bÁo cÁo tỔng quan kinh tẾ vĨ mÔ - pgbank.com.vn€¦ · 2 mỸ gdp quý 2/2017 tăng cao...
TRANSCRIPT
KHỐI ĐẦU TƯ
--
Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex
VP5 (18T1 - 18T2), Lê Văn Lương,
Trung Hòa - Nhân Chính, Hà Nội
Tháng 07/2017
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) giữ nguyên lãi suất trong cuộc họp tháng 7 nhưng có thể sẽ
bắt đầu thu hẹp lượng nắm giữ trái phiếu kể từ tháng 9/2017, phản ánh niềm tin vào đà tăng
trưởng của kinh tế Mỹ. Trong tháng 7, Mỹ chứng kiến nhiều tin tức vĩ mô tích cực khi GDP
quý 2 đã tăng 2,6% so với quý trước, cao hơn mức tăng 1,2% của quý 1, lĩnh vực sản xuất tiếp
tục mở rộng dù với tốc độ chậm lại, doanh số bán lẻ tăng mạnh hơn dự báo, CPI tăng nhẹ, tỷ
lệ thất nghiệp giảm.
Trong cuộc họp chính sách diễn ra vào tháng 7, Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) đã
giữ nguyên lãi suất và chương trình kích thích kinh tế cũng như duy trì định hướng giảm mua
tài sản. Khu vực Châu Âu đón nhận nhiều tin tức trái chiều khi GDP quý 2 tăng 0,6% so với
quý trước, cao hơn mức tăng của quý 1, doanh số bán lẻ tháng 6 cao hơn tháng trước, tỷ lệ
thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất hơn 8 năm qua. Tuy nhiên, lĩnh vực sản xuất tháng 7
giảm tốc, chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại và niềm tin người tiêu dùng giảm trái dự báo.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đã quyết định giữ nguyên các mức lãi suất và chương
trình kích thích kinh tế, đồng thời nâng dự báo tăng trưởng nhờ tiêu dùng tư nhân và xuất
khẩu tăng nhưng hạ dự báo lạm phát. Trong tháng 7, Nhật Bản đón nhận nhiều tin tức tích
cực khi GDP quý 2 tăng cao hơn quý trước, hoạt động sản xuất tiếp tục mở rộng, sản xuất
công nghiệp tăng mạnh hơn dự báo, chỉ số giá tiêu dùng tăng như tháng trước, doanh số bán
lẻ, chi tiêu tiêu dùng hộ gia đình và niềm tin tiêu dùng đều tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) cho biết dự trữ ngoại hối tháng 7 tăng tháng thứ
6 liên tiếp lên mức 3,08 nghìn tỷ USD nhờ chính sách thắt chặt dòng vốn chảy ra ngoài. GDP
quý 2 tăng bằng mức tăng của quý 1, lĩnh vực sản xuất tháng 7 mở rộng với tốc độ mạnh nhất
5 tháng. Tuy nhiên, nhiều yếu tố đang ảnh hưởng không tích cực đến triển vọng tăng trưởng
của quý 3 như chỉ số giá tiêu dùng giảm do giá thực phẩm giảm, sản xuất công nghiệp và
doanh số bán lẻ đều tăng chậm do các biện pháp giảm đòn bẩy của Chính phủ phát huy tác
dụng, thặng dư thương mại mở rộng khi cả xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm tốc.
Kinh tế Việt Nam cải thiện vừa phải trong tháng 7, tốc độ cải thiện yếu hơn cuối quý 2. Sản
xuất công nghiệp tăng thấp hơn mức tăng của tháng 6, chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI)
sản xuất giảm nhẹ cho thấy tốc độ mở rộng ngành sản xuất chậm lại. Doanh số bán lẻ tháng 7
tăng thấp hơn mức tăng của tháng trước. Dù Chính phủ triển khai nhiều giải pháp thúc đẩy
tăng trưởng nhưng việc đạt mục tiêu GDP tăng 6,7% năm nay vẫn khá khó khăn.
BÁO CÁO TỔNG QUAN KINH TẾ VĨ MÔ
Tóm tắt nội dung
Những người thực hiện:
Xin vui lòng tham khảo Khuyến cáo sử
dụng ở trang cuối
Bùi Quỳnh Vân
Chuyên viên Phân tích
T: +(84 4) 6 281 1298 Ext: 243
2
MỸ
GDP quý 2/2017 tăng cao hơn quý 1: Tăng trưởng kinh tế quý 2/2017 đạt 2,6% so với quý
trước, trùng dự báo sau khi tăng 1,2% vào quý 1. GDP quý 2 phản ánh sự đóng góp tích cực từ
chi tiêu tiêu dùng, đầu tư cố định của người không cư trú, xuất khẩu và chi tiêu liên bang.
Lĩnh vực sản xuất tăng trưởng chậm lại: Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) trong lĩnh vực
sản xuất tháng 7 giảm nhẹ xuống mức 56,3 điểm từ mức 57,8 điểm trong tháng 6, vẫn ở trên
ngưỡng 50 điểm đánh dấu sự mở rộng/thu hẹp hoạt động. Các chuyên gia dự báo chỉ số này sẽ
giảm xuống mức 56,5 điểm. PMI giảm chủ yếu do số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm lại,
chỉ số đơn hàng mới giảm còn 60,4 điểm trong tháng 7 từ mức 63,5 điểm, chỉ số sản xuất giảm
còn 60,6 điểm từ mức 62,4 điểm, chỉ số lao động cũng giảm còn 55,2 điểm từ mức 57,2 điểm.
CPI tăng nhờ giá năng lượng giảm chậm lại: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng nhẹ trong
tháng 7 khi đạt mức 0,1% so với tháng trước sau khi không đổi vào tháng 6. Chỉ số giá thực
phẩm tăng 0,2% trong tháng 7 sau khi không đổi vào tháng 6 trong khi đó, giá năng lượng
giảm 0,1% sau khi giảm tới 1,6% vào tháng trước. Nếu loại trừ năng lượng và thực phẩm, CPI
cơ bản vẫn tăng nhẹ 0,1% trong tháng 7. So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 7 tăng 1,7%,
cao hơn mức tăng 1,6% của tháng 6.
Doanh số bán lẻ tăng mạnh hơn dự báo: Doanh số bán lẻ tăng mạnh hơn dự báo trong tháng
7 khi đạt 0,6% so với tháng trước sau khi chỉ tăng 0,3% vào tháng 6. Các chuyên gia dự báo
mức tăng doanh số bán lẻ tháng 7 là 0,4%. Doanh số bán lẻ tăng mạnh hơn dự báo chủ yếu do
doanh số bán xe mô tô và phụ tùng tăng mạnh hơn tháng trước.
Niềm tin người tiêu dùng giảm do kỳ vọng người tiêu dùng giảm: Chỉ số niềm tin người
tiêu dùng tháng 7 sau điều chỉnh giảm xuống mức 93,4 điểm từ mức 95,1 điểm của tháng 6.
Trong đó, chỉ số kỳ vọng giảm còn 80,5 điểm trong tháng 7 từ mức 83,9 điểm của tháng 6, chỉ
số điều kiện kinh tế hiện tại tăng lên mức 113,4 điểm từ mức 112,5 điểm tháng trước đó.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm: Bảng lương phi nông nghiệp tháng 7 có thêm 209 nghìn việc làm sau
khi tăng mạnh 231 nghìn việc làm vào tháng 6, cao hơn dự báo tăng thêm 183 nghìn việc làm
của các chuyên gia. Với mức tăng trưởng việc làm cao hơn dự kiến, tỷ lệ thất nghiệp tháng 7
đã giảm nhẹ xuống mức 4,3% từ mức 4,4% của tháng 6, trùng dự báo.
Fed giữ nguyên lãi suất, có thể thu hẹp lượng nắm giữ trái phiếu kể từ tháng 9/2017: Cục
dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã quyết định giữ nguyên lãi suất sau cuộc họp tháng 7, đúng như
kỳ vọng. Đồng thời, Fed có thể sẽ bắt đầu thu hẹp số dư 4,5 ngàn tỷ USD trên bảng cân đối kế
toán từ tháng 9/2017, phản ánh niềm tin vào đà tăng trưởng kinh tế Mỹ. Đây chủ yếu là các
trái phiếu mà cơ quan này đã mua vào để kích thích và thúc đẩy kinh tế trong những năm sau
khủng hoảng. Chương trình sẽ bắt đầu ở mức thoái vốn là 10 tỷ USD/tháng và sau mỗi 3
tháng, sẽ tăng thêm cho đến khi đạt mức 50 tỷ USD. Bên cạnh đó, Fed không đưa ra lô trình
cụ thể cho đợt nâng lãi suất thêm 25 điểm phần trăm tiếp theo nhưng có thể sẽ giữ điều này
cho đến tháng 12, trừ khi lạm phát bất ngờ tăng. Mục tiêu lạm phát cũng được đổi thành “mức
dưới 2%” thay vì “thấp hơn nhưng gần 2%”, một mục tiêu thấp hơn so với hồi tháng 6.
Biểu đồ 2: PMI sản xuất (ISM)
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) giữ nguyên lãi suất trong cuộc họp tháng 7 nhưng có thể
sẽ bắt đầu thu hẹp lượng nắm giữ trái phiếu kể từ tháng 9/2017, phản ánh niềm tin vào đà
tăng trưởng của kinh tế Mỹ. Trong tháng 7, Mỹ chứng kiến nhiều tin tức vĩ mô tích cực khi
GDP quý 2 đã tăng 2,6% so với quý trước, cao hơn mức tăng 1,2% của quý 1, lĩnh vực
sản xuất tiếp tục mở rộng dù với tốc độ chậm lại, doanh số bán lẻ tăng mạnh hơn dự báo,
CPI tăng nhẹ, tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Biểu đồ 3: CPI mm
Biểu đồ 4: Niềm tin người tiêu dùng
Biểu đồ 5: Tỷ lệ thất nghiệp
Biểu đồ 1: GDP qq
2,7
1,6
0,50,6
2,2
2,8
1,8
1,2
2,6
0
1
2
3
6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17 6/17
%
56,3
47
49
51
53
55
57
59
07/15 01/16 07/16 01/17 07/17
0,1%
-0,8%
-0,6%
-0,4%
-0,2%
0,0%
0,2%
0,4%
0,6%
0,8%
7/14 10/14 1/15 4/15 7/15 10/15 1/16 4/16 7/16 10/16 1/17 4/17 7/17
93,4
86
88
90
92
94
96
98
100
7/15 9/15 11/15 1/16 3/16 5/16 7/16 9/16 11/16 1/17 3/17 5/17 7/17
4,34,2
4,4
4,6
4,8
5,0
5,2
5,4
7/15 1/16 7/16 1/17 7/17
%
3
CHÂU ÂU
GDP quý 2 tăng mạnh hơn quý trước: Tăng trưởng kinh tế Khu vực đồng tiền chung Châu
Âu (Eurozone) trong quý 2 đạt 0,6% so với quý trước, đúng như dự báo, nhờ sự đóng góp tích
cực từ khối kinh tế tư nhân, cao hơn mức 0,5% của quý 1. So với cùng kỳ năm trước, GDP
quý 2 tăng 2,2%, cao hơn mức ước tính 2,1% ban đầu, và cao hơn mức tăng 1,9% của quý 1.
Lĩnh vực sản xuất giảm tốc: Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất tháng 7
giảm xuống mức 56,6 điểm từ mức 57,4 điểm của tháng 6 - mức cao nhất 74 tháng, thấp hơn
ước tính sơ bộ 56,8 điểm. Sản lượng sản xuất tăng trưởng với tốc độ gần 4% trong tháng đầu
quý 3, duy trì mức tăng trưởng tốt nhất của khu vực trong 6 năm qua.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng chậm lại ở mức thấp nhất
6 tháng đúng như dự báo. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 chỉ tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước
từ mức 1,4% của tháng 5. So với tháng trước, CPI tháng 6 không thay đổi. CPI cơ bản sau khi
loại trừ năng lượng, thực phẩm, đồ uống có cồn và thuốc lá tăng 1,1% trong tháng 6, trùng dự
báo từ mức 0,9% của tháng trước đó.
Doanh thu bán lẻ tăng cao hơn tháng trước: Doanh thu bán lẻ bất ngờ tăng trong tháng 6
lên mức 0,5% so với tháng trước, sau khi tăng 0,4% vào tháng 5. Các chuyên gia kinh tế dự
báo doanh số bán lẻ tháng 6 không đổi. So với cùng kỳ năm trước, doanh số bán lẻ tháng 6
tăng 3,1%, cao hơn mức tăng 2,4% của tháng 5 và mức tăng dự báo 2,5%.
Niềm tin người tiêu dùng giảm trái dự báo: Niềm tin người tiêu dùng Eurozone sơ bộ bất
ngờ giảm trong tháng 7 xuống mức –1,7 điểm từ mức –1,3 điểm trong tháng 6, trái mức dự
báo tăng lên –1,2 điểm của các chuyên gia kinh tế.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất hơn 8 năm: Tỷ lệ thất nghiệp khu vực giảm
trong tháng 6 xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2/2009 khi đạt 9,1% từ mức 9,2% của tháng 5,
thấp hơn mức dự báo 9,2% của các chuyên gia kinh tế. Vào tháng 2/2009, tỷ lệ thất nghiệp khu
vực ở mức 9%.
ECB giữ nguyên lãi suất và chương trình kích thích kinh tế, duy trì định hướng giảm
mua tài sản: Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) vừa quyết định giữ nguyên lãi suất và
chương trình kích thích kinh tế trong phiên họp tháng 7, cũng như duy trì định hướng giảm
mua tài sản. Lãi suất tái cấp vốn giữ ở mức 0%, lãi suất tiền gửi –0,4% và lãi suất cho vay ở
mức 0,25%. ECB cũng giữ chương trình mua tài sản ở mức 60 tỷ EUR/tháng cho đến tháng
12/2017 hoặc lâu hơn nếu cần thiết cho đến khi ECB nhìn thấy sự điều chỉnh bền vững đường
đi của lạm phát theo đúng mục tiêu 2%. ECB cũng giữ định hướng giảm mua tài sản và lặp lại
rằng nếu triển vọng kinh tế kém tích cực hoặc lạm phát không theo định hướng, ECB có thể
sẵn sàng gia tăng chương trình mua tài sản về mặt quy mô hoặc thời gian.
Biểu đồ 6: PMI sản xuất
Trong cuộc họp chính sách diễn ra vào tháng 7, Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) đã giữ
nguyên lãi suất và chương trình kích thích kinh tế cũng như duy trì định hướng giảm mua tài sản.
Khu vực Châu Âu đón nhận nhiều tin tức trái chiều khi GDP quý 2 tăng 0,6% so với quý trước,
cao hơn mức tăng của quý 1, doanh số bán lẻ tháng 6 cao hơn tháng trước, tỷ lệ thất nghiệp giảm
xuống mức thấp nhất hơn 8 năm qua. Tuy nhiên, lĩnh vực sản xuất tháng 7 giảm tốc, chỉ số giá
tiêu dùng tăng chậm lại và niềm tin người tiêu dùng giảm trái dự báo.
Biểu đồ 8: Doanh số bán lẻ mm
Biểu đồ 7: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) yy
Biểu đồ 9: Tỷ lệ thất nghiệp
Biểu đồ 5: GDP qq
0,3
0,40,4
0,5
0,3
0,4
0,6
0,5
0,6
0,0
0,1
0,2
0,3
0,4
0,5
0,6
0,7
6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17 6/17
%
56,6
50
51
52
53
54
55
56
57
58
07/15 10/15 01/16 04/16 07/16 10/16 01/17 04/17 07/17
1,3%
-0,5%
0,0%
0,5%
1,0%
1,5%
2,0%
7/15 10/15 1/16 4/16 7/16 10/16 1/17 4/17 7/17
0,5%
-1,0%
-0,5%
0,0%
0,5%
1,0%
1,5%
06/14 06/15 06/16 06/17
9,1
9,0
9,5
10,0
10,5
11,0
11,5
12,0
12,5
06/12 12/12 06/13 12/13 06/14 12/14 06/15 12/15 06/16 12/16 06/17
%
4
NHẬT BẢN
GDP quý 2 tăng cao hơn quý trước: GDP Nhật tăng 1% trong quý 2/2017 so với quý trước,
cao hơn mức tăng dự báo 0,6% của các chuyên gia kinh tế và cao hơn mức tăng 0,4% của quý
1. So với cùng kỳ năm trước, GDP quý 2 tăng 4%, cao hơn nhiều mức dự báo tăng 2,5% của
các chuyên gia kinh tế và cao hơn mức tăng 1,5% sau điều chỉnh của quý 1. Theo đó, kinh tế
Nhật đã mở rộng quý thứ 6 liên tiếp, chuỗi tăng trưởng dài nhất trong hơn 3 năm qua.
Hoạt động sản xuất mở rộng với tốc độ chậm lại: Chỉ số nhà quản trị mua hàng trong lĩnh
vực sản xuất (PMI) tháng 7 giảm xuống mức thấp nhất 8 tháng và đạt 52,2 điểm. Trước đó,
PMI sản xuất tháng 6 đạt 52,4 điểm. Chỉ số sản lượng giảm xuống mức 51,4 điểm, đánh dấu
mức điểm yếu nhất 10 tháng. Số công việc tồn đọng, tồn kho mua hàng và tồn kho thành phẩm
đều chuyển sang ngưỡng thu hẹp trong tháng 7.
Sản xuất công nghiệp tăng mạnh hơn dự báo: Sản lượng công nghiệp tháng 6 đã tăng 1,6%
so với tháng trước, cao hơn mức dự báo tăng 1,5% của các chuyên gia, sau khi giảm 3,6% vào
tháng 5. So với cùng kỳ năm trước, sản lượng công nghiệp tháng 6 tăng 4,9%, cao hơn dự báo
tăng 4,8% nhưng giảm so với mức tăng 6,5% của tháng 5
Chỉ số giá tiêu dùng tăng như dự báo: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 tăng 0,4% so với
cùng kỳ năm trước, trùng dự báo và bằng mức tăng tháng trước. CPI cơ bản sau khi loại trừ giá
thực phẩm cũng tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 6, trùng dự báo và bằng mức
tăng tháng trước. So với tháng 5, CPI và CPI cơ bản tháng 6 đều không thay đổi.
Doanh số bán lẻ tăng trở lại: Doanh số bán lẻ tháng 6 sau khi điều chỉnh yếu tố mùa vụ đã
tăng 0,2% so với tháng trước, thấp hơn mức dự báo tăng 0,4% của các chuyên gia, sau khi
giảm 1,5% vào tháng 5. So với cùng kỳ năm trước, doanh số bán lẻ tháng 6 tăng 2,1%, bằng
mức tăng tháng trước nhưng thấp hơn mức tăng dự báo 2,4%.
Chi tiêu hộ gia đình tăng mạnh hơn dự báo: Chi tiêu hộ gia đình trung bình tháng 6 tăng
2,3% so với cùng kỳ năm trước và đạt 268.802 yen, cao hơn mức dự báo tăng 0,5% của các
chuyên gia, sau khi giảm 0,1% vào tháng 5. Thu nhập hộ gia đình trung bình tháng 6 đạt
735.477 yen, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước. .
Tỷ lệ thất nghiệp giảm: Tỷ lệ thất nghiệp sau khi điều chỉnh yếu tố mùa vụ đã giảm còn 2,8%
trong tháng 6, thấp hơn dự báo giảm còn 3% từ mức 3,1% của tháng 5. Tỷ lệ tham gia lao
động tăng lên mức 61% từ mức 60,8% tháng trước đó.
Niềm tin người tiêu dùng cải thiện: Chỉ số niềm tin người tiêu dùng cải thiện mạnh hơn dự
báo trong tháng 7 khi đạt 43,8 điểm từ mức 43,3 điểm hồi tháng 6, cao hơn mức tăng dự báo
43,5 điểm của các chuyên gia kinh tế. Đây là mức điểm cao nhất kể từ tháng 3 năm nay.
BOJ giữ nguyên chính sách tiền tệ, nâng dự báo chi tiêu tiêu dùng: Ngân hàng trung ương
Nhật Bản (BOJ) giữ nguyên chương trình kích thích kinh tế và lãi suất tiền gửi cũng như hạ kỳ
vọng lạm phát. BOJ nâng dự báo tăng trưởng kinh tế Nhật nhờ tiêu dùng tư nhân và xuất khẩu
dự kiến tiếp tục tăng trưởng, GDP 2017 sẽ ở mức 1,8% từ mức dự báo 1,6% trước đây. Do lạm
phát vẫn đang khá yếu, BOJ hạ dự báo lạm phát cả năm 2017 sẽ ở mức 1,1% từ 1,4% trước đó.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đã quyết định giữ nguyên các mức lãi suất và chương
trình kích thích kinh tế, đồng thời nâng dự báo tăng trưởng nhờ tiêu dùng tư nhân và xuất
khẩu tăng nhưng hạ dự báo lạm phát. Trong tháng 7, Nhật Bản đón nhận nhiều tin tức tích
cực khi GDP quý 2 tăng cao hơn quý trước, hoạt động sản xuất tiếp tục mở rộng, sản xuất
công nghiệp tăng mạnh hơn dự báo, chỉ số giá tiêu dùng tăng như tháng trước, doanh số bán
lẻ, chi tiêu tiêu dùng hộ gia đình và niềm tin tiêu dùng đều tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Biểu đồ 11: Chỉ số giá tiêu dùng yy
Biểu đồ 13: Chi tiêu hộ gia đình yy
Biểu đồ 10: Doanh thu bán lẻ yy
Biểu đồ 12: Niềm tin người tiêu dùng
Biểu đồ 9: GDP yy
-0,5
0,9
-0,8
2,3
1,4 1,31,7
1,5
4,0
-2
-1
0
1
2
3
4
5
6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17 6/17
%
2,2%
-3%
-2%
-1%
0%
1%
2%
3%
4%
0,4
-0,6
-0,4
-0,2
0,0
0,2
0,4
0,6
06/15 12/15 06/16 12/16 06/17
%
43,9
39
40
41
42
43
44
45
07/15 10/15 01/16 04/16 07/16 10/16 01/17 04/17 07/17
2,3%
-6%
-5%
-4%
-3%
-2%
-1%
0%
1%
2%
3%
5
TRUNG QUỐC
Tăng trưởng kinh tế quý 2 bằng mức tăng của quý 1: Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với
tốc độ ổn định trong quý 2/2017 nhờ nhu cầu nội địa và xuất khẩu bất chấp các biện pháp được
sử dụng để kiềm chế rủi ro tài chính. GDP quý 2 tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước, bằng
mức tăng của quý 1, cao hơn mức dự báo 6,8% của các chuyên gia kinh tế. So với quý trước,
GDP quý 2 tăng 1,7%, tăng tốc so với mức tăng 1,3% của quý 1. Trong nửa đầu năm 2017,
GDP Trung Quốc tăng 6,9% so với cùng kỳ năm ngoái, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng
năm nay sẽ chậm lại ở mức 6,5%.
Lĩnh vực sản xuất mở rộng với tốc độ mạnh nhất 5 tháng: Lĩnh vực sản xuất tiếp tục tăng
trưởng trong tháng 7 nhờ sản lượng và số đơn đặt hàng mới mở rộng với tốc độ mạnh nhất 5
tháng qua. Chỉ số nhà quản trị mua hàng Caixin PMI sản xuất bất ngờ tăng lên mức 51,1 điểm
trong tháng 7 từ mức 50,4 điểm hồi tháng 6, trái dự báo không thay đổi của các chuyên gia.
Chỉ số giá tiêu dùng giảm do giá thực phẩm giảm: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 chỉ
tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước từ mức tăng 1,5% trong tháng 6, thấp hơn mức tăng dự
báo 1,5% của các chuyên gia kinh tế. Lạm phát vẫn thấp xa so với mức mục tiêu 3% mà Chính
phủ Trung Quốc đặt ra từ đầu năm 2017. CPI tăng chậm chủ yếu do giá thực phẩm tháng 7
giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước sau khi giảm 1,2% vào tháng 6. So với tháng trước, CPI
tháng 7 tăng nhẹ 0,1%, trái mức giảm 0,2% của tháng 6, đây là tháng đầu tiên CPI tăng sau khi
giảm 2 tháng liên tiếp trước đó. Chuyên gia kinh tế của Capital Economics cho rằng các chính
sách thắt chặt đã bắt đầu ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế, lạm phát cơ bản bắt đầu suy giảm.
Sản xuất công nghiệp tăng chậm lại: Sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ của nước này
tăng chậm lại trong tháng đầu quý 3 khi các biện pháp giảm đòn bẩy của nền kinh tế và hạ
nhiệt thị trường bất động sản bắt đầu phát huy hiệu lực. Sản xuất công nghiệp tháng 7 chỉ tăng
6,4% so với cùng kỳ năm trước, chậm hơn mức tăng 7,6% của tháng 6 và thấp hơn mức tăng
dự báo 7,1% của các chuyên gia kinh tế.
Doanh số bán lẻ tăng chậm: Doanh số bán lẻ tháng 7 tăng chậm lại ở mức 10,4% sau khi
tăng 11% vào tháng 6, thấp hơn mức tăng dự báo 10,8% của các chuyên gia kinh tế.
Thặng dư thương mại mở rộng: Thặng dư thương mại tháng 7 mở rộng lên mức 46,7 tỷ
USD từ mức 42,7 tỷ USD hồi tháng 6, cao hơn mức thặng dư dự báo 45 tỷ USD bất chấp xuất
khẩu tăng chậm lại. Xuất khẩu tháng 7 chỉ tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức
dự báo tăng 11% của các chuyên gia và thấp hơn mức 11,3% của tháng 6. Nhập khẩu tăng
chậm lại ở mức 11% từ mức 17,2% của tháng 6 và trái dự báo tăng 18% của các chuyên gia.
Dự trữ ngoại hối tăng tháng thứ 6 liên tiếp: Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) cho
biết dự trữ ngoại hối tăng tháng thứ 6 liên tiếp trong tháng 7 thêm 24 tỷ USD lên mức 3,08
nghìn tỷ USD, mức cao nhất 9 tháng qua nhờ chính sách thắt chặt dòng vốn chảy ra ngoài.
Chuyên gia của Capital Economics cho rằng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng phản ánh
áp lực dòng ngoại tệ chảy ra nước ngoài đã giảm giúp PBOC tạm ngừng việc phải bán ngoại
tệ, qua đó hỗ trợ tích cực cho đồng NDT vốn đang được đánh giá cao những năm gần đây.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) cho biết DTNH tháng 7 tăng tháng thứ 6 liên tiếp lên mức
3,08 nghìn tỷ USD nhờ chính sách thắt chặt dòng vốn chảy ra ngoài. GDP quý 2 tăng bằng mức tăng của
quý 1, lĩnh vực sản xuất tháng 7 mở rộng với tốc độ mạnh nhất 5 tháng. Tuy nhiên, nhiều yếu tố đang ảnh
hưởng không tích cực đến triển vọng tăng trưởng quý 3 như chỉ số giá tiêu dùng giảm do giá thực phẩm
giảm, sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ đều tăng chậm do các biện pháp giảm đòn bẩy của Chính
phủ phát huy tác dụng, thặng dư thương mại mở rộng khi cả xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm tốc.
Biểu đồ 17: Cán cân thương mại
Biểu đồ 15: CPI yy
Biểu đồ 16: Sản lượng CN & bán lẻ yy
Biểu đồ 14: PMI sản xuất
Biểu đồ 14: GDP yy
6,9
6,5
6,6
6,7
6,8
6,9
7,0
6/15 12/15 6/16 12/16 6/17
%
51,1
47
48
49
50
51
52
1,4
0,0
0,5
1,0
1,5
2,0
2,5
07/15 01/16 07/16 01/17 07/17
%
10,4
6,4
0
2
4
6
8
10
12
7/16 8/16 9/16 10/16 11/16 12/16 1/17 2/17 3/17 4/17 5/17 6/17 7/17
%
Doanh số bán lẻ yy Sản lượng công nghiệp yy
7,2%
-40%
-20%
0%
20%
-10
0
10
20
30
40
50
60
70
tỷ U
SD
Cán cân thương mại Xuất khẩu yy
VIỆT NAM - SẢN XUẤT, TIÊU DÙNG
Sản xuất công nghiệp tháng 7 tăng chậm hơn so với tháng 6: Chỉ số sản xuất toàn ngành
công nghiệp tháng 6 tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước, giảm nhẹ từ mức 8,6% của tháng 6
nhưng vẫn cao hơn mức tăng 7,25% của tháng 5. Tính chung 7 tháng đầu năm 2017, chỉ số sản
xuất toàn ngành công nghiệp tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức 6,3% của 6
tháng nhưng thấp hơn mức tăng 7,2% của cùng kỳ năm 2016. Trong các ngành công nghiệp,
ngành chế biến, chế tạo tăng 10,6%, đóng góp 7,45 điểm phần trăm vào mức tăng chung;
ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9%, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; ngành cung cấp
nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,2%, đóng góp 0,08 điểm phần trăm; riêng ngành khai
khoáng giảm 7,5%, làm giảm 1,64 điểm phần trăm mức tăng chung.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6/2017 tăng 3,2% so với
tháng trước và tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước tăng (tháng 5 tăng 4,33% so với tháng
trước và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước). Tính chung 6 tháng đầu năm nay, chỉ số tiêu
thụ ngành chế biến, chế tạo tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng
7,8%), trong đó các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất kim loại tăng 15,1%; sản xuất
phương tiện vận tải khác tăng 13%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,4%; sản
xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 10,2%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn
(trừ máy móc, thiết bị) tăng 9,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 9,4%; sản xuất thiết bị điện
tăng 9,4%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/7/2017
tăng 10,4% so với cùng thời điểm năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng 9,2%), trong đó một số
ngành tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 5,8%; sản xuất trang phục tăng
5,1%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 2,9%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ
giấy tăng 1,3%; dệt giảm 1,1%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan giảm 18,9%; sản xuất
thuốc lá giảm 21,3%; sản xuất các phương tiện vận tải khác (chủ yếu là đóng tàu) giảm 40,4%.
Chỉ số nhà quản trị mua hàng Purchasing Managers’ Index (PMI) tháng 7/2017 đã giảm
từ 52,5 điểm của tháng trước xuống 51,7 điểm trong tháng 7. Mặc dù chỉ số tiếp tục cho thấy
lĩnh vực sản xuất đã cải thiện vừa phải nhưng mức độ cải thiện là yếu hơn cuối quý 2. Cả sản
lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tăng chậm hơn tháng trước, trong khi tốc độ tạo thêm
việc làm chỉ thay đổi chút ít so với tháng 6. Chi phí đầu vào và đầu ra đều tăng chậm lại.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7 ước đạt 327,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước (tháng 6 đạt
326,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước). Tính chung 7 tháng đầu năm
nay, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 2.248,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 8,7%, cao hơn mức
tăng 8,4% của cùng kỳ năm 2016.
Kinh tế Việt Nam cải thiện vừa phải trong tháng 7, tốc độ cải thiện yếu hơn cuối
quý 2. Sản xuất công nghiệp tăng thấp hơn mức tăng của tháng 6, chỉ số nhà quản
trị mua hàng (PMI) sản xuất giảm nhẹ cho thấy tốc độ mở rộng ngành sản xuất
chậm lại. Doanh số bán lẻ tháng 7 tăng thấp hơn mức tăng của tháng trước. Dù
Chính phủ triển khai nhiều giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhưng việc đạt mục tiêu
GDP tăng 6,7% năm nay vẫn khá khó khăn.
Biểu đồ 20: Chỉ số sản xuất IIP
Biểu đồ 23: Tăng trưởng bán lẻ yoy
Biểu đồ 22: PMI sản xuất
Biểu đồ 21: Chỉ số tồn kho CN chế biến
Biểu đồ 19: Tăng trưởng GDP (q/q-4)
6,32%6,53% 6,68%
5,48%5,65%
5,93%6,21%
5,10%
5,73%
0%
1%
2%
3%
4%
5%
6%
7%
8%
06/15 09/15 12/15 03/16 06/16 09/16 12/16 03/17 06/17
7,2% 7,3% 7,2% 7,0% 7,2%8,3%
0,7%
3,3%
5,5%
7,4% 7,2%
8,6%8,1%
2,1%
0,8%
3,4%
6,0%
2,0%
4,7%
-6,2%
-2,1%
12,5%
-0,8%
1,7%
0,4%
1,4%
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
07/16 09/16 11/16 01/17 03/17 05/17 07/17
YoY
MoM
9,0% 8,9% 8,8%8,1% 8,3%
13,3%12,5% 12,7%
11,0%10,2% 10,4%
2,4%2,9% 2,6%
2,0%2,8%
0,7%
3,3%4,2%
4,9%
-0,1%
0,9%
-2%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
08/16 09/16 10/16 11/16 12/16 01/17 02/17 03/17 04/17 05/17 06/17
YoY
MoM
10,79%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
16%
18%
20%
07/14 10/14 01/15 04/15 07/15 10/15 01/16 04/16 07/16 10/16 01/17 04/17 07/17
51,9
52,2
52,9
51,7
54
52,4
51,9
54,2
54,6
54,1
51,6
52,5
51,7
49
50
51
52
53
54
55
07/16 09/16 11/16 01/17 03/17 05/17 07/17
VIỆT NAM - XUẤT NHẬP KHẨU
Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm tăng 19% so với cùng kỳ năm 2016: Xuất khẩu
trong tháng 7/2017 đạt 17,67 tỷ USD, giảm 0,7% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu
7 tháng/2017 đạt 115,3 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước, bằng mức tăng 18,8%
của 6 tháng đầu năm. Xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong tháng 7/2017 đạt gần 12,15
tỷ USD, giảm 1,6% so với tháng trước, đưa xuất khẩu của khối này trong 7 tháng/2017 đạt
81,09 tỷ USD, tăng 19,8%, tương ứng tăng hơn 13,38 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm tăng 24% so với cùng kỳ: Nhập khẩu trong tháng
7/2017 đạt hơn 17,4 tỷ USD, giảm 3,8% so với tháng trước, qua đó đưa kim ngạch nhập khẩu
7 tháng/2017 đạt 117,83 tỷ USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm 2016. Nhập khẩu của khối
doanh nghiệp FDI trong tháng đạt 10,24 tỷ USD, giảm 5,3% so với tháng trước, đưa kim
ngạch nhập khẩu của khối này trong 7 tháng/2017 đạt 70,89 tỷ USD, tăng 27,2%, tương ứng
tăng gần 15,17 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Như vậy, cán cân thương mại thực hiện tháng 7 xuất siêu 266 triệu USD. Tính
chung 7 tháng đầu năm 2017 nhập siêu đạt 2,53 tỷ USD, bằng 2,2% tổng kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu. Hàn Quốc và Trung Quốc là 2 nước đóng góp chủ yếu vào thâm hụt thương mại 7
tháng đầu năm của Việt Nam với mức nhập siêu 18,6 tỷ USD và 16 tỷ USD, ngược lại Hoa Kỳ
và EU là 2 thị trường lớn nhất mà Việt Nam xuất siêu, đạt lần lượt 18 tỷ USD và 14,6 tỷ USD.
Thị trường xuất khẩu: Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch
hơn 23,44 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước; thị trường EU28 đạt kim ngạch 21,4
tỷ USD, tăng 12,6%, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 với hơn 15,62 tỷ USD, tăng
44%; thị trường ASEAN với kim ngạch 12,13 tỷ USD, tăng 26,5%; Nhật Bản với kim ngạch
hơn 9,42 tỷ USD, tăng 18,2%; Hàn Quốc với kim ngạch gần 7,74 tỷ USD, tăng 28,2%.
Thị trường nhập khẩu: Trung Quốc là thị trường cung cấp hàng hóa lớn nhất cho Việt Nam
với kim ngạch 31,59 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 26,8%
trong tổng kim ngạch nhập khẩu; Hàn Quốc đứng thứ 2 với 26,31 tỷ USD, tăng 48,8%, chiếm
tỷ trọng 22,3%; ASEAN với kim ngạch 15,81 tỷ USD; tăng 18,1%; chiếm tỷ trọng 13,4%.
Cán cân thương mại hàng hóa tháng 7 xuất siêu 266 triệu USD, kéo thâm hụt
thương mại của cả nước 7 tháng đầu năm 2017 xuống còn 2,53 tỷ USD. Hàn
Quốc và Trung Quốc là 2 nước đóng góp chủ yếu vào thâm hụt thương mại 7
tháng đầu năm của Việt Nam với mức nhập siêu 18,6 tỷ USD và 16 tỷ USD,
ngược lại Hoa Kỳ và EU là 2 thị trường lớn nhất mà Việt Nam xuất siêu, đạt lần
lượt 18 tỷ USD và 14,6 tỷ USD.
Biểu đồ 24: Xuất Nhập khẩu
Biểu đồ 27: XNK Khu vực FDI
Biểu đồ 25: Xuất nhập khẩu tích lũy
Biểu đồ 26: Cơ cấu xuất siêu
17,6717,41
0,27-2
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
07/16 09/16 11/16 01/17 03/17 05/17 07/17
Tỷ USD Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu ròng
0,0
0,5
1,0
1,5
2,0
2,5
0
2
4
6
8
10
12
14
10/13 03/14 08/14 01/15 06/15 11/15 04/16 09/16 02/17 07/17
Tỷ USDTỷ USD Xuất siêu Xuất khẩu Nhập khẩu
19,28%
24,08%
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
01/16 03/16 05/16 07/16 09/16 11/16 01/17 03/17 05/17 07/17XK yy tích lũy NK yy tích lũy
1,91
-1,64
-4
-2
0
2
4
6
8 tỷ USD
Xuất siêu của khu vực trong nước
Xuất siêu của khu vực FDI
-4
-3
-2
-1
0
1
2
3
4
01/2017 02/2017 03/2017 04/2017 05/2017 06/2017 07/2017
Tỷ USDMỹ EU+Anh Nhật ASEAN Khác Trung Quốc Hàn Quốc
Biểu đồ 28: XK ròng theo nước/khu vực
0,22
1,04
0,0
0,2
0,4
0,6
0,8
1,0
1,2
1,4
07/13 01/14 07/14 01/15 07/15 01/16 07/16 01/17 07/17
Xuất dầu thô Nhập xăng dầu
tỷ USD
Biểu đồ 29: Xuất dầu thô-nhập xăng dầu
8
VIỆT NAM - FDI, ODA, KIỀU HỐI
Tính chung trong 7 tháng năm 2017, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua
cổ phần là 21,93 tỷ USD, tăng 52% so với cùng kỳ năm 2016.
Tính đến ngày 20/7/2017, cả nước có 1.378 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với
tổng vốn đăng ký là 12,93 tỷ USD, tăng 48,7% so với cùng kỳ năm 2016; Có 677 lượt dự án
đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,88 tỷ USD, tăng 38,5% so
với cùng kỳ và 2.946 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị
góp vốn là 3,13 tỷ USD, tăng 114,3% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính đến ngày 20/7/2017, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 9,05 tỷ
USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2016. .
Biểu đồ 32: Vốn FDI theo tháng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2017 tăng 0,11% so với tháng trước, tăng 0,31% so với
tháng 12/2016 và tăng 2,52% so với cùng kỳ năm trước; CPI tháng 7 tăng chủ yếu do giá
thịt lợn tăng mạnh trở lại. Bình quân 7 tháng đầu năm 2017 tăng 3,91% so với bình quân
cùng kỳ năm 2016, thấp hơn mức bình quân 4,15% của 6 tháng/2017. CPI tháng 8 sẽ chịu
ảnh hưởng lớn từ việc giá xăng tăng liên tiếp trong 3 lần điều chỉnh gần đây.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) từ đầu năm đến tháng 7/2017 thu hút được 21,93 tỷ
USD, tăng 52% so với cùng kỳ năm 2016. FDI giải ngân tính đến 20/7 đạt 9,05 tỷ USD,
tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.
VIỆT NAM - CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2017 tăng 0,11% so với tháng trước, tăng 0,31% so với
tháng 12/2016 và tăng 2,52% so với cùng kỳ năm trước (Tháng 6 tăng 0,2% so với tháng
12/2016; tăng 2,54% so với cùng kỳ năm trước). Bình quân 7 tháng đầu năm 2017 CPI tăng
3,91% so với bình quân cùng kỳ năm 2016, thấp hơn mức bình quân 4,15% của 6 tháng/2017.
Trong đó, có 8/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có CPI tháng 7 tăng so với tháng trước, trong đó
nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,54% (lương thực giảm 0,08%; thực phẩm tăng
0,87%); thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,36%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09%; giáo dục
tăng 0,05%; nhóm đồ uống, thuốc lá và may mặc, mũ nón, giày dép cùng tăng 0,04%; nhà ở
và vật liệu xây dựng tăng 0,03%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,73%.
Lạm phát cơ bản tháng 7 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,30% so với cùng kỳ năm
trước. Lạm phát cơ bản bình quân 7 tháng tăng 1,49% so với bình quân cùng kỳ năm 2016.
Trong tháng 8/2017, Liên Bộ Tài chính-Công thương đã điều chỉnh tăng giá xăng dầu liên tiếp
2 lần vào ngày 04/8 và 19/8 do giá thế giới tăng. Theo đó, tính cả lần tăng cuối tháng 7, giá
xăng đã tăng 3 lần liên tiếp sau nhiều lần điều chỉnh giảm từ đầu năm. Bên cạnh đó, EVN
chưa có động thái điều chỉnh giá điện dù đã được cho phép từ ngày 15/8/2017. Như vậy, CPI
tháng 8 sẽ chịu ảnh hưởng lớn của việc tăng giá năng lượng.
Biểu đồ 30: Chỉ số giá tiêu dùng
Biểu đồ 31: Đóng góp của 1 số mặt hàng vào
mức tăng CPI chung
Biểu đồ 32: Vốn FDI đăng ký và thực hiện
theo tháng
2,52%
0,11%
-0,6%
-0,4%
-0,2%
0,0%
0,2%
0,4%
0,6%
0,8%
1,0%
-1%
0%
1%
2%
3%
4%
5%
6%
Ytd YoY MoM
0,11%
-0,8%
-0,6%
-0,4%
-0,2%
0,0%
0,2%
0,4%
0,6%
0,8%
1,0%Giao thông Nhà ở, VLXD
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống MoM
0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0
6,0
7,0
07/15 01/16 07/16 01/17 07/17
Vốn đăng ký và bổ sung Vốn thực hiệnTỷUSD
Mọi chi tiết và câu hỏi liên quan đến bản tin này xin vui lòng liên hệ:
Phòng Nghiên cứu và Phân tích
Khối Dịch vụ Ngân hàng Đầu tư
Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex
Tầng 24, Tòa nhà Mipec, 229 phố Tây Sơn, Quận Đống Đa, Hà Nội.
Tel : +(84 4) 6 281 1298 Ext: 243, 247, 390 Fax: +(84 4) 6 281 1299
Email: [email protected] Website: www.pgbank.com.vn
Blog: pgbankresearch.wordpress.com
Thông tin liên hệ
Khuyến cáo sử dụng
Những thông tin được cung cấp trên đây do Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Khối Đầu tư - PG Bank
thu thập từ các nguồn được coi là đáng tin cậy. Việc cung cấp các thông tin này chỉ phục vụ mục đích
tham khảo. PG Bank không chịu bất kỳ trách nhiệm nào về những hậu quả có thể gây ra do việc sử
dụng thông tin của bài viết. Các thông tin trên có thể thay đổi theo diễn biến của thị trường và PG
Bank không có trách nhiệm phải thông báo về những thay đổi này.