chỉ đạo quyết liệt xác định định hướng và chính
sách thu hút FDI ĐT vào vùng Bắc Trung Bộ, vì thế vẫn để cho các địa
phương tự tung, tự tác, cố gắng kéo dự án FDI về tỉnh mình. Chưa có cơ chế
điều phối Vùng hướng đến trọng tâm thu hút FDI từ những nền kinh tế tiên
tiến nhất, những công ty hàng đầu trên thế giới. Các hỗ trợ của Trung ương,
nỗ lực của địa phương còn dàn trải, nặng về nỗ lực thu hút tối đa số lượng dự
án và số vốn cam kết từ mọi nguồn hơn là ưu tiên khuyến khích các dự án phù
hợp với Vùng. Ngoài ra, do năng lực của đường hướng, chính sách của cả
nước còn hạn chế, thiếu hiểu biết về phương thức quan hệ đối tác với các nhà
ĐT lớn, thiếu khả năng chọn lựa, thẩm định các dự án FDI, trong khi mong
muốn thiết tha có dự án FDI để tạo việc làm, thu nhập cho dân cư và chính
quyền, dẫn đến dễ dãi trong chấp nhận dự án FDI.
3.3.3.2. Thiếu cơ chế phối hợp liên tỉnh trong thu hút FDI vào mục
tiêu chung là phát triển vùng lãnh thổ một cách hiệu quả Đến nay, Trung ương mới có chủ trương phân cấp thu thút FDI cho
UBND tỉnh. Cơ chế quản lý vùng hầu như chưa có hiệu lực thực tế, ngoài các
chính sách chung của cả nước. Dù Chính phủ đã có những định hướng phát
triển cho từng vùng nhưng không có bộ máy và tài chính riêng để triển khai
như một hệ thống hành động thống nhất. Các tỉnh hầu như chưa có sự phối
111
hợp về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế trên quy mô vùng. Quy hoạch
vùng có đặt ra, nhưng việc việc thực thi quy hoạch đó chỉ dựa trên trách
nhiệm và thẩm quyền của các đơn vị hành chính cấp tỉnh, không có mối liên
kết trách nhiệm nào đối với việc triển khai quy hoạch phát triển vùng. Cơ chế
quản lý ngành và quản lý vùng lãnh thổ Bắc Trung Bộ còn có nhiều vướng
mắc trong vận hành. Ví dụ, khi tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội
cho thời kỳ 1996-2010, các tỉnh đã cố gắng tìm kiếm một cơ chế phối hợp
giữa các địa phương và ngành, nhưng không có đầu mối đứng ra hỗ trợ, giúp
đỡ. Trong hội nghị xúc tiến ĐT vào vùng Bắc Trung Bộ tổ chức ngày
17/10/2011, các tỉnh đều đặt ra vấn đề liên kết phối hợp giữa các các cơ quan
chức năng của Nhà nước với các tỉnh và phối hợp giữa các tỉnh trong vùng
tuy, nhưng cũng mới dừng ở ý tưởng, thiếu sự phân công trách nhiệm, thiếu
kế hoạch và cơ chế hành động để tăng cường thu hút ĐT nói chung, FDI nói
riêng vào vùng lãnh thổ này. Do thiếu cơ chế liên kết phối hợp trong vùng,
nên việc quản lý phát triển của các tỉnh mới chỉ giới hạn trong tầm nhìn về lợi
ích của tỉnh mình.
Việc mở rộng quyền quyết định cho các Ban quản lý các KCN, khu chế
xuất, khu kinh tế đôi khi dẫn đến cạnh tranh không cần thiết giữa các ban này
với nhau, dẫn đến các quyết định cấp giấy chứng nhận ĐT thiếu thận trọng.
Chưa có tỉnh nào, khu kinh tế nào phát triển vượt trội để mở rộng ảnh hưởng,
làm trung tâm điều phối tự nguyện cho Vùng. Chính vì thế, các chương trình
thu hút FDI của các tỉnh trong vùng Bắc Trung Bộ vẫn còn rời rạc, vừa tốn
kém, vừa thiếu các công cụ có hiệu lực định hướng ưu tiên, xúc tiến ĐT, lựa
chọn đối tác theo vùng. Do chưa có chương trình chung về thu hút ĐTNN vào
vùng Bắc Trung Bộ, nên có nơi, có tỉnh đưa ra các ưu đãi rất cao cho những
dự án FDI không thích hợp, cản trở địa phương khác đề ra chính sách ưu đãi
hợp lý đối với dự án đó, mặc dù dự án FDI này phù hợp với địa phương.
Trong vùng có quá nhiều khu kinh tế, KCN, nhưng không có sự tập trung,
112
không dành ưu tiên để phát triển nổi bật một số ít khu, tạo hiệu ứng chỉ đạo
liên kết vùng. Ngược lại, tỉnh nào cũng cố gắng làm cho các khu kinh tế của
mình trở nên hấp dẫn ở địa bàn tỉnh dẫn đến các khu kinh tế, KCN đều có tỷ
lệ khai thác rất thấp. Một số tỉnh kém phát triển hơn như Quảng Bình, Quảng
Trị, Nghệ an, trong khi có một số tỉnh như Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế lại
"quá tải" khiến các tỉnh phát triển có xu hướng đi riêng, đi trước. Một số quy
hoạch phát triển vùng bị đảo lộn do các tỉnh có quá nhiều cam kết với các nhà
ĐTNN. Hiện tại, tỷ trọng FDI vào 3 tỉnh Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Thừa Thiên
- Huế chiếm 90,1% tổng vốn FDI vào vùng Bắc Trung Bộ, trong khi 3 tỉnh
còn lại chỉ chiếm 9,9% (bảng 3.1).
Do thiếu chính sách, biện pháp phối hợp vùng cụ thể nên trong quá
trình thu hút FDI, nhà ĐTNN đã dường như coi trọng ĐT để hướng vào khai
thác lợi thế về nguồn lực và thị trường tỉnh, khai thác những ưu đãi khác biệt
của từng tỉnh, hơn là vào các ngành, lĩnh vực phát triển huy sức mạnh tổng
thể cả vùng.
3.3.3.3. Vai trò liên kết phát triển vùng của các ngành thuộc Chính
phủ chưa được phát huy
Chức năng quy hoạch phát triển kinh tế vùng và phân cấp phối hợp
giữa các tỉnh của các Bộ ngành chưa thực sự rõ ràng. Phối hợp giữa các Bộ,
ngành chức năng với các cấp chính quyền tỉnh trên quan điểm phát triển vùng
cũng có nhiều lúng túng. Vẫn còn tình trạng vừa chồng chéo chức năng trong
tổ chức thực hiện thu hút FDI giữa cấp Trung ương với cấp địa phương hoặc
giữa các ban quản lý khu kinh tế với nhau về các việc giống nhau như tổ chức
xúc tiến đầu tư trong nước, ở nước ngoài, thẩm định dự án, thanh tra các dự
án FDI, cấp các điều kiện ĐT. Hiện nay, sự phân cấp quá lớn của Chính phủ
cho các Ban quản lý khu kinh tế, KCN dẫn đến khó phân định quyền của
chính quyền địa phương và quyền của các Ban quản lý trong thay mặt chính
quyền Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các dự án
113
FDI hoạt động trong khu kinh tế, KCN. Trong khi đó, có nhiều chức năng bị
bỏ lơi như kiểm soát người nước ngoài làm việc trong các dự án ở địa
phương, tình trạng gây ô nhiễm đất, nước, không khí, an toàn trong các dự án
có thi công xây dựng…
Chức năng của Chính phủ trong chỉ đạo phối hợp giữa các tỉnh trong
vùng để có chiến lược thu hút FDI hiệu quả chưa được thực hiện sâu sát trong
thực tế. Hiện chưa rõ cơ quan nào trong Chính phủ đảm nhiệm và chịu trách
nhiệm trước Chính phủ về chức năng này. Do đó, cơ chế hợp tác giữa các tỉnh
trong vùng Bắc Trung Bộ chưa mang tính bắt buộc, chủ yếu dựa vào tự
nguyện, giúp đỡ lẫn nhau. Cơ chế hợp tác lỏng lẻo này dễ bị mất hiệu lực khi
có hai tỉnh cùng cạnh tranh thu hút một dự án FDI. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
chưa chú trọng thiết lập cơ chế hợp tác giữa các tỉnh về xúc tiến ĐT, kết nối
hạ tầng giao thông, phát triển công nghiệp hỗ trợ, phát triển năng lượng…
phục vụ cho việc thúc đẩy thu hút FDI toàn vùng. Các Bộ khác, nhất là Bộ
Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chưa hỗ trợ các tỉnh
trong vùng tiến hành các nghiên cứu, điều tra, đánh giá để xác định lợi thế
cạnh tranh của cả vùng cũng như của mỗi tỉnh thuộc vùng để khuyến khích
các tỉnh bàn bạc, hợp tác với nhau cùng có lợi, tránh bị người nước ngoài lợi
dụng. Các Bộ ngành cũng chưa thật chú trọng cụ thể hóa các quy hoạch xây
dựng khu vực sản xuất hàng hóa tập trung là thế mạnh của cả vùng, chưa giúp
đào tạo cán bộ cho địa phương để có nhân lực thích ứng với yêu cầu của các
dự án đòi hỏi nhân lực chất lượng cao, chưa khuyến khích các tỉnh thiết lập
các chuỗi thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở
liên kết, phối hợp giữa các cơ sở sản xuất trong vùng.
Do bị chi phối bởi lợi ích nhiệm kỳ và cục bộ địa phương nên cán bộ
lãnh đạo các tỉnh chỉ khai thác khía cạnh phân cấp quyết định ĐT để lôi kéo
nhà ĐTNN nên đã xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tỉnh
trong kêu gọi, mời chào và thu hút FDI, gây tổn hại đến lợi ích chung. Hơn
114
nữa, những hành vi như vậy không bị phê phán, ngăn chặn nên càng làm yếu
đi sự liên kết vùng, không chỉ ảnh hưởng đến thu NSNN, đến lợi ích của vùng
do bị chia xẻ dự án, lĩnh vực ĐT, mà còn góp phần gây ra tình trạng vùng
kinh tế bị chia cắt, một số DN FDI bố trí quá dày ở các tỉnh trong vùng dẫn
đến thừa công suất sản xuất. Sự tùy tiện, lạm quyền của cấp dưới hoặc bỏ
trống, chồng chéo chức năng... cũng tạo sơ hở để nhà ĐTNN lợi dụng tìm
kiếm lợi ích quá lớn đối với họ, không chỉ gây thiệt hại cho đất nước, làm
phức tạp việc xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án đối
với nhà ĐT, mà còn có nguy cơ làm tha hóa cán bộ, gây bất bình trong dân.
3.3.3.4. Sự chuẩn bị của cơ quan nhà nước, của dân cư, của doanh
nghiệp trong nước còn nhiều bất cập đối với nhà đầu tư nước ngoài Bất kỳ nhà ĐTNN nào cũng cần môi trường ĐT với ba điều kiện: an
toàn, lợi nhuận và phù hợp với chiến lược phát triển riêng của họ. Vì thế, họ
cần sự hợp tác thật sự hiệu quả của chính quyền, sự hỗ trợ của đối tác và cần
sự hợp tác của người lao động. Tuy nhiên, các thể chế hành chính và tài chính
công ở 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ còn quá nhiều bất cập do còn tồn tại tính
hai mặt vừa tập trung vừa phân tán của cơ chế quản lý. Chính phủ, thông qua
Bộ Kế hoạch và Đầu tư với chân rết bên dưới là các ban quản lý KCN, khu
kinh tế mong muốn kiểm soát các dự án ĐTNN theo một đường lối thống
nhất. Nhưng do Bộ Kế hoạch và Đầu tư không có cơ chế chỉ đạo hành chính
đối với các Ban quản lý các KCN, khu kinh tế nên phải vòng lên Thủ tướng
chính phủ và chủ tịch tỉnh. Quy trình vòng vèo này tốn nhiều thời gian của
các nhà ĐT. Trong khi đó, UBND tỉnh có quyền khá lớn đối với các Ban quản
lý các KCN, khu kinh tế nhưng lại không chịu trách nhiệm về phát triển vùng
nên có xu hướng điều hành các ban này theo lợi ích của tỉnh. Sự mâu thuẫn
trong điều hành hành chính này đôi khi trở thành vật cản dự án FDI.
Nghiệp vụ quản lý thuần túy hành chính đối với thu hút FDI cũng còn
một số bất hợp lý. Ví dụ, việc thẩm định, cấp giấy chứng nhận ĐT trong một
115
số trường hợp còn thiếu chặt chẽ, chưa tuân thủ đầy đủ quy hoạch và khả
năng đáp ứng của hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội... do cán bộ thẩm
định thiếu hiểu biết chuyên môn kỹ thuật. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám
sát việc triển khai dự án FDI đòi hỏi cán bộ phải có trình độ, bản lĩnh và được
bảo vệ thích đáng, những những yêu cầu này còn khá thiếu trong các cơ quan
có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra.
Người lao động trong vùng còn thụ động ngồi chờ cơ hội việc làm tự
đến với mình. Do đó, nhiều địa phương có dự án FDI nhưng người lao động
được tuyển từ nơi khác, trong khi người thất nghiệp tại chỗ không ít. Tình
trạng hiện nay là các dự án FDI, nếu muốn có đội ngũ nhân công chất lượng
cao, buộc phải tự đào tạo ở trong nước và nước ngoài. Sau khi được đào tạo,
nhiều người lao động khống gắn bó với DN đào tạo mình. Tình trạng nhảy
việc khiến các DN FDI phiền lòng. Tình trạng phải tự đảm đương chi phí đào
tạo đi đôi với rủi ro không giữ chân người lao động giỏi làm việc cho mình
khiên các nhà ĐTNN ngần ngại đưa các dự án công nghệ cao vào Vùng. Tình
trạng thiếu hụt nguồn nhân lực trong vùng đã qua đào tạo, đặc biệt là công
nhân kỹ thuật và kỹ sư, ngày càng rõ rệt, không chỉ xảy ra ở các khu kinh tế
mới hình thành như Chân Mây, mà cả các khu kinh tế có nhiều dự án FDI như
Nghi Sơn, Vũng Áng.
Doanh nghiệp trong nước cũng không tích cực chuẩn bị cơ hội để hợp
tác, liên kết với các DN FDI. Vì thế, các DN FDI phải lựa chọn dự án tự NK
đầu vào hoặc tự XK đầu ra, do thiếu các DN trong nước có thể tạo ra các sản
phẩm, dịch vụ phù hợp với họ. Điều bất lợi này khiến FDI ĐT vào vùng Bắc
Trung Bộ không tạo được tác động lan tỏa thỏa đáng. Hơn nữa, khu vực FDI
có xu hướng co cụm, tạo nên các ốc đảo trong Vùng, khiến lợi ích Vùng nhận
được từ FDI giảm thấp.
116
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VÙNG BẮC TRUNG BỘ
4.1. DỰ BÁO VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VÙNG BẮC TRUNG BỘ
4.1.1. Dự báo bối cảnh mới liên quan đến thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài và mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của vùng Bắc Trung Bộ
4.1.1.1. Dự báo bối cảnh mới liên quan đến thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở vùng Bắc Trung Bộ * Bối cảnh quốc tế:
Trong giai đoạn trong 5 năm tới, nền kinh tế thế giới vẫn phát triển theo
hai xu hướng bao trùm: sự phát triển của kinh tế tri thức dưới tác động của
cuộc cách mạng KH&CN hiện đại và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.
+ Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trên trình độ hơn hẳn của lực lượng
sản xuất so với kinh tế công nghiệp. Phát triển kinh tế tri thức, thế giới sẽ biến
đổi sâu sắc và toàn diện cả về trình độ công nghệ, ngành sản xuất và cơ cấu
sản phẩm. Tri thức KH&CN, kỹ năng của con người sẽ trở thành lực lượng
sản xuất hàng đầu. Tiến bộ khoa học và công nghệ sẽ biến đổi mọi mặt đời
sống con người thông qua việc tạo ra những ngành sản xuất mới với những
công nghệ mới, phương pháp sản xuất mới, những vật liệu và nguồn năng
lượng mới có ưu thế vượt trội so với những công cụ, nguyên liệu, năng lượng
và phương pháp của nền kinh tế công nghiệp.
Với kinh tế tri thức, tuy vai trò của con người trong lực lượng sản xuất
không thay đổi, họ vẫn là chủ thể của quá trình sản xuất, sáng tạo và áp dụng
những thành tựu mới của KH&CN, nhưng tính chất hoạt động và yêu cầu đặt
ra đối với họ đã có sự thay đổi căn bản so với người lao động trong nền kinh
tế công nghiệp. Trong nền kinh tế công nghiệp, cường độ lao động của con
117
người đã được giảm nhẹ đáng kể nhờ sự trợ giúp của máy móc, thiết bị ngày
càng hiện đại. Trong nền kinh tế này, để sử dụng máy móc có hiệu quả, người
lao động phải có sự hiểu biết về tính năng, tác dụng của máy móc đó và về quá
trình sản xuất nói chung. Trong nền kinh tế tri thức, người lao động chủ yếu là
lao động trí óc, vừa nghiên cứu vừa sản xuất, sản phẩm của họ là những phát
minh được ứng dụng ngay vào sản xuất. Khi đó, tri thức khoa học và sáng tạo
công nghệ là yêu cầu nghiêm ngặt hàng đầu đối với hoạt động của DN.
Trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức, bên cạnh những phát minh
mới trong khoa học cơ bản, con người đã đi rất xa trong việc sáng tạo ra các
công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động, hệ thống máy tự động,
robot..), những năng lượng mới (nguyên tử, nhiệt hạch, mặt trời, thủy triều,
gió…), vật liệu mới (pô-ly-me, vật liệu tổ hợp composite, gốm cao cấp như
siêu bền, siêu cứng, siêu dẫn…), công nghệ sinh học (có những đột phá phi
thường trong công nghệ di truyền tế bào, vi sinh, enzim… góp phần giải
quyết nạn đói, chữa bệnh), nông nghiệp (tạo được cuộc cách mạng xanh trong
nông nghiệp: cơ khí hóa, điện khí hóa .. lai tạo giống mới, không sâu bệnh,
nhờ đó con người đã khắc phục được nạn đói), giao thông vận tải và thông tin
liên lạc (máy bay siêu âm, tàu hỏa siêu tốc, cáp sợi thủy tinh quang dẫn,…
truyền hình trực tiếp, điện thoại di động, công nghệ chinh phục vũ trụ (vệ tinh
nhân tạo, thám hiểm mặt trăng, du hành vũ trụ…), công nghệ thông tin phát
triển và bùng nổ mạnh với mạng thông tin máy tính toàn cầu (Internet) ứng
dụng sâu rộng trong mọi ngành kinh tế và xã hội. Cuộc cách mạng KH&CN
hiện đại chính là bước quá độ chuyển nền kinh tế công nghiệp lên nền kinh tế
tri thức.
Xu hướng phát triển kinh tế tri thức đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ
hơn ở các nước công nghiệp phát triển. Do sức hấp dẫn đối với sự phát triển
KT-XH của xu hướng này mà nó đã và đang cuốn hút ngày càng nhiều nước
đang phát triển. Do vậy, dự báo hoạt động thu hút FDI có xu hướng ưu tiên
118
nhằm vào các ngành, lĩnh vực kinh tế dựa nhiều vào tri thức hơn nữa, ngay cả
ở các nước đang phát triển.
+ Xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ chưa từng có. Toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng hội tụ tất cả các nền kinh tế. Khu vực hóa kinh tế là xu hướng trong đó một nhóm nước liên kết với nhau thành một khối kinh tế thực hiện một số chính sách chung.
Toàn cầu hóa và khu vực hóa đẩy nhanh việc hình thành một thị trường khu vực và thế giới thống nhất, một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu, phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu, mở rộng giao lưu kinh tế và KH&CN giữa các nước, giải quyết các vấn đề KT-XH có tính khu vực và toàn cầu. Xu hướng này đã và sẽ thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất trên cơ sở khai thác triệt để KH&CN. Nó không chỉ tạo ra cơ hội mới cho phát triển kinh tế của các nước mà còn đặt các nước, nhất là các nước đang phát triển, trước những thách thức cạnh tranh gay gắt. Vì vậy, sẽ có sự chuyển dịch căn bản lợi thế phát triển từ đất đai, tài nguyên và vốn tài chính sang trí tuệ của con người. Hoạt động sản xuất của các quốc gia sẽ chuyển mạnh theo hướng trở thành một bộ phận trong cấu trúc mạng toàn cầu. Dưới tác động của xu hướng này, thị trường tài chính quốc tế được sẽ mở rộng, các công ty xuyên quốc gia sẽ có vai trò ngày càng lớn trong đầu tư quốc tế.
Những xu hướng này sẽ có ảnh hưởng mạnh đến phương hướng thu hút FDI của nước ta nói chung, vùng Bắc Trung Bộ nói riêng trong thời gian tới.
* Bối cảnh trong nước: Nước ta đang trong công cuộc đổi mới để phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng vào các quan hệ kinh tế quốc tế, thực hiện tiến trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và chuyển hướng sang phát triển theo chiều sâu, coi trọng năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Tuy nhiên, quá trình phát triển KT-XH của nước ta cũng đối mặt với
không ít khó khăn, thách thức như: tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh
119
tế thấp và chưa bền vững. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch chậm và thiếu
vững chắc; tính cập nhật còn thấp. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản
xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động
còn mang nặng tính tự phát, chưa đáp ứng được yêu cầu. Sử dụng nguồn
lực của nền kinh tế thiếu hiệu quả. Mức sống của người dân ở nhiều nơi
còn khó khăn. Năng suất lao động tăng chậm đang là một thách thức lớn
(trong 5 năm 2010-2015, năng suất lao động nước ta mới tăng chưa đến 4%
và đang có xu hướng giảm). Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, của DN và
của nền kinh tế còn thấp do chi phí sản xuất của nhiều sản phẩm còn ở mức
cao. Theo đánh giá của WEF, vị trí xếp hạng về sức cạnh tranh của Việt
Nam năm 2014-2015 đứng thứ 56/144 nước với nhiều điểm "lõm" cản trở
phát triển bền vững như: mức độ sẵn sàng về công nghệ, sức sáng tạo, sự
phát triển của thị trường tài chính, giáo dục- đào tạo bậc cao, các thể chế và
kết cấu hạ tầng.
Trong kinh tế đối ngoại, tính đến cuối năm 2015, nước ta đã mở rộng
quan hệ thương mại, XK hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và
vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ ĐT, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần
và đã tham gia vào nhiều Hiệp định tự do thương mại song phương hoặc đa
phương với các nước, gần đây nhất là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) và thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN. Tuy các quan hệ trên
sẽ tạo ra nhiều cơ hội để phát triển, nhưng nó cũng đặt ra không ít thách thức,
nhất là về cạnh tranh, buộc chúng ta phải vượt lên mới có thể thu hút được
nhiều FDI.
4.1.1.2. Mục tiêu và hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc
Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 Bắc Trung Bộ được Chính phủ xác định là vùng chiến lược đặc biệt
quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh; có ý nghĩa chiến
120
lược và lợi thế quan trọng trong việc mở rộng giao lưu kinh tế, đồng thời là
điểm trung chuyển hàng hóa với các tỉnh Tây Nguyên, Lào, Cămpuchia, Đông
Bắc Thái Lan, Myanmar và cửa ra của tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây
nối với đường hàng hải quốc tế và giao lưu hàng hóa với các quốc gia trên thế
giới [86].
Nhà nước chủ trương phát triển Vùng bắc Trung Bộ phù hợp với Chiến
lược phát triển KT-XH của cả nước và định hướng Chiến lược biển Việt Nam,
thống nhất với quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, đồng thời, phát huy
cao nhất tiềm năng, lợi thế của Vùng, nhất là lợi thế về công nghiệp, dịch vụ
và kinh tế biển để đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo hướng sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh
thái, chủ động phòng tránh và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Nhà nước ưu tiên phát triển đồng bộ trong Vùng hệ thống các đô thị,
khu dân cư và hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo hướng
thân thiện với môi trường. Nhà nước cam kết tập trung vốn cho Vùng xây
dựng các đô thị có điều kiện và lợi thế làm hạt nhân lan tỏa, thúc đẩy phát
triển Vùng và trở thành các trung tâm kinh tế của từng tiểu vùng. Nhà nước
chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển các lĩnh vực
xã hội, giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, hướng tới thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội cho dân cư trong Vùng. Nhà nước cam kết hỗ trợ đào tạo phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu
cầu thị trường và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, tạo tiền
đề để dân cư trong vùng nỗ lực phát triển kinh tế, thoát khỏi vị thế Vùng
nghèo so với các vùng kinh tế khác.
Mục tiêu phát triển vùng: Xây dựng Bắc Trung Bộ trở thành vùng phát
triển năng động, nhanh và bền vững, là một đầu cầu quan trọng của cả nước
trong giao lưu hợp tác quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã
hội, phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ
121
quyền biển, đảo của đất nước. Cải thiện căn bản đời sống vật chất, văn hóa, tinh
thần của nhân dân, đẩy mạnh công cuộc xóa đói, giảm nghèo, nhất là đối với
đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở các xã đặc biệt khó khăn, vùng căn cứ
kháng chiến; tăng cường công tác bảo vệ và nâng cao sức khỏe của người dân.
Hạn chế tối đa ảnh hưởng của thiên tai lũ bão, hạn hán, bảo vệ môi trường sinh
thái; ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng [86].
Mục tiêu về kinh tế: Phấn đấu quy mô GDP của Vùng năm 2020 gấp
2,2 lần năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9%/năm trong giai đoạn
2016 - 2020. GDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt khoảng 53,0 triệu
đồng, tương đương 2.500 USD bằng khoảng 76% mức bình quân đầu người
của cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng phát triển theo chiều sâu,
tập trung khai thác các lợi thế so sánh của vùng, tỷ trọng công nghiệp trong cơ
cấu giá trị sản lượng của Vùng từ 38,6% năm 2015 tăng lên 41,9% vào năm
2020; tương tự, tỷ trọng dịch vụ tăng từ 38,1% năm lên 39,9% và của nông
nghiệp từ 23,2% giảm xuống 18,2%. Theo đó, đến năm 2020, tỷ lệ lao động
nông nghiệp còn khoảng 32% trong tổng lực lượng lao động của Vùng. Kim
ngạch XK giữ nhịp tăng trưởng trên mức 20%/năm và tốc độ đổi mới công
nghệ đạt bình quân 20 - 25%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020.
Mục tiêu xã hội, môi trường, an ninh, quốc phòng: Bảo đảm hoàn thành
các mục tiêu về xã hội, về bảo vệ môi trường, về bảo đảm quốc phòng, an
ninh. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển KT-XH, nhất là kinh tế biển, đảo với
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, hải đảo của Tổ quốc…
Căn cứ vào Chiến lược phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải
Miền Trung và căn cứ vào yêu cầu phát huy các nguồn lực của vùng, có thể
xác định hướng phát triển của vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2016-2020 là:
Thực hiện tái cấu trúc kinh tế vùng Bắc Trung Bộ, hướng mạnh sang phát
triển chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả các hoạt động
kinh tế. Định hướng cụ thể phát triển của các ngành lĩnh vực như sau:
122
- Ngành nông nghiệp: tập trung xây dựng nông thôn mới, coi kinh tế
nông nghiệp, nông thôn là vệ tinh phát triển của các khu kinh tế và các đô thị
trong Vùng. Hướng phát triển các phân ngành nông nghiệp cụ thể là:
Phát triển ngành trồng trọt theo hướng: bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật
nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên của Vùng, nâng cao độ an toàn của sản
xuất, phòng tránh lũ lụt, nâng cao hiệu quả trên mỗi ha đất canh tác. Khai thác
tối đa quỹ đất chưa sử dụng để đưa vào trồng cây công nghiệp dài ngày, cây
ăn quả.
Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm với quy mô phù hợp, gắn với phát
triển công nghiệp chế biến, ứng dụng giống mới, công nghệ phù hợp vào sản
xuất và chế biến, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ, tạo thành chuỗi liên kết
nông nghiệp - chế biến - dịch vụ - thị trường trên địa bàn Vùng và phát triển
dịch vụ trao đổi đặc sản vùng với ngoài vùng.
Phát triển ngành lâm nghiệp theo hướng thiết lập lâm phần ổn định, tập
trung bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn; khoanh nuôi tái sinh, trồng mới
rừng ở các khu vực đầu nguồn xung yếu của các sông lớn để ngăn giảm lũ và
chống sa lắng lòng hồ ở các vùng có hồ chứa, hồ thủy điện và trồng rừng ven
biển. Tăng cường công tác bảo vệ và phát triển các vườn quốc gia, bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo vệ nguồn gen động, thực vật quý hiếm.
Phát triển ngành thủy sản phát triển theo hướng nuôi trồng công nghiệp
và bán công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường, đảm bảo an toàn sinh thái
vùng ven biển. Phát triển nuôi trồng các loại thủy sản là đặc sản có giá trị cao
(tôm hùm, cá ngựa, các loại nhuyễn thể...) phù hợp với điều kiện tự nhiên của
Vùng. Thúc đẩy phát triển nuôi trồng thủy sản khu vực bãi ngang, đầm phá
ven biển từ Nam Quảng Bình đến vùng đầm phá Tam Giang (Thừa Thiên -
Huế). Quản lý bảo đảm chất lượng giống và thức ăn trong nuôi trồng thủy sản.
Phát triển kinh tế biển theo hướng từng bước nâng cấp đội tàu đánh bắt
thủy sản công suất lớn có trang thiết bị hệ thống thông tin, đưa dẫn, ngư cụ và
123
bảo quản đông lạnh hiện đại để nâng cao năng lực đánh bắt xa bờ. Tổ chức tốt
các dịch vụ hậu cần phục vụ tàu đánh bắt trên biển dài ngày.
- Ngành công nghiệp: Đẩy mạnh phát triển các ngành có lợi thế của
Vùng như đóng tàu và sửa chữa tàu thuyền, cơ khí chế tạo, dệt may, da giầy,
sản xuất xi măng, chế biến thủy sản, mía đường... Hình thành các trung tâm
công nghiệp lớn ở các tỉnh Thanh Hóa và Hà Tĩnh. Tận dụng các vùng đất
hoang hóa, đất cát ven biển ít có khả năng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đưa
vào sử dụng cho mục đích phát triển các khu, cụm công nghiệp, điểm du lịch,
hình thành các đô thị mới.
Từng bước tạo dựng, phát triển ngành điện tử và công nghệ thông tin
để hỗ trợ cho phát triển các ngành công nghiệp khác. Tập trung nguồn lực để
đẩy nhanh việc phát triển công nghiệp hóa dầu thành một trong các trụ cột
công nghiệp của Vùng và cả nước. Chú trọng phát triển công nghiệp quy mô
vừa và nhỏ, sử dụng công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện cụ thể của
từng địa phương. Phát triển tiểu thủ công nghiệp theo hướng khuyến khích
các ngành nghề truyền thống như sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản xuất
vật liệu xây dựng, đồ mộc dân dụng, chế biến lương thực, thực phẩm. Tập
trung xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu kinh tế nhằm thu hút ĐT
của các DN. Phát triển các cụm công nghiệp dọc các tuyến đường ngang nối
liền các tỉnh trong Vùng với các tỉnh trong vùng lân cận; gắn phát triển công
nghiệp với hình thành các điểm đô thị ở khu vực nông thôn.
- Ngành dịch vụ: Tăng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ bình quân hàng
năm thời kỳ 2015 - 2020 là 16%/ năm. Kim ngạch XK giữ nhịp tăng trưởng
trên mức 20%/năm. Nâng cấp các trung tâm thương mại hiện có ở các tỉnh,
thành phố như: thành phố Vinh (Nghệ An) và thành phố Huế (Thừa Thiên -
Huế); hình thành các trung tâm thương mại, các siêu thị ở các tỉnh, thành phố
trong Vùng; hoàn chỉnh mạng lưới thương mại nội địa từ thành thị đến nông
thôn, từ đồng bằng đến miền núi, ven biển. Tổ chức khai thác có hiệu quả
124
hoạt động dịch vụ thương mại tại các khu kinh tế cửa khẩu đang hoạt động
(Cầu Treo, Lao Bảo, Cha Lo…).
Phát triển kinh tế du lịch, phấn đấu đến năm 2020, xây dựng vùng Bắc
Trung Bộ trở thành Vùng có nhiều điểm du lịch kết nối được trong mạng lưới
du lịch của các nước trong khu vực như: Thái Lan, Singapore, Malaixia,
Inđônexia... và là điểm đến thường xuyên của các tour du lịch quốc tế. Tập
trung khai thác thế mạnh du lịch lịch sử, văn hóa, nghỉ dưỡng biển đối với các
tỉnh, thành phố ven biển từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh. Khai thác thế mạnh các
di sản văn hóa, địa danh lịch sử, đặc biệt là những cảnh quan thiên nhiên ở dải
ven biển gắn với các đi sản thế giới như động Phong Nha và khu du lịch sinh
thái Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), các di sản văn hóa kiến trúc cố đô
Huế, đô thị cổ Hội An, địa danh lịch sử (Quảng Trị), cùng các giá trị thiên
nhiên trên trục đường Huế - Lăng Cô - Bạch Mã - Hải Vân đến dải ven biển
duyên hải Miền Trung.
- Lĩnh vực KH&CN: Thực hiện đa dạng hóa tiềm lực KH&CN, ứng
dụng công nghệ cao cho các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu,... và các ngành kinh tế. Phát triển tiềm lực KH&CN tại
các tỉnh. Tập trung nghiên cứu ứng dụng KH&CN về giống cây, giống con có
năng suất cao thích ứng với điều kiện sinh thái của vùng; trước mắt ĐT nâng
cấp các cơ sở nghiên cứu sản phẩm công nghệ cao đối với nông nghiệp, thủy
sản nhằm tạo các giống thủy sản cho năng suất cao, đặc biệt là các giống đặc
sản phục vụ cho XK và tiêu dùng nội địa.
- Gắn kết phát triển KT-XH với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường
sinh thái trong phát triển bền vững; kết hợp kinh tế với bảo đảm quốc phòng,
an ninh, bảo vệ vững chắc vùng biển, vùng trời của Tổ quốc.
- Về tổ chức không gian kinh tế: Bắc Trung Bộ được Trung ương xác
định là tiểu vùng thuộc Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung, hướng
phát triển KT-XH đến năm 2020 sẽ là:
125
+ Đẩy mạnh phát triển các Khu kinh tế: Nghi Sơn, Đông Nam Nghệ
An, Vũng Áng, Hòn La và Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế cầu Treo, Cha Lo,
Lao Bảo gắn với phát triển kinh tế biển để trở thành các trung tâm phát triển
của các địa phương trong tiểu Vùng.
+ Khai thác hiệu quả các thế mạnh về tài nguyên khoáng sản (sắt, thiếc,
cao lanh, dầu mỏ...); đẩy mạnh phát triển công nghiệp cơ khí, đóng tàu, công
nghiệp vật liệu xây dựng, dệt, da giày, may mặc, sản xuất đường; công nghiệp
điện; chế biến nông, lâm, thủy sản theo hướng tối đa hóa việc sử dụng tổng
hợp nguồn nguyên liệu. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Nhà máy lọc - hóa dầu
Nghi Sơn, KCN Fomosa và khu liên hợp luyện kim Thạch Khê (Hà Tĩnh).
+ ĐT mở rộng diện tích cây công nghiệp, cây lương thực, phát triển
chăn nuôi, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh gắn với công nghiệp chế
biến. Phát triển nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả trên mỗi ha đất
canh tác. Bảo vệ, khoanh nuôi phát triển rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ và
rừng đặc dụng. Khuyến khích khai thác đánh bắt thủy hải sản xa bờ, phát triển
việc nuôi trồng thủy sản khu vực đầm phá ven biển để tăng sản phẩm XK.
+ Phát triển dịch vụ cảng biển, hàng không, ngân hàng, tài chính, bưu
chính viễn thông. Đẩy mạnh phát triển các loại hình du lịch biển có ưu thế
gồm: nghỉ dưỡng biển và đảo, tham quan, leo núi, du lịch sinh thái tại các
Vườn quốc gia, khu bảo tồn tự nhiên và tham quan các di sản thiên nhiên, di
sản văn hóa.
+ Xây dựng đô thị trung tâm các tỉnh trở thành các trung tâm kinh tế,
văn hóa, khoa học kỹ thuật làm hạt nhân thúc đẩy vùng nông thôn phát triển.
Xây dựng thành phố Vinh trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa của Tiểu vùng
Bắc Trung Bộ.
Điều kiện hết sức quan trọng để hiện thực hướng phát triển KT-XH nêu
trên là phải có một nguồn lực rất lớn về vốn, công nghệ, nhân lực, kinh
nghiệm quản lý và thị trường. Nó có thể được huy động từ nội lực và ngoại
126
lực. Nội lực là quyết định. Nhưng trong điều kiện điểm xuất phát của vùng
Bắc Trung Bộ còn thấp, NSNN còn eo hẹp và chi tiêu của người dân còn
nhiều khó khăn, thì thu hút các nguồn lực từ bên ngoài nhằm tạo ra những đột
phá trong phát triển là một giải pháp hết sức quan trọng. ĐTNN đang và sẽ
tiếp tục là động lực quan trọng đối với phát triển kinh tế ở vùng Bắc Trung Bộ
cần được coi trọng trong giai đoạn tới.
4.1.2. Phương hướng tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở vùng Bắc Trung Bộ
Phù hợp với phân công lao động cho vùng Bắc Trung Bộ trong quy
hoạch phát triển KT-XH cả nước, định hướng tổng thể thu hút FDI trong
những năm tới phải ưu tiên chọn lọc dự án có quy mô lớn, có chất lượng tốt, ít
gây ô nhiễm môi trường, mang kaij giá trị gia tăng lớn cho Vùng, có khả năng
chuyển giao công nghệ thông qua liên kết với DN địa phương. Trong 5 năm
tới ưu tiên thu hút FDI vào các lĩnh vực: công nghệ thông tin, công nghệ phục
vụ nông nghiệp, kết cấu hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao…. Đồng
thời chú trọng ban hành chính sách ưu đãi nhằm thu hút các dự án sản xuất
sản phẩm có khả năng cạnh tranh để ứng phó với các sản phẩm NK của các
DN trong Cộng đồng kinh tế ASEAN, tạo điều kiện để các DN FDI trong
vùng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các công ty đa quốc gia lớn. Có
chính sách khuyến khích liên kết giữa các DN FDI với nhau và với DN trong
nước. Tuân thủ quy hoạch thu hút ĐTNN theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù
hợp với lợi thế của Vùng và quy hoạch chung của cả nước.
Theo định hướng chung đó, chính sách thu hút FDI phải phù hợp với
Chiến lược phát triển KT-XH vùng Bắc Trung Bộ trên các mặt:
Thứ nhất, coi trọng chất lượng trong thu hút FDI
Nâng cao chất lượng nguồn vốn FDI thu hút vào vùng Bắc Trung Bộ
phải được coi là định hướng quan trọng hàng đầu nhằm xây dựng và phát
triển một cơ cấu kinh tế trong Vùng theo hướng hiện đại. Liên kết phối hợp
127
giữa các tỉnh trong Vùng để hoạch định chiến lược thu hút và sử dụng có hiệu
quả tài nguyên, điều kiện thiên nhiên của Vùng, nhất là thu hút FDI vào các
lĩnh vực du lịch, cảng biển. Lồng ghép chiến lược thu hút FDI trong chiến
lược phát triển KT-XH của Vùng và của từng tỉnh phù hợp với từng giai đoạn
phát triển KT - XH, cũng như gắn liền với chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam. Chiến lược thu hút và sử dụng FDI của vùng Bắc Trung Bộ
phải giải đáp được các vấn đề như: ưu tiên các ngành, lĩnh vực cần thu hút
FDI; Có chính sách ưu đãi hợp lý và cấn nhắc ưu đãi giữa các tỉnh để phối
hợp chọn lựa, thu hút FDI có lợi cho Vùng. Giải quyết từng bước những vấn
đề bất cập trong phân cấp quản lý ĐTNN theo hướng tăng cường phối hợp
liên tỉnh thông qua vai trò của Ban Chỉ đạo miền Trung và Tây Nguyên, tránh
sự chính sách ưu đãi manh mún và cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các tỉnh
trong thu hút và xúc tiến ĐTNN. Kết hợp có hiệu quả dòng vốn FDI và các
dòng vốn ĐT khác trong phát triển KT-XH của Vùng theo hướng thu hút FDI
không chỉ bổ sung nguồn vốn cho ĐT phát triển, mà còn tạo cơ hội để khuyến
khích DN trong nước đổi mới công nghệ, khuyến khích đào tạo cán bộ kỹ
thuật và phát triển thị trường, tăng cường khả năng của các DN vùng Bắc
Trung Bộ trong liên kết với các DN FDI theo chuỗi giá trị ngành.
Thứ hai, nâng cao nhận thức về lợi ích chung của phát triển vùng Bắc
Trung Bộ
Chính phủ và Trung ương Đảng phải tạo điều kiện liên kết các tỉnh
trong phát triển kinh tế vì lợi ích chung của vùng Bắc Trung Bộ. Ban Chỉ đạo
miền Trung và Tây Nguyên phải thực hiện vai trò cầu nối để quá trình phát
triển kinh tế của Vùng không còn là con số cộng phát triển kinh tế của các
tỉnh một cách riêng biệt. Ban Chỉ đạo cần làm đầu mối hướng chính sách ưu
đãi thu hút FDI của các tỉnh hội tụ vào lợi ích chung của vùng, và về dài hạn
chính là lợi ích của từng tỉnh trong Vùng nhằm phát huy lợi thế chung và tạo
sức mạnh kinh tế cho toàn Vùng.
128
Do Vùng Bắc Trung Bộ là một bộ phận lãnh thổ đặc thù của nền kinh
tế quốc dân, nên để chuyên môn hóa sản xuất kết hợp chặt chẽ với sự phát
triển tổng hợp theo Quy hoạch quốc gia, cần thu hút FDI phục vụ phát triển
kinh tế theo hướng bền vững, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội Vùng
có hiệu quả cao, phát huy các tiềm lực mang tính đặc thù và cơ hội của toàn
Vùng, giảm bớt những khác biệt quan điểm giữa các địa phương trong Vùng.
Tăng cường phối hợp giữa các tỉnh không phải theo hướng cào bằng, mà
nhằm bổ sung cho nhau trên cơ sở phân công chuyên môn hóa theo những đặc
tính riêng của từng địa phương tài nguyên tự nhiên, truyền thống văn hóa và
tiềm năng liên kết phát triển theo chuỗi giá trị của từng tỉnh trong Vùng.
Khuyến khích mỗi tỉnh khai thác thế mạnh và tiềm năng của mình theo quan
điểm lợi ích toàn Vùng. Nâng cao nhận thức và tư duy của cán bộ cấp tỉnh về
phát triển Vùng Bắc Trung Bộ nhằm giảm thiểu các hành động cục bộ, gây
bất lợi cho tỉnh khác. Phối hợp vì lợi ích chung cả vùng phải được coi là một
hướng quản lý rất quan trọng làm cơ sở cho hoạch định đường lối, chính sách
thu hút FDI vào phát triển kinh tế từng tỉnh trong Vùng.
Theo hướng này, việc phân bố thu hút FDI cần được điều chỉnh để vừa
tạo ra một số đầu tàu kinh tế ở những địa phương phát triển mạnh (ví dụ như
Thanh Hóa, Nghệ an, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế) để có sức lôi kéo phát triển
toàn Vùng, hình thành các trung tâm kinh tế có lợi thế riêng, đồng thời phải điều
phối chính sách hợp lý để tạo điều kiện phối hợp cho những địa phương chậm
phát triển hơn rong thu hút các dự án FDI vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh của
họ. Chú trọng cân đối lợi ích thụ hưởng từ thu hút FDI giữa các tỉnh thông qua
vai trò giúp đỡ của tỉnh giàu cho tỉnh nghèo, phát triển mạnh các tỉnh có lợi thế
đầu tư đi đôi với hỗ trợ đúng mức về kết cấu hạ tầng, về ưu đãi cá biệt cho các
tỉnh khó khăn. Những địa bàn có lợi thế ĐT trước cần được ưu tiên trong việc
phân bố nguồn lực cả từ phía Nhà nước lẫn từ phía DN trong nước để xây dựng
kết cấu hạ tầng, nỗ lực vươn lên liên doanh, liên kết với nhà ĐTNN. Đồng thời
129
cần có chú trọng chính sách chung như đào tạo nhân lực, cải cách hành chính đối
với ĐT, kết nối hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài vùng… để chia sẻ lợi ích
từ thu hút FDI, từ phát triển kinh tế cho cư dân ở các tỉnh khó khăn.
Về quy hoạch không gian nội Vùng, bên cạnh chính sách ưu tiên thu
hút FDI vào các địa bàn ven biển (vì có nhiều thuận lợi), cần có chiến lược
thu hút FDI vào các địa bàn miền Tây của Vùng, nơi có nhiều dân tộc thiểu
số, điều kiện KT-XH còn nhiều khó khăn, nhất là thu hút các dự án FDI đầu
tư vào du lịch, nông, lâm nghiệp, khai thác khoáng sản. Nếu các ưu đãi chung
chưa đủ hấp dẫn, cần tăng thêm các ưu đãi cho các địa bàn khó khăn để có thể
phát huy các tiềm năng riêng có của địa bàn trên cơ sở ĐT của Nhà nước đi
trước tạo môi trường cho nhà ĐTNN hoạt động SXKD.
Thứ ba, đổi mới tư duy về thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ
Với quan điểm khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận kinh tế
của Vùng, cần thực sự hợp tác với các nhà ĐTNN để cùng phát triển. Cần
thiết lập một khung khổ các quy định thống nhất cho ĐTNN và ĐT trong
nước. Cần ủng hộ các nhà kinh doanh nước ngoài làm ăn đàng hoàng, có dự
án ĐT có độ lan tỏa cao, dự án trợ nhóm người yếu thế, người nghèo, địa bàn
khó khăn. Trung ương cần hỗ trợ chính quyền địa phương cải thiện môi
trường ĐT trong Vùng, tạo dựng các điều kiện về thị trường, về dịch vụ cơ
bản thuận lợi cho các nhà ĐTNn làm ăn lâu dài, chấp hành nghiêm chỉnh luật
pháp của Việt Nam đi đôi với xử phạt nghiêm khắc các nhà ĐTNN gian lận.
Trung ương hỗ trợ và làm đầu mối phối hợp các tỉnh trong vùng thống nhất
hành động trong các lĩnh vực: cải cách thủ tục hành chính liên quan đến
ĐTNN theo hướng tinh gọn, minh bạch, công khai; nâng cao trách nhiệm giải
trình của công chức; hỗ trợ thực thi hợp đồng dân sự; bảo vệ quyền lợi chính
đáng của nhà ĐTNN. Cần tuyên truyền và có biện pháp phân chia lợi ích công
bằng với người bị thu hồi đất để họ hợp tác trong giải phóng mặt bằng, tạo
điều kiện xây dựng trước hệ thống kết cấu hạ tầng để sẵn sàng tiếp nhận các
130
nhà ĐTNN, hướng các nhà ĐT vào các dự án phù hợp với quy hoạch ở các
khu vực ưu tiên chung của Vùng. Cải tiến phương thức quảng bá, xúc tiến ĐT
theo hướng hình thành hình ảnh chung của cả Vùng nhằm tạo niềm tin về sự
liên kết, hợp tác bền chắc giữa chính quyền các tỉnh trong Vùng.
Thứ tư, xây dựng và ban hành rộng rãi danh mục các chương trình dự
án cần kêu gọi ĐTNN chung cho cả vùng.
Trên cơ sở Chiến lược phát triển KT-XH của Vùng đến năm 2020 và
tầm nhìn xa hơn đã được Chính phủ phê duyệt, cần xây dựng và ban hành
danh mục các lĩnh vực ưu tiên thu hút FDI chung cho cả vùng Bắc Trung Bộ
theo hướng bảo đảm tái cấu trúc kinh tế Vùng chuyển mạnh sang phát triển
theo chiều sâu, chú trọng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Các dự án được
ưu tiên vào Vùng Bắc Trung Bộ trong thời gian tới là: công nghệ điện tử, tin
học, dịch vụ cao cấp, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, cơ sở y tế và
chăm sóc sức khỏe hiện đại, xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Trên cơ sở đó, cung
cấp thông tin khuyến khích ĐT đến các nhà ĐTNN nhằm nâng cao chất lượng
thu hút FDI gắn với việc xử lý mối quan hệ giữa thị trường trong nước với
XK hàng hóa và dịch vụ, tạo ra những sản phẩm mới, chất lượng cao, duy trì
sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Coi trọng phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ trên cơ sở tư duy vùng để giảm bớt việc NK nguyên liệu ở nước
ngoài, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế biến phát triển,
hạn chế dự án FDI chỉ vào công đoạn gia công, lắp ráp hoặc sản xuất các mặt
hàng có giá trị gia tăng thấp, các ngành sử dụng nhiều năng lượng và tài
nguyên. Nâng cao chất lượng dự án FDI và phải được coi là kỷ luật hành
động của cán bộ quản lý nhà nước tại các tỉnh trong Vùng.
Thứ năm, hướng mạnh thu hút FDI từ những nước có công nghệ cao,
công nghệ nguồn
Bên cạnh việc duy trì dòng vốn FDI từ các nước truyền thống, chú
trọng tìm cách chuyển hướng thu hút FDI từ những nước có công nghệ cao,
131
công nghệ nguồn như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Hướng thu hút này sẽ tạo ra
cơ hội để các tỉnh trong vùng đón bắt xu hướng đổi mới công nghệ, thúc đẩy
chuyển giao công nghệ chất lượng cao vào Vùng. Nên tìm kiếm các biện pháp
xúc tiến thu hút FDI từ những công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia và những tập
đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, vì công nghệ mà các công ty và tập đoàn này sử
dụng và chuyển giao là công nghệ cao (mặc dù có thể không phải là mới nhất) và
ít gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, nên vận động các công ty và tập đoàn này
giúp đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, có thể giúp các địa phương trong Vùng
kết nối mạng lưới sản xuất, thị trường và nghiên cứu triển khai toàn cầu của họ.
Các công ty và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thường thực hiện những dự án với
giá trị vốn lớn, có thể giúp cho các nhà ĐT và DN trong Vùng nắm bắt được
những cơ hội SXKD đang diễn ra trên toàn cầu. Những dự án ĐT của các công
ty và tập đoàn hàng đầu cũng thường có khả năng thực hiện nhanh chóng.
Thứ sáu, thu hút FDI nhằm tích cực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Việc thu hút FDI phải hướng vào tạo cơ hội để các DN của Vùng tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhất là trong các ngành luyện kim, hóa dầu, đào
tạo... Cần tạo điều kiện cho DN trong nước hấp thu lợi ích lan tỏa từ việc thu
hút ĐT của các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia và các tập đoàn kinh tế
lớn để các DN trong vùng có thể trở thành nhà thầu phụ, nhà cung ứng các
dịch vụ đầu vào và đầu ra, cung ứng nguồn lao động, đặc biệt là lao động có
chất lượng cao. Chính phủ và chính quyền các địa phương vùng Bắc Trung
Bộ cũng cần có những chính sách riêng hỗ trợ cho các DN nội địa của Vùng
phát triển công nghiệp hỗ trợ, kể cả liên doanh với DN nước ngoài.
Hướng thu hút dòng vốn FDI vào các ngành công nghiệp, nông nghiệp
và dịch vụ không chỉ nhằm khai thác và phát huy lợi thế của Vùng, mà còn tạo
điều kiện để thúc đẩy các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong Vùng
hoạt động có hiệu quả và có năng lực cạnh tranh cao, khuyến khích họ mở rộng
phạm vi hoạt động ra thị trường khu vực và thị trường thế giới.
132
Thứ bảy, coi trọng liên kết phối hợp giữa các cấp và các lực lượng có
liên quan đến thu hút FDI
Phương hướng này nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tập trung nguồn lực
bên trong và bên ngoài cho thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ. Nội dung
của phương hướng này là cần coi trọng sự phối kết hợp một cách chặt chẽ và
nhịp nhàng hơn giữa các cơ quan xúc tiến ĐT, xúc tiến thương mại và xúc
tiến du lịch của Chính phủ với các tổ chức của các tỉnh trong Vùng. Tăng
cường trách nhiệm của Chính phủ trong điều phối phát triển vùng Bắc
Trung Bộ. Chính phủ phải tạo điều kiện và khuyến khích các tỉnh phối hợp
cùng nhau xúc tiến và thu hút FDI vào Vùng theo một chương trình thống
nhất, tránh cạnh tranh không lành mạnh nhằm tiết kiệm nguồn lực. Các bộ
ngành phải chịu trách nhiệm phát triển chuỗi giá trị ngành trong Vùng, tìm
kiếm sự hợp tác quốc tế và ĐT để nắm bắt được những xu hướng phát triển
mới nhất của FDI trên thế giới và hỗ trợ các địa phương đón bắt cơ hội thu
hút FDI. 4.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO VÙNG BẮC TRUNG BỘ
4.2.1. Nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư ở Vùng Bắc
Trung Bộ
4.2.1.1. Hoàn thiện và triển khai thực hiện kiên quyết các quy định
pháp lý liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng Bắc Trung Bộ Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật ĐT và Luật DN năm
2014 thay cho các văn bản pháp luật trước đây, có hiệu lực từ 01/7/2015. Đây
là cơ sở pháp lý cơ bản, quy định chung nhất cho lĩnh vực ĐT, kinh doanh,
quy định những nguyên tắc chung nhất cho thành lập và quản trị DN, áp dụng
cho tất cả các DN trong nước và nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Tinh thần
của Luật này là tạo những cơ sở pháp lý cho triển khai đồng bộ các quy định của
luật pháp phù hợp với bước chuyển sang phát triển theo chiều sâu, sử dụng
133
nguốn lực trong nước và thu hút nguồn lực nước ngoài một cách hiệu quả theo
hướng ngày càng hội nhập sâu hơn của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
Trên cơ sở Luật ĐT 2014, để thúc đẩy FDI vào nước ta nói chung,
vùng Bắc Trung Bộ nói riêng, trong thời gian tới cần hoạn thiên các quy định
pháp quy nội vùng và triển khai thực hiện tinh thần đổi mới của Luật ĐT
2014 trên các mặt sau:
- Tiếp tục rà soát các văn bản pháp quy, các chính sách về ĐTNN, về
phạm vi, giới hạn kinh doanh của người nước ngoài áp dụng trong Vùng Bắc
Trung Bộ để điều chỉnh các nội dung không đồng bộ, chưa nhất quán với tinh
hàn đổi mới của Đại hội XII, bổ sung các quy định còn thiếu, sửa đổi các quy
định đã lạc hậu hoặc chưa rõ ràng sao cho các thủ tục liên quan đến ĐT và
kinh doanh phù hợp với Luật ĐT và Luật DN năm 2014, Luật Đất đai 2013 và
Bộ luật Dân sự đang trong quá trình sửa đổi. Nhanh chóng điều chỉnh, bổ
sung các hướng dẫn thực thi luật nhằm tạo sự đồng bộ và thống nhất trong
cách hiểu, cách chỉ đạo, cách làm của cán bộ quản lý nhà nước liên quan đến
dự án FDI, tạo cơ sở tin cậy cho nhà ĐTNN đẩy nhanh tiến độ ĐT. Rà soát và
sửa đổi các quy định pháp lý về điều kiện ĐT, về quản lý chất lượng sản
phẩm, về các quy định kế toán, kiểm toán để, một mặt, loại bỏ các quy định
không khả thi, chồng chéo, mặt khác, bổ sung các quy định mới chặt ché hơn
có khả năng phòng ngừa hiệu quả các hành vi gian lận trong kế toán, thuế, xử
lý chất thải, thực thi chế độ với người lao động trong các DN FDI… Rà soát
các quy định hiện hành về mua lại và sát nhập DN có yếu tố nước ngoài nhằm
khuyến khích nhà ĐTNN bỏ vốn cách tân các DN hiện có trong Vùng. Đây là
con đường nhanh nhất để có thể tái cấu trúc nhanh các DN, nhất là DN nhà
nước trong vùng Bắc Trung bộ.
- Để hỗ trợ các tỉnh trong Vùng Bắc Trung Bộ, Chính phủ cần tích cực
triển khai thực hiện Đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán và DN bảo
hiểm để đa dạng hóa các công cụ cho nhà ĐT giao dịch, nhất là cho các nhà
134
ĐTNN, khuyến khích nhà ĐTNN tham gia nhiều hơn vào các giao dịch cổ
phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Việc thành lập
Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam với các thị trường bộ phận được hình
thành có chức năng chuyên biệt nhưng kết nối với nhau bao gồm thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường phái sinh sẽ giúp các nhà ĐTNN vào
vùng Bắc Trung Bộ có thể liên doanh, ĐT vào các vùng khác, tăng lợi ích
khuyến khích các nhà ĐTNN đã và sẽ ĐT vào Vùng trong con mắt nhà
ĐTNN Bắc Trung Bộ.
- Căn cứ vào quy hoạch phát triển tổng thể vùng Bắc Trung Bộ, Chính
phủ, Ban Chỉ đạo miền Trung và Tây Nguyên cần tạo điều kiện khuyến khích
các tỉnh cùng nhau xây dựng danh mục khuyến khích ĐT chung vào vùng và
chung sức xúc tiến ĐT, kêu gọi vốn FDI cho giai đoạn đến năm 2020. Chính
phủ nên hỗ trợ Ban Chỉ đạo Miền Trung và Tây Nguyên xây dựng trang thông
tin điện tử cung cấp thông tin chi tiết bằng tiếng Anh về dự án và lĩnh vực
được ưu đãi, ưu đãi đặc biệt kèm theo các điều kiện ĐT vào Vùng Bắc Trung
Bộ để các nhà ĐTNN nắm được cơ hội tiếp các cận ưu đãi ĐT. Chính phủ,
nhân danh cơ quan quản lý vùng tổng hợp, cần hoạch định chính sách chung
cho Vùng một cách cụ thể hơn, xây dựng các văn bản hướng dẫn phối hợp
chung về xúc tiến ĐT giữa các tỉnh trong Vùng, hỗ trợ các tỉnh tham gia
chương trình quảng bá tiềm năng chung của Vùng, thống nhất quản lý Vùng
về phương diện xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, khuyến khích các địa phương
hỗ trợ nhau trong tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến ĐT ở nước ngoài.
Đồng thời, Chính phủ cần có chính sách thúc đẩy các dự án FDI lớn giải
ngân, xiết chặt tiêu chuẩn công nghệ áp dụng cho các dự án FDI mới nhằm
hạn chế cấp phép các dự án sử dụng nhiều đất, sử dụng đất nông nghiệp thuần
dưỡng. Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ tiến hành rà soát các dự án đã cấp giấy
chứng nhận ĐT trên toàn vùng Bắc Trung Bộ để có hướng xử lý đối với các
dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Trung ương, đặc biệt là các dự án quy
135
mô lớn, sử dụng nhiều đất, tọa lạc ở các vùng nhạy cảm để có hướng xử lý
dứt điểm.
- Rà soát để bổ sung và hoàn thiện chính sách khuyến khích các DN
FDI sử dụng lại các phế liệu của nhau nhằm bảo vệ môi trường và sử dụng có
hiệu quả tài nguyên của vùng Bắc Trung Bộ, duy trì và phát triển tiềm năng tự
nhiên về du lịch sinh thái của Vùng. Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch cần làm
đầu mối thống nhất khuyến khích các tỉnh trong Vùng Bắc Trung Bộ phối hợp
chính sách phát triển du lịch vùng, lựa chọn các địa điểm du lịch có thể kết
nối theo chuỗi nhằm tăng độ hấp dẫn của tua du lịch theo vùng, đồng thời
giảm mức độ cạnh tranh phi lý giữa các tỉnh do đều áp dụng một loại hình du
lịch giống nhau.
- Hiện nay, Khắc phục nhanh chóng tình trạng vùng Bắc Trung Bộ còn
tồn tại tình trạng đồng bộ của các hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thực
hiện các quy định về chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi ĐT giữa các tỉnh trong
Vùng Bắc Trung Bộ. Chính phủ cần phối hợp các tỉnh và các Bộ ngành liên
quan rà soát các quy định tại các văn bản chuyên ngành, các quy định tại
những văn bản của tỉnh để đảm bảo nội dung quy định nhất quán với nhau,
không chồng chéo lên nhau và đặc biệt không tạo những kẽ hở để giải thích
sai quy định. Để khắc phục tình trạng thiếu đồng bộ của các hệ thống văn bản
pháp quy, nên có những điều chỉnh các văn bản qui phạm pháp luật cao hơn
về thuế, tăng tính minh bạch của chính sách thuế đối với DN FDI.
- Nên có quy định ưu đãi riêng đối với danh mục lĩnh vực, địa bàn ĐT
trong các chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển ngành, lĩnh vực và
chính sách ưu đãi ĐT hiện hành trong một văn bản pháp luật duy nhất. Rà
soát lại toàn bộ hệ thống ngành kinh tế quốc dân và địa bàn cần khuyến khích
ĐT trong cả nước, nghiên cứu để xây dựng một danh mục lĩnh vực, địa bàn
ưu đãi ĐT áp dụng chung cho tất cả các ngành/lĩnh vực. Trên cơ sở đó, quy
định cụ thể mức ưu đãi, hình thức ưu đãi, quy trình thủ tục thực hiện ưu đãi,
136
các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về thuế, tài chính, đất đai, tín
dụng... mà không quy định ưu đãi thêm cho lĩnh vực, địa bàn ưu đãi. Việc thu
hút FDI ở vùng Bắc Trung Bộ phải dựa trên cơ sở một chính sách ưu đãi ĐT
chung của cả nước để vận dụng vào địa bàn theo định hướng Chiến lược và
chính sách, pháp luật chung cho cả nước, tạo tính đồng bộ, thống nhất trong
điều hành theo Vùng. Khắc phục tình trạng mỗi tỉnh có một chế độ ưu đãi về
chính sách tài chính dẫn đến hiện tượng cạnh tranh theo kiểu hạ thấp điều
kiện thu hút FDI.
4.2.1.2. Đổi mới chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
vùng Bắc Trung bộ * Đổi mới chính sách ưu đãi về tài chính đối với nhà ĐTNN
Theo kết quả điều tra của nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, nhà ĐTNN
không quá coi trọng ưu đãi về thuế thu nhập DN, bởi thời gian ưu đãi thuế thu
nhập DN thường trùng với giai đoạn DN chưa có lãi. Vì thế, cần thiết kế lại
các chính sách ưu đãi tài chính có giá trị thực tế hơn.
Thứ nhất, cần cụ thể hóa các ưu đãi về thuế và ưu đãi ĐT thích hợp với
định hướng thu hút FDI vào vùng. Các lĩnh vực như du lịch, khai thác và chế
biến khoáng sản, dịch vụ cảng biển, nông, lâm nghiệp, sản xuất hàng tiêu
dùng xuất khẩu,…. nên được chú trọng để tìm kiếm tổng các ưu đãi có tính
cạnh tranh theo Vùng Bắc Trung Bộ so với các Vùng kinh tế khác. Đặc biệt,
các tỉnh trong vùng cần phối hợp để các nhà ĐTNN triển khai các cơ sở kinh
doanh của họ thành một chuỗi trong vùng mà không dẫn đến tình trạng thi
nhau tăng ưu đãi, hạ thấp điều kiện thu hút ĐT. Khuyến khích mạnh hơn các
nhà ĐT có dự án lớn, du nhập công nghệ hiện đại bằng các hỗ trợ giải phóng
mặt bằng, hỗ trợ đào tạo nhân lực, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng
rào dự án…Không nên lạm dụng chs ưu đãi tài chính vì các ưu đãi này không
đáng kể so với lợi ích mà nhà ĐTNN kỳ vọng, trong khi đó các tỉnh trong
Vùng đang gặp khó khăn về tài chính công. Chú ý soạn thảo kịp thời các tài
137
liệu hướng dẫn, các quy trình thủ tục hành chính xác nhận và cung cấp ưu đãi
để công khai trên các phương tiện truyền thông dễ truy cập cho tất cả các nhà
ĐTNN có nhu cầu dưới một số ngôn ngữ phổ biến. Hơn nữa, cần chỉ đạo các
cơ quan chức năng có liên quan đến ĐTNN nghiêm chỉnh chấp hành các quy
định và nhiệt tình, thân thiện trong hỗ trợ nhà ĐTNN tìm kiếm cơ hội ĐT
trong Vùng.
Thứ hai, xuất phát từ mục tiêu và định hướng phát triển ưu tiên của
Vùng có xét đến khung khổ chính sách quốc gia và cam kết của Việt Nam với
các tổ chức quốc tế, tiến hành nghiên cứu thận trọng từng lĩnh vực, ngành
nghề, địa bàn mong muốn thu hút FDI để tính toán các lợi thế, bất lợi thế của
chúng, sau đó mới thiết kế tổng hợp các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ, quản lý có
sức hấp dẫn riêng đối với các nhà ĐTNN. Khắc phục nhược điểm của Vùng là
điều kiện tự nhiên không thuận lợi, là khí hậu khắc nghiệt và xa các trung
tâm, các thị trường tiêu thụ lớn trong nước, thu nhập trung bình của người dân
thấp và phát huy lợi thế cảng biển, giao thông đường biển của Vùng, nên tìm
kiếm các đối tác và khuyến khích các dự án sản xuất hàng chất lượng cao
phục vụ xuất khẩu. Chính vì thế, chính sách thu hút nên hướng vào các tập
đoàn kinh tế lớn, có tiềm lực và thị phần lớn trên thế giới. Muốn vậy, cần chủ
động cụ thể hóa các ưu đãi bằng cách hạ chi phí tiền ĐT, chi phí sản xuất sản
phẩm và chứng minh thiện ý quyết tâm thực hiện các cam kết theo Vùng. Bởi
vì dự án lớn đòi hỏi huy động nguồn nhân lực, vật lực của cả vùng. Nếu
không có sự phối hợp chính sách tốt, không có cam kết thực hiện những điều
đã hứa, các tập đoàn kinh tế lớn không muốn mạo hiểm dự án ĐT của họ vào
Vùng có nhiều khó khăn như Bắc Trung Bộ.
Thứ ba, chú trọng vấn đề cơ hội và điều kiện tạo thuận cho nhà ĐTNN
tiếp cận ưu đãi của chính quyền các tỉnh trong Vùng. Nếu mức ưu đãi quá nhỏ
so với nhà ĐTNN, trong khi thủ tục hành chính quá nhiêu khê, tốn kém thì
chính sách ưu đãi chỉ có lợi cho những cán bộ thoái hóa câu kết với nhà
138
ĐTNN nhằm trục lợi, không hấp dẫn các nhà ĐTNN thạt sự muốn tổ chức cơ
sở sản xuất mang tính dài hạn của họ ở địa bàn thuộc Vùng Bắc Trung Bộ. Để
làm được điều này, ngoài sự phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh trong cung cấp
ưu đãi ĐT, lãnh đạo và cán bộ quản lý ĐTNN của các tỉnh phải có thái độ hợp
tác, thân thiện với nhà ĐTNN. Các cơ quan quản lý ĐT của các tỉnh phải có
khả năng phòng ngừa và chống nạ nhũng nhiễu các nhà ĐTNN để trục lợi cá
nhân và lợi ích nhóm. Hạn chế tối đa sự tùy tiện trong vận dụng chính sách ưu
đãi cho các dự án FDI. Xử phát nghiêm minh những cán bộ bị các nhà ĐTNN
ca thán là thiếu thân thiện và không hợp tác để triển khai dự án FDI.
Thứ tư, ngoài các dự án lớn có tính chiến lược quốc gia mà việc phê
chuẩn cần đến cơ chế thẩm định của Chính phủ, Quốc hội, vùng Bắc Trung bộ
khó có khả năng cạnh trnah để thu hút các dự án ĐT lớn và có công nghệ cao,
nếu không tạo được lợi thế khác. Để có sức mạnh cạnh tranh với các vùng
Đông Nam Bộ, Vùng Đồng bằng Sông Hồng, vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long và Tây Nguyên, Vùng Bắc Trung bộ nên tận dụng ưu thế sẵn có của
mình là còn nhiều mặt bằng cho phép xây dựng dự án lớn, giá thuê đất rẻ,
lượng lao động tại chỗ lớn và cần cù nên giảm áp lực xây dựng nhà ở và giảm
biến động nghỉ việc sau các ngày lễ, tết. Nếu có nhiều dự án lớn ĐT vào Vùng
Bắc Trung Bộ, con em của các gia đình trong Vùng đang làm việc ở vùng
khác có thể trở về quê đầu quân cho các DN FDI với mức lương cạnh tranh
với vùng khác, trong khi thu nhập của người lao động không giảm sút do họ
giảm các khỏa chi về thuê nhà, đi lại khi làm việc ở vùng khác…
Nói tóm lại, nên tạo ra một tập hợp các khoản hỗ trợ nhà ĐTNN phù
hợp với từng dự án, từng nhà ĐT, trong đó không quá coi trọng các ưu đãi tài
chính, nên kết hợp ưu đãi tài chính với tạo điều kiện và quan hệ thân thiện,
cung cấp đội ngũ lao động có tay nghề với tính kỷ luật cao, cam kết bảo đảm
trật tự xã hội đảm bảo an toàn tài sản cho các nhà ĐTNN. Trên thực tế, nhiều
biện pháp hỗ trợ không quá tốn kém tiền bạc, nhưng lại có kết quả tốt, giúp
139
các nhà ĐTNN không những giảm chi phí ĐT, mà còn giảm giảm chi phí sản
xuất, mang lại tác động lâu bền.
- Thiết kế chính sách phù hợp với yêu cầu của các tập đoàn kinh tế đa
quốc gia, xuyên quốc gia
Các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia thường ưu tiên phát triển
theo chuỗi giá trị sản phẩm mang thương hiệu của họ để tối đa hóa lợi ích từ
thế mạnh của họ. Các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, xuyên quốc gia thường coi
trọng các yếu tố mà Vùng Bắc Trung Bộ có thể có như: nguồn tài nguyên
khoáng sản đa dạng, trữ lượng cho phép quy mô khai thác, chế biến hiệu quả;;
lực lượng lao động thông minh, cần cù, có kỷ luật; Chính quyền các tỉnh và
Chính phủ đang mong muốn thu hút được các dự án FDI nên sẵn sàng hỗ trợ
nhà ĐTNN khắc phục khó khăn; Mức độ tin cậy cao trong thực hiện các cam
kết của chính quyền; thủ tục hành chính thông thoáng; hệ thống dịch vụ thuận
tiện, trình độ cao, nhất là hệ thống giao thông liên quan đến hàng hóa XK,NK,
hệ thống thông tin liên lạc, dịch vụ ngân hàng… Muốn thu hút được các tập
đoàn kinh tế lớn bỏ vốn vào Vùng, chính quyền các tỉnh trong vùng và Chính
phủ phải ưu tiên tạo các điều kiện cần thiết đó.
Ngoài ra, cần có chính sách tiếp thị riêng đối với từng tập đoàn, nhất là
đối với các tập đoàn của Nhật, Mỹ, vì đây là những tập đoàn khó tính, họ sẽ
chỉ đầu tư khi các điều kiện tương thích với họ được đảm bảo và chính sách
thu hút phải phù hợp với định hướng chiến lược kinh doanh của tập đoàn. Vì
thế cần ĐT nghiên cứu tập trung vào một số tập đoàn kinh doanh trong các
ngành, lĩnh vực mà Vùng Bắc Trung Bộ có lợi thế so sánh như ĐT vào cảng
biển, cảng hàng không; tham gia sản xuất các chi tiết sản phẩm trong chuỗi
giá trị ngành của tập đoàn nhằm sử dụng lao động trong vùng; xây dựng hạ
tầng và kinh doanh du lịch; nuôi trồng, khai thác, chế biến và xuất khẩu hải
sản…Sau khi đã lựa chọn được các tập đoàn phù hợp, cần thiết kế chương
trình quảng bá, xúc tiến đầu tư thu hút sự chú ý của họ, cũng như tổ chức giao
140
lưu để tạo quan hệ hiểu biết lẫn nhau. Nhà ĐTNN cần địa bàn ĐT. Nếu các
tỉnh chung sức tạo cho họ địa bàn ĐT phù hợp thì không cần ưu đãi, các tập
đoàn kinh tế cũng chớp lấy cơ hội, nhất là trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc
đang giảm tốc độ tăng trưởng và thị trường Mỹ, Nhật, Châu Âu đang ảm đạm.
Vấn đề là các tỉnh phải chớp cơ hội làm nhanh. Chờ khi kinh tế thế giới khởi
sắc, sức hấp dẫn của Vùng Bắc Trung bộ sẽ giảm.
Các tỉnh trong Vùng nên tranh thủ thời cơ khi ký kết các Hiệp định ĐT
song phương giữa Việt Nam và các đối tác lớn để nắm được thông tin về cơ hội,
sự quan tâm của đối tác nhằm xây dựng chính sách thu hút đặc biệt có tính đến
bản sắc riêng của đối tác chiến lược, tranh thủ sự cam kết của Chính phủ Việt
Nam với đối tác, tránh các ưu đãi thông thường vừa tốn kém, vừa không hấp dẫn
nhà ĐTNN. Chính quyền các tỉnh trong vùng cần tranh thủ những người Việt kiều
đồng hương làm sứ giả kết nối với các nhà ĐT chiến lược ở các nước phát triển.
- Tăng khả năng tiếp cận mặt bằng kinh doanh của nhà ĐTNN
Mặt bằng kinh doanh là vấn đề khá lớn đối với nhà ĐTNN ở Việt Nam.
Hiện tại, mặt bằng trong các KCN, khu kinh tế trong vùng Bắc Trung Bộ còn
khá nhiều nên các nhà ĐTNN có dự án trong khu kinh tế, KCN không gặp
nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các dự án ĐT vào nông nghiệp hoặc vào các dịch
vụ khác cần tiếp cận những diện tích đất lớn ngoài KCN. Cần tính trước
những vấn đề này, nhất là các dự án về chăn nuôi, dự án lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản. Bắc Trung bộ khan hiếm quỹ đất nông nghiệp thuận lợi cho
trồng lúa, người nông dân trong vùng có đời sống khó khăn, nếu rời mảnh đất
của mình, họ có thể lâm vào tình trạng đói, nghèo. Vì thế, cần có sự hợp tác
trong vùng để vừa cho phép sử dụng đất hợp lý, tạo điều kiện cho các nhà ĐT
nước ngoài có được diện tích đất ở vị trí phù hợp với yêu cầu kinh doanh của
họ, vừa giảm áp lực lấy vào quỹ đất nông nghiệp, vừa giữ gìn trật tự xã hội.
Ngoài ra, cần cùng với nhà ĐTNN giải quyết các vấn đề về nhà ở cho
công nhân ở các KCN, các công trình giải trí, cung cấp dịch vụ y tế, học tập
141
cho gia đình công nhân gắn với kinh phí và chính sách xã hội trên địa bàn.
Không nên coi việc cung cấp nhà ở, suất ăn công nghiệp, cơ sở y tế, trường
học cho con em của công nhân là trách nhiệm riêng của chủ ĐT. Bởi vì, xét
cho đến cùng thu hút FDI để có thu NSNN, có việc làm và thu nhập cũng
chính là để phục vụ lại người công nhân. Nếu quan niệm như thế và triển khai
tuyên truyền, giáo dục cho người lao động, dân cư, nông dân bị thu hồi đất
hiểu thực chất của thu hút FDI thì các áp lực chống đối sẽ giảm. Đây mới là
điểm hấp dẫn các nhà ĐTNN. Thực chất nhà ĐTNN không đầu cơ đất, họ cần
những diện tích đất để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh và nhu cầu của những
người lao động mà họ sử dụng. Nếu chính sách đất đai không giải quyết thông
thoáng những nút thắt này thì nhà ĐTNN còn e ngại.
Ngoài ra, những quy định về người nước ngoài sở hữu nhà ở tại địa
phương cũng cần được triển khai một cách thông thoáng. Những vướng mắc
về đền bù nên được chính quyền địa phương giải quyết nhanh gọn để có quỹ
đất "sạch" giao cho nhà ĐTNN theo cam kết. Đối với người nước ngoài, hiệu
lực thực thi cam kết của chính quyền mới là yếu tố quan trọng trong tiếp cận
đất đai. Do cơ chế thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất ở Việt Nam khá
phức tạp, Luật Đất đai 2013 không cho phép người dân thỏa thuận giá đền bù
với chủ ĐT, nên nhà ĐTNN buộc phải thông qua cơ quan nhà nước mới có
được mặt bằng. Hiệu lực và độ tin cậy của cơ quan quản lý nhà nước về đất
đai có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà ĐTNN.
Cũng cần lưu ý tình trạng cán bộ nhà nước lợi dụng nhà ĐTNN để
tham nhũng khi thu hồi và giao đất. Do cơ quan cấp tỉnh có quyền hạn rất lớn
để thu hồi và giao đất theo giá nhà nước nên thông thường giá đền bù và tiền
thu sử dụng đất đều thấp hơn giá thị trường. Chính vì thế, nhà ĐTNN có
nhiều cơ hội để hối lộ quan chức cấp tỉnh có được đất, nhất là đất xây dựng
khu đô thị, với giá rẻ. Để ngăn chặn nguy cơ này, cần thay cơ chế giao đất
bằng cơ chế đấu thầu đất. Các địa phương trong vùng cần chủ động thu hồi
142
các diện tích chuyển mục đích theo quy hoạch để làm thủ tục đền bù cho dân
trước khi giao cho các nhà ĐTNN sử dụng. Khi đã có quỹ đất sạch, trung tâm
phát triển quỹ đất nên tiến hành đầu thầu đất theo mục đích sử dụng được phê
duyệt nếu đất đó ngoài KCN. Với cách làm này, nhà ĐTNN sẽ không phải
chờ đợi trong thời gian giải phóng mặt bằng, đồng thời cũng không phải chịu
áp lực chống đối từ phía người dân mất đất.
- Đổi mới chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động
Nếu có dự án sử dụng nhiều lao động trong vùng thì nhiều người lao
động sở tại có thể giảm chi phí trong cuộc sống của họ do không phải thuê
nhà, không tách họ khỏi các mối quan hệ hỗ trợ của cộng đồng (như nhờ ông
bà chăm sóc con nhỏ…). Vì thế, với mức tiền công danh nghĩa thấp hơn các
vùng kinh tế trọng điểm, mức sống của công nhân ở vùng Bắc Trung Bộ có
thể không thấp hơn các vùng khác. Đây là một lợi thế của vùng. Lợi thế này
kết hợp với lợi thế không gian phát triển còn rộng có thể tạo nên sức hấp dẫn
của Vùng mà các vùng đã phát triển không có. Hơn nữa, do Bắc Trung bộ rất
thuận tiện về mặt giao thông kết nối với các nơi khác nên nếu có sẵn mặt bằng
và lao động có tay nghề cao, không đòi hỏi mức tiền công quá cao, Bắc Trung
Bộ có thể hấp dẫn nhiều nhà ĐTNN.
Muốn vậy, cần thay đổi phương thức đào tạo nghề cho người lao động ở
nông thôn. Nên sử dụng kinh phí của Đề án đào tạo nghề cho lao động ở nông
thôn để hỗ trợ đào tạo nghề cho các dự án cụ thể của các DN trên địa bàn. Chính
sách đào tạo nghề này phải thoát khỏi cung cách đào tạo của hệ thống đào tạo
công lập trên địa bàn là đào tạo theo chỉ tiêu, theo những gì nhà trường có. Nên
hợp tác với nhà ĐTNN để thiết kế các chương trình đào tạo thích hợp với từng
đơn vị sử dụng người lao động với nhiều phương thức linh hoạt (thiết kế chương
trình theo yêu cầu của người sử dụng lao động, kết hợp mời giáo viên chuyên
nghiệp và nhân viên kỹ thuật của DN để đào tạo công nhân, làm công tác tư
tưởng để người lao động có tinh thần học tự giác học tập, nâng cao tay nghề…).
143
Ngoài phần đào tạo tay nghề, cần giáo dục để người lao động nhận thức
đúng quan hệ người lao động - người quản lý - giới chủ nhằm tạo dựng tinh thần
hợp tác trong quản trị DN, xây dựng tinh thần lao động công nghiệp, phòng ngừa
các tranh chấp không cần thiết,… qua đó thuyết phục các nhà ĐTNN khác mở
dự án mới trong Vùng. Phát huy tinh thần lao động cần cù và kỷ luật lao động
cao của người miền Trung, tạo dựng uy tín và nhân lực chất lượng cao của
Vùng, tạo dựng văn hóa làm việc của công nhân trong các DN của vùng.
Phối hợp các tổ chức Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên và hội phụ nữ
trong các DN FDI để xây dựng các thỏa hiệp lao động đúng đắn, tạo cơ chế
giải quyết tranh chấp lao động ổn thỏa, công bằng, mang tính hợp tác, xây
dựng. Khắc phục đặc tính cách nóng nảy, cương trực, bảo thủ của một số
thanh niên lao động trẻ trong vùng. Tuyên truyền, giáo dục để người sử dụng
lao động và người lao động có quan điểm và cách giải quyết vấn đề hòa hợp
với nhau.
4.2.2. Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng trong vùng
Tính đồng bộ và hiện đại của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội là
điều kiện tối cần thiết cho phát triển các hình thức ĐT, trong đó có FDI. Để
khắc phục tình trạng hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém của vùng Bắc Trung
Bộ hiện nay, cần đặc biệt quan tâm quy hoạch mạng lưới kết cấu hạ tầng
mang tính kết nối Vùng, ưu tiên đầu tư sớm, đồng bộ cho các địa bàn trọng
điểm nhằm tạo địa điểm ĐT thích hợp cho các dự án FDI, cũng như bồi
dưỡng nguồn thu để có tiền ĐT xây dựng kết cấu hạ tầng cho các địa bàn
khác. Về cơ bản, nên chú trọng các giải pháp sau:
- Phát triển hệ thống giao thông: Trước hết cần sắp xếp lại các cảng
biển, phân biệt cảng quốc tế (để ĐT thỏa đáng đáp ứng tiêu chuẩn dịch vụ
cảng quốc tế) và cảng nội địa (với mức ĐT thấp hơn). Chỉ có cách làm như
vậy mới có thể nâng cao chất lượng dịch vụ cảng biển của Vùng, đồng thời
cân đối được ngân sách hạn hẹp của Nhà nước. Tuy nhiên, sự sắp xếp này sẽ
144
rất khó khăn do tỉnh nào cũng muốn cảng của mình phải được ưu tiên. Ở đây
cần sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ. Muốn vậy, Bộ giao thông vận tải
phải thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu để có thể đưa ra phương án hiệu
quả, khách quan, trên cơ sở đó chính phủ chỉ đạo sắp sếp lại cảng biển thông
qua công cụ cấp vốn ĐT từ Ngân sách nhà nước. Rà soát lại quy hoạch hệ
thống cảng biển để tiếp tục ĐT phát triển đồng bộ cả bến cảng, luồng vào
cảng, hệ thống dịch vụ hỗ trợ cảng, giao thông liên kết cảng với hệ thống giao
thông quốc gia đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của các địa phương trong
vùng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, vận hành hệ
thống cảng và các hoạt động dịch vụ cảng.
Để chia xẻ lợi ích giữa các tỉnh, cần thiết kế hệ thống trung chuyển
hàng hóa giữa các cảng nhằm thiết lập tuyến vận chuyển biển nội bộ vùng,
nội bộ đất nước kết nối với vận chuyển quốc tế. Các tỉnh có cảng biển quốc tế
đương nhiên có vai trò trung tâm giao lưu hàng hóa trong vùng. Kết nối với
trung tâm này cần phát triển hệ thống giao thông đường bộ phù hợp với bố trí
cảng và quy hoạch phát triển đường bộ chung cho toàn vùng Bắc Trung Bộ,
cũng như thống nhất với hệ thống đường bộ, đường sắt quốc gia.
Cần có sự phối hợp giữa các tỉnh trong vùng và với Bộ Giao thông Vận
tải để ưu tiên ĐT nâng cấp và mở rộng Quốc lộ 1A, nâng cấp các tuyến giao
thông hành lang kinh tế Đông - Tây, xây dựng đường vành đai biên giới và hệ
thống đường phía Tây của các tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế. Nâng
cấp và hoàn thiện các tuyến quốc lộ còn lại trong vùng. Xây dựng tuyến
đường bộ cao tốc Bắc - Nam đoạn chạy qua địa bàn Bắc Trung Bộ trên cơ sở
quy hoạch đã được Chính phủ phê duyệt, trước mắt là đoạn Bắc Thanh Hóa -
Bãi Vọt (Hà Tĩnh).
Cải tạo, nâng cấp tuyến đường sắt Bắc - Nam đoạn chạy qua địa bàn
Bắc Trung Bộ theo cấp tiêu chuẩn kỹ thuật chung của đường sắt quốc gia.
ĐT, trang bị kỹ thuật đảm bảo chạy tầu đạt tốc độ 90 - 120km/h. Hoàn thành
145
cơ bản việc nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các cảng hàng không Thanh
Hóa, Vinh, Đồng Hới.
Nếu đạt được sự thống nhất giữa cảng biển, đường bộ, đường sắt,
không chỉ kết nối các tỉnh trong Vùng, mà còn liên kết với nước bạn Lào thì
vùng Bắc trung bộ sẽ có thêm lợi thế thu hút ĐT, nhất là trong bối cảnh Cộng
đồng kinh tế ASEAN đã được thành lập.
- Phát triển năng lượng điện: Bên cạnh việc ĐT xây dựng các nhà máy
nhiệt điện Nghi Sơn (Thanh Hóa), Vũng Áng (Hà Tĩnh), cần xây dựng các dự
án thủy điện ở tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên - Huế bảo đảm
cấp điện cho toàn Vùng. ĐT xây dựng hệ thống truyền tải điện 110 KV, 220 KV,
500 KV và hệ thống phân phối điện đáp ứng nhu cầu sử dụng điện ngày càng
cao không chỉ của các dự án FDI mà còn của các KCN, khu đô thị và đáp ứng
nhu cầu của người dân.
- Phát triển hệ thống thông tin và truyền thông: Xây dựng kết cấu hạ
tầng mạng viễn thông hiện đại, dung lượng và tốc độ lớn. Phát triển các dịch
vụ viễn thông không chỉ phục vụ cho thu hút và hoạt động của FDI mà còn
phục vụ phát triển phát triển KT-XH, trong đó có kinh tế biển, đánh bắt hải
sản xa bờ, phục vụ hàng hải, an toàn cứu nạn trên biển và phục vụ quốc
phòng, an ninh.
- Phát triển hạ tầng KH&CN: Phát triển các cơ sở nghiên cứu, ứng
dụng KH&CN của vùng Bắc Trung Bộ trên cơ sở hạt nhân là các trường
Đại học, các cơ quan nghiên cứu trên địa bàn trên quan điểm đa dạng tiềm
lực KH&CN, coi trọng ứng dụng công nghệ cao cho các ngành công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu,... và các ngành kinh tế
khác. Phát triển tiềm lực KH&CN tại các tỉnh để hỗ trợ thu hút có hiệu quả
nguồn vốn FDI.
- Mở rộng, nâng cấp hệ thống cấp, thoát nước và vệ sinh môi trường:
Xây dựng đồng bộ hệ thống cấp nước đảm bảo đáp ứng nhu cầu cho sản xuất
146
và sinh hoạt của các KCN, khu đô thị và mở rộng đến các khu vực nông thôn,
ven biển và hải đảo trên cơ sở gắn phát triển DN FDI với xây dựng nông thôn
mới. Xây dựng hệ thống mạng lưới quan trắc chất lượng nước mặt, nước
ngầm trong toàn vùng để kiểm tra, giám sát độ ô nhiễm của nguồn nước. ĐT
nâng cấp, xây mới đồng bộ hệ thống thoát nước thải, nước mưa tại các KCN,
khu đô thị; đảm bảo nước thải sinh hoạt, sản xuất tại các KCN được xử lý đạt
tiêu chuẩn theo quy định trước khi xả ra hệ thống tập trung; đồng thời kiểm
soát chặt chẽ, xử lý nghiêm minh những vi phạm gây ô nhiễm môi trường của
các DN không phân biệt là DN trong nước hay nước ngoài.
Thu gom và xử lý rác thải tập trung nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm
môi trường. Ở mỗi tỉnh trong Vùng, cần xây dựng ít nhất một khu xử lý chất
thải rắn theo công nghệ tiên tiến để tái chế, hạn chế biện pháp chôn lấp nhằm
tiết kiệm đất và đảm bảo vệ sinh môi trường.
4.2.3. Mở rộng đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong vùng Bắc Trung Bộ
Phát triển nhân lực là một nội dung rất quan trọng đã được xác định
trong Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải
Miền Trung đến năm 2020 và Phương hướng chủ yếu phát triển KT-XH vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2020 đã được Thủ tường Chính phủ
phê duyệt. Tuy nhiên, để mở rộng thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ trong
thời gian tới, bên cạnh việc vận dụng các chính sách của Nhà nước, các tỉnh
vùng Bắc Trung Bộ cũng cần có cơ chế chính sách nhằm phát huy và thu hút
nhân tài, lao động kỹ thuật trình độ cao đến làm việc dài hạn trong vùng.
Đồng thời có quy hoạch và tìm cơ chế nâng cao chất lượng nhân lực tại chỗ
theo hướng:
Thứ nhất, tăng cường ĐT cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế,
văn hóa dưới nhiều hình thức để nâng cao trình độ nhận thức, sức khoẻ và
tính năng động của của người dân địa phương. Đưa chương trình hướng
147
nghiệp vào nhà trường phổ thông để thay đổi tập quán muốn học đại học hơn
là đi làm nghề của người dân trong tỉnh. Giáo dục học sinh tinh thần độc lập,
sáng tạo trong lao động, tinh thần hiệp tác trong làm việc nhóm và làm quen
với các tri thức, thói quen của lao động công nghiệp. Phải kiên trì giáo dục để
thay đổi nhận thức, thói quen đã ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân là trọng
lao động gián tiếp, nhàn hạ, cọi nhẹ lao động sản xuất vất vả.
Tăng cường đào tạo nghề, hỗ trợ và giới thiệu việc làm cho thanh niên
bằng nhiều hình thức. Tìm biện pháp đào tạo nghề cho lao động nông thôn
chuyển sang làm trong các DN FDI. Xây dựng và thực thi kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng ngoài giờ hành chính nhằm nâng cao tay nghề cho người lao động
đang làm việc tại các KCN, khu kinh tế.
Thứ hai, xây dựng chính sách hỗ trợ đạo tạo nghề cho nông dân, thanh
niên và tổ chức thực hiện một cách rõ ràng, minh bạch. Khuyến khích các DN
FDI sử dụng lao động tại chỗ thông qua hình thức hỗ trợ các DN FDI đào tạo
nghề cho lao động tuyển mới của họ. Tìm kiếm nguồn tài chính thông qua các
dự án hợp tác công tư nhằm tạo lập môi trường sống và làm việc ổn định cho
người lao động trong các khu công nghiệp tập trung. Khuyến khích DN FDI
tuyển dụng những người đã được đào tạo và có quy định cụ thể đối với họ
trong việc sử dụng người lao động địa phương. Khuyến khích các tổ chức
công đoàn, đoàn thể tìm cách hỗ trợ nhà ĐTNN sử dụng người đúng năng lực
cũng như có những chính sách hỗ trợ người lao động tự giác bồi dưỡng tay
nghề, tự học năng cao tri thức, kỹ năng để có thu nhập tốt.
Thứ ba, phát triển thị trường lao động kết nối giữa các tỉnh nhằm sử
dụng nguồn nhân lực hợp lý về quy mô, chất lượng và cơ cấu trình độ, ngành
nghề, chủ động đào tạo lao động để đón bắt xu hướng dịch chuyển FDI từ
Trung Quốc và các nước trong Cộng đồng kinh tế ASEAN gắn kết với yêu
cầu phát triển KT-XH của vùng theo Quy hoạch đa được phê duyệt. Hỗ trợ
phát triển các trung tâm xúc tiến việc làm, các địa điểm giới thiệu lao động
148
cho nhà ĐTNN, các cơ sở phối hợp với chủ ĐTNN đào tạo lao động cho dự
án của họ. Xây dựng trang thông tin điện tử chung của vùng nhằm giới thiệu
các cơ hội việc làm cũng như nguồn cung lao động tương ứng. KHUYẾN
KHÍCH và tôn vinh các nhà ĐTNN có công lao trong đào tạo và sử dụng
nhiều lao động địa phương. Đồng thời cũng nghiêm khắc với những người lao
động thiếu tinh thần hợp tác, vụ lợi cá nhân gây mất đoàn kết nội bộ các DN
FDI. Nâng cao năng lực dự báo cầu về thị trường sức lao động để lựa chọn
đào tạo và phát triển nhân lực, tránh đào tạo lãng phí và để khắc phục có hiệu
quả tình trạng thiếu lao động có chuyên môn kỹ thuật, nhân lực chất lượng
cao, nhưng lại thừa lao động giản đơn đã từng tồn tại ở các DN FDI và đã
phải sử dụng bất đắc dĩ lao động từ nước ngoài trong một số dự án vừa qua.
Thứ tư, coi trọng tính dài hạn, đồng bộ, hiện đại và hiệu quả trong phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tăng cường thu hút FDI. Việc đào tạo
và phát triển nhân lực phải dựa trên các dự báo khoa học về xu hướng phat
KT - XH của vùng, xu hướng di chuyển FDI vào Vùng, xu hướng đưa người
lao động vùng Bắc Trung Bộ ra nước ngoài làm việc dưới hình thức "XK lao
động" và mở rộng ĐT trực tiếp của các DN trong vùng, trong nước ra nước
ngoài. Việc đào tạo cũng phải đảm bảo tính mở, nghĩa là khuyến khích mọi
chủ thể tham gia đào tạo nghề cho người lao động, tận dụng năng lực của các
cơ sở đào tạo trên cả nước và có chính sách khuyến khích nhân tài về làm việc
trong vùng. Hướng dài hạn là phải đảm bảo quy chuẩn trong đào tạo phổ
thông, linh hoạt trong đào tạo nghề thoe yêu cầu người sử dụng và thu hút tài
năng vượt trội của vùng khác, khuyến khích người dân tự lựa chọn các hình
thức, chương trình đào tạo. Chính quyền các tỉnh nên hỗ trợ kết nối người lao
động với người sử dụng lao động và hỗ trợ các khóa đào tạo nghề ưu tiên.
- Coi trọng kiểm tra, giám sát thường xuyên và định kỳ trong đào tạo và
phát triển nhân lực. Trên cơ sở đó, đúc kết, rút kinh nghiệm và kịp thời ban
hành những chính sách phù hợp với mục tiêu phát triển KT-XH vùng và đáp
149
ứng yêu cầu thu hút FDI trong từng thời kỳ. Có kế hoạch và các biện pháp
hữu hiệu đối với từng địa phương trong vùng để xây dựng và phát triển toàn
diện nguồn nhân lực với chất lượng ngày càng cao, nhằm đáp ứng yêu cầu
tiếp nhận công nghệ hiện đại của nguồn vốn FDI. Chủ động giải quyết thỏa
đáng quan hệ cung - cầu lao động có khả năng, trình độ kỹ thuật cao trên từng
địa phương và quy mô toàn Vùng, phát huy tác dụng của đội ngũ lao động
này đối với các nhóm dân cư còn ở trình độ thấp và địa bàn chậm phát triển
trong Vùng. Giải quyết việc làm cho những người trong độ tuổi lao động của
Vùng. Khai thác, phát huy vai trò của Đại học Vinh, Đại học Huế và các
trường đại học khác trong Vùng để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu
cầu thu hút FDI ngày càng tăng.
4.2.4. Nâng cao năng lực quản lý hành chính, điều phối thống nhất
trong vùng tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài
Trước hết, cần thống nhất nâng cao năng lực quản lý hành chính cấp
tỉnh theo hướng công khai, minh bạch, tăng trách nhiệm giải trình của công
chức, tạo cơ hội phản biện cho nhà ĐTNN. Muốn vậy, cần rà soát nghiêm túc
các thủ tục hành chính liên quan đến cấp giấy chứng nhậ ĐT, đến giải phóng
mặt bằng và giao đất cho nhà ĐTNN, đến nộp thuế và quyết toán thuế, thanh
tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước…Trên quan điểm hợp tác giữa chính
quyền và nhà ĐTNN, cần bãi bỏ các thủ tục không cần thiết, sắp xếp quy trình
hoàn thành thủ tục hành chính một cách khoa học, định mức thời gian và tiêu
chuẩn hóa chất lượng dịch vụ hành chính do các vị trí làm việc cung cấp,
nhận phản ánh của nhà ĐTNN, kiểm tra và nhanh chóng sửa lỗi nếu có. Nên
đặt ra quy chế để các tỉnh thi đua với nhau trong cải cahcs thu tục hành chính
liên quan đến ĐTNN.
Tiến hành cải cải cách mạnh mẽ hơn các thủ tục hành chính theo hướng
giảm thiểu hình thức cấp giấy phép để chuyển sang chủ yếu hình thức ban
hành quy định về tiêu chuẩn, điều kiện để nhà ĐT tự đăng ký thực hiện và cơ
150
quan quản lý tiến hành hậu kiểm. Đổi mới quy chế nhằm rút ngắn thời gian
đăng ký kinh doanh cho chủ DN nói chung, nhà ĐTNN nói riêng. Coi trọng
tính thống nhất về khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động thu hút FDI và phát
triển DN FDI trên phạm vi toàn Vùng.
Thứ hai, phối hợp các tỉnh với nhau để có kế hoạch đào tạo hợp lý
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý ĐTNN, tạo môi
trường thuận lợi trong giải quyết các thủ tục hành chính cho nhà ĐT, qua đó
gây thiện cảm với nhà ĐTNN và giúp học giảm chi phí ngầm khi ĐT vào
Vùng. Vì các lớp đào tạo thường tốn thời gian và chi phí, nếu không tổ
chức tốt sẽ gây lãng phí và không có ích cho công chức. Nên tổ chức điều
tra nhu cầu trước khi mở lớp đào tạo. Nên hợp tác với các cơ sở đào tạo để
họ thiết kế chương trình đào tạo theo nhu cầu. Đặc biệt cần sử dụng cán bộ
đúng ngành nghề mà tổ chức khuyến khích họ tham gia đào tạo. Có chính
sách và quy chế giám sát công chức chặt chẽ nhằm giảm thiểu tác động tiêu
cực đến nhà ĐTNN.
Thứ ba, xây dựng và ban hành đầy đủ, kịp thời các quy chế, cơ chế,
chính sách đảm bảo phát huy dân chủ, sáng kiến, sáng tạo và làm cho toàn
bộ hệ thống chính quyền các cấp hoạt động tốt, đáp ứng được yêu cầu ĐT
phát triển của các chủ ĐT trong nước và nước ngoài. Nên thiết lập kênh
thông tin phản hồi từ nhà ĐTNN đến các cơ quan chính quyền. Sau khi
nhận được thông tin phản hồi, chính quyền cấp tỉnh phải nhanh chóng giải
quyết hoặc trao đổi với nhà ĐTNN để tránh sự hiểu lầm, làm giảm uy tín
của Vùng.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả trong quản lý điều hành của chính quyền các
cấp trên cơ sở phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan nhằm
khắc phục sự chồng chéo trong thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao,
đồng thời tăng cường công tác phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước đối với nhà ĐTNN.
151
Nghiên cứu, đề xuất cơ chế phối hợp, chính sách liên kết, điều phối
giữa các tỉnh trong Vùng và với các vùng khác trong nước để tăng độ hấp
dẫn thu hút FDI vào Vùng. Phân công, phân nhiệm việc chủ trì, phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan đến kêu gọi ĐT đối với các dự án trọng điểm
của Vùng. Thành lập và đưa vào hoạt động Ban điều phối vùng Bắc Trung
Bộ nhằm hỗ trợ các tỉnh trong phát triển kinh tế, thu hút các nhà ĐT trong
và ngoài nước.
Phối hợp với Cục ĐTNN của Bộ Kế hoạch và ĐT trong việc triển
khai và giám sát thực hiện quy hoạch, giám sát thực hiện các chương trình,
dự án ĐT trọng điểm có quy mô, tính chất vùng theo thứ tự ưu tiên thuộc
lĩnh vực quản lý nhằm thúc đẩy thu hút FDI vào các tỉnh trong Vùng phù
hợp với các quy định của Luật ĐT, Luật DN… mới được Nhà nước sửa đổi
và ban hành.
152
KẾT LUẬN
Thu hút FDI là một hướng đi rất quan trọng nhằm bổ sung nguồn vốn,
tiếp cận công nghệ mới từ các nước nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực
bên trong đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế vùng
Bắc Trung Bộ là sự phát triển chuyên môn hóa sản xuất kết hợp chặt chẽ với
sự phát triển tổng hợp về cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện thực tế, phản
ánh các mối liên hệ kinh tế nội bộ vùng. Để bảo đảm sự phát triển này, việc
phát huy các nguồn lực trong và ngoài vùng cho ĐT phát triển là rất cần thiết.
Tăng cường thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ vì lợi ích chung của vùng
đang là vấn đề cần được quan tâm giải quyết hiện nay.
Đặc điểm của thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ là có tính động, gắn
liền với việc di chuyển tiền và tài sản giữa các quốc gia, gắn liền với chuyển
giao công nghệ. Thu hút FDI còn góp phần phát triển hiệu quả kinh tế vùng.
Do mục tiêu của các nhà ĐTNN là tìm kiếm tài nguyên, tìm kiếm hiệu quả và
tìm kiếm thị trường từ nước tiếp nhận ĐT, nên việc chủ động tạo điều kiện
thu hút FDI là rất cần thiết. Những hoạt động đó không những định hướng,
tạo môi trường thu hút FDI, mà còn là yếu tố bảo đảm ổn định về ĐT, đảm
bảo lợi ích cho cả nhà ĐTNN lẫn người dân trong vùng và cả nước. Quá trình
thu hút FDI chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, trong đó hệ
thống pháp luật, chính sách ĐT, năng lực của hệ thống kết cấu hạ tầng, số lượng
và chất lượng nguồn nhân lực là những yếu tố quan trọng, trực tiếp nhất.
Trong giai đoạn 2007-2014, trên cơ sở chủ trương, quan điểm của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước, bằng sự nỗ lực của các tỉnh vùng Bắc
Trung Bộ, việc thu hút FDI đã đạt được những kết quả quan trọng. Đã thu hút
được 272 dự án FDI còn hiệu lực, với 25 tỷ USD vốn ĐT; đã thu hút 21 quốc
gia và vùng lãnh thổ ĐT vào 14 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công
nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà ĐTNN. FDI
153
đã góp phần quan trọng vào làm tăng lượng vốn ĐT cho các tỉnh trong Vùng,
góp phần chuyển giao công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp
phần tạo việc làm và thu nhập, tăng thu cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy
XK, nâng cao sức cạnh tranh ở cả ba cấp độ quốc gia, DN và sản phẩm; góp
phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị DN, tạo thêm áp lực đối với
việc cải thiện môi trường kinh doanh của vùng. Tuy nhiên, việc thu hút FDI
vào vùng Bắc Trung Bộ thời gian qua còn chưa tương xứng với tiềm năng của
Vùng. Tiến độ giải ngân vốn và kết quả hoạt động của các DN FDI còn hạn
chế, thu hút FDI chưa đạt được một số mục tiêu như kỳ vọng, có hiện tượng
chuyển giá, trốn thuế…
Để tăng cường thu hút và phát huy tác động tích cực của nguồn vốn ĐT
trong thời gian tới, từ thực tiễn thu hút FDI ở vùng Bắc Trung Bộ và kinh
nghiệm của Trung Quốc, Thái Lan và của vùng Đông Nam Bộ, theo phương
hướng phát triển và thu hút nguồn ĐT này, cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp: tiếp tục đổi mới môi trường đầu tư, trong đó hoàn thiện khung khổ pháp
lý liên quan đến ĐTNN, đổi mới chính sách ưu đãi, lựa chọn ĐTNN, phát
triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, mở rộng đào tạo và nâng cao chất
lượng phát triển nhân lực, và nâng cao năng lực quản lý hành chính tạo thuận
lợi cho nhà ĐTNN là những giải pháp trọng yếu.
Thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ là đề tài phức tạp, thay đổi theo
thời gian. Để có thể đưa vùng bắc Trung Bộ thành địa bàn thu hút FDI hấp
dẫn trong nước và khu vực cần sự vào cuộc không những của cơ quan quản lý
nhà nước, người dân, DN trong nước, mà còn của các nhà khoa học với các
nghiên cứu chuyên sâu hơn, nhất là trong hoạch định danh mục dự án ưu tiên
thu hút ĐT chung cho cả vùng, lựa chọn tổ hợp các ưu đãi có hiệu quả cao và
sự chuẩn bị về nhân lực, kết cấu hạ tầng trong vùng.
154
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Nghĩa Hoà (2015), "Thu hút FDI trong phát triển công nghiệp hỗ
trợ ngành điện tử", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (10), tr.73-75.
2. Trần Nghĩa Hoà (2015), "Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI): Khuyến nghị & Giải pháp", Tạp chí Công thương, (10),
tr.74-75.
3. Trần Nghĩa Hoà (2015), "Thu hút FDI vào vùng Bắc Trung Bộ sau 8
năm Việt Nam gia nhập WTO", Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (450), tr.9-12.
4. Trần Nghĩa Hoà (2015), "Vấn đề và giải pháp thu hút FDI vào vùng Bắc
Trung Bộ", Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (451), tr.40-42.
5. Trần Nghĩa Hòa (2015), "Thu hút FDI vào vùng Bắc Trung bộ thực trạng
và giải pháp", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5), tr.57-59.
6. Trần Nghĩa Hoà (2015), Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút ĐT nước ngoài
vào các tỉnh Bắc Trung Bộ, Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.90-94.
7. Trần Nghĩa Hòa (2015), "Phương hướng thu hút FDI vào vùng Bắc
Trung bộ đến năm 2020", Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr.07-12.
155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt 1. Phạm Thị Hoàng Anh, Lê Hà Thu (2014), "Đánh giá tác động giữa vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam", Tạp chí Phát triển kinh tế, (281).
2. Phương Anh, Việt Nam (2008), "Nguy hiểm mới từ FDI, Tin Việt Nam và quốc tế", http://www.vinacorp.vn/, [truy cập ngày 26/5/2015].
3. Nguyễn Thị Tuệ ̣Anh và các cộng sự (2006), Tác động của ĐT trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - CIEM, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2014), Nghiên cứu điều chỉnh chính sách ĐT trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đến năm 2020, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Tường Anh, Nguyễn Hữu Tâm (2013) "Nghiên cứu định lượng về các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các tỉnh thành của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Kinh tế đối ngoại, (4).
6. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục bứt phá, Hà Nội.
7. Nguyễn Thăng Bình (2011), Một số giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài đến năm 2020, Trung tâm Thông tin & Dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 39-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010, Hà Nội.
9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1988 - 2007), Hà Nội.
10. Chính phủ (1993), Nghị định số 18-CP quy định chi tiết việc thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
156
11. Chính phủ (1993), Nghị định số 29-CP về những biện pháp khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước, Hà Nội.
12. Chính phủ (1996), Tờ trình của Chính phủ về Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, Hà Nội.
13. Chính phủ (2006), Nghị định 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư, Hà Nội.
14. Chính phủ (2013), Nghị quyết số 103/NQ-CP về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, Hà Nội.
15. Lê Văn Công (2014), "Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng Đồng Bằng sông Cửu Long", http://www.camautravel.vn/, [truy cập ngày 15/6/2015].
16. Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2009), Kinh nghiệm thu hút FDI vào nông nghiệp của một số nước châu Á và khả năng vận dụng vào Việt Nam, Hà Nội.
17. Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương (2013), ''Tiềm năng phát triển kinh tế xã hội tại khu vực Bắc Trung Bộ'', http://www. vietrade.gov.vn/, [truy cập ngày 17/5/2015].
18. Cục Xúc tiến thương mại (2013), Bắc Trung Bộ - tiềm năng và cơ hội thu hút đầu tư, Hà Nội.
19. Mai Ngọc Cường (2000), Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Khánh Duy (2006), ''Triển vọng FDI vào Việt Nam trong bối cảnh Hội nhập 2006 - 2010'', http://www.hids.hochiminh city.gov.vn/, [truy cập ngày 26/7/2015].
21. Văn Dũng (2014), ''Tăng trưởng kinh tế cao nhất khu vực Bắc miền Trung'', http://dantri.com.vn/, [truy cập ngày 18/12/2015].
22. Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2010), Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVII, Nghệ An.
157
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
25. Nguyễn Bích Đạt (2004), Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đề tài khoa học - công nghệ cấp nhà nước, Hà Nội.
26. Anh Đức (2015), "Nhật Bản và Hàn Quốc đua vị trí FDI vào Việt Nam", http://fia.mpi.gov.vn/, [truy cập ngày 30/04/2015].
27. Nguyễn Đức (2011), "Để Nghệ An trở thành điểm đến của các nhà đầu tư", http://baochinhphu.vn/, [truy cập ngày 10/9/2015].
28. Dương Hà (2011), "Bắc Trung Bộ mời gọi đầu tư FDI: Chờ… ngoại lực", Báo Lao động, (9).
29. Phạm Thanh Hà (2014), ''Thu hút nguồn lực ngoại và bài học cho Việt Nam'', tại trang http://tapchitaichinh.vn/, [truy cập ngày 15/8/2015].
30. Thu Hà (2011), ''Nâng chất lượng dòng vốn FDI trong giai đoạn mới'', http://baochinhphu.vn/, [truy cập 07/07/2015].
31. Hồng Hạnh (2010), "Liên kết để phát triển Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung", http://www.tinkinhte.com/, [truy cập ngày 15/10/2015].
32. Nguyễn Thị Liên Hoa và các cộng sự (2010), "Thu hút FDI "sạch" cho phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam", Bản tin Kinh tế - xã hội, (12).
33. Nguyễn Hòa (2011), "Nghệ An: FDI và ODA là nguồn lực đóng vai trò quan trọng", http://www.baomoi.com/, [truy cập 15/9/2015].
34. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2014), Nghị quyết số 123/2014/NQ-HĐND về điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020, Nghệ An.
35. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2014), Nghị quyết số 143/2014/NQ-HĐND về nhiệm vụ năm 2015, Nghệ An.
158
36. Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2014), Nghị quyết số 09/2014/NQ-HĐND thông qua đề án Điều chỉnh quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Thừa Thiên Huế.
37. Vũ Quốc Huy (2015), ''Thu hút đầu tư nước ngoài tại Thái Lan, Malaysia và kinh nghiệm cho Việt Nam'', http://khucongnghiep.com.vn/, [truy cập ngày 03/9/2015].
38. Phi Hùng (2015), ''Hà Tĩnh tiến ngoạn mục vào top đầu kinh tế cả nước'', https://www.google.com, [truy cập ngày 04/06/2015].
39. Sinh Hương (2014), "Hà Tĩnh nằm trong tốp đầu thu hút đầu tư'', http://baohatinh.vn, [truy cập ngày 15/6/2015].
40. Joseph E. Sliglits và Sahahid Yusuf (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Việt Khoa (2015), ''Những thành tựu trên con đường đổi mới, phát triển của Thanh Hóa'', http://www.biendao24h.vn/, [truy cập ngày 12/06/2015].
42. P.Lan (2015), ''Ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc, mặt trái của sự thăng hoa về kinh tế'', www.tinkinhte.com/, [truy cập ngày 20/04/2015].
43. Trần Thị Tuyết Lan (2010), Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
44. Trần Quang Lâm, An Như Hải (Đồng chủ biên) (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồng Liên (2014), "Thanh Hóa - nhiệm vụ, giải pháp phát triển doanh nghiệp năm 2014", http://www.business.gov.vn/, [truy cập ngày 06/06/2015].
46. Lê Bộ Lĩnh (Chủ biên) (2002), Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
159
47. Hồng Lực (2014), "721 triệu USD được đầu tư vào tỉnh Thanh Hóa", http://tapchicongthuong.vn/, [truy cập ngày 10/9/2015].
48. Nguyễn Mại (2012), "Chiến lược mới thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài", http://www.nhandan.com.vn/, [truy cập ngày 20/7/2015].
49. Nguyễn Mại (2014), "Tránh cách nhìn lệch lạc về tác động của FDI", http://baodautu.vn/, [truy cập ngày 21/04/2015].
50. Michael. P. Todaro (1998), Kinh tế học cho thế giới thứ ba, NXB giáo dục, Hà Nội.
51. Anh Minh (2011), ''Thu hút đầu tư ở Nghệ An: Khi vốn nội thắng thế'', http://pvn.vn/, [truy cập ngày 26/7/2015].
52. Bảo Minh (2010), ''Nâng cao chất lượng thu hút FDI - Hệ lụy từ việc trải thảm đỏ'', www.sggp.org.vn [truy cập ngày 8/9/2015].
53. Đức Nam (2011), ''Cấp phép dự án trồng rừng có vốn đầu tư nước ngoài phải có ý kiến của quốc phòng, công an'', http://baochinhphu.vn/, [truy cập ngày 01/6/2015].
54. Trần Văn Nam (2005), Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, NXB Tư pháp, Hà Nội.
55. Ngân hàng nhà nước (2014), Thông tư số 19/2014/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Hà Nội.
56. Phan Minh Ngọc (2010), ''Nhìn nhận đúng vai trò của FDI ở Việt Nam'', http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/, [truy cập ngày 3/8/2015].
57. Hồ Sỹ Nguyên (2010), Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Viện Chiến lược phát triển, Hà Nội.
58. Phùng Xuân Nhạ (Chủ biên) (2010), Điều chỉnh chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
160
59. Phùng Xuân Nhạ (2013), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Văn Nhật (2011), "Nghệ An thu hút đầu tư vào khu kinh tế Đông Nam", http://www.vietnamplus.vn/, [truy cập ngày 04/8/2015].
61. Nhóm PV (2014), "Nội dung Thủ tướng Chính phủ trả lời chất vấn Đại biểu Quốc hội", http://baodientu.chinhphu.vn/, [truy cập 19/1/2015].
62. Nguyễn Minh Phong (2010), ''FDI vào Việt Nam 2010: Những động thái mới'', www.chinhphu.vn, [truy cập ngày 15/02/2015].
63. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2011), Đầu tư theo hình thức PPP: Phát huy tính ưu việt để phát triển hạ tầng, Hà Nội.
64. Nguyễn Duy Quang (2007), Đầu tư trực tiếp của Liên minh Châu Âu vào Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
65. Anh Quân (2011), ''Xúc tiến đầu tư vào khu vực Bắc Trung Bộ'', Thời báo kinh tế Việt Nam, (05).
66. Quốc hội (1987), Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội. 67. Quốc hội (1996), Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội. 68. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư năm 2005, Hà Nội. 69. Quốc hội (2010), Luật Đầu tư năm 2010, Hà Nội. 70. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư 2014, Hà Nội. 71. Phạm Thành Sơn (2011), ''Đầu tư nước ngoài nhìn từ cả hai phía'',
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/, [24/4/2015]. 72. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2015), Danh mục dự án kêu gọi đầu tư
giai đoạn 2011 - 2015, Nghệ An. 73. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2011), Báo cáo Tổng hợp các dự án
FDI đã đăng ký đầu tư trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Nghệ An. 74. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2011), Báo cáo tóm tắt rà soát, bổ
sung quy hoạch tổng thế phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011 - 2020, Nghệ An.
161
75. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hóa (2014), ''Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Thanh Hóa'', http://fia.mpi.gov.vn/, [truy cập ngày 13/10/2014].
76. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thừa Thiên Huế (2014), ''Tình hình thu hút ĐT trực tiếp nước ngoài tại Thừa Thiên Huế'', http://fia.mpi.gov.vn/, [truy cập ngày 13/10/2015].
77. Nguyễn Huy Thám (1999), Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
78. Sơn Thắng (2015), ''Thừa Thiên Huế vững tin bước vào năm 2015'', tinnhanhchungkhoan.vn, [truy cập ngày 2/04/2015].
79. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quy chế hoạt động của Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo tỉnh Hà Tĩnh, Ban hành theo Quyết định số 162/2007/QĐ-TTg ngày 19/10/2007, Hà Nội.
80. Thủ tướng Chính phủ (2009), Nghị quyết số 13/NQ-CP về định hướng, giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, Hà Nội.
81. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1447/QĐ-TTg về phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng Nam Thanh Bắc Nghệ đến năm 2025 và tầm nhìn sau năm 2025, Hà Nội.
82. Thủ tướng Chính phủ (2011), Chỉ thị số 1617/CT-TTg về tăng cường thực hiện và chấn chỉnh công tác quản lý ĐT trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, Hà Nội.
83. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 321/QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị đến năm 2020, Hà Nội.
84. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 952/QĐ-TTg về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình đến năm 2020, Hà Nội.
162
85. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1786/QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội.
86. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 1114/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung đến năm 2020, Hà Nội.
87. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 1874/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Hà Nội.
88. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 830/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình đến năm 2030, Hà Nội.
89. Hồng Thúy, Văn Thành (2011), "Bí thư tỉnh Hà Tĩnh chia sẽ "bí quyết" thu hút ĐT", http://baophapluat.vn/, [truy cập 25/4/2015].
90. Hà Quang Tiến (2014), Tác động của đầu tư nước ngoài đến phát triển kinh tế xã hội tỉnh Vĩnh Phúc, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
91. Lê Minh Toàn (2004), Tìm hiểu đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
92. Tổng cục Thống kê (2004), Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX, NXB Thống kê, Hà Nội.
93. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám Thống kê 2010, NXB Thống kê, Hà Nội.
94. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê 2013, NXB Thống kê, Hà Nội.
95. Tổng cục Thống kê (2014), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2011, NXB Thống kê, Hà Nội.
96. Tổng cục Thống kê (2015), ''Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài 12 tháng năm 2012, 2013, 2014'', http://fia.mpi.gov.vn/tinbai, [truy cập ngày 15/8/2015].
163
97. Đình Trung (2015), ''Công nghiệp Hà Tĩnh trên đà bứt phá!'', http://baohatinh.vn/, [truy cập ngày 26/01/2015].
98. Trung tâm Thông tin Kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh (2009), "Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty đa quốc gia hiện nay", www.hids.hochiminhcity.gov.vn/, [truy cập 25/7/2015].
99. Trung tâm Thông tin - Tư liệu (2009), Thu hút đầu tư nước ngoài kết quả, thách thức và giải pháp, Hà Nội.
100. Anh Tuấn (2014), ''Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Thanh Hóa: Nhiều kiến nghị "nóng" từ công đoàn cơ sở'', http://laodong.com.vn/, [truy cập ngày 15/5/2015].
101. Trần Tuấn (2015), ''Gần 34.000 lao động làm việc tại Khu kinh tế Vũng Áng'', http://laodong.com.vn/, [truy cập ngày 14/6/2015].
102. Lê Như Tùng (2013), ''Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài'', http://voer.edu.vn/c/058baf8a, [truy cập ngày 15/6/2015].
103. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2011), Báo cáo Kế hoạch xúc tiến đầu tư, phát triển kinh tế đối ngoại giai đoạn 2011 - 2015, Nghệ An.
104. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2011), Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế đối ngoại, Nghệ An.
105. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2011), Dữ liệu cơ bản về môi trường đầu tư tỉnh Nghệ An, Nghệ An.
106. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2011), Điều kiện xã hội và cơ sở hạ tầng Nghệ An, Nghệ An.
107. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2011), Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế đối ngoại, Nghệ An.
108. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2011), Quyết định số 5821/QĐ-UBND ngày 29/12/2011 về quy hoạch xúc tiến đầu tư và phát triển kinh tế đối ngoại tỉnh Nghệ An đến năm 2020, Nghệ An.
109. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2011), Dữ liệu cơ bản về môi trường đầu tư tỉnh Nghệ An, Nghệ An.
164
110. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2015), Báo cáo Kế hoạch xúc tiến đầu tư, phát triển kinh tế đối ngoại giai đoạn 2011 - 2015, Nghệ An.
111. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2012) Quyết định số 753/QĐ-UBND, ngày 20/3/2012, Phê duyệt Danh mục dự án kêu gọi đầu tư vào tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 - 2015 và đến năm 2020, Thanh Hóa.
112. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2006), Nâng cao năng lực nghiên cứu chính sách để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001-2010, Tác động của ĐT trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Hà Nội.
113. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Trung tâm thông tin tư liệu (2010), Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Hà Nội.
114. Quốc Việt (2015), ''Hơn 2.800 tỷ đồng "đổ" vào các khu công nghiệp Thừa Thiên - Huế'', http://www.vietnamplus.vn/, [truy cập ngày 7/7/2015].
115. Nguyễn Trọng Xuân (2002), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
B. Tài liệu tiếng Anh 116. A. L. Calvet (1981), "A synthesis of foreign direct investment theories
and theories of the multinational firm", Journal of International Business Studies, Vol. 12, (1), tr.45-59.
117. Beata Smarzynska Javorcik (2004), "Does foreign direct investment increase the productivity of domestic firms? In search of spillovers through backward linkages", The American Economic Review, Vol. 94, No. 3 June, pp 605-627
118. Bulent Esiyok và Mehmet Ugur (2012), Foreign direct investment in provinces: A spatial regression approach to FDI in Vietnam, University of Greenwich, https://mpra.ub.uni-muenchen.de/, posted 23. January 2012.
165
119. Carp, L. (2012), "Analysis of the relationship between FDI and economic growth-Literature review study",The USV Annals of Economics and Public Administration, 12, pp 154-160.
120. Corrado L., Fingleton B., 2011. Where is the Economics in Spatial Econometrics? Working Papers 1101, University of Strathclyde Business School, Department of Economics.
121. China Economy 2015, http://www.theodora.com/wfbcurrent/china /china economy.html
122. C.Chunlai (1997), Provincial characteristics and foreign direct investment location decision within China, http://econpapers...cercwp/1997
123. Coughlin, C.C. and E. Segev (2000), ‘Foreign Direct Investment in China: A Spatial Econometric Study’, The World Economy, 23, 1, pp 1-23.
124. David G. Hartman (1985), Tax policy and foreign direct investment, Journal of Public Economics (Mỹ), http://info.worldbank.org/.
125. De Melo (2009), Is Foreign direct investment growth conducive? New evidences from Sub-Sahara African Countries, 1980-2005, Applied Econometrics and International Development, http://www.usc.es/economet/journals1
126. D. Sethi, S E Guisinger, S E Phelan and D M Berg (2003), "Trends in foreign direct investment flows: A theoretical and empirical analysis", Journal of International Business Studies, No 34, pp 315-326 (June).
127. Drukker, D. and D.L. Millimet (2007), ‘Assessing the Pollution Haven Hypothesis in an Interdependent World’, working paper 0703, Southern Methodist University.
128. Dunning, J. H. (1977). Trade, location of economic activity and the MNE: a search for an eclectic approach. In B. Ohlin, P. Hesselborn, P. M.Wijkman (Eds.), The international allocation of economic
166
activity:proceedings of a Nobel Symposium held at Stockholm, pp. 395-418, London: The Macmillan Press Ltd.
129. Dunning, John H. (2001) "The Eclectic (OLI) Paradigm of International Production: Past, Present and Future," International Journal of the Economics of Business, Vol. 8, No. 2, pp. 173-190.
130. Dunning, John (2014), Why Do Companies Invest Overseas?, https://www.linkedin.com/pulse/.
131. E.Asiedu (2006), ''Foreign direct investment in Africa: The role of natural resources, market size, government policy, institutions and political instability'', The World Economy, Volume 29, Issue 1, pages 63-77, January.
132. E. Malesky (2006), ''Foreign direct investment in Africa: The role of natural resources, market size, government policy, institutions and political instability'', The World Economy, http://onlinelibrary.wiley.com/
133. Edmund J. Malesky (2007), "20 years of foreign investment: Reviewing and looking forward (1987-2007)", The American Economic Review, Vol. 95, No. 4.
134. Elhanan Helpman, Galen L. (2004), "Export Versus FDI with Heterogeneous Firms", The American Economic Review, Vol. 94 No. 1.
135. Esiyok, Bulent and Ugur, Mehmet (2011): Foreign direct investment in provinces: A spatial regression approach to FDI in Vietnam.
136. FR Root, AA Ahmed (1979), "Journal of Economic Development and Cultural Change", University of Chicago, Vol. 27, No. 4, July 1979, pp 751-767..
137. Garretsen, H. and J. Peeters (2009), ‘FDI and the Relevance of Spatial Linkages: Do Third-Country Effects Matter for Dutch FDI?’, Review of World Economics, 145, pp. 319 - 338.
138. Gordon G. Chang (2014), "Foreign Direct Investment Falling: Trend Could Last Long", Engage China & US focus. stimulate. impact, dated 29.08.2014.
167
139. Hans-Rimbert Hemmer, Nguyen thi Phuong Hoa (2002), Contribution of Foreign Direct Investment to Poverty Reduction: The Case of Vietnam in the 1990s, Univ. Giessen, Fachbereich Wirtschaftswiss.Head, K. and T. Mayer, (2004), ‘Market Potential and the Location of Japanese Investment in the European Union’, Review of Economics and Statistics, 86, 4, pp. 959-972.
140. H Jalilian, J Weiss (2002), ''Foreign direct investment and poverty in the ASEAN region", https://bradscholars.brad.ac.uk/.
141. H Mirza, A Giroud (2004), "Regionalization, foreign direct investment and poverty reduction: Lessons from Vietnam in ASEAN", Journal of the Asia Pacific Economy, http://www.tandfonline.com/
142. IRBM Multinational Tax Department (2012), Malaysian Transfer Pricing Guidelines. Malaysia.
143. James K. Jackson (2013), U.S. Direct Investment Abroad: Trends and Current Issues, New York.
144. James Zhan (2013), "Latest Developments in FDI Trends and Policies", http://unctad.org/meetings/.
145. JICA 2013, A comparative Study on FDI policy in selected Asean countries. 146. J Tobin, S Rose-Ackerman (2003), "Foreign direct investment and the
business environment in developing countries: The impact of bilateral investment treaties...", http://deepblue.lib.umich.edu/.
147. JW Salacuse (1990), "BIT by BIT, The growth of bilateral investment treaties and their impact on foreign investment in developing countries...", The International Lawyer, Vol. 24, No. 3 (Fall 1990), pp. 655-675.
148. K. Akamatsu (1962), A historical pattern of economic growth in developing countries, The Developing Economies, Volume 1, Issue Supplement s1, pages 3-25, August 1962.
149. Lee, Chew Wing (2008), Foreign Direct Investment, Pollution and Economic Growth: Evidence from Malaysia. Nottingham Centre for Research on Globalisation and Economic Policy
168
150. LeSage, J.P. and R.K. Pace (2009), ‘Introduction to Spatial Econometrics’,
Boca Raton, US:
151. Malesky, E. (2007), ‘Provincial Governance and Foreign Direct Investment
in Vietnam’, 20 Years of Foreign Investment: Reviewing and Looking
Forward (1987-2007), Knowledge Publishing House, 2007.
152. Manal Suliman Omer & Liu Yao (2011), Empirical Analysis of the
Relationships between inward FDI and Business Cycles in Malaysia.
153. Masami Ishida (2012), Attracting FDI, Lessons of Easst Asia countries.
154. M Blomström, A Kokko, JL Mucchielli (2003), "The economics of
foreign direct investment incentives", http://earthmind.net/fdi/misc/.
155. Matthew J. Slaughter (2002), Does Inward Foreign Direct Investment
Contribute to Skill Upgrading in Developing Countries?, CEPA
Working Paper 2002-08, http://www.economicpolicyresearch.org/
156. Mitra, Pritha, (2007),"Has Public Investment Crowded In or Crowed Out
Private Investment in Vietnam", IMF’s Country report: Viet Nam,
Selected issues, pp. 46-62.
157. MU Klein, C Aaron, B Hadjimichael (2001), Foreign direct investment
and poverty reduction, books.google.com.
158. Na, L. and W.S. Lightfoot (2006), ‘Determinants of Foreign Direct
Investment at the Regional Level in China’, Journal of Technology
Management in China, 1, 3, pp. 262-278.
159. Nguyen Ngoc Anh & Nguyen Thang (2007), Foreign direct investment
in Vietnam: An overview and analysis the determinants of spatial
distribution across provinces, MPRA Paper 1921, University
Library of Munich, Germany.
160. Nguyen N. A. and Nguyen T. (2007),"FDI in Viet Nam: An Overview
and Analysis the Determinants of Spatial Distribution across
Provinces", MPRA Paper No. 1921, posted 07.
169
161. Nguyen, P.L. and Sajid A. (2010), "Foreign direct investment and economic growth in Vietnam", Asia Pacific Business Review, 16, pp. 183-202.
162. OECD (2010), Indonesia - Investment Policy Review. 163. Pan Long Tsai (1994), Determinants of foreign direct investment and its
impact on economic growth, Journal of Economic Development, (1) (6/1994).
164. Prof. Dr. Hans-Rimbert Hemmer (2006), Ausländische Direktinvestitionen - Flankierende Maßnahmen des Staates, ISSN 1430-6298, http://geb.uni-giessen.de/.
165. Prof. Martin Paldam (2009), Long Run effect of Technological Spillover through FDI on Economic Growth in Developing Countries: A Panel Cointegration Approach, http://www.specialer.sam.au.dk/
166. Raymond Vernon (1966), "International Investment and International Trade in the Product Cycle", Quarterly Journal ò Economics, Vol. 80, (2), pp. 190-207, http://bev.berkeley.edu/.
167. Ray, S. (2012), "Impact of foreign direct investment on economic growth in India: A cointegration analysis", Advances in Information Technology and Management, 2, pp. 187-201.
168. Richard Bruton, T.D. (2014) "Policy Statement on Foreign Direct Investment in Ireland" (Tuyên bố chính sách về ĐT trực tiếp nước ngoài tại Ireland), UNCTAD, 28th January, https://rio.jrc.ec.europa.eu/
169. RE Lipsey, RC Feenstra, CH Hahn (1999), The role of foreign direct investment in international capital flows, pp.307-362.
170. R Morck, B Yeung, M Zhao (2008), "Perspectives on China's outward foreign direct investment", International Journal (Anh), Số 39, pp. 337-350 14/2/2008.
171. Robert C.Fenstra và Gordon H.Hanson (1998), Foreign direct investment and relative wages: Evidence from Mexico's maquiladoras, Journal of International Economics, https://www.princeton.edu/.
170
172. Rugman. A. M. (1987), "The Firm-Specific Advantages of Canadian Multinationals," Journal of International Economics Studies, Vol. 2, No. 1, pp. 1-14.
173. Stephen H. Hymes, "Product life-cycle theory", and "FDI and Portfolio Investment Theory"…, New York.
174. Stakhovych, S. and T.H.A. Bijmolt (2009), ‘Specification of Spatial Models: A Simulation Study on Weights Matrices’, Papers in Regional Science, 88, pp. 389-408.
175. Takagi, S. và Phạm Thị Hoàng Anh (2011), "Dynamics interaction between Foreign and Domestic investment in Vietnam", Vietnam Economic Management Review, Volume 6, No.2-2011.
176. T. Buthe, H.V. Milner (2008), "The politics of foreign direct investment into developing countries: increasing FDI through international trade agreements?", American Journal of Political Science. Vol. 52, No. 4, October 2008, pp. 741-762.
177. Thau Thi Hoang, P Wiboonchutikula (2010), "Does foreign direct investment promote economic growth in Vietnam?", ASEAN Economic Journal, vol 27, No 3, 12/2010, pp. 295-311.
178. The FDI Report 2015, World FDI Report - Free investment crossborder report www, http://forms.fdiintelligence.com/
179. United Nations Conference on Trade and Development (2013), UNCTAD stastistics 2012.
180. UNCTAD (2003), World Investment Report 2003. 181. UNCTAD FDI Database, www.unctad.org, accessed [31 October 2011]. 182. UNCTAD, Investment and Enterprise Division, 2011. 183. UNCTAD (2013), "World Investment Report 2013: Global Value
Chains: Investment and Trade for Development", Chapter 1: Global Investment Trends.
184. Vale Columbia Center (2013), Inward FDI in Indonesia and its policy context.
171
185. Villaverde, J. and A. Maza (2011), ‘Foreign Direct Investment in Spain: Regional Distribution and Determinants’, International Business Review, doi:10.1016/j.ibusrev.2011.08.004.
186. World Trade Organization (WTO, 1996), trade and Foreign Direct Investment, http://www.wto.org, 9 October 1996.