thuc duong - thu hoach bai giang thay co ando (ban chinh xac)
DESCRIPTION
hay và tốtTRANSCRIPT
ĐAN TÂM
THỰC DƯỠNG“Gạo lứt muối vừng”
CỨU ĐỜI TÔI - CÒN BẠN CÓ CẦN KHÔNG?
Quà tặng cuộc sốngTháng 6 - 2014
1
LỜI GIỚI THIỆU
Tôi ăn thực dưỡng (gạo lứt muối vừng - cân bằng âm dương từ 1/12/2005) đến nay là hơn 8 năm. Thành công, thất bại, trục trặc đủ cả. Thành công có lúc đạt 70%, có thời kỳ rất tồi tệ, nhưng tôi vẫn nhận ra không có phương pháp nào hữu hiệu hơn phương pháp này đối với sức khỏe, trí tuệ và nhiều điều cao quý hơn nữa nên vẫn nhất dạ theo đuổi và trải nghiệm. Nguyên nhân sâu sa của sự chìm nổi vất vả kia là do không có thầy hướng dẫn cụ thể mà chỉ tự mày mò qua sách đĩa.
Thầy An Đô cho biết, thực dưỡng từ ngài OHSAWA, là người Nhật làm sống lại. Thực tế, phương pháp này đã có từ 4000 năm trước, do cuộc sống công nghiệp hiện đại lấn át nên bị mai một, chôn vùi. Nó đi ra thế giới bằng hai đường : Phương đông và Phương tây. Sách thực dưỡng dịch từ tiếng Anh không phù hợp với người Á Đông vì thời tiết, khí hậu mỗi nơi mỗi khác nên tính chất âm dương khác nhau và cách ăn, cách nấu sẽ khác nhau. Đó là nguyên nhân khiến nhiều người đến với thực dưỡng nghiêm túc vẫn chưa đạt kết quả khả quan.
May sao, tôi vừa được theo học khóa dạy nấu ăn 7 ngày thực dưỡng MACROBIOTICS do chính ông bà AN ĐÔ người Nhật, đệ tử trung thành của ngài OHSAWA và phu nhân LIMA đã ăn thực dưỡng 40 năm, trực tiếp giảng dạy. Thầy An Đô dạy lý thuyết về âm dương, còn cô Yuri dạy thực hành nấu ăn cân bằng âm dương. Khóa học từ 13/4/2014 đến 19/4/2014. Đến hôm nay, sau 19 ngày, tôi cầm bút viết thu hoạch khóa học để quảng bá rộng rãi vẫn còn nguyên cảm giác xúc động, hạnh phúc của kẻ đang chơi vơi giữa dòng tình cờ gặp được phao cứu sinh để bơi vào bờ.
Tài liệu này sẽ là phần tiếp của “Báu vật trong nhà mà không biết” tôi viết năm 2011. Để tiện đọc và ứng dụng tốt, tôi chia sách làm 4 phần sau :1/ Trải nghiệm bản thân ăn thực dưỡng.2/ Lý thuyết về cân bằng âm dương do Thầy An Đô giảng.3/Thực hành nấu ăn cân bằng âm dương của cô An Đô.4/ Phần kết : Sự tương đồng của thực dưỡng với đạo Phật.
Hải Phòng, ngày 8 tháng 5 năm 2014 Đan TâmKính Bút
2
I/ TRẢI NGHIỆM BẢN THÂN ĂN THỰC DƯỠNG :
Năm 2005, tôi đến với thiền và gạo lứt muối vừng vì lý do sức khỏe,
nhờ đọc được quyển “Thiền là gì” của Ngọc Trâm.
Mất ngủ rất nặng 17 năm, chạy chữa không còn thiếu cách gì, từ mất
ngủ tôi phải gánh chịu thêm rất nhiều bệnh : gai đôi, dạ dày, đường ruột, khổ
sở nhất là chứng đau đầu thường xuyên và choáng... Tự ngồi thiền theo sách,
sau 1 tháng bệnh đau đầu giảm 60%. Đọc sách thấy NT ca ngợi gạo lứt muối
vừng hay quá, tôi mua thêm sách và ăn một mạch 8 tháng liền. Sách hướng
dẫn chung chung “Bạn chỉ cần ăn 10 ngày, có trường hợp bệnh nặng thì
nên ăn đôi ba tuần”. Cách kiểm tra hết bệnh là sáng ngủ dậy thấy miệng
ngọt nhưng tôi ăn hoài mà miệng vẫn đắng. Mang bệnh dạ dày, dư nước
chua, ăn được 8 ngày thì đang đêm phản ứng thải độc tống nước ra, tôi cứ ra
sức nuốt vào, vì một lần đọc sách (17 năm mất ngủ tôi đọc nhiều sách lắm
để tìm cách tự cứu mình trở về với cuộc sống bình thường) mục “Bí quyết
sống lâu, mạnh khỏe” là không bỏ đi bất cứ thứ gì của cơ thể và nên nuốt
nước bọt vào mỗi sáng ngủ dậy. Trí phán đoán thấp kém này đã làm tôi khốn
khổ, đeo bệnh dạ dày cho đến tận bây giờ. Tôi vừa ăn, vừa tiếp tục đọc sách.
Thời gian đó, Thầy Tuệ Hải mới giảng đĩa CD. Sau này mới biết, suốt 8
tháng, tôi chưa ăn đúng phương pháp dù chỉ là một miếng. Ăn đúng là nhai
một miếng cơm từ 100 lần trở lên nhuần nhuyễn như nước bột loãng, thấy
ngọt mới được nuốt ực một lần, nhai đến đâu nuốt đến đấy sẽ rất khát nước
mà sợ ăn gạo lứt. Riêng đếm lần nhai tôi thực hiện nghiêm chỉnh đến bây
giờ, vì thấy rất tốt cho trí nhớ và có chuẩn mực để kiểm tra nếu không chỉ
vài bữa là tếu táo nhai 30 hoặc 50 lần là nuốt luôn. Có việc đi xa, tôi nắm
cơm, cắt miếng bảo quản tủ lạnh để 5 ngày, ăn bữa nào lấy ra hấp lại bữa đó,
thảo nào ăn xong là chướng đầy cả một bụng. Ăn cơm được 1 ngày, thấy
sách nói bạn có thể ăn bột, cháo, phở làm từ gạo lứt và đỗ, thế là để dễ ăn tôi
thực hiện liền. Ăn được 10 ngày thấy người dễ chịu, từ một người mất khả
3
năng làm việc do mất ngủ, thần kinh suy yếu nhiều năm, tôi bắt đầu ham làm
việc từ sáng đến tối không biết mệt mỏi, cả ngày đi lại nhẹ nhàng như chim,
tính tình vui vẻ không cáu giận, buồn phiền như trước. Sau này tôi mới biết,
tôi có kết quả là nhờ suốt 8 tháng không ăn đồ ngọt và hoa quả, chỉ ăn các
loại rau củ được cho phép như: cà rốt, bí đỏ, củ cải, rau cải kết hợp ngồi
thiền 120’/lần. Từ hạnh phúc không ngờ đó, tôi nhịn bữa sáng, sau nhịn 1
ngày, 3 ngày, ngồi thiền vào giờ tý. Có lẽ suốt cả cuộc đời này không bao
giờ tôi quên được cảm giác khó tả của thời kỳ đó và nó chính là động lực để
tôi giữ vững niềm tin đi theo phương pháp trong nhiều lần thất bại sau.
Tôi sút 16kg (53kg > 37kg). Gần 9 năm ăn thực dưỡng, cân nặng của
tôi giao động tối đa là 45kg, tối thiểu là 37kg, quãng giữa là 39kg, 41kg,
43kg. Ăn được 5,6 tháng tuy rất gầy, chân tay khẳng khiu nhưng da mịn, tóc
mượt, mắt sáng nên tôi không bận tâm lắm về hình thức. Sau đó da bắt đầu
vàng không bình thường, hay run rẩy và sức khỏe yếu, tôi bắt đầu lo và đi
tìm sách đọc (gọi điện cho vài người ăn thực dưỡng nhưng họ không nhiệt
tình giúp đỡ trừ thầy Tuệ Hải). Các con kêu quá, mẹ tôi cũng xót xa “Con ơi,
ăn đi kẻo chết đấy”. Giờ mẹ ra đi rồi, nhớ lại ánh mắt mẹ nhìn tôi lúc đó mà
nhớ thương người vô hạn. Tôi ăn mặn lại 30% rồi 50%, đó là thời kỳ tôi tăng
45kg. Nhưng rồi bệnh đau đầu lại trở về và buồn phiền lại xuất hiện (tôi sợ
nhất loại bệnh này).
Sau khi ngồi thiền và ăn thực dưỡng có kết quả, trí tuệ tăng trưởng, là
một người không hề thuộc một câu kinh Phật, thậm chí còn bài bác, ngăn
cản khi ni sư Diệu Hương (chị em con bá ruột) đi xuất gia ở tuổi 15. Sau khi
đọc : “Ước hẹn với sự sống” của thiền sư Nhất Hạnh, tôi vỡ òa ra giáo lý vô
ngã và phát nguyện làm cư sĩ tại gia, vì vậy việc ăn mặn là khó chấp nhận.
Lý do ăn mặn một phần do thần khẩu nhưng cơ bản vẫn là tâm lý lo thiếu
chất sinh bệnh tật. Sau khi xem đĩa Phật pháp nhiệm màu kỳ 7 của chùa
Hoằng Pháp, thấy nghệ sỹ cải lương Bạch Tuyết ăn chay 17 năm vẫn mạnh
4
khỏe, thông minh, hát hay, sáng tác giỏi. Tôi quyết định ăn chay trường theo
phương pháp thực dưỡng từ đó. Cũng từ đó tới nay, do không hiểu thấu đáo
nguyên lý cân bằng âm dương trong ăn uống và làm việc quá sức, từ kết quả
thay đổi của bản thân, tôi như người phát hiện ra điều kỳ diệu giữa cuộc đời
còn nhiều điều chưa được lý giải này đối với sức khỏe, trí tuệ và hạnh phúc
đích thực của con người. Tôi lao vào viết tài liệu, sưu tầm sách hay, đĩa quý
để tặng phát cho người thân, bạn hữu nhưng khó thuyết phục chỉ vì tôi quá
gầy và cách sống của tôi đạm bạc quá. Tuy nhiên vẫn có nhiều người tin và
trung thành theo tôi suốt hơn 8 năm qua, tin yêu và tôn trọng, đa phần là trẻ
tuổi, vậy mà vẫn có người cho là vì chúng tôi “hấp” giống nhau.
Điều sai lầm trầm trọng nhất của người đến với gạo lứt muối vừng là
không tìm hiểu kỹ lý thuyết hoặc tham khảo ý kiến của người đi trước trước
khi thực hành. Khổ một nỗi có nhiều sách, đĩa nói về thực dưỡng nhưng
chưa có cuốn sách, chiếc đĩa nào giới thiệu đầy đủ, đúng nguyên lý để có đủ
sức thuyết phục thực hành thành công. Suốt gần 9 năm qua, tôi đã bỏ ra
nhiều tâm huyết, công sức: đi vào chùa Long Hương (nhưng thầy Tuệ Hải đi
vắng) chỉ gặp được chú Lộc, tìm gặp ông Huỳnh Văn Ba - người viết dịch
khá nhiều sách của ngài OHSAWA, gõ cửa 4 lần nhà của Ông Ngô Ánh
Tuyết ở 390 Điện Biên Phủ - TP Hồ Chí Minh nhưng ông không còn ở đó.
Có một sự thật: tôi chưa gặp được một người nào có đủ tiêu chuẩn của người
ăn thực dưỡng thành công, trong đó có cả tôi. Những người viết sách về thực
dưỡng hoặc là do lòng từ bi bác ái, sau khi có chút kết quả, hạnh phúc quá
mà cao hứng muốn chia sẻ khỏi bệnh với mọi người vào thời điểm có kết
quả đó. Nhưng cũng có người viết sách vì mục đích muốn nổi tiếng hoặc lợi
nhuận cá nhân. Nhiều người lên bục chia sẻ có ghi hình, ghi tiếng cũng rơi
vào tình trạng này (lúc họ từ cõi chết trở về nhờ ăn gạo lứt muối vừng một
thời gian, vài ngày, vài tháng, vài năm). Đại đa số tìm đến gạo lứt muối
vừng khởi đầu đều vì mang bệnh nan y và quá dư cân. Cách thức họ đến là
5
do tình cờ đọc sách, xem đĩa hoặc được người khác giới thiệu. Do không tìm
hiểu kỹ và thực hành đúng, cứ nghe nói phương pháp này tốt, chữa được
nhiều bệnh là ăn, nên có người chỉ sau vài ngày là bỏ cuộc, thậm chí sau một
bữa. Có người vì đối mặt với tử thần không còn lựa chọn nên ăn nghiêm túc
vài tháng, có khi vài năm sau khi sức khỏe tốt lên lại quay về lối ăn cũ. Đối
với phương pháp này nếu ăn đúng số 7 (100% gạo lứt muối vừng): ăn ngày
thứ nhất có cảm giác đói, mệt nhưng qua đi nhanh; ngày thứ 2, 3 răng mỏi vì
nhai nhiều lần, đến bữa ăn là ngại nhưng nếu kiên trì thì chỉ sau 5 ngày là ổn
định, tốt dần lên và bắt đầu được hưởng kết quả. Người nào ăn uống với
niềm tin và quyết tâm cao dễ vượt qua trở ngại ban đầu. Người nào thiếu
niềm tin vừa ăn vừa lo lắng đủ chuyện sẽ ít kết quả. Nếu nhai rối sau vài
ngày khát nước, thèm rau kinh khủng. Ăn gạo lứt muối vừng dễ nhất là giai
đoạn đầu từ 10 ngày đến 5 tháng. Nhưng đến lúc ăn gia (thêm thức ăn khác
vào bữa ăn số 7), rắc rối mới bắt đầu lộ mặt. Lý do cơ bản vẫn là người ăn
chưa hiểu thấu đáo nguyên lý âm dương nên không biết cách nấu ăn cân
bằng âm dương cho phù hợp với từng cá nhân và thần khẩu nhớ, thèm các
món ăn ưa thích cũ. Có một điều kiện tối hậu nữa mà đại đa số vì hấp tấp
muốn chữa khỏi bệnh đã bỏ qua, đó là đã đến với thực dưỡng phải là thực
dưỡng Macrobiotics (cách ăn làm thay đổi cuộc đời).
Đúng vậy! Phương pháp này nếu thực hành đúng có thể được kết quả
như người tu theo đạo Phật đạt chứng ngộ. Vì vậy hãy xác định đi theo trọn
đời và ăn chay trường ngay từ đầu. Trừ người bệnh viện trả về và người có ý
thức cao về giá trị đích thực của cuộc sống, còn lại người tôn thờ chủ nghĩa
phồn thịnh, thích ăn ngon, mặc đẹp, khoái khẩu, ưa hưởng thụ chắc khó chấp
nhận điều kiện này. Họ không đáng trách, mọi cái đều có nguyên nhân sâu sa
của nó, tôi sẽ trình bày ở phần kết.
Trở về phần trải nghiệm của cá nhân tôi, sau mấy tháng đầu bình ổn,
còn lại suốt hơn 8 năm qua nổi chìm, lận đận, lúc được, lúc mất, lúc khỏe,
6
lúc yếu vì cách ăn chưa đúng nguyên lý cân bằng. Tôi không còn nhớ nổi đã
phát nguyện, có ghi nhật ký lằm bằng hẳn hoi là không ăn ngọt và hoa quả
tới bao nhiêu lần nữa, cao điểm được 1 tháng, nhiều lần chỉ sau 3 - 10 ngày
đã vi phạm. Ăn bữa nào trả giá ngay bữa đó, miệng sáng thức dậy đắng
ngòm, ăn quá miệng đau đầu liền, trí nhớ giảm, ngại làm việc xuất hiện
ngay. Nhưng rồi ăn chung với con cháu lúc nào hoa quả bánh kẹo cũng đầy
ngập trên bàn ăn, tôi lại rất hảo ngọt, sau mỗi bữa ăn không được ăn đồ ngọt,
cứ như thiếu thứ gì và trong lòng bứt dứt hay nhớ tới. Thế mới biết TẬP KHÍ
sâu dầy khó từ bỏ nguy hiểm như thế nào. Đã vậy lại còn mê ăn cốt dừa, chè
nấu cốt dừa có ngày ăn ba lần ba bát con. Ý thức nhận ra sự bất lợi để từ
chối còn đi chậm hơn lệnh của tập khí (thói quen, sở thích được huân tập
nhiều lần trở thành rãnh trong não bộ gọi là lối mòn thần kinh phản ứng, nó
automatic liền nên không có đời sống tu tập chánh niệm tốt sẽ vô cùng khó
vượt qua).
Cùng với thâm niên ăn sai phạm, làm việc quá sức, sức khỏe của tôi lại
có vấn đề. Cuối năm 2012, nhờ tu thiền và ăn thực dưỡng, ở tuổi 63 dù
không biết một từ tiếng Anh, tôi đơn thương độc mã sang Mỹ tìm bố đẻ sau
58 năm xa cách, chưa từng biết mặt bố trước sự ngạc nhiên của nhiều người.
Do không hợp thời tiết và lý do cá nhân, ở Mỹ bệnh mất ngủ nặng tái phát,
tôi sút tiếp 2kg còn 37kg. 18 ngày đêm lại mất ngủ trắng. Lúc đầu, tôi ngồi
thiền bù lại nên vẫn sinh hoạt đi lại bình thường, đến ngày 18 xuất hiện
chóng mặt không dậy được và phải dùng thuốc ngủ suốt thời gian còn lại (ở
Mỹ 75 ngày). Nhờ lần tái phát bệnh mất ngủ trắng, sau rất nhiều năm tưởng
đã chia tay vĩnh viễn ( suốt 18 ngày không hề biết buồn ngủ mặc dù làm rất
nhiều cách như : thở ý thức, niệm Phật, dù mọi lần trước đó đều có hiệu quả
chỉ sau 5 phút), tôi mới giật mình không dám chủ quan đối với việc tu tập và
ăn thực dưỡng. Từ trong sâu thẳm của suy ngẫm, tôi nhận ra rằng ẩn náu sâu
trong não bộ còn có một vùng bí ẩn nào đó, nếu không may đụng chạm phải
7
nó, nó sẽ biểu hiện ra ngay. Có khi đơn giản chỉ là một nỗi lo sợ, vết thương
tinh thần nào đó mà mình đã từng trải qua và ta hoàn toàn bất lực với nó.
Các em thấy chị quá gầy, ai cũng mua đồ về để chị bồi dưỡng như bánh
bông lan, quả bơ, quả táo tây, rong biển tươi, yến mạch… Thêm chút bơ, pho
mát, tôi lên cân khá nhanh, ngày về là 41kg. Về Việt Nam tôi tiếp tục duy trì
cách ăn này, tăng lên 45kg trông gần như ngày xưa, ai cũng khen đẹp.
Nhưng rồi cơn đau đầu bắt đầu dầy, lên thường xuyên hơn, nhai không còn
được kỹ như trước nữa, ngồi thiền trước còn được 60’ sau chỉ 50’ là phá định
và lại nói nhiều. Tác hại hơn khi cơ thể có vấn đề thì nhu cầu ăn uống theo
sở thích lại tăng lên và cứ thế tôi sống trong vòng luẩn quẩn, lùi không được
(vì đã từng có kết quả rồi), tiến không xong (không có phương cách để tiến).
Cần nói thêm, kéo dài nhiều năm đường ruột tôi khá ổn định. Tuy ăn chay
trường thực dưỡng nhưng tôi vẫn ăn cỗ chay, ăn đủ thứ mà phân vẫn đóng
khuôn, sức dẻo dai khá tốt.
Tôi là người mê ăn kem, hơn nữa kem là món duy nhất các con cháu
có thể đãi mẹ mỗi lần đi chơi phố, lễ sinh nhật. Ăn 1/2 hoặc 1 cái thì không
có vấn đề gì, nhưng nếu ăn liền vài ngày thì thế nào cũng đau bụng và bỏng
lạnh vòm miệng. Mỗi lần bị bỏng, miệng mất cảm giác hàng tuần. Có một
lần không nhớ tôi ăn gì nhưng sau đó lại bị đau bụng vắt, đau quằn quại
nhưng không đi ngoài. Con chở đi chơi, kiêng khem mãi, tôi tức mình ăn 2
cái kem liền, nhưng không ngờ hết đau bụng ngay lập tức. Khi còn ăn mặn
tôi rất thích ăn hến, nhưng ăn lần nào cũng bị đau bụng đi ngoài. Ăn hạt tiêu
bắc, ớt, rượu nếp thì bị kiết lỵ. Lần đó, đang đau bụng do ăn hến, đi thăm
bạn giữ lại ăn cơm có tôm nõn dim với hạt tiêu bắc khá nhiều buộc phải ăn
chút ít không ngờ hết đau bụng. Từ đó nấu hến tôi cho hạt tiêu bắc và không
có vấn đề gì xảy ra. Vậy việc kết hợp thức ăn rất quan trọng. Có điều ăn vào
bụng rồi, thức ăn phản ứng tốt hay xấu với sức khỏe, trí tuệ ra sao thì khó mà
biết được về lâu dài.
8
Có một điều rất quý đối với người ăn thực dưỡng là họ không bao giờ
chán ăn, ít ốm nặng kể cả ốm vặt. Nếu ăn phải thức ăn xấu, cơ thể tự động
đào thải hết lượng thức ăn độc đó, có khi đi lỏng tới 3, 4 lần liền nhưng
không cần uống thuốc, không mệt và không bị mất nước, sau đó có thể nhịn
ăn một bữa hoặc ăn số 7, 6 là đâu lại vào đó.
Người ăn thực dưỡng đúng từ 50% chắc chắn không bao giờ mập, họ
gầy nhưng nét mặt sáng có hồn, có sức sống hay còn gọi là THẦN THÁI và
rất dẻo dai. Người ăn sai bị gầy, nhìn mặt và da, tóc sẽ nhận ra ngay, trông
họ mệt mỏi, da xanh, sầu héo, tóc không mượt mà xơ cứng. Năm 2013, tôi
đã rơi vào tình trạng này do hai lần bị ngộ độc chân nấm và nấm khô. Các
loại nấm khô, tươi, cà chua, khoai tây, giá đỗ các loại, quả cà là không có
trong thực đơn của người ăn thực dưỡng. Tiếc rằng trong sách chỉ nói cấm,
không nói rõ tác hại của nó. Đại đa số người ăn thực dưỡng, để ăn được lâu
dài đã lạm dụng hạt sen, các loại đậu đỗ, có người sợ thiếu chất và cho ngon
miệng còn nấu đủ 10 loại đỗ với gạo lứt. Hạt sen lứt nấu cơm ăn ngon và bổ
nhưng để tránh ăn nhiều sách thực dưỡng chỉ nói : “Loại của nhà giầu không
nên ăn nhiều”. Nó mang tính khẩu hiệu quá. 1kg hạt sen ăn mấy tháng chưa
hết, vì sức khỏe có đáng là bao nên cứ thích cho bao nhiêu thì cho. Sau này
có sách cho biết: “Hạt sen có chất gây khó tiêu, đầy bụng, người già không
nên ăn nhiều, tối đa là 20v/ngày”. Có vậy chứ, ăn một bát chè sen long nhãn
có khi đã có tới nửa bát hạt sen.
Khó khăn lắm tôi mới vận động được các con trai, gái, dâu, rể ăn chay
mỗi tháng 6 ngày vào bốn chủ nhật, ngày rằm, mồng một và thay gạo trắng
bằng gạo lứt, nên rất khó đưa vào ăn thực dưỡng ngay. Tâm lý sợ thiếu chất
và đang quen ăn mặn, các cháu chế biến nhiều món ngon nên thực đơn ngày
nào cũng có cà chua. Ai cũng thích ăn khoai tây, măng tươi, măng khô, giá
đỗ và đặc biệt là nấm tươi các loại vì nấm ngọt ngon, dễ ăn và bán rất nhiều
ngoài chợ hiện nay. Cả nhà thống nhất hạn chế tối đa mua đồ chay đóng gói
9
và nấu chín ở các cửa hàng chay, vừa đắt vừa có nhiều gia vị và chất bảo
quản. Mùa đông thì thích ăn lẩu thập cẩm, nước dùng chính từ củ đậu rất
ngon ngọt, mát và thơm. Nhanh nhất là món lẩu nhúng rau diếp với nước cà
chua, đậu phụ rán, đường, bột nêm chay. May mà các cháu chỉ nêm 50% bột
nêm chay rong biển còn 50% là muối biển và tương thực dưỡng lâu năm.
Chủ nhật nào các cháu cũng cải thiện, nào phở, bún chay, bánh cuốn tráng
bằng chảo, bánh xèo, bánh bèo, xôi chè các loại. Ai cũng thích món chè ngô
non nấu với bột sắn dây và cốt dừa, độ ngọt vừa phải và có nêm muối.
Tôi bị ngộ độc nấm 2 lần. Một lần là ruốc chân nấm, món này nhiều
người ăn chay thích vì nó thơm, ngon dù rất nhiều người biết chân nấm khô
rất độc và nhập từ Trung Quốc nhưng vẫn ăn. Lần đầu đau bụng, đi ngoài 1
ngày và mệt qua loa rồi hết. Lần 2 là ăn nấm khô nấu riêu bún chay với cà
chua. Cả nhà không sao, riêng tôi sau khi nuốt qua miệng thấy đắng biết là
sẽ có chuyện rồi. Sau đó tôi bị đường ruột trở lại, đi lỏng kéo dài cả tuần
không khỏi, có ngày đi tới 6 lần và bắt đầu đuối sức. Do lạm phát ăn sai
phạm một thời gian dài, bữa nấm đó là giọt nước cuối cùng làm tôi đổ gục.
Trước đó thấy sức khỏe quá yếu, không còn dẻo dai như nhiều năm
trước (thoải mái đi xa nhiều ngày, từ ngày đi đến ngày về tinh thần và sức
khỏe không hề có sự giảm sút và là điều vô giá để tôi có quyết tâm theo Phật
và thực dưỡng đến trọn đời), tôi có ngờ đâu có lúc lại quá tồi tệ và mất
phương hướng thế này. Tôi đổ tại làm việc quá tải vì đêm nào cũng đọc sách,
ghi chép, lo tài liệu, đĩa đi tặng đến 0 giờ, vài lần đến 1,2 giờ sáng, 5 giờ
sáng đã lo dậy đi cho kịp hẹn. Trong nhiều ngày, tập tành giảm thời gian quy
định, thậm chí bỏ thời khóa vì không còn thời gian vì vậy tôi lại điều chỉnh
tập tăng cường độ lên và kết quả là sau vài ngày hăng máu, tôi không còn đủ
sức để giơ tay lên nữa. Đã vậy, tôi lại âm thầm chịu đựng vì sợ nói ra con cái
mất niềm tin vào phương pháp mẹ đang hành trì.
10
Đúng thời điểm đó thì cháu Mai hàng xóm rủ tôi đi ăn HERBALIFE.
Lúc đầu, tôi không tin vì không có thiện cảm với thực phẩm chức năng,
nhưng rồi chỉ số máy quét đo lượng mỡ thừa dưới da đã thuyết phục tôi
(khám bệnh viện thì không có thông số này). Tôi được giải thích là do dư
thừa mỡ dưới da (mặc dù tôi khá gầy, lúc đó là 40,2kg) nên thiếu can xi và
gây yếu cơ bắp, chiều cao giảm 3cm. Trước đó 2 năm đi đo loãng xương,
không có vấn đề gì, lần này đã xuất hiện loãng xương, thảo nào lưng đau
tăng lên, ngồi thiền không còn được thẳng lưng như trước mà cứ từ từ cong
xuống. Thận trọng, tôi đi lên kho hàng của Herbalife ở 36 Hoàng Cầu - Hà
Nội để tham quan và tìm hiểu thêm mới về quyết định dùng thử sản phẩm
(người ăn thực dưỡng không hoặc rất ít được phép dùng đồ chế biến bằng
công nghệ máy móc). Vì đang bế tắc trong ăn uống hàng ngày, dùng 1 lần có
kết quả ngay, tôi vui vẻ cười nói sau nhiều ngày lặng thầm. Có lẽ ăn đồ lạ
nên từ âm chuyển sang dương. Nhưng ngày hôm sau đã có vấn đề và tôi
bước vào một cuộc chiến đấu mới với bệnh đường ruột kéo dài 20 ngày.
Cháu Huyền làm ở nhóm dinh dưỡng, ngay ngày đầu tư vấn cho tôi là nhất
định cô sẽ tăng cân, vì HBL giúp cân chỉnh vóc dáng, người mập giảm đi và
người gầy tăng lên để giữ lại ở mức chuẩn. Tôi ăn HBL không vì mục đích
này, ngay từ đầu tôi chỉ xác định dùng một sản phẩm sạch, được chế biến từ
thảo mộc để khắc phục những vấn đề về sức khỏe tôi đang gặp. Bụng tôi lại
réo sôi như ngày chưa biết đến thực dưỡng, nó réo suốt ngày có lúc nghe to
và rõ. Tôi hiểu rất rõ, ăn vào mà chuyển hóa kém thì lấy đâu ra sức khỏe và
trí tuệ vì thế tôi tìm lại nhiều sách để đọc. Cùng với sự tư vấn của cháu
Phương nhóm chủ tịch và là chủ nhóm dinh dưỡng 103 Hoàng Quý gần nhà
tôi, tôi đã ăn uống hết sức nghiêm cẩn trong thời gian điều trị đường ruột
này. Hơn 8 năm ăn thực dưỡng, tôi đã nhận ra giá trị tuyệt vời có kết quả cao
nhất của cách ăn tiết độ đối với bệnh nan y cả thân và tâm. Nhưng ăn cách
này sút cân rất nhanh. Đối với người đã quá gầy như tôi, gầy ăn đúng khác
11
hoàn toàn với gầy ăn sai, gầy ăn sai vừa già xấu, yếu và quặn ruột, chất
lượng cuộc sống rất kém.
Nhớ lại, hai lần đi lên chùa Từ Nghiêm giúp sư cô Tịnh Niệm ăn số 7,
tôi phải ăn cùng để dễ tác động đến sư cô. Lần nào tôi cũng bị sút từ 41kg
xuống 38kg. Vấn đề ở chỗ là để sút cân nhiều lần sau đó rất khó lên cân, có
khi 3 năm không lên nổi nửa kg. Sau này xem đĩa của bác Ngọc Tài mới biết
chỉ số lấy chiều cao trừ đi 110 là số cân chuẩn. VD : Tôi cao 1m55 - 110 =
45kg, dưới mức này không nên ăn số 7. Trong khi số cân của tôi dưới mức
đó. Nhưng không có cách nào chữa bệnh tận gốc hay hơn ăn số 7, nay có sữa
HBL bổ sung nên tôi yên tâm chọn ăn số 7 kết hợp với HBL.
Cùng thời gian đó tôi đọc được “Ăn ít để kéo dài tuổi thọ” của phương
pháp Suối nguồn tươi trẻ và cách ăn điều hòa trong quyển : “Hành trình về
phương đông” của người đi trước thuộc nhiều thời đại nên tôi càng tin
tưởng làm theo. Tuyệt đối không ăn hoa quả, đồ ngọt kiêng cữ đến như vậy
mà phân vẫn rất xấu, có ngày đi tới 6 lần, tiếp tục sút thêm 3kg. Đến ngày
thứ 18 không bình tâm được nữa, tôi dùng Becberin xem có đỡ đi không.
Loại thuốc này tôi đã dùng suốt 20 năm để trị bệnh viêm đại tràng mãn tính
hay đi lỏng trước khi gặp thực dưỡng. Được 1 ngày, phân đặc hơn, đỡ sôi và
đau bụng, nhưng sau đó thuốc không có tác dụng nữa. Con gái tôi sốt ruột
khuyên mẹ uống men tiêu hóa và cháu Hương, Phương cũng đồng ý để tôi
dùng men tiêu hóa. Sau 20 ngày thì tạm ổn và tôi đói kinh khủng, lúc nào
cũng muốn ăn. Gầy quá và HBL cũng tư vấn là tôi phải ăn nhiều lên. Ăn
được 2 ngày, tưởng đã có chiều hướng tốt thì cơ thể tôi không chấp nhận
cách ăn đó. Công bằng mà nói, bệnh tôi lúc đó chủ yếu là đường ruột, kéo
theo sức khỏe yếu và rất hay đau đầu. HBL có 11 sản phẩm, nhiều người
dùng được toàn bộ hàng ngày nhưng tôi chỉ hợp 3 sản phẩm là : Aloe chữa
đường ruột và viêm họng; NW đỡ đau đầu và sữa F1 bổ sung dinh dưỡng.
12
Tôi vốn không dùng được sữa, kể cả sữa thực vật Enplus. Thi thoảng
uống một cốc không sao, dùng 3 ngày liền là có vấn đề: đau bụng, đi kiết.
Dùng F1 ngoài đi tiểu quá nhiều, đi tới mức xấu hổ (đến nhà ai là phải vào
ngay toa lét, lên ô tô mới 20 phút đã mót không chịu nổi phải nói khó để lái
xe đỗ lại), nhiều lúc đầy trướng bụng, ngoài ra đường ruột không có vấn đề
gì. Riêng NW có hiệu quả ngay lần uống thứ 2, ngủ sâu giấc và suốt 3 tháng
tôi không hề bị đau đầu. Trước khi cần đi bộ đâu xa mà uống 1 thìa thì
không biết mệt mỏi là gì, ngồi thiền vào định nhanh và dứt hẳn hôn trầm kéo
dài nhiều ngày. Chính vì thấy tác dụng có thật từ chính bản thân, nhất là giúp
người thân, bạn hữu được 30% thức ăn sạch mỗi ngày, tôi lao vào chiến dịch
gọi điện thoại, nhắn tin, gặp trực tiếp để vận động dùng HBL. Tôi không bỏ
sót một buổi hội thảo nào, học hành nghiêm túc, ghi chép, chụp ảnh và cứ
như một sứ mạng đối với sức khỏe tâm linh của tha nhân. Trong vòng 3
tháng tôi đã mua tới 5000 điểm ( 90 triệu) để cả nhà cùng dùng, viết tài liệu
đi tặng để chia sẻ về HBL và ăn ít. Lúc đó tôi muốn ai cũng biết đến HBL,
để bước đầu đến dần với ăn chay, bớt nạn sát sinh và bệnh tật do ăn mặn gây
ra. Đi nhiều, nói nhiều, giải thích nhiều... dần dần tôi nhận ra không hợp với
người tu thiền cần tĩnh tâm như tôi. Hơn nữa dùng HBL có liên quan đến thu
nhập mà bất cứ cái gì mang bóng dáng của tiền đều rắc rối. Muốn chăm sóc
một người dù chỉ là mục đích tốt cũng đòi hỏi nhiều thời gian tâm lực trong
khi tâm bồ đề đã ăn vào máu tôi rồi, không có bất cứ một ma lực nào có thể
làm thay đổi được. Tôi đã có ý dừng lại với sự vui vẻ, an tâm của tất cả các
con của tôi vì các cháu đã ngăn mẹ ngay từ ngày đầu tiên nhưng điều gì
người ta chưa thấu hiểu thì rất khó nghe theo người khác.
Ăn HBL 3 tháng, tôi đã có ý định ăn cả đời đối với vài sản phẩm và
dùng một loạt sản phẩm chữa bệnh trong 6 tháng liên tục. Nhưng rồi tôi bị
ngứa, hỏi cháu Phương thì cháu cho biết chồng cháu sau khi dùng cũng bị
ngứa thời gian dài, đó là dấu hiệu tốt của thải độc. Cùng thời gian này tôi
13
đang chữa vết chàm, tháng nào cũng phải uống 5 ngày kháng sinh sau mỗi
lần bắn tia laser. Tôi cũng không loại trừ nguyên nhân do cơ thể đã sạch (mỡ
nội tạng thấp hơn mức quy định), dùng liên tục kháng sinh, gan không lọc
hết phải thải qua da. Nhưng ngoài ngứa ra, Aloe, NW không còn tác dụng
nữa. Tôi lại trở lại gần như cũ sau 1 tháng nhờ thải được 3kg mỡ thừa dưới
da, cơ bắp tôi khỏe lên bất ngờ, làm việc tốt tới mức khó tin, giờ lại yếu đi
và đau đầu nhiều. khốn khổ với tật đi tiểu nhiều cả ngày lẫn đêm, HBL thì
yêu cầu uống nhiều nước, tính theo chỉ số yêu cầu 0,4l cho 10kg trọng lượng
cơ thể thì một ngày tôi phải uống 1,6l. Khó khăn lắm tôi mới uống được
1lít/ngày mà đã đi tiểu liên tục, bụng trướng lên.
Thực dưỡng quan niệm thận chủ về thần, uống nước nhiều hại thận,
thần suy, trí tuệ giảm sút, mà tôi thì coi trọng trí tuệ như báu vật của đời
mình, nhiều lúc khó xử. Cuối cùng từ thực tế bản thân tôi trở về với NHAI
KỸ (nhai kỹ không gây khát nước) và uống nước ít lại. Những ai coi trọng trí
tuệ xin hãy thật lưu ý điều này, đừng lấy sự béo tốt làm thước đo sức khỏe.
Tôi thấy nhiều người còn ít tuổi mà đã nhớ nhớ quên quên, dễ buồn, dễ cáu
nhưng vẫn xem thường chỉ lo chăm sóc phần thân.
Tăng được 4kg rồi lại xuống và dừng lại ở mức 39kg, tóc xơ cứng và
mắt lúc nào cũng như người thiếu ngủ, trũng sâu, tiều tụy và rồi tôi gặp khóa
học của Ông, bà AnĐô từ 13/4 đến 19/4/2014 và tất cả đã thay đổi sau
khóa học đó.
Trước khi tập trung vào một chuyên đề chính là thực dưỡng, tôi muốn
viết đôi chút về HBL. Là người đã nguyện một lòng đi theo Phật và ăn thực
dưỡng, cả hai pháp môn này đều không khuyến khích tham dự vào các lĩnh
vực khác để giữ tâm chuyên nhất và nếu ăn thực dưỡng đúng không có nhu
cầu dùng thuốc hay bất cứ một loại đồ ăn nào được sản xuất bằng công nghệ
máy móc. Tiếc thay đạt được đến mức độ này thì hy hữu lắm lắm. Mặc dù
gần 8 năm ăn thực dưỡng, tôi rất ít khi tiêu đến bạc triệu, thậm chí tiền trăm
14
cho vài ngày ăn và uống thuốc. Lần này, tổng chi phí tiền cá nhân của tôi là
năm mươi triệu cho HBL gồm dùng cho cá nhân, tặng biếu con cháu, người
thân, bạn hữu và hai vị xuất gia, chi phí điện thoại, đi lại tham gia hội thảo ...
Tuy là món tiền khá lớn đối với tôi nhưng thật lòng tôi không tiếc và ân hận
vì qua lần trải nghiệm này tôi học hỏi được rất nhiều điều bổ ích : hiểu được
mặt trái của chữ tín, sự nhiệt tình thái quá của tôi ít nhiều làm vài tăng thân
(đồng tu) cùng tôi khó xử, cách sống khó hiểu của một số người ở thời đại
công nghệ. Nhưng đổi lại, tôi biết được lượng mỡ dư thừa dưới da làm yếu
cơ bắp do thiếu can xi vì tôi lạm dụng cốt dừa là loại mỡ bão hòa do ăn uống
sai phạm nên chỉ trong 2 năm mà tôi bị giảm 2cm chiều cao (thường người
già chỉ cân nặng ít đi khi đo lại chiều cao để phát hiện dấu hiệu loãng
xương). Tôi hiểu được nguyên nhân nhiều người biết đường, rượu không tốt
cho sức khỏe mà vẫn dùng vì nó giúp hưng phấn nhanh. Giải thích dưới góc
độ khoa học, đường và rượu khi ăn, uống vào có khả năng đi thẳng vào máu,
nên có cảm nhận khỏe và tỉnh táo ngay. Nếu dùng với lượng phù hợp với
nhu cầu cơ thể là được, nhưng dùng thừa sẽ chuyển vào mỡ dư thừa trong cơ
thể và gây bệnh ... Từ lâu tôi đã thấm thía và đón nhận tất cả chướng ngại,
khó khăn, tổn thất trên bước đường tu tập vì đó là điều rất khó tránh, có
chăng là sự áy náy pha chút ân hận của tôi đối với vài tăng thân, bạn hữu đã
vì nể tôi mà tham gia HBL một thời gian, có người dư dả nhưng cũng có đôi
người còn nghèo. Nhưng tôi tin là mọi người đều đồng ý với tôi một điều :
những ai dùng đều đặn HBL từ 10 ngày trở lên đều thấy ít nhiều có kết quả
đặc biệt là da sáng và người dễ chịu hơn. Ai từng tham gia hội thảo được
nghe chia sẻ đều tin tưởng và phấn chấn muốn tham gia ngay sẽ dễ dàng
thông cảm với tôi mà lượng thứ. Dù vậy, ẩn sâu trong lòng mình tôi vẫn thấy
áy náy vì những người ăn thực dưỡng không hợp với sản phẩm này lắm,
nhất là về giá cả dù được mua chiết khấu 50%. Ăn thực dưỡng chi phí tối đa
cho toàn bộ khoảng 1 triệu/người/tháng nhưng là phần gốc. Dùng HBL sẽ
15
tốn gấp 3 lần vẫn là giải quyết phần ngọn. Tuy nhiên có điều tối hậu các bạn
nên ghi lòng tạc dạ vì nó thuộc vào quy luật bất biến của vũ trụ, đó là mối
quan hệ tương tức qua lại của vạn vật, gốc có trong ngọn, ngọn có trong gốc.
Khi muốn thành công một điều gì đó mà ngại gặp khó khăn, sợ vất vả, tổn
thất thì sẽ gặp nhiều trở ngại, cứ mạnh dạn, năng nổ, trải nghiệm để tìm ra
cách phù hợp nhất với mình. Nhân tài liệu này tôi xin có lời mong được cảm
thông. Chỉ vì muốn tốt cho bạn mà kéo vào cuộc, xin lấy đây là một kinh
nghiệm sống. Bất cứ điều gì giúp ta nhận ra được một giá trị nào đấy đều vô
giá. Riêng tôi bị ngứa còn cả nhà tôi hiện vẫn tiếp tục dùng HBL nhưng cũng
không sao. Mỗi người hãy tự lựa chọn thức ăn cho mình, nhưng đừng quên
chọn loại thức ăn có tác dụng toàn diện đối với cơ thể và trí não. Có thể
dùng HBL làm cầu nối từ ăn mặn sang ăn chay, giảm mỡ bụng, với những
người còn e ngại thiếu chất hoặc khó ăn gạo lứt muối vừng.
Tôi chủ ý viết tỷ mỉ về trải nghiệm thực tế của mình trên con đường đi
tìm chân lý và ăn thế nào để có kết quả tốt nhất cho sức khỏe, trí tuệ để các
bạn nhận ra rằng: nó đầy gian nan, vất vả và không hề đơn giản chút nào.
Bởi tôi biết hiện nay có rất nhiều người đã và đang đến với gạo lứt muối
vừng, thiền và ăn chay có thể đang gặp khó khăn giống tôi hoặc còn nhiều
hơn tôi nhưng mong mọi người đừng bỏ cuộc mà hãy thận trọng, kể cả lúc
đọc tài liệu và xem đĩa về lĩnh vực này. Cuộc sống là vô thường; biến chuyển
thân, tâm cũng vô thường. Cơ địa, thời tiết, thời gian, quốc độ.. mỗi nơi, mỗi
người mỗi khác, không ai giống ai nên cốt tủy vẫn là tìm hiểu nguyên lý của
nó và tìm hiểu chính nội tâm, sức khỏe, trí tuệ thật sự của bản thân.
Ổn định một thời gian ngắn, bệnh đường ruột lại quay lại, đi phân lỏng.
Đối với thực dưỡng là tôi quá âm. Có một tia sáng đã mở lối thoát cho tôi,
bắt đầu từ món TEKKA (rau củ xào khô hoặc ướt với mi sô. Mi sô là tương
đặc tiếng Nhật). Ai ăn thực dưỡng lâu ngày đều biết món ăn này, nó được
gọi là thượng phẩm vì khả năng tốt đối với nhiều bệnh âm và ngon miệng
16
nhưng cách làm rất cầu kỳ, tốn thời gian ( 6 giờ cho một lần chế biến 300g).
Nếu không được hướng dẫn trực tiếp, đọc sách cũng khó mà làm được, đi
mua thì khá đắt 85.000đ được 25g, ăn 2 ngày. Cháu Hằng biếu tôi 1 lọ, tôi
mang về cho cháu nội cùng ăn. Hằng nói với tôi : “ TEKKA dương lắm cô ạ,
cháu đi lỏng ăn một bữa đã đóng khuôn” và tự làm biếu tôi 1 lọ to hơn. Quả
như lời cháu nói, đường ruột của tôi ổn định ngay sau 1 bữa ăn và tôi duy trì
ăn từ đó đến nay. Chưa hết, 7 ngày theo khóa học được ăn đồ ăn do chính bà
An Đô nấu cân bằng âm dương dạy trong khóa học. Các bữa khác do nhóm
thiền ăn Hà Nội của Ngọc Trâm nấu, 5 người trong nhóm cùng đi học với tôi
(Đ.T - Nhâm - Cháu Quyên - Thủy - Chị Là) đều công nhận ăn bữa nào có
tác dụng ngay bữa đó. Lúc vào học, ai đang còn bệnh gì đều ổn định. Đây là
sự thật nhưng nói ít ai tin. Riêng tôi trong suốt 7 ngày học, giờ giấc căng
thẳng nhưng sức khỏe tốt đặc biệt thần kinh vững, trí nhớ tuyệt vời không
thấy mỏi mệt.
Thấy khóa học quá bổ ích và hiếm hoi, tôi rủ đi học được 9 người, 3
người học trọn khóa (chị Là, Nhâm lúc đầu định đi ngày nào hay ngày đó,
cuối cùng thu xếp công việc gia đình để theo đủ 7 ngày , sáu người học được
từ 2 đến 1 ngày trong đó có cô út của tôi). Với phương pháp dạy kết hợp học
và hành, ông giảng lý thuyết âm dương, bà hướng dẫn nấu ăn mỗi ngày 5
món . Học 1 ngày cũng bổ ích hơn nhiều so với đọc tài liệu, xem đĩa sau này.
Nên từ ngày đầu khóa học đến chỉ còn lại một ngày, sau giờ học tôi gửi tin
nhắn (dài bằng 4 tin) tới 25 người, có người thì gọi điện, gặp trực tiếp
Hương vận động một buổi tối, đến tận nhà chị gái ngủ lại 1 đêm để cố rủ chị
đi (chị tôi đang ăn chay trường và có nhiều bệnh đang phải uống thuốc).
Vừa gặp chị, tôi đã khoe : “Tuyệt vời lắm chị ạ” và chị đã dội cho tôi một
gáo nước lạnh đủ để tôi không còn cách nào mở mồm được nữa. Tôi nhớ đại
loại : “Không có khóa học, chắc cả thiên hạ không nấu được mà ăn hay chết
hết gì đó”. Tiếc cho chị quá, sáng hôm sau tôi vẫn cố nài nỉ : “Chị cố đi một
17
ngày thôi, em đóng học phí, hoặc chị cho một cháu đi, về sẽ hướng dẫn lại”/
“ Các cháu bận nó không đi đâu”. Có vài người nhận lời rồi không thấy đi.
Thế mới hay cái gì cũng có nhân duyên của nó. Dao sắc không gọt được
chuôi, có cả em ruột, con đẻ suốt gần 9 năm không cách nào tiếp cận được,
thậm chí còn bị tổn thương, bài bác. Nhưng xét kỹ, lỗi thuộc về tôi, bản thân
chưa có kết quả cao đã vội nôn nóng chia sẻ. Nhưng đổi lại, nhờ những lời
chê nặng ấy mà có cơ hội nhìn lại mình để sửa chữa.
Thấy tôi quá nhiệt thành vận động người đi học, vừa nằm nhắm mắt,
vừa gọi điện thoại (vì sau 1 ngày học về ai cũng căng thẳng để nghe và ghi
chép cần nghỉ ngơi), cháu Quyên làm hết mọi việc, chị Là giành cả quần áo
đi giặt cho tôi. Ba người chúng tôi cùng ở nhờ nhà con trai chị Là và yêu
thương nhau đầm ấm.
Sau thực tế giá trị của mỗi bữa ăn cân bằng âm dương, về nhà, chúng tôi
thống nhất cùng ăn đơn giản và nấu theo phương pháp đã học. Chỉ có cơm
lứt với lá ngải cứu xào khô với muối mà ai cũng thấy dễ chịu, ngủ ngon giấc
Trong khóa học, có ghi hình đầy đủ 7 ngày và đã có đĩa bán ở nhà NT
nhưng sẽ khó hiểu với người chưa đến với thực dưỡng, hoặc đang ăn nhưng
chưa thấy hết giá trị của phương pháp này.
Tôi có thói quen viết thu hoạch khóa tu, khóa học bổ ích để chia sẻ rộng
rãi. Lần này tôi có ý định ngay trong khi đang học nhưng rồi về nhà phải giải
quyết nhiều việc tồn đọng quá. Nhưng lý do chính khiến tôi chưa viết ngay
được là vì tôi muốn thực hành nấu ngay vài món ăn để duy trì kết quả bản
thân đang có và báo cáo kết quả học tập với các con để thuyết phục dần chúng
vào cách nấu ăn tuyệt vời này. Các con tôi đã vô cùng ngạc nhiên. Từ một
người đã hơn 25 năm không vào bếp (17 năm mất ngủ nặng + 8 năm ăn thực
dưỡng), hy hữu lắm mới phải tự nấu ăn thì gọi nhờ các con đủ thứ vì thái dao
dễ bị đứt tay vì lóng ngóng và làm quá chậm, lần này tự mẹ làm tất cả. Có
18
món làm tới 6h mà món nào cũng ngon, nấu chỉ có muối và mi sô, tamari với
một phong thái ung dung, vui vẻ.
Tôi đã làm kem cháo, đậu gà, bánh mỳ OSAWA không men, không lò
nướng đặc biệt làm 1 lần TEKKA ướt để thử trước, sau làm tới 3 lần TEKKA
khô để cả nhà ăn trong 1 năm. Tôi hạnh phúc vô cùng khi thấy cháu nội cầm
bánh mỳ ăn ngon lành và nói: “Ngon lắm bà ơi”. Con gái, con dâu ăn nhiệt
tình và tham gia chế biến cùng mẹ. Con trai thứ hai không bao giờ ăn đồ của
mẹ nay ăn đậu gà, bánh mỳ và khen ngon “bí mật” với vợ.
Nếu tôi nói thực dưỡng Macrobiotics hoàn toàn có khả năng làm thay
đổi cuộc đời bạn và bạn không bao giờ, hoặc ít khi phải lo đối phó với đủ
các loại bệnh thuộc về tâm và thân thì bạn có tin không? Bạn không cần hao
tâm, tổn lực lo kiếm tiền để chi dùng cho các nhu cầu thường nhật như trước
vì ăn thực dưỡng tốn rất ít kinh phí dù cho bạn có muốn ăn toàn loại đắt tiền,
cao cấp nhất của thực dưỡng như hiện nay đang bán. Nếu muốn bạn có thể
tự làm tất cả. Ăn tốt một thời gian ngắn, thậm chí sau từ 1 - 5 ngày là có kết
quả ngay. Nhu cầu, ham muốn vốn là cái thùng không đáy, có người chỉ cần
thời gian để kiếm đủ sinh nhai nhưng đại đa số chỉ là cái cớ để tự giàng buộc
mình trong lưới VÔ MINH của BẢN NGÃ. Bạn sẽ khó tin nhưng nếu bạn
nghiêm túc đầu tư thời gian đọc tài liệu này, sau đó xem 14 đĩa DVD của
khóa học rồi đưa vào thực hành, cuộc đời bạn sẽ thay đổi lớn.
Sẽ là nực cười, cho phép tôi được dùng từ này với ai đó, tự đánh giá
mình là người thông minh, hiểu biết vậy mà thực tế họ rất bế tắc đối với vấn
đề sức khỏe bệnh tật và đời sống tinh thần của chính mình. Có vẻ như họ
sống rất thụ động trước nhiều vấn đề. Vậy mà với công nghệ truyền thông
rộng khắp, phong phú như hiện nay: sách, đĩa các loại về phật pháp nói
chung, về thiền nói riêng, về ăn chay, gạo lứt muối vừng (một cách gọi khác
của thực dưỡng) và cụ thể là đã xuất hiện khá nhiều cư sĩ tại gia trên khắp
thế giới có cuộc sống bằng an, có khả năng thuyết giảng và viết sách chia sẻ
19
nhiều pháp môn rất khả thi, có nhiều người ăn thực dưỡng chữa khỏi bệnh
nan y... nhưng họ không hề quan tâm. Việc kêu ca, phàn nàn, chịu đựng, bế
tắc có vẻ không liên quan gì tới việc họ cần tìm hiểu, học hỏi cách khắc
phục.
Hy vọng sau khóa học này, thực dưỡng Việt Nam, đặc biệt khu vực
phía Bắc sẽ có nhiều khởi sắc, nếu như các học viên cùng học và hành. Đã
có đĩa rồi, xem lại càng hiểu kỹ hơn. Nếu bạn muốn có một sức khỏe tốt,
một đời sống đơn giản và tràn đầy niềm an lạc hãy bắt đầu từ việc đầu tư quỹ
thời gian để thật yên tâm xem trọn bộ đĩa này về thực dưỡng Macrobiotics
kết hợp đọc tài liệu thu hoạch khóa học của tôi.
II/ THẦY AN ĐÔ GIẢNG LÝ THUYẾT ÂM DƯƠNG :
Tôi luôn nghĩ, mình là người có quá nhiều may mắn, duyên lành. Đối
với đạo Phật, tôi gặp được sư ông Nhất Hạnh để rồi từ đó được đọc, hiểu
nhiều sách, xem nhiều đĩa của các bậc đại cao tăng xưa và nay : HT Hư Vân,
HT Quảng Khâm, HT Tịnh Vân, HT Tuyên Hóa, HT Thanh Từ, TS Đại Huệ,
tôn giả Tịch Thiên, ngài Osho, TS Bankel, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Thầy Duy
Tuệ... Đối với thực dưỡng được đọc sách của người đã làm sống lại phương
pháp quý này sau 4000 năm bị lấp vùi quên lãng bởi cơn lốc trần ai đó là
ngài OSAWA, ngài Namboku Mizuno, ngài Herman Aihara, Ông Thái Khắc
Lễ, Ông Ngô Thành Nhân, bác Ngô Ánh Tuyết và bác Ngọc Tài, cô Ngọc
Trâm.. xem nhiều đĩa giảng của thầy Tuệ Hải. Nhưng rồi chắc chắn sẽ khó
đạt kết quả nếu như không được gặp thầy cô An Đô để tham gia khóa học 7
ngày có đầy đủ lý thuyết, thực hành từ 13/4/2014 - 19/4/2014 ở Hà Nội.
Theo tôi đây là một cơ duyên tốt lành đối với người ăn thực dưỡng Việt
Nam suốt 49 năm, kể từ 5/1965 tiên sinh Ohsawa sang Huế. Năm 2013, thầy
cô An Đô sang du lịch Việt Nam có hỏi thăm nơi bán thực dưỡng, cô gái đó
đã đưa đến cửa hàng của Ngọc Trâm. Như cá gặp nước nên đã bén duyên
ngay lập tức. NT và nhóm thiền ăn HN đã mời thầy cô sang VN lần thứ 2 và
tổ chức khóa học. Khóa học đã thành công tốt đẹp trong sự hỗ trợ của nhiều 20
tấm lòng vàng đối với thực dưỡng. Gia đình bác Hoạch tài trợ toàn bộ không
gian (nhà riêng có đầy đủ thiền đường, đủ chỗ cho 50 người tham dự, bếp
nấu ăn ở 296 Nghi Tàm – HN). Đặc biệt, đội ngũ phụ giúp cô An Đô nấu ăn
nhiệt tình và chu đáo.
Khác rất nhiều với các sách đĩa thực dưỡng tôi từng đọc và xem, cách
giảng của thầy An Đô có tính thuyết phục rất cao. Người chưa biết về thực
dưỡng, giới khoa học, trí thức, người ít học nếu thành tâm đều có thể hiểu và
công nhận giá trị của phương pháp này. Thầy giảng có bài bản, mang tính
khoa học, có tư liệu dẫn chứng và minh họa ảnh cụ thể với phong độ giản dị
và thật từ bi.
Tôi có tâm nguyện quảng bá rộng rãi phương pháp này dù trình độ văn
hóa hạn hẹp (tôi chỉ học lớp 7 hệ 10 năm, sau này mới học thêm bổ túc cấp
III). Tuy học giỏi văn, toán nhưng rất dốt vật lý và hóa học. Trong tư duy của
tôi hầu như không còn một chút khái niệm gì về hai lĩnh vực này. Tôi nói
ngọng nhưng viết đúng chính tả và chưa biết cách chấm, phẩy câu đúng ngữ
pháp. Tuy nhiên, nếu có biết hai lĩnh vực này, tôi vẫn muốn viết dung dị bình
dân để ai đọc cũng có thể hiểu, áp dụng. Vậy có lời cáo lỗi trước, nếu tôi viết
chưa chuẩn về công thức hóa học và từ tiếng Anh xin được cảm thông.
Tôi sẽ viết thứ tự theo từng bài giảng của thầy nhưng cũng có phần tôi
đưa vào cùng một chủ đề cho dễ theo dõi, so sánh như phần nói về vòng xoáy
ốc.
A/ NGÀY THỨ NHẤT (BÀI SỐ 1) :
Thầy giới thiệu về mình, thầy không nói ngày sinh. Thầy biết đến thực
dưỡng từ năm 1978, lúc đó ngài Ohsawa đã mất năm 1966. Từ một sinh viên
đại học, có bệnh nặng, được bạn tặng hai quyển sách về triết học Đông
Phương và phương pháp thực dưỡng. Tìm hiểu thực hành nhưng thất bại
nhiều lần vì không nắm bắt được nguyên lý. Nhưng nhờ quyết tâm theo đuổi
suốt 40 năm vừa thực hành, nghiên cứu, truyền bá, thầy đã tìm thấy hạnh
phúc của phương pháp này.21
Trước ở vùng ấm, sau chuyển về vùng lạnh tuyết dày 1m, có khi tuyết
phủ mái nhà 2m, vậy làm thế nào để chịu được? Chiến đấu với tuyết để có
cơ thể thích nghi dần, từ đó có một bài học lớn về khả năng của con người.
Thầy làm được điều này là nhờ lời dạy của ngài Ohsawa “Hãy làm cho cơ
thể mình mạnh mẽ lên để đẩy lùi bệnh tật và tăng trưởng trí phán đoán”.
Tôi sẽ ghi lòng lời giáo huấn này để vượt qua những khó khăn còn tồn đọng.
TRÍ PHÁN ĐOÁN tối cao của ngài Ohsawa dùng liên tục ở đây cũng là TUỆ
GIÁC trong đạo Phật. Nhờ 30 năm sống ở vùng lạnh, thầy đã nhận ra mối
liên hệ giữa thức ăn với con người thật khăng khít. Food có nghĩa là pút
(luôn luôn phải nghĩ quay trở lại với thức ăn).
CHỦ ĐỀ BÀI 1 : PHÁT SINH HỌC.
Phát sinh học, tiếng anh có liên quan tới tế bào hay còn gọi là PHÔI
THAI hoặc cái bắt đầu của vũ trụ. Cái đầu tiên phải học là : lý thuyết về âm
dương tức ÂM DƯƠNG HỌC.
Đây là một chủ đề khá lý thú và vi diệu, hiểu được về nó rồi sau này
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống bạn chỉ cần dùng hai khái niệm này để giải
quyết tận gốc mọi vấn đề về tinh thần, vật chất : “Đừng xem âm dương là
khái niệm danh từ, những người nhập môn nên xem âm và dương là tính
từ. Tức là các từ ngữ diễn tả các trạng thái biến dịch của sự vật, người, tư
tưởng và các sự việc khác”. Tôi rất thích và tâm đắc với câu nói này, nó
chính là VÔ THƯỜNG của Phật giáo. Nếu như trong vũ trụ này không có sự
biến dịch và vô thường thì làm sao con người có khả năng để thay đổi cuộc
đời mình, xoay đổi tình thế để làm chủ vận mệnh.
Thầy giới thiệu về ngài Ohsawa, bậc thầy tôn kính của mình. Ngài
Ohsawa nỗ lực cả cuộc đời mình để làm sống lại phương pháp này cũng xuất
phát điểm từ cái chết thương tâm của mẹ và em trai. Sau đó chính bản thân
ngài cũng mắc đủ các loại bệnh về phổi, dạ dày, ngoài da…. Ngài đã đi học
đông tây y và đọc rất nhiều sách của Trung Quốc : Hoàng đế nội kinh, Lão
tử, Kinh dịch (chữ dịch trong kinh dịch là sự biến dịch hay dịch chuyển). 22
Ngài đã nhận ra sự khác biệt giữa quan niệm tâm linh huyền bí mang tính
trừu tượng nhưng vô cùng sâu sắc, hiệu dụng của phương đông và khoa học,
máy móc cụ thể của phương tây nhưng còn hạn chế. Thậm chí quan niệm
giữa đông và tây đối lập nhau có khả năng dẫn đến chiến tranh. Ngài đã sang
phương tây vì hòa bình nhân loại, muốn kết hợp khoa học tây phương với
học thuyết đông phương. Ngài là một người có tư tưởng lớn và tài ba xuất
chúng.
Thầy dẫn học viên vào thế giới âm dương bằng sự gần gũi dễ hiểu
xung quanh mình. Thầy chỉ vào thảm đỏ mọi người đang ngồi và nói : nhìn
mầu đỏ có cảm giác ấm áp thuộc về dương ( ), quan trọng là trực quan
này vốn có sẵn trong tất cả mọi người. Nếu con người chỉ sống bằng trực
quan (thấy biết như thật) thì cuộc sống đã giữ nguyên bản chất thật nguyên
sơ của nó, mọi chuyện rắc rối đã không xảy ra. Nhưng con người có bản tính
phân biệt nên đã làm thay đổi giá trị thật của nó. Ví dụ : Mọi người thường
quan niệm rằng trời ở trên cao, xa vời, bao la rộng lớn thuộc về cao quý, linh
thiêng, huyền bí; đất ở dưới thấp là thấp hèn. Thầy cho biết đông y quan
niệm trời là dương, đất là âm. Thực dưỡng quan niệm trời là âm (xa vời,
cách biệt), đất là dương (gần gũi , thân thuộc). Khoa học đưa ra hai nguyên
tố quan trọng là Na và K. Nhưng thế giới không xây dựng bằng hai nguyên
tố này mà là sự tổng hòa của nhiều thứ. Na thuộc dương, K thuộc âm. Đọc
nhiều lần dần dà tôi mới tạm hiểu Na là kiềm (các loại muối), K (đọc là kali)
là axít (các loại chua).
Trước khi đi vào chủ đề âm dương cơ bản này, tôi xin lưu ý các bạn, có
ai đó nói rất hay : “Nhận biết âm dương như trò bắt lươn, càng bắt càng
trơn và tuột khỏi tay, mệt mỏi mà chẳng được gì nhưng nếu cẩn trọng suy
nghĩ sáng tạo thì sẽ bắt được và điều khiển nó quay lại phục vụ mình”.
Ngài Ohsawa dựa vào thuyết âm dương (AD) đã xây dựng nguyên lý
vô song qua 12 định lý. Ở bài 1 thầy chỉ nói sơ bộ : “Mọi thứ trên thế giới
23
này đều được hình thành, vận hành bởi hai yếu tố A và D (điều này Trung
Quốc đã tìm ra từ xưa, ngài Ohsawa chỉ phát triển nó cho phù hợp với thời
đại). AD là hai cực trải rộng vô hạn, thuần túy, phát sinh vĩnh viễn không
bao giờ ngưng nghỉ từ chính bản thân nó, tươnglai cũng như thế, mãi mãi
là như vậy. Sinh mệnh chúng ta cũng vậy, không bao giờ kết thúc chỉ
chuyển hóa mà thôi. Thật sai lầm nghĩ AD là cố định. Theo giáo sư
Ohsawa: vũ trụ là vô tận, không biết đâu là khởi đầu hoặc kết thúc và
không ngừng giãn ra và co vào. Như vậy so với vũ trụ “hiện tại” đang
giãn ra thì vũ trụ “trước đây” và “sau này” có vận động co vào hoặc toàn
thể vũ trụ có một phần co vào và một phần giãn ra.
Qua nguyên lý này, các bạn dễ dàng nhận ra sự tương đồng với giáo lý
nhà Phật. Đó là quy luật BẤT SINH BẤT DIỆT và vô thỉ vô chung (không có
khởi đầu và kết thúc), tất cả chỉ là một mối quan hệ tương tức qua lại của
NHÂN - QUẢ. Thuyết bảo tồn năng lượng của khoa học cũng xác nhận điều
này : “Không có gì tồn tại hay mất đi mà chỉ đổi từ dạng này sang dạng
khác”. Bước đầu ta tập làm quen với AD được tóm tắt như sau :
Dương : Lực hướng tâm, co rút lại, thuộc trung tâm và ở xung quanh ta,
luôn hoạt động, nặng (đi xuống dưới), nóng, hoạt động…
Âm : Lực ly tâm, bành trướng, giãn nở, ly tán, lan rộng, ở xa ta, lạnh, nhẹ (đi
lên), bốc hơi, đứng im..
Sau đây là nhận biết âm dương tính theo thứ tự từ dương nhiều - giảm
dần - âm nhiều - giảm dần :
- Màu sắc : đỏ - cam - vàng - trắng - xanh lá cây - xanh lam - chàm - tím.
- Nhiệt độ : Nóng - ấm - mát - lạnh.
- Vị giác : Đắng - mặn - ngọt - chua - cay.
- Hình dáng : Dầy - tròn - ngắn - mỏng - dài.
- Giọng nói : Trầm ấm - cao.
- Tình cảm : Nộ (tức giận), vui mừng - bình tĩnh - an lạc - đau khổ.
24
- Vật lý : Lửa - đất - nước - gió.
Bạn cần biết AD là hai khái niệm để chúng ta dễ hiểu mà phân loại.
Bản chất của chúng là tự nhiên, không xấu, không tốt, tốt xấu là ở sự kết hợp
đúng hay sai. Cực dương cũng gây ra độc tố, cuồng loạn tâm lý dẫn tới giết
người. Cực âm sinh ra tê bại tâm hồn, thể xác, các bệnh trầm cảm, béo phì…
Hiểu biết về âm dương giúp chúng ta biết cách cân bằng chúng trong mọi
vấn đề của cuộc sống, nhất là đối với việc ăn uống vì nó liên quan mật thiết
tới sức khỏe, bệnh tật và trí tuệ.
Thực dưỡng cũng như Phật pháp là hai lĩnh vực thuộc về TUYỆT ĐỐI,
TỰ GIÁC. Thật khó dùng cái TƯƠNG ĐỐI để giải thích cái tuyệt đối, dùng
CẢM GIÁC để nhận xét TRỰC GIÁC. Ví như không một ai có thể dùng ngôn
từ để diễn tả trạng thái, tâm tư riêng của người khác như: buồn vui, ngon dở,
ý nghĩ tốt, xấu… chỉ có người trong cuộc thực chứng mới hiểu hết giá trị
thật của nó. Nên học lý thuyết, dù người thầy giỏi đến đâu cũng là việc rất
khó để giúp học trò lĩnh hội được mục đích thầy muốn trao truyền đấy là
chưa kể đối tượng nghe có thành tâm và chú ý nghe đủ đầu, cuối hay không.
Vì vậy giảng đến đâu, thầy đưa ra ví dụ để mọi người dễ hình dung và chỉ
dùng AD để giải thích mọi vấn đề. Đặc biệt, thầy thường xuyên nhắc đến
việc nên sử dụng thật ít đường và nước là hai nguyên nhân dẫn đến nhiều
loại bệnh vì nó thuộc tính âm. Về hình khối, là A, ▄ là D. Về thời gian,
ngày D đêm A nên con người sống thuận tự nhiên là ngày làm việc, đêm
nằm ngủ. Người nào ban ngày có nhu cầu đi nằm là dấu hiệu âm (yếu) cần
nghỉ ngơi, bị bệnh phổi, chảy nước mũi là âm do ăn nhiều đồ thịnh âm như
sô cô la, pho mát, bánh pida… chỉ cần nhận biết và cân chỉnh lại thức ăn.
Bào thai, cơ thể chứa 90% nước; trẻ sơ sinh 80%; người bình thường từ 60%
- 65%; người già 55%. Đối tượng nào chứa nhiều nước (A) cần giúp đỡ,
chăm sóc. Nước trong cơ thể và nước đưa vào cơ thể có chức năng khác
nhau. Đối với thực dưỡng, nước là chất lỏng có tính lan tỏa nên thuộc âm, vì
25
vậy dùng càng ít nước càng tốt, để tăng tính dương, hiệu quả trị bệnh cao
(nên xem đĩa để hiểu kỹ hơn). Nói đúng hơn, cân bằng âm dương trong đó có
cân bằng lượng nước trong cơ thể. Nên tùy cơ địa, tùy thời tiết, tùy nhu cầu
mà đáp ứng vừa đủ. Ai khuyên uống nhiều nước người đó có tính D. Quan
trọng là nên uống loại nước gì và vào thời điểm nào. Có quá nhiều người đặc
biệt trẻ em thích uống sữa, nước có ga thay nước lọc và các loại trà chế biến
công nghệ có đường và chất bảo quản. Đây là thói quen khá nguy hại, thấy
khát là uống ừng ực ngay một lượng lớn, uống theo khẩu vị, uống xong ít để
ý đến phản ứng của cơ thể.
Đông y cho gừng là dương vì có khả năng làm ấm. Thực dưỡng cho
gừng là âm vì khi cơ thể bị lạnh, ta có thói quen uống nước gừng và thấy cơ
thể ấm lên. Gừng làm ấm vì gừng làm giãn nở mạch máu (trương nở, giãn
ra) máu lưu thông và làm cơ thể ấm lên, nhưng đến một mức nào đó sẽ lạnh
trở lại. Nếu dùng thường xuyên sẽ làm mạch máu nhão và yếu cơ bắp. Vì
vậy phân định âm dương phải dựa vào nhiều yếu tố không nên chỉ dựa vào
hình dáng, mùi vị, mà nên để ý đến tính năng dược lý của nó và cảm nhận từ
chính cơ thể của mình.
Mười hai định lý âm dương
biện chứng của thế giới tương đối :
1/ Âm và Dương là hai cực biểu hiện cùng vận động của Nguyên Động Lực
Bành Trướng Siêu Nghiệm. Âm và Dương phát sinh khi Nguyên Động Lực
Bành Trướng đạt đến mức phân đôi (phân cực).
2/ Âm và Dương sinh ra liên tục trong chuyển động không ngừng của
Nguyên Động Lực Bành Trướng.
3/ Âm thì ly tâm, Dương thì hướng tâm. Âm và Dương phát sinh năng lượng
(khí).
4/ Âm hút Dương, Dương hút Âm.
26
5/ Âm và Dương phối hợp nhau theo những tỷ lệ bất định để tạo ra mọi hiện
tượng.
6/ Mọi hiện tượng đều tạm thời, đó là những cơ cấu vô cùng phức tạp và có
tỷ lệ phối hợp Âm Dương thường xuyên biến đổi. Mọi sự vật đều vận động và
biến đổi không ngừng.
7/ Không có gì hoàn toàn Âm hoặc hoàn toàn Dương. Mỗi hiện tượng từ nhỏ
đều lớn lên bao gồm cả Âm lẫn Dương. Trong Âm có Dương, Trong Dương
có Âm.
8/ Không có gì trung tính. Trong mỗi hiện tượng luôn luôn có sự trội vượt
của Âm hoặc Dương.
9/ Sức hút tỷ lệ nghịch với sự cách biệt của những hợp thể Âm Dương. Càng
khác hoặc càng xa thì càng hút nhau.
10/ Âm đẩy Âm, Dương đẩy Dương. Sức đẩy tỷ lệ nghịch với sự tương cận
của hai năng lực Âm Dương. Càng giống hoặc càng gần thì càng đẩy nhau.
1l/ Tỷ lệ Âm Dương trong mỗi hiện tượng luôn luôn biến đổi theo thời gian
và không gian. Âm đến cực độ thì sinh Dương, Dương đến cực độ thì sinh
Âm.
12/ Mọi vật thể đều Dương bên trong và Âm bên ngoài.
Do có xu thế chuyển hóa thành A và ngược lại nên bành trướng sẽ
yếu đi. Đối với quốc gia cũng vậy, thích bành trướng, rộng lớn sẽ yếu dần đi.
Rồi thầy đặt câu hỏi : “Vậy con người ăn gì và nấu ra sao, hãy tìm hiểu
theo âm dương - Con người là động vật, hoạt động nên thuộc D (các loài
động vật khác cũng thuộc D). Thực vật đứng yên thuộc âm. Con người
dương nên cần nuôi dưỡng từ âm”. TUYỆT! Chẳng cần đưa ra nhiều lý do
để khuyên con người ăn chay. Con người muốn mạnh khỏe có trí tuệ thì tự
biết mình nên ăn gì theo quy luật âm dương. Ở đâu có thực vật, ở đó có sự
sống và ngược lại, ở đâu cây cỏ không sống nổi thì sự sống thật cằn cỗi và
27
không có sự sống. Thầy đưa ra 7 tiêu chuẩn, hay 7 điều kiện để tự đánh giá
sức khỏe khá lý thú và cụ thể, gần gũi với đời sống thường nhật :
1/ Không bao giờ mệt mỏi (5đ): thích làm việc. Người ngại làm việc là đang
rất âm.
2/ Ăn ngon miệng (5đ): ăn gì cũng thấy ngon, ăn cơm là đủ rồi, có cơm ăn
là quý rồi (bây giờ rất nhiều người ra chợ không biết mua gì để đổi bữa cho
ngon miệng và thường không muốn ăn dù ngồi trước mâm cơm thịnh soạn).
3/ Ngủ ngon giấc (5đ): nằm 3 phút ngủ liền, không ngủ mơ, dậy được ngay,
nằm ngủ không thay đổi vị trí, thế nằm, không ngủ gật trên xe buýt (mọi
người cười ồ, vì đây là bệnh thời đại VỘI đang phát triển vì thiếu ngủ).
4/ Trí nhớ tốt (10đ) : Không bao giờ quên đồ.
5/ Vẻ mặt vui tươi (10đ) : Luôn tươi cười, truyền niềm vui sang người khác.
6/ Trí phán đoán cùng hành động nhanh lẹ và hòa nhã (10đ): xử lý
nhanh, chuẩn xác các tình huống trong cuộc sống.
7/ Công bằng (55đ) : Đây là điều kiện cao nhất, ngài Ohsawa đổi là :
KHÔNG BAO GIỜ NÓI DỐI, còn thầy An Đô đổi là CHÍNH NGHĨA. Theo tôi
đây chính là vô ngã - vô ưu trong đạo Phật. Chỉ khi nào con người trở về với
cái tâm chân thật (bản tâm, chân tâm) không còn chấp trước, phân biệt lúc
đó mới thực sự có cuộc sống an lạc - giải thoát của lẽ công bằng hay chính
nghĩa - chân như và điều kiện của nó hãy bắt đầu từ việc sống chân thật -
không nói dối kể cả lừa dối chính bản thân mình. Hãy nhận biết mọi chuyện
xảy ra xung quanh mình, thế giới, nỗi đau của người khác. Người nào
không thấu hiểu được nỗi khổ của người khác, bản thân người đó còn bất
hạnh hơn. Hạnh phúc không phải nhận được mà cho đi - thầy An Đô đã
nói như vậy với lớp học.
Điều kiện thứ 7, được tính già nửa tổng điểm (55/100). Đơn giản chỉ là
hai chữ CÔNG BẰNG hoặc CHÍNH NGHĨA thậm chí : KHÔNG BAO GIỜ NÓI
DỐI. Nhưng thật sự rất khó đạt được, nó gần giống với từ bi - trí tuệ là hai
28
cốt tủy của người tu Phật. Tôi thấy nhiều người sống bó hẹp trong một
không gian chật chội, tất cả sự quan tâm là dành cho gia đình nhỏ của mình,
thậm chí cá nhân, nhìn nét mặt đã nhận ra sự cô đơn, không khoáng đạt
trong giao tiếp, họ ít niềm vui. Có nhiều người miệng và lòng không giống
nhau, những người này ưa danh vọng, thích nổi bật, thích được ca ngợi và
luôn mất phương hướng cho chính mình, lời nói bất nhất, nhiều người nhận
ra họ nhưng họ không hoặc rất ít nhận ra sai phạm của mình.
NGÀY THỨ HAI (14/4/2014)
Nói đến thực dưỡng là nói đến việc ăn uống. Bản thân chữ “Thực” là
thực phẩm, ẩm thực, chữ “Dưỡng” là dưỡng nuôi. THAM THỰC CỰC THÂN -
QUÁ KHẨU THÀNH TÀN - Kinh nghiệm được đúc kết từ muôn đời để lại.
Thầy An Đô mở đầu bài giảng từ món bánh truyền thống của Nhật, Ogura,
do bà Yuri dạy ở bài 1 : “Người Nhật ăn gạo sát trắng và có thói quen ăn
thêm món phụ vào bữa ăn chính. Hồi đó xảy ra một căn bệnh: ở vùng đầu
gối nổi mụn, có một đệ tử của tướng quân Mạc Phủ đã nghĩ ra món bánh
được làm từ cám gạo, trong cám có nhiều vitamin cần cho cơ thể để tăng
sức đề kháng trị bệnh”, ý thấy muốn nói đến tầm quan trọng của việc ăn gạo
lứt. Cô NT kể : Con gái không thích ăn gạo lứt, cô đã nấu cơm với cám
và nước mơ để dễ ăn hơn. Tôi đã có lần ăn bánh cám (cám mới xát sàng
mịn), trộn nước đem rán hoặc hấp, rất ngon. Ngày xưa bà con nông dân nuôi
lợn, gà, vịt bằng cám gạo giã là chủ yếu nên thịt chắc và ngon, ngọt. Ai đã
từng ăn đều có thể nhớ lại.
CHỦ ĐỀ 2 : TRẬT TỰ VŨ TRỤ VỚI CÁI NHÌN CỦA THỰC DƯỠNG.
Đạo Phật dùng sơ đồ 10 pháp giới và sáu nẻo luân hồi để giúp phật tử
hiểu được mình sẽ tái sinh vào cảnh giới nào theo nghiệp và nhân quả do
chính mình tạo ra. Đối với thực dưỡng, ngài Ohsawa đã dùng vòng xoáy óc
29
để biểu thị trật tự của vũ trụ với nhiều lĩnh vực về sự hình thành nên con
người, tính cách, nghề nghiệp và hướng chuyển hóa thay đổi nó.
Có vẻ như nhiều người đến với thực dưỡng chủ yếu là phương pháp
gạo lứt muối vừng, ít quan tâm đến vòng xoáy ốc này mà chỉ tìm đọc sách
xem ăn thế nào, thời gian bao lâu và tác dụng ra sao? Quả là sai lầm lớn!
Trong suốt khóa học thầy An Đô nhắc đi nhắc lại nhiều lần là hãy tìm
hiểu về vòng xoáy này. Cơ cấu của nó cũng khá phức tạp nhưng có 3 điểm
mấu chốt :
1/ 12 nguyên lý vô song.
2/ 7 phương pháp nhìn nhận về vũ trụ: là 7 nguyên lý tương ứng, cốt lõi
của AD.
3/ Con người là TỰ DO - CHÍNH NGHĨA - TÌNH YÊU (con người ai cũng có
phật tính - khả năng giác ngộ - sống thuận chính nghĩa, có tình yêu chân
thành chắc chắn có tự do).
7 nguyên lý của trật tự vũ trụ :
1/ Có khởi đầu thì có kết thúc : Có sinh ắt có diệt. Phàm vật gì có hình dạng
chắc chắn sẽ vỡ. Đạo Phật có câu : THÀNH – TRỤ – HOẠI – DIỆT. Bất cứ điều
gì có hình tướng (kể cả tư tưởng, ý nghĩ đã khởi lên và hình thành ý định)
đều chịu quy luật này. Có điều chúng ta hãy thật lưu ý: diệt ở đây không có
nghĩa là hết, bị triệt tiêu 100% mà chuyển sang dạng khác bởi tác động qua
lại tương tức của vạn pháp.
2/ Có mặt phải tất có mặt trái: ví như hai mặt của đồng xu, tờ giấy, bàn tay...
Không có hai mặt thì chẳng có bất cứ vật gì có mặt ở trên đời như: chìm-nổi,
phải-trái, tốt-xấu, được-mất, sinh-diệt … chỉ là hai mặt của một vấn đề.
3/ Không có hai sự vật hoàn toàn giống hệt nhau (không bao giờ có thứ nào
giống nhau cả), không khí, nước.. ở nơi này, nơi khác khác nhau. Ai cũng
phải ăn, cùng ăn cơm gạo lứt nhưng cảm nhận, cách nhai khác nhau dẫn đến
tác dụng khác nhau.
30
4/ Bề phải càng lớn, bề trái càng to.
5/ Tất cả đều biến đổi (biệt hóa và vận động) không ngừng (ổn định chỉ là
tình trạng bình quân giữa hai biến đổi ngược chiều) và được tạo tác bởi hai
động lực cơ bản, phổ quát, biện chứng và đối lập nhau. Âm và dương, lực ly
tâm và lực hướng tâm.
6/ Âm và dương tuy đối lập nhưng là hai cánh tay cùng hoạt động tương trợ
và bổ túc nhau của Nhất Thể. Mọi đối lập đều bổ túc cho nhau. Như vậy, mọi
hiện tượng và vạn vật trong vũ trụ không ngừng sinh ra, phát triển, hoại diệt
và tái tạo do sự chi phối đồng thời của hai động lực hoặc hai khuynh hướng:
Âm và Dương. Âm là động lực hay khuynh hướng ly tâm, bành trướng, giãn
nở, phân tán. Trái lại, Dương là khuynh hướng hay động lực hướng tâm, thu
súc, co rút, kết hợp.
Hai lực này luôn luôn hoạt động có đôi, tuy trái nghịch nhưng bổ túc
cho nhau. Vì vậy, không có gì hoàn toàn Âm hoặc hoàn toàn Dương mà hàm
chứa cả Âm và Dương, tùy theo sự vượt trội của lực này so với lực kia ở một
sự vật/ một hiện tượng mà ta gọi sự vật đó/ hiện tượng đó là Âm hay Dương.
7/ Nhất Thể hay vũ trụ Thống Nhất là bất biến, hằng hữu, vô tận, vô biên và
toàn năng. Nhất Thể sinh sản, biến hóa, phát triển, tiêu diệt và tái tạo vạn vật
cùng thế giới này. Từ nguyên lý 1 - 6 thuộc hữu hạn, có thay đổi.
Nhưng cái thay đổi được phát sinh từ cái không thay đổi (bất biến); cái
hữu hạn cuối cùng lại trở về nhất thể (một trong tất cả, tất cả trong một). Đó
chính là vô ngã! Đây là lý do tôi luôn đưa đạo Phật song hành với thực
dưỡng. Thầy An Đô cũng làm việc này, vì Thực dưỡng đạo - đạo Phật muốn
thực chứng đều thuộc về trải nghiệm thực tế, lấy thực hành làm trọng. Đối với
tôi đạo Phật và thực dưỡng có mối liên quan mật thiết như đôi chân của một
người, thiếu một sẽ khập khiễng, ai kết hợp hai phương pháp này tu tập
chuyển hóa nhanh có kết quả hơn.
31
Đối với trật tự vũ trụ, ngài Ohsawa chỉ ra trật tự thứ bảy là cao nhất
thuộc về vô cực, những thứ thay đổi chỉ là một chấm nhỏ so với thế giới vô
hạn bao trùm tất cả này. Thế giới ta bà, cõi dục giới chúng ta có mặt cũng chỉ
là rất nhỏ so với hằng hà sa số các hành tinh trong vũ trụ. Đây là điều tối
hậu, bạn nên quan tâm để sớm có ý thức hơn trong kiếp sống hiện tại của
mình. Thầy cầm trên tay một cuốn sách của ngài Ohsawa và nói : Muốn hiểu
được thế giới vô hạn, đọc sách này 200 lần cũng không hiểu và thầy sẽ cố
gắng dịch chuẩn xác sang tiếng Việt để tặng Việt Nam. Thầy An Đô rất
khiêm tốn và chân thật. Thầy kể có nhiều điều, dẫu đọc nhiều sách đến bây
giờ vẫn chưa hiểu, có sự việc sang Việt Nam thầy mới hiểu ra.
Tâm sự của thầy, bỗng tôi liên hệ tới Kinh BÁT NHÃ tuy rất ngắn tụng
đọc 2 phút xong, vậy mà có nhiều người xuất gia, tại gia tụng thuộc cả đời
không hiểu được nghĩa một câu kinh. Thế mới thấy việc thực hành đúng
pháp nó quan trọng, trân quý và cần thiết vô cùng. Vì dù có thâm niên tuổi
hạ cao, phẩm vị lớn hoặc đầu tư nhiều thời gian để hàng ngày lên khóa lễ mà
không hiểu được TÍNH KHÔNG của kinh BÁT NHÃ, vẫn chỉ là người ngoài
cửa.
Thầy đặt câu hỏi : “Con người đến từ đâu?”, rồi thầy kết luận : “Đến từ
thức ăn”. Tôi tin điều này. Thực dưỡng có câu: Bạn là thức ăn. Thật vậy, thức
ăn xây dựng nên hình hài, tính cách, trí tuệ, sức khỏe …của bạn. Và cũng
chính là thức ăn làm thay đổi hình dạng con người bạn.
Bằng sơ đồ hình xoáy ốc tính theo vòng xoáy từ dưới lên (bạn nên tìm sách
đọc, xem đĩa), ngài Ohsawa phân định :
1/ Thế giới con người : ở đây tập hợp tất cả : nam-nữ, tình yêu-thù hận, tức
giận-đau khổ, buồn -vui, máu- nước mắt, hạnh phúc - bất hạnh, thiện - ác, lao
động - nghỉ ngơi, cha mẹ - con cái, chiến tranh - hòa bình, tư hữu, phải-trái,
sức khỏe, bệnh tật, dục vọng, mạnh yếu, lớn nhỏ… thuộc dương.
2/ Thảo mộc (âm)
32
3/ Mặt đất (dương ở gần chúng ta và thân thuộc).
Đoạn này thầy nói rất hay khiến tôi xúc động và quán chiếu nhiều:
“Thảo mộc được sinh ra từ mặt đất, lấy khoáng chất từ lòng đất để sinh tồn
rồi quay lại nuôi sống con người, con người không có khả năng này”. Thật
vậy do ngã mạn, con người tự cho mình là động vật cao cấp nhất và được
quyền “ăn thịt” tất cả những loài yếu hơn mình. Trong khi đó trong vũ trụ có
rất nhiều loài cây cỏ quý có khả năng trừ độc tố mạnh, cứu giúp con người.
Có nhiều loài động vật có khả năng đặc biệt mà chắc chắn con người không
có: chim bồ câu nhớ đường đưa thư, chó tìm về nhà chủ khi bị lạc xa nơi ở ,
gà tự liền xương, liền da không cần thuốc thang trị liệu, gấu kiếm ăn mùa hè
ngủ suốt mùa đông, chim đập cánh với tốc độ siêu tốc có loài 8 lần/giây, loài
50 lần/giây, côn trùng còn hơn thế 300l/giây. Tôi không thích nuôi cầm thú
nhưng nuôi bao nhiêu lần chó là có bấy nhiêu kỷ niệm về trí khôn và nghĩa
tình nhớ ơn chủ của loài vật này. Chó vẫy đuôi, gà chạy đến chủ, lợn réo lên
khi được ăn và chạy toán loạn khi gặp nguy hiểm… Trong Phật pháp có pháp
môn: SÁM PHÁP ĐỊA XÚC - tiếp xúc với đất để được tĩnh tâm. Sư cô CHÂN
KHÔNG khi hướng dẫn lạy ba lạy thường nhắc nhở mọi người về đất mẹ bao
dung và thiêng liêng có khả năng che chở, yểm trợ chúng ta. Thảo nào quê
cha đất tổ đối với ai cũng thiêng liêng, đi xa đều muốn tìm về và bất cứ ai dù
với lý do nào đó phải ly hương đều nặng lòng cố quốc.
4/ Bầu trời.
5/ Ánh sáng.
6/ Thế giới vô hạn.
Trật tự vũ trụ này được xếp theo thứ tự D - A - D - A… thế giới vô hạn
là cực âm (ở quá xa vời với con người, mắt thường không nhìn thấy được).
Nhưng tất cả trật tự này không hề tách rời nhau mà là một nhịp điệu tương
tức. Nhiều người không tin là có kiếp sau, nhưng nhiều khi ngủ, ta mơ
những giấc mơ rất lạ, không xảy ra trong đời sống hiện tại. Thầy An Đô nói
33
giấc mơ thuộc về tinh thần vô hạn. Thầy gọi thế giới vô hạn này bằng rất
nhiều tên : TUYỆT ĐỐI - CỰC ĐẠI - VÔ HẠN - DUY NHẤT - VÔ CỰC - TÍNH
KHÔNG… sản sinh ra âm dương và không bao giờ thay đổi quy luật này. Thế
giới của sự CHÂN THỰC - SIÊU NHIÊN - BÌNH ĐẲNG - VÔ TƯ - CHÂN NHƯ -
LINH HỒN. Nó khác với thế giới hiện thực của con người, còn có sự phân
biệt đúng sai, phải trái và đầy dục vọng.
Thức ăn nằm ở vòng thứ 2 : Thảo mộc, mà thảo mộc lại phát sinh từ
mặt đất. Theo ngài Ohsawa, sau khi tự trải nghiệm, nghiên cứu kết hợp với
kinh dịch đã khẳng định “Con người nên ăn thực vật được tạo ra từ lòng
đất”. Điều này cũng trùng khớp với đạo Phật khuyên con người nên ăn chay.
Năm 1945, ở Nhật tuyết rơi nhiều. Ngài Ohsawa bị bắt và phải đi dọn
tuyết một thời gian khá dài, phải dùng tuyết để nấu ăn. Tuyết có nhiều ozon
không phải O2 mà là O3 rất âm. Dùng nước từ tuyết tan làm cơ thể yếu đi rất
nhiều, nhanh mệt mỏi. Thực dưỡng không cho dùng kem và nước đá vì rất
thịnh âm có lẽ vì lý do này. Người nào đã theo thực dưỡng lâu, ăn hai loại
này bị phản ứng ngay. Người ăn tạp cũng có vấn đề, bạn thử theo dõi và nên
tránh xa nó.
Người không hiểu về hóa học vẫn có thể dễ dàng nhận ra, tuy cùng là
nước ngọt nhưng nước mưa, nước suối, nước sông, nước ao, hồ, nước máy
rất khác nhau về độ đục trong, ngọt mát hay ngọt ngang kể cả màu sắc và nó
có ảnh hưởng tới chất lượng nấu ăn, uống và tắm giặt. Bây giờ nước sông,
đặc biệt là nước đầm, nước ao, ngòi đã bốc mùi và có mầu như mầu dầu
luyn. Điều gì sẽ xảy ra khi chính con người hiện nay và các thế hệ mai sau
phải sử dụng chính vòng tuần hoàn của chúng?
Có ai thức tỉnh điều gì không khi thầy giảng tiếp: Thế giới vô hạn
cũng phát triển với tốc độ vô hạn, xoáy và vận hành liên tục đi vào trọng
tâm của con người chúng ta. 4000 năm qua, sến rác vẫn rơi xuống mặt
đất có cả kim cương. Ngày nay không ai không nhận ra sự thay đổi bất
34
thường của thời tiết và khí hậu cùng các bệnh lạ phát triển. “Dao sắc không
gọt được chuôi”. Đức Phật là người Ấn Độ nhưng nhiều người Ấn Độ
không hiểu về Người và giáo lý của Người. Thực dưỡng được sống lại từ
Nhật nhưng thầy An Đô cho biết có ít người Nhật biết về thực dưỡng. Nhất
là lớp trẻ và chết vì bệnh ung thư ở Nhật cao nhất thế giới, thứ hai là tim, thứ
ba là não. Nhật là nước công nghiệp phát triển và ảnh hưởng lối sống du
nhập từ phương tây. Nhiều người bây giờ tóc Ý, mũi Italia, mắt Hàn quốc…
Lối sống này đã sản sinh ra lớp người có suy nghĩ lệch lạc. Nghe thầy nói,
lòng tôi nặng trĩu ưu tư, hàng ngày chứng kiến con cháu đang mắc sai phạm
mà rất khó, khó vô cùng để góp ý với chúng. Họ hỉ hả với những bữa ăn hỗn
tạp quá dư thừa đạm, nào thịt, cá, hải sản cực dương với bia rượu cực âm.
Họ sống thế nào thì lo cho con như vậy: nào cánh gà rán, bánh Pizza, các
loại kem và đi học thế nào cũng có sữa mang theo, bữa phụ thì ăn quá nhiều
đồ ngọt. Trẻ em bây giờ mới vài tuổi mắt đã tam bạch (dấu hiệu của sự lệch
lạc âm dương và đang ủ bệnh do cách ăn khoái khẩu sai phạm mang lại). Có
lần tôi nhìn thấy cháu bé vài tháng tuổi cũng mắc chứng này, người mẹ cũng
mắc. Cùng sống một nhà, trẻ nào ăn uống ít đồ ngọt và không phàm ăn, mắt
đen láy và tính tình tự tin, quyết đoán hơn, da đẹp hơn, thông minh, vui vẻ, ít
khóc, tính tự lập cao.
Thầy giảng giải đưa ra nhiều ví dụ chỉ để đúc kết một điều : Tất cả đều
do ăn mà ra và đưa ra hai nguyên tắc cơ bản của thực dưỡng:
1/ THÂN THỔ BẤT NHỊ.
2/ NHẤT VẬT TOÀN THỂ.
Đa số người ăn thực dưỡng mới chỉ hiểu câu THÂN THỔ BẤT NHỊ là chỉ
nên ăn thực phẩm nơi mình ở, đúng mùa. Ngài Ohsawa đã tìm ra sự sâu sa
về nguyên tắc thuận quy luật trật tự tự nhiên của vạn vật. Đó là mối khăng
khít mật thiết không thể tách rời giữa con người và đất ở nơi mình đang sinh
sống. Phật giáo có câu : PHẬT THÂN – PHẬT THỔ (thân của Phật và đất
35
không thể tách rời). Vì vậy: con người hãy nuôi đại sinh mạng (thân lâu
dài có tiền, hậu kiếp) bằng thảo mộc được tạo ra từ đất.
NHẤT VẬT TOÀN THỂ. Câu này hay lắm. Nghĩa đen của nó là hãy ăn
nguyên dạng ban sơ của thực vật khi thu hoạch, nghĩa là không cắt bỏ đi bất
cứ thứ gì trừ thối, hỏng. Ăn đủ như vậy sẽ thu được toàn bộ giá trị tinh hoa
của thực vật. Cũng đúng thôi, con người gồm đủ: da, thịt, xương, máu, tóc,
răng… cho nên ăn gì bổ đấy. Không phải ngẫu nhiên vỏ nho màu tím và vỏ
thường khác mầu và dầy cứng hơn ruột. Điều đó chứng tỏ vì ở ngoài nên cần
thu nhiều năng lượng đất trời để hình thành. Con người đã thật dại cắt bỏ đi
và chỉ ăn phần mềm và ngon ngọt, bây giờ không dám ăn vỏ vì sợ phun
thuốc trừ sâu nhưng khi đã bón phân hóa học thì toàn thân cũng vẫn bị
ngấm. Nghĩa sâu sa của nguyên tắc này chính là “Một trong tất cả, tất cả
trong một”, hay nói một cách khác: con người là tiểu vũ trụ, vốn có sẵn tất
cả điều kỳ diệu, điều tồi tệ… được sinh ra từ chính cách sống của mỗi
người và cách họ đối xử với trật tự vũ trụ.
Khoa học dinh dưỡng cho rằng nhu cầu của con người gồm 3 thành
phần : Đạm, Đường, Bột. Nhưng 3 loại này lấy từ đâu? Sau khi ăn vào
chúng sẽ chuyển hóa phản ứng hóa học ra sao? Đạm có còn là đạm và đường
có giữ nguyên là đường? (ngày thứ 7 thầy sẽ giải thích điều này). Quan
trọng là liều lượng đúng cho từng độ tuổi, từng đối tượng sử dụng mà thôi.
Thực dưỡng quan niệm gạo lứt là tốt nhất. Nếu nhai kỹ chỉ cần ăn gạo cũng
đủ mọi thành phần thiết yếu của cơ thể rồi, nên khi chữa bệnh cần ăn số 7
(100% gạo) sau đó tối thiểu cũng là 50% gạo.
Từ xa xưa, các nhà hiền triết lỗi lạc đã cho biết : “Con người xuất phát
từ lúa gạo, bản thân hạt gạo là vũ trụ và học thực dưỡng để giác ngộ điều
này”. (xem lúa gạo ở cuối sách). Phải chăng do đất nước còn nghèo, đại đa
số người dân vẫn ăn gạo là chính mà người dân Việt Nam hiền hòa, yêu hòa
bình, ghét chiến tranh?
36
Thầy An Đô với tâm từ bi đã nói : “Tôi đến đây để giảng giải những
gì thầy Ohsawa đã vun đắp lên và mong rằng Việt Nam sẽ là chiếc nôi để
phát triển thực dưỡng ra thế giới”. Sư ông Nhất Hạnh cũng nói : “Tuy đã
có nhiều người sống hai mặt (miệng và lòng khác nhau) nhưng tâm đạo
người Việt Nam vẫn tròn đầy. Tôi cũng thấy như vậy và đây là tín hiệu
mừng của người Việt Nam”.
NGÀY THỨ 3 (15/4/20140).
KHẢ NĂNG PHÁN ĐOÁN CỦA CON NGƯỜI.
Vẫn dùng vòng xoáy ốc, ngài Ohsawa đưa ra các cấp độ phán đoán (trí
năng) của con người đối với trật tự vũ trụ tương ứng với cách sống và ứng
xử trong đời sống thường nhật của mỗi người. Chủ đề này khá lý thú, bổ ích.
Nó liên quan tới chất lượng cuộc sống của từng cá nhân tùy thuộc vào năng
lực phán đoán của họ.
1/ Khả năng phán đoán đầu tiên : Thấp nhất. Thuộc về bản năng (có sẵn)
thầy gọi là máy móc vì ngay từ khi sinh ra, từ đứa trẻ sơ sinh cho đến người
trí tuệ thiểu năng đều có như : hít thở, đói tìm ăn, khát tìm uống, vui thì cười,
buồn thì khóc…
2/ Có tính cảm giác : Đến từ 6 giác quan: như mắt nhìn vật, tai nghe âm
thanh… Nếu con người chỉ sử dụng 6 giác quan NHƯ THỊ – NHƯ THẬT, đúng
bản chất nguyên sơ của nó thì đã không có đạo Phật và thực dưỡng ra đời và
đã hợp với quy luật tự nhiên. Mọi việc đổ vỡ, phức tạp, sai lệch… bắt đầu từ
việc con người đưa sự phân biệt từ quan điểm cá nhân vào sự tác động của 6
giác quan.
3/ Tình cảm cảm tính : Theo thời gian trưởng thành và chịu tác động của
nội tâm, ngoại cảnh, ăn uống. Từ một trẻ sơ sinh, con người bắt đầu hình
thành tính cách, tình cảm riêng nhưng ở giai đoạn này vẫn thuộc về cảm
tính, yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu. Đặc biệt với vấn đề tình yêu nam nữ
có 7 giai đoạn : Mù quáng - cảm giác - cảm tình - lý trí - xã hội - ý thức hệ -
tình yêu bao la. Số 7 là tình yêu cao nhất có tính bền vững. Nhưng vì mới 37
dừng lại ở cảm tình, cảm giác thích và không thích mới dẫn đến yêu nhanh,
bỏ nhanh.
4/ Lý trí : Trí phán đoán đã mang tính khoa học.
5/ Xã hội : Ở cấp độ này, vấn đề đạo đức thuộc về âm, tính điềm đạm, bình
tĩnh trong ứng xử xã hội. Kinh tế (dương) như hoạt động doanh nhân giỏi.
6/ Tính tư tưởng : Tư tưởng khoáng đạt có lý trí theo đuổi mục đích chân
chính.
Sáu trí phán đoán trên thuộc về hữu hạn, vẫn mang nặng bản ngã vị kỷ,
hơn thua, chấp trước, phân biệt nên còn phiền não, hệ lụy.
7/ Trí phán đoán VÔ HẠN : Cao nhất, thuộc về vô hạn, cái hữu hạn so với
vô hạn là vô cùng bé nhỏ, trí phán đoán tối cao thuộc về vô ưu - vô ngã
không còn bóng dáng của sự phân biệt thật giả - đúng sai - phải trái - trở về
sự chân thật như nó vốn là như thế. Thầy cho biết người phương tây lại hiểu
ngược lại, cho đây là điều thấp nhất, thuộc bản năng thú tính, hoang dã.
Nhưng thử hỏi các loài động vật có trí phán đoán không và ở mức nào thì
không ai biết. Nhưng rõ ràng là có nhiều loại có khả năng đặc biệt mà con
người không có. Thực vật có trí phán đoán không? Một vị sư Ấn Độ đã làm
thí nghiệm cho Hoa nghe nhạc, nhạc Rock quay đi, nhạc Jazz nghiêng
nghiêng cánh và vươn về phía có tiếng nhạc. Điều này làm tôi buồn mấy
ngày, cỏ cây có tình có trí như vậy, thảo nào cô Yuri khi nấu ăn dùng hai tay
để nâng một sợi củ cải khô lên miệng xem đã nhừ chưa với tất cả thái độ biết
ơn, trân quý còn chúng ta nhiều lúc phũ phàng cho chúng là vô tri vô giác.
Người phương tây nghĩ như vậy nên họ không tin có kiếp sau; họ chỉ
tin vào khoa học, những điều cụ thể, mắt thấy tai nghe. Nhưng trong cuộc
sống có biết bao điều mắt không thể nhìn, tai không thể nghe như sức đẩy
của nước, tâm tư tình cảm sâu kín của mỗi người. Họ nghĩ như vậy nên họ
tập trung vào chăm sóc một đời sống, đặc biệt chăm sóc phần thân xác, họ
rất sợ bệnh và chết. Tôi đã đi Mỹ và thấy rõ điều này. Còn ở Việt Nam có rất
38
nhiều người mắc sai lầm này : “Sinh ra đời tội gì không ăn, không chơi cho
thỏa thích, chết là hết có mang đi được đâu”. Để có trí phán đoán số 7,
chúng ta phải biết cách nuôi dưỡng đồng bộ (thân thể và trí não), không một
ai có khả năng “nhảy cóc” được mà phải lần lượt trải qua các cấp độ. Tuy ăn
uống là cơ bản, nhưng muốn đạt được trí phán đoán (tương đương với ngộ
đạo của nhà Phật) cần phải kết hợp ngồi thiền và có ý chí, nghị lực cao, chịu
được cái lạnh lẽo, sự khổ đau, thua thiệt khắc nghiệt của đời sống với sự tự
giác.
Đức Phật dạy: “Phiền não là niết bàn”. Thật vậy chỉ từ trong những
đau khổ lớn lao, bệnh tật hiểm nghèo, đau đớn thể xác, chúng ta mới thấy hết
giá trị của những điều bình thường nhất khi bị mất đi. Mấy ngày nay tôi bị
sái tay không rõ nguyên nhân, đau dây thần kinh bả vai, suốt hai ngày đêm
đau nhức trong xương, tay không sao cử động được, tắm phải nhờ con gái,
có những lúc chỉ cần 1’ để cựa mình cho đỡ mỏi cũng không được vì đau
kinh khủng. Bệnh đỡ đi, tôi mới cười được và thấm thía đến tột cùng những
cái tưởng thật bình thường nhỏ bé: sự cử động của thân thể, mong ước tột
cùng lúc này chỉ là mong tay nó trở lại cử động bình thường. Sau sự cố này
tôi cảnh giác hơn với vấn đề sức khỏe, rèn luyện chịu nóng, chịu lạnh. Nếu
ta quá chiều chuộng cái thân, nóng có quạt, lạnh đắp chăn… vô tình sẽ làm
cơ thể yếu đi, sức đề kháng giảm, bệnh càng dễ xâm nhập, giữ mồ hôi lại
trong người vô tình không giúp cơ thể thải độc qua da. Bất cứ điều gì nếu ý
thức được và quyết tâm đều có thể làm được. Ai có trí phán đoán cao, người
đó có cuộc sống vui vẻ và bằng an suốt cả cuộc đời. Đạt được điều này họ sẽ
quay lại đời sống để minh chứng giá trị đạt được và giúp đỡ người khác.
Nhưng số người này quá ít ỏi.
Càng được học để hiểu về ngài Ohsawa tôi càng kính ngưỡng. Ngài
như một vị Bồ tát tái sinh dưới một hình thái khác để tiện giáo hóa chúng
sanh thời mạt pháp can cường, bảo thủ, chỉ tin những gì phải chứng minh
39
được bằng khoa học. Và thầy cô An Đô là người được truyền trao, kế thừa sự
nghiệp của ngài.
Khi con người đang ở giai đoạn 3 là giai đoạn của ước mơ, mơ mộng
(đã tiến khá hơn) sẽ là cái NGƯỠNG để dừng lại hay vượt lên? Chúng ta cần
suy nghĩ.
Ngài Ohsawa nói ở giai đoạn 3 này trí phán đoán bị che mờ và tại sao
lại bị che? Thầy đưa ra câu hỏi và không trả lời. Tôi liên tưởng tới từ VÔ
MINH (không nhìn thấy sự thật), chừng nào con người còn thiếu vô tư, trung
thực đem ý kiến cá nhân vào mọi vấn đề thì không có khả năng nhìn thấy sự
CHÂN THẬT của mọi vấn đề. KIẾN (nhìn) VĂN (nghe) GIÁC (ngộ) TRI (hiểu)
cũng là BÁT CHÁNH ĐẠO - chánh kiến - chánh tư duy… TỨC THẤY BIẾT VÀ
SUY NGHĨ CHÂN CHÍNH.
Chúng ta đang ở giữa giai đoạn 3 và 4, có nhiều người đang đi xuống
thấp hơn. Để giải quyết vấn đề này, mưu cầu hạnh phúc chân thực lâu dài
nhất, hãy bắt đầu từ việc ĂN - UỐNG.
Trí phán đoán (tuệ giác) là vô cùng quan trọng. Ví dụ: Từ việc nhỏ như
có người cần về nhà gấp, ra bến ô tô vừa chạy, bạn sẽ xử lý thế nào? Người
có trí phán đoán tốt sẽ chủ động tìm cách về nhà bằng phương tiện khác. Có
người chỉ biết thụ động ngồi chờ chuyến sau, chính sự chậm trễ làm thay đổi
nhiều thứ.
Thầy nói về cấu tạo bộ não con người. Não gồm 3 phần: đại não, não
giữa và tiểu não, mỗi vùng có chức năng khác nhau. Muốn đạt trí phán đoán
cao, cả ba vùng não phải được phát triển hài hòa, cân dối và được nuôi
dưỡng tốt thông qua thức ăn. Có lần tôi nghe cháu Dư kể : “Bác ơi não có 7
vùng với 7 chức năng khác nhau đấy: khả năng ngôn ngữ, tư duy về đường
đi, văn học, ngoại ngữ…”. Thảo nào tôi học ngoại ngữ, hóa học rất khó
khăn, đặc biệt đi đâu, lần nào lúc quay ra cũng đi ngược lại. Bây giờ thì ổn
rồi, tôi đang có ý định học tiếng Anh hoặc tiếng Hán để tự đọc sách và giao
tiếp. Đi đâu chỉ cần CHÁNH NIỆM là sẽ nhớ. Hồi con trai bị tai biến mạch 40
máu não, bác sỹ thông báo nếu ca mổ không thành công, bị chạm vào đâu đó
sẽ phải chấp nhận câm. Thầy An Đô nói, những người có hành vi giết người
là do não có vấn đề và não cần được chăm sóc ngay từ trong thai mẹ.
Ngài Ohsawa cho rằng sự hình thành thai nhi là một kỳ tích, một sự
tiến hóa sinh vật gần 4 tỷ năm được lặp lại y hệt trong bụng người mẹ : kể từ
đơn bào, trở thành loài phiêu sinh rồi lần lượt biến thái qua các dạng rong,
rêu, cá, ốc, đỉa, động vật không xương sống, loài bò sát, loài linh trưởng
(dạng khỉ vượn)… Vậy mà với thời gian 38 tuần, từ một lực hút hấp dẫn của
noãn và tinh trùng (thầy có ảnh minh họa) mang tính âm dương, tới ngày thứ
30 đã hình thành khả năng nghe của tai và qua ảnh ta thấy rất rõ từ ngày thứ
32 (4, 5 tuần tức 1 tháng 2 ngày) đến ngày thứ 38 bào thai đã hình thành đại
não, mắt, mũi, môi trải qua tiến trình từ nước (sống trong bọc ối) lên bờ, bàn
tay đã hình thành nhưng chưa có ngón tay…. để rồi hình thành một con
người hoàn chỉnh với đầy đủ chân tay, mồm miệng, lục phủ ngũ tạng. Nhưng
không phải bào thai nào cũng có may mắn này, có trẻ sinh ra đã bị bệnh bẩm
sinh, đầu to, hay chân, tay thiếu ngón và môi hở hàm ếch, sinh đôi, sinh ba
… tất cả đều do người mẹ ăn uống sai lệch mà ra. Từ xưa đến nay hầu như
không có một người mẹ nào được học về những điều này kể cả phụ nữ được
học cao về y học. Nam nữ gần nhau mang tính bản năng hơn là ân ái đúng
nghĩa. Việc này bây giờ còn bị xem nhẹ hơn và dễ dãi rất nhiều. Nhìn ảnh ta
dễ dàng nhận ra đầu mặt, cơ thể là hai mảnh ghép lại, rãnh nhân trung là
danh giới. Có lần đọc khí công tôi thấy viết hai lỗ mũi là hai đường thở âm
dương khác nhau. Mẹ tôi bị liệt nửa người, tay phải liệt thì tay trái bị khèo.
Tôi đi chữa vết chàm lần gần đây, sau khi bắn tia laser vào cánh mũi về nhà
một bên lỗ mũi bị đóng vảy khô, đau 2 tháng nay chưa khỏi, một bên không
việc gì.
Nếu bạn nghiêm túc tìm hiểu vòng xoáy ốc này, có thể bước đầu bạn sẽ
hiểu ra một điều gì đấy đối với phật pháp và thực dưỡng. Ngôn ngữ bất đồng
41
- thầy nói tiếng Nhật - viết bằng tiếng Nhật - cháu Cường phiên dịch khá
giỏi nhưng chưa có hiểu về hai lĩnh vực này, đề nghị thầy viết bằng tiếng
Hán. Thầy xứ lạ quê người giảng về một đề tài còn xa lạ với đại đa số và
khác rất nhiều với khoa học hiện đại, có thể thầy phải thận trọng nên việc
theo dõi bài giảng phải tập trung cao độ, có chỗ chưa hiểu được thầy muốn
chia sẻ điều gì về nhà xem lại đĩa tôi giật mình thấy nói đến NHÂN – QUẢ
của nhà Phật : “Thế giới vô hạn và hữu hạn luôn thay đổi qua lại tương
tác với nhau”. Đột nhiên thầy hỏi : “Cuối cùng nó quay về đâu?” - “Quay
về chính chúng ta”. Đức Phật dạy : “Con người phải tự chịu trách nhiệm
về tất cả những điều do THÂN – KHẨU – Ý sinh ra”. Các vùng chức năng
khác nhau của não bộ chính là DUY THỨC HỌC của Phật giáo trong đó có
thức thứ tám là tạng thức chứa góp tất cả hạt giống đủ loại do chính con
người thu gom vào từ nhiều kiếp sống để rồi đủ duyên nó sẽ biểu hiện dần ra
và lẽ tất nhiên hạt giống nào nổi trội nó sẽ phát triển để lấn át các hạt giống
khác, ác lấn thiện, thiện lấn ác… Thầy ví não bộ là màn hình ti vi, chiếu lên
mọi tác động của cuộc sống. Trí phán đoán là ĂNG TEN. ĂNG TEN tốt nhất
thì màn hình sẽ nhận được hình ảnh trung thực. Vì vậy ăng ten cần được mài
dũa để bắt sóng chuẩn nhất. ĂNG TEN tạm ví như PHẬT TÍNH, khả năng có
sẵn, bất biến. Vấn đề còn lại là não bộ, não bộ kém, ăng ten có phát sóng,
não bộ cũng không có khả năng bắt hoặc hình ảnh âm thanh đã bị méo mó,
sai lệch. Đó chính là bệnh trí nhớ suy giảm, tai biến mạch máu não,
Alzheimer, sống thực vật … Thực dưỡng giải quyết được điều này.
Ngày thứ tư (16/4/2014)
CON ĐƯỜNG NGÀI OHSAWA ĐÃ KHÁM PHÁ RA TRÍ PHÁN ĐOÁN
CAO NHẤT.
Muốn hoằng dương phật pháp các đệ tử, phật tử của Đức Thế Tôn
thường kể lại về Người. Đối với Người đã đem lại tự do, hòa bình cho dân
tộc, chúng ta thường kể lại về Bác Hồ. Đối với thực dưỡng không nằm ngoại
42
lệ. Thầy An Đô sau khi nhận lời mời tha thiết chí tình của nhóm THIỀN ĂN
HÀ NỘI, trước khi sang lại Việt Nam thầy đã nghiên cứu rất nhiều để chia sẻ
có kết quả. Với khóa học 7 ngày để giảng dạy một điều, có nhiều trái ngược
với cuộc sống truyền thống là một điều không đơn giản. Tuy nhiên giống
như phật pháp, nếu ai có cơ duyên tham dự một khóa tu từ 3 - 7 ngày của
PMLM, chắc chắn ít nhiều sẽ có thay đổi về tư tưởng và cách sống hiện tại
của mình. Thực dưỡng cũng vậy, thầy An Đô kể về ngài Ohsawa.
Ai muốn đến với THỰC DƯỠNG HỌC hãy luôn chú ý tới vòng xoáy ốc.
Theo ngài Ohsawa, vòng quan trọng nhất là vòng trong cùng: Con người.
Con người hoàn toàn có khả năng đạt được tự do vô biên (không còn bị ràng
buộc vào bất cứ điều gì: sinh tử, tri kiến, tà kiến, luật lệ thế gian…) HẠNH
PHÚC VĨNH CỬU (lâu dài và mãi mãi), tự do. Hạnh phúc này chính là sự TỰ
GIÁC (tự mình giác ngộ) hay thể đắc (thể là bản thân, đắc là được). Đức
Phật cũng tuyên bố : “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn - trên trời,
dưới đất chỉ có ta làm chủ”. Nhưng tại sao có quá nhiều người đi theo
Phật, ăn thực dưỡng mà chưa đạt được sự giác ngộ này là bởi ta chưa hiểu
kỹ về lý thuyết và thực hành đúng pháp.
Ngài Ohsawa có một tuổi thơ bất hạnh, sớm mồ côi mẹ, mất tiếp em
trai, bản thân từ lúc 12 tuổi đã mang nhiều bệnh, được gửi vào tu viện và
được chữa trị bằng phương pháp thực dưỡng. Ngài không hiểu về đạo Phật,
không theo tôn giáo nào. Nhờ 3 năm sống ở Ấn Độ, đất nước của ăn chay,
ngài đã thay đổi suy nghĩ, nhận ra sự khác biệt giữa ăn chay - ăn tạp và viết
cuốn CỎ THIÊNG. Ở đây, thời gian này ngài đã gặp gỡ, giao lưu với nhiều
học giả nổi tiếng, trong đó có người đoạt giải Nobel để cùng nghiên cứu, học
hỏi về vấn đề này.
Năm 1955, ngài cùng vợ là bà LiMa sang Châu Phi là nơi khắc nghiệt,
đầy rẫy bệnh tật (dịch hạch, dịch tả, đậu mùa…), ai đến đây đều phải tiêm
phòng. Xác định dấn thân vào cuộc sống hoang dã của động vật và dân bản
43
xứ, để chứng minh với khoa học, y học khả năng tự miễn dịch của con
người, ngài và vợ không tiêm phòng và ăn uống theo phong tục của người
bản xứ, cùng chung sống với người bệnh. Người dân xứ này rất thích ăn hoa
quả, nước ép hoa quả. Một lần ngài ăn 1 lúc 2 quả cam, sau đó tim đau dữ
dội. Theo hóa học cam có nhiều K/Na mang tính âm, lẽ ra chỉ lên ăn 1/4 quả
thì không có vấn đề gì, nhưng không kiềm chế được. Nhưng ngài kết luận
quả cam không là nguyên nhân toàn bộ.
Đối với Ngài thời kỳ ở Châu Phi là thời kỳ khó khăn nhất của cuộc đời,
bản thân chịu nhiều căn bệnh lạ, bệnh ung sang nhiệt đới (gần giống bệnh
phong cùi). Tại đây ngài đã TUYỆT THỰC 64 ngày với nhiều diễn biến phức
tạp và nghị lực phi thường của ngài, có sự tận tình giúp đỡ chăm sóc của phu
nhân LiMa và Ngài cảm nhận có sự yểm trợ của thế giới vô hình. Thời gian
này tuy tuyệt thực, người gầy chỉ còn da bọc xương, đái ra máu, nôn toàn
nước, có lúc bất tỉnh… nhưng Ngài vẫn giấu không cho ai biết, làm việc,
tiếp khách bình thường, hàng ngày dịch sách, viết thư đặc biệt luôn di
chuyển chỗ ở bằng máy bay với cự ly 2000km. Thầy An Đô kể chi tiết, tôi
xin tóm tắt lại như sau:
Ngày 1/8/1955, bắt đầu tuyệt thực.
Ngày thứ nhất, Ngài đã bị sốt cao, người run lẩy bẩy, khó chịu, khó
thở, ra nhiều mồ hôi, thân nhiệt tăng cao, không ăn uống được. Do ngài chủ
trương sống thuận theo cơ thể, muốn ăn mới ăn, thèm gì thì ăn để tự trải
nghiệm. Bà LiMa vẫn giữ nếp ăn uống điều độ nên không có vấn đề gì xảy
ra.
Ngày thứ 15 bất tỉnh, bà LiMa ép uống nước thảo dược trong đó có củ
cải đường.
Ngày thứ 16, bệnh vẫn diễn ra nhưng ngài vẫn đi ra đường gặp bạn bè,
tiếp khách và diễn thuyết.
44
Ngày thứ 24, có cuộc hẹn trước, phải di chuyển bằng máy bay tới
thành phố khác điều mà người bình thường không thể đi nổi.
Ngày thứ 26 cơn run tạm thời lắng xuống, vẫn giảng thực dưỡng, thèm
những thứ người khác ăn, nên nhấp rượu WhisKy, kết quả là nội tạng đau rất
khó khăn làm lỡ cuộc hẹn gặp.
Ngày thứ 27, bà LiMa cho uống bột sắn dây.
Ngày thứ 28, họng khô khát, chấm nước gạo ( đoạn này phiên dịch
không rõ ràng giữa nước gạo và bột gạo lứt), hết khát ngay. Ngài dặn lại, ai
bị khô khát lấy 1/4 thìa bột gạo? nước gạo chấm dưới lưỡi sẽ hết.
Ngày thứ 29, vẫn mệt mỏi không di chuyển được.
Ngày thứ 30, đi ra phố uống cà phê, bà LiMa cho là hành động không
theo nguyên tắc nào cả (loạn bạo). Tối về đau đớn, bất chấp uống thêm 1
chén WhisKy khác, mạch đập cổ tay lên tới 125 và có cơn đau tim.
Đến 4/9/1955, vẫn hứng chịu những cơn đau ở tim, chân sưng tấy. Đột
nhiên Ngài thay đổi chương trình, di chuyển đi nơi khác, ngủ mê mệt suốt 33
giờ trên xe, đến thành phố ở trọ một người Ấn Độ, bệnh tình không thay đổi,
chân sưng to không đi tiếp được, giấu bệnh chủ nhà, không ăn gì, tiếp tục
mở lớp giảng bài 5,6 ngày liền.
Ngày thứ 35, cảm thấy đau ở dạ dày, vẫn giảng bài.
Ngày thứ 41, tự nhiên cảm thấy khỏe khoắn trở lại. Trong đoàn cùng đi
không ai thấu hiểu nổi khổ sở của ngài.
Ngày thứ 47, ngồi ô tô sau tài xế Ngài bị nôn, nhưng vẫn không cho ai
biết, đến thành phố tiếp tục nôn toàn là nước. Đến khách sạn lại lên ô tô ra
thành phố rồi lên tiếp tàu thủy đi nơi khác cự li 2000km.
Ngày 29/9, có cảm giác thèm ăn, do lâu không được ăn, Ngài tưởng là
gạo lứt, ăn vào là món cá nhưng thèm quá rồi lên cứ ăn. Lẽ ra phải ăn từ từ,
từ nước cháo, Ngài ăn ngay món cá, lên sau đó lại đổ bệnh, nhưng không bị
nôn. Tình trạng cứ diễn đi, diễn lại và quá trình tuyệt thực kết thúc. Ngài bắt
45
đầu tìm hiểu từng chút một, tại sao cái này xảy ra, cái kia xảy ra…? Ngài
nhớ mình có uống một loại trà thảo mộc của địa phương, chắc cảm thấy có
vị gì đó, nên vừa viết vừa uống cạn số nước đó sau đó, bị sốt cao, vì sốt liên
tục 10 ngày nên ngài loại trừ nguyên nhân từ thảo mộc. Ngài đặt câu hỏi :
“Tại sao tôi phải trải qua 60 ngày khổ sở như vậy? Tại sao trong suốt thời
gian ấy không ăn gì mà vẫn giảng giải (thuộc về trí tuệ) cho người khác?
Bộ mặt thật trong con người tôi là gì? Ngài nhớ lại việc ăn một lúc 2 quả
cam, ăn cá, uống rượu? Nhưng vẫn không phải là nguyên nhân cơ bản.
Nguyên nhân sâu sa : Đây là cuộc đại cách mạng có tính sinh lý. Ngài có
cảm giác rửa sạch mọi tội lỗi trước đây của bản thân và chạm tay tới
năng lực phán đoán cao nhất. Điều này có liên quan tới việc 3 năm ăn
chay ở Ấn Độ. Nhờ ăn chay ngài xóa bỏ quan niệm ăn tạp mới có đủ chất.
Thời kỳ ở Ấn Độ, lúc lạnh lẽo ngài cảm nhận được năng lượng từ trên không
truyền vào bản thân, có một sự tác động nào đấy không ngừng đi vào mình,
lúc đó Ngài đã có suy nghĩ về tội lỗi của con người đối với việc ăn uống và
nhiều vấn đề liên quan khác.
Người nào ngồi thiền tốt, được hưởng Thiền vị sẽ tin lời Ngài. Lúc
nhập định là lúc không còn bóng dáng của tư tưởng tích cực, tiêu cực, trong
thiền gọi là vắng bặt vong tưởng, tà niệm, thân nhẹ tâm an là lúc cảm nhận
năng lượng vũ trụ đi vào cơ thể rõ ràng nhất, từng lớp, từng lớp sóng liên tục
đi vào, đặc biệt ở Bách Hội, ấn Đường, các đầu ngón tay, các vùng tay có
bệnh sẽ đau dội lên và khỏi. Người nào càng có kết quả cao càng tinh tấn
thực hành.
Vậy cái gì là tội lỗi? A Đam ăn trái cấm? Con người tiếp nhận tất cả
những điều không phải là của mình? Người phương đông bắt chước lối sống
của người phương tây?... Ngài đi đến kết luận : Thói ăn uống không đúng
cách của con người. Nhưng sâu sa của câu nói này là bao gồm rất nhiều
thứ. Mội vị sư Ấn Độ nói : “Thế giới này không có gì chân thật toàn giả
46
dối”. Đức Phật nói khác : “Giả tạm và ảo huyễn”. Đây là chỗ tắc của người
tu Phật. Nếu toàn giả dối hoặc không có gì thì chắc chẳng còn điều gì để nói
vì cuộc sống trở nên vô nghĩa. Trong KHÔNG có CÓ - trong CÓ có KHÔNG.
Cái KHÔNG làm ra cái CÓ và ngược lại. Đó là quy luật tương tức của vạn
pháp trong vũ trụ: NHẤT VẬT TOÀN THỂ. Nhưng vì VÔ THƯỜNG nên có đấy
rồi lại thay hình đổi dạng nên mang tính tạm thời, huyễn ảo không CHÂN
THẬT.
Ngài Ohsawa trong quá trình tuyệt thực mới nhận ra sự vi diệu của cơ
thể, có lúc Ngài đã nghĩ : “Mình chết mất”. Nhưng do không nhận được tín
hiệu cần ăn và Ngài tuân theo lẽ tự nhiên. Hai tuần đầu, Ngài còn nhận sự
giúp đỡ của vợ, dùng hai bàn tay để truyền năng lượng vào vùng đau.
Phương pháp này rất có hiệu quả, hoặc tự chữa cho mình hoặc chữa cho
người khác với điều kiện có sự tĩnh tâm, tràn đầy tình yêu thương, tin
tưởng của cả hai phía. Vì quá gầy nên Ngài xấu hổ với vợ, và quá bận rộn
không có thời gian để chữa, Ngài chỉ còn một cách: NGỦ để bù lại.
Gầy là một trở ngại lớn cho người ăn thực dưỡng. Béo quá hay gầy quá
đều bị đánh giá là xấu về sức khỏe, có vấn đề. Nên dù muốn đến với thực
dưỡng nhiều người chỉ ngại gầy. Nhưng nếu một người đã trải qua cả béo và
gầy, sau khi ăn thực dưỡng, người này sẽ chọn gầy vì sự dễ chịu khó tả của
nó. Gầy, phải chịu tác động từ hai phía: bản thân và xã hội. Người nào còn
coi trọng hình thức bề ngoài, ngại dư luận đánh giá sẽ không có kết quả viên
mãn cũng là dấu hiệu ăn chưa đúng, theo thời gian sẽ rơi vào vòng luẩn
quẩn.
Ngày 18/10/1955, Ngài Ohsawa đã gửi một bức thư cho người đang du
học có tiếng nói nhất ở Nhật lúc đó tên là Kishimichi với nội dung : “Bạn
hãy mừng cho tôi đi, cuối cùng tôi đã đạt tới cảnh giới số 7 của năng lực
phán đoán tối cao rồi. Thế giới của tự do bản năng. Tôi đã tuyệt thực 54
ngày, nhưng vẫn làm việc và luôn di chuyển chỗ ở. Bây giờ tôi như người
khác vậy, cảm thấy như được sinh ra một lần nữa. Chắc là mọi việc sẽ ổn 47
thôi, dù sao thì cuối cùng tôi có cảm giác bước vào thế giới đó, là phát
hiện vô cùng to lớn của tôi, tôi đã chạm tay đến bản năng của con người”.
Thư có đoạn : “Mọi việc sẽ ổn thôi”. Vì trong quá trình tuyệt thực có
lúc ngài tưởng mình sẽ chết và gầy, yếu, nhưng ngài đã có lòng tin vào sự
hồi sinh sau đó, nhờ kinh nghiệm nhiều năm ăn thực dưỡng. Ngài nói đến
BẢN NĂNG. Bạn hãy suy nghĩ thật kỹ về điều này. Ở trí phán đoán thấp nhất
cũng thuộc về BẢN NĂNG. Nhưng đó là phần thô, phần ngọn, phần da, phần
bên ngoài, phần nhỏ bé… Đạt tới mức cao nhất vẫn là BẢN NĂNG của con
người (bản chất thật và khả năng diệu dụng của nó ở từng cấp độ) nhưng
thuộc về phần tế, gốc, tủy, bên trong và vô hạn. Cần biết: cả hai bản năng
này luôn có trong nhau không thể tách rời.
Năm 1945, Nhật bị thua cuộc chiến tranh nên có rất ít ấn phẩm được
du nhập vào Nhật. Ngài Ohsawa với tư tưởng lớn, lúc đó được gửi tặng
quyển sách “Sự gặp gỡ giữa Đông và Tây”, là điều ngài rất quan tâm. Ngài
đã nhịn ăn 57 ngày để dịch xong cuốn sách đó. Vì thầy An Đô kể xen kẽ
nhiều sự việc nên tôi khó phân biệt ngài đã từng tuyệt thực mấy lần. Bài
giảng quá giá trị nên phải tập trung ghi chép lời thầy giảng để về đọc lại suy
ngẫm thêm sau, nhiều chỗ ghi không kịp, chữ viết láu về không đọc lại được.
Tôi vận dụng thêm cái thấy của mình để viết tài liệu này giúp người không
được tham gia khóa học, xem đĩa cùng biết đến Thực Dưỡng Đạo.
Ngài đã dùng lời của nhà Phật để diễn tả trạng thái đạt được sau 54
ngày tuyệt thực : ĐẠI NGỘ TRIỆT ĐỂ.
Chỉ có những người nghị lực phi thường, tình yêu bao la rộng lớn, dám
sống chết với lý tưởng cao cả đến cùng mới đạt được điều này. Theo tôi năm
Ngài 30 tuổi đã đúc kết được giá trị của thực dưỡng Đạo là TIỂU NGỘ, có
trải qua nhiều lần TIỂU NGỘ mới đạt ĐẠI NGỘ. Vì vậy ai có chí nguyện thay
đổi nhân sinh quan, giảm thiểu khổ đau, bế tắc khó khăn, chữa lành bệnh tật
và muốn tìm về hạnh phúc chân thực, muốn làm đệ tử chân chính của Đức
48
Như Lai, bằng cách nào đó hãy cố gắng một lần TIỂU NGỘ. Nó đơn giản như
khi tự bạn trải nghiệm, rồi bất chợt thực chứng một điều gì đúng như người
đi trước đã khẳng định. Ví dụ NHAI KỸ, THỞ và CƯỜI chẳng hạn, bạn thực
hành đúng và kết quả đúng như lời dạy đó. Hãy tin tưởng, kiên nhẫn và bắt
đầu từ những việc tưởng như đơn giản ấy.
Qua Thực dưỡng Đạo, lấy ăn uống cân bằng âm dương làm chủ đạo,
Ngài Ohsawa đã tìm ra CHÂN LÝ DUY NHẤT đồng nghĩa với PHẬT TÍNH đó
là : “Trí phán đoán cao nhất chính là BẢN NĂNG = THẦN THÁNH = ĐẠI
NGÃ = CHÍNH LÀ BẠN”. Con người là chủ nhân ông của chính mình, nếu
bạn biết cách đi từ cái tôi nhỏ bé (BẢN NGÃ) đến đại ngã qua con đường
thực dưỡng.
Vậy thực dưỡng là gì? Tác dụng của nó ra sao?
Thực dưỡng ở đây không đơn thuần là sự ăn uống và quan niệm sơ sài
thuộc về Kalo, kinh tế, sức khỏe, bệnh tật. Cùng với trà đạo, nhu đạo, hoa
đạo, ngài Ohsawa đã nâng tầm thực dưỡng lên thành ĐẠO - Đạo của người ăn
thực dưỡng hay con đường thực dưỡng như đạo Phật - con đường dẫn tới
giác ngộ.
THỰC: Là môi trường đại tự nhiên rộng lớn bao gồm sự tổng hòa của
năng lượng mặt trời + sự dưỡng nuôi của mặt đất + sự nỗ lực của chính con
người (bản chất của con người vốn có xu hướng vươn về chân thiện mỹ và
cao hơn ở bên trên đó là vũ trụ vô hạn).
DƯỠNG : Là dưỡng nuôi bằng toàn bộ tri thức, hành động TRI HÀNH
đúng đắn khi được tiếp nhận từ ĐẠI TỰ NHIÊN. Đó là sự khiêm tốn, lòng
biết ơn, tri ân sâu sắc, đẹp, hài hòa…là sự tổng hòa lấy tinh thần làm tổng
thể; thân xác chỉ là một bộ phận nằm trong tổng thể đó để xác lập sự tồn tại
của mình. Nếu ví thế giới vô hạn là tổng đài, thể xác muốn tiếp nhận năng
lượng từ tổng đài phát ra thì thức ăn chính là nguồn điện dẫn. Vì vậy thực
49
dưỡng liệu lý ra đời (Thực dưỡng trị liệu qua nấu ăn). Có nhiều định nghĩa
về thực dưỡng Đạo.
* Thực dưỡng Đạo là con đường dẫn thân xác (hữu hạn) đến với thế
giới vô hạn - tuyệt đối - toàn thể thông qua cây cầu là thức ăn.
* Thực dưỡng Đạo là dịch (dịch chuyển) cái nghĩa thần thánh (siêu
nhiên) của trật tự vũ trụ lên bàn ăn của chúng ta.
* Thực dưỡng Đạo là hãy sống một cuộc đời đúng đắn.
Thầy An Đô xin lỗi mọi người và kể lại : “Hôm qua có người mời tôi
cốc trà, tôi uống thật ngọt ” (thầy rất nhạy cảm với đường) nên đã ngậm ít
muối ngay để hóa giải. Nhưng bài giảng không như ý thầy mong muốn, tối
đó thầy đã khóc vì sự thiếu sót này. Thầy khóc vì đã bỏ xót điều tối hậu của
bài giảng? Thầy khóc vì đường làm đông cứng trí phán đoán? Có lẽ cả hai,
bản thân tôi đã gần 9 năm qua cũng mếu dở, khóc dở vì ĐƯỜNG. Thầy xin
phép giảng bổ sung về vòng xoáy ốc với 6 tầng bậc thuộc về hữu hạn và số 7
thuộc về vô hạn.
Giới thảo mộc (gồm cả động vật, thực vật) ở vòng số 2, nhưng vì sống
thuận tự nhiên, không vướng mắc vào vòng 4, 5, 6 thuộc: lý trí, xã hội, tư
tưởng nên có khả năng tiếp nhận trực tiếp (câu thông) giữa thế giới vô hạn
với thế giới hoang dã, vô tư. Con người không có khả năng này là do 4, 5, 6
cản trở che lấp. Nhật thực (mặt trời bị che khuất, trong khi mặt trời lúc nào
cũng hiện hữu). Nếu là tôi, tôi cũng khóc vì điều này hay vô cùng, nếu chịu
khó suy ngẫm rất có thể bạn sẽ lóe ra một điều tối hậu tìm ra gốc rễ của mọi
sự bất hạnh, sai lầm, khổ đau, bệnh tật… của con người để điều chỉnh lại.
Ánh sáng, hạnh phúc lúc nào cũng hiện hữu, sao ta lại không nhìn thấy?
Đối với đạo Phật, lấy thanh lọc tư tưởng làm trọng nhưng cũng không
xem nhẹ các vấn đề khác. Đức Phật chỉ ra sai lầm lớn nhất của chúng sinh là
do VÔ MINH - không nhìn thấy sự thật (đây là cách nói khác của che
khuất) vì nhận lầm giữa NGÃ - VÔ NGÃ , THƯỜNG - VÔ THƯỜNG nên nhận
50
giả làm thật. Tất cả là do phân biệt, chấp trước mà ra. Đó là 10 kết sử: THAM
– SÂN – SI – MẠN – NGHI – THÂN KIẾN – BIÊN KIẾN – KIẾN THỦ KIẾN – GIỚI
THỦ KIẾN – TÀ KIẾN. Do tư tưởng sai lầm mà ràng buộc, sai khiến con
người. Vì vậy TU THIỀN - MẬT - TỊNH đều lấy NHẤT TÂM – VÔ NIỆM làm
trọng để trở về cái TÂM CHÂN THẬT là vậy.
Thực dưỡng Đạo lấy việc ăn uống cân bằng âm dương làm chủ đạo,
nhưng không loại trừ sống chính nghĩa, không bao giờ nói dối, tri ân, biết
ơn, tình yêu (cách nói khác của TỪ - BI - HỶ - XẢ). Vì lý do này, ngày thứ 5
thầy An Đô sẽ giảng tai hại của việc sống không có trật tự bởi vì chỉ ở vòng
xoáy số 1 mới là nơi tập hợp tất cả: con người, tình cảm, nghề nghiệp, kỹ
thuật, máy móc, lao động, mạnh yếu, sang hèn… và tại sao 4, 5, 6 lại bị che
mờ để ngăn trở trí phán đoán là câu hỏi quan trọng. Nếu ai giải đáp được
điều này sẽ có cuộc sống như ý muốn và ăn đúng sẽ giúp được bạn dần dần
hiểu được nguyên nhân của sự che mờ sai khiến con người.
Sau gần 60 ngày tuyệt thực, ngài Ohsawa đã tìm kẻ tử thù chính dấu
mặt của nhiều bệnh tật. Ngài đã thốt lên rằng: “Cuối cùng tôi đã phát hiện
ra một điều quan trọng. Đó là tác hại của đường. Tôi đã suy nghĩ rất
nhiều, làm thế nào để thông báo cho toàn thể nhân loại biết mà tránh xa
tác hại này”. Hồi chưa biết gì về thực dưỡng, tôi đã đọc được một câu
mang tính cảnh báo: “Đường là tử thần áo trắng” và gần đây là câu: “
Đường là tên trộm ăn cắp can xi”. Thầy Tuệ Hải thì luôn kêu gọi : “Hãy
đưa đường ra khỏi cuộc sống”. Nhưng để đoạn tuyệt với ả ngon ngọt này
hoàn toàn không phải chuyện dễ. Tôi còn nhớ rất rõ vào những thập niên 60
- 80, nhà nào khá giả, sành điệu ăn uống mới có đường trắng trong nhà, dùng
đường mía là chính. Có lần uống thuốc giun tôi phải cầm cốc nhỏ đi vay và
đường được cất rất kỹ, nơi long trọng trong nhà. Bây giờ thì có lẽ đồ ăn thức
uống lấy đường là chủ yếu. Trẻ em ăn bữa phụ, thậm chí bữa chính, cái gì
cũng ngọt: sữa, kem các loại đến bánh kẹo, nước giải khát, thuốc bệnh, thuốc
bổ… toàn là đồ ngọt. Nên chăng, đã đến lúc gióng một hồi chuông cảnh báo 51
tới các bậc phụ huynh cần thực sự quan tâm lưu ý tới sức khỏe và trí tuệ của
hậu duệ. Tôi không phải là nhà khoa học nhưng kinh nghiệm xương máu từ
hơn 8 năm ăn thực dưỡng, ngày nào, tuần nào, tháng nào không đụng đến
hoa quả, bánh ngọt, chè, đường… là tôi thấy thân khỏe, tâm an, cơ thể gần
như không có bệnh gì. Vì vậy tôi muốn góp thêm tiếng nói làm vang thêm
hồi chuông báo động về tác hại của đồ ngọt cùng ngài Ohsawa, thầy Tuệ
Hải, thầy An Đô. Ngài Ohsawa đã viết nhiều về tác hại của đường, nhưng
những ai đã từng bị đường hành hạ được nghe thầy An Đô phân tích cụ thể
thấu lý đạt tình về đường mới giật mình và thấm thía cảnh giác cao hơn.
Trong cuốn “Cỏ thiêng” xuất bản gần đây nhất, trang 42 ngài Ohsawa
cho biết “Hãy cẩn thận với đường và nước, kẻ đánh cắp hoặc cuốn trôi
natri trong máu”.
Một lần nữa tôi hiểu kỹ thêm tại sao thực dưỡng lại khuyến khích
không ăn đồ ngọt và uống càng ít nước càng tốt. Theo sách và kinh nghiệm
bản thân, ăn cơm gạo lứt nhai kỹ với một món khô, cả ngày không thấy khát
nước. Lần nào ăn dưa hấu, ăn canh rau, ăn nhiều món ngon (giỗ, tết) là khát
nước chí chết, không uống không được. Để tránh khát nước hoặc sợ không
đủ nước cho cơ thể thải độc, bạn nên ăn ít món và NHAI KỸ. Càng ăn nhiều
món một lúc, càng có xu hướng muốn ăn nhiều ở các lần khác và khát nước
dẫn đến uống nhiều làm hại thận. Cần nhớ thực hiện lâu dài là cả một nghị
lực đấy!
Đối với Đường và Nước bạn có quyền thử nghiệm, nhưng đối với
người quen ăn tạp có lẽ phải 1 tuần mới nhận ra giá trị tuyệt vời khi chia tay
nó. Đặc biệt với trẻ em, chúng sẽ ngoan ngoãn và học giỏi, linh hoạt lên rất
rõ ràng.
Ngày thứ 5 ( Ngày 17 tháng 04 năm 2014)
Y HỌC TRIẾT THUYẾT OHSAWA VỚI THỰC DƯỠNG ĐẠO
Ngài Ohsawa có quen ông Sumaizơ, một người bác sĩ da trắng, phụ
trách một bệnh viện ở châu Phi. Ông này sang đây với tư cách khai phá văn 52
minh cho dân bản xứ. Muốn truyền bá thực dưỡng, Ngài cần dựa vào những
người đang có uy tín ở đó. Để thâm nhập vào đời sống ở đây, ngài tự bắt mình
ăn các món địa phương và bác sỹ yêu cầu như: cơm gạo trắng, sa lát, chủ yếu
là thịt, đường, dùng từ 1 đến 2 kg/ người/ tháng và hoa quả. Ngài ăn cả sữa
đặc nhưng không dùng đường. Bà Lima vẫn giữ cách ăn cũ. Sau một tháng,
ngài thấy mỏi vai, đau mắt, đau mồm, tiểu đường, viêm thận, tiêu chảy, côn
trùng đốt nhiều, khắp người vết côn trùng cắn dẫn đến tiểu ra máu. Thấy vợ
không việc gì, ngài ngạc nhiên. Tiếp tục di chuyển đi chỗ khác, lúc này, ngài
đã nổi danh, có nhiều người ốm đến hỏi cách chữa bệnh. Để thuyết phục ông
bác sỹ, ngài đã viết: “Triết lý y học đông dương” và “Trí phán đoán” bằng
tiếng Pháp để bạn đọc. Vừa di chuyển vừa viết sách trong lúc tuyệt thực ngài
phải chịu thêm một căn bệnh khác: lở loét ung sang nhiệt đới. Ngài đã mượn
ông bạn tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp để tìm hiểu về bệnh này. Nó na ná
giống bệnh phong hủi ở Việt Nam, rất nguy hiểm với trẻ em. Người hay mắc
là người lao động chân tay do con khuẩn xoắn sống ẩn ở vết thương bọ chét,
kẽ tay, kẽ chân rồi lan toàn bộ cơ thể. Mụn nước, to, sâu dần, sâu tới mức
nhìn thấy tổ chức dưới da, mùi khó chịu, xung quanh vết thương da cứng lên,
dầy lên gây đau đớn. Sau vài ngày, nó bớt đi và gây lỗ thủng càng đau đớn
trầm trọng, lở loét phát triển thêm ra, bề rộng bằng 20cm, vô cùng đau đớn,
khớp rời ra dẫn đến thiếu máu, chán ăn, không ngủ được, có thể tử vong.
(Đọc đoạn này tôi tự hỏi: liệu mình có nên xem thường các con vật không?
Một loại côn trùng nhỏ bé mà đã có khả năng gây bao điều tai hại và đưa đến
cái chết đau đớn.) Bệnh này nói cách khác là nhiễm trùng máu. Thầy AnĐô
năm 13 tuổi cũng bị nhiễm trùng máu, nhưng cơ chế khác. Di chứng bệnh để
lại là toàn bộ khớp bị cứng, không còn khả năng hoạt động cả đời. Cách chữa
lúc đó của ông bác sỹ là làm tê toàn thân để khoét những vùng lở loét đi, bôi
thuốc chống độc và băng bó kín toàn thân lại. Ở bệnh viện có nhiều người
mắc bệnh này, nhìn họ băng bó đi lại làm việc ngài Ohsawa đã nghĩ: “ Ông
53
bác sĩ không chữa bệnh mà đang tạo ra một lớp người mất khả năng lao
động.” Tôi thấy có nhiều bác sĩ, giáo sư giỏi chữa bệnh, hầu như không ai
khỏi tận gốc và chính bản thân bác sĩ mang bệnh mà không chữa được cho
mình. Phải chăng họ được đào tạo từ sách vở và làm theo sách vở, đa phần chỉ
chữa triệu chứng không tìm được nguyên nhân?
Để hòa nhập với mọi người, Ngài đi chân đất, sau 60 ngày tuyệt thực,
ngài đã làm mọi người hết sức kinh ngạc trước nghị lực, tấm lòng cùng đồng
cam cộng khổ với người bản xứ. Vì quá bận rộn giúp đỡ chữa bệnh, Ngài đã
cắt móng chân sâu hơn để tiết kiệm thời gian. Gặp rãnh nước bẩn, ngón út bị
nhiễm trùng sưng tấy lên bằng ngón cái. Bà Lima trị liệu không khỏi, đau quá
Ngài bảo vợ thử ngâm chân vào nước. Bà Lima đã dùng bột Denti chấm vào
ngón út và băng lại, vết thương đỡ đau Ngài ngủ thiếp đi, sáng dậy thấy
không đau nữa. Ngài tiếp tục tiếp khách, nhưng bệnh không khỏi mà là bắt
đầu. Ngài vốn không chịu được bẩn, từ chân mụn nước cứ trào lên, phát triển
có mủ, xát muối vào để cố hoàn thành sách tặng ông bác sĩ nhân dịp sinh
nhật, giấu chân đau để tiếp tục vui vẻ chữa bệnh cho mọi người. Bệnh từ chân
phát lên tay, Ngài phải mặc áo dài tay để che giấu, mắc thêm viêm đường tiết
niệu. Bệnh nhân đến thăm Ngài, họ mang nhiều bọ chét, khắp cơ thể ngài,
mụn ở chân tay có đường kính là 1 cm, ở đỉnh đầu đến cổ, có 7 chỗ có mụn
đường kính 5cm, không gối đầu được phải nằm sấp, toàn bộ tiết diện là
12x12cm, chân đau phải thõng xuống. Vì đã đạt ngộ (sau đạt ngộ Ngài vẫn
phải trải qua bệnh tật) ngài không cần chữa trị nữa. Đây là giá trị to lớn của
người ngộ đạo, tuy vẫn phải chịu bệnh tật, đau đớn về thân vì vẫn tiếp xúc với
môi trường ( ăn uống, thời tiết, khí hậu…) nhưng tâm họ rất bình an, nên mọi
tác động không còn giá trị nữa, cái đau có đấy mà ít đi. Lúc này mọi thứ chữa
trị chỉ là chữa triệu chứng, mang tính tạm thời, có khỏi chỗ này, lúc này, lại
phát chỗ khác vào thời điểm khác.
54
Bệnh ung sang vẫn tiếp tục phát triển, lúc này Ngài chưa tìm ra cách
chữa. Ngay sau đó ngài lại bị vi khuẩn sốt rét xâm nhập qua đường tai, làm tai
trái sưng vù lên gấp đôi. Bà Lima dùng cao khoai sọ đắp liên tục vào tai và
tay chân của ngài. Khoai sọ (âm) lẽ ra phải trộn thêm bột gạo lức (dương) để
cân bằng (có sách hướng dẫn trộn thêm bột lức để bớt nhão thật khác xa với
quan điểm âm dương), và đắp cách xa nhau, nhưng lúc đó không có bột lứt và
để chữa bệnh cho chồng, bà đành làm vậy. Nhưng Ngài nghĩ muốn chữa bệnh
phải chữa cả trong lẫn ngoài, nguyên nhân và triệu chứng, muốn vậy phải ăn
qua đường miệng để có năng lượng chữa bệnh khi đó đã lan sang cả hai tai.
Ngài dùng muối vừng, chỉ có muối vừng mới có tác dụng đi vào tế bào nhanh
nhất, dùng muối khác sẽ làm khô cổ họng. Ngài bàn với vợ, không có gạo lứt
thì dùng 100g gạo trắng + 10g muối + 1 thìa dầu vừng trộn lên để ăn và
không uống nước để lấy muối vào cơ thể. Lúc đó ngài rất cần gạo lứt để chữa
bệnh nhưng thùng quà của ông bà Michio, người mà ngài gửi thư kể chuyện
đạt ngộ gửi từ Nữu Ứớc sang, trong đó có gạo lứt và một số đồ thực dưỡng bị
thất lạc. Tìm lại được bà Lima đã khóc lên vì mừng. Ngài đã trộn 10g muối
(dương ) vào dầu vừng ( âm) múc uống. Đối với thực dưỡng, ăn với tỷ lệ phối
hợp cân bằng âm dương là hiệu quả nhất đối với sức khỏe và chữa bệnh nên
rất cần tìm hiểu và học hỏi điều này vì rất dễ nhầm để điều hòa âm dương
cho cơ thể. Ngày đầu uống 3 lần, ngày 2 uống 6 lần chưa có hiệu quả. Ngày 3
có dấu hiệu tốt đẹp, mụn nước nhỏ đi và lành lại. Ngày 4 bề rộng thu hẹp lại,
khô, vết lở lành lặn, khỏi được 70%, con khuẩn lại quay trở lại, nó đã vào cơ
thể thì khó ra được. Ngài dùng gạo lứt rang trộn với nước tương để ăn, răng
yếu không nhai kỹ được, bà Lima ngâm nước làm mềm đi ( người nào tuổi
già, trẻ em răng yếu, hoặc ngại ăn gạo lứt bị cứng, nên tìm cách làm mềm đi
như nấu cháo, xay bột…tuy hiệu quả có giảm ít nhiều nhưng vẫn tốt hơn ăn
gạo trắng). Ngày 6 từ vết lở có máu đen chảy ra. Lúc này, bà Lima quá mệt
mỏi đã ngất đi, không ăn uống được và nằm bẹp. Ngày 7,8 chỉ còn vết lở rộng
55
25cm, bà Lima yêu cầu đắp khoai sọ, ngài không dùng để theo dõi tiếp. Bệnh
khỏi.
Thầy AnĐô tìm được Thư gốc ngài Ohsawa đã viết gửi đệ tử của mình
về y học Đông phương, vẫn dùng vòng xoáy ốc ngài chia lĩnh vực này thành 7
giai đoạn :
1 - Y học đối chứng : chữa bệnh triệu chứng.
2 - Y học dự phòng :
3 - Phương pháp giúp cơ thể khỏe mạnh – macrobiotics
4 - Phương pháp trường thọ
5 - Y học xã hội : bao gồm tổng thể tất cả
6 - Y học con người
7 – Y học tối cao : Thuộc trí phán đoán cao nhất. Y học của Thượng đế -
Y Đạo - Y Học Tự Nhiên. Ngài rất coi trọng số 7 nên đã viết: “ Y HỌC TỰ
NHIÊN” hay “NHÂN GIAN ĐẠO” tức nghệ thuật sống vượt qua khả năng
thường tình của con người, tức siêu nhiên. Y học của tín ngưỡng vì có thể
chữa lành bệnh bằng sự cầu nguyện, tuyệt thực ( nhịn ăn) với lòng tin tuyệt
đối tín ngưỡng tâm linh.
Nối tiếp ngài Ohsawa, thầy AnĐô tập trung chia sẻ với mọi người về
loại y học tối cao này vì chính đó là điều tối hậu, là sứ mạng của thực dưỡng
Đạo. Mọi người cần hiểu cho thật đúng để tự chữa bách bệnh cho mình bằng
các phương pháp không cần nhiều tiền, phiền lụy người khác như đi bệnh
viện với mọi nỗi lo ngại. Dùng cỏ cây hiền lành, không dùng đến các loại
thuốc có phản ứng phụ và dao kéo phẫu thuật làm đau đớn và khiếm khuyết
hình hài. Phần này, thầy AnĐô đã gửi đến hai thông điệp vô giá và tôi rất
thích cách nhắc nhở mọi ngươi hãy thận trọng trước việc lựa chọn cách sống,
chọn lựa tín ngưỡng để đi theo mà không làm ai bị tổn thương và chê bai lẫn
nhau.
56
1/ Đối với y học con người ( cách sống hòa hợp với thiên nhiên – trật tự vũ
trụ). Thầy dẫn chứng một câu có 6 từ : Nghĩa – Minh - …? – Tương – Ái –
Lạc. Cháu Cường phiên dịchchưa hiểu đúng được từ thứ 3, có hỏi mọi người,
lúc đó tôi chưa kịp nghĩ ra, Cường bật mí đó là từ “bên trong”, có người nhắc
là “triết”, Cường sau này dịch ra là nội tạng. Theo tôi từ này là “Tâm”, vì tâm
cũng có nghĩa là bên trong, chữ “triết” không lột tả được ý nghĩa của câu này.
Minh tâm kiến tánh. Minh là sáng, vô minh là không sáng, tâm có sáng và
sống biết tương thân, tương ái giữa người và ta với vạn vật, có tình yêu
thương, từ bi bác ái mới có Lạc . Vậy câu này là : Nghĩa – Minh – Tâm –
Tương – Ái – Lạc, dịch là nội tạng e thô thiển quá và làm mất giá trị câu nói
rất nhiều. Thầy AnĐô nói rõ hơn: “ Cái bên trong này là thiên lý nhãn, khả
năng nhìn và hiểu mọi thứ thông qua không gian, thời gian, chiều cao,
chiều sâu, chiều rộng của nó. Cái bên ngoài là: tình yêu, niềm vui vĩnh
hằng tràn ngập trong vô hạn. Khi chúng ta hiểu được điều này là đạt giác
ngộ và tự chữa được mọi thứ bệnh đó là triết lý Oshawa”.
2/ Tín ngưỡng: Tôi thích nhất câu nói của thầy AnĐô: “ Tín ngưỡng của
ngài Ohsawa không phải là tín ngưỡng nhiều người vẫn đang theo đuổi.”
Bởi vì hiện nay trên thế giới có quá nhiều tín ngưỡng và ai cũng tin, cho là tín
ngưỡng của mình là đúng và thiêng liêng nhất. Đó là quyền tự do của mỗi
người, thầy chỉ nhắc nhở: “ Chúng ta cần xem xét lại tín ngưỡng của
mình.”. Thiển nghĩ của tôi, theo bất kỳ tôn giáo nào với điều kiện mình phải
đạt được sự TỰ DO và AN LẠC. Con người rất cần coi trọng trạng thái cân
bằng cả tinh thần và vật chất, điều gì cân bằng đều ổn định, vững chắc lâu dài.
Bản chất của tất cả tôn giáo, tín ngưỡng đều không có sự phân biệt cao thấp,
đúng sai, thật giả bởi có thấp mới có cao, từ giả tìm về thật, sắc sắc không
không, tất cả luôn có trong nhau. Hiện nay trên thế giới người theo Đạo
Thiên chúa là đông nhất, vì cho là đúng nhất và tin vào mọi sự do chính Chúa
trời định đặt. Người tu theo Đạo Phật nói mình là rốt ráo nhất, phủ nhận có
57
thế lực tạo ra và chi phối con người, DUY NGÃ ĐỘC TÔN ( con người là
chủ nhân …), được minh chứng qua xá lợi và nhục thân để lại. Thực tế, sự
giác ngộ để tạo dựng hạnh phúc không phụ thuộc vào việc đi theo tôn giáo
nào. Tôn chỉ của tôn giáo dạy một đằng mà bạn làm một nẻo thì chỉ rước
thêm hệ lụy vào thân. Có người không cần theo tôn giáo nào, tự mình sống
hòa hợp với thiên nhiên, giản dị, chân thành, yêu thương, bác ái… vẫn có
cuộc sống bình yên suốt cuộc đời và lan tỏa sang người khác.
Ngài Ohsawa đưa ra tiếp 7 căn bệnh và cách điều chỉnh hợp với trật tự
vũ trụ.
1/Cuộc sống không có trật tự: gia đình có bi kịch, cách hành xử thiếu đạo
đức, lối giáo dục sai lầm của xã hội, nhà trường, gia đình do không hiểu trật
tự vũ trụ…
2/ Đám mây che phủ: Ăn uống quá độ, luôn thèm khát theo đuổi của ngon
vật lạ, thích tiện nghi, được bao phủ bởi áo ấm, chăn đẹp. Thường mắc bệnh:
hư nhược, bệnh phong, thở gấp, thỉnh thoảng mặt tái xanh, bị ngất ( tụt huyết
áp) bệnh này có nguyên nhân thích ăn ngọt như sôcôla. Ngài dùng từ ĐÁM
MÂY CHE PHỦ tức VÔ MINH. Do không hiểu được tác hại của các việc
trên nên mới mắc vào.
3/ Quá thừa Dương hoặc Âm: Người bạo ăn, bạo uống (cái gì cũng ăn, ăn
thỏa thuê mới thôi), ăn thường xuyên của ngon vật lạ, thịt động vật thường
mắc các bệnh nôn mửa, tiêu chảy, cảm cúm, chứng viêm.
4/ Bệnh do thần kinh giao cảm, phó giao cảm thường xuyên căng cứng (vì
2 cơ quan này chỉ đạo nhiều cơ quan chức năng quan trọng của cơ thể)
thường mắc bệnh: dễ bị cảm, dễ nói dối, ăn cắp, biến thái, không có khả năng
miễn dịch, dễ mắc dịch bệnh, nhìn mọi người luôn trong tình trạng căng cứng
thần kinh vì lúc nào cũng VỘI. Từ ngày biết cách thả lỏng thư giãn gân cơ,
sống chậm lại, cố gắng tạo không gian cho tâm hồn, tôi dễ sống hơn, cảm
thấy ái ngại với những người lúc nào cũng kêu KHÔNG CÓ THỜI GIAN,
58
nhưng chia sẻ rất khó. Có lẽ vì “ĐÁM MÂY CHE PHỦ” kia dù độ dầy mỏng
có khác nhau!
5/ Các bệnh có liên quan đến lục phủ ngũ tạng: Ung thư, ung sang, béo
phì…
6/ Tính cách: Hay cáu, dễ nổi giận, quá thiên về tình cảm, phân biệt, yêu ghét
quá rõ ràng, cực đoan (thích thì yêu quá, ghét thì ghét ra mặt), hiếu thắng,
thích cô lập bản thân, bạn ít thù nhiều, không có khả năng diễn đạt bằng lời
(nói ấp úng, khó hiểu, tối nghĩa) không có khả năng viết (muốn viết mà không
viết được hoặc không có gì để viết).
7/ Tinh thần : Ngạo mạn, luôn bài trừ người khác, bất chính xác, ví dụ: muốn
đếm số lần nhai kỹ, phất thủ… nhưng hay bị lộn thậm chí không đếm được
chính xác đến 50 lần, muốn làm đúng, nhưng lại làm sai, để đồ vật nghiêng
ngả, đi lại hấp tấp hay vấp ngã, không biết cảm thông cho người khác, không
có tín điều, tín ngưỡng (vô thần), không tin gì cả, vong ân bội nghĩa, hay
quên, những người không thể viết, không có khả năng viết.
Ngài dùng cái cây để mô tả các giai đoạn:
1 – Gốc (gốc rễ sâu xa của mọi căn bệnh) – 2. Thân- 3. Cành – 4. Lá – 5.Nụ -
6.Hoa – 7. Quả ( là kết quả cuối cùng từ 6 chi phần kia). Tôi thường lấy ví dụ
một cây hoàn chỉnh để giải thích giúp bạn tu đừng nên phân biệt tôn giáo hay
pháp môn tu. Cứ cho là lên đến đỉnh cao nhất (ngọn cây) sẽ bao quát nhìn đủ
8 phương 4 hướng hay cái gốc mới là vững chắc nhất. Ta hãy thử quán chiếu
thật kỹ: Thân, cành, lá…lớn lên từ gốc rễ, gốc rễ hút năng lượng từ đất (phân,
nước..) để làm nhựa nuôi cây. Cây tiếp nhận ánh sáng, không khí để quay lại
nuôi rễ. Sẽ chẳng thể hoàn chỉnh một cái cây nếu thiếu đi một bộ phận tất yếu
của nó. Chúng ta đều đi lên, thoát ra từ đau khổ, mất mát, tật bệnh… PHIỀN
NÃO LÀ NIẾT BÀN là vậy.
Ngài Ohsawa hỏi các đệ tử : “ Bệnh của các trò đang ở giai đoạn nào
rồi?” - Cậu là người không viết à – Cậu đã tốt nghiệp rồi đó( dám nhận
59
lỗi yếu nhất của bản thân) nhưng cậu cần phải chữa, bắt đầu từ “ Gốc”. Điều
đầu tiên là NHAI KỸ - tuyệt hảo một lời khuyên. Vậy những ai đang gặp
nhiều khó khăn hãy thử bắt đầu bằng việc NHAI KỸ, Ăn đồ uống – Uống đồ
ăn, nghĩa là uống nước cũng nên nhai và ăn, nhai thế nào để thành nước uống.
Điều này tưởng đơn giản nhưng sẽ là NGƯỠNG quyết định, hoặc là bệnh tật
hoặc là đi lên vì nó không dễ thực hiện chút nào.
Ngài Ohsawa đã viết suốt cuộc đời mình, lúc bệnh tật đớn đau vẫn viết,
từ cổ chí kim các bậc cao tăng, vĩ nhân đều viết. Lần đầu tôi được biết khả
năng viết lại liên quan đến năng lực của con người. Chúng ta nên trân quý
sách của những người viết vì hạnh phúc của người khác và làm theo lời
khuyên của họ với sự nỗ lực cao nhất.
Mặt sau của 7 giai đoạn trên là khởi nguồn của sự tự do, tình yêu, hạnh
phúc - con đường dẫn đến trí phán đoán vô hạn. Ta chỉ cần thật công tâm với
chính mình, đối chiếu với 7 giai đoạn xem đang ở mức độ nào và làm ngược
lại, ví dụ: đang ăn nhiều thì ăn ít đi, đang quen mặc ấm hãy tập chịu lạnh một
chút. Đặc biệt lưu ý bệnh nói dối, dối người, dối cả chính mình, bệnh hay tự
ái, thích nói lỗi của người khác, bệnh đố kỵ và thù dai…Đối với thực dưỡng
bệnh tật, tính xấu lại là dấu hiệu vui mừng, vì nó lộ diện để báo cho mình biết
cơ thể đang có vấn đề cần lưu ý quan tâm chạy chữa, điều chỉnh. Bệnh tật là
trọng tài công bằng nhất, không ai có thể che mắt được ông trọng tài này vì nó
được thể hiện từng loại bệnh lộ ra trên gương mặt bạn: mắt, mầu da, hơi thở,
tiếng nói,…
Y học xếp tiểu đường số 5. Ngài Ohsawa xếp thứ 7. Người mắc bệnh
này tính tình ngạo mạn, lòng đen một bên mắt bị lệch. Người bị xơ vữa động
mạch cũng có kiểu mắt này. Bệnh này nếu có lòng tin và quyết tâm lại dễ
chữa. Cách chữa do chính ngài Ohsawa dạy lại: ăn cơm gạo lứt muối vừng là
chính, lấy rễ củ hành lá, băm nhỏ trộn với đậu đỏ, bí đỏ, chút muối biển chưa
qua tinh chế, ăn không ngon lắm, muốn dễ ăn, trộn thành bánh và đem rán
60
lên, áp dụng cho cả bệnh xơ vữa động mạch. Thầy AnĐô nói có bạn đã khỏi
và lòng đen trở về giữa bình thường.
Đối với các bệnh triệu chứng (giai đoạn 1) có 3 nguyên liệu quý để
chữa: đắp nước gừng, cao khoai sọ, thuốc đông y không gây đau đớn, tốn kém
cho người bệnh hoặc phương pháp TAT(dùng tay áp vào vùng bệnh), đơn
giản là vậy nhưng chúng ta không biết hoặc chưa tin tưởng là bởi “đám mây
che phủ”.
Thời kỳ ở Châu Phi, ngài không còn tiền, bà Lima phải đi làm giúp việc
trông ba đứa trẻ, kiêm cả nấu ăn. Bà đã không sử dụng đường, bánh kẹo, dùng
1/10 lượng cá thịt cũ và cho ăn ngũ cốc. Thấy các con khỏe mạnh ít bệnh tật
hơn trước, chủ nhà cảm kích học theo.
Giảm thiểu thức ăn động vật là con đường phải đi theo với cách ăn này,
giảm 1/10 lượng thịt động vật, có người có tác dụng tốt ngay, có người phải
từ từ. Nhìn cháu nội hàng ngày còn ăn nhiều thịt, uống ăn đồ ngọt liên tục,
mới 8 tuổi chưa mập lắm mà hay khóc và thích nằm hơn vận động, mắt hạ
tam bạch. Với thịt, cháu còn nghe bà ăn bớt đi, nhưng đồ ngọt thì còn quá
nhiều, bố mẹ cháu thì chưa tin lắm. Tôi ước gì con cháu áp dụng cách của bà
Lima một thời gian là mười ngày thôi sẽ nhận ra thay đổi của trẻ. Tôi mong
chờ ngày này.
Mục đích của ngài Ohsawa đến châu Phi là để quảng bá y học Đông
phương, y học tín ngưỡng. Có lần ngài đã có cuộc hội thoại với dân bản xứ:
Hỏi: các bạn có thấy con cừu, con hổ, con voi có bị bệnh và uống thuốc
như các bạn không? tại sao vậy?
Trả lời: chúng tôi không biết, chúng tôi là những người da đen không
biết gì cả.
Hỏi: cách đây 40 năm ở vùng này có đường và có nhiều bệnh không?
Trả lời: không ai bị bệnh cả, tổ tiên chúng tôi đều rất khỏe mạnh.
Hỏi: con voi, hổ…có ăn đường không? Cả con chim nữa?
61
Trả lời: chúng tôi đã hiểu rồi, những thứ mà người da trắng mang lại
thật tồi tệ: đường, sô cô la, rượu nho.
Trong đám đông có tiếng chửi rủa người da trắng và một người nói:
“Ông bác sĩ là một người tồi, năm nào cũng giết hại nhiều người, làm bao
người đau chân, đau tay, đã nhập khẩu đường vào đây, khuyên chúng tôi
tạo ra sữa đặc. Hơn nữa còn thải ra nào cặn bã, máu mủ làm ô nhiễm dòng
sông linh thiêng của chúng tôi. Những thứ vi khuẩn chết người này. Ông
này là kẻ thù của chúng tôi vì làm nhiều người thiệt mạng” (theo tôi ông
bác sĩ không có lỗi vì ông cũng bị đám mây che phủ).Ngài Ohsawa kể tiếp:
“Tôi không hiểu mối hận thù của người da trắng với người da đen sâu như
thế nào, trong số 300 người hôm đó không ai cảm ơn ông bác sĩ”. Bây giờ
cũng không còn bệnh nhân nhớ ơn bác sĩ, trò nhớ ơn thày. Tất cả đã được quy
đổi bằng tiền, cũng bởi đám mây che phủ.
Ông bác sĩ, mặc dù rất bận nhưng đã đến thăm ngài. Lúc đó ngài chưa
tìm ra cách chữa bệnh ung sang. Hai người nói chuyện với nhau:
- Cho tôi xem vết thương nào (lúc đó ngài đang nằm nên không kịp che
chân)
- Về bệnh viện điều trị đi
- Tôi chữa theo cách của tôi
- Không khỏi được đâu
- Thế ông có chữa khỏi được không?
- Cũng không thể khỏi được, đã bảo đừng đi chân đất rồi.
Ngày 14 tháng 2 năm 1956 tự chữa khỏi bệnh bằng phương pháp thực
dưỡng, ngài cùng vợ đi gặp ông bác sĩ: “ Khỏi rồi đây này”. Ông bác sĩ chỉ
hừm một tiếng. Ngài nói: “ Cám ơn ông và mảnh đất châu Phi này, đến
đây tôi được học hỏi nhiều”.
- Những gì ông học được chỉ là phần trăm, phần nghìn, phần vạn
của nơi đây.62
- Tôi không ngạo mạn đâu, tôi khỏi bệnh là vì đã áp dụng cách chữa
bệnh tinh túy, kỳ diệu của phương Đông với căn bệnh khó khăn này.
Ngài Ohsawa chỉ muốn ông bác sĩ hiểu y học vốn là tín ngưỡng. Nhưng
tại sao đã tự khẳng định không chữa được khỏi bệnh ung sang bằng y học
hiện đại? Tận mắt chứng kiến ông bạn tự chữa khỏi bệnh, ông bác sĩ vẫn chỉ
“hừm” một tiếng. Tiếng hừm” này và câu nói sau là một cách không thừa
nhận, khâm phục kết quả thành công của người khác. Ngài Ohsawa gọi đó là
bệnh ngạo mạn, căn bệnh khó chữa nhất của con người.
Có hai loại người tự đánh giá mình, một loại càng học càng thấy mình
dốt và nhận ra sự chưa hiểu thấu đáo về quy luật tự nhiên là cái gốc của mọi
tội lỗi nên tìm cách xả ly tìm về an lạc. Một loại tự cho mình là người hiểu
biết, nếu không được mạnh khỏe, may mắn, gặp sự cố bất lợi …, họ đổ cho số
phận và người khác mang lại cho họ. Họ là những người theo chủ nghĩa tư
lợi, luôn cho mình là số một, là trung tâm của mọi vấn đề, nghiêng về đời
sống nhục dục, vật chất…Khổ thay, đại đa số chúng ta thuộc về loại này.
Thực dưỡng Đạo có sứ mệnh làm tan biến những thói xấu này, mang lại
hạnh phúc lớn lao, chân thực, tối cần thiết cho những người muốn khỏe mạnh
và lẽ tất nhiên người yếu càng cần hơn.
Khi chúng ta tìm ra con đường này, sẽ được ngao du cùng các vị thần
thánh, có thần thông…Thần thông là những điều khó làm, phi nhân thế (mọi
người đi bằng chân, người đó có khả năng bay chẳng hạn). Với tôi, loại thần
thông này rất ít giá trị thực tiễn đối với cuộc sống. Có chăng chỉ là mua vui
chốc lát đối với những người hiếu kỳ. Biết NHAI KỸ, sống chậm lại giữa
cuộc đời bộn bề này mới là thần thông hữu ích. Đạo Phật cũng dạy:
“Chẳng biết rong chơi miền TỊNH ĐỘ,
Làm người một kiếp cũng như không”
Thầy AnĐô chia sẻ, thầy chưa hiểu Phật giáo Việt Nam, nhưng có tìm
hiểu Phật giáo Nhật Bản và thấy có sự tương đồng giữa thực dưỡng Đạo và
63
Phật giáo. Bản thân tôi cũng nhận ra điều này sau khi kết hợp giữa thực
dưỡng + thiền + tu học đúng chính pháp.
Nhưng điều mà tôi thích nhất lại là kết luận sau 60 ngày tuyệt thực:
“Con người vốn có nhu cầu ăn ít” và tôi đang cố gắng thực hành điều này.
Ngµy thø 6 (18/04/2014)
Chñ ®Ò : Tæng hîp
Lý thuyết ngày thứ 6, Thầy An Đô không nói theo chủ đề, thầy nói
tổng hợp nhiều vấn đề để nói lên sự cần thiết hiểu biết về âm dương trong
lĩnh vực ăn uống. Về nhà, t«i đọc lại ghi chép, kết hợp xem đĩa càng nhận ra
tấm lòng từ bi, bác ái của thầy đối với mọi người.
Trong vòng 140 phút của thời khóa, thầy đã truyền trao nhiều điều quý
giá đối với người ăn thực dưỡng nói riêng và tất cả chúng ta nói chung. Với
một kiến thức sâu rộng, thầy dẫn dắt, lý giải mối liên quan khăng khít không
thể tách rời giữa con người với vũ trụ, quan hệ huyết thống, tất tận mọi vấn
đề có thể giải quyết bằng phương pháp ăn uống cân bằng âm dương và sống
thuận với quy luật tự nhiên. Chính bản thân tôi cũng không nghĩ rằng việc ăn
uống lại quan trọng tới như vậy. Ăn uống có thể làm thay đổi hình hài (đầu
tôi trước hay đau, sờ nhũn, bây giờ ít đau, đầu cứng lại), vóc dáng, tính cách
và số phận con người ngay từ trong bào thai. Ai cũng biết là mẹ ăn gì con ăn
ấy. Thầy An Đô cho biết bào thai sống nhờ bằng máu của người mẹ. Máu
đương nhiên hình thành từ thức ăn hàng ngày. Nhiều người cho đây là quy
luật của tạo hóa. Sinh con một lần dễ dàng, lần sau rất chủ quan với quan
niệm chết người “ bố mẹ sinh con trời sinh tính”. Không hiểu sao chỉ một
chữ máu mà tôi suy nghĩ rất nhiều. Thảo nào cùng là tinh cha huyết mẹ (bây
giờ tôi mới để ý kỹ tới câu này) mà mỗi người con, từ mặt mũi đến tính nết
sức khỏe khác nhau. Mái tóc, hàm răng đều được hình thành từ sự ăn uống.
Nếu có hàm răng đẹp ( răng cắn chỉ đều đặn) giống bố mẹ hay ông bà chứng
tỏ họ là người đã từng ăn chay, bố mẹ tôi răng đều đẹp (tôi thấy nhớ bố mẹ
64
và thầm cảm ơn hai đấng sinh thành đã mở lối cho mình ). Thực ra cấu trúc
của bộ răng, dạ dày, ruột đã cho thấy thức ăn chính của con người là ngũ
cốc: răng hàm để nhai nghiền, răng cửa để cắn, con người chỉ có một răng
nanh nhọn để xé thịt. Người ăn chay lâu ngày răng nanh không nhọn nữa,
mặc dù ít động chạm đến nó?
Do được học ít, từ bé đến giờ tôi luôn thắc mắc : “ Tại sao trái đất
quay mà nhà cửa đứng yên, sống ở đâu vẫn y ở đó ?”. Bây giờ mới hiểu đó
là sự tương tác giữa lực ly tâm và hướng tâm (đẩy ra hút lại ). Giải ngân hà
trong đó có hệ mặt trời, trái đất luôn xoay chuyển với tốc độ kinh khủng,
xung quanh ta là một sự vận động kỳ lạ, liên tục không ngừng nghỉ. Trong
kinh Bát đại nhân giác, Đức Phật dạy : “ Thế gian vô thường - quốc độ
giòn bở không chắc thật” biểu hiện ra bằng núi lửa, động đất, sóng thần.
Đạo Phật và thực dưỡng Đạo đều khẳng định: cách sống trái với quy luật tự
nhiên của con người, ăn uống sai phạm, sát sinh, phá rừng, gây ô nhiễm
không khí, nguồn nước, môi trường đều làm ảnh hưởng trực tiếp đến tuổi
thọ, sự vận hành của vũ trụ và chính con người phải gánh chịu mọi hậu
quả đó.
Ngài Ohsawa là người đầu tiên đưa âm dương vào giải thích cơ chế cơ
quan thần kinh giao cảm, gồm giao cảm chính và giao cảm phụ là hai bộ
phận mà chức năng hoạt động của nó phụ thuộc vào cách sống, thức ăn của
mỗi người sẽ tác động, kích thích sự giao cảm giữa hai cơ quan này với cơ
thể.
Hồi tôi còn mắc bệnh mất ngủ nặng, ngây ngây ngô ngô, đi khám bệnh,
bác sĩ bảo rối loạn thần kinh thực vật, tôi hỏi và được giải thích là loại thần
kinh con người không tự chủ được như: xuất mồ hôi, buồn vô cớ, đau nhức
đâu đó, đái dầm, hay quên... chữa hoài không khỏi. Thầy An Đô cho biết
thần kinh giao cảm là loại thần kinh với tính năng vô ý thức, không có sự
can thiệp của não ( ý thức). Nếu không bị kích thích như ăn, uống, xúc cảm
65
nó hoạt động bình thường, vô hại; nhưng bị kích thích, nó phản ứng nhanh,
xấu tốt phụ thuộc vào bản chất sự tác động đó.
Dùng âm dương để giải thích sự giao cảm dẫn đến phát sinh bệnh tật
dễ hiểu và hoàn toàn có khả năng điều chỉnh.
Ngài Ohsawa nhận định: PHỦ - những cơ quan rỗng, giãn nở như: dạ
dày, bàng quang, ruột …thuộc âm; TẠNG - đặc, co rút như tim, gan… thuộc
dương . Khi ta ăn muối (dương) tạo kích thích tới giao cảm (D) phụ hoạt
động làm nhịp tim đập chậm lại, nhưng kích thích vào dạ dầy lại hoạt động
co bóp nhanh lên. Thực dưỡng đã dựa vào nguyên lý này để ứng dụng trong
ăn uống. Đầu bữa ăn, uống nước súp miso (A) giúp dạ dầy hoạt động mạnh
hơn. Sau bữa ăn dùng trà đạo trong bầu không khí tĩnh lặng, nhẹ nhàng (âm
+ âm = dương), dạ dày nở ra và ta cảm thấy khoan khoái. Đây cũng là thói
quen của nhiều đời, nhiều người, nhưng có lẽ do không hiểu quy luật âm
dương, chúng ta đã dùng với lượng nhiều, tâm thái vội vã hoặc nói chuyện to
trong lúc uống trà, thậm chí có người còn vừa ăn vừa uống để giảm cân sẽ bị
phản tác dụng. Nước thuộc âm, cứ tiếp tục uống nhiều, đang từ tính dương,
dẫn đến trung hòa và trở thành âm. Tôi nghĩ đây là vấn đề rất cần cho mọi
người, nhất là thói quen uống quá nhiều nước, hãy uống và nghe ngóng cơ
thể, uống đủ lượng cơ thể cần là tốt nhất. Người nhai kỹ, ít khi có cảm giác
khát nước.
Thầy An Đô cho biết, nếu không biết cách giữ gìn cơ quan thần kinh
giao cảm, luôn để nó căng cứng do làm việc, suy nghĩ xúc cảm sai lệch cũng
là một loại bệnh.
Phật Pháp nhập thế khuyên chúng ta hãy để tâm hồn có không gian
thoáng đãng dành chỗ cho tình thương và sự cảm thông với mình với người.
Người nào mà tâm trí, đầu óc lúc nào cũng căng cứng đầy ắp dự án, kế
hoạch công việc, kể cả chính đáng vì mọi người đi nữa, chắc chắc không thể
66
nào nhai kỹ hoặc tọa thiền để tìm lại sự bình an. Đây là bệnh rất khó chữa
của thời đại.
Trà đạo của Nhật, thiền trà của Làng mai đang được nhiều người biết
đến để có những phút giây thư giãn. Mong mọi người hãy tìm hiểu kỹ để
thực hành đúng. Thiền trà có thể ngồi một mình hoặc với một hoặc nhiều
người. Nhưng lúc đó chỉ có mình, hơi thở và trà mà thôi.
Trong ẩm thực, thường có vị giác. Vị giác cảm nhận của mỗi người có
khác nhau. Vị giác của người ăn thực dưỡng đúng lại càng khác. Thầy An
Đô gọi là Haimi - loại vị giác đặc biệt kết hợp tinh thần bay bổng như khi
được nghe thơ HAIKU cùng đồ ăn, thức uống. Đây là vị giác nguyên thủy,
quý tộc của đại tự nhiên để đưa sự phức tạp, rối rắm nhất của cuộc đời
trở về đơn giản nhất. Đôi khi ta cứ mải miết đi tìm hạnh phúc xa vời ở ngoài
ta, nhưng rồi có khi lại bất chợt gặp nó thật bất ngờ, giản đơn sảng khoái,
như lúc nặng lòng gặp được cơn gió mát ngoài sông vắng buổi bình minh.
Tôi có hai lần được tận hưởng hương gạo lứt, rất khó tả, khó quên. Một
lần ăn cơm xong, tôi không còn nhớ là ăn gì, hình như uống trà gạo lứt rang
và đi nghỉ trưa. Toàn thân tôi tỏa ra duy nhất hương gạo, không một mùi gì
lai tạp. Nó thơm tinh khiết, đặc trưng, sâu lắng. Nó khiến tôi giật mình nhớ
lại hồi con gái, thơ thẩn đi vào làng, bắt gặp mùi rơm rạ lúa mới quyện vào
mùi hoa bưởi cuối đông, thứ hương quê mà bây giờ còn ít lắm. Lần thứ hai
là gần đây, người hơi yếu, tôi ăn lưng bát kem cháo lạt đi ngồi thiền và tôi
gặp lại như lần 1. Trong tôi dạt dào tình yêu, sự trân quý đối với hạt gạo. Thi
thoảng, giữ tâm thật an ngồi thư thái để ăn cơm, uống nước, lòng không
vướng bận một điều gì, không để ý đến thời gian, xong bữa tôi thấy sức khỏe
ổn định rất nhanh và miếng cơm gạo lứt mới ngọt làm sao. Thật tiếc cho
những ai ăn cơm gạo lứt muối vừng mà sợ tốn thời gian.
Thầy An Đô nhắc lại hai nguyên tắc cơ bản của thực dưỡng: THÂN
THỔ BẤT NHỊ VÀ NHẤT VẬT TOÀN THỂ. Khi ta dùng thực phẩm được
67
nuôi dưỡng từ đất, nước, không khí, nhiệt độ bên ngoài thuộc về NGOẠI
KHÍ. Thức ăn đưa vào cơ thể đã chuyển sang NỘI KHÍ. Sự kết hợp này cần
hài hòa, phù hợp với nhau sẽ giảm bớt phản ứng xấu. Tất nhiên, thực phẩm
xứ nóng, xứ lạnh sẽ có tính âm dương khác nhau. Tốt nhất là tự trồng lấy ở
chính nơi mình ở. Đất và người có quan hệ đặc biệt. Thực dưỡng đạo là để
tận hưởng tự do vô biên. Vì vậy, ăn thực dưỡng có được quyền thi thoảng
tận hưởng sản phẩm của xứ khác với sự tỉnh thức của mỗi người. Nhưng
không nên ăn thường xuyên.
Bài học nhiều chủ đề, chủ yếu để mọi người nhận ra sự hiểu biết về âm
dương là quan trọng cần thiết, bởi mọi thứ đều chịu sự tác động của âm và
dương. Ví dụ nói về mắt, lòng đen so với lòng trắng thuộc dương khi gặp
kích thích dương, ánh sáng - nhìn quá lâu mắt sẽ muốn nhắm lại (dương +
dương = âm ). Một bác sĩ người Đức đã nghiên cứu về đồng tử. Đồng tử mở
từ 8 giờ đến 20 giờ, sau đó là thời gian đóng. Mắt là bộ phận quý của con
người, nhưng chúng ta đã sử dụng vô tổ chức. Bây giờ nhiều người biến
ngày thành đêm, mắt luôn quá tải vì thiếu ngủ do phải tiếp xúc đủ các loại
máy điện tử, lúc cần đóng thì lại phải mở. Bản thân tôi ham đọc, ham viết
nhiều lúc phải mở ti hí để làm việc vì mắt không thể mở ra được nữa. Không
hiểu biết về âm dương để điều chỉnh cân bằng, cứ tiếp tục tất gánh chịu hậu
quả. Người nào ăn tối trước 17h, thức-ngủ như con gà, chập choạng tối vào
chuồng, sáng sớm 3h cất tiếng gáy, sẽ rất tốt cho sức khỏe. Ví như người
ung thư, bệnh được ủ dần dần chứ đâu lộ ra ngay. Vì vậy, đối với thực
dưỡng ta phải để ý tới số lượng và tính thời gian. Thi thoảng mới dùng với
lượng ít sẽ không sao nhưng dùng nhiều thường xuyên rõ ràng là không tốt.
Người bây giờ thích sài đồ ngoại nhập : ăn gạo Thái lan, thịt bò Úc, sữa đa
quốc gia …. tất nhiên ăn một vài lần cơ thể còn dương (sức đề kháng dự
trữ), ăn dài dài sẽ chuyển sang âm phát sinh bệnh tật.
68
Di chúc để lại của ngài Ohsawa có đoạn viết về đậu gà, một loại đậu
trồng phổ biến ở Ấn độ, Mexico, Nam Dương, Trung cận đông, Châu phi.
Ngài khuyên mọi người nên ăn loại đậu này, vì nó có tính dương cao, phù
hợp với người lao động nặng nhiều giờ dưới trời nóng bức. Bà Lima đã thốt
lên :“ Đây là thứ tôi đang cần tìm”. Đậu gà ăn ngon và khỏe người, sau
khóa học tôi đã nấu và có hướng dẫn ở phần thực hành. Đậu có bán ở nhà
thực dưỡng hoặc Metro, giá 150.000đ/1kg. Loại đậu hạt nhỏ, vỏ màu vàng
đậm ngon hơn hạt to, vàng nhạt. Tôi thấy ăn ngon hơn các loại đậu, đỗ khác,
có mùi thơm đặc trưng. Ăn ít đã có cảm nhận ngon miệng và khỏe.
Cuối giờ thầy An Đô có nói đến THIỀN. Thiền có khả năng giúp cân
bằng âm dương. Nhưng loại THIỀN này theo thầy không giống với nhiều
cách THIỀN hiện nay. Người gửi câu hỏi này đến thầy là tôi, tiếc rằng buổi
cuối cùng thầy không còn đủ thời gian để trả lời. Tôi đồng ý với thầy có rất
nhiều trường phái THIỀN. THIỀN tôi đang tu tập hàng ngày rất đơn giản.
Đó là một sự nghỉ ngơi toàn diện, toàn thân thẳng trang nghiêm nhưng thư
thái với một tâm an nhiên, tĩnh lặng, không rơi vào hôn trầm. Để có những
phút giây nhanh nhập định như hiện nay, tôi cũng phải trải qua hàng tháng
chiến đấu với vọng tưởng và đau nhức. Các hiện tượng này vẫn xuất hiện ít
nhiều tùy theo sức khỏe và tâm thái, ý thức của mình và có liên quan tới việc
ăn uống của từng bữa. Ăn nhiều gia vị khó tĩnh tâm. THIỀN đối với tôi là
phương thuốc kỳ diệu nhất, lúc ốm đau bất kể bệnh gì, bất an, khó chịu,
hưng phấn … đi ngồi thiền, 15 phút sau là mọi chuyện trở nên ổn định. Bí
quyết của tôi là không mong cầu bất cứ một điều gì, đã bắc chân lên ngồi
thiền là cắt bỏ mọi sự, nhưng phải tăng dần thời gian ngồi lên từ 60’ – 120’/
lần, lúc đó mới thật sự biết giá trị của THIỀN.
Tôi bất ngờ với chia sẻ của thầy An Đô ở ngày 6 này : “ Con người là
thực phẩm, thực phẩm hóa con người, bạn là thức ăn. Thảo mộc là tinh
hoa của đất – trời. Bạn ăn thảo mộc, tiến độ này được lặp đi lặp lại ( ngày,
69
tháng, năm, cả cuộc đời) bạn sẽ là kết tinh của tinh hoa đó, để chạm tay
vào trí phán đoán vô hạn. Trở về làm một với thượng đế, với thần thánh,
với chính bạn”.
Ôi tuyệt diệu làm sao, đây mới đích thực là câu tôi mong đợi để chứng
minh với mọi người rằng : Thực dưỡng đạo cũng là Phật đạo. Ăn uống cân
bằng âm dương hoàn toàn có khả năng đưa chúng ta tới sự giác ngộ vì vậy
nó vô cùng cần thiết đối với tất cả chúng ta.
Ăn uống quan trọng là vậy, nếu bạn hiểu được quy luật âm dương này,
tự bạn sẽ nhận ra nên ăn chay hay mặn. Và ngoài việc ăn uống ra để cân
bằng toàn diện, bạn cần lưu ý tới nhiều vấn đề khác trong đời sống hàng
ngày. Dùng âm dương để quan sát, điều chỉnh sẽ dễ dàng cho mọi đối tượng.
Bác nông dân không biết chữ cũng có thể tự mình nhận ra: từ công việc đồng
áng, mâu thuẫn gia đình đến sức khỏe, khỏi cần đi bác sĩ và làm ảnh hưởng
đến ai. Ví dụ, lúc nóng giận, nói to tiếng, chỗ đông người ồn ào ... thuộc
dương ta chỉ cần giảm bớt âm thanh, tìm chỗ vắng, chỗ mát thuộc âm để trấn
tĩnh lại thì mọi việc sẽ qua đi. Người không có khả năng ngồi yên một chỗ,
nói năng thường khua chân múa tay là người có quá nhiều bất an, sống đời
sống không quy củ, là cả D và A đều lệch lạc cần cân bằng lại. Người chỉ
thích đi đến chỗ náo nhiệt là dương thì nên ở nhà nhiều hơn. Ngược lại
người đau yếu lâu ngày, sợ giao tiếp là quá âm lại cần đi ra ngoài. Gặp lúc
yếu bụng đại tiện lỏng là âm không nên ăn đồ âm như uống nước lạnh, canh
rau nguội nữa mà chuyển sang ăn đồ khô, uống nước ấm… Nhưng có làm
nổi hay không và làm ở mức độ nào vẫn còn do mức độ của “ĐÁM MÂY
CHE PHỦ”. Đám mây VÔ MINH kia được tan sớm hay muộn, nhiều, ít
hoàn toàn phụ thuộc vào kiến thức âm dương của bạn và sự điều chỉnh của
bạn.
Trên tờ chứng chỉ tốt nghiệp khóa học này, Thầy An Đô có ghi mấy
dòng chữ Nhật, ý nghĩa như sau: Chứng nhận đã theo học thực dưỡng
70
dòng Ohsawa theo phương pháp Phổ Trà. Phổ Trà nghĩa đen là: đem trà
ra mời mọi người; nghĩa bóng là chỉ việc: đây là phương pháp nấu ăn từ
thảo mộc thiên nhiên, chế biến mang mùi vị của động vật để tạo hương vị
giúp mọi người từ bỏ ăn thịt động vật trở về đúng trật tự vũ trụ. Ký tên
người hướng dẫn là thầy cô An Đô. Ý nghĩa của Phổ Trà cũng như tâm
nguyện của tiên sinh Ohsawa, thầy cô An Đô là muốn chúng ta, những học
viên đầu tiên, những người đi tiên phong ăn thực dưỡng may mắn được học
khóa học này, hãy học và hành cho tốt để chia sẻ quảng bá với nhiều người
phương pháp quý này. Mong rằng đừng có ai làm hoen ố tấm chứng chỉ,
biến nó thành chiếc cần câu cơm thường tình hoặc tệ hơn là bỏ quên vào một
nơi nào đấy là phạm vào luật trật tự vũ trụ rồi. HÃY CÙNG CHUNG TAY
VÉN LỚP MÂY CHE PHỦ.
Để hiểu thêm về âm dương và tâm nguyện của người đi trước, bạn nên
tìm xem đĩa 6 của khóa học. Với khả năng hạn hẹp tôi thật khó viết lại
nguyên bản bài giảng.
Ngày thứ 7 (19.04.2014)
NGÀY CUỐI CỦA KHÓA HỌC THỰC DƯỠNG
Ngày cuối của khóa học, thầy An Đô tiếp tục chia sẻ tổng hợp nhiều
vấn đề, mục đích để đưa học viên về những điều cơ bản, tối quan trọng của
thực dưỡng Macrobiotics.
Hiện nay, trên khắp thế giới đã nhiều người biết đến tác dụng tốt của
ăn chay nhưng để thuyết phục đại đa số lại là điều nan giải. Nguyên nhân
nằm ở chỗ, con người đã ăn thịt động vật từ quá lâu và những quan niệm
theo khoa học dinh dưỡng về nhu cầu cần của cơ thể đối với protein đã ăn
sâu bám chặt vào tư duy của nhiều thế hệ nối tiếp nhau qua sách vở, truyền
khẩu, giáo dục, bác sỹ…đạo Phật gọi là TẬP KHÍ ( thói quen được tích góp,
lặp đi lặp lại vào tàng thức), rất khó thay đổi một sớm một chiều. Buộc vào
từ đâu cởi ra từ đó. Thầy An Đô đã dùng các công thức hóa học để giảng giải
71
vấn đề: con người nên ăn gì, thức ăn nào mới thực sự cần thiết cho con
người về hai phương diện thể chất, tinh thần?
Tôi có thói quen, chưa hiểu điều gì thì chưa dám chia sẻ với đại chúng,
nhất là bằng giấy trắng mực đen, lỡ có người thắc mắc thì thật khó trả lời.
Thật lòng, từ lúc lớn lên tôi được nghe nhiều và tạm hiểu mấy tên hóa
học thông dụng như: oxy, natri, A xít, nitơ, kali, carbonic. Đại loại oxy là
loại khí tốt, trong lành, không màu, không mùi, rất cần cho sự thở và sự
cháy. Nấu bếp củi nếu không để cho củi chồng thoáng lên nhau cho oxy vào
thì tắt bếp ( có người bảo tôi thế) và tôi thấy đúng cũng đi nhắc nhở với
người khác. Carbonic ngược lại là độc tố ( hít oxy nhả khí carbonic) . Nitơ,
kali là phân bón, kali có nhiều trong tro bếp. Natri là muối mặn (D), Axit là
chua (A). Muối (mặn) axit (chua) nhưng có nhiều loại chua mặn khác nhau,
tính chất khác nhau. Tôi chỉ hiểu vậy, còn mặt mũi chúng thế nào, công thức
kết hợp ra sao để loại này chuyển sang loại khác thì không biết. Vì vậy, khi
thầy An Đô viết: H (hydro )+ O(oxy) = H2O( nước). Thực sự tôi không hiểu
hydro là gì, chỉ thấy nói bơm hydro vào bóng bay thì bóng mới bay. Tôi chỉ
có thể tưởng tưởng và tin: nước gặp nắng bốc hơi ( nước cạn dần), gặp lạnh
chuyển thành mưa (nước). Khi tôi nấu ăn, nước sôi, hơi nước bám vào vung
và thành nước, để sôi lâu nước trong nồi cạn. Thầy An Đô dùng công thức
hóa học để chứng minh con người ăn gạo (tinh bột) vào cơ thể, nếu biết
NHAI KỸ, men tiêu hóa từ nước bọt (enzim) sẽ giúp chuyển hóa thành
protein và thịt sẽ phân hủy thành loại khác không phải thịt nữa. Vì không
hiểu về hóa học, tôi xin phép được chia sẻ theo cách hiểu của tôi.
Tôi đồng thuận với thầy An Đô.Việc hiểu về nguyên lý âm dương là vô
cùng quan trọng. Nắm vững được nguyên lý âm dương là hai yếu tố có mặt
khắp nơi trong cuộc sống, con người có khả năng tự điều chỉnh được mọi
vấn đề từ sức khỏe, bệnh tật đến đối nhân xử thế… và nó liên quan mật thiết
tới việc ăn uống hàng ngày của chúng ta. Chỉ cần biết ăn uống đúng theo
72
nguyên tắc âm dương, mọi vấn đề đều được giải quyết. Tôi tin vì tôi đã được
hưởng giá trị này. Từ một người đau ốm quanh năm, trí nhớ không nhớ nổi
sáu số điện thoại, tóc xơ cứng, môi lúc thâm lúc nhợt nhạt, sống ngập trong
nước mắt và hờn giận…tất cả giờ đã được thay đổi. Nhưng người gầy, các
con yêu cầu đi kiểm tra sức khỏe, gan máu không nhiễm mỡ, chất lượng máu
tốt…Vì vậy, tôi tin người thiếu máu ăn cơm gạo lứt sẽ hồi phục vì trong gạo
lứt có mangan sẽ chuyển hóa thành sắt để tăng hồng cầu. Tuy vậy, chắc
chắn ít người tin vì họ nghĩ ăn như vậy sẽ không có chất. Vậy cỏ và rơm có
chất, vị gì mà con trâu to khỏe vậy? Cảm ơn loài vật này đã có mặt để minh
chứng 2 điều liên quan đến việc ăn. Ăn cỏ cây từ thảo mộc vẫn giúp cơ thể
phát triển và khỏe mạnh và ăn chay 100% không thành Phật.
Bằng công thức hóa học, ảnh minh họa 2 trường hợp thành công nhờ
phương pháp thực dưỡng, sau khi tiên sinh đã qua đời , một phụ nữ Pháp bị
mang trên mặt bệnh khối u 27 năm, ăn thực dưỡng 3 ngày đã trở lại bình
thường. Một phụ nữ khác là bạn của thầy An Đô, nặng 81kg ăn thực dưỡng
còn 51 kg, trước sự ngạc nhiên khi gặp lại của thầy và người này đã cùng
chồng mở quán ăn thực dưỡng.
Sang Việt Nam lần này cùng thầy cô An Đô có một người bạn vong
niên, quốc tịch Pháp, rất đam mê thực dưỡng đã tặng thầy 11 cuốn sách quý,
trong đó có 2 bản gốc của ngài Ohsawa. Nắm được tâm lý ưa cụ thể rạch ròi
của nhiều người, thầy An Đô đưa ra nhiều tên tuổi các nhà khoa học, Phật
học để chứng minh: tại sao thực dưỡng lại rất ít hoặc không sử dụng thịt và
sữa để nuôi dưỡng thân thể. Bạn có thể tìm xem đĩa của khóa học ngày thứ
7 hoặc đọc cuốn: “ Cỏ thiêng”, có bán ở nhà Ngọc Trâm hoặc tôi sẽ đưa
mượn để hiểu thêm về lĩnh vực này.
Theo thầy An Đô đã có nhà khoa học nghiên cứu lâu dài để đưa ra kết
luận: sữa động vật, sữa đậu nành có nhiều dinh dưỡng tốt nhưng nó chỉ
73
phù hợp với dân tộc, cá nhân trong ruột có men vi sinh hợp để chuyển
hóa. Biểu đồ đã chỉ ra người Thái Lan và có bộ lạc ở châu Phi 100%
không có loại men này, Trung quốc là 90%, người da đen là 70%, người
Mỹ da trắng 20%, người Việt Nam thuộc châu Á, vì vậy không nhất thiết
phải dùng sữa. Bản thân tôi uống sữa là có vấn đề ngay. Đậu nành là tốt
nhưng mang tính âm so với các loại đậu khác, nên ăn thực dưỡng, ăn nhiều
và liên tục là không tốt đặc biệt với cách dùng men chua có hóa chất để làm
đậu phụ hiện nay dễ gây ung thư .Nếu ăn đậu nên tìm cách tự làm bằng nước
cốt muối và một tuần chỉ nên ăn 1,2 bữa.
Khoa học đã nghiên cứu não của tội phạm giết người, thấy thùy não
trước ở trán bị đóng lại vì không hoạt động. Vùng não này điều khiển thần
kinh ý thức, phần con người thuộc về lý tưởng - đạo đức - lương tâm. Người
có lương tâm thường không làm tổn hại người khác.
Não của con người có ba phần: đại não, não giữa, và tiểu não, mỗi
phần có chức năng hoạt động riêng. Bộ não hoàn chỉnh là được phát triển
đồng đều, hài hòa cả ba nơi. Trọng lượng của não so với trọng lượng toàn cơ
thể, tuy chiếm tỷ lệ thấp nhưng năng lượng nuôi não lại cần nhiều từ thức ăn.
Ngài Ohsawa đã dùng cả cuộc đời để trải nghiệm và nghiên cứu về
não. Ngài đưa ra kết luận: Thức ăn thảo mộc, chủ yếu là ngũ cốc: lúa gạo,
lúa mạch, kê, lúa mỳ nhờ NHAI KỸ sẽ chuyển hóa thành đường gluco là
thức ăn lý tưởng nhất cho não. Não hấp thụ 100% các loại đường ngọt tự
nhiên này. Các loại đường khác đưa vào cơ thể sẽ đi vào các bộ phận khác
để phát triển tứ chi, cơ bắp, dư thừa sẽ sinh bệnh tật.., nhiều người to khỏe
nhưng bị thiểu năng trí tuệ, sống thiên về nhục cảm. Hiểu được điều này
chúng ta sẽ nhận ra ăn cơm gạo lứt ngoài việc nuôi dưỡng thân thể nó còn
có tác dụng cao cả: nuôi dưỡng trí tuệ. Ngài Ohsawa gọi đó là trí phán
đoán và trí phán đoán vô hạn tối cao , đây chính là tuệ giác trong nhà Phật.
Lẽ tất nhiên giá trị cuộc đời của mỗi người phụ thuộc vào trí phán đoán của
74
chính họ nhưng trí phán đoán lại chịu ảnh hưởng rất nhiều từ việc ăn uống
hàng ngày. Thầy An Đô cho biết ngài Ohsawa đã rất buồn lòng vì thấy đại
đa số chúng ta ít hiểu biết về phép dưỡng sinh hợp với trật tự vũ trụ.
Để giúp học viên nhận ra sớm vấn đề này, thầy đã chia sẻ thấu lý đạt
tình về tác hại vô cùng của ĐƯỜNG – MỲ CHÍNH – HÓA CHẤT, tác dụng
tốt của NHAI KỸ thông qua khả năng biến đổi chất từ hai yếu tố âm dương.
Sau khóa học 7 ngày, thầy cô An Đô đi Hà Giang, chia sẻ thêm với nhóm
thiền ăn Hà Nội, thầy vẫn xoay quanh chủ đề NHAI KỸ, ĐƯỜNG. Thầy nói
thêm về tác hại của điện thoại thông minh, mực in, không khí, môi trường
nơi ở và khuyên mọi người nên quan tâm đến nguồn nước nấu ăn. (Nhóm
thiền ăn Hà Nội có dùng điện thoại để ghi lại 2 buổi nói chuyện này và làm
đĩa để quảng bá rộng rãi). Tôi cũng rất lo ngại về nguồn nước hiện nay,
nước ao, đầm, sông ngòi, rãnh đều ô nhiễm nặng, vì vậy khi xử lý nước
người ta buộc phải dùng nhiều clo, muối, phèn để khử trùng, lọc trong nước.
Trước kia tắm gội vào mùa đông, tắm lâu nước ngấm vào cơ thể, các ngón
tay mới có hiện tượng co rúm lại, bây giờ thì cả mùa hè cũng có hiện tượng
này. Lật hố ga lên và bên dưới đủ loại các tấm đá hoa đắt tiền là cả một mùi
xú uế, đen ngòm. Vậy mà nhiều người vẫn thản nhiên, quét nhà hắt bụi rác
ra đường, xuống cống và vứt rác bừa bãi. Đại đa số chúng ta bây giờ có bao
nhiêu quỹ thời gian thì dành trọn cho việc kiếm tiền để lo phần hình thức bề
ngoài.
Nhà khoa học người Pháp đã có nghiên cứu trùng khớp với định luật
bảo tồn năng lượng và Kinh Bát Nhã: “ Không có gì sinh ra, không có gì
diệt đi, dù có nhà khoa học lỗi lạc nhất cũng không thể làm nhỏ đi dù là
hạt bụi. Trong vũ trụ này không có gì mất đi, không thể không có gì cả,
mà chỉ trở thành một hình thức khác”. Ngài Ohsawa cũng có nhận định
này. Thầy An Đô nói gì đó về kinh Bát Nhã, chắc là Tâm kinh. Cháu Thủy
dịch là kinh trái tim. Tôi rất thích câu dịch này, thú vị thật!
75
Thầy có nói đến một câu kinh của Đạo Phật: “ Tất cả các pháp đều
trống rỗng”. Có cuốn sách thầy đọc tới ba tháng, nhận ra sự huyền bí của vũ
trụ, đều xuất hiện hai yếu tố âm dương được kết hợp với nhau tạo thành năng
lượng. Nhưng thầy vẫn không hiểu được từ trống rỗng này, nó nằm trong
tính KHÔNG và cái KHÔNG của Kinh Bát Nhã và của ngài Ohsawa không
phải cái “không” của khoa học. Nhưng khoa học đi đến chiều sâu nhất lại
quay về trùng khớp với Kinh Bát nhã,“ không sinh không diệt, không tăng
không giảm” là sao?
Điều này chính là do sự hạn chế của ngôn từ. Thật khó dùng TƯƠNG
ĐỐI để giảng giải TUYỆT ĐỐI. Nơi này khẳng định là KHÔNG và CÓ, vậy
nơi khác lại cho là TRỐNG RỖNG. Vì vậy HỌC không quan trọng bằng
HÀNH. Phật pháp không chấp nhận dùng kiến giải, lý luận bằng tri thức thế
gian để có thể lãnh hội giáo lý. Giáo lý chỉ tỏ ngộ được thông qua con
đường thực chứng. Bản thân tôi nếu không nhờ sư ông Nhất Hạnh dịch
nghĩa về “không” trong Kinh Bát Nhã : “ Không ở đây không phải là không
có gì mà không có tự tính, tự thể riêng biệt - thì không biết còn lặn ngụp
đến bao giờ”. Đây là cốt tủy của tính “không” trong Kinh Bát Nhã và là giáo
lý cơ bản của nhà Phật. Hiểu được TÍNH KHÔNG này sẽ vỡ òa ra các giáo
lý khác. Tà – chính, tích cực – tiêu cực, đúng - sai đều nằm ở đây . Tính
“không” là quy luật tương tức của vạn pháp, cái này có do cái kia có,
nguyên nhân và kết quả, có khởi đầu thì có kết thúc, mặt phải tương đồng
với mặt trái …chứ không nên suy nghĩ theo hướng tiêu cực “ cuộc đời
không lại hoàn không” như rất nhiều người ngộ nhận. Nghĩ đúng, ta sẽ sống
cẩn thận hơn, có trách nhiệm hơn và qua đó sẽ nhận ra sự sống là rất màu
nhiệm và đáng sống. Hiểu sai dễ rơi vào sợ hãi, thỏa hiệp, cầu xin, nương
tựa, giải đãi và buông thả. TRỐNG RỖNG ở đây ám chỉ cái không và cái
có. Khi ta thấu hiểu được: “Sắc chính là không và không chính là thực là
sắc” thì khoảng nối giữa không và có chính là sự trống rỗng, cái ban sơ
76
chân thật, nguyên thủy cuả vạn pháp. Nói cụ thể hơn, nó chính là một
trong tất cả, tất cả trong một, trong không có có và trong có có không, cái
không làm ra cái có. Nếu ta nhìn vạn vật bằng con mắt thiền quán, nhìn thật
sâu để hiểu ra bản chất thật của chúng thì đối với bất cứ hiện tượng gì, hữu
hình (TƯỚNG), vô hình ( VÔ TƯỚNG) đều thấy cả vũ trụ trong đó, dù là
hạt cát. Tên nó là hạt cát (CÓ), nhưng nó được hình thành từ rất nhiều yếu tố
hợp lại: nước, không khí, nhiệt độ, thời gian, không gian, bụi, đất… - những
thứ không có tên là hạt cát và đó chính là VÔ NGÃ. Chính vì cái TRỐNG
RỖNG này mà kinh phật gọi KHÔNG – VÔ TƯỚNG – VÔ TÁC là ba cửa
tìm về GIẢI THOÁT. Giải thoát sinh tử - giải thoát tri kiến. Giải thoát đồng
nghĩa với TỰ DO vô tận, ở đó không còn có sự phân biệt, chấp trước giữa
đúng sai – thật giả - cao thấp – hơn kém… mọi người chung sống hòa thuận
và bình đẳng. Nhưng đây mãi mãi là điều không thể bởi một chữ NGÃ. Vì
vậy trong vô lượng kiếp cần phải TU là bởi thế. Lộ trình cần thiết mà người
tu Phật phải đi là: GIỚI – ĐỊNH – TUỆ và VĂN – TƯ – TU. VĂN là sự
khởi đầu (nghe, nhìn, đọc), nó chỉ mang tính chấm phá, gợi mở rồi TƯ tức
đưa vào TƯ DUY để suy ngẫm đưa ra đúng, sai, phải, trái. Bước quyết định
thành công là chuyển sang TU. Đức Phật dạy, lý thuyết trong kinh sách để
lại cùng thầy, tổ tiếp nối chỉ là người chỉ đường (ngón tay chỉ mặt trăng),
còn việc có đi đến đích hay không (mặt trăng) là phụ thuộc vào chính việc đi
của người ấy. Có người đi một mạch tới nơi, có người đi đường vòng mất
nhiều thời gian, nhưng cũng có rất nhiều người đi bị lạc đường, càng đi càng
xa nơi chốn muốn về. Ví như lớp học thực dưỡng này, ngồi trên lớp, nghe
thầy giảng lý thuyết, cô hướng dẫn thực hành nấu ăn, ăn vào thấy có kết quả
hợp với lý thuyết, nên ngay tại thời điểm đó ai cũng hăng hái, tin tưởng và
lĩnh hội được, tưởng về thực hiện được ngay, nhưng sau khóa học, về nhà bị
rơi lại vào vòng xoáy cũ, chắc chắn chỉ sau một thời gian ngắn chữ thầy trả
thầy.
77
Trong Kinh Bát Nhã có từ NGŨ UẨN chỉ năm yếu tố hình thành nên
con người: CƠ THỂ, TÂM TƯ, TÌNH CẢM, TRI GIÁC, Ý THỨC ( sắc,
thọ, tưởng, hành, thức). 5 yếu tố này đều không có tự tính (bản chất riêng
biệt và cố định), nó luôn chịu ảnh hưởng lẫn nhau và thay đổi (vô thường).
Vì vậy, không có thực chất mà chỉ mang tính giai đoạn tạm thời, đạo Phật
gọi là “Hoa đốm giữa hư không, có đấy mà không có thực thể tồn tại lâu
dài”. Nắm được quy luật này, con người không bị kẹt vào bản ngã để trở về
với tự do là vậy. Điều này hoàn toàn không vô nghĩa như nhiều người nhầm
tưởng, quy kết “cuộc đời là bể khổ” . Khổ hay vui, phúc hay họa là do cách
sống của chính mình. Quy luật là bất biến nhưng chính do sự qua lại VÔ
THƯỜNG của KHÔNG – CÓ tạo ra ẢO HUYỄN mà trở thành TRỐNG
RỖNG.
Thấy thầy An Đô ngỏ ý muốn tìm hiểu đạo Phật của Việt Nam, cuối
khóa học tôi đã tặng thầy cô hai câu thư pháp của thiền sư Nhất Hạnh: “Con
trân quý những tháng năm còn lại” và “Con đã về, con đã tới”. Viết
thêm phần này để tri ân thầy cô, giao hảo Nhật – Việt. Khi chia tay, thầy An
Đô có đưa Card visit cho tôi, thầy còn sang Việt Nam nhiều lần và tôi đã
đăng ký theo học các khóa học thực dưỡng của thầy. Ước gì nhóm phiên
dịch tiếng Nhật: Trường, Cường, Thủy sẽ giúp tôi dịch tài liệu này để thầy
cô An Đô được vui.
Lý thuyết ngày thứ 7, thầy An Đô đã giảng giải về việc nên ăn thảo
mộc, tuy vậy cuối khóa học vẫn có người hỏi thầy: “ có được ăn thịt không
’’, thầy trả lời thật tế nhị: “Thực dưỡng Macrobiotics không cấm ăn thịt,
nhưng ăn gì là tùy trí phán đoán của mỗi người”. Cô bạn của tôi, có lẽ chỉ
nghe vế đầu, nên quay sang trách tôi: “ Thế mà Tâm bảo, thực dưỡng
không cho ăn thịt”. Trong cuộc sống thường là như vậy mới làm cuộc đời
phức tạp, mâu thuẫn, đỗ vỡ, không hiểu được nhau và không hiểu được cả
chính mình mà mắc sai phạm vì hấp tấp, không có khả năng lắng nghe và
78
thấu hiểu. Lỗi này thuộc về tập khí sâu dày. Suy từ bản thân tôi, ăn chay
trường thực dưỡng lâu năm, thực tế cơ thể không có nhu cầu ăn hoa quả,
nhưng tại sao vẫn vi phạm hoài? Nguyên cớ là bởi các con luôn bày ngập
trên bàn ăn, tập khí ăn hoa quả nhiều năm, nên cứ nhìn thấy là nhớ lại vị
ngon ngọt của nó, phản ứng của thói quen cũ chiêu cảm nó liền automatic
nhanh hơn cả ý chí chống lại của mình. (ví dụ, nghe nói đến quả mơ là dịch
vị ứa ra). Đây là chướng ngại rất lớn cho người tu Phật, tu Thiền và ăn thực
dưỡng. Vì vậy muốn có ĐỊNH để sinh TUỆ, bước quan trọng đầu tiên là
phải giữ GIỚI để khép mình vào khuôn phép, kỷ luật cần thiết mà bảo hộ
việc lớn định làm. Sống quá bận rộn, lâu dần hạt giống bất an phát triển lấn
át hạt giống bình ổn, ai quá đam mê với lĩnh vực gì thì lĩnh vực ấy sẽ có thế
mạnh lấn át các lĩnh vực khác. Người dính mắc tới TIỀN, nhất định sẽ bị
TIỀN trói buộc và điều khiển. Cũng vậy, người nào sống phụ thuộc vào quá
nhiều phong tục, tập quán, nghi lễ, dự án, kế hoạch, lợi nhuận , tham vọng,
nguyên tắc … là người rất khó tìm về ĐỊNH, khó cắt bỏ vọng tưởng. Dù
chúng ta không công nhận nhưng tất cả những vấn đề trên đều mang bóng
dáng của danh lợi, địa vị và ham muốn. Kẹt vào nó là ba con rắn độc
THAM, SÂN, SI sẽ có cơ hội sống chung với bạn. Thay vì DIỆT NGÃ, bạn
càng nuôi lớn NGÃ MẠN và đi đến chỗ lạc đường.
Tập khí sâu dày như núi TUDI, bóc hết lớp này lại lộ ra lớp khác, mới
làm hệ lụy người tu gieo neo, phạm giới, mắc sai phạm. Chúng ta tu cưỡi
ngựa xem hoa, giải đãi chưa bóc hết lớp vỏ bụi mỏng bám bên ngoài đã vội
lầm tưởng có kết quả thì rất nguy hại cho mình và giáo pháp.
Cuối khóa học, thầy An Đô đã trả lời câu hỏi của tôi về MẮT TAM
BẠCH và HOA QUẢ dưới cái nhìn của thực dưỡng.
Như tôi đã viết ở một tài liệu khác về mắt Tam bạch. Sau khi phát hiện
ra 2 cháu nội, ngoại mới 4 và 7 tuổi, cùng con gái, con dâu có hiện tượng
này, từ đó tôi luôn để ý trên tivi và bất kể người nào tôi gặp mặt và có cơ hội
79
quan sát mắt của họ, tôi thấy hiện tượng này quá nhiều. Chính vì thấy nhiều
người có dấu hiệu này nên con gái tôi cho là bình thường : “con thấy gần
như mắt ai cũng thế”. Có người còn trách tôi là dọa họ gây ra tâm lý lo sợ.
Đây là cái dại của con người vì họ luôn sợ bệnh tật và sợ mất quyền lợi
hưởng thụ tự do họ đã quen và ưa thích. Để giúp đỡ mọi người nhận ra, sớm
điều chỉnh tránh rủi ro, nên tôi nhờ vào uy tín của thầy và thầy đã trả lời rất
hay, có sức thuyết phục với đại chúng.
Thầy vẽ các hình dạng thay đổi giữa lòng đen và trắng của mắt lên
bảng, và chỉ ra lòng đen ở chính giữa mắt, hai bên lòng trắng đều nhau là
người cân bằng âm dương. Lòng đen đi xuống, để lộ lòng trắng phía trên và
hai bên là thượng tam bạch thuộc cực dương - tính cách nghiêng về bạo lực.
Lòng đen đi lên để lộ lòng trắng phía dưới và hai bên là hạ tam bạch thuộc
cực Âm, báo hiệu đã có vấn đề về nội tạng, nếu không điều chỉnh kịp thời có
nguy cơ xấu đối với tính mạng…Thầy kể lại: Ngài Ohsawa có lần gặp ông
Kennedy, thấy ông này mắt hạ tam bạch, tìm hiểu thấy rất thích ăn socola.
Ngài đã nhắc nhở giữ gìn, nhưng hồi đó khoa học không tin điều này(bây
giờ cũng vậy), nên sau đó ông Kennedy bị ám sát, họ mới nhớ đến lời cảnh
báo trên.
Thầy cho biết, bệnh này có thể được điều chỉnh bằng thực dưỡng, mắt
sẽ cân bằng trở lại (đồng nghĩa với cơ thể ổn định).
Tôi đã quan sát kỹ những ngươi có mắt tam bạch và những người có
mắt bình thường, thì rõ ràng da mặt của người có mắt tam bạch kém thần
sắc. Nếu bệnh tật không được biểu hiện qua da (nhưng rất hy hữu) sẽ biểu
hiện ở tính cách không ổn định của họ: hoặc đa cảm hay khóc, hoặc dễ nổi
cáu, nhanh mất sức, mầu mắt thường đục, mắt không có độ trong. Lòng đen
của mắt bình thường ít di chuyển, lòng đen của mắt tam bạch thường chạy
rất nhanh nên cũng dễ phát hiện. Cháu nội tôi 7 tuổi, ngoài mắt tam bạch, hai
bàn chân của cháu cũng có dấu hiệu lệch lạc âm dương. Không cân đối mà
80
bị lệch hẳn sang một bên, hụt phía trong dư phía ngoài (thịnh âm). Cháu hay
khóc, thích nằm, từ nhỏ cháu không thích ăn tôm cá mà chỉ thích ăn nhiều
thịt như pate, xucxich, gà rán và thích ăn đồ ngọt. Bố mẹ thì luôn ép con ăn
nhiều cho cao lớn bằng chúng bạn, tôi buồn lắm. Bố mẹ cháu luôn phản đối
gay gắt khi tôi yêu cầu cho cháu ăn ít lại. May sao cháu rất yêu và tin bà nội,
thường lên phòng bà để nghe kinh Phật từ đĩa. Cháu giảm ăn thịt khá nhiều,
ăn cơm gạo lứt cùng cả nhà đã hai năm nay, tuy cháu vẫn còn ăn nhiều hoa
quả, bánh kẹo, kem nhưng mắt và chân cháu đang dần ổn định. Hy vọng vài
tuổi nữa cháu sẽ khôn lớn để biết cách tự bảo vệ mình. Theo tôi bạn nào có
dấu hiệu này xin đừng chủ quan mà nên cảm ơn sự kỳ diệu của cơ thể đã báo
cho bạn biết, bạn chỉ cần giảm bớt lượng thịt cá, đồ ngọt, đồ lạnh, nói chung
là đồ thịnh âm càng nhiều càng tốt để ổn định lại sức khỏe toàn diện của cơ
thể trong đó có cả phần trí tuệ. Chính sự giảm sút trí tuệ đưa bạn đến sự rủi
ro chứ không có số phận nào tham dự vào đây.
Đối với người có mắt bình thường cũng không nên chủ quan bởi không
có bất cứ ai xấu toàn bộ hoặc tốt toàn bộ, có người yếu cái này nhưng mạnh
cái khác, người bị lệch lạc nếu biết cách điều chỉnh rồi giữ gìn sẽ ổn định,
người ổn định chủ quan lại rơi vào lệch lạc.
Để đối phó với bệnh ngứa, mắt nhức mỏi, tay cứng do đọc viết nhiều,
tôi chọn cách giảm lượng ăn, có lần bỏ bữa, bữa sáng đều đặn là bột sắn dây
ăn với mơ thực dưỡng và tamari, lúc nào yếu sức thì nhai thật kỹ 5,10 hạt
đậu gà, ninh chín xào cạn với tamari và thực sự tôi thấy khỏe và minh mẫn
khi nhẹ bụng. Ăn quá một chút, lập tức sinh năng lượng thừa, phát sinh nhiệt
làm người nóng lên và ngứa gia tăng. Ăn uống giữ gìn, tuy gầy nhưng ngứa
và đau nhức thường xuyên trong người giảm đi nhiều.
Để đưa ra câu trả lời, ăn thực dưỡng có nên ăn hoa quả, thầy An Đô đã
dùng bảng kim tự tháp chế độ ăn cho người thực dưỡng hiện đang phổ cập.
Thầy cho biết bảng quy định này là do một người Nhật ăn thực dưỡng sống
81
ở Mỹ lập ra cho người xứ lạnh, người việt Nam chỉ nên dùng tham khảo. Đối
với thực dưỡng không có quy tắc áp dụng chung cho tất cả, vì mỗi người,
mỗi vùng, mỗi quốc gia có cơ địa, khí hậu bệnh tật khác nhau, trừ trường
hợp biết cách nấu ăn cân bằng âm dương.
Theo thầy người ăn nhiều thịt sẽ có nhu cầu thèm ăn hoa quả để cân
đối. Hoa quả thuộc âm, vì vậy nên chọn hoa quả đúng mùa, trồng tại nơi
mình sinh sống là tốt nhất. Người đang ốm, mệt TUYỆT ĐỐI không nên ăn.
Đối với hoa quả, thực phẩm có sức thu hút rất lớn vì tính ngon ngọt, chua dễ
ăn của nó. Chúng ta phải thật cảnh giác phân biệt đâu là nhu cầu của cơ thể
và thói quen tráng miệng, khoái khẩu. Nếu có thể, theo dõi phản ứng sau khi
ăn và không nên ăn nhiều loại, nhiều lượng cùng một lúc.
Những người ăn thực dưỡng lâu năm, từ kinh nghiệm của bản thân,
nên nắm vững được tâm lý người khác. Thầy An Đô đưa ra lời khuyên rất ý
nghĩa, có tác dụng tốt đối với người đang gặp khó khăn về vấn đề này.
“Thực dưỡng Macrobiotics không phản đối thịt và hoa quả. Tuy nhiên,
theo tinh thần ăn chay của đạo Phật và ăn thảo mộc của thực dưỡng Đạo,
chúng ta nên xem xét ăn như thế nào để có tác dụng nuôi dưỡng thân thể,
không nhất thiết phải ăn thịt, có thể ăn thứ khác để thay thế vì mục đích
cuối cùng là sức khỏe. Sức khỏe tốt mới tạo đà cho trí phán đoán. Chúng
ta cần hiểu sự vận hành tổng hòa để kết nỗi giữa thân thể và trí não lại
liên quan đến thức ăn và đây là kết luận của ngài Ohsawa”.
Để mọi người không kẹt vào nguyên tắc cứng nhắc, đóng khung theo
sách vở dẫn đến phản tác dụng, mất tự do. Ngài Ohsawa khuyên “Nếu muốn
ăn một món gì đấy không thể kiềm chế được, bạn cứ ăn, cho dù sau đó có
phải chịu khốn khổ, buồn rầu hay tồi tệ hơn. Nhưng nhờ nó, sẽ tự mình
rút ra được bài học.”. Đúng vậy, đôi khi sự liều lĩnh, phá lệ là bước chuyển
tiếp cần thiết. Tôi gặp vài người khi họ mạnh khỏe rất khó khuyên họ thay
đổi cách ăn uống, nhưng sau mỗi lần bệnh trọng, họ lắng nghe hơn và tìm
82
đến thực dưỡng. Đức Phật dạy: PHIỀN NÃO là BỒ ĐỀ (lập tâm kiên cố).
Chính từ đau khổ thiếu thốn giúp ta trưởng thành chứ không phải là sự đầy
đủ, hạnh phúc.
Ông HERMAN gọi ăn uống phá lệ là nghệ thuật, thà dũng cảm ăn phá
lệ để tìm tòi nguyên nhân mà điều chỉnh còn hơn hèn nhát mặc cảm tội lỗi,
cái gì cũng sợ. Tuy nhiên không nên lạm dụng.
Tôi tu Phật nên đã được đọc kinh Pháp cú, ở phẩm Voi chính Đức
Phật dạy: “ Thà rằng vững bước cô đơn như voi chúa nọ thâm sơn một
mình”, hoặc “tốt hơn hãy sống một mình/ Người ngu kết bạn đồng hành
chẳng nên”. Không ngờ ngài Ohsawa cũng khuyên: “ Dù bên cạnh không
còn ai ủng hộ, bạn hãy vững tin mà tiến bước một mình.”
Có lẽ các bậc đi trước đã thấu hiểu con đường gian nan, đầy chông gai,
trở ngại chẳng giống ai nhưng vô cùng tươi đẹp, bằng an của người đã ít
nhiều phát lộ tuệ giác, nhận ra quy luật trật tự của vũ trụ là bất biến và là con
đường đẹp, duy nhất nên đi sợ hành giả thối chí nản lòng lúc gặp khó khăn,
ít người ủng hộp mà bỏ cuộc, mới đưa ra lời khuyên như vậy. Đã có rất
nhiều vĩ nhân, đạo sỹ tìm nơi rừng sâu núi thẳm để sống đời ẩn dật, tu luyện
thành tài đắc đạo mới xuống núi cứu đời là vậy.
THỰC HÀNH
Cô Yuri dạy nấu ăn thực dưỡng Macrobiotics
Sau khóa học 7 ngày, được nghe thầy An Đô giảng về lý thuyết, kết
hợp trực tiếp tham dự lễ giỗ tiên sinh Ohsawa sau khóa học ở nhà bán thực
dưỡng của Ngọc Trâm. Xem 2 đĩa thầy An Đô chia sẻ với nhóm thiền ăn Hà
Nội và Hà Giang, tôi hiểu rõ hơn về thực dưỡng Macrobiotics, âm - dương
và bước đầu học cách nấu ăn cân bằng. Nấu ăn thực dưỡng đúng cách có
khác với nấu ăn thông thường. Để có một món ăn cân bằng âm dương, độ
tuổi nào, đang mắc bệnh gì… đều có thể ăn được, đòi hỏi người nấu phải có
83
hiểu biết về nguyên lý âm dương. Nấu ăn nhưng cũng là bào chế thuốc để
nuôi dưỡng và trị liệu bệnh về thân, về tâm cho bản thân và gia đình. Vì vậy
người nào muốn đến với phương pháp này mà ngại đọc sách, xem đĩa học
hỏi kinh nghiệm người đi trước sẽ rất khó có kết quả. Nắm được nguyên tắc
rồi, khi nấu sẽ đơn giản và thích thú.
Nếu thực dưỡng đạo là con đường đưa đến trí phán đoán tối cao về trật
tự vũ trụ thì bước đầu ta phải hiểu thực dưỡng Macrobiotics (âm dương nằm
trong đó) là gì? Thật sai lầm lớn đối với những ai nhìn nhận thực dưỡng qua
gạo lứt muối vừng chỉ là một phương pháp chữa bệnh, thậm chí chỉ là giảm
cân. Vì vậy chúng ta cần phân biệt giữa thực dưỡng - thực dưỡng
Macrobiotics và thực dưỡng đạo.
Theo ngài Ohsawa và Hiệp hội thực dưỡng Macrobiotics thế giới, thực
dưỡng Macrobiotics là cách sống hòa hợp với thiên nhiên, sống và ăn uống
thuận theo trật tự của vũ trụ, biết cách tận hưởng hương vị tự nhiên của thực
phẩm. Bất cứ điều gì đi theo chiều thuận đều tốt đẹp.
Để sống, chúng ta đều phải ăn - uống - hít thở. Dù bạn có tin và theo
thực dưỡng hay không thì cũng không nằm ngoài quy luật này. Chính đức
Phật cũng dạy, muốn thân khỏe tâm an chúng ta phải cân đối bốn loại thức
ăn :
1/ Đoàn thực : Thực phẩm
2/ Xúc thực : Sự xúc chạm của 6 giác quan đối với 6 trần (tai nghe âm
thanh, mũi ngửi mùi vị, tay chạm vào cơ thể có thể chữa bênh, quên cơn
đói… và ngược lại)
3/ Tư niệm thực : ước vọng, mong muốn, tư duy… mang tính 2 mặt : tốt
xấu, đúng sai… đối với cuộc sống.
4/ Thức thực : sự cảm nhận riêng của mỗi người, tạo lên ý thức, kết quả
tương ứng. Thực dưỡng đạo cũng bao gồm nhiều loại “thức ăn” đưa vào cơ
84
thể bằng miệng, qua da, qua mắt bằng thực phẩm, không khí, tư tưởng và ý
thức thế nào với các vấn đề mới là mấu chốt.
Chính vì sự kết hợp tổng hòa đó mới cần chúng ta không nên xem nhẹ
việc ăn uống, tùy tiện việc chế biến thức ăn hàng ngày. Ngài Ohsawa gọi bếp
là dược phòng - nơi bào chế thuốc. Người theo thực dưỡng Macrobiotics
phải uyển chuyển sáng tạo không nên cứng nhắc theo một công thức, khuôn
mẫu đóng khung nào bởi vì mỗi người một cơ địa, loại bệnh khác nhau, nơi
ở, thời tiết, khí hậu theo mùa, vùng miền mà khác nhau. Thực dưỡng
Macrobiotics chính là cách sống quân bình, ăn uống cân bằng âm dương.
Nhưng việc hiểu biết để phân loại, kết hợp giữa âm và dương hoàn toàn
không phải việc dễ chỉ qua nghe, đọc sách, xem đĩa hoặc làm theo hướng
dẫn của người khác mà được. Vì vậy người đi trước có ít nhiều kết quả nên
chia sẻ rộng rãi rồi cùng nhau đàm luận tìm ra cách phù hợp cũng là một tiêu
chí của pháp môn này. Có nhiều nơi thành lập nhóm, hội những người cùng
ăn thực dưỡng để giúp đỡ lẫn nhau. Khả năng nhận biết âm dương không
bằng sự tưởng tượng của cách suy nghĩ hồ đồ, nông cạn mong nhanh có kết
quả nhưng lại ngại dấn thân trải nghiệm. Kinh nghiệm cho thấy người nào
ngại khó, thích ỷ lại, câu hỏi của họ là : “Ăn bao giờ thì khỏi, có được ăn
thứ này, thứ kia không, không có thời gian hoặc đợi điều kiện cho
phép”…. chắc chắn họ không thành công. Đối với thực dưỡng, phải : “Tự
mình nghiền ngẫm, tự mình tìm hiểu và tự rút ra bài học cho chính mình
từ những thất bại, thành công”.
Thầy cô An Đô với bề dày 40 năm ăn thực dưỡng, vậy mà khi Ngọc
Trâm mang ngưu bàng ra hỏi đã cân bằng âm dương chưa, tận mắt tôi chứng
kiến cả hai người chân quỳ, tay đưa ra thành kính nhận nước ngưu bàng sau
khi ninh 10 giờ cùng nước mơ chua ngâm lâu năm để chuyển từ mùi hăng
hăng lúc sống sang ngọt như đường, rồi đưa lên mũi ngửi, hai người cùng
ngửi để đưa ra kết luận: “Chưa khử hết âm”.
85
Các bạn luôn ghi nhớ âm dương là tính từ, có khả năng biến dịch thay
đổi, âm dương không xấu, không tốt chúng chỉ là tên gọi để chúng ta phân
định kết hợp mà tự điều chỉnh toàn bộ cuộc sống của mình. Người Việt Nam
ở vùng nhiệt đới nên thuộc âm (đánh giá tổng quát chung không phải mức
chung cho tất cả và mọi thời điểm cuộc đời), cần ăn uống dương của thảo
mộc để quân bình bởi quân bình thuộc về ổn định, vững chắc… Vì vậy học
âm dương để biết cách quân bình trong ăn uống mới là tối cần thiết.
Mọi người đều cho gạo lứt nương (trồng vùng núi) là dương nhưng
thầy An Đô quy vào âm vì sống trên cạn (D), quang hợp ánh sáng nhiều (D)
sẽ chuyển hóa thành âm. Gạo trồng dưới nước rễ hút nước, lá, hạt tiếp nhận
ánh sáng, đêm ngậm sương, ngày phơi nắng là thứ quân bình âm dương
tuyệt hảo nhất, nhưng điều đó có thể khắc phục, quan trọng là người ăn biết
cách quân bình âm dương. Nấu gạo A hoặc D thì điều chỉnh lửa, nước thế
nào cho phù hợp.
Lý thuyết ngày thứ bảy, thầy An Đô đã đưa ra công thức hóa học để
minh chứng : Con người, con vật đều có khả năng chuyển hóa thức ăn từ A -
D; D - A để đưa ra điều mà cả đạo Phật, thực dưỡng đều muốn con người
tuân thủ: ĂN CHAY. Bởi ăn thịt vào cơ thể đã chuyển hóa thành chất khác dễ
gây ung thư, trí tuệ thấp kém cho con người; ăn ngũ cốc là chính, biết cách
ăn sẽ chuyển thành Protein, ít bệnh, trí sáng, sống hạnh phúc. Trong chuyến
đi Hà Giang, thầy cũng khẳng định lại điều này.
Thật tiếc cho những người đã được tôi gửi tin nhắn, gọi điện hoặc gặp
trực tiếp, cố vận động đi học nấu ăn dù chỉ một ngày nhưng cũng không sắp
xếp được hoặc từ chối tham gia. Có thể sau đó có đọc sách, xem đĩa, nghe kể
lại nhưng chỉ là ảo giác, trực giác chỉ có khi chính bạn được ăn những món
ăn do cô Yuri nấu, ăn bữa nào có tác dụng ngay bữa ấy. Không được hưởng
giá trị thật này, bạn sẽ khó tin : “Thuốc tiên à” nhưng nếu được cảm nhận
giá trị thật bạn sẽ nghiêm túc hơn về vấn đề này.
86
Suốt 7 ngày với 30 món ăn, tôi thấy cô Yuri không dùng bất cứ một gia
vị bột nêm nào ngoài muối biển tự nhiên và nước tương Tamari, mi sô và
cách thức nêm cũng khác với chúng ta. Mỗi món ăn nêm muối đều dùng tay
rắc thật đều, có cân đong liều lượng rõ ràng, rắc muối từ 3 - 7 lần chứ không
cho duy nhất 1 lần, gần bắc ra mới nêm tamari để giữ hương vị tồn chất và
tránh đắng. Món ăn nào cũng ngon, ngọt, dễ ăn, hấp dẫn trong suốt cả khóa
học.
Thầy An Đô nói với vẻ tâm linh : “Muối và lửa là hai điều rất hệ
trọng giữa chúng ta và vũ trụ”. Dần dần tôi mới hiểu dùng muối và lửa để
khử âm, khử độc tố, dương hóa thực phẩm. Đến với thực dưỡng
Macrobiotics không bao giờ nấu lửa to và nhanh, không nấu với tâm thái bực
bội, vội vàng, không có tình thương và trách nhiệm với thực phẩm hay người
người thụ hưởng… đều ảnh hưởng trực tiếp tới món ăn: hoặc có năng lượng
lành dưỡng nuôi, trị bệnh hoặc gây độc tố do quá lửa, quá muối, cháy ngoài,
sống trong… mà giảm hiệu quả. Đây cũng là một cách TU : THIỀN NẤU ĂN.
Sau khóa học từ một người ngại vào bếp, thường nấu qua quéo cho nhanh để
đi làm việc khác vì tôi rất dễ ăn, ăn gì cũng được, tôi đã đứng thái rau củ liền
4 giờ thêm 2 giờ xào lửa nhỏ làm Tekka khô. Làm xong không thấy mệt,
không mỏi tay mà lại thấy khỏe và hân hoan trong lòng. Bí quyết : nghiêm
túc thực hiện điều đã được học, làm từ tốn không sốt ruột, tránh tâm lý
mong mau xong việc và không co cứng gân cơ, giữ nụ cười hàm tiếu và
thở nhẹ với một đam mê đầy nhiệt huyết.
Muối là một loại kiềm, tính dương. Nhiều người ăn thực dưỡng quan
niệm nên ăn muối rang mới tốt. Muốn ăn hoa quả thì chấm muối để trung
hòa. Thầy An Đô phân tích kỹ sau một năm cùng vợ trải nghiệm mới dám
chia sẻ với mọi người : “Ăn muối biển tự nhiên tốt hơn muối rang, muối
mỏ vì quá trình rang làm mất đi lượng nước cần thiết để dễ thẩm thấu vào
rau củ”. Muối có khả năng rút ngọt từ rau củ nếu biết cách tẩm ướp và nấu
87
đủ độ lửa, đủ thời gian cần thiết cho từng loại. Tôi thấy cô Yuri, thái xong
rau củ đều tẩm nhẹ một lần muối biển để nước từ rau củ tiết ra. Loại nào thái
gọt xong để riêng từng loại, dao thớt sau mỗi loại đều được lau khô để
không lẫn mùi vị vào nhau. Nghệ thuật nấu ăn thực dưỡng Macrobiotics là
tôn trọng trật tự của tự nhiên nên tuyệt đối không dùng hóa chất làm thay đổi
cơ cấu tính chất của món ăn.
Theo thầy An Đô, mỳ chính là hóa chất, không phải là thực phẩm và
tác hại của nó thật đáng sợ: gây hại não bộ, bệnh mất ý thức tự chủ, gây đau
nhức chỗ này, chỗ kia trong cơ thể, tiềm ẩn bệnh ung thư. Nhà tôi đã không
dùng mỳ chính từ 6 năm nay. Nhớ lúc đầu vận động con dâu, con, chúng
nhao nhao phản đối : “Mẹ giờ cực đoan quá, cả thế giới họ đều dùng có
sao đâu”. Nhưng tôi cứ kiên trì nói nhiều lần và khuyên chúng để ý cơ thể
sau khi ăn. Một lần cô thứ ba về nói : “Hôm nay con ăn bát canh bánh đa
họ cho nhiều mỳ chính, con thấy tê môi”. Dần dần cả nhà nghe mẹ. Có vài
người phản đối : “Không có mỳ chính thì nuốt làm sao được, nhà em mỗi
tháng dùng 1kg”.
Đại đa số dân ăn thực dưỡng đều biết nguyên tắc : “không ăn đường,
hoa quả, các loại thịnh âm như : măng, nấm, cà chua, giá đỗ, khoai tây”.
Do sách chỉ đưa ra như vậy mà không phân tích cụ thể hoặc có thì người ăn
cũng ít quan tâm và đọc không đủ đầu đuôi nên vẫn vi phạm dài dài. Gần
đây tôi mới được nghe cháu Hằng kể, ăn mấy thứ đó có chất độc gây hại ruột
cô ạ. Do được ăn những món đã quân bình, tôi mới nhận ra tác hại khôn
lường của việc ăn nhiều đồ thịnh âm : Hàn gặp hàn tắc tử. Người gặp nước
mưa ngấm lạnh, về tắm ngay nước lạnh, đi ra gió, nằm đất chỉ có mất mạng.
Bây giờ tôi mới biết không nên ăn ba món âm hoặc dương cùng một lúc. Ví
dụ : ăn kem, uống nước đá, ăn canh rau cùng một bữa sẽ thấy khó chịu, đau
bụng và cảm thấy yếu, buồn ngay lập tức, hay cả ngày ăn cháo với rau, hoa
quả hoặc 3 bữa liền ăn bún thay cơm thế nào cũng có chuyện đầy bụng, khó
88
thở; ăn nhiều thịt động vật + đồ rán + đồ nếp sẽ cảm thấy khó tiêu, ấm ách,
buồn ngủ.
Bản thân tôi đã phải trả giá vì đồ ngọt, hoa quả nhiều lần nhưng vẫn vi
phạm dù chỉ ăn bằng 1/5 trước kia, nên tôi khó khuyên con cháu về việc này.
Mùa dâu chín vừa rồi, cả nhà ai cũng thích món quả dâu ngâm sổi với đường
muối để 3 ngày kẹp bánh mỳ ăn. Cả nhà khen lấy khen để sao lượng mặn,
chua, ngọt vừa vặn thế. Để thêm vài ngày, dâu lên men, chua không ai ăn
nổi. Tôi mới nói với con dâu : “Con thấy chưa, đồ ngọt chuyển thành chua
đấy, ăn nhiều đồ ngọt sẽ hại dạ dầy vì dư thừa a xít”. Lần này con tôi lặng
im không lý luận gì với mẹ. Tháng sau thêm một hiện tượng phản ứng khác
xảy ra, làm tôi thấy sợ và suy nghĩ rất nhiều. Với kinh nghiệm 30 năm ngâm
mơ, mơ có bị dập, thối ngâm tăng đường muối lên vẫn đạt tiêu chuẩn. Năm
ngoái tôi ngâm mơ thực dưỡng chỉ có mơ, muối, lá tía tô, rượu trắng vào hũ
sành trước đó có muối ca la thầu và đã ngâm nước nhiều tháng, rửa xà
phòng, tráng nước sôi cẩn thận. Thời gian sau xung quanh hũ bị ngấm nước
bên ngoài, tôi chủ quan cho là ai sơ ý để nước bẩn bắn vào. Mùa mơ năm
nay mở ra kiểm tra, sau khi lau một lớp mốc vàng xanh quanh hũ, tôi đã nghi
có vấn đề hỏng mơ. Mở nắp ra tôi không tin vào mắt mình nữa, không biết tả
lại như thế nào, tôi lấy Ipad chụp ảnh hiện ra trước mắt tôi là những chiếc
nấm trắng hình con sò, dầy, cứng trong khi quả mơ bị nhũn, thâm lại. Không
biết chất lượng quả mơ xấu đi hay tốt lên nhưng đã không còn mùi thơm đặc
trưng của mơ muối nhiều năm trước, có cả mùi hơi khó chịu của ca la thầu
lẫn vào, vừa sợ vừa tiếc của vì tôi ngâm tới 25kg để dùng nhiều năm. Nhờ
hiện tượng này đã giúp tôi quán chiếu về phản ứng hóa học giữa muối và củ,
quả. Muối đã ngấm sâu vào vại, chuyển thành nấm mốc ra ngoài (nước
không thấm ra được), nấm lạ đã mọc ra từ quả mơ khi bị chất khác xúc tác.
Đây là giữa thảo mộc với nhau còn thế này, vậy khi ta ăn thịt các loại động
vật (thường có mùi xú uế nặng hơn thực vật khi không còn sự sống) thì nó sẽ
89
trở thành gì trong dạ dày, bị khuất lấp bởi làn da thịt của chúng ta? Đại đa số
chúng ta có thói quen tùy tiện trong ăn uống, thấy gì ngon miệng, bất chấp
lợi hại đều đưa vào miệng để ăn đến khi gặp sự cố mới ít nhiều lưu ý đến
vấn đề ăn uống. Sau lần đường ruột chuyển hóa kém kéo dài, đi nghe chia sẻ
HBL đọc “Mặt trái của mỳ ăn liền” trên Ipad, tôi mới dừng lại không ăn
mỳ ăn liền nữa. Bún là món khoái khẩu chưa bỏ được, một lần cả ngày ăn
bún riêu chay nấu với nấm, đậu phụ, cà chua và nêm gia vị, hôm đó tôi buồn
rười rượi cả ngày, không thích nói năng, hoạt động gì. Về sau tôi mới hiểu
nguyên do vì mình đã đưa vào cơ thể toàn đồ thịnh âm.
Từ học lý thuyết của thầy An Đô, ăn món ăn do cô Yuri nấu với một
loạt trải nghiệm các sự cố trên; sau gần 9 năm ăn thực dưỡng, lần đầu tiên tôi
tự giác cao tuân thủ nghiêm túc những gì đã được học. Tuy mới đạt ở mức
70% nhưng vẫn gầy, gầy là do làm việc quá sức nhất là về mắt, còn lại tôi
thấy đang có nhiều biến chuyển tốt về nhiều mặt: trí nhớ, cơ lực tăng, đường
ruột ổn định, bớt hẳn đau nhức và tính tình điềm đạm, bình thản hơn…
Ngày giỗ ngài Ohsawa ở quán thực dưỡng Ngọc Trâm, tôi đã mang về
một món quà vô giá. Nhờ cháu Thủy hỏi thầy An Đô: “Làm thế nào để
thuyết phục người thân ăn thực dưỡng”. Đây là vấn đề nhiều người quan
tâm, đối với cả đạo Phật. Thầy thận trọng hỏi lại: “Khó khăn như thế nào,
phản ứng của người thân ra sao”. Đại đa số người thân trả lời: “Ăn thế làm
sao có chất, lấy đâu ra sức khỏe để đi làm, làm sao chữa khỏi bệnh, - làm
gì có thời gian mà ngồi nhai kỹ, - ôi dào, thiên hạ mọi người ăn thế nào
thì mình ăn thế, - ăn khổ như vậy thì còn gì hưởng thụ ở đời, - sợ gầy lắm,
- răng yếu không nhai được đâu, hoặc nể quá thì ậm ừ, khất hẹn lúc nào
có điều kiện sẽ ăn thử…” Thầy An Đô trả lời lúc đầu theo thông lệ, nghe dễ
nhưng thực hiện được là cả một vấn đề : “Trước hết hãy ăn cho tốt, mọi
người nhìn vào mới có niềm tin, sức thuyết phục để đi theo”. Biết vậy,
nhưng ai ăn thực dưỡng chỉ cần đạt 30% đã có kết quả tốt rồi nên nhìn người
90
thân sai phạm và bệnh tật, khổ đau thường tỷ lệ thuận với những sai phạm
trong ăn uống theo thời gian mà sinh tâm ái ngại. Thầy khuyên tiếp: “Đừng
vội khuyên nhủ, nói chuyện về thực dưỡng . Tự bạn hãy vào bếp, thay đổi
gia vị và cách nấu ăn một thời gian, mọi người ăn cảm nhận được giá trị
sẽ tin dần mà thay đổi quan niệm về ăn uống, sẽ nhận ra tác hại vô cùng
của đường, đồ ngọt và hóa chất trong gia vị, nước mắm, đồ đóng gói, đóng
hộp”… Thầy trả lời ngắn gọn, khả thi. Nghĩ đến tương lai lâu dài của con
cháu, sau HBL, tôi quyết định bỏ tiền cá nhân đầu tư tiếp thực dưỡng
Macrobiotics. Đầu tư khá đầy đủ từ đồ nấu bếp tốt đến đủ mặt đồ ăn thực
dưỡng, sách, đĩa. Vét cạn tiền trong túi mà không một chút đắn đo. Đôi khi
trong nghệ thuật tiêu tiền, chúng ta cần mạnh dạn vì những gì cao hơn giá trị
đồng tiền. Về nhà tôi vào bếp như đã kể ở trên, tuy bước đầu có thu được sự
tham gia ăn nhiệt tình và cùng chế biến của dâu con nhưng để đạt được
100% đồ ăn, gia vị thực dưỡng trong bếp, tôi còn phải cố gắng rất nhiều,
trong đó có cả tài liệu này, viết thế nào để càng nhiều người đến với thực
dưỡng càng tốt.
Ngày thứ 5 của khóa học, thầy cho phép hỏi cá nhân, tôi nhờ cháu
Cường phiên dịch hỏi thầy : “Trò ăn thực dưỡng đã gần 9 năm kết hợp tu
thiền nhưng còn nhiều sai phạm. Nay cứ theo các món ăn và cách nấu ăn
được học có khắc phục lại được không?” - “Đó là những món ăn xa xỉ,
đắt tiền, ăn nhiều không tốt, chỉ cần ăn cơm gạo lứt và những món ăn
đơn giản hàng ngày, nấu và ăn thử các món kia, chọn món thích hợp với
mình”. Thầy trả lời trùng khớp với lời Phật day : “THIỂU DỤC TRI TÚC” và
nhiều bậc tiền bối: “Ăn ít để tăng tuổi thọ - khéo nuôi thân không cần cao
lương mỹ vị - ăn ít món để tránh nhiều phản ứng hóa học xảy ra trong cơ
thể…” Tôi ghi lòng lời dạy này, giờ đây tôi đã hiểu tại sao nên ăn nhiều gạo
lứt từ 100 - 90% hàng ngày bởi nhờ nhai kỹ gạo lứt đã cung cấp đủ nhu cầu
dinh dưỡng của cơ thể. “Nên tìm nguồn gạo sạch. Tối kỵ ăn gạo ẩm mốc,
91
nhai rối. Càng uống ít nước càng tốt…”. Lời dạy của thầy đã tháo gỡ nhiều
phân vân, khó xử tồn đọng trong tôi.
Nói đến thực dưỡng là nói đến nấu ăn, vì vậy hầu như sách thực
dưỡng nào cũng có hướng dẫn cách nấu. Tôi có rất nhiều nhưng thực tình
nếu không tận mắt nhìn cô Yuri nấu, có đọc sách cũng vô ích vì tên gọi viết
toàn tiếng Nhật, cách nấu cầu kỳ, nhiều thời gian nên tôi chưa làm được món
gì. “Trăm nghe không bằng một thấy”. Học một món về nhà có thể dễ
dàng làm các món khác trên nguyên tắc lấy cân bằng âm dương làm trọng.
Vì vậy tôi chia sẻ với các bạn 10 món tôi đã làm thành công và cũng là
những món thông thường dùng nhiều trong thực dưỡng hàng ngày, ai cũng
có thể nấu được với việc tuân thủ một số nguyên tắc bắt buộc. Từ “bắt buộc”
ở đây nói lên tầm quan trọng của việc nấu ăn thực dưỡng. Sức khỏe toàn
diện bao gồm cơ bắp và trí tuệ. Hãy nhìn con trâu thuần ăn cỏ, rơm, sao vẫn
to và khỏe; tuy vậy trí năng lại thấp kém, là vật tuy có ích cho con người
nhưng lại bị con người đánh đập. Con trâu là biểu tượng của nô lệ, đem thân
kéo cày trả nợ. Ai để não bộ rơi vào tình trạng nhớ nhớ quên quên hoặc tê
liệt hẳn cũng là một cách sống phụ thuộc vào người khác, không có chủ
quyền, hạnh phúc.
Con người là động vật thuộc D, nhưng sống ở vùng nhiệt đới mang
tính A. Thực vật thuộc A. Tính A gặp tính A không khác gì đang bị lạnh yếu
lại bị dội thêm nước lạnh vào càng thêm xiêu liêu sụp đổ (nên hiểu thật tinh
tế điều này vì không có vật gì hoàn toàn là D hoặc A, A hay D là mang so
với vật khác). Bạn nên đọc kỹ tài liệu, xem đĩa giảng về lý thuyết trước khi
thực hành nấu ăn, ghi nhớ 10 nguyên tắc sau rồi tự điều chỉnh cho phù hợp
với mình. Món ăn nấu đạt tiêu chuẩn là sau khi ăn, người ăn cảm thấy dễ
chịu, bụng êm và khỏe mạnh, thoải mái chứ không phải món ăn sang trọng
với nhiều thực phẩm đắt tiền, khan hiếm. Mười nguyên tắc đó là :
1/ Thân thổ bất nhị : Nên dùng sản phẩm nơi mình đang ở là chủ yếu.
92
2/ Nhất vật toàn thể : Ăn toàn bộ sản phẩm, ngoại trừ phần hỏng và đất bẩn
bám vào.
3/ Không dùng hóa chất, chỉ dùng muối biển tự nhiên, không cần rang, hầm
như nhiều sách hướng dẫn. Dùng đúng liều lượng, đúng thời điểm, muối sẽ
phát huy nhiều tác dụng quý giá, đặc biệt khả năng rút ngọt từ thực phẩm tiết
ra.
4/ Không ăn : Đường, mỳ chính, gạo xát trắng, đồ lạnh, đồ có hóa chất,
măng, giá đỗ, khoai tây, cà chua, nấm các loại. Bước vào thế giới thực
dưỡng Macrobiotics bạn sẽ không thiếu gì món ngon thay thế.
5/ Nước dùng thực dưỡng : Dùng rong biển phổ tai, nước luộc bí đỏ, luộc
ngô, luộc rau củ làm nước dùng. Dùng nước quả mơ thực dưỡng lâu năm
thay mắm, dấm chế biến món ăn, pha nước chấm, nem rán, bánh cuốn.
6/ Sơ chế thực phẩm : Các loại rau, củ, quả được phép dùng nên sơ chế, rửa
sạch, lau khô thái theo hình khối quân bình âm dương. Thái xong, lau sạch
dao thớt, loại nào để riêng loại đó để không lẫn mùi vào nhau gây phản ứng
khác. Mỗi loại cần khử âm khác nhau (độ chín khác nhau).
7/ Xào nấu theo nguyên tắc : Đun nóng chảo trước, âm xào trước và thời
gian nấu lâu hơn (đọc sách tôi không hiểu điều này, loại nhũn nhanh chín
thuộc âm lại nấu trước và lâu hơn). Sau này mới hiểu, rau củ quả trước khi
nấu đều được tẩm ướp qua một lần muối biển, dùng lửa thật nhỏ nấu để rút
hết phần âm ra làm dương hóa thức ăn. Nấu một thời gian bạn sẽ hiểu rõ
hơn. Tiếp đến loại D, xào xong loại nào vẫn để trong chảo, gạt gọn sang một
góc. Xào tiếp loại khác rồi trộn chung, gạt sang, tiếp món 3… cuối cùng đảo
tất cả với nhau (bạn đừng vội ngại cầu kỳ, làm đúng nguyên tắc, ăn món nào
có tác dụng ngay món đó, nấu vài lần sẽ quen không ngại nữa và bạn sẽ
thích vào bếp).
8/ Muối : Nấu ăn thực dưỡng không cho ngay muối một lần duy nhất và bỏ
tụ vào một chỗ. Dùng tay rắc đều muối để tất cả thực phẩm đều được muối
93
thẩm thấu, tránh miếng có miếng không, miếng mặn, miếng nhạt. Ai ăn ít mà
gắp nhầm sẽ không có tác dụng quân bình và đây cũng là lý do luôn đảo đều
tay, rải đều nguyên liệu để cùng được nhận lửa giúp khử âm sâu vào trong
lõi, loại nào cũng nên tẩm rắc muối riêng, cuối cùng mới nêm nếm cho thêm
nước tương vừa miệng. Nên có dụng cụ đong đếm, mặn hay nhạt quá, loại
sống, loại chín không đều… đều có khả năng thay đổi thành phần tốt xấu của
món ăn.
9/ Cách dùng lửa và dầu ăn : Lửa và thời gian là hai điều kiện cơ bản của
nấu ăn thực dưỡng. Để khử âm, dương hóa thức ăn, người ta dùng lửa để
thay đổi tính chất của thực phẩm cho phù hợp với việc dưỡng nuôi và trị
liệu. Nấu ăn thực dưỡng không dùng ngọn lửa quá to để đốt cháy giai đoạn
làm nhanh chín đồ ăn. Bắc nồi, chảo lên bếp tùy theo món ăn mà điều chỉnh
lửa. Những món ninh, hầm, rim, kho, làm Tecka, nấu cháo chỉ dùng lửa ở
mức đủ giữ chế độ sôi lăn tăn, âm ỉ. Thực phẩm có nhiều thứ lớp, mỗi lớp có
tác dụng khác nhau đối với cơ thể, dùng lửa nhỏ nấu lâu để lấy hết tinh túy
của sản vật mà đất mẹ đã ban tặng. Có món cần nấu từ 120’ - 240’. Gia đình
tôi đã thử dùng ga, nấu liên tục những món cần thực hành. Ninh cháo cả nhà
ăn hàng ngày rồi cô đi, nấu lại,làm tới 5 lần Teeka khô, nấu đậu gà, nói
chung nấu thoải mái. Thật bất ngờ, thời gian dùng ga so với trước không hề
tốn thêm vẫn bình quân 20 ngày/bình, vậy yên tâm về vấn đề lửa. Tôi có chủ
bụng nếu có phát sinh ít nhiều thì vì sức khỏe vẫn chấp nhận nhưng nấu món
này thì không nấu món khác, nấu lửa nhỏ không tốn ga là bao nhiêu. Nấu ăn
với ngọn lửa nhỏ, người nấu và người bên cạnh cũng có thêm năng lượng
bình an.
Trước kia tôi rất chủ quan về việc dùng dầu ăn, từ ngày bị mỡ dư thừa
dưới da vì thích ăn cốt dừa và bơ thực vật, đồ rán, nấu gì tôi cũng nêm một
chút dầu vừng hoặc dầu ô liu để hấp thụ vitamin A ở mức dầu vừa phải. Nay
tôi được biết dầu ăn rất âm; dầu vừng, ô liu thì dương hơn. Đối với thực
94
dưỡng, ta nên tập thói quen suy nghĩ theo chiều hướng âm dương để dễ nhận
biết sai phạm hòng kịp thời điều chỉnh. Không nhất thiết phải phân tích cao
xa gây khó hiểu cho người bình dân. Cân bằng âm dương ví như sự thăng
bằng, cân đối, hòa hợp. Thừa, thiếu âm dương đều là sự lệch lạc, đỗ vỡ,
thiếu hụt gây tác hại. Tuyệt đối không được hiểu phiến diện như cách của
bạn tôi : “Mồng tơi âm, lạnh thì nấu cho gừng D vào là cân bằng chứ gì”.
Mồng tơi không có danh mục được ăn trong thực dưỡng, gừng thuộc âm.
Nhưng nếu là rau sạch, cơ thể khỏe mạnh, thời tiết thuận, vẫn có thể ăn với
lượng phù hợp. Dâu, con tôi thì nửa đùa, nửa thật: “Ăn thịt là D, kem là A
vậy cân bằng”. Đây là cách ăn nguy hại vừa thịnh A, thịnh D, được ví như
cùng một lúc ăn đồ nóng (đồ ăn vừa nấu xong), uống bia lạnh cảm nhận đầu
tiên là hại răng, miệng sau đó là dạ dày gánh chịu hậu quả. Muốn phân định
AD chuẩn ta nên dựa vào tính chất nhiều mặt của chúng, theo bảng phân
định của người đi trước, lấy cái gốc là 12 nguyên lý vô song, lắng nghe vị
trọng tài trung thực nhất đó là sự trải nghiệm của bản thân và diễn biến của
đồ ăn sau khi ăn vào. Đây là mẫu phân định tương đối theo thứ tự âm (hơn)
đến dương (hơn).
* Rượu - nước - trái cây - sữa - rong biển - rau củ - đậu (đỗ) - hạt cốc -
cá - thịt - trứng (D). Nhìn bảng ta nhận thấy rượu thuộc thịnh âm, thảo nào
đức Phật đưa vào giới cấm. Trứng thuộc thịnh dương hơn cả thịt, cá? Người
ăn thực dưỡng nên tránh hai thực phẩm thịnh D - thịnh A. Ăn thực dưỡng chỉ
nên dùng dầu vừng ép thủ công, dầu ô liu. Muốn rán thì pha 1/3 dầu vừng
với dầu đậu nành. Dầu rán tôi mua dầu vừng ở siêu thị giá rẻ hơn dầu ép thủ
công, thực tế dùng cũng không tốn kém lắm. Trường hợp muốn khử dầu, cô
Yuri đã dạy mài sống củ cải (mài từ phần giáp với lá trước, củ cải mới ngọt),
trộn với tamari để chấm. Thầy cô An Đô cho phép bảo quản đồ ăn trong tủ
lạnh vài ngày với điều kiện nên nấu sôi lại khi ăn. Tỳ vị vốn ưa ấm, dù
không ăn thực dưỡng cũng nên ăn nóng, uống ấm để bảo vệ răng và dạ dầy.
95
10/ Tâm thái : Điều này vô cùng quan trọng cho cả người nấu và người ăn.
Đồ ăn được nấu với sự dịu dàng, lòng từ bi, sự tôn trọng với thực phẩm và
người ăn hoàn toàn có khả năng đưa thêm tác dụng tốt vào việc nuôi dưỡng,
trị liệu (thực dưỡng liệu lý). Người nấu ăn có tâm trong sáng hết lòng vì
người khác sẽ làm việc cẩn trọng để thực phẩm không bị dập nát, không lẫn
tạp chất và điều chỉnh lửa, muối....phù hợp. Người làm cho xong việc, cáu
gắt, người ăn cũng mất ngon, người nấu nhanh mệt, thức ăn giảm hiệu quả.
Đây là sự thật. Cỗ ngon mà không khí bữa ăn nặng nề, người nấu ăn xong bị
mệt, giận dỗi bỏ đi nằm, cỗ cũng buồn ngoảnh mặt đi.
Nhai kỹ : Đồ ăn dọn lên với đủ 10 nguyên tắc trên nhưng thiếu NHAI KỸ
được xem như đang dùng đồ của người khác, được lúc nào hay lúc đấy, có
khi còn mắc nợ không có khả năng trả. Đối với thực dưỡng, NHAI KỸ được
xem như chìa khóa mở cửa vào kho báu vô tận. Nhai kỹ ở đây không phải
nhai thử vài miếng, nhai nhanh, cốt đếm đủ số quy định mà là nhai trọn đời
từng miếng, từng bữa ăn. Mỗi ngày, đếm không bị nhầm lẫn từ miếng đầu
đến miếng cuối bát cơm, nhai thành nước ngọt mới nuốt ực một lần với tâm
thái thoải mái, an nhiên. Đã có nhiều sách thực dưỡng viết về tầm quan
trọng của việc NHAI KỸ. Thầy An Đô phân tích cụ thể: muốn ăn gạo lứt,
không nhai kỹ là không thể được và tác dụng kỳ diệu của nước bọt nhờ
nhai kỹ mang lại :
1/ Trong nước bọt có chất kháng thể giống như chất trong sữa non của người
mẹ giúp trẻ miễn dịch thời kỳ sơ sinh, nhai kỹ mới kích thích tiết ra chất này,
giúp cơ thể tăng sức đề kháng đối với dịch bệnh, thời tiết, khí hậu xấu,
chống ung thư, lão hóa.
2/ Giúp trung hòa, hóa giải độc tố từ thực phẩm nếu không may ăn phải.
3/ Nước bọt có hoạt chất giúp dạ dầy chuyển hóa tinh bột sang Protein. Đây
là giá trị quý của nhai kỹ và ăn gạo lứt muối vừng. Dạ dầy không giúp tiêu
hóa tinh bột. Nhai rối gây sức ép nặng cho quá trình phân hủy. Tinh bột nằm
96
lâu trong dạ dầy sẽ chuyển thành A xít (đầy bụng, ợ hơi, ợ chua). Chính
nguyên nhân này làm nhiều người nhai rối không dám ăn gạo lứt. Nhai kỹ sẽ
tiết nhiều Enzym (men nước bọt) để thu toàn bộ dinh dưỡng có trong gạo lứt.
Vài lần, sau khi ăn bột lứt, bánh mỳ trắng, dạ dầy tiết dịch vị, tôi cứ thắc
mắc ăn chất bột mà dạ dầy cũng có vấn đề. Thậm chí có lần đọc báo thấy
nói: “ăn bánh mỳ chảy máu dạ dầy” nhưng tôi không sao lý giải được. Có lẽ
do những lần đó nhai rối. Chia sẻ của thầy thật hữu ích, ăn cơm gạo lứt muối
vừng kể cả ăn thực phẩm khác mà không nhai kỹ, vô tình đã tước bỏ đi
nhiều quyền lợi vốn thuộc về mình: tận hưởng hương vị ngọt ngào chân
thực của đồ ăn, những giây phút nuôi dưỡng ĐỊNH TĨNH để chạm tay
vào sự kỳ diệu của chân hạnh phúc.
Bản thân tôi tuy chưa ăn đúng 100% nhưng nhờ nhai kỹ (ít nhất là
70l/m, còn lại từ 100 lần trở lên) nên ở tuổi 65 tôi vẫn học đâu nhớ, hiểu đấy
và đã dùng nhai kỹ để giải quyết gánh nặng cho dạ dầy nếu muốn ăn thêm
món ưa thích.
Tuy nhiên, bước đầu nấu ăn thực dưỡng, chắc chắn phải đầu tư thời
gian, kinh phí và tâm lực. Nếu không nghiêm túc, thấu hiểu giá trị tuyệt vời
của phương pháp này chắc chắn không có cách nào vượt qua nó để giúp thân
khỏe tâm an nên dễ bỏ cuộc. Nhưng nếu quyết tâm, chỉ sau một thời gian
ngắn tự bạn sẽ biết cách sắp xếp mọi thứ hợp lý và nhận ra sự ưu việt của nó.
Mọi thứ đều được giảm thiểu so với cách nấu ăn cũ. Từ 10 nguyên tắc bạn
có thể uyển chuyển, sáng tạo phù hợp với thực tế mà ứng dụng. Bản thân tôi,
học xong về thực hành cũng có thay đổi công thức như thay thế vật liệu, thời
gian nấu, lượng nước. Thay đổi nhưng tuyệt đối không được tùy tiện, lấy cân
bằng âm dương làm trọng và hiệu quả ăn vào. Sau đây là 10 món của cô Yuri
hướng dẫn kết hợp với kinh nghiệm, trải nghiệm của tôi:
1/ Nấu cơm gạo lứt : Nấu đơn giản, tôn trọng vài nguyên tắc :
97
A/ Chọn gạo tốt (nhai sống không bị mủn, có mùi thơm gạo mới. Gạo lứt gì
cũng được, ăn thử, gạo nào hợp thì ăn nhiều).
B/ Không nấu bằng nồi cơm điện, nồi nhôm. Không hâm nóng bằng lò vi
sóng.
C/ Không lạm dụng các loại hạt và đỗ (đậu) nấu cùng với cơm, ăn dễ đầy
bụng, phản tác dụng.
Sau khóa học, tôi đã tìm mua gạo sạch ở nhà thực dưỡng, kiểm tra hạn
sử dụng, mốc, không mua nhiều như trước, mua đủ ăn từ 1 tuần - 10 ngày vì
đã nhận ra gạo là quan trọng nhất. Đang tìm nơi sản xuất để an toàn và giảm
kinh phí. Gạo lứt nhanh mốc hơn gạo trắng, mua về nên bảo quản cẩn thận .
D/ Vo gạo :
Làm đúng hướng dẫn của cô Yuri (xem đĩa). Đổ gạo nhẹ vào thau nước
sạch, sau khi đã lọc bỏ sạn, rác dùng hai tay xát nhẹ với thái độ trân quý biết
ơn hạt gạo đã nuôi sống mình, không làm tổn thương mầm gạo, gạn bỏ nước
có trấu, hạt xấu nổi lên trên, đổ sang rá, rổ lọc tráng lại, để ráo nước (vội đổ
ngay cũng được). Đổ vào nồi, rắc ít muối biển đều mặt gạo (1kg gạo rắc 1/2
thìa cà phê muối), lượng nước tùy theo khẩu vị ăn cứng, ăn mềm (ăn mềm
khó nhai kỹ). Nấu sôi, nhỏ lửa thêm 5’ - 10’, tắt bếp từ 30’ - 45’. Sau đó, đảo
đều hâm nhỏ lửa từ 15’ - 20’ cơm chín. Tôi thường nấu 1 lần ăn cả ngày hoặc
2 ngày, cơm lứt lâu thiu, không để tủ lạnh, khi ăn hâm nóng lại, không ăn
cơm nguội.
2/ Cách làm muối vừng :
Cách rang, giã muối - vừng của cô Yuri khác hẳn các sách đã hướng
dẫn. Thầy An Đô hai lần khẳng định: Biết cách nấu cơm gạo lứt, rang, giã
vừng, pha trà Ban cha là tốt nghiệp khóa học. Lần 2, thầy nâng lên: tốt
nghiệp thực dưỡng Macrobiotics. Qua thầy tôi mới hiểu ý nghĩa giá trị của
bốn từ GẠO LỨT MUỐI VỪNG dưới góc nhìn của thực dưỡng . Từ đó nhận ra
tại sao cách ăn số 7 lại có công năng kỳ điệu đến vậy (phần này khá dài, xin
98
chia sẻ vào dịp khác). Bạn chỉ cần hiểu đây là món ăn đơn giản nhất đã đạt
chuẩn cân bằng âm dương đối với mọi đối tượng, mọi bệnh tật nan y. Tuy
nhiên hiệu quả nhiều hay ít còn phụ thuộc vào cách chế biến, cách ăn và chất
lượng của thực phẩm.
Muối và vừng rang giã chuẩn khá công phu, cẩn trọng đòi hỏi thời gian và
sự điềm tĩnh.
a/ Muối biển : Không rang bằng chảo thép, còn lại dụng cụ bằng chất liệu
nào cũng đều được. Lúc đầu lửa vừa, dùng xẻng gỗ làm vỡ muối vón cục,
dàn đều mặt chảo để hạt muối nào cũng được trực tiếp tiếp xúc với lửa (đây
là nguyên tắc chung với tất cả vật liệu khác). Lửa nhỏ, đảo đều tay, thấy
chuyển màu xám sáng là được. Đổ muối vào cối giã, nghiền thật nhỏ mịn
(giống bột mỳ) dùng sức để giã, tán muối.
b/ Rang vừng : Vừng sơ chế, đãi sạn, rửa sạch đổ ra rá hoặc rổ lọc, dùng
miếng xốp biển lót đáy để hút nước dần ra, thỉnh thoảng nhớ lấy xốp ra, bóp
nước đi cho đến khi xốp không còn nước hút nữa mới đổ vừng vào chảo
rang. Lượng nhiều ít tùy theo chảo to, chảo nhỏ nhưng không rang nhiều, hạt
vừng nằm chồng lên trên tiếp xúc lửa sẽ không đều. Lửa vừa rồi lửa nhỏ,
thỉnh thoảng nhấc chảo lên lắc, tránh cháy vừng khi chưa chín vào bên trong.
Kiểm tra vừng chín bằng cách ăn thử, chín, thơm không đắng là được; hoặc
dùng ngón tay cái và ngón trỏ bóp nhẹ hạt vừng thấy mềm, tróc vỏ. Xin bạn
đừng vội lắc đầu hãy nhớ lại, ngài Ohsawa đã dùng muối vừng để chữa bệnh
vì muối vừng có khả năng đi vào từng tế bào trong cơ thể để dưỡng nuôi,
cân bằng hóa sự lệch lạc âm dương để trị bệnh, các muối khác không có khả
năng này. Chữa bệnh trầm kha là trầm cảm, thực dưỡng cũng dùng phương
pháp nhai muối vừng 2 giờ/lần liên tục trong vài ngày, nhai nhạt mới được
nuốt, nhai đến đâu nuốt đến đấy sẽ sinh khát nước.
c/ Giã muối - vừng : Đổ vừng vừa rang vào cối có muối đã giã mịn (phần
này tôi chưa nhìn cô Yuri làm thế nào, có gạt muối ra một bên hay đổ vừng
99
lên trên, ngồi dưới không nhìn được lòng cối). Khác với muối phải dùng sức,
vừng chỉ xoay cổ tay để nghiền hòa trộn với muối, hạt vừng vỡ 70% - 80%
là được. Tỷ lệ cho người bình thường là 1 muối gạt bằng mặt + 9 vừng có
ngọn (đong cùng một loại dụng cụ) hoặc tùy bệnh âm dương mà thêm bớt.
Vừng và muối đều giã nóng sẽ tốt hơn.
Tôi thấy cách rang, giã muối vừng này rất hợp với người sống độc
thân, tuổi cao nhưng vẫn vào bếp được, nhất là đối với người bệnh trọng
đang nghỉ ngơi trị bệnh, người hưu trí. Cách rang giã này dựa theo nguyên lý
12 (ngoài âm trong dương), ăn không bị khát nước và đạt hiệu quả cao nhất.
Vừng rang để được 30 ngày, nhưng cần rang lại lúc giã, vừng đã giã chỉ
dùng trong 4 ngày.
3/ Kem bột cháo lứt :
Theo thầy cô An Đô đây là món ăn rất quý, đặc biệt với trẻ sơ sinh
nuôi bộ và người già yếu, người kiệt sức, ốm nặng. Cách làm cầu kỳ hay đơn
giản phụ thuộc vào đối tượng dùng. Nguyên tắc chung là: gạo lứt tốt, vo
sạch bằng nước hoặc dùng khăn lau gạo rồi rang vàng để nấu cháo, gạo rang
sẽ dương hơn. Nấu sôi lửa vừa, để ninh lửa nhỏ 4 giờ liền, gạo có nhiều thứ
lớp, ninh lâu để gạo phát huy tối đa bổ dưỡng. (Thực hành ninh cháo 240’,
đem lọc, bã gạo vẫn còn nguyên bạn sẽ nhận ra tác hại của nhai dối. Dùng
lửa ninh 240’ mà vỏ gạo lứt chưa nhừ, nhai trệu trạo vài lần rồi nuốt vào dạ
dầy có phải vừa hại dạ dầy vừa chưa tận hưởng được hết dinh dưỡng của
gạo lứt hay không? Gạo trắng thì nhanh nhừ hơn rất nhiều). Đổ nước một
lần vì nếu đang nấu bị cạn đổ thêm nước, bột lắng dễ làm khê cháo. Sách
hướng dẫn 1 gạo 10 nước cho 2 lần, thực tế còn phụ thuộc vào gạo lứt hút
nước nhiều hay ít, lửa và nồi dầy mỏng, không gian bếp khác nhau, nên nấu
thử lần đầu để điều chỉnh. Tôi nấu 300g gạo hay 700g để 4 giờ đều chín như
nhau. Nên mua nồi to để nấu 1 lần cả nhà dùng vài ngày tiết kiệm chất đốt,
thời gian và công sức. Khi bắt đầu bắc bếp rắc ít muối vào nồi, có thể thêm
100
nước mơ muối lâu năm; 4 giờ mở ra rắc ít muối lần 2, thêm nước sôi đánh
cháo đặc, loãng, vừa với ý muốn của mỗi người. Nếu dùng cho trẻ sơ sinh,
người già kiệt sức thì nên lọc bằng vải cho mịn kem. Người lớn ít bệnh lọc
bằng rổ lọc cho nhanh, vừa lọc vừa miết cho ra hết kem bổ, cháo chỉ còn lại
xác bã (dùng đũa gạt kem bám vào rổ lọc gây tắc, để kem dễ ra). Sau đó,
quấy đều kem, nấu sôi lại để nguội có thể bảo quản tủ lạnh dùng 4, 5 ngày.
Khi ăn nấu sôi lại, ăn lạt hoặc với Tamari, Tekka. Tôi thích ăn lạt để SINH
TINH (TINH KHÍ THẦN). Phần bã cháo là dương nhất, nhưng khó tiêu với
người già và trẻ nhỏ, lấy ra làm nhiều món ngon khác: rán bánh, làm bánh
mỳ Ohsawa, phơi khô tán bột… Nhận thấy món này quá tốt với mọi đối
tượng, tôi nói đùa với cả nhà : “Chỉ cần nấu kem cháo bán cũng kiếm đủ
tiền nuôi thân đây, lại có cơ hội giúp đỡ nhiều người”
4/ Bánh mỳ Ohsawa (Không men, không lò nướng).
Tôi thích ăn bánh mỳ đến độ, nói đùa với con : “Sau này giỗ mẹ nhớ
mua bánh mỳ”. Biết bánh mỳ trắng có men nở, vẫn ăn hoài. Từ hôm học
được cách làm bánh mỳ này tôi không còn nhớ bánh mỳ kia nữa. Cô Yuri
hướng dẫn : Bột mỳ lứt + bột mỳ thường + bột gạo lứt lượng bằng nhau, trộn
chung với ít muối, dầu vừng bóp đều nhanh tay, không để vừng làm vón cục.
Hòa nước, hạt vừng trắng và đen, hạt óc chó (cắt nhỏ) đã rang chín trộn đều
với bột thành một khối tổng hợp có kết cấu chắc, bột không rời rạc và không
dính tay (dùng bột khô xoa vào tay) là được. Bắc chảo lên bếp (lòng chảo
vừa với bánh dầy 1cm, bánh tròn kín chảo), chờ nóng đổ dầu vừng láng
chảo. Dầu nóng cho miếng bột đã tạo hình tròn vào chảo, dùng tay ấn bánh
dàn đều mặt chảo, nhỏ lửa, đậy vung kín. Tùy chảo bắt nhiệt và độ dầy mỏng
của bánh, để từ 15’ - 40’ mở vung. Thấy bột đã đổi màu, lật sang mặt khác,
hai mặt chín vàng đều là được. Lấy bánh ra thớt sạch, dùng dao hoặc kéo cắt
ngay thành từng miếng vuông, hình chữ nhật, hình thoi tùy ý thích, để nguội
đóng hộp, túi ni lông dùng dần. Bánh ăn nóng mùi gần giống với mùi bánh
101
mỳ nhưng ngon đậm sâu hơn, bánh để được 7 ngày rất tiện đi du lịch. Tôi và
con gái đã ăn thử 1 lúc 3 loại : cơm lứt nắm, bánh bao chay, bánh mỳ
Ohsawa, bánh vẫn đậm đà nhất. Thành công ngay lần đầu (cả nhà ai cũng
thích ăn), tôi bắt đầu sáng tạo làm bánh từ bã cháo kem gạo lứt trộn lẫn với
bột mỳ, bột gạo lứt rang (rang gạo vàng nhẹ hoặc đậm một chút, ủ qua
đêm), ra quán xay bột trẻ em nói họ xay thật nhỏ, dùng nấu bột ăn sáng, làm
bánh mỳ, tẩm rau củ rán rất tiện lợi) với hạt vừng, óc chó đã rang, nước mơ
thực dưỡng. Lần khác trộn bã cháo với bột gạo lứt đều thành bánh. Trộn bã
cháo không phải cho thêm nước. Bánh bã cháo với bột gạo để lâu vẫn rắn,
trộn với bột mỳ thì nhanh mềm lại hơn. Nếu khỏe, có thể cho thêm nho khô,
long nhãn. Ăn càng nhai kỹ càng thú vị. Dùng chảo gang, chảo chống dính
đều được nhưng nhớ đậy vung kín đến lúc được bánh.
5/ Đậu gà nấu ngũ sắc :
Đậu gà là loại đậu quý có mùi thơm đặc trưng (đọc lý thuyết ngày 6)
dùng nấu cỗ tết, đãi khách, cúng giỗ chay, ăn cải thiện đều được, ăn một lần
khó quên. Ăn riêng đậu gà đã thấy ngon và khỏe người, nhưng nấu ngũ sắc
ngon hơn. Nguyên liệu gồm : (10 người ăn) - 300g đậu gà (mua ở hàng thực
dưỡng, siêu thị, Metro), cà rốt 1 củ to, mộc nhĩ vài cánh, đậu phụ đông lạnh
Nhật (thay thế bằng giò chay, mỳ căn, phù trúc, đậu phụ rán… lượng bằng
1/2 đậu gà), bột sắn dây, muối biển. Cô Yuri thêm hành tây vì thực dưỡng
cho phép ăn tỏi, hành, hành tây nhưng tôi không ăn vì 2 lý do: chính đức
Phật đưa vào giới cấm, không ăn 5 thứ cay nồng : hành - tỏi - hẹ - nén (các
loại dưa muối) - kiệu vì chúng là tác nhân gây phiền não… các thiện thần
cũng sợ mà xa lánh các mùi này. Trong quyển Hành trình về phương đông
có vị đạo sĩ khuyên không ăn thức ăn TĨNH (loại lên men), kích thích làm
tâm trí ngu tối. Xét kỹ nếu muốn tìm đến những giá trị cao hơn thì tốt nhất
không nên bị vướng vào khoái khẩu.
102
Cách nấu : Đậu gà rửa sạch, ngâm qua 1 đêm chừng 8 giờ, đổ nước đi, rửa
lại đổ vào nồi, rắc ít muối. Đổ nước bằng mặt đậu hoặc cao hơn một chút.
Nấu 30’, vớt ra cho ráo nước, giữ nước luộc còn lại để nấu sau, cạn thì thôi.
Bắc nồi hoặc chảo sâu lòng lên bếp, lần lượt xào: mộc nhĩ (đã ngâm nở, rửa
sạch, cắt chân, thái vuông to hơn hạt đậu một chút) với chút dầu vừng và
muối. Mộc nhĩ chín, gạt một góc, tiếp cà rốt đến giò chay, đậu gà mỗi loại
đều rắc chút muối. Sau cùng, đảo chung, đổ nước luộc đậu còn lại, nếu thiếu
thì thêm nước dùng rong phổ tai hay nước lã đều được, bằng mặt, đun nhỏ
lửa 15’ - 20’ (tùy số lượng). Nếm thử đỗ, cà rốt chín vừa là được, hòa bột sắn
dây đổ vào đảo đều, nêm tamari vừa ăn. Ăn nóng món này khá dương và bổ
không nên ham ăn nhiều. Ăn xong tôi thấy người khỏe. Đậu gà có thể dùng
nấu cháo, bột, làm nhân bánh. Tôi ninh chín xào với tamari ăn riêng cùng
bột kem cháo, ăn sáng ngon miệng và tiện lợi. Lúc đầu tôi nghĩ cho bột sắn
dây để giả nước sốt, thầy An Đô nói sắn dây có khả năng khử độc tố, hóa
giải trung tính món ăn. Giống Đông y dùng cam thảo để điều vị, sắn dây
đúng là bạn quý của người ăn thực dưỡng. Sau khóa học tôi rút ra kinh
nghiệm, nấu ăn chỉ lên kết hợp vài vật liệu với nhau từ 2 - 5 loại là đủ. Mỗi
loại có tính năng, dược lý khác nhau, nấu quá nhiều loại chưa chắc đã là tốt.
Nấu ăn thực dưỡng cũng vậy, mỗi bữa chỉ cần 3 món, ăn tiệc 4 - 5 món, ăn
còn thấy ngon, nhiều quá vừa tốn tiền, thời gian, công sức và … nặng bụng.
6/ TEKKA ướt : (Rau củ xào ướt)
Người ăn thực dưỡng hoặc ăn chay nên học làm món này vì tính ưu việt
nhiều mặt của nó.
Nguyên liệu : Ngưu bàng 200g - củ sen 100g - cà rốt 100g - mi sô 400g - dầu
vừng đủ làm, miếng gừng bằng đốt tay cái. Tỷ lệ này có thể tăng giảm một
chút, lấy ngưu bàng làm chính, 3 loại cộng lại bằng lượng mi sô, gặp mi sô
quá mặn ta phải tăng vật liệu lên. Cô Yuri thêm hành tây. Tekka ướt làm 1
lần ăn được trong 7 ngày, trời lạnh để tủ lạnh có thể lâu hơn. Món này vừa là
103
thức ăn đa dạng vừa là bài thuốc chữa bệnh tốt cho người yếu, bệnh dạ dày,
đường ruột ( những bệnh thuộc âm).
Cách làm : Sơ chế sạch, không làm tổn thương lớp vỏ, cà rốt giữ lại phần
tiếp nối giữa củ và lá, củ sen giữ lại mấu. Rửa xong, lau khô, cân lại lượng
từng loại và thái chỉ thật mỏng, nhỏ, thái riêng, để riêng từng loại. Thái xong
loại nào lau sạch dao thớt để không xảy ra phản ứng từ nhựa. Gừng thái chỉ
rồi thái hạt nhỏ. Tuyệt đối không băm và xay máy sinh tố trộn lẫn vào nhau
như vài sách hướng dẫn. Củ sen thái sau cùng để không bị thâm, thái xong
bắc chảo chống dính tốt lên bếp. Chảo nóng, láng dầu vừng, dầu nóng đổ
ngưu bàng xào trước. Đảo nhẹ đều tay để tất cả đều được tiếp xúc với lửa.
Ngưu bàng thơm, mùi hăng sống ban đầu chuyển sang mùi thơm ngọt (khâu
này vô cùng quan trọng, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng, làm tùy tiện
không còn tác dụng là bao), gạt vào góc chảo. Tiếp đến củ sen, củ sen chín
kéo ngưu bàng vào đảo cùng, gạt 1 góc tiếp cà rốt. Khi đã đảo được chung 3
vật liệu, đổ nước gần bằng mặt, đậy vung ninh cạn nước, vẫn giữ lửa nhỏ (đổ
nước nhẹ vòng quanh chảo), cạn nước đổ mi sô lên trên mặt vật liệu. Đậy
vung 10’, mi sô mềm ra bắt đầu đảo đều tay, gần được mới cho gừng, đảo
thật kỹ là được. Để nguội đóng lọ sạch, không nên ăn nhiều trong một bữa.
7/ Tekka khô: (Tekka khô có mầu nâu, đen, tiếng hán việt là THIẾT HỎA
rang, nấu cháy) nên có loại ăn hơi đắng, nhằm mục đích D hóa. Cách tính
nguyên liệu và sơ chế, thái chỉ như Tekka ướt, càng mỏng, nhỏ hơn càng tốt,
sau chuyển thái ngang, nhỏ như hạt đường vàng. Xào lần lượt như Tekka ướt
nhưng không cho nước, khi trộn chung tất cả rồi cho mi sô (có thể cho 2 loại
mi sô nâu và đen hoặc tương đặc lâu năm đều được, giữ đúng liều lượng).
Đảo đều tay cho mi sô quyện vào vật liệu. Làm Tekka khô từ lúc cho mi sô
vào đảo nặng tay hơn và thời gian thái, xào cũng lâu hơn tekka ướt. Với số
lượng này nhà tôi thái từ 200’ - 240’, xào từ 120’ - 130’. Thành phẩm được
300g hoặc hơn tùy vật liệu non hay già. Cả nhà dùng liên tục được 2 tháng,
104
hạn để được 12 tháng, Tekka khô dương hơn, chất lượng và tác dụng chữa
bệnh của Tekka phụ thuộc vào việc thái, xào, thời gian và tâm thái người làm
rất nhiều. Sẽ tốt hơn nếu Tekka làm từ ngưu bàng tươi và củ sen địa phương.
Nhà tôi thường dành chiều chủ nhật từ 13h30’ - 19h30’ để làm món quý này.
Tekka là món ăn bổ dưỡng, tiện lợi và kinh tế, là đạm chất, thuốc bổ, thuốc
chữa bệnh của dân thực dưỡng. Người ăn mặn dùng để thay thế giảm dần
lượng thịt đưa vào cơ thể, hoặc thay thức ăn mặn khi cơ nhỡ trong các bữa
ăn hàng ngày.
Nhà tôi khi làm Tekka có đủ trai, gái, dâu, cháu tham gia thái và xào.
Ai thái cũng nhỏ, không dập nát. Làm trong chánh niệm hoặc thi thoảng nói
chuyện vui. Làm Tekka, món ăn bổ dưỡng được coi là thượng phẩm của thực
dưỡng (thực phẩm quý tộc) làm ẩu sẽ giảm chất lượng. Để thái thật mỏng,
thật nhỏ, không bị dập nát, thái ngang rồi thái dọc, người thái không tĩnh tâm
chuyên chú vào việc thái, không làm được thậm chí thái vào cả móng tay,
đứt tay. Nếu làm đúng cách, không hề bị mất sức và cảm nhận sự thoải mái
vì mải để tâm vào công việc, vọng tưởng không còn có cơ hội len vào. Làm
một lần, hạn sử dụng 1 năm, ăn bữa nào thấy ngay tác dụng bữa đó, dễ ăn,
ngon miệng, ăn với gì cũng được: cơm, cháo, bột, bánh mỳ, bánh bao…,
thậm chí lúc mệt mỏi chỉ cần ngậm một ít bằng hạt mơ sẽ hồi sức nhanh, đi
mua đắt mất 5, 6 lần. Ai không học để làm Tekka thật là hơi dại đấy. Làm
đến lần thứ 4, con gái và cháu tôi nói với nhau : “Lúc nào buồn, gặp sự cố
làm Tekka tốt đấy”.
8/ Kho và xào rau củ quả :
Xào, kho rau củ đúng cách quan trọng thứ hai sau nấu cơm gạo lứt và
rang giã muối vừng. Dùng lửa và muối để khử âm, rút ngọt tự nhiên từ rau
củ ra, không may mua nhầm phải thực phẩm xấu sẽ hóa giải được ít nhiều.
105
Khi bạn nấu đúng ăn vào thấy khỏe, vui vẻ ngay. Nấu sai cũng được phản
ánh ngược lại để điều chỉnh. Về nguyên tắc chung là giống nhau, thái xào
riêng từng thứ, ướp muối trước hoặc khi nấu đối với tất cả vật liệu. Thái nhỏ,
không làm dập nát, chủ yếu để muối, lửa đi đều vào thực phẩm và không
làm mất chất của vật liệu. Quan trọng bậc nhất là biết cách ngửi mùi trước
và sau khi nấu đã khử hết âm chưa? Đây mới là cái giỏi của người nấu ăn
thực dưỡng.
a. Món xào : Thái chỉ hoặc lát mỏng, xào từ 1 loại đến 5 loại, thông thường
kết hợp 3 loại như : ngưu bàng, cà rốt, củ sen hoặc bí đỏ, đỗ đỏ, rong phổ tai
- đỗ cô ve, củ cải… Dù xào riêng hay chung đều nên ướp muối để tiết nước
ngọt ra. Bạn không nhất thiết phải dùng dầu. Khi nước đã tiết ra, đặt lên bếp,
dùng lửa nhỏ xào cạn nêm tamari là ăn được, ví dụ như khi xào riêng món:
cà rốt, su su, đỗ cô ve, đậu bắp, rau muống…
b/ Món kho : Vẫn cách làm trên, thái khẩu mía, quân cờ. Xào từng loại riêng
rồi trộn chung, đổ nước dùng rong phổ tai vào ninh cạn hoặc còn lại ít nước
thì nêm tamari, rưới dầu vừng xóc cả nồi cho đều là được. Dùng mỳ căn thay
Protein hoặc phù trúc (tàu hũ ki), hạn chế giò chay.
9/ Bánh cuốn chay thực dưỡng và nước chấm. (bánh cuốn tráng bằng
chảo chống dính)
Món này là của tôi, không phải cô Yuri dạy. Tôi hòa bột gạo lứt + bột
mỳ + bột sắn dây + chút dầu vừng (tỷ lệ từ 40% - 50% bột sắn dây) để vài
giờ cho bột nở, đặc, lỏng, mỏng dầy tùy bạn. Đặt chảo chống dính lên bếp,
nóng chảo, láng dầu vừng, đổ bột và cầm chảo lên lắc bột đều mặt chảo, đậy
kín vung, lửa vừa hoặc nhỏ (không đậy vung sẽ thành bánh rán), bột chín đổ
nhân, dùng đũa cuộn tròn gắp ra đĩa ăn nóng với nước dấm pha.
Nhân bánh : Mộc nhĩ, cà rốt, phù trúc (hoặc giò chay) thái nhỏ, xào chín với
chút dầu vừng, muối…
106
Nước chấm. : Nước mơ mặn ngọt (tôi ngâm mơ với đường, muối để 3 năm
mới dùng) tamari và nước sôi nguội.
10/ Lá ngải cứu tần dong biển Wakame với gói thuốc bắc tần gà và táo đỏ.
Món này do con dâu tôi tự nghĩ ra, ăn ngon, không xảy ra vấn đề gì tôi đưa
vào thực đơn thực dưỡng.
Lá ngải sơ chế rửa sạch, ráo nước xào với dầu vừng, thấy được cho
tiếp gói tần gà, táo đỏ (nên cho vừa đủ, nhiều taó đỏ sẽ bị ngọt quá), đổ ngập
nước ninh 60’. Gần được cho rong Wakame vào (rong đã ngâm nước cho
nở) rong phải ngập trong nước. Đun thêm cho đến khi rong chín mềm, nêm
muối vừa ăn, bắc xuống ăn nóng.
Từ 10 món đại diện này, với thiên chức phụ nữ (theo quan niệm âm
dương phụ nữ vào bếp, nấu ăn sẽ hợp trật tự vũ trụ hơn), bạn sẽ phát triển ra
nhiều món với nhỏ lửa, muối biển, thảo mộc tự nhiên để trở về với CHÍNH
BẠN.
IV/ PHẦN KẾT :
Sự tương đồng giữa đạo Phật – Thực dưỡng đạo:
Tôi đánh giá cao thầy cô An Đô qua đức độ và tài năng quý hiếm của
hai người được bộc lộ từ phong thái, nét mặt, cách giao tiếp, cách giảng dạy
giản dị, dễ hiểu nhưng chứa đựng cả một tuệ giác được dầy công vun đắp,
kết hợp giữa học và hành.
Giữa lúc khắp nơi trên thế giới nhan nhản đại gia, doanh thương dư
thừa tiền nhưng đều thiếu sức khỏe và sự bình an thì với khả năng đặc biệt,
Ông giảng về lý thuyết, Bà trực tiếp nấu những món ăn mà bất cứ ai được ăn
đều thấy vui - khỏe, nhận được ngay kết quả sau khi ăn. Thày cô có thể kiếm
rất nhiều tiền ở bất cứ đâu trên thế giới, mở một nhà hàng thậm chí Công ty,
đào tạo nhân viên và ngồi thu bạc tỷ. Nhưng với một hành lý, quần áo tư
trang cá nhân thì ít mà dụng cụ giảng dạy, thực phẩm, đồ bếp nấu ăn thì có lẽ
nặng hơn rất nhiều để xuất ngoại, kế thừa, nối tiếp sự nghiệp vĩ đại của tiên
107
sinh, giáo sư Ohsawa – người có công làm sống lại và phát triển THỰC
DƯỠNG ĐẠO để cứu vớt nhân quần. Không thể tính nổi, đến giờ đã có bao
nhiêu người được cứu sống từ gạo lứt muối vừng, trong đó có tôi. Tuy vậy
vẫn có những người còn đang dở dang, thậm chí âm án, (số người này còn
nhiều hơn rất nhiều số người có kết quả) thì việc hiểu được đúng phương
pháp này là vô cùng quan trọng. Thầy cô An Đô xuất hiện như một vị cứu
tinh, chí ít với ai tâm huyết với thực dưỡng.
Gặp được Thầy cô An Đô sau khóa học 7 ngày, tôi như người đang lạc
trong rừng, chưa tìm được đường về nhà, sống tạm nhờ quả rừng, nước suối
không loại trừ sẽ ăn nhầm quả độc. Nay có người chỉ đường dẫn lối dù
“đường về nhà” còn xa lắm, nhưng tôi đã nhìn thấy hướng đi và sẽ lên
đường, cho dù trên đường đi chắc chắn còn gặp nhiều khó khăn, gian nan
chướng ngại.
Rất nhiều thắc mắc trong tôi được thầy An Đô tháo gỡ. Tại sao thực
dưỡng coi ĐƯỜNG và ĐỒ NGỌT như kẻ thù? Tại sao phải NHAI KỸ? Tại
sao không nên ăn: cà chua, măng, giá đỗ, khoai tây, nấm các loại và không
được ăn đồ tái, rau, củ sống trong khi Yoga lại khuyến khích ăn sống không
qua nấu nướng? Nói riêng về nấm, bản thân tôi đã hai lần bị ngộ độc (một
lần ăn ruốc chân nấm, một lần nấm khô). Cô Yuri chỉ dùng nấm khô với
lượng ít (3 xuất ăn/nấm) và khử bằng cách rửa nhanh, cắt bỏ chân, luộc nấm
với chút muối, nước luộc làm nước dùng, nấm vắt khô ướp tamari, chờ
ngấm, xào khô mới dùng. Cô cho biết, sau động đất sóng thần, người Nhật
không ăn nấm nữa. Xin đừng coi thường thực phẩm cỏ cây. Ngày xưa, người
ta giết người hàng loạt bằng cho ăn lạc mốc, ép uống nước lá ngón.
Tôi thích cách giảng bài của thầy An Đô. Thầy thường đưa ra câu hỏi,
có câu không trả lời để tự mọi người động não suy nghĩ. “Học theo thầy, có
câu nào tôi chưa chia sẻ, bạn suy nghĩ thêm nhé”. Hãy đưa mọi vấn đề về
âm dương để suy xét, sẽ rất thú vị và đơn giản dễ phổ cập.
108
Không biết ĐƯỜNG và ĐỒ NGỌT tệ hại đến mức nào nhưng từ ngày
ăn thực dưỡng, càng ăn kỹ lưỡng, phản ứng càng nhanh, ăn ngọt bữa nào là
đau đầu, nhức mắt, đau người, uể oải liền, mức độ nặng nhẹ tỷ lệ thuận với
lượng ăn vào. Dùng đồ ngọt khỏi miệng là cảm nhận ngay miệng có nhớt,
chua, đắng miệng, lưỡi phủ rêu trắng, khạc nhổ có đờm, dãi. Tôi thường
kiểm tra sức khỏe hàng ngày qua miệng, mắt, răng, tóc, chữ viết, làn da,
môi. Ngủ dậy thấy miệng ngọt, mắt mở to, răng trắng, tóc mượt, chữ viết
đẹp, dễ đọc, da nhẵn, môi hồng, đưa lưỡi lên môi thấy môi ngọt là đang tốt,
ăn đúng. Ngược lại các dấu hiệu trên là có vấn đề. Kiểm tra sức khỏe ăn
uống đúng sai trong ngày, dễ và nhanh nhất là xem xét biểu hiện ở miệng,
lưỡi và môi. Dù bạn không để ý, nó vẫn biểu hiện ra. Sáng ngủ dậy, thấy
ngay miệng đắng, răng chuyển màu xám hoặc vàng, nếm môi thấy nhạt đớ
(rất khó gọi tên). Nhưng việc điều chỉnh lại không hề đơn giản. Nó chỉ xảy
ra trong hai trường hợp: hoặc bạn thật tỉnh táo nghiêm túc với sức khỏe, cẩn
trọng trong ăn uống hoặc bạn đã nhận ra tình trạng xấu để có động cơ điều
chỉnh kịp thời. Sức khỏe vẫn tàm tạm thì còn chủ quan. Đại đa số chúng ta
hiện nay đang rơi vào tình trạng nửa vời này.
Tôi thắc mắc cả việc tại sao không được nấu cơm bằng nồi cơm điện;
tại sao không được dùng bột nêm khác ngoài muối tự nhiên? Đa số chúng ta
chưa chấp nhận ngay được điều này để từ bỏ. Thầy An Đô với phương pháp
giảng dạy có bài bản, chứng minh bằng công thức hóa học để thuyết phục
những người chỉ tin vào khoa học. Đơn giản, những gì đã qua tinh chế, thêm
phụ gia khác vào đều không giữ bản chất nguyên thủy và đã bị biến đổi chất,
làm thay đổi quá trình cân bằng âm dương của đồ ăn. Chất bổ dưỡng của
cơm sẽ thay đổi ít nhiều từ cách dùng lửa, dùng nồi, dùng nước…
Rất nhiều người biết trái đất tự quay quanh nó và quay quanh mặt trời,
biểu hiện rõ nhất là ngày và đêm. Nhưng ít ai hiểu cặn kẽ nguyên nhân trái
đất quay quanh mà nhà cửa vẫn đứng nguyên một chỗ. Vấn đề nằm ở chỗ
109
lực đẩy (ly tâm) – A, và lực hút (hướng tâm) – D qua lại tương tác lẫn nhau.
Cái này bị đẩy ra lập tức có cái kia kéo lại mà giữ được thăng bằng. Ví dụ :
răng cứng được mọc lên từ lợi mềm, thuyền to nặng, nổi trên nước… cũng
thuộc quy luật kết hợp âm dương giao hòa, giao động, nâng đỡ lẫn nhau.
Tôi có 8 năm sống ở Thái Nguyên, lên đồi chặt củi đủ loại cây, loại quả
mọc hoang không cần sự chăm sóc tưới bón của con người mà vẫn bốn mùa
xanh mướt. Sáu năm làm nông dân thực thụ đi đào đất đắp đê, tôi còn nhớ
lắm trong lòng đất các thứ lớp được đào lên: đất màu, đất sét rồi đến lớp cát
đen, cát sỏi, sỏi ống, bùn và nước… Những ngôi nhà cao tầng được xây trên
mặt đất nhưng lại nằm trên nước mà không bị nghiêng, đổ cũng là nhờ có sự
tương tác qua lại của A và D.
Tìm hiểu những điều này không vô ích đâu bạn ạ, từ sự lớn lao kỳ bí
của vũ trụ đến sự nhỏ bé trong từng miếng ăn, ta sẽ nhận ra sự khờ dại, chật
hẹp của mình. Trật tự tự nhiên vốn bao la vĩ đại là vậy, còn ta thì giam cầm
trong sự hưởng thụ tiện nghi, vật chất, hơn thua thường tình rồi để nó biến
mình thành nô lệ.
Tôi thắc mắc tại sao với thâm niên ăn thực dưỡng 40 năm, thầy cô An
Đô vẫn trân trọng nâng hai tay để ngửi xem ngưu bàng Ngọc Trâm nấu 10
giờ với nước mơ chua thực dưỡng đã khử hết âm để chuyển sang ngọt tự
nhiên chưa. Hành vi này tác động vào tôi nhiều lắm. Người nào thực tâm
muốn đến với thực dưỡng để thay đổi cuộc đời và chữa bệnh tận gốc đừng
bỏ qua nhưng chi tiết tưởng như nhỏ bé này. Dùng lửa, muối để khử âm,
dương hóa thực phẩm đồng nghĩa với việc làm thay đổi tính chất bất ổn đưa
về bình ổn.
Thực tình, tôi chưa hiểu sâu sắc lắm về uống ít nước và tác dụng của
gạo lứt kết hợp với muối vừng, cho nên ăn vài lần gạo trắng xen kẽ. Sách
thực dưỡng tuy có bảng so sánh các chất dinh dưỡng giữa gạo lứt và gạo
trắng nhưng cách đơn giản của thầy An Đô giúp tôi dễ hiểu hơn. Gạo lứt
110
khác với gạo trắng ở lớp vỏ cám và mầm gạo. Chính những thành phần đó
mới đủ các vi chất cần thiết cho cơ thể, đặc biệt là não bộ. Hạt gạo lứt rơi
xuống đất ẩm sẽ nảy mầm (sự sống), gạo trắng thì không có khả năng này.
Tinh bột gạo lứt kết hợp với men nước bọt nhờ nhai kỹ sẽ chuyển hóa thành
Prôtein; nhai dối tinh bột không được phân hủy lại sinh a xít dư trong dạ dầy.
Khóa học có 7 ngày, vừa lý thuyết vừa thực hành mà thầy cô đã trao truyền
quá nhiều kiến thức về thực dưỡng để giúp tôi cần tiếp tục duy trì NHAI KỸ
và thận trọng, kỹ lưỡng hơn trong nấu ăn, uống càng ít nước càng tốt, đặc
biệt với người đang yếu có bệnh thuộc âm.
Giai đoạn này, kéo dài đã 2 năm, tôi thấy yếu hẳn và không còn dẻo dai
như trước, nhưng TÂM BỒ ĐỀ không mảy may thối chuyển mà còn mạnh
mẽ hơn vì : “Không tu không được, ngừng tu, cuộc sống sẽ khó khăn gấp
bội”. Liên tục gặp vấn đề trục trặc về sức khỏe, nào bệnh mất ngủ, choáng
tái phát, ngộ độc nấm, đường ruột, đau thần kinh tay trái không cử động
được và bệnh ngứa chưa rõ nguyên nhân do ăn HBL (có người phản ứng
thải độc ngứa cả năm), hay do ăn uống nhiều kháng sinh để bắn tia lade
chữa vết chàm đã kéo dài sang tháng thứ tư, hiện vẫn đang làm khổ tôi.
Có câu “ngứa ghẻ đòn ghen”, ngứa liên tục ngày đêm, ngứa nhất hai
lòng bàn tay, nhất là sau khi rửa nước lạnh hoặc cầm nặng cọ sát với một vật
gì đó. Mụn độc ngứa phát ra ở huyệt dũng tuyền, ngứa râm ran, ngứa nhiều
lúc gãi đỏ cả một vùng cơ thể, ngứa khắp mọi nơi : đầu, tai, khóe mắt, vùng
kín. Tháng đầu tôi còn uống thuốc dị ứng, sau không uống thuốc gì, ăn sắn
dây với mơ thực dưỡng để thải độc và có nhiều lúc không chịu nổi, tôi dừng
viết tài liệu, đi ngồi thiền. Thay cho việc gãi, xoa, khó chịu, bất lực với ngứa,
bị nó hành hạ đủ kiểu, tôi kiên gan quay lại quan sát thật sâu từng chỗ ngứa
xem nó di chuyển hoạt động thế nào : “Ngứa vai này, đi xuống cổ này” và
rồi ngứa thua tôi. Lẽ tất nhiên ngứa chỉ đầu hàng lúc đó, sau lại ngứa. Nhưng
tôi không quan tâm nữa. Để làm được điều này là nhờ tôi học được từ ngài
111
Ohsawa qua lời kể của thầy An Đô về bệnh tật hành hạ suốt 60 ngày tuyệt
thực. Ngài đã nhịn ăn mà còn khổ vậy, nếu ăn tạp vào sẽ ra sao? So với
Ngài, bệnh của tôi không có gì đáng kể. Đủ bệnh hành hạ về thân xác nhưng
Ngài vẫn làm việc và chạm tay được vào đại tự nhiên.
Cái chết đột ngột của Ngài, có sách viết là do thử thuốc trường sinh, y
học cho là nhồi máu cơ tim. Nhưng bà Lima kể lại trong nhật ký là do một
loại côn trùng chui vào tai, có lần dùng tay đỡ đầu cho chồng, bà thấy lúc
nhúc ở trong đầu. Thầy An Đô thấy đây là tư liệu quý giá và hứa sẽ tìm hiểu
thật kỹ, để tìm ra lý do chính xác Ngài ra đi. Còn tôi lại liên tưởng tới mụn
ghẻ mặt người của quốc sư Ngộ Đạt trong Kinh Thủy Sám Pháp. Sự báo oán
biểu hiện sau 300 năm. Theo duy thức học, tàng thức (có trong não bộ) là
nơi chứa góp toàn bộ hạt giống đủ loại của con người từ vô lượng kiếp. Mỗi
loại hạt giống khi đủ duyên (điều kiện) sẽ biểu hiện. Quốc sư Ngộ Đạt đã ân
hận, sám hối, chịu đựng mọi sự hành hạ của mụn ghẻ tìm đến núi Thủy Lũng
mà được chữa khỏi. Ngài Ohsawa, sau khi với nghị lực phi thường, tuyệt
thực để trải nghiệm cứu đời đã thốt lên : “Có cảm giác mọi tội lỗi được rửa
sạch”. Điều này vô cùng vi tế phải dùng tuệ giác của bậc chân tu mà quán
sát. Tiếc rằng hiện nay có quá nhiều xuất sĩ, cư sĩ, phật tử tu Phật chưa đúng
đường lối, không lấy giới làm thầy, lúc gặp bệnh tật, khó khăn lại cho là ĐỔ
NGHIỆP. Mình làm mình chịu chứ nào có ai đổ cho mình. Nghĩ như vậy là
trái với luật NHÂN QUẢ và phủ nhận giá trị cao cả của Phật pháp: TU LÀ
CHUYỂN NGHIỆP. Nếu không hiểu được vậy thì tu cách mấy cũng uổng
công. Đức Phật cũng nhập niết bàn sau khi ăn nấm độc. Sự ra đi của những
bậc vĩ nhân có thể do sơ xuất, có thể do cố tình để chứng minh với hậu thế
rằng, chính các Ngài cũng không nằm ngoài quy luật của trật tự vũ trụ và
luật NHÂN QUẢ, các thế hệ sau cần tiếp tục trải nghiệm để hoàn tất chân sự
nghiệp : “Tìm về bản năng thật của con người”.
112
Tôi học thầy An Đô qua hình ảnh “sống nơi có tuyết lạnh” để rèn giũa
sự chịu đựng. Thầy nói đúng, sống ỷ lại vào tiện nghi, sức đề kháng của cơ
thể sẽ yếu và mất đi, bệnh tật càng có dịp tìm đến. Tôi không dùng điều hòa,
quạt điện dùng số nhỏ nhất. Bây giờ tôi đang tập không dùng cả quạt, nóng
không kêu, xem cơ thể chịu đựng đến đâu?
Thời gian này tôi khá bận, thời gian biểu luôn kín đặc cả tuần: hướng
dẫn nhóm thiền, kết hợp ăn gạo lứt muối vừng, trong nhóm có cháu phải bỏ
học đại học vì bệnh tâm thần phân liệt ảo thanh (lúc nào trong đầu cũng có
tiếng chửi). Tôi thấy quá quan ngại cho cuộc sống hiện nay, người chết già
tự nhiên rất hiếm, chủ yếu ra đi vì ung thư, tai biến, tiểu đường… Trước khi
đi đều làm bạn với giường chiếu nhiều năm và kéo theo bao công sức, tiền
của của cả cá nhân, gia đình và xã hội. Trẻ nhỏ mắc bệnh tự kỷ, thanh niên
mắc bệnh trầm cảm, cách sống lai căng từ quần áo, tóc tai đến ngôn ngữ.
Mới tối qua, vô tình bật ti vi mà tôi nghe quá nhiều lần hai từ: “chuẩn men”
và “gay”, nghe mãi rồi cũng hiểu. Thực dưỡng và đạo Phật gọi đó là biến
thái, lệch lạc âm dương. Chính vì quan ngại này mà tôi quyết tâm muốn giúp
3 cháu chữa bệnh, nhưng cháu thì bố mẹ ủng hộ, bản thân cháu là trò muốn
chữa bệnh nhưng không nghe theo lời thầy, cháu thì đã ngây ngây dại dại
nhưng bố mẹ chỉ tin theo khoa học. Cháu thì bố mẹ phản đối thực dưỡng, ở
tỉnh khác khó quản lý nên giữa chừng bỏ cuộc. Giữa lúc thời gian eo hẹp,
sức khỏe giảm sút thì mẹ già ở bên Mỹ viên tịch. Tôi đã hứa với mẹ là sẽ cư
tang mẹ đủ 100 ngày. Nếu không gặp được thầy cô An Đô, hiểu kỹ hơn về
âm dương để biết cách nấu ăn và quan trọng là nuôi được ý chí để cắt bỏ
những thực phẩm độc hại lấy lại sức khỏe và niềm tin, tôi khó vượt qua lúc
này. Nhưng gặp được quý nhân, lại phát sinh hai việc chiếm nhiều thời gian
công sức nhất: thực hành nấu ăn và viết tài liệu thu hoạch, sang lại đĩa. Dù
vậy, tôi vẫn cố gắng làm tròn mọi việc, chỉ tạm thời ngưng liên lạc với họ
113
hàng, bạn hữu để viết xong tài liệu, làm quà kịp tặng gia đình con trai và bạn
bè ở trong Nam nhân dịp vào thăm ngày 12/6 này và tôi hạnh phúc.
Dùng KHOA HỌC để giảng về THỰC DƯỠNG nhưng thầy An Đô
hay nhắc đến đạo Phật, TÍN NGƯỠNG, THIỀN, TÍNH KHÔNG, KINH
BÁT NHÃ VÀ BẤT NHỊ. Bản thân tôi cũng thấy có sự tương đồng gắn kết
giữa hai con đường (ĐẠO) này. Chúng ta cần phân biệt giữa thực dưỡng và
thực dưỡng Đạo gần giống như TIỂU THỪA – ĐẠI THỪA, cỗ xe nhỏ và cỗ
xe lớn, thực ra chúng là một, ví như hạt cát và sa mạc, đại dương và sóng.
Thầy An Đô, ngày thứ tư có đưa ra câu : “NHẬP MÔN BẤT NHỊ”. Tôi hiểu
là VÀO CỬA BẤT NHỊ - BẤT NHỊ là không có hai, cách gọi khác của
TOÀN THỂ, NHẤT NGUYÊN, TOÀN SINH, NHẤT NHƯ… chính là một
trong tất cả, tất cả trong một và cũng là vô ngã. Nói ngay thế này nhiều
người khó hiểu, khó chấp nhận vì hiểu được điều này chính là GIÁC NGỘ.
Không có hai, nghĩa là chỉ có một, một lại là tất cả. Nếu đã không có hai thì
sẽ không có: sinh-diệt, đúng-sai, được-mất, bẩn-sạch… Quan trọng bậc nhất
là không có chủ thể, khách thể: con người không do tạo hóa hay bất cứ một
thế lực nào sinh ra, không có sở cầu, sở đắc. Chính vì lý do này, thầy An Đô
đã gợi ý, nhắc đi nhắc lại nhiều lần : “Tính không trong kinh Bát Nhã
không phải là cái không của khoa học (rạch ròi cụ thể là không có gì). Và
tín ngưỡng, thiền theo triết lý của Ngài Ohsawa không giống như nhiều
người quan niệm và đi theo hiện nay”. Theo tôi, đây là điều chúng ta cần
suy nghĩ.
6h30’ ngày 21/5/2014 chợt lóe trong suy nghĩ của tôi, Ngài Ohsawa
dùng hình xoáy ốc để diễn tả mọi phương diện của trật tự vũ trụ, phải chăng
Ngài muốn chứng minh khám phá của mình là : Toàn bộ bí mật của con
người, cuộc sống, vũ trụ đều hòa quyện trong nhau và trong vòng xoáy ốc
đó không có sự phân biệt cao thấp, trước sau, ngừng nghỉ… mà là một sự
liên tục vận động tổng hòa tương tác, hỗ trợ lẫn nhau được Ngài đơn giản
114
hóa với hai từ Âm Dương. Là người vừa tu Phật, ngồi thiền và ăn thực
dưỡng, thêm một niềm tin sức mạnh để tôi vững bước trên con đường đã và
đang đi. Bằng pháp môn tu chánh niệm (thân ở đâu tâm ở đó) và chỉ nhận
diện đơn thuần (không tác ý, phân tích, kẹt vào nó) đối với tất cả nội, ngoại
cảnh đến với ta trong đời sống hàng ngày, ta có thể thay đổi tình thế từ THỤ
ĐỘNG sang CHỦ ĐỘNG. Đừng dại dột đưa cuộc đời mình vào dòng xoáy
hỗn tạp kia mà chịu sự chìm nổi của nó. Hãy làm người khách lữ hành, vô tư
đứng trên bờ nhìn ngắm mà hưởng lạc, cưỡi trên VÔ THƯỜNG mà rong
chơi ba cõi.
Sau khóa học, tôi đúc kết lại cho mình dưới góc độ âm dương là thực
dưỡng. Phân lượng rõ ràng đâu là thức ăn chính (ngũ cốc), đâu là thức ăn
phụ (rau, củ, quả). Nếu ăn được theo nguyên tắc 3/1 – 4/1 – 5/1 (5 miếng
chính, 1 miếng phụ - 5 cơm/1 rau), suốt đời nên ăn gạo lứt, ngũ cốc lứt và
NHAI KỸ là an toàn nhất. Trường hợp khó thực hiện thì thật lưu ý nấu ăn
cân bằng âm dương bằng lửa, muối biển, tuyệt đối không sử dụng hóa chất.
Nếu trước kia ăn thực dưỡng theo sách hướng dẫn, tôi hiểu phiến diện, nói
và thực hành theo sách nên dễ mắc sai phạm, tự gánh chịu hậu quả thì với
cách giảng dạy của thầy AnĐô, học đến đâu, hành đến đấy. Từ chính trải
nghiệm thực tế của bản thân, dần dần tôi hiểu ra và có thể tự điều chỉnh,
không còn câu hỏi luôn quanh quẩn trong đầu: “Ăn gì và ăn thứ này có
được không?”. Bây giờ ăn gì là do mình, muốn mạnh khỏe, sống, vui có trí
tuệ thì đừng để THẦN KHẨU nó sai khiến. Tuy nhiên, không đơn giản đâu!
Nếu đã trót ăn thì vui vẻ chấp nhận hậu quả, nhưng sau đó phải biết rút kinh
nghiệm từ món ăn đó. Đối với âm dương, mùi vị tôi đã tạm nhận ra quy luật
của nó. Âm dương được phân định rõ ràng từ cực D đến cực A là cả một quá
trình biến đổi tính chất phức tạp khác nhau theo từng cấp độ. Ví dụ : về thời
tiết, tính từ cực A – cực âm : Đại oi bức nóng nực (đại nhiệt) – nóng – nóng
vừa – mát – lạnh – cực lạnh (đại hàn). Nóng thuộc D, nóng vừa là thuận
115
dương, dương tốt. Nóng rát đến đại nóng là dương xấu, vì vậy thịnh dương
thường phát cuồng, hung ác. Mát là cân bằng giữa âm và dương. Lạnh vừa
(âm thuận, tốt), cực lạnh (đại hàn) âm xấu. Thịnh âm rơi vào trầm cảm, bế
tắc, ngu đần. Từ ví dụ này mà suy ra sức khỏe, trí tuệ. Người ốm yếu, đa sầu,
đa cảm, có bệnh về lục phủ, béo phì, chậm chạp… thuộc âm. Người mang
bệnh âm, thường hay ăn đồ âm: ngọt, nước đá, đồ sống sít thì theo thời gian
mà đến chỗ thịnh âm và ngược lại. Nguy hiểm, khó chữa là người A kiệt D
suy hoặc AD lệch lạc do bạo ăn, bạo uống toàn đồ thịnh âm, thịnh dương lẫn
lộn và thường xuyên. Học âm dương mà hồ đồ, hiểu nông cạn, công thức
cứng nhắc thì vô cùng nguy hiểm. A + A = D; A + D = cân bằng? Lúc khát
nước, đói mệt tưởng ăn kem lạnh, đồ ngọt cho tỉnh người có biết đâu A gặp
A chuyển D gây cảm giác ảo, thấy tỉnh người mát ruột, nhưng là D xấu để
tác hại về sau. D + D = A như vận động viên nước rút, về đích bị ngất vì kiệt
sức. Cũng là vị ngọt, chát, chua nhưng lại rất khác nhau. Có vị ngọt làm ta
khỏe người, minh mẫn, giọng nói trong trẻo, tính tình hiền hòa, trí tuệ sáng
suốt đó là vị ngọt tự nhiên, được tiết ra từ gạo lứt + muối vừng + men nước
bọt. Có vị ngọt làm miệng đắng, sinh đờm dãi, gây đau đầu, mất ý thức đó là
vị ngọt của ĐƯỜNG, MỲ CHÍNH và ĐẠM ĐỘNG VẬT (không tin mời
bạn thử). Đây là sự so sánh các loại với nhau, được sắp xếp theo thứ tự
tương đối từ ÂM (hơn) đến DƯƠNG (hơn) : RƯỢU – NƯỚC – TRÁI CÂY
– SỮA – RONG BIỂN – RAU CỦ - ĐẬU – HẠT CỐC – CÁ – THỊT –
TRỨNG - ▲ giúp bạn lựa chọn đồ ăn thích hợp với mình.
Chính vì nhờ khóa học giúp tôi nhận ra những điều quý giá này. Nó
xảy ra hàng ngày, hàng giờ nhưng lại bị xem nhẹ, coi thường nên mới cố
gắng viết tài liệu để nhanh gửi đến mọi người một thông điệp : “Chúng ta là
một tiểu vũ trụ, nằm trong quy luật bất biến của đại vũ trụ. Vì vậy giữa
chúng ta và vũ trụ có một mối liên quan mật thiết, vũ trụ tác động đến ta
và ta cũng tác động lại vũ trụ bằng chính cách sống thuận hay nghịch của
116
mình. Dù ta là ai cũng không ra khỏi quy luật vô thường và nhân quả của
đạo Phật và sự biến dịch, thay đổi, biến chất của âm dương đối với việc ăn
uống hàng ngày”.Nhưng tại sao đại đa số lại không có khả năng nhận ra
điều này? Đức Phật dạy là do VÔ MINH (không nhìn thấy sự thật). Ngài
Ohsawa cho biết là tại có ĐÁM MÂY CHE PHỦ. Đối với đạo Phật muốn
MINH TÂM KIẾN TÁNH – có tâm sáng để thấy biết CHÂN NHƯ BẢN
THỂ (con người là ai, từ đâu sinh ra và chết đi về đâu?). Mình muốn có
cuộc sống hạnh phúc đích thực lâu dài, có khả năng làm chủ cuộc đời của
chính mình, thì việc đầu tiên mình phải biết “Mình là ai?”. Trả lời được câu
này, bước tiếp theo mình sẽ nhận ra phải sống thế nào? Nhưng thử hỏi có
mấy ai thực sự quan tâm đến điều này? Tất cả chúng ta đều đang thả nổi
cuộc đời và lặn ngụp theo nó mà điều dở nhất là ta không có khả năng nhận
ra. Ngài Ohsawa sau khi nhận ra: Quy luật của trật tự tự nhiên đã hướng
chúng ta theo một con đường khác: THỰC DƯỠNG ĐẠO. Ngài muốn
thông qua ăn uống để tiếp cận con người, vì ai sống mà chẳng tránh khỏi
việc ăn uống. Cũng như PMLM đưa đạo Phật đi vào cuộc đời (nhập thế)
bằng pháp môn THỞ VÀ CƯỜI. “Thực ra phép quán niệm hơi thở đã có
từ thời đức Phật. Thiền sư Nhất Hạnh có công cải cách và quảng bá
rộng rãi ra thế giới”. Có trải qua thực hành mới thấy dù ăn thực dưỡng,
dù thở và cười đều không dễ dàng, đơn giản với người đoản trí và trong
thực dưỡng có Phật pháp, trong Phật pháp có thực dưỡng. Nhưng mấy ai
ý thức được giá trị thật của đời sống, để tìm mọi cách phá bức màn vô
minh hoặc vén đám mây che phủ mà đi tìm lại chính mình? Muốn hiểu kỹ
về thực dưỡng Đạo, bạn nên tìm xem đủ 14 đĩa lý thuyết + thực hành của
khóa học với 3 đĩa thầy An Đô giảng ở Hà Giang, nhà gạo lứt Diệu Minh,
hướng dẫn cách nấu cơm gạo lứt, cách rang, giã muối vừng chuẩn. Tìm đọc
sách thực dưỡng: Cỏ thiêng, Phổ chiếu, Thức ăn quyết định số phận của
bạn, Làm thế nào để sống vui… Cùng dịp này báo Tuổi trẻ đời sống có
117
đăng nhiều kỳ bài nói chuyện về hạnh phúc của TS. Nhất Hạnh do nhà báo
Hoàng Anh sướng chủ biên, có đề cập tới vấn đề ăn, dưới cái nhìn của đạo
Phật (số 21 + 22). Qua đó, bạn sẽ nhận ra tầm quan trọng của việc ăn uống
đúng cách, khiến cả ĐỜI và ĐẠO đều phải quan tâm, nhắc nhở. Chúng ta
chẳng thể sống ngoài quy luật vũ trụ, tôi rất thích câu nói của Tổ Lâm Tế
mắng đệ tử: “Đồ ngu! Ra khỏi ba cõi thì đi đâu?”. Ba cõi ở đây chúng ta
có thể hiểu : TRÊN (cõi chư thiên, cõi trời, niết bàn, thượng đế, cõi vô sắc,
cõi vô hình và cái đầu của chúng ta), GIỮA (cõi ta bà, cõi người và vạn vật
cùng chung sống, cõi trần thế, cõi dục giới, cõi hữu hình và là phần ngực
của cơ thể), DƯỚI (cõi âm, cõi sắc giới, cõi vô hình, cõi địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh và là phần chân của con người). Thử hỏi thiếu đi một phần của cõi,
có là con người và vũ trụ hoàn chỉnh nữa không? Đạo Phật, Thực dưỡng đạo
đều đã chứng ngộ nhận ra quy luật này và chỉ bầy lại cho chúng ta; chúng ta
chưa hiểu là do VÔ MINH và ĐÁM MÂY CHE PHỦ. Tính đến nay đã có
rất nhiều người đã và đang nhận ra sự thật này; người nào chưa hiểu là đang
mắc kẹt vào BẢN NGÃ.
Hiện nay tôi thấy khá nhiều người đang cầu mong vãng sanh về cõi
Tây phương để thoát khổ. Ai cho rằng cõi Tây phương là có thật hay không
có đều trật. Cõi Tây phương luôn có mặt trong 3 cõi, và chỉ biểu hiện khi
đồng nhất là một với nó. Thực dưỡng Đạo có khả năng giúp bạn điều này:
thoát khổ và có cuộc sống bình an, mạnh khỏe ngay ở đời hiện tại này. Nếu
bạn thực tâm tha thiết muốn có một sức khỏe tốt, một nhân sinh quan chân
chính, bạn chỉ cần đầu tư quỹ thời gian là 2 tuần ăn cơm gạo lứt muối vừng,
không dùng hóa chất, không ăn đồ ngọt (đường,hoa quả, bánh kẹo…) với
một tâm thái tin tưởng không sợ gầy và NHAI KỸ, chắc chắn ít nhiều sẽ tỏ
ngộ thực hư. Nhưng bạn cần đề phòng cảnh giác thật cao với TẬP KHÍ - đó
là thói quen đã được hình thành, ăn sâu bám rễ vào con người của chính bạn.
118
Chính vì tên giặc đại nguy hiểm này mà bạn cần cố gắng đi tiếp để loại bỏ
dần những cái đã làm hại bạn mà bạn chưa có cơ hội để nhận mặt.
Tôi đã chứng kiến khá nhiều vị xuất gia, cư sĩ, phật tử lúc đầu tâm đạo
tràn đầy, tu tập thành tâm có chút kết quả. Nhưng do chủ quan với TẬP KHÍ
đã để công việc kéo vào quỹ đạo đời sống, từ đó phát sinh hệ lụy, dính mắc
vào tiền tài, danh vọng không sao rút chân ra được nữa và trở thành máy nói.
Từ tâm thế chủ động chuyển sang thụ động, đi tìm bình an giải thoát lại rơi
vào nô lệ, bất an. Nguy hiểm hơn là nhiều người không còn khả năng nhận
ra để thay đổi. Hy vọng tài liệu này, ít nhiều gợi mở, giới thiệu với đại chúng
thêm một phương pháp quý. Đạo Phật khẳng định được sinh ra làm người là
điều quý giá và khó, nhất là lại là người hoàn chỉnh. Khoa học hiện nay cũng
đã và đang khám phá ra có nhiều điều kỳ diệu trong não bộ. Theo tôi không
có loại máy móc tối tân nào sánh được với con người, c¬ thể lặng thầm
cùng nhau vận hành, tất cả đồ ăn đưa vào cơ thể chỉ sau 60’, có khi chỉ là 5’
(trường hợp ngộ độc thức ăn, ăn khỏi miệng là miệng nôn trôn tháo ngay),
tất cả đã được biến đổi. Dinh dưỡng tốt chuyển hóa thành máu đi nuôi cơ
thể; chất cặn bã thành phân, nước tiểu, mồ hôi được thải ra khỏi cơ thể. Hà
cớ gì chúng ta không học cách giữ gìn thay cho việc hủy hoại tài sản quý của
chính mình, thông qua ăn uống để kéo dài tuổi thọ và sống một cuộc đời có
đầy ý nghĩa chất lượng chân chính? Nếu biết kết hợp hài hòa cả hai con
đường ĐẠO. Tôi tin là ĐẠO PHẬT + THỰC DƯỠNG ĐẠO sẽ giúp bạn
nhanh lên đường RONG CHƠI MIỀN TỊNH ĐỘ.
Trước khi dừng bút, tôi có lời tri ân tới cháu Thanh Châm, cháu Hạnh
đã đánh máy giúp tôi với thời tiết oi bức và bản nháp chữ viết như mặt giặc,
khó đọc, thêm bớt như sơ đồ rừng rậm, Cháu Quỳnh liên tục đi sang đĩa hộ
bà, gia đình bác Trần Huy Năng, cháu Hằng, chị Ngăn, em Luyến, cháu
Hiền, chị Là, cháu Quyên, em Thủy, cháu Hương, cháu Dư, sư bác Diệu
Đức, cháu Trang, con dâu, con gái… Người tài trợ tịnh tài, người giúp đỡ
119
đưa đón, chăm sóc sức khỏe. Cám ơn Ngọc Trâm đã miễn giảm 50% học phí
khóa học cho nhóm ngoại tỉnh. Cám ơn nhóm thiền ăn nhà bếp Hà Nội đã
nấu miễn phí bữa ăn chiều. Cám ơn gia đình bác Hoạch đã cho nghỉ nhờ
buổi trưa, vợ chồng cháu Trịnh Phương đã giúp nơi ăn, chốn ở ổn định suốt
khóa học. Tôi thực sự ấn tượng tốt với nhóm phiên dịch : Cường, Trường,
Thủy dịch từ tiếng Nhật và 3 bạn, tôi không biết tên dịch từ tiếng Anh sang
tiếng Việt với tất cả tâm huyết đối với thực dưỡng. Tất cả tấm lòng của quý
vị đã giúp tôi học tốt và viết tài liệu thu hoạch này. Cuối tài liệu, tôi có kèm
theo phần phụ lục về thực dưỡng của nhiều tác giả và ảnh minh họa. Bạn nên
tham khảo để hiểu sâu hơn, giúp thực hành thành công.
Vì lý do sức khỏe (khổ nhất là bệnh ngứa lợi dụng lúc làm việc quá
tải, đã suốt ngày bám theo tôi) cộng thời tiết nóng đã gây nhiều trở ngại, để
hoàn thành tài liệu tôi đã phải cắt giảm giờ ngồi thiền. Hai năm chưa vào
Nam thăm gia đình con trai cả mà đây là cơ hội tốt để tiếp cận con, cháu nội
nhân dịp nghỉ hè về thực dưỡng, vé máy bay đã đặt, cận ngày quá nên đoạn
kết tôi viết bị loãng, nếu có phần nào còn tối nghĩa khó hiểu, ai có thiện tâm
tôi xin chia sẻ thêm. Gọi điện, gửi tin nhắn từ 21h – 22h hàng ngày, gặp trực
tiếp xin hẹn trước và đến đúng ngày giờ đã hẹn, chân thành cám ơn. Ngưỡng
mong đại chúng thành công./.
Hải Phòng, ngày 8 tháng 6 năm 2014Đan TâmKính bút
ĐT : 031.3742076 - 0902088186
120