tong hop tai lieu hoi thao 12112015 - final ...vca.gov.vn/uploads/file/2015/11_24/tai lieu hoi thao...
TRANSCRIPT
HỘI THẢO 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11/2015
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Thời gian: Ngày 12 tháng 11 năm 2015
Địa điểm: Khách sạn Victory, số 14, Võ Văn Tần, Q.3, T.P. Hồ Chí Minh
Thời gian Nội dung Diễn giả
8:00 -8:30 Đăng ký đại biểu -
8:30 - 8:45 Khai mạc Hội thảo Ông Trần Anh Sơn Phó Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh
8:45 - 9:00 Giới thiệu tổng quan về các hoạt động và tình hình thực thi pháp luật cạnh tranh trong giai đoạn 2005 – 2015
Ông Phùng Văn Thành
Phó trưởng phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Cục QLCT
9:00 - 9:15 Tham luận 1 Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh tại doanh nghiệp trong ngành hàng Tiêu dùng nhanh, hóa mỹ phẩm - những khó khăn, vướng mắc đã gặp trong thực tiễn và một số khuyến nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh
Ông Trần Võ Quốc Sơn Giám đốc Tư vấn pháp luật Công Ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam
9:15- 9:30 Tham luận 2 Một số vướng mắc trong việc thực thi các quy định liên quan đến hành vi Hạn chế Cạnh tranh: Từ thực tiễn tư vấn luật
Ông Nguyễn Anh Tuấn Tiến sĩ Thành viên Công ty Luật LNT & Partners
9:30 - 9:45 Tham luận 3 Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực Bán hàng đa cấp - những khó khăn, vướng mắc đã gặp trong thực tiễn và một số khuyến nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh
Ông Võ Đan Mạch Luật sư Phó Chánh Văn phòng Hiệp hội Bán hàng đa cấp Việt Nam
9:45 - 10:00 Nghỉ giải lao
Thời gian Nội dung Diễn giả
10:00 - 10:15 Tham luận 4
Đánh giá 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh - góc nhìn từ Công ty TNHH FrieslandCampina Việt Nam
Ông Trương Văn Toàn
Giám đốc Đối ngoại & Pháp lý Công ty TNHH Friesland Campina
10:15-10:30 Tham luận 5 Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh của Công ty Bảo hiểm - những khó khăn, vướng mắc và một số khuyến nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh
Bà Phạm Thanh Hải Luật Sư Giám đốc Pháp lý Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh
10:30 - 10:45 Tham luận 6 Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh - Một số vướng mắc
Bà Trần Chi Anh Luật sư Công ty Luật TNHH Baker & McKenzie Việt Nam
10:45 - 11:00 Tham luận 7 Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh ở một số doanh nghiệp - những khó khăn, vướng mắc và một số khuyến nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh
Ông Lê Quang Vy Luật sư Giám đốc Công ty Luật TNHH Việt Long Thăng (VLT Lawyers)
11:00 - 11:45 Thảo luận, đóng góp ý kiến từ các đại biểu tham gia Hội thảo
Đại biểu
11:45 - 12:00 Tổng kết và bế mạc Hội thảo Ông Trần Anh Sơn Phó Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Giới thiệu
Tổng quan về các hoạt động và tình hình thực thi pháp luật cạnh
tranh trong giai đoạn 2005 – 2015
Ông Phùng Văn Thành
Phó trưởng phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh
Cục Quản lý cạnh tranh
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Tham luận 1
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh tại doanh nghiệp trong ngành
hàng Tiêu dùng nhanh, hóa mỹ phẩm - những khó khăn, vướng mắc đã gặp
trong thực tiễn và một số khuyến nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh.
Ông Trần Võ Quốc Sơn Giám đốc Tư vấn pháp luật
Công Ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Tham luận 2
Một số vướng mắc trong việc thực thi các quy định liên quan đến hành vi
hạn chế Cạnh tranh: Từ thực tiễn tư vấn luật
Ông Nguyễn Anh Tuấn Luật sư
Công ty Luật LNT & Partners
Sau 10 năm từ khi có hiệu lực thi hành, Luật Cạnh tranh (LCT) đã dần bước vào cuộc
sống. Qua thực tiễn hành nghề của mình, chúng tôi nhận thấy trong một vài năm trở lại đây
các doanh nghiệp đã quan tâm nhiều hơn đến hoạt động tuân thủ luật cạnh tranh. Nhiều doanh
nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) đã có các bộ tài liệu và tập
huấn nội bộ để trang bị cho nhân viên kiến thức luật cạnh tranh cho nhân viên. Sự thay đổi
này này phần lớn là do các nỗ lực của cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc phát hiện và xử
lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm luật cạnh tranh (như vụ VINAPCO hay thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh (HCCT) giữa các doanh nghiệp bảo hiểm). Những vụ việc này không chỉ đem
đến bài học thực tế cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh, mà còn cho
thấy những thành công của cơ quan cạnh tranh trong việc phát hiện, xử lý thích đáng những
hành vi vi phạm. Từ đó, giúp các doanh nghiệp có cái nhìn rõ nét hơn, chân thật hơn về việc
áp dụng pháp luật cạnh tranh trên thực tế.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến hiệu quả hoạt động tuyên truyền pháp luật cho cộng
đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng của Cục Quản lý cạnh tranh (QLCT). Trong bối cảnh
một số quy định của luật vẫn còn chưa được quy định cụ thể hóa, các báo cáo thường niên về
thực thi luật cạnh tranh, báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam và gần đây nhất là báo cáo rà
soát các quy định của luật cạnh tranh của Cục QLCT đã cung cấp các thông tin bổ ích, và
quan trọng cho doanh nghiệp trong việc định hướng và theo dõi các thể chế luật cạnh tranh.
Tuy nhiên, qua thực tiễn hành nghề chúng tôi thấy rằng luật cạnh tranh và văn bản
hướng dẫn hiện nay vẫn còn một số bất cập gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc
hiểu và áp dụng trên thực tế như sau:
1. Quy định ở phần chung
Thị trường liên quan là các khái niệm quan trọng của LCT để doanh nghiệp có thể xác
định được thị phần từ đó đánh giá khả năng áp dụng của LCT đối với các trường hợp luật yêu
cầu phải đạt ngưỡng thị phần nhất định (như xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay
độc quyền hay để kiểm soát hoặc đánh giá vụ việc tập trung kinh tế (TTKT) v.v.). Mặc dù
vậy, các quy định về xác định thị trường liên quan theo dẫn tại Điều 4 Nghị định
116/2005/NĐ-CP (NĐ 116) còn khá chung chung và thiếu thực tế khiến doanh nghiệp gặp
khó khăn trong khâu áp dụng. Đơn cử trong vụ việc Megastar trước đây đã có nhiều tranh
luận về việc xác định thị trường liên quan nhưng cơ quan quản lý cạnh tranh cũng không đưa
ra hướng dẫn gì về trường hợp này.
Hiện nay, hầu như các doanh nghiệp đều thuê các công ty dịch vụ nghiên cứu thị trường có uy tín để xác định thị phần và mức độ cạnh tranh trên thị trường. Nhưng kết quả
khảo sát này lại không thể sử dụng làm kết quả tham chiếu được nếu theo các tiêu chí nêu tại
Điều 4 NĐ 116. Thực tế này khiến cho doanh nghiệp khá lúng túng trong việc xác định đúng
thị phần của mình từ đó vận dụng các quy định của LCT một cách đúng đắn. Chúng tôi cho
rằng để giúp các doanh nghiệp tự xác định thị phần một cách chính xác, thì nêu tiêu chí xác
định như NĐ 116 hiện nay là chưa đủ, mà cần hướng dẫn phương pháp xác định để tham
chiếu. Trong tương lai, Cục QLCT nên nghiên cứu để áp dụng phương pháp độc quyền giả
định (hypothetical monopolist test - HMT). Hiện nay phương pháp này đang được phổ biến ở
nhiều nước bao gồm Trung Quốc.
LCT cũng cần có hướng dẫn cụ thể hơn về đối tượng áp dụng là “doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam” quy định tại Điều 2 LCT. Chẳng hạn các đối tượng này có
bao gồm văn phòng đại diện hoạt động tại Việt Nam hay không. Trong một số lĩnh vực
thương mại nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị hạn chế thành lập công ty có vốn nước ngoài, hàng
hóa thông qua bên thứ ba (nhà nhập khẩu, phân phối, hoặc đại lý tại Việt Nam) nhưng vẫn
chịu chi phối bởi chính sách giá và bán hàng bởi công ty nước ngoài. Trong trường hợp này,
công ty nước ngoài có được xem là đối tượng điều chỉnh của luật Việt Nam hay không. Hoặc
trường hợp các công ty ở nước ngoài thực hiện tập trung kinh tế, có doanh số (thông qua nhà
nhập khẩu) tại Việt Nam đạt ngưỡng thông báo nhưng chỉ có văn phòng đại diện ở Việt Nam,
thì có phải thông báo hay không cũng chưa hoàn toàn rõ ràng.
2. Thỏa thuận HCCT
Thứ nhất, Điều 8 LCT chỉ liệt kê các dạng thỏa thuận bị cấm nhưng vẫn chưa đưa ra
định nghĩa như thế nào là “thỏa thuận” cũng như yêu cầu chứng cứ đối với việc xác lập thỏa
thuận khiến cho doanh nghiệp gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện. Chúng tôi cho
rằng, cần làm rõ
(i) Hình thức của thỏa thuận có phải được lập bằng văn bản hay các chứng cứ khác
như email, tin nhắn, băng ghi âm có thể được sử dụng?
(ii) Thời điểm được xem là đã hình thành thỏa thuận HCCT khi các doanh nghiệp đã
thống nhất về phương hướng thực hiện (như xác định ngày tăng giá nhưng chưa
kịp thực hiện đã bị phát hiện) hay khi đã bắt đầu thực hiện thỏa thuận?
Đây là một vấn đề quan trọng chưa được xác định cụ thể cho dù đây là một yếu tố quan
trọng để doanh nghiệp tự xác định cần phải làm gì để loại trừ rủi ro vi phạm luật cạnh tranh.
Ví dụ, doanh nghiệp phát hiện nhân viên tham gia họp hoặc trao đổi email liên quan đến xác
lập giá cả với nhân viên của đối thủ doanh nghiệp cần biết như vậy đã được xem là phạm luật
hay chưa. Nếu đã vi phạm thì phải báo cáo với Cục QLCT để được giảm nhẹ hình phạt hoặc
nếu chưa thì xử lý nội bộ.
Thứ hai, phạm vi điều chỉnh theo quy định tại Điều 8 cũng cần làm rõ có bao gồm cả
thỏa thuận dọc hay chỉ áp dụng đối với thỏa thuận ngang. Theo báo cáo giải trình của ban
soạn thảo LCT nêu trước Quốc hội, Điều 8 được thiết kế chỉ bao gồm các thỏa thuận ngang,
các thỏa thuận dọc được áp dụng theo quy định tại Điều 13. Tuy nhiên, trong luật và NĐ 116
sự phân biệt này không được thể hiện rõ ràng. Trong khi đó chúng tôi cho rằng việc xác định
phạm vi điều chỉnh này rất quan trọng vì để áp dụng Điều 13, cần phải chứng minh yếu tố áp
đặt (của bên có vị trí thống lĩnh đối với bên ký kết hợp đồng).
Thứ ba, việc phân nhóm các hành vi bị cấm có điều kiện (từ khoản 1 đến khoản 5, Điều 8)
và bị cấm tuyệt đối (từ khoản 6 đến khoản 8, Điều 8) là chưa thật sự hợp lý và không phù hợp với
xu hướng chung của các nước phát triển. Hiện nay, một số thỏa thuận bị cấm với điều kiện là có
thị phần kết hợp từ 30% trở lên theo quy định tại Điều 8 gồm khoản 1 (ấn định giá), khoản 2
(phân chia thị trường) và khoản 3 (kiểm soát số lượng, khối lượng sản phẩm) đã được chứng
minh là đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nên cần bị cấm tuyệt đối.
Cuối cùng, thực tiễn áp dụng luật cạnh tranh ở các nước (như Mỹ, Nhật Bản) cho thấy
chính sách khoan hồng là công cụ hữu hiệu để giúp cơ quan quản lý cạnh tranh có thể phát
hiện và xử lý kịp thời và hiệu quả các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, Việt Nam
hiện vẫn chưa áp dụng chính sách này đồng thời vẫn chưa có quy định rõ ràng về các lợi ích
khi thông báo vi phạm. Điều này dẫn đến việc doanh nghiệp khi phát hiện nhân viên của mình
đang tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không biết phải xử lý như thế nào. Cần có chính
sách khoan hồng áp dụng đối với thành viên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để
khuyến khích doanh nghiệp báo cáo vụ việc đến cơ quan quản lý cạnh tranh để được hưởng
khoan hồng.
3. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
Các quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh/ vị trí độc quyền vẫn còn khá cứng nhắc khi
áp dụng trên thực tế. Với vai trò là văn bản pháp luật trọng yếu nhằm xác định các vấn đề
pháp lý về cạnh tranh, nhưng LCT chỉ chú trọng mô tả các dấu hiệu bên ngoài mà chưa đánh
giá đúng các đặc tính, bản chất các hành vi lạm dụng. Từ đó, những biện pháp xử lý mà LCT
đề xuất vẫn nặng hướng điều chỉnh các biểu hiện bên ngoài thay vì thay đổi tác động của
hành vi đến thị trường. Chúng tôi cho rằng, LCT cần khuyến khích và bảo vệ các thoả thuận
này chừng nào nó còn có thể thúc đẩy hiệu quả kinh tế và lợi ích của người tiêu dùng. Do đó
về nguyên tắc, các doanh nghiệp (bao gồm doanh nghiệp có sức mạnh thị trường) cần được tự
do thỏa thuận. Các thỏa thuận đó chỉ bị cấm khi nó hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể mà
không có một lợi ích kinh tế nào quan trọng hơn có thể biện minh cho hành vi đó. Hay nói
cách khác, LCT không ngăn cản hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lớn mà chỉ ngăn
cấm các doanh nghiệp đó lạm dụng quyền lực thị trường của mình một cách bất bình đẳng.
Tuy nhiên, một số quy định của luật được quy định khá cứng nhắc và không phù hợp
với thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp lớn.
Thứ nhất, quy định về cấm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hạn chế phân phối sản
phẩm của đối thủ và hạn chế địa bàn phân phối, Điều 30 Nghị định 116/2005/NĐ-CP qui định
một số hành vi hạn chế cạnh tranh như sau: “[Hành vi] áp đặt cho doanh nghiệp khác điều
kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ là việc đặt điều kiện tiên quyết sau đây
trước khi ký kết hợp đồng: … (a) Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác… không liên
quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy định của pháp luật về đại lý; (b) Hạn
chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh
có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
Trong khi đó, các doanh nghiệp cần phải hợp lý hóa hệ thống phân phối nên trong
nhiều trường hợp việc phân chia thị trường phân phối cho các nhà phân phối là cần thiết và
mang lại hiệu quả kinh doanh (như đối với hợp đồng Franchise). Nếu nhìn từ khía cạnh tích
cực mà các thoả thuận dọc đem lại, việc cho phép duy trì các thoả thuận này là phù hợp với
mục tiêu của LCT là để tối đa hoá phúc lợi người tiêu dùng bằng cách đạt hiệu quả phân phối
nguồn lực và giảm chi phí đến mức thấp nhất có thể. Một thoả thuận phân phối độc quyền
(hai chiều) chỉ nên bị cấm khi (i) gây thiệt hại cho khách hàng là khi nó ngăn cản không cho
khách hàng có khả năng tiếp cận và mua các sản phẩm cùng loại của các nhà sản xuất khác
hoặc (ii) ngăn cản đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường là khi nó không cho phép các
nhà sản xuất mới có thể sử dụng hệ thống phân phối sản phẩm trên thị trường.
Ví dụ: Giả sử HONDA (HD) là nhà sản xuất chiếm hơn 60% thị phần xe máy trên toàn quốc, ký hợp đồng phân phối độc quyền với HONDA VIETNAM (HV), theo đó HV chỉ được phép phân phối xe máy của HD cho các cửa hàng bán lẻ và để đổi lại một số ưu đãi nhất định từ phía HD. Thoả thuận này không hề ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dùng nếu như các cửa hàng này không bị ràng buộc bởi điều kiện chỉ được phép bán xe HONDA vì họ mua xe máy không phải từ HV mà là ở các cửa hàng bán lẻ xe máy. Người tiêu dùng có thể lựa chọn xe máy của các nhà sản xuất khác được bán tại cửa hàng tuỳ theo thị hiếu và túi tiền của mình. Thậm chí, ngay cả khi các cửa hàng bán lẻ này bị ràng buộc bởi thoả thuận chỉ được bán xe máy của HD, nhưng các nhà sản xuất khác cũng có các thoả thuận tương tự như vậy đối với nhà phân phối độc quyền của họ, có nghĩa là trong khu vực lãnh thổ đó có nhiều cửa hàng bán lẻ xe máy khác cũng chỉ bán xe của SUZUKI (SZ) và SYM thì người tiêu dùng vẫn có quyền lựa chọn cửa hàng để mua SZ, SYM hay HD tuỳ theo thị hiếu của mình, hay theo chất lượng phục vụ, hậu mãi của cửa hàng đó. Trên thực tế, để bảo vệ uy tín và thương hiệu của nhà sản xuất, các cửa hàng như vậy luôn được nhà sản xuất hỗ trợ tối đa để có thể phục vụ tốt nhất cho khách hàng (như vốn, đào tạo nhân viên,…). Do đó, thoả thuận phân phối độc quyền ở cấp độ bán lẻ cũng không bị coi là vi phạm LCT nếu nhìn từ góc độ gây tổn hại cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, quy định hiện hành không cho phép xem xét yếu tố này để miễn trừ các
thỏa thuận này.
Thứ hai, Điều 31 Nghị định 116/2005/NĐ-CP qui định: “Ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới là hành vi tạo ra những rào cản sau đây: “… yêu cầu
khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới.” Quy định này cũng khá
cứng nhắc và chưa thật sự hợp lý xét từ khía cạnh thương mại.
Một hoạt động thương mại khá phổ biến trên thị trường, nhất là khi Việt Nam gia nhập
WTO, là hoạt động của nhà sản xuất tài trợ cho các cửa hàng bán lẻ để mở rộng kênh phân
phối. Một nhà sản xuất (có vị trí thống lĩnh trên thị trường) muốn hợp tác với một số cửa hàng
bán lẻ của họ thông qua hình thức tài trợ. Nhà sản xuất cung cấp một số vốn, trang thiết bị để
kinh doanh và bán sản phẩm của nhà sản xuất. Vì đây là mục đích của hợp đồng, nên nhà bán
lẻ chỉ được phép bán sản phẩm khác nếu không ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn đã tài trợ
và hiệu quả của hình thức hợp tác. Việc một nhà sản xuất thỏa thuận với cửa hàng bán lẻ chỉ bán sản phẩm của mình chưa hẳn đã ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ
cạnh tranh mới vì đối thủ cạnh tranh có thể bán hàng cho những cửa hàng bán lẻ khác trên
cùng thị trường. Trên thực tế các nhà sản xuất sản phẩm cùng loại khác cũng có hợp đồng
tương tự như vậy với các cửa hàng bán lẻ khác.
Ví dụ: Trong sản xuất nông nghiệp, các nhà máy đường cũng tài trợ cho nông dân trồng mía, đổi lại việc nông dân chỉ bán mía cho nhà máy đường đó, chứ không phải nhà máy đường khác. Thỏa thuận như vậy nếu bị cấm sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cho cả nhà máy đường lẫn nông dân. Các nhà máy đường sẽ không tài trợ cho nông dân nếu như họ không được chắc chắn là sẽ được thu mua mía và do vậy không đảm bảo được nguồn cung. Ở chiều ngược lại, nông dân sẽ không được hỗ trợ kinh phí để canh tác trồng mía.
Thứ ba, Cục QLCT cũng cần giải thích như thế nào là “điều kiện tiên quyết” theo quy
định tại Điều 30 NĐ 116. Điều này xuất phát từ thực tế là các điều khoản thương mại của hợp
đồng thường được đàm phán chung với nhau. Như vậy, một điều khoản được quy định trong
hợp đồng có thể được xem là điều kiện tiên quyết hay không hay phải gắn với chế tài nhất
định như chấm dứt hợp đồng mới được xem là điều kiện tiên quyết.
Thứ tư, quy định về phân biệt đối xử cũng gây không ít lúng túng cho doanh nghiệp
khi áp dụng.
Điều 29 NĐ 116 đưa ra khái niệm “tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hoá,
dịch vụ” nhưng không giải thích như thế nào là tương tự về “tính chất” cũng như “tương tự về
tính chất” có loại trừ đối với hàng hóa hay không. Suy luận lô-gic thì hàng hóa đều có cùng
tính chất, và do vậy bất kỳ giao dịch nào khác nhau đều có yếu tố phân biệt đối xử là không
hợp lý. Ngoài ra, trên thực tế khi ký hợp đồng, doanh nghiệp cũng thường gặp phải trường
hợp khách hàng yêu cầu doanh nghiệp phải bán ở mức giá tốt nhất trên thị trường, quy định
như vậy có bị xem là vi phạm luật cạnh tranh hay không?
Cuối cùng, quy định về cấm ấn định giá bán lại tối thiểu tại khoản 5 Điều 13 cũng cần
được làm rõ. Theo đó, việc ấn định giá bán lại không nêu tối đa hay tối thiểu có bị xem là vi
phạm luật cạnh tranh hay không. Có nhiều doanh nghiệp in giá bán lại sản phẩm trên bao bì,
hành vi này có bị xem là vi phạm luật cạnh tranh hay không.
4. Tập trung kinh tế
Tương tự như quy định điều chỉnh hành vi lạm dụng, hiện nay, theo Điều 16, LCT chỉ liệt kê bốn dạng TTKT theo chiều ngang để điều chỉnh. Tuy nhiên các quy định về ngưỡng
thông báo hoặc cấm tập trung kinh tế khá cứng nhắc chỉ tập trung vào thị phần chứ chưa quan
tâm đến tác động thị trường.
Ví dụ, tập trung kinh tế giữa công ty mẹ, con về bản chất là tái cấu trúc trong nội bộ doanh nghiệp chứ không ảnh hưởng đến tính cạnh tranh trên thị trường. Nhưng theo quy định hiện nay, trường hợp này vẫn phải thông báo hoặc phải xin miễn trừ nếu thị phần công ty mẹ từ 30% trở lên. Trong khi đó trường hợp tập trung kinh tế hỗn hợp (công ty A mua lại công ty C là đối thủ cạnh tranh của công ty con là B) thì không phải thuộc đối tượng điều chỉnh của luật.
Bên cạnh đó các tiêu chí thường được sử dụng để đo lường mức độ tâp trung kinh tế ở
các nước khác như HHI (Hirschman-Herfindahl Index), CR3 hay CR5 (Concentration Ratio)
thì chưa được chính thức sử dụng để phân tích tác động của TTKT đối với thị trường. Ngoài
ra, do các quy định về xác định thị trường liên quan chưa rõ nên doanh nghiệp tham gia
TTKT cũng gặp không ít khó khăn trong việc tự xác định thị phần của mình để quyết định
thực hiện thủ tục thông báo hoặc miễn trừ TTKT.
5. Vai trò giải thích luật của cơ quan quản lý cạnh tranh
Hiện nay, cơ quan cạnh tranh tại Việt Nam bao gồm hai cơ quan tách biệt là Hội đồng
Cạnh tranh (HĐCT) và Cục Quản lý Cạnh tranh (Cục QLCT) (trong khi ở các quốc gia khác,
cơ quan cạnh tranh thường chỉ có một). Theo quy định LCT và các Nghị định hướng dẫn, Cục
QLCT giữ vai trò phát hiện, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ liên quan đến hạn chế cạnh
tranh và lập báo cáo điều tra. HĐCT xét xử, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có
liên quan đến các vụ việc cạnh tranh. Tuy nhiên, các cơ quan này lại không có chức năng ban
hành văn bản hướng dẫn, giải thích thực thi luật cạnh tranh. Trong khi đó, các vụ việc cạnh
tranh không được công khai nên các doanh nghiệp không có thông tin và không hiểu được
cách vận dụng quy định luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh. Mặc dù các tài liệu
và báo cáo của Cục QLCT là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho doanh nghiệp. Nhưng đây lại
không phải là các hướng dẫn chính thức nên khi tư vấn luật sư vẫn phải dẫn chiếu các quy
định pháp luật vốn không rõ ràng như đã nêu ở trên.
Ví dụ, hiên nay Cục QLCT linh động cho phép doanh nghiệp tham vấn không chính thức trước khi quyết định có nên nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế hay không. Đây là một thủ tục hết sức hữu ích và tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp đặc biệt trong trường hợp thị phần kết hợp ở mức gần với ngưỡng thông báo TTKT. Mặc dù vậy, chúng tôi gặp không ít khó khăn trong việc thuyết phục các bên đồng ý thực hiện tham vấn vì không có cơ sở pháp lý rõ ràng. Doanh nghiệp thường chọn cách thực hiện và chỉ thực hiện tham vấn/thông báo khi được sở KHĐT yêu cầu phải có ý kiến của Cục QLCT.
6. Cần minh bạch hóa thông tin về chính sách cạnh tranh và hoạt động xử lý vụ việc cạnh tranh
Vào ngày 5/10/2015, Bộ trưởng Thương mại của 12 nước tham gia đàm phán Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong đó có Việt Nam đã tuyên bố kết thúc đàm
phán kỹ thuật. Hiệp định TPP đã dành riêng Chương 16 để quy định về chính sách cạnh tranh.
Trong đó thiết lập và duy trì thể chế cạnh tranh tương đồng với các thành viên khác, minh
bạch và công bằng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh tại Việt Nam là một yêu cầu
thiết yếu. Bên cạnh đó, năm 2015 đánh dấu việc Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ chính
thức đi vào hoạt động và Việt Nam phải hoàn thành các cam kết của AEC trong năm nay.
Trong đó, ban hành và thực thi luật cạnh tranh là chưa đủ mà phải tiến tới hài hòa hóa chính
sách và pháp luật cạnh tranh tiêu chuẩn chung trong các chế định của LCT nhằm khỏa lấp dần
những khác biệt giữa các thành viên.
Trước những bất cập trong LCT cũng như các Nghị định hướng dẫn thi hành, trong dài
hạn việc sửa đổi, bổ sung pháp luật sao cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như nhu cầu
hội nhập quốc tế (khi tham gia vào Hiệp định TPP cũng như Cộng đồng kinh tế ASEAN) là hết
sức cần thiết. Trong thời gian sắp tới, cơ quan quản lý cạnh tranh nên công khai và minh bạch
hóa thông tin các vụ việc hạn chế cạnh tranh, bao gồm công bố các quyết định xử lý, hoặc đình
chỉ xử lý vụ việc cạnh tranh để doanh nghiệp có thể nắm thông tin. Cục QLCT cũng cần được
giao vai trò ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng luật để doanh nghiệp có thể kịp thời theo
dõi và nắm bắt các vấn đề liên quan đến chính sách và thực thi luật cạnh tranh.
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Tham luận 3
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực Bán hàng đa cấp -
những khó khăn, vướng mắc đã gặp trong thực tiễn và một số khuyến nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh
Ông Võ Đan Mạch Luật sư
Phó Chánh Văn phòng Hiệp hội Bán hàng đa cấp Việt Nam 1. Tổng quan các quy định pháp luật cạnh tranh trong bán hàng đa cấp tại Việt Nam
Từ khi Luật cạnh tranh 2004 được ban hành, các văn bản điều chỉnh về hoạt động bán
hàng đa cấp bao gồm:
• Luật cạnh tranh 2004
• Nghị định 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hành đa cấp,
• Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/05/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp
thay thế Nghị định 110/2005/NĐ-CP.
• Thông tư 19/2005/TT-BTM hướng dẫn thực hiện Nghị định 110/2005/NĐ-CP; Thông
tư 35 /2011/TT-BCT sửa đổi, bổ sung một số nội dung về thủ tục hành chính tại thông
tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08 tháng 11 năm 2005 hướng dẫn một số nội dung quy
định tại nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 của chính phủ về Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
• Thông tư 24/2014/TT-BCT ngày 30/07/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Nghị định 42/2014/NĐ-CP về Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
• Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh;
• Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014 thay thế Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy
định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh
2. Qui định về Bán hàng Đa cấp trong Luật Cạnh tranh
Luật cạnh tranh 2004 ra đời lần đầu tiên có quy định về lĩnh vực bán hàng đa cấp tại Khoản 11 Điều 3:
Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
b) Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia;
c) Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.
Luật Cạnh tranh của Việt Nam quan niệm hành vi bán hàng đa cấp bất chính là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Điều này được được quy định tại Điều 39 và 48 của Luật cạnh
tranh như sau:
Điều 39. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật này bao gồm:
1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
Điều 48. Bán hàng đa cấp bất chính
Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:
1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại;
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.
Đối với việc xử phạt vi phạm trong lĩnh vực bán hàng đa cấp, Điều 36 Nghị định
71/2014/NĐ-CP quy định như sau:
Điều 36. Hành vi vi phạm quy định về bán hàng đa cấp
1. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Hoạt động bán hàng đa cấp mà không đảm bảo các điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
b) Không thực hiện thủ tục đề nghị cấp bổ sung, thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi, bổ sung liên quan đến hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
c) Không thực hiện thủ tục đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bị mất hoặc bị rách, nát;
d) Cung cấp thông tin gian dối trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
đ) Không triển khai hoạt động bán hàng đa cấp trong thời hạn 12 tháng liên tục kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hoặc tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp quá 12 tháng liên tục;
e) Ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với cá nhân không đủ điều kiện tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
g) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến hoạt động đào tạo người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
h) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến việc cấp, đổi, thu hồi thẻ thành viên bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
i) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ công bố công khai tại trụ sở và cung cấp cho người có dự định tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp các thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật;
k) Không thường xuyên giám sát hoạt động của người tham gia bán hàng đa cấp để bảo đảm người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện đúng Quy tắc hoạt động, Chương trình trả thưởng của doanh nghiệp;
l) Không khấu trừ tiền thuế thu nhập cá nhân của người tham gia bán hàng đa cấp để nộp vào ngân sách nhà nước trước khi chi trả hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác cho người tham gia bán hàng đa cấp;
m) Không quản lý người tham gia bán hàng đa cấp qua hệ thống thẻ thành viên theo quy định của pháp luật;
n) Không thông báo hoặc thông báo không đúng, không đầy đủ cho người tham gia bán hàng đa cấp những hàng hóa thuộc diện không được doanh nghiệp mua lại trước khi người đó tiến hành mua hàng;
o) Ký hợp đồng với người tham gia bán hàng đa cấp không bằng hình thức văn bản hoặc không bao gồm đầy đủ các nội dung cơ bản theo quy định của pháp luật.
2. Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Không thực hiện đúng quy định về đối tượng kinh doanh theo phương thức đa cấp hoặc kinh doanh theo phương thức đa cấp đối với hàng hóa chưa đăng ký với cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
b) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ được pháp luật quy định khi tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp hoặc tiếp tục hoạt động bán hàng đa cấp sau thời gian tạm ngừng;
c) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến cơ quan có thẩm quyền khi chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp;
d) Hoạt động bán hàng đa cấp ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp không có trụ sở chính khi chưa có xác nhận của Sở Công Thương tỉnh, thành phố đó về việc tiếp nhận hồ sơ thông báo hoạt động;
đ) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến Sở Công Thương nơi tổ chức hội nghị, hội thảo, đào tạo theo quy định của pháp luật;
e) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mua lại hàng hóa của người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
g) Trả cho người tham gia bán hàng đa cấp tổng giá trị hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác trong một năm vượt quá 40% doanh thu bán hàng đa cấp trong năm đó của doanh nghiệp bán hàng đa cấp;
h) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ pháp luật quy định khi chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp;
i) Rút khoản tiền ký quỹ khi chưa có văn bản đồng ý của Cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng kýhoạt động bán hàng đa cấp trừ trường hợp doanh nghiệp rút khoản tiền đã ký quỹ vào ngân hàng thương mại để thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp mà không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
k) Không thực hiện thay đổi văn bản xác nhận ký quỹ hoặc thực hiện thủ tục thay đổi văn bản xác nhận ký quỹ nhưng không thông báo đến cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có sự thay đổi liên quan tới các nội dung cơ bản của văn bản xác nhận ký quỹ;
l) Không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ báo cáo định kỳ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. Phạt tiền doanh nghiệp bán hàng đa cấp từ 60.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b) Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải đặt cọc hoặc đóng một khoản tiền nhất định dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
c) Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải mua một số lượng hàng hóa dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
d) Yêu cầu người tham gia bán hàng đa cấp phải trả thêm một khoản tiền dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền duy trì, phát triển hoặc mở rộng mạng lưới bán hàng đa cấp của mình;
đ) Hạn chế một cách bất hợp lý quyền phát triển mạng lưới của người tham gia bán hàng đa cấp dưới bất kỳ hình thức nào;
e) Cho người tham gia bán hàng đa cấp nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ việc dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp;
g) Từ chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay các lợi ích kinh tế khác mà người tham gia bán hàng đa cấp có quyền hưởng;
h) Yêu cầu người tham gia bán hàng đa cấp phải tuyển dụng mới hoặc gia hạn hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với một số lượng nhất định người tham gia bán hàng đa cấp để được quyền hưởng hoa hồng, tiền thưởng hoặc các lợi ích kinh tế khác;
i) Yêu cầu người tham gia hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo liên quan tới các nội dung trong chương trình đào tạo cơ bản phải trả tiền hoặc phí dưới bất kỳ hình thức nào, trừ chi phí hợp lý để mua tài liệu đào tạo;
k) Ép buộc người tham gia bán hàng đa cấp phải tham gia các hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo về các nội dung không thuộc chương trình đào tạo cơ bản của doanh nghiệp;
l) Yêu cầu người tham gia hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo về các nội dung không thuộc nội dung cơ bản của chương trình đào tạo phải trả tiền hoặc phí cao hơn mức chi phí hợp lý để thực hiện hoạt động đó;
m) Thu phí đối với việc cấp, đổi thẻ thành viên cho người tham gia bán hàng đa cấp dưới bất kỳ hình thức nào;
n) Không cam kết cho người tham gia bán hàng đa cấp trả lại hàng hóa và nhận lại khoản tiền đã chuyển cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật;
o) Cản trở người tham gia bán hàng đa cấp trả lại hàng hóa theo quy định của pháp luật;
p) Cung cấp thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, về tính chất, công dụng của hàng hóa, về hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp để dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp;
q) Duy trì nhiều hơn một vị trí kinh doanh đa cấp, hợp đồng bán hàng đa cấp mã số kinh doanh đa cấp hoặc các hình thức khác tương đương đối với cùng một người tham gia bán hàng đa cấp;
r) Kinh doanh theo mô hình kim tự tháp;
s) Mua bán hoặc chuyển giao mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp khác trừ trường hợp mua lại, hợp nhất hoặc sáp nhập doanh nghiệp;
t) Yêu cầu, xúi giục người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện hành vi bị cấm theo quy định của pháp luật.
4. Phạt tiền gấp hai lần mức quy định tại Khoản 3 Điều này đối với các hành vi quy định tại Khoản 3 Điều này trong trường hợp hành vi vi phạm được thực hiện trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
5. Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều này, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả sau:
a) Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp đối với hành vi quy định tại Điểm d, Điểm đ Khoản 1 Điều này và hành vi quy định tại Khoản 3 Điều này trừ trường hợp kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
c) Buộc cải chính công khai.
3. Thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh trong bán hàng đa cấp:
Ngành bán hàng đa cấp hình thành và phát triển trên thế giới hơn 70 năm nhưng đến năm
1998 mới xuất hiện tại Việt Nam. Đến năm 2004 thì Luật Cạnh Tranh mới ra đời điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp thông qua Nghị định 110/2005/NĐ-CP và thông tư 19/2005/TT-BTM nay
đã được thay thế bằng Nghị định 42/2014/NĐ-CP và Thông tư 24/2014/TT-BCT.
Như vậy, có thể nói việc xây dựng và cho ra đời Luật Cạnh tranh có những qui định điều
chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp là một sự tiến bộ và thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như lợi
ích của nước nhà. Giai đoạn trước 2004 khi mà Luật và Nghị định chưa được ban hành, hoạt động bán hàng đa cấp không được nhân rộng và còn nhiều điểm mập mờ. Khâu quản lí của cơ
quan chức năng cũng gặp nhiều khó khăn về thẩm quyền, xác định hành vi và đặc biệt là các
khoản thu nhập tính thuế.
Việc ra đời Văn bản Luật làm cơ sở để ban hành các văn bản qui phạm dưới luật cũng như
sự đồng bộ hợp lí trong quản lí nhà nước về hoạt động bán hàng đa cấp trở nên thuận lợi, phù hợp
và hiệu quả hơn đáp ứng quá trình hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế.
Từ qui định trong Luật cạnh tranh, khái niệm bán hàng đa cấp được định nghĩa một cách
rõ ràng nhằm phân biệt với cách hành vi lừa đảo, trá hình du nhập từ các nước khác trên thế giới.
Bên cạnh đó, Luật còn đưa ra qui định về hành vi bán hàng đa cấp bất chính để từ đó xây dựng
nghị định làm rõ các hành vi bị cấm trong kinh doanh đa cấp góp phần duy trì lành mạnh, chính
qui về hoạt động bán hàng đa cấp. Trên cơ sở các qui định chi tiết trong Luật, Nghị định quản lý
giúp cho văn bản xử phạt từ các chế tài đưa ra hiệu quả dễ dàng thực thi hơn trong thực tế quản lý
của cơ quan chức năng.
Trong thực tiễn áp dụng, Luật và các văn bản có liên quan đã tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp cũng như cơ quan chức năng có hành lang pháp lý vững chắc để tuân thủ và vận dụng.
Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường
như Công ty Lô Hội, công ty tầm Nhìn Việt Nam (vision), công ty Mỹ phẩm thường xuân và nhà
đầu tư nước ngoài như Amway, Avon, Thiên sư, Herbalife…
Cùng với việc tạo thuận lợi trong qui trình đăng ký, tổ chức hoạt động… Luật và các văn
bản hướng dẫn liên quan đã điều chỉnh xử phạt các hành vi sai phạm nhằm chấn chỉnh kịp thời
hoạt động kinh doanh sai trái, bất chính. Thực tế cơ quan chức năng như Sở công thương địa
phương và Cục quản lý cạnh tranh kiểm tra xử phạt cac hành vi sai phạm liên quan đến hồ sơ
đăng ký bán hàng đa cấp gian dối, thông tin sai lệch về hàng hóa, quảng cáo, khuyến mãi nhằm
cạnh tranh không lành mạnh, gièm pha doanh nghiệp khác và bán hàng đa cấp bất chính.
4. Hạn chế còn tồn tại
Thứ nhất, về định nghĩa bán hàng đa cấp:
Đa phần trên thế giới sử dụng thuật ngữ bán hàng trực tiếp và hình thành nên hiệp hội bán
hàng trực tiếp…..
Tại Việt Nam, thuật ngữ bán hàng đa cấp đang gây định kiến trong xã hội khiến cho việc
tiếp cận bán hàng gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa có 1 số hiệp hội bán hàng trực tiếp trên thế giới
từ chối tham gia hoặc phối hợp với Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam vì không thuộc hệ thống
hoặc kênh quản lí, hoạt động của cộng đồng bán hàng trực tiếp mà hạt nhân là hiệp hội hoặc là
liên đoàn bán hàng trực tiếp thế giới Wdsa
Trong luật qui định là bán hàng đa cấp … Nghị định lại không có thuật ngữ bán hàng
đa cấp mà chỉ có doanh nghiệp bán hàng đa cấp , hợp đồng bán hàng đa cấp, người tham gia
bán hàng đa cấp…mà không có định nghĩa độc lập cho khái niệm: Bán hàng đa cấp. điều này
khiến cho việc suy luận, vận dụng và phổ biến qui định pháp luật gặp khó khăn do chồng
chéo và pức tạp.
Thứ hai, Trong qui định về cạnh tranh không lành mạnh có 1 qui định riêng về hành vi
bán hàng đa cấp bất chính. Các hành vi còn lại như ép buộc, tiết lộ bí mật, gièm pha, quảng cáo,
khuyến mãi cũng đều có xuất hiện trong lĩnh vực bán hàng đa cấp … như vậy khi xác định hành
vi vi phạm khó có thể nhận định đâu là bất chính, đâu là không?
Trong điều cấm của Nghị định 42/2014/NĐ-CP liệt kê rất nhiều hành vi trong khi đó điều
48 chỉ nêu 4 hành vi được xem là bất chính xuất phát từ việc thu lợi từ người tham gia? Vậy
doanh nghiệp vi phạm các điều cấm còn lại tại điều 5 có thể gọi là doanh nghiệp bán hàng đa cấp
bất chính được không? Nếu vi phạm mà không được gọi là bất chính theo Luật thì liệu có xảy ra
xung đột trong thực tiễn áp dụng và thực thi
Thứ ba, bất cập phát sinh do chưa có quy định quản lý cụ thể đối với mạng lưới BHĐC
nước ngoài tại Việt Nam
Bên cạnh các doanh nghiệp đăng ký và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, các cơ
quan quản lý cũng ghi nhận hiện tượng một doanh nghiệp BHĐC nước ngoài tổ chức mạng
lưới và bán hàng tại Việt Nam. Những doanh nghiệp này tuyển dụng người tham gia và cho
đặt hàng thông qua website, sau đó chuyển hàng về Việt Nam qua đường bưu phẩm, quà
tặng. Theo Biểu cam kết WTO về dịch vụ, Việt Nam cho phép cung cấp qua biên giới theo
hình thức bán lẻ đối với sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân và phần mềm máy tính, bao
gồm cả hoạt động của các cá nhân nhà phân phối theo phương thức BHĐC (Ghi chú số 23
của Biểu cam kết dịch vụ). Tuy nhiên, pháp luật về quản lý BHĐC hiện nay chưa quy định
các điều kiện hoạt động, quyền và nghĩa vụ cụ thể của các nhà phân phối Việt Nam thuộc
mạng lưới BHĐC nước ngoài, dẫn đến hoạt động của các đối tượng này không được giám
sát, quản lý đầy đủ, dễ phát sinh tiêu cực như trốn thuế, gian lận, lựa dối người tiêu dùng.
Tuy nhiên, hiện tại việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh kể trên nói chung
còn hết sức khiêm tốn. Điều này có nguyên nhân cả từ trong sự chưa hoàn thiện của hệ thống
pháp luật cũng như sự thiếu kinh nghiệm trong công tác đấu tranh chống các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.
5. Một số kiến nghị
Trong thời gian qua, các quy định xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động bán hàng đa cấp, nhiều văn bản quan trọng đã được ban hành và thay đổi như: Nghị định
71/2014 ngày 21/07/2014 thay thế Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực cạnh tranh .
Tuy nhiên, để triển khai có hiệu quả các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, vẫn còn
nhiều vấn đề về mặt pháp lý cần phải được hoàn thiện như sau:
Thứ nhất, thống nhất định nghĩa bán hàng đa cấp trong các văn bản pháp luật từ luật
cạnh tranh đến Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Đồng thời nghiên cứu đổi tên thành bán hàng đa
cấp thành bán hàng trực tiếp theo xu hướng chung của thế giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động bán hàng đa cấp. Tránh cái nhìn không thiện chí của ngành bán hàng đa cấp
trong mắt người tiêu dùng.
Kiến nghị bãi bỏ điều 48, khoản 8 điều 36 của Luật cạnh tranh. Đồng thời, Nghiên cứu
tách phần bán hàng đa cấp và gộp các nghị định thông tư để xây dựng nên Luật về bán hàng đa
cấp hoặc bán hàng trực tiếp.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật hình sự để xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động bán hàng đa cấp
Hành vi bán hàng đa cấp bất chính gây nguy hại không chỉ cho các doanh nghiệp kinh
doanh chân chính mà còn gây thiệt hại tới người tiêu dùng và trật tự quản lý kinh tế trong xã hội.
Chính vì thế, việc xử lý hình sự đối với hành vi này là cần thiết.
Hiện tại Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung của Việt Nam đã có quy định việc xử
lý hình sự đối với một số hành vi như tội sản xuất, buôn bán hàng giả, tội lừa dối khách hàng, tội
quảng cáo gian dối.
Tuy nhiên, còn nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà pháp luật nhiều quốc gia
quy định là tội phạm mà Bộ luật hình sự của Việt Nam chưa quy định trong đó có hành vi xâm
phạm bí mật kinh doanh, hoạt động tình báo công nghiệp v.v. Mà nhửng hành vi này chỉ có thể xử lý theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc xử lý vi phạm hành chính.
Thứ ba, cần xây dựng các quy định về quy tắc ứng xử cho nhà phân phối, quy định chế tài hữu hiệu cho nhà phân phối.
Hiện nay, đối tượng npp là chủ thể tham gia chính vào hoạt động bán hàng đa cấp. Việc
làm của các cá nhân này bản thân doanh nghiệp bán hàng đa cấp không thể kiểm soát hết. Hậu
quả mà các cá nhân kinh doanh độc lập này gây ra cho người tiêu dùng là đáng kể thông qua việc
quảng cáo gian dối, dụ dỗ lôi kéo, lừa gạt người khác tham gia vào mạng lưới phân phối đa
cấp…nhưng các quy định chế tài cho đối tượng này còn quá nhẹ, kiến nghị cần tăng mức chế tài.
Thứ tư, cần tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh trung ương và địa
phương (Các Sở công thương) trong việc xử lý các hành vi bán hàng đa cấp bất chính.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bán hàng
đa cấp.
Đối tượng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong cộng đồng doanh nghiệp.
Nội dung tuyên truyền cần giúp các doanh nghiệp nhận diện rõ những hành vi bị coi là
bán hàng đa cấp bất chính và quyền khiếu nại, khởi kiện của doanh nghiệp bị xâm hại, các hình
thức chế tài có thể được áp dụng đối với doanh nghiệp có hành vi vi phạm.
Thứ sáu, Tăng cường thực thi, buộc các cơ quan địa phương xây dựng ban hành qui chế kiểm tra giám sát tại địa phương mình. Đồng thời, tăng cường công tác đào tạo cán bộ đảm bảo
cán bộ đủ năng lực, trình độ chuyên môn xử lý các vi phạm trong hoạt động bán hàng đa cấp.
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là hai tỉnh thành có số lượng các doanh nghiệp hoạt động bán hàng đa cấp mạnh mẽ nhất. Hai địa phương này cần chủ động ban hành quy chế riêng
để đảm bảo hoạt động bán hàng đa cấp trên địa bàn hoạt động một cách hiệu quả, tuân thủ đúng
quy định pháp luật, hạn chế các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính tồn tại.
Ngoài ra, vấn đề xử lý cạnh tranh không lành mạnh là những vấn đề pháp lý rất mới ở
nước ta. Chính vì thế, Bộ Công thương cần có biện pháp thích hợp để đào tạo cán bộ, nhất là các
cán bộ hoạt động thực tiễn trong vấn đề này (điều tra viên). Hình thức đào tạo cán bộ có thể đa
dạng (đào tạo chính quy hoặc ngắn hạn; đào tạo trong nước hoặc đào tạo ở nước ngoài).
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Tham luận 4
Đánh giá 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh - góc nhìn từ Công ty TNHH
FrieslandCampina Việt Nam
Ông Trương Văn Toàn
Giám đốc Đối ngoại & Pháp lý
Công ty TNHH Friesland Campina
Công ty TNHH FrieslandCampina Việt Nam được thành lập và hoạt động tại thị trường Việt Nam trong 20 năm qua với các nhãn hiệu nổi tiếng như Dutch Lady, Friso,
Yomost, Fristi. Trên phạm vi toàn cầu, tập đoàn FrieslandCampina chúng tôi có hơn 140
năm kinh nghiệm trong ngành sữa và có mặt ở rất nhiều quốc gia. Với chức năng sản xuất
và kinh doanh sữa và các sản phẩm từ sữa - mặt hàng có sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, công ty chúng tôi đã và đang tuân thủ rất nhiều quy định pháp luật liên quan, trong
đó có quy định pháp luật về cạnh tranh. Chúng tôi rất vui khi có mặt ở Hội thảo này để trao
đổi với Quý vị các đánh giá 10 năm thực thi Luật cạnh tranh – góc nhìn từ Công ty TNHH
FrieslandCampina Việt Nam.
I. Quy định về cạnh tranh hiện hành:
Tính đến nay, pháp luật về cạnh tranh được quy định tại:
- Luật số 27/2004/QH11 về cạnh tranh được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004.
- Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật cạnh tranh.
- Nghị định số 119/2011/NĐ-CP ngày 16/12/2011 sửa đổi, bổ sung thủ tục hành
chính tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh.
- Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử
lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
- Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
- Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/7/2014 quy định chi tiết thi hành một số
điều của nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của chính phủ về quản lý
hoạt động bán hàng đa cấp.
- Nghị định số 07/2015/NĐ-CP ngày 16/01/2015 Quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của hội đồng cạnh tranh.
- Quyết định số 24/2015/QĐ-TTG ngày 30/6/ 2015 ban hành quy chế tổ chức và hoạt
động của hội đồng cạnh tranh.
Các văn bản về cạnh tranh này không những đã góp phần làm cho sân chơi của các
doanh nghiệp được bình đẳng hơn, bảo đảm sự phát triển ổn định của nền kinh tế, bảo vệ tốt
hơn cho quyền lợi của người tiêu dùng mà còn tạo nên sự hoàn chỉnh cho hệ thống pháp luật,
tương hỗ cho các luật khác như pháp luật về quảng cáo, khuyến mại…. Tuy nhiên,
các văn bản về cạnh tranh nay, đến nay vẫn còn một số điểm thiếu sót, chưa hoàn thiện, cần
được chỉnh sửa nhằm giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở để thực hiện, cũng như hoàn thiện
hệ thống pháp luật.
II. Nội dung trao đổi:
1. Xác định thị phần của doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại sản phẩm, dịch vụ:
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 của Luật số 27/2004/QH11 về cạnh tranh thì: Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm.
Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại sản phẩm, dịch vụ và thị phần của
từng loại sản phẩm, dịch vụ được xác định là khác nhau, vậy thì xác định thị phần của doanh
nghiệp này như thế nào? Cơ quan nào có chức năng, uy tín để thực hiện việc này?
2. Cơ sở để xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể:
Điều 22 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật cạnh tranh quy định cơ sở để xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể của doanh nghiệp trên thị trường liên quan là dựa vào một hoặc một số căn
cứ chủ yếu sau đây:
(a) Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
(b) Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp.
(c) Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt động của của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp.
(d) Năng lực tài chính của công ty mẹ.
(e) Năng lực công nghệ.
(f) Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.
(g) Quy mô của mạng lưới phân phối.
Tuy nhiên, đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể cho các căn cứ này. Các tiêu chí để xác
định năng lực tài chính/năng lực công nghệ như thế nào thì được xem là có khả năng gây hạn
chế cạnh tranh một cách đáng kể? Năng lực tài chính của công ty mẹ mạnh nhưng không có
rót vốn nhiều cho công ty con thì dựa vào đâu để xác định Năng lực tài chính của công ty mẹ
sẽ góp phần quyết định khả năng gây hạn chế cạnh tranh của công ty con?
Xác định như thế nào cho quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp để khẳng định
rằng doanh nghiệp có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể? Nếu doanh nghiệp
có quyền sở hữu/sử dụng nhiều nhãn hiệu danh tiếng, ví dụ như Tập đoàn FrieslandCampina
chúng tôi có các nhãn hiệu nổi tiếng như Campina, Rainbow, Frisian Flag, Mona, Fruitis,
Peak, FresDutch Lady, Friso, Yomost, Fristi nhưng tại thị trường Việt Nam chỉ sử dụng 01 số
nhãn hiệu như Dutch Lady, Friso, Yomost, Fristi thì đánh giá khả năng gây hạn chế cạnh
tranh của doanh nghiệp như thế nào?
Hay quy mô của mạng lưới phân phối là trên toàn quốc nhưng các đơn vị phân phối lại
nhỏ, lẻ thì đánh giá khả năng gây hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp như thế nào?
3. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm
(a) Khoản 4 Điều 13 Luật cạnh tranh quy định Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm là Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh. Điều 29 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005
giải thích đây là hành vi phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp về điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong những giao dịch mua, bán háng hóa, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hoá, dịch vụ để đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi hơn so với doanh nghiệp khác. Cần được giải thích rõ vị trí cạnh tranh
có lợi hơn là như thế nào? Trên thực tế, các doanh nghiệp sẽ không phải lúc nào cũng có cùng
khả năng tài chính, nhân lực nên thị phần cũng như khả năng cạnh tranh là khác nhau. Vậy
việc “có lợi hơn” được xác định như thế nào? Sẽ xác định theo thời hạn lâu dài hay chỉ cho 01
khoảng thời gian nhất định?
(b) Khoản 5 Điều 13 Luật cạnh tranh quy định Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường bị cấm là Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày
15/9/2005 giải thích rõ việc đây là hành vi gắn việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng với việc phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng. Quy định nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng nên được
hiểu như thế nào cho đúng? Căn cứ hoặc ai là người quyết định “cần thiết” hay “không cần
thiết”? Nếu cả Hai bên trong Hợp đồng đều cho là cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ đó và
đồng ý quy định trong hợp đồng thì rõ ràng là không có yếu tố buộc. Do vậy, cần được giải
thích rõ việc “buộc” này được thể hiện như thế nào?
(c) Khoản 2 Điều 23 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định Hạ giá bán hàng hoá tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình thức, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng không bị coi là hành vi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Cơ sở nào để xác định hàng hóa là giảm chất lượng? Lạc hậu về
hình thức? Không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng? Để thực hiện điều khoản này,
doanh nghiệp phải đáp ứng cả 03 điều kiện hay chỉ cần 01 điều kiện là đủ?
4. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
Khoản 4 Điều 39 và Điều 43 Luật cạnh tranh quy định Gièm pha doanh nghiệp khác là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh và cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Không trung thực nên
được hiểu như thế nào? Trên thực tế, một số doanh nghiệp đã lợi dụng thông tin trên báo chí,
có thể là thông tin chưa chính xác, rồi phát tán nhằm gây nên hoang mang cho người tiêu
dùng, khiến doanh số của đối thủ cạnh tranh giám sút. Hành vi này cũng nên được xem là
cạnh tranh không lành mạnh.
5. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
Theo quy định tại khoản 4 Điều 23 Luật số 15/2012/QH13 về xử lý vi phạm hành
chính thì “Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt“. Chúng tôi cho rằng quy định này nên áp dụng cho lĩnh vực
cạnh tranh nhằm bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng quy định pháp luật cũng như nâng cao
giá trị quan trọng của các tình tiết tăng nặng/giảm nhẹ.
Trên đây là những đánh giá về luật cạnh tranh từ góc nhìn của doanh nghiệp chúng tôi.
Rất mong văn bản luật được điều chỉnh kịp thời và phù hợp với xu thế phát triển của thị trường, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc kinh doanh và phát triển phù hợp với nội lực
của Công ty và đúng pháp luật./.
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Tham luận 5
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh của Công ty Bảo hiểm - những khó
khăn, vướng mắc và một số khuyến nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh
Bà Phạm Thanh Hải Luật sư
Giám đốc Pháp lý Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh
Trong bất kỳ nền kinh tế thị trường nào, trải từ nền kinh tế thị trường TBCN hay theo
định hướng XHCN, từ nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời cho đến các nền kinh tế đang
phát triển, quan điểm “Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế” đã được thừa nhận và khẳng định.Việc đảm bảo các yếu tố cạnh
tranh lành mạnh được coi là một trong các yếu tố quan trọng thiết yếu để phát triển thị trường.
Trên cơ sở đó, Luật Cạnh Tranh được Quốc Hội Khóa XI ban hành ngày 03/12/2004,
chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2005, các cơ quan chức năng cũng đã ban hành nhiều
văn bản dưới Luật để hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh. Điều nàyđã ghi dấu một bước tiến
mới trong quá trình phát triển, đánh dấu một cột mốc đặc biệt trong quá trình tạo lậpnền kinh
tế thị trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam.
Luật Cạnh Tranh năm 2004 ra đờimặc dù đã được đưa vào một số nội dung nhằm bảo
đảm cho sự phát triển thị trường theo định hướng XHCN, trải qua 10 năm thực hiện, bên cạnh
những mặt tích cực to lớn không thể phủ nhận cũng không tránh khỏi và đã bộc lộ những hạn
chế, những nội dung chưa phù hợp, gây khó khăn, vướng mắc cho chính các cơ quan quản lý
nhà nước và cho các doanh nghiệp.
Với tư cách là một chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế, chịu sự
điều chỉnh trực tiếp của Luật Cạnh Tranh, các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung, Tổng Công
Ty Cổ Phần Bảo Minh ( Bảo Minh) nói riêng cũng không tránh khỏi những khó khăn, vướng
mắc khi thực thi Luật Cạnh Tranh này. Cụ thể:
1. Thực tiễn các DNBH đang phải đối mặt với sự xung đột, chồng chéo về áp dụng pháp luật giữa Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Cạnh tranh làm khó khăn cho các DN bảo hiểm khi triển khai thực hiện
Thị trường bảo hiểm đang phát triển mạnh, bên cạnh những mặt tích cực cũng không ít
các dấu hiệu tiêu cực, như tình trạng các doanh nghiệp đua nhau giảm phí bảo hiểm, mở rộng
các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, nới lỏng các điều kiện xét duyệt bồi thường một cách
thiếu kiểm soát chỉ nhằm mục đích giành, giật khách hàng. Đã dẫn đến việc suy giảm uy tín,
gây thiệt hại và uy hiếp an toàn tài chính của chính các doanh nghiệp.
Trong bối cảnh các quy định pháp luật chuyên ngành và các biện pháp quản lý nhà
nước nhằm kiểm soát, định hướng thị trường bảo hiểm đó là cho phép các DN bảo hiểm
thông qua Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam thống nhất ban hành Quy tắc điều khoản, xác định
phí bảo hiểm theo số liệu thống kê (tổn thất toàn thị trường là xác suất thống kê để tính phí bảo hiểm một cách chính xác nhất).
Điều trên cũng có nghĩa là việc thống nhất Qui tắc điều khoản, phí bảo hiểm và các
doanh nghiệp bảo hiểm cùng nhau thỏa thuận áp dụngvà một số nội dung liên quan trong hoạt
động kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh là cần thiết. Các thỏa thuận này trước hết nhằm mục
đích chính là vì lợi ích khách hàng, bảo đảm cho sự phát triển ổn định của thị trường bảo
hiểm, hạn chế phần nào các hành vi cạnh trạnh không lành mạnh có thể xảy ra, nâng cao hiệu
quả kinh doanh, thúc đẩy áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng của dịch vụ sản phẩm.
Đồng thời, nhằm khôi phục lại niềm tin của khách hàng, uy tín của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, mặc dù không phải là hành vi bị cấm theo qui định của Bộ Luật Dân sự và
không vi phạm bất kỳ nội dung nào theo Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm. nhưng khi đối chiếu và
áp dụng theo Luật Cạnh Tranh, các thỏa thuận này có thể bị quy kết và thực tế đã có trường
hợp bị quy kết và xử lý là vi phạm “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh” theo Điều 8, Điều 9 Luật
Cạnh Tranh.
Việc các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với tính cần thiết và có mục đích
như đã nêu trên bị xử lý là hành vi vi phạm Luật Cạnh Tranh là không thực sự phù hợp,
không hợp tình, không hợp lý, gây trở ngại và trực tiếp cản trở các doanh nghiệp áp dụng các
biện pháp cần thiết để tự mình bảo vệ và thanh lọc thị trường. Thậm chí còn tạo điều kiện cho
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh tiếp tục xảy ra, ví dụ như các hành vi giảm phí bảo
hiểm bất chấp hiệu quả kinh doanh làm biến dạng thị trường bảo hiểm.
2. Các khái niệm liên quan được nêu tại Luật Cạnh Tranh là các khái niệm mới, chưa được quy định một cách toàn diện và đầy đủ.
Để xảy ra sự không phù hợp giữa thực tiễn và quy định pháp luật gây vướng mắc, khó
khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện Luật Cạnh Tranh có nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân chủ yếu là do các khái niệm liên quan được nêu tại Luật Cạnh Tranh là
các khái niệm mới, chưa được quy định một cách toàn diện và đầy đủ, chưa bao quát cũng
như chưa đưa ra được các tiêu chí xác định cụ thể mà mới chỉ dừng ở các quy định chung.
Tại Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh Tranh quy định: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh…” nhưng không hề đưa ra bất kỳ tiêu chí thế nào là chuẩn mực thông thường ? Tại
Điều 39 Luật Cạnh Tranh liệt kê một loạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhưng
không có hành vi giảm giá sản phẩm trái quy luật thị trường, thậm chí dưới mức giá thành.
Trong khi đó nếu không được kiểm soát chặt chẽ thì đây là các hành vi vô cùng nguy hại, kể
cả trường hợp hành vi đó được thực hiện bởi một doanh nghiệp không hề chiếm vị trí thống
lĩnh thị trường hay có lợi thế về thị phần, nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm.
Tại Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh Tranh quy định: “Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,…”. Tại Điều 8 Luật Cạnh Tranh quy định bằng phương pháp liệt
kê về các loại thỏa thuận được coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà không đưa ra khái
niệm cụ thể. Theo quy định, đối với các thỏa thuận được liệt kê tại Điều 8, đặc biệt trong
trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh Tranh, nếu các bên tham gia thỏa thuận
có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên là vi phạm.
Tuy nhiên, về thị trường liên quan, tại Điều 3 của Luật Cạnh Tranh cũng như tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CPmặc dù đã đưa ra một số tiêu chí xác định nhưng các tiêu chí này
cũng chỉ dừng lại ở mức độ rất chung chung, mang tính chất tương đối, trong khi đó, công tác
kiểm soát, thống kê thị trường tại Việt Nam còn rất nhiều bất cập. Các số liệu thống kê của
chính cơ quan nhà nước Việt Nam cũng chưa được quốc tế tin tưởng hoàn toàn nên kết luận về
“xác định thị trường liên quan” trong nhiều trường hợp còn thiếu thuyết phục và chưa có cơ sở
đầy đủ. Đồng thời, bản thân chính năng lực hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc
tự xác định thị trường liên quan còn nhiều hạn chế nên trước khi tham gia các thỏa thuận cũng
không thể xác định được mình có thể vi phạm về thị trường liên quan hay không.
Mặt khác, tại Điều 10 Luật Cạnh Tranh quy định một số thỏa thuận thuộc phạm vi hạn
chế cạnh tranh theo quy định tại Điều 8 sẽ được hưởng quyền miễn trừ trong một thời hạn
nhất định nhưng Điều 10 được thiết kế cũng theo hình thức liệt kê với điều kiện cứng đó là
phải “nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng”.
Với quy định này đã không thể điều chỉnh trường hợp các thỏa thuận tuy không nhằm
hạ giá thành nhưng cũng không nhằm tăng giá mà nhằm bình ổn giá trên cơ sở phù hợp với
quy luật thị trường, hạn chế các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác có thể xảy ra và
chính là đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng. Chính “khoảng trống” này đã đẩy các doanh
nghiệp mặc dù hoạt động kinh doanh chân chính nhưng đã có hành vi vi phạm luật.
3. Liên quan đến quy định phạt tiền đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh,
Mức phạt tiền được xác định căn cứ trên tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực
hiện hành vi vi phạm là không hợp lý.Theo quy định tại Điều 5, Nghị định 120/NĐ-CP, mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh lên đến 10% tổng doanh thu của năm tài
chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Trên thực tế, hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh
của doanh nghiệp chỉ thực hiện và gây tác động tiêu cực trên một thị trường sản phẩm, dịch vụ
nhất định, trong khi một doanh nghiệp có thể thực hiện kinh doanh đối với nhiều sản phẩm, dịch
vụ khác nhau. Thậm chí trong một số vụ việc, doanh thu phát sinh từ việc kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ có liên quan trực tiếp đến hành vi vi phạm chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng doanh
thu của doanh nghiệp. Vì vậy, mức phạt dựa trên căn cứ “tổng doanh thu” của doanh nghiệp
không phản ánh đúng mức độ tác động của hành vi vi phạm và không tương xứng với thiệt hại trên thị trường do hành vi vi phạm gây ra.
4. Luật Cạnh tranh các nước đều có miễn trừ trong lĩnh vực bảo hiểm, tín dụng, chứng khoán (dịch vụ tài chính nói chung).
Những nội dung này được điều chỉnh theo luật chuyên ngành. Nếu hành vi ấn định giá
mà tổng các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia ký kết ấn định giá thì hầu hết các doanh nghiệp
bảo hiểm đều vi phạm. Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, để đảm bảo an toàn tài chính,
Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn quy định: “Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài chỉ được phép giữ lại mức trách nhiệm tối đa trên mỗi rủi ro hoặc trên mỗi tổn thất riêng lẻ không quá 5% vốn chủ sở hữu. Doanh nghiệp tái bảo hiểm chỉ được phép giữ lại mức trách nhiệm tối đa trên mỗi rủi ro hoặc trên mỗi tổn thất riêng lẻ không quá 10% vốn chủ sở hữu.”
Với một công trình, đối tượng bảo hiểm có giá trị đến hàng ngàn tỷ đồng (cây cầu,
Vinasat 1, nhà máy thuỷ điện) thường là một doanh nghiệp bảo hiểm kết hợp với nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm khác cùng bảo hiểm (đồng bảo hiểm) các doanh nghiệp bảo hiểm này cùng
ấn định giá (một mức phí bảo hiểm) cho khách hàng và phân chia phí được hưởng cho từng
doanh nghiệp bảo hiểm theo mức độ rủi ro họ đảm nhận. Hoặc hàng năm các doanh nghiệp
bảo hiểm thường ký kết hợp đồng tái bảo hiểm với công ty nhận tái bảo hiểm nước ngoài và
nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong nước để chia sẻ mức trách nhiệm phần vượt quá mức giữ
lại của doanh nghiệp bảo hiểm ký kết trong đó có ấn định phí bảo hiểm. Trên cơ sở phí tái bảo
hiểm được ký kết, doanh nghiệp bảo hiểm ấn định phí bảo hiểm cho các khách hàng. Nếu
tuân thủ theo Luật Cạnh tranh thì hàng loạt các hợp đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm đã được
ký kết phải huỷ bỏ nếu không sẽ bị xử phạt.?. Đây là một hệ luỵ khá nghiêm trọng nếu xảy ra
trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.Cũng giống như Hiệp hội Ngân hàng cũng đưa ra mức lãi
suất trần, đây là việc làm cần thiết để thực hiện chính sách tiền tệ và tín dụng, góp phần phát
triển kinh tế xã hội.
5. Đề xuất
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn áp dụng Luật Cạnh Tranh trong 10 năm qua,
nhằm góp phần hoàn thiện và khắc phục các hạn chế, vướng mắc trong quá trình chấp hành
pháp luật cạnh tranh trong thời gian sắp tới, Tổng Công Ty Cổ Phần Bảo Minh xin có một số
đề xuất như sau:
Thứ nhất, ban hành các quy định pháp luật bổ sung, hướng dẫn đối với các khái niệm
liên quan về pháp luật cạnh tranh nhằm cung cấp các tiêu chí cụ thể làm căn cứ xác định một
cách rõ ràng về hành vi hay thỏa thuận vi phạm Luật Cạnh Tranh.
Thứ hai, bổ sung các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất đặc thù
trong một số lĩnh vực như bảo hiểm, ngân hàng …lĩnh vực tài chính (ví dụ: như các hành vi
đua nhau giảm phí bảo hiểm, mở rộng các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, nới lỏng các điều
kiện xét duyệt bồi thường một cách bất hợp lý…). Đề nghị để cho các luật chuyên ngành có
qui định khác có tính ưu tiên hơn so với Luật Cạnh tranh. Điều đó có nghĩa là trong trường
hợp có xung đột giữa qui định của Luật Cạnh tranh với luật chuyên chúng ta nên xem xét ưu
tiên áp dụng Luật chuyên ngành
Thứ ba,bổ sung các quy định mang tính mở nhằm giúp cho các doanh nghiệp có thể đề
xuất, kiến nghị hay “xin phép” các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt một hoặc một
số hành vi, thỏa thuận trong từng trường hợp cụ thể có thể được hưởng quyền “miễn trừ” trên
cơ sở phù hợp thực tiễn thị trường mà không xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ tư:Mức phạt tiền được xác định căn cứ trên thực hiện hành vi vi phạm: Cụ thể các
doanh nghiệp bảo hiểm nếu có vi phạm về bảo hiểm vật chất xe ô tô thì chỉ xử phạt doanh thu
bảo hiểm vật chất xe ô tô không thể xử phạt tổng doanh thu của tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm
khác, các loại hình kinh doanh khác của Doanh nghiệp không có vi phạm. VD: 1. Các nghiệp
vụ bảo hiểm khác như (bảo hiểm sức khoẻ và tai nạn con người, bảo hiểm vận chuyển hàng
hoá, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm xây dựng-lắp đặt, bảo hiểm dầu khí,
bảo hiểm máy móc thiết bị, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng...) 2. Hoạt động đầu tư,
kinh doanh BĐS, Tái bảo hiểm ; 3. Hoạt động kinh doanh khác theo qui định của PL không
cấm ( theo qui định của Luật Doanh nghiệp 2014).
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Tham luận 6
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh - Một số vướng mắc
Bà Trần Chi Anh
Luật sư
Công ty Luật TNHH Baker & McKenzie Việt Nam
1
Nội dung
– Tổng quan
– Các vấn đề chung
– Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
– Lạm dụng vị trí thống lĩnh
– Kiểm soát tập trung kinh tế
– Quy trình thủ tục
©2015 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 2
Thực tiễn vận dụng luật cạnh tranh – Một số vướng mắc
Trần Xuân Chi Anh
Baker & McKenzie
12/11/2015
Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. is a member of Baker & McKenzie International, a Swiss Verein with member law firms around the world. In accordance with the common terminology used in professional service organizations, reference to a “partner” means a person who is a partner, or equivalent, in such a law firm. Similarly, reference to an “office” means an office of any such law firm.
2
Các vấn đề chung
- Hướng tiếp cận về hình thức : Hành vi vi phạm được mô tả hoặc định nghĩa trong luật và Nghị Định hướng dẫn, và bất kỳ hành vi nào đáp ứng mô tả đó được mặc định là có tác động gây hại lên cạnh tranh, thị trường và người tiêu dùng, do đó bị cấm.
- Ưu điểm: rõ ràng, dễ áp dụng
- Nhược điểm: bỏ qua bước chứng minh yếu tố gây hại cho người tiêu dùng (consumer harm), cứng nhắc, không tính đến khả năng hành vi đáp ứng mô tả vi phạm nhưng lại có lợi cho canh tranh (pro-competitive), không phù hợp với xu hướng chung
©2011 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 4
Tổng quan
- Luật Cạnh Tranh (LCT) được thông qua ngày 03/12/2004, có hiệu lực từ 01/07/2005
- Sau 10 năm thực hiện:
- Hoạt động thực thi LCT của cơ quan quản lý cạnh tranh trải đều các vấn đề, đa dạng về hành vi và lĩnh vực ngành nghề
- Sự ổn định của luật và các văn bản hướng dẫn trong suốt 10 năm
- Nhận thức của xã hội và doanh nghiệp tăng đáng kể, nhờ cơ quan quản lý cạnh tranh chú trọng hoạt động phổ biến pháp luật
- Doanh nghiệp nhận được hỗ trợ tốt từ phía cơ quan cạnh tranh trong việc giải đáp các câu hỏi, thắc mắc về giải thích pháp luật
- Bài trình bày tập trung vào hành vi hạn chế cạnh tranh
©2011 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 3
3
Các vấn đề chung (3)
- Đối tượng áp dụng:
- cá nhân kinh doanh,
- doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam
- Khả năng áp dụng ngoài lãnh thổ (extraterritoriality), đặc biệt là trong các vụ việc tập trung kinh tế
©2011 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 6
Các vấn đề chung (2)
– Yếu tố thị phần của doanh nghiệp có vai trò quyết định trong cấu thành của hầu hết hành vi vi phạm
– Khó khăn trong việc xác định thị trường liên quan
– Khó khăn trong việc xác định chính xác thị phần của doanh nghiệp: thiếu dữ liệu, thông tin về ngành có thể tiếp cận được
– Tính tương đối
– Cần cân nhắc các yếu tố khác ngoài thị phần: cấu trúc thị trường, mạng lưới phân phối…
©2011 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 5
4
Lạm dụng vị trí thống lĩnh
- Xác định vị trí thống lĩnh : thị phần là quyết định
- Lạm dụng là hành vi đơn phương hay thỏa thuận hàng dọc ?
- Ví dụ: hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu (resale price maintenance)
- Một số quy định của NĐ116 không rõ ràng, gây khó hiểu
- Đ30.1.c) Hạn chế về khách hàng mua hàng hóa để bán lại (hạn chế đối tượng khách hàng, hay han chế hoạt động bán lại hàng hóa của khách hàng)
- Một số hành vi nguy hiểm không được điều chỉnh: chiết khấu quá mức (rebates), từ chối cung cấp (refusal to supply)
- Không có căn cứ pháp lý để doanh nghiệp thống lĩnh tranh luận về tác động tích cực của hành vi (no objective justification)
©2011 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 8
Thỏa thuận HCCT
- Một số dạng thỏa thuận nguy hiểm bị bỏ sót (trao đổi thông tin, định chuẩn – benchmarking
- Khó giải thích căn cứ để phân chia các thỏa thuận nguy hiểm (cấm tuyệt đối) và các thỏa thuận ít nguy hiểm hơn (cấm khi thị phần kết hợp từ 30%)
- Các thỏa thuận được liệt kê hầu như không áp dụng được đối với thỏa thuận hàng dọc
©2011 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 7
5
Quy trình thủ tục
– Tăng tính minh bạch trong tố tụng cạnh tranh
– Công khai các quyết định trong quá trình tố tụng cạnh tranh, đặc biệt là quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh (với thông tin bảo mật đã được xóa)
– Quyền của các bên tham gia tố tụng cạnh tranh được nhận bản kết luận điều tra cùng thời điểm với Hội đồng cạnh tranh
– Tổng thời gian điều tra, xử lí quá dài (3-4 năm)
©2011 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 10
Kiểm soát tập trung kinh tế
– Thị phần là căn cứ duy nhất, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tự xác định
– Định nghĩa mua lại, liên doanh như một hình thức tập trung kinh tế chịu sự kiểm soát về cạnh tranh chưa thực sự hợp lý
– Áp dụng pháp luật lên giao dịch / doanh nghiệp ngoài lãnh thổ
©2011 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 9
©2011 Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. 11
6
Cám ơn
Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd. is a member of Baker & McKenzie International, a Swiss Verein with member law firms around the world. In accordance with the common terminology used in professional service organizations, reference to a “partner” means a person who is a partner, or equivalent, in such a law firm. Similarly, reference to an “office” means an office of any such law firm.
Trần Xuân Chi Anh
Baker & McKenzie (Vietnam) Ltd.
Lầu 12 Saigon Tower
29 Lê Duẩn, Quận 1, TP. HCM
Q&A
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Tham luận 7
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh ở một số doanh nghiệp - những khó khăn, vướng mắc và một số khuyến nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh
Ông Lê Quang Vy
Luật sư
Giám đốc Công ty Luật TNHH Việt Long Thăng (VLT Lawyers)
Kính thưa quý vị!
Chúng tôi đến từ công ty TNHH Luật Việt Long Thăng, một công ty hoạt động trong
lĩnh vực tư vấn pháp luật liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp.
Đứng về phía khách hàng của mình, chúng tôi xin gửi đến hội thảo vài vấn đề nhỏ
trong thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh tại các doanh nghiệp như sau:
Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Cạnh tranh ra đời đã tạo ra
môi trường cạnh tranh bình đẳng, ngăn ngừa các hành vi gây hạn chế cạnh tranh, các hành vi
liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, theo nhận định chủ quan của chúng tôi, do Luật Cạnh tranh chưa được phổ
biến sâu rộng và thiết thực đến các doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp, các Luật Thuế
….nên tỷ lệ các doanh nghiệp không biết, không quan tâm đến Luật cạnh tranh cao, việc áp
dụng Luật Cạnh tranh trong kinh doanh chưa được chú trọng, hiện tượng vi phạm Luật Cạnh
tranh một cách ngay tình còn nhiều, các doanh nghiệp cũng chưa quan tâm đến việc dùng
Luật Cạnh tranh để tự bảo vệ mình.
Trong khuôn khổ bài tham luận này, chúng tôi chỉ xin trình bày vài vướng mắc cơ bản
mà Doanh nghiệp đang lung túng trong quá trình thực hiện Luật Cạnh tranh:
1. Việc nhận dạng và xác định thị trường sản phẩm liên quan
Mặc dù nghị định 116/2005/NĐ-CP đã dành hẳn mục 1, Chương II nói về Xác định thị trường sản phẩm liên quan.nhưng nhận dạng và xác định thị trường sản phẩm liên quan vẫn là
một công việc rất khó có thể thực hiện đối với một doanh nghiệp thông thường. Các khái
niệm và cách xác định được nêu trong văn bản Luật còn xa lạ, khó hiểu đối với nhiều chủ thể
kinh doanh, các nguồn thông tin để xác định thị trường sản phẩm liên quan thể hiện trong văn
bản luật còn hiếm, không được công khai một cách chính thống khiến cho các doanh nghiệp
đều lúng túng khi cần thu thập sử dụng, dẫn đến ngại ngần đá động đến vấn đề cạnh tranh
trong các thương vụ, các cuộc đàm phán của mình.
Trong các trường hợp sản phẩm cung cấp là một chuỗi các dịch vụ nối tiếp hoặc kết
hợp với nhau lại càng khó có thể xác định thị trường sản phẩm liên quan. Đơn cử, một đơn vị cung cấp dịch vụ du lịch bao gồm cả vận chuyển, ăn, ở, tham quan với các điều kiện hoàn
toàn bình thường.Xin hỏi các quý vị tham gia hội thảo ở đây: thị trường sản phẩm liên quan
của khâu “ở” là thị tsrường khách sạn, phòng nghỉ hay thị trường dịch vụ gồm cả vận chuyển,
ăn, ở, tham quan?? – Chưa thấy văn bản pháp luật hướng dẫn các trường hợp tương tự, chúng
tôi cũng đã tranh luận về trường hợp này nhưng đến hôm nay chưa có một căn cứ pháp lý
chắc chắn nào để bảo vệ cho ý kiến của các bên.
Xin kiến nghị đến các cơ quan chức năng việc ban hành hướng dẫn cụ thể, chi tiết,
mang tính khả thi cao hơn để các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh có thể dễ dàng tiếp
cận, dễ dàng thực thi pháp luật về cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay.
2. Việc xác định các đơn vị, nhóm đơn vị có vị trí thống lĩnh thị trường
Một số hành vi gây hạn chế cạnh tranh chỉ được xem là vi phạm các quy định của Luật
cạnh tranh khi chủ thể gây ra là đơn vị có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể
trên thị trường liên quan. Song, các căn cứ để chứng minh khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể của doanh nghiệp bất kỳ trên thị trường liên quan là điều không khả thi với
các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh trong điều kiện hiện nay.
Như tôi vừa trình bày, do tình trạng thông tin kinh tế ở nước ta chưa được công khai
minh bạch và đầy đủ, các nguồn thông tin chính thống ít, chế tài đối với các trường hợp vi
phạm về tính trung thực của số liệu báo cáo không nghiêm minh nên việc xác định doanh thu,
doanh số, thị phần để kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh hầu như không nằm trong phạm vi
khả năng có thể thực hiện của các doanh nghiệp. Khi xảy ra vấn đề cần tranh chấp thì các số
liệu này hầu như được thu thập thông qua các kênh không chính thức và không sát thực nên
thiếu tính thuyết phục dẫn đến khả năng giải quyết tranh chấp một cách hợp lý khó xảy
ra,khiến các doanh nghiệp không mặn mà tìm đến các cơ quan chức năng để yêu cầu bảo vệ
quyền lợi của mình. Sự bất cân xứng về thông tin và trình độ hiểu biết về Luật cạnh tranh,
thiếu ý thức tự bảo vệ thậm chí còn đưa đến tình trạngtiêu cực có thể xảy ra là một bên có chủ
đích đã dùng các quy định của Luật cạnh tranh làm công cụ hạn chế khả năng cạnh tranh của
đối thủ, đa số các trường hợp này bên thua thiệt lại thuộc về bên ngay tình.Xin kiến nghị về
việc cần phối hợp giữa các cơ quan chức năng liên quan để cải thiện mạng lưới thông tin kinh
tế, bảo đảm chế độ cung cấp thông tin về thị trường và các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường một cách kịp thời, toàn diện và minh bạch nhằm tạo cơ sở cho các doanh nghiệp có thể
thực thi tốt pháp luật về cạnh tranh.
Một khía cạnh khác, theo quy định của Luật Cạnh tranh thì căn cứ để kiểm soát hành
vi hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp chỉ dựa trên duy nhất chỉ tiêu doanh thu nên các
doanh nghiệp rất khó áp dụng, trong khi đó trên thực tế có nhiều tiêu chí để kiểm soát hành vi
hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp như có số liệu về sản lượng tiêu thụ và giá bán bình
quân trên thị trường của mặt hàng đó…..Nên chăng việc pháp luật Cạnh tranh có thêm một
cụm từ nào đó để có thể mở rộng khái niệm doanh thu hoặc có thêm một chỉ tiêu nào đó như
sản lượng tiêu thụ chẳng hạn để các doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn khi đánh giá, kiểm soát
hành vi hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp trong tình hình thực tế hiện nay.
Cơ sở để xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của doanh
nghiệp trên thị trường liên quan tại điều 22 nghị định 116/2005/ND 9-CP cũng chưa được quy
định cụ thể khiến cho doanh nghiệp rất lúng túng khi vận dụng điều luật. Theo điều luật này
thì các căn cứ được liệt kê chỉ là các căn cứ chủ yếu, có nghĩa là ngoài các căn cứ này vẫn còn
ít nhất một căn cứ chưa được liệt kê trong điều luật nhưng được Luật pháp công nhận. Vậy,
ngoài các căn cứ đã được liệt kê thì căn cứ hay nhóm căn cứ nào? Kèm theo điều kiện gì được
cho phép dùng làm căn cứ để xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của
doanh nghiệp trên thị trường liên quan? Xin kiến nghịcác nhà làm luật cần hoàn thiện thêm
hoặc có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về « cơ sở để xác định khả năng gây hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể của doanh nghiệp trên thị trường liên quan ».
3. Việc nhận diện và xác định hành vi “cạnh tranh không lành mạnh”.
Chương III Luật Cạnh tranh đã liệt kê và quy định chi tiết về hành vi “cạnh tranh
không lành mạnh”. Tuy nhiên, do thiếu kiến thức về pháp luật cạnh tranh nên các doanh
nghiệp, các chủ thể kinh doanh thường hay thực hiện hoạt động cạnh tranh một cách tự phát,
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thương trường và các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh. Trong khi hai tiêu chí này lại ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố chủ quan nên việc có hành
vi cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm pháp luật một cách ngay tình hoặc do nhận thức về
pháp luật Cạnh tranh chưa đầy đủ là chuyện tất yếu xảy ra;Cạnh tranh vốn là một thuộc tính
cơ bản của hoạt động kinh doanh, mà thuộc tính cơ bản của cạnh tranh là tăng khả năng cạnh
tranh của mình, kìm hãm khả năng cạnh tranh của đối thủ dẫn đến ranh giới giữa tự bảo vệ lợi
ích của mình và vượt quá giới hạn tự vệ, xâm phạm lợi ích của chủ thể khác cũng chính là
ranh giới giữa hai mức độ lành mạnh hay không lành mạnh trong cạnh tranh quá mỏng manh,
không rõ ràng. Với mặt bằng hiểu biết pháp luật về cạnh tranh chung hiện nay việc phân định
ranh giới này thật khó đi đến sự thống nhất chung của các bên có chung “đường biên giới”.
Thật khó để đưa ra một kiến nghị hợp lý nhằm tháo gỡ vướng mắc này.
Vì vậy, cùng với việc tháo gỡ các bất cập đã nêu ở hai phần trên, chúng tôi xin kiến
nghị các cơ quan chức năng có nhiều biện pháp hữu ích và đa dạng để tuyên truyền pháp luật
về cạnh tranh đến rộng rãi các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp và các chủ
thể đang kinh doanh. Tăng cường xử lý, cảnh báo các trường hợp vi phạm để ngày càng nâng
cao ý thức và kiến thức pháp luật về cạnh tranh cho các chủ thể đang và sẽ tham gia vào hoạt
động kinh doanh trong xã hội. Các Luật Thuế, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại cùng với
nhiều Luật khác cũng phải trải qua quá trình tập làm quen cho doanh nghiệp, phát hiện và
điều chỉnh các bất cập nhiều lần mới có ngày hôm nay được hầu hết doanh nghiệp hiểu,tự
giác chấp hành nên thiết nghĩ kiến nghị này của chúng tôi đối với việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về cạnh tranh không phải là một kiến nghị bất hợp lý hay bất khả thi.
Một vài ý kiến nhỏ tham gia cùng hội thảo.
Kính chúc hội thảo thành công tốt đẹp./.