tÀi li Ên giÁo viÊn thpt ngỮ vĂn ĐỊa phƯƠng _thpt.doc_.pdf · phần tiếng việt 4....

92
1 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA Trịnh Trọng Nam (chủ biên) TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG NỘI DUNG BỒI DƯỠNG 2 TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ

Upload: trankhanh

Post on 16-May-2018

232 views

Category:

Documents


11 download

TRANSCRIPT

Page 1: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

1

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

Trịnh Trọng Nam (chủ biên)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN THPT

NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG

NỘI DUNG BỒI DƯỠNG 2

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ

Page 2: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

2

LỜI NÓI ĐẦU

Giáo viên các nhà trường trung học ngoài kiến thức phổ thông nói chung, không thể không hiểu biết về địa phương - Nơi mình sinh ra, lớn lên và trực tiếp giảng dạy học sinh. Vì vậy, trong chương trình bồi dưỡng giáo viên bậc học Trung học phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bố trí 30 tiết để dạy - học kiến thức về địa phương. Nhằm thực hiện mục đích này, đáp ứng yêu cầu của chương trình, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn tài liệu NGỮ VĂN THPT (Chương trình địa phương tỉnh Thanh Hoá) theo chương trình của Bộ GD&ĐT. Tài liệu được sử dụng chính thức trong chương trình bồi dưỡng giáo viên Trung học cơ sở hè 2013. Tổng có 18 bài học được bố cục như sau :

1. Phần Đọc hiểu văn bản 2. Phần lý luận phê bình văn học 3. Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn

Hiểu biết địa phương là một trong những nền tảng văn hóa, vun đắp tình yêu quê hương. Tất nhiên tri thức về địa phương không phải chỉ có trong phạm vi 30 tiết giới thiệu. Bởi thế, các nhà trường và giáo viên cần có kế hoạch xây dựng chương trình học tập Ngữ văn địa phương để tham khảo bổ trợ và tổ chức dạy học tốt chương trình này. Cũng rất mong sự góp ý để tài liệu hoàn thiện hơn trong các lần bồi dưỡng sau. Trân trọng giới thiệu Chủ biên TRỊNH TRỌNG NAM

Page 3: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

3

PHẦN I - ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Bài 1 (3 tiết)

GIỚI THIỆU TRUYỆN DÂN GIAN THANH HOÁ

MỤC TIÊU Giúp học viên:

- Hiểu được nội dung, ý nghĩa của một số truyền thuyết về Lê Lợi; liên hệ với truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm để thấy rõ hơn hình tượng anh hùng Lê Lợi trong dân gian.

- Tổng hợp các truyện dân gian ở phần Đọc thêm, đối chiếu với bài Ôn tập truyện dân gian, từ đó nắm khái quát diện mạo truyện dân gian Thanh Hoá.

- Sưu tầm, kể lại được các truyện trong tài liệu và một số truyện dân gian khác của Thanh Hoá. Biết liên hệ, so sánh với phần truyện kể dân gian đã học.

- Có kỹ năng hướng dẫn học sinh đọc hiểu và sưu tầm các truyện dân gian của Thanh Hóa. VĂN BẢN

TRUYỀN THUYẾT VỀ LÊ LỢI 1- Hồi giặc Minh đô hộ nước ta, không cam tâm nhìn giang sơn mất vào tay quân giặc tàn bạo, dân ta khắp nơi nổi lên chống lại chúng. Nhưng rồi, cứ lần lượt các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại. Bấy giờ trong gia tộc quan tư đồ (1) Trần Nguyên Đán, thuộc dòng hoàng tộc (2) có hai người anh em họ thân thiết, đều tài ba, lỗi lạc. Người giỏi văn chương, mưu lược là Nguyễn Trãi, cháu ngoại quan tư đồ. Người giỏi võ nghệ, cầm quân là Trần Nguyên Hãn, cháu nội quan tư đồ. Cả hai đều nuôi chí dẹp giặc, yên dân, nhưng do cảnh nước mất, nhà tan, thế giặc ngoại xâm còn mạnh nên đành khuất thân (3) chờ thời. Nguyễn Trãi bị giam lỏng ở thành Đông Quan (4), còn Trần Nguyên Hãn thì sống bằng nghề bán dầu. Lần nọ, Trần Nguyên Hãn ghé thăm Nguyễn Trãi. Hai người liền rủ nhau đến thắp hương đền Chèm. Ngôi đền nổi tiếng linh thiêng ở đất kinh kì, thờ Hi Khang Đại Vương Lý Ông Trọng, một dũng sĩ thời Văn Lang-Âu Lạc (5). Do trời tối, không tiện quay về, nên cả hai đành xin nghỉ lại. Nửa đêm, họ bỗng thấy dưới ánh

Page 4: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

4

nến lung linh, có mấy quan tướng đi vào đền. Thì ra đó là các vị thần quanh vùng đến rủ Thánh Chèm lên dự hội Thiên đình, bàn chuyện nước Nam. Nhưng Thánh Chèm từ chối, nói rằng, hiện ở nhà có khách quý, bỏ đi không tiện. Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn vô cùng kinh ngạc, chưa biết hư thực thế nào, đã lại thấy các vị thần trở về, ghé vào. Thánh Chèm hỏi : “Phiên hôm nay bàn chuyện gì ? Có hiệu lệnh gì không ?”. Một vị thần đáp : “Thượng đế thấy nước Nam vốn riêng một cõi nay thành không có chủ, nên đã cho Lê Lợi, phụ đạo hương Khả Lam (6), trấn Thanh Hoá làm vua”. Sáng sớm hôm sau, hai người vội dâng hương bái tạ Đức Thánh Chèm, rồi khăn gói theo hướng nam mà đi, tìm vào Thanh Hoá theo phò Lê Lợi. Họ trở thành tướng văn, tướng võ, góp công lớn trong việc dẹp yên quân Minh, dựng xây cơ đồ nhà Lê.

2- Chuyện kể rằng, có lần bị giặc Minh truy đuổi gắt gao, nghĩa quân Lam Sơn tan tác gần hết, chỉ còn một số tướng sĩ theo Lê Lợi nhằm hướng nam mà chạy. Chạy một thôi thì đến bờ sông Cầu Chày (7). Đói khát, mỏi mệt, mọi người liền dừng chân nghỉ. Bất chợt, họ nhìn thấy phía xa có một người đàn bà đang đi tới. Trên đầu bà ta đội một cái mâm đậy kín. Nhìn đám người nhọc nhằn uể oải, kẻ nằm, người ngồi, người đàn bà liền dừng lại hỏi han. Sau khi biết đây là nghĩa quân Lam Sơn vừa thoát vòng vây giặc, bà liền vui vẻ hạ mâm xuống và nói : - Tôi đi đơm cơm đầu họ (8). Nhưng cứu một người phúc đẳng hà sa (9), xin các ông đừng khách khí. Được lời như cởi tấm lòng, chỉ một loáng mâm cơm đã hết sạch mà bụng các nghĩa sĩ vẫn chỉ mới lưng lửng. Biết ý, người đàn bà lại khẩn khoản mời mọi người về nhà để được khoản đãi. Tại nhà bà, sau khi ăn uống no say, Lê Lợi xin tạ ơn và hỏi họ tên để có cơ báo đáp, nhưng người đàn bà nhất mực từ chối. Lê Lợi liền lấy một mảnh vải, in hình bàn tay mình vào, gửi lại để làm tin. Sau ngày lên ngôi, Lê Lợi nhớ ơn nghĩa xưa, cho người đến làng nọ tìm, nhưng người đàn bà đã mất, con cháu cũng li tán, không biết mảnh vải in hình bàn tay xưa kia thất lạc nơi nào. Cảm thương, nhà vua liền cho dựng đền thờ và cắt cả một cánh đồng làm ruộng tế tự (10). Ngôi đền ấy nay không còn, nhưng cánh đồng thì vẫn đó. Người dân nơi đây gọi là cánh đồng Mẫu Hậu (11), thuộc thôn Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân. 3- Một năm sau ngày dựng cờ khởi nghĩa, nghĩa quân Lam Sơn bị quân Minh truy đánh ráo riết phải rút lên núi Chí Linh, thuộc địa phận huyện Lang Chánh ngày nay. Giặc lại bủa vây, quyết tiêu diệt bằng được. Tình thế nguy cấp, Lê Lợi họp các tướng thân tín lại, nói : - Bây giờ có ai theo gương Kỉ Tín (12) ngày xưa, thay ta chịu cho giặc bắt thì mới giải được nguy này. Công lao ấy, sau này không giám quên ! Lê Lợi vừa dứt lời, Lê Lai đã khẳng khái lên tiếng : - Việc thay trời hành đạo, dựng nên nghiệp lớn có thể không có tôi, nhưng không thể không có ông. Tôi xin tình nguyện đổi áo cho ông để dụ giặc. Thế rồi, hai người gạt nước mắt đổi áo cho nhau. Lê Lai dẫn một đội quân xung trận phá vây. Giặc Minh bắt được Lê Lai, tưởng đã bắt được Lê Lợi nên rút quân.

Page 5: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

5

Chúng chém và bêu đầu Lê Lai bên một cây cầu, ngày nay gọi là cầu Lai, để thị uy (13) dân chúng. Hôm ấy, trời đất bỗng nhiên sầu thảm, mưa gió không thôi. Cũng ngay đêm hôm ấy, dân các làng bản xung quanh đã tập hợp, chen chúc nhau đông vô kể, làm lễ mai táng cho Lê Lai. Làng có mộ phần Lê Lai, sau này gọi là làng Chen. Lê Lợi thoát hiểm, tập hợp, tuyển mộ thêm lực lượng, tiếp tục kháng chiến cho đến ngày thắng lợi. Sau khi lên ngôi, để ghi nhớ công lao của Lê Lai, Lê Lợi cho lập đền thờ Lê Lai ở ngay quê hương ông, gọi là đền Tép, nay thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc. Nhà vua còn dặn con cháu phải làm giỗ Lê Lai trước giỗ mình một ngày. Lê Lợi mất ngày 22 tháng 8 âm, nên bây giờ Thanh Hoá mới có câu tục ngữ “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Thường những ngày này, ở Thanh Hoá, trời cũng hay mưa gió, y như ngày Lê Lai hi sinh. (Theo Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn - Ty Văn hoá Thanh Hoá - 1973) Chú thích (*) Trong kho tàng truyện dân gian Thanh Hoá, có hàng trăm truyền thuyết về Lê Lợi và Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1428). Từ truyền thuyết mở đầu - “Trao gươm” để đánh giặc cứu nước đến truyền thuyyết cuối cùng - “Trả gươm” sau khi đất nước sạch bóng quân thù. Hệ thống truyền thuyết này cho ta thấy hình ảnh một người anh hùng chính nghĩa (được lòng “trời”) và nhân nghĩa (được lòng người). (1) Tư đồ : chức quan đứng đầu trăm quan văn võ của vương triều Trần. (2) Hoàng tộc : họ nội của nhà vua. (3) Khuất thân : dấu lai lịch, thân thế. (4) Đông Quan : thành Thăng Long thời giặc Minh đô hộ nước ta. (5) Văn Lang - Âu Lạc : tên nước ta thời Hùng Vương và An Dương Vương (cách đây khoảng trên 2000 năm). (6) Khả Lam : vùng thị trấn Lam Sơn và các xã giáp ranh ngày nay. (7) Sông Cầu Chày : bắt nguồn từ vùng núi Ngọc Lặc chảy qua các huyện Ngọc Lặc, Thọ Xuân, Yên Định, đổ vào sông Mã ở xã Định Công (Yên Định). (8) Đơm cơm đầu họ : tục lệ cũ, các gia đình góp cỗ cúng ngày giỗ họ. (9) Phúc đẳng hà sa : phúc nhiều như cát sông. (10) Ruộng tế tự : ruộng mà mọi sản phẩm gieo trồng trên nó chỉ để dùng vào việc thờ cúng. (11) Mẫu Hậu : mẹ vua. Ý nói, Lê Lợi coi người đàn bà này như mẹ. (12) Kỉ Tín : tướng của Lưu Bang (247-195 tr CN). Khi Lưu Bang bị quân Hạng Vũ vây, Kỉ Tín đã giả làm Lưu Bang, để cho Hạng Vũ bắt, giết. Nhờ đó, Lưu Bang thoát nạn. Sau này Lưu Bang lên làm vua, lập nên nhà Hán ở Trung Quốc. (13) Thị uy : tỏ rõ sức mạnh để đe dọa, làm cho phải sợ hãi. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN 1. Đọc và kể lại 3 truyền thuyết về Lê Lợi. 2. Tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của các truyền thuyết.

Page 6: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

6

a) Truyền thuyết 1 : + Câu trả lời Đức Thánh Chèm của một vị thần như thế nào ? Nội dung câu trả lời này nói lên điều gì ? + Nếu đặt chi tiết “Đức Long Quân trao cho Lê Lợi gươm thần” trong Sự tích Hồ Gươm và chi tiết “Thượng đế cho Lê Lợi làm vua nước Nam” trong mạch truyện chung về Lê Lợi, thì theo đồng chí chi tiết nào diễn ra trước, vì sao ? Hai chi tiết - hai truyền thuyết này có ý nghĩa như thế nào ? + Nguồn gốc của Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn, việc thần báo mộng cho hai người, việc hai người tìm theo Lê Lợi nói với đồng chí điều gì ? b) Truyền thuyết 2 và 3 : + Nêu ý nghĩa của mỗi truyền thuyết. + Hai truyền thuyết đều có một nội dung giống nhau, đó là nội dung nào ? Nội dung này nói lên điều gì ? c) Phát biểu cảm nhận chung về những điều mà nhân dân muốn gửi gắm qua 3 truyền thuyết này. 3. Tại sao lại xếp cả 3 truyện dân gian về Lê Lợi trên đây vào thể loại truyền thuyết ? BÀI TẬP VỀ NHÀ 1. Sưu tầm thêm một số truyền thuyết về Lê Lợi và Khởi nghĩa Lam Sơn. 2. Đọc, kể lại các truyện dân gian ở phần Đọc thêm. 3. Xếp các truyện ở phần Đọc thêm theo thể loại truyện dân gian đã học. ĐỌC THÊM

TRUYỆN TRẠNG QUỲNH

1- Hồi nhỏ Quỳnh đã nổi tiếng thông minh, lanh lợi. Trong làng có ông Tú Cát, tự cho mình học rộng, biết nhiều. Một hôm, ông Tú đón đường, bắt Quỳnh phải đối (1) được mới cho đi. Rồi ông đọc : “Trời sinh ông Tú Cát”. Quỳnh giả bộ ngây thơ, hỏi : “Trời đối với đất được không ?”. “Được”, ông Tú Cát trả lời. Quỳnh lại hỏi : “Cát đối với hung được không ?” (2). “Được”, ông Tú vừa cười, vừa đáp, có vẻ xem thường. Bấy giờ Quỳnh mới lễ phép : “Vậy thì cháu xin đối : “Đất nứt con bọ hung”. Bọ hung là con vật bẩn thỉu, chuyên dũi trong cứt. Ông Tú, biết mình bị lỡm (3), nhưng không làm gì được cậu bé. Từ đó ông Tú không dám vênh váo rằng mình hay chữ nữa.

2- Năm ấy, sứ Tàu (4) đem một con trâu mộng sang nước ta thách chọi trâu. Chúa Trịnh rất lo, cho đòi Trạng Quỳnh vào hỏi kế. Quỳnh xin chúa yên tâm, cam đoan thế nào trâu ta cũng thắng. Rồi sai người nhốt một chú nghé đang bú mẹ lại, bắt nhịn đói cả đêm. Sáng mai, khi trâu của sứ Tàu đang còn nghênh ngang giương sừng đợi đối thủ trong sới đấu (5), Quỳnh liền thả nghé con vào. Nghé tưởng trâu

Page 7: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

7

mộng là mẹ, lăn xả đến rúc tìm vú. Trâu của sứ Tàu hốt hoảng bỏ chạy. Thế là nghé ta thắng.

3- Chúa Trịnh hôm nào cũng ăn toàn sơn hào, hải vị (6) mà vẫn không thấy ngon miệng, mới đem chuyện ấy phàn nàn với Trạng Quỳnh, rồi bảo : “Ngươi biết có món gì khiến ta ăn ngon sẽ có trọng thưởng !”. Quỳnh tâu : “Bẩm, chúa đã ăn món mầm đá chưa ạ !”. Chúa hỏi “món ấy ngon lắm à ?”. Quỳnh điềm nhiên : “Dạ, ngon lắm ạ !”. Thế là Chúa sai Quỳnh làm để nếm thử. Quỳnh mới sai người bỏ mầm đá vào nồi ninh, còn mình về nhà đem đến một lọ thức ăn, bên ngoài đề hai chữ đại phong. Chúa Trịnh ngồi đợi món mầm đá của Quỳnh từ sáng đến quá trưa sang chiều, mà hễ hỏi, Quỳnh đều bảo “chưa nhừ”. Đến khi biết chúa đã đói vàng mắt, Quỳnh mới tâu : “Hay xin Chúa dùng tạm cơm rau dưa trong khi chờ món mầm đá”. Chúa vui mừng, gật đầu ngay. Bữa cơm hôm ấy, Chúa ăn rất ngon miệng, nhất là món đại phong. Chúa mới hỏi : “Đại phong là món gì mà ngon thế ?”. Quỳnh đáp : “Đấy chỉ là món ăn thường ngày của những người dân quê”. Rồi giải thích : “Đại phong là gió to, gió to thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo, tượng lo là lọ tương”. Thì ra, Trạng Quỳnh muốn Chúa ăn ngon miệng đã lập mẹo để cho Chúa thật đói. Đói thì ăn gì chẳng thấy ngon, chứ làm gì có món “mầm đá”.

4- Bị Trạng Quỳnh chơi khăm nhiều lần, chúa Trịnh căm lắm. Bèn bày tiệc r-ượu, muốn đánh thuốc độc giết Trạng Quỳnh.Trạng biết bụng dạ chúa nên trước khi vào hầu Chúa dặn vợ con cứ “như thế, như thế”. Quả nhiên, vừa tiệc tùng ở phủ Chúa về đến nhà, Quỳnh đã lăn ra chết. Vợ con theo lời, không phát tang, mà đặt nằm trên võng, có kẻ hầu người hạ, lại còn thuê nhà trò đến hát múa vui vẻ. Chúa cho người dò xem Quỳnh có việc gì không, thấy thế, nổi giận, truyền nhà bếp đem món ăn đã đánh độc trạng lên cho Chúa thử. Không bao lâu sau, chúa cũng chết theo Trạng Quỳnh. Thế là, hôm nhà Chúa phát tang, nhà Quỳnh cũng phát tang. Dân gian từ đó có câu ca :

Trạng chết, Chúa cũng băng hà Dưa gang đỏ đít, thì cà đỏ trôn

Chú thích (*) Truyện Trạng Quỳnh là một tập hợp gần 50 truyện cười dân gian xoay quanh nhân vật “Trạng Quỳnh”. “Trạng Quỳnh” tuy có tên tuổi, gốc gác - người làng Bột Thượng nay thuộc xã Hoằng Lộc, Hoằng Hoá, sống vào thế kỉ XVIII, thời vua Lê - chúa Trịnh, nhưng đây là nhân vật do tài năng, trí tuệ tuyệt vời của nhân dân sáng tạo nên. Truyện Trạng Quỳnh là tiếng cười chế giễu sảng khoái của nhân dân đối với triều đại phong kiến suy vong, từ vua chúa, quan lại đến những thói hư, tật xấu xã hội. (1) Đối : câu đối - một thể văn cổ ngắn gọn, có hai vế, vế ra và vế đối. Mỗi vế, từ ngữ, dấu thanh, ý nghĩa đều phải cân xứng. Câu đối mà hai vế có từ ngữ , ý nghĩa trái ngược nhau gọi là câu đối chọi. (2) Cát : tốt ; hung : xấu.

Page 8: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

8

(3) Lỡm : làm cho người ta mắc lừa để trêu đùa, bỡn cợt. (4) Sứ Tàu : viên sứ thần của vua nước Trung Quốc. (5) Sới đấu : mặt bằng với kích thước quy định để hai đối thủ thi đấu. (6) Sơn hào, hải vị : thành ngữ, chỉ món ăn ngon, quý hiếm chế từ sản vật của rừng núi và biển.

TRUYỆN PHƯƠNG HOA Ngày xưa ở huyện Thuần Lộc có một người tên gọi Trương Đài kết bạn với một người tên là Trần Điện quê ở Lôi Dương (1). Họ cùng theo đòi bút nghiên, cùng thi đậu một khoa, lại cùng làm quan tại triều nên tình bạn ngày càng tâm đắc. Trương Đài có hai con trai, con trưởng là Cảnh Tĩnh đã có vợ, con thứ là Cảnh Yên. Trần Điện có một con gái tên là Phương Hoa. Hai gia đình giao ước cho Cảnh Yên lấy Phương Hoa làm vợ, chỉ đợi ngày làm đám cưới. Trấn Thanh Hoá bấy giờ có một viên quan võ là Tào Trung Uý nghe đồn Phương Hoa tài sắc vẹn toàn nên đến cầu hôn. Trần Điện từ chối rằng, đã hẹn gả con về nhà họ Trương rồi. Tào Trung Uý tức giận liền mạo chỉ nhà vua, bắt Trương Đài chém vì tội phản nghịch. Vợ con Trương Đài phải tìm đường trốn tránh lên mãi huyện Thạch Thành. Cả nhà từ đó chịu cảnh túng quẫn do không kịp đem theo tiền của, cũng không có người quen thuộc. Vợ Cảnh Tĩnh là Thị Trinh đến ngày sinh nở nhưng sức yếu, không thuốc men chăm sóc nên sớm lìa đời để lại đứa con gái còn trứng nước. Tình cảnh vất vả nay càng vất vả hơn. Ngày qua tháng tới, đứa con Cảnh Tĩnh tên là Tiểu Thanh đã khôn lớn. Bấy giờ mẹ con họ Trương nghĩ nạn nhà do Tào Trung Uý gây ra đã lâu ngày, chắc không còn bị truy tìm nữa, nếu cứ ở mãi nơi thâm sơn cùng cốc (2) sẽ khó bề làm ăn nên bàn nhau về vùng xuôi sinh sống. Cảnh Tĩnh dắt mẹ già, Cảnh Yên bồng cháu nhỏ, bước thấp bước cao, dần tới huyện Lôi Dương. Họ xin trú ngụ trong nhà phú ông (3) họ Nguyễn. Người này lưu Cảnh Tĩnh làm gia sư (4), do đó cũng kiếm được chỗ nương náu qua ngày. Lại nói về Trần Điện, biết Trương Đài mắc oan nhưng vì triều đình bấy giờ trong tay Tào Trung Uý nên đành ngậm đắng nuốt cay, đau thương cho cảnh ngộ của bạn. Nàng Phương Hoa cũng phiền muộn, ảo não không nguôi. Trần Công chỉ còn biết lựa lời khuyên con kiên nhẫn chờ ngày nỗi oan được giải. Tào Trung Uý

Page 9: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

9

có cho người đến dạm hỏi, Trần Điện thì tìm cớ lánh mặt, còn Phương Hoa nhất mực không ra ngoài suốt bảy tám năm trời. Một ngày nọ, Phương Hoa đi tiễn chân bạn gái, trên đường trở về, nàng gặp Tiểu Thanh. Con bé hàng ngày ra ngoài kiếm thêm việc làm, vì Cảnh Tĩnh dạy học không đủ chu cấp (5) cho bốn miệng ăn, còn Cảnh Yên sức vóc học trò lại phải giữ kín hành tung (6), không dám làm gì. Phương Hoa thấy Tiểu Thanh chợt động lòng thương xót, ngỏ ý muốn nhận về nuôi. Từ đó, Tiểu Thanh ở với Phương Hoa. Tiểu Thanh tuy nhỏ nhưng rất khôn ngoan nên được Phương Hoa hết lòng yêu quí. Lâu dần nàng hỏi chuyện, mới biết con bé chính là con Cảnh Tĩnh. Phương Hoa khóc lóc, cho Tiểu Thanh hay mình chính là vợ chưa cưới của Cảnh Yên. Nàng bèn đưa cho Tiểu Thanh một nén bạc mang về giúp gia đình, đỡ cơn túng thiếu. Còn lại, Phương Hoa chưa biết làm thế nào để thu xếp yên ổn cho Cảnh Yên. Cuối cùng, nàng quyết định mang mấy bộ quần áo, lấy thêm năm nén bạc gửi giúp Cảnh Yên ăn học. Nhưng nàng lại sợ Tiểu Thanh quá bé, mang tiền bạc đi đêm không chắc bèn dặn con bé nói với Cảnh Yên đêm nay đến chỗ ấy, chỗ ấy, sẽ cho người gặp gỡ. Đêm ấy, Phương Hoa gọi Thị Liễu, kẻ ở trong nhà dặn dò cách thức, rồi trao tiền cho đi gặp Cảnh Yên. Không ngờ một đứa ở khác là Thị Đào nghe được. Đào về kể với chồng là Hồ Nghi. Nghi là kẻ hám lợi, tham lam, hắn giấu vợ nửa đêm rình sẵn chờ Thị Liễu đến chỗ hẹn đâm chết và cướp đi tất cả của cải. Cảnh Yên đến sau chỉ thấy một xác người máu me nằm đó, hốt hoảng bỏ chạy. Quan nha theo dấu chân có vết máu bắt được Cảnh Yên đem tống giam, chờ ngày xét xử. Về phần mình, Phương Hoa vô cùng lo lắng, sợ hãi. Biết chắc Cảnh Yên không phải là thủ phạm nhưng nàng không có cách nào cứu chàng. Mẹ Cảnh Yên trước tai bay vạ gió của con cũng phiền muộn, uất ức, đổ bệnh mà chết trong cảnh bần hàn. Phương Hoa nghe tin dữ không còn ngại ngùng gì nữa, giao cho Tiểu Thanh mấy nén bạc để Cảnh Tĩnh lo việc ma chay, dặn dò Cảnh Tĩnh gắng bình tâm thu xếp việc nhà chờ cho tai qua nạn khỏi. Đêm khuya, nàng lại cùng Tiểu Thanh ra khóc tế mộ mẹ chồng. Năm đó, triều đình xuống chiếu mở khoa thi. Phương Hoa nghĩ suy mãi bỗng nảy ra một kế. Nàng xin bố mẹ cho ra kinh đô mở quán bán hàng, tìm khách tài hoa, đành phận không cùng Cảnh Yên sum họp. Vợ chồng Trần Công thương con

Page 10: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

10

nên cũng thuận theo. Nhưng thực ra, Phương Hoa không mở quán bán hàng mà cải nam trang lấy tên là Trương Cảnh Yên nộp đơn ứng thí. Tài văn chương của nàng thật xuất sắc. Qua ba kì, Phương Hoa đã đỗ tiến sĩ. Vào đêm trước buổi ban thưởng cho các tiến sĩ tân khoa (7), nhà vua nằm mộng, được thần nhân cho biết có tiến sĩ Cảnh Yên là bậc tài hoa. Sáng ngày, vua truyền các quan tân khoa vào triều kiến. Khi thấy Cảnh Yên, vua ngờ ngợ, phán rằng : - Tiến sĩ Thanh Hoa sao giống con gái vậy ? Phương Hoa rập đầu, cởi mũ, xõa tóc, thú thực mình là con gái đội tên chồng đi thi để mong giải tỏ oan khuất nhà chồng. Nhà vua hỏi biết nguồn cơn do Tào Trung Uý gây họa nên ra lệnh trừng trị hắn. Lại hỏi đến tung tích Cảnh Yên, Ph-ương Hoa cũng thực tâu trình. Vua sai người tra án, bắt được Hồ Nghi. Bấy giờ Cảnh Yên mới thoát cảnh ngục tù. Cảnh Yên được tha, lại được cả danh vị tiến sĩ vì Phương Hoa đội tên chàng đi thi. Nhưng sợ các sĩ tử không phục, vua lệnh cho giám khảo thử tài chàng. Vốn có chân tài thực học (8), Cảnh Yên vẩy bút thành văn, mọi người đều thừa nhận là xứng danh tiến sĩ. Nhà vua cho chàng vinh quy, bái tổ và bổ làm quan (9). Cảnh Yên và Phương Hoa về làng làm lễ tế mẹ cha, ra mắt ông bà Trần Công, rồi đón Cảnh Tĩnh và Tiểu Thanh để cùng hưởng phúc.

(Theo Truyện dân gian Thanh Hoá, NXB Thanh Hoá -1986)

Chú thích (1) Thuần Lộc : nay là huyện Hậu Lộc : Lôi Dương : nay là huyện Thọ Xuân, một phần huyện Thường Xuân. (2) Thâm sơn cùng cốc : núi sâu, hang động xa - chỉ vùng núi xa xôi. (3) Phú ông : người giàu có. (4) Gia sư : thầy dạy học của gia đình. (5) Chu cấp : cung cấp, nuôi dưỡng. (6) Hành tung : hoạt động và lai lịch. (7) Tiến sĩ : học vị cao thời phong kiến, sau khi qua được kì thi Hội - thi Đình ở kinh đô ; Tân khoa : khoa thi vừa mới tổ chức xong. (8) Chân tài thực học : tài thật, học lực thật

Page 11: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

11

(9) Vinh quy, bái tổ : trở về quê được đón tiếp long trọng, vẻ vang để bái lạy tổ tiên, ông bà, cha mẹ - một nghi lễ thời phong kiến dành cho những người đỗ từ tiến sĩ trở lên ; bổ : cử giữ một chức quan nào đó.

SỰ TÍCH RƯỢU CẦN Thuở xưa, ở bản Dum có một gia đình, tuy người vợ chẳng may mất sớm, nhưng người chồng vẫn ở vậy nuôi hai con trai khôn lớn. Ba bố con đều có sức khoẻ và siêng năng nên lúc nào lúa cũng chật gác, trâu bò chật gầm sàn. Từ khi cả hai người con trai có vợ, ông bố ít phải lên rẫy, làm nương (1), sáng sáng lại còn có người nấu nước pha trà, bữa cơm có người bưng mâm rót rượu. Tuy sung sướng, an nhàn, nhưng ông có một nỗi phiền muộn không biết nói cùng ai. Đó là tuổi đã cao mà chưa biết nên giao nhà cửa, tài sản này cho vợ chồng đứa con nào. Ông liền nghĩ cách thử lòng tốt của hai nàng dâu. Một ngày, khác với thường lệ, mặt trời đã soi sáng khắp rừng, ấm nước trà pha đã nguội mà ông vẫn chưa thèm dậy. Thấy thế, người con dâu cả xếp ấm chén lại rồi định đi làm nương. Bấy giờ, ông bỗng rên la, kêu bị đau bụng. Cô vừa bước xuống cầu thang, ông liền gọi : - Con ơi, dâu ơi, con đem giặt bộ quần áo cho bố ! Cô dâu cả quay lại, nhưng khi nhìn thấy quần áo có nhiều chỗ buộc túm, cô cho là bẩn, nên bỏ vào một xó nhà sàn, rồi đi làm. Lúc ấy, cô con dâu thứ hai vác nước vừa về, ông lại nói : - Dâu ơi, con ơi, đem giặt quần áo cho bố ! Bố đau bụng, quần áo không sạch sẽ đâu !

Người con dâu thứ hai nghe thấy thế, nhưng vẫn ngoan ngoãn ra suối giặt. Khi cô mở các túm buộc ở quần áo thì thấy toàn bạc trắng. Cô liền giặt sạch quần áo, rồi mang bạc về trả lại cho bố chồng không thiếu một đồng nào. Lại một lần dọn cơm trưa, ông không ăn, dọn cơm tối, ông cũng không ăn. Mọi người trong nhà đều lo lắng, dồn hỏi mãi ông mới nói : - Bố thèm ăn thịt để trong hốc đá, thèm uống nước chảy ngược dòng. Các con đều lấy làm lạ. Người con dâu cả, bỏ xuống sân, mồm lầm bẩm : “Người già trái nết, muốn ăn những thứ đó thì về bên kia mới có được !” Còn hai người con

Page 12: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

12

trai thì vác súng vào núi đi tìm thịt thú. Nhưng họ đều không tìm thấy. Đến lần dọn cơm hôm sau, thấy trên mâm có bát dấm ốc do người con dâu thứ hai đem lên, ông bố ăn một cách ngon lành và khen : “Dâu ơi, con giỏi lắm, bố cảm ơn con nhiều lắm, mọi người mới hiểu ra, món bố muốn ăn là món ốc. Hốc đá là cái vỏ ốc, thịt trong hốc đá là ruột con ốc. Biết chuyện này, người trong bản, ai cũng khen cô dâu thứ hai sáng ý, lại biết thương bố chồng, khiến cô dâu cả vô cùng bực tức. Cô dâu hai còn vào rừng vừa lấy củi vừa tìm nước chảy ngược dòng theo ý thích của bố chồng. Một hôm cô chợt thấy một đoạn suối đang chảy gặp đá chắn ngang nên nước tung ngược lên, cô liền hứng nước vào quả bầu khô, rồi lấy một nắm lá nút lại mang về. Cô dâu cả biết việc này, lừa lúc cô dâu hai vắng mặt lén bỏ vào bầu nước mấy nắm thóc, gạo, trấu, cốt cho bố chồng và dân bản chê cô dâu hai không biết thương bố chống lại còn đần độn cho bõ ghét. Nhưng lạ thay, mấy ngày sau không những bầu nước kia không hỏng mà từ trong đó còn bay ra mùi thơm. Thì ra, những thứ trong đó đã lên men thành một thứ nước thơm. Cô dâu hai lại đi chặt một cành trúc, xuyên thủng các mắt thành một cái ống, rồi bê bầu nước đến, mời bố chồng uống nước ngược dòng. Ông bố cắm cành trúc vào bầu nước hút lên để uống thấy nước trong bầu vừa thơm vừa ngọt. Càng uống, người càng lâng lâng, dễ chịu vô cùng. Ông bố bảo cô dâu thứ hai làm thêm mấy bầu nữa, rồi cho mời cả bản đến uống nước chảy ngược dòng, mọi người lại càng khen cô dâu hai thông minh, tài giỏi, yêu quý bố chồng hết mực. Ít lâu sau, cô dâu hai được bố chồng giao cho trông coi toàn bộ tài sản. Còn thứ nước chảy ngược dòng kia chính là rượu cần (2) truyền đến ngày nay. (Theo Văn học Thanh Hoá - Sở Giáo dục&Đào tạo Thanh Hoá, 1990)

Chú thích (*) Đây là truyện dân gian của dân tộc Thái do Cao Sơn Hải biên soạn theo lời kể của ông Phạm Bá Tình ở Hồi Xuân, huyện Quan Hoá. Dân tộc Thái cư trú trên một địa bàn rộng lớn trải dài từ các tỉnh tây bắc đến Thanh Hoá, Nghệ An. Tổng số dân : 1.328.725 người. Dân tộc Thái ở tỉnh ta có 204.159 người (theo thống kê năm 1999), sống tập trung ở 9 huyện miền núi (trừ Cẩm Thuỷ, Thạch Thành). Thanh Hoá, ngoài dân tộc Kinh và Thái còn 5 dân tộc anh em khác cư trú là : Dao,

Page 13: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

13

Hmông, Khơ mú, Mường, Thổ. Kho tàng văn học dân gian của các dân tộc đều phong phú, đa dạng. (1) Nương, rẫy : đất trồng trọt dược khai phá ở miền đồi núi, (2) Rượu cần : một loại rượu dùng gạo nếp thơm, nếp cẩm và men chế từ lá, vỏ, rễ cây thuốc, ủ trong hũ, khi uống đổ nước sạch vào hũ rồi dùng cần để uống. Đây là một trong những đặc sản của một số dân tộc miền núi như Thái, Mường,...

Bài 2 (2 tiết) TÌM HIỂU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VĂN HỌC Ở

THANH HÓA VÀ VIẾT VỀ THANH HÓA TRƯỚC NĂM 1975

MỤC TIÊU Giúp học viên:

- Có ý thức tìm hiểu và nắm được khái quát tác giả, tác phẩm văn học ở Thanh Hóa; các tác phẩm văn học nổi tiếng của tác giả địa phương khác viết về Thanh Hóa trước 1975.

- Hiểu và cảm được bài thơ Bầu trời vuông. Nắm được tinh thần cơ bản của 2 bài thơ đọc thêm: Trả lời người phương Bắc hỏi về phong tục An Nam và Đề gươm.

- Sưu tầm được một số tác phẩm văn học của tác giả Thanh Hoá, tác giả tỉnh ngoài viết về Thanh Hoá. Hoàn thành bảng tổng hợp về tác giả, tác phẩm văn học Thanh Hóa trước năm 1975.

- Có kỹ năng hướng dẫn HS nắm bắt khái quát các tác giả, tác phẩm văn học ở Thanh Hóa và viết về Thanh Hóa. VĂN BẢN BẦU TRỜI VUÔNG Thắng rồi - trận đánh thọc sâu lại về với mái tăng - bầu trời vuông sục sôi bom lửa chiến trường tâm tư yên tĩnh vẫn vuông một vùng

Page 14: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

14

Khoái nào bằng phút ngả lưng mở trang thư dưới bóng rừng đung đưa trời tròn còn lúc rơi mưa trời vuông vuông suốt bốn mùa nắng xanh mặt trời là trái tim anh mặt trăng vành vạnh là tình của em Thức là ngày, ngủ là đêm nghiêng nghiêng hai mái - hai miền quê xa ở đây là tấm lòng ta sông dài núi rộng cũng là ở đây Vuông vuông chỉ một chút này... mà che tròn vẹn ngàn ngày quân đi. Quảng Trị 1971 (Nguyễn Duy(*), Cát trắng, NXB Quân đội nhân dân, 1974) Chú thích (*) Nguyễn Duy, tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, tại phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hoá. Hiện sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học Ngữ văn. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1965, Nguyễn Duy làm tiểu đội trưởng dân quân trực chiến khu vực Hàm Rồng. Năm 1966, nhập ngũ, là lính thông tin, tham gia chiến đấu tại các mặt trận phía Nam và phía Bắc. Từ 1976, ra quân, về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977 đến 2008 là đại diện thường trú của tuần báo Văn nghệ tại các tỉnh phía Nam. Ông được Giải Nhất thơ tuần báo Văn nghệ (1973) ; Tặng thưởng loại A về thơ của Hội Nhà văn Việt Nam (1985). Tác phẩm đã xuất bản : hơn 10 tập thơ như Cát trắng (1973), Ánh trăng (1987), Mẹ và em (1987), Đường xa (1989), Về (1994), Thơ Nguyễn Duy (2010),... Ngoài ra, Nguyễn Duy còn 3 tập bút kí, 1 tiểu thuyết. Nguyễn Duy thuộc lớp nhà thơ kháng chiến chống Mĩ đã có những đóng góp không nhỏ cho nền thơ Việt Nam đương đại. (1) Tăng: tấm vải bạt thường dùng trong quân đội để che mưa nắng.

Page 15: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

15

ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN 1. Phân tích khổ thơ thứ nhất để thấy sự thể hiện “giây phút giữa chiến trường và tâm trạng người chiến sĩ” của Nguyễn Duy. Sự thể hiện này nói với người đọc điều gì? 2. Cảm nhận về hình ảnh người chiến sĩ qua các khổ thơ hai và ba. 3. Phân tích khổ thơ cuối cùng. 4. Bài thơ là một trong những “Bài ca người lính”. “Bài ca” này muốn nói điều gì? Ghi nhớ Bằng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, giản dị, chi tiết chọn lọc, hình ảnh có giá trị biểu tượng cao, bài thơ đã thể hiện tâm trạng thảnh thơi sau cuộcchiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Qua đó bộc lộ tình cảm trong sáng, sâu nặng đối với tình yêu, với quê hương, đất nước và ý chí quyết tâm của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc. ĐỌC THÊM

ĐÁP BẮC NHÂN VẤN AN NAM PHONG TỤC

(Trả lời người phương Bắc hỏi về phong tục An Nam)

Phiên âm Dục vấn An Nam sự An Nam phong tục thuần Y quan Đường chế độ Lễ nhạc Hán quân thần Ngọc ủng khai tân tửu Kim đao chước tế lân Niên niên nhị tam nguyệt Đào lí nhất ban xuân

Dịch nghĩa

Page 16: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

16

Muốn hỏi về chuyện nước An Nam ư ? Nước An Nam phong tục vốn thuần hậu Áo mũ không khác chế độ nhà Đường(1) Lễ nhạc tương tự vua quan nhà Hán(2) Bình ngọc rót rượu mới cất ngát thơm Dao vàng mổ cá ngon nhỏ vẩy(3) Hàng năm cứ độ tháng hai, tháng ba Đào mận đều cùng xuân như nhau cả

Dịch thơ (bản dịch của Tuấn Nghi)

An Nam muốn hỏi rõ Phong tục vốn thuần lương Lễ nhạc như Tiền Hán Y quan giống Thịnh Đường Dao vàng cá nhỏ vẩy Bình ngọc rượu lừng hương Mỗi độ mùa xuân tới Mận đào nở chặt vườn

(Hồ Quý Ly(*), theo Thơ văn Lý Trần, tập III, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978) Chú thích *Hồ Quý Ly (1336 - ?) người hương Đại Lại (nay thuộc Hà Trung). Thời nhà Trần suy vi, ông làm đảo chính cung đình để lập nên nhà Hồ (1400 - 1407). Hồ Quý Ly là người có đầu óc cải cách. Khi lên ngôi, ông đã thi hành một số chính sách tiến bộ, bị tầng lớp quý tộc phản ứng. Nhà Minh nhân cơ hội này đem quân xâm lược, ông đã lãnh đạo kháng chiến chống lại rất kiên cường nhưng thất bại. Hồ Quý Ly và các con cùng một số cận thần bị bắt sang Trung Quốc. Nước ta bị giặc Minh đô hộ trong vòng 20 năm (1407 - 1427). Trong cuộc đời cầm quyền tối cao ngắn ngủi của mình, Hồ Quý Ly đã thực thi một số cải cách kinh tế xã hội quan trọng, chủ trương xây dựng nền học thuật mang tinh thần dân tộc cao độ. Ông công kích Nho giáo Trung Hoa: Cho sách Luận ngữ có một số chỗ đáng ngờ, đòi xét lại Khổng Tử ; xem Hàn Dũ là nhà nho "ăn trộm",

Page 17: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

17

Mạnh Tử, Trình Hiệu, Trình Di, Chu Hi đều là những kẻ học rộng nhưng tài kém, không chú ý đến thực tế, chuyên đánh cắp văn chương của người xưa. Ông đề cao chữ Nôm là "chữ của nước ta", sử dụng trong cả những lĩnh vực quan trọng như hành chính, giáo dục. Tác phẩm văn học của Hồ Quý Ly, hiện chỉ còn lại 5 bài thơ chữ Hán. Thaamk chí 30 bài thơ chữ Nôm, Nguyễn Trãi sưu tập được sau đại thắng quân Minh cũng bị thất lạc. Bài thơ thể hiện tinh thần tự hào dân tộc cao cả, tình cảm thắm thiết với đất nước, một cốt cách hào sảng. (1), (2) Hán, Đường : Hai triều đại phong kiến ở Trung Quốc, có những thời kỳ phát triển huy hoàng. (3) Cá nhỏ vẩy : Chỉ một giống cá ngon, miệng lớn, vẩy nhỏ vốn ở sông Tùng Giang (Trung Quốc). Gợi ý : Bài thơ thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc mạnh mẽ và tình yêu đất nước sâu đậm.

ĐỀ KIẾM

Phiên âm Lam sơn tự tích ngoạ thần long Thế sự huyền tri tại trưởng trung

Đại nhiệm hữu qui thiên khải thánh Xương kì nhất ngộ hổ sinh phong

Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ Kim quĩ chung tàng vạn thế công Chỉnh đốn kiền khôn tùng thử liễu

Thế gian na cánh sổ anh hùng. Dịch nghĩa Từ khi rồng thiêng còn nằm ở Lam Sơn(1) Việc đời biết trước rõ như ở trong lòng bàn tay Trách nhiệm lớn lao được giao gánh vác, trời đã báo cho thánh nhân biết(2) Gặp thời cơ tốt, hổ sinh ra gió(3) Đã rửa sạch nỗi nhục nghìn năm của thù nước, Cuối cùng đã cất giữ cái công muôn thuở trong rương vàng(4) Từ nay việc chỉnh đốn đất trời đã xong(5)

Page 18: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

18

Trên đời rút cuộc có được mấy người anh hùng như thế. Dịch thơ (bản dịch của Hà Vũ) Lam Sơn xưa chốn ẩn thần long Thế sự lòng tay nắm ở trong Việc lớn chọn người trời báo trước Gặp thời mãnh hổ tạo cuồng phong Nghìn năm nhục nước nay đà sạch Muôn thuở rương vàng giữ quốc công Chỉnh đốn đất trời xong mọi nhẽ Thế gian như thế mấy anh hùng!

(Nguyễn Trãi (*), theo Văn học Thanh Hoá, Sở GDĐT Thanh Hoá, 1990) Chú thích (*) Về tác giả Nguyễn Trãi : xem lại chú thích (*) ở Ngữ văn 7, tập một, tr. 79. (1) Lam Sơn : nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, quê hương Lê Lợi. (2) Câu này nhắc lại việc trời trao cho Lê Lợi gươm Thuận Thiên (Thuận theo ý trời) để ông dẹp quân đô hộ nhà Minh và làm vua nước Nam. (3) Câu này lấy ý thành ngữ cổ “Vân tùng long, phong tùng hổ” (Mây theo rồng, gió theo hổ) để chỉ người tạo ra được sức mạnh lớn lao. (3) Rương vàng : chữ Hán là kim quỹ, nơi cất giữ sử sách, chiến công để lưu đến muôn đời. (4) Càn khôn : Trời đất, thiên hạ (đây chỉ đất nước và muôn dân) Gợi ý : Bài thơ là sự đánh giá, ca ngợi của một anh hùng (tác giả) đối với một anh hùng. Qua bài thơ đồng chí thấy hình ảnh anh hùng Lê Lợi hiện lên như thế nào và cho đồng chí cảm tưởng gì về quê hương Thanh Hoá? BÀI TẬP 1. Lựa chọn các dữ kiện cho sau đây để hoàn thành Bảng thống kê tác giả văn học Thanh Hoá trước năm 1975 (xếp theo năm sinh theo mẫu ở cuối câu hỏi). - Họ tên : Nguyễn Mộng Tuân, Ngô Chân Lưu, Đào Duy Từ, Nhữ Bá Sĩ, Nguyễn Hữu Loan, Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Thường Khanh, Nguyễn Minh Hiệu, Lê Văn Sửu, Nguyễn Duy Nhuệ, Hà Triệu Anh, Nguyễn Văn Vượng, Lê Gia Hợp, Nguyễn Bao, Nguyễn Xuân Phê, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Biểu, Trần Văn

Page 19: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

19

Tấn. Lê Hữu Kiều, Ngô Xuân Sách, Nguyễn Tiến Tới, Đỗ Minh Phong, Phạm Văn Túc, Mai Ngọc Thanh, Trịnh Thanh Sơn, Lê Văn Sen, Hà Minh Đức, Lê Văn Lân. - Bút danh : Đạm Trai, Cúc Pha, Khuông Việt đại sư, Hồ Dếznh, Trần Mai Ninh, Nguyễn Duy, Nam Mộc,Thôi Hữu, Hồng Nguyên, Nguyễn Thế Phương, Triệu Bôn, Minh Hiệu, Định Hải, Hữu Loan, Văn Tâm, Xuân Sách, Anh Chi, Vương Anh, Văn Đắc, Mã Giang Lân, Đặng Ái, Cầm Giang (Cầm Vĩnh Ui). - Quê quán, năm sinh (năm mất) : Đông Sơn - (nửa cuối TKXIV đầu TK XV) ; Đông Sơn - (1938-2003) ; Hà Trung - (1930-1989) ; Hoằng Hoá - (1788-1867) ; Hoằng Hoá - (1919-1950) ; Hoằng Hoá - (1915-1989) ; Hoằng Hoá - (1929-2006) ; Hoằng Hoá (1930 - 1989) ; Nga Sơn - (1916-2010) ; Nga Sơn - (1948-2007) ; Ngọc Lạc - (1944) ; Nông Cống - (1932-2005) ; Nông Cống - (1924-1999) ; Quảng Xương - (1916-1991) ; Quảng Xương - (1933) ; Sầm Sơn - (1942) ; TP Thanh Hoá - (1917-1947) ; TP Thanh Hoá - (1948) ; TP Thanh Hoá - (1924-1952) ; TP Thanh Hoá - (1933-2004) ; TP Thanh Hoá - (1948) ; TP Thanh Hoá - (1947) ; TP Thanh Hoá - (1941) ; Tĩnh Gia - (1572-1634) ; Tĩnh Gia - (933-1011) ; Vĩnh Lộc (1935) ; Yên Định - (1932) ; Yên Định - (1937). - Tác phẩm chính : + Thơ, văn chữ Hán : Chàng Vương trở về ; Ngoạ Long Cương vãn, Tư Dung vãn ; Cúc Pha thi tập ; Đạm Trai thi văn tập, Việt sử tam bách vịnh. + Bài thơ nổi tiếng : Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Hoa lúa ; Nhớ máu, Tình sông núi ; Lên Cấm Sơn ; Nhớ ; Nhớ vợ, Núi Mường Hung, dòng sông Mã, Em tắm. + Tập thơ : Những chiếc cầu ; Quê ngoại ; Cát trắng ;Tôi yêu ; Bình minh và tiếng súng ; Hai triền sông ; Đôi cánh ; Chồng nụ chồng hoa ; Hương vườn mẹ, Con mắt thức ; Trăng mắc võng. + Trường ca, truyện thơ : Hoa đỏ Trường Sơn ; Sao chóp núi. + Tập truyện ngắn : Chân trời cũ(tập truyện) ; Mầm sống ; Đỉnh Ngọc, Bức tranh đẹp ; Đêm sao sáng. + Tiểu thuyết, truyện dài : Đi bước nữa, Nắng ; Rừng lá đỏ ; Đội du kích thiếu niên Đình Bảng, Mặt trời quê hương ; Nhuỵ Kiều tướng quân, Sao Khuê lấp lánh. + Nghiên cứu-lí luận : Vũ Trọng Phụng nhà văn hiện thực, Tản Đà khối mâu thuẫn lớn; Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc ; Nhà văn và tác phẩm, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại ; Noi theo đường lối văn nghệ của Đảng

Page 20: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

20

Bảng kê tác giả văn học ở Thanh Hoá trước 1975 (mẫu) TT Họ và tên (? - ?) Bút danh Quê quán Tác phẩm chính

2. Qua bảng thống kê trên, đồng chí hãy rút ra nhận xét gì về đội ngũ tác giả văn học của tỉnh ta và sáng tác của họ ? (Hình thành và trải qua các thời kì nào ? Đông đảo hay không đáng kể ? Các thể loại sáng tác, số lượng tác phẩm ?). Gợi ý : Giáo viên nên phân công học viên theo nhóm và hoàn thành bài tập này trong thời gian tập huấn, sau đó tổ chức để trình bày, trao đổi, đánh giá.

Bài 3 (1 tiết) TÌM HIỂU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VĂN HỌC

Ở THANH HOÁ, VIẾT VỀ THANH HOÁ SAU NĂM 1975

MỤC TIÊU Giúp học viên:

- Củng cố ý thức tìm hiểu các tác giả văn học ở địa phương và các tác phẩm văn học viết về địa phương.

- Nắm khái quát tác giả, tác phẩm văn học Thanh Hoá từ năm 1975 đến nay. - Hiểu và cảm được bài thơ Dô tả dô tà. - Đọc, nắm cốt truyện, chủ đề truyện ngắn Nhà hàng hải. - Sưu tầm và đọc một số tác phẩm văn học của tác giả Thanh Hoá, tác giả

tỉnh ngoài viết về Thanh Hoá. VĂN BẢN DÔ TẢ DÔ TÀ

Dô tả dô tà, sông Mã quê ta Ngày nắng ngày mưa xanh bờ rau má Múa thì đội đèn hát như trống vỗ Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng Chiều nhai rau má tối học chữ Nôm

Page 21: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

21

Hiểu tận tâm căn tiếng đá, tiếng đồng Rạng đời vua Lê, tối đời chúa Trịnh Trạng Quỳnh ngạo nghễ đi vào nhân gian Một chiếc cầu sắt gánh ngàn tấn bom Dô tả dô tà cầu ta vẫn vững Mặt trời đỏ au như mặt trống đồng Dòng nước uốn xanh hai bờ đá dựng Dô tả dô tà ai đẩy giùm tôi Thuyền tôi đang xuôi đừng ai đẩy ngược Yêu thích nói đùa, ghét ưa nói thật Răng, rứa, mô, tê cũng vào dân ca Yêu nhau cửa biển cưới nhau trên ngàn Lá lách lá lành thuyền sao lái vậy Dô tả dô tà một đoạn đường sông Sóng gió ngả nghiêng như triều như thác Một cuộc đời sông bao đời thuyền nát Mãi còn câu hát vỗ vào ánh trăng... Sông Mã, thu 1995 (Mạnh Lê(*), trong Một cuộc đời sông, NXB Văn học, 1997)

Chú thích (*) Mạnh Lê, tên khai sinh Lê Văn Mạnh (1953-2008), người làng Trà Đông, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Từng là giáo viên THPT Cẩm Thuỷ, cán bộ giảng dạy của Trạm Đại học Sư phạm vừa học vừa làm thuộc Sở GD&ĐT Thanh Hóa, Phó Chủ tịch Hội VHNT Thanh Hóa, Phó Tổng biên tập tạp chí Xứ Thanh.

Page 22: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

22

Tác phẩm chính đã xuất bản, gồm các tập thơ : Từ ai đến tôi (1993), Một cuộc đời sông (1997), Tôi và ai nữa (2001). Trường ca : Người đánh thức đất đai (2006), Lửa Hàm Rồng (2007), Đất nước thuở Hùng Vương (2008)

- Giải thưởng thơ cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam, 1995.

- Giải thưởng Văn học Thanh Hoá 5 năm (1990 - 1995). - Giải B, giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc các Hội Liên hiệp Văn học nghệ

thuật Việt Nam, 1998. Mạnh Lê tâm sự : "Ngày lại ngày tôi với tôi còn ai nữa / Cùng tôi đi tiếp cuộc hành trình / Tôi là cái cây đã cắm vào đất / Cây vươn rễ âm thầm tươi tốt với xung quanh". ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN 1. Tìm và giải thích những biểu thị đặc trưng Thanh Hoá được tác giả sử dụng trong bài thơ. 2. Những biểu thị này nói điều gì về quê hương chúng ta? 3. Phát biểu cảm xúc khi đọc bài thơ - Bài ca về đất và người Xứ Thanh. Ghi nhớ Bằng những biểu thị đặc trưng của đất và người Thanh Hoá, trên nền nhịp điệu của Hò Sông Mã, một làn điệu dân ca quen thuộc, bài thơ là một bài ca, một lời tâm sự, niềm tự hào, tình yêu sâu nặng của Mạnh Lê đối với quê hương Thanh Hóa mến yêu. Nơi đây có truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời có những con người cần cù lao động, hiếu học, anh hùng, lạc quan, chân chất, giàu tình cảm dù phải trải qua trường kì gian khó.

PHẦN II. LÝ LUẬN PHÊ BÌNH VĂN HỌC Bài 4 (11 tiết)

GIỚI THIỆU MỘT SỐ BÀI LÝ LUẬN PHÊ BÌNH VỀ VĂN HỌC THANH HÓA

MỤC TIÊU

Giúp học viên:

Page 23: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

23

- Bổ sung kiến thức về hệ thống văn học sử địa phương Thanh Hóa, củng cố kiến thức lý luận phê bình về sự phát triển của Ngữ văn địa phương trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc Việt Nam.

- Hệ thống hóa sự phát triển đặc trưng thể loại tiêu biểu của thơ và văn xuôi; đánh giá được chân dung và sự nghiệp của một số nhà văn, nhà thơ tiêu biểu.

- Thực hành một số kỹ năng giới thiệu đặc trưng giai đoạn văn học và các tác giả có những đóng góp tiêu biểu với văn học địa phương và văn học dân tộc.

VĂN BẢN 1

XỨ THANH - MIỀN ĐẤT THI CA

Nhà bác học Phan Huy Chú trong bộ bách khoa thư Lịch triều hiến chương loại chí đã viết về vùng đất xứ Thanh : “Thanh Hóa mạch núi cao vót, sông lớn lượn quanh, biển ở phía đông… núi sông thật đẹp, là một nơi có cảnh đẹp ở nơi xung yếu. Vẻ non sông tươi tốt nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại nảy sinh ra nhiều văn nho…Bởi đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường, vượng khí chung đúc, xứng đáng đứng đầu cả nước”

Danh sĩ Nguyễn Thượng Hiền trong bài hát nói Bản tỉnh phong cảnh ca cũng dành cho xứ Thanh những dòng trác tuyệt:

Nhân trung cảnh, cảnh trung nhân Nhân với cảnh tứ thời giai sinh sắc Tam thập lục động thừa tuyên đệ nhất Thanh Hoa nhân vật tố giai. Vùng đất ấy nếu trở thành một miền thơ, một xứ thơ cũng không mấy ngạc

nhiên. Quả là tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho mảnh đất này những điều kiện để trở thành xứ sở thi ca với cả hai nghĩa: nơi sinh thành, hội tụ các thi nhân, cũng là nơi khởi nguồn cảm hứng thi ca.

1. Xứ sở của thi nhân… Thích làm thơ, vận thơ và đọc thơ, nếu coi đây là phẩm chất chung của người

Việt, thì xứ Thanh quả là vùng đất có “tố chất” thi ca nổi bật. Vùng đất được coi là “Việt Nam thu nhỏ” này nơi đâu cũng có dấu ấn của nguồn mạch thi ca. Thì đây, cả một vùng miền tây rộng lớn của xứ Thanh chính là quê hương của Mo, của Xường, của những truyện thơ dài nổi tiếng: Nàng Nga – Hai Mối, Xống chụ xon xao…và những người dân lam lũ chính là tác giả của những “bài thơ cổ quý hiếm” đó. Đây nữa, trên đât nước Việt Nam có rất nhiều kênh rạch này. Khi nhà thơ – nghệ sĩ dân gian cất lên những điệu hò, cũng là lúc trái tim cất lên tiếng nói thơ ca:

Vắng cơm một bữa chẳng sao Vắng em một bữa lao đao cả ngày Vắng em chỉ một phiên đò Trầu ăn chẳng có chuyện trò thì không

Page 24: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

24

( Hò Sông Mã) Dễ hiểu vì sao mạch đất này không chỉ vượng “tướng” mà còn giàu “thi

nhân”. Hơn thế, hai phẩm chất này hội tụ, sinh ra những hào kiệt, từng làm rạng rỡ cho quê hương, đất nước: Đinh Củng Viên, Hồ Quý Ly, Nguyễn Mộng Tuân, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Lê Văn Hưu, Lương Đắc Bằng, Lê Khôi, Lê Quát, Lê Cảnh Tuân, Trịnh Sâm, Trịnh Tráng, Nhữ Bá Sỹ, Tống Duy Tân, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Trần Xuân Soạn…Những tên tuổi lừng lẫy ấy dù là đấng quân vương hay bậc sĩ phu, nho sĩ, họ đều có chung những phẩm chất: khí khách và tài hoa.

Đây là bài ngẫu hứng của Thái tổ Lê Lợi, nhân một lần cầm quân đánh dẹp trở về. Tâm hồn thi nhân từ trong cốt cách dũng tướng cất lên thành những vần thơ hào sảng và bay bổng lạ thường:

Kỳ khu hiểm lộ bất từ nan, Lão ngã do tồn thiết thạch can. Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ, Tráng tâm di tận vạn trùng san. Biên phỏng vị hảo trù phương lược, Xã tắc ưng tu kế cửu an, Hư đạo nguy than tam bách khúc, Như kim chỉ tác thuận lưu khan. ( Đi đánh Điêu Cát Hãn trở về qua đường đê Long

Thủy) (Gian nan nào ngại cách non sông, Già cả mà ta vẫn vững lòng. Nghĩa khí dẹp tan mù mấy lớp, Tráng tâm san phẳng núi muôn trùng. Phòng ngừa bờ cõi cần ra sức, Giữ vững cơ đồ phải gắng công. Thác suối ba trăm dù hiểm trở, Nay xem nào khác nước xuôi dòng).

Phẩm chất ấy truyền lại cho những thế hệ sau và nền thơ Việt Nam tự hào có thêm một bậc minh quân thi sĩ:

Thúy vi hựu địa khả bồi hồi Vọng viễn đăng cao vũ trụ khôi Khước nhạ cáo thành phong Ngọc Kiểm Phù phi thất lộ nhập Thiên Thai Nhà văn mã địa vô nhân tảo Hư thất lăng không trấn nhất khai Yểu điệu giản cùng lâm tận ngoại Thời yêu hoàng ốc thủy hoa lai. ( Đề Long Quang động – Lê Thánh Tông) ( Sườn núi xanh xanh đẹp quá chừng

Page 25: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

25

Lên cao vũ trụ rộng không cùng Cáo thành cứ ngỡ lên non Kiểm Lạc lối đường như tới chốn Bồng Không quét mây vương đầy mặt đất Vút trời động chắn giữa tầng không Phong quang suối tận ven rừng suối Thi thoảng mời qua đến ngắm trông) ( Hải Anh dịch)

Đến giai đoạn hiện đại lực lượng thi công của xứ Thanh ở thời điểm nào cũng có những gương mặt tiêu biểu. Trong công cuộc hiện đại hóa thơ Việt Nam diễn ra vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, xứ Thanh tham gia với hai gương mặt nữ (quả là thú vị !): Vân Đài và T.T.KH. Nữ sĩ Vân Đài sinh ở Hà Nội nhưng gốc Thanh, sinh ở Hà Mô, huyện Nông Cống). Bà đã sớm có thơ đăng ở các báo Phụ nữ tân văn, Phong hóa, Ngày nay. Chọn giới thiệu Vân Đài bởi tác giả Thi nhân Việt Nam nhận thấy Vân Đài là “một người thơ” với “ lời thơ bao giờ cũng nhẹ nhàng, êm ái. Ít khi tiếng Nam có vị ngọt ngào như thế. Ấy vì Vân Đài ưa nói những gì rất mong manh, rất bình yên”

Người thứ hai từng gây “náo nhiệt” thi đàn những năm cuối của thập kỷ 30 chính là bút danh T.T.KH. Hồi ấy, Tiểu thuyết thứ bảy đã nhận được hai bài thơ cùng “một nét chữ run run”. Đó là “ Bài thơ thứ nhất” và “ Hai sắc hoa ti gôn”. Tác giả của hai thi phẩm không ghi địa chỉ, nhưng lời kể của nhân vật trữ tình đã hé lộ, đó là người ở “vườn Thanh”:

Ở lại vườn Thanh có một mình Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.

(Bài thơ thứ nhất) Cách mạng tháng Tám, rồi tiếp đến là cuộc kháng chiên chống Pháp, thời đại

sử thi với những sự kiện lớn dường như “hợp” với tố chất xứ Thanh, đồng điệu với khí chất xứ Thanh, nên khi thi đàn của nền văn học mới cách mạng đang thưa thớt bởi các “chiến tướng” của thơ mới chưa kịp nhập cuộc bỗng xuất hiện những cái tên gắn với những thi phẩm chói sáng: Trần Mai Ninh với Tình sông núi, Nhớ máu; Hữu Loan với Đèo cả, Màu tím hoa sim, Yên mộ, Hoa lúa, Những làng đi qua; Hồng Nguyên với Nhớ, Thôi Hữu với Lên Cấm Sơn… Qua sàng lọc của thời gian, đến bây giờ, những thi phẩm ấy vẫn là những tác phẩm tiêu biểu của nền thơ kháng chiến.

Trong lớp thế hệ thơ thời chống Mỹ, xứ Thanh góp những cái tên: Nguyễn Duy, Cẩm Giang, Lê Đình Cánh, Lê Văn Vọng, Lữ Giang, Nguyễn Bao, Xuân Sách, Trần Vũ Mai, Mã Giang Lân, Trịnh Thanh Sơn, Anh Chi, Mai Văn Hai, …

Tham gia vào diễn đàn thơ thời kỳ đất nước đổi mới có cả những người lính từ chiến trường ra như: Mai Ngọc Thanh, Lã Hoan, Huy Trụ, Nguyễn Ngọc Quế, Trịnh Anh Đạt…và những cây bút do đam mê thơ, nặng lòng với thơ cho dù có lúc

Page 26: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

26

nhà thơ lâm vào tình cảnh: Thơ ơi, ta bảo thơ này/ Để ta đi cấy đi cày nuôi em (Nguyễn Duy), như: Văn Đắc, Mạnh Lê, Đào Phụng, Mai Ngọc Thanh, Vũ Thị Khương, Lê Thị Kim, Phạm Khang, Nguyễn Minh Khiêm…Và gần đây là những cái tên mới: Nguyễn Anh Nông, Lâm Bằng, Phạm Văn Dũng, Trương Thị Mầu, Bùi Nhị Lê…

Thế hệ nối tiếp hế hệ, mảnh đất xứ Thanh đã dâng hiến và góp phần làm cho thảm rừng thi ca dân tộc thêm phong phú tốt tươi và giàu bản sắc.

2. Bản sắc xứ Thanh trong thơ Nếu không tìm tới điều này thì khó thuyết phục rằng nơi đây là miền thơ, là

xứ thơ. Bởi đã có một “xứ”, thường phải gắn liền với bản sắc “ miền thơ xứ Thanh” là gì? Nhận ra được điều này quả không dễ, tuy nhiên người viết vốn có cội rễ xứ Thanh nên cứ thử đưa ra những phán đoán coi như để học hỏi và tìm sự tri âm vậy.

Những “ ám ảnh về dải đất miền Trung”. Có thể coi đây là những biểu hiện đầu tiên của bản sắc xứ Thanh. Ấn tượng này không chỉ bộc lộ trong thơ xứ Thanh mà cũng sẽ có trong thơ của các “xứ” khác cùng dải đất giống như chiếc đòn gánh gánh hai đầu đất nước này. Dễ hiểu thôi rẻo đất miền Trung, tự nó đã là một ấn tượng mạnh khiến cho ai từ trong cái nôi ấy đi ra đều thấm thía:

- Sông Chu chớp bể mưa nguồn Trời quê bão giật mây cuồn cuộn mây Trăm năm cây lúa vẫn gầy… (Lê Đình Cánh) - Đi dọc miền Trung

Mới thấy dải đất này không thể hẹp hơn được nữa Tôi đi mà nghe lòng nao nao Thương mảnh đất miền Trung mảnh mai gầy guộc. (Phạm Đình Ân) - Người miền Trung đi đâu cũng nhớ Quê nhà cát trắng núi xa xanh Có lúc mồi ngon ly rượu mạnh Vẫn thèm ăn một chén cơm cà. (Trần Hoàng Vy) Lâu lắm rồi chẳng về lại miền Trung Mảnh đất cằn, cuốc lên toàn sỏi đá Những cơn gió Lào thổi khô tất cả Ngoảnh bên nào cũng thấy khô rang. (Võ Mai Anh Kiệt)

Thơ thời trung đại ít nói đến điều này phải đến thời hiện đại khi cái bản ngã có chỗ đứng, những cảm xúc riêng tư có dịp bộc lộ. Người miền Trung khi đi ra có dịp nhìn lại, mới thấy thương quê hương và tự thương mình. Có lẽ chỉ người miền Trung mới có tình cảm gắn bó đặc biệt với quê hương đến vậy. Xứ Thanh nói riêng, người miền Trung nói chung, khi nói chuyện mình thường “gói” cả quê hương vào đó. Trong mỗi người xứ Thanh luôn có hồn cốt “miền Trung”:

Page 27: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

27

- Thiên tai xô vẹt đất người Dòng sông co lại. Môi cười rộp lên. (Đào Phụng) - Con dấu chìm trạm trổ tận trong xương Thời thơ ấu không thể nào đánh đổi Trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội Có một miền quê trong đi đứng nói cười. ( Tuổi thơ – Nguyễn Duy)

Cái miền quê “in dấu chìm” vào “tận trong xương” ấy của thơ Nguyễn Duy là làng Quảng, là Bố Vệ, là xứ Thanh :

Ai qua Thanh Hóa về Quảng Xá Men rượu là hương vị của làng tôi Nhắc cầu Bố chắc nhiều người còn nhớ Đình nhà Lê rêu phủ đã bao đời.

Tác giả nhận thấy trong cha mình có “dân làng tôi” và “xứ Thanh”: Cha tôi đó dân làng tôi vậy đó Xả hết mình khi nước gặp tai ương Rồi thanh thản trở về với ruộng Sống lặng yên như cây cỏ sau vườn. ( Cầu Bố - Nguyễn Duy)

Bám trụ cùng xứ Thanh, Huy Trụ có lẽ là nhà thơ có nhiều dịp “suy ngẫm” về xứ Thanh nhiều hơn cả. Thi sĩ cảm nhận quê mình là “vùng đất bão”, tự hào biết mấy và cũng thương biết mấy:

Quê hương tôi Một vùng đất lắm đền đài vua chúa Gió trở thành cơn bão dữ Sông cũng thành sông ngựa Chảy ngang tàng qua bãi mía nương dâu

(Vùng đất bão) Thi sĩ còn nhận thấy biểu tượng cho “phẩm chất Thanh” ở dòng sông “ngang

tàng” mà cũng trữ tình vời vợi: Riêng một điều em nhận ở đất Thanh Cái giàu có ẩn trong từng con sóng Nên dòng sông trước khi ra biển rộng Hắt lên tay người bão lũ với phù sa. ( Sông Mã – Huy Trụ )

Dường như không hẹn mà gặp, các nhà thơ miền Trung, trong đó có xứ Thanh đều có chung cảm nhận, miền Trung giống “mẹ”, giống “bà” từ dáng hình đến phẩm chất. Và các thi sĩ khi làm thơ về mẹ, về bà của mình mà người đọc cảm nhận thấy cả miền Trung:

- Mẹ ta không có yếm đào Nón mê thay nón quai thao đội đầu

Page 28: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

28

Rối ren tay bí tay bầu Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa. (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa – Nguyễn

Duy) - Áo nâu còn đẫm mưa phùn Còn hoai vị cỏ sục bùn lúa non. (Mẹ ra Hà Nôi – Nguyễn Đình Cảnh) - Những ngón tay của mẹ như những củ nghệ củ dong mọc xuyên qua tổ kiến lửa chai sạm, sần sùi, vàng như rễ cỏ Nắng mưa không còn chỗ nào thấm sâu hơn Những vết sẹo không còn chỗ nào dày thêm được nữa . (Những ngón tay mẹ - Nguyễn Minh

Khiêm) - Lành nhường con, ấm đụm chồng Áo dăm mụn vá …nỗi lòng đâu yên. (Mẹ - Trịnh Anh Đạt) - Trong giấc mơ tôi ẩn hiện bóng bà Cắp rổ khoai dọc bờ sông vắng Bước chầm chậm, thời gian trĩu nặng Đã làm cong lưng bà! (Bà tôi- Trịnh Thanh Sơn) - Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế Bà mò cua bắt tép ở Đồng Quan Bà đi gánh chè xanh Ba Trại. Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm tàn. ( Đò Lèn – Nguyễn Duy) v.v…

Biểu hiện thứ hai cho bản sắc xứ Thanh trong thơ có lẽ là nét “rắn rỏi, bộc trực”: Nếu thử xếp thơ của các cây bút xứ Thanh lại với nhau, người đọc sẽ nhận ra thơ họ có điểm chung thú vị: cứng cỏi, gai góc, bộc trực, “vuông chành chạnh”. Liệu đó có phải là “tính cách Thanh” , phẩm chất đặ trưng của người xứ Thanh chăng? Không biết có phải là những “đỉnh núi cao vót”, những dòng sông lắm thác ghềnh, gió Lào cát trắng, biển một bên và rừng núi một bên đã tạo ra sự rắn rỏi, lắm khi đến quyết liệt của “tố chất” người xứ Thanh: Yêu thích nói đùa ghét ưa nói thật/ răng, rứa, mô, tê cũng vào dân ca (dô ta dô tà) . Bên trong tính cách đó nhất định sẽ là một trái tim nồng nhiệt. Trái tim ấy luôn có xu hướng đạt đến ngưỡng tuyệt đối của tình cảm. Chỉ có ở tính cách “Thanh” mới có bỗi buồn ghê gớm như thế này:

Một cộng với một thành đôi Anh cộng cô đơn thành biển Nắng tắt mà người không đến

Page 29: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

29

Anh ngồi rót biển vào chai. (Biển vắng – Trịnh Thanh Sơn)

Và một tình yêu lạ thường như thế này: Tôi người vệ quốc quân xa gia đình yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân nhân Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo. ( Màu tím hoa sim- Hữu Loan)

Rạch ròi, dứt khoát, tin mình như tin người, sẵn sàng hi sinh, sẵn sàng xả thân vì tình yêu, vì niềm tin, đó là phẩm chất xứ Thanh, là người xứ Thanh. Xin cúi đầu trước những bà mẹ Việt Nam anh hùng, song cũng xin dành sự ngưỡng mộ cho những bà mẹ miền Trung xứ Thanh trong hai cuộc kháng chiến:

Bao nhiêu bà mẹ chở chồng Núi Không đủ đá Để Trồng vọng phu (Mẹ miền Trung – Trịnh Anh Đạt)

Rạch ròi và quyết luyệt trong mọi chuyện, kể cả chuyện làm thơ: Thơ phải là rượu của thế gian Phải đâu nước lọc rót tràn mời nhau. (Gửi bạn làm thơ – Huy Trụ )

Tính cách rắn rỏi của người xứ Thanh tạo nên sự xui khiến: các nhà thơ xứ Thanh thích lối thơ bậc thang và “thơ - văn xuôi”. Ở lối thơ này, các cây bút xứ Thanh sử dụng thành công hơn cả. Đó là trường hợp của Trần Mai Ninh với Nhớ máu; Hữu Loan với Đèo Cả, Hoa lúa; Hồng Nguyên với Nhớ; Nguyễn Duy với Tre Việt Nam, Đánh thức tiềm lực…

Sự rắn rỏi rất dễ đưa thơ gần với “duy lý”, dù trữ tình mấy đi chăng nữa vẫn có cốt lõi duy lý: hay suy tư, triết lý, thích khái quát, thích đưa những vấn đề chính trị, xã hội vào thơ. Thử lắng lại một lần nữa bài Màu tím hoa sim của Hữu Loan, một bài thơ được coi là trữ tình bậc nhất của thơ hiện đại Việt Nam bởi chiều sâu nhân bản mà bài thơ đề cập tới: nỗi đau của tình yêu và khát vọng hạnh phúc:

Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại

Page 30: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

30

lấy chồng thời chiến chinh mấy người đi trở lại Nhỡ may mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê.

Nhưng khác với nỗi đau và khát khao hạnh phúc trong bài Khóc Thị Bàng Phi của Vua Tự Đức, nỗi đau và khát vọng trong Màu tím hoa sim được đặt trong lòng một cuộc chiến tranh. Vì vậy, tuy không là hệ quả trực tiếp của toàn cảnh xã hội, song, dư chấn của hoàn cảnh xã hội vẫn dội vào khiến cho bài thơ một thời phải “chịu trách nhiệm” liên đới do không phù hợp với tinh thần và yêu cầu của cách mạng lúc bấy giờ.

Biểu hiện thứ ba, thích quảng bá “Đặc sản” xứ Thanh: Quảng bá quê hương, đó không chỉ là điểm riêng của các cây bút xứ Thanh.

Nhưng với người xứ Thanh, nhu cầu này dường như rất mãnh liệt. Thêm nữa, không chỉ quảng bá những nét đẹp mà còn quảng bá những thứ bị cho là “kém cạnh” hơn người. Tôi cho rằng đó là bản lĩnh của tính cách “Thanh”. Càng thương quê, thương mình lại càng muốn khẳng định những gì chỉ riêng mình có, những cái riêng ấy không hẳn có ý nghĩa với người khác, nơi khác nhưng với đất mình, quê mình thì đó là máu thịt, là nguồn mạch, là tuổi thơ, là kỉ niệm…nuôi mình, khôn lớn, trưởng thành. “Đặc sản” xứ Thanh hữu hình và vô hình thì nhiều vô kể, nhưng các nhà thơ thời hiện đại lại thú vị nhất với những điều này:

Dô tả dô tà, sông Mã quê ta Ngày nắng ngày mưa xanh bờ rau má Múa thì đội đền, hát như sóng vỗ Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng. (Dô tả dô tà – Mạnh Lê)

Nếu xứ Thanh chọn một cây làm biểu tượng thì đồ rằng gần như một trăm phần trăm người xứ Thanh sẽ bỏ phiếu cho cây “ rau má” (!). Xứ Thanh có lẽ là nơi phát hiện ra giá trị của thứ rau đồng quê này nên người xứ Thanh truyền dạy cho con cháu: “Đói thì ăn rau má/Chớ quấy quá mà chết”. Từ thành ngữ xưa đến thành ngữ thời hiện đại: “Ăn rau má, phá đường tàu ”, xứ Thanh bỗng trở thành quê hương của rau má. Người xứ Thanh một ngày nào đó cũng nhận thấy, ừ nhỉ, cây rau má quả là gần gũi với mình, và không ngần ngại xác nhận: Dân Thanh Hóa là dân rau má. Chẳng ai bảo ai, lần lượt dưa rau má vào thơ: Ngược dòng rau má tìm tôi/ Xứ Thanh thương cảnh núi Nhồi vọng phu (Người về Bảo Lộc – Lê Đình Cánh). Văn Đắc cũng mau mắn xác nhận: Rau má là tôi, là anh/ cứ xanh mắt lá hiền lành là ta (Tôi người Thanh Hóa). Huy Trụ thì “luận” về rau má: Thân mềm lá mỏng như không/ cây rau ấy mọc lẫn cùng cỏ hoang/ nào ai chăm chút sớm hôm/ tự mình sống, tự mình vươn giữa đời… và ý nghĩa của cây: Khi thất bát, lúc nhỡ nhàng/ người bới đất ngỡ tìm vàng trong cây. Rất yêu thương và trân trọng, nhà thơ tha thiết khẳng định: Ơi cây rau má đất này/Nói điều chi với tháng ngày mà xanh

Page 31: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

31

(Cây rau ấy). Trịnh Anh Đạt thì gọi hẳn: Cây rau má – “sâm” của người xứ Thanh và thú nhận: Vị riêng rau má em ơi/Vẫn còn ngai ngái trong người xứ Thanh. Suy ngẫm này đâu chỉ dành riêng cho người xứ Thanh, nhưng có lẽ người xứ Thanh thì thấm thía nhất:

Bao giờ em về quê anh Mà xem dấu vết kinh thành xa xưa Vĩ nhân và các đời vua Cũng từ rau má, ốc cua nên người.

(Rau má) Hình như, các cây bút xứ Thanh ngày càng có xu hướng khẳng định bản sắc

quê hương. Nói đúng hơn, cha ông đã tạo ra nền móng văn hóa vững chãi và thế hệ cháu con tự hào về điều đó nên muốn đúc kết, muốn xưng tụng như một sự biết ơn, Mỗi người một cách, mỗi cây bút ấy, họ đã tạo nên một “xứ thơ”, một miền thơ xứ Thanh.

Miền thơ ấy đã tạo ra dòng chảy thi ca giàu bản sắc. Thơ hay phải giàu bản sắc. Thơ xứ Thanh đã và đang hòa vào dòng sông thi ca dân tộc, góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú của thơ ca Việt Nam, của bản sắc văn hóa Việt Nam.

Bản sắc xứ Thanh đã tạo nên một nguồn mạch thơ giàu sắc điệu và ngược lại, thể loại mẫn cảm này cũng đã góp phần lưu giữ và tỏa sáng bản sắc xứ Thanh.

TS Hỏa Diệu Thúy Trường ĐH Hồng Đức - Thanh Hóa (Nguồn Hội thảo văn học- Văn học Thanh Hóa nhìn từ miền

Trung)

VĂN BẢN 2: NÉT NỔI BẬT CỦA THƠ CA THANH HÓA

Một học giả người Pháp trong sách “Tỉnh Thanh Hóa” đã nói thế này: “Thanh Hóa là nơi căn bản của nước Nam phải học sử tỉnh Thanh Hóa.

Phong cảnh tỉnh Thanh đẹp có tiếng, nhiều tay sử bút Tàu phải đề tả mà khen, lại nhiều cổ tích danh kỳ nên những bậc danh nhân ai đã đến, ở đó một ít lâu, sau dẫu đi đâu lòng vẫn nhớ về đó mãi”

Thanh Hóa là cửa ngõ từ Bắc vào Nam của miền Trung. Con người và vùng đất như vậy, trong suốt những chặng đường lịch sử dân tộc Thanh Hóa bao giờ cũng là tụ điểm như là khởi đầu. Thơ Thanh Hóa đã lộ rõ nét riêng, cái chất người, chất đất của mình.

Khương Công Phụ - người Ái Châu (Thanh Hóa), đỗ tiến sĩ tại Bắc triều (Trung Quốc), làm quan thời nhà Đường đã viết bài thơ bằng chữ Hán: “Bạch vân chiếu phong hải” (Mây trắng rọi biển xuân), lời lẽ tao nhã mà thoát sáo, được người đời nhà Đường xưng phúc bài ấy như vậy. Bài phú ấy coi như một hình thức thơ cổ, coi như là tác phẩm văn học chữ viết sớm nhất còn lại của nước Đại Việt độc

Page 32: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

32

lập. Đến bài từ “ Vương Lang Quy” của Khuông Việt Đại Sư Ngô Chân Lưu thì đấy là tác phẩm xứng đáng đặt ở vị trí mở đầu cho thời kỳ văn học cổ điển, đồng thời cho toàn bộ văn chương, thành văn của dân tộc (theo ý của Trần Thanh Đạm). Tiếp mãi là các thời sau này mở ra những công cuộc cứu nước và giữ nước, Thanh Hóa thời nào cũng có tay bút thơ văn cự phách. Ba ông vua: Hồ Quý Ly, Lê Lợi, đặc biệt là Lê Thánh Tông là chủ súy Hội Tao Đàn, một hình thức tổ chức Hội nhà văn đầu tiên của nước ta.

Dường như khi đất nước sinh ra các Vua, Chúa thì cũng đồng thời sinh ra nhà thơ. Thơ ẩn giấu trong nhân gian, mở ra nơi công đường, sân điện. Thơ có mặt trong mọi hoạt động đời sống xã hội.

Bước vào thời kì mới trước và sau cách mạng tháng 8 năm 1945, thơ Thanh Hóa nhập cuộc với lịch sử dân tộc. Thi sĩ và chiến sĩ là một.

Ở thời điểm nóng bỏng ấy, Thanh Hóa có một lực lượng thơ ấn tượng và ảnh hưởng trên cả nước. Đó là: Thôi Hữu, Hồng Nguyên, Hữu Loan, Minh Hiệu, Hà Khang, Hồ Dzếnh…và Trần Mai Ninh (với thời gian sống và hoạt động, đặc biệt chất thơ và chất người thật sự hòa trộn với người và đất xứ Thanh, chúng tôi mãi mãi xin được ghi tên Trần Mai Ninh vào lực lượng thơ Thanh Hóa ở thời điểm lịch sử nóng bỏng này)

Từ đó, thơ Thanh Hóa tỏa ra rộng khắp và luôn luôn bám sát vào cuộc sống kháng chiến, thời nào, công cuộc nào cũng có gương mặt thơ Thanh Hóa đáng nhớ. Tôi xin được nói đôi điều về nhà thơ Lê Đại Thanh, quê gốc Thanh Hóa. Ông sinh năm 1907 và mất năm 1996 ở Hải Phòng. Thơ ông xuất hiện ít và rất nhiều người không biết đến. Nhưng lạ lùng tìm đọc lại mới thấy ông là nhà thơ đầy tâm sự, đầy hùng khí, cái hùng khí được chung đúc từ địa linh xứ Thanh. Ông đã để lại cái chất người xứ Thanh không thể nào quên được. Đọc thơ ông thấy tầm vóc con người chờm lên vũ trụ: “Nồi đồng chị đặt lên hè/ chị đun thành những gốc tre mẹ trồng/ Ngưu Lang/ Chức Nữ/ Thần Nông/ sẽ chăm cho ngọn lửa hồng bốc cao”. (Hát ru)

Hay: “Tôi mơ là một Trường Sơn/ Nghênh đầu đá trọc cánh buồm mây trôi” (Mâu thuẫn)

Bên cạnh nhà thơ lão thành ấy, Thanh Hóa, có cả một đội ngũ thơ vượt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, đó là Cầm Giang, Lữ Giang, Nguyễn Bao, Trần Vũ Mai, Ngô Xuân Sách, Nguyễn Duy và một số nhà thơ không là lính mà bám trụ ở Thanh Hóa: Vương Anh, Mai Ngọc Thanh, Văn Đắc, Mã Giang Lân, Anh Chi, Mạnh Lê, Huy Trụ…

Trên cái nền vững và rộng của thơ Thanh Hóa, chúng ta có thấy mấy hiện tượng thơ nổi bật, mà nếu dừng lại ngẫm nghĩ sẽ rút ra được một vài điều cho Thơ miền Trung và thơ cả nước hiện nay.

1. Hiện tượng thơ Hữu Loan: Đời thơ Hữu Loan có thể nói là ngắn ngủi. Ông để lại 10 bài thơ từ năm kháng chiến chống Pháp và đầu hòa bình. Ông đi làm kháng chiến là làm thơ tuyên truyền cho kháng chiến. Nào là chống di cư năm 1954, cổ vũ cho cải cách ruộng đất, tòng quân đi kháng chiến. Nào là ca ngợi người trấn Đèo Cả, cô gái quê tố khổ,

Page 33: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

33

người mẹ nghèo xóm nhỏ, chế độ ta tốt đẹp, thủ đô ta kiên cường…vào những năm 1947-1948 ( năm Tây đánh chợ càn ), Trần Mai Ninh lấy bài thơ “ Hai người lính cùng làng” của Hữu Loan để in truyền đơn, đề áp phích địch ở khu V. Sức mạnh cảm hóa của Hữu Loan chính là cốt lõi tình người, hồn thơ nằm trong câu chữ. Nhiều bài thơ như bức phù điêu về người và cảnh, như những phác thảo sử liệu bằng thơ. Vì vậy thơ ông đã ghi rõ dấu ấn về thời kỳ đầu kháng Pháp gian khổ hy sinh và anh dũng. Thơ của ông có cốt truyện, có nhân vật, ngắt câu, thả câu ngỡ như tùy tiện mà rất đúng chỗ, đúng lúc nếu thốn câu chữ lại cho ngắn đi thì mất cái nhạc điệu gây ấn tượng, mất đường nét khắc chạm, tục ngữ dân ca ngấm tràn vào thơ ông như máu ngấm trong da thịt, thơ ông mãi mãi mới và mãi mãi sống trong lòng nhân dân và Tổ quốc ta.

Hiện tượng thơ Hữu Loan sẽ khẳng định một điều: nhà thơ viết tận cùng tình cảm với tất cả tâm huyết chân thành của mình bằng ngòi bút tài hoa thì nhất định tác phẩm ấy có sức sống lâu bền. Nó vừa bộc lộ được tính cách, bản lĩnh, hướng nội hay hướng ngoại, miêu tả hay tâm trạng, tham gia vào thời cuộc hay nghĩ đến muôn đời… dù cách nào đi nữa thì lòng chân thành, đức tin yêu con người vẫn là điểm xuất phát và quyết định cho tầm vóc và giá trị tác phẩm. Hơn nữa, thơ Hữu Loan không lẫn với ai còn ở chỗ nó hiện ra đậm nét cái chất người, chất đất gồ ghề, thô ráp, phóng túng, ngang tàng của người trí thức lao động, người bình dân nghèo, hồn nhiên bộc trực, cái tính cách Hữu Loan, tính cách của con người xứ Thanh, tính cách được sinh ra trong cảnh khó khổ khắc nghiệt và luôn phải chống chọi để tồn tại vượt lên.

2. Hiện tượng cuộc đời và thơ Nguyễn Duy Nguyễn Duy học phổ thông rồi đi bộ đội, rồi về học Đại học Tổng hợp văn,

sau đó đi học Trường viết văn Nguyễn Du, được một năm thì thôi học. Anh nổi tiếng từ những năm 1972 với chùm thơ giải Nhất báo Văn nghệ: “Tre xanh”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Bầu trời vuông”. Sau đó, suốt một chặng dài thơ anh nở rộ thu hút sự chú ý rộng rãi của người đọc. Anh đi nhiều, viết nhiều. Đến những năm đất nước đổi mới, anh được đi đây đi đó, trong nước ngoài nước, tầm nhìn sâu rộng hơn và anh bộc lộ bản lĩnh tranh đấu cho nhân dân, tấn công vào cái xấu, cái ác trong “ Đánh thức tiềm lực”, “Nhìn từ xa… Tổ quốc”, “ Kim mộc thủy hỏa thổ”. Sau những cú đấm mạnh ấy, hình như Nguyễn Duy có chùn tay lại. Những năm tháng sau này, thơ Nguyễn Duy chuyển hẳn sang ngẫm nghĩ, thổ lộ, phơi bày gan ruột về hướng cá nhân trong đời sống thường nhật. Những là: “Thông thường thượng giới rong chơi/ Trần gian choang choác sự đời tùy em… Cha con chúa chổm loanh quanh/ Anh như nguyên thủ tanh bành quốc gia” (Vợ ốm) và… Năm nay lại lụt trắng đồng/ quê ta lại tỏng tòng tong mùa màng/ Làng ta lại lóp ngóp làng/ Lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng… Khấn thầm lời chúc sang xuân/ Nén nhang bái tổ khấm thầm… dân ơi” (Dân ơi). Nhiều bài thơ ngỡ như nói vui, nói bông phèng mà cười ra nước mắt.

Sau đó một thời gian anh tuyên bố không làm thơ nữa, chuyển sang làm lịch thơ Nguyễn Duy, triển lãm thơ Nguyễn Duy. Công việc tưởng như nổi tiếng làm ăn

Page 34: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

34

và để đi phát hành thơ của mình. Hóa ra việc đó đã đưa thơ anh vào đến mọi nơi từ người tầng lớp trên đến người bình dân nghèo khó, từ xó chợ góc núi đến các thành phố lớn, vượt biên giới mà sang Đông sang Tây. Thơ và đời Nguyễn Duy luôn có những biến động thăng trầm, không chịu ngồi yên, đứng yên, thơ và người hành động, ném vào cuộc sống mà hành động, luôn muốn thơ và đời mình có ích cho cuộc sống nhân dân. Thơ Nguyễn Duy càng về sau càng có khuynh hướng đối lập lại với loại thơ Tháp Ngà, véo von, ẻo lả. Anh góp cho thơ Việt Nam một tính cách thơ khỏe khoắn, dường như dễ dãi mà hóm hỉnh, nói như chơi vui trong cuộc rượu mà đêm về ngẫm nghĩ xót ra trong lòng. Thơ không làm mê hồn mà thơ làm thức tỉnh tâm can.

Từ những nét nổi trội như vậy, nhìn rộng ra toàn cảnh thơ Thanh Hóa, ta có thể khái quát: thơ Thanh Hóa mạnh mẽ mà mềm mại, tự nhiên mà tinh tế, tự sự mà trữ tình, cá tính mà hòa hợp. Nó là một phần máu thịt của thơ miền Trung, một mảng màu trong bức tranh thơ ca Việt Nam .

Văn Đắc - Hội Nhà văn Việt Nam (Nguồn Hội thảo văn học- Văn học Thanh Hóa nhìn từ miền

Trung)

VĂN BẢN 3

HỮU LOAN VỚI CUỘC HÀNH TRÌNH CÙNG KHÁNG CHIẾN

Đã có độ lùi hơn nửa thế kỷ để nhìn lại, ta càng thấy rõ vai trò đặc biệt của các nhà thơ các tỉnh Bắc miền Trung trong trào lưu thơ ca kháng chiến chống Pháp của nước ta. Đó là những Hồng Nguyên, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Minh Huệ, Minh Hiệu…và thật đặc sắc là Hữu Loan, Trần Mai Ninh. Tôi tính cả Trần Mai Ninh, bởi dù quê ông ở Hà Tây (cũ), nhưng ông học trung học ở Thanh Hóa rồi sau này hoạt động văn học và báo chí cách mạng tại Thanh Hóa. Đáng kể hơn ông là một nhân vật chủ chốt ở chiến khu Ngọc Trạo của Thanh Hóa thời tiền khởi nghĩa. Sau khi vượt ngục tù của thực dân Pháp tại Thanh Hóa, ông vào miền Trung hoạt động và đã sáng tác nên hai bài thơ Nhớ máu và Tình sông núi có thể nói là niềm tự hào của thơ ca kháng chiến chống Pháp của Việt Nam ta. Tôi xin lưu ý, cả Quang Dũng nữa, bài thơ nổi tiếng bậc nhất của ông là Tây tiến, viết về đoàn binh chống Pháp hoạt động tại địa bàn Châu Mai, Châu Mộc, Sầm Nưa, (Lào) và ở miền tây Thanh Hóa: “Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi…Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Tôi đã đi thực tế Mường Lát, vùng cao miền tây Thanh Hóa, tiếp giáp nước bạn Lào là địa bàn mà bộ đội ta sát cánh cùng bộ đội yêu nước Lào chiến đấu chống thực dân Pháp trong nhiều năm. Với kinh nghiệm văn học của mình, tôi vẫn nghĩ thời đại nào thì có thơ ca của thời đại ấy, cuộc sống nào sẽ nảy sinh thơ ca của cuộc sống ấy. Nêu lại việc đoàn binh Tây tiến mà Quang Dũng là một thành viên, dễ thấy một thực tế là cuộc sống chiến đấu

Page 35: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

35

những năm kháng Pháp ở vùng đất Thanh Hóa đã vào thơ Quang Dũng chân thực và hay như vậy…

Không chỉ ở đất Thanh Hóa, mà ở khắp cả Bắc miền Trung nói riêng và cả miền Trung nói chung, là vùng chiến địa thật đặc biệt. Nói qua âm nhạc một chút, bản trường ca Bình Trị Tiên khói lửa rất bi hùng của Nguyễn Văn Thương là một thành công lớn của văn nghệ kháng chiến, cũng ra đời bởi thực tế kháng chiến ở các tỉnh Băc miền Trung . Còn về thơ ca kháng chiến trong dải đất này, càng đặc sắc hơn. Trên thực tế lịch sử đã ghi, toàn quốc kháng chiến chống xâm lược Pháp chính thức bắt đầu vào ngày 19 - 12 - 1946. Nhưng, thơ ca kháng chiến chống Pháp đa xuất hiện trước đó gần hai tháng với những thành tựu đỉnh cao, như bài thơ Nhớ máu Trần Mai Ninh viết vào đêm 9-11-1946, và sớm hơn nữa là bài Đèo Cả của Hữu Loan, viết từ mùa thu 1946 . Có thể nói, Hữu Loan và Trần Mai Ninh là hai hiện tượng lớn của thơ ca kháng chiến chống xâm lược Pháp. Hai ông với những thành công đột ngột trong thơ ca, nay nhìn lại tôi xin mạnh dạn nói rằng đó là lịch sử của nước Việt Nam độc lập tự do dân chủ đã tạo nên nhà thơ và thơ ca của mình!

Trần Mai Ninh là một nhà văn tiền chiến, có thơ xuất bản từ năm 1938, lại có tiêu thuyết Rạng đông, được Giải thưởng Tự lực Văn đoàn năm 1939, nhưng tôi nghĩ ông không thuộc về thời đại văn chương trước năm 1945. Đơn cử bài Từ biệt ông viết năm 1939 đề tặng các chiến sỹ anh dũng trong đội quân quốc tế chống Phát – xít, những câu thật dữ dội, thật lay động: “ Chỉ một mình mạnh vươn trên bể máu…/ Quân quốc tế hát bài ca với lệ/ Đã ngoảnh nhìn lần cuối Tây Ban Nha…”. Thơ như thế, ta thấy Trần Mai Ninh là nhà thơ của một thời đại thơ ca khác thơ mới. Và, ông đã quyết đi tới thời đại thơ ca ấy, dẫu đương thời, người đời còn chưa biết nó ở đâu, sẽ ra đời vào thời gian nào. Thế rồi, thực tế lịch sử cho thấy, với Nhớ máu và Tình sông núi, Trần Mai Ninh là một hiện tượng đáng tự hào của thời đại thơ ca mới, thơ ca chống xâm lược Pháp, bảo vệ nước Việt Nam độc lập. Ngôn ngữ thơ của ông, đến đầu thế kỷ XXI này vẫn là một vẻ đẹp rất mới lạ và dặc sắc!

Hữu Loan là một hiện tượng đặc biệt hơn nữa. Bởi, cho đến năm ba mươi tuổi ông còn chưa nghĩ mình sẽ là nhà thơ. Ông sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Nhà nghèo nhưng học rất giỏi, dù đã thi được chân Thư ký văn phòng phủ Toàn quyền, Hữu Loan vẫn không đi làm cho người Pháp, mà đi dạy ở các trường tư thục từ năm 1941. Cũng từ năm 1941, ông đã tham gia phong trào bình dân, rồi tham gia Việt Minh ở Nga Sơn, quê ông. Cách mạng tháng tám Hữu Loan là Phó chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Một thời gian sau, ông được điều lên Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách bốn ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Giữa năm 1946, ông được phân công làm công tác tuyên huấn Quân khu IV, trực tiếp phụ trách tờ báo chiến sĩ. Vậy là Hữu Loan trở thành người cầm bút. Một chuyến đi làm báo, Hữu Loan Cưỡi ngựa vào vùng Đèo Cả. Bấy giờ, sau khi gây hấn ở Nam Bộ, Thực dân Pháp đã đem quân ra quấy phá vùng Khánh Hòa. Đèo Cả thành nơi quân ta trấn ngự. Cưỡi trên con ngựa đực bất kham dong duổi vào khu V dằng dặc khi đó đang còn vô

Page 36: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

36

cùng hoang vắng, Hữu Loan biết được non sông hùng vĩ, những bầy thú hoang lang thang. Ông chứng kiến cả nạn đói và sốt rét hoành hành nơi này. Và những xúc cảm đặc biệt đã cuộn trào trong lòng ông, thứ xúc cảm vô cùng mới mẻ, khiến say lòng. Trong con đường hầm dài mười bốn cây số tối mờ mịt, những đơn vị Vệ quốc đoàn trú ngụ để đánh giặc. Đói, khát và sốt rét, nhưng những chiến sỹ lòng tràn đầy tin tưởng, sẵn sàng quyết chiến…Trước thiên nhiên và những con người như vậy, cái cảm xúc lạ lùng như cuộn trào mãnh liệt, thôi thúc Hữu Loan thể hiện nó thành lời, thành tiếng. Và những lời những tiếng đó, vừa kêu hùng vừa bao la, mô tả nước non trời biển mến yêu, kỳ vĩ, đã thành bài thơ Đèo Cả:

…Núi cao ngất Mây trời Ai Lao Sầu đại dương Dặm về heo hút Đá Bia mù sương…

Cũng có thể, lúc viết Đèo Cả, Hữu Loan chưa biết bài thơ đầu tay của ông chính là bài thơ đầu tiên của một thời kỳ thơ ca mới. Thơ ca thời kỳ trước đó, có nhiều tài năng lớn với những sáng tạo tự hào cho nền thơ ca nước Việt ta, mà lịch sử văn hóa gọi là thời kỳ Thơ mới, những cảm hứng chủ đạo của nó là buồn hoặc bi phẫn, hoặc bất đắc chí. Đèo Cả là thứ thơ khác hẳn. Nói tới sự gian lao, nói tới máu lửa, chân thực mà hào hùng cao cả: “Rau khe/ cơm vắt/ áo phai màu sa trường…/ Gian nguy lòng không nhạt/ căm thù trăm năm xa/ máu thiêng sôi dào dạt/ tự nguồn thiêng ông cha…” bởi có một tâm hồn phù hợp với thời cuộc mới và một tài năng bẩm sinh. Hữu Loan trở thành nhà thơ viết nên bài thơ ở đầu một thời đại thơ ca mới. Thơ ca kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đến lúc này, chưa xuất hiện Nhớ máu và Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Thi (ở ngoài Bắc) còn chưa in những bài thơ tự do không vần, và còn phải cần thêm một thời gian nữa mới có nhớ của Hồng Nguyên, Mưa núi của Minh Hiệu, Tây tiến của Quang Dũng , Bộ đội về làng của Hoàng Trung Thông, Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ…Bài thơ Đèo Cả có một hơi thơ lạ lùng, chưa từng thấy ở thơ Việt. Lòng yêu non sông đến tự hào và tình thương yêu những con người đang đổ máu cho một sự nghiệp vĩ đại khiến tác giả có một xúc cảm to lớn, những câu thơ rắn đanh, lúc chát chúa, lúc dồn nén, giàu phong vị sử thi mà rất hiện thực:

Chân đèo Nam máu giặc bao lần nắng khô Sau mỗi lần thắng những người lính Đèo Cả về bên suối đánh cờ người hái cam rừng ăn nheo mắt

Page 37: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

37

người vá áo thiếu kim mài sắt người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu… Viết bài thơ đầu tay, nhưng nhà thơ đã có một bút pháp chắc chắn và mạnh

mẽ, một bút pháp rất mới, nhưng trong nó như có được tinh hoa thơ cổ điển phương Đông nhất là cái đẹp mạnh bạo của thơ Tống, Trung Hoa. Bởi thế, Đèo Cả in trên báo Chiến sĩ với bút danh là Hữu, đã được quân dân khu VI đón đọc rất sôi nổi. Hữu Loan có gửi bài thơ cho một người ở Thị xã Thanh Hóa, đó là cô học trò nhỏ của ông, Lê Đỗ Thị Ninh. Và, cô gái 17 tuổi đã đem lòng thương yêu Hữu Loan. Sau bài Đèo Cả, năm 1947, Hữu Loan viết bài thơ Quách Xuân Kỳ. Quách Xuân Kỳ khi ấy là Bí thư thị ủy Đồng Hới, bị giặc bắt và hy sinh anh dũng trong nhà tù. Giữa những ngày khói lửa gian nguy đó, bài thơ Quách Xuân Kỳ được in ngay trong báo Thép mới của Chi hội văn nghệ Liên khu IV. Sau đó, rất nhiều chòi phát thanh ở các thôn xóm vùng Thanh- Nghệ- Tĩnh, anh em thông tin tuyên truyền đã đọc hoặc ngâm bài thơ Quách Xuân Kỳ, để cổ vũ kháng chiến. Mải miết đi theo những nẻo đường kháng chiến khắp cả Bắc miền Trung, để viết báo, và khi có xúc cảm dâng trào thành thơ thì Hữu Loan làm cái việc viết nó lên trang giấy. Sống nhiệt huyết nên ông viết thật sảng khoái…

Đầu năm 1948, Hữu Loan nhận được tin nhắn, gọi về Thị xã Thanh Hóa ngay. Nguyên do, cô học trò Lê Đỗ Thị Ninh đã thổ lộ với mẹ tình cảm của mình đối với “gia sư Hữu Loan”. Mẹ cô từ lâu đã quý mến cậu gia sư đó, nên rất mừng, đồng ý ngay với quyết định của con. Ngày 6 tháng 2 năm 1948, đám cưới của Hữu Loan và Lê Đỗ Thị Ninh được tổ chức, như sau này ông đã viết: Tôi ở đơn vị về/ cưới nhau xong/ là đi… Thật đau đớn, bảy tháng sau, khi đang ở Ban tuyên huấn sư đoàn 304, đóng ở Thọ Xuân, Thanh Hóa, Hữu Loan nhận được tin người vợ trẻ của ông đã qua đời. Thoắt cái, Hữu Loan trở thành một con người trầm lặng lạ lùng. Có thời gian tôi được làm việc với nhà viết kịch Hà Khang, người cũng ở Ban tuyên huấn sư đoàn 304 thời kháng chiến chống Pháp, nên được ông kể cho biết: Khi ấy Hữu Loan là Trưởng ban Tuyên huấn. Nhận được tin tang tóc đó, ông đã đau đớn và nín lặng một cách bất thường. Suốt mấy tháng trời, ông không viết báo, cũng không làm thơ, sống thui thủi. Cho đến mùa hè năm 1949, Hữu Loan vào Nghệ An dự một đợt chỉnh huấn, ông không còn chìm sâu vào trầm lặng nữa, mà đã bắt đầu trò chuyện giao lưu tình cảm với mọi người. Và ông đã khóc người vợ trẻ quá cố bằng bài thơ Màu tím hoa sim. Những dòng thơ ghi lại cuộc sống thực của ông: Yêu nàng/ như tình yêu em gái/ Ngày hợp hôn/ nàng không đòi may áo mới… Ở bài Đèo Cả, hiện thực đời sống dội và tâm can, trí não Hữu Loan, khiến ông có những cảm xúc kiêu hùng, cách nhìn ngang tàng mà tạo nên một mạch thơ đẹp lạ thường. Đến lúc này, thực tế đau thương bị nén chặt xuống đấy lòng nhiều ngày, đã bùng lên một tiếng thơ đau xót:

Page 38: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

38

Lấy chồng thời chiến chinh mấy người đi trở lại… Nhưng không chết người trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh … Đây là thơ viết về nước mắt, là nước mắt lăn trên gương mặt sương gió

người chiến binh. Hữu Loan tự thấy là thứ thơ riêng nên không gửi Màu tím hoa sim cho báo nào. Nhưng, bài thơ được truyền tay nhau lan rất nhanh ở khu IV, ra khu III và tới cả Việt Bắc…Kể từ Màu tím hoa sim, Hữu Loan bộc lộ sở trường trong bút pháp trữ tình, kể chuyện, thơ ông thêm một vẻ đẹp nữa là vẻ đẹp tráng sĩ đi kháng chiến qua các nhân vật thơ. Vào thời gian này, ở Việt Bắc có một sự kiện học thuật quan trọng, là cuộc hội thảo về thơ Nguyễn Đình Thi cũng mới in có bốn bài và thơ ông cũng chưa đi vào sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Có một phần, do cách trở về địa lý, nhưng chủ yếu bởi lối sống và cách viết của Hữu Loan tách riêng ra một cõi, nên cuộc hội thảo nói trên không mấy tác động đến ông. Ông vẫn viết những gì có trong bản ngã của ông. Ở Hữu Loan, hầu như không có sự đắn đo lựa chọn hình thức thơ, mà chỉ mải miết hành trình theo cuộc sống kháng chiến và cuộc sống đó, lúc kiêu hùng hay khi thương đau, dội vào ông, tràn xuống trang viết, thành thơ…Ngay trên đất khu IV, Lưu Trọng Lư đòi đuổi thơ tự do của Nguyễn Đình Thi “ra khỏi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Nhưng Hữu Loan vẫn cứ làm thơ tự do, leo thang một cách hồn nhiên !

Từ năm 1950 trở đi, nỗi đau riêng có phần lắng xuống, Hữu Loan đi theo bộ đội chiến đấu nhiều hơn, có xúc động, là viết. Đi chiến dịch Hà - Nam - Ninh, ông viết bài Yên Mô. Yên Mô là vùng chiêm trũng bị địch chiếm. Bộ đội về, thấy giữa tháng năm, trời hạn/ đồng chiêm mà nước cạn/ giặc kéo qua đồng/giầy đinh đi trên lúa khô. Chỉ đôi câu chấm phá, mà hiện lên thật rõ cảnh quê những năm đau thương, chiến đấu. Và khi viết về người quê thì dạt dào cảm động:

Bộ đội về mùa mưa đường lội Lúa dày xây thành lúa tràn khắp lối bông rậm rà

Page 39: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

39

níu chân bộ đội Dân làng theo lính về mắt đựng màu lúa quê… Đề tài tình quân dân như cá với nước đã được nhiều nhà thơ viết thành công,

như Hồng Nguyên với bài Nhớ, Hoàng Trung Thông với Bộ đội về làng, Quang Dũng có Những làng đi qua…Hữu Loan cũng có bài thơ trùng tên với bài thơ của Quang Dũng, nhưng là một cách mạch thơ khác hẳn:

Từng chiều từng chiều hôm xuống Người lính hành quân trú qua nhiều thôn xóm Có thôn xá dăm mái tranh nghèo… Có những thôn giặc tàn sát hết/ Người sống không còn để chôn người giặc giết Lợn rừng về moi Sắn sót vườn hoang. Đương thời không ai viết sâu về mất mát đau thương như Hữu Loan. Nhưng

thơ ông không bị rơi vào bi lụy, bởi ông hiểu rõ sức sống tiềm tàng nơi làng xóm Việt Nam, cảm được sâu sắc sự sống phập phồng của hồn quê những nơi bộ đội vệ quốc đi qua. Những chàng vệ quốc đánh Tây gặp o thôn nữ về làng… “ Nhưng trú quân không lâu/ nửa đêm hành quân/ hai người không gặp nhau/ và trong làng nhỏ/ nhà em vắng ngõ/ đường dài như/ tháng bảy mưa ngâu”. Với Hữu Loan, mối quan hệ quân dân là một mối tình thâm, như tình bản hạt, ruột thịt:

Đôi làng như làng quê Người mẹ già như mẹ… Tới thời kỳ này, bút lực dồi dào lạ lùng trong Đèo Cả của Hữu Loan không

còn nữa, thay vào đó, thơ ông thấm đẫm hồn quê. Cái giọng mạnh mẽ mang hơi hướng thơ Tống (cụ thể hơn là Tống Từ) được thay bởi giọng điệu dân dã. Có thể nói lúc này thơ Hữu Loan phảng phất vẻ đẹp tinh hoa của nghèo, của dân ca đồng bằng xứ Bắc. Ông lại đặc biệt chú ý khai thác chuyện tình cảm lứa đôi thời đánh giặc, là người trai khói lửa và người gái nhỏ hậu phương trong Màu tím hoa sim, là nỗi nhớ thương của gái làng, trai lính trong những làng đi qua…Đến bài Hoa lúa ông viết hồi cải cách ruộng đất, lại là chuyện tình ngang trái, những câu thơ có hơi hướng ca dao: “Đôi mắt em mang/ chân trời quê cũ/giếng ngọt cây đa/ anh khát tình quê ta/ trong mắt em/ thăm thẳm”. Với sự kiện cải cách ruộng đất, nhiều bài

Page 40: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

40

thơ làm thơ tố khổ. Cũng kể khổ, nhưng thơ Hữu Loan có nhiều chiều sâu khác: “Những tình em đắng cay/ còn khóc trong/ ca dao tục ngữ”; kể khổ, nhưng tình thơ cảm động, xao xuyến:

Người trai quê biết đâu những đêm dài em khóc đầy như giếng mưa câm như bồ thóc… Vào thời kỳ đầu cải cách ruộng đất, Hữu Loan đã gặp một thôn nữ ở quê

hương Nga Sơn, rồi đôi lòng gắn bó. Nên có thể nói, Hoa lúa là bài thơ của tình ông, mối tình này bền vững, ông và bà sống với nhau đến đầu bạc răng long, cùng vượt qua nhiều khổ nạn mấy thập kỷ sau ngày cưới. Sự kiện đầu tiên là, giai đoạn tiếp theo của cải cách ruộng đất, gia đình bên vợ ông bị quy là địa chủ. Tiếp nữa là những xáo động khôn lường khiến Hữu Loan phải rời hẳn văn chương, về lại quê nhà. Vậy là khép lại hành trình thơ Hữu Loan, cuộc hành trình chín năm cùng kháng chiến bắt đầu từ Đèo Cả. Đó là ba ngàn ngày tràn đầy sinh lực dành cho đánh giặc và sáng tạo. Những gì ông làm được đã thành giá trị cuộc sống của thời kỳ tuyệt vời trên đất nước chúng ta thời kỳ kháng chiến bảo vệ nền Độc lập Dân chủ Cộng hòa thủa ban đầu. Do vậy, nhiều năm qua đi người đời vẫn nhớ đến ông. Chuyện ông kiếm sống bằng đẩy xe cút kít, chuyện ông mái đầu bạc còn đi thồ hàng thuê, nhưng vẫn dắt theo bên người một tác phẩm văn học cổ điển, thường là bản Pháp văn, dễ đọc những lúc giải lao… Những chuyện đó được lan truyền từ Nam ra Bắc, bởi người đời yêu quý nhà thơ. Có chuyện còn được in báo, rằng, năm 1957, đêm cuối cùng ở Hà Nội để sáng hôm sau về quê Hữu Loan cùng Văn Cao thức trắng tâm sự; và rồi ba mươi năm sau, nhờ sự nghiệp đổi mới, Hữu Loan được mời ra Hà Nội gặp lại Văn Cao khi mái tóc hai người bạc trắng, mắt long lanh, cất giọng lẫy một câu Kiều: “ Trời còn để đến hôm nay, tan sương đầu ngõ vén mây cuối trời”… Những chuyện như thế có trong cuộc đời, bởi vì cuộc đời thực sự yêu quý nhà thơ, yêu quý thơ ca!...

Tôi xin khép lại tham luận này bằng một nhận định của cá nhân mình: Thi sĩ tiền chiến Nguyễn Nhược Pháp để lại một dấu ấn rất đẹp trong một thời đại thơ ca rực rỡ của nước Việt bởi mười hai bài thơ. Còn thi sĩ Hữu Loan, là một hiện tượng đặc sắc trong thời đại chiến tiếp theo, cũng rực rỡ, của thơ ca Việt Nam ta, và chỉ với mười bài thơ!

Anh Chi - Hội Nhà văn Việt Nam (Nguồn Hội thảo văn học- Văn học Thanh Hóa nhìn từ miền

Trung) VĂN BẢN 4

Page 41: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

41

VĂN XUÔI XỨ THANH TRONG DÒNG CHẢY VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI

Có hay không bộ phận văn học xứ Thanh? Theo chúng tôi, khái niệm “văn

học Xứ Thanh” hay “văn xuôi xứ Thanh” được dùng ở đây chỉ là tương đối, làm sao có thể phân biệt rạch ròi cả về định lượng lẫn định tính cái gọi là “Văn học xứ Thanh” cả trong chủ thể sáng tác lẫn tác phẩm. Dẫu vậy, chúng tôi vẫn cố gắng hướng tới một sự khu biệt mang màu sắc “khu vực” nhằm nhấn mạnh sắc thái địa phương của một vùng đất có lịch sử lâu đời và giàu bản sắc văn hóa, đồng thời khẳng định vai trò, ý nghĩa của văn học địa phương trong đời sống văn hóa, xã hội, trong việc góp phần xây dựng và phát triển một nền văn học dân tộc “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” theo tinh thần của Nghị quyết 23 của Trung ương Đảng.

Đối tượng thuộc “văn học Xứ Thanh”, ở đây thuộc về tác phẩm của các tác giả đang và từng là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hóa. Họ phần lớn là người quê Thanh, song có người tuy không mang gốc Thanh nhưng đã sống và làm việc ở xứ Thanh đã lâu. Văn xuôi Thanh Hóa tuy mới thực sự hình thành mấy chục năm gần đây song đã nhanh chóng phát triển thành lực lượng, là một bộ phận quan trọng của văn chương Thanh Hóa, đã và đang tham gia đắc lực vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng quê hương.

1. Các giai đoạn phát triển và lực lượng sáng tác “Chiến khu văn hóa kháng chiến”, tiền đề và nền móng cho lực lượng viết

xứ Thanh: Trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Hóa là vùng tự do, là “căn cứ địa”, là cơ sở “trung tâm” của văn hóa kháng chiến. Trụ sở của đoàn “Văn hóa kháng chiến” khi ấy đóng tại làng Quần Tín (xã Thọ Cường, huyện Triệu Sơn). Nơi đây, ba lớp bồi dưỡng viết văn đầu tiên, có tên là lớp “Văn hóa kháng chiến” đã được mở dưới sự phụ trách của giáo sư Đặng Thai Mai, Chủ tịch ủy ban hành chính Thanh Hóa khi ấy. Tham gia giảng dạy, ngoài các văn nghệ sỹ nổi tiếng lớp trước còn có các đồng chí lãnh đạo Đảng, lãnh đạo văn hóa, văn nghệ kháng chiến, như: Trường Chinh, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng v.v... “Trung tâm văn hóa kháng chiến” xứ Thanh đã thu hút và là nơi công tác của nhiều văn nghệ sỹ, từ Hà Nội vào và từ miền Trung ra.

Hoàn cảnh trên đã tạo cho xứ Thanh một cơ hội quý hiếm, ngay từ những khóa học đầu tiên của lớp bồi dưỡng viết văn, Thanh Hóa đã có “đại diện” tham dự: Mai Bình, Minh Hiệu, Hà Khang... Quan trọng hơn, hoạt động của “Trường văn hóa kháng chiến” đã làm dấy lên phong trào văn hóa văn nghệ rất sôi nổi cho xứ Thanh. Được “hít thở” trong bầu không khí và sinh hoạt văn chương, nhiều cây bút xứ Thanh có dịp nảy nở năng khiếu văn chương. Thế hệ đầu tiên của xứ Thanh trưởng thành từ trong không khí văn chương kháng chiến khi ấy, có những cái tên đã tỏa sáng trên văn đàn của nền văn học cách mạng non trẻ: Hữu Loan, Hồng Nguyên, Thôi Hữu (thơ), Nguyễn Trinh Cơ, Văn Tâm, Nguyễn Thế Phương (văn xuôi) v.v...

Page 42: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

42

Hòa bình lập lại, năm 1955, Ty Văn hóa Thanh Hóa được thành lập. Hoạt động văn hóa văn nghệ đi vào quy củ và mang đậm sắc thái địa phương nhằm phục vụ cho công cuộc kiến thiết địa phương. Khi cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ lan sang miền Bắc, nằm trên tuyến giao thông huyết mạch xứ Thanh trở thành chiến trường ác liệt. Xứ Thanh vừa làm nhiệm vụ của một hậu phương lớn lại cũng là chiến trường lớn, thực tiễn sôi động ấy đã sinh ra thế hệ văn xuôi mới mà phần lớn trưởng thành từ thực tiễn: Trần Hiệp, Hoàng Tuấn Phổ, Nguyễn Ngọc Liễn, Lê Đại Thanh, Mai Ngọc Thanh, Kiều Vượng, Đặng Ái, Lê Hữu Thuấn, Nguyễn Huy Sanh, Hà Thị Cẩm Anh, Lê Sỹ Oanh v.v... nhiều cây bút không những trở thành trụ cột của văn xuôi xứ Thanh mà còn để lại dấu ấn sâu sắc trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.

Bước vào thời kỳ đổi mới, xứ Thanh đã xây dựng được một lực lượng văn xuôi hùng hậu với sự kết hợp nhiều thế hệ và sự phối hợp giữa lực lượng chuyên nghiệp và “không chuyên”. Những cái tên như: Phùng Gia Lộc, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Xuân Giang, Nguyễn Văn Đệ, Đào Hữu Phương, Nguyễn Cẩm Hương, Hoàng Trọng Cường, Viên Lan Anh, Nguyễn Bá Doanh, Nguyễn Thủy Tiên v.v... đã trở nên quen thuộc trong đời sống văn học địa phương và cả nước, song phần chìm của tảng băng, những cây bút không chuyên thỉnh thoảng mới hé lộ trong các cuộc thi thì khó mà kiểm soát nổi. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường từng nhận xét trong một cuộc thi truyện ngắn: “Thanh Hóa bên cạnh tiềm năng kinh tế, còn có tiềm năng văn học rất dồi dào, luôn luôn dồi dào, không bao giờ đứt đoạn”.

Lực lượng văn xuôi xứ Thanh đã và đang trở thành một bộ phận quan trọng của văn học nghệ thuật Thanh Hóa, đồng thời cũng đang khẳng định vị trí trong đội ngũ sáng tác văn xuôi của cả nước.

2. Những đại diện tiêu biểu ở các loại hình thể loại Xứ Thanh có thể coi là mảnh đất của ký. Thực tiễn địa phương và chủ thể

sáng tác trước hết thích hợp với thể ký. Các cây bút xứ Thanh không có ai không viết ký. Ký „xuống đồng“, về nông thôn để ghi chép về phong trào thi đua xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng lá cờ hồng đang phát triển rất mạnh ở miền Bắc vào thập kỷ 60, 70 của thế kỷ trước. Ký, ra trận“ khi Bến Ghép, Hàm Rồng dẫn đầu trong những chiến công đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, những bài ký của Trần Hiệp, Nguyễn Thế Phương, Nguyễn Xuân Nha, Xuân Giang v.v... trở thành nguồn động viên, khích lệ to lớn cho đồng bào và chiến sỹ. Bước vào thời kỳ đổi mới, ký hào hứng ghi nhận những đổi thay trên quê hương và xung kích trên mặt trận chống tiêu cực. Những cây bút viết ký tiêu biểu của xứ Thanh cũng đã trở thành những tên tuổi quen thuộc của làng ký cả nước, như: Cái đêm hôm ấy...đêm gì?,Chìm thuyền trên cạn, Vực xoáy Nam Giang của Phùng Gia Lộc; Kiều Vượng với hàng loạt bài ký: Ngã tư nhức nhối, Đánh bắt xa bờ hay trên bờ, Dai dẳng quá rừng ơi,Ngổn ngang những vùng rừng, Thành phố bên bờ sông Mã, Ở nơi bão không có gió; Nguyễn Văn Đệ với loạt bài ký đoạt giải: Vàng dưới biển xanh, Một chuyến đi biển, Đảng viên làng tôi v.v...

Page 43: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

43

Mấy chục năm qua ký xứ Thanh đã và đang đóng góp tích cực vào đời sống văn hóa xã hội tại địa phương, cũng là thể loại năng động nhất trong thực hiện các nhiệm vụ văn hóa văn nghệ mà đảng giao phó.

Truyện ngắn và tiểu thuyết từng bước khẳng định và gặt hái thành công: Đại diện đầu tiên của truyện ngắn hiện đại người xứ Thanh mang hai dòng

máu Việt – Trung ấy là Hồ Dzếnh. Quê ngoại, làng Đông Bích, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa là đối tượng cảm xúc cho tập truyện ngắn Chân trời cũ nổi tiếng.

Song, cây bút được đánh giá là “mở đầu” và dựng nghiệp cho văn xuôi Thanh Hóa sau cách mạng tháng Tám lại là nhà văn Nguyễn Thế Phương. Năm 1960 tiểu thuyết Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương gây xôn xao trên văn đàn, tái bản tới 5 lần. Viết Đi bước nữa Nguyễn Thế Phương đã lấy hiện thực của xứ Thanh, cuộc sống, con người xứ Thanh. Nhân vật cô Hoan có nguyên mẫu là người chị dâu của tác giả. Đi bước nữa có ý nghĩa quan trọng, đặt niềm tin, niềm tự hào cho văn xuôi xứ Thanh, đặc biệt khi tác giả trở về quê hương gây dựng phong trào, văn xuôi xứ Thanh đã nhanh chóng có diện mạo. Trong 4 năm về quê nhà, Nguyễn Thế Phương không chỉ xây dựng được một lực lượng văn xuôi giàu tiềm lực mà còn ấp ủ và hoàn thành bản thảo tiểu thuyết Nắng. Cuốn tiểu thuyết viết về đề tài công giáo với một quan điểm hết sức nhân văn: “Người theo đạo Thiên chúa cũng là đồng bào của ta thôi mà, là người nông dân giàu lòng yêu nước; nếu có cái khác là khác ở nơi cổ có đeo thánh giá. Đừng vì cá nhân một vài linh mục theo giặc làm xấu đạo mà mặc cảm, định kiến với tất cả. Sống với họ, sẽ hiểu điều đó...”(2). Rất cần một sự đánh giá lại cuốn tiểu thuyết này để trả lại sự công bằng cho một tác phẩm mà thời gian đang giúp cho nó tỏa sáng (3).

Cũng xuất hiện từ thập kỷ 60, cây bút “xứ Thanh gốc Quảng” Nguyễn Ngọc Liễn ra mắt với truyện ngắn Con dao bầu. Người thầy giáo đam mê sáng tác ấy không chỉ đào tạo nên những lứa học trò ham học văn mà còn cần mẫn đóng góp 5 tập truyện ngắn và hai tiểu thuyết trong ngót 40 năm cống hiến.

Năm 1971, Trần Hiệp ra mắt tiểu thuyết Mặt trận đường sông lấy đề tài về con đường vận tải bằng thuyền nan của thanh niên xung phong Thanh Hóa trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Nhà văn Nguyễn Ngọc Liễn nhớ lại: “Trong thời bao cấp, việc xuất bản hết sức ngặt nghèo, một cuốn tiểu thuyết như thế xuất hiện là một sự kiện văn học của địa phương. Bạn bè văn chương hoan hỉ, những người lãnh đạo cao cấp nhất của tỉnh mừng vui bởi cuốn sách đã phản ánh rất kịp thời tinh thần chiến đấu ngoan cường của nhân dân tỉnh ta trên mặt trận giao thông vận tải, đặc biệt là vận tải đường sông. Để có hai trăm trang tiểu thuyết ấy, Trần Hiệp đã 6 lần suýt chết và một lần bị bom vùi phải nằm viện hàng tháng trời“. Trần Hiệp với Mặt trận đường sông là minh chứng sống động cho lớp thế hệ nhà văn - chiến sỹ và đặc điểm của văn chương một thời lấy ghi chép và động viên cổ vũ làm mục tiêu của nghệ thuật. Song, quy luật văn chương có con đường riêng của nó. Một cuốn sách dù rất có ích đối với thời cuộc nhưng khi tính thời sự qua đi sẽ chỉ còn vai trò chứng nhân lịch sử. Trần Hiệp dường như ý thức được điều đó, tiểu thuyết “cái thể

Page 44: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

44

loại không thể hình thành chỉ với lòng nhiệt thành và tính chân thực”, lại thấy Trần Hiệp cặm cụi ghi chép, và hai mươi năm sau, bước vào thời kỳ đổi mới, người đọc mới chứng kiến sức sáng tạo mới của cây bút này. Ngót một chục tiểu thuyết ra mắt, trong đó có những tiểu thuyết gây tiếng vang: Trong bão lửa, Huyền thoại một dòng sông, Gặp lạ đối thủ, Nữ ký giả vào đời v.v.

Xuất hiện ở thập kỷ 70, Đặng Ái chủ yếu viết truyện ngắn. Với hơn một chục tập truyện ngắn, Đặng Ái là bút danh quen thuộc của bạn đọc xứ Thanh vào những thập kỷ 70, 80, 90 của thế kỷ trước. Nhẹ nhàng, trong trẻo và dí dỏm là cá tính và giọng điệu của cây bút này.

Xuất hiện từ thập kỷ 60, lặng thầm và cần mẫn như con ong làm mật nhưng mỗi khi xuất hiện thì làm độc giả ngỡ ngàng, ấy là cây bút Hoàng Tuấn Phổ. Ham mê nghiên cứu lịch sử và văn hóa, vốn kiến thức uyên thâm cùng với niềm đam mê văn chương đã giúp ông trở thành cây bút viết truyện lịch sử sớm nhất ở xứ Thanh cũng như cả nước. Qua sự tái hiện của tác giả, những anh hùng hào kiệt của xứ Thanh như nữ tướng Triệu Thị Trinh, vua Lê Đại Hành, tướng công Hoàng Đình Ái, các chúa Trịnh - Nguyễn v.v... bỗng trở nên gần gũi, sinh động và rất đỗi tự hào.

Bước vào thời kỳ đổi mới, những tên tuổi sung sức của xứ Thanh ở mảng truyện ngắn và tiểu thuyết phải kể tới: Từ Nguyên Tĩnh, Kiều Vượng, Hà Thị Cẩm Anh, Đào Hữu Phương, Đỗ Văn Phác, Nguyễn Cẩm Hương, Viên Lan Anh v.v... Những cây bút ấy, người ít cũng đã vài ba tập truyện, người nhiều thì đã lên tới con số hàng chục, cùng với lực lượng “không chuyên”, tất cả đã tạo nên cho xứ Thanh diện mạo truyện ngắn và tiểu thuyết phóng phú và đa dạng. Dù chưa có nhiều những tác phẩm xuất sắc, song mỗi tác phẩm đều có vai trò lịch sử là làm sống động hơn đời sống văn học xứ Thanh cùng những tác động tích cực góp phần làm phong phú đời sống văn hóa, xã hội của tỉnh nhà.

3. Một số đặc điểm của văn xuôi xứ Thanh 3.1.Các cây bút thường viết nhiều thể loại: Đây được coi là điểm đặc trưng

của lực lượng văn xuôi xứ Thanh, song dường như cũng là đặc điểm của các cây bút địa phương. Các cây bút địa phương thường viết nhiều thể loại, riêng các cây bút văn xuôi cùng một lúc có thể viết cả ký, truyện ngắn, tiểu thuyết. Nhìn vào sự nghiệp sáng tác của họ thấy rất rõ điều ấy. Điều này có nguyên nhân từ khách quan lẫn chủ quan, từ yêu cầu phục vụ kịp thời đến năng lực cá nhân ở từng giai đoạn. Các cây bút địa phương đã rèn cho mình khả năng “ứng biến” linh hoạt ngay trong cách ứng xử với các loại hình thể loại.

Có thể coi đây là điểm mạnh song cũng là hạn chế. Bởi mỗi loại hình thể loại có tư duy nghệ thuật riêng. Việc đi từ ký lên truyện“ cho thấy sự đơn giản trong quan niệm về thể loại của các cây bút. Phải chăng vì lý do này mà tác phẩm của các cây bút địa phương thường không sáng rõ về tính, thể loại“ và chưa đạt tới đỉnh cao nghệ thuật ?

3.2. Các tác phẩm bám sát và gắn liền với thực tiễn đời sống nhiều mặt của xứ Thanh: Đặc điểm này cũng khá đặc trưng đối với các cây bút trưởng thành và

Page 45: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

45

bám trụ tại quê nhà. Bởi vốn sống, vốn thực tế của họ chủ yếu gắn với địa phương, hoặc môi trường làm việc, điều này tạo nên sắc thái, địa bàn“ ở mỗi cây bút: Một Từ Nguyễn Tĩnh của đất Bàn Thạch, Thọ Xuân; một Hà Thị Cẩm Anh của thung lũng Ba Mường Cẩm Thủy; một Nguyễn Văn Đệ của vùng biển Ngư Lộc, Hậu Lộc; một Nguyễn Cẩm Hương của thị xã nghèo Thanh Hóa; một Đỗ Văn Phác của đồng đất Tĩnh Gia; một Nguyễn Bá Doanh của Nga Sơn v.v... Một vài cây bút vốn làm nghề báo nên có điều kiện đi nhiều nơi, nên hiện thực trong các sáng tác của họ có rộng mở hơn như trường hợp của Trần Hiệp, Kiều Vượng, Viên Lan Anh... song, dù tung tẩy thế nào thì hiện thực trong tác phẩm của họ vẫn không ra ngoài cái không gian nơi họ đã sinh ra, trưởng thành và gắn bó.

Bám sát hiện thực cuộc sống tại địa phương, các cây bút xứ Thanh đã tái hiện một xứ Thanh kiên cường trong kháng chiến chống Mỹ, một xứ Thanh điển hình về lá cờ hồng trong không khí miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội và một xứ Thanh khởi sắc, tươi mới song cũng còn biết bao bộn bề, phức tạp khi đất nước bước vào đổi mới. Gắn bó, tha thiết với quê hương, các cây bút, đặc biệt là các cây bút văn xuôi đã luôn đồng hành với bước đi của quê hương trong mọi lĩnh vực đời sống.

3.3. Sắc thái xứ Thanh đậm nét qua hình tượng nhân vật: Người ta hay nói nhiều về nét tính cách cứng cỏi, bộc trực của người miền Trung xứ Thanh. Những cây bút xứ Thanh không những không ngần ngại mà còn tự dựng chân dung tính cách quê mình: Yêu thích nói đùa ghét ưa nói thật/ răng, rứa, mô, tê, cũng vào dân ca (Dô tả dô tà - Mạnh Lê). Nếu bao quát tất cả các gương mặt văn xuôi sẽ thấy cho dù có sự khác nhau như thế nào trong cách viết, song ở cây bút nào cũng thấy có sự hiện diện của kiểu nhân vật có tính cách “mạnh”, với nét cá tính bộc trực, mạnh mẽ, dứt khoát đến quyết liệt, bản tính, khí chất này bộc lộ mọi nơi, mọi lúc, không chỉ ở phái nam mà cả ở phái nữ. Thể hiện đặc điểm này các cây bút văn xuôi xứ Thanh đã tạo nên những tính cách khó quên. Chẳng hạn, chi tiết đái vào hòn đất ôm về kẻo phí của một nhân vật trong truyện Họ hàng nông dân của Từ Nguyên Tĩnh; chi tiết 7 cô gái, 7 đảng viên, khi nông trường giải thể, bàn nhau “quyết tâm bám trụ chờ nông trường thiết lập trở lại“. Không còn lương bổng, tem phiếu gì, họ đi kéo te đổi gạo, muối, thế mà tối nào cũng họp chi bộ, kiểm điểm, động viên nhau giữ vững lập trường trong truyện Người rừng của Kiều Vượng. Chi tiết cắt tóc cải trang thành anh bộ đội “để cứu nguy cho một đồng đội nữ đã trót có mang ở chiến trường của Lân trong truyện Cõi trần của Nguyễn Cẩm Hương; chi tiết lặn xuống biển tìm chai rượu khi không may nó bị lưới cuốn của ông Thình trong Một chuyến đi biển của Nguyễn Văn Đệ, hoặc hình ảnh các chàng trai cô gái thanh niên xung phong trong đoàn thuyền nan vượt biển tiếp tế cho miền Nam, làm con đường hữu nghị Việt Lào trong tiểu thuyết Mặt trận đường sông của Trần Hiệp, truyện ngắn Lạc biển, tiểu thuyết Sóng gió, Vùng trời thủng của Kiều Vượng v.v... cũng thật ghê gớm. Không ở trong cuộc thì khó mà hình dung nổi những tình huống khó tin, ngoài sức tưởng tượng của con người. Đối mặt với gian khổ, thiếu thốn có lẽ là thách thức lớn nhất với nghị lực con người, bởi nó tác động trực tiếp đến phần bản

Page 46: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

46

thể, nó nằm ở lằn ranh giới mong manh của lý trí và bản năng. Bom đạn, thiếu thốn, gian khổ tột cùng nhưng họ vẫn trụ vững, vẫn vượt qua để sống và hoàn thành nhiệm vụ. Họ là những chàng trai, cô gái xứ Thanh. Họ có thể hòa lẫn vào nhân dân anh hùng của thời đại anh hùng, song vẫn có nét gì đó rất riêng trong tính cách của những người con xứ Thanh, nét tính cách, địa văn hóa“ được hun đúc từ bao đời để trở thành khí chất “Thanh”. Đó cũng là phẩm chất đặc trưng của người đứng đầu, phẩm chất thủ lĩnh. Phải chăng, vì vậy mạch đất này đã sinh ra nhiều bậc vương tướng và anh hùng hào kiệt chăng?

Kết luận: Văn xuôi xứ Thanh hiện đại đã có diện mạo và đời sống riêng trong mấy chục năm qua. Diện mạo và sắc thái riêng ấy thể hiện ở lực lượng, ở sự vận động, phát triển của các thể loại và ở bản sắc xứ Thanh trong tâm hồn, tính cách nhân vật. Văn xuôi xứ Thanh đã và đang góp phần đắc lực vào xây dựng đời sống văn hóa tâm hồn của nhân dân địa phương, đồng thời đóng góp xây dựng nền văn học Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

TS Hỏa Diệu Thúy (ĐH Hồng Đức - Thanh Hóa)

VĂN BẢN 5 QUÊ NHÀ Ở PHÍA NGÔI SAO VÀ NGUYỄN DUY

Một hôm tôi nhận được điện thoại, Nguyễn Duy từ TP Hồ Chí Minh gọi ra.

Anh muốn tôi viết lời bạt cho tập thơ tuyển về quê hương đặt tên là Quê nhà ở phía ngôi sao của anh, vì một lẽ đơn giản, tôi là bạn học và đang sống ở quê. Tập thơ sẽ do NXB Thanh Hóa ấn hành. Mươi ngày sau, Nguyễn Hữu Ngôn, Tổng biên tập NXB mang đến tôi bản thảo.

Cầm Quê nhà ở phía ngôi sao trên tay, tôi bồi hồi nhớ lại năm mươi năm trước. Ngày ấy, chúng tôi đều vừa qua tuổi thiếu niên và cùng nhau vui sướng bước vào học đường Cấp 3 Lam Sơn danh giá. Nguyễn Duy bấy giờ mang tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, nhà (nguyên - trú quán) ở làng Quảng - Quảng Xá, xã Đông Vệ. Một làng ven thị, thuần nông, có nghề nấu rượu nổi tiếng, còn chưa thành phường, thành phố thuộc thành phố Thanh Hóa như ngày nay. Trường Cấp III Lam Sơn khóa 1962 - 1965 khi đó có 4 lớp, trên dưới 200 học sinh, mỗi lớp chưa đến 10 nữ. Tuy học khác lớp nhưng tôi đã làm quen với Duy chỉ vì thấy chữ anh viết rất đẹp. Anh toàn viết bằng mực tím, những dòng chữ chạy nghiêng nghiêng, đều tăm tắp, có một chút bay bướm, thanh thoát, một chút phóng khoáng. Nguyễn Duy cũng một lần đưa tôi về thăm nhà dù ngại chơi với đám bạn học mà anh gọi là “phố thị”. Hình như nhà anh có tường bao quanh, có cổng xây, nhà ngói sân gạch... Làm nông

Page 47: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

47

nghiệp nhưng ấn tượng chung không nghèo, nền nếp. Ngày ấy tôi chưa biết Nguyễn Duy đã và đang làm thơ, “những câu thơ đầu tiên lặng lẽ gửi loài người”.

Cuối khóa học, đế quốc Mỹ bắt đầu leo thang chiến tranh ra Miền Bắc mà Thanh Hóa là một trọng điểm đánh phá. Nhất là đoạn QL 1 đi qua, với hai cầu Đò Lèn, Hàm Rồng và phà Ghép. Sau chiến thắng Hàm Rồng vang dội thế giới, tiêu diệt 47 máy bay phản lực hiện đại của Mỹ chỉ trong 2 ngày (3 - 4 /4 /1965), trường chuyển học vào ban đêm, tiếp đó đi sơ tán. Đầy lạ lẫm, khó khăn, song lại có cái may là không phải thi vào đại học như các năm trước, chỉ tuyển chọn sau khi tốt nghiệp. Một số không nhỏ, được cử đi học ở các nước Xã hội chủ nghĩa, đa phần thì vào các trường đại học trong nước, số còn lại (không nhiều) “ở nhà”. Tất cả đều do địa phương (xã, huyện, thị, cuối cùng là tỉnh) xem xét lý lịch gia đình rồi quyết định. Nguyễn Duy (Nhuệ) và tôi thuộc diện thứ ba. Diện thứ ba này đều “tự giác không buồn”. Có lẽ, một phần nhờ tuổi trẻ, phần nữa, cũng chẳng phải mình học hành kém cỏi gì. Nhưng chủ yếu là càng phải rèn luyện, phấn đấu để năm tới có thể được xem xét lại. Nguyễn Duy về xã, tham gia dân quân, được cử làm Tiểu đội trưởng tiểu đội xung kích, thường xuyên trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng. Tôi là dân quân tiểu khu Nam Ngạn, chuyên bốc vác xăng dầu ở ga Thanh Hóa, mỗi lần bom Mỹ thả, vừa chạy vừa nhìn hình quả bom để tránh. Năm 1966, Nguyễn Duy nhập ngũ, chúng tôi bặt tin cho đến khi anh nổi tiếng, đoạt Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1972-1973 với các bài Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Giọt nước mắt và nụ cười, nhất là Tre Việt Nam. Đầu tháng 12 - 1989, mới gặp lại nhau. Nguyễn Duy đi dự Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IV về thăm quê. Anh tổ chức một cuộc “dạ ẩm" tại nhà với 4, 5 bạn học cũ. Được biết thoạt đầu Nguyễn Duy là lính đường dây thuộc Bộ Tư lệnh Thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, cùng nhiều mặt trận phía Nam khác. Năm 1976, xuất quân, về làm báo Văn nghệ Giải phóng, và nay là Đại diện thường trú của tuần báo Văn nghệ tại các tỉnh phía Nam (từ 1977). Cũng đã kịp đi học, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp, khoa Ngữ văn. Đêm ấy, trong “men rượu là hương vị của làng tôi”, Nguyễn Duy gõ bát, đánh lưỡi, hát xẩm một số trích đoạn Đại hội Nhà văn IV ngâm khúc do anh sáng tác ngay trong ngày sắp kết thúc, phỏng theo Chinh phụ ngâm khúc bản dịch của Đoàn Thị Điểm (?) :

Thuở trời đất nổi cơn đại hội Khách làng văn nhiều nỗi truân chuyên ... Câu thơ luống đắn đo chẳng viết Viết đưa ai, ai biết mình đây ?

Page 48: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

48

Nguyễn Duy líu lưỡi chau mày Một phen sống sót là may lắm rồi...

Chúng tôi nhìn nhau cảm động. Đúng là “một phen sống sót là may lắm rồi !”. *

Lấy một câu trong Thơ tặng người xa xứ (làm năm 1986) làm tên chung, Quê nhà ở phía ngôi sao gồm 48 bài được Nguyễn Duy chọn từ 10 tập thơ đã xuất bản và chia làm hai phần. Phần 1- Làng ta ở tận làng ta (câu thơ ở bài Về làng) 31 bài. Phần 2 - Cõi về, 17 bài (theo tên bài kết thúc). Nhìn nhan đề thi tuyển, không hiểu sao tôi lại đột nhiên nghĩ đến chuyện Địch Nhân Kiệt (630-700) và Hàn Dũ (768-824), hai danh nhân đời Đường (618- 907) bên Trung Quốc. Địch Nhân Kiệt làm quan Tinh Châu, cha mẹ ở Hà Dương, một hôm lên chơi núi Thái Hàng, thấy mây trắng xa xôi, ngậm ngùi bảo : “Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây ấy”. Còn Hàn Dũ nhìn mây bao phủ dãy Tần Lĩnh cảm thán thành thơ : “Mây che Tần Lĩnh nhà đâu tá / Tuyết phủ Lam Quan ngựa muốn lùi” (Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại / Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền). Mây trắng / mây hàng / mây tần thành thi liệu chỉ nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ trong thơ văn trung đại. Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) mấy lần tả nỗi nhớ nhà của Thúy Kiều đều dùng hai điển tích này. Nào là “Lòng còn gửi áng mây hàng / Họa vần, xin hãy chịu chàng hôm nay”, rồi “Cách năm mây bạc xa xa / Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn” và “Đoái trông muôn dặm tử phần / Hồn quê theo ngọn mây tần xa xa”. Với Nguyễn Duy thì “quê nhà ở phía ngôi sao”. Vì dưới ngôi sao ấy anh “có một miền quê trong đi đứng nói cười”. Ở đó, anh có những năm tháng tuổi thơ, tuổi học trò, có những người thân yêu, những gì thương mến nhất. Là cõi nhớ, nỗi “nhớ thương vương lại đằng sau còn dài” của thường nhật cuộc đời anh. Nhấp nhánh, vời vợi. Khiến anh, một “giọt nước lìa nguồn ra biển cả” dẫu “biệt tăm ngoài biển” cũng “ngày ngày / làm mây / bay / về nguồn”.

* Tự biết về căn cốt mình “Người miền rừng bóng suối dáng cây / người mạn bể ăn sóng nói gió/ người thành thị nét đường nét phố / như tôi mang dấu ruộng dấu vườn”, tuổi thơ Nguyễn Duy trôi qua trong “bát ngát cánh đồng / cỏ và lúa và hoa hoang quả dại / vỏ ốc trắng những luống cày phơi ải / bờ ruộng bùn lấm tấm dấu chân cua”. Gắn với anh là cánh cò trắng, con sáo mỏ vàng, con chào mào đỏ đít, con chim trả xanh biếc, “con chích chòe đánh thức buổi ban mai” - những “nhân vật” đồng quê. Cậu bé con tinh nghịch “mang dấu đất đai tươi rói mãi đây này” là anh, không hưởng “văn minh thành thị” mà sống êm đềm, ngọt ngào hạnh phúc

Page 49: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

49

trong không gian văn hóa làng, văn hóa gia đình truyền thống. Tháng 5, vụ gặt, đêm hè, ngoài sân “mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao / Ngân hà chảy ngược lên cao / quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm / bờ ao đom đóm chập chờn”. Có những kỷ niệm khi đứng tuổi, Nguyễn Duy vẫn thích thú kể lại bằng chất giọng trầm ấm, nhẩn nha, thỉnh thoảng nheo mắt cười :

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá níu váy bà đi chợ Bình Lâm bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.

Về tuổi học trò, Nguyễn Duy có bốn bài, gói trọn cả thời đi học. Trên sân trường làm năm chín tuổi (1957), học lớp ba (cấp 1) ở quê ngoại Đò Lèn (Hà Trung).

Đứa chơi đáo đứa nhảy vòng còn tôi đứng nhìn dòng sông tôi không chơi đáo vì không có tiền Có tiền tôi cũng không chơi vì tôi không muốn bạn tôi mất tiền tôi vui tôi ngắm tôi nhìn con sông có bóng con thuyền thả câu. Chú trò nhỏ Nguyễn Duy Nhuệ bấy giờ đã ra dáng con trai (chỉ chơi trò của

con trai), nhà nghèo (không có tiền), có chút “tự đắc” (là tay chơi đáo thiện nghệ), sống vị tha, “đầy trách nhiệm” (Có tiền tôi cũng không chơi, vì tôi không muốn bạn tôi mất tiền), thích trầm tư, mơ mộng (đứng ngắm nhìn dòng sông, con thuyền). Và điều đáng nói là, chính không khí sân trường vui vẻ, tình bạn, phong cảnh êm đẹp, thanh bình này đã ghi dấu ấn quê hương sâu đậm trong tâm hồn anh. Bài thơ nhỏ nhắn, đủ cả người - cảnh - tâm trạng được biểu thị theo luật xa - gần, động - tĩnh, trong cái này có cái kia khá tinh tế. Cảm xúc không thiên về những đối tượng

Page 50: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

50

“khẩu khí”, “quy phạm” (chỉ “cảm” giờ ra chơi). Cách lập ý kiểu giải nghĩa, biện luận khách quan; nội dung chân thật, mang nghĩa lý, chứa suy tư, có tính gợi mở; tình cảm chân thành; chi tiết “chọn lọc”, hình tượng không “hoành tráng”; câu chữ giản dị, có độ “phát sáng”, lối nói dân dã; cái tôi trữ tình là “nhân vật thú vị” vừa bụi bụi vừa tinh khôi, tinh tường,...Cũng đã hé lộ tài, tình, phong cách sáng tạo Nguyễn Duy sau này.

Kính gửi tuổi học trò, Gửi về trường Lam Sơn, Áo trắng má hồng là những hồi tưởng, hoài cảm về thời trung học “áo nâu chân đất, bữa cháo bữa khoai đi cày và đi học, bụng cồn cào con chữ chạy liêu xiêu”; “buổi học đêm le lói đèn dầu, tiếng phản lực xẹt ngang bài thơ cổ”. Năm tháng này con người ta bước vào độ “chớm lớn - vừa lớn”. Nguyễn Duy nhớ lại một cách thích thú : “Học trò con trai ma quỷ, học trò con gái thần tiên, thầy xếp thần tiên ngồi kèm ma quỷ, bén hơi ma quỷ ghẹo thần tiên”, “ô mai đổi kẹo bạc hà,..Câu chuyện học trò không đầu không đuôi, tình ý học trò quả me chua loét, lá thư học trò vu vơ dấm dúi,..”. Ngày ấy anh có một mối tình học trò “thời áo nâu, tóc hoe hoe cháy trên đầu”, cùng “cưỡi trâu học bài” và “song song chân đất đến trường xa xa”. Đã có những ngượng ngùng, ngơ ngẩn của rung động đầu đời, nhưng “bỗng dưng bạn ấy lấy chồng” để đến bây giờ nhìn thấy áo trắng má hồng đến trường, Nguyễn Duy lại “thương nhớ, buồn phơ phất, thẫn thờ”, thấy “thấp tha thấp thoáng tháng ngày mong manh” ngày xưa. Rồi “ước chi người ấy bây giờ là đây”.

Với ai kia, tuổi trẻ có thể kéo dài hơn nữa, nhưng với Nguyễn Duy, độ thanh xuân - tuổi trẻ dừng lại ở hết tuổi học trò trung học. Vì “anh cất giấu tuổi trẻ mình ở đó” và lên đường ra trận. Tuy nhiên, tuổi học trò đã tạo nên “nỗi nhớ học trò chấp chới suốt đời nhau / đẹp như là không đâu vào đâu”, cũng là một niềm quê với mảng màu óng ánh sáng trong lòng anh.

* Viết về quê hương, tuyệt nhiên tôi không thấy trong thơ Nguyễn Duy một Xứ

Thanh với những biểu tượng thi vị hóa, lý tưởng hóa của đất“địa linh nhân kiệt”, “tam vương nhị chúa”, có truyền thống dựng nước, giữ nước, đất nghèo sinh anh hùng - thi nhân. Kiểu như “Quê hương tôi / Một vùng đất lắm đền đài vua chúa / Gió trở mặt thành cơn bão dữ / Sông cũng thành sông ngựa / Chảy ngang tàng qua bãi mía nương dâu / Chúng tôi lớn lên bom đạn chém ngang đầu / Mặc áo lính suốt cả thời trai trẻ” (Huy Trụ); “Trăm năm cây lúa vẫn gầy / Giếng thơi muôn thuở vẫn đầy ca dao” (Lê Đình Cánh); “Bao giờ em về quê anh / Mà xem dấu vết kinh thành xa xưa / Vĩ nhân và các đời vua / Cũng từ rau má, ốc cua nên người” (Trịnh Anh Đạt) hay “Chiều nhai rau má tối học chữ Nôm / Hiệu tận tâm can tiếng đá tiếng đồng / Rạng đời vua Lê, tối đời chúa Trịnh / Trạng Quỳnh ngạo nghễ đi vào

Page 51: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

51

nhân gian” (Mạnh Lê) hoặc giả “Tinh mơ giặc ném bom / Tên lửa tầm xa phóng vội.../ Trụ cầu ung dung đứng đó / Bọn giặc lái bị bắt qua đây cúi đầu run sợ / Cứ thế suốt bốn năm / Trụ cầu Hàm rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng” (Mã Giang Lân),... Cũng không thấy ồn ã thị thành, khí chất hiện đại hay sự “phát triển”. Chỉ thấy một làng quê - làng ta của riêng Nguyễn Duy vật vã, vật lộn mà chưa thoát đói nghèo. Miền quê này đậm đặc chất xưa cũ, gọi là “truyền thống” hay “tù đọng” đều đúng. Trái tim thì đập theo nhịp “cối xay tre”, tâm hồn thì phổ vào điệu ru ầu ơ man mác trong “tiếng cuốc kêu thất bát buổi trưa đầy”. Xin hãy đọc một số trích đoạn để tự cảm nhận :

- Ai qua Thanh Hóa về Quảng Xá men rượu là hương vị của làng tôi nhắc Cầu Bố chắc nhiều người còn nhớ đền nhà Lê rêu phủ đã bao đời

- Làng ta ở tận làng ta mấy năm một bận con xa về làng gốc cây hòn đá cũ càng

trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay

- Mẹ ta vo gạo thổi cơm ba ông táo sứt lửa rơm khói mù nhà bên xay lúa ù ù vẫn chày cối thậm thịch như ngày nào Làng quê ấy do hậu quả của địch họa “Chiến tranh như trận cháy làng / bà con ta trắng khăn tang trên đầu”, thiên tai “Năm nay lại lụt trắng đồng / quê ta lại tỏng tòng tong mùa màng” nên “Đường làng cây cỏ lưa thưa”, “thanh bình từ ấy” mà vẫn “chưa có gì”. Nơi đây chỉ bao nhiêu là “rơm rạ” với “gió sùng sục mùi bùn nặng nặng ngấu / mộc mạc tím cánh hoa bìm bờ dậu”... và “nắng lóng lánh trong veo mầm mạ trắng / lưng trần ứa giọt sương người mằn mặn”. Chỉ thấy “ráng chiều cháy cái màu rơm rạ cháy” cùng “cỏ áy vàng bãi tha ma vắng”. “Ngôi chùa cũ mái đình xưa” cũng “khuất bóng”.../ “Bà và mẹ hóa cánh cò cánh vạc / ông và cha man mác kiếp trâu cày” khiến đứa con đi xa trở về chỉ còn biết “xin cúi lạy vong linh làng mạc” để cho “lòng ngổn ngang gò đống tổ tiên nhà”.

Page 52: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

52

Và con người là dân quê, những người lao động bình thường làm muối, làm gạch, làm ruộng cần cù, lam lũ, nghèo khó của một Thanh Hóa xe thồ, thuyền nan “thình thịch bàn chân bè tõe ngón” (bàn chân Giao Chỉ). Toàn cảnh vẫn vậy : vẫn đồng cạn vẫn đồng sâu chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa Người thân, gia đình vẫn thế, sa sút, thập thững sống : Cha ta cầm cuốc trên tay Nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa Lũ em ta vác cuốc cào giục nhau bước thấp bước cao ra đồng Người một thời của bao nhiêu là “lãng mạn” còn “hiện thực” ngậm ngùi hơn. Như bị đóng đinh vào số phận : đồng hí hoáy cố nhân đi cấy mông nứt đôi nhẫn nại chổng lên trời Tất cả như chưa bao giờ thay đổi, không bạc màu cùng thời gian. Người dân nếu gặp kỳ đói kém, giáp hạt lại có thể “mất bữa”, “bị gậy phiêu bồng chân mây”, “lỏng khỏng hình cây” giữa “căm căm gió bấc”. Nhưng làng quê ấy, con người ấy cũng là thành lũy điềm nhiên chống chọi với mọi khó khăn, nguy khốn “Lụt trắng đồng mà không trắng lòng”. bạn đón ta hoa đào và xôi gấc be tết không đầy nhưng không nhạt Ở đó, dù cho “bom rơi xuống phố xuống nhà / phố nhà rơi xuống đất ta mỗi ngày” thì “bàn tay vẫy gọi bàn tay / nhà cao lại dưới đất dày trồi lên”. Dù cho “Lúa chìm xuống cỏ dềnh lên / rác bùn gạch ngấn ngang nhiên trên tường / bèo đi ngang ngược giữa đường / lụt ăn theo bão lẽ thường xưa nay” thì cuối cùng vẫn là “bèo lui về chỗ của bèo / tường treo tranh cánh đồng treo lúa vàng”. Nơi đây muôn năm “chừng như cây lúa đơm bông / chừng như trái bưởi vàng đung đưa cành” của giống nòi Tre : ở đâu tre cũng xanh tươi cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu,..

Page 53: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

53

bão bùng thân bọc lấy thân tay ôm tay níu tre gần nhau thêm Chẳng may thân gầy cành rơi vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng Để “Năm qua đi tháng qua đi / tre già măng mọc có gì lạ đâu / mai sau / mai sau / mai sau / đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh

* Quê hương với Nguyễn Duy thực ra bắt đầu từ xó bếp “ngôi nhà xưa yêu dấu”

của anh. Nơi ấy mẹ ta nhễ nhãi mồ hôi đàn con lóc nhóc khóc cười tuổi ta xanh như tàu rau tươi buổi nhá nhem lén mò cơm nguội bảy sắc cầu vồng trong xó xỉnh lọ lem Nơi ấy,... Ngọn lửa giữ qua đêm dài trong trấu âm ỉ lòng ta đến bao giờ Nơi ấy,... ngày mai ta dừng chân nơi nào khoảng trống phía trước vẫn bỏ ngỏ đâu biết những gì chờ ta đằng kia chỉ biết đời ta khởi đầu từ nơi ấy

Anh tự hào về ngôi nhà mình, phanh bộ ngực trần bình dân nở nang, khỏe mạnh, phóng khoáng ở cả nghĩa đen, nghĩa bóng:

Nhà tôi đó không cổng và không cửa ai ghé qua cứ việc hút thuốc lào cha tôi trổ rất nhiều cửa sổ

gió nồm nam thoải mái ra vào Nhưng chân dung những người thân yêu mới là trung tâm điểm của quê hương, tình yêu quê hương trong thơ Nguyễn Duy.

Page 54: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

54

bà tôi lặn lội bên sông lả lá chè xanh xuống đò lên chợ mẹ tôi gồng gánh thay chồng da bánh mật mài mòn tre bánh tẻ cha tôi mải mê lang bạt kỳ hồ xây rồi bán nếp nhà không văn tự phủi tay về đẩy xe thồ ngán ngẩm những con đường mệt lử chú tôi nướng nửa đời biệt xứ nước mã hồi xin tí đất cắm dùi cáo chết ba năm quay đầu về núi khệnh khạng hát câu xin lỗi chân trời Anh phác họa khái quát như vậy, rồi dựng chi tiết qua từng bài thơ. Đò Lèn (1983) là bóng hình bà ngoại cả đời mưu sinh tất tả, cơ cực :“bà mò cua xúc tép ở đồng Quan / bà đi gánh chè xanh Ba Trại / Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”. Bà sống trong lành, nghiêm cẩn, thành kính với cả tiên phật lẫn thánh thần. Phong cách sống này chính là biểu hiện cao nhất của sự hoàn thiện đời sống lương thiện nhân dân tồn tại hàng ngàn năm nay. Cho nên bà mới có thể ứng xử giản dị trước bao nhiêu thế sự biến đổi. “Cái năm đói củ dong riềng luộc sượng” vẫn “cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”. Đến “Bom Mỹ dội nhà bà tôi bay mất / đền Sòng bay bay tuốt cả chùa chiền / Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết”, điềm nhiên “bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”. Cuối cùng bình thản trở về với đất - “chỉ còn là nấm cỏ thôi”. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa (1986) - một bài thơ xúc động về mẹ. Mẹ bươn chải giữa cuộc đời, lúc nào cũng bận bịu nuôi lớn phần xác và “ru cái lẽ ở đời” chăm chút phần hồn cho con. Đọc bài thơ, không hiểu sao tôi lại cứ nhớ đến thi phẩm Nắng mới của Lưu Trọng Lư và Bờ sông vẫn gió (1983) của Trúc Thông. Khi xưa (1939), cứ mỗi lần có nắng mới, Lưu Trong Lư lại nhớ mẹ - “Áo đỏ người đưa trước dậu phơi” cùng “Nét cười đen nhánh sau tay áo” cất đi những ngày lễ hội đã qua. Với Trúc Thông, bờ sông nơi anh ngóng trông, cầu mong hình bóng mẹ xuất hiện “Một lần cuối...một lần về cuối thôi / Về thương lại bến sông trôi / Về buồn lại đã một thời tóc xanh” vẫn chỉ có ngôi mộ lặng im, lá ngô lay trong gió.

Page 55: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

55

Bài thơ của thi sĩ Tiếng thu xâm chiếm hồn ta nỗi buồn man mác. Đọc Trúc Thông, lòng ta buồn hoang vắng. Còn khi chạm đến câu chữ Nguyễn Duy, ta đắm chìm trong buồn đau thương cảm về một người mẹ nghèo khó, giàu đức hy sinh, không dám vui riêng lấy một ngày: Bần thần hương huệ thơm đêm khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn chân hương lấm láp tro tàn xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào Mẹ ta không có yếm đào nón mê thay nón quai thao đội đầu rối ren tay bí tay bầu váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa,... Người cha trong Cầu Bố (1983) và Về làng (1988) là hai tượng đài con người dân dã hào sảng, lao động vô tư, anh hùng vô danh suốt cả cuộc đời: Cha tôi đó dân làng tôi vậy đó xả hết mình khi nước gặp tai ương rồi thanh thản trở về với ruộng sống lặng im như cây cỏ trong vườn Thời trai trẻ, cha cùng dân làng tham gia chống Pháp “chiếc xe thồ từng đẩy tới Điện Biên / ngược dòng sông mạ lên Tây Bắc / ai xuôi về cũng sốt kinh niên”. Chống Mỹ “Những năm bom đạn như gieo mạ / lại chiếc xe thồ đi về Nam”. “Vết xe thồ vẹt đỉnh Trường Sơn” của cha góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc, dù bây giờ “Cỏ đã mọc ai còn thấy nữa” và “ai thấy nữa ông già đầu bạc xóa đẩy xe thồ ngang dọc lũng Tà Cơn”. Nhưng có hề chi, bởi với ông “con đường chiến tranh còn ngoằn ngoèo trong ruột / càng thêm say hương rượu nếp thanh bình”. Nếu Cầu Bố là lời kể trìu mến “say nồng” về cha, thì Về làng là nỗi đau, niềm thương cảm, sự ân hận nén chặt trong lòng đứa con mải mê “mơ mộng trên đời / để cha cuốc đất một đời chưa xong”. Nhưng trên hết, bằng cấu tứ đối cực (cha và hoàn cảnh sống; thái độ của cha và con trước hoàn cảnh), bài thơ biểu thị sinh động, đậm nét hình ảnh cha già“lưng còng bạc nắng thâm mưa” điềm nhiên đi qua tận cùng gian khó thời hậu chiến. Dù cảnh ngộ bí bách thế nào với bản thân cha, với gia đình, làng quê; dù con cảm nhận hiện thực trước mắt bức bối thế nào, cha

Page 56: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

56

vẫn vô tư sống, sảng khoái sống, phóng khoáng sống theo triết lý, cách ứng xử “Không răng” (không làm sao, không xảy ra chuyện gì cả) của một trí tuệ nhân dân sáng láng, của một hào kiệt thảo dân, lấy chữ tình làm trọng, lấy tinh thần lạc quan làm điểm tựa để vượt lên tất cả: Không răng... cha vẫn cười khì rượu tăm còn để dành khi con về không răng... cha vẫn cười khì người còn là quý sá chi bạc vàng không răng... cha vẫn cười khì giàu nghèo có số nghĩ chi cho buồn Không răng... cha vẫn cười khì đời là rứa kể làm chi cho rầu cha con xa cách đã lâu mấy năm mới uống với nhau một lần ruột ta thắt mặt ta nhăn cha ta thì cứ không răng...cười cười. Cha cười khì hay cười cười - nụ cười móm mém (không có răng) bỏ qua mọi chuyện và kiểu cười “biết rồi”, lắc đầu bảo “không răng” (không sao cả!), uống rượu đi ! chính là cha đang đối mặt với mọi thử thách khắc nghiệt một cách vui vẻ mà chỉ những người bản lĩnh mới có được. Cũng đọc bài thơ, đối chiếu với lời dạy người xưa, tôi mới nhận ra rằng, đây là hình tượng một lão nhân phải từ 70 tuổi trở lên, đạt đạo “tòng tâm sở dục, bất du củ” (sống theo lòng mình muốn mà không phạm khuôn phép, an nhiên hành xử, không sợ không đúng đạo lý). Bởi người đã gồm đủ trí, nhân, dũng (Khổng tử nói : Người trí không nghi hoặc, người nhân không lo buồn, người dũng không sợ hãi). Một nhân cách hiếm hoi (Nghèo mà không oán trách, thật khó; giàu mà không kiêu căng, còn dễ). Chính từ chân dung những người thân yêu này của Nguyễn Duy mà người đọc bị ám ảnh, xúc động bởi hình tượng người phụ nữ lặng lẽ hy sinh, âm thầm chịu đựng, người đàn ông hào sảng đầy nghĩa khí. Biểu thị cho khí chất, vẻ đẹp

Page 57: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

57

“hạo nhiên” dung dị tích tụ từ cuộc sống bình dân, từ thắng trầm nghìn đời của Xứ Thanh. Tựu trung lại có thể nói, Nguyễn Duy sinh ra từ / bởi nông thôn - nông nghiệp - nông dân. Tam nông phổ điệu tâm tình vào đứa con này để cất lên tiếng thơ kể lại nông nỗi buồn vui, cay đắng, ngọt ngào của đời mình. Nên hồn làng quê bao giờ cũng chất chứa, in đậm dấu ấn trong cái nhìn, cách cảm của anh. Năm chiến tranh ác liệt, nhìn những hầm chữ A, Nguyễn Duy nhận ngay ra “dựng căn hầm vẫn dựng theo dáng nhà”. Anh “Ngả lưng trong hầm chữ A / nhìn lên lại thấy mái nhà lợp tranh”. Gặp người mẹ dắt con đi ăn mày trên “sân ga Thanh Hóa chiều mưa đổ”, anh “nhận diện bàn tay vàng móng ấy / tay cấy cày làm nên gạo nuôi tôi”, thấy “lòng tay trũng như đồng chiêm đang ngửa lên” và tưởng “hay là chính mẹ tôi từ dưới đất / dắt đất lên thử lòng tôi chăng ?”. Khi xưa Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370) thời Trần đi xứ Trung Quốc nhớ nước, nhớ nhà : “Dâu già lá rụng tằm vừa chín / Lúa sớm bông thơm cua béo ghê / Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt / Dẫu vui đất khách chẳng bằng về”. Nguyễn Duy không có tâm trạng “đất khách quê người” nhưng lắm khi vẫn thấy “ngọn gió tha hương lạnh toát da gà”. Không gian - làng quê, gia đình, cuộc đời những người thân quen, thân thiết gần gũi, địa vị thứ dân thầm lặng cống hiến, nhọc nhằn mưu sinh. Thời gian - gian khó sau chiến tranh chống Mỹ ác liệt trước đổi mới, phát triển. Và tâm trạng, cảm xúc của đứa con lúc nào cũng đau đáu hai chữ quê nhà. Khi thì “nhìn về quê mẹ xa xăm”, khi thì “mấy năm một bận con xa về làng”, nồng nàn gọi “Rơm rạ ơi ta trở về đây”. Đó là bức tranh quê hương ba chiều mà Nguyễn Duy vẽ bằng ngôn từ thơ. Gần như ở đâu, làm gì trong anh cũng hiện hiện bức tranh này. Cái bức tranh ấy gam lạnh, sắc màu thanh đạm, chủ âm đau đớn, đau xót, ân hận đã cho ta cảm xúc yêu quê, nhớ quê, thương quê, muốn về quê, chia xẻ với quê đến quặn lòng, nhất là với những người cao tuổi.

* Trong toàn tập Quê nhà ở phía ngôi sao, tôi nghiệm ra thời trai trẻ, Nguyễn

Duy đã mấy lần yêu. “Cố nhân” đi cấy, “cô hàng xóm vặn tay bồng tay bế”, cô bạn học bỗng dưng bỏ đi lấy chồng, cô bạn gái “nhùng nhằng những chuyện đâu đâu / gần xa như bạn như bầu thế thôi”,... Và người con gái nào cũng làm trái tim anh bâng khuâng, xao xuyến khi nghĩ đến hay gặp lại:

Ngả bàn tay nhớ bàn tay hương thơm buổi ấy thoáng bay trở về nói nhiều cũng chỉ mình nghe

Page 58: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

58

nhớ nhau mình lại vuốt ve tay mình. Nhưng ở phần Cõi về, như thống kê, có 17 bài lại chỉ toàn về vợ (nói chuyện

bản thân, con cái, cũng dẫn đến vợ). Người dường như không phải là một trong những người con gái kia. Vợ là người đã theo anh như “hình với bóng”. Người suốt thời tuổi trẻ chiến trường, nằm tăng (bầu trời vuông), nằm võng (vành trăng lưỡi liềm), leo đèo, qua sông, dựa vách hầm đều là nỗi nhớ trong lòng Nguyễn Duy:

Mặt trời là trái tim anh mặt trăng vành vạnh là tình của em Đêm nay em anh ở đâu cứ nhìn trăng ấy nhìn lâu hóa người. Người cùng anh đi hết cuộc đời, anh cũng yêu suốt cuộc đời mình. Từ thuở

“mắt sáng rực nhìn đời trong leo lẻo / đất chẳng dưới chân trời chẳng trên đầu” cho đến khi “Rồi tay nổi gân xanh như gân lá / mắt em giăng sương khói u sầu / anh thẳng cẳng sau một ngày mệt lả / ngoẹo cổ nằm cho con nhổ tóc sâu”. Bởi “Trời cho sống ta cũng già em ạ / con thương cha không bằng bà thương ông / tình như rượu chôn lâu đằm lịm / cuối đời đem ra nhắm mới mềm lòng”.

Ta nhận ra Nguyễn Duy thật hết lòng với vợ con. “Một nhà là sáu mồm ăn / một thi nhân hóa phăm phăm ngựa thồ”. Anh có thể “Tâm hồn ta là một khối vàng ròng / đành đem bán bớt đi từng mảnh nhỏ / mảnh này vì con mảnh này vì vợ / vì bạn bè và cha mẹ em ta” với tâm niệm “để sống được qua ngày gian khổ đã / phải sống được qua cái thời nghiệt ngã” chờ đến thời “để khối vàng đây chỉ đổi lấy mây trời”. Nhưng vẫn là phải có vợ mới được, “có vợ mới nên người” như mấy ông yêu vợ thường nói. Người vợ “cám bã” (tao khang) “êm ái qua đi nợ đời rơi vãi lại / còng lưng gánh tiếng cười con cái / thăm thẳm mai lởm chởm nhọc nhằn”. Người “Nghìn tay nghìn việc không tên / mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng”. Là người “Khi trong túi có mấy đồng ngọ nguậy / ta chạy rông như gì nhỉ - quên đời / lúc xơ xác bờm xơm từng sợi tóc / đói mò về / cơm đâu / vợ ơi”. Người “Và tao tác bạn bè cơn hoạn nạn / đòn du côn tóe máu tâm hồn / Và tung tóe cả bướm vàng bướm bạc / này giọt cay giọt đắng ruột buồn nôn / móc họng mửa ra cầu vòng bảy sắc / vợ dìu ta / từng bậc / thang mòn”. Một người anh có thể “thông thường thượng đế rong chơi / trần gian choang choác sự đời tùy em”. Vì thế Vợ ốm, “tứ chi” Nguyễn Duy “lõng thõng quơ rụng rời”. “Cha con Chúa Chổm” mới “loanh quanh”, mới “như nguyên thủ tanh bành quốc gia”. Nguyễn Duy do vậy trong chữ tình với vợ dồn nén cả trọng, yêu, thương, cảm.

Page 59: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

59

Anh lặng lẽ ngồi nhìn chị, một buổi chiều muộn : Nhẹ nhàng tiếng bóng liêu xiêu em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng. Suy nghĩ và cảm nhận : Má hồng về chốn hồng hoang tóc rơi mỗi sợi nghe ngàn lau rơi. Nghe ứa nước mắt. Không phải như Nho giáo, kể chuyện nàng Mạnh Quang đời Hậu Hán đưa

chén rượu mời chồng “hai tay nâng ngang mày” là để “bắt chết” người phụ nữ vào lễ nghĩa “kính trọng chồng”. Nguyễn Duy “Mỗi năm tết có một lần / mời em li rượu tay nâng ngang mày” chỉ nhằm tri ân, tỏ sự tương kính, tình thân mật, nồng ấm của mối lương duyên chồng vợ. Nên khi chị trìu mến “Vợ cười chưa uống đã say”, trong anh trào dâng nỗi niềm “ngọt ngào thì nổi đắng cay thì chìm” mà hai người cùng nhau nếm trải cả cuộc đời. Anh thầm thì, nài nỉ :

Tóc loay hoay bạc bạc dần mỗi năm tết có một lần thôi em. Một tiếng thở dài dáng vẻ hối hận cất lên tận đáy lòng lòng. Anh tự thấy mình chỉ là người chồng suốt năm tháng “Mải nưng nứng mộng

siêu nhân / lên cơn giá vũ đằng vân giang hồ / Cuộc chơi hành hiệp lơ ngơ / vắt mình ra mấy giọt thơ nhạt phèo”, “Thất tha thất thểu văn chương kẽo cà kẽo kẹt tai ương đường dài / yêu cùng ai ghét giùm ai / để cơm áo vẹo hai vai em gầy”. Anh “vô tích sự” : “nồi gạo hết lúc nào ta chả biết” để “thăm thẳm lo trong mắt vợ u sầu”. Khiến chị “Gót chân ăn vẹt bậc thềm / quanh năm tất bật đi tìm ngày xuân”. Thế nên, bây giờ, trong cảnh ngộ xa xứ “qua sông mượn khúc ca dao làm cầu”, Nguyễn Duy nhận ra Vợ là một hiện diện quê nhà, là Cõi về của mình. Anh tự trào thật tâm : “Dần mòn con chữ tong teo / liêu xiêu lều quán lèo tèo ven đê / Cánh buồm mây tướp chiều quê / Ruỗng / tênh / hênh / bịch / rơi / về / cõi / em”. Câu thơ có dáng “lá rụng về cội” cùng giọng ca trầm buồn mang vẻ đẹp kẻ sĩ “mỏi cánh đương xa” (và ông chồng thi nhân tình tứ) lấy vợ làm nơi ở ẩn :

Thôi ta về với mình thôi chân trời đành để chim trời nó bay Quả không ai trong các nhà thơ cổ kim Việt Nam viết về vợ được như Nguyễn Duy

(anh đã tuyển hẳn một tập thơ riêng “Kính tặng vợ” - Vợ ơi...NXB Phụ nữ - 1995).

Page 60: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

60

* Nguyễn Duy dù như thế nào, cuối cùng là thế này đây - mặc nhiên “mang dấu

ruộng dấu vườn”. Thích thú hút thuốc lào hãm với “Nước chè tươi rót vàng mơ” mỗi sáng trước khi ra đồng:

Sáng mai đánh bệt trước thềm đứ đừ phun khói thuốc lên tận trời Cha tôi mất đã lâu rồi tôi về ngồi chỗ cha ngồi năm nao Rít còi phụt khói rõ cao trời lao đao đất lao đao lờ đờ. Giây phút hạnh phúc, khoảnh khắc thăng hoa nhất là vô vi tự tại trong đời sống

dân dã “Ngẩng đàu đưa khói vào mây / nghênh ngang hiền triết điếu cày thăng thiên”.

Không thể không nói rằng cái căn cốt thiên bẩm kia được bồi bổ chân nguyên bởi câu ca của bà, lời ru của mẹ, lối sống của cha cùng tinh túy ruộng đồng, làng mạc. Chất lượng người ấy khiến cho Nguyễn Duy làm thơ chỉ đa phần sử dụng hai chiêu sáu / tám mà tạo nên lắm thức lục bát biến hóa tân kỳ. Ngay như cái tài vận tư duy dân gian, bẻ, vặn từ láy, điều khiển thể thơ tự do của anh cũng có uyên nguyên từ căn cốt này. Anh chọn lọc, tổ chức, dẫn dắt con chữ uốn lượn qua thác ghềnh ý tưởng, cảm xúc để cất lên tiếng thơ. Trong đó có mảng thơ quê hương, gia đình, vợ con đầy sức nặng, sức ám ảnh.

Lưu Đức Hạnh (Hội Văn học Nghệ thuật Thanh

Hóa)

VĂN BẢN 6

KIỀU VƯỢNG – NHÀ VĂN TRÁNG KIỆN VÀ TRẢI NGHIỆM

Từ năm 2010 đến hết năm học 2011-2012, tôi vinh dự được cùng nhà văn

Kiều Vượng, hội viên hội nhà văn Việt Nam, trưởng Văn phòng đại diện báo Văn nghệ khu vực Bắc miền Trung đi nói chuyện thời sự văn học và chân dung nhà văn

Page 61: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

61

hiện đại Thanh Hoá tại 17 trường THPT trong tỉnh. Đó là các trường THPT Thạch Thành 2, Hoằng Hoá 4, Đặng Thai Mai, Nông Cống 1, Tĩnh Gia 1, Thạch Thành 3, Vĩnh Lộc, Lam Sơn, Ba Đình, Lương Đắc Bằng, Quảng Xương 3, Nguyễn Mộng Tuân, Lê Lai, Cẩm Thuỷ 3, Hà Trung, Hậu Lộc 2, Triệu Thị Trinh. Năm nay nhà văn đã tới tuổi “thất thập cổ lai hy”, nhưng vẫn tráng kiện về sức khoẻ, tâm hồn, ông có nhân cách và tài năng đầy trải nghiệm.

Kiều Vượng sinh ra tại một vùng quê ven biển của huyện Quảng Xương. Nơi mẹ đẻ ra tôi là một vùng cát trắng, ngày đêm nghe gió biển ngân nga hát khúc tâm tình. Đất và người nơi đây đã nhào nặn một Kiều Vượng lớn lên trong cát bụi, khổ nghèo. Nhà văn học ở trường làng và tốt nghiệp THPT tại Quảng Xương 1. Nhà văn yêu quê hương tha thiết, nặng lòng trải nghiệm với miền quê khốn khó. Mỗi lần về thăm quê, khói hương cho cha mẹ, tổ tiên, lúc nào đôi mắt ông cũng nghẹn ngào chan chứa. Và mỗi lần có điền kịên, thế nào nhà thơ cũng giành những giây phút quý hiếm về thắp hương vái lạy linh hồn mẹ.

Đến làm việc với các trường THPT trong tỉnh, nhiều giáo viên và học sinh ngưỡng mộ nhà văn không chỉ về tài năng mà trước hết là hình ảnh một nhà văn tráng kiện. Ở tuổi xưa nay hiếm nhưng nhà văn vẫn hào sảng, khoẻ khoắn. Biển, cát và mẹ đã sinh ra Kiều Vượng, nhà văn của xứ biển mặn mòi. Nhà văn vạm vỡ, có nước da bánh mật của ngư dân vùng biển Quảng Xương. Đôi mắt tinh anh, hàm răng còn chắc khoẻ. Điều tuyệt vời là nhà văn có thể đứng suốt buổi liên tục để nói chuyện từ 3 đến 4 tiếng đồng hồ mà không cấn nghỉ lao. Điều gì làm nên sức tráng kiện kì diệu đó ? Là quê hương? là biển cả? là Mẹ? là cả Bụt chùa nhà không thiêng ? là phẩm chất của anh chiến sĩ giải phóng quân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ hay sức chiến đấu tiên phong, ngang tàng của nhà văn chiến sĩ trong thời kì đổi mới. Trái tim tôi ngân lên tha thiết là tất cả, tất cả của những yếu tố đó. Kiều Vượng có mặt trong đoàn quân vận tải năm 1959. Chiến trường ác liệt, lúc trực tiếp trên những nẻo đường ra tiền tuyến, lúc đi mở những con đường ra trận, khi nào chàng thanh niên trẻ khoẻ, kiên cường ấy cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cuộc sống và những trải nghiệm nơi bom đạn đã đúc nên Kiều Vượng gan dạ, dẻo dai, có trí nhớ tuyệt vời. Đến hôm nay, khi qua địa phương nào, nẻo đường nào ông cũng kể vanh vách cho chúng tôi nghe về kỉ niệm. Kỉ niệm khi ông chỉ huy đoàn vận tải đường thuỷ từ Cửa Hà Cẩm Thuỷ xuôi về Hàm Rồng, kỉ niệm dốc Bò Lăn quốc lộ 15, kỉ niệm về Hàm Rồng. Và nhà thơ đọc những trường ca nhật kí ở rừng của Phạm Tiến Duật, thơ Minh Hiệu, văn Triệu Bôn, kể về chuyện bận làm người của nhà thơ Hữu Loan…. Say sưa, náo nức, ông không chỉ là người thắp sáng những kỉ niệm dọc đường chiến tranh mà còn như một ngọn hải đăng soi đường về những miền kí ức cần được giải mã trước cuộc đời bề bộn hiện nay.

Kiều Vượng có sức viết bền bỉ, dẻo dai. Ông tung bút ở nhiều thể loại với một số lượng tác phẩm khá đồ sộ. Thơ : Xuất bản 3 tập thơ tiêu biểu Nói với mình (1997), Lời riêng(2000), Miền riêng(2006)

Page 62: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

62

Văn xuôi : Các tập truyện: Một vùng quê (1982), Một đoạn đời (1991), Đoạn cuối cuộc đời (1984), Nơi mẹ đẻ ra tôi (1995), Những con đường những cuộc đời (2005) Các tiểu thuyết: Người cuối cùng ở lại (1986), Sóng gió (1987),Vùng trời thủng (1988), chuyện ở núi Rồng (2004) Các tập ký: Lời hẹn (1984), Những cuộc đời thầm lặng (1992), Vùng đất từng nổi tiếng (2002), Trở lại đường xưa (2007), Bụt chùa nhà không thiêng (2009) Tập truyện ngắn: Truyện ngắn Kiều Vượng Điện ảnh: Giải Nhì( không có giải nhất): Chở đá lên núi, Giải Nhất kịch bản phim tài liệu của Bộ Văn hoá thể thao và du lịch: Nguyên liệu

Đặc biệt là nhà văn tâm huyết cùng với nhà văn Chu Lai viết kịch bản Hàm Rồng chiến thắng.

Những bài nói chuyện của ông với các trường THPT Thanh Hoá đã phác thảo nên diện mạo văn học hiện đại xứ Thanh. Trong bức tranh chung về các nhà văn Thanh Hoá viết về xứ Thanh, tài năng của Kiều Vượng được bồi đắp lô gíc, hợp với các vùng miền khác nhau. Mỗi một miền quê, qua những trang văn bằng cách giới thiệu của Kiều Vượng đều hiện lên sống động. Ông đã giải quyết thuyết phục mối quan hệ của nhà văn với quê hương. Sự sáng tạo của mỗi nhà văn là con đẻ của tài năng. Nguồn gốc gia đình và của thời đại ảnh hưởng sâu sắc đối với sự nghiệp của người cầm bút. Nhà thơ Hữu Loan nổi tiếng với Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Hoa lúa. Những bi kịch của người thơ ấy trong vụ Nhân văn Giai phẩm chỉ vì 2 câu thơ “ Lấy chồng thời chiến chinh, mấy người đi trở lại”. Người nghẹn ngào, nức nở với bi kịch của Màu tím hoa sim, nhận ra sức mạnh của những câu thơ đã một thời quy kết nhuốm màu sắc tiểu tư sản. Và cuộc đời của nhà thơ Hữu Loan bận bụi với chuyện làm người đã được phục nguyên giá trị bằng việc tỉnh Phú Yên làm bảo tàng về Hữu Loan ở Đèo cả. bài thơ Màu tìm hoa sim …tím chiều hoang biền biệt đã được phổ nhạc, trở thành bài hát nổi tiếng. Một công ty du lịch hải ngoại đã tặng nhà thơ Hữu Loan 100 triệu. Nhà thơ Hữu Loan, cặm cụi thồ đá trong núi Vân Đoàn Nga Sơn đã về cõi vĩnh hằng. Bằng những hồi ức và giọng đọc thơ trũ tình trầm lắng, vang ngân, nhà văn Kiều Vượng đã dựng được những tượng đài bất hủ trong cuộc đời và trong nghệ thuật. Nam Mộc tên thật là Lê Hữu Kiều là dịch giả nổi tiếng với các tiểu thuyết Sông Đông, Đất vỡ hoang, Người mẹ. Ông là nhà văn quê ở Hoằng Hoá, đồng thời là một nhà chính trị hoạt động trước cách mạng tháng Tám. Nam Mộc từng là bí thư xứ uỷ Nam Kì. Nhưng khi trở về Hà Nội sau cách mạng tháng Tám, ông âm thầm hoạt động ở lĩnh vực dịch các tác phẩm văn học Nga. Điều quan trọng là những tác phẩm dịch của ông được đánh giá rất cao nhưng ông không được đào tạo học tiếng Nga mà bằng việc tự học.

Nhà văn Kiều Vượng trân trọng cá tính trong cuộc sống và trong sáng tạo của các nhà văn. Kiều Vượng kể say sưa về bi kịch và sự ngang tàng của nhà văn Lê Đại Thanh quê ở Thọ Xuân. Lê Đại Thanh từng là chủ tịch thành phố Hải Phòng sau cách mạng. Vì yêu thơ văn, thích phám phá vẻ đẹp của dòng sông Mã, sông Chu ông đã làm một cuộc chu du mạo hiểm: bỏ nhiệm sở để đi sáng tạo nghệ thuật.

Page 63: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

63

Lê Đại Thanh có các cháu ngoại nổi tiếng là các nghệ sĩ Lê Vân, Lê Khanh. Ông quan niệm chết là gửi một tấm vé của con người đi trên trần gian.

Kiều Vượng trăn trở về đội ngũ nhà văn Thanh Hoá. Ông giới thiệu trong Hội nhà văn Việt Nam có 75 người Thanh Hoá nhưng đã quá cố 19 người. Nhà văn trẻ nhất hiện nay vừa kết nạp là Viên Lan Anh (quê Quảng Xương), sinh năm 1964. Còn người trẻ thứ hai năm nay đã 56 tuổi. Chính vì vậy mà Kiều Vượng đã mạnh dạn đề nghị Hội nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức mở lớp viết văn trẻ lần thứ nhất tại Thanh Hoá tại Sầm Sơn hè 2011. Những trái chín đầu mùa báo hiệu những dấu hiệu tốt lành. Nhưng để có một đội ngũ trưởng thành, sung sức thì phải kiên trì phát hiện, chăm lo của các cấp các ngành. Những mầm tài năng đó cần được phát hiện và nuôi dưỡng sáng tạo.

Khi nói chuyện, giói thiệu về chân dung các nhà văn quá cố, chúng tôi phát hiện Kiều Vượng trân trọng, ngưỡng vọng và tìm những nét tiêu biểu nhất. Nhà thơ chớp lấy linh hồn trong cuộc đời số phận của người nghệ sĩ và những tia chớp, những ánh sáng khúc xạ chói chang nhất để phác thảo. Có lẽ ngân quỹ về thời gian không nhiều nên chỉ cần một vài nét chấm phá nhưng chân dung từng nhà văn hiện lên rõ nét. Một Hữu Loan tài hoa sắc sảo, một Trịnh Thanh Sơn “ ta rót cô đơn vào biển”. Một Cầm Giang - Lê Gia Hợp với lời thơ của bài hát Tình ca Tây Bắc “em là dòng sông Mã, anh là núi Mường Hung. Một Thôi Hữu với Lên Cấm Sơn. Và đây Hồ Zếnh với ngập ngừng Thôi anh đừng đến nữa, một Hồng Nguyên hy sinh ở chân Cầu Vàng Yên Định vói bài thơ Nhớ. Tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên giới thiệu du lịch về Trần Mai Ninh ơi cái gió Tuy Hoà, gió đi ngang đi dọc. Cần cù và phóng túng. Kiều Vượng đọc những câu thơ trong bài Việt Nam trên đường chúng ta đi của Ngô Xuân Sách đầy niềm tự hào và kiêu hãnh. Những bài học về tình yêu đảng trong thơ Minh Hiệu và câu chuyện ông bị bắt sau cải cách ruộng đất khi trở về quê Nông Cống. Thơ Minh Hiệu đậm chất ca dao dễ nhớ, dễ thuộc, dễ tuyên truyền. Lữ Giang ngọt ngào với Tiếng đàn bầu Việt Nam cung thương là tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha, ngân nga em vẫn hát, tích tịch tình tình tang…

Kiều Vượng chiêm nghiệm sâu sắc lời nhà văn Triệu Bôn (quê Đông Sơn) làm phần mở đầu của cuốn tiểu thuyết “ Bão không có gió”. Đó là “Thanh Hoá quê tôi như một vùng nước lợ. Tất cả cái mặn mòi chân chất của miền trong và hào hoa phong nhà của miền ngoài khi chạm vào đất Thanh đều tan.”Tuyên ngôn nghệ thuật và sứ mạng lịch sử của nhà văn theo Kiều Vượng là: Nhà văn sinh ra để chống lại mọi thứ cường quyền, hắc ám đặng góp phần giảm bớt nỗi khổ đau của con người

Đánh giá về nhà văn Lê Minh Khuê (quê Tĩnh Gia), Kiều Vượng khẳng định Lê Minh Khuê là nhà văn nữ sau cách mạng có số lượng tác phẩm đồ sộ nhất.

Kiều Vượng giới thiệu một số nhà văn tiêu biểu như Lê Văn Vọng và kỉ niệm với hội nhà văn. Sự thành công với thể loại lục bát trong thơ Lê Đình Cánh (quê Thọ Xuân). Hai anh em ruột các nhà thơ Nguyễn Bao và Nguyễn Biểu (tức nhà thơ Định Hải – quê Yên Định). Nguyễn Bao nổi tiếng với bài thơ Hoa chanh.

Page 64: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

64

Bài hát trái đất này là của chúng mình mà thiếu nhi cả thế giới hát được phổ nhạc từ lời thơ của nhà thơ Định Hải.

Trong những bài nói chuyện với các trường THPT, Kiều Vượng thường giành một phần trân trọng đối với nhà thơ Nguyễn Duy. Sự nghiệp tho Nguyễn Duy có 3 giai đoạn chính. Ở giai đoạn nào cũng khẳng định được đỉnh cao. Trước 1975 với Sông Thao, Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam. Nhưng đến sau 1976, Nguyễn Duy phân vân, nghi ngờ Lời của cây, của quả. Mỗi bài thơ của Nguyễn Duy đều được ra đời từ một hoàn cảnh cụ thể nên nó mang rõ số phận: Về làng, Đò Lèn, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa...

Kiều Vượng triết lý về tính dự báo của văn học. Khi tiếp nhận những giá trị văn học, phần lý luận thường đề cập tới những chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng thẩm mĩ. Nguyễn Duy không phải là người tiên phong cho dự báo văn học. Nhưng sau đại thắng mùa xuân 1975, nhà thơ chiến sĩ Nguyễn Duy đã tiên phong nhìn thẳng vào sự thật để dự báo về mặt trận không có tiếng súng với niềm khát khao hướng thiện. Bài thơ Ánh trăng là cuộc đấu tranh với sự vụ lợi, với khao khát sống thuỷ chung, nhân văn trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.

Tính cách của nhà thơ Nguyễn Duy đại diện cho sự độc đáo, trực diện dũng cảm. Nguyễn Duy đi lang thang mấy năm, qua 160 nước để Nhìn từ xaTổ quốc, đánh thức tiềm lực; kim mộc, thuỷ hoả thổ đầy dự báo về nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, nhân cách con người Việt Nam. Thơ Nguyễn Duy đi từ cái trong trẻo lúc học trường cấp 3 Lam Sơn, cái đằm thắm của quê hương, sự trong sáng hào hùng của chiến tranh, đến những day dứt, trăn trở của hiện tại cuộc sống thời bình.

Kiều Vượng không nói nhiều về mình; khiêm nhường giản dị ông tiếp thêm sức mạnh khi viết kịch bản Hàm Rồng chiến thắng. Bài thơ ông viết cánh đây 47 năm tại chiến trường khói lửa Hàm Rồng năm 1965. Ông đọc vang, giọng anh hùng ca bài ca chiến thắng Người con gái quê Thanh. Tháng 8 năm 2012, nhà văn Kiều Vượng vinh dự được Giải thưởng văn học Mê Kông.

Hành trình của nhà văn Kiều Vượng đến với giáo viên và học sinh yêu thích thơ văn là sự trải nghiệm tài hoa có chút ngang tàng. Như con tằm nhả tơ, như con ong chăm chỉ dâng mật ngọt cho đời. Còn sức khỏe, ông còn cống hiến. Tôi sợ ngày mai, sức tráng kiện cũng đi theo quy luật của đời người và số phận. Không biết khoảng trống đó ai sẽ thay thế ông được. Cầu mong ông tráng kiện “mãi mãi tuổi hai mươi” để văn học xứ Thanh cứ tươi xanh, nảy lộc đâm chồi từ miếng đất màu mỡ, phì nhiêu mà Kiều Vượng dày công gieo hạt.

Trịnh Trọng Nam (Sở GD&ĐT Thanh Hóa)

PHẦN III- TIẾNG VIỆT

Bài 5 (1 tiết)

Page 65: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

65

RÈN LUYỆN CHÍNH TẢ

MỤC TIÊU Giúp học viên:

- Phát hiện và sửa một số lỗi thường thấy do ảnh hưởng của cách phát âm Thanh Hoá.

- Hạn chế lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm này trong quá trình dạy học, góp phần vào việc giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt. - Có kĩ năng hướng dẫn học sinh phát hiện và sửa lỗi phát âm tiếng địa phương Thanh Hóa trong quá trình học và giao tiếp. I- BÀI TẬP 1. Phát hiện lỗi chính tả khi viết như sau và sửa lại cho đúng : a) cha chuyền con nối ; trà đạp ; giò trả ; bán chác ; chạc cây ; trạn bát ; vững trãi ; vững chãi ; trành chọe ; chành chọe ; trao nghiêng ; trặc lưỡi ; trằng buộc ; lẫm chẫm ; trập chà trập chờn ; trật trội ; che chở ; trêm lời ; trênh sức ; trễm trện ; chuyệch choạc ; nuốt chửng ; trệu trạo ; chệu chạo ; chát phấn bôi son ; chau chuốt ; tráng ấm chén ; chầy chật ; trầy trật ; chêu chọc ; trêu trọc ; trêu chọc. b) xả thịt ; mưa sa ; xớn xơ xơn xác ; sáng chưng ; xành ăn ; sản vật ; xạp gỗ ; xát cánh bên nhau ; xan xát ; xạt lở ; sám sịt ; đỏ xẫm ; tối sầm ; da đen sậm ; đóng xập cửa lại ; úp sấp ; nhường cơm xẻ áo ; sợ xệt ; xỉ vả ; xiểm nịnh ; xiêu nhân ; xột xoạt ; sột soạt ; xuýt xoát ; suýt soát ; xuýt soát ; xổng chuồng ; xởn gai ốc ; sởn da gà ; xụt xùi ; xào xạc ; xum họp ; sum họp ; xử dụng ; ứng sử. c) rác rưởi ; giác quan ; tự dác ; rơm rạ ; rơm dạ ; bụng làm rạ chịu ; rệu rã ; giệu giã ; dôm dả ; rôm rả ; ra vẻ ; da vẻ ; gia vẻ ; rạng danh đất nước ; dạng danh đất nước ; ráo riết ; dáo giết ; dáo diết ; tạnh ráo ; tạnh dáo ; tanh giáo ; dên dẩm ; rên rẩm ; dình dập ; rổ rau ; dổ rau ; run rủi ; dun dủi ; mục duỗng ; mát dượi ; bứt dứt ; dượt đuổi ; đón dước ; rũ rượi ; dung động ; giùm beng ; dung dinh. d) con muổi ; đội mủ ; nay nay em 11 tuỗi ; kĩ thuật ; kĩ luật ; kỉ thuật ; cao ngất ngưỡng ; cao ngất ngưởng ; ngưởng cửa ; ngưỡng cửa ; nhìn mê mải ; rữa mặt ; chãi đầu ; nàng tôi xanh bóng tre ; em rất thích ăn thịch nợn nuộc ; trái tiêm lầm chỗ đễ trên đầu ; tim thuốc phòng dịch ; con chiêm hót níu no ; con kín mà leo cành đa ; con chùn chùn đậu ỡ bờ ao ; tôi yiêu đất nước ; riệu nhạt củng say.

Page 66: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

66

2. Điền thanh hỏi hoặc ngã thích hợp vào các từ in đậm trong đoạn văn sau : “Trong xa hội Mường cô truyền nghề dệt được coi là một tiêu chuân đánh giá kha năng lao động và vị trí cua người phụ nư. Người phụ nư nào dệt gioi không nhưng được đánh giá cao mà còn được cộng đồng làng xóm kính trọng. Chính vì le đó mà ngay từ khi lên 7-8 tuôi các bé gái đa bắt đầu làm quen với nhưng công việc đơn gian như quay sợi, phơi bông, tách hạt, hái dâu, chăn tằm và được mẹ truyền cho cách dệt các loại vai”. (Phạm Thị Quy) II- NHỮNG LỖI CHÍNH TẢ THƯỜNG THẤY DO ẢNH HƯỞNG CỦA CÁCH PHÁT ÂM Ở THANH HOÁ 1. Do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương, theo em học sinh Thanh Hoá thường mắc những lỗi chính tả nào sau đây. Điền dáu X vào ô trống để trả lời. A- Viết tr = ch và ngược lại B- Viết x = s và ngược lại C. Viết v = d (vui vẻ + dui dẻ) D. Viết r = d = gi và ngược lại Đ. Viết n = l và ngược lại E. Viết và phát âm lẫn lộn dấu thanh hỏi và thanh ngã G. Viết vần i = iê ; uô = u (trái tim + trái tiêm; Nuốt + nút) H- ươt = ươc (xanh mướt = xanh mước) 2. Điền vào chỗ trống để được bài học về chính tả : “Do đặc điểm phát âm của địa phương, nên người Thanh Hoá thường mắc các lỗi chính tả sau : ........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ Vì vậy khi viết, cần chú ý để không mắc các lỗi này”. III- LUYỆN TẬP Chữa lỗi chính tả và chép lại đoạn văn sau : Khỡi nguồn từ vùng núi cao Điện Biên, sông Mã trảy qua Sầm Nưa (Lào), vào địa phận Thanh Hoá ở xã Tam Chung, huyện Mường Lát. Với chiều dài 242 km (trên tổng 528 km), sông Mã cùng các chi liêu của nó trảy qua 13/16 huện chong

Page 67: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

67

tỉnh đã tạo nên một liêu vực chím 4/5 dịn tích toàn tỉnh. Dọc theo hệ thống sông Mã là đồng bằng dộng lớn, nhửng bản làng, thôn sóm chù phú, nhửng di tích văn hoá, lịch sữ quan trọng, danh lam thắng cảnh nổi tiếng. ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 2. Ra một số dạng bài tập giúp học sinh phát hiện và sửa lỗi do phát âm tiếng địa phương Thanh Hóa. Trình bày và đánh giá bài tập theo nhóm.

Bài 6 ( 1tiết)

THỰC HÀNH SỬA CHỮA CÁC LỖI CHÍNH TẢ TIẾNG ĐỊA PHƯƠNG THƯỜNG GẶP

MỤC TIÊU

Giúp học viên: - Tiếp tục làm các dạng bài tập khắc phục những lỗi chính tả do ảnh hưởng

của cách phát âm địa phương. - Có thói quen cẩn thận trước khi nói và viết những từ ngữ dễ sai do cách

phát âm Thanh Hoá tạo ra. Có ý thức viết đúng chính tả và phát âm chuẩn. I- BÀI TẬP 1. Phát hiện và sửa lỗi chính tả thường gặp. a) Gạch chân những từ viết sai chính tả trong đoạn thơ sau của Tố Hữu:

Bàng hoàng như dửa trim bao Chắng mây Tam Đão tuôn vào Trường Xơn

Giốc quanh xườn núi mưa chơn

Page 68: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

68

Tưỡng Miền Nam đó, trập trờn hôm mai Đường đi...hay dấc mơ dài

Nước non ngàn rặm nên bài thơ quê b) Chỉ ra các loại lỗi chính tả trong đoạn thơ trên. 2. Làm các bài tập chính tả. a) Viết lại cho đúng các từ sau : tim phòng ; trái tiêm ; con hiu ; điều hiêu ; giới thịu ; thãnh thơi ; nghỉa vụ ; sắn áo ; siêu vẹo ; xồng sộc ; suýt xoa. b) Điền vào chỗ trống tiếng có âm đầu ch hoặc tr để hoàn thành câu thành ngữ. ........................hay không bằng tay quen. ..........................ngã em nâng Lời....................cao hơn mâm cỗ ........................mặt gửi vàng ......................già măng mọc c) Dòng nào sau đây viết đúng chính tả ? A- con trâu, lá trầu, con trâu trấu B- con trâu, lá chầu, con châu chấu C- con châu, lá chầu, con châu trấu D- con trâu, lá trầu, con châu chấu Đ- chái nhà, chạc cây, vững chãi E- trái nhà, chạc cây, vững trãi G- chái nhà, chạc cây, vững trãi H- trái nhà, trạc cây, vững trãi d) Điền thanh hỏi hoặc ngã thích hợp vào các từ in đậm trong đoạn thơ sau: Công làng bồng bềnh mây nôi Nào hay trời cung gần thôi Vừa mới bước qua ngo trúc Đa đi lơ lưng giưa trời (Trần Đăng Khoa) II- LUYỆN TẬP Chép lại đoạn văn sau khi đã sửa lỗi chính tả :

VỨT DÁC BỪA BẢI - MỘT THÓI QUEN KHÔNG TỐT

Page 69: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

69

Chúng ta không thễ sống mà không thãi giác. Nhưng việc thãi dác ở đâu và như thế lào nà một vấn đề dất đáng quan tâm. Chính ý thức trưa tốt và thói quen vứt dác bừa bải hàng ngày nà một trong nhửng nguên nhân gây ô nhiễm và nàm mất đi vẻ đẹp cũa môi chường chúng ta đang sống. ..............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

Bài 7 (1 tiết) SỬA LỖI CHÍNH TẢ

DO ẢNH HƯỞNG CỦA CÁCH PHÁT ÂM TIẾNG ĐỊA PHƯƠNG

MỤC TIÊU Giúp học viên:

- Tiếp tục làm các dạng bài tập khắc phục những lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương.

- Có thói quen cẩn thận trước khi nói và viết những từ ngữ dễ sai do cách phát âm Thanh Hoá tạo ra. Có ý thức viết đúng chính tả và phát âm chuẩn. I- BÀI TẬP 1. Chép lại đoạn văn sau khi đã chữa các lỗi chính tả: Ở trên sân khấu, thầy giáo già trống thước lặng lẽ nhìn tất cã các học sinh thân yiêu của thầy. Thầy đứng nghiêng nghiêng và chúng tôi thấy mái đầu bạc của thầy hơi dung dung trong một niềm súc động sâu xắc. Thầy đã quá già, gầy và yếu. Lòng tôi sót xa vì thấy rằng qua bao nhiêu lăm tháng, thầy đã mất bao sức nực đễ lo lắng cho tương lai của các thế hệ học trò, lẽ gia thầy phãi được yên tâm, hoàn toàn yên tâm... thế mà chúng tôi, tôi vẩn còn làm thầy phãi lo lắng chưa ngui.

Page 70: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

70

(Theo Đặng Ái, Nhà hàng hải)

2. Điền vào chỗ trống: a) Điền thanh hỏi hoặc ngã vào chữ in đậm ; điền vào chỗ để trống s hoặc x ; r, gi hoặc d ; tr hoặc ch trong bài thơ sau : KÍNH TẶNG MẸ Mã Giang Lân

Cả một đời .....ống với .....uộng đồng Tám mươi tuôi mẹ về với đất Vân tấm áo nâu quen thuộc Mẹ .....a đi. Mẹ chăng .....ặn lại điều gì Mọi đau khô lo toan mẹ đem theo ca .....uốt một đời vất va Mẹ nhận phần mình một nấm mồ thôi. Mẹ .....a đi ......ất nhẹ Tội cho con khi .....ở về nhà Không gặp mẹ chỉ biết đến bên mồ, đứng lặng ......ữa đồng chiều, nắng đang tắt nơi xa...

b) Điền vào chỗ trống au hoặc âu ; i hoặc iê : A- m..............sắc ; phép m............... B- m...............mỡ ; màn ảnh m............. C- nh..............nát ; c..............được, ước thấy. D- đất lành chim đ................ Đ- Lúa ch.........m lấp ló đầu bờ, Hễ nghe t........ng sấm phất cờ mà lên. E- Đẹp như t.........n. G- Con ch...m non. c) Điền vào chỗ trống ui hoặc uôi : A- m...........thơm ; m............dưa. B- t.............tác ; t...........xách.

Page 71: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

71

C- lau ch......... ; ch..........dao d) Điền vào chỗ trống uôt hoặc uôc : A- cày sâu c............bẫm ; máu chảy r...........mềm ; ướt như ch.............lột. B- nhem nh............; bắt b.............; thân th............ C- lạnh b............; v.............ve ; sáng s.............; lem l........... đ) Điền vào chỗ trống s hoặc x : .......um.......uê ;.......ao .......uyến ; .......uýt ......oa ; ......ì.......ụp. ......ền.......ệt ; ......ay.......ưa ; .....an......ẻ ; ......ột......oạt. ......ừng......ững ; ......iên......ẹo ; ......em......ét ; bép.......ép. 3. Tìm từ phù hợp. a) Tìm từ chứa tiếng bắt đầu bằng ch hoặc tr : A- Từ có nghĩa là cần mẫn, siêng năng :...................... B- Từ trái nghĩa với từ đục (bị nhiều cặn bẩn) :................. C- Đồ dùng may, dệt thành tấm để đắp, phủ lên :............. D- Đưa trâu, bò đi ăn cỏ :............... Đ- Áp sát bụng xuống đất, đẩy mình về phía trước :................. b) Tìm từ chứa tiếng bắt đầu bằng d, g hoặc r : A- Từ chỉ lớp mô bọc ngoài cơ thể người và một số động vật :............. B- Từ trái nghĩa với ngắn :................ C- Thầy dạy riêng cho trẻ em trong một gia đình :.................... D- Làm chín thức ăn bằng cách đảo đi đảo lại trong chảo nóng :............... Đ- Từ chỉ sự nhàn nhã, không bận việc gì :................... c) Tìm từ chứa tiếng bắt đầu bằng s hoặc x : A- Từ trái nghĩa với đúng :................. B- Chỉ việc cắt, tách ra từng miếng :................ C- Vật bằng cao su, lắp bên trong lốp các loại xe :.................. D- Một loại cây lương thực, thân thẳng, có đốt :.................. Đ- Gần ngang bằng nhau, chênh lệch không đáng kể :.................. 4. Chọn từ / tiếng cho sau để điền vào chỗ trống. a) Chọn che, tre, chí, trí, chiều hay triều ? A- Dùng nan............đan rèm............nắng thì rất tốt.

Page 72: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

72

B- Anh ta vừa có.............tuệ hơn người, vừa có ý...........phấn đấu cao. C- Cứ đến buổi..............nước thuỷ................lại dâng lên. b) Chọn bổng, bỗng, mải, mãi, kỉ hay kĩ ? A- Bên tai tôi ................vang lên tiếng hát trầm................... B- ..................chơi, thằng bé.................không chịu về nhà. C- Bác Ba vừa có.............thuật cao, vừa giữ rất nghiêm...........luật lao động. c) Chọn dì, gì, rì rầm, dì dầm, dành hay giành? A- Cây ............thẳng tắp trước nhà, Trái ngon.....................tặng riêng bà, bà ơi ? B- Hoa.............khi nở trên cành Già chui xuống đất để...................nuôi ta ? C- Đêm đêm............................trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về. (Nguyễn Đình Thi) II- LUYỆN TẬP 1. Điền vào chỗ trống chưa hoặc trưa ; chuyện hoặc truyện. a) Bạn đã ăn cơm.................xong ...............? b) Ăn.................xong bữa................., tôi đã nghe tiếng Bình gọi giữa................hè nắng gắt. c) Câu .....................tôi kể sau đây là...................dân gian Việt Nam. d) Tôi kể ngày xưa.................Mị Châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu (Tố Hữu) 2. Tìm từ thích hợp bắt đầu bằng ch hoặc tr điền vào chỗ trống để hoàn chỉnh truyện cười sau :

YÊN TÂM ĐI Nằm điều.................đã nửa tháng, nhưng bệnh tình vẫn không hề thuyên giảm nên ...................lòng bệnh nhân nọ rất lo lắng. Một hôm ông hỏi bác sĩ : - Bác sĩ có...............là tôi bị viêm phổi không ? - Ông này hỏi lạ ! Tôi là bác sĩ hay anh là bác sĩ ? - Hỏi vậy, vì tôi nghe ở đây mới xảy ra....................hợp bệnh nhân được điều....................bệnh phổi nhưng lại..............vì đau dạ dày. - Yên tâm đi ! Tôi khác, bệnh nhân tôi điều...........bệnh phổi thì..............nhất định cũng do bệnh phổi.

Page 73: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

73

3. Chữa lỗi chính tả trong đoạn văn sau : Nhà Bình tát ao. Da giáng ông chủ, câu ta đứng phưỡng bụng chên bờ. Thanh thấp người nên cố dướng cổ qua vai Bình để sem mọi người bắt cá. Dưới ao, Trung lượng đi, lượng lại khiến bùn bắn tung toé. Còn Hà thở giài thường thược mổi khi cá luồn qua kẽ tay chạy mất. Những lúc như thế, Trung lại kêu to : “Kém quá ! Kém quá !”. Hà đổ cạu : “Này, đừng có lương ngắn lại chê trạch dài !”. Nga bương bã từ trong vường cây ăn quả chạy gia, nghe câu được, câu mất, hét to : “Lưong, trạch chi cũng bắt tất !”, làm cả bọn cười ồ lên.

Bài 8 (1 tiết) TÌM HIỂU TỪ NGỮ

CHỈ QUAN HỆ THÂN THÍCH TRONG PHƯƠNG NGỮ THANH HOÁ

MỤC TIÊU Giúp học viên:

- Hoàn thành được bảng đối chiếu từ ngữ toàn dân và từ ngữ chỉ quan hệ thân thích của Thanh Hoá và một số tỉnh khác.

- Sưu tầm được một số thơ văn sử dụng từ ngữ chỉ quan hệ thân thích của địa phương.

- Có ý thức sử dụng và hướng dẫn học sinh sử dụng đúng lúc, đúng chỗ lớp từ này để tăng hiệu quả biểu đạt. I- TỪ NGỮ CHỈ QUAN HỆ THÂN THÍCH TRONG PHƯƠNG NGỮ THANH HOÁ 1. Hoàn thành bảng đối chiếu sau : Số TT

Từ ngữ toàn dân Từ ngữ được dùng ở

Thanh Hoá Từ ngữ được dùng ở địa

phương khác 1 cha 2 mẹ 3 ông nội 4 bà nội 5 ông ngoại 6 bà ngoại

Page 74: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

74

7 cụ (bố, mẹ của ông, bà) 8 bác (anh trai cha) 9 bác (vợ anh trai cha)

10 chú (em trai cha) 11 thím (vợ chú) 12 bác (chị gái cha) 13 bác (chồng chị gái cha) 14 cô (em gái cha) 15 chú (chồng em gái cha) 16 bác (anh trai mẹ) 17 bác (vợ anh trai mẹ) 18 cậu (em trai mẹ) 19 mợ (vợ em trai mẹ) 20 bác (chị gái mẹ) 21 bác (chồng chị gái mẹ) 22 dì (em gái mẹ) 23 chú (chồng em của mẹ) 24 anh trai 25 chị dâu (vợ anh trai) 26 em trai 27 em dâu (vợ em trai) 28 chị gái 29 anh rể (chồng chị gái) 30 em gái 31 em rể (chồng em gái) 32 con 33 con dâu (vợ con trai) 34 con rể (chồng con gái) 35 cháu (con của con)

2. Trong các từ ngữ chỉ quan hệ thân thích ở bảng trên, hãy cho biết : a) Từ ngữ nào là từ chỉ dùng ở Thanh Hoá ?

Page 75: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

75

b) Từ ngữ nào là từ thường dùng ở Thanh Hoá nhưng các vùng miền khác cũng hay dùng ? c) Từ ngữ nào chỉ dùng ở những vùng miền khác ? d) Hãy rút ra nhận xét về lớp từ ngữ chỉ quan hệ thân thích ở phương ngữ Thanh Hoá ? II- BÀI TẬP 1. “Cả nhà thi nhau khen ngợi rồi bắt Thành phát biểu cảm tưởng. Cậu chàng lúng túng : “Thầy u dầy già làm con cảm động quá...” (Bài làm học sinh) Trong cách diễn đạt trên, do dùng từ địa phương Thanh Hoá nên làm người nơi

khác có thể không hiểu ý muốn nói. Hãy làm sáng tỏ nhận xét này. 2. a) Chú tôi hay tửu hay tăm Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa (Ca dao) b) Thấy rét u tôi ủ lại mền Cô hàng bán rượu ủ thêm men (Nguyễn Bính) c) Văn chương nào phải là đơn thuốc Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu ! (Trần Tế Xương) d) Thưa rằng bác mẹ em răn : Làm thân con gái chớ ăn trầu người. (ca dao) d) Mấy lại rằm tháng tám này là giỗ đầu cậu mày, nếu mợ mày không về sẽ làm tủi vong linh cậu mày,...(Nguyên Hồng) e) Rõ ràng đôi mắt ông như muốn hỏi : “Sao, tía mở đầu như vậy con nghe có được không ?” (Đoàn Giỏi) g) Con nhớ mế ! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài (Chế Lan Viên) h) Anh dắt em vào cõi Bác xưa Đường xoài hoa trắng nắng đu đưa Có hồ nước lặng sôi tăm cá Có bưởi cam thơm, mát bóng dừa.(Tố Hữu) i) Cơm mà nhão, má cháu về thế nào cũng bị đòn. Sao cháu không gọi ba cháu. Cháu nói một tiếng “ba” không được sao ? (Nguyễn Quang Sáng) Giải thích các từ chỉ quan hệ thân thích trong các ví dụ trên, nói rõ đâu là lớp

từ cổ, từ ngữ toàn dân, phương ngữ (Bắc-Trung-Nam).

Page 76: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

76

3. Ai về thăm mẹ quê ta Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm Bầm ơi có rét không bầm Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn. Trong đoạn thơ trên, tại sao đầu tiên Tố Hữu dùng mẹ, sau đó lại dùng bầm ?

Bài 9 (1 tiết) TÌM HIỂU VIỆC DÙNG TỪ NGỮ XƯNG HÔ Ở THANH HOÁ

MỤC TIÊU

Giúp học viên: - Nắm được cơ bản cách xưng hô, từ xưng hô ở các địa phương khác và từ

xưng hô ở Thanh Hoá nói riêng. - Thấy vai trò, ý nghĩa và biết sử dụng từ xưng hô địa phương trong hoàn

cảnh giao tiếp cụ thể. I- TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG PHƯƠNG NGỮ THANH HOÁ 1. Điền từ xưng hô thích hợp để hoàn thành bảng sau : Số TT

Cách xưng hô Từ xưng hô được

dùng toàn dân Từ xưng hô mang tính địa

phương 1 với cha 2 với mẹ 3 với ông nội 4 với bà nội 5 với ông ngoại 6 với bà ngoại 7 với anh trai của cha 8 với vợ anh trai của cha 9 với em trai của cha

10 với thím vợ của chú 11 với chị gái của cha 12 với chồng chị gái của cha 13 với em gái của cha

Page 77: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

77

14 với chồng em gái của cha 15 với anh trai của mẹ 16 với vợ anh trai của mẹ 17 với em trai của mẹ 18 với vợ em trai của mẹ 19 với chị gái của mẹ 20 với chồng chị gái của mẹ 21 với em gái của mẹ 22 với chồng em gái của mẹ 23 với anh trai 24 với vợ của anh trai 25 với chị gái 26 với chồng của chị gái 27 với em trai 28 với em gái 29 với con của anh hoặc chị

cha mẹ

30 với con của em cha mẹ 31 với con của anh trai 32 với con của chị gái 33 với bạn cùng trang lứa 34 với người lớn tuổi hơn

mình

35 với người lớn tuổi hơn cha mẹ

36 với người nhỏ tuổi hơn cha mẹ

37 với bậc cao niên 38 với bậc già lão

2. Lớp từ ngữ xưng hô trong đoạn thơ sau cho đồng chí cảm nhận điều gì ? Gặp nhau cùng bất ngờ Mi, tau, miệng rối rít

Page 78: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

78

Như hai thằng con nít Thực mà y như mơ (Lê Bá Thự) 3. Dựa vào bảng so sánh lập được cùng kết quả trả lời câu 2, hãy cho biết : a) So với các từ ngữ chỉ quan hệ thân thích, lớp từ xưng hô có gì đặc biệt ? b) Nhận xét của đồng chí về lớp từ xưng hô ở Thanh Hoá. c) Tác dụng cũng như điều cần lưu ý khi dùng từ xưng hô địa phương. II- LUYỆN TẬP 1. Đây là đoạn thơ viết về một nét trong sinh hoạt của bộ đội Cụ Hồ thời đầu kháng chiến chống Pháp : - Đằng nớ vợ chưa ? - Đằng nớ ? - Tớ còn chờ độc lập Cả lũ cười vang bên ruộng bắp Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu. (Hồng Nguyên) a) Hãy cho biết đâu là từ ngữ từ xưng hô địa phương mà tác giả đã sử dụng và nghĩa của nó. b) Qua lớp từ này, có thể hình dung ra điều gì về tuổi tác, quan hệ, quê hương, nơi đóng quân (miền Bắc, Trung hay Nam) của họ ? 2. Cho một số ví dụ về từ xưng hô được dùng ở địa phương đồng chí và trong thơ, văn.

Bài 10 (1 tiết) TÌM HIỂU VIỆC DÙNG PHƯƠNG NGỮ THANH HOÁ

MỤC TIÊU

Giúp học viên: - Nắm một cách hệ thống từ ngữ địa phương Thanh Hoá trong sự tương ứng

vơi từ ngữ toàn dân và các phương ngữ khác. - Tác dụng diễn đạt của từ ngữ địa phương. - Có ý thức và cách thức sử dụng từ ngữ địa phương hợp lí, đúng đắn. - Có kỹ năng hướng dẫn HS ý thức và cách thức sử dụng từ ngữ địa phương

hợp lí, đúng đắn. I- TỪ TOÀN DÂN - PHƯƠNG NGỮ VÀ PHƯƠNG NGỮ THANH HOÁ

Page 79: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

79

1. Tìm từ ngữ toàn dân và từ ngữ các địa phương khác tương ứng với từ ngữ Thanh Hoá để điền vào bảng sau :

Phương ngữ Thanh Hoá Từ ngữ toàn dân Từ ngữ vùng miền khác bố, mẹ, u, thầy o hĩm chậy con kha con tru cá chuối củn củ lang đi đàng bù lào cây lọ choa bay (chỉ người) gẫy cẳng lộn về ẵm con đi cần, đi cấn bâu vào viền tê tề răng rứa đi mô làm răng rứa đó đớ

2. Căn cứ vào bảng trên, hãy cho biết, phương ngữ thuộc các từ loại nào ?

Page 80: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

80

3. Kết hợp với các bài học đã học, đồng chí có nhận xét gì về phương ngữ Thanh Hoá ? Nên sử dụng “tiếng Thanh Hoá” như thế nào khi nói và viết ? II- BÀI TẬP 1. Giải nghĩa nội dung các câu sau : a) Ông tôi ngồi chấp bằng trên tấm phản gỗ. b) Nó đã sai lè lè mà còn lồng hổng lên mới tức chứ lậy ! c) Cha đi bể đến tún mới viền. d) Thôi liệu mà sở đi. 2. Sau đây là khổ thơ kể chuyện Tố Hữu đến thăm một gia đình sau mấy mươi năm xa cách : Ô kìa, cô bé nói hay sao !

Nhà của tôi, ai lại hỏi chào Như thể khách đường xa ghé lại Bố đi đâu, hĩm, mẹ đâu nào ?

Hãy cho biết gia đình này thuộc tỉnh nào ? Vì sao đồng chí khẳng định như vậy ? Tình cảm của tác giả dành cho gia đình này như thế nào ? 3. Anh Bình đi làm ăn trong Nam 3 năm, nay mới về. Bố mẹ tôi vui lắm. Nhưng khi ngồi nói chuyện, nghe anh hỏi tôi : “Anh đi xa, ở nhà út có nghe lời ba, má không đó ?”, bố tôi liền nhăn mặt, khiến tôi chẳng hiểu tại sao. Rồi anh tỏ ra băn khoăn về việc bố ốm quá. Tôi càng không hiểu, vì lâu nay bố có ốm đau gì đâu. Đồng chí có thể giải thích hộ thắc mắc của bạn được không ?

Bài 11 (1 tiết) TÌM HIỂU TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG Ở THANH HOÁ (tiếp theo)

MỤC TIÊU

Giúp học viên: - Nắm khái quát về phương ngữ Thanh Hoá - Hiểu ý nghĩa và cách sử dụng của phương ngữ Thanh Hóa.

I- KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG NGỮ THANH HOÁ

Page 81: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

81

1. Phương ngữ Thanh Hoá cũng như các phương ngữ khác gồm những lớp từ ngữ nào ? 2. Hãy tìm các từ ngữ mà chỉ người Thanh Hoá mới dùng, mới hiểu. Từ kết quả này, đồng chí rút ra nhận xét gì ? 3. Phương ngữ Thanh Hoá gần với phương ngữ miền Bắc, miền Trung hay miền Nam ? 4. Phương ngữ có giá trị biểu đạt gì ? Khi sử dụng cần chú ý điều gì ? II- BÀI TẬP 1. Hồi chống Mĩ, một nhóm học sinh Nghệ An ra Thanh Hoá học đại học. Họ tập trung lại để nhận chỗ ở. Một học sinh nam hỏi : - Thưa bố, rứa nhà con ở mô ? - Anh ở nhà tôi, còn chị ấy phải sang nhà khác ! Bác cán bộ địa phương đáp, khiến cả nhóm cười ồ làm bác cán bộ khó chịu. Nhưng sau khi được giải thích, hiểu ra, bác cũng cười vui vẻ. Theo đồng chí ở đây có sự hiểu nhầm như thế nào ? 2. Cho đoạn trích sau : Chỉ hai năm sau, hĩm Sót trở thành ca sĩ Mộng Loan...Thế mà giờ đây Mộng Loan lại nằn nì tôi cho được chuyển sang một cơ quan khác, không phải để phát triển tài năng mà dảm bảo đời sống gia đình...Thế rồi cuộc chia tay được tổ chức tại nhà Mộng Loan. Nhiều chị em nhìn Mộng Loan bằng con mắt thèm muốn. - Từ nay mi sướng rồi, không còn khổ như choa nữa. Có cô thì thầm với Mộng Loan : - Mi sang bên nứ, coi ra răng, nói ví họ cho tau chuyển sang ví... Mộng Loan cười nói hớn hở...Nhưng nụ cười dần tắt. Nét mặt cô trở nên bần thần, và đột nhiên cô ôm lấy mặt khóc nấc lên... Chị em diễn viên nhao nhác : - Tề, răng mi lại khóc (Biến tấu, Đặng Ái - NXB Lao động, 1996)) a) Tìm từ ngữ ngữ địa phương trong đoạn trích và cho biết đó là của nơi nào ? Qua đây đồng chí có thể rút ra đặc điểm gì của phương ngữ này ? b) “Phiên dịch” các từ ngữ địa phương sang từ ngữ toàn dân. c) Tác giả dùng nhiều từ ngữ địa phương như vậy nhằm mục đích gì ?

Page 82: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

82

3. Phân tích để tìm ra cốt cách con người một vùng miền trên đất nước ta trong đoạn thơ sau của Nguyễn Duy.

Qua ngẫm chán, sống nghĩa là xả láng ăn hết nhiều chớ ở hết bao nhiêu nhà cửa tà tà che lá dừa lá mía nón áo khỏi lo nhưng nhậu phải đều đều Ai nghèo đói qua nhường cơm xẻ áo bụng người sôi cũng sôi giống bụng ta ki cóp một thân làm chi cho cực giàu ở lòng còn đẹp ở thịt da Chủ dục khách nhậu đi đừng hỏi nữa việc bán lúa dư đăng báo chi cho phiền dư ít nuôi làng, dư nhiều nuôi nước thành tích có gì mà phải nêu tên...

BÀI TẬP Tìm thêm dẫn chứng về tiếng địa phương các vùng miền trên đất nước ta qua lời nói sinh hoạt cũng như trong văn, thơ.

PHẦN IV- TẬP LÀM VĂN Bài 12 (1 tiết)

GIỚI THIỆU DANH LAM THẮNG CẢNH VÀ DI TÍCH LỊCH SỬ, VĂN HOÁ THANH HOÁ

MỤC TIÊU

Giúp học viên: - Nắm được những di tích, danh thắng mà bài học cung cấp (vị trí địa lý,

cảnh quan, nội dung, ý nghĩa). - Nhớ và phân loại đuợc các di tích, danh thắng nổi tiếng trong tỉnh. - Biết viết bài giới thiệu di tích, danh thắng của địa phương. - Hình thành ý thức bảo vệ, giữ gìn, phát huy những giá trị tốt đẹp của của di

tích, danh thắng. VĂN BẢN 1

Page 83: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

83

BÃI BIỂN SẦM SƠN Bãi biển Sầm Sơn thuộc thị xã Sầm Sơn, cách thành phố Thanh Hoá16 km. Bãi biển có hình trăng khuyết, dài 9 km, rộng hàng trăm mét, chạy từ chân núi Trường Lệ đến xã Quảng Cư. Các bãi tắm ở đây, mặt cát đều bằng phẳng, mịn màng, sóng thường lúc nào cũng xanh trong, lại cao và mạnh vừa đủ, khiến người tắm biển thích thú mà không sợ nguy hiểm. Thêm nữa, độ mặn cùng nhiệt độ của nước biển thích hợp nên rất tốt cho việc bồi dưỡng sức khoẻ. Sầm Sơn cũng rất giàu hải sản, với gần 1000 loại khác nhau để đáp ứng nhu cầuu ẩm thực biển của du khách. Ngoài ra, Sầm Sơn còn là một vùng thiên nhiên kì thú với trời mây, non nước và những thắng tích đầy màu sắc huyền thoại như hòn Trống - Mái, đền Cô Tiên, đền Độc Cước,... Từ đây, bạn cũng rất tiện đường làm một chuyến đi “trong ngày” đến các điểm tham quan, du lịch nổi tiếng : Hàm Rồng, Lam Kinh, Thành Nhà Hồ, Vườn quốc gia Bến En, Suối “cá thần” Cẩm Lương,... Vì thế từ năm 1906, người Pháp đã khai thác, đưa vào sử dụng bãi biển Sầm Sơn và đánh giá đây là bãi biển tốt nhất nước ta.

(Viết lại theo Địa chí Thanh Hoá, tập II - NXB Khoa học xã hội-2004) VĂN BẢN 2

THÀNH NHÀ HỒ Thành Nhà Hồ là tên gọi dân gian của thành Tây Đô - Tây Giai - An Tôn, thuộc địa phận hai xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hoá gần 50 km. Thành được Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397 nhằm chuẩn bị cho việc thay đổi triều đại và phòng thủ đất nước trước dã tâm xâm lược của triều Minh. Án ngữ quanh thành là 4 ngọn núi. Thổ Tượng ở phía bắc, Hắc Khuyển ở phía đông, Ngưu Ngọa, phía tây và Đốn Sơn, phía nam. Ngoài ra, sông Mã từ hướng tây chảy qua, sông Bưởi từ hướng đông đổ về tụ hội, vừa tạo nên bức bình phong tự nhiên che chắn, vừa làm cho nơi này thành chốn sơn thuỷ hữu tình. Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất nhà Trần, lập nên nhà Hồ, ông đã dời kinh đô từ Thăng Long về đây, gọi là Tây Đô. Thành có chu vi 3058m, diện tích gần 1 cây số vuông. Mặt ngoài ghép

Page 84: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

84

bằng đá khối, phần lớn dài 2m, rộng 1m, dày 0,7m ; một số có kích thước 4m x 1,2m x 0,7m. Bốn cửa chính ra vào thành cũng bằng đá khối. Cửa Tiền, ngoảnh hướng nam, lớn nhất, rộng 38m, cao hơn 10m gồm 3 vòm cuốn mà vòm giữa cao 5m75 m, rộng 5,82m. Hai vòm bên đều cao 5m35 m, rộng 5,15m. Trong thành là hệ thống cung điện. Bao quanh thành là hệ thống hào nước rộng 50m, sâu vài mét và luỹ tre. Thành Nhà Hồ, cách đây hơn 600 năm vừa là quốc đô vừa là thành luỹ quân sự vô cùng kiên cố. Người đời sau vô cùng kinh ngạc trước kĩ thuật xây đá nguyên khối, có khối nặng 16 tấn ở độ cao trung bình 6m cùng tốc độ xây dựng - trong 3 tháng - như sử cũ đã ghi của toà thành đô này. Hồi đầu thế kỉ XX, nhà nghiên cứu người Pháp Bê-da-xi-en đã khẳng định “đây là một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam”. Thành Nhà Hồ được công nhận là “Di sản văn hoá thế giới” năm 2011.

(Viết lại theo Địa chí Thanh Hoá, tập II - NXB Khoa học xã hội-2004) VĂN BẢN 3

LAM KINH Lam Kinh hay Lam Sơn nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hoá 50 km về phía tây bắc. Từ 1418 đến 1424, Lam Sơn là đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Minh do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo. Sau khi khởi nghĩa thắng lợi, lập nên nhà Lê, Lê Lợi - Lê Thái Tổ (1428-1433) đã cho khởi công xây dựng nơi đây thành Kinh đô tinh thần của vương triều nên Lam Sơn được gọi là Lam Kinh. Các đời vua Lê sau, kế tiếp mở mang, tôn tạo, khiến Lam Kinh càng ngày càng bề thế. Lam Kinh phía bắc tựa lưng vào núi Du Sơn, quay mặt hướng nam nhìn ra sông Chu, hai bên đông-tây là rừng núi uốn lượn. Bốn mặt tường thành, dài 314m, rộng 254m, bề dày trên 1m, chính diện hình cánh cung, bán kính 164m. Qua cổng thành là sông Ngọc, một con sông đào, rộng 19m, vượt Tiên Loan Kiều (cầu Bạch), hình cánh cung, có mái che, đi khoảng 50m vào đến Ngọ Môn. Ngọ Môn 2 tầng mái, 3 gian, 3 cửa, rộng 11m, dài 14,1m. Qua Ngọ Môn là Sân Rồng, diện tích hơn

Page 85: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

85

3.500 mét vuông, lát gạch. Hai bên Sân Rồng là nhà tả vu, hữu vu (nhà phục vụ). Sân Rồng lên Chính Điện theo 3 lối, 9 bậc. Hai bên lối đi giữa trang trí rồng vờn ngọc, tạc tròn, thân uốn khúc. Chính Điện, bề ngang 38m, sâu 46m, cao 1,8m so với Sân Rồng, gồm 3 toà 2 tầng mái theo hình chữ “công” (I). Điện phía trước là Quang Đức, ở giữa là điện Sùng Hiếu, sau cùng là điện Diên Khánh. Phía tây Chính Điện là 2 điện thờ thân phụ và hai anh của Lê Thái Tổ, mỗi điện 5 gian. Phía đông, nhà ở của quan lại và binh lính trông coi. Sau Chính Điện có một sân hình cánh cung, chiều dài nhất 177m, có 9 khoảng cách chiều sâu khác nhau. Tiếp đến là 9 toà Thái Miếu - khu “nhà thờ” của dòng tộc vua Lê, cao hơn mặt sân 90cm, mỗi toà đều có diện tích 200 mét vuông. Lối đi giữa các Thái Miếu đều rộng 4m.

Lam Kinh còn có một hệ thống lăng tẩm với bia ghi công đức, là nơi an nghỉ của các vua Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông và Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Thánh Tông. Khu thành điện Lam Kinh mang dáng vẻ trang nghiêm, huy hoàng của hoàng thành, dáng vẻ linh thiêng, trầm mặc của tôn miếu giữa một vùng sông núi hữu tình. Thời xưa, hàng năm, các vua cùng triều đình nhà Lê đều về đây bái yết. Ngày nay, vào ngày 21 tháng 8 âm lịch, ngày giỗ Lê Lợi - Lê Thái Tổ, nhân dân Thanh Hoá lại làm lễ trọng để tưởng nhớ trong 3 ngày. Khách thập phương nô nức kéo về tham gia Lễ hội Lam Kinh. (Viết lại theo Địa chí Thanh Hoá, tập II - NXB Khoa học xã hội-2004) Chú thích * Di tích : dấu vết vật chất của quá khứ xa xưa còn lưu lại ; Thắng cảnh : phong cảnh đẹp nổi tiếng. Danh lam thắng cảnh (thắng tích) : di tích và phong cảnh đẹp nổi tiếng. Tuỳ theo giá trị mà thắng tích được công nhận là di sản- vốn quý của một tỉnh, một quốc gia hay toàn nhân loại. Hiện nay, nước ta có những di sản sau đây được Tổ chức văn hoá-khoa học-giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản thế giới : - Di sản văn hoá thế giới : Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mĩ Sơn, Khu trung tâm hoàng thành Thăng Long và Thành Nhà Hồ.

Page 86: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

86

- Di sản thiên nhiên thế giới : Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. - Di sản nhân loại (Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại) : Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù, Quan họ, Hội Gióng và Hát Xoan. - Di sản tư liệu thế giới : Mộc bản triều Nguyễn và 82 bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê-Mạc ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám. HƯỚNG DẪN DẠY - HỌC 1- HV đọc, ghi nhớ nội dung chính, vẽ lại sơ đồ (sa bàn) của 3 văn bản ; Tìm hiểu thêm ít nhất một di tích ở địa phương (ở nhà). 2- Tổ chức cho HV đọc tại lớp và chọn giới thiệu 1 trong 3 danh thắng, di tích qua sơ đồ (sa bàn). 3- Tổ chức cho HV rút ra bố cục của văn bản giới thiệu danh thắng, di tích và cách giới thiệu theo bố cục. 4- Tổ chức cho HV giới thiệu thêm danh thắng, di tích ở địa phương. 5- HS nêu ý nghĩa, giá trị và luyện tập phân loại danh thắng, di tích (cung cấp một danh mục các danh thắng, di tích để HS sắp xếp vào bảng phân loại : danh lam-thắng cảnh ; di tích văn hoá ; di tích lịch sử ; di tích văn hoá-lịch sử ; di tích cách mạng). 6- Trao đổi về nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ, quảng bá danh thắng, di tích của quê hương, đất nước. BÀI TẬP VỀ NHÀ Viết bài giới thiệu một danh thắng hoặc di tích của tỉnh hoặc địa phương.

Bài 13 (1 tiết)

HƯỚNG DẪN VIẾT BÀI GIỚI THIỆU VỀ MỘT DI TÍCH HOẶC THẮNG CẢNH Ở THANH HOÁ

MỤC TIÊU Giúp học viên:

Page 87: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

87

- Nắm lại yêu cầu và cách thức giới thiệu một di tích hoặc danh lam thắng cảnh. - Biết vận dụng để giới thiệu thắng tích ở địa phương. I- ÔN TẬP LÍ THUYÊT 1. Để viết một bài giới thiệu di tích, thắng cảnh của địa phương đồng chí đã chuẩn bị những gì ? 2. Bố cục bài giới thiệu của đồng chí như thế nào ? 3. Bài giới thiệu cần có lời văn ra sao ? II- LUYỆN TẬP 1. Hãy đặt tiêu đề, sắp xếp lại các tư liệu để có bố cục hợp lí cho bài giới thiệu thắng cảnh sau đây. a) Bến En là khu bảo tồn thiên nhiên được xếp vào loại đẹp nhất trong 10 vườn quốc gia của nước ta, một địa điểm nghiên cứu về sinh thái lí tưởng. Nơi đây cũng là điểm du lịch nổi tiếng ở Thanh Hoá. b) Vườn quốc gia Bến En cách Thành phố Thanh Hoá 36 km về phía tây nam, thuộc hai huyện Như Thanh và Như Xuân. c) Theo giới chuyên môn, rừng ở đây có nhiều kiểu, hệ thực vật phong phú, với 125 bộ, 462 loài mang đặc trưng cả hai miền Bắc-Nam như lim, lát, chò chỉ, sến, dổi, bù hương,... Có những cây lim mấy trăm năm tuổi, cao gần 50 m, mấy người ôm không xuể. Còn có nhiều cây nguyên liệu thủ công, cây cho dầu (song, mây, trẩu, hương bài,...). Có tới hơn 300 loại cây làm thuốc cùng một “rừng” lan, hoa nở quanh năm. Vừa qua, tại đây các nhà khoa học đã phát hiện thêm 3 loại thực vật mới bổ sung vào danh mục thực vật của Việt Nam và thế giới, được đặt tên là xâm cánh Bến En, găng Bến En, sang máu Bến En. d) Bến En có tổng diện tích 16.634 ha gồm núi rừng, hang động đá vôi, 4 con suối, 2 con sông, 2 hồ nối tiếp nhau rộng gần 4000 ha, 121 bán đảo và đảo lớn nhỏ. đ) Động vật ở vườn quốc gia Bến En cũng rất đa dạng, gồm: 300 loài côn trùng, riêng bướm đã có 88 loài, có loài chưa từng biết đến ở nước ta; 62 loài thú : hổ, voi, gấu, sói đỏ, vượn, khỉ,...; 162 loài chim. Ngoài ra còn nhiều loại thuỷ sản. e) Đến Bến En, du khách có thể làm một cuộc du ngoạn sông nước qua các đảo, câu cá, bắt cua đá. Hoặc vui thú núi rừng vài ba ngày, nghe chim kêu, vượn hót,

Page 88: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

88

ngắm hoa lan, leo núi thăm các hang động mà riêng các dáng hình thạch nhũ đã khiến bạn say mê. g) Đây là nơi sinh sống của các dân tộc Kinh, Thái, Thổ, Mường, 4 trong số 7 dân tộc ở Thanh Hoá. Ai đến cũng có thể vào thăm nhà sàn, uống rượu cần, hát múa và thưởng thức hai món đặc sản là canh đắng và nhất là cá mè sông Mực, chỉ có ở nơi đây. Cá Mực là loại cá tự nhiên, thịt trắng, thơm, mỡ rất dày, có con nặng tới chục cân mà từ xa xưa dân gian đã truyền ngôn : “Cá mè sông Mực chấm với nước mắm Do Xuyên / Chết xuống âm phủ còn muốn trở viền (về) mút xương”. h) Từ Bến En, du khách có thể đến thăm Phủ Na, Phủ Sung, đền Khe Rồng là những di tích nổi tiếng. 2. Có thể so sánh Vườn quốc gia Bến En với di sản thiên nhiên nổi tiếng nào của nước ta. Theo cách so sánh này, đồng chí hãy đặt thêm tiêu đề phụ cho Vườn quốc gia Bến En. Đồng chí đưa nội dung so sánh này vào phần nào của bài giới thiệu. 3. Chọn một ý giới thiệu Vườn quốc gia Bến En ở trên viết thành đoạn văn. III- BÀI TẬP Viết bài giới thiệu một di tích hoặc thắng cảnh ở địa phương.

Bài 14 (1 tiết) LỰA CHỌN, TÌM HIỂU, VIẾT VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG

HAY KHÍA CẠNH ĐỜI SỐNG Ở ĐỊA PHƯƠNG

MỤC TIÊU Giúp học viên:

- Nắm lại những vấn đề cơ bản của văn bản nhật dụng. - Biết cách lựa chọn, tìm hiểu một hiện tượng hay một vài khía cạnh của các

vấn đề của văn bản nhật dụng. - Biết cách trình bày hiện tượng, khía cạnh đời sống ở địa phương đã tìm

hiểu bằng văn bản. - Giáo dục tinh thần trách nhiệm, sự quan tâm đúng đắn đến đời sống xung

quanh. I- ÔN TẬP LÍ THUYẾT 1. Thống kê lại các văn bản nhật dụng và cho biết đó là những vấn đề gì ?

Page 89: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

89

2. Hãy nêu các biểu hiện của một trong những vấn đề này ở địa phương đồng chí. 3. Ngoài những vấn đề đã nói tới, đồng chí thấy còn cần quan tâm đến khía cạnh, hiện tượng đời sống nào đang diễn ra xung quanh ? 4. Hãy trình bày khía cạnh, hiện tượng đời sống tìm hiểu được ở địa phương bằng kiểu văn bản nào ? Phương thức biểu đạt nào ? Bố cục nên như thế nào ? II- LUYỆN TẬP 1. Trình bày văn bản cá nhân hoặc tổ, nhóm đã chuẩn bị. Đánh giá, nhận xét. 2. Sử dụng dẫn liệu kết hợp với trả lời câu hỏi nêu ra sau đây, hãy viết bài về “rác ni lông”. a) Dẫn liệu : + Rác thải là tất cả những thứ con người không sử dụng, vứt bỏ ra môi trường. Nó là anh em sinh đôi với con người và cuộc sống. Rác thải làm cho môi trường sống bẩn thỉu, hôi hám, ô nhiễm. Rác thải, chia làm ba loại : sinh hoạt, công nghiệp và y tế. + Nước ta mỗi ngày thải ra khoảng 50 nghìn tấn rác, trong đó có 22. 220 tấn rác thải sinh hoạt. + Xã hội càng phát triển, dân số càng tăng nhanh, rác thải sẽ càng nhiều. + Trong loại rác thải sinh hoạt không phân huỷ được, nguy hiểm nhất là rác ni lông. + Năm 1983, rùa biển nhiều nước chết. Tìm hiểu, là do nuốt phải túi ni lông mà chúng nhầm là sứa. Nước Anh có con rùa 9 tạ, nước Mĩ một chú cá voi chết vì túi ni lông làm tắc ruột. + Các nhà khoa học ước tính mỗi năm có khoảng 100.000 động vật biển chết do túi ni lông gây ra. + Một số loại túi ni lông còn chứa chất độc, hại não và gây ung thư phổi. Tiêu huỷ ni lông bằng cách đốt, có thể sinh ra chất đi-ô-xin rất độc. + Các sản phẩm từ nhựa, khi mới làm ra, người ta gọi là cuộc “cách mạng màu trắng”. Bây giờ được coi là “thảm hoạ màu trắng”. b) Trả lời câu hỏi : + Rác thải ni lông gây tác hại như thế nào đến môi trường đất và nước + Bản thân đồng chí và mọi người xung quanh đối với rác ni lông như thế nào ? + Đồng chí có đề xuất gì và góp phần như thế nào để hạn chế rác ni lông ? III- BÀI TẬP Giới thiệu một hoạt động hoặc tấm gương bảo vệ môi trường mà đồng chí quan tâm.

Bài 15 (1 tiết) LỰA CHỌN, TÌM HIỂU, VIẾT BÀI NGHỊ LUẬN

VỀ MỘT SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG Ở ĐỊA PHƯƠNG

Page 90: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

90

MỤC TIÊU

Giúp học viên: - Biết cách lựa chọn, tìm hiểu một sự việc, hiện tượng trong ở địa phương

mình sinh sống. - Có kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận từ hiện tượng đã lựa chon, tìm hiểu. - Nâng cao ý thức quan tâm đến đời sống xã hội, trước hết là những sự việc,

hiện tượng có ý nghĩa ở xung quanh. I- LỰA CHỌN, TÌM HIỂU SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG Ở ĐỊA PHƯƠNG 1. Trong lớp, trong trường đồng chí đang học và làm việc, ở thôn xóm, làng xã đang sống, đồng chí thấy có sự việc, hiện tượng hoặc con người nào đáng chú ý, khiến nhiều suy nghĩ, rút ra bài học cho bản thân, bạn bè, cộng đồng. Ví dụ : quan hệ bạn bè, thầy trò ; áp dụng kiến thức học trong nhà trường vào đời sống, sử dụng điện thoại di động, việc thực hiện an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, công tác đền ơn đáp nghĩa, công tác từ thiện, bạo hành trẻ em, bạo lực học đường, bạo lực gia đình,... 2. Đồng chí có dẫn chứng gì về hiện tượng đã chọn. Dẫn chứng cần đưa như thế nào, khi nào có thể nêu địa chỉ cụ thể, khi nào cần phiếm chỉ (ẩn dấu) để không làm người đọc, người nghe thấy “phóng đại, tô màu” hoặc làm tổn thương, tổn hại thậm chí gây hiềm khích, oán giận,...cho người, hoặc địa phương nói tới ? II- LUYỆN TẬP 1. Viết bài về sự việc hoặc hiện tượng đã lựa chọn, tìm hiểu, theo trình tự sau : a) Mở bài - Giới thiệu sự việc hoặc hiện tượng. - Nêu khái quát ý nghĩa. b) Thân bài - Phân tích ý nghĩa (tác dụng hoặc tác hại) của sự việc hoặc hiện tượng. - Đánh giá ý nghĩa. - Đề xuất cách thức, biện pháp phát huy (nếu là sự việc, hiện tượng cần nêu gương) hoặc khắc phục (nếu là sự việc, hiện tượng gây tác hại hay có mặt gây tác hại). c) Kết bài

Page 91: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

91

- Tóm tắt chung và rút ra bài học. 2. Đọc, góp ý bài viết trước lớp. Gợi ý : Học viên (cá nhân hoặc tổ, nhóm) chuẩn bị trước phần I. Trong tiết học trao đổi, thảo luận để xác định đề tài và thực hiện phần luyện tập theo đề tài đã xác định III- BÀI TẬP 1. Hoàn chỉnh bài viết trên lớp. 2. Lựa chọn, tìm hiểu để viết về một sự việc, hiện tượng khác ở địa phương.

Bài 16 (1 tiết)

KHẮC SÂU LÍ THUYẾT, KĨ NĂNG NGHỊ LUẬN VỀ MỘT SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG Ở ĐỊA PHƯƠNG

MỤC TIÊU

Giúp học viên: - Khắc sâu thêm kiến thức, kĩ năng đã học về văn nghị luận và nghị luận về

một sự việc, hiện tượng ở địa phương. - Trên cơ sở nắm vững lý thuyết, thực hành tốt các thao tác tạo lập văn bản.

LUYỆN TẬP 1. Đánh giá một số bài viết đã chuẩn bị theo yêu cầu của tiết 101. 2. Thực hành đề cho sau (lập dàn bài, đánh giá dàn bài, chọn viết một phần trong dàn bài).

TRÊN SÂN TRƯỜNG Đứa chơi đáo đứa nhảy vòng tôi không chơi đáo vì không có tiền Có tiền tôi cũng không chơi vì tôi không muốn bạn tôi mất tiền Tung tăng tôi ngắm tôi nhìn con sông có bóng con thuyền thả câu.

Page 92: TÀI LI ÊN GIÁO VIÊN THPT NGỮ VĂN ĐỊA PHƯƠNG _THPT.doc_.pdf · Phần Tiếng Việt 4. Phần Tập làm văn ... đối chiếu với bài Ôn tập ... có hai người

92

Đây là bài thơ làm năm lên 9 tuổi của nhà thơ Nguyễn Duy. Đọc bài thơ đồng chí có suy nghĩ gì về trò chơi của học sinh hiện nay. 3. Góp ý bài thực hành ; khắc sâu lí thuyết, kĩ năng nghị luận về một sự việc, hiện tượng ở địa phương. BÀI TẬP

Hoàn thành văn bản theo dàn bài đề văn đã được góp ý. -----------------------------------------------