bẢn tin thÁng 01/2017
TRANSCRIPT
1
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 01/2017
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Chip 3D thúc đẩy nghiên cứu thuốc
Đĩa nano tiêu diệt khối u trong vắc-xin ung
thư mới
Lớp phủ cấy ghép nha khoa chống nhiễm
trùng với ba hướng tấn công
Kỹ thuật mới mang lại tiềm năng trong điều
trị các bệnh Alzheimer và Parkinson
Gạch giúp ngôi nhà “Tàng hình”: Tấm thay
đổi màu sắc thông minh có thể giúp ngụy
trang ngay lập tức
Phương pháp mới tái chế khí nhà kính
Dây điện siêu mỏng làm từ những mảnh kim
cương siêu nhỏ
Chế tạo thành công vật liệu gốc tơ tằm được
lập trình sẵn các chức năng
Robot mềm bắt chước chuyển động sinh học
Làm sạch crom trong nước uống
Gen cây tần bì là cơ sở giúp ngăn chặn bệnh
chết non ở cây
Phương pháp mới giúp phát hiện những hành
tinh giống Trái đất
Sản xuất vật liệu mới từ lốp ô tô bỏ đi
Khai thác năng lượng từ ngón tay để cung
cấp cho thiết bị cảm ứng
Công nghệ biến khí thải nhà máy thành bột
nở
Sản xuất được chất dẻo sinh học từ nguồn
nguyên liệu tái tạo
Tã thông minh tạo ra điện từ nước tiểu
Phần mềm mới giúp áp dụng kỹ thuật
CRISPR dễ dàng hơn
Tạo ra laser siêu nhỏ từ các hạt nano
Biến đổi chip bộ nhớ thành bộ vi xử lý để
tăng tốc độ tính toán
Mực làm từ dây nano cho phép in thiết bị
điện tử trên giấy
Phát triển được loại kính thủy tinh trong suốt
trên cơ sở gỗ
Lá nhân tạo mới biến đổi ánh nắng mặt trời
thành nhiên liệu hydro
Sản xuất túi mua hàng từ vỏ tôm
Xác định tính chất quan trọng giúp màng của
pin mặt trời perovskite chuyển đổi ánh nắng
thành điện năng
Nấm men biến đổi đường thực vật thành dầu
mỏ
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0016020 Hợp chất N-(1,2,5-oxadiazol-3-
yl)-, N-(tetrazol-5-yl)- và N-(triazol-5-
yl)bixycloarylcarboxamit, chế phẩm chứa
hợp chất này và phương pháp phòng trừ cây
trồng không mong muốn
1-0016086 Chế phẩm diệt trừ dịch hại chứa
hợp chất anthranilamit và phương pháp
phòng trừ loài gây hại
1-0016105 Hợp chất pyrazol carboxamit có
hoạt tính diệt nấm, chế phẩm diệt
nấm chứa hợp chất này và phương pháp
2
phòng trừ nấm gây bệnh cho thực vật
ở cây trồng
1-0016107 Thuốc diệt cỏ dạng huyền phù
đặc
1-0016144 Dụng cụ phòng trừ côn trùng và
phương pháp sản xuất dụng
cụ này
1-0016048 Chế phẩm phủ hệ nước chứa hỗn
hợp của nhựa alkyt cải biến bằng
uretan, quy trình điều chế và phương pháp sử
dụng chế phẩm này
1-0016021 Phương pháp làm sạch da
1-0016025 Thể tiếp hợp miễn dịch kháng
mesothelin và dược phẩm
chứa thể tiếp hợp miễn dịch này
1-0016050 Chế phẩm giải phóng kéo dài,
dược phẩm và thuốc chứa
chế phẩm này
1-0016055 Hợp chất có tác dụng ức chế
histon deaxetylaza và quy trình điều chế hợp
chất này
1-0016078 Chế phẩm sử dụng khu trú
1-0016084 Hợp chất heterobiaryl-
xyclohexyl-tetraazabenzo[e]azulen, quy trình
điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa nó
1-0016112 Hợp chất chứa Bo có phân tử nhỏ
và dược phẩm chứa hợp chất
này
1-0016046 Phương pháp sản xuất giầy sử
dụng dung dịch phủ lót đa năng
1-0016024 Miếng dính hạt giống
1-0016035 Chế phẩm để tạo ra tác nhân
nghiền clinke xi măng và hỗn
hợp clinke xi măng chứa tác nhân này
1-0016054 Ván khuôn dùng một lần lắp ghép
được để dựng cốp pha theo mô đun để đổ
móng bê tông
1-0016117 Quy trình sản xuất vật đúc bằng
bọt polyuretan và vật đúc bằng bọt
polyuretan thu được bằng quy trình này
1-0016148 Nhũ tương chứa scleroglucan,
nhũ tương bitum và chế phẩm kết
dính bitum
1-0016245 Hạt phân phối chất hữu ích chứa
polysacarit không ion,
phương pháp sản xuất và chế phẩm chứa hạt
này
3
THÔNG TIN THÀNH TỰU
Chip 3D thúc đẩy nghiên cứu thuốc
Các nhà khoa học tại Đại học Crete, Hy
Lạp, đang nghiên cứu các tế bào não của
người để tìm hiểu về bệnh nhân mắc chứng
xơ cứng teo cơ một bên (ALS) và cách điều
trị bệnh.
Họ cho biết bộ não người trên một con
chíp có thể mở đường cho một kỷ nguyên
mới trong nghiên cứu.
Giáo sư Achilleas Gravanis phụ trách dự
án xơ cứng teo cơ một bên trên một con chíp
do châu Âu tài trợ. Nhóm của ông, cùng với
Tiến sĩ Dimitris Tzeranis, một nghiên cứu
sinh thuộc Chương trình Marie Sklodowska-
Curie làm việc với các đồng nghiệp tại Viện
Công nghệ Massachusetts (MIT) và Viện
nghiên cứu tế bào gốc Harvard, Hoa Kỳ, đang
phát triển một loại chip 3D chứa đầy nơron
vận động và các tế bào cơ - tế bào cần thiết
cho sự vận động - và tế bào não hình ngôi sao
còn được gọi là tế bào hình sao.
Gravanis cho biết: "Các tế bào này đóng
một vai trò then chốt trong chứng bệnh ASL.
Chúng tôi đang so sánh các tế bào của bệnh
nhân mắc chứng ALS với những người khỏe
mạnh để phân biệt sự khác nhau, bằng cách
kết hợp dược lý học với kỹ thuật chụp ảnh sử
dụng các hệ thống hiện đại nhất”.
Con chip này được thiết kế nhờ sử dụng
giá đỡ 3D làm từ collagen. Sử sụng nó, các
nhà khoa học có thể tiến hành nghiên cứu để
xác định nguyên nhân của căn bệnh và thử
nghiệm các loại thuốc mới để tìm hiểu liệu
chúng có thể cải thiện cách thức các tế bào
não của con người hoạt động hay không.
Gravanis nói con chip này có thể là một
bước trung gian giữa các xét nghiệm an toàn
và hiệu quả ban đầu trên động vật và thử
nghiệm tốn kém trên những người tình
nguyện. Ông nói thêm: "Điều này sẽ làm
giảm đáng kể số lượng các loài động vật
được sử dụng. Và nó cho phép chúng ta thử
nghiệm nhiều hợp chất hơn từ một thư viện
hóa học. Nếu các con chip tế bào thần kinh
của người ALS xác nhận hợp chất đó có tác
dụng, chúng tôi sẽ có cơ hội thành công cao
hơn ở người”.
Gravanis kết luận: "Thật đáng thất vọng vì
không loại thuốc ALS nào đã được thử
nghiệm trên động vật có tác dụng tốt trên con
người, nhưng bạn không thể mô phỏng cơ thể
con người bằng cách chỉ nhìn vào các tế bào
động vật trong một món ăn".
Con chip này có thể có mặt trên thị trường
vào cuối năm 2017.
Theo vista.gov.vn, 03/01/2017
Trở về đầu trang
**************
4
Đĩa nano tiêu diệt khối u trong vắc-xin ung thư mới
Ung thư ruột kết và u melanin có thể sẽ
sớm được điều trị bằng một loại vắc-xin đơn
giản, nếu nghiên cứu từ Đại học Michigan
được thử nghiệm thành công. Sử dụng các đĩa
nano tổng hợp, các nhà khoa học đã đào tạo
được hệ thống miễn dịch của chuột tiêu diệt
tế bào ung thư hiệu quả hơn, loại bỏ khối u
trong vòng 10 ngày và ngăn ngừa chúng xuất
hiện trở lại tới nhiều tháng sau khi điều trị.
Kỹ thuật này hoạt động giống như các loại
vắc-xin khác: một lượng nhỏ chỉ dấu sinh học
của bệnh được xác định trước được đưa vào
cơ thể, sau đó hệ thống miễn dịch sẽ tập hợp
lại để chống lại chúng. Trong trường hợp này,
những chỉ dấu được đưa vào theo hình thức
kháng nguyên khối u mới được tập hợp vào
các đĩa nano chỉ rộng 10 nanomet và làm
bằng lipoprotein mật độ cao.
Về cơ bản các nhà khoa học đã đào tạo hệ
thống miễn dịch bằng những đĩa nano để các
tế bào miễn dịch có thể tấn công các tế bào
ung thư.
Thử nghiệm trên những con chuột có khối
u ruột kết và u melanin, 27% các tế bào T của
chuột đã chuyển sự chú ý của chúng vào các tế
bào ung thư. Kết hợp với vắc-xin mới, nhóm
nghiên cứu đã sử dụng "thuốc ức chế điểm
kiểm soát miễn dịch" là loại thuốc nhắm vào
một số proteins nhất định như PD-1 để giữ cho
các tế bào T khỏe mạnh và chống lại tế bào
ung thư. Với cả hai hệ thống hoạt động cùng
nhau, hầu hết các khối u biến mất trong vòng
10 ngày, và khi các nhà nghiên cứu thử đưa
các tế bào ung thư vào 70 ngày sau đó, hệ
thống miễn dịch của đối tượng thử nghiệm đã
không cho chúng có cơ hội để phát triển. Điều
này cho thấy hệ thống miễn dịch có thể 'nhớ'
các tế bào ung thư trong một thời gian dài.
Các nhà nghiên cứu có kế hoạch tăng kích
thước đối tượng cho mẫu vắc-xin của họ, và
xem nó hoạt động như thế nào ở động vật lớn
hơn so với chuột.
Mục đích của các liệu pháp miễn dịch ung
thư là để tiêu diệt các khối u và ngăn ngừa tái
phát trong tương lai mà không có độc tính hệ
thống, và nghiên cứu này đã cho thấy các kết
quả rất hứa hẹn ở chuột
Theo vista.gov.vn, 05/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Lớp phủ cấy ghép nha khoa chống nhiễm trùng với ba hướng tấn công
Theo các nhà nghiên cứu tại Đại học
Basque Country, khoảng 10% các ca cấy
ghép nha khoa sẽ chỉ phải được loại bỏ do
nhiễm khuẩn hay cấy ghép không tích hợp
đúng cách với xương hàm của bệnh nhân. Để
giảm thiểu điều này, nhóm nghiên cứu đã
phát triển lớp phủ mới cho răng cấy ghép
không chỉ gắn vào xương xung quanh chắc
hơn, mà còn có thể chống lại nhiễm trùng do
vi khuẩn theo ba cách.
Răng cấy tiêu chuẩn được tạo thành một
ốc vít titan cắm vào ổ răng trống, với một
chiếc răng giả bên trên. Nó có thể mất vài
tháng để ốc vít tích hợp vào xương, nghĩa là
để xương phát triển xung quanh chân cấy, và
trong thời gian đó, bệnh nhân có thể không ăn
được thức ăn rắn. Những cố gắng trước đây
để cải thiện thời gian phục hồi và làm giảm
nguy cơ bị từ chối bao gồm trồng răng trực
5
tiếp vào ổ răng sử dụng tế bào gốc của chính
bệnh nhân, phát triển lớp phủ nano làm tăng
tốc quá trình chữa bệnh, và răng thay thế in
3D bằng một loại nhựa kháng khuẩn gắn liền.
Trong nghiên cứu mới, nhóm nghiên cứu
lên kế hoạch phát triển lớp phủ có thể cải
thiện sự tích hợp xương đồng thời giúp ngăn
chặn nhiễm trùng, bằng cách ngăn chặn vi
khuẩn xâm nhập, hoặc loại bỏ nó sau khi nó
đã phát triển.
Nhóm đã tạo ra được lớp phủ tạo thuận lợi
cho sự phát triển của xương quanh răng cấy
và do đó tạo điều kiện định vị với xương.
Trong một cố gắng khác, họ tìm cách để biến
chất phủ đó thành thuốc diệt khuẩn.
Đầu tiên, các nhà nghiên cứu tổng hợp
một dung dịch tiền thân từ silica, sau đó được
biến thành gel, sơn lên vít và đốt trong lò để
đảm bảo nó phủ bám toàn bề mặt. Lớp gel
này hỗ trợ sự tích hợp xương, đồng thời các
chất kháng khuẩn được thêm vào để nó có
khả năng chống nhiễm trùng.
Nhóm sử dụng silica làm chất tiền thân vì
trong nhiều nghiên cứu hợp chất này đã được
chứng minh có tính kích dẫn xương. Ngoài ra,
để vật liệu có đặc tính kháng khuẩn, họ đã
cho vào nhiều chất diệt khuẩn khác nhau.
Một trong những chất đó hoạt động với
vai trò chất phòng ngừa, hai chất khác được
sử dụng để loại bỏ vi khuẩn khi bị viêm
nhiễm. Chất đầu tiên được tạo ra từ một
nguyên liệu có thời gian biến chất rất dài để
nó luôn bám vào các ốc vít và có tác dụng lâu
nhất có thể để ngăn ngừa vi khuẩn bám vào.
Lớp phủ được thiết kế để tấn công vi
khuẩn hoạt động theo cách gần như ngược lại,
sử dụng một loại nguyên liệu biến chất nhanh
chóng để thích ứng với vi khuẩn, tiết ra chất
kháng khuẩn. Và do việc cấy vào hoặc gỡ ra
đều rắc rối, một trong hai lớp phủ được thiết
kế để sử dụng trong phẫu thuật nha chu, có
thể tra các nguyên liệu vào ốc vít mà không
cần phải gỡ răng cấy ra.
Mặc dù những chất liệu này vẫn còn đang
được thử nghiệm và cần phải nghiên cứu
thêm để tối ưu hóa kết quả, các nhà nghiên
cứu xác nhận rằng lớp phủ kháng khuẩn này
có thể phát triển được.
Theo vista.gov.vn, 05/01/2016
Trở về đầu trang
**************
Sử dụng chất béo để làm lành vết thương nhưng không để lại sẹo
Các nhà nghiên cứu tại Trường Y
Perelman, Đại học Pennsylvania và Đại học
California đã phối hợp để tìm ra cách làm
lành vết thương như da tái tạo mà không để
lại mô sẹo. Phương pháp này liên quan đến
việc biến đổi loại tế bào phổ biến nhất có
trong các vết thương thành tế bào mỡ, trước
đây được cho là không thể thực hiện ở người.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí
Science ngày 5 tháng 1 năm 2017.
Các tế bào mỡ thường được tìm thấy trong
da, nhưng chúng biến mất khi vết thương lành
lại thành sẹo. Các tế bào phổ biến nhất có
trong vết thương đang lành là myofibroblast,
được cho là chỉ tạo thành sẹo. Mô sẹo cũng
không có bất cứ nang lông nào liên kết với
nó, là một yếu tố khác tạo sự bất thường từ
phần còn lại của da. Các nhà nghiên cứu đã
sử dụng những đặc điểm này làm cơ sở cho
nghiên cứu của họ và đã biến đổi
myofibroblast thành các tế bào mỡ mà không
gây sẹo.
6
George Cotsarelis, trưởng dự án nghiên
cứu cho rằng: "Về cơ bản, chúng tôi có thể
tác động đến việc làm lành vết thương dẫn
đến sự tái tạo của da mà không để lại sẹo. Bí
mật nằm ở việc tái tạo các nang lông. Sau đó,
mỡ sẽ tái sinh để phản ứng với các tín hiệu từ
những nang lông đó".
Kết quả nghiên cứu cho thấy nang lông và
mỡ phát triển riêng rẽ nhưng không độc lập.
Các nang lông hình thành đầu tiên và phòng
thí nghiệm Cotsarelis trước đây đã phát hiện
ra các yếu tố cần thiết cho sự hình thành của
chúng. Hiện giờ, nhóm nghiên cứu đã phát
hiện thêm các yếu tố trên thực tế được sản
sinh bởi nang lông tham gia vào chuyển đổi
myofibroblast xung quanh để tái sinh dưới
dạng mỡ thay vì tạo thành sẹo. Chất béo đó sẽ
không hình thành nếu không có nang lông
mới, nhưng khi có nang lông, các tế bào mới
có thể phân biệt với các tế bào mỡ tồn tại
trước đó, làm cho vết thương lành lại trông
giống tự nhiên thay vì để lại sẹo. Khi xem xét
yếu tố đang truyền tín hiệu từ nang lông đến
các tế bào mỡ, các nhà nghiên cứu đã xác
định được một yếu tố được gọi là Protein hình
thái xương (BMP) giữ vai trò định hướng
myofibroblast trở thành chất béo.
"Thông thường, myofibroblast được cho là
không có khả năng trở thành loại tế bào khác.
Nhưng trong nghiên cứu, chúng tôi đã tác
động đến các tế bào này để chúng có thể
được chuyển đổi hiệu quả và ổn định thành tế
bào mỡ", Cotsarelis nói. Điều này đã được thể
hiện ở cả các tế bào sẹo lồi của chuột và
người được nuôi cấy.
Phát hiện nghiên cứu có khả năng cách
mạng hóa lĩnh vực da liễu với ứng dụng đầu
tiên và rõ ràng nhất sẽ là phát triển một
phương thức báo hiệu cho myofibroblasts
chuyển đổi thành các tế bào mỡ, giúp vết
thương lành lại mà không để lại sẹo.
Nhưng sự gia tăng của các tế bào mỡ
trong mô cũng có nhiều tác dụng hơn là chỉ
cho vết thương. Mất đi tế bào mỡ là một biến
chứng thường gặp của các căn bệnh khác, đặc
biệt là điều trị HIV và hiện chưa có phương
pháp điều trị hiệu quả. Các tế bào mỡ cũng tự
nhiên mất đi do quá trình lão hóa, đặc biệt là
ở mặt tạo nên vết nhăn sâu, lâu dài khó loại
bỏ như mong đợi về mặt thẩm mỹ bằng các
phương pháp điều trị chống lão hóa. Phát hiện
nghiên cứu có khả năng hướng tới một chiến
lược mới để tái sinh các tế bào mỡ ở da nhăn
nheo, mang lại các liệu pháp mới điều trị
chống lão hóa.
Nhóm nghiên cứu hiện đang tập trung vào
các cơ chế thúc đẩy tái tạo da, đặc biệt là đối
với việc tái sinh nang lông, cũng như các khía
cạnh khác của việc tái lập trình tế bào trong
vết thương trên da. Ngoài ra, các nhà khoa
học cũng xem xét vai trò của máy phát tín
hiệu khác ngoài BMP và tiến hành nghiên
cứu sâu hơn việc sử dụng các tế bào và mô
sẹo của người.
Theo vista.gov.vn, 16/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Kỹ thuật mới mang lại tiềm năng trong điều trị các bệnh Alzheimer và Parkinson
Trong nghiên cứu mà một ngày nào đó có
thể dẫn đến những tiến bộ to lớn có thể chống
lại các bệnh thoái hóa thần kinh như
Alzheimer và Parkinson, các nhà khoa học kỹ
thuật Trường Đại học Michigan đã chứng
minh được một kỹ thuật có thể đo chính xác
các tính chất của các phân tử protein riêng lẻ
nổi bên trong chất lỏng. Các protein rất cần
7
thiết đối với chức năng của từng tế bào. Việc
đo các đặc tính của chúng trong máu và trong
các dịch lỏng khác trong cơ thể có thể tiết lộ
các thông tin có giá trị, bởi vì các phân tử là
một khối kiến tạo quan trọng trong cơ thể. Cơ
thể sản xuất chúng với một loạt các hình dạng
phức tạp để có thể truyền tải thông tin giữa
các tế bào, mang oxy và thực hiện các chức
năng quan trọng khác.
Tuy nhiên, đôi khi các protein không tạo
đúng. Và các nhà khoa học tin rằng một số
nhóm các protein biến hình này (misshapen),
có gọi là các amyloid, có thể kết thành cục ở
trong não. Các khối rối dính chặt gây trở ngại
cho chức năng của các tế bào bình thường,
dẫn đến làm thoái hóa các tế bào não và gây
ra bệnh nguy hiểm.
Nhưng các quá trình khiến các amyloids
hình thành và kết thành khối hiện chưa được
hiểu rõ. Điều này là do một phần thực tế là
hiện nay không có phương pháp nào tốt để có
thể nghiên cứu chúng. Các nhà nghiên cứu
nói rằng các phương pháp hiện nay đắt tiền,
tốn thời gian và rất khó khăn để làm sáng tỏ,
và chỉ có thể cung cấp một bức tranh toàn
cảnh về mức độ tổng thể của cácamyloids
trong cơ thể của bệnh nhân.
Mới đây, các nhà nghiên cứu Trường đại
học Michigan và Fribourg đã phát triển được
một kỹ thuật đáng tin cậy mới có thể giúp làm
sáng tỏ vấn đề trên do nó có thể đo các hình
dạng, thể tích, sự tích điện, tốc độ quay và các
thiên hướng liên kết với các phân tử khác.
Nhóm nghiên cứu gọi những thông tin thu
như là “dấu vân tay 5D” và tin rằng nó có thể
tiết lộ các thông tin mới mà một ngày nào đó
sẽ giúp các bác sỹ có thể theo dõi các tình
trạng của các bệnh nhân mắc bệnh thoái hóa
thần kinh và thậm chí có thể phát triển các
phương pháp điều trị mới.
Công trình nghiên cứu này đã được công
bố trên tạp chí Nature Nanotechnology.
“Hãy hình dung ra thách thức trong việc
xác định một người cụ thể nào đó mà chỉ dựa
vào trọng lượng và chiều cao của họ. Thách
thức mà chúng tôi đối mặt đó là các kỹ thuật
hiện nay. Tuy nhiên, Kỹ thuật “thông tin dấu
vân tay 5D” này có thể giúp cung cấp các
thông tin và dễ dàng xác định các protein đặc
biệt”, David Sept, giáo sư chuyên ngành kỹ
thuật y sinh học Trường Đại học U-M, và là
thành viên của nghiên cứu, cho biết.
Theo Michael Mayer, tác giả đứng đầu
nghiên cứu, và là giáo sư lý sinh tại Viện
Adolphe Merkle, Switzerland, cho biết việc
xác định được các protein riêng biệt có thể
giúp các bác sỹ theo dõi tình trạng bệnh của
các bệnh nhân tốt hơn và nó cũng có thể giúp
các nhà nghiên cứu tăng sự hiểu biết đúng về
việc làm thế nào các protein amyloid có liên
quan đến các bệnh thoái hóa thần kinh.
Để có được các số đo chi tiết, nhóm
nghiên cứu đã sử dụng một lỗ cơ nano
(nanopore) rộng chỉ 10-30 nanomet, và chỉ có
một phân tử protein có thể lọt vừa. Các nhà
nghiên cứu đã lấp đầy nanopore bằng dung
dịch muối và đã truyền một dòng điện xuyên
qua dung dịch này.
Khi phân tử protein nhào trộn đi xuyên
qua nanopore, do chuyển động của nó gây ra
rất nhỏ, sự dao động có thể đo được bên trong
dòng điện. Bằng cách cẩn thận đo dòng điện
này, các nhà nghiên cứu có thể xác định dấu
hiệu 5 chiều (5D) độc đáo của protein này và
gần như ngay lập tức xác định được nó.
“Các phân tử amyloid không chỉ khác
nhau về kích cỡ, mà chúng còn có xu hướng
kết cụm lại với nhau thành khối và rất khó để
nghiên cứu chúng", Mayer nói. "Do nó có thể
phân tích từng hạt một, cho nên phương pháp
mới này có thể giúp chúng ta hiểu được hành
vi của các amyloid bên trong cơ thể”.
Cuối cùng, mục tiêu của nhóm nghiên cứu
là phát triển một thiết bị mà các bác sĩ và các
nhà nghiên cứu có thể sử dụng đo các protein
trong mẫu máu hoặc chất dịch cơ thể nào đó
một cách nhanh chóng. Và điều này có thể sẽ
thực hiện được trong một vài năm nữa. Trong
khi chờ đợi, họ tiếp tục nghiên cứu nhằm cải
thiện độ chính xác của kỹ thuật, mài giũa nó
để có được các kết quả về hình dạng của mỗi
protein tốt hơn. Họ tin rằng trong tương lai,
8
công nghệ này cũng có thể có ích trong việc
đo các protein liên quan đến bệnh tim và
trong một loạt các ứng dụng khác.
Theo vista.gov.vn, 20/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Gạch giúp ngôi nhà “Tàng hình”: Tấm thay đổi màu sắc thông minh có thể giúp ngụy trang ngay lập tức
Sản xuất ra loại gạch thông minh có khả
năng làm cho ngôi nhà của tương lai hòa tan
vào môi trường xung quanh - Đó là niềm hy
vọng của một nhóm các nhà khoa học người
Ý khi họ đang nghiên cứu một loại gạch gốm
mới có khả năng thay đổi màu sắc và hoa văn
chỉ với một thao tác vỗ nhẹ.
Các nhà khoa học cho biết: Ngoài khả năng
ngụy trang, loại gạch mới còn có thể biến bên
trong của một ngôi nhà thành một phòng trưng
bày nghệ thuật, một túp lều đá hoặc thậm chí
là cung điện Buckingham.
'Gạch điện phát quang' hay còn gọi là
LUMENTILE có cấu tạo bao gồm các chip
điện tử, nguồn phát sáng, tấm kính và thiết bị
điện tử được tích hợp bên trong viên gạch.
Mỗi viên gạch được điều khiển bằng điện
thoại thông minh sẽ hoạt động như một tập
hợp các điểm ảnh. Những điểm ảnh được xử lý
và điều khiển bằng một máy tính trung tâm,
điện thoại thông minh hay máy tính bảng.
GS. Guido Giuliani thuộc trường Đại học
Pavia, Ý - điều phối viên của dự án cho biết:
"Thiết kế mới không chỉ là một bảng điều
khiển kỹ thuật số nhằm thay thế một poster
hoạt hình như bạn nhìn thấy trên mạng Thế
giới ngầm mà đó là cả một phong cách sống
hoàn toàn mới".
Bạn có thể ngay lập tức điểu khiển, kiểm
soát môi trường của riêng bạn: nếu bạn không
thích phòng tắm có màu xanh da trời thì ngay
bây giờ, bạn có thể thay đổi màu sắc của nó
sang xanh lá cây với một cái vỗ nhẹ. Hoặc,
bạn có thể trang trí hoa văn của gạch với hình
chú vịt hoặc cây thông Noel tùy theo sở thích.
Mỗi viên gạch có một bệ gốm cùng một
lớp kính trong suốt ở bên trên, ở giữa được cài
các thiết bị điện tử và công nghệ chiếu sáng
OLEDs. Kích thước của gạch tương đương với
một tờ giấy A3 hình chữ nhật, mỗi viên gạch
đều có nguồn năng lượng, sức mạnh riêng từ
bên trong. Gạch có thể được sử dụng để tạo
thành một phần hoặc toàn bộ các bức tường,
sàn hoặc trần nhà. Khi ở trạng thái không hoạt
động, gạch có màu bạc, đen hoặc trắng.
Nhà sản xuất cho biết ngoài kiểu dáng
hình chữ nhật thông thường, loại gạch lát mới
còn được thiết kế với nhiều hình dạng phong
phú khác như: hình lục giác và hình tam giác.
Gạch được sử dụng chủ yếu để lát trên các bề
mặt phẳng của công trình nhưng nó cũng có
thể được áp dụng đối với các bề mặt uốn cong
như các trụ, cột… Đặc biệt, các nhà nghiên
cứu còn nhấn mạnh khả năng ngụy trang ngay
lập tức của loại gạch mới, do đó, nó có thể
được chọn để sử dụng nhằm ngụy trang cho
các loại xe quân sự.
GS. Guido Giuliani chia sẻ: "Mặc dù còn
cả một chặng đường dài để nghiên cứu và
phát triển phía trước, tuy nhiên, thiết kế mới
của chúng tôi sẽ cung cấp cho một chiếc xe
hoặc một tòa nhà khả năng hòa trộn hoàn
toàn vào môi trường xung quanh nó, và thậm
chí là 'biến mất'”.
Bên cạnh đó, gạch cũng có thể được sử
dụng vào những mục đích khác, phục vụ đối
tượng khác, ví dụ như nó có thể được sử dụng
với vai trò một tấm sàn thông minh giúp đưa
ra các thông báo khẩn cấp trong trường hợp
đối tượng là người cao tuổi bị ngã.
Các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ đưa vào
sản xuất loại gạch kết nối đặc biệt này vào
cuối năm 2020.
Theo vista.gov.vn, 03/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới tái chế khí nhà kính
Thông qua áp dụng một phương pháp mới
sử dụng enzym để điều chỉnh nitơ trên toàn
cầu, các nhà sinh học phân tử tại Trường Đại
học California đã phát hiện ra cách chuyển
đổi CO2 thành CO phù hợp cho các ứng dụng
thương mại như tổng hợp nhiên liệu sinh học.
Nhóm nghiên cứu đã biểu hiện thành công
thành phần reductase của enzym nitrogenase
trong vi khuẩn Azotobacter vinelandii và sử
dụng trực tiếp vi khuẩn này để chuyển đổi
CO2 thành CO. Môi trường nội bào của vi
khuẩn đã được chứng minh có lợi cho việc
chuyển đổi CO2 theo hướng phát triển các
chiến lược sản xuất CO trên quy mô lớn trong
tương lai. Đây là phát hiện đáng ngạc nhiên vì
nitrogenase bên trong vi khuẩn trước đây chỉ
được cho là có khả năng chuyển đổi N2 thành
NH3 trong những điều kiện tương tự. Nghiên
cứu đã được công bố trực tuyến trên tạp chí
Nature Chemical Biology.
Các nhà khoa học đã biết rằng môi trường
nội bào của vi khuẩn Azotobacter vinelandii
ưu tiên các phản ứng khử khác, một phần là
do các cơ chế bảo vệ oxy đã được biết đến và
sự hiện diện của các chất cho điện tử. Nhưng
nhóm nghiên cứu không chắc liệu môi trường
nội bào có hỗ trợ việc chuyển đổi CO2 thành
CO hay không.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, các nhà khoa
học đã phát hiện ra rằng vi khuẩn Azotobacter
vinelandii có thể khử CO2 và giải phóng CO,
làm cho nó trở thành một hệ thống hấp dẫn,
có thể được nghiên cứu để tìm ra các phương
thức mới tái chế CO2 trong khí quyển thành
nhiên liệu sinh học và các sản phẩm hóa chất
thương mại khác. Phát hiện nghiên cứu xác
định enzym nitrogenase như một khuôn mẫu
để cho ra đời các phương thức sản xuất nhiên
liệu với hiệu quả năng lượng và thân thiện với
môi trường.
Yilin Hu, Phó Giáo sư về sinh học phân tử
& hóa sinh và là đồng tác giả nghiên cứu cho
biết: "Chúng tôi đã quan sát thấy vi khuẩn
chuyển đổi CO2 thành CO, mở ra những
hướng mới để đưa phản ứng này vào quy
trình tái chế hiệu quả khí nhà kính thành
nguyên liệu tổng hợp nhiên liệu sinh học. Như
vậy, chúng ta sẽ đồng thời chống hai thách
thức lớn mà hiện chúng ta đang phải đối mặt,
đó là tình trạng nóng lên toàn cầu và thiếu
năng lượng”.
Theo vista.gov.vn, 03/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Dây điện siêu mỏng làm từ những mảnh kim cương siêu nhỏ
Các nhà vật lý tại Đại học Stanford cho
biết họ đã phát minh ra dây điện mảnh nhất
thế giới, bề rộng chỉ bằng ba nguyên tử, sử
dụng diamondoid (các bộ phận cấu thành nhỏ
nhất của một viên kim cương) để tạo ra dây
siêu mảnh. Các tác giả tin rằng phương pháp
mới được sử dụng để tạo ra các dây nano này
trong tương lai có thể được sử dụng để làm
dây siêu nhỏ cho một loạt các ứng dụng, bao
gồm các loại vải phát điện, thiết bị quang
điện, và thậm chí cả các vật liệu siêu dẫn có
thể dẫn điện mà hầu như không có mất mát.
Diamondoid hình thành tự nhiên trong
chất lỏng dầu khí, cấu tạo từ các khung
carbon lồng vào nhau và hydro. Trong nghiên
cứu này, các phân tử siêu nhỏ được trích xuất
và phân tách, một nguyên tử lưu huỳnh được
gắn liền với mỗi một phân tử đó. Trong một
dung dịch, các diamondoid gắn lưu huỳnh
liên kết với các ion đồng để tạo ra các khối
lắp ghép dây nano.
Trong dung dịch nói trên, các khối lắp
ghép kết cụm với nhau qua một hiện tượng gọi
là lực van der Waals, xác định những điều như
cách các phân tử nhất định đang hút hoặc đẩy
lẫn nhau và tại sao tắc kè có thể đi trên kính.
Cũng giống như các khối LEGO, chúng
chỉ khớp với nhau theo một số cách được xác
định bởi kích thước và hình dạng của chúng.
Các nguyên tử đồng và lưu huỳnh của mỗi
khối lắp ghép thu vào giữa, tạo thành cốt lõi
dẫn điện của dây, và các hạt diamondoids thô
bọc bên ngoài, tạo thành lớp vỏ cách điện.
Quy mô nguyên tử của các dây nano và
tính dẫn điện của chúng là một phần quan
trọng của tính hữu dụng của nó, do các vật
liệu được dựng với kích thước nhỏ hoạt động
rất khác với dây có kích thước bình thường,
đặc biệt là với những tác động cơ học lượng
tử có xu hướng để hạn chế dòng electron.
Dựa trên những nghiên cứu trước đó,
các nhà khoa học đã tạo ra một diode từ
diamondoid, họ cũng sử dụng diamondoid để
tạo ra các dây nano một chiều bằng catmi,
kẽm, sắt, và bạc.
Phương pháp này cung cấp một bộ công
cụ đa năng, có thể kết hợp với một số nguyên
liệu và điều kiện thực nghiệm để tạo ra vật
liệu mới với tính chất điện tử và vật lý tinh
chỉnh phù hợp.
Theo vista.gov.vn, 04/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo thành công vật liệu gốc tơ tằm được lập trình sẵn các chức năng
Nguồn: Silklab, Khoa Kỹ thuật Y sinh, Trường Đại học Tufts
Theo một bài báo được công bố trong Kỷ
yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia
Mỹ (PNAS) cho thấy, các kỹ sư Trường Đại
học Tufts đã tạo ra một dạng mới của các chất
rắn được làm từ protein tơ tằm (silk) có thể
được lập trình sẵn với các chức năng sinh
học, hóa học, hoặc quang học, chẳng hạn như
thành phần cơ học để làm thay đổi màu sắc
đối với các chủng, phân phối thuốc, hoặc
phản ứng với ánh sáng.
Bằng cách sử dụng phương pháp chế tạo
trong nước (water-based fabrication method)
dựa vào các protein tự sắp xếp, các nhà khoa
học đã tạo ra được các vật liệu tơ tằm fibroin
3D khối lớn. Sau đó họ đã chế tác vật liệu
khối lớn này bằng các phân tử hòa tan trong
nước để tạo ra nhiều dạng chất rắn kích cỡ
nano có các chức năng được lập trình sẵn và
hệ thống nhúng. Ví dụ, các nhà nghiên cứu có
thể chế tạo được một đinh ghim dùng cho
phẫu thuật có khả năng tự thay đổi màu sắc
khi nó hết hạn sử dụng hay bị hỏng và những
đinh ghim thiết thực này có thể gia nhiệt để
có thể đáp ứng được yêu cầu khi sử dụng ánh
sáng hồng ngoại, và các thành phần tương
hợp sinh học có khả năng chịu đựng các chất
hoạt tính sinh học, chẳng hạn như các enzym,
giải phóng ra.
Cấu trúc kết tinh duy nhất của tơ tằm đã
giúp nó trở thành một trong các vật liệu có độ
dai tự nhiên. Fibroin, là một protein không
thể hòa tan trong tơ tằm, có khả năng rất đặc
biệt đó là có thể bảo vệ các vật liệu khác.
“Khả năng nhúng các yếu tố phần tử chức
năng trong các polymer sinh học, kiểm soát
được quá trình tự sắp xếp và hiệu chỉnh hình
dạng cuối cùng mà chúng tạo ra đã mang lại
cơ hội có ý nghĩa lớn cho việc tạo ra các vật
liệu đa chức năng hiệu suất cao lấy từ cảm
hứng sinh học”, Tiến sỹ Fiorenzo G.
Omenetto, Khoa Kỹ thuật Y sinh, Trường Đại
học Kỹ thuật Tufts và là tác giả chính của
nghiên cứu, cho biết.
Theo vista.gov.vn, 05/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Robot mềm bắt chước chuyển động sinh học
Thiết kế một robot mềm có thể tự di
chuyển - uốn cong như một ngón tay hay
xoay như cổ tay - luôn luôn là quá trình thử
và lỗi. Hiện nay, các nhà nghiên cứu từ
Trường Kỹ thuật và Khoa học Ứng dụng John
A. Paulson Đại học Harvard và Viện Kỹ thuật
sinh học Wyss đã phát triển một phương pháp
để tự động thiết kế các bộ truyền động mềm
dựa trên những chuyển động mong muốn.
Thay vì thiết kế các thiết bị truyền động
theo kinh nghiệm, nhóm nghiên cứu muốn tạo
ra một công cụ mà bạn có thể đưa vào một
chuyển động và nó sẽ chỉ ra cách thiết kế các
thiết bị truyền động để đạt được chuyển động
đó.
Thiết kế một robot mềm có thể uốn cong
như một ngón tay hoặc đầu gối có thể có vẻ
đơn giản nhưng sự chuyển động thực sự là vô
cùng phức tạp.Thiết kế này quá phức tạp vì
một loại thiết bị truyền động không đủ để tạo
ra chuyển động phức tạp, cần phài có một
chuỗi các đoạn thiết bị truyền động, từng
đoạn thực hiện một chuyển động khác nhau
và phải dẫn động chúng sử dụng một đầu vào
duy nhất.
Nhóm phát triển phương pháp này sử
dụng mô hình toán học của các thiết bị truyền
động thủy lực, gia cố sợi để tối ưu hóa việc
thiết kế một thiết bị truyền động để thực hiện
một chuyển động nhất định. Nhóm nghiên
cứu sử dụng mô hình này để thiết kế một
robot mềm có thể uốn cong như một ngón tay
và xoay như cổ tay khi được hỗ trợ bởi một
nguồn điện áp duy nhất.
Nghiên cứu này sắp xếp hợp lý quy trình
thiết kế robot mềm có thể thực hiện các động
tác phức tạp. Nó có thể được sử dụng để thiết
kế cánh tay robot di chuyển dọc theo một
đường nhất định hoặc một robot có thể đeo
được hỗ trợ chuyển động của tay hoặc chân.
Phương pháp mới sẽ được đưa vào Bộ
công cụ robot mềm, là một nguồn tài nguyên
mở trực tuyến, được phát triển tại SEAS để
hỗ trợ các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục
và các nhà sáng tạo trẻ thiết kế, chế tạo, làm
mô hình, định rõ đặc điểm và điều khiển
robot mềm riêng của họ.
Theo vista.gov.vn, 05/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Làm sạch crom trong nước uống
Crom là một nguyên tố kim loại không
mùi không vị. Ở dạng crom-3, nó cần thiết
cho sức khỏe con người và có trong nhiều
loại rau, trái cây, thịt và các loại hạt và
thường được bao gồm trong thuốc đa vitamin.
Ở dạng crom-6, nó có thể gây ung thư, nó
hình thành tự nhiên đồng thời còn được sản
xuất với số lượng lớntrong công nghiệp, và có
thể làm ô nhiễm cả đất và nước ngầm.
Một kỹ sư tại Đại học Washington ở St.
Louis đã tìm ra một cách mới để chuyển đổi
crom-6 nguy hiểm thành crom-3 thường có
trong nước uống, làm cho nó an toàn hơn cho
người tiêu dùng. Nó rất độc khi ở dạng một
chất gây ô nhiễm không khí, nhưng trong
nước uống crom-6 chắc chắn có tác động tiêu
cực đến sức khỏe con người.
Trước đây các nhà khoa học đã chuyển
đổi crom-6 thành crom-3 trong một quy trình
hóa học sử dụng sắt. Trong nghiên cứu mới
các nhà khoa học sử dụng điện để thực hiện
việc chuyển đổi.
Điện đông là một phương pháp mà nhóm
sử dụng để đưa sắt vào trong nước. Phương
pháp hóa học trước đó sử dụng muối sắt cho
vào trong nước. Điện đông sử dụng hai miếng
sắt trong nước, đưa một điện áp vào giữa
chúng, và crom-6 sẽ chuyển đổi.
Hệ thống điện đông được phổ biến rộng
rãi, và nhóm nghiên cứu nhận thấy sử dụng
điện thay vì hóa học sẽ làm cho quá trình dễ
dàng hơn, chính xác hơn và có khả năng mở
rộng. Nó có thể được điều chỉnh liều lượng dễ
dàng. Điều khiển điện tử dễ hơn so với điều
chỉnh lượng hóa chất. Nó cũng cho phép áp
dụng nhiều hơn cho các hoạt động từ xa, do
không cần phải có nguồn cung cấp hóa chất.
Trước đây nhóm nghiên cứu đã sử dụng
phương pháp điện đông để loại bỏ asen trong
nước uống; đây là lần đầu tiên họ thực hiện
chuyển đổi crom trong nước uống thành một
dạng thức an toàn hơn. Trong bước nghiên
cứu tiếp theo các nhà khoa học hy vọng sẽ có
thể sử dụng kỹ thuật tương tự với selen, một
kim loại rất khó để loại bỏ khỏi nước.
Theo vista.gov.vn, 05/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Gen cây tần bì là cơ sở giúp ngăn chặn bệnh chết non ở cây
Các nhà nghiên cứu tại trường Queen
Mary, Đại học London (QMUL) đã giải mã
thành công các chuỗi gen của cây tần bì, đem
lại hy vọng trong cuộc chiến ngăn chặn vi
khuẩn nấm gây bệnh chết non ở cây tần bì.
Hàng chục triệu cây tần bì trên khắp khu
vực châu Âu đang bị tàn phá bởi loài nấm
Hymenoscyphus - fraxinea - thủ phạm gây ra
bệnh chết non ở loài cây này. Những biểu
hiện thường thấy ở cây tần bì mắc bệnh chết
non do nhiễm nấm là vỏ cây bị mục rữa, cành
lá khô héo dẫn đến cây dần dần chết.
TS. Richard Buggs - người đứng đầu
nghiên cứu, đến từ Khoa Khoa học sinh học
và hóa học, QMUL cho biết: "Trình tự gen
của cây tần bì là cơ sở cho việc gây giống
những cây tần bì có khả năng kháng nấm,
ngăn chặn dịch bệnh chết non xảy ra”.
Một số lượng nhỏ trong số quần thể cây
tần bì mắc bệnh tại Đan Mạch vẫn còn sống
sót đã cho thấy khả năng kháng nấm của
chúng và viện nghiên cứu các gen tham chiếu
là bước đầu tiên giúp xác định các gen quy
định khả năng kháng này.
Có rất nhiều điều bất ngờ về bộ gen của
cây tần bì. Một phần tư số gen chỉ được tìm
thấy ở cây tần bì không có chức năng rõ ràng
và chúng được biết đến với tên gọi là gen
Orphan (hay gen mồ côi). Các nhà nghiên cứu
cho biết gen này không có mặt trong chuỗi
gen của mười loài cây trồng khác.
TS. Buggs bổ sung: "gen orphan là một
khái niệm tuy hóc búa, tuy khó giải thích
nhưng cũng rất thú vị, và cho đến nay, chúng
tôi vẫn chưa tìm ra cách thức hoạt động của
gen này".
Bài báo về kết quả nghiên cứu được công
bố trên tạp chí Nature. Nghiên cứu được hợp
tác thực hiện bởi nhóm các nhà khoa học bao
gồm các chuyên gia đến từ QMUL; Viện
Earlham; Vườn Thực vật Hoàng gia Kew;
trường Đại học York, Canada; Đại học Exeter,
Anh; Đại học Warwick, Anh, Quỹ từ thiện
Môi trường Earth Trust, Anh; Đại học Oxford,
Anh; Viện Nghiên cứu rừng, Trung tâm thực
phẩm quốc gia Teagasc, Ai-len; Trung tâm
Nghiên cứu John Innes, Anh và Viện Quốc gia
Thực vật học nông nghiệp, Anh.
Bộ gen tham chiếu từ QMUL đã được sử
dụng bởi các nhà khoa học tại trường Đại học
York. Trước đó, các nhà nghiên cứu tại đại
học này đã phát hiện ra các gen có quy định
khả năng kháng bệnh cây chết non ở cây tần
bì. Họ đã sử dụng các gen này để dự đoán sự
xuất hiện của cây có sức chịu đựng cao hơn,
chưa bị dịch bệnh - vốn đang lây lan nhanh
chóng này - tấn công.
Trình tự gen cũng là yếu tố hỗ trợ cho mọi
nỗ lực trong việc chống lại loài sâu đục thân
thuộc bộ cánh cứng có tên gọi Emerald Ash
Borer - thủ phạm đã giết chết hàng trăm triệu
cây tần bì ở khu vực Bắc Mỹ.
Cây tần là một trong những loài cây trồng
phổ biến nhất ở Anh. Theo thống kê, hơn
1.000 loài bao gồm các loài hoa dại và bướm
chọn quần thể cây tần bì làm hệ sinh thái, làm
nơi trú ngụ và kiếm ăn. Bên cạnh đó, tần bì
đem đến những lợi ích về mặt kinh tế, xã hội
và môi trường do tần bì là cây cho gỗ rất giá
trị. Gỗ của chúng được sử dụng để sản xuất
đồ gỗ, dụng cụ thể thao như: búa, gậy khúc
côn cầu và phổ biến nhất là đồ nội thất.
Nghiên cứu được tài trợ bởi Hội đồng
nghiên cứu môi trường tự nhiên (NERC), Hội
đồng nghiên cứu sinh học và công nghệ sinh
học của Anh (BBSRC), Bộ Môi trường, Thực
phẩm và Nông thôn (Defra), Tổ chức Nghiên
cứu Xã hội và Kinh tế (ESRC), Ủy ban Lâm
nghiệp, Chính phủ Scotland, Dự án Marie
Sklodowska-Curie Actions, Trung tâm thực
phẩm quốc gia Teagasc (NFC), Ai len và Cơ
quan Nông nghiệp và Phát triển Thực phẩm.
Theo vista.gov.vn, 05/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới giúp phát hiện những hành tinh giống Trái đất
Các nhà nghiên cứu đến từ trường Đại học
Yale, Hoa Kỳ đã phát triển một phương pháp
mới giúp phát hiện các hành tinh xa xôi cũng
như giúp việc tìm kiếm những hành tinh
giống Trái đất trở nên dễ dàng hơn.
Nghiên cứu mới - được đăng tải trên tạp
chí The Astronomical Journal - dựa trên
phương pháp toán học có nền tảng bắt nguồn
từ nghiên cứu vật lý của các nhà khoa học.
Thay vì cố gắng để lọc ra các tín hiệu "tiếng
ồn" đến từ các ngôi sao có các ngoại hành
tinh quay xung quanh, các nhà khoa học đã
nghiên cứu tất cả các thông tin về tín hiệu để
tìm hiểu sự phức tạp trong cấu trúc của nó.
GS. John Wettlaufer, chuyên ngành Vật lý
địa cầu, Toán và Vật lý tại Đại học Yale đồng
thời là tác giả chính của nghiên cứu cho biết:
“Nó không yêu cầu gì cả ngoài chính bản
thân các dữ liệu, đó là một kẻ làm thay đổi
cuộc chơi. Hơn nữa, nó cho phép chúng tôi so
sánh kết quả nghiên cứu của mình với các
phương pháp tiếp cận thông thường khác
cũng như tận dụng bất cứ giả định mô hình
mà họ sử dụng".
Việc tìm kiếm những hành tinh ngoài Hệ
Mặt trời hay còn gọi là ngoại hành tinh đã
được thực hiện nhiều lần trong những năm
gần đây. Những nỗ lực tìm kiếm xuất phát và
được thúc đẩy một phần bởi khát vọng khám
phá những hành tinh có đặc điểm tương tự
Trái đất.
Trong nghiên cứu này, nhóm chuyên gia
áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật, bao gồm:
định giờ pulsar, vẽ hình ảnh trực tiếp và đo
tốc độ di chuyển theo hướng đến và đi của
các ngôi sao và thiên hà đối với Trái đất. Tuy
nhiên, việc thực hiện từng kỹ thuật một cách
riêng lẻ hay kết hợp đều phải đối mặt với rất
nhiều thách thức.
Thách thức chủ yếu là việc loại bỏ dữ liệu
tạp (tiếng ồn) không phù hợp với mô hình
hoạt động dự kiến của các hành tinh hiện
đang tồn tại. Theo cách giải thích thông
thường về tiếng ồn, việc tìm kiếm ngoại hành
tinh có thể bị cản trở bởi các trường hợp hành
tinh ẩn náu, không rõ ràng hoặc bắt chước các
ngoại hành tinh.
Wettlaufer và các đồng nghiệp đã quyết
định tìm kiếm những ngoại hành tinh theo
cách thức mà họ đã lựa chọn và sắp xếp thông
qua các dữ liệu vệ tinh nhằm phát hiện những
thay đổi phức tạp của biển băng ở Bắc Cực.
Tên gọi chính thức của phương pháp tiếp cận
này là "Phân tích biến động giảm khuynh
hướng trọng lượng tạm đa phân hình” (MF-
TWDFA). Phương pháp này giúp sàng lọc dữ
liệu tại nhiều giai đoạn, đồng thời, tìm ra quá
trình cơ bản liên kết với chúng.
Wettlaufer cho biết: "Ý tưởng chính là các
trường hợp hành tinh gần về thời gian hơn sẽ
có nhiều khả năng giống hơn so với những
trường hợp cách xa hơn về thời gian. Trong
trường hợp đó là các ngoại hành tinh, chúng
tôi sẽ nghiên cứu những biến động về cường
độ quang phổ của một ngôi sao".
Trước đó, hai nhà nghiên cứu là Benoit B.
Mandelbrot and Katepalli Sreenivasan thuộc
trường Đại học Yale đã từng sử dụng công cụ
multi-fractals trong khoa học và toán học.
Trong quá trình tìm kiếm các hành tinh ngoài
hệ Mặt trời, nhóm nghiên cứu đã tham khảo ý
kiến của nhà vật lý thiên văn Debra Fischer,
Yale vốn là người đi tiên phong trong việc
thực hiện nhiều phương pháp tiếp cận trong
lĩnh vực này.
Các nhà nghiên cứu đã xác nhận tính
chính xác của phương pháp luận của họ bằng
cách kiểm tra, đối chiếu nó với phương pháp
quan sát và các dữ liệu mô phỏng của một
hành tinh đang tồn tại và quay xung quanh
một ngôi sao trong chòm sao Hồ Ly cách Trái
đất khoảng 63 năm ánh sáng.
Nghiên cứu này được tài trợ và trao giải
thưởng Royal Society Wolfson Research
Merit bởi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ
Hoa Kỳ (NASA) và Hội đồng Nghiên cứu
Thụy Điển.
Theo vista.gov.vn, 05/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Sản xuất vật liệu mới từ lốp ô tô bỏ đi
Khi nhắc đến lốp ô tô cũ được tái chế,
người ta chỉ quan tâm đến mủ và/hoặc sợi
thép từ các lốp xe cũ. Cấu tạo của lốp ô tô chủ
yếu từ vải, và những lớp vải này theo thời
gian, khi lốp xe không còn sử dụng được nữa
thì chúng cũng trở nên vô dụng. Tuy nhiên,
bây giờ, điều đó sẽ hoàn toàn thay đổi, vì các
nhà khoa học đến từ Tây Ban Nha đã chế tạo
thành công một loại vật liệu xây dựng sử
dụng vải lốp.
Nhóm nghiên cứu đến từ trường Đại học
Universitat Politecnica de Catalunya, Tây Ban
Nha đã hợp tác với các công ty COMSA và
GMN đã tiến hành thử nghiệm bằng cách trộn
các sợi vải với bột giấy tái chế và keo trắng.
Sản phẩm cuối cùng có thể được sản xuất
dưới nhiều hình thức tùy thuộc vào ứng dụng.
Ví dụ như dạng tấm được cho là đặc biệt phù
hợp sử dụng trong công trình và các dự án
đường sắt, do nó có tính chất cách nhiệt và
cách âm cách nhiệt tương tự như loại bông
cách nhiệt hay bông thủy tinh (sợi thủy tinh),
tuy nhiên, sản phẩm mới dự kiến sẽ có giá
thành ít tốn kém hơn.
Xavier Cañavate- thành viên nhóm nghiên
cứu cho biết: "Vật liệu của chúng tôi có thể
tái sử dụng hàng triệu tấn sợi mà trước kia
phải chuyển đến các bãi chôn lấp, nhờ đó,
góp phần tiết kiệm năng lượng và giảm thải
khí CO2 ra môi trường. Vật liệu còn kết hợp
với bột giấy tái chế nên rất khó khăn khi tái
sử dụng".
Theo vista.gov.vn, 06/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Khai thác năng lượng từ ngón tay để cung cấp cho thiết bị cảm ứng
Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học
bang Penn đã phát triển được một công nghệ
mới khai thác chuyển động từ các ngón tay
của người sử dụng tác động lên màn hình cảm
ứng để sản xuất điện. Nghiên cứu được cấp
một phần tài trợ từ Công ty điện tử Samsung,
đơn vị đang tìm kiếm các nguồn năng lượng
thay thế để cung cấp điện cho các thiết bị điện
tử thế hệ mới.
Nghiên cứu là một bước tiến lớn trong
việc tìm kiếm những phương thức mới để sản
xuất điện từ "năng lượng cơ học" - những
chuyển động vốn có trong gió, sóng biển,
bánh xe và ngay cả những chuyển động
thường ngày của con người.
Cho đến nay, việc khai thác năng lượng cơ
học đã đạt một số thành công nhất định. Các
thiết bị chuyển đổi năng lượng cơ học thành
điện đã được sử dụng rộng rãi để cấp điện cho
các thiết bị điện tử, thiết bị y sinh và những
thiết bị trong Mạng lưới thiết bị kết nối
Internet đang phát triển. Thông thường, các
phát minh này dựa vào hiệu ứng áp điện - khả
năng một số vật liệu và chất sinh ra điện tích
để phản ứng với ứng suất cơ học như nén,
xoắn hoặc bóp méo.
Vấn đề đối với việc chuyển đổi năng
lượng áp điện là nó hoạt động tốt nhất ở tần
số cao hơn 10 rung động mỗi giây. Hiệu suất
có xu hướng giảm đi mạnh ở tần số thấp. Các
chuyển động ở tần số cao như vậy tương đối
khó diễn ra trong tự nhiên, mà phổ biến là các
chuyển động tần số thấp.
Qing Wang, Giáo sư kỹ thuật điện cho
rằng dự án nghiên cứu nhằm giải quyết thách
thức này thông qua thiết kế đặc biệt phương
thức biến đổi chuyển động tần số thấp thành
điện năng.
Nhóm nghiên cứu đã tìm cách điều chỉnh
hiệu suất vận hành của các bộ chuyển đổi
biến dạng năng lượng này thành dạng khác
sao cho phù hợp với các nguồn rung động để
chuyển đổi năng lượng hiệu quả. Nếu thành
công, phương pháp này có thể làm tăng đáng
kể mức năng lượng được khai thác từ môi
trường xung quanh.
Đối với giải pháp này, bộ chuyển đổi năng
lượng cơ học dựa vào một loại điốt ion, hữu
cơ, dẻo. Thiết bị được tạo thành từ hai điện
cực composite nano với các ion di động tích
điện trái dấu được phân tách bởi màng
polycarbonate. Các điện cực là một ma trận
polime chứa đầy với các ống nano cacbon và
chất lỏng ion. Các ống nano cải thiện tính dẫn
điện và độ bền cơ học của các điện cực.
Điều kỳ diệu đã xảy ra khi sử dụng lực cơ
học như ấn ngón tay. Các ion khuếch tán qua
màng, sinh ra dòng một chiều liên tục. Đồng
thời, điện thế bên trong được tạo thành chống
lại hiện tượng khuếch tán ion cho đến khi đạt
được sự cân bằng. Toàn bộ chu trình hoạt
động ở tần số 1/10 Hertz hoặc 10 giây mỗi lần.
Theo nhóm nghiên cứu, mật độ công suất
cao điểm của thiết bị nhìn chung lớn hơn
hoặc tương đương với mật độ công suất của
các máy phát điện áp hoạt động ở tần số hiệu
quả nhất.
Các nhà nghiên cứu tin rằng thiết bị mới
có thể mở đường cho ra đời máy khai thác
năng lượng quy mô lớn, giúp cấp điện cho
các thiết bị điện tử thế hệ mới. Bước tiếp theo
là cải tiến hơn nữa khái niệm và tích hợp nó
vào điện thoại thông minh và thiết bị máy
tính bảng.
Theo vista.gov.vn, 09/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ biến khí thải nhà máy thành bột nở
Công ty CarbonClean chuyển đổi CO2 từ nhà máy nhiệt điện thành bột baking soda. Ảnh: Huffington Post.
Một công ty tại Ấn Độ tìm ra phương
pháp mới để giảm thiểu CO2 trong môi
trường bằng cách biến nó thành bột nở
(baking soda).
Công ty CarbonClean đang sử dụng công
nghệ mới để thu giữ hơn 66.000 tấn carbon
mỗi năm thải ra từ nồi hơi đốt than tại một
nhà máy nhiệt điện chạy bằng than ở thành
phố Tuticorin, Ấn Độ, và sử dụng nó để làm
baking soda (NaHCO3), hay còn gọi là bột nở,
Popular Mechanics hôm 5/1 đưa tin.
Giống như hầu hết công nghệ thu giữ CO2
khác, CarbonClean dùng một dung môi để bẫy
CO2 và chuyển nó thành dạng ít hoạt động
hơn. Loại dung môi công nghiệp phổ biến nhất
để thu giữ CO2 là amine. Trong khi đó, dung
môi CarbonClean dùng là một chất hóa học
mới hiệu quả hơn, rẻ hơn và ít bị hao tổn.
Hiệu quả kinh tế do dung môi mới mang
lại giúp CarbonClean xây dựng nhà máy thu
giữ CO2 đầu tiên trên thế giới hoạt động mà
không cần trợ cấp của chính phủ. Sản phẩm
baking soda tạo ra được ứng dụng trong nhiều
lĩnh vực như sản xuất chất tẩy rửa, thủy tinh
và dược phẩm.
CarbonClean ước tính khoảng 5-10%
lượng carbon thải ra từ nhà máy nhiệt điện có
thể được lưu trữ bằng công nghệ của họ. Nếu
các nhà máy nhiệt điện trên toàn thế giới áp
dụng công nghệ này, lượng CO2 phát thải vào
khí quyển trong tương lai sẽ giảm đáng kể.
Theo vnexpress.net, 09/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Sản xuất được chất dẻo sinh học từ nguồn nguyên liệu tái tạo
Các nhà hóa học ở Đại học Bath (Anh) đã
tổng hợp được loại chất dẻo sinh học bằng
cách sử dụng một chất được tìm thấy trong
nhựa cây lá kim.
Các nhà nghiên cứu hy vọng loại vật liệu
có nguồn gốc hoàn toàn từ các nguồn tái tạo
sẽ được sử dụng làm bao bì thực phẩm và sản
xuất các miếng cấy ghép y tế. Các nhà nghiên
cứu đã giới thiệu thành tựu của họ trên tạp chí
Polymer Chemistry.
Nguyên liệu để sản xuất các loại vật liệu
thân thiện với môi trường, chẳng hạn như
polylactide (PLA), là các nguồn tài nguyên tái
tạo như ngô và mía đường. Ngoài thế mạnh
này, polylactic cũng có tính tương thích sinh
học tốt, có thể được sử dụng như là miếng cấy
ghép y tế. Tuy nhiên, một trong những nhược
điểm đáng kể của polymer axit lactic là độ
bền thấp và độ uốn dẻo kém. Để làm
polylactic thêm tính đàn hồi, các nhà khoa
học đã bổ sung caprolactone có nguồn gốc từ
dầu mỏ. Nhưng sự bổ sung này làm cho nhựa
sinh học không hoàn toàn tái tạo.
Giờ đây các nhà hóa học Anh thay
caprolactone bằng pinen thu được từ nhựa của
cây lá kim có vị thơm của tinh dầu thông.
Theo các tác giả sáng chế, công trình nghiên
cứu của họ giúp sản xuất ra nhựa sinh học
hoàn toàn từ các nguồn nguyên liệu tái tạo.
Cho đến nay, các nhà khoa học chỉ có trong
tay một vài gram vật liệu thân thiện với môi
trường, nhưng họ đang phát triển công
nghệ cho phép chuyển việc tổng hợp chất dẻo
sinh học từ phòng thí nghiệm sang quy mô
sản xuất hàng loạt.
Theo motthegioi.vn, 09/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Tã thông minh tạo ra điện từ nước tiểu
Đại học Ritsumeikan đã phát triển "hệ
thống cảm biến không dây tiểu tùy tiện không
do chủ tâm" để thông báo cho người sử dụng
thời gian thay tã thông qua giao tiếp không
dây mà không cần sử dụng pin.
Trường Đại học Ritsumeikan hy vọng
rằng nghiên cứu này sẽ được sử dụng tại các
cơ sở điều dưỡng để chăm sóc cho các bệnh
nhân tiểu không tự chủ. Hệ thống thực hiện
truyền thông không dây bằng cách tạo ra điện
bởi nước tiểu. Lượng nước tiểu được lưu trữ
trong tã được ước tính từ khoảng thời gian
tiếp nhận tín hiệu và người dùng được thông
báo về thời điểm tối ưu thay thế tã.
Hệ thống này không đòi hỏi pin cho truyền
thông không dây và tã giấy kết hợp điện cực
dùng một lần. Phần mạch điện tử (cho truyền
thông không dây) gọi là "cảm biến" dự kiến sẽ
được sử dụng nhiều lần. Hệ thống được phát
triển bởi Takakuni Douseki đến từ Đại học
Ritsumeikan, đã chứng minh rằng loại tã giấy
dành cho trẻ sơ sinh đã được thay đổi. Nó
chứa than hoạt tính, với chiều dài là 320mm,
chiều rộng 5mm và một điện cực nhôm ở giữa
có chiều rộng là 1,8mm và một tấm chống
thấm nước. Dòng điện được tạo ra bởi hệ
thống tăng lên khi số lượng nước tiểu đầu vào
tăng lên. Ngoài ra, tại thời điểm đổ vào nước
tiểu, hiện tại nhanh chóng tăng lên.
Takakuni Douseki cho biết: “Tôi tin rằng
sự khác biệt trong hiện tại là do nước tiểu
ngấm vào trong lỗ chân lông mịn của than
hoạt tính, tạo ra độ nhạy cao”.
Điện tạo ra từ nước tiểu được lưu trữ trong
một tụ điện trong cảm biến. Khi lượng nước
tiểu đạt đến một mức độ nhất định, hệ thống
sẽ truyền tín hiệu không dây. Số lần tiểu tùy
tiện không do chủ tâm và và lượng nước tiểu
có thể được ước tính bởi khoảng thời gian
tiếp nhận rút ngắn tín hiệu phù hợp với lượng
nước tiểu đầu vào và đặc biệt rút ngắn tại thời
điểm nước tiểu được đổ vào.
Theo vista.gov.vn, 09/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Phần mềm mới giúp áp dụng kỹ thuật CRISPR dễ dàng hơn
Các nhà nghiên cứu tại Viện Karolinska
và Trường Đại học Gothenburg đã chế tạo
được một phần mềm dựa vào web có tên là
Green Listed, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
sử dụng kỹ thuật chỉnh sửa gen (CRISPR).
Phần mềm đã được công bố trên Tạp chí
Bioinformatics và được cung cấp miễn phí
trên trang web greenlisted.cmm.ki.se.
Các tế bào rất nhỏ tạo nên một sinh vật.
Một người có lượng tế bào gấp khoảng 100
lần. Phần lớn tế bào này có chứa các chuỗi
ADN dài. Các chuỗi ADN ảnh hưởng đến
hình dạng và hành vi của các tế bào khác
nhau. CRISPR là công cụ dùng để nghiên cứu
nhanh cách các phần khác nhau của ADN ảnh
hưởng trực tiếp đến các tế bào. Nhờ có công
cụ CRISPR, các nhà nghiên cứu có thể tìm
hiểu nguyên nhân gây bệnh và đưa ra các gợi
ý về hướng điều trị.
Fredrik Wermeling, đồng tác giả nghiên
cứu tại Viện Karolinska cho biết: "Chúng tôi
đã áp dụng phương pháp CRISPR để nghiên
cứu cả tế bào miễn dịch và tế bào ung thư với
mục tiêu phát triển các liệu pháp mới cho
bệnh nhân mắc bệnh liên quan đến hệ miễn
dịch như viêm khớp và ung thư".
Kỹ thuật CRISPR dựa vào một hệ thống
xuất hiện tự nhiên trong nhiều loại vi khuẩn,
trong vài năm qua đã được chú ý nhiều. Một
phương thức rất hữu hiệu để sử dụng CRISPR
là nghiên cứu song song nhiều thành phần
khác nhau của ADN còn gọi là sàng lọc
CRISPR. Đặc biệt, phần mềm Green Listed
được sử dụng để thúc đẩy phát triển loại hình
nghiên cứu này trên quy mô lớn.
"Bằng cách áp dụng phương pháp
CRISPR trong nghiên cứu, hiện nay, chúng
tôi có thể giải thích hiện tượng mà chúng tôi
đã cố gắng tìm hiểu trong nhiều năm qua.
Điều này chủ yếu liên quan đến các thí
nghiệm sàng lọc CRISPR, trong đó, chúng tôi
phải chỉnh sửa đồng thời khối lượng lớn các
thành phần ADN được lựa chọn của các tế
bào phân tách. Phần mềm Green Listed đơn
giản hoá đáng kể quá trình này và rất quan
trọng cho tiến bộ của chúng tôi", Fredrik
Wermeling nói.
Theo vista.gov.vn, 10/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Tạo ra laser siêu nhỏ từ các hạt nano
Lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu tại
Trường Đại học Aalto, Phần Lan đã tạo ra
laser nano plasmon hoạt động ở tần số ánh
sáng nhìn thấy và sử dụng chế độ mạng lưới
tối.
Laser hoạt động ở tần số ánh sáng này có
kích thước nhỏ hơn 100 lần độ dày của sợi tóc.
Thời gian tồn tại của ánh sáng có kích thước
nhỏ như vậy quá ngắn để sóng ánh sáng có
thời gian rung động lên xuống chỉ vài chục
hoặc vài trăm lần. Phát hiện nghiên cứu mở ra
triển vọng mới cho các nguồn sáng kết hợp
trên chip cực nhỏ và siêu nhanh như laser.
Hoạt động của laser trong nghiên cứu dựa
vào các hạt nano bạc được sắp xếp theo dãy.
Trái ngược với laser thường ở đó phản hồi
của tín hiệu phát laser do các tấm gương bình
thường cung cấp, nhưng loại laser mới sử
dụng phương thức ghép bức xạ giữa các hạt
nano bạc. Các hạt kích thước 100 nm này
hoạt động như những ăng ten nhỏ. Để tạo ra
ánh sáng laser cường độ cao, khoảng cách
giữa các hạt phải phù hợp với bước sóng phát
laser để tất cả các hạt trong dãy đều phát xạ
đồng thời. Các phân tử huỳnh quang hữu cơ
được sử dụng để cung cấp năng lượng đầu
vào cần cho việc phát laser.
Ánh sáng từ bóng tối
Thách thức lớn để phát laser theo cách này
là ánh sáng không thể tồn tại ở kích thước
nhỏ này đủ lâu để nó trở nên có ích. Các nhà
nghiên cứu đã phát hiện ra một phương thức
thông minh để khắc phục hạn chế này, đó là
phát laser trong chế độ tối.
"Chế độ tối về mặt trực giác có thể được
tìm hiểu thông qua xem xét các ăng ten
thường: Một ăng ten duy nhất khi được điều
khiển bởi dòng điện, sẽ phát xạ mạnh. Trái
lại, hai ăng ten nếu được điều khiển bởi các
dòng đối nhau và nằm ở vị trí gần nhau, lại
phát xạ rất yếu", GS. Päivi torma, một trong
các tác giả nghiên cứu giải thích. "Chế độ tối
trong dãy hạt nano bao gồm các dòng điện
ngược pha giống nhau trong mỗi hạt nano,
nhưng hiện có tần số ánh sáng nhìn thấy”.
Tommi Hakala, đồng tác giả nghiên cứu
cho rằng: "Chế độ tối cần cho các ứng dụng
tiêu thụ ít điện năng. Nhưng nếu không có bất
cứ “thủ thuật” nào, chế độ tối sẽ khá vô ích
vì ánh sáng về bản chất bị mắc kẹt trong dãy
hạt nano và không thể di chuyển. Nhưng bằng
cách sử dụng dãy hạt quy mô nhỏ, chúng tôi
đã tìm ra lối thoát cho ánh sáng. Các hạt
nano hướng tới các cạnh của dãy để hành
động rất giống các ăng ten thường phát xạ ra
bên ngoài”.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên
tạp chí Nature Communications.
Theo vista.gov.vn, 11/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Biến đổi chip bộ nhớ thành bộ vi xử lý để tăng tốc độ tính toán
Một nhóm các nhà khoa học quốc tế bao
gồm Trường Đại học công nghệ Nanyang
(NUT, Singapo), Trường Đại học RWTH
Aachen (Đức) và Trung tâm nghiên cứu
Forschungszentrum Juelich đã tìm ra một
phương thức sản xuất chip bộ nhớ để thực
hiện các nhiệm vụ tính toán, mà trước đây là
do bộ vi xử lý máy tính của các hãng như
Intel và Qualcomm đảm nhiệm. Như vậy, dữ
liệu có thể được xử lý tại chính nơi nó được
lưu trữ, sẽ dẫn đến sự ra đời của các thiết bị di
động và máy tính tốc độ nhanh và mỏng hơn.
Mạch tính toán mới được chế tạo bằng
chip bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên biến đổi điện
trở dựa vào Redox (ReRAM). Loại chip này
do các nhà sản xuất chip toàn cầu như
SanDisk và Panasonic phát triển, là một trong
những mô-đun bộ nhớ nhanh nhất sẽ sớm
được thương mại hóa.
Tuy nhiên, PGS. Anupam Chattopadh tại
NUT đã phối hợp với GS. Rainer WASER đến
từ Trường Đại học Aachen RWTH và TS.
Vikas Rana tại Trung tâm Forschungszentrum
Juelich để chứng minh ReRAM cũng có thể
được sử dụng để xử lý dữ liệu thay vì lưu trữ
thông tin. Phát hiện này đã được công bố trên
tạp chí Scientific Reports.
Các thiết bị và máy tính hiện nay phải
chuyển đổi dữ liệu từ bộ nhớ lưu trữ sang bộ
vi xử lý để thực hiện tính toán, trong khi loại
mạch mới tiết kiệm thời gian và năng lượng
bằng cách loại bỏ hoạt động truyền dữ liệu.
Mạch còn có thể tăng ít nhất 2 lần tốc độ của
các bộ vi xử lý hiện có trong máy tính xách
tay và các thiết bị di động.
Việc chế tạo chip bộ nhớ để thực hiện
nhiệm vụ tính toán, có thể tiết kiệm không
gian do không cần đến bộ vi xử lý, làm cho
các thiết bị điện tử trở nên nhỏ gọn và nhẹ
hơn. Phát hiện này cũng có thể dẫn đến những
thiết kế mới cho thiết bị điện tử tiêu dùng và
công nghệ đeo trên người.
Hoạt động của mạch mới
Hiện nay, tất cả các bộ vi xử lý của máy
tính trên thị trường đang sử dụng hệ nhị phân,
bao gồm hai trạng thái 0 hoặc 1. Ví dụ, chữ A
sẽ được xử lý và lưu trữ dưới dạng 01000001,
một ký tự 8 bit. Tuy nhiên, mạch ReRAM xử
lý dữ liệu trong 4 trạng thái thay vì chỉ 2.
Chẳng hạn, mạch có thể lưu trữ và xử lý dữ
liệu dưới dạng 0, 1, 2 hoặc 3 được gọi là hệ
tam phân. Vì ReRAM sử dụng điện trở khác
nhau nên có thể lưu trữ dữ liệu trong nhiều
trạng thái. Nhờ vậy, tốc độ của các nhiệm vụ
tính toán tăng cao hơn những giới hạn hiện tại.
PGS. Chattopadhyay, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng trong các hệ thống máy tính
hiện nay, tất cả thông tin cần được chuyển đổi
thành chuỗi số 0 và 1 trước khi xử lý. "Đây
giống như cuộc trò chuyện dài với một ai đó
thông qua một thiết bị phiên dịch nhỏ, quá
trình này mất thời gian và cần nhiều nỗ lực",
PGS. Chattopadhyay giải thích. "Bây giờ,
chúng tôi có thể tăng công suất của máy dịch
để xử lý dữ liệu hiệu quả hơn".
Tìm cách xử lý dữ liệu nhanh hơn là một
trong những nhu cầu cấp thiết nhất đối với
các ngành công nghiệp trên toàn thế giới, vì
phần mềm máy tính đang ngày càng trở nên
phức tạp trong khi các trung tâm dữ liệu phải
xử lý nhiều thông tin hơn.
Các nhà nghiên cứu cho rằng sử dụng
ReRAM để tính toán sẽ mang lại chi phí-hiệu
quả cao hơn các công nghệ tính toán khác
trong tương lai vì ReRAM sẽ sớm có mặt trên
thị trường.
GS. WASER cho rằng: "ReRAM là một
khái niệm về bộ nhớ ổn định đa năng. Các
thiết bị này tiết kiệm năng lượng, có tốc độ
nhanh và có thể thu nhỏ rất nhiều. Việc sử
dụng chúng không chỉ để lưu trữ dữ liệu mà
còn cho tính toán, có thể mở ra một con đường
hoàn toàn mới hướng tới sử dụng hiệu quả
năng lượng trong ngành công nghệ thông tin".
Các tính chất tuyệt vời của ReRAM như
dung lượng lưu trữ lâu dài, sử dụng ít năng
lượng và khả năng sản xuất ở quy mô nano đã
thu hút nhiều công ty bán dẫn đầu tư nghiên
cứu. Bước tiếp theo, các nhà khoa học sẽ
nghiên cứu phát triển ReRAM để xử lý dữ
liệu nhiều hơn 4 trạng thái hiện tại, sẽ dẫn đến
những cải tiến lớn tốc độ tính toán cũng như
kiểm tra hiệu quả của nó trong các kịch bản
tính toán thực tế.
Theo vista.gov.vn, 11/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Mực làm từ dây nano cho phép in thiết bị điện tử trên giấy
Bằng cách cho các hạt nano kim loại nhỏ
lơ lửng trong chất lỏng, các nhà nghiên cứu
tại Trường Đại học Duke đã pha được mực
dẫn điện cho máy in phun để in các mô hình
mạch tùy biến, giá rẻ trên bất cứ bề mặt nào.
Các thiết bị điện tử in được sử dụng phổ
biến trong các thiết bị như thẻ nhận dạng tần
số vô tuyến chống trộm (RFID) ở trên mặt
sau của các loại đĩa DVD mới, hiện có một
nhược điểm lớn. Đó là để các mạch hoạt
động, đầu tiên cần phải nung nóng chúng để
làm tan chảy tất cả các hạt nano thành một
dây dẫn duy nhất, nên không thể in các mạch
trên nhựa hoặc giấy rẻ tiền. Tuy nhiên, các
nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Duke đã
chứng minh việc tinh chỉnh hình dạng của các
hạt nano trong mực loại bỏ yêu cầu này.
Thông qua so sánh độ dẫn của các màng
được làm từ các cấu trúc nano bạc có hình
dạng khác nhau, các nhà nghiên cứu đã phát
hiện thấy các điện tử di chuyển qua các màng
làm bằng dây nano bạc dễ dàng hơn nhiều so
với các màng được làm từ hình dạng khác
như các quả cầu nano hoặc các tấm nhỏ. Trên
thực tế, các điện tử di chuyển dễ dàng qua các
màng dây nano nên chúng có thể hoạt động
trong các mạch in mà không cần làm làm tan
chảy toàn bộ màng.
Benjamin Wiley, PGS. hóa học tại Trường
Đại học Duke và là đồng tác giả nghiên cứu
cho rằng: "Các dây nano có độ dẫn điện cao
hơn 4.000 lần so với các hạt nano bạc được
sử dụng phổ biến mà bạn sẽ tìm thấy trong
các ăng ten in cho thẻ RFID. Vì vậy, nếu sử
dụng các dây nano, bạn không cần phải làm
nóng các mạch in đến mức nhiệt cao như vậy
và bạn có thể sử dụng nhựa hoặc giấy giá rẻ".
Các loại thiết bị điện tử in này có những
ứng dụng vượt trội hơn bao bì thông minh.
Các nhà nghiên cứu hy vọng công nghệ này
sẽ được áp dụng để sản xuất pin mặt trời, màn
hình in, đèn LED, màn hình cảm ứng, bộ
khuếch đại, pin và thậm chí một số thiết bị
điện tử sinh học cấy ghép. Kết quả nghiên
cứu đã được công bố trên Tạp chí Applied
Materials and Interfaces.
PGS. Wiley cho rằng bạc đã trở thành vật
liệu để sản xuất các thiết bị điện tử in và gần
đây, một số nghiên cứu đã đo độ dẫn của các
màng có các cấu trúc nano bạc với hình dạng
khác nhau. Tuy nhiên, những biến đổi trong
thí nghiệm gây khó khăn trong việc thực hiện
so sánh trực tiếp giữa các hình dạng và một
số báo cáo nghiên cứu đã xác định mối liên
hệ giữa độ dẫn điện của các màng với tổng
khối lượng bạc được sử dụng.
Ian Stewart, đồng tác giả nghiên cứu đã sử
dụng các công thức nổi tiếng tạo nên cấu trúc
nano bạc có hình dạng khác nhau, bao gồm
các hạt nano, các tấm nhỏ và các dây nano
dài, ngắn và trộn các cấu trúc nano với nước
cất để tạo thành mực. Sau đó, Stewart đã phát
minh ra phương thức tạo các màng mỏng một
cách nhanh chóng và dễ dàng bằng các công
cụ sẵn có trong phòng thí nghiệm gồm các
tấm kính và băng hai mặt.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng máy đục
lỗ để cắt các lỗ từ băng hai mặt và dính lên
các tấm kính. Sau khi đổ khối lượng mực cụ
thể vào mỗi lỗ trên băng và làm nóng các lỗ ở
mức nhiệt tương đối thấp để làm bay hơi
nước hoặc ở mức nhiệt cao hơn để làm tan
chảy toàn bộ cấu trúc, Stewart đã tạo ra được
nhiều màng.
Nhóm nghiên cứu không ngạc nhiên khi
thấy các màng dây nano dài có độ dẫn điện
cao. Các điện tử thường di chuyển dễ dàng
qua các cấu trúc nano nhưng bị mắc lại khi
cần phải chuyển từ một cấu trúc sang cấu trúc
tiếp theo và các dây nano dài làm giảm đáng
kể số lần các điện tử phải thực hiện bước
chuyển này. Nhưng, các nhà khoa học rất
ngạc nhiên về mức độ thay đổi mạnh mẽ này.
"Điện trở suất của các màng dây nano bạc dài
thấp hơn vài bậc so với các hạt nano bạc và
chỉ gấp 10 lần bạc nguyên chất", Stewart nói.
Nhóm nghiên cứu hiện đang thử nghiệm
sử dụng vòi phun sol khí để in mực làm từ
dây nano bạc trong các mạch và mong muốn
tìm hiểu xem chi phí sản xuất dây nano đồng
tráng bạc có rẻ hơn nhiều so với dây nano bạc
nguyên chất hay không.
Theo vista.gov.vn, 11/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Phát triển được loại kính thủy tinh trong suốt trên cơ sở gỗ
Các nhà khoa học ở Viện Công nghệ
Hoàng gia Stockholm (Thụy Điển) vừa phát
triển được loại vật liệu mới trong suốt trên cơ
sở của gỗ. Có thể dùng loại vật liệu mới này
thay thế cho kính cửa sổ thông thường và các
tế bào năng lượng Mặt trời.
Theo nhà quản lý dự án Lars Berglund, lợi
thế của "gỗ trong suốt" so với thủy tinh là có
thể sử dụng được nguồn tài nguyên sẵn có và
tái tạo để làm nguyên liệu.
Để sản xuất được loại “gỗ thủy tinh” mà
thực chất là loại “gỗ dán” trong đó, trước hết,
người ta dùng phương pháp hóa học để loại
bỏ các thành tế bào - lignin và thứ hai, thực
hiện một số hoạt động ở cấp độ nano.
Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đã ngâm
phần trắng (không có lignin) của gỗ bằng loại
polymer trong suốt và cuối cùng thu được
một vật liệu trong suốt có thể được sử dụng
thay thế kính thông thường. Trong tương lai,
các nhà khoa học muốn nghiên cứu để tìm
cách tăng cường thuộc tính trong suốt cho
loại vật liệu mới và tiến hành sản xuất trên
quy mô công nghiệp.
Theo MK, bình luận về loại vật liệu mới,
giám đốc Viện vật liệu polymer tổng hợp
thuộc Viện hàn lâm khoa học Nga, ông
Alexander Ozerin cho rằng ở bước một của
công nghệ này là loại bỏ các thành phần
lignin trong gỗ cũng giống như sản xuất giấy
khăn ăn, giấy vệ sinh. Nhưng nếu trong sản
xuất giấy có thể có một dư lượng nhất định
lignin thì ở đây các nhà phát triển hứa hẹn sẽ
loại bỏ lignin hoàn toàn.
Ở bước thứ hai của công nghệ có liên
quan với tẩm loại “gỗ dán” đã tẩy trắng bằng
dung dịch thủy tinh hữu cơ và tiếp theo là
polimer hóa. Tất cả các bước này là hoàn toàn
có thể. Nhưng điều đáng chú ý là giá thành
sản xuất vật liệu mới khó có thể rẻ hơn thủy
tinh thông thường, đấy là chưa kể đến khả
năng chống cháy rất thấp của loại kính gỗ.
Theo motthegioi.vn, 15/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Lá nhân tạo mới biến đổi ánh nắng mặt trời thành nhiên liệu hydro
Một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ Đức
và Hàn Quốc đã phát triển được loại lá nhân
tạo mới, hiệu quả hơn để biến đổi ánh nắng
mặt trời thành nhiên liệu hydro.
Thiết kế của lá mô phỏng quá trình quang
hợp dưới nước của các thực vật thủy sinh,
tách nước thành hydro và oxy. Ánh nắng mặt
trời được thu bằng các điện cực quang kép,
trong đó một cặp cực dương quang học hấp
thụ năng lượng mặt trời.
Các electron tự do bị kích thích bởi ánh
nắng mặt trời, được truyền qua chất bán dẫn
và được sử dụng để xúc tác phản ứng hóa học
tách nước. Kết quả cuối cùng tạo ra nhiên liệu
hydro giá rẻ và ổn định, có thể được đốt cháy
mà không phát thải khí CO2. Các nhà khoa
học tin rằng nhiên liệu hydro là chìa khóa để
giảm phát thải cacbon trên toàn cầu.
Loại lá mới và cực dương quang học kép
của nó được thiết kế để chỉ hấp thụ các bước
sóng ánh sáng cụ thể, năng lượng vùng cấm
(bandgap) đặc thù cho mỗi cực dương, cũng
giống như các thực vật thủy sinh tập trung nỗ
lực thu năng lượng chỉ riêng của bước sóng
quang phổ xuyên qua nước. Lá nhân tạo hiện
làm tăng 7,7% hiệu quả tách nước, vẫn còn
chưa đạt đến ngưỡng khả thi để sản xuất
hydro từ năng lượng mặt trời trên quy mô
thương mại.
Jae Sung Lee, kỹ sư hóa học tại Viện
Khoa học và Công nghệ quốc gia Ulsan và là
đồng tác giả nghiên cứu cho rằng: "Chúng tôi
đặt mục tiêu tăng 10% hiệu quả khai thác ánh
nắng mặt trời trong ba năm tới. Công nghệ
này sẽ góp phần vào việc hình thành các trạm
tiếp nhiên liệu hydro bằng cách cung cấp
nhiên liệu giá rẻ cho xe sử dụng pin nhiên
liệu hydro".
Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên
tạp chí Nature Communications.
Theo vista.gov.vn, 16/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Sản xuất túi mua hàng từ vỏ tôm
Các kỹ sư sinh học tại Trường Đại học
Nottingham đang thử nghiệm cách sử dụng
vỏ tôm để sản xuất túi phân hủy sinh học,
không chỉ là giải pháp "xanh" để thay thế túi
làm từ dầu mỏ, mà còn kéo dài thời hạn sử
dụng của thực phẩm.
Vật liệu vỏ tôm dùng để sản xuất túi mua
hàng thân thiện với sinh thái này đang được
tối ưu hóa trong các điều kiện ở Ai Cập, nơi
hoạt động quản lý chất thải hiệu quả là một
trong những thách thức lớn nhất của quốc gia.
TS. Nicola Everitt, trưởng nhóm nghiên
cứu giải thích: "Bao bì nhựa không phân hủy
đang gây ra các vấn đề môi trường và y tế
công cộng ở Ai Cập, như ô nhiễm nguồn nước
đặc biệt ảnh hưởng đến điều kiện sống của
người nghèo".
Các sản phẩm polyme sinh học tự nhiên
được tạo ra từ nguyên liệu thực vật, là lựa
chọn "xanh" ngày càng phổ biến, nhưng lại
cạnh tranh với cây lương thực về diện tích đất
trồng. Do đó, đây không phải là giải pháp khả
thi ở Ai Cập. Dự án nghiên cứu mới nhằm
mục đích biến đổi vỏ tôm, một phần của vấn
đề chất thải quốc gia thành một phần giải
pháp.
TS. Everitt cho rằng: "Việc sử dụng
polyme phân hủy sinh học làm từ vỏ tôm để
sản xuất túi mua hàng, sẽ làm giảm phát thải
cacbon, cũng như giảm khối lượng chất thải
thực phẩm và bao bì tích tụ trên các đường
phố hoặc tại các bãi chôn lấp chất thải bất
hợp pháp. Trong vòng từ 10-15 năm tới, sản
phẩm này cũng có thể được xuất khẩu ra thị
trường nước ngoài. Đây là những ưu tiên cấp
quốc gia ở Ai Cập".
Nghiên cứu đang được thực hiện để tạo ra
vật liệu nanocomposite polyme sinh học mới
có khả năng phân hủy, giá cả phải chăng và
phù hợp cho túi mua hàng và bao bì thực
phẩm.
Chitosan là polyme nhân tạo bắt nguồn từ
hợp chất hữu cơ chitin được chiết xuất từ vỏ
tôm, ban đầu là bằng cách sử dụng axit (để
loại bỏ "xương sống" cacbonat canxi của vỏ
giáp xác) và tiếp đến là kiềm (để tạo ra các
chuỗi phân tử dài cấu thành polyme sinh học).
Các tấm chitosan khô sau đó được hòa tan
vào dung dịch và màng polyme được hình
thành nhờ có các kỹ thuật xử lý thông thường.
Chitosan là polyme phân hủy sinh học đầy
triển vọng, nên đã được lựa chọn sử dụng
trong bao bì dược phẩm do nó có tính chất
chống vi trùng, kháng khuẩn và tương thích
sinh học.
Giai đoạn thứ hai của dự án là phát triển
màng polyme hoạt tính hấp thụ oxy. Loại bao
bì thực phẩm thế hệ mới này sẽ có khả năng
kéo dài thời hạn sử dụng của thực phẩm với
hiệu quả cao và tiêu thụ ít năng lượng, khắc
phục tình trạng lãng phí thực phẩm ở nhiều
quốc gia. Nếu thành công, TS. Everitt dự kiến
sẽ đưa sản phẩm này đến với các nhà sản xuất
bao bì của Vương quốc Anh. Ngoài ra, nghiên
cứu còn đề ra mục tiêu xác định lộ trình sản
xuất vật liệu polyme phân hủy sinh học cho
túi mua hàng và bao bì thực phẩm.
Theo vista.gov.vn, 17/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Xác định tính chất quan trọng giúp màng của pin mặt trời perovskite chuyển đổi ánh nắng thành điện năng
Pin mặt trời được làm từ các màng mô
phỏng cấu trúc của khoáng vật perovskite, là
trọng tâm của nghiên cứu trên toàn thế giới.
Nhưng hiện nay, các nhà nghiên cứu tại
Trường Đại học Case Western Reserve, Hoa
Kỳ đã trực tiếp chứng minh các màng này có
tính chất quan trọng cho phép chuyển đổi
hiệu quả ánh nắng mặt trời thành điện năng,
có thể dẫn đến triển vọng sản xuất pin mặt
trời hiệu quả hơn.
Các electron sinh ra khi ánh sáng chiếu
vào màng bị hạn chế bởi ranh giới của hạt
(cạnh của những tiểu đơn vị tinh thể trong
màng) và di chuyển những quãng đường dài
mà không bị suy giảm. Nghĩa là các hạt tích
điện bị mắc kẹt và phân rã trong các vật liệu
khác thay vì phải ngắt dòng điện.
Lần đầu tiên, các nhà khoa học đã trực
tiếp đo quãng đường di chuyển gọi là độ dài
khuếch tán bằng kỹ thuật "kính hiển vi chụp
ảnh dòng quang điện quét không gian". Độ
dài khuếch tán trong màng perovskite định
hướng là 20 micromet.
Phát hiện này đã được công bố trên tạp
chí Nano Letters, cho thấy pin mặt trời có thể
được sản xuất dày hơn mà không gây ảnh
hưởng đến hiệu suất của pin. Xuan Gao, PGS
vật lý và là trưởng nhóm nghiên cứu cho
rằng: "Pin mặt trời dày hơn có thể hấp thụ
nhiều ánh sáng và có tiềm năng sản xuất pin
mặt trời hiệu quả hơn".
Các nhà nghiên cứu điện mặt trời tin rằng
màng perovskite có triển vọng lớn. Trong
vòng gần 5 năm, các màng này được tạo ra từ
cấu trúc tinh thể, đã đạt hiệu suất chuyển đổi
ánh nắng mặt trời thành điện cao hơn mức
20%, tỷ lệ mà pin mặt trời silicon hiện nay
phải mất hàng thập kỷ mới đạt được.
Nghiên cứu đã thực hiện các phép đo hình
ảnh quang điện quét không gian trên màng tại
phòng thí nghiệm của giáo sư hóa học
Clemens Burda tại Trường Đại học Case
Western Reserve.
Khoáng vật perovskite có trong tự nhiên,
là các oxit của một số kim loại, nhưng phòng
thí nghiệm của GS. Burda đã tạo ra các màng
hữu cơ - kim loại có cấu trúc tinh thể tương tự
nhau bằng cách sử dụng CH3NH3PBI3, một
halogen ba chiều bao quanh bởi các phân tử
metyl amoni hữu cơ nhỏ kết hợp thành cấu
trúc mạng tinh thể.
Độ dài khuếch tán là quãng đường một
electron hoặc lỗ trống di chuyển từ lúc sinh ra
cho đến khi nó tái kết hợp hoặc được tách ra
như dòng điện. Quãng đường đó cũng bằng
quãng đường di chuyển khi điện trường xuất
hiện.
Các phòng thí nghiệm đã thực hiện lặp lại
các phép đo bằng cách chiếu chấm laser vào
các màng cỡ 8mm2 và dày 300 nanomet. Các
màng này đã đạt được độ ổn định nhờ phủ lên
perovskite một lớp polime parylene.
Ánh sáng tạo ra các electron và lỗ trống và
dòng điện quang hoặc dòng điện tử được ghi
lại giữa các điện cực cách nhau khoảng 120
micron trong khi màng được quét dọc 2
hướng vuông góc. Thao tác quét tạo ra một
bản đồ không gian hai chiều về các đặc điểm
khuyếch tán và vận chuyển của hạt điện tích.
Các số đo chứng minh độ dài khuếch tán
trung bình đạt khoảng 10 micron. Trong một
số trường hợp, độ dài lên tới gần 20 micron,
cho thấy khu vực chức năng của màng dài ít
nhất 20 micron.
Trong một số vật liệu, các ranh giới của hạt
làm giảm độ dẫn điện, nhưng hình ảnh cho
thấy giao diện giữa các hạt trong màng không
gây ảnh hưởng đến sự di chuyển của electron.
Theo nhóm nghiên cứu, điều này có thể là do
các hạt trong màng được sắp xếp ngăn nắp,
không gây trở kháng hoặc các hiệu ứng tác
động xấu đến các điện tử hoặc lỗ trống.
Nhóm nghiên cứu hiện đang tìm cách sử
dụng kỹ thuật kính hiển vi để xác định khả
năng các kích thước hạt khác nhau, hướng,
thành phần của perovskite halogen, độ dày
của màng ... làm thay đổi mạnh mẽ hơn tính
chất của màng để thúc đẩy tốc độ nghiên cứu
trong lĩnh vực này.
Theo vista.gov.vn, 18/01/2017
Trở về đầu trang
**************
Nấm men biến đổi đường thực vật thành dầu mỏ
Các kỹ sư hóa học tại Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT) do GS. Gregory
Stephanopoulos dẫn đầu, đã biến đổi đường
thực vật thành dầu mỏ bằng cách thay đổi các
con đường trao đổi chất của nấm men.
Trong nghiên cứu, các kỹ sư đã tái lập
trình về mặt di truyền một chủng nấm men để
chuyển đổi đường thực vật thành chất béo
hiệu quả hơn, một bước tiến có thể dẫn đến
khả năng sản xuất nhiên liệu tái tạo năng
lượng cao như diesel.
Các nhà khoa học đã biến đổi các con
đường trao đổi chất của nấm men sản sinh tự
nhiên khối lượng lớn chất béo, làm tăng hơn
30% hiệu suất. Cải tiến này giúp hoạt động
sản xuất nhiên liệu tái tạo năng lượng cao trở
nên khả thi về mặt kinh tế. GS.
Stephanopoulos cho biết: “Chúng tôi đã đạt
được khoảng 75% tiềm năng của nấm men và
sẽ nghiên cứu tăng thêm 25% nữa”.
Các nhiên liệu tái tạo như ethanol làm từ
ngô, có thể được sử dụng làm chất phụ gia
cho xăng xe ô tô, nhưng đối với các phương
tiện lớn như máy bay, xe tải và tàu thủy, cần
có các nhiên liệu mạnh hơn như diesel.
GS. Stephanopoulos cho rằng: "Diesel là
nhiên liệu ưa thích vì mật độ năng lượng cao
và các động cơ hiệu suất cao chạy bằng
diesel. Vấn đề đối với diesel cho đến nay là
nhiên liệu này được sản xuất từ nhiên liệu
hóa thạch".
Những nỗ lực để chế tạo động cơ chạy
bằng diesel sinh học từ các loại dầu ăn đã qua
sử dụng, đã đạt được những thành công nhất
định, nhưng dầu ăn là một nguồn nhiên liệu
tương đối khan hiếm và đắt đỏ. Các loại tinh
bột như tinh bột mía và ngô rẻ hơn và phong
phú hơn, nhưng những carbohydrate đầu tiên
phải được chuyển đổi thành chất béo, sau đó
thành nhiên liệu mật độ cao như diesel.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu loại nấm
men Yarrowia lipolytica có khả năng sản sinh
một cách tự nhiên khối lượng lớn chất béo và
tập trung sử dụng hoàn toàn các electron do
sự phân hủy glucose tạo ra. Để làm được điều
này, nhóm nghiên cứu đã biến đổi Yarrowia
bằng các con đường tổng hợp chuyển đổi
NADH dư thừa, một sản phẩm của quá trình
phân hủy glucose thành NADPH, có thể được
sử dụng để tổng hợp chất béo. Cuối cùng, các
nhà khoa học đã thử nghiệm hơn 10 con
đường tổng hợp đã được biến đổi.
GS. Stephanopoulos cho biết: "Sự kết hợp
của 2 trong số các con đường tổng hợp này
cung cấp cho chúng tôi kết quả tốt nhất.
Nhưng, chúng tôi vẫn chưa hiểu rõ các cơ chế
thực tế làm cho một số con đường tổng hợp
hoạt động hiệu quả hơn nhiều so với các con
đường khác".
Nhờ có các con đường trao đổi chất cải
tiến, các tế bào nấm men chỉ cần 2/3 lượng
đường mà các tế bào nấm men chưa biến đổi
cần có để sản sinh cùng một lượng dầu mỏ.
Mặc dù quá trình mới biến đổi glucose
thành chất béo có thể khả thi về mặt kinh tế,
nhưng các nhà nghiên cứu đang hy vọng sẽ
tăng hơn nữa hiệu quả của quá trình này. Bên
cạnh đó, các nhà khoa học cũng đang tìm
cách sử dụng các nguồn nguyên liệu thực vật
rẻ hơn như cỏ và chất thải nông nghiệp, đòi
hỏi phải chuyển đổi xenlulô thành đường
glucose.
Theo vista.gov.vn, 20/01/2017
Trở về đầu trang
**************
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0016020 Hợp chất N-(1,2,5-oxadiazol-3-yl)-, N-(tetrazol-5-yl)- và N-(triazol-5-yl)bixycloarylcarboxamit, chế phẩm chứa hợp chất này và
phương pháp phòng trừ cây trồng không mong muốn
Tác giả: Van Almsick Andreas, Ahrens
Hartmut, Kohn Arnim,…
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến hợp chất N-(1,2,5-
oxadiazol-3-yl)-, N-(tetrazol-5-yl)- và N-
(triazol-5-yl)bixycloarylcarboxamit có công
thức chung (I) để làm thuốc diệt cỏ. Trong
công thức (I) này, mỗi gốc R3, R4 và R5 là
các gốc như hydro, các gốc hữu cơ như alkyl,
và các gốc khác như halogen. Q là dị vòng.
Mỗi gốc X và Y là oxy và lưuhuỳnh.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016086 Chế phẩm diệt trừ dịch hại chứa hợp chất anthranilamit và phương pháp phòng trừ loài gây hại
Tác giả: Koyanagi Toru, Morita
Masayuki, Yoneda Tetsuo,…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt trừ
dịch hại chứa lượng hữu hiệu có tác dụng
hiệp đồng của ít nhất một hợp chất
anthranilamit có công thức (I) sau hoặc muối
của nó và thuốc trừ sâu và/hoặc thuốc trừ nấm
khác:
trong đó: mỗi R1a
và R1b
độc lập với nhau
là halogen; mỗi R2 và R3 là halogen, alkyl,
haloalkyl, alkoxy, haloalkoxy hoặc xyano; A
là alkyl được thế bằng Y; Y là C3-4 xycloalkyl
có thể được thế bằng ít nhất một phần tử thế
được chọn từ nhóm bao gồm halogen, alkyl
và haloalkyl; n bằng 0 hoặc 1; và q là số
nguyên nằm trong khoảng từ 0 đến 4; với
điều kiện R1a
và R1b
không đồng thời là clo
hay brom.
Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến
phương pháp phòng trừ loài gây hại bằng
cách sử dụng chế phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016105 Hợp chất pyrazol carboxamit có hoạt tính diệt nấm, chế phẩm diệt nấm chứa hợp chất này và phương pháp phòng trừ nấm
gây bệnh cho thực vật ở cây trồng
Tác giả: Bartels Guenter, Becker Angela,
Benting Juergen,…
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến các hợp chất của
pyrazol carboxamit có công thức (1)
trong đó Y là CR5 hoặc N, T là S hoặc O,
X1 và X
2 là nguyên tử clo hoặc flo, và Z
1 là
xyclopropyl được thế hoặc không được thế;
quy trình điều chế chúng, sử dụng chúng làm
thuốc diệt nấm, và/hoặc các hoạt chất kháng
mycotoxin, và/hoặc thuốc trừ sâu, và/hoặc
thuốc diệt giun tròn, đặc biệt là dưới dạng chế
phẩm diệt nấm, và các phương pháp phòng
trừ nấm gây bệnh cho thực vật, đặc biệt là cây
trồng nhờ sử dụng các hợp chất hoặc chế
phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016107 Thuốc diệt cỏ dạng huyền phù đặc
Tác giả: Garipov Yury Aglyamovich,
Kiseleva Natalia Nikolaevna, Poltev Mikhail
Igorevich,…
Quốc gia: Nga
Sáng chế đề cập đến phương pháp hóa học
để chống cỏ dại, cụ thể là đề cập đến các
thuốc diệt cỏ dạng huyền phù trong nước trên
nền các chất dẫn xuất pyrimidin, ví dụ natri
2,6-bis-(4,6-đimetoxypyrimidin-2-yl)
oxybenzoat, các thuốc diệt cỏ này có thể được
sử dụng để xử lý cây lúa. Sáng chế đề cập đến
việc điều chế thuốc diệt cỏ dạng huyền phù
đặc trên nền các chất dẫn xuất pyrimidin,
thuốc diệt cỏ này có các đặc tính hoá lý và
hoạt tính cao, cụ thể là sức căng bề mặt thấp
và các giá trị góc ướt giới hạn thấp và hoạt
tính ăn mòn giảm đối với các vật liệu cấu
trúc. Kết quả kỹ thuật nêu trên đạt được bởi
thuốc diệt cỏ dạng huyền phù đặc chứa hỗn
hợp của hai thành phần hoạt tính hóa nông là
axit 2,6-bis-(4,6-đimetoxypyrimidin-2-yl)
oxybenzoic và natri 2,6- bis-(4,6-
đimetoxypyrimidin-2-yl) oxybenzoat với
cacbamit, trong đó tỷ lệ mol của cacbamit với
thành phần hoạt tính nằm trong khoảng từ
0,93 - 1,79. Thuốc diệt cỏ dạng huyền phù
đặc bao gồm muối phức với cacbamit với sự
có mặt của axit oxyetylidenđiphosphonic
và/hoặc muối đinatri của axit
etylenđiamintetraaxetic và ít nhất một hợp
phần hoạt tính hóa nông. Sức căng bề mặt là
32 N/m*10-3, góc ướt giới hạn: đầu: 540,
cuối: 300, tốc độ ăn mòn thép cacbon là
0,00152 g/m2 giờ, và độ thẩm thấu của thép
cacbon là 0,0011 mm/năm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016144 Dụng cụ phòng trừ côn trùng và phương pháp sản xuất dụng cụ này
Tác giả: Schule Stephan, Letzner
Bernhard, Halls Geoffrey,…
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến dụng cụ phòng trừ
côn trùng, dụng cụ này bao gồm một giá giấy
cháy châm, khác biệt ở chỗ, ít nhất một hoạt
chất diệt côn trùng được đưa lên giá này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016048 Chế phẩm phủ hệ nước chứa hỗn hợp của nhựa alkyt cải biến bằng uretan, quy trình điều chế và phương pháp sử dụng
chế phẩm này
Tác giả: Reidlinger Gerhard
Quốc gia: Áo
Sáng chế đề cập đến chế phẩm phủ hệ
nước chứa hỗn hợp của nhựa alkyt cải biến
bằng uretan (A) có khối lượng phân tử gam
lớn và chất pha loãng hoạt tính (D), khác biệt
ở chỗ, nhựa alkyt (A) chứa gốc có dẫn xuất từ
các axit béo đã ghép (A1) là các sản phẩm
ghép của các axit béo (A11) có ít nhất một
olefin chưa bão hòa, tính trung bình trên mỗi
phân tử, với axit béo mạch thẳng hoặc mạch
nhánh có olefin chưa bão hòa (A12), tốt hơn
là, có từ 3 đến 10 nguyên tử cacbon, các rượu
béo polyhydric (A2), các axit béo (A3), các
isoxyanat đa chức (A4), và chất pha loãng
hoạt tính (D) có số hyđroxyl là 5 mg/g, và
chứa các gốc có dẫn xuất từ axit béo có olefin
chưa bão hòa (D1), và các polyoxyalkylen
glycol (D2) hoặc các monoete của chúng.
Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến quy trình
điều chế chế phẩm phủ này và phương pháp
sử dụng chế phẩm phủ này để phủ gỗ, ván sợi
ép, nguyên liệu dệt, giấy, bìa các tông, da và
các vật liệu dẻo nhiệt.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016021 Phương pháp làm sạch da
Tác giả: Hirahara Mayuko, Katsuta Izumi.
Quốc gia: Nhật Bản
Sáng chế đề cập đến chế phẩm làm sạch
chứa các thành phần (A), (B), (C) và (D):
(A) polyoxyetylen alkyl ete sulfat với
lượng nằm trong khoảng từ 1 đến 20% trọng
lượng,
(B) polyme chứa nhóm cation có mật độ
điện tích cation từ 4,5 đến 7 meq/g với lượng
nằm trong khoảng từ 0,02 đến 5% trọng
lượng,
(C) hydroxypropyl xenluloza được cation
hóa có công thức (1) với lượng nằm trong
khoảng từ 0,02 đến 10% trọng lượng, trong
đó mỗi R1, R2 và R3 độc lập là nhóm có
nhóm etylenoxy được cation hóa và nhóm
propylenoxy, n là số từ 20 đến 5000 thể hiện
mức độ polyme hoá trung bình của
anhydroglucoza, và mức thế của nhóm
etylenoxy được cation hóa là nằm trong
khoảng từ 0,01 đến 3 và mức thế của nhóm
propylenoxy là nằm trong khoảng từ 0,01 đến
5, và (D) nước.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016025 Thể tiếp hợp miễn dịch kháng mesothelin và dược phẩm chứa thể tiếp hợp miễn dịch này
Tác giả: Kahnert Antje, Berhorster
Kerstin, Heisler Iring, …
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến thể tiếp hợp miễn
dịch chứa các kháng thể, ví dụ, các kháng thể
đơn dòng hoặc các đoạn kháng thể liên kết
với mesothelin, được tiếp hợp với các chất
gây độc tế bào, ví dụ, maytansin hoặc các dẫn
xuất của nó và/hoặc được dùng đồng thời
hoặc được bào chế bởi một hoặc nhiều chất
chống ung thư bổ sung. Các thể tiếp hợp miễn
dịch theo sáng chế có thể được sử dụng theo
các phương pháp theo sáng chế để điều trị
và/hoặc chẩn đoán và/hoặc theo dõi bệnh ung
thư, ví dụ, các khối u rắn, các vùng gắn kết
kháng nguyên tái tổ hợp và các kháng thể và
các đoạn chức năng chứa các vùng gắn kết
kháng nguyên này đặc hiệu với polypeptit
mesothelin có kích thước 40 kDa, được cố
định màng, được biểu hiện quá mức trong các
khối u khác nhau, như các khối u của tuyến
tụy và buồng trứng, các tế bào u trung biểu
mô và ung thư phổi. Ngoài ra, sáng chế còn
đề cập đến dược phẩm chứa thể tiếp hợp miễn
dịch này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016050 Chế phẩm giải phóng kéo dài, dược phẩm và thuốc chứa chế phẩm này
Tác giả: Tomomichi Futo, Kazuhiro
Saito, Tetsuo Hoshino, Masuhisa Hori.
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm giải phóng
kéo dài, trong đó peptit có hoạt tính sinh lý,
hòa tan trong nước hầu như được phân tán
đồng đều trong vi nang chứa polyme của axit
lactic hoặc muối của nó, và hợp chất có hoạt
tính sinh lý này được chứa với lượng nằm
trong khoảng từ 15 đến 35% trọng lượng so
với tổng trọng lượng vi nang và trọng lượng
phân tử trung bình trọng lượng (Mw) của
polyme của axit lactic nằm trong khoảng từ
11000 đến 27000, khác biệt ở chỗ, chế phẩm
theo sáng chế chứa hợp chất có hoạt tính sinh
lý với hàm lượng cao, và ngăn chặn sự giải
phóng quá mức ban đầu trong một ngày sau
khi sử dụng và giải phóng dược chất kéo dài
ổn định trong thời gian dài; và phương pháp
bào chế chế phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016055 Hợp chất có tác dụng ức chế histon deaxetylaza và quy trình điều chế hợp chất này
Tác giả: Dickens Julius W.J, Stokbroekx
Sigrid Carl Maria, Houpis Ioannes Nicolaos,
…
Quốc gia: Bỉ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức (XI) và quy trình điều chế hợp chất này
để sử dụng trong trị liệu, ví dụ, làm dược
phẩm ức chế các tình trạng tăng sinh, như
bệnh ung thư và bệnh bạch cầu.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016078 Chế phẩm sử dụng khu trú
Tác giả: Albrecht Martin
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến chế phẩm là dược
phẩm hoặc mỹ phẩm, được sử dụng khu trú,
chứa một pha ưa nước bên ngoài, ít nhất một
hoạt chất dược dụng và/hoặc được dùng trong
mỹ phẩm và ít nhất một chất mang cho hoạt
chất, trong đó chất mang tạo ra cấu trúc này
gồm ít nhất hai lớp màng kép mỏng, được sắp
xếp một lớp ở trên một lớp khác theo kiểu
bánh kẹp, trong đó giữa các lớp màng kép
liền kề, được xếp song song với nhau, lần
lượt xếp một lớp chứa pha bên trong, trong đó
hoạt chất được phân bố trong lớp màng kép
và trong lớp chứa pha bên trong sao cho lớp
chứa pha bên trong chứa hoạt chất với lượng
nằm trong khoảng từ 2% trọng lượng đến
98% trọng lượng và lớp màng kép chứa hoạt
chất với lượng nằm trong khoảng từ 98%
trọng lượng đến 2% trọng lượng, lần lượt tính
theo tổng lượng hoạt chất, và pha bên ngoài
không chứa hoặc gần như không chứa hoạt
chất.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
Số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016084 Hợp chất heterobiaryl-xyclohexyl-tetraazabenzo[e]azulen, quy trình điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Dolente Cosimo, Schnider
Patrick.
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề cập đến hợp chất
heterobiaryl-xyclohexyl
tetraazabenzo[e]azulen có công thức I
trong đó R1, R
2 và R
3 là như được xác
định trong bản mô tả. Hợp chất theo sáng chế
hoạt động như các chất điều biến thụ thể V1a,
và cụ thể là chất đối kháng thụ thể V1a.
Sáng chế còn đề cập đến quy trình điều
chế nó, và dược phẩm chứa nó. Hoạt chất
theo sáng chế có thể được sử dụng làm tác
nhân điều trị có tác dụng ngoại vi và trung
ương đối với tình trạng bệnh lý gồm chứng
thống kinh, rối loạn chức năng tình dục nam
hoặc nữ, bệnh cao huyết áp, bệnh suy tim
mạn tính, chứng tiết không phù hợp
vasopressin, bệnh xơ gan, hội chứng thận hư,
chứng lo âu, rối loạn trầm cảm, rối loạn ám
ảnh cưỡng bức, rối loạn phổ tự kỷ, bệnh tâm
thần phân liệt và hành vi hung hăng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016112 Hợp chất chứa Bo có phân tử nhỏ và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Baker Stephen J, Hernandez
Vincent S, Sharma Rashmi
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất chứa Bo có
phân tử nhỏ hữu dụng để điều trị bệnh nhiễm
khuẩn, dược phẩm chứa hợp chất này, cũng
như dược phẩm kết hợp chứa hợp chất này và
ít nhất một dược chất khác.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016046 Phương pháp sản xuất giầy sử dụng dung dịch phủ lót đa năng
Tác giả: Huh Sung-Hwan.
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến phương pháp sản
xuất giày sử dụng dung dịch phủ lót đa năng,
bao gồm bước phủ đế ngoài bằng cao su
được làm bằng cao su chưa lưu hóa bằng
dung dịch phủ lót đa năng bao gồm thể phân
tán polyuretan, dung dịch cao su butađien, và
dung dịch cao su tự nhiên; lưu hóa đế ngoài
bằng cao su chưa lưu hóa được phủ dung
dịch phủ lót đa năng; hoạt hóa nhiệt đế ngoài
bằng cao su đã lưu hóa và đã phủ; phủ đế
ngoài bằng cao su đã hoạt hóa nhiệt bằng
chất kết dính; và liên kết đế ngoài bằng cao
su với các phần khác nhau của giày. Dung
dịch phủ lót có ích cho sáng chế được sản
xuất bằng cách điều chế dung dịch thứ nhất
bao gồm từ 15 đến 55 phần trọng lượng cao
su tự nhiên và từ 750 đến 1350 phần trọng
lượng dung môi hữu cơ; điều chế dung dịch
thứ hai từ 100 phần trọng lượng dung dịch
thứ nhất và ngoài ra, từ 45 đến 90 phần trọng
lượng thể phân tán polyuretan; và điều chế
dung dịch thứ ba mà tạo thành dung dịch phủ
lót đa năng từ 100 phần trọng lượng dung
dịch thứ hai và từ 100 đến 250 phần trọng
lượng dung dịch cao su trên cơ sở butadien
chứa từ 50 đến 200 phần trọng lượng cao su
butadien và từ 800 đến 950 phần trọng lượng
dung môi hữu cơ.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016024 Miếng dính hạt giống
Tác giả: Tae Ha Woo, Jung Min Seo
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập tới miếng dính hạt giống
để gieo hạt và trồng các loại hoa hoặc các
loại cây mầm một cách dễ dàng và nhanh
chóng trong chậu nhỏ như chậu ở nhà hoặc
trong vườn hoa và phương pháp sản xuất
miếng dính này. Sáng chế khác biệt bởi
miếng dính hạt giống mà hạt giống được đặt
vào bên trong của nó, bao gồm: giấy can (10)
mà lớp phủ (11) được tạo trên bề mặt của
giấy can này; lớp dính (20) được tạo trên bề
mặt của lớp phủ (11); viên hạt giống (30)
được đặt trên bề mặt của lớp dính (20); tấm
làm bằng đất pha sét đỏ (40) được xếp chồng
lên phần trên của viên hạt giống (30); và tấm
làm bằng rượu polyvinylic (PVA) được xếp
chồng lên phần trên của tấm làm bằng đất
pha sét đỏ (40) và phủ cả viên hạt giống lẫn
tấm làm bằng đất pha sét đỏ và các mép của
nó được dính với lớp dính (20).
Có thể gieo các loại cây mong muốn
thành các dạng mong muốn bằng cách tạo
các hạt giống dưới dạng miếng dính như đã
mô tả trên đây. Ngoài ra, đất có độ dày phù
hợp đã xếp chồng ở phần trên trong miếng
dính hạt giống sao cho ngay cả khi người sử
dụng không bao giờ gieo hạt trước đó cũng
có thể gieo hạt cây một cách dễ dàng và
nhanh chóng bằng cách đặt miếng dính hạt
giống trong chậu và tưới nước cho miếng
dính hạt giống, sau đó cho phép hạt giống,
mà đã đóng gói trong miếng dính hạt giống,
nảy mầm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016035 Chế phẩm để tạo ra tác nhân nghiền clinke xi măng và hỗn hợp clinke xi măng chứa tác nhân này
Tác giả: Joh Sung Hyung, Kim Jung Sun,
Park Kwang Young, Cha Cheol Yong .
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến chế phẩm để tạo ra
tác nhân nghiền clinke xi măng, chế phẩm
này chứa hợp chất có cấu trúc ion lưỡng cực
được thể hiện bằng công thức 1 sau đây:
trong đó, mỗi X, Y và Z độc lập là nhóm
chức không phân cực, và W- là nhóm chức
phân cực. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến
hỗn hợp clinke xi măng bao gồm clinke xi
măng và chế phẩm để tạo ra tác nhân nghiền
clinke xi măng; và hỗn hợp xi măng được tạo
ra bằng cách sử dụng hỗn hợp clinke xi
măng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016054 Ván khuôn dùng một lần lắp ghép được để dựng cốp pha theo mô đun để đổ móng bê tông
Tác giả: Martigli Massimo
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề cập đến ván khuôn dùng một
lần lắp ghép được để dựng cốp pha theo mô
đun thích hợp cho việc đổ móng, ván khuôn
này về cơ bản được kết cấu như là bề mặt bên
của hình hộp, trên các mặt bên này có nhiều
lỗ thích hợp để trong quá trình đúc khuôn đổ
một phần hỗn hợp xi măng chảy vào trong hố
móng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016117 Quy trình sản xuất vật đúc bằng bọt polyuretan và vật đúc bằng bọt polyuretan thu được bằng quy trình này
Tác giả: Kamm Andre, Lorusso Michele,
Cubukcu Erhan.
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến quy trình sản xuất
vật đúc bằng bọt polyuretan, trong đó a)
polyisoxyanat hữu cơ được trộn với b) các
polyol bao gồm b1) polyesterol và b2)
polyme polyeterol có tỷ lệ nhóm OH bậc
một nhỏ hơn 50%, c) chất tạo xốp bao gồm
nước và tùy ý d) chất kéo dài mạch và/hoặc
chất tạo liên kết ngang, e) chất xúc tác và f)
các chất phụ trợ và/hoặc chất phụ gia khác để
tạo thành hỗn hợp phản ứng, hỗn hợp phản
ứng này được đưa vào khuôn đúc và thực
hiện phản ứng để tạo thành vật đúc bằng bọt
polyuretan. Sáng chế còn đề cập đến vật đúc
bằng bọt polyuretan sản xuất được bằng quy
trình này và đế giày bao gồm vật đúc bằng
bọt polyuretan này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016148 Nhũ tương chứa scleroglucan, nhũ tương bitum và chế phẩm kết dính bitum
Tác giả: Filippini Lucio, Mormile Silvia,
Vazzola Matteo Santino, Gusmeroli
Marilena.
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề cập đến nhũ tương chứa
scleroglucan chứa chất kết dính bitum và
scleroglucan không cải biến với lượng nằm
trong khoảng từ 0,005% đến 0,02% trọng
lượng, tính theo tổng trọng lượng của nhũ
tương, trong đó chất kết dính bitum này chứa
bitum có độ kim lún là 100x10-1mm hoặc
nhỏ hơn được xác định theo tiêu chuẩn
ASTM
D5-97, trong đó nhũ tương này có chỉ số
phân lớp nhân với độ ổn định khi bảo quản
nhỏ hơn 1,8, và trong đó giá trị tối đa của chỉ
số phân lớp nhỏ hơn hoặc bằng 120 và giá trị
tối đa của độ ổn định khi bảo quản nhỏ hơn
hoặc bằng 0,015.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến chế
phẩm kết dính bitum chứa nhũ tương nêu trên
và nhũ tương bitum chứa scleroglucan.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************
1-0016245 Hạt phân phối chất hữu ích chứa polysacarit không ion, phương pháp sản xuất và chế phẩm chứa hạt này
Tác giả: Lommerts Bert Jan, Nederpel
Quirinus Adrianus, Sikkema Doetze Jakob.
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến chế phẩm chứa hạt
phân phối chất hữu ích chứa ít nhất một trong
số các hợp chất hydroxylpropyl metyl
xenluloza, hydroxyletyl metyl xenluloza,
hydroxylpropyl guar, hydroxyletyl ety
xenluloza hoặc metyl xenluloza. Hạt phân
phối chất hữu ích có thể còn chứa polyme
không polysacarit, tốt hơn là polyme
aminoplast.
Hạt phân phối chất hữu ích có thể chứa
hương liệu. Sáng chế còn đề cập đến quy
trình sản xuất các hạt này trong đó dầu hương
liệu được bao nang bằng cách sử dụng quá
trình polyme hoá nhũ tương để tạo thành các
hạt có lõi-vỏ, (theo một phương án khác,
hương liệu có thể được hấp thụ ở giai đoạn
sau) và, lớp polyme khác còn được tạo ra bên
ngoài bề mặt của các hạt có lõi-vỏ này với sự
có mặt của chất trợ giúp phân phối.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 344/2016
Trở về đầu trang
**************